29032024Fri
Last updateWed, 27 Mar 2024 8pm

Về loại truyện cổ tích luỹ tích ở các dân tộc Trường Sơn-Tây Nguyên

             Tóm tắt. Truyện cổ tích lũy tích là một kiểu truyện có nghệ thuật kể chuyện độc đáo trên dựa trên nguyên tắc của sự xâu chuỗi. Từ lý thuyết về kiểu truyện cổ tích lũy tích, bài viết khảo sát về kiểu truyện này trong văn học dân gian các dân tộc Trường Sơn – Tây Nguyên ở Việt Nam. Từ đó, bài viết phân loại các truyện cổ tích lũy tích này thành: loại sai đi hay đuổi theo, loại đổi chác-bắt đền, loại đổi chác-được đền.

Từ khóa: truyện cổ tích lũy tích, phân loại truyện cổ tích…

             Trước tiên, cần nhắc qua giới thuyết về truyện cổ tích luỹ tích. Trong bộ Tuyển tập V.Ia. Propp (2 tập, Nxb Văn hoá dân tộc và Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, Hà Nội, 2003 và 2005), ở tập 2, Phần: Folklore và thực tại, Chương X: Cổ tích luỹ tích, nhà cổ tích học nổi tiếng người Nga V.Ia. Propp nêu ý kiến rằng: “Truyện cổ tích luỹ tích, trong những bản in cuối bảng danh mục của Aarne-Thompson, đã được phân loại chính là theo tính chất cấu trúc của chúng…. Lượng tư liệu đề cập đến các truyện cổ tích luỹ tích khá lớn, nhưng vẫn chưa có một định nghĩa được tất cả mọi người chấp nhận cho khái niệm này. Lịch sử nghiên cứu cổ tích luỹ tích được trình bày rất tốt trong cuốn sách của M.Haavio. Tuy nhiên sự không thống nhất trong cách hiểu bản chất loại truyện cổ tích này cũng rất lớn, điều này có thể thấy rõ dù chỉ qua bài báo của A.Taylor. Tác giả nói về các truyện cổ tích luỹ tích, cho rằng chúng xuất hiện trên cơ sở những điều khủng khiếp thấy trong giấc mơ… Trước khi bắt đầu nghiên cứu các truyện cổ tích lũy tích phải cần đưa ra một định nghĩa, dù chỉ là sơ bộ xem nó là cái gì… Thủ pháp nghệ thuật chủ yếu của các truyện cổ tích là việc lập lại nhiều lần một số hành động hay yếu tố, trong chuỗi mắc xích được tạo ra theo cách thức đó còn chưa bị đứt đoạn hay chưa bị tháo tung ra theo trật tự ngược lại… Truyện cổ tích luỹ tích được xây dựng không những theo nguyên tắc xâu chuỗi, mà còn theo cả những hình thức hết sức đa dạng của sự kết hợp, chồng chất, tích luỹ, thường kết thúc bằng một tai nạn vui vẻ nào đó” [2, tr.729-731]. Loại truyện này được các ngôn ngữ phát triển định danh với những thuật ngữ chuyên môn mang ý nghĩa tương cận như: vì thuộc loại formula-tales (truyện công thức) nên được mang tên cumulative, accumulative storie (Anh), liên quan với từ cumular trong tiếng La-tinh nghĩa là tích luỹ, chồng chất và tăng tiến; trong tiếng Đức có nghĩa là cổ tích chồng xếp, cổ tích liệt kê; trong tiếng Pháp có tên randounées nghĩa đen là “xoay quanh một vị trí”. Và những ví dụ được các nhà nghiên cứu đưa ra cho thấy rằng ở mọi nơi trong những cách diễn đạt khác nhau đều nói về một sự chồng chất nào đó. Toàn bộ sự quan tâm và toàn bộ nội dung của loại truyện cổ tích luỹ tích nằm ở sự chồng chất dưới những hình thức đa dạng. Chúng không chứa những sự kiện thú vị, có nội dung nào của trật tự cốt truyện. Kết cấu của các truyện cổ tích lũy tích nếu không phụ thuộc vào các hình thức biểu diễn thì hết sức đơn giản. Chúng bao gồm ba phần, mở đầu, tích lũy và kết thúc. Mở đầu thường bắt nguồn từ một sự kiện không đáng kể nào đó, hoặc một tình huống hết sức bình thường trong cuộc sống. Sau đoạn mở đầu là một xâu chuỗi. Các phương thức gắn kết giữa đoạn mở đầu với xâu chuỗi nhiều vô kể. Có những trường hợp tạo ra xâu chuỗi là có nguyên cớ và cần thiết. Song cũng có một số không cần sự hợp logic nào. Theo nguyên tắc đó có thể phân biệt hai kiểu cổ tích loại này. Chiếm ưu thế là kiểu truyện thứ 2 – nghệ thuật của những truyện cổ tích như vậy không đòi hỏi sự hợp lý nào cả. Những nguyên tắc theo đó xâu chuỗi được tăng lên rất đa dạng. Những truyện cổ tích khác được xây dưng trên hàng loạt thay thế hay đổi chác, có thể diễn ra trong trật tự tăng tiến từ xấu đến tốt hay ngược lại theo trật tự giảm sút từ tốt đến xấu. Hàng loạt truyện cổ tích lũy tích được xây dựng trên cơ sở xuất hiện lần lượt những người khách không mời mà tới. Ví dụ trong truyện của người Việt Vụ kiện châu chấu(1), con châu chấu không được chim ri mời nhưng vẫn đến tá túc ở nhà chị chim ri để cuối cùng gây ra những chuyện kiện cáo sau này. Kết cấu này có nguồn gốc từ một kiểu tư duy và từ một loại nghi lễ luận tội thời nguyên thủy. Những truyện cổ tích khác có kỹ thuật tự sự tiêu biểu, đặc biệt của riêng chúng. Ở đây, tương ứng với sự chồng chất hay tăng tiến các sự kiện là sự chồng chất, lặp đi lặp lại những đơn vị cú pháp hoàn toàn giống nhau (chỉ khác ở chỗ chúng chỉ các chủ thể hay khách thể mỗi lúc mỗi mới), và những yếu tố cú pháp khác. Mỗi lần mắc xích mới được nối vào thì tất cả những mắc xích trước đó được nhắc lại. Sự độc đáo về từ ngữ như vậy trong các truyện cổ tích lũy tích làm chúng trở thành trò tiêu khiển của trẻ con vốn thích những từ ngữ, những câu nói luyến mới mẻ, hóm hỉnh và độc đáo. Phần lớn các truyện cổ tích phương Tây hoàn toàn có thể gọi là truyện thiếu nhi. Truyện cổ tích lũy tích có thể dùng để gọi chỉ những truyện cổ tích mà toàn bộ kết cấu truyện được xây dựng dựa trên nguyên tắc tích lũy đã được miêu tả. Bên cạnh đó, sự tích lũy có thể là một thành phần, một yếu tố trong truyện cổ tích thuộc bất kỳ hệ thống kết cấu nào khác. [2, tr.727-758]. Theo Propp, trong bảng phân loại truyện dân gian Nga của mình có các mẫu về loại truyện cổ tích luỹ tích như sau: 1. Loại sai đi hay đuổi theo, 2. Loại bị ăn thịt (bị ăn hay thoát được), 3. Loại đổi chác, 4. Xin được vào nhà hay bị đuổi khỏi nhà (hay không cho vào nhà), 5. Xin lên xe trượt tuyết (xe ngựa, thuyền), 6. Tậu được hay được thưởng, 7. Những hành động không đúng lúc, 8. Loại từ chối giúp đỡ, 9. Dính vào nhau, đứng lên trên nhau, 10. Chết vì những chuyện vớ vẩn, 11.Hỏi, liệt kê, kể đi kể lại nhiều lần.

