20240410 4

1. Đặt vấn đề

     Khái niệm “stress” có nhiều nghĩa; nhưng từ bình diện ngữ âm học (Phonetics), stress (trọng âm) trong các ngôn ngữ châu Âu được nhìn nhận: “trên bình diện ngữ âm, khi phát âm có một lực hơi thêm được sử dụng tác động lên một từ hoặc một âm tiết cụ thể” [5, tr.1286] sẽ tạo thành “stress” hay “trọng âm”. Từ góc độ khoa học, trọng âm được hiểu “là thuật ngữ chuyên môn cho độ lớn tương đối của lời nói. “Tương đối” ở đây có nghĩa là các cách nói khác nhau để phân biệt âm tiết nào là nổi bật trong lời nói” [6, tr.78].

     1.1. Về trọng âm trong tiếng Anh

     Trọng âm trong tiếng Anh có nhiều loại, nhưng loại trọng âm được người học tiếng chú ý nhiều hơn là loại trọng âm từ, được ghi bằng dấu “ˈ” (Trọng âm được thể hiện bằng dấu “ˈ” được đặt trước âm tiết – chú giải của tác giả) trên âm tiết được nhấn mạnh, bởi loại trọng âm này cho biết âm tiết mạnh nhất trong nhóm âm của một từ đa tiết. Như vậy, trong tiếng Anh, rõ ràng đây là hiện tượng âm học hết sức quan trọng, bởi nó góp phần dẫn đến việc lĩnh hội nội dung ngữ nghĩa của giao tiếp và đánh giá khả năng sử dụng thành thạo tiếng Anh của người nói; bởi tiếng Anh là ngôn ngữ đa âm tiết, nên những từ có hai âm tiết trở lên luôn có một âm tiết được phát âm nhấn mạnh, gọi là trọng âm. Hiện tượng này, tạo nên sự khác biệt hẳn trong phát âm so với những âm tiết còn lại về độ dài, độ lớn và độ cao. Chính âm tiết trọng âm này là yếu tố quan trọng quyết định cho giao tiếp nói tiếng Anh. Vì lẽ này, trong tiếng Anh có một số quy tắc đánh trọng âm mà người học bắt buộc phải nắm vững.

     Với trọng âm từ (Word Stress), có một số quy tắc cơ bản trong tiếng Anh được ghi nhận như sau:

     Quy tắc 1. Hầu hết danh từ và tính từ có 2 âm tiết đều có trọng âm rơi vào âm tiết thứ nhất. Chẳng hạn: “(noun) action /ˈækʃn/ (hành động); paper /ˈpeɪpər/ (giấy); teacher/ˈtiːtʃə/ (giáo viên); (adj) active /ˈæktɪv/ (hoạt động); happy /ˈhæpi/ (hạnh phúc); rainy /ˈreɪni/ (mưa),…”.

     Quy tắc 2. Phần lớn động từ và giới từ có 2 âm tiết, trọng âm thuộc âm tiết thứ hai. Chẳng hạn: “among /əˈmʌŋ/ (trong số); become /bɪˈkʌm/ (trở thành); begin /bɪˈɡɪn/ (bắt đầu); between /bɪˈtwiːn/ (giữa); discover /dɪˈskʌvə/ (khám phá); enjoy /ɪnˈdʒɔɪ/ (thưởng thức); forget /fəˈɡet/ (quên); include /ɪnˈkluːd/ (bao gồm); produce /prə’duːs/ (sản xuất); relax /rɪˈlæks/ (thư giãn),…”.

     Quy tắc 3. Với những từ có 3 âm tiết trở lên, trọng âm thường rơi vào âm tiết thứ 3 tính từ cuối lên. Chẳng hạn: “industry /ˈɪndəstri/ (ngành công nghiệp); intelligent /ɪnˈtelɪdʒənt/ (thông minh); specialize /ˈspeʃəlaɪz/ (chuyên biệt); geography /dʒiˈɑɡrəfi/ (địa lý),…”.

     Quy tắc 4. Các từ có hậu tố: – ee, – eer, – ese, – ique, – esque , – ain, trọng âm rơi vào chính âm tiết đó. Chẳng hạn: “agree /əˈɡriː/ (đồng ý); maintain /meɪnˈteɪn/ (duy trì); retain /rɪˈteɪn/ (giữ lại); unique /juːˈniːk/ (duy nhất); Vietnamese /ˌvjetnəˈmiːz/ (người Việt); volunteer /vɑlənˈtɪə/ (tình nguyện viên),…”.

     Quy tắc 5. Các từ có hậu tố: – ment, – ship, – ness, – er/ or, – hood, – ing, – en, -ful, – able, – ous, – less, trọng âm chính của từ không thay đổi, Chẳng hạn: “agree /əˈɡriː/ (đồng ý); agreement /əˈɡriːmənt/ (thỏa thuận); happy /ˈhæpi/ (hạnh phúc); happiness /ˈhæpinəs/ (hạnh phúc); meaning /ˈmiːnɪŋ/ (có nghĩa); meaningless /ˈmiːnɪŋləs/ (vô nghĩa); poison /ˈpɔɪzn/ (chất độc); poisonous /ˈpɔɪzənəs/ (độc); relation /rɪˈleɪʃn/ (quan hệ); relationship /rɪˈleɪʃnʃɪp/ (mối quan hệ); rely /rɪˈlaɪ/ (dựa vào); reliable /rɪˈlaɪəbl/ (đáng tin cậy),…”.

     Quy tắc 6. Các từ tận cùng bằng các đuôi: – ic, – ish, – ical, – sion, – tion, – ance, – ence, – idle, – ious, – iar, – ience, – id, – eous, – ian, – ity, trọng âm nhấn vào âm tiết ngay trước nó. Chẳng hạn: “economic /ˌiːkəˈnɑmɪk/ (kinh tế); entrance /ˈentrəns/ (lối vào); famous /ˈfeɪməs/ (nổi tiếng); foolish /ˈfuːlɪʃ/ (ngu ngốc); musician /mjuːˈzɪʃn/ (nhạc sĩ); nation /ˈneɪʃn/ (quốc gia),…”.

     Quy tắc 7. Các từ tận cùng bằng các đuôi: – graphy, – ate, – gy, – cy, – ity, – phy, – al, trọng âm rơi vào âm tiết thứ 3 từ dưới lên. Chẳng hạn: “democracy /dɪˈmɑkrəsi/ (nền dân chủ); economical /ˌiːkəˈnɑmɪkl/ (kinh tế); geography /dʒiˈɑɡrəfi/ (địa lý); investigate /ɪnˈvestɪɡeɪt/ (điều tra); photography /fəˈtɑɡrəfi/ (nhiếp ảnh); technology /tekˈnɑlədʒi/ (công nghệ),…”.

     Quy tắc 8. Danh từ ghép: Trọng âm thường rơi vào âm tiết thứ 1, Chẳng hạn: “birthday /ˈbəːθdeɪ/ (sinh nhật); boyfriend /ˈbɔɪfrend/ (bạn trai); gateway /ˈɡeɪtweɪ/ (cổng vào); greenhouse /ˈɡriːnhaʊs/ (nhà kính); seafood /ˈsiːfuːd/ (hải sản); toothpaste /ˈtuːθpeɪst/ (kem đánh răng),…”.

     Quy tắc 9. Tính từ ghép (thường có dấu gạch ngang ở giữa): Trọng âm rơi vào âm tiết thứ nhất của từ thứ hai. Chẳng hạn: “bad-tempered /bæd-ˈtempərid/ (nóng tính); old-fashioned /əʊld-ˈfæʃənd/ (cổ hủ); wellmeaning /wel-ˈmiːnɪŋ/ (có ý tốt),…”.

     Quy tắc 10. Trong tiếng Anh cũng có sự thay đổi trọng âm của từ khi có sự chuyển đổi động từ, tính từ thành danh từ hoặc danh từ thành động từ, tính từ hay trạng từ. Chẳng hạn: “compete (v) /kəmˈpiːt/ (cạnh tranh) – competitive (adj) /kəmˈpetitiv/ (tính cạnh tranh) – competition (n) /kɒmpiˈtiʃən/ (sự cạnh tranh); economy (n) /iˈkɒnəmi/ (sự quản lý kinh tế, tiết kiệm) – economical (adj) /iːkəˈnɒmikəl/ (tiết kiệm, kinh tế) – economize (v) /iˈkɒnəmaiz/ (tiết kiệm, giảm chi); necessary (adj) /ˈnesəseri/ (cần thiết) – necessarily (adv) /nesəˈserili/ (không thể thiếu) – necessity (n) /niˈsesiti/ (sự cần thiết); politics (n pl) /ˈpɒlitiks/ (chính trị học) – political (adj) /pəˈlitikəl/ (thuộc chính trị) – politician (n) /pɒliˈtiʃən/ (nhà chính trị),…”.

      Do trọng âm từ quan trọng trong tiếng Anh, nên khi nói đến trọng âm phần lớn số người quan tâm đến ngôn ngữ này chỉ nghĩ đến trọng âm từ. Kỳ thực, trong giao tiếp của tiếng Anh, còn một loại trọng âm cũng được nói đến là trọng âm câu (sentence stress). Loại trọng âm này giúp cho việc giao tiếp trở nên tự nhiên và phù hợp với cách nói năng của người bản ngữ hơn.

     Với trọng âm câu, cũng có một số quy tắc cơ bản trong tiếng Anh được ghi nhận. Chẳng hạn, trong phát ngôn: “I often miss the bus because my watch is slow.”, hay: “Yesterday I went for a walk in the country.”, cho thấy, có những từ được nhấn trọng âm (từ được in đậm có trọng âm – chú giải của tác giả) và có những từ không. Như vậy, quy tắc để nhấn/không nhấn trọng âm trong câu có thể được nêu khái quát: Từ thuộc về mặt nội dung như động từ chính, danh từ, tính từ, từ để hỏi, từ phủ định, chỉ định được nhấn trọng âm. Còn từ thuộc về mặt cấu trúc, như đại từ, giới từ,… không nhấn trọng âm.

     1.2. Về trọng âm trong tiếng Việt

     Không có nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học đề cập vấn đề này, bởi cho rằng, tiếng Việt là loại tiếng đơn âm tiết; hơn nữa, mỗi tiếng lại có một thanh điệu giữ vai trò của một âm vị học có tác dụng khu biệt ngữ nghĩa, nên việc nhấn mạnh hay không, một thành phần âm tiết nào đó, nhìn chung không làm thay đổi nội dung từ ngữ. Tuy nhiên, theo Giáo sư Cao Xuân Hạo, vẫn có thể đề cập đến một loại trọng âm trong giao tiếp: “Trong câu nói tiếng Việt, có sự tương phản giữa các tiếng (các âm tiết) kế tiếp nhau, về độ dài, độ mạnh và tính trọn vẹn của đường nét thanh điệu. Sự tương phản này không có tác dụng trực tiếp phân biệt các tiếng (hay các từ) về nghĩa, mà có tác dụng đánh dấu chỗ phân giới các ngữ đoạn và góp phần xác định quan hệ kết hợp giữa các tiếng. Ta gọi sự tương phản đó là sự đối lập về trọng âm” [1, tr.137].

     Qua quan niệm về trọng âm của Giáo sư Cao Xuân Hạo, có thể nêu một số vấn đề về trọng âm từ trong tiếng Việt:

     1) Tất nhiên, việc phát âm các yếu tố từ vựng tiếng Việt đa tiết, như từ ghép, từ láy, không có yêu cầu đòi hỏi phải nhấn trọng âm, như trong tiếng Anh, khi học phát âm một từ đa tiết. Nhưng “một tiếng có trọng âm bao giờ cũng được tri giác như có trọng âm, ngay khi bên cạnh không có một tiếng khinh âm (không có trọng âm) để so sánh.” [1, tr.138]. Mặt khác trong tiếng Việt, theo giáo sư, khi nói ở nhịp độ chậm và nhất là khi đọc văn bản, những tiếng khinh âm có thể được phát âm mạnh và dài gần bằng những tiếng có trọng âm; nhưng ngược lại “dù nói nhanh đến đâu thì một tiếng trọng âm cũng không thể rút ngắn và giảm nhẹ ngang một tiếng khinh âm.” [1, tr.138]. Chẳng hạn: nhà văn [01] (Ký hiệu 0 là tiếng khinh âm, ký hiệu 1 là tiếng trọng âm – chú giải của tác giả), nhà báo [01], nhà giáo [01] khi nói chậm có thể phát âm gần như [11], nghĩa là cả hai tiếng đều có trọng âm; nhưng: nhà cửa [11], quần áo [11], xe tàu [11], không bao giờ có thể phát âm thành [01], nghĩa là có một tiếng khinh âm được. Như vậy, trên cơ sở khái quát ngữ nghĩa từ vựng của lớp từ phức (từ đa âm tiết) có thể nêu một số “trường hợp” (chúng tôi gọi là “trường hợp” (tình huống) mà không xem là “quy tắc”, vì trong tiếng Việt nó không là yêu cầu bắt buộc, như yêu cầu phải nhấn trọng âm trong tiếng Anh) nhấn trọng âm như sau:

     Trường hợp 1. Các từ ghép chính phụ, còn gọi là từ ghép loại biệt nghĩa, trên cơ sở cấu trúc ngữ pháp C – P (Cấu trúc chính phụ được ký hiệu viết tắt C (chính), P (phụ) và được đặt theo trật tự C trước, P sau), nhưng xét từ bình diện ngữ nghĩa thì thành tố thứ nhất có ý nghĩa khái quát chỉ loại, loài, đơn vị; còn thành tố thứ hai có ý nghĩa cụ thể chỉ tính chất, đặc điểm của thành tố đầu, nên nét nghĩa thông tin “loại biệt” nằm ở thành tố sau và vì vậy, trọng âm lại nằm ở thành tố này. Chẳng hạn: “con trâu [01], con bò [01]; trái bầu [01], trái bí [01], cây dừa [01], cây cau [01]; nón lá [01], nón nỉ [01]; cá lóc [01], cá trê [01]; xe đạp [01], xe máy [01]; nhà lá [01], nhà ngói [01]; chuối cau [01], chuối già [01]; mứt gừng [01], mứt me [01],…”.

     Trường hợp 2. Các từ ghép đẳng lập, còn gọi từ ghép tổng hợp nghĩa, trên cơ sở cấu trúc ngữ pháp đẳng lập (trật tự của 2 thành tố có thể linh hoạt hoán đổi vị trí trong một số trường hợp), hai thành tố có vị trí ngữ pháp ngang bằng và xét từ bình diện ngữ nghĩa thì hai thành tố có chức năng hợp nghĩa với nhau để tạo thành một đơn vị có nghĩa khái quát hóa và vì vậy, trọng âm nằm ở cả hai thành tố. Chẳng hạn: “quần áo [11], giày dép [11], ông bà [11], cha mẹ [11], vợ con [11], tiền của [11],…; ăn nói [11], bay nhảy [11], đứng ngồi [11], đánh đấm [11], thương nhớ [11],…; học hành [11]; đỏ đen [11], ốm yếu [11], trẻ đẹp [11], bầm giập [11], héo úa [11], động tĩnh [11],…”.

     Trường hợp 3. Các từ ghép đẳng lập, còn gọi từ ghép tổng hợp nghĩa, trên cơ sở cấu trúc ngữ pháp đẳng lập, nhưng nghĩa của hai thành tố trên phương diện đồng đại, tự thân không rõ nghĩa như nhau, còn từ phương diện lịch đại lại có chức năng hợp nghĩa với nhau để tạo thành một đơn vị có nghĩa khái quát hóa và vì vậy, trọng âm cũng được chia đều trên cả hai thành tố. Chẳng hạn: “heo cúi [11], gà qué [11], khách khứa [11], tiệc tùng [11], áo xống [11], ghe cộ* (những từ có dấu * thuộc hệ thống từ ngữ Nam Bộ – chú giải của tác giả) [11],…; chạy chọt [11], nói năng [11], đổi chác [11], dòm ngó* [11], dò coi* [11]; hỏi han [11],…; muồi mẫn* [11], lợt lạt* [11], độc địa* [11], gày guộc [11], ghét gủa* [11], giỡn trửng* [11],…”.

     Trường hợp 4. Các từ có mối quan hệ ngữ âm được ngữ pháp truyền thống xếp vào loại từ láy, tức là từ có một thành tố nghĩa gốc và một thành tố có mối quan hệ ngữ âm toàn phần hay bộ phận với thành tố gốc, và dù là 2 hay nhiều thành tố thì trọng âm cũng chỉ được nhấn trên 1 thành tố gốc. Chẳng hạn: “dễ dàng [10], gọn gàng [10], mát mẻ [10], sạch sẽ [10], nhỏ nhắn [10], vuông vắn [10], lạnh lẽo [10], trong trẻo [10], buồn bã [10], vội vã [10],…; bươm bướm [01], bong bóng [01], se sẻ [01], đo đỏ [01], tim tím [01], trăng trắng [01], nho nhỏ [01], khang khác [01], thăm thẳm [01], sền sệt [01],…; sạch sành sanh [100], khỏe khòe khoe [100],…”.

     Nhìn chung, các từ phức đa âm trong tiếng Việt, thường là 2 âm tiết, đều có “quy tắc” nhấn trọng âm; nhưng do đây là ngôn ngữ đơn lập và mỗi âm tiết được phát âm gần như có khoảng ngắt rõ rệt, không như các từ đa tiết trong tiếng Anh, thường có 2 đến hơn 2 âm tiết trở lên, nên việc nhấn trọng âm trong tiếng Việt, không được người Việt chú trọng như trong tiếng Anh được người bản ngữ xem trọng.

     2) Tuy trọng âm trong phát ngôn tiếng Việt, không làm thay đổi nội dung ngữ nghĩa từ ngữ, ngoại trừ trọng âm cường điệu (Emphatic) được dùng trong phát ngôn (các vị từ tiếng Việt, chẳng hạn “cám ơn, xin lỗi,…; tốt, giỏi, khôn,…”, khi phát âm cường điệu trong một ngữ cảnh nhất định, có thể mang nghĩa trái ngược với nghĩa từ vựng vốn có của từ). Nhưng theo Giáo sư Cao Xuân Hạo, khi nhấn mạnh về vai trò của trọng âm trong phát ngôn có chức năng “phân đoạn” khiến người bản ngữ nghe như thể sau âm tiết trọng âm, có một chỗ ngắt câu và chức năng này khá quan trọng trong tiếng Việt; bởi tiếng Việt vốn là một loại ngôn ngữ không thay đổi hình thái nên mối quan hệ tổ hợp (quan hệ tổ hợp được hiểu là “quan hệ kết hợp giữa các tiếng”, như định nghĩa của Giáo sư Cao Xuân Hạo, giúp nhận diện nội dung thông tin của phát ngôn. Chẳng hạn, trong tiếng Việt, từ “không” vừa có vai trò của một trợ từ phủ định, vừa có nghĩa từ vựng của một vị tính từ; nên trong phát ngôn “đôi chân không nhúng xuống nước”, thì chính trọng âm từ giúp người nghe tri nhận được thông tin của phát ngôn. Nếu phát ngôn theo mô hình [001001], người nghe sẽ hiểu là “người kia để đôi chân trần xuống nước”. Nếu phát ngôn theo mô hình [010101] hay [010001], người nghe sẽ hiểu là “người kia không để đôi chân xuống nước”. Như vậy, từ “không” trong kết hợp với vị từ sẽ thành một tổ hợp “không nhúng” có trọng âm [01], tương tự như các tổ hợp: “không biết [01], không nghe [01], không thấy [01],…”; khác đi, từ “không” trong kết hợp với danh từ sẽ thành tổ hợp “chân không” có trọng âm [01], tương tự như các tổ hợp: “tay không [01], chai không [01], phòng không nhà trống [0101],…”.

     Có thể nêu thêm một vài trường hợp “nước đôi” được phân lập nhờ cách nhấn trọng âm trong giao tiếp, như: “con  miền Nam.”, nếu nhấn trọng âm theo cấu trúc [1001] hoặc [1101] phát ngôn này sẽ được hiểu “con, ở (sống) trong miền Nam”; nhưng nếu nhấn trọng âm theo cấu trúc [0101] phát ngôn này sẽ được hiểu: “con đầy tớ (con ở), người miền Nam”. Hay “trước mắt ta là trở ngại,…”, nếu nhấn trọng âm theo cấu trúc [001001] phát ngôn này sẽ được hiểu: “trước mắt ta, còn có trở ngại (khách quan),…”; nhưng nếu nhấn trọng âm theo cấu trúc [011001] phát ngôn này sẽ được hiểu “trước mắt, ta là trở ngại (chủ quan),…”?!

     Như vậy, có thể nói, trong tiếng Việt tuy trọng âm từ không quan trọng như trong tiếng Anh, nhưng trọng âm từ trong giao tiếp tiếng Việt cần được tìm hiểu, nghiên cứu thấu đáo sẽ giúp cho người học tiếng Việt lĩnh hội và giao tiếp được thông suốt và tự nhiên hơn.

2. Nội dung

     Đề cập tới vai trò trọng âm tiếng Việt trong các tình huống phát ngôn (trọng âm trong câu), theo Giáo sư Cao Xuân Hạo, cần chú ý các tình huống điển hình sau:

     Theo định nghĩa khái niệm trọng âm của Giáo sư Cao Xuân Hạo đã dẫn [1, tr.137] có một điều được ông nhấn mạnh: “Sự tương phản (trọng âm) không có tác dụng trực tiếp phân biệt các tiếng (hay các từ) về nghĩa, mà có tác dụng đánh dấu chỗ phân giới các ngữ đoạn.”. Thực tế, điều này lại quan trọng trong phát ngôn tiếng Việt, bởi mỗi câu nói đều mang một hay nhiều trọng âm và trong trường hợp nhiều trọng âm thì mỗi trọng âm đánh dấu một ngữ đoạn (Syntagm). Như vậy, trọng âm có chức năng phân giới và kết thúc ngữ đoạn. Tuy nhiên, đơn vị mang trọng âm hình như trùng với đơn vị mang chức năng cú pháp của câu. Chẳng hạn, phát ngôn sau được ghi nhận trọng âm:

     Lan// đi mua cá// với lại khế// về nấu canh.

     [ 1   0   0   1   0   0   1   0   0   1 ]

     Nhưng những ngữ khí từ hay tiểu tố tình thái lại kết thúc câu bằng một khinh âm. Chẳng hạn, các phát ngôn sau được ghi nhận trọng âm:

     Tôi về nhé [010]

     So sánh với: Tôi về nhà [001]; Tôi về ngay [011]

     Điều này cho phép phân biệt một số ngữ khí từ với những thực từ đồng âm với nó. Như, không là ngữ khí từ nghi vấn với không là phó từ phủ định trong phát ngôn 1 và 2 sau:

     1. Có đi không [010]

     2. Đi hay không [101]

     Hai phát ngôn tuy đồng nghĩa, nhưng ở phát ngôn 2 từ không có trọng âm, nên phát ngôn 2 từ không lại có cương vị của một thực từ. Vì vậy, phát ngôn này có cấu trúc đồng nhất với những kiểu phát ngôn: “sách hay bút? [101] Thế nên, từ không trong phát ngôn này còn có thể thay thế bằng những vị từ khác, như: “đi hay chạy” [101], tương tự: “đi hay bò”, “đi hay nghỉ”, “đi hay về,…” đều có cấu trúc trọng âm [101]. Còn ở phát ngôn 1, từ không không thể có cương vị thực từ như vậy.

     Tuy ngữ khí từ là những tiếng không có chức năng cú pháp của một ngữ đoạn nên không thể mang trọng âm của một ngữ đoạn, nhưng cũng cần lưu ý trong trường hợp nó mang nhiều cương vị, như Giáo sư Cao Xuân Hạo đã lưu ý, vì trong trường hợp này, nó mang 3 cương vị vừa là tiếng (từ), vừa của ngữ đoạn, của câu; đó là những “từ – câu” (Mots-Phrases). Chẳng hạn 3 lớp từ sau:

      1). ê!, này!, anh!, mẹ!,… (hô ngữ)

     2). ơi!, ừ!, dạ!, vâng!,... (ứng ngữ)

     3). ối!, ái!, ôi!, chà!,… (thán từ)

      Cần phân biệt một số hư từ với những thực từ vốn là gốc phát sinh của nó, hoặc ngẫu nhiên đồng âm với nó như:

1). cho, ở, đi, về, qua, lên, xuống, ra, vào, sang, làm, thành,… (giới từ/ vị từ);

2). của, bên, trên, dưới, trong, ngoài,… (giới từ/ danh từ hay vị từ);

3). chỉ, là, với, và, thì,… (đối lập với những thực từ đồng âm).

     Quan sát từ cho trong 2 phát ngôn, nhờ vào khinh âm/ trọng âm, ta phân biệt được cho là giới từ với cho là vị từ (thực từ):

1) Lấy tiền cho bạn [0101] tương đương với “lấy tiền giùm bạn”;

2) Lấy tiền cho bạn [0111] tương đương với “lấy tiền đem tặng bạn”.

     Từ những cặp phát ngôn trên, nhìn từ phương diện chữ viết có thể tưởng chúng đồng âm, đôi khi được hiểu là đồng nghĩa; do đó, những cặp phát ngôn ấy được một số tác giả cho là “câu mơ hồ”. Nhưng theo Giáo sư Cao Xuân Hạo, đây chỉ là những cặp “đồng tự”. Vì trong phát âm và nghĩa thì lại khác hẳn nhau.

     Nhìn chung, có rất nhiều điều để giới nghiên cứu quan tâm về trọng âm trong tổ hợp hai tiếng qua tham luận của Giáo sư Cao Xuân Hạo, bởi nó giúp “phát hiện những sự phân biệt tuy tinh tế nhưng hiện thực và quan trọng giữa những mối quan hệ ngữ pháp khác nhau của các tiếng, mà từ trước đến nay ít được chú ý chỉ vì tư liệu nghiên cứu chủ yếu là tư liệu chữ viết, chứ không phải tiếng nói hằng ngày” [1,tr.144]; nhưng trên đại thể, có 2 vấn đề quan trọng của trọng âm từ trong phát ngôn mà nếu áp dụng nghiên cứu của ông, có thể giải quyết tốt một số vấn đề “mơ hồ” trong các phát ngôn đồng tự được nêu, đó là trọng âm trong kết cấu chủ – vị (đề – thuyết) và trọng âm trong kết cấu vị từ + bổ ngữ.

     2.1. Trọng âm trong kết cấu chủ – vị (đề – thuyết)

     Trong tổ hợp 2 tiếng có kết cấu 1 chủ ngữ và 1 vị ngữ, 1 chủ đề và 1 phần thuyết, thì mô hình trọng âm sẽ là [11], nếu chủ ngữ là danh từ. Trong trường hợp, chủ ngữ, chủ đề là từ nhân xưng hay hồi chỉ thì mô hình trọng âm lại là [01]. So sánh:

     1). mèo ăn, gà ăn, chim ăn, cá ăn [11]

     2). nó ăn, tôi ăn,…; anh ăn, con ăn, bố ăn,… [01]

     Trong trường hợp ở phát ngôn 2, các tiếng được dùng làm đại từ vốn là các danh từ chỉ quan hệ thân thuộc hay ngôi thứ: “ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em, cô, bác,…” hoặc tên riêng dùng để xưng hô, thì tuy giữ vai trò chủ ngữ nhưng vẫn là những tiếng khinh âm.

     Quan sát tổ hợp “mẹ đánh” qua 2 phát ngôn đồng tự:

     1). Đừng nghịch, mẹ đánh cho bây giờ. [01];

     2). Đừng nghịch, mẹ đánh cho bây giờ. [11].

     Ở phát ngôn 1, tổ hợp mẹ đánh có trọng âm là [01] thì đây là lời nói của người mẹ nói với con mình và từ mẹ được dùng như một đại từ nhân xưng. Ở phát ngôn 2, tổ hợp mẹ đánh có trọng âm là [11] thì đây là lời nói của một người không phải là mẹ đứa trẻ và từ mẹ được dùng như một danh từ. Do vậy, mẹ đánh [01] cũng tương tự như: tao đánh, nó đánh [01]; mẹ đánh [11] cũng tương tự như: giặc đánh, sét đánh [11].

     Quan sát tổ hợp “Lan về nhà” qua 2 phát ngôn đồng tự:

     1). Lan về nhà [001]

     2). Lan về nhà [101]

     Ở phát ngôn 1, Lan là tiếng khinh âm [001] thì đây là trường hợp: Lan nói với ai đó hay người nào nói với Lan. Ở phát ngôn 2, Lan là tiếng trọng âm [101] thì đây là trường hợp: người nào nói về Lan.

     2.2. Trọng âm trong kết cấu vị từ + bổ ngữ

     Trong kết cấu vị từ + bổ ngữ, cách phân bố trọng âm cũng có 2 trường hợp: nếu bổ ngữ biểu thị một đối tượng phiếm định hay bất định, thì mô hình trọng âm là [01]; còn nếu bổ ngữ biểu thị một đối tượng xác định (có sở chỉ), thì mô hình là [11]. So sánh:

     1). Anh ấy bán sách ở đường sách [01]

     2). Anh ấy túng quá, phải bán sách đi mà ăn [11]

     Ở phát ngôn 1, tổ hợp bán sách có trọng âm [01] vì sách trong phát ngôn này là một đối tượng không xác định cả về lượng, về chất. Ở phát ngôn 2, tổ hợp bán sách có trọng âm [11] vì sách trong phát ngôn này là đối tượng được xác định cụ thể cả về lượng, lẫn chất (có sở chỉ). Dĩ nhiên, mô hình trọng âm [11] được xác định rõ ràng hơn, nếu sau bổ ngữ lại thêm một tiếng, như: “này, nọ, kia, ấy,…” có tác dụng xác định bổ ngữ. Đối chiếu 2 lớp tổ hợp từ, sẽ thấy được mô hình trọng âm của từng lớp tổ hợp như sau:

      Trọng âm: [01]                      [11]

     1). bắt người                           bắt người (này)

     2). đọc báo                             đọc báo (nọ)

     3). làm việc                            làm việc (kia)

     4). về nhà                               về nhà (ấy)

     Với mô hình trọng âm trong kết cấu vị từ + bổ ngữ, có những tình huống phức tạp trong việc xác lập kết cấu trọng âm, bởi sự chi phối ngữ nghĩa giữa các thành tố. Tuy nhiên, cũng có những danh từ khi dùng một mình làm bổ ngữ, luôn đòi hỏi tổ hợp phải là mô hình [01] hoặc [11]. Điều đó, cũng bởi do, tính chất ngữ nghĩa của các thành tố trong tổ hợp tiếng chi phối. Chẳng hạn, các tổ hợp “lấy vợ, cưới vợ, lấy chồng,…” luôn có mô hình trọng âm [01]; trong khi các tổ hợp “bỏ vợ, bỏ chồng,…” lại có mô hình trọng âm [11].

     Phân tích 2 tình huống tưởng chừng như có kết cấu giống nhau này, lại khác nhau ở một điểm căn bản về nguyên lý trọng âm trong kết cấu đã được nêu là, “nếu bổ ngữ biểu thị một đối tượng phiếm định hay bất định, thì mô hình trọng âm là [01]; còn nếu bổ ngữ biểu thị một đối tượng xác định (có sở chỉ), thì mô hình là [11]” [1, tr.148]. Do vậy, khi nói “lấy vợ, cưới vợ, lấy chồng,…” thì bổ ngữ lại là một đối tượng bất định; còn khi nói “bỏ vợ, bỏ chồng,…” thì bổ ngữ lại là một đối tượng hoàn toàn xác định.

     Từ 2 tổ hợp với 2 mô hình trọng âm: (1) “bỏ vợ, bỏ chồng,…” [11], (2) “lấy vợ, lấy chồng,…” [01] có thể xác lập các tổ hợp đồng chất với chúng:

     1). Mô hình trọng âm [11], gồm: “bỏ vợ, bỏ chồng, yêu vợ, chiều chồng, thương con, nuôi mẹ,…”.

     2). Mô hình trọng âm [01], gồm: “lấy vợ, lấy chồng, làm bánh, xây nhà, nặn tượng, đẽo cày,…”.

     Và sự khác biệt cơ bản giữa tổ hợp 2 với tổ hợp 1 là vì một mặt, trong tổ hợp này, danh từ làm bổ ngữ không có sở chỉ; mặt khác, cả ngữ đoạn vị từ chỉ một hoạt động, chứ không phải một hành động tạo tác riêng lẻ. Bởi, các vị từ trong trường hợp này “biểu thị một hành động mà sau khi hoàn thành thì đối tượng được biểu thị bằng bổ ngữ mới bắt đầu tồn tại, trở thành “của mình” đối với chủ thể hành động” [1, tr.150].

3. Kết luận

     Ngoài những đóng góp đồ sộ trên phương diện dịch thuật, Giáo sư Cao Xuân Hạo còn có những đóng góp lớn cho việc nghiên cứu tiếng Việt và phương ngữ. Với tiếng Việt, đóng góp của ông ở cả 3 bình diện: ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa mà ở mỗi bình diện ông đều có những đóng góp mới nổi bật, như: “Vấn đề trọng âm và các quan hệ ngữ pháp trong tiếng Việt; Mấy vấn đề cho việc phân tích cú pháp tiếng Việt; Nghĩa hiển ngôn và nghĩa hàm ẩn,…”. Với phương ngữ, đóng góp của ông vừa trên bình diện lý luận chung, vừa đi vào khảo sát phương ngữ cụ thể: “Số phận các vần có nguyên âm hẹp qua các phương ngữ lớn của Việt Nam; Hai vấn đề âm vị học của phương ngữ Nam Bộ; Nhận xét về các nguyên âm của một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam,…”. Trong khoa học, đôi khi ông bị định kiến là người “kiếm chuyện”, nhưng kỳ thực ông là người có “tư duy xa”, ít được sự chia sẻ, cảm thông. Như khi ông kết luận, trong bài viết về Trương Vĩnh Ký, khiến nhiều người cảm thấy “chạnh lòng”: “Điều đáng ngạc nhiên hơn nhiều là trong hoàn cảnh đó mà ông (Trương Vĩnh Ký – chú thích của tác giả viết bài) vẫn có được những nhận định đúng đắn và tinh tế đến như vậy về ngữ pháp tiếng Việt. Trong lịch sử của ngành Việt ngữ học, ông là một trong những tác giả ít bị định kiến dĩ Âu vi trung chi phối nhất. Kể cho đến nay, ít có cuốn sách nào cung cấp cho ta nhiều thông tin về ngữ pháp tiếng Việt như mấy cuốn sách không lấy gì làm dày của ông. Trong mấy cuốn sách này không thiếu những phát hiện quan trọng mà ngày nay chẳng mấy ai nhắc đến, trong khi lẽ ra nó phải được những người đi sau tiếp thu và khai triển, đào sâu hơn nữa” [1, tr.442]. Với chúng tôi, Giáo sư Cao Xuân Hạo là nhà nghiên cứu Việt ngữ có uy tín lớn. Chúng tôi muốn bày tỏ lòng ngưỡng mộ và biết ơn trước những đóng góp to lớn của ông cho việc nghiên cứu và giảng dạy Việt ngữ.

Đặng Ngọc Lệ1Huỳnh Công Tín2
(1PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang, 2TS. Trường Đại học Văn Lang)

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại Học Văn Lang, Tập 7, số 07 (2018), tr.73-82.

 

Tài liệu tham khảo

1. Cao Xuân Hạo (1999), Tiếng Việt, Mấy vấn đề ngữ âm ngữ pháp ngữ nghĩa, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội.

2. Cao Xuân Hạo (2001), Âm vị học và tuyến tính, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội.

3. Cao Xuân Hạo – Hoàng Dũng (2005), Từ điển Thuật ngữ ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

4. Đặng Ngọc Lệ (Chủ biên), Nguyễn Kiên Trường (1998), Tiếng Việt thực hành, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

5. A.S. Hornby (2000), Edited by Sally Wehmeier, Phonetics Editor Michael Ashby, Advanced Learner’s Dictionary, Oxford University Press.

6. Nguyễn Minh Tâm (2000), A glossary of Phonetic Terms – Thuật ngữ ngữ âm, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

7. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển Từ ngữ Nam Bộ, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

8. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển Anh – Việt – English – Vietnamese Dictionary, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

9. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Ngôn ngữ học (1992), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ, Hà Nội.

 

TÓM TẮT

     Trọng âm là kết quả hoạt động phát âm nhằm nhấn mạnh vào một thành phần âm (âm tiết) của một đơn vị ngôn từ trong giao tiếp – nói năng hoặc ca hát. Trong ngôn ngữ đa âm tiết, như các ngôn ngữ châu Âu, phần lớn từ có 2 âm tiết (tiếng) trở lên, nên từ thường có trọng âm cố định ở một âm tiết nào đó, theo thói quen của người bản ngữ; tuy đôi khi trọng âm cũng có thể thay đổi, nhấn vào một âm tiết thích hợp tùy theo ý định diễn đạt của người nói, ngôn cảnh. Tiếng Việt là loại hình ngôn ngữ đơn lập, tuy cũng có từ đa tiết, nhưng đó vẫn là sự kết hợp của những thành tố đơn tiết, nên vấn đề trọng âm không được nghiên cứu nhiều. Nhưng trong giới Việt ngữ học, Giáo sư Cao Xuân Hạo thuộc số ít người quan tâm đến loại trọng âm đặc thù trong tiếng Việt. Đó là trọng âm từ trong phát ngôn.

Từ khóa: trọng âm, đa tiết, đơn tiết, tiếng Việt, Cao Xuân Hạo.

 

THE STRESS IN VIETNAMESE LANGUAGE

ABSTRACT

     Stress is the result of pronunciation activity that emphasizes a sound component (Syllable) of a unit of language in communication – speech or singing. In polysyllabic languages, as in European languages, most words have two or more syllables, so words usually have fixed stress in a certain syllable, according to the habits of native speakers; although stress can sometimes be altered, clicking on a suitable syllable depends on the intention of the speaker or contexts. Vietnamese is an isolating language, though there are also many multi-syllables words, it is still a combination of monosyllabic elements, so stress is not studied much. But in Vietnamese language studies, Professor Cao Xuan Hao is a minority of people interested in the specific type of accent in Vietnamese. That is the word stress in the utterance.

Keywords: stress, polysyllabic, monosyllabic, Vietnamese, Cao Xuan Hao.

Trong tiếng Việt, các cặp hư từ “trongngoài”, “gần-xa”có một vị trí khá quan trọng trong việc cấu tạo thành ngữ. Khi tham gia vào cấu tạo các đơn vị này, chúng hoạt động như là một cái khung và nhờ có sự lấp đầy các yếu tố từ vựng, cái khung đó trở thành các tổ hợp đơn vị được cố định hóa và có tính hình tượng về nghĩa. Để có thể thấy được cách tri nhận không gian trong thành ngữ của người Việt, chúng ta sẽ lần lượt phân tích sự hoạt động của mỗi một cặp từ.

1. Cặp từ: Trong-ngoài

Xét các ví dụ

(1.1) Trong nhà ngoài ngõ

(1.2) Nói trong có kẻ nghe ngoài

(1.3) Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ biết đâu

(1.4) Chân trong chân ngoài

     Trước hết chúng ta có thể thấy rằng, trong – ngoài là cặp từ được sử dụng để cấu tạo thành ngữ theo phương pháp chêm, xen theo hai cách, như sau:

a. Trong A ngoài B { Các ví dụ (1.1), (1.2)}

b. A trong B ngoài { Ví dụ (1.3), (1.4) }

     Các giới từ “ trong” và “ngoài” ở các ví dụ trên vốn được phái sinh từ các danh từ chỉ không gian tương ứng. Khi tham gia vào cấu tạo thành ngữ, chúng biểu thị cách tri nhận của người Việt về các cách định hướng không gian khác nhau. Ta tạm chia 3 ví dụ trên thành 3 kiểu dạng:

     Dạng 1: Tri nhận không gian theo đối tượng định hướng.

     Đây là trường hợp của (1.1) và (1.2). Ở đây, đối tượng định hướng là phạm vi không gian của một cái nhà (có thể gồm cả vườn) theo sơ đồ dưới đây:

20240314

     Sở dĩ có sự tri nhận như vậy vì ngõ được hiểu là phạm vi không gian bên ngoài khoảng không gian của ngôi nhà và không gian vườn đất thuộc ngôi nhà đó. Ngõ ở đây là khoảng không gian liền kề nối thông từ không gian ngôi nhà và phần đất thuộc sở hữu với nó. Có thể là đằng trước, bên trái, bên phải, thậm chí đằng sau của vị trí nơi ngôi nhà tọa lạc (nhưng thông thường là phía trước).

     Trong câu trên, nhà là đối tượng định hướng. Nó có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tri nhận không gian. Tình hình sẽ khác đi đối với câu: “Trong xóm ngoài làng / thôn”. Lúc này “nhà” không còn là đối tượng định hướng nữa. Thay vào đó, đối tượng định hướng là một khoảng không gian bao gồm nhiều ngôi nhà liền nhau có quan hệ gần gũi với nhau trong đời sống thường nhật. Như vậy, có một sự khác biệt tinh tế cần lưu ý. Nếu trong trường hợp nhà mà không có người ở thì định hướng không gian trong-ngoài sẽ hoàn toàn bị vô hiệu hóa. Chẳng hạn, đối với một khu nhà mới xây chưa có người ở hoặc một khu nhà bỏ hoang thì không thể có ý niệm này. Như vậy, cái nét nghĩa “nhà có người ở” là rất quan trọng cho việc hình thành cách tri nhận không gian trong các thành ngữ vừa nêu. Đây cũng là nét nghĩa tạo nên phản ánh của cấu trúc nghĩa thuộc phạm trù không gian sang cấu trúc nghĩa thuộc phạm trù xã hội. Ta có các thành ngữ sau đây:

(1.2) Nói trong có kẻ nghe ngoài

(1.3) Nói trong có kẻ nghe ngoài

     Trong (1.2), “Nói trong” được tri nhận là nói trong phạm vi không gian của nhà, còn “nghe ngoài” thuộc phạm vi không gian bên ngoài nhà (a). Từ nghĩa này sẽ hình thành ra nghĩa phái sinh: Chuyện bí mật chỉ một vài người thân với nhau nhưng phải đề phòng người ngoài (không thuộc người trong nhóm) biết được (b). Như vậy, trong thành ngữ (1.2), ta thấy có hai ý nghĩa song song cùng tồn tại. Trong đó, ở nghĩa thứ nhất (a), sự định hướng không gian có thể nhận thấy khá rõ ràng, còn ở nghĩa thứ hai thì lại rất mờ nhạt. Thay vào sự định hướng không gian là việc xác lập mối quan hệ giữa người nói với người nghe. Cụ thể là trong trường hợp (b), người nói và người nghe được hiểu là người trong cuộc. Tình hình này cho phép ta phân xuất nghĩa của thành ngữ (1.3). Với thành ngữ này, ta cũng có hai ý nghĩa tương tự như (1.2). Tuy nhiên, xét về nét nghĩa nổi trội, thì (b) lại nổi trội hơn (a), nghĩa là, ở đây sự định hướng không gian trở nên mờ nhạt, còn nghĩa “quan hệ” lại dễ nhận ra.

     Như thế, con đường đi từ (1.1) đến 1.3) là con đường trừu tượng hóa ý nghĩa không gian trong sự tưởng tượng của cộng đồng ngôn ngữ.Cách trừu tượng hóa này ta cũng gặp trong việc cấu tạo từ của tiếng Việt. Như ta đã biết, người Việt có cách xưng hô rất đặc biệt mà ở các ngôn ngữ khác không có. Chẳng hạn, từ “nhà tôi”. Theo nghĩa chung nhất, “nhà tôi” được hiểu là “cái nhà của tôi”, nơi tôi sinh sống hoặc có quyền sở hữu nó. Theo nghĩa này, “nhà” là một sự vật có độ rỗng, có mái che bằng rơm, rạ, ngói, tôn, hay bê tông…có thể cho con người sinh sống và làm việc trong đó. Ngoài ý nghĩa này (a), “nhà tôi” còn có nghĩa chỉ “người vợ” hoặc “người chồng” (b). Với nhiều ngôn ngữ khác, ý nghĩa (b) hoàn toàn không có. Ta thử so sánh:

Ngôn ngữ                       (a)                                 (b)

Tiếng Việt               nhà tôi vợ/chồng               tôi

Tiếng Anh               my house                           ( – )

Tiếng Nga               moi dom                            ( – )

Tiếng Pháp             ma maison                        ( – )

Tiếng Trung            我家                                    ( – )

     Sự khác biệt này trước hết nằm ở cách tri nhận về mối quan hệ giữa con người và không gian, nói khái quát là cách tri nhận không gian. Với các ngôn ngữ kiểu tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Pháp như vừa nêu, “nhà” được tri nhận là một sự vật thuần túy, còn với tiếng Việt, ngoài nghĩa cơ bản này, nó còn được tri nhận là một khoảng không gian đặc biệt, trong đó vợ chồng chung sống, gắn bó với nhau đến trọn đời. Sự gắn bó này khiến hai người như một và họ hòa vào không gian ấy. Không gian trở thành kẻ đại diện, và mang thêm cái vỏ ngữ nghĩa là “người vợ” hoặc “người chồng” như người ta vẫn thường giao tiếp trong khẩu ngữ. Ở đây cần nói thêm, cách dùng “nhà tôi” với nghĩa là vợ/hay chồng chỉ được dùng trong phong cách khẩu ngữ sinh hoạt và trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật chứ không được dùng trong các phong cách khác như phong cách hành chính – công vụ, phong cách khoa học… chính là vì nó còn mang dấu ấn của nhận thức ngây thơ- một phương pháp tri nhận cổ xưa của người Việt. Nó cũng là một phương thức tư duy tạo nên đặc trưng văn hóa, được gọi là văn hóa trọng tình của người Việt Nam.

     Nếu mô hình hóa bản đồ tri nhận về ngữ nghĩa của trong và ngoài, ta sẽ có hiện tượng đẳng nhất nghĩa như sau: 

trong -> quan trọng, thân tình

ngoài ->  không quan trọng, không thân tình

     Dạng 2. Tri nhận không gian theo đường phân cắt

     Đây là kiểu định hướng không gian thuộc (1.4). Ta giả dụ có một tình huống là, một người đang bước lên ô tô. Một chân anh ta đã bước vào xe, còn một chân vẫn đứng ở ngoài xe. Khi đó lái xe sẽ bảo: “Nào, đi thì vào hẳn đi, sao cứ chân trong chân ngoài mãi thế”. Tương tự như vậy, một vị khách đến chơi nhà khi đã bước một chân vào nhà nhưng còn do dự chưa quyết định có nên vào hay không thì chủ nhà nói: “Kìa, vào hẳn đi, sao cứ chân trong chân ngoài như thế”.Có thể hình dung theo sơ đồ sau:

20240314 2

     Theo cách tri nhận này thì “trong – ngoài” được định hướng theo đường phân cắt ranh giới giữa hai khoảng không gian: một bên là khoảng không gian phía trong xe/ hay (trong nhà) và một bên là khoảng không gian bên ngoài được phân cắt bởi đường bậu cửa.

     Khi một người nào đó ở trong tư thế “chân trong chân ngoài” có nghĩa là anh ta ở trong tư thế chưa dứt khoát và do đó cũng là tư thế “không ổn định”. Đây chính là cơ sở làm nên nghĩa hình tượng của câu thành ngữ (1.4). Câu này có nghĩa là, một người chỉ dành một nửa tâm huyết của mình cho công việc chính, còn một nửa thì làm việc cho nơi khác.

     Dựa vào đường phân cắt để định hướng không gian có thể được xem là một kiểu tư duy khá phổ biến trong một số thành ngữ tiếng Việt. Theo cách này, ta có thành ngữ “ Trong chán, ngoài thèm”, “Trong Nam ngoài Bắc”. Ở đây, sự tri nhận không gian được hình thành dựa theo đường phân cắt ranh giới giữa hai vùng không gian rộng thuộc lãnh thổ quốc gia:

     Phần không gian địa lý từ vĩ tuyến 17 trở lên được gọi là “ngoài”, phần không gian địa lý từ vĩ tuyến 17 trở xuống gọi là “trong”. Đây là đường phân cắt giới tuyến tạm thời giữa hai miền Nam Bắc theo Hiệp nghị Giơnevơ 1954. Nếu ngược thời gian về quá khứ, có thể nhận thấy cách tri nhận này liên quan đến cách tri nhận hình thành từ các thế kỷ trước đó. Cụ thể là, cách nói: “Đàng Trong-Đàng Ngoài” vốn là cách nói được dùng khá quen thuộc từ đời Nguyễn. Theo cách này, “Đàng Trong” được hiểu là khoảng không gian địa lý từ sông Gianh trở vào, còn “Đàng Ngoài” được hiểu là khoảng không gian địa lý từ sông Gianh trở ra. Đây là con sông được chọn làm ranh giới phân cắt địa giới giữa chúa Nguyễn ở trong Nam và vua Lê ở ngoài Bắc.

     Trong tiếng Hán cũng có các thành ngữ kiểu này với kết cấu giống nhau, nhưng về số lượng thì ít, ngữ nghĩa cũng hơi khác. Ví dụ: 皮里膜外 (phiên âm tiếng Hán “Bì lí mạc ngoại”), không được lý giải theo nghĩa đen, mà có nghĩa bóng là hiểu biết nông cạn chỉ thiên về bề mặt thôi, không đi sâu vào nghiên cứu được. Ở đây, da và mạc là hai đối tượng dùng để định hướng và so sánh, khác với nhà và ngõ giữ chức năng ngữ nghĩa khác trong thành ngữ “trong nhà ngoài ngõ”.

     Tương đương với “chân trong chân ngoài”, trong thành ngữ tiếng Hán có 一脚门里,一脚门外(phiên âm tiếng Hán “Nhất cước môn lý, nhất cước môn ngoại”) đối ứng với tri nhận không gian theo đường phân cắt.

     Ngoài ra, trong thành ngữ tiếng Hán còn có một số loại hình cấu trúc ngữ nghĩa khác, như 里外夹攻(phiên âm tiếng Hán “Lý ngoại gia công”) có nghĩa là lực lượng bên trong và bên ngoài hiệp đồng tác chiến. Ở đây, khái niệm trong và ngoài được lý giải thành một khối.

    里应外合 (phiên âm tiếng Hán “Lý ứng ngoại hợp”) là một thành ngữ diễn đạt phương châm chiến thuật nội công ngoại kích, trong ngoài phối hợp. Kiểu cấu trúc nghĩa của hai thành ngữ này là tri nhận không gian theo hai chiều cùng hướng vào một vật chuẩn tắc.

     吃里爬外 (phiên âm tiếng Hán “Ngật lý bà ngoại”) không được lý giải theo mặt chữ nghĩa, mà hiểu theo nghĩa bóng là ăn cây táo rào cây sung. Ở đây, khái niệm không gian trong và ngoài được nguời ta biểu đạt ý nghĩa đã được trừu tượng hoá một cách tương phản.

     墙里开花墙外香 (phiên âm tiếng Hán “Tường lý khai hoa tường ngoại hương”) miêu tả một người nào đó làm ra thành tựu đáng kể nhưng không được nội bộ công nhận mà được người ngoài cuộc mến phục và khen thưởng. Kiểu cấu trúc nghĩa của thành ngữ này là cách tri nhận không gian một chiều là từ A (trong) đến B (ngoài).

     2. Cặp từ: Gần-xa

     Trong các thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, “gần” và “xa” được tri nhận là những khoảng cách không gian mang ý nghĩa tương đối, không đo đếm được chính xác. Nó dùng để biểu thị sự ước lượng có tính cảm tính của người nói về mối quan hệ giữa các sự vật theo hệ toạ độ dùng cho việc định hướng không gian là mặt đất hay mặt nước. Ta có thể hình dung cách tri nhận khoảng cách xa-gần theo sơ đồ dưới đây:

20240314 3

     Theo sơ đồ này, vật chuẩn tắc để định hướng không gian là A. “Gần” và “xa” là khoảng cách không gian được tri nhận theo quan hệ giữa đối tượng được nói tới đối với vật chuẩn tắc. Đường của mũi tên liền mạch chỉ vị trí của vật được nói tới sẽ theo hướng xa dần vật chuẩn tắc, đường của mũi tên đứt đoạn thì theo hướng ngược lại. Cụ thể, trong sơ đồ, B được coi là gần, C được coi là xa thì D được gọi là “tương đối xa” hay “tương đối gần”. Trong tiếng Việt có khá nhiều thành ngữ, tục ngữ có chứa các từ “gần” và “xa” với ý nghĩa chỉ không gian. Để minh hoạ cho cách tri nhận của người Việt về khoảng cách không gian trong thành ngữ, ta sẽ phân tích một số ví dụ sau đây:

(2.1) Đi xa về gần

(2.2) Gần nhà xa ngõ

(2.3) Bán anh em xa mua láng giềng gần

(2.4) Gần đất xa trời

     Trong các ví dụ vừa dẫn, lại có một trường hợp khá đặc biệt là (2.4). Đây là thành ngữ sử dụng cặp từ “xa-gần” nhưng lại biểu thị khoảng không gian theo chiều thẳng đứng. Tất cả các thành ngữ còn lại đều sử dụng các từ chỉ không gian theo cách thông thường (theo chiều ngang). Đến đây chúng ta sẽ xem từng trường hợp cụ thể một.