           Khảo sát và so sánh đối chiếu loại truyện này ở hai nhóm tộc người Nam Đảo và Môn-Khơ Me vùng Trường Sơn-Tây Nguyên, chúng tôi ghi nhận có 9 truyện cổ tích luỹ tích hoặc truyện thuộc thể loại khác có yếu tố luỹ tích gồm: 3 truyện Nam Đảo của tộc người Ê Đê (Quạ là kẻ gian(2), Bác Blông Bluê(3), Chàng Tân thật thà(4)) và 6 truyện Môn-Khơ Me của 5 tộc người: Kơ Ho 1 truyện (Chàng Sruöch đi buôn(5)), Mạ 1 truyện (Thằng ngốc Măng K’Ron(6)), Mơ Nông 1 truyện (Nkring người khờ bắt voi rừng(7)), Tà Ôi 2 truyện (Coai Turoai và tên nhà giàu độc ác(8), Chàng Tu dê(9)) và Xê Đăng 1 truyện (Chàng mồ côi và con kiến(10)). Và nhóm 9 truyện cổ tích luỹ tích của hai nhóm tộc người Nam Đảo và Môn-Khơ Me thuộc hai mẫu loại truyện cổ tích luỹ tích 1 và 3 (theo sự phân loại bước đầu của V.Ia. Propp, có 11 mẫu loại truyện cổ luỹ tích [2, tr.744-758]): Loại sai đi hay đuổi theo và Loại đổi chác (type truyện “Những cuộc đổi chác có lãi”, 842A, A-T) [1, tr.503].

Bảng thống kê phân loại theo thể loại

Dân tộc

Cổ tích

loài vật

Cổ tích

thần kỳ

Cổ tích

sinh hoạt

Truyện cười Cộng
Ê Đê Quạ là kẻ gian 0 Bác Blông Bluê Chàng Tân thật thà 3
Kơ Ho 0

Chàng Sruöch

 đi buôn

0 0 1
Mạ 0 0

Thằng ngốc

Măng K’Ron

0 1
Mơ Nông 0 0 Nkring người khờ bắt voi rừng 0 1
Tà Ôi Coai Turoai và tên nhà giàu độc ác Chàng Tu dê 0 0 2
Xơ Đăng 0 0 Chàng mồ côi và con kiến 0 1
Cộng 2 2 4 1 9

 

Bảng thống kê phân loại theo nội dung chủ đề và vùng văn hoá

Dân tộc Được đền Bắt đền Đổ thừa/đổ tội Cộng Tiểu vùng vh
Ê Đê Chàng Tân thật thà Bác Blông Bluê Quạ là kẻ gian 3 Trung
Kơ Ho Chàng Sruöch đi buôn 0 0 1 Nam
Mạ 0