     Trước hết, ta xem xét thành ngữ (2.1). Đây là thành ngữ được sử dụng trong chăn nuôi. Ở nhiều nơi thuộc vùng đồng bằng Bắc bộ, mỗi khi người ta mua một đôi/hay một đàn gà ở chợ về nuôi, chủ nhà thường túm lấy chân của đàn gà quay vòng quanh cột hoặc quanh một cái cây nào đó gần chuồng(chẳng hạn cây cau) rồi nói “Đi xa về gần, đi xa về gần…”. Câu nói có ngụ ý rằng, đàn gà mới khi đi kiếm ăn xa đến đâu cũng nhớ đường về chuồng. Ngoài ra, trong dân gian còn có cách tri nhận: Khi đi, vì chưa biết nên có cảm giác đường xa; nhưng lúc trở về do biết rồi nên có cảm giác là đường gần. Câu thành ngữ này về sau còn được sử dụng trong thời gian chiến tranh để chúc những người ra trận với mong ước: người ra đi tránh được hòn tên mũi đạn và sống sót trở về.

     Như vậy, ý nghĩa ban đầu của thành ngữ này là ý nghĩa được tri nhận theo cách định hướng không gian. Theo đó, đối tượng định hướng không gian hay còn gọi là vật chuẩn tắc chính là cái chuồng gà, còn “xa” và “gần” là khoảng cách không gian mà con gà sẽ vận động.

     Như vậy, khi tri nhận không gian dưới ý niệm “xa” và “gần”, bao giờ trong ý nghĩ của người nói cũng hình thành một vật chuẩn tắc. Đó chính là tiêu điểm để xác định khoảng cách không gian. Chẳng hạn, ở (2.2),vật chuẩn tắc được hình dung là “nhà” của người nói và “nhà” của người nghe/hoặc của một ai khác được nhắc tới trong câu chuyện. Giả dụ, có 3 tình huống sau đây:

Tình huống 1: (A điện thoại cho B)

A: – Tối nay anh tranh thủ sang tôi hội ý một tý.

B: – Ngại lắm. Gần nhà xa ngõ, thôi để đến mai.

Tình huống 2: ( A và B đang nói điện thoại)

A: – Tiện đường đến nhà cái Tú, anh ghé qua nhà tôi ta cùng bàn việc.

B: – Tú với anh tuy gần nhà nhưng xa ngõ. Hay ta cùng đến cơ quan.

Tình huống 3: ( A nhờ B )

A: Hôm nay anh qua chỗ ông Khang, tiện đưa giúp tôi cuốn tạp chí này cho ông Thắng nhé.

B: Không được đâu. Gần nhà xa ngõ, lỡ thời gian của tôi thì chết.

     Sự khác biệt rất dễ nhận thấy ở 3 ví dụ vừa nêu là, trong tình huống 1, vật chuẩn tắc được hình dung là nhà của A hoặc nhà của B(của người trong cuộc). Trong tình huống 2, vật chuẩn được hình dung là nhà của A hoặc nhà của một người khác ngoài câu chuyện (nhà của Tú). Trong tình huống 3, vật chuẩn không phải là nhà của A cũng không phải nhà của B mà là nhà của những người ngoài câu chuyện (nhà của ông Khang và ông Thắng).

     Theo cách hình dung không gian dựa trên một tiêu điểm nhất định hay một vật chuẩn như vậy thì, với người Việt Nam, “gần” bao giờ cũng có vai trò rất quan trọng. Cho nên, từ xa xưa cha ông ta đã quan niệm, trong cuộc sống hàng ngày, người gắn bó chia sẻ với ta không phải ai khác, chính là những người xung quanh mình mà ta quen gọi là “hàng xóm” hay “láng giềng”. Đây là mối quan hệ có ý nghĩa thân thiết có khi còn hơn cả anh em ruột thịt. Chính vì vậy mới có câu thành ngữ (2.3). Tuy nội dung ý nghĩa của nó là nghĩa bóng, nhưng ta vẫn có thể giải thích được con đường hình thành cấu trúc nghĩa của nó nhờ việc xem xét cách biểu đạt không gian trong thành ngữ này. “Anh em xa” ở đây được hiểu là “anh em sống ở xa”( cũng có người hiểu nhầm là “anh em có quan hệ huyết tộc xa”), “Láng giềng gần”được hiểu là người sống ở ngay cạnh nhà mình”. Lúc này, người hàng xóm quan trọng hơn anh em là vì mỗi khi có những công việc cần hỗ trợ, giúp đỡ thì người hàng xóm có thể có mặt ngay lập tức trong khi anh em ở xa không có điều kiện đến được.

     Quan niệm không gian gần gũi kiểu “hàng xóm láng giềng” chính là một nét đẹp trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Mở rộng hơn về tầm nhìn, người Việt Nam còn có ý niệm “hàng xóm láng giềng” ở mức vĩ mô: Hai nước gần nhau cũng gọi là quan hệ láng giềng. Việc mở rộng nghĩa như vậy chính là quá trình thay đổi đối tượng định vị không gian từ “nhà” sang “nước”.

     Chính vì “gần” là một khoảng cách không gian rất được coi trọng trong ý thức người Việt nên trong thành ngữ hiện đại ta bắt gặp các câu thành ngữ kiểu “Nhất cự ly, nhì cường độ”. Trường hợp (2.4) là một trường hợp khá đặc biệt. Ở đây “gần” và “xa” không được định hướng theo chiều ngang mà theo chiều thẳng đứng. Tại sao lại có sự kiện gần như vô lý: Ta đi/sống trên mặt đất, nghĩa là rất gần với đất mà lại nói “gần đất, xa trời”? Có lối nói này là vì ở đây xuất hiện một cách hình dung không gian theo kiểu khác. Cụ thể, ta hình dung, khoảng cách giữa mặt đất và “trời” là một khoảng cách ổn định, trong đó con người ta sống và tồn tại. Giả dụ, khi một người có biểu hiện “gần đất xa trời” là người đó ở trong tình trạng sẽ không duy trì được khoảng cách này nữa. Nghĩa là anh ta sắp phải xa trời hơn. “trời” theo tư duy dân gian là mặt cong hình chiếc vung úp lên mặt đất. Do đó, “xa trời” được hình dung theo chiều thẳng đứng cùng với cơ thể người.

     Một người chết, theo truyền thống bao giờ cũng phải mai táng/chôn xuống đất. Người xưa quan niệm, sống trên đời chỉ là tạm bợ. Chỉ khi chết về với đất mới là vĩnh cửu. Vậy là, ở đây xuất hiện một đối tượng dùng để định vị không gian, đó là “lòng đất”/dưới đất. Khi một người nào sắp xuống lòng đất là anh ta về gần với đất, cũng có nghĩa là xa dần trời. Cho nên, “gần đất xa trời” là thành ngữ được dùng trong sự kiêng kỵ nói về cái chết theo lối uyển ngữ. Ý nghĩa không gian được xem là cơ sở để hình thành nên nghĩa bóng của thành ngữ này. Ta có thể mô hình hóa quá trình “lan tỏa” ý nghĩa của các từ gần, xa như sau:

Gần, xa (Khoảng cách không gian) -> lan tỏa ý nghĩa gần, xa ( mức độ tình cảm, tầm vóc trí tuệ)

Vd: Gần nhà xa ngõ (Khoảng cách không gian)

     Bán anh em xa mua láng giếng gần, Nhìn xa trông rộng (mức độ tình cảm, tầm vóc trí tuệ) 

     Trong cách nhận thức của người Việt, gần còn có nghĩa là “mạnh”, là “quan trọng”; xa còn có nghĩa là “yếu”, là “mất mát”. Vì thế, có các câu thành ngữ, ca dao kiểu như sau:

– Nhất cận thị, nhị cận giang

– Quan thì xa, bản nha thì gần

– Nước xa không cứu được lửa gần.

Con gái mà lấy chồng gần

Có bát canh cần mẹ để dành cho.

Con gái mà lấy chồng xa

Trước là mất giỗ sau là mất con…

     Trong tiếng Hán, chúng ta gặp các thành ngữ kiểu như vậy.Ví dụ: -远亲不如近邻 (Phiên âm tiếng Hán “Viễn thân bất như cận lân”) giống với “Bán anh em xa mua láng giềng gần”, nhưng về mặt ngữ nghĩa thì nhẹ hơn. -远水不救近火(Phiên âm tiếng Hán “Viễn thuỷ bất cứu cận hoả”) hoàn toàn giống với “nước xa không cứu được lửa gần”. Ngoài ra trong thành ngữ tiếng Hán còn có một thành ngữ khác với ngữ nghĩa giống nhau như远水不解近渴Viễn thuỷ bất giải cận khát (Nước xa không đỡ khát nước). Trong tiếng Hán thì không có thành ngữ nào đối ứng với “gần đất xa trời” để miêu tả trạng thái một người sắp qua đời bằng lối uyển ngữ.

      Chúng tôi phải lưu ý đến một hiện tương biểu thị không gian so sánh đối chiếu với khái niệm “xa” và “gần”. Ví dụ như 舍近求远 (phiên âm tiếng Hán “Xả cận cầu viễn”), 远交近攻 (phiên âm tiếng Hán “Viễn giao cận công”),v.v

     Bên cạnh đó, trong tiếng Hán còn có một loại thành ngữ khác, 远在天边,近在眼前(phiên âm tiếng Hán “Viễn tại thiên biên, cận tại nhãn tiền”) hình dung những sự vật hoặc người mà mình đang tìm ngay ở trước mắt. Ở đây, vất chuẩn tắc hình như rơi vào cách tri nhận không gian xa xôi, nhấn mạnh ý nghĩa khoảng cách gần với đối tượng.

Tác giả bài viết: Hữu Đạt1Phùng Siêu2
(1Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN)
(2Trường Đại học SISU Trung Quốc)

Nguồn: Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 29, Số 2 (2013) 1-9

--------

Tài liệu tham khảo

     [1] M.D.Akhundov (1982), Konsepsjii prostranstva ivremeni, Istoki. Evoliusjii, perspektivư, M.

     [2] N.M.Sanskjii (1963), Phrazeologija sovremennogo russkogo jazưka, Vưssaja skola, M.

     [3] Mahesh Srinivasan, Do classifiers predit differences in cognitive processing? A stuy of nominal classification in Mandarin Chinese, Language and Cognition 2-2 (2010), DOI 10.1515/LANGCOG. 2010.007.

     [4] Lawrence J. Taylor and Rolf A. Zwaan (2009), Action in cognition: The case of language, Language and Cognition 1-1 (2009), DOI 10.1515/LANGCOG. 2009.003.

     [5] Nguyễn Đăng Cơ (2007), Ngôn ngữ học tri nhận (ghi chép và suy nghĩ), Nxb KHXH.

     [6] Nguyễn Đức Dân (2009), Tri nhận thời gian trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 12.

     [7] Hữu Đạt (2007), Thử áp dụng lý thuyết ngôn ngữ học tri nhận vào việc phân tích nhóm từ chỉ sự vận động “rời chỗ” trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 11.

     [8] Hữu Đạt (2007), Nghĩa biểu vật, biểu niệm của từ và việc phân tích chúng…,Tạp chí ĐHQG HN, số 1.

     [9] Hữu Đạt (2010), Sự hình dung không gian trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1.

     [10] Hữu Đạt (2011), Con đường tạo nghĩa của các thành ngữ liên quan đến văn hóa ăn và văn hóa mặc trong tiếng Việt, Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội, số 1.

     [11] Nguyễn Lai (2001), Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt hiện đại. Nxb KHXH, Cứ liệu về từ vựng-ngữ nghĩa tiếng Việt và mối quan hệ không gian- thời gian trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3.

     [12] Lý Toàn Thắng (2006), Ngôn ngữ học tri nhận Từ lý thuyết đến thực tiễn, Nxb KHXH.

     [13] Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy người Việt ( trong sự so sánh với các dân tộc khác), Nxb ĐHQG Hà Nội.

     [14] Từ điển thành ngữ Việt Nam(1994), Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành, Nxb VHTT.

     [15] Từ điển tiếng Việt thông dụng (1995), Nguyễn Như Ý, Nguyễn Văn Khang…, NxbGD

      [16] 唐雪凝、许浩:《现代汉语常用成语的语义认知研究》,北京:社会科学文献出版社,2010年版。

     [17] StephenC.Levinson:《语言与认知的空间:认知多样性探索》,北京:世界图书出版公司,2008年版。

     [18] 王涛等编著:《中国成语大辞典》,上海辞书出版社,1996版。

 

TÓM TẮT

     Trong tiếng Việt và tiếng Hán, cặp từ “gần-xa” và “trong-ngoài” có một vị trí khá quan trọng trong việc tạo ra các đơn vị thành ngữ. Tuy nhiên, khi hoạt động với vai trò là “cái khung” của loại đơn vị này, ở mỗi ngôn ngữ, các cặp từ này lại biểu thị cách tri nhận khác nhau về không gian. Để có thể thấy được những đặc điểm nổi bật về cách tri nhận không gian qua ngôn ngữ, bài báo tiến hành miêu tả và phân tích so sánh những điểm giống nhau và khác biệt trong việc sử dụng các cặp này của người Hán và người Việt . Từ các kết quả phân tích, bài báo chỉ ra mối quan hệ gần gũi giữa tiếng Việt và tiếng Hán cũng như những khác biệt mang tính bản sắc của tư duy dân tộc.

Từ khóa: khung, tri nhận, thành ngữ, không gian, quan hệ, bản sắc.

20210715 4

LGT: Vào thời điểm trước khi chữ Quốc ngữ ra đời ở Việt Nam, tình hình thế giới, trong nước có nhiều biến chuyển; nổi bật lên và có tác động đến sự ra đời của chữ Quốc ngữ là vấn đề thương mại, truyền giáo. Sang thế kỷ XVII, quá trình Latin hóa tiếng Việt diễn ra mạnh mẽ và chữ Quốc ngữ chính thức ra đời. Trong quá trình đó, các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha đóng một vai trò quan trọng, công lao nổi bật nhất thuộc về giáo sĩ Francisco de Pina (1585 - 1625), Gaspar de Amaral (1594 - 1645) và Antonio Barbosa (1594 - 1647). Bên cạnh đó, các yếu tố thương mại, truyền giáo của người Bồ và chữ Bồ Đào Nha cũng góp phần cho việc ra đời chữ Quốc ngữ ở Việt Nam.

 

1. Chữ Quốc ngữ ra đời trong thời kỳ lịch sử nhiều biến động

Quá trình truyền giáo tại Việt Nam bắt đầu từ thế kỷ XVI mà mốc khởi điểm được cho là năm 1523 khi Duarte Coelho (người Bồ Đào Nha) đến Cù Lao Chàm và để lại ở gần làng chài Tân Hiệp một cây thập tự cùng một tảng đá có khắc tên. Năm 1533, giáo sĩ Ignatio đến Ninh Cường, Quần Anh, Trà Lũ (Nam Định) truyền giáo. Sau đó có một số giáo sĩ Dòng Đa Minh (Dominicain), Dòng Phanxicô (Francisco) đến truyền giáo. Tuy vậy, phải đến thế kỷ XVII, khi giáo sĩ Dòng Tên đến thì sự thâm nhập của đức tin Kitô tại Việt Nam mới diễn ra nhanh hơn.

Tình hình chính trị Việt Nam vào cuối thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII diễn biến phức tạp. Chính quyền trung ương tập quyền tan rã, hình thành ba thế lực nắm quyền là chúa Nguyễn (Đàng Trong), vua Lê - chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và nhà Mạc (Cao Bằng); trong đó Đàng Trong và Đàng Ngoài là hai vùng quan trọng trong hoạt động thương mại và truyền giáo. Nhằm tăng cường khả năng quân sự và phát triển kinh tế đất nước, cả chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều tiếp nhận trao đổi buôn bán với thương gia phương Tây. Tuy nhiên, để có cơ hội buôn bán với thương nhân nước ngoài thì họ buộc phải “làm ngơ” cho các giáo sĩ truyền giáo. Điều này tạo nên sự truyền giáo mạnh mẽ vào Đàng Trong, tiếp đó là Đàng Ngoài, mà người Bồ Đào Nha chiếm đa số.

Trong quá trình truyền giáo tại Việt Nam, vấn đề khách quan đặt ra là các giáo sĩ phải biết tiếng Việt hoặc chữ Hán. Trong lúc đó, chữ Hán được đánh giá là khó học và mất nhiều thời gian. Như vậy, một con đường khác mà các giáo sĩ Dòng Tên trong buổi đầu có mặt ở Việt Nam phải làm là học tiếng Việt. Trong quá trình đó, họ đã Latin hóa tiếng Việt.

Việc Latin hóa tiếng Việt đã sẵn có các tiền đề. Thời bấy giờ, ở phương Tây đang diễn ra một “thời đại”  các quốc gia tự khẳng định tiếng nói của dân tộc mình để loại bỏ sự thống trị của tiếng Latin. Các nhà ngữ pháp và chính tả Bồ Đào Nha ở thế kỷ XVI, như João de Barros, Péro de Maglhães de Gândavo hay Duarte Nunes do Leão, đã giúp cho tiếng nói dân gian trở thành một phương tiện chuyển tải tư tưởng. Muốn như thế, cần phải làm một số việc, trong đó có việc phân tích tỉ mỉ và tìm chữ viết cho tiếng nói này. Việc viết tiếng Việt theo mẫu tự Latin nối tiếp đường hướng đó 1.

Vào nửa sau thế kỷ XVI đến trước khi giáo sĩ Dòng Tên đến Đàng Trong (năm 1615), việc Latin hóa tiếng Việt đã bắt đầu manh nha qua việc người Bồ Đào Nha và người Tây Ban Nha Latin hóa các địa danh của Việt Nam, nhất là các địa danh được người Bồ Đào Nha ghi lên bản đồ hàng hải của mình 2.

Việc làm này của các giáo sĩ phù hợp với chủ trương chung của Giáo hội ở Rome. Đoạn trích sau từ chỉ thị của Giám mục Francesco Ingoli - thư ký của Thánh bộ Truyền giáo ở Rome sẽ minh chứng cho điều đó: “[Cha tìm hiểu] về ngôn ngữ mà các dân tộc ấy dùng để nói; nếu có nhiều ngôn ngữ, thì hãy đặc biệt ghi lại ngôn ngữ nào được sử dụng nhiều nhất... Cha tìm hiểu về chữ mà họ dùng để viết; về các chữ này, cha tìm cách hỏi những văn sĩ ưu tú mà cha gặp được, để ghi lại một bảng chữ cái, kể cả những dấu nối và dấu phân câu mà họ dùng; cha cũng chú ý ghi lại bằng mẫu tự La Tinh tương ứng, với cách phát âm, để ta có thể so sánh…3.

Trong bối cảnh đó, các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha đã đi tiên phong trong việc Latin hóa Tiếng Việt, hình thành nên chữ Quốc ngữ ở Việt Nam vào thế kỷ XVII.

 

2. Người Bồ Đào Nha với sự ra đời chữ Quốc ngữ ở Việt Nam

Bồ Đào Nha là nước phương Tây đến buôn bán, truyền giáo ở Đàng Trong sớm và mạnh nhất. Chính sự bảo trợ của Bồ Đào Nha trong truyền giáo, lợi ích từ thương mại và nhu cầu trao đổi hàng hóa (đặc biệt là vũ khí) từ Bồ Đào Nha của cả Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đã tạo điều kiện cho các giáo sĩ Dòng Tên có khoảng thời gian dài ở Việt Nam để truyền đạo cũng như học tập, trau dồi vốn từ vựng, ngữ pháp tiếng Việt; từ đó sáng tạo ra chữ Quốc ngữ. Hay nói cách khác, thương mại và truyền giáo là con đường đưa tới sự hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam mà người Bồ Đào Nha đóng vai trò chủ đạo. Cũng nhờ quá trình truyền giáo và thương mại có phần ổn định mà “công cuộc” Latin hóa tiếng Việt thành công.

2.2. Những đóng góp từ các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha

Những giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha là những người đi tiên phong trong lĩnh việc sáng tạo chữ Quốc ngữ ở Việt Nam mà người đặt nền móng đầu tiên là giáo sĩ Francisco de Pina (1585 - 1625).

Francisco de Pina sinh năm 1585 ở Guarda, Beira Alta (Bồ), gia nhập Dòng Tên năm 1605. Năm 1608, ông được chỉ định sang Nhật truyền giáo, rồi học thần học ở Macao (năm 1615 - 1616). Ông được thụ phong linh mục năm 1616 tại Malacca. Sang năm 1617, ông đến Đàng Trong và hoạt động tại đây cho đến khi mất vào ngày 15/12/1625.

Trong khoảng thời gian ở Đàng Trong, ông học tiếng Việt; sau đó trở thành giáo sĩ giỏi tiếng Việt nhất vào thời điểm bấy giờ và góp công đầu trong quá trình hình thành chữ Quốc ngữ. Dấu mốc quan trọng nhất là vào năm 1618, Francisco de Pina và một thanh niên học thức Việt Nam dịch ra tiếng Việt cuốn Kinh Lạy Cha cùng với một số kinh căn bản khác trong giáo lý Công giáo. Điều đáng tiếc là không bản dịch nào của các kinh ấy đến tay chúng ta, ngoại trừ đoạn dịch sáu từ đầu tiên của Kinh Lạy Cha được ghi ra như một ví dụ văn phạm trong cuốn Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes. Tuy vậy, Kinh Lạy Cha được sao lại vào năm 1632 trong tài liệu ngôn ngữ học Nhật - Hoa - Việt, tại Áo Môn. Trong phần chuyên khảo về Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, GS. Roland Jacques đã có dịp giới thiệu tư liệu này và kèm theo phụ trương văn bản tiếng Việt “Le Pater Noster” (Kinh Lạy Cha). Đây là tư liệu rất quý giá, cho thấy sự bắt đầu chữ Quốc ngữ là năm 1618, sớm hơn 2 năm so với quan điểm của Đỗ Quang Chính (1620). Đồng thời khẳng định công lao to lớn của Francisco de Pina và cả một số người Việt (tiếc là không được đề cập tên cụ thể).

20210715 5

20210715 6

Một đoạn Kinh Lạy Cha được in trong phụ trương V của cuốn Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam.

(Nguồn: Roland Jacques (2004), Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, quyển 1, Định Hướng tùng thư, tr. 331-332).

 

Năm 1620 các giáo sĩ Dòng Tên tại Hội An soạn thảo một sách giáo lý bằng “chữ Đàng Trong”, tức là chữ Nôm. Tác giả Đỗ Quang Chính đưa ra phỏng đoán rằng: “Nhưng chúng tôi tưởng cuốn này cũng được viết bằng chữ Việt mới nữa (chữ Quốc ngữ ngày nay), mà người có công soạn thảo là Linh mục Francisco Pina vì lúc đó chỉ có ông là người Âu châu thạo tiếng Việt nhất4. Cho đến nay vẫn chưa có bằng chứng cụ thể minh chứng cho giả thiết này. Nhưng có một điều có thể khẳng định là Francisco de Pina có tham gia vào quá trình soạn thảo hoặc góp ý cho sách giáo lý bằng chữ Nôm này, vì ông là người giỏi tiếng Việt nhất và là linh mục khá được trọng vọng trong giới giáo sĩ ở Hội An thời điểm đó.

Khoảng thời gian năm 1622 - 1623 đánh một dấu mốc quan trọng nữa trong quá trình hình thành chữ Quốc ngữ. Trong thư Francisco de Pina viết vào thời gian này đã nhắc đến việc ông soạn sách chữ Quốc ngữ: “Phần con, đã soạn thành một tập nhỏ về chính tả và các dấu thinh của tiếng này [Việt], và con đang bắt tay vào việc soạn ngữ pháp. Dù con đã thu thập được nhiều truyện thuộc các loại khác nhau giúp cho những trích dẫn thêm giá trị, hầu xác quyết được ý nghĩa của từ ngữ và quy luật ngữ pháp” 5. Như thế, ông đã soạn chính tả và cả ngữ pháp chữ Quốc ngữ. Tuy tài liệu này hiện không còn nhưng đã được Alexandre de Rhodes kế thừa trong cuốn Từ điển Việt - Bồ - La vào năm 1651.

Ngoài ra, Francisco de Pina còn dạy tiếng Việt cho Alexandre de Rhodes và Antonio de Fontes. Thư của Gabriel de Matos viết vào năm 1626 đã cho thấy điều đó: “Cư sở thứ ba tại ‘thủ phủ’ quan ‘trấn thủ’, nơi mà lúc này tôi [đang tạm trú], có ba Linh mục định cư: L.m. Francisco de Pina biết tiếng [Việt] khá lắm, làm bề trên và là giáo sư [dạy tiếng Việt], và các L.m. Đắc Lộ cùng Antonio de Fontes là thuộc viên và học viên6.

Với những công lao to lớn đó, Francisco de Pina xứng đáng được chúng ta tôn vinh là người đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời của chữ Quốc ngữ.

Sau những nỗ lực của Francisco de Pina, nhiều giáo sĩ Dòng Tên khác cũng đã ghi tên mình vào quá trình Latin hóa tiếng Việt và sáng tạo chữ Quốc ngữ. Có thể kể đến là các giáo sĩ Gaspar Luis, Francesco Buzomi, Antonio de Fontes, Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa, Girolanno Maiorica, Cristoforo Borri, Onofre Borges, Alexandre de Rhodes,… Trong đó, các giáo sĩ người Bồ Đào Nha có một vai trò quan trọng. Những đóng góp của họ được thể hiện trên hai phương diện: (1) viết một số chữ Quốc ngữ trong các bức thư hay bản tường trình gửi về Tòa thánh, Cha bề trên; (2) soạn từ điển tiếng Việt.

Như vậy, các giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha có những đóng góp tiên phong rất lớn trong việc hình thành chữ Quốc ngữ ở Việt Nam. Đáng tiếc là phần lớn những di sản của họ hiện nay không còn nhiều, một số trong đó được chúng ta biết đến gián tiếp thông qua nhiều nguồn tài liệu khác nhau. Tuy vậy vẫn có thể khẳng định một cách chắc chắn công lao to lớn của họ.

2.3. Chữ Bồ Đào Nha với sự ra đời chữ Quốc ngữ

Khi nói đến vấn đề này, cần phải bàn đến hai khía cạnh. Thứ nhất là các giáo sĩ (cũng chính là nhà ngôn ngữ học) dùng âm vị và quy tắc của tiếng Bồ Đào Nha để góp phần hình thành nên chữ Quốc ngữ ở Việt Nam. Điều này đã được GS. Roland Jacques khẳng định rất rõ trong công trình Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam của mình. Ông cho biết: “Muốn dựa trên ngữ âm Lantin để viết ba ngôn ngữ nêu trên (Hoa, Nhật và Việt), các nhà biên soạn xác định rằng mình tuân theo những quy tắc chính tả của tiếng Ý. Chỉ cần xem xét tài liệu thì sẽ thấy ngay rằng cách làm ấy là một cách làm bất thường, chỉ vì muốn chiều theo nhân cách của người nhận thôi: rất nhiều nét sửa chữa và nhiều điều bất hợp lý cho thấy rằng các quy tắc của Bồ Đào Nha là những quy tắc duy nhất mà người ta thường tuân theo7. Hay: “Có 23 âm đầu khác nhau trong các từ đơn âm tiếng Việt, được ghi lại trong văn bản này [tài liệu ngôn ngữ học đối chiếu Nhật - Hoa - Việt được biên soạn tại Áo Môn năm 1632] bằng những ký hiệu khác nhau; vì vậy, dù cho có vài sai sót trong phân tích, quả thật các âm ấy đã tương ứng với 25 âm đầu mà ta tìm thấy trong cuốn Từ điển 1651 [Từ điển Việt - Bồ - La của Alexandre de Rhodes] cho cùng số từ vựng ấy. Qua sự tương ứng đó, ta có thể đánh giá được ưu điểm là đã chọn chính tả Bồ Đào Nha làm hệ thống chính yếu cho cách viết tiếng Việt bằng chữ cái, vì xét về âm vị thì tiếng Bồ phong phú hơn nhiều so với tiếng Castillan (Tây Ban Nha) hay tiếng Ý8. Ở đây, việc Latin hóa tiếng Nhật chịu ảnh hưởng của tiếng Bồ Đào Nha nhiều hơn vì cách phát âm của tiếng Nhật có ít nhiều nét giống với tiếng Bồ.

Khía cạnh thứ hai là tiếng Bồ Đào Nha thời bấy giờ có một vị thế quan trọng ở nhiều nơi. Bởi vì từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XVII, Bồ Đào Nha có vai trò chính trị, thương mại tại Brazil, Ấn Độ, Mã Lai, Thái Lan, Campuchia, Việt Nam, Trung Hoa, Nhật Bản. Từ cuối thế kỷ XVI sang đầu thế kỷ XVII, tiếng Bồ Đào Nha được sử dụng ở những nơi trên do đoàn thương gia Bồ Đào Nha và giáo sĩ phương Tây. Các nhà truyền giáo dù là người Đức, Ý, Pháp, đã đến Việt Nam, Áo Môn, Nhật Bản… vào thế kỷ XVII thì cũng phải biết tiếng Bồ Đào Nha9 . Do đó mà ba cuốn từ điển do Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa và Alexandre de Rhodes soạn đều có mục tiếng Bồ Đào Nha.

Như thế, tiếng Bồ Đào Nha là tiền đề, là nhân tố quan trọng trong sự ra đời chữ Quốc ngữ.

 

3. Những lời kết

Trong công cuộc Latin hóa tiếng Việt để hình thành nên chữ Quốc ngữ, những giáo sĩ Dòng Tên người Bồ Đào Nha là những người đi tiên phong và có nhiều đóng góp to lớn. Đặc biệt là Francisco de Pina - người đặt nền móng đầu tiên cho công trình chữ Quốc ngữ và Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa đã tiếp nối công việc đó. Các công trình đó tuy hiện nay không còn sự hiện hữu nhiều nhưng đã được Alexandre de Rhodes kế thừa một cách xuất sắc. Nhìn một cách tổng quát và khách quan thì không thể đánh giá người khởi đầu (Francisco de Pina) có vai trò quan trọng hơn người kế thừa, tổng hợp (Alexandre de Rhodes). Như trước đây nhiều tác giả đề cao Alexandre de Rhodes quá mức cũng không phù hợp. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là hạ thấp Alexandre de Rhodes mà đề cao quá mức Francisco de Pina, mà chúng ta cần nhìn nhận đúng vai trò của Francisco de Pina - một người ghi dấu ấn khởi đầu của chữ Quốc ngữ từ năm 1618.

Lâu nay trong giới học giả Việt Nam chưa đánh giá, nhìn nhận đúng vị trí của chữ Bồ Đào Nha đối với sự xuất hiện chữ Quốc ngữ. Do đó mà cũng cần nhìn nhận cho thật chính xác các yếu tố tích cực trong tiếng Bồ Đào Nha được thể hiện trong chữ Quốc ngữ và vị thế của chữ này có tác động nhất định đối với sự ra đời chữ Quốc ngữ.

Chữ Quốc ngữ ra đời ở Việt Nam xuất phát từ bối cảnh lịch sử đặc biệt và sự nỗ lực của các giáo sĩ Dòng Tên. Tuy nhiên phải khẳng định rằng, chữ Quốc ngữ ra đời ở Việt Nam ban đầu là để phục vụ cho mục đích riêng của các giáo sĩ Dòng Tên chứ không phải để thay thế một thứ chữ đã ăn sâu bén rễ từ rất lâu ở Việt Nam (chữ Hán - Nôm). Và có muốn thay đổi đi nữa thì họ cũng không đủ sức để làm việc đó vì họ chỉ là những nhà truyền giáo, đem đức tin Kitô giáo đến với người Việt Nam chứ không phải là những người điều hành đất nước. Ban đầu, chữ Quốc ngữ chỉ tồn tại hạn chế trong giới Công giáo. Phải đến cuối thế kỷ XIX và sang nửa đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ trở nên phổ biến và phát triển mạnh trong bối cảnh lịch sử mới của Việt Nam.

Mai Văn Được

Nguồn: Tạp chí Sông hương, số đặc biệt41/06-2021, phiên bản trực tuyến ngày 01.7.2021.

---------------------

1. Roland Jacques (2004), Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Quyển 1, Định Hướng Tùng thư, tr. 235.

2. Xem thêm: Nguyễn Thị Vân Anh (2017), “Quá trình Latin hóa tiếng Việt và hình thành chữ Quốc ngữ thời kì đầu đến sách sổ sang chép các việc của Philiphê Bỉnh”, trong Chữ Quốc ngữ sự hình thành, phát triển và đóng góp vào văn hóa Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 21.

3. Roland Jacques (2004), Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Quyển 1, Sđd, tr. 195-196.

4. Đỗ Quang Chính (2008), Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 - 1659, Sđd, tr. 28.

5. Dẫn theo Đỗ Quang Chính (2008), Dòng Tên trong xã hội Đại Việt 1615 - 1773, Sđd, tr. 45-46.

6. Thư của Gabriel de Matos, giám sát các tu sĩ Dòng Tên ở Đàng Trong, viết tại Đàng Trong vào ngày 05/7/1626 gửi Linh mục Bề trên Cả Dòng Tên ở La Mã, viết bằng tiếng Bồ Đào Nha, ARSI, JS. 68, f. 17r. (Dẫn theo Đỗ Quang Chính (2008), Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 - 1659, Sđd, tr. 44-45).

7. Roland Jacques (2004), Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Quyển 1, Sđd, tr. 203.

8. Roland Jacques (2004), Các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và thời kỳ đầu của Giáo hội Công giáo Việt Nam, Quyển 1, Sđd, tr. 219 - 221.

9. Đỗ Quang Chính (2008), Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620 - 1659, Sđd, tr. 115-116.

Đọc lại câu văn này, bèn vỗ đùi cái đét rồi tủm tỉm cười: "Lạ gì thói đàn ông! Chẳng qua nhờ môi miệng, chim được cô ả tầm phơ thì cũng gỡ gạc chơi. Tội gì không! Phải xa vợ quanh nào thì anh nào chẳng giống anh nào? Vả lại có thiệt gì! Mỗi tháng mất năm hào để thuê nhà, đi giải phiền một lần cũng mất đến thế rồi. Mà lại lắm thứ lo. Đằng này vừa rẻ, vừa chắc chắn". Ông nhà văn Nguyễn Công Hoan nói "trúng tim đen" của nhiều đấng mày râu.

Về chữ nghĩa, cơn cớ gì từ ả lại xuất hiện? Ta hãy so sánh với đoạn ngắn trong một lá thư in trong tập “Hoàng hậu Nam Phương” qua một số tư liệu chưa công bố (NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh - 2023) của nhà sưu tầm Phạm Hy Tùng: "Bà Hoàng có gửi thư cho Ả, bà nói muốn về nước để thăm Ả và con kẻo nhớ quá nhưng sợ con không cho nên bà không dám… Còn Ả xin con trong giai đoạn này rất khó khăn nguy hiểm. Con nên thận trọng. Không nên săn bắn và chơi nhởi. Ả lấy làm lo quá. Con nên thương Ả" (tr.156). Ả là đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất hay ngôi thứ ba? Ả là danh từ riêng? Nếu không phải, vậy ả có nghĩa là gì?

Với câu hỏi này, tôi đồ rằng hầu hết những ai yêu thích “Truyện Kiều”, ngay lập tức nhớ đến câu: "Đầu lòng hai ả tố nga/ Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân"; hoặc thơ Hàn Mặc Tử có câu: "Tôi ưng ả thuyền quyên/ Cốt để dò xem ý lạ". Ả trong ngữ cảnh này là chỉ cô gái trẻ. Cách nói này trung tính, chỉ phản ánh những gì mắt thấy tai nghe, không bình phẩm, không thể hiện sự đánh giá chủ quan.

20240102 2Phụ nữ Việt thế kỷ XIX (ảnh tư liệu)

Thật ra, trong một câu thơ, một đoạn văn, ngay cả giao tiếp hằng ngày, tùy vào trường hợp cụ thể, ta sẽ thấy tác giả/ người nói cũng bộc lộ thái độ rõ ràng khi sử dụng từ ả cho nhân vật nào đó. Thí dụ, "Bên thì mấy ả mày ngài/ Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi", dù không hiểu "mày ngài" nghĩa là gì, Nguyễn Du sử dụng theo điển tích, điển cố gì nhưng một khi nó "đối xứng" với từ "làng chơi" đã cho thấy sự chung chạ, đàn đúm của một nhóm người không đàng hoàng, đứng đắn cũng là loại "Mèo mả gà đồng". Từ ả ở đây ta hiểu là "Nói những đàn bà con gái không có giá trị" - theo “Việt Nam từ điển” (1931), tức cách nói đánh giá thấp tư cách những người ấy.

Vậy, ả trong câu tục ngữ "Ăn như thuyền chở mã, làm như ả chơi trăng/ Ăn như thợ ngõa, làm như ả chơi trăng", ta cũng hiểu ả như trên? Khoan vội trả lời. Xin giải thích "mã/ chở mã" là chở hàng mã - những thứ đồ dùng để đốt khi cúng cho người dưới cõi âm - nó được đan bằng nan tre, bề ngoài dán giấy nên nhẹ hều, do đó, chở bao nhiêu cũng không khẳm; còn thợ ngõa, là thợ lợp ngói, nói chung là thợ xây, thợ nề làm công việc nặng nề, vất vả. Ngõa là từ Hán Việt nghĩa là ngói. Cả hai câu này, hiểu theo nghĩa bóng nhằm phê phán, cười chê ai đó tham ăn, lười làm.

Nếu "ả mày ngài" đi chung với bọn "làng chơi" nhằm chỉ cùng một giuộc, một phường không ra gì thì "thuyền chở mã/ thợ ngõa" chỉ những việc chính đáng/ những người lương thiện, vì thế một khi sánh cùng với "ả chơi trăng" thì ả chính là từ chỉ đàn bà con gái nói chung. Hoàn toàn khác với cách nói về mấy ả ở lầu xanh trong câu thơ Kiều. Rõ ràng, từ ả dùng chỉ hai hạng người khác nhau, hoặc xem thường hoặc không tỏ thái độ gì.

Tuy nhiên, ả không chỉ có những nghĩa như thế. Chẳng hạn, trong tiểu thuyết “Đống rác cũ” của nhà văn Nguyễn Công Hoan có mẩu đối thoại: "Tôi chúa ghét đàn ông hay lăng nhăng, bạc tình, chỉ làm hại đàn bà con gái". "Chà! Tại anh, tại ả, tại cả đôi bên. Bụt trên tòa, gà nào dám mổ mắt". Ta chú ý đến cụm từ "Tại anh, tại ả" và dễ dàng liên tưởng đến câu cửa miệng: "Việc ấy chẳng phải tại ai/ Tại anh, tại ả tại cả đôi bên". 

Cả hai câu này với từ "anh, ả" đều là tình huống ai đó nói về/ đánh giá về nhân vật thuộc ngôi thứ 3. Ả trong trường hợp này lại là chị, ta hiểu là ý muốn nói chuyện đó/ sự việc đó của anh chị đó là do hai người đó gây ra, chứ không phải do tác động của ai khác. Anh ả tức anh chị, còn có thể tìm thấy trong câu: "Xứng anh xứng ả, xứng cả một đôi".

Có hiểu như thế, ta mới dễ dàng giải thích câu tục ngữ "Làm anh, làm ả thì ngả mặt lên". Ngả ở đây nghĩa là ngửa. Đã làm anh làm chị trong nhà/ tổ chức/ cơ quan/ công ty thì phải sống thế nào cho đáng mặt, xứng với uy quyền, chớ nên làm sai trái điều gì để rồi vì mắc cỡ, hổ thẹn phải lịt mặt, cúi gằm mặt không dám ngửa mặt nhìn khi gặp người vai vế thấp hơn. Với từ ả có nghĩa là chị, tìm về “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651), ta thấy hàng trăm năm trước người Việt đã sử dụng: "Ả, chị ả: Người chị sinh đầu tiên".

Trở lại với bức thư trên, ngoài từ Ả, ta còn bắt gặp từ nhởi/ chơi nhởi, tập sách này chú thích: "Nhởi tức chơi đùa (phương ngữ)". Cụm từ này xuất hiện trong câu: "Không nên săn bắn và chơi nhởi. Ả lấy làm lo quá", ta sẽ  thấy chú thích này không hợp lý ở chỗ nếu con chỉ chơi đùa tức đùa chơi, chơi giỡn một cách vui vẻ, vậy, có gì Ả phải lo?

Thật ra Ả lo là đúng vì chơi nhởi tức là chơi bời - “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) giải thích. Chơi bời ở đây là hiểu theo nghĩa mê đắm những thú tiêu khiển không lành mạnh, tiêu xài phung phí, ăn chơi trác táng, có những mối quan hệ phức tạp… Một khi nói đến chơi bời, ta thường nghe nói đến một vài cụm từ liên quan như "chơi bời hút xách", "chơi bời lêu lổng"… Thế thì Ả lo nên dặn dò là phải rồi.

Không chỉ có "ả" mà còn có "cái ả", có thể tìm thấy trong ca dao:

Thằng Ngô lắm nhẫn nhiều vòng

Làm cho cái ả phải lòng thằng Ngô

Một khi từ "cái/ cái ả" xuất hiện ở đây, cho thấy người nói đang đánh giá kẻ thấp hơn mình, ít ra về tuổi tác, tỏ ý xem thường, tương tự cách nói "cái thằng nọ", "cái con mẹ kia". Nay, ta thử tách riêng từ "cái" để bàn thêm, thí dụ, trong phép ăn uống của người Việt có câu: "Khôn ăn cái, dại ăn nước". Nếu nắm rõ về một trong những cấu trúc đặc thù của tục ngữ, ta thừa biết rằng, trong câu này có hai vế đối với nhau: khôn - dại; cái - nước là từ trái nghĩa. Cấu trúc này cũng tương tự như "Khôn làm văn tế, dại làm văn bia", "Khôn nhà, dại chợ", "Miệng khôn, trôn dại", "Hết khôn dồn đến dại" v.v… Dù không giải thích nhưng ai cũng thừa biết trong ngữ cảnh "Khôn ăn cái, dại ăn nước", nước - chất lỏng khi nấu món ăn nào đó. Vậy, trái nghĩa với nước là cái - phần đặc còn lại, chất lương nhất, tùy theo nấu món gì.

Thế thì, ta hiểu làm sao với câu "Con dại cái mang"? Nếu nắm rõ về một trong những cấu trúc đặc thù của tục ngữ, ta thừa biết rằng, từ nguyên nhân sẽ dẫn tới kết quả, thí dụ như "Bụng làm dạ chịu", "Tham thực cực thân", "Bé chẳng vin, cả gẫy cành"… Lẽ ra con dại thì con phải chịu lấy, phải mang lấy, nhưng không, lại cái. Vậy cái là gì? Cái là từ Việt cổ dùng để chỉ người mẹ. Câu tục ngữ này nhấn mạnh đến vai trò giáo dục của người mẹ dành cho con, bởi thế mới có câu: "Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà".

Nhằm chỉ về mẹ, không chỉ có từ "cái" mà còn có dăm từ khác nữa. “Từ điển Việt-Bồ-La” của A. de Rhodes (1651) ghi nhận cách nói của người Việt từ hơn 300 năm trước: "Áng ná: Cha và mẹ". Về sau từ "ná" đã dần dần chuyển thành "nạ", ta có thể tìm thấy trong câu "Sẩy nạ quạ tha", "Đòng đòng theo nạ, quạ theo gà con"… Theo năm tháng từ "nạ" không còn phổ biến nữa, nếu còn chăng chính là "nạ/ nạ dòng" nhằm chỉ người đàn bà lớn tuổi, đã có chồng. Do không hiểu từ nạ nên người ta đã thay đổi bằng từ khác, chẳng hạn "Quen nhà mạ, lạ nhà chồng" hoặc "Chờ được vạ, má đã sưng"…

Không rõ, từ lúc nào tiếng "cái" biến mất trong cách gọi về mẹ? Khảo sát từ ca dao, tục ngữ, ta biết ở thế kỷ XVIII vẫn còn xuất hiện: "Em về nuôi cái cùng con/ Anh đi trẫy hội nước non Cao Bằng"; "Dấu Bố Cái rêu in nền miếu/ Cảnh Bà Đanh hoa khép cửa chùa" (Phú Tây Hồ).  Nếu lấy “Từ điển Việt-Bồ-La” (1651) làm mốc thì ta biết trong thời điểm đó, "cái" không còn sử dụng để dùng chỉ người mẹ nữa, mà dùng để chỉ… con/ con gái. Ngộ nghĩnh chưa? "Con cái: Con trai và con gái, chỉ dùng cho người". Cách hiểu này vẫn tồn tại đến nay, thí dụ một người đến chơi bạn đã hỏi: "Dạo này con cái học hành thế nào?" là hỏi con trai lẫn còn gái. "Con cái: Con, thế hệ con nói chung: Con cái đã trưởng thành, chăm lo việc học hành của con cái" - theo “Đại từ điển tiếng Việt” (1999).

Đừng tưởng, "cái" nhằm chỉ con gái như “Từ điển Việt-Bồ-La” ghi nhận, nay đã mất đi. Không đâu. Vẫn còn đó. "Cái" lại dùng để chỉ thân mật bạn bè cùng trang lứa, chẳng hạn, "Kìa, cái Thúy vừa tậu chiếc xe mới". Nhưng gọi "cái con mẹ Thúy", "cái ả Thúy" lại hàm nghĩa xem thường, khinh bỉ, miệt thị.

Tóm lại, ta hiểu từ Ả trong bức thư như thế nào?

Ta biết, thư này là mẹ viết cho con. Cụ thể bà Từ Cung viết cho con là cựu hoàng Bảo Đại vào ngày 22/12/1949, khi ông trở về nước và sống ở Đà Lạt. Hiểu "ả" có nghĩa là "mẹ" trong trường hợp này hoàn toàn chính xác, có điều tôi còn phân vân vì sao không một từ điển nào ghi nhận? Có thể đây là trường hợp cá biệt bởi lẽ người viết thư cho "thiên tử" dẫu do mình sinh ra nhưng họ vẫn nói trớ đi, chỉ dám xưng "ả" hiểu theo nghĩa là "chị"? Cũng không hợp lý, vì như ta biết vợ chồng Bảo Đại vẫn gọi bà Từ Cung là "mẫu hậu/ Đức Thái hậu" kia mà?

Suy luận này là thừa, đơn giản, "ả" còn đóng vai trò đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất.

Lê Minh Quốc

Nguồn: An ninh thế giới giữa và cuối tháng, ngày 15.12.2023.

Tháng 6/2020, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội gửi công văn tới đối tác yêu cầu thu hồi cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt của hai tác giả Hà Quang Năng, Hà Thị Quế Hương. Tháng 7/2020, có nhà sách thông báo là người mua cuốn Từ điển chính tả tiếng Việt (dành cho học sinh) của tác giả Nguyễn Văn Khang được trả và nhận lại tiền nếu không muốn dùng nữa. Tuy nhiên nếu loại sách này có những cái sai hay bị coi là sai cũng là sự bình thường, điều đáng suy nghĩ hơn là vì sao chúng lại xuất hiện.

20210420 2

Cho đến nay vẫn chưa có quy định nào rõ ràng về việc viết các từ tiếng nước ngoài như Niu tơn hay Newton. Ảnh: Thanh niên. 


Ở Việt Nam, tiếng Việt và chữ Việt là hai chuyện khác nhau. Chữ quốc ngữ ghi âm bằng mẫu tự phương Tây tiền thân của chữ quốc ngữ hiện nay được tạo ra từ thế kỷ XVII nhưng không phải là chữ viết chính thức và chỉ phổ biến trong cộng đồng Thiên Chúa giáo, còn phụ thuộc vào những dòng tu, khu vực và cá nhân khác nhau, việc chuẩn hóa chưa được đặt ra, viết b Hy Lạp hay b Latin, “bưâm bưấm” hay “bươm bướm”, “Đàng Trong” hay “Dàng Traõ” đều được. Sau khi người Pháp bắt đầu đô hộ Việt Nam và dùng chữ quốc ngữ làm chữ viết chính thức, những khác biệt giữa chữ quốc ngữ ghi âm bằng mẫu tự phương Tây của Dòng Tên với chữ quốc ngữ ghi âm bằng mẫu tự Latin của Dòng Sai đã được giải quyết một cách êm thấm mà dứt khoát, nên chữ Việt Nam hiện đang dùng có thể gọi là chữ quốc ngữ Latin. Vấn đề chính tả tiếng Việt đặt ra hơn một trăm năm nay chính là vấn đề của hệ thống chữ quốc ngữ Latin này.

Những khoảng trống và khó khăn

Chính tả là cách viết chính thức, từ điển về chính tả dĩ nhiên là qui chuẩn về cách viết mang tính chính thống. Nhưng nhiều cách viết được coi là chính thống trong chính tả ở Việt Nam trước nay lại có chỗ không chính xác, hợp lý và nhất quán. Trong rất nhiều văn bản chữ quốc ngữ, kể cả từ điển tiếng Việt trước nay, vẫn tồn tại những lối viết song trùng kiểu “giấu diếm - giấu giếm”, “dông tố - giông tố”, “lí lẽ - lý lẽ”, “trối trăn - trối trăng”, “Các Mác - Karl Marx”… Trong các ví dụ nêu trên, “giếm” không phải “gi+ếm” mà là “gi+iếm” tức một biểu hiện bất hợp lý về ký tự, “dông” và “giông” là một biểu hiện chưa rạch ròi trong việc ghi âm, “lí” thay “lý” là một biểu hiện mất gốc về mảng từ Việt Hán, “trăn” và “trăng” là một biểu hiện vô minh về từ vựng, “Các Mác” và “Karl Marx” là một biểu hiện bất nhất trong việc tiếp nhận ngôn ngữ nước ngoài.


Cũng phải kể tới những khó khăn khác. Sự khác biệt giữa các phương ngữ ở Việt Nam, chính sách ngôn ngữ trong đó có chữ viết của chính quyền thuộc địa trước Cách mạng Tháng Tám, tình trạng chiến tranh và chia cắt đất nước từ 1945 đến 1975, thực trạng của khoa học về ngôn ngữ thế kỷ XX là những nhân tố tác động bất lợi tới sự phát triển của tiếng Việt cũng như việc hoàn thiện chính tả chữ quốc ngữ. Nói thêm thì sau Cách mạng Tháng Tám 1945 không có chính quyền nào ở Việt Nam qui định chữ quốc ngữ là chữ viết chính thức cả. Hai bản Hiến pháp các năm 1946, 1959 của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, hai bản Hiến pháp các năm 1956, 1967 của Việt Nam Cộng hòa và ba bản Hiến pháp các năm 1980, 1992, 2013 của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho thấy điều đó. Khoảng trống pháp lý ấy ít nhiều là mảnh đất dọn sẵn cho những qui định chính tả bá láp, thậm chí là những đề xuất cải cách bá vơ. Tuy nhiên bất kể vì lý do gì thì sự chưa hoàn thiện về hệ thống ký tự, sự thiếu định hướng trong việc tiếp nhận ngôn ngữ nước ngoài và nhất là sự khiếm khuyết trong hiểu biết về tiếng Việt vẫn là những tồn tại chưa được giải quyết trong hoạt động văn tự bằng chữ quốc ngữ ở Việt Nam từ thời Pháp thuộc, nên mong muốn chuẩn hóa chính tả tiếng Việt trong rất nhiều năm qua luôn luôn là một việc ngoài tầm tay.




Trong ba vấn đề nói trên, sự chưa hoàn thiện về hệ thống ký tự là điều dễ nhận ra nên đã tạo ra một không gian sôi động với nhiều đề xuất cải cách. Công bằng mà nói, ngoài vài trường hợp cá biệt thì những đề xuất ấy đều có hạt nhân hợp lý bên cạnh yếu tố khả thi. Nhưng là một hình thức đặc biệt của ngôn ngữ, ngoài hai chức năng thông tin và giao tế, chữ viết còn đảm nhiệm chức năng lưu trữ. Nhiều ý kiến đề xuất cải cách, cải tiến chữ quốc ngữ hàng trăm năm qua không được thừa nhận chính vì không những đưa tới sự xáo trộn trong hoạt động văn tự mà còn gây ra sự đứt gãy trên phương diện truyền thừa. Từ phiên họp ngày 6/12/1902 của Tiểu ban cải cách chính tả chữ quốc ngữ trong Hội nghị quốc tế nghiên cứu về Viễn Đông lần thứ nhất ở Hà Nội, một thành viên của Tiểu ban là Cadière đã nêu ra sáu vấn nạn về những đề xuất cải cách, trong đó có hai là “3. Nếu hệ thống do Hội đồng đề nghị có loại bỏ được một số khó khăn thì ngược lại, nó lại tạo ra một số khó khăn khác. 4. Việc cải cách chữ quốc ngữ sẽ làm cho một số lớn sách không đọc được…”.