Thằng ngốc

Măng K’Ron

0 1 Nam
Mơ Nông

Nkring người khờ

Bắt voi rừng

0 0 1 Nam
Tà Ôi 0 Chàng Tu dê Coai Turoai và tên nhà giàu độc ác 2 Bắc
Xơ Đăng

Chàng mồ côi

và con kiến

0 0 1 Bắc
Cộng 4 3 2 9  

 

Trước tiên, xét về mặt thể loại, điều chúng tôi nhận định là thực trạng những truyện cổ tích luỹ tích hoặc truyện có yếu tố luỹ tích ở Việt Nam như truyện của người Việt Vụ kiện châu chấu, Chàng ngốc được kiện, của người Xá Côống Truyện trâu ăn thịt dê, của người H’Mông Một người dại nhất, của người Phù Lá Đền vợ và 9 truyện của hai nhóm tộc người Nam Đảo và Môn-Khơ Me trên đây là trùng khớp với nhận định của A. Taylor rằng có sự không thống nhất trong cách hiểu bản chất loại truyện cổ tích này, bởi lẽ chỉ với kết cấu xâu chuỗi thôi thì những đề tài-cốt truyện đa dạng trong đời thực có thể tồn tại xuất hiện cùng lúc trong nhiều thể loại, nhóm, tiểu loại, loại hay kiểu truyện nhất định nào đó. Ở Bảng thống kê phân loại theo thể loại trên đây, có thể thấy 9 truyện Nam Đảo và Môn-Khơ Me hiện diện trong đủ cả 4 loại truyện như tiểu loại truyện cổ tích loài vật, tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt và thể loại truyện cười.

+ Loại sai đi hay đuổi theo

Qua khảo sát 2 bảng thống kê phân loại trên đây, chúng tôi ghi nhận trong 3 truyện của người Ê Đê có truyện Quạ là kẻ gian là truyện cổ tích loài vật suy nguyên về đặc tính sinh học của loài vật thuộc type truyện “Gốc tích bộ lông quạ’’ và thuộc Mẫu 1 của truyện cổ tích luỹ tích “loại sai đi hay đuổi theo”: Việc gửi đi là do một tai hoạ nào đó; kẻ bị nạn sai đi tìm sự cứu giúp. Kẻ đầu tiên gặp từ chối, bảo đến kẻ thứ hai, kẻ thứ hai bảo đến kẻ thứ ba v.v… [2, tr.744]. Cụ thể cốt truyện có nội dung tóm tắt như sau: Nhà cóc bị sụp hố dấu chân nai may nhờ bầy giun đùn đất mới thoát lên được đi kiện, vua-gà tiên phán chào mào đi mời bọn nai đến; nai đổ thừa do sợ nhím gùi chông; nhím đổ thừa do bồ chao la hét suốt ngày; bồ chao đổ thừa do thấy mắt đỏ loài cọp hung dữ; cọp giết chết lính chào mào; vua sai toàn thể hợp sức diệt cọp, nhện giăng lưới sắp diệt được cọp thì quạ mách lẻo cho cọp chạy thoát; vua sai lính chèo bẻo trừng phạt quạ phản bội, đánh, đốt và nhuộm lông quạ đen thui không dám giao du với mọi loài, chuyên rình trộm trứng chim chèo bẻo. Vua phân việc bồ chao la hét báo động khi thấy cọp, vua sẽ gáy sớm gọi mọi loài thức dậy, loài công tố hộ cùng loài vượn hú vang báo động loài cọp và giám sát lũ quạ gian. Đó là kết cấu luỹ tích theo nội dung “đổ thừa” thuộc mẫu “sai đi hay đuổi theo” : cóc → nai → nhím → bồ chao → cọp / quạ giải thoát cọp. Cùng kết cấu xâu chuỗi đổ thừa / đổ tội theo phương thức luỹ tích này, truyện của người Tà Ôi Coai Turoai và tên nhà giàu độc ác có nội dung như sau: Đang lặn hụp nơi vũng nước đục bị chàng mồ côi đuổi không đi nên voi bị chặt vào đuôi bỏ chạy húc vào tổ kiến, kiến không làm gì được xúm lại cắn ve, ve đau rúc vào tai con mang đang nằm, mang vùng chạy giẫm lên lưng rắn hổ, rắn hổ đuổi theo đụng phải sóc, sóc phóng mình chạm hạt dẻ, hạt dẻ rơi xuống đầu cá lóc, cá lóc quẫy đuôi vẫy nước vào tên nhà giàu đang ngồi hóng mát bên suối, hắn truy bắt tội đến chàng mồ côi, chàng đổ tội cho thuồng luồng dưới vực, hắn lao xuống vực sâu tìm thuồng luồng bị mất mạng vì dòng nước xoáy. Kết cấu “đuổi theo” / đổ thừa của truyện này là: mồ côi → voi → kiến → ve → mang → rắn hổ → sóc → hạt dẻ → cá lóc → nhà giàu → mồ côi → thuồng luồng → nhà giàu mất mạng. Cả hai truyện Nam Đảo (Ê Đê Quạ là kẻ gian) và Môn-Khơ Me (Tà Ôi Coai Turoai và tên nhà giàu độc ác) đều là loại truyện cổ tích loài vật tương đồng loại hình với truyện Vụ kiện châu chấu của người Việt và Chim ngói kiện cú mèo của dân tộc Khơ Mú(11) thuộc cùng nguồn gốc từ một kiểu tư duy và từ một loại nghi lễ luận tội thời nguyên thủy.

+ Loại đổi chác-bắt đền

Trong truyện cổ tích luỹ tích loại “đổi chác”, việc đổi chác có thể thực hiện hoặc theo hướng đi lên (từ xấu đến tốt), hoặc ngược lại đi xuống (từ tốt đến xấu); nó có thể xảy ra trong hiện thực, hoặc chỉ trong ước mơ. Ví dụ, người nông dân khi nhắm bắn con thỏ mơ ước anh ta sẽ bán nó, lấy tiền bán thỏ mua một con heo con, sau đó mua con bò, sau đó là ngôi nhà, sau đó cưới vợ, v.v… Cuối cùng con thỏ chạy mất (Andr. 1430 *A); hay trong truyện cổ tích phương Tây, cô bán sữa cũng mơ ước tương tự khi đội bình sữa trên đầu đi bán. Bình sữa rơi xuống đất vỡ tan, và cùng với bình sữa mọi ước mơ của cô cũng vỡ tan (AT 1430).

Khảo sát 3 truyện sau đây: Bác Blông Bluê của người Ê Đê, Thằng ngốc Măng K’Ron của người Mạ và Chàng Tu dê (con rồng nước) của người Tà Ôi, chúng tôi nhận thấy cả ba truyện này có cùng chủ đề “bắt đền” thuộc type truyện “những cuộc đổi chác có lãi”. Mặc dù đề tài-cốt truyện của truyện Chàng Tu dê thuộc tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ kiểu truyện người mồ côi và hai truyện còn lại của người Ê Đê (Bác Blông Bluê) và người Mạ (Thằng ngốc Măng K’Ron) đều thuộc tiểu loại truyện cổ tích sinh hoạt kiểu truyện về nhân vật ngốc. Nét tương đồng loại hình được thấy rõ ở hai truyện Ê Đê và Mạ: trong cuộc đổi chác tăng tiến tích cực có lãi từ con vật nhỏ nhoi “con kiến” mà hai nhân vật bác Blông Bluê ngốc nghếch và thằng ngốc Măng K’Ron đòi bắt dân làng hay những người chủ nhà có lòng hiếu khách mời vào nghỉ ngơi chốc lát đền cho bằng được những con vật hay đồ vật to lớn hơn, có giá trị về tài sản của cải cao hơn từ gà, chó, dê, bò, trâu đến voi (Blông Bluê) hay từ gà, chó, dê, trâu đến cái chiêng quý (Măng K’Ron). Thế nhưng, cuối cùng cả hai lại cùng bị thua thiệt hoặc thậm chí bị thiệt mạng bởi lòng tham lam của mình và cả hai cốt truyện đều dùng hai yếu tố chi tiết lửa và nước để tạo nên bi kịch trừng phạt hai nhân vật ngốc này. Truyện Mạ giống với truyện Ê Đê ở tình tiết: vì lửa đốt cháy voi nên bác Blông Bluê phải nhận đền bù bằng cây bùi nhùi lửa của chủ nhà mình đến chơi để rồi vì ngốc nghếch bác ta nghe theo lời vị chủ nhà đến chơi tiếp đó cất bùi nhùi lửa vào hồ nước trong lúc được mời cơm, lửa tắt vì nước bác được đền nước và ngậm ngụm nước ra đi tiếp; vì phải trả lời hai cô gái trên đường chào hỏi mình nên bác làm nước văng ra rơi xuống đất và bắt đền hai cô phải chấp nhận làm vợ mình; song về đến nhà mình hai cô lập mưu giết bác Blông Bluê tham lam và háo sắc; còn truyện Mạ có chuỗi sự kiện sau: có được chiêng quý Măng K’Ron vào nhà nọ chơi bị chủ nhà đánh chiêng thủng bằng cái chày, bắt đền được cái chày lại bị bà goá mù làm cháy bằng lửa, bắt đền bằng lửa thì bị con sông làm tắt lửa, bắt đền sông bằng cách ngậm ngụm nước trong miệng, đi tiếp gặp bà già chào hỏi phải mở miệng trả lời làm rơi ngụm nước xuống đất, và lần bắt đền cuối cùng là chàng ngốc phải lấy bà già. Ở cuối truyện Ê Đê, tác giả dân gian còn căn dặn người nghe truyện cần thiết răn dạy con cháu rằng: phải sống với nhau cho tốt đừng có đòi hỏi người khác rồi sẽ nhận lấy hậu quả không tốt như bác Blông Bluê. Lời bình luận rút ra từ câu chuyện Ê Đê là: Bài học cho những ai nhẹ dạ cả tin và nhắc nhở không nên bắt ép người khác vì có lúc người ta sẽ chống lại mình, nhân vật Blông Bluê quá quắt đến mức bắt đền cưỡng bức hai cô gái làm vợ nên đã bị hai cô lập mưu giết chết. Câu chuyện của chàng Tà Ôi Tu dê (Chàng Tu dê (con rồng nước)) thuộc kiểu truyện người mồ côi mang nhiều yếu tố thần kỳ với các motif như: rùa thần-rồng nước, vật trả ơn, đội lốt, chiếc cồng thần kỳ, đổi chác bắt đền, chặt xác cô gái làm mồi câu, rùa đẻ trứng vàng, trở về thuỷ cung, thuồng luồng. Như vậy, truyện có chủ đề chính là chàng mồ côi nhặt rùa thần không giết nên được trả ơn trở nên giàu có và phương cách làm giàu cho anh trai mồ côi kết nghĩa của chàng rùa là việc đổi chác bắt đền bằng mưu mẹo. Từ chiếc cồng thần kỳ bằng đất sét chàng rùa mang đi đổi lấy vật có giá trị thấp nhất là đàn kiến để rồi từ đó một loạt những tình tiết mang yếu tố luỹ tích được tác giả dân gian Tà Ôi vận dụng với các vật bắt đền tăng tiến như gà → heo → trâu → voi, và khi có được voi rồi lại mang đi đổi lấy cái có giá trị thấp hơn là khăn đội đầu và áo khoác cũ rách. Nhưng, đến đây, sự khôn khéo dùng mưu mẹo của chàng rùa được phổ diễn thật đắc địa: chàng nhờ chuột đục áo quan bỏ áo quần rách vào để bắt đền có được xác chết của cô gái mang về chặt làm mồi câu được rùa đẻ trứng vàng làm giàu cho anh trai mồ côi kết nghĩa và cả dân làng. Câu chuyện dùng mưu mẹo của chàng rùa vốn là loại truyện cổ tích sinh hoạt song diễn biến của cốt truyện lại mang nhiều yếu tố thần kỳ ở các tiết đoạn chính của câu chuyện khiến chúng ta phải nhìn nhận đây là một câu chuyện cổ tích thần kỳ với các motif thần kỳ chính yếu như: con rùa cởi lốt biến thành chàng trai, chiếc cồng đất sét, chàng rùa khóc gây sấm sét mưa bão mỗi khi phải doạ nạt để được bồi đền vật ưng ý, chặt xác người làm mồi câu, rùa đẻ trứng vàng, chàng rùa trở về thuỷ cung, con thuồng luồng doạ dân làng khiếp sợ. Qua đây, ta thấy ba truyện đổi chác-bắt đền thuộc hai nhóm Nam Đảo và Môn-Khơ Me xuất hiện đều ở ba tộc người cư trú ở ba tiểu vùng Tây Nguyên: chàng ngốc Măng K’Ron người Mạ ở tỉnh Lâm Đồng thuộc tiểu vùng Nam Tây Nguyên, bác Blông Bluê người Ê Đê ở tỉnh Đăk Lăk thuộc tiểu vùng Trung Tây Nguyên và chàng mồ côi Tu dê người Tà Ôi ở huyện A Lưới tỉnh Thừa Thiên Huế thuộc tiểu vùng Bắc Tây Nguyên.