Từ ngữ mới du nhập

Bên cạnh đó, song song với việc dùng chữ quốc ngữ như chữ viết chính thức, từ cuối thế kỷ XIX xã hội Việt Nam cũng bước vào một quĩ đạo mới. Quá trình tái cấu trúc xã hội dưới tác động của ngoại nhân đã đưa vào xã hội Việt Nam nhiều hiện tượng, lĩnh vực và quá trình chưa từng có về hành chính và pháp lý, công nghệ và thương mại, khoa học và nghệ thuật, các yếu tố phương Tây này là một thử thách mang tính thời đại đối với tiếng Việt. Có thể coi Danh từ khoa học 1942 của Hoàng Xuân Hãn là một điểm sáng trong việc vượt lên thử thách ấy, nhưng đó vẫn là một thành tựu rất nhỏ bé so với những khó khăn mà tiếng Việt phải đối diện. Chỉ riêng mảng tên riêng (tên đất, tên người, tên sách…) nước ngoài, tiếng Việt trước Cách mạng Tháng Tám 1945 cũng đã phải xử lý hàng vạn đơn vị có nguồn gốc từ tất cả các châu lục. Kinh nghiệm cũ với những kết quả loại Anh cát lợi - Anh liệt, Ba lê, Bồ đào nha, Cựu ước - Tân ước, Ý đại lợi, Kha luân bố, Nã phá luân, Phú lãng sa… quá nghèo nàn và phải thông qua Hán ngữ làm trung gian không thể đáp ứng nhu cầu mới, nhưng việc thông qua Pháp ngữ làm trung gian lại làm nảy sinh những tên đất tên người loại Mốtcu – Moscou (Matxcơva), Lênin (Lênhin). Đến nay thì những cách viết pha trộn nhiều lối phiên âm như “Giáo sư Shen Yi trường Đại học Phúc Đán…”, “Ông Kim Jong-un là cháu nội ông Kim Nhật Thành” vẫn không phải là điều cá biệt. Tóm lại xử lý từ vựng nước ngoài trong đó có tên riêng được du nhập vào tiếng Việt là một nội dung quan trọng trong việc chuẩn hóa chính tả, nhưng một chủ trương thống nhất với những nguyên tắc hợp lý để xử lý vẫn chưa được đặt ra.


Sau cùng và quan trọng nhất là sự khiếm khuyết trong sự hiểu biết tiếng Việt. Đã có không ít từ điển, tự điển tiếng Việt được xuất bản, nhưng không phải đều đặt ra nguyên tắc thu thập từ vựng phù hợp, phương pháp giải thích toàn diện, cả cách sắp xếp mục từ cũng chưa phải đều đã hợp lý. Từ cổ, từ địa phương, từ Việt Hán, thành ngữ tục ngữ, từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ, từ nước ngoài… đều được ít nhiều giới thiệu nhưng rời rạc lẻ tẻ và không phải lúc nào cũng chính xác. Hơn thế nữa, từ thời Pháp thuộc tiếng Việt lại phát triển một cách bị động và do đó không thể tránh khỏi tình trạng tự phát trong việc tạo từ. Ký là ghi, danh là tên, nhưng ngoài ký danh ít thấy sử dụng, tiếng Việt có ba tổ hợp khác là ký tên, ghi danh, ghi tên mang nội dung khác nhau, việc tạo ra từ mới như vậy cũng có thể nói là sáng tạo, có điều từ ký tên hiện nay theo Hán ngữ truyền thống phải ghi là thự danh. Việc bài trừ Hán học của chính quyền thuộc địa đã làm suy thoái năng lực hiểu biết và sử dụng chữ Hán trên phạm vi toàn xã hội, nên mảng từ Việt Hán vẫn là một bộ phận máu thịt của tiếng Việt dần dần bị viết sai, hiểu sai và dùng sai trong các văn bản chữ quốc ngữ Latin. Ngay cơ quan ngôn luận qui tụ nhiều trí thức bậc nhất và có ảnh hưởng bậc nhất Việt Nam đầu thế kỷ XX là Nam Phong tạp chí trong phần Tự vựng như một loại Bảng tra từ ngữ thời gian 1917 - 1918 còn viết Chiết trung, Trinh sát hạm, Xung đột, Khinh suất, Trước tác, Trào phúng là Triết trung, Chinh sát hạm, Sung đột, Khinh xuất, Chước tác, Chào phúng hay lúc viết là lý lúc viết là lí, thì chính tả của những tổ chức và cá nhân khác thế nào không nói cũng biết.

 

Cần có từ điển ngữ nguyên

Tiếng Việt có sáu thanh trong đó ba thanh Không Hỏi Sắc là bậc Phù, ba thanh Huyền Ngã Nặng là bậc Trầm. Việc chuyển thanh từ âm đọc Việt Hán qua âm đọc Việt hóa cũng tuân theo qui luật về thanh điệu, như chủ thành chúa, chú (chú thích) thành chua, tứ thành tư là chuyển trong cùng bậc Phù, kỵ thành cưỡi, lợi thành lời/lãi, nhị thành nhì là chuyển trong cùng bậc Trầm. Miếu (ngôi miếu), mộ (ngôi mộ) phải có âm Việt hóa là miểu, mồ/mã mới đúng qui luật chuyển thanh, nhưng hiện nay rất nhiều sách vở từ điển ghi là miễu, mả. Tương tự, hiện nay rất nhiều người coi chỉnh chu là sai, chỉn chu mới đúng. Nhưng chỉn là gì chu là gì thì chẳng ai giải thích, mà giải thích thì giống như bưng đá đập chân. Vì đúng ra nó phải là chỉnh chu, là một từ Việt Hán trong đó chỉnh là gọn gàng, chu là trọn vẹn, chữ quốc ngữ Latin viết sai nhưng phổ biến rồi thì với số đông lại là đúng. Hành hạ vốn là hành hà (hà = khắc nghiệt) chuyển thanh, nghèo nàn vốn là nguy nạn (nguy = nghèo, nạn => nàn) chứ không phải nghèo hay thiếu, bất tử là không chết chứ không phải bất ngờ hay đột nhiên, vân vân và vân vân, nhưng thiên hạ vẫn nói và viết tung tóe. Tóm lại trước khi có từ điển chính tả phải có từ điển giải thích cho thấu đáo nội hàm và sắc thái, từ nguyên và từ pháp của từ vựng trong tiếng Việt đã, mà tất cả các từ điển tiếng Việt ở Việt Nam từ Từ điển Việt Bồ La 1651 trở đi dù ít dù nhiều cũng đều có chỗ thiếu chỗ sai. Thiếu là sự dĩ nhiên, nhưng không chỉnh lý hay ít nhất là giải thích rõ những chỗ sai khác thì không thể nói tới việc chuẩn hóa chính tả tiếng Việt.


Sau cùng, cần nói tới các ký hiệu không phải ký tự trong chữ quốc ngữ. Khác với văn bản Hán Nôm truyền thống, văn bản chữ quốc ngữ có các ký hiệu phẩy, chấm phẩy, chấm, chấm than, chấm hỏi, chấm lửng, hai chấm, ngoặc đơn, ngoặc kép, gạch nối… hay lối viết hoa. Đây là hệ thống kiêm thêm chức năng ngữ pháp nhưng hiện chưa có nguyên tắc xử lý nhất quán trong thực tiễn văn tự. Viết học thuyết Khổng Mạnh, quan hệ Việt Trung, Thái y viện triều Nguyễn hay học thuyết Khổng - Mạnh, quan hệ Việt - Trung, Thái Y Viện triều Nguyễn? Viết “Mẹ chuẩn bị quần áo vật dùng cho tôi lên đường nhập ngũ” hay “Mẹ chuẩn bị quần áo, vật dùng cho tôi lên đường nhập ngũ” là đúng? Câu trong Bình Ngô đại cáo (bản dịch) “Cùng Hán Đường Tống Nguyên mỗi bên làm chủ một phương” có phải viết là “Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên làm chủ một phương” không? Một khi các cơ quan hữu quan chưa quan tâm tới những chuyện loại này, thì việc chuẩn hóa chính tả tiếng Việt chỉ là điều nói cho sướng miệng. Bởi vì trong thực tế việc chuẩn hóa ấy đã được thực hiện nhưng với một cung cách không những đáng buồn mà còn đáng lo.

Cần lưu ý rằng vào năm 1902 thì lực lượng có khả năng tạo ra văn bản chữ quốc ngữ ở Việt Nam tối đa cũng chỉ khoảng 200.000 người, còn đến nay thì tình hình đã rất khác. Hơn thế nữa, trong bối cảnh bùng nổ thông tin với mạng internet hiện nay, việc thông tin và tiếp nhận thông tin bằng chữ viết đã lấn át việc thông tin và tiếp nhận thông tin qua lời nói. Cho nên việc chữ quốc ngữ trở thành hệ thống định chuẩn của tiếng Việt, công cụ lưu trữ trong quốc gia đã là một tình hình không thể đảo ngược, và Việt Nam không nên có một cuộc cải cách văn tự nào có thể đưa số đông tới tình trạng sẽ bị tách rời với các văn bản quốc ngữ hiện có tương tự việc số đông đã trở nên xa lạ với các văn bản Hán Nôm. Vấn đề cần thảo luận hiện nay là chuẩn hóa chính tả tiếng Việt.
Nhiều năm qua, một số cơ quan trong đó có tòa báo, nhà xuất bản đã tự đặt ra qui định chính tả, các văn bản và sách báo do họ soạn thảo hay xuất bản đều được biên tập theo những qui định ấy. Tuy nhiên đó không phải đều là những qui định đúng đắn, nhất quán và toàn diện, nên nếu ví von theo một kiểu rất ít hay ho thì đó là những người muốn dẹp loạn mười hai sứ quân nhưng năng lực thống nhất thì không đủ mà tình cảm cục bộ thì có thừa nên kết quả là lại tạo ra những khu vực cát cứ mới, một mặt bằng hỗn loạn mới, tức vô hình trung lại trở thành những sứ quân thứ mười ba trong chính tả tiếng Việt ở Việt Nam.


Cũng cần nhìn nhận hành vi nói trên từ góc độ pháp lý. Không ai phủ nhận các qui định chính tả cục bộ nói trên là xuất phát từ thiện chí, nhưng chữ viết trong đó có yếu tố chính tả là tài sản của toàn dân, phương tiện của xã hội, ngoài cơ quan quyền lực cao nhất của quốc gia là Quốc hội thì không một cơ quan hay tổ chức nào được phép qui định và áp đặt cách viết của mình. Cho nên trong khi chờ đợi việc lấp bằng khoảng trống pháp lý mà lịch sử để lại cho chữ quốc ngữ và chính tả chữ quốc ngữ, những người tham gia hoạt động văn tự ở Việt Nam cần đề cao ý thức tôn trọng truyền thống và tinh thần thượng tôn pháp luật bên cạnh nỗ lực học hỏi nhiều hơn, sâu hơn về tiếng Việt để có thể chủ động và khôn ngoan trong việc giải quyết các vấn đề chính tả hiện đang tồn tại và sẽ còn nảy sinh. □

Cao Tự Thanh

Nguồn: Tia sáng, ngày 12.4.2021.

Việc Trường Đại học Bách khoa Hà Nội vừa được cho phép chuyển đổi thành Đại học Bách khoa Hà Nội đã dấy lên một số thắc mắc về nội hàm ý nghĩa của từ “Đại học” và “Trường đại học” có gì khác nhau. Đồng thời, trước khi có quyết định chuyển đổi thì trường này cũng đã sử dụng bảng tên là Đại học Bách khoa Hà Nội

20221211 5

Trường Đại học Bách khoa Hà Nội vừa được cho phép chuyển đổi thành Đại học Bách khoa Hà Nội.

Có ý kiến cho rằng, lâu nay nhiều “Trường đại học” nhưng ghi ngoài bảng hiệu đặt ở cổng trường là “Đại học” nhìn lâu rồi thành quen. Tuy nhiên cũng có ý kiến cho rằng việc chuyển từ "Trường đại học" lên thành "Đại học" không đơn giản là việc đổi tên gọi mà bản chất là trường này chính thức thay đổi mô hình quản trị...

Khởi nguồn của từ “Đại học” ra đời vào thập niên 1990

Trong quá trình phát triển của đại học, để tăng cường sức mạnh, tính độc lập, sáng tạo, đột phá của giáo dục đại học, năm 1996 hai Đại học Quốc gia Hà Nội và TP.HCM ra đời. Mỗi đại học này là sự ghép lại của nhiều trường đại học như: ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn và một số trường thành viên khác. Từ đó trong giấy tờ có sự phân biệt giữa “Đại học” là từ chỉ cơ sở có quy mô lớn, tập hợp nhiều “Trường đại học” với “Trường đại học” là các trường thành viên của “Đại học” hoặc các trường đại học độc lập trực thuộc bộ. Ít năm sau có ba trường đại học vùng ra đời: Đại học Thái Nguyên, Đại học Huế, Đại học Đà Nẵng.

Một biển hiệu của Trường ĐH Công nghệ TP.HCM nhưng ghi là Đại học Công nghệ TP.HCM.

Từ “Đại học” hay “Trường Đại học” chỉ là sự phân biệt của tiếng Việt, chứ tiếng Anh đều là University. Mô hình “Đại học” này học theo mô hình Hoa Kỳ, châu Âu vì ở đó có nhiều University thuộc một University lớn hơn. Đơn cử như University of California người ta thường dịch là “Hệ thống đại học” hay “Viện đại học” vì ở dưới có nhiều trường thành viên như: UC Berkeley, UC Merced, UC San Francisco…

Dù học theo mô hình Hệ thống/ Viện đại học nhưng tiếng Việt không dùng sự phân biệt “Hệ thống/ Viện đại học” với “Trường đại học” mà dùng “Đại học” với “Trường đại học” để phân biệt. Sự phân biệt “Đại học” (lớn) với “Trường đại học” (nhỏ) là sự phân biệt giả tạo (cách nói của ngôn ngữ học) có tính duy ý chí, cưỡng bức, vì không có truyền thống trong tiếng Việt, có thể coi nó như một trường hợp dùng từ sai hay lỗi tiếng Việt. Vì sao? Thông thường từ “Đại học” có 2 nghĩa:

- Thứ nhất là cấp học: Tiểu học, Trung học, Đại học…

- Thứ hai: Cơ sở giáo dục dạy học, tức là trường đại học được nói gọn lại. Ví dụ: Trường ĐH Bách khoa Hà Nội cũng giống như ĐH Bách Khoa Hà Nội, tương tự: Trường ĐH Khoa học Huế - ĐH Khoa học Huế, Trường ĐH Cần Thơ - ĐH Cần Thơ.

Không ai phân biệt “Đại học” với “Trường đại học”. Cho đến tận hôm nay, sau gần 30 năm xã hội vẫn còn rất nhiều người không biết có sự phân biệt đó.

Do đó, chuyện "Trường Đại học Bách khoa Hà Nội" bỗng chốc có quyết định trở thành "Đại học Bách khoa Hà Nội", đã đẩy sự bất cập trong phân biệt "Trường Đại học" với "Đại học" lên đỉnh điểm, khiến dư luận đưa ra nhiều thắc mắc.

Một bảng hiệu của Trường ĐH Tôn Đức Thắng nhưng ghi là Đại học Tôn Đức Thắng.

Từ đó nhiều ý kiến đề cập đến những “lỗi dùng từ” như “Bộ Giáo dục và Đào tạo” thì thừa chữ "và Đào tạo", vì Giáo dục nào mà không đào tạo hay đào tạo nào mà không qua giáo dục? Ít ai biết cái đuôi ấy là dấu tích của việc ghép Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp vào, vì dẫu ghép vào nó vẫn không muốn bị mất dấu hẳn!  

“Đại học” cần phải thay đổi để làm gương cho việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt

Sự đối lập giả tạo giữa “Đại học” (lớn) và “Trường Đại học” (nhỏ) cần phải chấm dứt. Nhưng phân biệt bằng cách nào? Phó Giáo sư Ngôn ngữ học Nguyễn Hồng Cổn có đề nghị phân biệt Đại học (lớn) với Học viện (nhỏ, chuyên ngành). Như vậy thì hàng loạt các trường phải đổi tên: “Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn” thành: “Học viện Khoa học xã hội và Nhân văn”, tương tự: Học viện Khoa học tự nhiên, Học viện Y Khoa, Học viện Luật… Đây là điều tối kỵ vì danh tiếng của các đại học là rất quan trọng, không thể bỗng chốc mất đi được.

Một bảng hiệu của Trường ĐH Kinh tế-Tài chính TP.HCM nhưng ghi là Đại học Kinh tế-Tài chính TP.HCM.

Theo tôi, nên dùng từ VIỆN ĐẠI HỌC thay cho ĐẠI HỌC, còn các "trường đại học" hay các "đại học" không còn phân biệt nữa. “Viện Đại học” ra đời khi thành lập Viện Đại học Đông Dương năm 1906, sau đó được dùng rộng rãi trong hệ thống giáo dục đại học miền Nam từ 1954 đến 1975. Ví dụ:

- Viện Đại học Sài Gòn có nhiều phân khoa, hay cũng gọi là trường đại học như: Khoa học Đại học đường, Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, Trường Đại học Y khoa Sài Gòn, Trường Đại học Kiến trúc Sài Gòn… Các phân khoa/ trường thành viên có đây đủ quyền như một trường đại học.

- Viện Đại học Huế có nhiều phân khoa, tức là các trường đại học, như: Trường Đại học Sư phạm, Trường Đại học Y Khoa, Trường Đại học Luật khoa…

Nếu thay đổi như thế, chúng ta sẽ trả từ “Đại học”, “Trường đại học” đúng nghĩa của nó là một cấp học hay/ và một cơ sở đào tạo đại học. Trường Đại học Y khoa hay Đại học Y khoa, Trường Đại học Bách Khoa và Đại học Bách khoa…là như nhau. Như vậy chỉ có mấy Đại học mới ra đời cần phải đổi tên thôi như: Đại học Quốc gia Hà Nội thành Viện Đại học Quốc gia Hà Nội, tương tự: Viện Đại học Quốc gia TP.HCM, Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Nẵng... Còn Trường ĐH Bách khoa Hà Nội có muốn thành Viện Đại học Bách khoa Hà Nội hay không thì tùy. Như thế sẽ không còn chuyện khôi hài: Trường ĐH Bách Khoa Hà Nội thành Đại học Bách khoa Hà Nội nữa.

Một bảng hiệu của Trường ĐH Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM nhưng ghi là Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP.HCM.

Bộ Giáo dục nên đi trước trong việc chuẩn hóa chữ nghĩa. Danh chính thì ngôn thuận. Tên gọi không chỉ là danh từ mà còn phản ánh tư duy. Việc thay đổi cũng là bình thường trong quá trình phát triển. Việc học các từ có sẵn hợp lý trong tiếng Việt dù thời Pháp thuộc hay miền Nam trước 1975 cũng là bình thường, vì dù ở thời nào thì cũng là tiếng Việt, từ nào đúng, hay thì học, từ nào dùng sai thì bỏ. Đơn cử "trường cấp I, II, III" như cách nói của miền Bắc trước 1975 đã thành "trường tiểu học, trung học” (cơ sở, phổ thông) như cách nói thời Pháp thuộc hay miền Nam trước 1975.  

Việc thay đổi ấy sẽ khiến cho danh từ có tính hệ thống, tránh nhầm lẫn, tránh được một trường hợp tạo từ sai, và đó là cách nêu gương bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt.  

Đề nghị tiếp theo: Từ đây trở đi việc tạo ra các từ mới phải có một hội đồng chuyên môn quyết định và phải hỏi ý kiến dư luận rộng rãi nếu chuyện ấy liên quan đến nhiều người, chứ không thể là ý kiến bất chợt của một vài vị quản lý hành chính nào đó dù có bằng cấp nhưng không có trình độ tiếng Việt tốt được. Quốc hội chỉ thông qua về mặt chủ trương, còn chọn danh từ nào thì phải do hội đồng ấy quyết định. Đó cũng là cách khiến cho các cơ quan công quyền không bị xã hội đàm tiếu, giữ được sự tôn nghiêm và tôn trọng của xã hội. 

PGS.TS. Đoàn Lê Giang 

(nguyên Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn -ĐHQG-TP.HCM)

Nguồn: Khoa học phổ thông, ngày 9.12.2022.

Gối rơm theo phận gối rơm

Có đâu dưới thấp mà chờm lên cao.

Ngày xưa, người miền Nam có trò chơi thai đố, nay đã tuyệt tích giang hồ, câu thai đố này, lấy từ truyện “Lục Vân Tiên” của cụ Đồ Chiểu, lúc Trịnh Hâm dù văn dốt võ dát lại dám dè bỉu ông quán làu làu kinh sử. Sau khi đọc xong, ông thầy thai hỏi: “Xuất ngư?”, tức đố con cá gì? Có ai biết không? Khoan vội trả lời, thử hỏi, thai là gì? “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) cho biết, thai còn có âm đọc là xai, nghĩa là “nghi, hỏi, định chừng. Ra thai là ra hai ba lời, làm như câu đố”.

Đáp án của câu thai/ câu đố này, trả lời chính xác là cá leo. Dù còn có tên gọi khác là cá nheo, nhưng phải chọn cá leo, vì chơi chữ ở đây thì leo đồng âm với leo/ leo trèo. Trịnh Hâm ngụ ý ông quán thân phận thấp kém, chớ có hòng chờm lên chơi leo/ chơi trèo, đèo bòng, lếu láo giỡn mặt hòng “ngang cơ” với người trên. Nói leo là nhảy vào họng nói tranh, nói xen vào chuyện của người có vai vế cao hơn mình. Leo là từ dưới thấp di chuyển, vươn lên cao hơn bằng nhiều cách như trèo, bám và bò lên; hoặc từ vị trí này chuyển sang vị trí khác.

Có động thái leo từng bước một, không leo cái vù, leo cái vọt mà leo chậm từng bước một, người ta gọi leo thang. Chẳng hạn bà nội trợ tặc lưỡi: “Chà, vật giá ngày một leo thang”, tức giá cả nhích dần, không nhiều, nhưng mỗi ngày mỗi nhích lên cao hơn. Trong khi đó, với leo thang, ta hiểu là từ dưới thấp đặt bàn chân lên cầu thang, bước từng bậc để leo lên cao hơn.

Khi nhà thơ Nguyễn Khuyến viết: “Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”, leo kiểu này là leo cột mỡ. Người ta trồng cây gỗ tròn đã bào nhẵn thín, bào láng o, rồi bôi mỡ bò láng trơn, láng lẩy, phía cao mút trên cột có treo tiền thưởng, ai có giỏi thì leo đi! Chật vật leo lên nhưng do trơn/ trơn trợt/ trơn láng nên lại tụt xuống, vì mê tiền cứ leo lên rồi tụt xuống khiến khán giả vỗ tay reo cười ầm ĩ… Leo lên cây cột mỡ, tụt xuống là lẽ thường tình. Nhưng có tình huống dù đứng ì dưới đất cũng bị cho là “leo cây”. Ta hãy khảo sát câu thơ của Hồ Dzếnh:

Em cứ hẹn nhưng em đừng đến nhé

Để lòng buồn tôi dạo khắp trong sân.

“Em đừng đến” tức là em không đến - nói theo cách cà rỡn là nhà thơ muốn bị… leo cây! Tỷ như đôi tình nhân nọ cùng hẹn hò, quy ước sẽ gặp nhau vào thời gian đó, tại địa điểm đó nhưng cuối cùng người kia thất hứa/ hứa lèo/ hứa cuội không đến tức người này bị “leo cây”. Thậm chí còn có cả “leo cây trụ điện” - cách nói này, từ thập nên 1970, “Việt Nam tự điển” tại miền Nam của Lê Văn Đức đã ghi nhận; trong khi đó, “Từ điển tiếng Việt” (1977) ở ngoài Bắc của Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm chỉ giải thích theo nghĩa leo là “bám vào mà bò lên”.

Đến nay, chỉ có “Tự vị tiếng Việt miền Nam” (NXB Văn Hóa - 1993) của cụ Vương Hồng Sển giải thích “leo cây” đầy đủ hơn cả: “Có 3 nghĩa khác nhau: 1. nghĩa trắng: trèo lên cây hái trái nuôi nhau; 2. nghĩa trắng: không đến và sai hẹn; 3. nghĩa đen: hỏng việc… Còn có thêm nghĩa: Một lối chơi tiêu khiển trào Pháp bày đặt. Dịp lễ vui công cộng như ngày 14 juillet (gọi chánh trung và nói sai ra lễ chánh chung) hoặc dịp vui khác, họ bày trồng một cây cột suôn đuột thường làm bằng cây cau già chuốt trơn thẳng và có thoa mỡ bò cho thêm trơn trợt, trồng cột lộ thiên xong, bèn treo trong một vòng trên cao có dây dụi kéo lên xuống như ý người điều khiển sợi dây rồi treo nhiều món xanh đỏ vui mắt như dù áo, khăn lụa, quần màu khiến trẻ con sanh tài giành nhau giựt giải, đứa tuột đứa kềm, làm trò cười cho khách bàng quan” (tr. 448). Cách chơi này, đúng như câu thơ “Tham tiền cột mỡ lắm anh leo”, đã khái quát.

Suy luận rằng, do không ai có thể leo lên đến nơi nhằm giựt giải vì cột mỡ trơn láng, dù nhọc sức nhưng chẳng nên cơm cháo gì, từ hình ảnh này về sau người mới sử dụng “leo cây” là hiểu theo nghĩa bị thất hứa, dù đã hẹn mà người kia vẫn bặt tăm dù có ngóng cổ chờ - chẳng khác gì kẻ leo cây/ leo lên tuột xuống mất thời gian vô ích. Còn nếu trong cuộc hẹn này, người đó có đến nhưng không đúng giờ, chậm trễ cả hàng tiếng đồng hồ thì cái sự dài này được gọi “giờ dây thun”, đơn giản là do dây thun có độ co dãn nhất định.

20210328 3

Ảnh: L.G

Leo cũng đồng nghĩa với trèo, chẳng hạn, một người bảo: “Cảnh giác nhá, hắn ta là dân leo tường/ leo rào có nghề”, hoàn toàn có thể hoán đổi qua trèo nhưng trong ngữ cảnh này còn ám chỉ là dân trộm cắp, chuyên nghề “đột vòm”. Vòm là vòm nhà, đột là đột nhập bất hợp pháp vào nhà người khác, nói trắng phớ ra là dân nhập nha, chuyên đào ngạch, khoét vách chui tường. Dù có thể hoán đổi giữa leo và trèo, nhưng có đôi câu tục ngữ ắt không thể như Giậu đổ bìm leo; Bầu leo dây bí cũng leo…; hoặc ở câu ca dao:

Bắc cầu cho kiến leo qua

Cho con chú xã qua nhà tôi chơi.

Tiếc thay cây quế giữa rừng

Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo.

Leo có nhiều cách nhưng ngốc nghếch nhất còn là Leo cây dò cá là làm việc không đúng hướng, tốn công vô ích, chẳng khác gì đặt lờ trên cây. Đáng sợ nhất trong các cơ quan công quyền hiện nay vẫn là những kẻ cơ hội vô tài bất tướng, ăn hại đái nát, đạo đức kém cỏi, tài năng chỉ bằng cái móng tay nhưng do luồn lách, lươn lẹo, uốn éo nên đã “leo cao luồn sâu/ luồn sâu leo cao” chễm chệ ngồi vào vị trí quan trọng, lừng lẫy uy quyền. Luồn trong ngữ cảnh này là luồn lách, lươn lẹo, uốn éo, len lỏi vào chỗ cao sang danh giá. Mà luồn cũng còn có cách nói khác là lòn/ lòn cúi/ lòn lỏi/ luồn lọt là khom mình, chui qua chỗ thấp, men theo lối đi hẹp. Kẻ cơ hội thì thời nào cũng có, dù có sử dụng ngón nghề lòn/ luồn cỡ nào đi nữa nhưng chớ quên:

Luồn thì luồn cửa tiền cửa hậu

Chớ không thèm luồn bờ giậu chó chui.

Ấy thế, vẫn có kẻ bất chấp, cứ luồn tất, kể cả lòn trôn, tệ hại đã đến nước này thì có nói gì nữa cũng bằng thừa. Thiệt buồn cho cái sự đời phải không nào? Đã buồn thì cho buồn luôn thể, tức là ta buồn cho cái “nghệ thuật” luồn lách leo lên mà thời nào cũng có. Hãy nghe nhà văn Ngô Tất Tố - một cây bút phóng sự về nông thôn miền Bắc vào hạng bậc nhất trong trường văn trận bút trước năm 1945 kể lại cách leo của một nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Nghe kể lại cũng là lúc ta học thêm vài từ tiếng Việt, hóa ra âu cũng là vui đấy thôi.

Đại khái, tay này chữ nghĩa i tờ ít, nếu không muốn nói là mù chữ nhưng cha mẹ giàu sụ quen thói làm giàu bằng nghề cho vay nặng lãi, nhờ thế ông ta rành rẽ, thông thạo các văn tự cầm cố, ma mãnh cách tính lãi miễn sao lãi mẹ đẻ lãi con. “Trong làng cũng nhiều kẻ khinh ông vô học, năm 20 tuổi, ông tức khí bỏ tiền ra mua cái khóa sinh, chẳng phải ôn nhuần học tập, cứ ngồi nhà đợi giấy sức lĩnh bằng, khao một bữa lên ngay ông khóa, vọng tư văn sánh với bọn văn thân. Được bên thân, chẳng chịu kém bên hào”. Câu văn này, ta hiểu được tiếng có chữ (bên văn thân) nhưng nào kém vai vế chức sắc trong làng (bên hào mục).

Rồi “năm 25 tuổi, thấy miếng lý trưởng ngon lành, ông vứt mấy trăm mua cho bằng được, chẳng lên phủ xuống huyện, chẳng lạy quan van dân, nhưng chức lý trưởng chẳng ai dám cãi. Ông vọng đủ các ngôi các món, những năm ông chịu đăng cai chứa đám, thì danh tiếng lừng lẫy khắp vùng. Năm 29 tuổi, nhân cuộc Âu chiến, nhà nước cần tiền, ông vứt ngót nghìn bạc ra quyên, được thưởng ngay bá hộ, những ngày rước sắc cùng mấy ngày khao của ông, phí tổn mấy nghìn đồng, trâu bò lợn gà chết về tay ông như chết dịch”. Bá hộ là phẩm hàm cấp cho người giàu có.

Năm ông 39 tuổi, làng có tiệc khánh thành đình, ông viện thế quan tỉnh quan huyện về làng quyết tranh cho được chức mạnh bái với ông viện Kép”. Mạnh bái là chức chủ tế. “Liền sang năm ông 40 tuổi, ông khao ngôi trùm cả để nhòm ngôi tiên chỉ, phí tổn cũng chẳng phải vừa. Năm ông 48 tuổi, làng khuyết chân thứ chỉ, ông lại ra tranh, mỗi lần ông tranh là mỗi lần ông thắng, mỗi lần ông thắng là mỗi lần ruộng đất của ông phải đổi chủ sang tên cho người khác. Hiện nay ông định vượt lên ngôi tiên chỉ, cho nên ông cố cầu thân với quan trên quan dưới, để hòng cái chương mỹ bội tinh, thì cái hàn lâm ông nắm chắc, cái thủ lợn béo phính của làng, ông cụ Kép tất có ngày phải rời ra”. Tiên chỉ là người có quyền quyết định mọi việc trong làng; hàn lâm là chức triều đình phong cho quan lại bậc trung.

Kể ra, Có tiền mua tiên cũng được, chẳng sai chút nào. Vẫn chưa đủ, đỉnh của “nghệ thuật leo” là gì? Ngô Tất Tố cho biết: “Ông hết lòng mến phục các quan trên, từ ngày giỗ mọn cho chí ngày tết to, trong các quan trên tỉnh dưới huyện, không bao giờ vắng được mặt ông, mà những đồ lễ của ông đưa đến bao giờ cũng được hơn người, ai cũng phải khen là một người lịch sự, phúc hậu, không cái kiện nào là cái kiện ông chịu thua ai, dù ông trái mười mươi cũng vậy. Bước công danh của ông thoăn thoắt tựa bậc thang, không bao giờ vấp sảy, từ ông khóa mãi (khóa sinh mua) tới ông lý quyên (quyên tiền cho làng mà được) rồi tới ông bá quốc (quốc trái), rồi đến chức hàn lâm ông đương cậy cục thực dễ dàng, đó là nhờ ở sức đồng tiền mồ hôi nước mắt của người trong dân, nhân lúc cha mẹ lâm chung hay buổi sưu thuế cập kỳ, ông lèn một vốn bốn lời cho đẫy túi” (“Tổng tập Tạp văn Ngô Tất Tố”  - NXB Thông tin và Truyền thông - 2011, tr. 419). Leo kiểu này kể ra cũng ghê. Cũng tởm. Mà thôi, ta hãy trở lại với câu thai đố:

Gối rơm theo phận gối rơm

Có đâu dưới thấp mà chờm lên cao.

Ngoài cá leo, còn có đáp án khác là cá kèo. Tại sao? Ta bàn sau, nhưng kèo trong cá kèo còn gợi nhớ đến… kèo. “Có cây thì dây mới leo/ Có cột có kèo mới thả đòn tay” - khi làm nhà, kèo là cây bắc dốc dốc từ đầu cột cái xuống đầu cột con để gác đòn tay. Muốn vững chắc phải đóng đinh/ đanh, từ đó, còn có câu so sánh trong chuyện hôn nhân:

Có cưới mà chẳng có cheo

Nhân duyên trắc trở như kèo không đanh.

Sở dĩ câu thai đố ngoài cá leo, người ta chọn cá kèo vì cá kèo bao giờ cũng có xu hướng nhoi/ ngoi đầu lên cao. Sân khấu cải lương miền Nam thời trước, hạng vé rẻ tiền, hạng bét còn gọi là hạng cá kèo vì không có ghế ngồi, phải đứng xa sàn diễn nên ai cũng loi nhoi ngóc đầu lên xem cho rõ. Không những thế, đáp án này không chỉ phản ánh động tác của cá kèo mà kèo còn đồng nghĩa với… kèo trong ngữ cảnh Trịnh Hâm cho mình “kèo trên”, còn lão quán là “kèo dưới”, chớ hòng ngoi lên, leo lên ngang hàng, bằng vai phải lứa. Ối dào, đã chữ nghĩa không đầy lá mít, chỉ đáng tuổi con tuổi cháu nhưng vẫn mắng xơi xơi/ mắng sa sả bậc cao niên đức độ, giỏi giang hơn mình.

Sự đời oái oăm thiệt.

Lê Minh Quốc

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 18.3.2021.

20221120 2

PGS.TS Đoàn Lê Giang

Ngôn ngữ là một hiện tượng động, biến đổi theo đời sống. Làm sao để phát triển tiếng Việt ngày càng giàu đẹp, hiện đại, người dùng tiếng Việt là một cộng đồng văn minh, tiến bộ, có văn hóa cao vẫn là ước muốn của các thế hệ quan tâm đến văn hóa nước nhà.

PGS ĐOÀN LÊ GIANG

PGS.TS Đoàn Lê Giang: Phải dùng đúng, hay tiếng Việt

* Dường như giới trẻ thường lúng túng trong diễn đạt, theo ông, nguyên nhân từ đâu?

- Năng lực ngôn ngữ được hình thành từ đâu? Từ sự quan sát, tiếp thu lời ăn tiếng nói trong đời sống, học tập trong nhà trường, đọc sách báo. Nếu sống trong một môi trường giao tiếp ngôn ngữ xô bồ, mà người nghe không có khả năng chọn lọc thì rất dễ học theo loại ngôn ngữ ấy.

Nếu học hành trong nhà trường không nghiêm túc, việc dạy việc học có vấn đề thì năng lực ngôn ngữ của học sinh cũng bị hạn chế. Nếu không đọc sách báo tốt, không đọc được những tác phẩm văn chương hay thì khó có khả năng biết dùng tiếng Việt đúng và hay.

* Nếu phải nói ngắn gọn với một bạn trẻ đang học cuối cấp III về việc nên giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, ông sẽ nói thế nào?

- Đối với lứa tuổi học sinh cấp III, các em đang bước vào lứa tuổi đẹp nhất của đời người: lứa tuổi sinh viên đại học, lứa tuổi tiếp thu kiến thức có hệ thống cho hành trang vào đời. Bất luận các bạn học đại học nào, làm nghề gì thì dùng cho đúng, cho hay tiếng Việt là kỹ năng không thể thiếu.

Người kỹ sư, bác sĩ, giáo viên không thể thành công trong công việc cũng như trong cơ quan công ty nếu nói tiếng Việt ấp úng, nói cộc cằn, đơn điệu. Nói vậy sẽ không thuyết phục được ai, thậm chí còn bị đánh giá thấp về chuyên môn, hay quá trình đào tạo.

Đối với các bạn học về các ngành khoa học xã hội, nhân văn, truyền thông, quan hệ công chúng thì việc rèn giũa khả năng tiếng Việt là yêu cầu bắt buộc. Làm thế nào có thể nâng cao được năng lực ấy?

Ngoài việc học nghiêm túc trong nhà trường thì đọc sách là việc không thể thiếu. Sách hay chứa đựng "túi khôn" của nhân loại, sách hay dạy người ta nguồn từ vựng phong phú, cách dùng tiếng Việt sao cho chính xác, tinh tế.

Cựu Tổng thống Mỹ Obama, một vị tổng thống nổi tiếng hùng biện, từng kể hồi thanh niên ông đã mượn và đọc hết tất cả các tủ sách tư nhân trong vùng. Đó là một kinh nghiệm rất đáng suy nghĩ.

Có trách nhiệm của truyền thông

Trong giáo dục, người ta mong chờ những sản phẩm giáo dục tốt nhất. Về phương diện ngôn ngữ, người ta mong chờ đào tạo ra những học sinh có thể sử dụng đúng, sử dụng tốt, sử dụng có hiệu quả tiếng Việt, gần thì thể hiện là con người tử tế có học, xa thì các bạn ấy có thể thành công trong công việc và trong xã hội.

Về việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, trước hết phải ở các phương tiện truyền thông bởi vì các phương tiện này có sức ảnh hưởng rất lớn.

Các phương tiện ấy dùng sai có thể là do dễ dãi trong khâu tuyển dụng, mà nói theo kiểu dân gian là tuyển những người "chưa sạch nước cản" vào làm việc, hay dễ dãi trong khâu biên tập, dễ dãi khi tiếp nhận quảng cáo mà không dám từ chối những quảng cáo dùng sai tiếng Việt. Ðã từ lâu các tờ báo đã thôi mục "Dọn vườn" về ngôn ngữ để chỉ ra lỗi sai trong việc sử dụng tiếng Việt. Việc này rất cần khôi phục.

PGS ĐOÀN LÊ GIANG

 

PGS.TS Hoàng Dũng: Nguy cơ tổn thương tiếng Việt ngày một lớn

Hộ chiếu văn hóa Việt Nam: Chung tay vì sức khỏe tiếng Việt - Ảnh 4.

PGS.TS Hoàng Dũng - Ảnh: L.ĐIỀN

* Theo ông, một ngôn ngữ quốc gia có thể bị tổn thương trong các trường hợp nào? Xét từ đời sống xã hội Việt Nam hiện nay, ông thấy có xu hướng/ hiện tượng nào có nguy cơ làm tổn thương tiếng Việt không?

- Có hẳn một quan điểm thu hút sự chú ý của nhiều nhà ngôn ngữ học cho rằng cần phải giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ trước nguy cơ bị vẩn đục cả do những nhân tố ngoại lai - như lạm dụng từ mượn hay cách diễn đạt của tiếng nước ngoài - lẫn do những nhân tố bên trong - như dùng từ sai nghĩa, viết câu què quặt, đầy lỗi chính tả…

Cả hai trường hợp đều đáng báo động trong thực tiễn sử dụng tiếng Việt hiện nay.

Cùng với sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, nguy cơ tổn thương tiếng Việt ngày một lớn hơn. Đáng lưu ý là lỗi tiếng Việt không hiếm trên truyền hình, trên báo chí, cả báo mạng lẫn báo in.

Cho nên để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, vai trò hàng đầu thuộc về những cơ quan này: tiếng Việt trên truyền hình, trên báo chí trước tiên phải "sạch" lỗi.

Vai trò của nhà trường cố nhiên là quan trọng. Nhưng nhà trường có thể làm tốt nhiệm vụ không khi hằng ngày hằng giờ trên phương tiện truyền thông đại chúng vẫn nhan nhản lỗi tiếng Việt?

* Trong giới trẻ thường có những xu hướng dùng tiếng lóng, hoặc các cách nói, viết khác với quy chuẩn thông thường nhưng được thỏa thuận hiểu trong một không gian/đối tượng riêng. Những xu hướng ấy có ảnh hưởng như thế nào đến "sức khỏe" của ngôn ngữ quốc gia?

- Phải thừa nhận việc dùng tiếng lóng, cách viết "lạ" khác với quy chuẩn thông thường đang rất phổ biến, đặc biệt là giới trẻ. Nhiều người thấy đây là một xu hướng đáng lo vì cho rằng sẽ làm cho tiếng Việt bị méo mó.

Thật ra, đấy là xu hướng toàn cầu! Ở nước nào cũng thấy người ta kêu chuyện này và chưa thấy nước nào giải quyết được cả. Giới trẻ vừa muốn khẳng định mình vừa muốn có một dấu hiệu riêng cho mình. Ðó là thứ ngôn ngữ giới trẻ trò chuyện riêng với nhau.

Chuyện giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt chỉ đặt ra đối với những người không ý thức được tính chất "tếu táo" của cách nói/viết trên, đưa nó vào những lĩnh vực khác, tình huống khác như nói/viết với người lạ, người trên, trong giấy tờ hành chính, đơn xin việc…

Và lúc đó, phản ứng lành mạnh của xã hội làm cho họ hiểu ngay vấn đề: bị mắng, bị bác đơn…

Truyền hình Việt "ngập" tiếng nước ngoài

Bên cạnh những game show giúp khán giả có thêm hiểu biết về tiếng Việt như Vua tiếng Việt và Thử thách bất ngờ, hay trước đây có Trúc xanh…, những năm gần đây nhiều chương trình truyền hình vô tình hay cố ý làm mất đi sự trong sáng của tiếng Việt bởi lạm dụng việc dùng tiếng nước ngoài.

Vietnam's Next Top Model, The Hero, The Face Vietnam, The Remix… đều có tên tiếng Việt, nhưng phần lớn người dẫn chương trình đều đọc tên gốc tiếng Anh và càng về sau các MC ngày càng chêm tiếng Anh vào chương trình càng nhiều.

Ví dụ như trong mùa 1 Thần tượng đối thần tượng, MC và nghệ sĩ tham gia thường xuyên gọi tên tiếng Anh của chương trình là The Heroes, rồi đưa từ master (bậc thầy), producer (nhà sản xuất), team (đội) vào lời thoại. Các đội cũng được đặt tên bằng tiếng Anh, người xem phân biệt tên các đội cũng rối não.

Thậm chí trong chương trình giải trí như Người ấy là ai?, Ca sĩ mặt nạ…, một thành viên trong ban cố vấn là nghệ sĩ hài cứ liên tục chêm tiếng Anh vào lời nhận xét của mình. Đỉnh điểm trong tập 9 của Ca sĩ mặt nạ, khi nhận xét về tiết mục biểu diễn của Phượng Hoàng Lửa, anh bắn loạt từ tiếng Anh như fantastic (thần kỳ), wonderful (tuyệt vời), significant! (ý nghĩa), magnificent! (tráng lệ), outstanding (nổi bật), Class of Titans... rồi nói thêm "Đây là world class, thưa quý vị"…

Một số người xem chương trình viết nhận xét trên YouTube: "MC quốc dân nhưng vốn tiếng Việt không đủ nên phải dùng tiếng Anh nhận xét hay sao?", "Xem chương trình Việt Nam toàn thấy xổ tiếng Anh…". Có người nhận xét: "Làm màu".

Mà MC ấy "làm màu" thật, khi anh ấy chêm thường xuyên từ "class" tiếng Anh đầy khó hiểu vào câu hỏi của mình. Trong khi đó, chỉ cần nói từ tiếng Việt "đẳng cấp" vừa nghe dễ hiểu vừa dễ chịu hơn rất nhiều.

"Chúng tôi là người trẻ, được học được biết tiếng Anh còn phải suy nghĩ, thử hỏi những người lớn tuổi, những khán giả ở vùng quê xem truyền hình, đâu phải ai cũng hiểu những từ này. Mà cũng thật lạ lùng khi chương trình do người Việt sản xuất dành cho người Việt lại phải có phụ đề tiếng Việt giải nghĩa những từ ấy" - khán giả Lan Anh ở quận Tân Bình (TP.HCM) ta thán.

Chêm nhiều tiếng Anh trong các chương trình truyền hình không chỉ khiến khán giả cao tuổi, những khán giả nông thôn - đây là đối tượng xem truyền hình nhiều nhất - bị căng thẳng thần kinh, gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thu thông tin mà còn thể hiện sự thiếu trách nhiệm của nghệ sĩ, của những người thực hiện chương trình đối với khán giả và nhất là không tôn trọng tiếng mẹ đẻ của mình. Điều này làm mất sự trong sáng vốn có của tiếng Việt. (HOÀNG LÊ)

Lam Điền thực hiện

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 20.11.2022.

1. Ngôn ngữ không phải chỉ là công cụ của tư duy mà còn là sản phẩm của tư duy, là “hiện thực thứ hai của tinh thần”, là linh hồn của một dân tộc. Nhà báo, nhà hoạt động cách mạng Nguyễn An Ninh từng khẳng định: “Đối với người An Nam chúng ta, chối từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với chối từ sự tự do của mình”. Ngày nay, người ta không chối từ, nhưng là đang phá hỏng hoặc vô tình phá hỏng mà chưa có một giải pháp căn cơ để chấn hưng.

Những ai thường xuyên đọc sách báo, nghe radio, xem tivi… thì sẽ thấy rõ việc nói sai, viết sai ngày càng trầm trọng đến thế nào. Điển hình nhất có lẽ là sự việc gần đây khi trong một bản tin của VTV, biên tập viên phát thanh như sau: “Dịch Covid-19 đã khiến cho những con phố du lịch, hay là chủ yếu phục vụ khách nước ngoài, tại thành phố Hồ Chí Minh trở nên tiêu điều. Và khi những con phố không còn sức sống, những gánh hàng rong, vốn được xem là sống kí sinh trùng lên những con phố này, sẽ tồn tại ra sao?”. Bản tin trên được ghi lại và cụm từ sống kí sinh/ sống kí sinh trùng đã gây ra một sự phẫn nộ trong cộng đồng. Sự phản ứng của người dân trước cách nói này là hoàn toàn có cơ sở, dù biên tập viên kiêm phát thanh viên kia cố ý hay vô tình. Nghe hết bản tin thì người ta không thấy cái ý miệt thị hay khinh thường của nhà đài đối với những người bán hàng rong, ngược lại còn thể hiện sự chia sẻ nữa; nhưng chính vì năng lực ngôn ngữ không tốt nên không những không truyền đạt được chính xác cái ý mình muốn nói mà còn gây phản tác dụng như đã thấy.

Con người giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ, và ngôn ngữ sẽ chi phối đến mối quan hệ của các nhân vật giao tiếp ấy. Đó là một tác động tất yếu, chính vì thế mỗi người phải chịu trách nhiệm về lời nói của mình. Và cũng chính vì thế mà cần rèn luyện năng lực ngôn ngữ để sự giao tiếp diễn ra bình thường, đạt mục đích. Nhưng hiện trạng của việc sử dụng tiếng Việt đang không như thế, mà xuống cấp đến mức không thể bàng quan, nếu không muốn nói là đáng báo động.

Đấy là chưa kể những văn bản hành chính đòi hỏi sự đơn nghĩa, chính xác, chặt chẽ nhưng đã tạo ra lắm sự bi hài như vẫn thường thấy để rồi phải cười ra nước mắt. Có lẽ, lãnh địa của sự thiếu trong sáng của tiếng Việt không ở đâu nhức nhối như trong nhà trường. Những ai làm giáo viên sẽ có cảm giác bất lực trước câu chữ của học trò, dù là học trò đã học tiếng Việt (và ngữ văn nói chung) suốt 12 năm ròng; ngay cả sinh viên cũng không ra khỏi tình trạng này, dù là sinh viên ngành sư phạm, thậm chí là ngành sư phạm ngữ văn. Những ai từng tham gia chấm thi tốt nghiệp trung học phổ thông, chấm thi tuyển sinh đại học, kể cả chấm khóa luận, luận văn, luận án… sẽ có đủ cơ sở để kết luận về một tình trạng yếu kém có tính hệ thống và phổ biến trong khả năng sử dụng tiếng Việt của người học. Nói sai, viết sai hiện diện ở khắp nơi từ người dân thường cho đến học sinh, sinh viên, nhà báo, nhà giáo, nhà thơ, nhà văn, nhà nghiên cứu phê bình văn học, chính khách…, nói chung là giới trí thức chữ nghĩa, thậm chí cả nhà biên soạn từ điển tiếng Việt. Nếu không kịp thời khắc phục sửa chữa thì tiếng Việt thiêng liêng của ta bị vẩn đục; từ đó theo thời gian sẽ phương hại đến các cơ tầng văn hóa khác.

2. Vì đâu nên nỗi? Tại sao lại có sự sa sút trên diện rộng về sử dụng tiếng Việt như thế? Người ta vẫn nói nhiều về sự yếm thế, lép vế của môn ngữ văn trong nhà trường. Ở đây, tôi muốn nói câu chuyện nhà trường đang thiên về dạy-tri-thức-tiếng-Việt chứ không phải dạy-tiếng-Việt! Nghĩa là dạy những thứ trừu tượng được trừu xuất từ thực thể tiếng Việt, hay nói cách khác là một thứ tiếng Việt chết. Các kiến thức về ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa được dạy là những mô hình chứ không phải là ngôn ngữ sống. Và việc học thuộc tất cả những tri thức ấy không bao giờ hứa hẹn về một tương lai rằng người học sẽ sử dụng đúng và sử dụng tốt tiếng mẹ đẻ của mình. Hãy hình dung thế này, khi một đứa trẻ được dạy về giải phẫu học cơ thể mèo thì điều đó không đảm bảo cho việc đứa trẻ ấy sẽ biết cách nuôi dưỡng, chăm sóc và thương yêu một con mèo.

Đấy là chưa nói tới việc quá nửa tri thức tiếng Việt trong nhà trường đang được truyền dạy cho người học là sai lầm, không phản ánh đúng thực tế tiếng Việt. Chúng là những mô hình sinh ra từ cái nhìn “dĩ Âu vi trung” mà nhà ngữ học Cao Xuân Hạo đã dành cả đời để minh định và gột rửa. Nhưng chân lí khoa học đôi khi chưa thể vượt qua được những thứ ngoài khoa học.

20201229

Ảnh: Nhà ngữ học Cao Xuân Hạo

“Ngữ” trong nhà trường thì như thế, còn “văn” thì sao? Tình trạng văn mẫu (ở cả trò lẫn thầy), học thuộc kiến thức “chuẩn” và chỉ thi cái kiến thức “chuẩn” ấy đã khiến cả người dạy và người học gần như làm cái công việc duy nhất là ghi nhớ (lời của người khác). Nó làm ta nhớ tới câu chuyện cười dân gian “Mất rồi! Cháy!” trong sách giáo khoa. Đề thi trung học phổ thông quốc gia môn ngữ văn những năm gần đây đã có sự đổi mới về hình thức, nhưng cơ bản vẫn chưa thay đổi về chất khi phần lớn câu hỏi đều hoặc dễ dãi hoặc áp đặt hoặc không có tính kích thích tư duy của thí sinh.

3. Nhà báo Nguyễn An Ninh đã dẫn một định đề mà tôi rất tâm đắc: “Điều gì người ta suy nghĩ kĩ sẽ diễn đạt rõ ràng, và dễ dàng tìm thấy những từ để nói ra”. Sự xác quyết này là chiếc chìa khóa giúp mở căn phòng tối cho ánh sáng tràn vào.

Việc dạy tri thức tiếng Việt và sửa các lỗi hành văn là cần thiết, nhưng sẽ không bao giờ giải quyết được gốc rễ của vấn đề, vì đó là cái ngọn, là hiện tượng sinh ra từ một nguyên nhân bên trong thuộc về thế giới tinh thần. Chính vì thế không bàn thêm về tri thức tiếng Việt trong nhà trường, tôi chỉ muốn đề cập đến một tinh thần căn cơ để giải quyết vấn nạn “hành văn” ở ta: TƯ DUY. Giáo dục phải tạo môi trường, nuôi dưỡng và khuyến khích tư duy độc lập, tư duy phản biện. Chừng nào chưa làm được việc này thì mọi sự truyền đạt kiến thức đều không thể đưa tới một kết quả cơ bản, khả quan.

Chỉ khi con người suy nghĩ thấu đáo, hình thành quan điểm cá nhân trên cơ sở đã khảo cứu, phản biện những luồng quan điểm khác để kiến tạo một niềm tin từ luận lí thì khi ấy người ta sẽ trở thành nhà hùng biện, nhà diễn thuyết, hay ít nhất cũng sẽ diễn đạt một cách rõ ràng, chính xác suy nghĩ của mình. Nói ngược lại là thế này: Nếu anh chưa có suy nghĩ, quan điểm của mình thì yêu cầu về việc diễn đạt đúng và hay là một yêu cầu không thực tế. Không có gạo mà yêu cầu phải nấu cơm ngon thì lấy gì mà nấu!