+ Loại đổi chác-được đền

Tương tự như ba truyện đổi chác-bắt đền phân bố đều ở ba tiểu vùng văn hoá TS-TN, bốn truyện đổi chác-được đền còn lại cũng thuộc hai nhóm Nam Đảo và Môn-Khơ Me và cũng phân bố đều khắp ở ba tiểu vùng văn hoá gồm các truyện: truyện Kơ Ho Chàng Sruöch đi buôn (Nam Tây Nguyên), truyện Ê Đê Chàng Tân thật thà (Trung Tây Nguyên), truyện Mơ Nông Nkring người khờ bắt voi rừng (Trung Tây Nguyên) và truyện Xơ Đăng Chàng mồ côi và con kiến (Bắc Tây Nguyên). Khác với nhóm truyện đổi chác-bắt đền về nội dung, nhóm truyện này thuộc các thể loại và tiểu loại sau: truyện Xơ Đăng Chàng mồ côi và con kiến là cổ tích sinh hoạt về người nghèo khổ, truyện Kơ Ho Chàng Sruöch đi buôn là truyện cổ tích thần kỳ với chủ đề diệt quỷ, truyện Mơ Nông Nkring người khờ bắt voi rừng là truyện cổ tích sinh hoạt về nhân vật chàng ngốc, và truyện cười Ê Đê Chàng Tân thật thà. Trong truyện Kơ Ho diệt quỷ, để tạo nên cốt truyện hợp lý ở phần đầu, tác giả dân gian đã mượn yếu tố luỹ tích bằng phương cách đổi chác-được đền tăng tiến cho nhân vật chàng Sruöch đi buôn thật thà với các con vật ngày càng có giá trị như đỉa → gà → mèo → chó → heo → trâu → ngựa → voi, kế đến câu chuyện lại chuyển sang một hướng khác không nhắc đến nhân vật mồ côi nữa với nguyên cớ là bảy đứa trẻ chăn trâu kéo mãi những sợi dây của con bù nhìn đuổi chim cùng những cây tre gây tiếng động đã khiến con voi của chàng Sruöch sợ hãi muốn bỏ trốn và bị mắc kẹt chết nơi khe suối, chàng Sruöch tiếp tục lên đường không dắt theo con vật nào nữa. Còn những đứa trẻ không kéo nổi voi lên lại đi nhờ ông Ndut khổng lồ giúp và câu chuyện diệt quỷ lại thuộc về lũ trẻ. Ngoài truyện Kơ Ho chỉ sử dụng yếu tố luỹ tích ở phần đầu cốt truyện, còn lại ba truyện Ê Đê, Mơ Nông và Xơ Đăng đều thuộc loại truyện cổ tích luỹ tích đổi chác-được đền với diễn tiến cuộc đổi chác ở cả ba truyện là giống nhau:

+ con mối được đền gà → chó → lợn → cây chày → trâu → bó cây chông → khúc sắt → cây dùi (Mơ Nông / ctsh chàng khờ),

+ con kiến được đền gà → chó → heo → bò → voi → bó lửa → ngụm nước (bị sặc nước) → cô gái làm vợ (Xơ Đăng / ctsh người nghèo),

+ con cào cào được đền gà → chó → heo → bò → trâu → voi → bộ chiêng quý (Ê Đê / truyện cười).

So sánh ba truyện trên, ta thấy tác giả dân gian ba dân tộc đều thể hiện ước mơ mang đến hạnh phúc, sự giàu có cho những người nghèo khổ hoặc thiếu khuyết về tinh thần nhưng lại tốt bụng và hiền lành, với các lối kết thúc kết hậu tuỳ theo tâm lý của từng dân tộc. Đó là:

+ Đối với chàng khờ Nkring Mơ Nông, khi có được cây dùi trong tay chàng khờ được tiên ông báo mộng chỉ dẫn cho cách bắt voi bằng cây dùi và trứng gà cho nên chàng đã làm theo bắt được cả trăm con voi và trở nên giàu có.

+ Với chàng mồ côi Xơ Đăng, khác các nhân vật trong loại truyện đổi chác-bắt đền với thằng ngốc Măng K’Ron phải lấy bà già và bác Blông Bluê tham lam và háo sắc phải chết thảm dưới hầm chông bởi hai cô gái bị ông bắt ép làm vợ mình, tác giả dân gian Xơ Đăng đã nhân hậu mang đến ước mơ hạnh phúc cho chàng trai mồ côi phải sống cực khổ nuôi bà vẫn không đủ ăn: chàng lấy được vợ là cô gái vừa đẹp vừa đảm đang sẽ giúp cho cuộc sống của hai bà cháu đỡ vất vả hơn.

+ Với truyện cười khôi hài nhằm mua vui giải trí của người Ê Đê Chàng Tân thật thà, tác giả dân gian lại muốn thông qua câu chuyện về “chàng trai mồ côi chăm chỉ lại có tính thật thà đến nỗi khi đi câu chỉ với con mồi cào cào mà đến lúc trở về lại có được bộ chiêng quý” nhằm nhắn gởi đến người nghe thông điệp về đạo lý làm người “ăn ngay ở thẳng, thật thà như đếm sẽ có cơ may được giàu sang, phú quý”, bởi lẽ những người thật thà, không tham lam tưởng như là khờ dại thường được đại chúng nhân hậu đền bù cho họ những cái lớn hơn, có giá trị hơn cái họ bị mất mát hay thua thiệt và cũng chính bởi họ luôn chậm tinh anh, không khôn lanh, không tham lam để “không ăn vạ” hay “bắt đền” thiên hạ. Cái đạo đức xã hội đó chàng Tân đã thu nhận từ sớm từ người bà răn dạy điều hay lẽ phải cho mình: thấy cháu mình mang bộ chiêng quý về bà bảo Tân mang đi trả bộ chiêng quý nhưng các nhà giàu đều không nhận lại mà còn khen Tân là người tốt, thật thà, không tham lam. Có thể xem đây là một chức năng kép giáo dục và thẩm mỹ cho việc xây dựng nhân cách cá nhân được thể hiện trong một tác phẩm truyện cười Ê Đê vừa mang tính riêng đặc thù của người Tây Nguyên thật thà không tham lam vừa mang tính toàn nhân loại của tác phẩm văn học dân gian.

Chú thích

(1) Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội, trang 2004: Châu chấu vào nhà chim di ngủ nhờ tránh mưa rét, vì tiếng tác của nai mà thức giấc duỗi chân dài làm rơi chim con xuống sông, nhờ Bụt phân xử: chấu đổ cho nai → na rơi trúng mặt → sâu đục trái na → gà mẹ lùng sục tìm mồi sâu cho con; gà trống con biện luận cho mẹ gà không có sữa cho con bú phải lùng sục kiếm ăn cho bầy con được Bụt xử vô tội.