Từ nguyên tắc trên phải dẫn tới tư tưởng dạy học theo phương pháp đối thoại, giải quyết vấn đề và chấp nhận các quan điểm trái chiều trong tranh luận; xây dựng một môi trường giáo dục với không khí học tập cởi mở, năng động, ở đó người học có cơ hội được suy tư, được thảo luận, được phát biểu chính kiến và được tôn trọng. Môi trường giáo dục hiện đại này sẽ giúp người học phát triển năng lực tư duy, hình thành quan điểm cá nhân, bồi đắp nền tảng logic và nuôi lớn văn hóa đối thoại. Ngôn ngữ sẽ được rèn giũa để trở nên chính xác, sắc bén và đạt đến trình độ nghệ thuật trong một phương cách vận động như thế của giáo dục mà không cần nặng về kiến thức xơ cứng như từ trước tới nay.

4. Như thế, không chỉ giáo dục, mà rộng lớn hơn, cần một xã hội thoáng mở, nơi mọi tư tưởng đều bình đẳng, cùng đối thoại, nơi kích hoạt, di dưỡng và phát triển phẩm tính, cốt cách tinh thần cho mỗi cá nhân. Con đường đi từ gốc này may ra mới đủ khả năng chữa dần căn bệnh sử dụng sai tiếng mẹ đẻ đang ngày càng trầm kha và có nguy cơ làm phương hại các cơ tầng văn hóa trên nhiều mặt.

Đức Thuận

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 16.11.2020.

Theo thông tin từ gia đình, học giả An Chi vừa từ trần lúc 13h05 ngày 12-10-2022 (nhằm ngày 17 tháng chín năm Nhâm Dần) sau mấy năm nằm bệnh.

20221012 2

Tác giả An Chi bên giường bệnh đón nhận quyển Rong chơi miền chữ nghĩa tập 5 vừa mới in xong - Ảnh: NXB Tổng Hợp TP.HCM cung cấp

Ông An Chi tên thật là Võ Thiện Hoa, sinh ngày 27-11-1935 ở xã Bình Hòa, Gia Định, nay thuộc quận Bình Thạnh, TP.HCM. 

Từ năm 1950 đến năm 1955, ông theo học tại Trường Chasseloup-Laubat (nay là Trường trung học phổ thông Lê Quý Đôn) với tên Pháp là Emile Pierre Lucatos. Sau Hiệp định Genève, tuy không thuộc diện được đi tập kết, ông đã quyết định vượt tuyến ra Hải Phòng vào tháng 5-1955, trước thời hạn chấm dứt hiệp định 300 ngày.

Sau 30-4-1975, An Chi được chuyển vào Sở Giáo dục TP.HCM rồi Phòng Giáo dục quận 1 làm nhiều công tác khác nhau. Năm 49 tuổi (1984), ông về hưu non để tập trung đọc sách và nghiên cứu.

Công chúng biết nhiều đến bút danh An Chi và Huệ Thiên của ông kể từ khi ông đứng mục Chuyện Đông chuyện Tây trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay từ năm 1990 và kéo dài suốt 15 năm. Chuyên mục này là sáng kiến của Kiến Thức Ngày Nay nhằm giải đáp những thắc mắc của công chúng liên quan đến từ nguyên, các nghĩa của từ và cách dụng ngữ. 

Tác giả An Chi đã nỗ lực thỏa mãn bạn đọc gần xa, và cũng từ chuyên mục này, tình yêu thích chữ nghĩa và sự quan tâm đến việc giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt được phổ quát và nhân rộng ra nhiều vùng miền. Nhiều bạn đọc từ các tỉnh thành xa xôi cũng từ việc hâm mộ An Chi mà quan tâm nhiều hơn đến chữ nghĩa.

Nhớ lại những ngày cùng làm việc với học giả An Chi, ông Lê Khắc Cường - nguyên thư ký tòa soạn Kiến Thức Ngày Nay - chia sẻ: "Chuyện Đông chuyện Tây chính là chuyên mục thành công nhất của Kiến Thức Ngày Nay, điều ấy không phải bàn cãi. Hằng ngày tôi đọc được bao nhiêu thư của bạn đọc khen Chuyện Đông chuyện Tây, khen sự uyên bác của người phụ trách".

Trong chiều hướng ấy, giáo sư Cao Xuân Hạo cũng dành cho An Chi những lời đánh giá cao: "Những câu trả lời của anh [An Chi] trên tạp chí đã làm thỏa mãn được phần đông độc giả vì đó đều là kết quả của một quá trình tra cứu nghiêm túc, đầy tinh thần trách nhiệm đối với khoa học và đối với những người đã có lòng tin cậy mình. Thêm vào đó là lời văn trong sáng, đĩnh đạc, nhiều khi dí dỏm một cách nhã nhặn và tuệ minh, làm cho việc đọc anh trở thành một lạc thú thanh tao".

Trong khi nằm bệnh, các tập sách của học giả An Chi vẫn được săn sóc và ấn hành, nhờ vào nỗ lực của NXB Tổng Hợp TP.HCM. Mới tuần rồi, tập thứ năm của loạt sách nhan đề Rong chơi miền chữ nghĩa vừa được ra mắt bạn đọc.

Nhân dịp này, nhà thơ nhà báo Lê Minh Quốc dành cho tác giả An Chi những lời tâm sự chí tình: "Trong cuộc đời, tôi là người may mắn. Có lẽ may mắn nhất là tôi có được những người thầy, dù chưa học họ một ngày, hoặc chưa từng gặp mặt nhưng thâm tâm luôn kính trọng họ. 

Chừng hơn hai mươi năm trước, tôi rất thích đọc chuyên mục Chuyện Đông chuyện Tây trên tạp chí Kiến Thức Ngày Nay do cụ An Chi đứng mục. Cũng trong thời gian này, tôi hay tìm đọc những bài viết của cụ Nguyễn Dư trên trang điện tử Chim Việt cành Nam. Cả hai cụ đã truyền cho tôi cảm hứng bất tuyệt về tình yêu tiếng Việt".

Một số tác phẩm của An Chi có thể kể: Chuyện Đông chuyện Tây, Từ Thập Nhị Chi đến 12 con giáp, Từ nguyên, Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm (bút danh Huệ Thiên), Câu chữ Truyện Kiều, Rong chơi miền chữ nghĩa (5 tập)...

Hiện linh cữu ông An Chi quàn tại 482/52C Lê Quang Định, phường 11, quận Bình Thạnh, TP.HCM.

Chương trình lễ tang: Nhập quan lúc 21h ngày 12-10; động quan lúc 13h ngày 14-10, sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.

Lam Điền

Nguồn: Báo Tuổi trẻ, ngày 12.10.2022.

Bài viết giải đáp được phần nào các câu hỏi: Vì sao cùng là ngôn ngữ đơn lập mà tiếng Việt làm được chữ biểu âm còn tiếng Hán thì không; vì sao tiếng Nhật rất nghèo âm tiết lại làm được chữ biểu âm; vì sao phần lớn các nước đều dùng ngôn ngữ đa lập và chữ biểu âm.

20201106 8

Tuy không còn nhiều người tìm hiểu về ngôn ngữ của cha ông trong quá khứ nhưng những lớp học chữ Nho như thế này vẫn có lượng “học trò” nhất định, bao gồm cả người già và người trẻ. Trong ảnh: Lớp học tại chùa Mễ Trì Thượng (Nam Từ Liêm, Hà Nội). Nguồn: Zing.

 

Tiếng Việt kỳ diệu

Hai dân tộc Kinh Việt Nam và Hán Trung Quốc (TQ) có nhiều điểm giống và khác nhau. Trong 1000 năm Bắc thuộc, nước ta bị Hán hóa toàn diện, các khác biệt bị xói mòn rất nhiều. May sao tổ tiên ta vẫn giữ được một khác biệt căn bản nhất – ngôn ngữ. Giữ được thế cũng là nhờ tiếng Việt tiềm ẩn những tính năng kỳ lạ, chẳng hạn ngữ âm cực kỳ phong phú, có thể ghi âm hầu như mọi ngữ âm ngoại ngữ.

Sau 1000 năm bị Hán hóa, ngôn ngữ Việt chấp nhận chữ Hán nhưng cấm cửa tiếng Hán. Tổ tiên ta đã nghĩ ra cách đọc chữ Hán bằng tiếng Việt (gọi là từ Hán-Việt) mà không đọc bằng tiếng Hán, tức Việt Nam hóa phần ngữ âm của chữ Hán, biến thành chữ của mình, gọi là chữ Nho với ý nghĩa “Chữ của người có học”. Chữ Nho chính là chữ Hán được phiên âm ra tiếng Việt, vì thế dễ học hơn. Tổ tiên ta có thể dùng chữ Nho bút đàm giao dịch với quan chức chính quyền chiếm đóng, đạt được yêu cầu bắt dân ta học chữ của chúng. Rốt cuộc người Việt có chữ để ghi chép và giao tiếp nhưng vẫn đời đời nói tiếng mẹ đẻ, không ai nói tiếng Hán. Mưu toan Hán hóa ngôn ngữ hoàn toàn thất bại1.

Giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ và nhờ đó giữ được nòi giống và đất nước mình - đây là thắng lợi vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Nói theo ngôn ngữ học hiện đại, là tổ tiên ta đã biết lợi dụng đặc điểm ghi ý không ghi âm của chữ Hán để đọc chữ Hán bằng bản ngữChữ Nho đã thầm lặng vô hiệu hóa quá trình Hán hóa ngôn ngữ. Từ Hán-Việt đã giúp kho tàng từ vựng tiếng Việt phong phú thêm nhiều lần cả về số lượng và mỹ cảm. Cho dù khoảng 60% từ vựng tiếng Việt hiện nay có gốc Hán ngữ nhưng đó chỉ là hiện tượng giao thoa ngôn ngữ bình thường. Tại TQ, khoảng 70% từ ngữ tiếng Hán hiện dùng có gốc tiếng Nhật2.

Để sửa nhược điểm chữ Nho không ghi được tiếng Việt, thế kỷ XII tổ tiên ta làm một thử nghiệm ngôn ngữ táo bạo: sáng tạo chữ Nôm có yếu tố biểu âm, ghi được tiếng Việt. Chữ Nôm cấu tạo trên nền tảng chữ Hán, biết chữ Hán mới học được chữ Nôm, vì vậy phụ thuộc Hán ngữ và khó phổ cập, lại chưa được nhà nước công nhận, thời gian tồn tại quá ngắn. Tuy vậy, do chữ Nôm thể hiện được tiếng nói và nỗi lòng của số đông bình dân nên đã tạo dựng được một nền văn học mới trội hơn hẳn văn học chữ Nho, mở ra một giai đoạn phát triển rực rỡ nền văn hóa Việt. Thử nghiệm này còn hé lộ một tính năng tiềm tàng cực kỳ quý giá của tiếng Việt - thích hợp chữ biểu âm (phonograph). Đây là điều kiện tất yếu về ngôn ngữ học để 5 thế kỷ sau các giáo sĩ Francesco de Pina, Cristoforo Borri, Alexandre de Rhodes,…làm được chữ biểu âm Latin hóa cho tiếng Việt. Giả thử các giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học ấy đến TQ làm chữ biểu âm cho tiếng Hán thì chắc chắn cực kỳ khó khăn bởi lẽ tiếng Hán không thích hợp chữ biểu âm.



Nghiên cứu về di sản chữ Viết ở Việt Nam là một trọng tâm được các Viện nghiên cứu về KHXH quan tâm trong nhiều năm qua. Gần đây nhất, dự án hợp tác Pháp – Việt Vietnamica sẽ số hóa nhiều di sản Hán Nôm. Trong ảnh: Ông Gaudemar (Tổng giám đốc Tổ chức Đại học Pháp ngữ) và Ông Verdier (Chủ tịch Viện Khảo cứu cao cấp Pháp) đi in rập thác bản văn bia cùng Viện Nghiên cứu Hán Nôm và đoàn Dự án Vietnamica tại chùa Nôm, Hưng Yên, 6/11/2019. Ảnh: Fb Nguyễn Tuấn Cường. 


Với hai ưu điểm quý giá  biểu âm và Latin hóa  chữ Quốc ngữ đã làm thay đổi hẳn đời sống ngôn ngữ, văn hóa, xã hội nước ta, mở ra một kỷ nguyên mới cho nền văn minh Việt. Loại chữ này ghi âm được 100% tiếng Việt, thực hiện nói/nghĩ thế nào viết thế ấy, viết thế nào đọc thế ấy, lại dễ học dễ dùng chưa từng thấy. Giới tinh hoa nước ta ca ngợi Chữ Quốc ngữ là hồn đất nước. Trên thế giới đã có chữ viết nào được đánh giá cao như thế?

Nói chữ biểu âm Latin hóa là loại chữ viết tiên tiến chắc sẽ bị những người theo “Thuyết chữ Hán ưu việt” phủ định, nhưng lại được hai sự việc sau khẳng định: 1- Người TQ từng bỏ ra ngót 100 năm thực thi cải cách chữ viết theo hướng làm chữ biểu âm Latin hóa thay cho chữ Hán. 2- Toàn bộ 14 phương án chữ viết do Nhà nước TQ làm sau năm 1949 cho 10 dân tộc thiểu số chưa có chữ đều dùng chữ biểu âm Latin hóa. Dân tộc Tráng từ xưa đã có chữ vuông kiểu chữ Nôm, Nhà nước vẫn làm chữ mới biểu âm Latin hóa cho họ.

Cùng với những chuyển biến của lịch sử đầu thế kỷ XX, chữ Quốc ngữ góp phần thúc đẩy nền văn minh Việt phát triển với tốc độ gấp trăm lần quá khứ. Thứ chữ này nhanh chóng được toàn dân hân hoan chào đón và học tập, vừa nâng cao dân trí vừa có tác dụng thống nhất âm tiếng Việt trong cả nước, qua đó góp phần thống nhất dân tộc. Dùng chữ Quốc ngữ có thể dịch các từ ngữ Hán-Nôm và ngoại văn ra tiếng Việt, nhờ thế dân ta được tiếp xúc với kho tàng văn hóa của tổ tiên, các trào lưu tư tưởng mới và khoa học kỹ thuật phương Tây. Các lĩnh vực văn học, giáo dục, nghệ thuật, báo chí, xuất bản nhanh chóng hình thành và phát triển, vượt xa mấy nghìn năm cũ. Cây văn hóa Việt Nam vươn cao, thoát khỏi nguy cơ còi cọc vì cớm nắng do ở cạnh đại thụ văn hóa Trung Hoa. Phạm Quỳnh nói chữ Quốc ngữ là công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt. Đúng thế, dùng chữ Quốc ngữ có thể ghi lại mọi ý nghĩ, không bị gián đoạn do phải tra tìm chữ như khi dùng chữ Hán, chữ Nôm, nhờ thế trí tuệ được giải phóng, dẫn đến sự hình thành một tầng lớp trí thức tân tiến. Do chữ cái Latin dùng được kỹ thuật in chữ rời, các sách báo, ấn phẩm đua nhau xuất bản. Các tổ chức cách mạng đều dùng chữ Quốc ngữ để tuyên truyền tư tưởng yêu nước chống thực dân phong kiến.

Chữ Quốc ngữ làm cho tiếng Việt trở thành ngôn ngữ độc lập với chữ Hán. Thời xưa Việt Nam, Nhật, bán đảo Triều Tiên đều dùng chữ Hán; khi thấy mặt hạn chế của nó, cả ba đều cố “Thoát Hán” về ngôn ngữ. Bán đảo Triều Tiên thế kỷ XV làm chữ biểu âm Hangul, nhưng Hàn Quốc hiện vẫn phải dùng chữ Hán để chú giải các từ ngữ cần chính xác (như về pháp lý). Người Nhật thế kỷ IX làm chữ biểu âm Kana, nhưng hiện vẫn dùng gần 2000 chữ Hán. Riêng Việt Nam nhờ dùng chữ Quốc ngữ mà từ năm 1919 chính thức bỏ chữ Hán. Quá trình “Thoát Hán -Thoát Khổng” này nhanh gọn, không gây ra sự đứt gãy văn hóa, là một thắng lợi văn hóa-tư tưởng cực kỳ quan trọng.

 

Hán ngữ nhìn từ tiếng Việt

Sau khi tiếp xúc phương Tây, giới tinh hoa TQ nhận ra các nhược điểm nghiêm trọng của chữ Hán. Từ cuối thế kỷ XIX, họ bắt đầu nghiên cứu cải cách Hán ngữ theo hướng phiên âm hóa chữ Hán do nhà truyền giáo người Ý Matteo Ricci đề ra năm 1605. Đầu tiên họ làm ra chữ thiết âm (1892), đến 1911 đã đề ra 28 phương án chữ phiên âm. Thời Ngũ Tứ, nhiều học giả đòi bỏ chữ Hán, dùng chữ phiên âm. Năm 1918, TQ ban hành phương án “Chú âm Tự mẫu” dùng 39 chữ cái ghi âm Hán ngữ, là công cụ để nghiên cứu phần ngữ âm tiếng Hán. Phương án này hiện vẫn dùng ở Đài Loan và trong các tự điển của TQ.

Năm 1952, Mao Trạch Đông chỉ thị cải cách chữ Hán phải theo xu hướng phiên âm chung của thế giới. Năm 1954 TQ lập Ủy ban Cải cách chữ viết, tiến hành cải cách chữ Hán với quy mô lớn chưa từng có. Ngô Ngọc Chương Chủ nhiệm Ủy ban nói: TQ sau này sớm muộn sẽ phải chuyển sang dùng chữ phiên âm (tức chữ biểu âm), đây là quy luật khách quan phát triển chữ viết của thế giới; nhưng TQ không chủ trương bỏ chữ Hán…



Một số ví dụ về hiện tượng từ đồng âm khiến người Trung Quốc thường phải giải thích cách viết của những từ đồng âm để tránh gây hiểu lầm. 


Cải cách chữ viết đã đạt được thành tựu quan trọng:  - Đơn giản hóa (bớt nét) được vài nghìn chữ Hán để chữ trở nên dễ học dễ nhớ;  - Làm ra Phương án Pinyin Hán ngữ dùng chữ cái Latin có thể ghi chú âm (phiên âm) cho chữ Hán, mã hóa chữ Hán đưa vào máy tính, đánh chữ trên máy tính và smartphone, quốc tế hóa chữ Hán;  - Chuẩn hóa chữ Hán, xác định tiếng Phổ thông (Standard Mandarin) là tiếng nói của toàn dân. Các thành tựu trên đã được luật hóa và áp dụng trong cả nước, giúp nâng cao tỷ lệ biết chữ, thống nhất ngôn ngữ. Hiện nay TQ đã áp dụng rộng rãi chế độ “Nhất ngữ Song văn”(Một tiếng nói, hai chữ viết): Toàn dân nói một thứ tiếng Phổ thông; chữ Hán là chữ viết pháp định, vẫn dùng như cũ, kèm theo dùng chữ Pinyin Hán ngữ để ghi âm chữ Hán.

Từ 1986, Nhà nước TQ ngừng đặt vấn đề làm chữ biểu âm thay chữ Hán, và nói tương lai chữ Hán sẽ do các thế hệ sau quyết định. Nghĩa là rốt cuộc TQ đã không đạt được mục tiêu tạo loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán.

Ở đây có hai vấn đề: có nên bỏ chữ Hán không và có thể làm được chữ biểu âm cho Hán ngữ không. Hiển nhiên, bỏ chữ Hán sẽ gây thảm họa bỏ mất di sản vĩ đại của nền văn minh Trung Hoa 5000 năm; 1,4 tỷ người Hoa khó có thể chấp nhận. Việc làm chữ biểu âm có nhiều khó khăn, chủ yếu là Hán ngữ có quá nhiều chữ hoặc từ đồng âm.

Chữ/từ đồng âm (homophonic words) là những chữ/từ khác nhau về tự hình và ý nghĩa nhưng đọc cùng âm, do đó mỗi chữ/từ có nhiều ý nghĩa khác nhau, khi nghe đọc hoặc khi dùng chữ biểu âm sẽ không phân biệt được, gây hiểu lầm. Chữ đồng âm dẫn tới cụm từ đồng âm, làm cho ngôn ngữ kém chính xác. Đây là vấn đề của Hán ngữ chứ không phải của chữ Hán. Một ngôn ngữ chính xác thì không nên có chữ/từ đồng âm, nhưng thực tế ngôn ngữ nào cũng ít nhiều có hiện tượng này. Khi có nhiều chữ/từ đồng âm thì không thể dùng chữ biểu âm – vì nhìn chữ sẽ chẳng hiểu gì. Như câu 他 叫 她 跟 它 走 khi nhìn chữ Hán (chữ biểu ý, ideograph) thì có thể hiểu ý nghĩa, nhưng nhìn chữ biểu âm Ta jiao ta gen ta zou thì chẳng thể hiểu, vì ba chữ 他, 她, 它 (he, she, it) cùng đọc [ta]. Đoạn văn 施氏食狮史3 cho thấy rõ nạn đồng âm đã giết chết chữ biểu âm.

Tổ tiên người TQ hiểu lẽ đó nên đã làm chữ viết có tính biểu ý (tức chữ Hán) mà không làm chữ biểu âm. Thế nhưng hiện nay một số học giả TQ vẫn hy vọng giải quyết được vấn đề chữ đồng âm và do đó làm được chữ biểu âm cho Hán ngữ 4.

Qua nghiên cứu tiếng Hán từ trên nền tảng tiếng Việt, chúng tôi cho rằng hy vọng nói trên là không hiện thực. Ngay từ năm 1954 Ủy ban Cải cách chữ viết TQ đã đặt nhiệm vụ tham khảo chữ Quốc ngữ Việt Nam. Nhưng năm 2009 một học giả hàng đầu TQ chê bai: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười.”5 Do nhìn chữ Quốc ngữ với con mắt trọng tự hình, nhẹ ngữ âm nên họ chỉ thấy “giày, mũ” mà chưa thấy một điều quan trọng: tiếng Việt giàu âm tiết, tiếng Hán nghèo âm tiết, do đó Hán ngữ có quá nhiều chữ đồng âm, hậu quả là không làm được chữ biểu âm.

“Nghèo âm tiết” là nói số âm tiết ngôn ngữ đó sở hữu nhỏ hơn số đơn từ thông dụng.

Để xác minh Hán ngữ nghèo âm tiết, chúng tôi đã dùng “Tự điển Tân Hoa” bản thứ 10 (có 8700 đơn tự) để thống kê số âm tiết có trong tự điển, kết quả được 415 âm tiết không xét thanh điệu, gồm 22 âm tiết có một chữ, 393 âm tiết có 2 chữ trở lên (tức có chữ đồng âm); đổ đồng mỗi âm tiết có 22 chữ đồng âm. Một số âm tiết có quá nhiều chữ đồng âm: [yi] có 135, [ji] – 123, [yu] – 118, [xi] – 103,…. So với 8105 chữ thông dụng Nhà nước TQ quy định thì 415 âm tiết rõ ràng là nghèo âm tiết,

Số liệu trên không khác mấy số liệu của TQ 5. Li Gong-Yi dựa "Hán tự Tin tức tự điển" (7785 đơn tự) thống kê, được 414 âm tiết không xét thanh điệu, gồm 22 âm tiết có một chữ, 392 âm tiết có chữ đồng âm; [yi] có 131, [ji] – 121, [yu] – 115, [xi] – 102, [fu] – 99 chữ. Khi thống kê theo “Từ Hải” (19485 đơn tự), âm [yì] (khứ thanh) có 195 chữ! Thống kê âm tiết có xét thanh điệu thì tiếng Hán có khoảng 1400 âm tiết – so với 8105 chữ thông dụng thì vẫn là quá nghèo âm tiết. Nếu xét toàn kho chữ Hán 100 nghìn chữ (và không ngừng tăng) thì số chữ đồng âm quá nhiều.

Dễ thấy tiếng Việt giàu âm tiết: có 11 âm ă, â, b, đ, gh, ô, ơ, ư, v, ng, nh mà tiếng Hán không có; về thanh điệu tiếng ta có 6, tiếng Hán 4. Thống kê âm tiết (không xét thanh điệu) bắt đầu bằng nguyên âm A: tiếng ta có 27, tiếng Hán có 5 âm tiết6. Dễ thấy tiếng ta có nhiều âm tiết chưa dùng, như đỉu, đĩu, bỉa, bĩa… Hiện chưa có số liệu âm tiết tiếng Việt do Nhà nước công bố. Một công bố trên mạng cho biết tiếng Việt có 17.974 âm tiết, trong đó quá nửa chưa dùng7. Một công bố khác nói có hơn 6000 âm tiết đã dùng8.

Tiếng Hán và tiếng Việt thuộc loại ngôn ngữ đơn âm tiết (đơn lập, monosyllabic), mỗi tiếng một âm tiết, do đó cần dùng rất nhiều âm tiết, vì thế dễ xảy ra nạn lắm chữ/từ đồng âm. Như đã nói, tiếng Việt giàu âm tiết nên không có nạn đồng âm, do đó làm được chữ biểu âm; tiếng Hán nghèo âm tiết nên có nạn đồng âm nghiêm trọng, do đó không làm được chữ biểu âm. Theo chúng tôi, chừng nào Hán ngữ còn là ngôn ngữ đơn lập và nghèo âm tiết thì còn chưa thể làm chữ biểu âm, suy ra không thể thay được chữ Hán. Kết luận này dường như không hợp với quan điểm của học giả TQ, hy vọng vào việc làm được chữ biểu âm (viết trong tài liệu số 4).

 

Ngôn ngữ đa âm tiết

Có một sự thực: tiếng Nhật ít âm tiết hơn tiếng Hán (100 so với 415)9 mà vẫn làm được chữ biểu âm Kana – điều đó chứng tỏ tiếng Nhật có số đơn từ khác âm nhiều hơn số đơn từ cần dùng. Như đã biết, tiếng Nhật thuộc loại ngôn ngữ đa âm tiết (đa lập, polysyllabic, multisyllabic), ví dụ từ samurai  Hiroshima có 3 và 4 âm tiết.

Trong ngôn ngữ đa lập, mỗi đơn từ có thể là một chỉnh hợp (arrangement, tổ hợp có phân biệt thứ tự) gồm ít nhất 2 âm tiết khác nhau. Sau đây sẽ dùng toán học để chứng minh kết cấu chỉnh hợp tạo ra tổng số đơn từ lớn hơn tổng số âm tiết của ngôn ngữ. Khi ấy được bài toán tính số chỉnh hợp chập k của một tập hợp chứa n phần tử. n là lượng âm tiết của ngôn ngữ; k là số âm tiết khác nhau trong một đơn từ, A là số lượng các chỉnh hợp (đơn từ) tạo ra từ n âm tiết. Kết quả A bằng n giai thừa (factorial) chia cho (n - k) giai thừa:

(n, k) =  n! / (n-k)!

Rõ ràng A lớn hơn n rất nhiều; k càng lớn thì A càng lớn. Khi k=2 thì A= (n-1) n ; khi k=3 thì A=(n-2) (n-1) n…Tóm lại, kết cấu chỉnh hợp có ưu điểm tạo ra số lượng đơn từ rất lớn, khiến cho ngôn ngữ dù nghèo âm tiết vẫn làm được chữ biểu âm.

Ví dụ một ngôn ngữ có 415 âm tiết (n = 415), khi mỗi đơn từ là một chỉnh hợp 2 âm tiết (k = 2, như city, семья), tổng số đơn từ A sẽ bằng (415-1)(415), tức 171810 đơn từ, quá nhiều so với 415 âm tiết. Khi k = 3 (như minister, привычка) được 70957530 đơn từ.

Giả thử Hán ngữ là ngôn ngữ đa lập, mỗi từ 2 âm tiết, thì do có 171810 đơn từ nên không thể có chữ đồng âm. Tiếc rằng không thể cải tạo Hán ngữ từ đơn lập thành đa lập. Tiếng Nhật có thể chỉ dùng chữ biểu âm Kana nhưng vì để thừa kế di sản văn hóa mà Nhật hiện vẫn dùng gần 2000 chữ Hán kết hợp với chữ Kana.

 

Kết luận    

Các trình bày nói trên đã chứng minh hai luận điểm của tác giả:

1- Ngôn ngữ đơn lập nếu nghèo âm tiết thì không thể làm được chữ biểu âm, nếu giàu âm tiết thì làm được chữ biểu âm.

2- Ngôn ngữ đa lập dù nghèo âm tiết vẫn có thể làm được chữ biểu âm.

Từ đó giải đáp được các câu hỏi vì sao cùng là ngôn ngữ đơn lập mà tiếng Việt làm được chữ biểu âm còn tiếng Hán thì không; vì sao tiếng Nhật rất nghèo âm tiết lại làm được chữ biểu âm; vì sao phần lớn các nước đều dùng ngôn ngữ đa lập và chữ biểu âm.

Xin nói thêm: cho dù hiện nay chữ Hán vẫn bị phê phán, song cần thấy rằng chữ Hán là lựa chọn hợp lý của người TQ. Chữ Hán có tính biểu ý thích hợp với một đất nước quá rộng và đông dân, nói hàng trăm phương ngữ khác nhau, hơn nữa ngôn ngữ nói có quá nhiều chữ/từ đồng âm, nếu chỉ dựa vào thính giác thì rất khó phân biệt (nhưng không thể tránh được tình trạng này, bởi lẽ Hán ngữ nghèo âm tiết). Những lý do ấy không cho phép Hán ngữ dùng chữ biểu âm; từ đó suy ra chữ Hán sẽ không thể bị thay thế, – nghĩa là chữ Hán sẽ không bao giờ bị từ bỏ. Chấp nhận quan điểm Chữ Hán là báu vật thời xưa lại là gánh nặng thời nay nhưng người Trung Quốc sẽ không vì mang gánh nặng ấy mà tiến chậm trên con đường hiện đại hóa, bởi lẽ họ nổi tiếng cần cù, chịu khó, chịu khổ lại được tiếp nguồn sức mạnh to lớn của nền văn minh Trung Hoa 5000 năm. 

Nguyễn Hải Hoành

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 11.6.2020.

-----

Ghi chú:

1Nguyễn Hải Hoành: "Tại sao Việt Nam không bị đồng hóa sau 1000 năm Bắc thuộc"  http://nghiencuuquocte.org/2015/09/07/viet-nam-khong-bi-dong-hoa-1000-nam-bac-thuoc/

2Nguyễn Hải Hoành: “Người Nhật phát triển Hán ngữ hiện đại ”.

http://nghiencuuquocte.org/2017/02/07/nguoi-nhat-phat-trien-han-ngu-hien-dai/

Nguyễn Hải Hoành : “Lạm bàn về tính ghi ý của chữ Hán ”.

https ://tiasang.com.vn/-van-hoa/Lam-ban-ve-tinh--ghi-y-cua-chu-Han-Nhan-doc-”Nghien-cuu-chu-Han-hien-dai-cua-the-ky-XX”-17438

4 苏培成著 “二十世纪的现代汉语研究”, 书海出版社2001版.

Nguyễn Hải Hoành : “ Sao lại nói chữ Quốc ngữ Việt Nam rất nực cười ”   http ://vanhoanghean.com.vn/component/k2/35-dien-dan/12220-sao-lai-noi-chu-quoc-ngu-viet-nam-rat-nuc-cuoi

6 Tiếng Việt : a, ac, ach, ai, am, an, ang, anh, ao, ap, at, au, ay ; ăc, ăm, ăn, ăng, ăp, ăt ; âc, âm, ân, âng, âp, ât, âu, ây (27 âm tiết). Tiếng Hán : a, ai, an, ang, ao (5 âm tiết).

7  All syllables in Vietnamese language.  (http://www.hieuthi.com/blog/2017/03/21/all-vietnamese-syllables.html).

8  http ://luom.tv/2015/11/01/danh-sach-am-tiet-tieng-viet-xep-theo-van/

http://afe.easia.columbia.edu/japan/japanworkbook/language/lsp.htm

Tiến sĩ, Linh mục Phạm Hữu Lai sinh năm 1937 tại Nam Định. Ông tốt nghiệp Tiến sĩ Ngôn ngữ Tổng quát tại Đại học Sorbonne (Pháp), từng là giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ông vừa từ trần ngày 11/08/2022. Website Khoa Văn học đăng lại bài viết Phạm Hữu Lai và ngữ học cấu trúc của GS. Huỳnh Như Phương như một cách tưởng niệm ông.

Nói đến việc truyền bá ngữ học cấu trúc của F. de Saussure ở miền Nam Việt Nam trước 1975, có lẽ nên dành vị trí đặc biệt cho Phạm Hữu Lai, giảng viên Đại học Văn khoa Sài Gòn, tiến sĩ tốt nghiệp Đại học Sorbonne, có thiên hướng khoa học nghiêng về trường phái Praha. Công trình Ferdinand de Saussure và ngữ học cơ cấu (1) (Tủ sách Ngữ học, Sài Gòn, 1974) của ông là một tập bài giảng in ronéo giản dị, lưu hành nội bộ trong năm học cuối cùng của chiến tranh sau một thời gian được chính tác giả truyền đạt cho các khóa sinh viên ban Ngữ học (2).

Tài liệu học tập này gồm hai phần. Phần thứ nhất “Trình bày”: giới thiệu thân thế và sự nghiệp F. de Saussure, xác định đối tượng của ngữ học và tính hệ thống của ngữ, chứng minh ngữ là một hệ thống dấu hiệu, để đi đến đúc kết về ngữ học hệ thống và ngữ học cơ cấu. Phần thứ hai “Văn tuyển” trích dịch những đoạn văn chọn lựa trong Cours de linguistique générale (1916), mà Phạm Hữu Lai dịch là Giảng khóa về ngữ học cơ cấu, tương ứng với từng chương mục của phần thứ nhất, giúp người đọc đối chiếu để sáng tỏ hơn những ý kiến trình bày ở phần trước. Ưa thích dùng lớp từ Hán Việt, ngoài thuật ngữ “structure” được dịch là “cơ cấu”, Phạm Hữu Lai còn dịch một số thuật ngữ cơ bản của chủ nghĩa cấu trúc khác với các học giả miền Bắc: “langage” là “ngôn ngữ”, “langue” là “ngữ”, “parole” là ngôn”, “arbitraire” là “chấp định tính”, “signe” là “dấu hiệu”, “sémiologie” là “dấu hiệu học”, “le signifiant” là “tác hiệu”, “le signifié” là “thụ hiệu” (3) …       

Trong tài liệu này, Phạm Hữu Lai khẳng định người đặt nền móng cho cấu trúc luận trong ngôn ngữ học là Ferdinand de Saussure (1857-1913), người Thụy Sĩ gốc Pháp và Giảng khóa về ngữ học cơ cấu vốn là bài giảng được xuất bản sau khi tác giả qua đời, do hai người học trò của ông là Charles Bally và Albert Séchehaye (4) ghi chép, sưu tầm, bổ sung và biên soạn.

Lấy câu nói của Saussure làm lời đề từ cho phần thứ nhất (“Ngữ chỉ có thể là một hệ thống giá trị thuần túy”). Phạm Hữu Lai cho biết Saussure không phải là người đầu tiên đưa từ “hệ thống” vào kho thuật ngữ khoa học – trước ông, từ này đã được Galilée, J. Harris, F. Thurot, F. Bopp sử dụng; nhưng chính Saussure “đã biến một khái niệm có tính cách mô tả thành một ý niệm có sức tác dụng, và nhất là ông đã dùng nó như nền tảng ngữ thuyết của ông và từ đó mở ra một kỷ nguyên mới cho ngữ học: kỷ nguyên của ngữ học cơ cấu”(5) . Ở Saussure, trực giác về tính cách hệ thống trong ngôn ngữ có rất sớm, ngay khi còn rất trẻ, và lần đầu tiên từ “hệ thống” được  ông đưa vào trong Tiểu luận về hệ thống sơ khởi của các nguyên âm Ấn-Âu, hoàn thành vào năm 1878, được xuất bản một năm sau đó. Riêng trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, từ “hệ thống” xuất hiện 138 lần, trong khi từ “cơ cấu” được sử dụng chỉ có ba lần. Saussure cắt nghĩa: “Ngữ là một hệ thống chỉ biết trật tự riêng của nó. So sánh nó với trò chơi cờ tướng sẽ làm ta cảm thấy rõ hơn… Nếu tôi thay thế các quân cờ gỗ bằng các quân cờ ngà, thì sự thay đổi này không liên quan gì đến hệ thống cả; nhưng nếu tôi giảm hay tăng số quân, thì sự thay đổi ấy đụng chạm sâu xa đến ‘văn phạm’ của trò chơi” (6).

Theo Saussure, “ngữ là một hệ thống dấu hiệu” và dấu hiệu có hai mặt gắn liền với nhau như hai mặt của một tờ giấy là tác hiệu và thụ hiệu. Saussure phân biệt ngữ và ngôn: ngữ là một hệ thống, một thiết chế, một tập hợp những quy tắc và quy phạm liên cá nhân, trong khi ngôn bao gồm những biểu hiện có thật của hệ thống đó trong nói và viết.

Phạm Hữu Lai diễn đạt công thức “ngôn ngữ (langage) là ngữ (langue) cộng với ngôn (parole)” căn cứ trên tinh thần của Saussure: “chúng tôi đã phân biệt, trong hiện tượng toàn diện là ngôn ngữ, hai thành tố: ngữ và ngôn. Đối với chúng tôi, ngữ là ngôn ngữ trừ ngôn. Nó là toàn thể các tập quán ngôn ngữ cho phép một chủ thể hiểu và làm cho hiểu mình”(7). Phạm Hữu Lai đúc kết sự phân biệt ngữ và ngôn theo quan điểm Saussure: “Tóm lại, ngữ khác với ngôn cũng như xã hội khác với cá nhân, hay đúng hơn như sự đồng nhất trong xã hội khác với sự dị biệt theo cá nhân, như hệ thống khác với sự hỗn độn. Vì ngôn ngữ xét như một phương tiện truyền thông là một định chế xã hội hơn một sáng kiến cá nhân cho nên ngữ là chính mà ngôn là phụ. Vì cốt yếu của ngôn ngữ là sự truyền thông, cho nên hệ thống chung do xã hội chấp nhận trong ngữ mới quan trọng, còn những dị biệt theo cá nhân trong lời nói của cá nhân không quan trọng” (8).

Dựa theo cách Benveniste giải thích Saussure, Phạm Hữu Lai trình bày tính hệ thống của ngôn ngữ thông qua các cặp đối lập được gọi là “lưỡng tính (dualisme) đối nghịch”: lưỡng tính phát/ thu; lưỡng tính âm/ ý; lưỡng tính xã hội/ cá nhân; lưỡng tính ngữ/ ngôn; lưỡng tính hữu chất/ vô chất; lưỡng tính liên tưởng/ liên tỏa; lưỡng tính đồng nhất/ đối nghịch; lưỡng tính đồng đại/ xuyên đại.

Hệ luận của quan niệm đó là sự cần thiết phải phân biệt hai thứ khoa học: ngữ học đồng đại (linguistique synchronique) và ngữ học xuyên đại (linguistique diachronique) và dành sự ưu tiên cho “phương diện đồng đại của ngữ vì đó là phương diện hệ thống của hệ thống”, còn “phương diện xuyên đại là phương diện không hệ thống của hệ thống” (9).

Giải thích dấu hiệu như một hệ thống gồm hai thành phần là “thính tượng” (image acoustique) và “ý niệm” (idée-concept) hay tác hiệu và thụ hiệu, Saussure viết: “Sợi dây nối kết tác hiệu với thụ hiệu có tính cách chấp định, hay hơn nữa, vì chúng ta hiểu dấu hiệu là toàn thể do sự liên kết một tác hiệu với một thụ hiệu mà ra cho nên chúng ta có thể nói một cách đơn sơ hơn: dấu hiệu ngôn ngữ có tính cách chấp định” (10). Về điểm này, E. Benveniste tỏ ý nghi ngờ tính lô-gích trong cách lý giải của Saussure về tính chấp định trong tương quan giữa tác hiệu và thụ hiệu. Trái lại, Phạm Hữu Lai dẫn ra một câu văn của Saussure để biện minh cho nhà bác học này: “chúng tôi muốn nói rằng tác hiệu là vô cớ (võ đoán – arbitraire, HNP), nghĩa là chấp định đối với thụ hiệu. Đối với thụ hiệu, tác hiệu không có một ràng buộc tự nhiên nào trong thực tại cả”. Điều đó có nghĩa là Saussure chỉ “quả quyết tính cách chấp định là đặc điểm của tương quan giữa tác hiệu và thụ hiệu, chứ ông không hề dùng phẩm từ ‘chấp định’ để phẩm định tương quan giữa tác hiệu và thực tại. Trong câu nói này cũng không hề có sự lẫn lộn hay đồng nhất giữa thực tại và thụ hiệu. Saussure chỉ quả quyết rằng tương quan giữa tác hiệu và thụ hiệu không phải là một ràng buộc tự nhiên, nghĩa là nó không phản chiếu tương quan có trong thực tại ngoài dấu hiệu, nó không phải là hình ảnh của dây liên kết có trong sự vật ngoài ngôn ngữ; nó không có căn bản trong sự vật ở ngoài nó mà chỉ xây trên chính nó” (11).

Ngoài ra, trong tài liệu này, Phạm Hữu Lai cũng giải thích rất rành mạch các khải niệm “chấp định tính tuyệt đối” và “chấp định tính tương đối”, “tương quan liên tỏa” (rapports syntagmatique/ quan hệ ngữ đoạn) và “tương quan liên tưởng” (rapports associatifs/ quan hệ liên tưởng) cũng như mối liên hệ giữa các cặp khái niệm đó. Đối với người nghiên cứu văn học, những trích dẫn và giải thích của Phạm Hữu Lai đối với công trình để đời của Saussure có rất nhiều gợi mở trong việc phân tích văn bản nghệ thuật theo quan điểm hệ thống. Chẳng hạn đây là một tư tưởng có sức nặng của Saussure: “Toàn thể có giá trị nhờ các thành phần của nó, các thành phần có giá trị cũng nhờ chỗ đứng của chúng trong toàn thể, và đó là lý do tại sao tương quan liên tỏa của thành phần đối với toàn thể cũng quan trọng như tương quan giữa các thành phần” (12).

Trong mục cuối cùng của tài liệu nói trên, Phạm Hữu Lai bắc một nhịp cầu giữa ngữ học hệ thống và ngữ học cơ cấu, khi ông nói đến nguồn cảm hứng mà tác phẩm của Saussure gợi ra cho các trường phái Praha, Copenhague và trường phái duy chức năng; từ đó mở ra một kỷ nguyên mới cho khoa ngữ học là ngữ học cơ cấu với những đại diện tên tuổi như R. Jakobson, S. Karcevsky, N. Troubetzkoy, A. Greimas, L. Hjelmslev… Nói theo Hjelmslev, “người ta hiểu ngữ học cơ cấu là một toàn thể các công cuộc tìm tòi dựa trên một giả thuyết coi là chính đáng theo khoa học việc mô tả ngôn ngữ chính yếu là một thực thể tự lập gồm những liên hệ nội tại, hay tóm lại trong một tự ngữ là một cơ cấu”(13). Vì vậy, theo Phạm Hữu Lai, “ngữ học cơ cấu chỉ là phần nối tiếp của ngữ học hệ thống. Vì chấp nhận ngữ là hệ thống nên phải phân tách hệ thống để tìm thấy cơ cấu của nó. Vì mỗi hệ thống do các đơn vị liên đới chặt chẽ với nhau hợp thành, nên nó khác với các hệ thống khác ở cách sắp đặt bên trong của các đơn vị ấy. Chính những cách sắp đặt này tạo ra cơ cấu của hệ thống. […]. Chấp nhận quan điểm của ngữ học cơ cấu chẳng qua chỉ là coi ngữ như một hệ thống được tổ chức theo một cơ cấu mà người ta phải đưa ra ánh sáng, phải mô tả” (14).

Ý kiến trên đây gặp gỡ với sự xác nhận của E. Benveniste trong Những vấn đề ngôn ngữ học đại cương: “Khái niệm ngôn ngữ như một hệ thống từ lâu đã được thừa nhận bởi những ai học tập Saussure, trước hết trong ngữ pháp đối chiếu, rồi trong ngôn ngữ học đại cương. Nếu người ta thêm vào đó hai nguyên tắc khác, cũng của Saussure, rằng ngôn ngữ là hình thức chứ không phải là chất liệu, và những đơn vị ngôn ngữ chỉ có thể được xác định bằng quan hệ của chúng, thì người ta sẽ chỉ ra được những cơ sở của một lý thuyết mà chỉ vài năm sau đó sẽ chứng minh cấu trúc của các hệ thống ngôn ngữ là một điều hiển nhiên” (15) .

Đối chiếu với bản dịch đầy đủ và đáng tin cậy của Cao Xuân Hạo (F. de Saussure: Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2004), nghiên cứu của Phạm Hữu Lai chưa bao quát hết những nội dung và vấn đề phong phú, sâu sắc, đôi khi gây tranh cãi vì thiếu nhất quán, trong ngữ học Saussure. Dù vậy, ở thời điểm đầu những năm 1970, đó là nỗ lực tiên phong góp phần du nhập vào miền Nam lý thuyết và phương pháp ngôn ngữ gây ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20. Đáng tiếc là do tài liệu được in với số lượng quá ít, lại bị lịch sử bỏ quên một thời gian dài, nên nó đã không phát huy hết tác dụng cần thiết trong việc phát triển ngành ngôn ngữ học ở nước ta.

TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 – 2012

Nguồn: Trích từ Huỳnh Như Phương, Phần 4: “Tiếp nhận các tư tưởng văn nghệ Âu Mỹ ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975”; trong sách Lã Nguyên - chủ biên: “Việt Nam - một thế kỷ tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài”, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2020, tr. 317 - 445.

-------------------------

Chú thích:

(1)   Các nhà nghiên cứu ở miền Nam dịch thuật ngữ “structure” là “cơ cấu”, “structuralisme” là “chủ nghĩa cơ cấu”, “cơ cấu luận” hay “thuyết cơ cấu”. Cách dịch này hầu như thống nhất giữa Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Lê Tôn Nghiêm, Trần Đỗ Dũng, Ngô Trọng Anh, Trần Ngọc Ninh, Bửu Lịch, Phạm Hữu Lai; cá biệt có nhà ngôn ngữ học dịch là “thuyết tổng hợp” (Trương Văn Chình).

(2)   Một tài liệu in ronéo khác dành cho sinh viên các trường đại học Văn khoa Sài Gòn, Đà Lạt, Tiền Giang, Duyên Hải, Cao Đài phát hành trong thời gian này là Ngôn ngữ học tổng quát của Nguyễn Hưng, tiến sĩ Đại học Sorbonne. Vì là giáo trình có tính chất đại cương, nên tác giả chỉ giới thiệu vắn tắt quan niệm ngữ học của F. de Saussure trong vòng một trang.

 (3) Về hai thuật ngữ này,  Phạm Hữu Lai cho rằng cũng có thể dịch là “năng hiệu” và “sở hiệu”. Ở miền Nam đã xuất hiện nhiều cách dịch khác nhau: “năng ký” và “sở ký’, “ngữ thái” và “ngữ ý”, “dấu để chỉ” và “cái được chỉ bằng dấu”… Trong bản Việt ngữ Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương của Saussure, Cao Xuân Hạo dịch là “năng biểu” và “sở biểu”. Nhà ngữ học này gặp gỡ Phạm Hữu Lai ở cách dịch “signe” là “dấu hiệu” chứ không phải “ký hiệu” như cách dịch của một số người khác.

(4)   Một số tài liệu khác nêu thêm tên Albert Riedlinger, cũng là một nhà ngữ học người Thụy Sĩ.

(5)  Phạm Hữu Lai: "Ferdinand de Saussure và ngữ học cơ cấu", Tủ sách Ngữ học, Sài Gòn, 1974, tr. 26.

(6) Phạm Hữu Lai: "Sđd", tr. 27.

(7) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 41.

(8) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 36.

(9) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 53.

(10) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 80.

(11) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 82.

(12) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 95.

(13) Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 105.

(14)  Phạm Hữu Lai: Sđd, tr. 104.

(15) E. Benveniste: "Problèmes linguistique générale", Gallimard, Paris, 1966, tr. 98.

20180311 chuan chinh ta

          1. Dẫn nhập

          Ngữ vị từ (verb phrase), là một loại ngữ đoạn phụ kết (hypotactic phrase) có thành tố trung tâm (thành tố chính) là vị từ[1] và các thành tố phụ đứng trước trung tâm, sau trung tâm, được tổ chức theo những nguyên tắc nhất định, có chức năng mở rộng và góp phần điều biến quan hệ ngữ pháp (thời, thể, hướng, v.v..), điều biến thái độ ngữ pháp của vị từ trung tâm, biểu hiện hoặc gia tăng tình thái… để vị từ thực hiện những chức năng của chính nó, không gồm bổ tố trạng tố của nó. Ngữ vị từ thực hiện chức năng, vai trò ngữ pháp tương đương như vị từ và mang những đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp như vị từ. Trong một nghiên cứu gần đây (Vũ Đức Nghiệu: 2019), chúng tôi đã đề nghị lựa chọn một mô hình miêu tả ngữ vị từ mà theo đó, những thành tố trước nay vẫn thường được xử lý, miêu tả là bổ tố, trạng tố của vị từ trung tâm sẽ nằm ngoài khuôn khổ của cấu trúc ngữ vị từ. Vì vậy, trong tổ chức câu nói, một thành tố phụ nào đó của vị từ trung tâm, nhất là những thành tố phụ đứng ở phía sau, có thể bị đẩy ra xa trung tâm, bởi một thành phần phụ nào đó của câu có thể chen vào đứng giữa vị từ trung tâm với thành tố phụ đó của nó. Điều này được quy định và chi phối bởi rất nhiều nhân tố ngữ pháp, ngữ nghĩa và/hoặc ngữ dụng. Ngữ pháp tiếng Việt từ thời tiếng Việt cổ đến nay đều phản ánh thực tế này. Ví dụ: chửa có tra vào sách (LsAn. tr.164)[2], ứa nước mắt ra (Ttâm. tr.53).

          Trong nghiên cứu Việt ngữ học, các từ làm thành tố phụ trong ngữ vị từ từng được gọi tên bằng những thuật ngữ ít nhiều khác nhau; ví dụ: phó từ (Diệp Quang Ban 2005), tr động từ (Nguyễn Kim Thản 1975), quan hệ từ (Быстров và cộng sự 1975; Nguyễn Tài Cẩn 1975, Nguyễn Lai 1990), từ công cụ hoặc modificateur (Panfilov 1993), verbes auxiliares - trợ động từ (Cadier 1958)... và trong số đó, không ít từ vốn là thực từ chuyển hóa thành. (Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi, ít nhất có tới khoảng 25 từ làm thành tố phụ trong ngữ vị từ của tiếng Việt hiện đại: không, một, đã, còn, ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua, lấy, tới, đến, được, phải, mất, rồi, xong, đã, đoạn, liên, lắm, thật).

          Vấn đề là, sự chuyển hóa, biến đổi về ngữ nghĩa ngữ pháp của những từ như thế, nếu có, thì xuất phát từ đâu và diễn ra như thế nào? Câu hỏi vẫn đang được những người nghiên cứu Việt ngữ học tiếp tục cố gắng tìm lời giải đáp. Thực tế là, từ trước đến nay, hiện tượng này đã được nhìn nhận và đánh giá trong khi thảo luận về các quá trình gọi là hư hóa, hay chuyển từ loại nói chung (Nguyễn Anh Quế 1988; Nguyễn Lai 1990; Nguyễn Kim Thản 1975, Hà Quang Năng 1998). Chúng tôi thấy hiện tượng và quá trình một thực từ (thường là vị từ) đảm nhiệm vai trò phó từ, làm thành tố phụ cho vị từ trung tâm, có thể được làm rõ hơn khi ta soi chiếu nó bằng lý thuyết về ngữ pháp hóa (grammaticalization), trong đó, sự biến đổi nghĩa là một trong những nhân tố bên trong quan trọng hàng đầu.

          Thuật ngữ ngữ pháp hóa và vấn đề ngữ pháp hóa vốn được Meillet A. đề xuất từ 1912. Thuật ngữ này chỉ quá trình biến đổi ngôn ngữ học của một đơn vị từ vựng tính, độc lập, để có được chức năng của một đơn vị biểu thị (những) ý nghĩa ngữ pháp (Bussmann 1996: 196). Còn Wischer (2006: 130) thì phát biểu cụ thể hơn: “Nói chungngữ pháp hóa được xem như một quá trình, mà theo đó, các yếu tố ngôn ngữ (từ vựng, ngữ dụng, hay thậm chí là ngữ âm) biến đổi thành những yếu tố của ngữ pháp, hoặc những yếu tố ngữ pháp trở nên có ngữ pháp tính hơn. Ví dụ, trợ động từ phát triển từ động từ, tiền giới từ phát triển từ danh từ, biến tố phát triển từ giới từ tự do, sự thay đổi trật tự từ để biểu thị các ý nghĩa dụng học, đề hoặc thuyết trong trật tự từ ngữ pháp biểu thị các cách cú pháp của chủ ngữ và tân ngữ”.

          Thực chất, ngữ pháp hóa là quá trình hình thành những yếu tố, những dạng thức ngữ pháp, như hư từ hay phụ tố chẳng hạn, từ (những) yếu tố, dạng thức từ vựng tính (lexical) vốn có từ trước. Đó là quá trình nhằm vào một hướng chung, trong đó, “sự phát triền từ nghĩa cụ thể hơn đến nghĩa trừu tượng hơn ở cấp độ ngữ nghĩa, song hành với sự phát triển từ mức hài hòa thấp hơn đến mức hài hòa cao hơn ở cấp độ hình thái cú pháp” (Bisang 2004:109).

          Từ những nhận thức như vừa trình bày vắn tắt trên đây, trong bài viết này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về quá trình ngữ pháp hóa của một số phó từ làm thành tố phụ trong ngữ vị từ. Cụ thể là, chúng tôi sẽ thực hiện hai công việc, với nội dung cụ thể như sau:

          - Thứ nhất, khảo sát quá trình biến đổi nghĩa để có được (những) nghĩa ngữ pháp và chức năng ngữ pháp trong quá trình ngữ pháp hóa của từ (thông qua nghiên cứu trường hợp từ đã);

          - Thứ hai, thử nghiệm khảo sát theo định lượng về sự xuất hiện (được sử dụng) với cương vị là vị từ [+V] của các từ: ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua và sự xuất hiện (được sử dụng) không phải với cương vị là vị từ [-V] tương ứng, làm thành tố phụ sau vị từ trung tâm.

          Sau các khảo sát đó, sẽ là một số nhận xét và thảo luận có liên quan. Nguồn ngữ liệu được khảo sát là một số văn bản đại diện từ thời tiếng Việt cổ đến tiếng Việt hiện đại (xem danh sách cụ thể ở cuối bài).

 

          2. Khảo sát sự biến đổi ngữ nghĩa trong quá trình ngữ pháp hóa: Trường hợp từ đã

          Biến đổi ngữ nghĩa là bước khởi đầu quan trọng và phổ biến trong các quá trình ngữ pháp hóa. Để làm rõ hơn những điều vừa trình bày bên trên, chúng tôi sẽ bắt đầu bằng việc phân tích như một nghiên cứu trường hợp, về quá trình biến đổi ngữ nghĩa, ngữ pháp của từ đã - vốn là một vị từ - trong quá trình nó được ngữ pháp hóa để trở thành một chỉ tố ngữ pháp và ngữ dụng, làm thành tố phụ trong ngữ vị từ.  

          2.1. Đã - một vị từ

Từ đã ngày nay (như trong các ngữ đoạn: đã xem, nghỉ đã ...) là một từ ngữ pháp tính (grammatical word) - phó từ. Kết quả khảo sát các nguồn ngữ liệu thuộc giai đoạn tiếng Việt cổ, trung đại, cận đại, hiện đại, cho thấy rằng: phó từ đã này đã hình thành qua quá trình ngữ pháp hóa vị từ đã. Đã - thực từ - vị từ có nghĩa: “xong, kết thúc, hoàn tất, khỏi hẳn (bệnh tật)”. Từ này có một biến thể phát âm là đà. Các văn bản chữ Nôm, ngôn ngữ văn chương, thơ ca, v.v.. cho thấy rất rõ điều đó.

          Ta có thể kiểm chứng nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất, khỏi hẳn” của đã qua những ngữ liệu thời tiếng Việt cổ, trung đại như:

          a) Trong 30 lần đã/đà hiện diện ở văn bản Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (gọi tắt là Phật thuyết - văn bản chữ Nôm cổ nhất còn lại đến nay, khoảng thế kỷ XII) , có 4 lần đích thực nó là vị từ:

          con nhược đà ốm [khỏi ốm hẳn rồi] (tr.18a),  

          việc gả đà đã [đã xong xuôi/hoàn tất rồi] (Pth. tr.22a)

          sám hối đà đã [xong xuôi/hoàn tất rồi] (Pth. tr.44b) 

          khuyến thỉnh đà đã [xong xuôi/hoàn tất rồi] (Pth. tr.44b)

          Cương vị vị từ của đã trong các ngữ cảnh đó được chứng thực qua hai điểm:  

          Thứ nhất, về ngữ pháp, nó có một phó từ đà/đã, là kết quả ngữ pháp hóa của chính đã - thực từ (chúng tôi sẽ trình bày dưới đây) đứng đằng trước làm thành tố phụ (việc gả đà đã, sám hối đà đã, khuyến thỉnh đà đã).    

          Thứ hai, về ngữ nghĩa, đã được dùng để giải âm (đối dịch nghĩa) từ (= hoàn tất, xong xuôi rồi) trong văn bản Hán văn gốc[3] (trừ ngữ cảnh “con nhược đà ốm (tr.18b), từ đã được thêm vào câu tiếng Việt để dịch câu bên Hán văn: Tử nhược bệnh trừ). Cụ thể là:

việc gả đà đã (tr.22a) Giá sự ngật
sám hối đà đã (tr.44b) Sám hối
khuyến thỉnh đà đã (tr.44b) Khuyến thỉnh
con nhược đà ốm (tr.18b) Tử nhược bệnh trừ

          b) Trong một số nguồn ngữ liệu khác, chúng tôi cũng thấy tình hình tương tự. Ví dụ:

          - Trong văn bản Đắc thú lâm tuyền (Đthú.): Ai hay cóc được, mới óc là đã (tr.30b)

          - Văn bản Truyền kỳ mạn lục (TkMl.) có 212 lần đã/đà xuất hiện (được sử dụng) thì có 3 lần đích thực là vị từ: đã tật chẳng chi bằng thuốc đắng (q4, tr.15a), sau vài ngày, nhà ngươi Lê Ngộ cùng được đã khỏi (q4, tr.67a), cái đàn cái nậm chẳng đã sự khó (q1, tr.22a).                  

          - Trong văn bản Lịch sử nước Annam (LsAn.): có thầy Không Lồ chữa mới đã (tr.155)

          - Trong Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - La tinh (tđRhode.): Đã: Được khỏi bệnh. Đã đã: nó đã khỏe.

          Trên cơ sở khảo sát quá trình biến đổi ngữ nghĩa, quá trình biến đổi và phát triển các đặc điểm, chức năng ngữ pháp của từ đã qua các giai đoạn lịch sử khác nhau chúng tôi thấy nó có hai hướng biến đổi và phát triển chính.

          2.2. Hướng biến đổi và phát triển thứ nhất

          Hướng này đưa đến đặc điểm ngữ pháp: đã đứng trước vị từ trung tâm trong ngữ vị từ. Ở đây có ba kết quả được phân biệt:

          2.2.1. Từ nghĩa “xong, hoàn tất, khỏi hẳn”, đã thu hẹp nghĩa lại, biểu thị nghĩa quá khứ: (hành động, sự tình) diễn ra rồi (so với thời điểm mốc nào đó được xác định nhờ ngữ cảnh). Chính nhờ nghĩa này mà về mặt ngữ pháp, đã được phân bố ở vị trí trước một vị từ, kết hợp với vị từ và đưa vị từ vào làm vị ngữ để biểu thị cái hành động, sự tình diễn ra trước thời điểm phát ngôn hay một thời điểm nào đó được lấy làm mốc, nhiều khi có thêm hàm ý “sớm hơn dự tính”. Khi đó, về mặt ngữ nghĩa, đã khiến cho vị từ biểu thị trạng thái, tư thế, tính chất ... như là những kết quả của một quá trình biến chuyển, vận động. Ví dụ: nửa ngày đã tan (Pth. tr.9a).

          Điều này thể hiện liên tục và rộng rãi trên ngữ liệu từ thời văn bản Phật thuyết cho đến ngày nay. Ở vị trí liền đằng trước một vị từ khác và biểu thị ý nghĩa “(hành động/sự tình) xảy ra rồi”, đã đảm nhiệm vai trò của một chỉ tố ngữ pháp mà hiện nay thường được gọi là chỉ tố “thời quá khứ”. Ví dụ:

          tội bằng đã qua (Pth. tr.44a) 

          thầy tu trước đã nên Phật quả (HYên. tr.33b)

          hoa đà tàn, liễu đà xơ (KhL. tr.9a)

          đã điếc hai tai (Qâtt. Ngôn chí, b.5)

          ngươi Trọng Quỳ đã lớn (TkML.q1. tr.16a)

          đã rông thói tối tăm (TkML.q2, tr.16b)

          đã sinh nên trời đất (Phgi. tr.9)

          đã bỏ đạo cho đến rày (Thư18. vb.6)

          bóng chiều đã ngả (TK. c.114)

          tôi đã tìm đến (Sss. tr.2)

          coi đã vắng tiếng, thì đã biết họ đã đi rồi (Chđx. tr.100)

          có chữ đề mà đã mòn đã lu đi (ChđiBk.)

          đã sinh ra một đứa con trai (NHdn. tr.13)

          công việc nhà trường đã rỗi mà mọi chuyện cũng đã qua rồi (Ttâm. tr.3).

          Kết quả này phát triển mạnh mẽ nhất trong các biến đổi của đã; và điều này cũng phản ánh qua và tần suất sử dụng của nó.

          2.2.2. Không chỉ đứng trước làm thành tố phụ cho vị từ trung tâm trong ngữ vị từ, đã còn đứng trước cả những danh từ/danh ngữ, hoặc thậm chí trước một tiểu cú được tổ chức như những ngữ cố định. (Danh từ/danh ngữ hoặc ngữ cố định đó biểu thị hành động, hoặc đặc trưng, trạng thái, tư thế ..., có cương vị ngữ pháp như thành tố trung tâm trong ngữ đoạn). Lúc này, về mặt ngữ pháp, đã “tham gia vào việc tổ chức một thành tố cú pháp” (Nguyễn Tài Cẩn 1975: 263), đưa nó vào làm phần thuyết của câu (chứ không phải là sự lập thức đã kết hợp được với danh từ/danh ngữ). Về mặt ngữ nghĩa, đã giúp cho các danh từ/danh ngữ, ngữ cố định đó thể hiện thông tin: (những) vận động hoặc đặc trưng, trạng thái, tư thế ... đó, là kết quả của quá trình chuyển biến từ một sự tình, trạng thái ngược lại với trạng thái hiện hữu. Điều này đã có từ thời tiếng Việt cổ đến nay. Ví dụ:

          sẩm gióng mây tóc đà mai trắng (KhL. tr.37b)

          mặt trời đà nửa ngày mà lại hầu xế (KhL. tr.40b)

          bóng nguyệt đà nửa treo gương (KhL. tr.46b)

          mặt trời đỏ đã ba sào (TkMl.q3. tr.17b)

          đã mọt đục nhậy cắn (TkMl.q4, tr.54a)

          đã suối tuôn sóng hoa đào vậy (TkMl.q1. tr.62b).

          2.2.3. Từ nét nghĩa thời gian “(hành động, sự tình) diễn ra rồi, diễn ra trước thời điểm phát ngôn hay một thời điểm nào đó được lấy làm mốc”, đã tiếp tục chuyển nghĩa, hàm thêm ý tình thái đánh giá “sẵn rồi, lâu rồi (so với dự kiến hoặc so với điều kiện thông thường)”, biểu thị các nội dung ngữ nghĩa và ngữ dụng sau đây:

          a) “Đã có A rồi, lại còn thêm B nữa” (hai vế A và B hô ứng với nhau: đã A lại B, đã A còn B, đã A chưa B). Ví dụ:

          Đã hiếp nước Ngụy lại giết nước Yên (TkMl.q1. tr.9a),

          Đã chẳng lòng tiếc lại chẳng mặt khoe (TkMl.q2. tr.75b),

          chưng thuở sống người đã chẳng thấy hình chưng khi thác người lại chẳng hay (TkMl.q4. tr.25a),

          b) “Điều kiện/ trạng thái A nhưng diễn ra B” (hàm ý sớm hơn mong đợi, sớm hơn theo lẽ thường). Hai vế A và B hô ứng với nhau (vừa A đã B, chưa A đã B, mới A đã B, còn A đã B). Ví dụ:

          Song ngươi Lý đã thấy biết đấy lại theo mà rông đấy (TkMl.q4. tr.25a),

          nói chửa rồi đã thấy con gái ấy ở nhà bên tả bước ra (TkMl.q3, tr.6b),

          kẻ dâng lời ngay ấy chửa nói mà đã phải giết (TkMl.q3, tr.29b).

          c) “Điều kiện, nguyên nhân A, sẽ nhất định B” (đã A thì B, đã A ắt B, đã A tất B). Ví dụ:

          Đã trái lòng trời ắt phạm hình trời giết (TkMl.q4. tr.15b)

          sự đã dường ấy cắn rốn nào kịp (TkMl.q1. tr.27a).

          2.3. Hướng biến đổi và phát triển thứ hai

          Hướng này làm cho đã được phân bố ở vị trí sau một vị từ khác. Ở đây cũng có ba kết quả được phân biệt.

          2.3.1. Từ nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất, khỏi hẳn (bệnh tật)” đã thu hẹp phạm vi, biểu thị nghĩa “xong rồi hoàn tất”, làm thành tố phụ đứng sau vị từ trung tâm, biểu thị ý nghĩa ngữ pháp “hoàn tất” của hành động, sự tình do vị từ trung tâm biểu thị. Ví dụ, trong văn bản Phật thuyết có 7 ngữ đoạn như:

          kính lễ là Bụt đã [= xong/xong rồi] trả áng nạ ơn (tr.4b)

          kính lễ Bồ tát xưa đà [= xong/xong rồi] trả ơn cha mẹ (tr.5a)

          sinh đã [= xong/xong rồi] mắng con khỏe (tr.13a)   

          mừng đã [= xong/rồi] thương lại đến (tr.13a)

          tùy hỷ đã [= xong/rồi] (tr.45a)     

          hồi hướng đã [= xong/rồi] (tr.45b)

          phát nguyện đã [= xong/xong rồi] (tr.46a)

          Tuy nhiên, phải nói rằng, ở đây, bản chất ngữ pháp và ngữ nghĩa “vị từ” của đã chưa giải tỏa, bào mòn hoàn toàn. Có thể đây là những trường hợp “trung gian” của thực từ đã trong quá trình phát triển, bào mòn ngữ nghĩa, quá trình ngữ pháp hóa của nó. Ở bảy ngữ cảnh vừa nêu, nếu ta thêm đà/đã (phó từ) vào trước các từ đã có sẵn trong đó, thì bản chất vị từ của đã trong các ngữ cảnh đó sẽ hiện lên rất rõ ràng.

kính lễ là Bụt * đà đã [= xong/xong rồi]
kính lễ Bồ tát xưa * đà đà [= xong/xong rồi]
sinh * đà đã [= (đã) xong rồi]
mừng * đà đã [= xong/rồi]
tùy hỷ * đà đã [= xong/rồi] 
hồi hướng * đà đã [= (đã) xong/rồi]
phát nguyện * đà đã [= xong/xong rồi]  

          Trong các trường hợp này, đã có ngữ nghĩa và ngữ pháp cũng giống như các từ rồi, đoạn trong tiếng Việt cổ, trung đại, cận đại và xong, rồi trong tiếng Việt ngày nay. Ví dụ: hồi hướng đoạn rồi (KhL. tr.43a), khuyến thỉnh đà đoạn rồi (KhL. tr.49b), viết xong - viết chưa xong, (việc bé con con mà) làm mãi không rồi.

          Ngoài đã ra, ba từ xong, rồi, đoạn trong tiếng Việt vốn cũng là ba vị từ, được ngữ pháp hóa và đảm nhiệm vai trò của chỉ tố ngữ pháp biểu thị nghĩa “hoàn thành/ kết thúc”. Vì thế, các kết hợp ngữ pháp như: đã xong, xong rồi, đã xong rồi trong tiếng Việt là rất bình thường. Ta chỉ có thể nhận ra tư cách vị từ hay tư cách phó từ của các từ này trong từng ngữ cảnh cụ thể mà chúng tham gia trong đó.

          Chính các mức độ và chiều hướng biến chuyển ngữ nghĩa, ngữ pháp của đã đã khiến cho, trong văn bản Phật thuyết cũng như Khóa hư lụcTruyền kỳ mạn lục, nó thường được dùng để dịch từ , của Hán văn, nhưng cũng có khi được dùng tùy theo cách của ngữ pháp tiếng Việt (Nôm) chứ không phải chỉ để dịch , . Ví dụ:

          - Trong Phật thuyết có 27 ngữ vị từ dùng đã - phó từ hoặc vị từ, thì 10 trường hợp trong số đó, đã được dùng để giải âm từ . Chẳng hạn:

Sinh đã mắng con khỏe (tr.13a) Sinh văn nhi kiện
Tùy hỷ đã (tr.45a) Tùy hỷ
Hồi hướng đã (tr.45b) Hồi hướng
Phát nguyện đã (tr.46a) Phát nguyện
Mừng đã thương lại đến (tr.13a) Hỷ định # bi hoàn
Tuổi đã già mặt mũi đã suy (tr.37a) Niên # lão sắc # suy
Nửa ngày đã tan (tr.9a) Tảo thần phương tụ ngọ thời # tiêu tán

          - Chúng tôi kiểm kê trong Truyền kỳ mạn lục, có 212 lần xuất hiện từ đã/đà thì theo Washizawa (2018), có 80 lần đã được dùng để dịch từ và 68 lần đã được dùng để dịch từ ; còn lại là các khả năng khác.

          Hướng biến chuyển thứ hai này của đã đã đưa nó vào cùng hệ đối vị với các vị từ rồi, đoạn, xong từ thời tiếng Việt Cổ, trung đại.

          2.3.2.đã đi vào hệ đối vị cùng với rồi, đoạn (và xong về sau này), nên trong văn bản Khóa hư lụcTruyền kỳ mạn lục có một số cách dùng đã, rồi, đoạn khá đặc biệt, cần phải có những phân tích thêm.

          - Thứ nhất, rồi, đoạn vốn cũng là những vị từ, biểu hiện nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất”. Ví dụ: chịu cho rồi thửa tội nghiệp (KhL. tr.23a), biết ngày nào cho rồi (KhL. tr.22a), chờ chưng đến lúc việc rồi sớm mai bèn ăn chay trắng (KhL. tr.56b), Chỉn rốt trăm năm đến khi mệnh rồi mà bèn liền hết (KhL. tr.63a), nói chửa rồi (TkMl.q2. tr.10b).

          Trong quá trình phát triển của ngữ pháp tiếng Việt, hai từ: rồi, đoạn cũng có biến chuyển ngữ nghĩa, được ngữ pháp hóa, phân bố sau một vị từ khác, biểu thị ý nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất” của hành động, sự tình do vị từ đó biểu thị. Ví dụ: tanh ra hôi hám rồi (KhL. tr.15b), đến lúc lảu biết rồi (KhL. tr.17a), đọc rồi thấy người lại giục ngươi Hữu Chi rạp nằm dưới cửa (TkMl.q4. tr.22a), ca rồi giũ tay áo mà đi dài (TkMl.q3. tr.17b), nói rồi kẻ chiêu đăm chăng là chẳng sùi sụt khóc sa nước mắt (TkMl.q4. tr.3a).

          - Thứ hai, trong Phật thuyết có:

          7 lần dùng kết cấu V + đã: Kính lễ là Bụt đã trả áng nạ ơn (tr.4b), Kính lễ Bồ tát xưa đà/đã trả ơn cha mẹ (tr.5a), Sinh đã mắng con khỏe (tr.13a), Mừng đã thương lại đến (tr.13a), Tùy hỷ đã (tr.45a), Hồi hướng đã (tr.45b), Phát nguyện đã (tr.46a);

          2 lần dùng kết cấu V + đà đã (đã = vị từ, biểu thị nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất”): Sám hối đà đã  (tr. 44b), Khuyến thỉnh đà đã (tr.44b);

          1 lần dùng kết cấu Danh ngữ + đà đã: Việc gả đà đã (tr.22a); nhưng trong văn bản Khóa hư lụcTruyền kỳ mạn lục không thấy dùng kết cấu này. Thay vào đó, Khóa hư lục có 7 lần dùng tổ hợp đoạn rồi, 9 lần dùng đà đoạn rồi, 1 lần dùng đoạn. Đối chiếu với bản Khóa hư lục Hán văn, chúng tôi thấy cả đoạn rồi lẫn đà đoạn rồi đều ứng với (dùng để dịch) từ Hán Việt [4]. Ví dụ: hồi hướng đoạn rồi (KhL. tr.43a), là phát nguyện đoạn rồi (KhL. tr.44a), khuyến xin đà đoạn rồi (KhL. tr.36a), là theo mừng đà đoạn rồi  (KhL. tr.rồi 36a).

          Trong các ngữ cảnh này, đoạnrồi đều vẫn biểu thị nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất” nhưng đoạn là vị từ - thành tố chính, còn rồi thì đảm nhiệm vai trò thành tố phụ biểu thị ý nghĩa “hoàn tất” cho đoạn.

          Trong Truyền kỳ mạn lục có 7 lần sử dụng tổ hợp đã rồi. (Khóa hư lục cũng có một lần dùng đã rồi: phát nguyện đà/đã rồi - tr.37a). Dưới đây là 7 lần xuất hiện của đã rồi trong Truyền kỳ mạn lục:

          (1) Táng tế lễ đã rồi  (q1. tr.17b)            

          (2) Nghe đoán đã rồi (q2. tr.16b)           

          (3) Đốt đã rồi về nhà mình biết chẳng vui (q2. tr.39b) 

          (4) Ngươi Thiên Tích uống đã rồi (q1. tr.54b)                       

          (5) Ta chưng noi trải đã rồi mắng biết (q1. tr.55a)                 

          (6) Đã rồi về nhà dắt hai con, vỗ thửa cật rằng (q1. tr.27b)         

          (7) Đã rồi bèn lên gác tấu nhạc (q2. tr.55b).                          

          Đối chiếu với văn bản Hán văn, chúng tôi thấy:

          Xét các ngữ cảnh (1), (2), (3): tổ hợp đã rồi gồm hai từ, được dùng đối dịch từ tất (悉) bên Hán văn, có nghĩa “xong, hoàn tất”. Vì vậy, có thể hiểu cả tổ hợp đã rồi, không riêng một thành tố nào, biểu thị nghĩa “xong, hoàn tất” như từ tất của Hán văn. 

          Trong ngữ cảnh (4), đã rồi lại được dùng để giải âm tổ hợp ký tất (既 悉). Ở đây, một tổ hợp hai từ được dùng để đối dịch một tổ hợp hai từ bên Hán văn. Xét thấy bên văn bản Nôm (tiếng Việt), đã rồi trong bốn ngữ cảnh (1), (2), (3), (4) đều có cùng mô hình kết hợp là V + đã rồi, biểu thị nghĩa “V [đã] xong”, “V [đã] hoàn tất”, cho nên đã rồi trong cả bốn ngữ cảnh này có ba cách hiểu:

          a) Cách thứ nhất: tổ hợp đã rồi gồm hai thành tố đẳng lập, đều biểu thị nghĩa “xong, hoàn tất”. Tổ hợp đã rồi trong ngữ đoạn: phát nguyện đà/đã rồi (tr.37a) của Khóa hư lục, được dùng để dịch từ . Văn bản Phật thuyết dùng từ đã cũng để dịch từ . Ví dụ: tùy hỷ đã (tr.45a), hồi hướng đã (tr.45b), phát nguyện đã (tr.46a)... Điều này cho thấy nghĩa “hoàn tất” (nghĩa cổ) của đã tương đương với đã rồi. Cách hiểu thứ nhất này là có cơ sở.

          Hiện tượng ngữ nghĩa, ngữ pháp của tổ hợp đã rồi tương đương với đã là sản phẩm có tính quá độ trong quá trình ngữ pháp hóa của đãrồi khi mức độ ngữ pháp hóa của chúng chưa đạt đến mức tuyệt đối/ tối đa. Việc dùng tổ hợp đã rồi gồm hai thành tố đều có nét nghĩa “hoàn tất” để biểu thị nghĩa “hoàn thành”, không có gì quá đặc biệt. Trước nay tiếng Việt vẫn có lối kết hợp hai đơn vị gần nghĩa, đồng nghĩa, thậm chí trái nghĩa nhau để biểu thị nghĩa tổng hợp hơn, khái quát hơn: hơn nữa, mua bán, đổi chác, đầu đuôi, già trẻ, xe cộ, thuyền bè...

          b) Cách thứ hai: tổ hợp đã rồi là tổ hợp gồm rồi là thành tố chính - vị từ (= xong), đã là thành tố phụ - phó từ, đứng trước rồi, điều biến, khẳng định thêm ý nghĩa hoàn tất cho rồi, vì quá trình ngữ pháp hóa của đã diễn ra sớm hơn rồi [5]. Cách hiểu này có lẽ gần với thực tế lịch sử và xu thế diễn biến ngữ pháp hóa của hai từ này hơn.

          c) Cách thứ ba: tổ hợp đã rồi gồm đã là thành tố chính - vị từ (= xong); còn rồi là thành tố phụ - phó từ, đứng sau đã, điều biến, khẳng định thêm ý nghĩa hoàn tất cho đã.

Với cách cả ba hiểu về ngữ pháp như vừa trình bày, về mặt ngữ nghĩa, trong các ngữ cảnh (1), (2), (3), (4) trên đây ta có thể xác định:

(1) táng tế lễ đã rồi = táng tế lễ đã xong/ xong hẳn rồi
(2) nghe đoán đã rồi  = nghe đoán đã xong/ xong hết rồi
(3) đốt đã rồi           = đốt đã xong/ xong hết rồi
(4) uống đã rồi  = uống đã xong/ xong rồi.

         

          Xét ngữ cảnh (5): Ta chưng noi trải đã rồi mắng biết (q1. tr.55a). Tổ hợp đã rồi được dùng để dịch tổ hợp "ký dĩ" trong kết cấu “ký dĩ + V”. Nghĩa của cả ngữ đoạn là: “lý lịch của tôi ngài đã biết hoàn toàn rồi”. Vậy, đã rồi = rồi. Ảnh hưởng của lối giải âm Hán - Việt trước đây chắc chắn đã ảnh hưởng tới trật tự từ của ngữ đoạn này. Vì vậy, ngữ nghĩa, ngữ pháp của tổ hợp đã rồi trong ngữ cảnh (5) cũng như đã rồi trong các ngữ cảnh (1), (2), (3), (4).

          Quá trình ngữ pháp hóa và lập thức về mặt ngữ pháp, ngữ nghĩa của những từ hữu quan nêu trên đây diễn ra trong tiến trình lịch sử lâu dài, dẫn đến tình trạng những tổ hợp/kết cấu ngữ pháp mà chúng ta ngày nay có thể có hơn một cách hiểu như thế, mãi đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX vẫn còn thấy xuất hiện. Ví dụ, trong Truyện Kiều: Thổ quan theo vớt vội vàng, thì đà đắm ngọc chìm hương đã rồi (c. 2637), ăn năn thì sự đã rồi (c. 3195)[6]

          Xét hai ngữ cảnh: (6), (7). Ở đây, đã rồi đứng ở đầu câu, dùng để dịch tổ hợp ký tất của Hán văn (có nghĩa: P. Rồi/ Xong rồi [bèn] Q). Vì vậy có thể hiểu nghĩa của đã rồi ở đây là “ P. Rồi/ Xong rồi/ Thế rồi, [bèn] Q”. Đã rồi được dùng như một liên từ nối câu sau với câu trước đó, liên kết sự tình nêu trong câu sau với sự tình nêu trong câu trước. Điều này hoàn toàn có thể kiểm chứng được qua ngữ cảnh rộng hơn như:

          Ngươi Đỗ cả mừng, khiến rót chén ốc tử loa cho uống đấy. Đã rồi [= Xong/ Xong rồi/ Thế rồi] về nhà dắt hai con, vỗ thửa cật rằng (TkMl.q1. tr.27b).

Ngồi đã yên, có kẻ truyền bảo bà Kim Tiên đến vậy. Đều xuống rước mời. Đã rồi [= xong/ xong rồi/ thế rồi] bèn lên gác tấu nhạc (TkMl.q2. tr.55b).

          Tổ hợp đã rồi với những đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa thể hiện trong hai ngữ cảnh này đã tham gia vào hệ đối vị với tổ hợp đã mà được Truyền kỳ mạn lục sử dụng. Các tổ hợp này đã có những biến đổi ngữ nghĩa, dẫn đến biến đổi đặc điểm, chức năng ngữ pháp, được ngữ pháp hóa, dùng như liên từ, nối câu sau với câu trước đó, liên kết sự tình nêu trong câu sau với sự tình nêu trong câu trước. Trong Truyền kỳ mạn lục, chúng tôi gặp đã mà xuất hiện tới 9 lần[7]. Ví dụ: Đã mà [= thế rồi/ rồi] canh tàn trà hết (TkMl.q1. tr.13b). Đã mà [=thế rồi/ rồi] tiếng nhạc dấy (TkMl.q3. tr.44b).   

          2.3.3. Bên cạnh những biến chuyển ngữ nghĩa, ngữ pháp như vừa trình bày trên đây, nghĩa “xong, hoàn tất” của đã tiếp tục biến chuyển, khiến cho đã được sử dụng như một yếu tố ngữ pháp, trở thành một yếu tố ngữ pháp, vừa biểu thị ngữ nghĩa vừa biểu thị cả nội dung dụng học: “hoàn tất (một hành động) (như một điều kiện) trước khi thực hiện hành động khác”. Ví dụ: Làm việc này đã (rồi mới đi nghỉ). Tắm cho mát cái đã (rồi đi đâu thì đi). Hút điếu thuốc đã (rồi làm gì thì làm)...

          Thêm nữa, chính các nội dung ngữ nghĩa và đặc điểm ngữ pháp này đã khiến cho đã có thêm tư cách, chức năng của một tiểu từ đánh dấu điểm dứt câu hay mệnh đề; đồng thời, tham gia tạo cấu trúc thức “khuyến lệnh/ đề nghị” của vị từ trong phát ngôn khuyến lệnh, đề nghị. Cách dùng này của đã rất ít gặp trong các nguồn ngữ liệu được khảo sát thời tiếng Việt cổ, trung đại và cận đại. Ví dụ:

          song le cũng phải nộp cheo làng đã mới nên làm phép cưới (Thư18. vb.12)

          dẽ cho thưa hết một lời đã nao (TK. c.502)

          nghỉ cho bớt mệt đã (ChđiBk)

          Anh rùa ra cầm lại: khoan đã nào (Chđx. tr.93).

          Ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng của đã trong những cách dùng như vừa nêu ở đây, vẫn được duy trì trong tiếng Việt hiện đại trong mô hình kết cấu cú pháp V1 đã [rồi mới] (V2). Ví dụ: Viết cho xong đoạn này đã (rồi mới nghỉ).

          2.4. Như vậy, quá trình ngữ pháp hóa của đã - một thực từ, khiến nó trở thành một yếu tố ngữ pháp, được phân bố ở vị trí trước hoặc sau một vị từ khác, hoặc ở vị trí dứt câu, biểu thị tình thái ... đã diễn ra và phát triển dựa trên nền tảng của sự biến đổi và phát triển ngữ nghĩa của nó. Có thể tóm tắt quá trình biến đổi này như sau.

          2.4.1. Từ gốc đã vốn là một vị từ, có nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất, khỏi hẳn(bệnh tật)”. Ví dụ: việc gả đà đã (Pth. tr.22a), ai hay cóc được mới óc là đã (Đthú. tr.30b), có thầy Không Lồ chữa mới đã (LsAn. tr.155).

          2.4.2. Quá trình ngữ pháp hóa của đã diễn ra theo hai hướng chính.

          a) Sự biến chuyển bên trong của đã, từ nghĩa “xong, hoàn tất, khỏi hẳn” sang nghĩa “(thời gian) quá khứ” (bằng cách thu hẹp nghĩa), được đánh dấu, được biểu thị về mặt ngữ pháp bằng dấu hiệu phân bố ở vị trí trước một vị từ khác trong ngữ đoạn. Hướng biến chuyển này làm cho đã được ngữ pháp hóa, trở thành một yếu tố ngữ pháp có ba khả năng chính:

          - Đảm nhiệm vai trò của chỉ tố biểu thị thời gian, biểu thị sự hoàn tất của hành động, trạng thái. Ví dụ: nửa ngày đã tan (Pth. tr.9a), năm đà trăm, tháng đà no (Pth. tr.33b), hoa đà tàn, liễu đà xơ (KhL. tr.9a), chửa nói mà đã phải giết (q3, tr.29b).

          - Phân bố trước một thành tố cú pháp có thể là danh từ/danh ngữ, thậm chí một tiểu cú, để đưa thành tố đó vào làm phần thuyết của câu. Ví dụ: Sẩm gióng mây tóc đà mai trắng (KhL. tr.37b), đã mọt đục nhậy cắn (TkMl.q4, tr.54a), đã suối tuôn sóng hoa đào vậy (TkMl.q1. tr.62b).

          - Tham gia cấu tạo tạo những “khuôn ngữ pháp” mà thực chất đó là những khung kết cấu cú pháp, trong đó, đã là chỉ tố đánh dấu nghĩa thời gian “đã xảy ra” và “hoàn tất”, như:

đã A lại B. đã A còn B. đã A chưa B.
đã A thì A. đã A ắt B. đã A tất B.
vừa A đã B.  chưa A đã B.   mới A đã B. còn A đã B.

         

          Hướng ngữ pháp hóa này là hướng mạnh nhất của đã, làm cho nó đạt mức độ có thể coi như được ngữ pháp hóa hoàn toàn.

          b) Sự biến chuyển bên trong của đã, từ nghĩa “xong, kết thúc, hoàn tất, khỏi hẳn(bệnh tật)” sang nghĩa “xong/hoàn tất” (bằng cách thu hẹp nghĩa), được đánh dấu, biểu thị về mặt ngữ pháp bằng dấu hiệu phân bố ở vị trí sau một vị từ khác trong ngữ đoạn. Hướng biến chuyển này làm cho đã được ngữ pháp hóa, trở thành một yếu tố ngữ pháp có ba khả năng chính nữa:

          b1. Biểu thị ý nghĩa (thể) “xong, kết thúc, hoàn tất”. Ví dụ: sinh đã mắng con khỏe (Pth. tr.13a). Điều này làm cho đã tham gia vào hệ đối vị với đoạn, rồi, (và xong về sau này). Đến lượt mình, đoạnrồi, xong lại cũng được ngữ pháp hóa. Chính vì vậy, từ sau thời văn bản Phật thuyết, trong các nguồn ngữ liệu khác được khảo sát, vai trò của đã - thực từ bị giảm thiểu đi nhiều, dẫn đến hệ quả là nó ít/hoặc rất ít được sử dụng như trước.

          b2. Tham gia vào tổ hợp/ kết cấu đã mà, đã rồi có đặc tính ngữ nghĩa ngữ pháp như một liên từ đứng ở đầu câu để kết nối với câu trước đó. Riêng tổ hợp đã rồi, nhiều khi phải phân tích kỹ mới nhận chân được: trong hai thành tố của nó, từ nào (đã hay rồi), trong ngữ cảnh nào, là vị từ, và từ nào (đã hay rồi) là phó từ, làm thành tố phụ.

          b3. Trở thành yếu tố ngữ pháp (tiểu từ) đánh dấu điểm dứt câu hay mệnh đề; đồng thời, tham gia tạo cấu trúc thức “khuyến lệnh/ đề nghị” của vị từ trong phát ngôn khuyến lệnh, đề nghị. Ví dụ: nghỉ cho bớt mệt đã (ChđiBk.).

          2.5. Những phân tích được trình bày bên trên cho thấy rõ ràng: sự biến đổi, phát triển ngữ nghĩa là điều kiện, và là nền tảng quan trọng trong quá trình ngữ pháp hóa. Nhưng không phải sự biến đổi và phát triển nào về nghĩa cũng có thể là điều kiện cho ngữ pháp hóa; mà phải là sự phái sinh, sự phát triển của nghĩa “ngữ pháp tính - grammatical”. Sự phái sinh, phát triển nghĩa “từ vựng tính - lexical” thì đưa đến kết quả là hiện tượng đa nghĩa (từ vựng) của từ.

          Đối với tiếng Việt, các phương thức chuyển nghĩa giúp cho một từ có thể phát triển nghĩa của nó theo những chiều hướng và biên độ khác nhau, nhưng chiều hướng chung là càng ngày càng làm phong phú, đa dạng hơn nội dung ngữ nghĩa, mở rộng hơn khả năng ngữ pháp của từ. Nhưng, như thế vẫn chưa đủ các nhân tố, điều kiện của một quá trình ngữ pháp hóa, mà đó mới chỉ là bước khởi đầu, dù là rất quan trọng, của toàn bộ quá trình. Quá trình ngữ pháp hóa không phải chỉ dừng ở chỗ biến đổi và/hoặc phát triển nghĩa. Chỉ khi nào sự phát triển, biến đổi khiến cho ngữ nghĩa của từ trở nên trừu tượng và khái quát hơn, có ngữ pháp tính, hoặc ngữ pháp tính hơn, nhờ đó mà từ có được (những) đặc điểm và năng lực ngữ pháp mới, thể hiện ra bằng (những) hình thức vật chất ngữ pháp nào đó, thì lúc ấy ta mới có một quá trình ngữ pháp hóa đầy đủ được thực hiện. Như vậy, quá trình ngữ pháp hóa có thể thấy được rõ ràng nhất theo cách tiếp cận lịch đại qua những trạng thái đồng đại, những khoảng thời gian lịch sử khác nhau của ngôn ngữ. Những biến đổi ngữ nghĩa trong quá trình ngữ pháp hóa một đơn vị ngôn ngữ luôn luôn gắn liền với những phát triển về mặt ngữ pháp của nó.

 

          3. Thử nghiệm khảo sát định lượng về ngữ pháp hóa qua tiêu chí [+V], [-V] của nhóm từ vận động có hướng

          Để thuận tiện cho việc trình bày, chúng tôi ký hiệu:

          +V       : vị từ

          -V        : không phải là vị từ

          [+V]: số lần xuất hiện với tư cách vị từ

          [-V] : số lần xuất hiện với tư cách không phải là vị từ

          [V] : tổng số lần xuất hiện của +V và -V

          3.1. Sau khi khảo sát và phân tích những biến đổi ngữ nghĩa, ngữ pháp trong quá trình ngữ pháp hóa qua một từ cụ thể (đã), chúng tôi thử nghiệm khảo sát theo hướng tiếp cận định lượng về quá trình ngữ pháp hóa ở một nhóm từ làm thành tố phụ sau thành tố trung tâm của ngữ vị từ nhằm tìm kiếm thêm thông tin để có thể hình dung rõ hơn quá trình ngữ pháp hóa của nhóm từ này. Đó là tám từ ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua vốn là tám vị từ vận động có hướng[8] nhưng đã được ngữ pháp hóa, làm thành tố phụ trong ngữ vị từ, không biểu thị sự vận động, mà biểu thị hướng của vận động. Bản thân các vận động thì được biểu thị bằng vị từ trung tâm.

          Muốn kiểm chứng một từ đã ngữ pháp hóa để trở thành một yếu tố ngữ pháp tính hay chưa, chúng tôi phân tích ngữ nghĩa, ngữ pháp của nó để xem ở đó đã có những biến đổi gì, biến đổi thế nào và thái độ ngữ pháp của từ đã có những biến đổi gì, biến đổi thế nào, bởi vì, khi một từ biến chuyển thành một chỉ tố ngữ pháp tính thì tính độc lập cú pháp của nó giảm thiểu đi rất nhiều, đến mức lý tưởng là bằng zero. Mức độ độc lập cú pháp zero là một trong những biểu hiện để ta đánh giá mức độ ngữ pháp hóa cao nhất của nó.

          Các từ ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua đều có nét nghĩa “hướng không gian” nên khi được ngữ pháp hóa thành những yếu tố ngữ pháp, chúng được phân bố ở vị trí thành tố phụ chỉ hướng cho những vị từ vận động khi chúng (các vị từ đó) có đòi hỏi biểu thị nét nghĩa “hướng không gian”, chẳng hạn như: đi, bò, bay, chạy... hoặc: dẫn, dắt, đẩy, quăng... Mặt khác, khi làm thành tố phụ cho các vị từ trung tâm biểu thị tư thế như: đứng, ngồi, cầm, giữ, đẹp, tươi... các từ chỉ hướng đó điều biến ngữ nghĩa và ngữ pháp của các vị từ, làm cho chúng có nét nghĩa “vận động, quá trình” (ví dụ: đứng lên, ngồi xuống, cầm vào, giữ lại, đẹp ra, tươi lên...).

          Như chúng tôi vừa nêu bên trên, khi nhóm vị từ (ký hiệu là +V) vận động có hướng này đảm nhiệm vai trò làm thành tố phụ, đứng sau vị từ trung tâm trong ngữ vị từ thì ngữ nghĩa, ngữ pháp, tư cách từ loại của chúng đã thay đổi, không còn là vị từ nữa (ký hiệu -V), biểu thị và điều biến ngữ nghĩa, ngữ pháp của vị từ trung tâm. Nhiều nhà nghiên cứu Việt ngữ học (trong số đó, chẳng hạn, Hà Quang Năng 1998; và một số nhà nghiên cứu khác) quan niệm và xử lý đây là phương thức chuyển từ loại, tạo thành từ mới; và dường như hàm ý rằng: có thể xử lý chúng như những cặp từ đồng âm, ví dụ: ra1 [+V] (vị từ) và ra2 [-V] (không phải là vị từ).

          3.2. Ngữ liệu khảo sát

          a) Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 10 nguồn ngữ liệu làm mẫu khảo sát, nhưng có định hướng là chọn trong bốn giai đoạn lịch sử: tiếng Việt cổ, tiếng Việt trung đại, tiếng Việt cận đại, tiếng Việt hiện đại. Theo đó, các nguồn ngữ liệu cụ thể gồm các văn bản: Phật thuyết (Pth.), Khóa hư lục (KhL.), Quốc âm thi tập (Qâtt.), Lịch sử nước Annam (LsAn.), Thư thế kỉ 18 (Thư18.), Truyện Kiều (TK.), Chuyện đời xưa (Chđx.), Thầy Lazarô Phiền (LPhiền.), Tố Tâm (Ttâm.), Dictionnaire de fréquence du Vietnamien (Từ điển tần số tiếng Việt: TĐts.).   

          Trong các nguồn ngữ liệu này, Từ điển tần số tiếng Việt là một đại diện cho tiếng Việt hiện đại, vì nó được xây dựng trên cơ sở các loại văn bản trong thời gian từ 1956 đến 1972, bao gồm: văn chương, báo chí, thơ, kịch, văn học thiếu nhi, tác phẩm của Hồ chí Minh. Danh sách từ ngữ của từ điển này gồm 17.781 đơn vị, với tổng tần số - độ dài văn bản, là 494.715 lượt từ (Nguyễn Đức Dân 1980).

          b) Chúng tôi sẽ thống kê số lần xuất hiện với tư cách vị từ ([+V]) và số lần xuất hiện với tư cách không phải vị từ ([-V]) của ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua trong các nguồn ngữ liệu và xem xét tương quan giữa tỷ lệ giữa [-V] với [V], giữa [+V] với [V], giữa [-V] với [+V] của từng từ trong từng nguồn và các nguồn ngữ liệu ở từng giai đoạn lịch sử được khảo sát để đánh giá về chiều hướng và mức độ ngữ pháp hóa của các từ trong nhóm.

          3.3. Kết quả khảo sát 9

          3.3.1. Khảo sát ba nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt cổ, gồm: I. Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, II. Khóa hư lục,III. Quốc âm thi tập. Kết quả cụ thể là như sau:

Bảng 1: [+V], [-V] trong các nguồn ngữ liệu I., II., III và tỷ lệ [+V] : V, [-V] : [V]  

 

I[9]

 

II

 

III

 

I + II +III

 

Tỷ lệ

 

ra +V 17 11 1 29 28 %
-V 9 64 0 73 72%
vào +V 6 17 1 24 43 %
-V 1 31 0 32 57 %
lên +V 0 10 2 12 41 %
-V 0 17 0 17 59 %
xuống +V 0 3 0 3 20 %
-V 0 12 0 12 80 %
về +V 6 34 22 62 65 %
-V 9 21 3 33 35 %
lại +V 8 8 3 19 10,5 %
-V 23 100 39 162 89,5 %
sang +V 0 2 2 4 80 %
-V 0 1 0 1 20 %
qua +V 18 7 43 68 86 %
-V 0 5 6 11 14 %

          Về nguyên tắc, tỷ lệ [-V] càng cao hơn [+V] thì mức độ ngữ pháp hóa +V để thành -V càng cao; ngược lại, nếu tỷ lệ [-V] càng thấp hơn [+V] thì mức độ ngữ pháp hóa +V để trở thành -V càng thấp.

          Bảng này cho thấy số liệu khá phân tán. Nếu nhìn riêng biệt từng nguồn ngữ liệu, ta thấy:

          - Trong Phật thuyết, số liệu về ba từ lên, xuống, sang, không nói được điều gì. Số lần [-V] của về, lại cao hơn [+V] tương ứng của chúng. [-V] của ra, vào, qua đều thấp hơn nhiều/rất nhiều so với [+V] tương ứng của chúng.

          - Trong Khóa hư lục, [-V] của ra, vào, lên, xuống, lại đều cao hơn hoặc cao hơn rất nhiều so với [+V] tương ứng của chúng. Ba từ: về, sang, qua đều có [-V] thấp hơn nhiều so với [+V] tương ứng của chúng.

          - Quốc âm thi tập cho thấy một quang cảnh rất đặc biệt. Hai từ: vềqua có [-V] rất thấp so với [+V], lần lượt là: 3/22 và 6/43; trong khi đó, ở từ lại, tương quan này là 39/3. Năm từ ra, vào, lên, xuống, sang có [V] (tổng số lần xuất hiện [+V] và [-V]) trong văn bản này rất thấp (hoặc không xuất hiện: xuống) so với [V] của về, lại, qua. Rất có thể vì lý do thể loại của văn bản này là thơ.

          - Trong cả ba nguồn ngữ liệu được khảo sát, tương quan giữa [-V] với [+V] của từ lại đều nhất quán là rất cao. - Tương quan giữa [-V] với [+V] của sang, của qua trong cả ba nguồn ngữ liệu đều nhất quán là thấp hoặc rất thấp.

Tuy nhìn riêng từng từ ở từng nguồn ngữ liệu thì thấy số liệu phân tán như vậy, nhưng nếu gộp lại thành một nguồn chung lớn hơn (I + II + III) để xem xét, thì các số liệu và tương quan lại khá tập trung.

          Các từ: ra, vào, lên, xuống, lại đều có tổng [-V] cao hơn hoặc cao hơn rất nhiều so với tổng [+V]. Ba từ về, sang, qua đều có tổng [-V] thấp hơn nhiều so với tổng [+V].

Nếu tạm ước tương quan [-V] với [+V] đạt 50% ~ 50% là tương quan tới hạn, thể hiện mức độ ngữ pháp hóa 100% (vì hai bên đã có tần số sử dụng bằng nhau), thì trong các nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt cổ được khảo sát, ta có thể thấy:

          - Từ lại có mức độ được ngữ pháp hóa cao nhất; tương quan giữa [-V] với [+V] của nó là 89,5% ~ 10,5%. Tiếp theo, lần lượt là xuống, ra, lên, vào.

          - Mức độ được ngữ pháp hóa thấp nhất là qua, tiếp theo lần lượt là sang, về.

          - Mức độ ngữ pháp hóa của ba từ: về, sang, qua là chưa tới hạn.

          3.3.2. Khảo sát ba nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt trung đại, gồm: IV. Lịch sử nước Annam, V. Thư thế kỉ 18, VI. Truyện Kiều. Kết quả cụ thể là như sau:

Bảng 2: [+V], [-V] trong các nguồn ngữ liệu IV., V., VI. và tỷ lệ [+V] : V, [-V] : [V] 

 

IV

 

V

 

VI

 

IV + V + VI

 

Tỷ lệ

ra +V 17 107 74 198 58 %
-V 23 49 69 141 42 %
vào +V 15 48 23 86 48 %
-V 11 18 64 93 52 %
lên +V 24 14 18 56 63 %
-V 22 2 9 33 37 %
xuống +V 1 9 3 13 31 %
-V 4 7 18 29 69 %
về +V 22 14 51 87 37 %
-V 21 111 18 150 63 %
lại +V 0 0 9 9 2 %
-V 86 152 138 376 98 %
sang +V 10 21 10 41 72 %
-V 0 7 9 16 28 %
qua +V 1 9 9 19 65,5 %
-V 2 4 4 10 34,5 %

          Tương tự như trong các nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt cổ được khảo sát, số liệu về mức độ ngữ pháp hóa của ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua trong các nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt trung đại cũng khá tản mạn.

          Nhưng nếu gộp cả ba nguồn lại thành một nguồn chung lớn hơn (IV + V + VI) để khảo sát và đánh giá thì các số liệu và tương quan cũng khá tập trung. Các từ: vào, xuống, về, lại đều có [-V] cao hơn hoặc cao hơn rất nhiều so với [+V] (từ lại). Bốn từ: ra, lên, sang, qua đều có [-V] thấp hơn so với [+V] của chúng (nhưng ở ra, mức độ chênh lệch không nhiều). Cũng như khi phân tích số liệu bảng 1, nếu tạm ước tương quan giữa [-V] với [+V] đạt 50% ~ 50% là tương quan tới hạn, thể hiện mức độ ngữ pháp hóa 100%, thì trong các nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt trung đại được khảo sát, ta có thể thấy:

          - Chỉ có 4 từ: vào, xuống, về, lại có [-V] cao hơn [+V]; 4 từ có [-V] thấp hơn [+V] là: ra, lên, sang, qua.

          - Từ lại có mức độ được ngữ pháp hóa cao nhất; tương quan giữa [-V] với [+V] của nó là: 98% ~ 2%. Tiếp theo, lần lượt là xuống, về, vào.

          - Mức độ được ngữ pháp hóa của ra, lên, sang, qua là chưa tới hạn; trong đó mức thấp nhất là sang; tiếp theo lần lượt là qua, lên, ra.

          3.3.3. Khảo sát ba nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt cận đại

Ba nguồn ngữ liệu này gồm: VII. Chuyện đời xưa, VIII. Thầy Lazarô Phiền, IX. Tố Tâm. Kết quả cụ thể là như sau:

Bảng 3: [+V], [-V] trong các nguồn ngữ liệu VII., VIII., IX. và tỷ lệ [+V] : V, [-V] : [V] 

VII VIII IX VII + VIII + IX Tỷ lệ
ra +V 96 17 73 186 33 %
-V 156 52 165 373 67 %
Vào10 +V 59 10 23 92 31 %
-V 84 17 105 206 69 %
lên +V 22 15 13 50 30 %
-V 67 12 40 119 70 %
xuống +V 25 20 16 61 44 %
-V 27 18 32 77 56 %
về +V 81 19 55 155 47,5 %
-V 76 13 82 171 52,5 %
lại +V 24 6 9 39 8,5 %
-V 141 92 189 422 91,5 %
sang +V 0 0 7 7 70 %
-V 1 0 2 3 30 %
qua +V 16 15 9 40 45 %
-V 27 5 17 49 55 %

          Số liệu về mức độ ngữ pháp hóa của các từ đang xét trong bảng 3 tuy vẫn tản mạn, nhưng ít tản mạn hơn khá nhiều so với bảng 2 và bảng 1. Khi gộp ba nguồn riêng biệt thành một nguồn chung (VII + VIII + IX) thì các số liệu và các tương quan khá tập trung. 

          Trong bảng 3 các từ có [-V] cao hơn [+V] là: ra, vào, lên, xuống, về, lại, qua. Từ sang vẫn duy trì tình trạng có [-V] thấp hơn [+V].

          Theo cách đánh giá đã thực hiện khi phân tích số liệu ở bảng 1 và bảng 2, nếu tạm ước tương quan giữa [-V] với [+V] đạt 50% ~ 50% là tương quan tới hạn, thể hiện mức độ ngữ pháp hóa 100%, thì trong các nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt cận đại được khảo sát, chúng tôi thấy:

          - Từ lại có mức độ được ngữ pháp hóa cao nhất; tương quan giữa [-V] với [+V] của nó là 91,5% ~ 8,5%. Tiếp theo, lần lượt là: lên, vào, ra, xuống, qua, về, sang

          - Mức độ được ngữ pháp hóa thấp nhất là sang; và duy nhất từ này có mức độ ngữ pháp hóa chưa tới hạn.