(2) Quạ là kẻ gian: Trong rừng muôn loài có bộ máy nhà nước gồm gà tiên-vua, công-phó vua, vượn-tể tướng, chào mào-lính liên lạc. Nhà cóc bị sụp hố dấu chân nai không lên được may nhờ bầy giun đùn đất mới thoát, đi kiện. Vua phán chào mào đi mời bọn nai đến hỏi chuyện; nai đổ thừa do sợ nhím gùi chông; nhím đổ thừa do bồ chao la hét suốt ngày; bồ chao đổ thừa do thấy mắt đỏ loài cọp hung dữ; cọp giết chết lính chào mào; vua sai toàn thể hợp sức diệt cọp, nhện giăng lưới sắp diệt được cọp thì quạ mách lẻo cho cọp chạy thoát; vua sai lính chèo bẻo trừng phạt quạ phản bội, đánh, đốt và nhuộm lông quạ đen thui không dám giao du với mọi loài, chuyên rình trộm trứng chim chèo bẻo. Vua phân công bồ chao la hét báo động khi thấy cọp. Vua gà tiên gáy sớm gọi mọi loài thức dậy, loài công tố hộ cùng loài vượn hú vang báo động loài cọp và giám sát lũ quạ gian. // cóc → nai → nhím → bồ chao → cọp / quạ giải thoát cọp. [Type: Gốc tích bộ lông quạ] (Văn học dân gian các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên (Nguyễn Thị Thu Trang,…), Nxb Văn hóa dân tộc, H., 2011, trang 166).

(3) Bác Blông Bluê: Bác Blông Bluê khờ bắt được con kiến cầm trên tay đi chơi đến nhà kia được mời vào chơi, vừa đặt con kiến xuống đất thì bị con gà đến mổ ăn, bác bắt đền và được con gà; gà → chó, chó → dê, dê → bò, bò → trâu; trâu → voi, voi → lửa (bùi nhùi); bùi nhùi → nước (ngậm nước); nước → hai vợ. Về nhà, hai vợ lập mưu xui cắm chông tránh hổ, ban đêm đi ngủ đẩy chồng rơi xuống bị chông đâm chết. [Type: Những cuộc đổi chác có lãi] (Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số VN, Tập 14 – Truyện cổ tích (Viện nghiên cứu văn hóa), Nxb KHXH, H., 2008, trang 405).

(4) Chàng Tân thật thà: Chàng Tân mồ côi chăm chỉ lại có tính thật thà đến nỗi khi đi câu chỉ với con mồi cào cào mà đến lúc trở về lại có được bộ chiêng quý: được mời vào nhà chàng Khờ làm mất con cào cào được đền con gà, đến nhà khác bị mất gà được đền chó → heo → bò → trâu → voi → bộ chiêng quý. Bà bảo Tân mang đi trả bộ chiêng quý nhưng các nhà giàu đều không nhận lại mà còn khen Tân là người tốt, thật thà, không tham lam. [Type: Những cuộc đổi chác có lãi] (Giới thiệu một số tác phẩm văn học dân gian Tây Nguyên mới sưu tầm - Truyện dân gian Ê Đê và Mơ Nông (Đinh Thái Thụy), báo cáo Hội nghị khoa học sinh viên Khoa Ngữ văn và Báo chí, Trường ĐHKHXH&NV, ĐHQG TP. HCM, 2004, trang 91).

(5) Chàng Sruöch đi buôn: Sruöch đi buôn, bắt được con đỉa mang theo đi vào một ngôi làng, có người mời anh uống nước, con đỉa của anh bị con gà mái mổ được đền gà mái → mèo → chó → heo → trâu → ngựa → voi bị chết trong khe suối. Lũ trẻ không cứu được voi, nhờ Ndut kéo lên bị nước cuốn trôi đến nơi có lớp cát chặn lại gần vườn dứa của hai bà quỷ Röbung Rökai. Ndut bị phát hiện nhưng lại chỉ ra lũ trẻ khiến chúng bị hai bà bắt, Ndut trốn về nhà. Hai bà nhốt lũ trẻ vào cái ché khổng lồ, đi mua muối. Lũ trẻ lừa giết bốn con gái quỷ bỏ trốn về nhà. Khi bọn trẻ trở lại, hai mụ quỷ đổi cặp chiêng để chuộc các con gái bị giết. Bọn trẻ mang cặp chiêng về nhà, trên đường chúng tặng cho Ndut dặn nên đánh lên lưng vợ. Ndut đến nhà hai mụ quỷ lừa đổi gậy nhỏ lấy gậy lớn giết hai mụ. Về nhà Ndut dùng chiêng đánh lên lưng vợ giết chết vợ, mang xác vợ đi chôn, làm rơi giữa đường quay lại mang đi vứt xuống biển, trở về nhà. (Hợp tuyển văn học Xrê - Florilège Sré (Jacques Dournes), Nxb Sudestasie, Paris, 1990, Hồ Trần Thiên Ân và Nguyễn Xuân Như dịch, Phan Xuân Viện hiệu đính).

(6) Thằng ngốc Măng K’Ron: Ngốc bị kiến cắn, bắt kiến đi bán / gà ăn kiến bắt dân làng đền gà → chó → dê → trâu → chiêng → cái chày → lửa → ngậm nước vào miệng → cưới bà già. (Tìm hiểu truyện cổ Tây Nguyên – Trường hợp Mạ và K’Ho (Lê Hồng Phong), Nxb văn học, H., 2006, trang 398).

(7) Nkring người khờ bắt voi rừng: Nkring khờ mải nhìn diều thả bị con mối cắn đít bắt lấy nhốt trong ống mang đi khoe ở nhà kia bị con gà ăn mất con mối được đền gà → chó → lợn → cây chày → trâu → bó cây chông → khúc sắt → cây dùi. Dùng cây dùi điều khiển cây gỗ cưỡi làm voi. Tiên ông báo mộng chỉ cách bắt voi với cây dùi và trứng gà, làm theo bắt được voi về làng, tiếp tục bắt voi được trăm con giàu nhất vùng. [Type: Những cuộc đổi chác có lãi] ((Tổng tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số VN, Tập 14 – Truyện cổ tích (Viện nghiên cứu văn hóa), Nxb KHXH, H., 2008, trang 669).