          3.3.4. Khảo sát nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt hiện đại

          Nguồn ngữ liệu này, như trên chúng tôi đã trình bày, là Từ điển tần số tiếng Việt được xây dựng trên cơ sở dữ liệu gồm nhiều văn bản trong thời gian từ 1956 đến 1972 của các thể loại văn chương, báo chí, thơ, kịch, văn học thiếu nhi, tác phẩm của Hồ chí Minh. Kết quả khảo sát cụ thể là như sau:

Bảng 4: [+V], [-V] trong nguồn ngữ liệu X. Dictionnaire de fréquence  du Vietnamien                                       (Từ điển tần số tiếng Việt) và tỷ lệ [+V] : V, [-V] : [V]  

X Tỷ lệ
ra +V 863 28 %
-V 2228 72 %
vào +V 956 45 %
-V 1167 55 %
lên +V 627 24 %
-V 1954 76 %
xuống +V 319 30 %
-V 756 70 %
về +V 1105 46 %
-V 1314 54 %
lại +V 89 5 %
-V 1712 95 %
sang +V 186 63 %
-V 108 37 %
qua +V 12 2 %
-V 658 98 %

          Số liệu về mức độ ngữ pháp hóa của các từ đang xét trong bảng 4 thể hiện tình trạng tập trung và đồng hướng hơn nhiều so với bảng 1, 2, và 3. Trong bảng 4 các từ có [-V] cao hơn [+V] là: ra, vào, lên, xuống, về, lại, qua. Từ sang vẫn có [-V] thấp hơn [+V].

          Theo cách đánh giá đã thực hiện bên trên, tạm ước tương quan giữa [-V] với [+V] đạt 50% ~ 50% là tương quan tới hạn, chúng tôi thấy:

          - Trong nguồn ngữ liệu thời tiếng Việt hiện đại được khảo sát, từ qua có mức độ ngữ pháp hóa cao nhất; tương quan giữa [-V] với [+V] của từ này là: 98% ~ 2%. Tiếp theo, lần lượt là các từ: lại, lên, ra, xuống, vào, về, sang.       

          - Mức độ ngữ pháp hóa thấp nhất là sang. Đây cũng là từ duy nhất trong bảng 4 có mức độ ngữ pháp hóa chưa tới hạn.

          3.3.5. Tổng hợp số liệu [+V] và [-V] của các nguồn ngữ liệu trong từng giai đoạn: tiếng Việt cổ (ký hiệu A), tiếng việt trung đại (ký hiệu B), tiếng Việt cận đại (ký hiệu C), tiếng Việt hiện đại (ký hiệu D), chúng tôi lập được bảng 5 sau đây.

Bảng 5: Tỷ lệ trung bình [+V] : [V] và [-V] : [V] của các nguồn ngữ liệu  trong từng giai đoạn

Tỷ lệ trung bình [+V] : [V] và [-V] : [V]                               trong từng giai đoạn
  A B C D
ra +V 28 % 58 % 33 % 28 %
-V 72 % 42 % 67 % 72 %
vào +V 43 % 48 % 31 % 45 %
-V 57 % 52 % 69 % 55 %
lên +V 41 % 63 % 30 % 24 %
-V 59 % 37 % 70 % 76 %
xuống +V 20 % 31 % 44 % 30 %
-V 80 % 69 % 56 % 70 %
về +V 65 % 37 % 47,5 % 46 %
-V 35 % 63 % 52,5 % 54 %
lại +V 10,5 % 2 % 8,5 % 5 %
-V 89,5 % 98 % 91,5 % 95 %
sang +V 80 % 72 % 70 % 63 %
-V 20 % 28 % 30 % 37 %
qua +V 86 % 65,5 % 45 % 2 %
-V 14 % 34,5 % 55 % 98 %

          Số liệu của bảng 5 cho thấy:

          a. Về tỷ lệ [-V] thấp hơn [+V]:

          Ngữ liệu thuộc giai đoạn tiếng Việt cổ có ba từ: về, sang, qua.

          Ngữ liệu thuộc giai đoạn tiếng Việt trung đại có bốn từ: ra, lên, sang, qua

          Ngữ liệu thuộc giai đoạn tiếng Việt cận đại, hiện đại, chỉ có từ sang

          b. Nếu so sánh ngữ liệu thuộc các giai đoạn khác nhau của từng từ một theo bảng tổng hợp này, thì quang cảnh toàn cục lại không tản mạn như khi ta nhìn một cách biệt lập vào từng bộ phận ngữ liệu trong từng giai đoạn lịch sử riêng (từng bảng 1, 2, 3, 4. bên trên). Cụ thể là:

          Những từ có [-V] luôn luôn cao hơn nhiều so với [+V] tương ứng qua cả 4 giai đoạn lịch sử là: vào, xuống, lại.           

          Hai từ ra, lên có [-V] cao hơn nhiều so với [+V] trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt cổ, tiếng Việt cận đại, hiện đại, nhưng trong ngữ liệu tiếng Việt trung đại, hai từ này lại đều có [-V] thấp hơn so với [+V].

          Từ về có [-V] thấp hơn so với [+V] trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt cổ, nhưng ở ngữ liệu tiếng Việt trung đại, cận đại, hiện đại thì luôn luôn cao hơn [+V].

          Từ qua có [-V] thấp hơn nhiều so với [+V] trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt cổ, trung đại, nhưng trong ngữ liệu tiếng Việt cận đại, đã tăng cao hơn [+V]. Trong ngữ liệu tiếng Việt hiện đại, tỷ lệ đó tăng cao đến mức tuyệt đối áp đảo, khiến tương quan giữa [-V] với [+V] là 98% ~ 2%.

          Riêng từ sang có [-V] tăng dần từ ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt cổ đến ngữ liệu tiếng Việt trung đại, cận đại và hiện đại nhưng vẫn luôn luôn thấp hơn rất nhiều so với [+V] tương ứng.  

          c. Trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt hiện đại, trừ từ sang vẫn có [-V] thấp hơn [+V], còn lại các từ khác đều có [-V] cao hơn nhiều hoặc rất nhiều so với [+V]. Điều này hàm chứa một ý: trong tiếng Việt hiện đại, trừ từ sang, tất cả các từ khác còn lại đều có mức độ ngữ pháp hóa tới hạn, trong tương quan giữa [-V] với [+V] của chúng thì [-V] đều từ 50% trở lên, thể hiện mức độ ngữ pháp hóa 100%.

          d. Ta có thể sắp xếp thứ tự các từ theo tỷ lệ [-V] của chúng từ cao xuống thấp trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt hiện đại như sau:

-V +V Tổng
qua 98% 2% 100%
lại 95% 5% 100%
lên 76% 24% 100%
ra 72% 28% 100%
xuống 70% 30% 100%
vào 55% 45% 100%
về 54% 46% 100%
sang 37% 63% 100%

          Như vậy, có thể nói rằng, quá trình ngữ pháp hóa của tất cả các từ trong nhóm được khảo sát đã diễn ra từ lâu, được ghi nhận rõ ràng trong ngữ liệu thành văn từ thời tiếng Việt cổ đến nay. Tuy nhiên quá trình đó diễn ra không đồng đều giữa các từ và giữa các giai đoạn lịch sử của Việt ngữ. Xu thế chung là mức độ ngữ pháp hóa của của các từ trong nhóm càng ngày càng tăng (theo chiều lịch đại từ thời tiếng Việt cổ đến Việt hiện đại). Từ sang là từ duy nhất có mức độ ngữ pháp hóa chưa tới hạn, xét trong ngữ liệu của từng giai đoạn lịch sử cũng vậy, mà xét trong ngữ liệu tổng hợp tất cả các giai đoạn cũng vậy.

          Từ giai đoạn tiếng Việt cận đại (cột C, bảng 5), [-V] của từ qua tăng cao, tới hạn; và đến ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt hiện đại (cột D, bảng 5), tỷ lệ [-V] của nó đạt mức tuyệt đối áp đảo so với tỷ lệ [+V], là 98% ~ 2%.

          3.3.6. Bên trên, trong các bảng 1, 2, 3, 4, 5, chúng tôi mới chỉ phân biệt các vị từ [+V] hữu quan và quá trình ngữ pháp hóa thành [-V] tương ứng của chúng để đánh giá theo định lượng các mức độ ngữ pháp hóa đó qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Trong mỗi đơn vị [+V] được ngữ pháp hóa thành đơn vị có cương vị [-V] đó, có thể chứa nhiều nội dung ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng khác nữa, chứ không phải chỉ có nghĩa ngữ pháp “chỉ hướng” cho vị từ trung tâm, điều biến các thái độ ngữ pháp cho vị từ trung tâm.

          Xét từ lại chẳng hạn, ta có thể thấy:

          - Trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt cổ (bảng 1), tương quan giữa [-V] với [+V] của nó ở ba nguồn ngữ liệu Phật thuyết, Khóa hư lục, Quốc âm thi tập lần lượt là 23/8, 100/8, 39/3.

          Nhưng nếu tính [-V] là thành tố phụ đứng sau vị từ trung tâm, biểu thị nét nghĩa“hướng” của vị từ trung tâm, thì số lần xuất hiện của nó chỉ lần lượt là:

          0/23 (trong 23 lần là [-V], không có lần nào là thành tố phụ đứng sau vị từ trung tâm)

          37/100 (trong 100 lần là [-V], chỉ có 37 lần là thành tố phụ đứng sau vị từ trung tâm)

          5/39 (trong 39 lần là [-V], chỉ có 5 lần là thành tố phụ đứng sau vị từ trung tâm).

          - Trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt trung đại (bảng 2), tương quan giữa [-V] với [+V] của từ lạiLịch sử nước Annam, Thư thế kỉ 18, Truyện Kiều lần lượt là 86/0, 152/0, 138/9. Nếu tính [-V] là thành tố phụ sau vị từ trung tâm, biểu thị nét nghĩa “hướng” của vị từ trung tâm, thì số lần xuất hiện của nó chỉ lần lượt là 7/86, 44/152 và 17/138.

          - Trong ngữ liệu giai đoạn tiếng Việt cận đại (bảng 3), tương quan giữa [-V] với [+V] của nó ở Chuyện đời xưa, Thầy Lazarô Phiền, Tố Tâm lần lượt là 141/24, 92/6, 189/9. Nếu tính [-V] là thành tố phụ sau vị từ trung tâm, biểu thị nét nghĩa “hướng” của vị từ trung tâm, thì số lần xuất hiện của nó lần lượt là 116/141, 48/92 và 16/189.

          Điều này cần được lưu ý phân biệt khi phân tích về quá trình ngữ pháp hóa các từ hữu quan khi chúng trở thành thành tố phụ biểu thị nét nghĩa “hướng” cho vị từ trung tâm.

 

          4. Nhận xét, thảo luận 

          Từ nhận thức về lý thuyết ngữ pháp hóa và một số phân tích cụ thể trình bày trên đây, bước đầu, chúng tôi thấy có thể rút ra mấy nhận xét sau đây.

          4.1. Ngữ pháp hóa là hiện tượng thực tế trong lịch sử biến đổi và phát triển của tiếng Việt. Cả lý thuyết ngữ pháp hóa lẫn thực tế ngôn ngữ được khảo sát đều thể hiện rằng, trong quá trình ngữ pháp hóa một đơn vị ngôn ngữ, biến đổi về ngữ nghĩa của nó luôn luôn có vai trò quan trọng hàng đầu.

          Bằng bất kỳ một phương thức nào đó thích hợp, các diễn biến ngữ nghĩa của một đơn vị ngôn ngữ vốn là đơn vị tự nghĩa (autosemantic) đi đến chỗ làm cho một nghĩa ngữ pháp (grammatical meaning) được xây dựng, phát triển (từ nghĩa từ vựng - lexical meaning của chính nó). Về vấn đề này, Lehmann C. (1995: 121-122) cho rằng trong quá trình ngữ pháp hóa, tính độc lập (autonomy) của ký hiệu ngôn ngữ (cũng có thể hiểu là tính thực từ của nó) được chuyển sang tính ngữ pháp của nó. Vì thế, cái đặc trưng của ngữ pháp hóa là quá trình giải tỏa ngữ nghĩa (desemanticization), hay cũng còn gọi là quá trình tẩy trắng ngữ nghĩa (bleaching), quá trình hư hóa (emptying), quá trình rụng nghĩa (loss). Nói cụ thể hơn, thì diễn biến quan trọng nhất về mặt ngữ nghĩa của đơn vị được ngữ pháp hóa là các quá trình mở rộng, hay thu hẹp nghĩa, và/hoặc giải tỏa, bào mòn ngữ nghĩa. Ngữ pháp hóa làm cho tính độc lập của ký hiệu ngôn ngữ giảm thiểu đi. Vì vậy, muốn lượng định mức độ ngữ pháp hóa của một ký hiệu ngôn ngữ, ta phải xác định được mức độ độc lập cú pháp của nó. Nghiên cứu trường hợp về một từ đã như trình bày bên trên là một ví dụ.

          Tuy nhiên, biến đổi ngữ nghĩa của đơn vị ngôn ngữ dù rất quan trọng, vẫn chưa phải là tất cả. Chỉ khi nào những biến đổi ngữ nghĩa (xem như mặt bên trong của đơn vị ngôn ngữ) được “vật chất hóa” bằng chất liệu ngôn ngữ trên bình diện ngữ pháp, tức là được biểu hiện ra “một cách ngữ pháp” thì lúc đó ta mới có một quá trình ngữ pháp hóa đầy đủ, hoàn chỉnh. Ngữ pháp hóa một đơn vị ngôn ngữ là quá trình phức hợp, không phải là sự chuyển đổi các thuộc tính ngữ nghĩa, ngữ pháp của nó một cách ngẫu nhiên, không dựa trên nguyên tắc hoặc cơ sở nào. Bên cạnh đó, các nhân tố ngữ dụng, tình thái cũng có đóng góp vào các quá trình ngữ pháp hóa.

          4.2. Từ đầu thế kỷ XX với công trình của Meillet A. “L’evolution des formes grammaticales (1912, theo Bussmann 1996) đến nay, lý thuyết ngữ pháp hóa từng được ứng dụng trong các nghiên cứu như: sự đánh dấu về giới/giống (gender), về đại từ, về dấu hiệu [± chuyển sở chỉ] (switch reference), cấu trúc động từ chuỗi (serial verb constructions), sự biểu đạt tình thái và nhận thức, liên từ biểu thị nghĩa nhân nhượng và điều kiện, liên từ chỉ nguyên nhân, thái trung tính (middle voice) và tính phản chỉ (reflexivity) (Bussmann 1996: 196-197). Vào những năm 1980 - 1990 cho đến những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, những người quan tâm đến lý thuyết ngữ pháp hóa đều đã biết đến các công trình của khá nhiều nhà nghiên cứu ở nước ngoài như: Sweetser E. (1988), Hopper P.J. (1991), Traugott E.C., Heine B. (1991), Rubba J. (1994), Lehmann C. (1995), Joseph B. (2001), Bisang  W. (1996, 2004), Hopper P.J., Traugott E.C. (2003), Bjorn Wiemer and Walter Bisang W. (2004), Lehmann V. (2004)... Nhưng rõ ràng, trong các vấn đề được nghiên cứu đó, có những cái mang tính phổ quát, có những cái chỉ mang tính bộ phận; và thực ra, thì phần lớn trong lý thuyết ngữ pháp hóa đã được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu các ngôn ngữ biến hình. 

          Trong nghiên cứu Việt ngữ, vấn đề ngữ pháp hóa đã được đề cập hoặc nhắc đến trong một số công trình, nhưng còn rất ít (ví dụ, Nguyễn Lai 1990, Trần Thị Nhàn 2009). Nếu như trong các ngôn ngữ biến hình, tiến trình ngữ pháp hóa một yếu tố ngôn ngữ có thể trải qua các giai đoạn (xếp theo mức độ tăng dần của tính ngữ pháp): Đơn vị từ vựng tự do Hư từ Phụ tố zero (Wischer 2006: 129), thì tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập, không biến hình, có những nétriêng, do chính những đặc điểm loại hình của nó quyết định. Việt ngữ không có một phương tiện hình thái nào (hiểu theo đúng nghĩa nghiêm nhặt của thuật ngữ này) để biểu thị các quan hệ ngữ pháp, ý nghĩa ngữ pháp, phạm trù ngữ pháp. Để biểu thị những thứ đó, về căn bản, nó dựa vào phương tiện hư từ, trật tự từ. Trật tự từ, hiểu một cách rộng ra, còn là các khả năng kết hợp, là sự đối đãi giữa các từ/ngữ với nhau trên ngữ đoạn. Thành thử, các biến chuyển của từ/ngữ trong quá trình ngữ pháp hóa của chúng được thực hiện, được diễn ra trong quá trình lập thức về mặt cú pháp, thể hiện các khả năng kết hợp từ vựng và kết hợp ngữ pháp của chúng. Đây là những biểu hiện căn bản nhất của ngữ pháp hóa trong tiếng Việt.

          Các quá trình ngữ pháp hóa của tiếng Việt và kết quả của các quá trình ngữ pháp hóa đó không cho ta các phụ tố, mà cho ta những thay đổi về bản chất, thuộc tính ngữ pháp của từ, về thái độ ngữ pháp của từ (đơn vị được ngữ pháp hóa) cùng những kết quả ngữ nghĩa và/hoặc tình thái và/hoặc ngữ dụng. Những danh từ, vị từ được ngữ pháp hóa trở thành yếu tố ngữ pháp tính, có thuộc tính ngữ nghĩa và ngữ pháp của từ công cụ (hư từ) như: cho, của, không, hết, ra, vào ... đều là những ví dụ tiêu biểu của hiện tượng ngữ pháp hóa trong Việt ngữ.       

Cũng như trong các ngôn ngữ khác, nội dung ngữ pháp hóa trong tiếng Việt khá phong phú. Trật tự từ, các đánh dấu dụng học về tính thái, hàm ngôn, tiền giả định, chuyển nghĩa và “chuyển từ loại” (trong giới hạn trở thành yếu tố ngữ pháp tính biểu thị nghĩa ngữ pháp)... đều là những nội dung cần được quan tâm trong lý luận về ngữ pháp hóa.

          4.3. Quá trình ngữ pháp hóa các vị từ: đã, ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua thành các phó từ làm thành tố phụ sau vị từ trung tâm trong ngữ vị từ, có thể thấy rõ được qua các phân tích theo chiều lịch đại, qua các diễn biến ngữ nghĩa, ngữ pháp, ngữ dụng của chúng. Quá trình hình thành, biến chuyển của các phó từ này, một mặt có thể làm rõ được bằng lý thuyết ngữ pháp hóa, mặt khác, chính nó có thể làm rõ thêm cho lý thuyết về ngữ pháp hóa, một vấn đề vừa có những nét chung bản chất trong mọi ngôn ngữ, vừa có những nét riêng trong mỗi ngôn ngữ.

          Như bên trên chúng tôi đã trình bày, ngữ pháp hóa trong tiếng Việt dựa trên nền tảng của của các biến đổi ngữ nghĩa. Các phương thức ẩn dụ, hoán dụ, sự mở rộng hay thu hẹp ngữ nghĩa... vừa là công cụ dẫn đường, vừa là phương thức thực hiện cho các quá trình biến đổi đó. Nói cách khác, ở đây, biến đổi về ngữ pháp dựa trên nền tảng và bắt đầu từ biến đổi ngữ nghĩa, bởi vì phương tiện quan trọng hàng đầu để thể hiện các ý nghĩa ngữ pháp, quan hệ ngữ pháp, thể hiện tình thái và ngữ dụng của tiếng Việt, chủ yếu là nhờ các phương tiện từ vựng.

          Điều này có thể thấy rất rõ khi ta nghiên cứu ngữ pháp hóa qua các giai đoạn lịch sử ngôn ngữ khác nhau, bởi vì nhìn theo chiều thời gian lịch sử, tính quá trình của vấn đề dễ bộc lộ hơn. Tại một lát cắt đồng đại nào đó, thì sẽ khó thấy được tính quá trình của của ngữ pháp hóa hơn.

          4.4. Các phân tích về quá trình biến đổi ngữ nghĩa và những tương quan định lượng giữa [-V] với [+V] của một nhóm phó từ làm thành tố phụ sau vị từ trung tâm trong ngữ vị từ cho phép đánh giá rằng: trong tiến trình lịch sử từ thời tiếng Việt cổ đến tiếng Việt hiện đại, mức độ ngữ pháp hóa của mỗi từ trong nhóm 8 từ: ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua, tuy có lúc, có chỗ không đồng đều, nhưng xu hướng chung là mức độ ấy càng ngày tăng. Trong 8 từ này, sang là từ duy nhất luôn luôn có tương quan giữa [-V] với [+V] không đạt tới hạn (50% ~50%) trong tất cả các giai đoạn lịch sử, từ tiếng Việt cổ đến tiếng Việt hiện đại.

          Thành tố phụ của các ngữ vị từ trong tiếng Việt, là vấn đề rất phức tạp. Các nghiên cứu về ngữ vị từ đều cho thấy điều đó. Các thành tố phụ đó gồm những gì ? Những từ ngữ nào có thể tham gia làm thành tố phụ ở đó ? Có điều chắc chắn rằng trong ngữ vị từ, khi một thực từ được “điều động” vào làm thành tố phụ cho vị từ trung tâm thì các từ đó đã được ngữ pháp hóa (với những mức độ, những điểm tới hạn khác nhau). Tuy nhiên, khi một đơn vị làm thành tố phụ trong ngữ vị từ, đã được ngữ pháp hóa, mà các loại nghĩa, nội dung tình thái, ngữ dụng của nó vẫn còn liên hệ với nhau, đan xen vào nhau rất khó tách bạch, thì xử lý như thế nào, là việc không đơn giản. Nếu nhìn nhận vấn đề thuần túy từ góc độ cấu trúc ngữ đoạn thì có thể ưu tiên dựa vào các tiêu chí hình thức, tiêu chí phân bố trên trục kết hợp, các khả năng kết hợp ngữ pháp. Nhưng các vấn đề “bên trong cấu trúc”, vấn đề nội dung ngữ nghĩa, tình thái, dụng học vẫn là những thành phần không thể bỏ qua hoặc xem nhẹ. Mối liên hệ về nghĩa giữa [+V] với [-V] ở những trường hợp như chúng tôi khảo sát và phân tích bên trên chưa hoàn toàn chấm dứt; mà câu hỏi “liệu bao giờ có thể chấm dứt” thì không ai có thể lượng định trước được, mặc dù mức độ ngữ pháp hóa, mức độ “ngữ pháp tính” của chúng rõ ràng là càng ngày càng tăng.

          Những phân tích về một vài hiện tượng ngữ pháp hóa trình bày trong bài này, hy vọng có thể là một thử nghiệm hữu ích, giải thích cho việc “phó từ hóa” một số từ khi chúng làm thành tố phụ trong ngữ vị từ; và cũng có thể có thêm một vài hàm ý về các quá trình ngữ pháp hóa trong tiếng Việt nói chung./.

Vũ Đức Nghiệu

(Tác giả gửi Web Khoa Văn học)

Bài đã đăng tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn; Tập 5, Số 6 (2019), tr.660-684.

 

Danh sách các nguồn ngữ liệu được khảo sát 

VIẾT TẮT TÊN ĐẦY ĐỦ VÀ NGUỒN CỦA NGỮ LIỆU
1. Chđx. Chuyện đời xưa. Trương Vĩnh Ký (1866); Nhà sách Khai trí, Sài gòn, 1962.
2. ChđiBk Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi 1876. Trương Vĩnh Ký. “http://vi.wikisource.org/w/index.php?title=Chuyến_đi_Bắc_Kỳ_năm_Ất_Hợi_1876&          oldid=29918
3. Cưtrần. Cư trần lạc đạo phú. Trong sách Thiền tông bản hạnh. (Hoàng Thị Ngọ khảo cứu, phiên âm, chú giải). Nxb Văn học; Hà Nội, 2009. Sách Chữ Nôm: nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến; Đào Duy Anh Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975.
4. Đthú. Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca. Trong sách Thiền tông bản hạnh. (Hoàng Thị Ngọ khảo cứu, phiên âm, chú giải); Nxb Văn học; Hà Nội, 2009; và sách Chữ Nôm: nguồn gốc - cấu tạo - diễn biến; Đào Duy Anh Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1975.
5. HYên. Vịnh Hoa yên tự phú. Trong sách Thiền tông bản hạnh. (Hoàng Thị Ngọ khảo cứu, phiên âm, chú giải); Nxb Văn học; Hà Nội, 2009.
6. KhL. Khoá hư lục (Thiền tông khóa hư ngữ lục). Trần Trọng Dương khảo cứu, phiên chú; Nxb Văn học, Hà Nội, 2009.
7. LPhiền. Thầy Lazaro Phiền. Nguyễn Trọng Quản. (1887). (Bản PDF của Nguyễn Văn Trung, Montréal, tháng1, 1999). https://cvdvn.files.wordpress.com/2017/10/thay-lazaro-phien.pdf
8. LsAn. Lịch sử nước Annam (Bentô Thiện). Trong sách Lịch sử chữ quốc ngữ 1620 -1659; Đỗ Quang Chính, Nxb Tôn giáo, 2008; và Tủ sách Ra khơi, Sài gòn,1972.
9. NHdn. Nam hải dị nhân. 1912; Phan Kế Bính;Nxb Trẻ, Hà Nội, 1988.
10. Phgi. Phép giảng tám ngày cho kẻ muấn chịu phép rửa tội mà vào đạo thánh đức chúa blời. A. de Rhodes.  Tủ sách Đại kết, 1993.
11. Pth. Phật thuyết phụ mẫu đại báo ân trọng kinh. (Hoàng Thị Ngọ phiên âm, chú giải; Trong sách:  Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết phụ mẫu đại báo ân trọng kinh. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội, 2002).
12. Qâtt. Quốc âm thi tập. Nguyễn Trãi. Trong sách Nguyễn Trãi: Quốc âm từ điển. Trần Trọng Dương; Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2014.
13. Sss. Sách sổ sang chép các việc. Philiphê Bỉnh. Viện Đại học Đà Lạt, 1968.
14. tđRhode. Từ điển Annam - Lusitan - Latinh. (Từ điển Việt - Bồ đào nha - Latinh. Dictionarivm Annnamiticvm Lvsitanvm, et Lainvm ope) A.de. Rhodes. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991.
15. TĐts. Dictionnaire de fréquence du Vietnamien (Từ điển tần số tiếng Việt). Nguyễn Đức Dân. Université de Paris VII, 1980.
16. Thư18. Thư thế kỷ XVIII.                                                                                                               Gồm các văn bản (vb.) thư số 6 đến thư số 40; trong sách Chữ quốc ngữ thế kỷ XVIII. Đoàn Thiện Thuật sưu tầm và chủ biên. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2008.
17. TK. Truyện Kiều. Trong sách Tư liệu Truyện Kiều: Thử tìm hiểu bản sơ thảo Đoạn trường tân thanh. Nguyễn Tài Cẩn. Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2008.
18 Ttâm. Tố Tâm. Hoàng Ngọc Phách (1922), (kể cả lời nói đầu của tác giả); Nxb Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh, 1988.
19 TkMl. Truyền kỳ mạn lục giải âm. Nguyễn Quang Hồng phiên âm, chú giải; Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001.                       

 

Tài liệu trích dẫn

Bisang W. 1996. "Areal typology and grammaticalization: Processes of grammaticalization based on Noun and Verb in East and mainland South East Asian languages." pp. 519-597 in Studies in Language 20: 3. University of Mainz.

     2004. “Grammaticalization without coevolution of form and meaning: The case of tense-aspect-modality in East and mainland Southeast Asia.” pp. 109-129 in What makes Grammaticalization? A look from its Fringes and its Components. Walter Bisang, Nikolaus P. Himmelmann, Bjorn Wiemer (Editors). Mouton de Gruyter. Berlin. NewYork.

Bjorn Wiemer and Walter Bisang. 2004. “What makes grammaticalization? An appaisal of its component and its fringes.” in What makes Grammaticalization? A Look from its Components. Ed. by W.Bisang, N.P. Himmelmann, B. Wiemer. Mouton de Gruyter Berlin, New York.

Bussmann H.1996. Routledge Dictionary of Language and Linguistics. (Translated and edited by G. P. Trauth, Kerstin Kazzazi). Foreign Language Teaching and Research Press.

Cadiere L. 1958. Syntaxe de la langue Vietnamiene. EFEO, vol. XLII. Paris: Ecole Française d’ Extrême Orient.

Cao Xuân Hạo. 1986.Một số biểu hiện của cách nhìn Âu châu đối với cấu trúc tiếng Việt.” Trang 225-264 trong sách Tiếng Việt - mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục.

Dik Simon C. 2005. Functional Grammar -Ngữ pháp chức năng. Thành phố Hồ Chí Minh: Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

Diệp Quang Ban. 2005. Ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục.

Hà Quang Năng.1998. "Chuyển loại, một phương thức cấu tạo từ". Trang 143-195 trong sách Từ tiếng Việt hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại (Hoàng Văn hành chủ biên). Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Hopper P.J. 1991. "On some principles of grammaticalization."Vol.I; Amsterdam/Philadenphia, pp. 17-35 in Traugott E.C. & Heime B. (eds). Approaches to grammaticalization. John Benjamins.

Hopper P.J. Traugott E.C. 2003. Grammaticalization. 2nd editiuon. Cambridge: Cambridge University Press.

Joseph B. 2001. "Is there such a thing as “grammaticalization”?" Language Sciences 23:163-186.

Lehmann C., 1995. 1995. Thoughts on Grammaticalization. (Lincom Studies in Theoretical Linguistics 1). Mununich/Newcastle: Lincom Europa.

Lehmann V. 2004. "Grammaticalization via extending derivation". pp. 169-186. In:  What makes Grammaticalization ? A look from its Fringes and its Components. (Walter Bisang, Nikolaus P. Himmelmann, Bjorn Wiemer - Editors). Mouton de Gruyter. Berlin. NewYork.

Nguyễn Anh Quế. 1988. Hư từ trong tiếng việt hiện đại. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

Nguyễn Đức Dân. 1980. Dictionnaire de fréquence du Vietnamien (Từ điển tần số tiếng Việt). Université de Paris VII.

Nguyễn Kim Thản. 1975. Động từ trong tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

Nguyễn Lai. 1990. Nhóm từ chỉ hướng vận động tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học xã hội.

Nguyễn Tài Cẩn. 1975. Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - từ ghép - đoản ngữ). Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp.

     2008. Tư liệu Truyện Kiều: Thử tìm hiểu bản sơ thảo Đoạn trường tân thanh. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo Dục.     

Panfilov V.S. 1993 (2008). Cơ cấu ngữ pháp tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục.

Rubba J. 1994. Grammaticalization as semantic change: A case study of preposition development. Bejamins.

Sweetser E. 1988. Grammaticalization and semantic bleaching. Proceeding of Annual Meeting of the Berkeley Linguistic Society. pp.389-405.

Traugott E.C., Heine B. 1991. Approaches to Grammaticalization. Benjamins. Amsterdam, Philadenphia.

Trần Thị Nhàn. 2009. Lý thuyết ngữ pháp hóa và thực trạng ngữ pháp hóa một số từ trong tiếng Việt. Hà Nội: Nhà xuất bản Khoa học Xã hội.

Vũ Đức nghiệu. 2019.  "Góp thêm ý kiến về ngữ vị từ và động ngữ tiếng Việt". Tạp chí Ngôn ngữ 4: 27 - 42.

Washizawa Takuya. 2018. "Nghiên cứu đối chiếu các hư từ Hán văn chuyển dịch sang các hư từ văn Nôm trong tác phẩm song ngữ Hán Nôm Truyền kỳ mạn lục". Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học. Đại học Quốc gia Hà Nội.

Wischer, I. 2006. Grammaticalization. Encyclopedia of Language &Linguistics; second edition. Keith Brown (Editor in chief)

Быстров И.С. Нгуен Тай Кан Станкевич Н.В. 1975. Грамматика Вьетнамского языка. Лениград.

 


[1] Trong bài này tôi dùng thuật ngữ ngữ vị từ chứ không dùng động ngữ, vì dùng thuật ngữ vị từ thay cho động từ và tính từ. Động từtính từ như quen gọi trước nay, là hai tiểu loại của vị từ. Xin xem: Dik, Simon C. 2005; Cao Xuân Hạo 1986 .

[2] Trong bài này, tên các nguồn ngữ liệu được khảo sát đều được ghi chỉ dẫn bằng chữ viết tắt. Xin xem danh sách các nguồn ngữ liệu đó cùng với quy ước viết tắt ở cuối bài.

[3] PGS.TS. Hoàng Thị Ngọ đã giúp tôi kiểm tra đối chiếu giữa văn bản Nôm với văn bản Hán văn về các tương ứng đã - này. Xin trân trọng cảm ơn Chị.

[4] TS. Trần Trọng Dương đã giúp tôi kiểm tra đối chiếu các tương ứng Nôm - Hán của Khóa hư lụcTruyền kỳ mạn lục được phân tích trong đoạn này. Xin trân trọng cảm ơn Anh.

[5] Sở dĩ có thể nói như vậy được là vì so sánh văn bản Phật thuyết với Khóa hư lụcTruyền kỳ mạn lục ta thấy, trong Phật thuyết có kết cấu V + đã (= V xong) nhưng không có: V + rồi, V + đà/đã rồi, V + đoạn rồiV + đã đoạn rồi như trong Khóa hư lục và/hoặc Truyền kỳ mạn lục. Ngược lại, trong Khóa hư lục và/hoặc Truyền kỳ mạn lục có các kết cấu V + rồi, V + đà/đã rồi, V + đoạn rồiV + đã đoạn rồi, mà trong Phật thuyết lại hoàn toàn chưa thấy xuất hiện các kết cấu này.  

[6] Trong lời chú giải văn bản, Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn (2008: 494) cho rằng trong câu: Thổ quan theo vớt vội vàng, thì đà đắm ngọc chìm hương đã rồi “Chắc chữ mất viết tắt đã bị mờ và bị tưởng nhầm là đã. Hay là phải hiểu cách như sau: - Đà là “cái sức lao ra phía trước”; - Và cái việc lao ra trước đó đã rồi, nghĩa là “đã xong hẳn”. Phải nghĩ đến cách hiểu đó cũng là để cho hết nhẽ, chứ có phần chắc là mất đã nhầm thành đã. Trương Vĩnh Ký, người đồng thời và chịu nhiều ảnh hưởng của Duy Minh Thị cũng đọc mất”.

Với chú giải này, Nguyễn Tài Cẩn giải thuyết đã rồi có nghĩa là kết thúc rồi, đã xong hẳn, nhưng ông chưa xác quyết và vẫn nghiêng về phía cho rằng từ đã ở đây là do tưởng nhầm từ mất bị mờ trên văn bản mà ra. Chúng tôi nghĩ rằng, nếu thuyết giải theo cách hiểu thứ nhất vừa nêu trên (cả tổ hợp đã rồi đóng vai trò của phó từ đứng sau thành tố trung tâm đắm ngọc chìm hương”, sẽ là hữu lý, vì cấu trúc của ngữ đoạn ở đây là đà (đã) + V + đã rồi (= rồi/ đã xong hẳn). Theo đó, câu này được hiểu là: “Thổ quan vội vàng ra vớt thì [nàng Kiều] đã đắm ngọc chìm hương đã rồi (hẳn rồi, không còn thấy gì nữa). Tổ hợp đã rồi này cũng như đã rồi trong ngữ cảnh (1), (2), (3), (4), (5) trong Truyền kỳ mạn lục đã nêu trên. 

Hơn trăm năm trước, Trương Vĩnh Ký, Duy Minh Thị đều xử lý và hiểu là “đã đắm ngọc chìm hương mất rồi” thì chứng tỏ: vào thời đó, nghĩa thực từ của đã đã rất mờ, quá trình ngữ pháp hóa của đã đã đến giới hạn của nó.

Đối với ngữ đoạn đã rồi trong câu “ăn năn thì sự đã rồi”, không có khả năng hiểu theo cách thứ nhất nêu bên trên (cả tổ hợp đã rồi thực hiện vai trò của phó từ, làm thành tố phụ cho vị từ trung tâm; trong khi, trước đã rồi ở đây thì không có vị từ nào), mà có thể hiểu theo cách thứ hai hoặc thứ ba đều được. Sự đã rồi là một tiểu cú, cho nên đã rồi phải là một ngữ vị từ, trong đó, nếu đã là vị từ (= xong hẳn, kết thúc rồi), thì rồi là phó từ đứng sau vị từ đã; nếu rồi là vị từ (= đã xong, đã hết sạch rồi) thì đã là phó từ đứng trước vị từ rồi (so sánh với ngữ liệu trong văn bản Cư trần lạc đạo: “Miễn cóc một lòng, thì rồi mọi hoặc”[= hết, không còn mọi điều sai trái]). Căn cứ vào ngữ cảnh rộng trong văn bản Truyện Kiều và mức ngữ pháp hóa của đã như vừa nêu trên đây, chúng tôi thiên về cách hiểu: sự đã rồi = (mọi việc, chuyện, sự biến) đã hết rồi, qua đi rồi, không còn nữa. Từ rồi ở đây là vị từ.

[7] Cụ thể là: Đã mà, canh tàn trà hết (TkMl.q1. tr.13b). Đã mà gió tạnh sông lặng (TkMl.q1. tr.59a). Đã mà bớt đèn tới nằm (TkMl.q1. tr.61a). Đã mà bèn để quan trở về (TkMl.q2. tr.3a). Đã mà con trẻ đội Lăng Ba phân hàng mà múa (TkMl.q2. tr.56b). Đã mà tiếng nhạc dấy (TkMl.q3. tr.44b). Đã mà tiệc ghẽ nhau bèn thôi (TkMl.q4. tr.3a). Đã mà họ Nguyễn ắt sinh con gái (TkMl.q4. tr.26b). Đã mà nhà bếp dâng cỗ, phô bày đài nậm (TkMl.q1. tr.57b).

[8] Các thuật ngữ để gọi nhóm vị từ này có thể khác nhau giữa các nhà nghiên cứu khi phân loại vị từ/động từ và miêu tả cấu trúc của ngữ vị từ/động ngữ. Ví dụ: Cadiere (1958) gọi là động từ chuyển động (verbes de mouvements); Nguyễn Kim Thản (1975) gọi nhóm này là các động từ phương hướng vận động; nhóm tác giả Быстров, Нгуен Тай Кан, Станкевич (1975) gọi đây là các động từ phương hướng chuyển động; Nguyễn Tài Cẩn (1975: 282) gọi là các động từ chỉ sự chuyển động có phương hướng; Nguyễn Lai (1990) gọi là các từ chỉ hướng vận động...

[9] Năm 2017, Mai Thùy Linh bảo vệ một luận văn Thạc sĩ Ngôn ngữ học: Ngữ pháp hóa các phụ từ đứng sau trung tâm động ngữ tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn này nghiên cứu cùng hướng với chúng tôi và có khảo sát nhóm từ ra, vào, lên, xuống, về, lại, sang, qua trong 9 văn bản, trong đó có 6 văn bản (Phật thuyết, Khóa hư lục, Quốc âm thi tập, Lịch sử nước Annam, Truyện Kiều, Thầy Lazarô Phiền) chúng tôi cũng khảo sát. Tuy nhiên, số liệu thống kê của Mai Thùy Linh không trùng với số liệu của chúng tôi, vì tiêu chí thống kê có phần không đồng nhất.

Cuối tháng 11 vừa rồi, Uỷ ban người Việt ở nước ngoài tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho Đề án Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhằm khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là thế hệ trẻ, học tập và gìn giữ tiếng Việt theo Kết luận 12-KL/TW ngày 12/08/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Nhiều đề xuất thú vị được đưa ra, trong đó có dự án “Đại sứ Tiếng Việt”.

"TÔI LÀ NGƯỜI VIỆT NAM!"

Một lần, trong trại hè “Vui cùng tiếng Việt” tổ chức tại Vác-sa-va (Ba Lan), tôi thấy một cậu chàng quãng 7-8 tuổi đứng thập thò ở cửa, miệng mấp máy hát theo bài hát các bạn đang được học. Đến gần hỏi thì cậu ấp úng nói mấy câu bằng tiếng Ba Lan: “Cháu cũng là người Việt Nam!”. Nghe câu nói ấy, cho dù không vang lên bằng tiếng Việt, tôi vẫn thấy rung động. Nó giống như một tiếng chuông trong trẻo ngân sâu xa trong lòng, từ tiềm thức của một đứa trẻ sinh ra và lớn lên ở nước người.

Một cậu bé khác người Na Uy gốc Việt, Philip, năm ấy 10 tuổi, tham gia trại hè, nghe tiếng Việt nhưng đáp bằng tiếng Anh. Khi bế mạc trại, cậu nói với bố:

⁃ Khi nào về lại Oslo, bố đưa con sang thăm bà thường xuyên nhé! Con muốn trò chuyện với bà.

⁃ Nhưng bà không nói tiếng Anh, không biết tiếng Na Uy?

⁃ Con muốn học tiếng Việt với bà! Con là người Việt Nam mà!

Khỏi nói ông bố đã hạnh phúc thế nào. Anh vội kể ngay chuyện này với tôi, ngạc nhiên vì cảm hứng tiếng Việt lần đầu tiên đến với con trai nhờ trại hè.

Nhớ câu chuyện của Philip và bố, tôi lại nhớ niềm mong mỏi của một ông bố Việt khác ở Nga. Anh ước con gái anh, cô bé Alixa tóc nâu mắt xanh biếc, có thể tâm sự với bà nội mình. Trước đó, trong một lần về phép, cô cháu bé bỏng chỉ có thể ôm bà nũng nịu mà không nói chuyện gì với bà được. Sau một thời gian tích cực học tiếng Việt, khi cô bé đứng lên ghế, dõng dạc tự giới thiệu: “Con là Alixa, con là người Việt Nam, xin đọc một bài thơ…”, người bố đã rưng rưng. Anh nghĩ đến sự hài lòng của mẹ, đến tình thân, tình ruột rà ấm áp đã được nối liền bằng tiếng Việt.

20220131 3

Trại tiếng Việt Stuttgart (Đức) do Hội người Việt Stuttgart và CLB Đọc sách cùng con tổ chức tại Đức năm 2018.

ĐẠI SỨ TIẾNG VIỆT

Cuối tháng 11 vừa rồi, Uỷ ban người Việt ở nước ngoài tổ chức lấy ý kiến đóng góp cho Đề án Ngày Tôn vinh tiếng Việt trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhằm khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là thế hệ trẻ, học tập và gìn giữ tiếng Việt theo Kết luận 12-KL/TW ngày 12/08/2021 của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Nhiều đề xuất thú vị được đưa ra, trong đó có dự án “Đại sứ Tiếng Việt” nhằm tìm kiếm và tôn vinh cá nhân xuất sắc trong việc truyền bá, giữ gìn tiếng Việt nơi xa xứ. Các chính sách đãi ngộ, những phần thưởng hấp dẫn được bàn đến. “Đại sứ Tiếng Việt” sẽ như một danh hiệu cao quý để phấn đấu, một cái cớ để truyền thông sâu rộng, cổ vũ tinh thần yêu tiếng Việt, văn hoá Việt ở kiều bào.

Tuy nhiên, nghĩ đến những câu chuyện đáng yêu của từng đứa trẻ trong quá trình dạy và vun đắp tình yêu tiếng Việt nhiều năm qua của mình, tôi chạnh nghĩ, “thành tích” không bao giờ có thể là động lực bền vững cho một tình yêu!

Tình yêu ngôn ngữ, văn hoá của dân tộc là mạch nguồn trong lành tự thân trong mỗi con người, chỉ cần được khơi thông. Là than hồng ủ ấm trong tim, chỉ cần được tiếp gió cho bùng cháy.

Tôi đã gặp những con người bền bỉ khơi mạch nguồn trong, giữ cho lửa đượm, không mảy may tính toán thiệt hơn, không chờ ai khen mình. Những cô giáo ở trường tiếng Việt Lạc Long Quân (Warszawa) dẫu đã có tuổi vẫn cặm cụi chăm chút từng bài thơ, câu đố, trò chơi tiếng Việt để chia sẻ với trò. Nhóm Cánh diều (Paris) hơn mười năm nay bền bỉ gặp nhau, dạy trẻ ngôn ngữ và văn hoá Việt thông qua nghệ thuật. Hội người Việt ở Stuttgart luôn đau đáu với việc tổ chức các hoạt động cộng đồng để thổi hồn Việt vào cuộc sống của thế hệ trẻ…

Bên cạnh các lớp học tiếng Việt vẫn được duy trì ở nhiều quốc gia trên thế giới, chúng ta còn có các bà mẹ, ông bố Việt kiên trì trò chuyện với con, học tiếng Việt cùng con, nhen nhóm trong đứa trẻ nhà mình một cảm tình từ đó lớn dần lên thành tình yêu đối với những giá trị văn hoá Việt và niềm tự hào: “Tôi là người Việt!”. Thậm chí, cảm tình đặc biệt với Việt Nam còn được từ họ, con cái họ truyền tới những người bạn bản xứ. Vì thế, tất cả họ, từng người, đều là một “đại sứ Tiếng Việt”!

Tại trại tiếng Việt tổ chức ở nước ngoài, con em người Việt sẽ được tìm hiểu về tiếng Việt thông qua các tác phẩm văn học.

Cho nên, tôi mạo muội đề xuất một dự án “Đại sứ Tiếng Việt” không nhằm “tung hô, trao giải, thành tích” mà nhằm “lan toả”. Bất kì ai muốn trở thành “đại sứ” đều có thể đăng kí tham gia. Họ sẽ được cung cấp phương pháp, các công cụ hỗ trợ dạy tiếng Việt, được kết nối theo nhóm, được chia sẻ, cổ vũ trên các diễn đàn, các mạng xã hội.

Sau một thời gian nhất định, những gì họ làm sẽ được cập nhật. Danh hiệu “Đại sứ Tiếng Việt” không trao tặng cho một cá nhân như một vương miện hay trao cho một tập thể như một bằng khen thêm vào bảng thành tích. Chỉ cần bạn dạy được tiếng Việt cho một người, có kết quả cụ thể về bốn kĩ năng - bạn đã là “Đại sứ” ở cấp độ 1. Sức ảnh hưởng của bạn càng rộng - cấp độ của “đại sứ” càng cao. Cứ như vậy, chúng ta sẽ có các “đại sứ” lan toả tình yêu tiếng Việt trên khắp thế giới.

Trao giải thưởng cho một người một năm để truyền thông, để “cạnh tranh” nhau vì một danh xưng không có sức mạnh lan toả bằng sự tự đánh giá, “tự trao danh hiệu”: mình đang xứng đáng là một người bền bỉ yêu và say mê quảng bá tiếng Việt. Nếu vẫn muốn nhấn mạnh một phong trào, có thể nghĩ đến hệ thống biểu tượng nhận biết các “đại sứ” được trao ra từ Ban đại diện người Việt ở các địa phương như huy hiệu, vòng tay, áo phông, khăn… in dòng chữ “Đại sứ Tiếng Việt”.

Tôi tin rằng, niềm vui và tự hào ấy sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến những người trẻ để họ cũng chung tay với các bậc cha chú trong công việc phải làm lâu dài, muôn đời này!

VĨ THANH: TIỀM NĂNG "ĐẠI SỨ" TRONG TƯƠNG LAI

Một bạn nhỏ ở Đức, tên là Quân học lớp 5, tự hào kể với mẹ về … uy lực của tiếng Việt. Khi các bạn trong lớp rất mất trật tự, lớp trưởng nói thế nào cũng bị lờ đi. Quân liền đứng dậy nói to: “Im-lặng!”. Tất cả im bặt! Và từ đó, rất nhiều bạn người Đức của Quân quan tâm đến Việt Nam, muốn… học tiếng Việt! Anh trai Quân tên là Phong, lại say sưa kể với mọi người về các danh lam thắng cảnh ở Việt Nam, em đặc biệt chia sẻ rất hay về Trường Sa, Hoàng Sa mà em thu nhận được trong thời gian tham dự trại mùa Thu “Tiếng Việt đi khắp năm châu”, trong một niềm xúc động chân thành. Chẳng phải Phong và Quân đều có cơ hội là “đại sứ” hay sao?!

Một bạn nhỏ khác, Hà My, học cùng người Nga. Hà My mê truyện Nguyễn Nhật Ánh và miệt mài dịch từng chương cho các bạn đọc. Họ rất thích thú, mong ngóng từng ngày, rồi có người tò mò muốn học tiếng Việt. Hà My đã trở thành một “đại sứ” nhỏ của văn hoá Việt.

Tôi tin, các “đại sứ Tiếng Việt” mang niềm tự hào “là người Việt trong tim” ở khắp nơi trên thế giới sẵn sàng lên tiếng nếu chúng ta biết gửi đến họ lời hiệu triệu thân thương.

TS Giáo dục Nguyễn Thụy Anh

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 31.01.2022.

Được coi là đại diện cho ngôn ngữ, chữ viết in đậm dấu vết chặng đường một dân tộc đã đi qua. Vì thế cần nghiên cứu lịch sử các loại chữ viết dân tộc ta từng sử dụng trong hơn 2000 năm qua. Đó là chữ Nho, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ. Bài này sẽ bàn về nguồn gốc và mối tương quan của ba loại chữ viết đó.

Vào khoảng thế kỷ II trước CN, khi phong kiến Trung Quốc chiếm nước ta và bắt dân ta học chữ Hán, tổ tiên ta đã học theo cách đọc chữ bằng tiếng Việt mà không đọc bằng tiếng Hán, và gọi chữ Hán đã Việt hóa phần ngữ âm là chữ Nho. Mỗi chữ Nho ứng với một âm Hán - Việt. Như vậy, người Việt chỉ học chữ mà không học tiếng Hán, nhờ thế học chữ Hán dễ hơn và có chữ để dùng.

Nhờ có chữ viết, dân tộc ta thoát khỏi thời tiền sử lạc hậu, tiến sang thời đại văn minh có chữ để ghi lại lịch sử. Việc dùng chữ Hán mà không nói tiếng Hán còn giúp dân ta một mặt vẫn đạt yêu cầu học chữ của kẻ cai trị, mặt khác lại giữ được nguyên vẹn tiếng mẹ đẻ, qua đó tránh được thảm họa ngôn ngữ bị Hán hóa, dân tộc bị Trung Quốc hóa sau nghìn năm Bắc thuộc. Rõ ràng, chữ Nho là một sáng tạo ngôn ngữ xuất sắc của người Việt.

Chữ Hán chủ yếu là loại chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideograph), tương tự những chữ tượng hình vẽ con vật hoặc chữ số 1, 2, 3… , các dân tộc đều hiểu ý nghĩa của các ký hiệu biểu ý ấy nhưng đọc bằng tiếng của họ. Tổ tiên ta đã lợi dụng tính chất đó để đọc chữ Hán bằng tiếng mẹ đẻ của mình. Nhưng vì là chữ Hán mượn về nên chữ Nho vẫn là chữ biểu ý và không ghi được hệ ngữ âm của tiếng Việt. Trên thực tế chữ Nho không ghi được được ngôn ngữ của tầng lớp bình dân, chỉ một số ít người trong giới quan lại và giới tinh hoa biết dùng, và chỉ dùng để viết (bút đàm), không dùng để nói.

Để sửa nhược điểm ấy, vào khoảng từ thế kỷ XII, tổ tiên ta đã dùng các ký tự vuông gốc chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, qua đó làm ra chữ Nôm. Đây là bước thử nghiệm tiến tới tạo một loại chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonograph) ghi được tất cả các âm tiếng Việt.

Sau mấy thế kỷ phát triển và hoàn thiện, chữ Nôm đã đạt mức ghi được hầu như gần hết âm tiếng Việt đã dùng. Có thể thấy điều đó từ các tác phẩm chữ Nôm như Truyện Kiều. Ảnh: Truyện Kiều bản Liễu Văn Đường 1866. Nguồn: Hội Bảo tồn Di sản Chữ Nôm.

Chữ Nôm được xây dựng trên cơ sở chữ Hán đọc theo âm Hán-Việt, kết hợp cả hai yếu tố biểu ý và biểu âm. Ban đầu chữ Nôm mượn dạng chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, dần dần ghép hai chữ Hán để tạo ra một chữ mới, một phần gợi âm, một phần gợi ý, được dùng ngày càng nhiều và có hệ thống hơn. Tương tự chữ Hán, mỗi chữ Nôm thể hiện một âm tiết. Vì tiếng Việt giàu âm tiết nên có rất nhiều chữ Nôm. “Từ điển Chữ Nôm dẫn giải” của GS Nguyễn Quang Hồng sưu tầm 9.450 chữ Nôm trong đó có gần 3.000 chữ Nôm tự tạo, ghi 14.519 âm tiết tiếng Việt.

Chữ Nôm từng có thời được gọi là “Quốc ngữ” hoặc “Quốc âm”, tức chữ của “tiếng nói nước ta”. Tuy không phải là chữ Hán nhưng do cấu tạo trên nền tảng chữ Hán nên chữ Nôm phụ thuộc vào chữ Hán, khó học (biết chữ Nho mới học được chữ Nôm), khó phổ cập, lại chưa được đông đảo giới trí thức và chính quyền phong kiến nước ta thừa nhận. Vì vậy việc phát triển và hoàn thiện chữ Nôm gặp nhiều khó khăn. Tuy thế, văn thơ chữ Nôm, tức văn thơ tiếng Việt, do nói lên được tiếng nói và nỗi lòng của người bình dân nên đã tỏ ra trội hơn hẳn văn thơ chữ Nho, từng làm nên nền văn học chữ Nôm tỏa sáng rực rỡ với những tác phẩm tiếng Việt của Nguyễn Trãi (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI), Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII-XIX) v.v…

Sau mấy thế kỷ phát triển và hoàn thiện, chữ Nôm đã đạt mức ghi được hầu như gần hết âm tiếng Việt đã dùng. Có thể thấy điều đó từ các tác phẩm chữ Nôm như Truyện Kiều… và bản dịch chữ Nôm các tác phẩm chữ Hán như Truyền kỳ mạn lục, Chinh phụ ngâm khúc, v.v.. Trong 200 năm sau khi chữ Quốc ngữ đã ra đời nhưng chưa được sử dụng, các linh mục Công giáo đều dùng chữ Nôm để viết tài liệu giảng đạo.

Dù sao, vì các ký tự vuông trong chữ Nôm không phải là chữ cái có thể ghép vần cho nên mức độ ghi âm tiếng Việt còn kém chính xác, nhiều chữ phải đoán âm đọc.

Thế kỷ XVII, các giáo sĩ Dòng Tên Francisco de Pina, Antonio Barbosa, Gaspar do Amaral, António de Fontes, Alexandre de Rhodes v.v… đến nước ta truyền giáo. Dòng Tên mang tên Chúa Jesus cao cả, chỉ tuyển người có học vị tiến sĩ1, yêu cầu nhà truyền giáo phải thông thạo ngôn ngữ và tuân theo phong tục tập quán của dân bản xứ.

Như đã biết, cha Francisco de Pina đến Việt Nam năm 1617, chỉ ba năm sau đã cùng các giáo sĩ khác biên soạn tài liệu giáo lý bằng chữ Nôm. Giáo sĩ Girolamo Maiorica trong khoảng 1632-1656, đã viết 45 tác phẩm lớn nhỏ bằng chữ Nôm, nổi tiếng nhất là cuốn Các Thánh Truyện viết năm 16462. Kho lưu trữ thư tịch chữ Nôm hiện còn giữ được nhiều tài liệu của các giáo sĩ  Gaspar d’ Amaral, Antoine Barbosa…

Vì đối tượng truyền giáo là nông dân, ngư dân Quảng Nam, Quảng Ngãi nên dĩ nhiên các tài liệu giảng đạo chữ Nôm phải dùng từ ngữ của dân thường. Từ đây có thể suy ra hai điểm:

- Thứ nhất, chữ Nôm thời đó đã ghi được phần lớn các âm “thuần Việt” dân dã;      

- Thứ hai, các vị giáo sĩ rất giỏi chữ Nôm ấy không thể không nhận thấy đây thực sự là loại chữ có yếu tố biểu âm ghi được hệ thống ngữ âm của tiếng Việt; nhưng chỉ vì dùng ký tự vuông của Hán ngữ nên ghi âm chưa thật chính xác, và khó học, khó phổ cập. Họ cũng hiểu rằng việc chữ Nôm đã tồn tại 500 năm và từng làm nên những tuyệt tác văn thơ chứng tỏ tiếng Việt thích hợp với chữ biểu âm. Ngày nay, ngôn ngữ học hiện đại cho biết tiếng Việt và tiếng Hán tuy đều là ngôn ngữ đơn âm tiết nhưng chỉ tiếng Việt do giàu âm tiết nên mới thích hợp với chữ biểu âm.3

Với nhận thức như vậy, các giáo sĩ-bậc thầy ngôn ngữ học kể trên dĩ nhiên đã nảy ra ý tưởng dùng chữ cái La tinh để phiên âm chữ Nôm, biến thứ chữ có yếu tố biểu âm Hán hóa ấy thành thứ chữ biểu âm La tinh hóa dễ học dễ dùng cho việc truyền giáo của họ.

Rõ ràng, phiên âm một thứ tiếng đã có chữ viết ghi lại âm của tiếng đó thì đơn giản nhiều so với việc phiên âm một thứ tiếng chưa có chữ viết - ở thời xưa, đó là một công trình lao động sáng tạo cực kỳ phức tạp, cần nhiều người làm trong hàng trăm năm.

Thực tế cho thấy, các giáo sĩ kể trên dù ít người và làm việc phân tán nhưng đã tạo ra chữ Quốc ngữ trong thời gian ngắn kỷ lục: từ năm 1617 đến 1649.4 Họ đã nhanh chóng tìm ra các chữ cái La tinh phù hợp thay cho các ký tự vuông ghi âm tiếng Việt trong chữ Nôm. Năm 1617 Francisco de Pina đến Đàng Trong, năm 1619 đã viết xong một bản từ vựng tiếng Việt bằng chữ La tinh. Năm 1631 Gaspar d’ Amaral đến Đàng Ngoài, năm sau đã ghi âm rất tốt tiếng Việt, đến năm 1634 đã làm xong một cuốn từ vựng tiếng Việt. Trong mấy cuộc gặp tại Macao (1630-1631), các giáo sĩ đã xác định được 6 thanh điệu và tính đơn âm tiết của tiếng Việt. Năm 1649 Rhodes rời Việt Nam mang theo bản thảo Từ điển Việt-Bồ-La (Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum). Năm 1651 Từ điển này được in và xuất bản tại Roma, đánh dấu chữ Quốc ngữ Việt Nam chính thức ra đời.

Trong mấy chục năm làm chữ Quốc ngữ, các giáo sĩ đã phải vượt qua rất nhiều khó khăn, chủ yếu do hệ thống ngữ âm của tiếng Việt cực kỳ phong phú và mới lạ. Vấn đề phức tạp nhất là phải sáng tạo ra hệ thống ký hiệu thể hiện được các thanh điệu sắc, huyền, hỏi. ngã, nặng, và các con chữ thể hiện được các ngữ âm không có trong bộ chữ La tinh như ă, â, ê, ơ, ô, ư, đ. Bộ ký hiệu và con chữ ấy làm nên cái gọi là “giày và mũ” trong nhận xét của một học giả nổi tiếng Trung Quốc: “Chữ viết của Việt Nam sau khi phiên âm hóa, đầu đội mũ, chân đi giày, rất nực cười.”5. Thực ra “mũ, giày” ấy là những sáng tạo hợp lý tới mức người Việt xưa nay đều không chấp nhận bất cứ thứ chữ Quốc ngữ nào không có các ký hiệu và con chữ đó. Ngoài ra các giáo sĩ thông thái ấy đã hiệu chỉnh các âm tiếng Việt mà chữ Nôm chưa ghi được chính xác, và hiện đại hóa phần ngữ pháp của chữ viết, như áp dụng các dấu ngắt câu, ngắt đoạn, viết hoa v.v…

20200624

Các nhà nghiên cứu ở Viện Hán Nôm sưu tập tư liệu chữ Hán, Nôm trong các thư khố của Pháp. Ảnh: Fb Nguyễn Tuấn Cường.

Chữ Quốc ngữ có hình dạng khác xa chữ Nôm, nhưng về bản chất, cả hai đều là các hệ chữ viết ghi âm tiếng Việt; chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La thể hiện rất rõ mối tương quan với cấu tạo chữ Nôm 6.

Cuối cùng, các giáo sĩ Dòng Tên kể trên đã phiên âm và biến đổi chữ Nôm thành một thứ chữ biểu âm La tinh hóa về sau gọi là chữ Quốc ngữ. Như vậy chữ Quốc ngữ chính là chữ Nôm được La tinh hóa và hiện đại hóa.

Giả sử thời ấy chưa có chữ Nôm, chỉ có chữ Nho, thì việc làm chữ của các giáo sĩ sẽ vô cùng khó khăn vì chữ Nho vốn là chữ Hán. Thực tiễn cải cách chữ viết ở Trung Quốc đã chứng tỏ không thể dùng bất cứ bộ chữ cái nào để phiên âm chữ Hán thành chữ biểu âm.

Năm 1582 giáo sĩ Dòng Tên người Ý Matteo Ricci đến Trung Quốc truyền giáo. Ông rất giỏi Hán ngữ, đã dành nhiều năm nghiên cứu cách phiên âm chữ Hán. Năm 1605 Ricci đưa ra phương án phiên âm chữ Hán bằng chữ cái La tinh, nhưng phương án này chỉ giúp người Âu học chữ Hán dễ hơn, chứ chưa phải là một loại chữ viết mới. Về sau, giới trí thức Trung Quốc tiếp tục nghiên cứu theo phương hướng của Ricci nhằm mục tiêu tạo ra một thứ chữ biểu âm có thể thay thế chữ Hán mà họ muốn loại bỏ. Nhưng mọi cố gắng ấy đều bất thành. Năm 1958 Ủy ban Cải cách chữ viết Trung Quốc làm ra Phương án phiên âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ cái La tinh, nhưng chỉ có tác dụng phụ trợ là ghi chú âm cho chữ Hán, không phải là một loại chữ viết. Từ đầu năm 1986 Nhà nước Trung Quốc không còn nhắc tới mục tiêu tạo ra loại chữ biểu âm thay cho chữ Hán.

Tóm lại, việc dùng chữ cái La tinh phiên âm chữ Nôm đã thành công ngay từ đầu thế kỷ XVII trong khi mọi cố gắng phiên âm chữ Hán cho tới nay vẫn chưa có kết quả. Vì sao vậy? Vì chữ Nôm có yếu tố biểu âm, chữ Hán không có yếu tố ấy. Nói cách khác, không có chữ Nôm thì các giáo sĩ đáng kính nói trên sẽ không làm được chữ Quốc ngữ. Đến đây có thể kết luận: Bằng việc sáng tạo chữ Nôm, tổ tiên ta đã góp phần quan trọng dẫn đến sự hình thành chữ Quốc ngữ.

***

Đã hơn trăm năm nay nước ta chính thức sử dụng chữ Quốc ngữ, thứ chữ viết được các nhà trí thức tiên tiến đầu thế kỷ XX ca ngợi là Hồn của đất nước, công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt. Lẽ tự nhiên, dân tộc Việt Nam giàu truyền thống nhân văn uống nước nhớ nguồn không bao giờ quên công lao của những người đã góp phần làm ra loại chữ viết kỳ diệu ấy. Đáng tiếc là cho tới nay công luận trong nước vẫn chưa nhất trí chọn được các nhân vật tiêu biểu cần vinh danh, và cơ quan công quyền có trách nhiệm thay mặt dân giải quyết vấn đề này dường như cũng chưa tỏ thái độ rõ ràng. Đây không phải là công việc quá khó. Để tình trạng trên kéo dài sẽ không có lợi cho hình ảnh một dân tộc văn minh. Vấn đề này đã đến lúc cần bàn thảo rộng rãi và chính quyền cần sớm có kết luận cùng hành động tri ân.

Thời thuộc Pháp, có thể vì để đề cao “mẫu quốc” mà các sách giáo khoa ở ta đều quy công trạng làm ra chữ Quốc ngữ cho giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes. Quan điểm ấy trở thành chính thống trong một thời gian dài. Gần đây dư luận yêu cầu ghi công các giáo sĩ không phải người Pháp như Francisco de Pina, Antonio Barbosa, Gaspar d’Amaral, António de Fontes… và đóng góp của cộng đồng giáo dân miền Nam nước ta từng giúp các nhà truyền giáo học tiếng Việt, và đóng vai trò “thẩm định” trong quá trình thí điểm sử dụng chữ Quốc ngữ. Sự thay đổi quan điểm như vậy là hợp tình hợp lý.

Chúng tôi cho rằng dù thế nào cũng phải mãi mãi tôn vinh công trạng làm ra chữ Nôm của tổ tiên ta, một sáng tạo ngôn ngữ góp phần quyết định sự hình thành chữ Quốc ngữ  –– thành quả kết hợp trí tuệ của nền văn minh Việt với nền văn minh Ki Tô giáo. □

Tiếng nói của các dân tộc ở gần nhau thường ảnh hưởng lẫn nhau. Trong bốn nước từng sử dụng chữ Hán, tiếng Việt và tiếng Hán cùng là ngôn ngữ đơn âm tiết (còn gọi đơn lập, monosyllabic) cho nên tiếng Việt rất dễ chịu ảnh hưởng của tiếng Hán, dễ bị Hán hóa khi phong kiến Trung Quốc chiếm đóng nước ta hơn 10 thế kỷ. Tiếng Nhật và tiếng Triều Tiên thuộc loại ngôn ngữ chắp dính nên không dễ bị Hán hóa. Thế nhưng Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc vẫn giữ được “Tiếng ta còn, nước ta còn”.

Nguyễn Hải Hoành

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 20.6.2020.

----

Ghi chú:

[1]  https://tuoitre.vn/chu-quoc-ngu-nhung-nguoi-dau-tien-khai-sang-20191206213804476.htm

[2]  https://vi.wikipedia.org/wiki/Girolamo_Maiorica . Lã Minh Hằng: “Đôi nét về thư tịch Hán Nôm Công giáo tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm”

[3]  Nguyễn Hải Hoành: “Một vài tìm tòi về ngôn ngữ”. TC Tia Sáng số 11 (5/6/2020)

[4]  Phạm Thị Kiều Ly: “Lịch sử chữ Quốc ngữ từ 1615 đến 1861: Quá trình La-tinh hóa tiếng Việt trong trào lưu ngữ học truyền giáo”. TC Tia Sáng số   (2019).

[5]  Nguyễn Hải Hoành: “Sao lại nói chữ Quốc ngữ Việt Nam rất nực cười?”

[6]  Nguyễn Ngọc Quân: “Chữ Quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La trong tương quan với cấu tạo chữ Nôm đương thời”.

Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ nên dạy cái gì? Câu hỏi này đặt ra tưởng như thừa lại hết sức cần thiết và cho đến nay các nhà ngôn ngữ học cũng như các nhà giáo dục học văn chưa trả lời được một cách rõ ràng và dứt khoát.

20211122 2

Vì vậy hậu quả mà học sinh phổ thông đặc biệt là học sinh cấp II gánh chịu là phải học một bộ sách giao khoa tiếng Việt hết sức nặng nề nhưng không mấy thiết thực, vì đó là một bộ giáo trình tiếng Việt ở bậc đại học được rút gọn và được thay thế bằng một hệ thống thuật ngữ có vẻ dễ hiểu hơn.. Cùng với bộ sách giáo khoa, học sinh còn bị "tra tấn" bởi một phương pháp dạy học theo một qui trình đơn điệu, máy móc và khô khan. Hiện nay, sách giáo khoa tiếng Việt, Bộ đã ban hành và đang là pháp lệnh. Do đó, vấn đề chúng ta cần bàn và nên bàn một cách thiết thực là dạy như thế nào trên cơ sở bộ sách giáo khoa tiếng Việt hiện có.

Trước khi bàn vấn đề dạy như thế nào đối với bộ sách giáo khoa tiếng Việt hiện có, cũng nên làm rõ một số vấn đề thuộc chương trình và sách giáo khoa.

1. Dạy tiếng Việt cho học sinh bản ngữ là dạy kiến thức về tiếng Việt hay dạy tiếng Việt với tư cách là một công cụ để giao tiếp và tư duy?

Theo chương trình qui định của Bộ, sách giáo khoa tiếng Việt vừa dạy kiến thức tiếng Việt vừa dạy kỹ năng sử dụng tiếng Việt cho học sinh nhưng trong đó phần dạy kiến thức tiếng Việt vẫn là chủ yếu. Trong các nhiệm vụ của bộ môn tiếng Việt thì nhiệm vụ số một được Bộ qui định như sau: Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống về tiếng Việt, làm cơ sở cho việc trau dồi và phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh... Thông qua các chức năng chủ yếu của ngôn ngữ, tiếp tục rèn luyện cho các em kỹ năng nghe, đọc, viết tiếng Việt văn hóa... (1) So sánh với nhiệm vụ và yêu cầu cơ bản của việc dạy - học tiếng Việt ở cấp II phổ thông do Bộ qui định trước cải cách giáo dục là: Phát triển ngôn ngữ và tư duy của học sinh, làm cho các em đọc, nói, viết đúng tiếng Việt, hiểu được cách diễn đạt bằng tiếng Việt của người khác và có khả năng xem xét, suy nghĩ hợp lô-gích (2) thì chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt cải cách giáo dục là một thụt lùi đáng tiếc. Sở dĩ có tình trạng nước đôi vừa dạy kiến thức vừa dạy kỹ năng sử dụng ở trường phổ thông đối với bộ môn tiếng Việt như đã nói ở trên, nguyên nhân chủ yếu là do chưa phân biệt rạch ròi đối với trường phổ thông thì tiếng Việt là môn học đối tượng như các môn học khác hay chỉ là môn học công cụ? Theo tôi cần phải khẳng định một cách dứt khoát rằng, đối với trường phổ thông thì tiếng Việt chỉ là môn học công cụ và không nên coi là môn học đối tượng. Những tri thức về tiếng Việt mà trường phổ thông cần cung cấp cho học sinh chỉ nên giới hạn ở một mức độ tối giản và phải bằng một con đường khác không giống như con đường hình thành tri thức của các môn học đối tượng. Tiếng Việt với tư cách là môn học công cụ thì những tri thức mà bộ môn này cung cấp cho học sinh phải bằng con đường chấp nhận và dần dần tự ý thức hóa trong quá trình học tập và rèn luyện. Để kết thúc những điều trình bày trên đây, tôi xin dẫn chứng thêm nhiệm vụ bộ môn tiếng Việt do Bộ qui định cho trường Cao đẳng sư phạm để có thể thấy rõ hơn sai lầm của chương trình và sách giáo khoa tiếng Việt phổ thông đã mắc phải. Chương trình môn tiếng Việt của trường Cao đẳng sư phạm diện rộng, với thời gian 310 tiết chưa kể 85 tiết tập làm văn, có những nhiệm vụ cụ thể sau đây:

1. Cung cấp những kiến thức cơ bản, hiện đại và có hệ thống về ngôn ngữ học và tiếng Việt (về các mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp và phong cách).

2. Rèn luyện kỹ năng đọc, nói, kỹ năng vận dụng đúng và thành thạo các qui tắc dùng từ, đặt câu, bồi dưỡng khả năng tự rèn luyện kỹ năng thực hành tiếng Việt.

3. Thông qua việc cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng, giáo dục tinh thần tôn trọng và yêu quí tiếng Việt (3)

Ba nhiệm vụ này được qui thành hai nhiệm vụ của bộ môn tiếng Việt ở trường phổ thông, có khác chăng là ở trường Cao đẳng sư phạm có thêm phần kiến thức về ngôn ngữ học với tỷ lệ thời gian chiếm 1/5. Sự lầm lẫn nói trên là ngọn nguồn gây bao tai họa cho cả giáo viên và học sinh vì họ phải dạy và phải học một chương trình quá tải và thực sự không cần thiết lắm.

Do phải cung cấp những kiến thức mà chương trình và sách giáo khoa qui định nên đến lượt người dạy lại tiếp tục "hành hạ" học sinh bằng cách dắt dẫn học sinh đi lại chính con đường mà các nhà ngôn ngữ học đã đi. Từ việc quan sát, phân tích các hiện tượng ngôn ngữ cụ thể rồi khái quát rút ra các khái niệm, các qui luật... Để né tránh sai lầm này, trong chỉ đạo Bộ có hướng dẫn phải dành hơn một nửa thời gian của tiết học tiếng Việt cho việc luyện tập thực hành. Mặc dầu Bộ qui định như vậy, nhưng qua dự giờ, theo dõi nhiều giáo viên dạy, chúng tôi thấy trên thực tế phần lớn giáo viên đều loay hoay với việc truyền thụ kiến thức, hình thành khái niệm nên không còn bao nhiêu thời gian để luyện tập thực hành. Còn luyện tập và thực hành như thế nào cũng là những vấn đề đáng phải bàn. Với cấu tạo bài học của sách giáo khoa hiện nay thì phần luyện tập, thực hành chủ yếu là để củng cố các tri thức về tiếng Việt đã được cung cấp ở phần lý thuyết. Đó là thực trạng đáng buồn hiện nay của bộ môn tiếng Việt ở trường phổ thông từ khâu chương trình đến sách giáo khoa và cả cách giảng dạy ở trên lớp.

2. Dạy tiếng Việt với tư cách là một công cụ giao tiếp thì nên dạy cái gì?

Đóng góp quan trọng nhất của Xô-Xuya là tách hoạt động ngôn ngữ ra làm hai mặt: mặt xã hội và mặt cá nhân. Tương ứng với mặt xã hội là ngôn ngữ, còn tương ứng với mặt cá nhân của hoạt động ngôn ngữ là lời nói. Theo Xô-Xuya, ngôn ngữ là cần thiết để cho lời nói có thể hiểu được và gây được tất cả những hiệu quả của nó; nhưng lời nói lại cần thiết để cho ngôn ngữ được xác lập; và về phương diện lịch sử, sự kiện lời nói bao giờ cũng đi trước (4)

Cũng có thể hình dung ngôn ngữ là cái khái quát, cái trừu tượng, vì nó là sản phẩm của toàn xã hội, còn lời nói là cái cụ thể, cái sinh động vì nó là sản phẩm của từng cá nhân. Theo Xô-Xuya thì ngôn ngữ tồn tại dưới dạng tiềm năng trong mỗi bộ óc hay nói đúng hơn, trong các bộ óc của một tập thể, vì ngôn ngữ không có mặt đầy đủ trong một người nào, nó chỉ tồn tại một cách vẹn toàn trong quần chúng (5) . Ngôn ngữ được hình thành dần dần ở đứa trẻ thông qua quá trình tập dượt và tiếp thu, rồi được định hình trong bộ óc. Từ những nhận thức trên đây, chúng tôi cho rằng: đối với học sinh phổ thông thì bộ môn tiếng Việt không nên đi sâu vào những cái khái quát, trừu tượng của ngôn ngữ mà nên dành nhiều thời gian để cung cấp cho học sinh những cái cụ thể, sinh động của lời nói. Dạy theo sách giáo khoa cải cách về cơ bản là dạy ngôn ngữ vì trong đó phần lớn là dạy các khái niệm của ngôn ngữ học nói chung chứ không riêng gì tiếng Việt, như: danh từ, đại từ, số từ,... Nếu nói bằng hình ảnh thì dạy như vậy là dạy cái màu xám của tiếng Việt. Chính lời nói là cái xanh tươi phong phú sinh động của tiếng Việt mà nhà trường cần cung cấp cho học sinh, vì đó là cái mà học sinh cần mà đang thiếu. Tóm lại, đối với học sinh, đặc biệt là học sinh cấp I, cấp II thì dạy tiếng Việt không nên dạy lý thuyết (tức là không nên dạy ngôn ngữ, mà chỉ nên dạy cây đời (tức là dạy lời nói)). Cũng cần nói thêm rằng, giữa ngôn ngữ và lời nói có một sự gắn bó và lệ thuộc lẫn nhau hình như khó lòng tách ra được. Nhưng về điểm này, Xô-Xuya cũng đã khẳng định: Ngôn ngữ vừa là công cụ vừa là sản phẩm của lời nói. Nhưng mặc dầu có những mối liên hệ đó, ngôn ngữ và lời nói vẫn là hai sự vật hoàn toàn tách biệt nhau.

Với kết cấu bài học gồm ba phần như trong sách giáo khoa, nên khi dạy tiếng Việt giáo viên thường dắt dẫn học sinh đi theo con đường qui nạp để hình thành các khái niệm, qui tắc và cuối cùng là luyện tập để củng cố các tri thức đã học được. Con đường đó chỉ có thể áp dụng khi tiếng Việt trở thành một môn học đối tượng như các môn toán, lý, hóa... Còn theo quan niệm của chúng tôi, ở trường phổ thông, tiếng Việt chỉ là một môn học công cụ thì phải thiết kế lại bài giảng và dạy theo một cách khác. Để minh họa cho những điều trình bày trên, tôi xin lấy một bài dạy cụ thể. Bài chúng tôi chọn là một bài khô khan nhất trong các bài khô khan có trong sách giáo khoa. Đó là bài Số từ.

Với kết cấu bài học trong sách giáo khoa tiếng Việt, lớp 6, tập 2 thì giáo viên phải từ những ngữ liệu có sẵn rồi dắt dẫn học sinh hiểu thế nào là số từ chỉ số lượng và thế nào là số từ chỉ thứ tự và số hiệu. Ý nghĩa và hoạt động ngữ pháp của hai loại số từ. Và cuối cùng là làm một số bài tập để ghi nhớ những điều đã học về số từ. Đứng về mặt lời nói mà xét, người Việt có những cách dùng số từ riêng và cách dùng số từ của người Việt qua ca dao, tục ngữ, thành ngữ và lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân ta phong phú vô cùng. Dạy số từ tiếng Việt mà không cung cấp cho học sinh biết sự phong phú trong cách dùng số từ của người Việt là một thiếu sót lớn.

Vì vậy, khi dạy bài này tôi không đi theo con đường đó. Mở đầu có thể thông qua một cuộc đàm thoại ngắn, tôi cho học sinh biết ngay hai loại số từ trong tiếng Việt. Sau đó tôi dành một số thời gian thích đáng để kiểm tra xem vốn liếng về cách dùng số từ của học sinh. Kết quả với học sinh lớp 6, vốn liếng của các em về cách dùng từ còn rất hạn chế. Các em cũng chỉ có thể nêu được một số câu tục ngữ, thành ngữ và một vài cách nói quen thuộc có dùng số từ. Khi các em đã cạn vốn, tôi bắt đầu cho các em biết những cách dùng số từ rất độc đáo, rất lạ của nhân dân ta, qua kho tàng ca dao, dân ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố văn thơ... mà các em chưa biết hoặc có biết nhưng không nhớ vì chỉ mới nghe một vài lần. Và thế là chỉ trong 30 phút vốn liếng sử dụng số từ xưa đến nay qua bao thế hệ đã hiện ra mồn một trước mắt và trong đầu các em.

Thời gian còn lại tôi lần lượt chỉ ra những cái tinh tế, phong phú và cả những sự biến hóa trong cách dùng số từ của tiếng Việt. Chẳng hạn, nghĩa xác định và không xác định của số từ tiếng Việt, đặc biệt là nghĩa không xác định như: Một mất mười ngờ, Mười voi không được bát nước xáo, Một trăm con gái rửa chân cầu này. Trăm năm trong cõi người ta, Dẫu xa nhau ba vạn chín ngàn ngày không xa,...; những cách dùng số từ rất đặc biệt, có vẻ như bất thường: Ba chân bốn cẳng, Một chân bước ra ba chân bước lại, Mồm năm miệng mười,...; sự phong phú trong việc vừa dùng số từ thuần Việt vừa dùng số từ Hán Việt như: Một, hai, ba, bốn, nhất, nhì, ba, tư... Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát cửu thập đèo cũng qua... Những sự biến âm trong khi dùng số từ, cùng một số từ nhưng trong những kết hợp khác nhau lại có những cách biến âm khác nhau như: mười và mươi (mười ba / ba mươi), một và mốt (mười một / hai mươi mốt), năm, lăm và nhăm, (một trăm linh năm, mười lăm, hai mươi lăm / nhăm...) Vì thời gian có hạn nên chỉ mách bảo cho học sinh được đôi điều như vậy. Qua theo dõi chúng tôi thấy học sinh không những hứng thú học tập mà còn tỏ ra tiếc rẻ, thòm thèm vì thời gian quá ít. Và cũng nên cho học sinh thòm thèm để các em tìm tòi và sáng tạo thêm. Với dạng bài cung cấp khái niệm chúng tôi đều dạy theo cách đó.

Dạy tiếng Việt theo quan niệm và phương pháp như chúng tôi trình bày là dạy cái xanh tươi của tiếng Việt, và quan trọng hơn, đằng sau sự xanh tươi đó là cả một nền văn hóa Việt. Dạy tiếng Việt không chỉ cho các em hiểu được cách nói của người Việt mà còn cho các em hiểu cả cách nghĩ và hiểu được tâm hồn người Việt

Cũng cần nói thêm rằng theo cách dạy của chúng tôi thì những tri thức mà sách giáo khoa yêu cầu, cuối cùng cũng đến với học sinh, nhưng đến bằng một con đường khác. Tri thức nào đã đến với học sinh thì sẽ ở lại với các em lâu dài. Còn dạy theo sách giáo khoa và cách dạy hiện nay thì những tri thức đó khắc đến rồi cũng khắc đi, đúng như dân gian nói: "Chữ thầy rồi lại trả cho thầy" mà thôi.

Trên đây là một số quan điểm và phương pháp dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông mà chúng tôi đã tiến hành thực nghiệm trong mấy năm qua. Kết quả của những thực nghiệm này đã đến với sinh viên thông qua các tiết dạy mẫu do tôi thực hiện ở trường phổ thông. Và kết quả đó, một lần nữa đã được kiểm nghiệm trong đợt thực tập sư phạm của sinh viên trường Cao đẳng sư phạm Huế vừa qua. Hiện nay các em không sợ phải dạy tiếng Việt như sinh viên các khóa trước đây, trong khi đi thực tập sư phạm. Hầu hết các em đều thích dạy tiếng Việt và sẵn sàng nhận dạy nhiều tiết tiếng Việt. Và kết quả của đợt thực tập về môn tiếng Việt các em đều đạt điểm khá và giỏi. Kết quả này cũng được trường phổ thông của hai huyện Hương Trà và Hương Thủy ghi nhận, trong đợt thực tập sư phạm đầu năm 1991.

Võ Xuân Trang

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 50/07&8-1992.

-------------------------------

(1) Tài liệu bồi dưỡng giáo viên phục vụ thay sách CCGD lớp 6, tr.17 do Cục các trường sư phạm, Bộ giáo dục ấn hành, 1985.

(2) Dạy ngữ pháp lớp 6, Nhà xuất bản giáo dục, 1976, phần hướng dẫn chung trang 6-7.

(3) Chương trình cao đẳng sư phạm, Bộ môn tiếng Việt và văn học, áp dụng từ năm học 1988 - 1989, Bộ giáo dục, Hà Nội, 1988.

(4) Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội, 1973, tr.45.

(5) Sách đã dẫn, trang 37.

20200529

1. Giới thiệu chung

Đại Việt Sử Lược hay Việt Sử Lược, một cuốn sử thời Trần chưa rõ tác giả có đoạn viết: “Đến đời Trang Vương nhà Chu, ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật quy phục được các bộ lạc, dựng nước Văn Lang gồm 15 bộ (…), tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang,… truyền được 18 đời ”.

Về tên gọi Văn Lang, học giả Pháp Henry Maspero (1918) cho rằng: tên nước Văn Lang là đọc nhầm tên nước Dạ Lang, một nước cổ ở Quí Châu. Ông đưa ra các luận cứ sau:

- Hai chữ Văn 文và chữ Dạ 夜giống nhau, dễ nhầm khi đọc hay chép. Vì thế, một sách thời Tống viết: “Phong Châu là nước Văn Lang xưa, ở đó có sông Văn Lãng”. Một sách khác cùng thời lại viết: “Phong Châu là đất Dạ Lang xưa, ở đó có sông Dạ Lang”.

- Lãnh thổ Dạ Lang, thời Hán phân thành hai quận Kiển Vi và Thương Ngô, một bên giáp nước Ba, một bên giáp hồ Động Đình. Do nhầm Dạ Lang thành Văn Lang, sử Việt Nam viết lãnh thổ Văn Lang giống như lãnh thổ Dạ Lang là “Bắc đến Hồ Động Đình, Tây giáp Ba Thục”.

- Tên Văn Lang trước không có nhưng bỗng xuất hiện vào thời Đường lại là do một nhầm lẫn khác. Lâm Ấp ký viết: “Ở phía Nam Chu Ngô, Nhật Nam có người Văn Lang, và sông Văn Lang”. Người chép lại Lâm Ấp ký sau viết Chu Ngô thành Thương Ngô, các nhà địa lý thời Đường cũng chép sai theo. Do Thương Ngô ở phía Bắc Giao Chỉ, nên coi Văn Lang là Giao Chỉ.

Nếu giả thuyết của Maspero đúng thì phải tìm hiểu ý nghĩa tên Văn Lang theo ý nghĩa của tên Dạ Lang, chúng tôi sẽ có một bài viết riêng về tên Dạ Lang sau.

Tác giả Tạ Đức trong “Nguồn Gốc Người Việt - Người Mường” (NXB Tri thức, 2013) dẫn ý kiến giải thích tên Văn Lang của nhiều học giả như sau:

- Steine (1947) đặt Văn Lang vào trong một hệ thống tộc danh, địa danh có từ Lang như Bạch Lang ở Tứ Xuyên, Việt Lang ở Quảng Đông, Dạ Lang ở Quí Châu. Ông cũng khẳng định: Hậu Hán Thư nói đến người Dạ Lang ở biên giới Cửu Chân; truyền thuyết Việt Nam kể về một nước nhỏ Dạ Lang bên bờ sông Mã; thời Hán có sông Dạ Lang thực sự ở Quảng Trị, sau là sông Hằng Giang. Điều đó có nghĩa, tên gọi Dạ Lang cũng xuất hiện ở những nơi không thể nhầm lẫn với Văn Lang.

- Hoàng Thị Châu (1969), ủng hộ quan điểm của Stein, so sánh Văn Lang với Lang, Chàng, hai phiên âm Hán - Việt của tên gọi Choang cũng như với orang, arang các từ chỉ người trong tiếng Nam Đảo. Bà kết luận: các tên Lang, Văn Lang, Dạ Lang... “bắt nguồn từ một danh từ có nghĩa là “người” “đàn ông”, với những hình thái biến đổi khác nhau tùy theo ngôn ngữ, phương ngữ và tùy theo từng giai đoạn lịch sử ”.

- Bình Nguyên Lộc (1971) lại coi từ gốc của Văn Lang trong tiếng Mã Lai là pinang, phiên âm Hán - Việt là tân lang hay binh lang để chứng minh lang chỉ cây cau sọc, vật tổ của người Văn Lang và người Chăm.

- Trần Quốc Vượng (1973) lại coi từ gốc của cả Văn Lang và Mê Linh - kinh đô của nước Văn Lang thời Hai Bà Trưng là Mlang, từ chỉ chim ưng, đại bàng, vật tổ của người Lạc Việt.

- Theo Tạ Đức thì hai cách lý giải của Stein và Hoàng Thị Châu đã đi đúng hướng và có cơ sở ngôn ngữ học, và cuối cùng Tạ Đức đưa ra ý kiến: “cách lý giải thật sự thỏa đáng phải là: tên nước Văn Lang và Dạ Lang có gốc từ tên tộc người Văn Lang và Dạ Lang. Tên tộc người Văn Lang và Dạ Lang lại có gốc từ các từ chỉ Người tương ứng với lang/orang/yang”. Tiếp sau đó Tạ Đức có đưa ra nhiều lập luận về ngữ âm ví dụ: “Lạc Việt có gốc Ya Ya, Ya Ya lại tương ứng với Ya Yang và Ya Yang có thể phiên âm thành Văn Lang” hoặc “... tên nước Dạ Lang cũng được xác định có gốc Jialang, một biến thể của Zina - tên tự gọi của người Lô Lô, trong đó Jialang tương ứng với Ya Yang, còn Zina tương ứng với Lô Lô = Lava = Ya Ya = Lạc Việt (Phụ lục 6 D). Về mặt ngữ âm, đúng là Văn Lang có thể có gốc Blang. Hiện Blang vẫn là tên một tộc người ở Vân Nam có quan hệ ngôn ngữ - tộc người gần gũi với người Va, tức Lava = Lạc Việt”.

- Chúng tôi tán thành quan điểm của Tạ Đức cũng là của Stein, Hoàng Thị Châu và nhiều học giả khác dựa trên một thực tế trong ngôn ngữ học là tên các tộc người thường chính là từ chỉ khái niệm “người” trong ngôn ngữ gốc của tộc người đó. Nhưng tên vùng cư trú (bản/mường, cổ/kẻ, làng/nước, ...) là khái niệm hình thành muộn hơn, khi các nhóm tộc đã bỏ đời sống du cư hoang dã, có vùng cư trú tương đối ổn định, có tổ chức xã hội phát triển ... thì không nhất thiết phải gắn chặt với tên gọi tộc người, có thể là một từ phái sinh từ tên gọi tộc người (Chăm=>Chiêm=>Chiêm Thành), hoặc một từ khác hẳn. Còn với các quy nạp kiểu như Lô Lô=Lava=Ya Ya=Lạc Việt thì người viết thấy có vẻ khá tùy tiện.

2. Khái quát về ngữ âm lịch sử:

Các tên Văn Lang, Dạ Lang, Lạc Việt ... là những tên gọi được ghi chép bằng chữ Hán, và ứng với giai đoạn lịch sử trước thời Tần, để tìm hiểu ý nghĩa của chúng trước hết cần phải khôi phục đúng ngữ âm các chữ Hán đó trước thời Tần sau đó đối chiếu với các ngôn ngữ bản địa là Nam Á, Thái-Kadai hay Nam Đảo để tìm ý nghĩa các tên gọi cổ đó... Chứ không thể dựa vào âm đọc hiện đại mà suy đoán quy nạp tùy tiện được, chẳng hạn Tạ Đức cho rằng nước La (羅) tức là Lạc (洛/雒/駱) là dựa vào âm cận hiện đại của các chữ này đều là “luo”, nhưng theo Vương Lực thì âm Thượng cổ Hán ngữ của La là *lai còn của Lạc là *lak, âm cuối rất khác nhau chứ không phải đồng âm “lo” như trong Quan Thoại hiện nay, vì vậy ý kiến la = lạc có vẻ thiếu cơ sở ngữ âm lịch sử.

Hiện nay giới ngôn ngữ học phân định âm Thượng cổ Hán ngữ là âm Hán ngữ khoảng đời Hán về trước, còn Trung cổ Hán ngữ là ngữ âm khoảng đời Tùy - Đường - Tống, nói một cách đại khái thì âm Thượng cổ Hán ngữ là âm thời Chu, còn Trung cổ Hán ngữ là âm thời Đường. Âm Trung cổ Hán ngữ hiện được bảo lưu tương đối trọn vẹn trong hệ thống âm Hán Việt của người Việt (theo GS Nguyễn Tài Cẩn) nên việc phục nguyên âm này có thể là khó với người Trung Quốc nhưng đối với người Việt lại không phải là vấn đề cần đặt ra, còn âm Thượng cổ Hán ngữ là âm mà chúng ta cần vận dụng thì hiện nay đã có nhiều công trình phục nguyên của các tác giả như Karlgren, Lí Phương Quế, Vương Lực, Baxter, Trịnh Trương Thượng Phương, Phan Ngộ Vân, Schuessler ,v.v… Thực ra các dữ liệu âm phục nguyên cũng không hẳn là chính xác, vì ngay trong nội bộ Hán ngữ cũng có nhiều phương ngữ âm đọc của các chữ Hán khác nhau đến mức không hiểu được nhau như tiếng Quảng Đông so với tiếng Bắc Kinh, mà trong từng phương ngữ thì cùng một chữ một nghĩa cũng có thể có nhiều âm đọc (ví dụ âm Hán Việt có thể đọc chính hay chánh, nhất ngay nhứt đều được), chưa kể sự biến đổi ngữ âm nội tại theo thời gian cũng khó phân định chính xác, sai số có thể đến vài thế kỷ hay thậm chí hơn 500 năm. Đối với giai đoạn giao thời giữa Thượng cổ Hán ngữ và Trung cổ Hán ngữ, là khoảng cuối đời Hán qua đời Tấn, thì việc khôi phục sẽ phải cân nhắc chọn giữa âm Thượng cổ hay âm Trung cổ.

So sánh âm Trung cổ với âm Thượng cổ Hán ngữ thì có một số biến đổi ngữ âm khá cơ bản mà những người mới tìm hiểu về ngữ âm lịch sử nên nhớ để tiện áp dụng, các biến đổi này đôi khi có thể nhận thấy khá rõ dựa vào lớp từ cổ Hán Việt (đúng ra là cổ Việt Hán, ký hiệu CVH) của tiếng Việt:

- Các tổ hợp  phụ âm đầu phức có -r- đến cuối thời Hán đã rụng hết -r-  hoặc chuyển hết thành l - (theo GS Nguyễn Tài Cẩn, như long<=rồng, ly<=rời CVH).

- Nhóm phụ âm đầu đ-, d- trung cổ nhiều trường hợp phục nguyên về l- thượng cổ (như đạo<=lúa, đà<=lái CVH).

- Phụ âm đầu ph- trung cổ ứng với -b thượng cổ (như phật<=bụt, phủ<=búa CVH).

- Nguyên âm -a đơn (vận mẫu ca 歌) thời trung cổ thì thời thượng cổ là âm phức có âm cuối -r, -j, -i, -l  (như la<=lải, lưới, cá<=cái CVH)

- Nguyên âm -u (vận mẫu ngu 虞) thời trung cổ thì thời thượng cổ là âm phức có âm cuối “o” hay “a” (như phủ<=búa, vụ<=mùa CVH)

v.v…

3. Phục nguyên tên Văn Lang

1. Chữ Hán Văn: 文, thanh mẫu vi: 微, vận mẫu văn: 文, bình thanh: 平, hợp khẩu: 合, nhiếp trăn: 臻,  tam đẳng: 三等, thiết âm vô phân: 無分

Phục nguyên âm thượng cổ:
Karlgren: *mi ̯wən
Lí Phương Quế: *mjən
Vương Lực: *miən
Baxter: *mjən
Trịnh Trương Thượng Phương: *mɯn
Phan Ngộ Vân: *mɯn

Điểm cần lưu ý là thanh mẫu vi 微thời cổ là *m- (dấu * hàm ý  chỉ đây là âm phục nguyên), dựa vào phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân *mɯn chúng tôi cho rằng đây là từ chỉ người trong nhóm ngữ hệ Nam Á (Mon-Khmer) “mun”, các tên như người Môn (Mun), người Mon (người Mường tự gọi là “con Mon”) đều có nghĩa là “người”, cả từ “man 蠻” mà người Hán dùng gọi các nhóm tộc phi Hán ở phương Nam vốn cũng có nghĩa là “người”, xét phục nguyên âm Hán thượng cổ của chữ man 蠻theo Karlgren: *mwan, Lí Phương Quế: *mruan,Vương Lực: *moan, Baxter: *mron, Trịnh Trương Thượng Phương: *mroon, Phan Ngộ Vân: *mroon  đều khá gần “mun/mon” trong ngữ hệ Môn-Khmer (lưu ý âm cuốn -r thường chuyển thành -n ở tiếng Việt và Hán, nên khi bỏ âm đầu Kh- thì Mer=>Men=>Miên).

“Văn” cũng là chữ đệm cực kỳ phổ thông trong tên họ đàn ông người Việt, nó chính ra có nghĩa là “ông”, là “ngài”, mà “ngài” là cổ âm của “người” (mun/mon) chứ không phải là “văn chương” hay “văn vẻ” gì cả, nhưng có lẽ do cái nghĩa đồng âm này cũng hay nên nó thành phổ biến chăng ?

Phục nguyên Văn 文là “mun/mon” khớp với ý kiến Tạ Đức đã nêu rằng tên nước thường dẫn xuất từ các từ chỉ “người” trong bản ngữ của dân tộc chủ thể nước đó .

2. Chữ Hán Lang: 郎, thanh mẫu lai: 來, vận mẫu đường: 唐, bình thanh: 平, khai khẩu: 开, nhiếp đãng: 宕, nhất đẳng: 一等, thiết âm lỗ đang: 魯當

Phục nguyên âm thượng cổ:

Karlgren: *lɑŋ

Lí Phương Quế: *laŋ

Vương Lực: *laŋ

Baxter: *c-raŋ

Trịnh Trương Thượng Phương: *raaŋ

Phan Ngộ Vân: *raaŋ

Như vậy từ này là một từ ít biến đổi, vẫn giữ âm “lang” từ hàng nghìn năm nay vì từ r- sang l- chỉ là một biến đổi nhỏ và là quy luật phổ thông ở Hán Ngữ. Chúng tôi cũng thống nhất ý kiến như Tạ Đức, Hoàng Thị Châu phục nguyên từ này trong ngôn ngữ Việt-Mường là “lang/chàng” tức cũng là từ chỉ người, nhưng nghĩa hẹp hơn từ mun/mon một chút, dùng chỉ riêng đàn ông hoặc kẻ quý tộc, hay vua quan (các nghĩa sau có lẽ phát sinh rất muộn, khi xã hội đã phát triển, có sự phân chia giai cấp).

Có mối liên hệ giữa lang và yang (giàng, trời trong một số ngôn ngữ Nam Á cổ) và cả từ dương chỉ mặt trời trong Hán ngữ, thật vậy phục nguyên âm thượng cổ Hán ngữ của các chữ dương 陽và 楊:

Karlgren: *di ̯aŋ
Lí Phương Quế: *raŋ
Vương Lực: *ʎiaŋ
Baxter: *ljaŋ
Trịnh Trương Thượng Phương: *laŋ
Phan Ngộ Vân: *laŋ    

(Lưu ý phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân trùng chính xác với âm “lang” của chữ “lang 郎”).

3. Xét nghĩa toàn bộ từ “Văn Lang” :

Từ phục nguyên trên chúng ta có tên “Mun Lang” trong đó cả hai chữ đều có gốc là từ chỉ người tuy nhiên như vậy thì ý nghĩa trùng lặp không hay lắm, cách hiểu phù hợp hơn và thuận cú pháp tiếng Việt - Mường là: Mun là từ chỉ vùng đất cư trú tức “nước”, cũng tức là “Mường”, chữ sau mới là từ chỉ tộc danh và tên nước. Vậy nghĩa chốt lại là “Mường Lang”, từ này lại có thể hiểu theo hai nghĩa không phủ định nhau:

- Một là “mường của Lang” tức mường của vua, của nhóm tộc lãnh đạo một liên minh bộ lạc (quan điểm của giới khoa học hiện đại vẫn chỉ coi Văn Lang là một nhà nước sơ khai, một hình thức liên minh bộ lạc). Nghĩa này khớp với Đại Việt Sử Lược viết Hùng Vương đóng đô ở Văn Lang dẫn ở trên.

- Hai là “mường của người Lang”, người Lang là giống người gì thì xin đọc tiếp phần dưới.

3. Phục nguyên chữ Kinh trong tên “người Kinh”

Luận điểm ưa thích của rất nhiều nhà nghiên cứu coi chữ “Kinh” trong tên người Kinh vốn xuất phát từ tên đất “Kinh 荊” tức vùng Hồ Bắc là vùng đất chính của nước Sở 楚thời Chu nên cũng gọi là “Kinh Sở” (thực ra nước Sở sau này mở rộng khỏi phạm vi đất Kinh rất nhiều). Đất Kinh bao gồm cả vùng hồ Động Đình ở Hồ Nam là đất cội nguồn của người Việt (người Kinh) trong truyền thuyết, nên giả thuyết trên quả thực rất hấp dẫn. Cả tên họ của vua Sở là họ “Hùng” và họ “Mị” cũng phù hợp với các danh xưng Hùng Vương (Vua Hùng), Mị Nương (Mệ Nàng, con gái vua Hùng) trong truyền thuyết của người Việt.

Tuy nghiên bám sát mặt chữ Hán thì chữ Kinh trong tên người Kinh (nghĩa là kinh đô) lại khác với chữ Kinh trong tên đất Kinh 荊(nghĩa là gai góc), cổ âm của chúng không thực sự đồng nhất như cách đọc hiện tại “kinh” ở tiếng Việt hay “jing” ở tiếng Hoa.

Phục nguyên chữ kinh (gai)

Karlgren: *ki ̯e ̆ŋ
Lí Phương Quế: *kjiŋ
Vương Lực: *kieŋ
Baxter: *krjeŋ
Trịnh Trương Thượng Phương: *keŋ
Phan Ngộ Vân: *keŋ

Phục nguyên chữ kinh (kinh đô)

Karlgren: *ki ̯a ̆ŋ
Lí Phương Quế: *kjiaŋ
Vương Lực: *kyaŋ
Baxter: *krjaŋ
Trịnh Trương Thượng Phương: *kraŋ
Phan Ngộ Vân: *kraŋ

Hãy chú ý đến phục nguyên của hai tác giả Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân, một chữ có âm đầu đơn k-, một chữ có âm đầu là tổ hợp có -r- (kr-), mà các tổ hợp có -r- thì nhiều trường hợp chuyển thành l- sau đời Hán như vậy chữ 京trong tên người Kinh có thể đọc ra “laŋ” tức Lang.

Một chứng cứ nữa nằm ngay trong hệ thống cấu tạo chữ Hán, đó là chữ kinh 京được dùng làm bộ phận biểu âm cho chữ lương 涼(nghĩa là mát lạnh), chú ý vần ang/ương rất dễ chuyển hóa cho nhau như ở các cặp từ đàng/đường, đang/đương, nàng/nường, tràng/trường .v.v.

Trong từ điển Việt Bồ La của A.D.Rhodes (1651) cũng có tên “người Lương”, ban đầu có lẽ dùng chỉ những người Kinh không theo đạo Gia Tô, về sau chỉ chung những người không theo tôn giáo nào, chỉ thờ cúng tổ tiên như thời thượng cổ. Khả năng tên “Lương” này vốn đã có từ rất xa xưa chứ không phải do các giáo sĩ phương Tây tùy tiện đặt ra, vì cho đến thời cận đại khi khai lý lịch người ta vẫn dùng chữ “Lương” để khai là không theo tôn giáo nào, mà “người Lương” vốn rất kỳ thị bên Công giáo, khó có chuyện mượn từ của bên Công giáo đặt ra.

Như vậy “người Kinh” cũng là “người Lang” hay “người Lương”, còn tên “Văn Lang” có cả nghĩa “Người Kinh” hay “Mường Kinh” ? Nếu lập luận của người viết đúng thì đây quả thực là một phát hiện rất thú vị.

4. Tên Văn Lang trong thư tịch cổ Trung Quốc.

Không phải Đại Việt Sử Lược đời Trần là sách đầu tiên đề cập tên Văn Lang, mà tên này đã có trong các thư tịch sớm hơn của Trung Quốc.

Sách 太平御覽Thái Bình Ngự Lãm, Bắc Tống (977 - 984). Chương Châu quận bộ thập bát 州郡部十八. Đoạn Lĩnh Nam Đạo 嶺南道. Nguyên văn:
《方輿志》曰:峰州,承化郡。古文郎國,有文郎水。亦陸梁地。秦屬象郡。二漢屬交趾郡。吳分置新興郡。晉改為新昌。陳置興州。隋平陳,改為峰州;煬帝初,廢。唐復置峰州。林邑記:蒼梧以南有文郎野人,居無室宅,依樹止宿,食生肉,采香為業,與人交易,若上皇之人。

Tạm dịch: Phương Dư chí viết: Phong Châu tức quận Thừa Hóa. Xưa là nước Văn Lang, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời Tần thuộc Tượng quận. Tây Hán và Đông Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia ra xếp vào quận Tân Hưng. Tấn đổi thành Tân Xương. Nhà Trần (557-589) gọi là Hưng Châu. Tùy thay Trần, cải ra Phong Châu; từ những năm đầu Tùy Dạng Đế (604-618) thì bãi bỏ. Đường triều khôi phục đặt là Phong Châu. Lâm Ấp Ký viết: Phía nam Thương Ngô có người Văn Lang hoang dã, sống không cần nhà cửa, dựa vào cây cổ thụ làm chỗ nghỉ ngơi, ăn thịt sống, lấy việc tìm hái hương liệu mưu sinh, trao đổi với người dưới xuôi, giống như thời tối cổ.

Xưa nay cụm từ 亦陸梁地(diệc Lục Lương địa) thường được diễn dịch là “cũng là xứ sở phóng túng hoành hành”, dựa theo nghĩa từ lục lương 陸梁là “hung cường”,  thường để chỉ  “giặc cỏ”. Sử ký của Tư Mã Thiên phần Tần Thủy Hoàng bản kỷ viết :

“略取陆梁地为桂林、象郡、南海”。司马贞史记索隐》:“谓南方之人,其性陆梁,故曰陆梁

Lược thủ Lục Lương địa vi Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Tư Mã Trinh trong “Sử Ký Sách ẩn” viết vị nam phương chi nhân, kì tính lục lương, cố viết lục lương.

... Chiếm đất  Lục Lương đặt làm các quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải. Tư Mã Trinh trong “Sử Ký sách ẩn” chú giải rằng lục lương là chỉ giống người  phương nam, do tính “hung cường”, nên gọi là Lục Lương) .

Theo người viết thì cách giải thích của sách vở Trung Quốc là xuyên tạc đầy ác ý. Nếu xét ngữ âm lịch sử thì chữ lục 陸có phục nguyên âm thượng cổ như sau

Karlgren: *li ̯ʊk
Lí Phương Quế: *ljəkw

Vương Lực: *liuk
Baxter: *c-rjuk
Trịnh Trương Thượng Phương: *m·rug
Phan Ngộ Vân: *mrug

Hãy chú ý phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân *mrug có âm đầu là mr- còn âm cuối -g nếu đọc vang thì sẽ chuyển ra -ng tức là có thể ghi âm mrung. Trong quá trình tiêu biến của giới âm rung -r-, diễn ra khoảng đầu thời Hán tức thời Tư Mã Thiên viết Sử Ký, nó có thể chuyển hóa ra -i- hay -j- tức âm là mjung, khả năng mjung cũng là một dạng ghi âm chữ “mường”.