(8) Coai Turoai và tên nhà giàu độc ác: Trời hạn mồ côi vào rừng gặp bà lão khát nước đi tìm nước gặp voi nơi vũng nước đục. Đuổi voi không đi dùng rựa chặt đuôi, voi bỏ chạy húc vào tổ kiến, kiến cắn ve, ve rúc vào tai mang, mang chạy giẫm lưng rắn hổ, rắn hổ đuổi theo đụng sóc, sóc phóng mình chạm hạt dẻ, hạt dẻ rơi xuống đầu cá lóc, cá lóc quẫy đuôi vẫy nước vào nhà giàu ngồi hóng mát bên suối, nhà giàu bắt tội mồ côi, mồ côi đổ tội cho thuồng luồng, nhà giàu lao xuống vực tìm thuồng luồng mất mạng vì nước xoáy. Nhớ ơn mồ côi không tố giác mình, voi đi theo mang nước suối về cho bà, từ đó chung sống với hai bà cháu. Kết cấu xâu chuỗi: voi → kiến → ve → mang → rắn hổ → sóc → hạt dẻ → cá lóc → nhà giàu → mô côi → thuồng luồng → nhà giàu tìm thuồng luồng chết chìm. (Truyện cổ các dân tộc miền núi Bắc Miền Trung (Nguyễn Hữu Chức, Ninh Viết Giao, Phùng Sĩ Hòa, Trần Hoàng, Trần Trọng Tân, Mai Văn Tấn), Nxb Thuận Hóa-Nghệ An-Thanh Hóa, 2001, trang 62).

(9) Chàng Tu dê: Chàng mồ côi nhặt con rùa định làm thịt được rùa năn nỉ giữ lại làm bạn. Rùa bỏ lốt là chàng trai giúp mồ côi có thức ăn ngon. Chàng rình và nhờ chuột tha vỏ rùa đến đập nát giữ chàng trai lại làm em trai. Chàng rùa dùng đất sét nặn chiếc cồng đánh vang, anh đòi giữ lại chơi, em rùa mang đi đổi lấy đàn kiến đỏ, đi tiếp bắt đền được gà trống, không được đền chàng rùa khóc to làm trời đất tối sầm, sấm sét mưa bão nổi lên, đi tiếp gà → heo → trâu → voi → đổi lấy khăn đội đầu và áo khoác cũ rách, nhờ chuột đục áo quan bỏ vào cạnh xác cô gái → bắt đền xác cô gái, mang về chặt làm bốn khúc dùng làm mồi câu được rùa đẻ trứng vàng trở nên giàu có. Xong phận sự chàng rùa đòi trở về thủy cung, anh mồ côi không chịu khiến buộc dây vào rùa xuống nước, khi kéo lên lại là thuồng luồng hung dữ dọa mọi người khiếp sợ bỏ chạy về nhà bỏ cả thương tiếc. (Truyện cổ Pa Cô (Trần Nguyễn Khánh Phong), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, H., 2011, trang 219).

(10) Chàng mồ côi và con kiến: Hai bà cháu sống cực vẫn không đủ ăn. Mồ côi lên rẫy bị kiến lửa đốt, kiến xin tha dặn mang đi bán sẽ giàu có. Kiến bị gà trắng mổ được đền gà → chó → heo → bò → voi → bó lửa → ngụm nước (bị sặc nước) → cô gái làm vợ, cùng nhau trở về quê nhà sống với bà. [Type: Những cuộc đổi chác có lãi] (Truyện cổ Xê Đăng (Ngô Vĩnh Bình), Nxb. Văn hóa, H., 1981, trang 144).

(11) Phan Kiến Giang sưu tầm và biên soạn, Truyện cổ Khơ Mú, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội, 1988, trang 75-77. Truyện được tóm tắt như sau: Cú mèo thích ăn cá nhưng lười bèn rủ chim ngói cùng đi bắt cá và chơi khăm ngói ăn hết cả phần bắt được, chỉ để lại ít tép vụn lại còn bẻ cổ bạn. Tức kẻ tham lam, lừa lọc, bẩn tính, ngói đi kiện với vua trời: vua trời đổ thừa cho bị áng mây che mắt, thần mây đổ cho gió thổi đi, thần gió đổ cho bị đụn mối cản, đụn mối đổ cho bị trâu húc, trâu đổ cho bị dây thừng thít chặt, dây thừng đổ cho sợ bị chuột nhắt cắn, chuột nhắt đang phân bua chỉ ra cú mèo; vừa đúng lúc cú mèo đến chứng kiến liền bẻ cổ ngói lần nữa khiến ngói đau quá buộc tự mình đánh trả cú mèo thật dữ dội.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Huế (chủ biên) (2012), Từ điển type truyện dân gian Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.

2. V. Ia. Propp (2005), Tuyển tập, Tập II, Nxb Văn hóa dân tộc và Tạp chi Văn hóa và Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Tủ sách Văn hóa học), Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn - Bình luận văn học, niên san 2015, tr.222-231