Vậy Lục Lương tức Mường Lương, cũng chính là Văn Lang như chúng tôi đã phục nguyên ở đoạn trên. Câu văn của Tư Mã Thiên như vậy phải dịch là Chiếm đất Văn Lang đặt làm quận Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải.

Nếu đúng Lục Lương là một dạng ghi âm sớm của “Văn Lang” thì sách cổ nhất đề cập đến “Văn Lang” chính là Sử Ký của Tư Mã Thiên, một tài liệu rất có uy tín, cách không xa thời Văn Lang lắm (Tư Mã Thiên sinh năm 145 TCN cách năm nước Văn Lang mất 257TCN - theo Toàn Thư khoảng hơn 1 thế  kỷ, còn nếu tính lại năm nước Văn Lang mất là 210TCN - theo các học giả hiện nay thì chỉ cách 65 năm)

Về tên sông Văn Lang mà Thái Bình Ngự Lãm viết ở trên, đối chiếu trên bản đồ thì vùng Phong Châu phía trên Việt Trì chỉ có sông Hồng, cũng còn gọi là sông Phú Lương. Khả năng Phú Lương chính là cách gọi về sau của sông Văn Lang hay Lục Lương. Vì cổ âm của âm đầu ph- của chữ phú vốn là b- cũng có khả năng chuyển đổi từ m- (như ở từ mồ hôi/bồ hôi hay con bò tiếng Mường là con mò) còn âm cuối -g ở mrug đã phục nguyên ở trên cũng có thể tiêu biến đi ví dụ như ở các cặp từ cùng nghĩa như chăng/chẳng/chả, mộng/mơ, kỵ/cúng, chi/chưng, vị/vựng ... cả trong Hán ngữ cũng vậy, chữ 疑vốn có âm cuối thượng cổ là –g  (Karlgren phục nguyên là *ŋi ̯əg) đã tiêu biến ở âm trung cổ “nghi” nhưng lại biến ra –ng ở chữ ngưng 凝. Tóm lại quá trình diến biến từ âm Lục Lương thời thượng cổ ra âm Phú Lương thời trung cổ có thể là mrug=>mru=>bu=>phú. Tác giả Tạ Đức cũng có đề cập đến tên tộc người Blang (Bố Lang) ở Vân Nam đầu nguồn sông Hồng và cũng cho rằng đây là một dạng biến chuyển của tên Văn Lang [1], Bố Lang dẫn đến tên Phú Lương cũng phù hợp về ngữ âm lịch sử.

Chú ý Lâm Ấp ký đã được dẫn trong Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên  郦道元(?-527) thời Nam Bắc Triều, nên có lẽ nó phải có từ thời Tấn tức là tên Văn Lang xuất hiện khá sớm chứ không phải đến thời Tống mới có, chưa kể khả năng chữ tên Văn Lang vốn được lưu truyền trong sách vở của người Việt từ trước đó nữa... độc lập với chữ Lục Lương do người Hán phiên âm.

5. Dương Việt cũng là Văn Lang.

Trong phần phục nguyên chữ Lang ở trên đã dẫn tư liệu phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân cho các chữ dương 陽và 楊là giống nhau và trùng chính xác với âm “lang”,  có tác giả như Vương Lực thì còn phục nguyên có giới âm -i- tức đọc gần như “lương”. Như vậy tên nước Dương Việt 楊越trong thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đọc là Lang Việt, các tư liệu dưới đây chứng minh nước “Lang Việt” đó cũng chính là Văn Lang.

Chiến Quốc sách viết về Ngô Khởi (440TCN-381TCN):

 南攻楊越,北並陳、蔡V ...  (Nam đánh Dương Việt , bắc thôn tính Trần,  Sái ...). Do các nước Ngô - Việt ở vùng hạ lưu cửa sông Trường Giang là ở phía đông nước Sở nên Dương Việt không thể là vùng Ngô - Việt,  mà phía Nam của Sở phải hiểu là vùng Hồ Nam thuộc cương vực nước Văn Lang theo sử Việt, chính người Trung Quốc cũng thừa nhận vùng này là đất Lạc Việt cổ. Chú ý Chiến Quốc Sách chỉ viết “công” (đánh) Dương Việt chứ không dùng chữ “tính” (thôn tính) như với hai nước Trần, Sái, phù hợp thực tế là Văn Lang tuy đã bị mất vùng Hồ Nam nhưng vẫn còn rất rộng, chưa bị tiêu diệt. Từ thời Ngô Khởi nước Sở đã trở nên rất hùng mạnh, sau thời Ngô Khởi gần 50 năm đã diệt nước Việt (khi đó đã gồm cả Ngô) vào năm 334TCN, mở rộng bờ cõi ra tận bờ biển. Chú ý khi đó nước Sở đã chiếm hết vùng lưu vực Trường Giang rộng lớn nhưng vẫn không thôn tính được Dương (Lang) Việt, như vậy dân Văn Lang xem ra cũng “lục lương” và hùng mạnh chứ không phải là một nước nhỏ và yếu.     

Sử Ký của Tư Mã Thiên viết 秦時已并天下,略定楊越,置桂林、南海、象郡(thời Tần thôn tính thiên hạ, lược định Dương Việt đặt làm các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận) . Theo nội dung câu văn thì Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận là đất Dương Việt tức Lang Việt hay Văn Lang. Các thư tịch Trung Quốc về sau chú giải Tượng Quận thời Tần là gồm cả Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam, tức cho là Tần đã chiếm được hết đất Văn Lang khi đó (không kể vùng Hồ Nam tức quận Trường Sa đã mất từ trước vào tay Sở). Nhưng đây là kiểu nói nhận vơ, thực tế Tần chưa chiếm được vùng trung tâm Văn Lang, khi đó đã đổi tên là Âu Lạc, tức  là đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, nơi có kinh đô Cổ Loa của An Dương Vương, mà ngược lại 30 vạn quân Tần cùng với chủ tướng Đồ Thư đã bị tiêu diệt khi đánh vào đất Tượng quận... chữ “lược định” mà Tư Mã Thiên dùng, có thể dịch gọn là “bình định”, nhưng thực ra “lược” còn có thể hiểu là “sơ lược” tức mới bình định sơ qua chứ chưa phải là đã thôn tính được hết đất Dương/Lang Việt. Nhiều sử sách sau thời Sử Ký cũng lặp lại thông tin trên.

Trong phần Hóa thực liệt truyện, Tư Mã Thiên còn viết:

“九疑、蒼梧以南至儋耳者,與江南大同俗,而楊越多焉。”  (Từ Cửu Nghi, Thương Ngô về phía nam tới Đam Nhĩ, phong tục đại để giống vùng Giang Nam, mà đa số là dân “Lang Việt”). Thông tin này rất quan trọng xác định dân vùng ven biển Lưỡng Quảng đa số là người “Lang Việt”, có truyền thống văn hóa không thua kém chi vùng Hoa Nam.

Phần“Tự tự” của Thái Sử Công (Tư  mã Thiên tự viết bài tựa sách Sử Ký)  viết như sau:

“漢既平中國,而佗能集楊越以保南藩,納貢職。作南越列傳第五十三” (Nhà Hán đã bình được Trung quốc, mà Triệu Đà biết chiêu tập được bọn Dương Việt để bảo vệ bờ cõi phía Nam, chịu nạp cống lễ. Nên ta viết thành quyển thứ 53 “Nam Việt Liệt Truyện”). Theo nội dung này thì phải hiểu nước Nam Việt của Triệu Đà là thu gộp các vùng đất Lang Việt, tức Văn Lang theo sử Việt.

Trong sách Phương Ngôn của Dương Hùng đời Tây Hán cũng có hai lần đề cập tên Dương Việt,  nhưng dùng chữ dương bộ thủ  揚,  điều này cho thấy đây là tên phiên âm, chỉ lấy âm chứ không lấy nghĩa, trích một ví dụ: 癡,騃也。揚越之郊凡人相侮以為無知謂之眲。眲,耳目不相信也。或謂之斫   (si, ngãi dã, Dương Việt chi Giao phàm nhân tương vũ dĩ vi vô tri vị chi nạch, nạch: nhĩ mục bất tương tín dã hoặc vị chi chước- Si là lẩn thẩn, người Dương Việt ở đất Giao gọi những kẻ lơ ngơ chả biết gì là “nạch”, ý là tai mắt chả biết nhìn nhận chi, hoặc còn gọi là “chước”), ở đây hãy chú ý thông tin nói Dương(Lang) Việt là ở đất Giao (tức Giao Chỉ hay Giao Châu, là tên của vùng đất Văn Lang khi nhà Hán đã đặt thành châu quận), thông tin này tái khẳng định “Lang Việt” cũng là Văn Lang, là Giao Châu.

Các dữ liệu trên gần như là tất cả các trường hợp có đề cập đến tên Dương Việt trong thư tịch Trung Quốc từ đời Hán về trước mà người viết đã tìm được, và tất cả đều có liên quan đến vùng đất Văn Lang cổ  hay Giao Châu thời Hán.

Chú ý thêm là họ của Thi Sách, chồng của bà Trưng Trắc theo nhiều tư liệu thần tích là họ Dương 楊, mà Thi Sách là dòng dõi Lạc Tướng huyện Chu Diên nên khả năng họ đó chính ra phải đọc là Lang theo tiếng Việt Mường, Lang tức là chủ của một vùng đất (mường) của người Việt Mường. Các hoàng tử con vua Hùng đều gọi là Lang như Lang Liêu, Linh Lang … Việc lấy chức tước hay tên đất phong làm họ là khá thông thường thời xưa…

 6. Tên Việt Thường có liên hệ với tên Văn Lang.

Sách Thái Bình Ngự Lãm còn dẫn Phương Dư Chí như sau:

嶺南道:《方輿志》曰:安南府,今理宋平縣。古越地,《禹貢》揚州之地,號為百越。在周為越裳重譯之地。秦屬象郡。漢為交趾、日南二郡界,后漢因之。唐為交州。
Lĩnh Nam đạo : 《Phương dư chí 》viết :An Nam phủ, kim lí Tống Bình huyện. Cổ Việt địa, 《Vũ cống 》Dương Châu chi địa, hiệu vi Bách Việt. Tại Chu vi Việt Thường trùng dịch chi địa. Tần thuộc Tượng quận. Hán vi Giao Chỉ, Nhật Nam nhị quận giới, hậu Hán nhân chi. Đường vi Giao châu.

Lược dịch: Đạo Lĩnh Nam: Sách Phương dư chí viết: Phủ An Nam, kiêm quản huyện Tống Bình là đất Việt cổ, Sách Vũ cống nói đất Dương châu gọi là Bách Việt. Thời Chu là đất Việt Thường phải qua mấy lần phiên dịch. Đời Tần thuộc Tượng quận. Hán  nằm trong địa giới hai quận Giao Chỉ, Nhật Nam, hậu Hán cũng thế. Đường đặt làm Giao châu ...

Theo nội dung trên thì trước thời Chu vùng đất từ Giao Chỉ đến Nhật Nam cũng được người Trung Quốc coi là đất Việt Thường, nhưng đó chỉ là một phần nhỏ ở phía Nam của nước Văn Lang theo sử Việt, đến trước đời Tần thì Văn Lang đã bị mất phần phía bắc dãy Ngũ Lĩnh nên “bộ Việt Thường” cũng co lại, chỉ còn là một phần nhỏ ở phía Nam Cửu Chân, khoảng Hà Tĩnh ngày nay.

* Vậy tên Việt Thường nghĩa là gì?

Phục nguyên âm chữ thường 裳:

Karlgren: ȡi ̯aŋ
Lí Phương Quế: djaŋ
Vương Lực: ʑiaŋ
Baxter: djaŋ
Trịnh Trương Thượng Phương: djaŋ
Phan Ngộ Vân: gljaŋ

So sánh thấy khá giống phục nguyên âm  chữ tượng象:

Karlgren: dzi ̯aŋ
Lí Phương Quế: rjaŋx
Vương Lực: ziaŋ
Baxter: zjaŋʔ
Trịnh Trương Thượng Phương: ljaŋʔ
Phan Ngộ Vân: ljaŋʔ

Tiếng Việt có từ “to tổ chảng”, chảng tức là con voi, âm chảng khá gần âm phục nguyên của chữ Tượng 象theo Baxter là *zjaŋ. Vì vậy Việt Thường có thể là “Việt Tượng”, “Việt Chảng” (Việt Voi), đây là tên đặt thuận theo cú pháp tiếng Việt chứ không theo cú pháp Hán là “Thường Việt” hay “Tượng Việt”. Tên này phù hợp với truyền thống sử dụng voi trong chiến đấu, trong sản xuất và cả trong các lễ hội của người Việt. Vùng có nhiều voi là vùng từ  Giao Chỉ kéo dài xuống tận Nhật Nam, tức Tượng Quận thời Tần mà Thái Bình Ngự Lãm đã viết, vì vậy việc vùng đất này có tên “Việt Chảng” , “Việt Voi” theo tiếng Việt hay Tượng Quận theo Hán ngữ xem ra cũng có lý.

Một hướng giải thích khác: vì “chang” cũng có thể là “chàng” là dạng biến âm của lang (có khả năng là âm cổ hơn) vậy Việt Thường cũng là Việt Lang, nếu đảo lại theo cú pháp Hán là Lang Việt và ký âm “lang” bằng chữ dương 楊  hay 揚thì cũng là Dương Việt. Tác giả Tạ Đức cũng có nhận định về liên quan giữa nước Việt Thường và nước Việt Chương ở vùng Giang Tây, có lẽ chỉ qua âm đọc hiện đại (chang so với zhang) nhưng trường hợp này xem ra Tạ Đức lại có lý, Tạ Đức (có lẽ) không biết chữ dương từng có âm đọc là “lang” nhưng lại có những nhận định khá chính xác, xin trích dẫn một đoạn sau:

 “Theo Meacham (1996:93): tên Dương Việt vào cuối thời Tây Chu (thế kỷ 8 TCN) còn thấy ở vùng trung lưu Dương Tử (vùng hồ Động Đình), nhưng đến cuối thời Chiến Quốc (thế kỷ 3 TCN) lại thấy ở Nam nước Sở (Nam Hồ Nam), đến thời Tần- Hán thì thấy ở Quảng Đông và tận Quế Lâm, Quảng Tây. Sự di chuyển của tên gọi Dương Việt đó đã phản ánh sự thiên di liên tục về phía Nam của người Việt Thường dưới sức ép bành trướng của Sở xuống Hồ Nam, mạnh nhất vào thế kỷ 5 TCN. Dương Việt chính là một tên gọi khác của Việt Thường cũng như của các tên gọi Thương Ngô và Tường Kha...”. Nhận định này phù hợp với việc lãnh thổ Văn Lang (Dương Việt, Lang Việt) bị Sở xâm lấn, biên giới dịch chuyển dần về phía Nam.

Phan Anh Dũng

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 23.2.2020.

 

TÓM TẮT

Bài viết này đề xuất cách giải thích tên “Văn Lang” là “Mường Lang”, cũng là “Mường Kinh” và nghĩa gốc là “Người Kinh”, lập luận dựa vào các cứ liệu ngữ âm lịch sử và các dữ liệu ở thư tịch cổ. Ngoài ra có khảo chú mở rộng các tên liên quan đến tên Văn Lang là Lục Lương, Dương Việt, Việt Thường.

Tài liệu tham khảo:

1. Phục nguyên âm thượng cổ Hán ngữ ở trang web của Đại học Thượng Hải http://www.eastling.org/oc/oldage.aspx có bản sao ở trang http://fanzung.com/?page_id=445

2.中上古汉语音的纲要, 高本汉, 齐鲁书社, 济南. 1987.

3. A Handbook of Old Chinese PhonologyGS William Baxter (1992, New York, Berlin).

4. 古漢語字典, Vương Lực, Cổ Hán ngữ tự điển.

5. Etymological_Dictionaryof old Chinese, Axel Schuessler, 2007 University of Hawai’i Press.

6. Từ điển Mường Việt .  Nguyễn Văn Khang (chủ biên), Bùi Chỉ, Hoàng Văn Hành, NXB Văn hóa dân tộc. 2002

7. Giáo trình Lịch sử ngữ âm tiếng Việt. Nguyễn Tài Cẩn, NXB Giáo Dục, Hà Nội. 1995

8. Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt. Nguyễn Tài Cẩn. NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. 2000

9. Nguồn gốc người Việt - người Mường.  Tạ Đức . NXB Tri Thức 2013.


[1] Người Bố Lãng (chữ Hán: 布朗族- Bố Lãng tộc), một vài từ điển phiên thành người Bu-răng, còn gọi là Bulong hay Blang.

Tiếng nói/ ngôn ngữ của mỗi quốc gia dân tộc, bất kể quốc gia dân tộc nào, đều là một thứ tài sản vô giá, trước hết, với chính quốc gia dân tộc ấy. Nó là căn cước văn hóa của dân tộc. Mất căn cước văn hóa, dân tộc không là gì, không còn gì cả.

Chẳng thế mà trước đây ngót một thế kỷ, ông chủ bút Nam Phong tạp chí, nhân một dịp diễn thuyết về thi hào Nguyễn Du và danh tác “Truyện Kiều”, đã khẳng định: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”. Và về sau này, với tình yêu tiếng Việt vô hạn, thi sĩ Lưu Quang Vũ đã viết những câu thơ dào dạt đắm đuối: “Buồm lộng sóng xô, mai về trúc nhớ/ Phá cũi lồng vời vợi cánh chim bay/ Tiếng nghẹn ngào như đời mẹ đắng cay/ Tiếng trong trẻo như hồn dân tộc Việt/ Mỗi sớm dậy nghe bốn bề thân thiết/ Người qua đường chung tiếng Việt cùng tôi/ Như vị muối chung lòng biển mặn/ Như dòng sông thương mến chảy muôn đời…” (Tiếng Việt). Vậy nên, ở bình diện lý trí, việc giữ gìn tiếng nói/ ngôn ngữ dân tộc mặc nhiên đã trở nên một yêu cầu mang tính bắt buộc và thường trực.

Tiếng Việt và những

Có những tranh luận khác nhau quanh việc dịch các tác phẩm của Dostoievsky sang tiếng Việt. 

Nhưng trong bối cảnh xã hội nước ta hiện nay, khi trình độ dân trí rõ ràng đã được nâng lên rất nhiều so với trước, và sự hội nhập với thế giới đang diễn ra hằng ngày, lại nảy sinh một câu hỏi: Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt như thế nào?

Câu hỏi không hề là ngẫu nhiên, chỉ cần chúng ta nhìn thực tế đời sống của văn học dịch thời gian gần đây sẽ thấy: Cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt” luôn được dẫn ra như một chuẩn mực để định giá chất lượng bản dịch tiếng Việt của những tác phẩm văn học nước ngoài. Hơn thế, như một lời răn đe trước những bản dịch bị coi là luộm thuộm, lủng củng, xa lạ, tối nghĩa về hành ngôn tiếng Việt.

Quả đúng là đã có không ít bản dịch như vậy, và không gì khác hơn, chúng là sản phẩm tồi của những người dịch kém. Nhưng ngược lại, oái oăm thay, cũng có nhiều trường hợp bị kết án oan, và ở những trường hợp ấy, cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt” nhiều khi chỉ đơn giản là một thứ vũ khí sẵn có, được người ta sử dụng cũng chính bởi sự sẵn có ấy, như một quán tính.

Bản dịch tiểu thuyết “Lolita” của Dương Tường là một ví dụ. Khỏi phải nói, dịch “Lolita”, nghĩa là dịch giả chấp nhận đối mặt với thách thức cực lớn. Bởi nhà văn Mỹ gốc Nga Vladimir Nabokov vốn khét tiếng thế giới như một phù thủy về ngôn ngữ. Tiểu thuyết “Lolita” của ông trùng điệp những ẩn dụ, những trò chơi ngôn từ, những cấu trúc câu, những liên văn bản và xuyên văn bản bất tận, cực kỳ… quái đản! Tóm lại, theo nghĩa nào đó, “Lolita” là một mê cung ngôn ngữ mà người viết bày ra với mục đích, không gì khác, để tạo sự mờ đục làm rối trí người đọc. (Thứ văn chương làm rối trí người đọc cũng cần thiết, ít nhất, ở mức ngang bằng với thứ văn chương khiến người đọc được thư giãn). Trước một tác phẩm như vậy – một tác phẩm đã được chúng khẩu đồng từ xếp vào hàng kinh điển của tiểu thuyết hiện đại – mà dịch ra tiếng Việt sao cho đơn giản, dễ hiểu, “trong sáng”, thì cũng chính là cách xuyên tạc tác giả hiệu quả nhất.

Một dịch giả lão thực như Dương Tường không chọn cách này. Ông trung thành với phong cách ngôn ngữ của Nabokov. Dịch “Lolita”, đến chỗ nào văn bản trở nên đa nghĩa hoặc quá tối nghĩa với người đọc, Dương Tường dùng chú thích. (Có tất thảy gần năm trăm chú thích trong bản dịch “Lolita”, một sự nỗ lực và thận trọng hiếm thấy trong hoạt động dịch văn học ở ta hiện nay – không nên quên rằng trong bản dịch “Lolita” tiếng Pháp của Eric Kahane, bản dịch được chính Nabokov đánh giá rất cao, thậm chí còn chẳng có lấy một chú thích nào! Và do vậy, câu văn dịch “trên dòng kẻ có những dấu chấm” cùng lắm chỉ là một lỗi bất cẩn nho nhỏ của Dương Tường, không đáng để thiên hạ xô vào đay đi nghiến lại nhiều như thể trời sắp sập tới nơi).

Nhưng những người đọc thụ động thì không đủ hứng thú và lòng kiên nhẫn để đi theo một trò chơi ngôn ngữ quá rắc rối. Họ khó chịu, và đó là dịp quá tốt để cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt”, luôn sẵn đấy, lại được dẫn ra như một lời răn đe.

Ví dụ này gợi nhớ đến cố dịch giả Cao Xuân Hạo. Sinh thời, ông Cao Xuân Hạo từng phàn nàn về chuyện có tác phẩm nào đó của F. M. Dostoievsky (xin miễn cho người viết việc phải nêu tên) được dịch ra tiếng Việt bằng một văn phong hết sức “trong sáng”, mềm mại, uyển chuyển, dễ đọc, và đọc rất “dễ chịu”. Trong khi trong nguyên tác tiếng Nga thì đó là một cách hành văn với tiết tấu giật cục, gấp gáp, tác giả cố ý sử dụng kiểu ngôn từ tạo cảm giác u ám, nặng nề đến tức thở, nhiều chỗ lại là sự thống ngự của những lớp ngôn từ thô tục.

Tác phẩm gốc như thế và tác phẩm dịch như thế, thì chẳng sai, dịch đích thị là diệt, và cái quan niệm cứng nhắc về “sự trong sáng của tiếng Việt” chính là thứ vũ khí quá tốt để tiêu diệt phong cách của thiên tài văn học Nga. (Dịch giả Cao Xuân Hạo, vốn dĩ là người rất dị ứng với hệ tiêu chí “Tín, Đạt, Nhã” do dịch giả Trung Quốc Nghiêm Phục đưa ra, từng kêu lên đầy bực tức, rằng nếu như ở tác phẩm gốc, tác giả cố tình viết một cách thô tục, mà người ta lại cứ chăm chăm phải dịch ra tiếng Việt sao cho được Nhã, thì phải dịch cách gì đây để đảm bảo trung thành với nguyên tác?).

20210911 3

 Sự trong sáng của tiếng Việt qua các thời kỳ cũng có những biên độ khác nhau? Ảnh: L.G

Từ hai ví dụ trên, ít nhất, có thể rút ra một điều: Nên có quan niệm và ứng xử cởi mở hơn trước yêu cầu “phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”. Ngôn ngữ không phải là một hệ thống nhất thành bất biến. Nó như một sinh thể, thường xuyên vận động, thêm vào và mất đi, liên tục được làm mới.

Mà một trong những con đường làm mới ngôn ngữ hiệu quả nhất, chính là việc dịch văn học. Lịch sử văn học dịch Việt Nam ngay từ đầu thế kỷ XX đã cho thấy: Thông qua sự tiếp xúc và chuyển hóa những tác phẩm văn học thuộc các ngôn ngữ khác, tiếng Việt đã hấp thụ vào mình nhiều lớp ngôn từ mới, nhiều cấu trúc câu văn mới, nhiều mô hình tư duy ngôn ngữ mới, và đã trở nên giàu có hơn từ đó.

Hãy cứ hình dung: Nếu trước năm 1945 mà không có những bản dịch các tiểu thuyết chương hồi của Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục (“Tam quốc chí diễn nghĩa”, “Đông Chu liệt quốc”), không có những bản dịch “An Na Kha Lệ Ninh” (Anna Karenina) của Vũ Ngọc Phan, “Những kẻ khốn nạn” (Những người khốn khổ) của Nguyễn Văn Vĩnh, và nhiều dịch phẩm văn học khác nữa, tiếng Việt của chúng ta chưa chắc đã đạt tới sự đa dạng và thanh thoát như bây giờ. Bởi vậy, nếu cứ khăng khăng “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” với mặc định rằng đó là một di sản ngôn ngữ đông cứng, thì hậu quả sẽ không chỉ là sự triệt tiêu phẩm tính đặc dị trong phong cách nghệ thuật của các tác giả văn học nước ngoài, mà còn là sự triệt tiêu khả năng phong phú hóa của bản thân tiếng Việt.

Với văn học dịch là thế. Còn với sáng tác văn học trong nước thì sao? Có lẽ chỉ cần nói ngắn gọn: Chúng ta không ủng hộ những sự làm xấu tiếng Việt, nhưng cũng không nên bám chặt vào một sự “trong sáng” mơ hồ nào đó của tiếng Việt để đóng sập cửa trước những nỗ lực cách tân ngôn ngữ văn chương. Xét cho cùng, “sự trong sáng của tiếng Việt” không ngưng đọng vào chỉ duy nhất một hình thái nào đó. Lối viết văn tiếng Việt với dày đặc những câu biền ngữ, đăng đối như trong các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh hay trong “Nho Phong” của Nhất Linh Nguyễn Tường Tam, là biểu hiện của một thứ tiếng Việt “trong sáng”.

Nhưng cũng “trong sáng” không kém là câu văn tiếng Việt của chính Nhất Linh ở giai đoạn sau, trong các tiểu thuyết như “Đoạn tuyệt”, “Đôi bạn”, “Bướm trắng”… cho dù câu văn tiếng Việt ở đây đã rất khác với ở “Nho Phong”. Hoặc giả, nếu cứ thuận theo ý kiến (không hề sai) của đa số độc giả, rằng các truyện ngắn và tùy bút của Thạch Lam là một mẫu mực về “sự trong sáng của tiếng Việt”, thì cũng không vì thế mà bảo những câu văn tiếng Việt của Nguyễn Tuân – ngôn ngữ được đẽo gọt rất cầu kỳ, sử dụng những kết hợp từ đầy bất thường và bất ngờ, những cú pháp bị vặn xoắn theo kiểu… chẳng giống ai – là không “trong sáng”. Nó là thứ tiếng Việt “trong sáng” theo cách khác. Tóm lại, nói khác đi, ở đây chúng ta buộc phải có một cái nhìn dân chủ hóa trước cụm từ “sự trong sáng của tiếng Việt”. Nó không giống như chân lý tối thượng của Chúa Trời, đơn nghĩa. Nó là một tập hợp của những chân lý tương đối, luôn mở ra, mời gọi sự sáng tạo của tất cả.

Không nên quên rằng trong lĩnh vực đặc thù như văn chương, ngôn ngữ đã không còn là ngôn ngữ tiêu dùng nữa, mà là ngôn ngữ của nghệ thuật. Xuất phát từ ngôn ngữ đời sống, nhưng nó đã được mã hóa. Và do vậy, nó mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của người sử dụng, không loại trừ cả sự đánh đố, khiêu khích, gây hấn bằng ngôn ngữ. Vấn đề còn lại là thái độ của người tiếp nhận. Nếu ta cứ đòi hỏi ngôn ngữ văn chương phải hiền lành, đơn nghĩa, dễ hiểu, “trong sáng” theo cách của ngôn ngữ tiêu dùng, thì tốt nhất là chẳng cần có văn chương làm gì.

Không nên quên rằng lời kêu gọi “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” được nói ra trong bối cảnh một nước Việt Nam với trình độ dân trí nhìn chung rất thấp, tỷ lệ người mới thoát nạn mù chữ cao ngang với tỷ lệ người còn mù chữ. Để tuyên truyền, để vận động đối tượng này một cách hiệu quả nhất, không gì khác, cần phải sử dụng một thứ ngôn ngữ dễ hiểu nhất có thể. 

Nhưng không nên quên rằng bối cảnh xã hội Việt Nam hiện tại đã rất khác. Tốt nghiệp đại học đã trở thành chuyện “thường ngày ở huyện”. Và không nên quên rằng tiếng Việt là một sinh ngữ. Nó tồn tại. Và liên tục vận động 

Hoài Nam

Nguồn: An ninh thế giới giữa và cuối tháng, ngày 04.9.2021.

25 thế kỷ trước, mọi “tư liệu giấy tờ” của triều đình Achaemenid tại Đế quốc Ba Tư đều được ghi lại trên các tấm đất sét – và hàng vạn tấm trong số đó đã được các nhà khảo cổ học tại Viện Phương Đông thuộc Đại học Chicago – Hoa Kỳ, phát hiện nguyên vẹn vào năm 1933. Qua nhiều thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã bỏ ra nhiều công sức để tìm hiểu và phiên dịch nội dung từng văn bản cổ này. Tuy vậy, quá trình phiên dịch thủ công thường rất khó khăn, kéo dài và thường dễ mắc lỗi.

20200426 2

Kể từ thập niên 1990, công việc của các nhà khoa học đã có thêm sự hỗ trợ của máy tính – dù không nhiều thành công, một phần bởi vì tính chất ba chiều của văn bản trên đất sét và sự phức tạp của hệ thống chữ hình nêm. Nhưng mới đây, một đột phá công nghệ của ĐH Chicago có thể cuối cùng tạo chìa khóa mở ra khả năng phiên dịch tự động các văn bản này, cũng như cho phép các nhà khoa học có thể rảnh tay thực hiện các phân tích sâu hơn. Qua đó, giúp chúng ta hé mở thêm nhiều thông tin về lịch sử, xã hội và ngôn ngữ thời Achaemenid.

Dự án DeepScribe được thành lập vào năm 2019 với sự cộng tác giữa các chuyên gia của Viện Phương Đông (OI) và Khoa Khoa học Máy tính và nhận được tài trợ từ Trung tâm Dữ liệu và Tin học – ĐH Chicago (CDAC). Khởi đầu với bộ dữ liệu gồm 6000 hình ảnh từ Kho lưu trữ thành cổ Persepolis dùng để “huấn luyện” cho AI, dự án sẽ xây dựng một mô hình học máy có thể “đọc” các tấm đất sét trong bộ sưu tập, và có thể sẽ cho ra đời một công cụ cho phép các nhà khảo cổ học ứng dụng với các loại ngôn ngữ cổ khác.

“Nếu chúng ta có thể xây dựng được một công cụ vừa linh hoạt vừa có thể ứng dụng rộng rãi cho các hình thức chữ viết và thời đại khác nhau, đó sẽ trở thành bước ngoặt lớn trong giới nghiên cứu,” PGS. Susanne Paulus, chuyên gia Assyria học tại ĐH Chicago, nói.

Dự án DeepScribe được thai nghén khi Paulus, Sandra Schloen và Miller Prosser từ OI có cuộc gặp gỡ với phó giáo sư Sanjay Krishnan trong một sự kiện về nghiên cứu nhân văn số. Schloen và Prosser có vai trò quản lý OCHRE, một cơ sở dữ liệu trực tuyến của Viện tập hợp và sắp xếp tư liệu của các cuộc khai quật khảo cổ và các hoạt động nghiên cứu khác. Trong khi đó, Krishman nghiên cứu ứng dụng kỹ thuật AI và học sâu vào phân tích các hình thức dữ liệu phức tạp. Sự tương hợp giữa hai phía sau đó đã dọn đường cho khả năng hợp tác.

“Rất thú vị khi nhìn từ điểm nhìn thị giác máy tính (computer vision) vì đây là những thách thức mà tất cả chúng tôi cùng đối mặt. Ngành thị giác máy tính trong 5 năm qua đã tiến bộ vượt bậc; mà nếu 10 năm trước thôi chúng tôi sẽ không thể đạt được bước tiến như bây giờ.” PGS. TS Krishnan nói, “Đây là một vấn đề học máy rất hay, vì khi lấy chính xác làm mục tiêu, chúng tôi hưởng lợi từ việc có một bộ mẫu có hệ thống để luyện tập và có hiểu biết rất kỹ càng về [đối tượng nghiên cứu] là văn tự [hình nêm]. Vậy nên đây không phải là vấn đề chưa từng được biết đến.”

Bộ dữ liệu được dùng để huấn luyện cho AI được lấy từ kết quả nghiên cứu suốt 80 năm của các nhà khoa học Viện và ĐH Chicago, cũng như dự án gần đây nhằm số hóa bộ sưu tập văn bản đất sét bằng ảnh chụp có độ phân giải cao – với khối lượng hiện đã lên đến 60 terabyte và vẫn tiếp tục mở rộng – trước khi chúng được trả về Iran. Tận dụng bộ sưu tập này, các nhà khoa học đã biên soạn một từ điển tiếng Elamite viết trên các tấm sét, cũng như cho sinh viên hỗ trợ xây dựng một bộ dữ liệu gồm hơn 100 nghìn “điểm nóng” hay là các dấu hiệu riêng đã xác định.

Với những nguồn lực của Trung tâm Máy tính UChicago, Krishnan đã sử dụng dữ bộ dữ liệu này để huấn luyện một mô hình học máy mới tương tự như mô hình sử dụng ở các dự án thị giác máy tính khác. Khi thử nghiệm với các tấm sét không nằm trong bộ dữ liệu gốc, mô hình này có thể phiên dịch các ký tự hình nêm với độ chính xác lên đến 80%. Giai đoạn nghiên cứu tiếp theo sẽ xem xét vấn đề của 20% sai số để tìm cách nâng độ chính xác lên cao hơn nữa.

Nhưng hiện tại thì với độ chính xác 80%, mô hình này cũng có thể giúp ích rất nhiều cho việc đọc. Nội dung của nhiều tấm sét thực ra chỉ ghi chép hoạt động mua bán, giống như “một tập hóa đơn siêu thị vậy”, theo PGS.TS Paulus. Và trên thực tế thì một hệ không được bổ sung thêm vào “bộ não” của chúng thì hệ đó vẫn hữu dụng.

Cũng theo PGS. TS Paulus: “Nếu như máy tính có thể phiên dịch và xác định ra những đoạn thông tin lặp đi lặp lại và để lại cho các chuyên gia các đoạn phức tạp như tên địa danh, động từ, hay các từ cần giải nghĩa… thì cũng đã rất được việc rồi.”

“Còn nếu như máy tính không thể quyết định cách đọc văn bản, nó vẫn có thể gửi về cho chúng ta các phương án khả thi nhất hay xác suất – như vậy cũng là một khởi đầu tốt cho nhà nghiên cứu. Điều đó rất tuyệt vời.”

Tham vọng lớn hơn của nhóm là sẽ biến DeepScribe thành một công cụ đọc và phiên dịch đa năng mà họ có thể chia sẻ với các nhà khảo cổ khác. Ví dụ như mô hình hiện tại có thể được huấn luyện lại cho các ngôn ngữ sử dụng văn tự hình nêm khác ngoài tiếng Elamites; hoặc huấn luyện để tự động hoàn thiện các nội dung văn bản bị khuyết thiếu. Một mô hình học máy như vậy còn có thể giúp xác định niên đại hay nguồn gốc của tấm sét hay các hiện vật khác, vấn đề vốn trước nay phải dựa vào phân tích hóa học.

Các dự án tương tự do CDAC tài trợ đang sử dụng tiếp cận thị giác máy tính cho nhiều hướng ứng dụng khác nhau, trng đó có nghiên cứu đa dạng sinh học và nghiên cứu tác phẩm nghệ thuật. Những hợp tác trong dự án này cũng hy vọng sẽ truyền cảm hứng cho nhiều sự hợp tác trong tương lai, khi khảo cổ học kỹ thuật số ngày càng đến gần hơn các phương pháp tính toán tiên tiến.

Rob Mitchum (University of Chicago, ngày 11.3.2020.)

Tuấn Quang dịch

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 20.4.2020.

TTO - Gần đây khi đọc báo nghe đài, một từ 'lạ tai' đang xuất hiện với một tần số cao: thu dung.

20210816 2

Ảnh chụp tại một bệnh viện dã chiến thu dung điều trị bệnh nhân COVID-19 - Ảnh: TỰ TRUNG

"Bộ Y tế lên phương án thu dung điều trị bệnh nhân COVID - 19 tại Bắc Giang", "Trình Thủ tướng lập các cơ sở thu dung, điều trị ban đầu trước yêu cầu cấp bách phòng chống dịch", "Thành phố Hồ Chí Minh triển khai bệnh viện dã chiến thu dung điều trị COVID - 19"... Bà con cứ thắc mắc thu dung là gì? Đây từng là một từ thường dùng trong thời kỳ chiến tranh, nhất là ở miền Bắc. Những ai đã đi bộ đội Cụ Hồ đều không xa lạ gì đối với từ này.

Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam (Trung tâm Từ điển Bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng, NXB Quân Đội Nhân Dân, 1996): "Thu dung, toàn bộ các biện pháp đón nhận thương binh, bệnh binh, quân nhân lạc ngũ, rớt lại sau đội hình hành quân. (...) Các đội, trạm thu dung giúp đỡ những người được thu dung về y tế, vật chất, đưa trả họ về đơn vị hoặc đưa đến bệnh viện gần nhất" (trang 756). 

Có hai loại hình thu dung: một là các đội thu dung thường di chuyển phía cuối đội hình hành quân, hai là các trạm thu dung được bố trí tại vị trí nghỉ ngắn hoặc nghỉ dài của các tuyến đường hành quân.

Từ ngữ quân sự được sử dụng thời chiến, sau đó đi vào cuộc sống thường nhật cả trong thời bình. 

Đến nay, anh em cán bộ Đoàn vẫn hay nói, hay viết: điểm danh quân số, ngày hội quân chiến sĩ tình nguyện, chiến dịch 30 ngày đêm hoàn thành vượt mức kế hoạch... 

Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, NXB Hồng Đức, 2016) đã định nghĩa theo cách dùng thường ngày, ngắn gọn như sau: "Thu dung (động từ): đón nhận và cho ở". 

Thu dung theo nghĩa này cũng được Đào Duy Anh ghi nhận trong Hán Việt tự điển giản yếu (1932). Bạn đọc nào biết chữ Hán đều rõ: thu (收, bộ Phác) được dùng với nghĩa "lấy về / nhận về"; dung (容, bộ Miên) được dùng với ý nghĩa "chứa đựng /bao gồm". 

Như vậy, thu dung trong trường hợp này có nghĩa là tổ chức tiếp nhận và bố trí nơi ăn ở cho các bệnh nhân COVID - 19 để khám và điều trị cho họ.

Dung (容) còn một nghĩa nữa: hình dáng, gương mặt, diện mạo. Người Việt rất ưa dùng từ này để đặt tên: Mỹ Dung, Kim Dung, Ngọc Dung, Hạnh Dung, Phương Dung, Xuân Dung... Cho nên những ai được cha mẹ đặt tên là Thu Dung (秋容) thì yên tâm sẽ không bị ai kêu réo vì lý do cái tên riêng của mình: nghĩa ở đây rất lãng mạn - gương mặt mùa thu!

Duyên Trường

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 01.8.2021.

20200411

Quang cảnh Lễ thành lập Hội truyền bá Quốc ngữ 5-1938. Ảnh Bảo tàng Lịch sử Việt Nam

Trước khi chữ Quốc ngữ ra đời ở Việt Nam, người Việt sử dụng chữ Hán và chữ Nôm làm công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm và văn hóa. Chữ Hán là thứ chữ tượng hình, tượng ý thuộc loại khối chữ vuông, chữ Nôm là chữ Hán - Việt (dùng chữ Hán để biểu hiện âm Việt). Tuy nhiên, hai văn tự đều khó học, khó nhớ, khó tiếp cận đối với tầng lớp nhân dân lao động.

Năm 1938, Hội Truyền bá Quốc ngữ (TBQN) được thành lập. Trong 7 năm tồn tại và hoạt động (1938-1945), Hội TBQN đã góp phần xóa nạn mù chữ, bước đầu xây dựng một nền giáo dục bình dân, bãi bỏ những tệ nạn hủ tục, nâng cao dân trí, phổ biến chữ Quốc ngữ và đóng góp vào thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Những thành tựu mà Hội đạt được là không nhỏ đối với lịch sử dân tộc trong những năm tr­ước Cách mạng Tháng Tám 1945.

1. Chủ trương chống nạn mù chữ, thất học của Đảng Cộng sản Đông Dương và sự ra đời của Hội truyền bá Quốc ngữ

Cuối thế kỷ XIX, sau khi hoàn toàn chiếm đóng Việt Nam, thực dân Pháp thi hành chính sách “chia để trị”, dùng người Việt để trấn áp người Việt. Về mặt văn hóa, giáo dục, Pháp áp đặt chính sách ngu dân, hạn chế giáo dục, lừa bịp nhân dân Việt Nam để dễ dàng cai trị. Để thực hiện chủ trương trên, chính quyền thực dân một mặt hạn chế giáo dục, thu hẹp việc mở trường lớp đến mức tối thiểu và kiểm soát gắt gao. Điển hình như ở Trung Kỳ có 15 tỉnh, trên 5 triệu dân nhưng chỉ có 4 trường (2 ở Huế, 1 ở Vinh và 1 ở Quy Nhơn). Cả nước chỉ có 3 trường trung học ở thủ phủ 3 kỳ là Sài Gòn, Huế, Hà Nội[1].

Riêng về lĩnh vực giáo dục phổ thông, theo thống kê của Phủ Toàn quyền, năm 1939 toàn Việt Nam có 287.037 học sinh từ tiểu học đến cao đẳng, dạy nghề, chiếm 1,44% dân số[2].Trong cuốn “Hồi ký Thanh Nghị” của Vũ Đình Hòe: Năm 1940, số trẻ em đến tuổi đi học là 3,5 triệu, số học sinh ở cấp tiểu học cả trường công lẫn trường tư là 605.000 người, nghĩa là trong 100 đứa trẻ mới được non 18 đứa đi học.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, Chính cương vắn tắt của Đảng chỉ rõ mục tiêu cách mạng là làm tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, về phương diện xã hội, phải phổ thông giáo dục theo công nông hóa[3].

Thực hiện chủ trương của Đảng, cao trào cách mạng 1930-1931 đã diễn ra sôi nổi mạnh mẽ, với đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh. Chính quyền Xô Viết Nghệ Tĩnh sau khi được thành lập đã quyết định tổ chức các lớp dạy chữ Quốc ngữ, tổ chức các buổi đọc báo, giảng sách vào buổi trưa và ban đêm. Không khí học tập diễn ra sôi nổi khắp các xóm, làng:

“Lớp quốc ngữ, lối về chăm học

A, B, C...miệng đọc thanh thanh

Trông vào lớp mới như tranh

Sát vao ?đầu bạc, đầu xanh chung bài”[4]

 Tuy nhiên, sau khi thực dân Pháp tiến hành chính sách khủng bố trắng, đàn áp, dập tắt cao trào cách mạng 1930-1931 trên toàn lãnh thổ Việt Nam, các lớp học chữ Quốc ngữ cũng bị giải tán. Mặc dù vậy, tinh thần học chữ Quốc ngữ không hề suy giảm. Trong hầu hết các cuộc đấu tranh, biểu tình những năm tiếp theo, khẩu hiểu đòi mở lớp học chữ Quốc ngữ vẫn luôn xuất hiện. Các chiến sĩ cộng sản bị bắt giữ, cầm tù đã thực hiện khẩu hiệu “Biến nhà tù thành trường học cách mạng”. Trong thời gian bị giam cầm, các đảng viên đã tranh thủ thời gian để trau dồi, học tập văn hóa.

Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ 1936-1939, các quyền tự do dân chủ được nới lỏng, trong đó có quyền tự do báo chí. Một số tờ báo của Đảng được hoạt động công khai. Để các chủ trương, chính sách của Đảng đến được với đông đảo quần chúng nhân dân thì quần chúng nhân dân, đặc biệt là công nhân, nông dân, dân nghèo thành thị... phải biết chữ. Chính vì vậy, việc tổ chức các lớp dạy chữ Quốc ngữ lại càng trở nên cấp thiết. Trên nhiều tờ báo, khẩu hiệu chống nạn mù chữ được in rất to, đậm.

Từ sau phong trào Đông Dương Đại hội, nhiều lớp dạy chữ Quốc ngữ đã được mở, đa số thầy dạy đều không nhận lương. Nhu cầu học chữ Quốc ngữ ngày càng cao. Nhận thấy tầm quan trọng của việc diệt giặc dốt, chống nạn mù chữ. Đảng Cộng sản Đông Dương đã chủ trương xúc tiến thành lập “Hội truyền bá Quốc ngữ”.

Thực hiện chủ trương của Đảng, đồng chí Trần Huy Liệu đã gặp Phan Thanh[5] - một trí thức yêu nước, giáo viên trường tư thục Thăng Long, thành viên Hội Mở mang nền giáo dục tư thục để bàn bạc về việc thành lập hội. Nhóm giáo viên trường Thăng Long bao gồm: Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Hoàng Minh Giám,... đều nhiệt liệt hưởng ứng. Sau khi bàn bạc, thống nhất ý kiến, mọi người đã thống nhất mời cụ Nguyễn Văn Tố[6] - một học giả có uy tín ở Viễn Đông Bác Cổ, Hội trưởng Hội Trí tri tham gia.

Nguyễn Văn Tố - Hội trưởng đầu tiên của Hội truyền bá Quốc ngữ

Tại cuộc họp ở nhà Phan Thanh (số 165 đường Henri d’Orléans, nay là phố Phùng Hưng, Hà Nội) vào đầu năm 1938 do Trần Huy Liệu chủ trì, các nhân sĩ đã thống nhất cần thành lập một hội, ban đầu dự định là Hội chống nạn thất học, sau lấy tên là Hội Truyền bá học Quốc ngữ. Để Hội được công nhận và hoạt động dễ dàng, Hội đã cử Nguyễn Văn Tố lo việc xin phép chính quyền thực dân Pháp.

Theo đơn đề nghị của Nguyễn Văn Tố ngày 8-4-1938, ngày 29-7-1938, Hội Truyền bá học Quốc ngữ chính thức được thành lập theo Quyết định số 3622-A của Thống sứ Bắc Kỳ[7]. Hội hoạt động theo quy định tại Sắc lệnh ngày 21-2-1933 về các hội phi tôn giáo ở Đông Dương. Trụ sở đặt tại số 59 phố Hàng Quạt, Hà Nội. Hội được thành lập với mục đích dạy cho người Việt biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ để có thể tiếp cận những điều thường thức trong sinh hoạt hàng ngày.

Mọi hoạt động của Hội đều bị Sở Mật thám Bắc Kỳ theo dõi sát sao. Chính quyền Pháp nghi ngờ đây là một hội của những người theo chủ nghĩa Xta-lin không có lợi đối với chính sách của Pháp thời kì đó. Vì vậy, hầu hết các thành viên của Hội, đặc biệt là một số chí sĩ cách mạng, nhà yêu nước như Đặng Xuân Khu, Đặng Thai Mai, Chu Văn Tập, Võ Nguyên Giáp, Ngô Thúc Địch đều nằm trong danh sách theo dõi của mật thám Pháp… Tuy vậy, Hội vẫn tổ chức rất nhiều hoạt động rầm rộ để tuyên truyền cho việc học chữ Quốc ngữ, đồng thời tuyên truyền tư tưởng cách mạng.

Ngay sau khi Hội chính thức được thành lập, tháng 8-1938, thông qua Nghị quyết của toàn thể đại biểu hội nghị của Đảng bộ Bắc Kỳ, Đảng đã chủ trương: “Giao thiệp với các nhà trí thức và tai mắt đề nghị lập ra các chi nhánh của Hội TBQN, đi quyên tiền, cổ động hội viên, mượn các đình chùa, các trường học… để tổ chức các lớp dạy học và diễn thuyết… Chú ý nên dựa vào điều lệ của Hội đã được chuẩn y mà hoạt động, tránh để nhà cầm quyền can thiệp gây khó khăn cho Hội”.[8]

Về hoạt động, Hội chủ trương mở lớp học bao gồm hai cấp: Cấp sơ đẳng (dạy cho học viên biết đọc, viết chữ Quốc ngữ và làm được hai phép tính đơn giản là cộng và trừ); Cấp Cao đẳng (dạy cho học sinh đọc thông viết thạo chữ Quốc ngữ và biết làm 4 phép tính cộng, trừ, nhân, chia và một vài điều thường thức. Hội quy định, những người đã biết chữ có trách nhiệm dạy lại những người chưa biết.

Công việc nặng nề nhất của Hội là tổ chức các lớp học. Ngoài ra, Hội cũng tổ chức những buổi diễn thuyết với mục đích cổ động cho phong trào và phổ biến kiến thức trong đời sống sinh hoạt cho nhân dân.

Nhằm phục vụ cho chương trình hoạt động trên, Hội chủ trương biên soạn và cho xuất bản sách giáo khoa, tài liệu tham khảo về địa lý, lịch sử, vệ sinh, khoa học thường thức…. Ngoài ra, Hội cũng phải xúc tiến thành lập thư viện gồm hai loại thư viện cố định có thể mượn đọc tại chỗ và thư viện lưu động để phục vụ đọc ở các lớp học nơi đông người.

Về tổ chức: Theo điều lệ Hội, việc tổ chức các lớp học, các buổi hội thảo không chỉ ở Hà Nội mà còn ở các tỉnh. Thành viên của Hội gồm tất cả các cá nhân mọi quốc tịch, không phân biệt giới tính, không hạn chế số lượng. Mọi hoạt động của Hội đều do Ban Trị sự điều hành và chỉ đạo. Thành viên Ban Trị sự Hội năm 1938 gồm: Nguyễn Văn Tố (Hội trưởng); Bùi Kỷ và Tôn Thất Bình (Hội phó); Phan Thanh (thư ký), Phạm Hữu Chương và Quản Xuân Nam (phó thư ký), Đặng Thai Mai (thủ quỹ), Nguyễn Văn Lô và Võ Nguyên Giáp (phó thủ quỹ); các cố vấn Nguyễn Văn Huyên, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn và  Lê Thước[9]. Giúp việc cho Ban Trị sự có các ban chuyên môn: Cổ động, Khánh tiết, Tu thư, Dạy học và Thanh tra.

Hội TBQN không trông chờ vào sự trợ cấp của chính quyền thực dân mà dựa vào những đóng góp tự nguyện của hội viên. Đến năm 1942, số lượng hội viên đã lên đến 7.500, trong đó có khoảng 4.000 hội viên đóng hội phí đều. Tuy nhiên, số tiền hội phí thu được không thể đủ chi cho các hoạt động của Hội. Do đó, Hội phải dựa vào sự ủng hộ của các nhà hảo tâm và tiền thu được từ các buổi chiếu bóng, từ việc phát hành vé số,...

2. Hội truyền bá Quốc ngữ với công cuộc chống nạn mù chữ ở Việt Nam (1938-1945)

Trong suốt 7 năm hoạt động (1938-1945), dưới danh nghĩa là một hội văn hóa giáo dục nhưng thực chất là một tổ chức chính trị có sự tham gia của nhiều nhà chính trị, Hội TBQN đã đóng góp rất lớn cho công cuộc chống nạn mù chữ của Đảng và cách mạng ở Việt Nam, thông qua đó đã giúp tuyên truyền giáo dục, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí đấu tranh trong toàn thể quần chúng nhân dân lao động.

Những đóng góp của Hội truyền bá Quốc ngữ đối với công cuộc chống nạn mù chữ chính là kết quả đạt được trong ba giai đoạn hoạt động của Hội:

a, Giai đoạn 1: 8/1938-9/1940

 Giai đoạn này, dù hoạt động bị kìm hãm trong phạm vi hẹp, song Hội TBQN vẫn đạt được những thành tựu quan trọng đối với công cuộc chống nạn mù chữ.

Hội đã biên soạn thành công sách giáo khoa“Vần Quốc ngữ ”, gồm hai phần: Phần một hướng dẫn cho giáo viên phương pháp dạy vỡ lòng chữ Quốc ngữ theo cách mới do Hội sáng tạo ra; phần hai dạy tập vần vỡ lòng dành cho học viên. Phương pháp mới của Hội được áp dụng là “phương pháp đọc lên thành tiếng” thay cho phương pháp cũ là “đánh vần từng chữ”. Với phương pháp mới dễ học, dễ nhớ, số lượng lớp học và các học viên không ngừng được mở rộng thêm về cả số lượng và chất lượng dạy và học.

Khóa học đầu tiên khai giảng ngày 9-9-1938 tại trường Thăng Long và Trí tri đã thu hút hơn 800 học viên với 30 giáo viên. Khóa thứ hai khai giảng ngày 10-3-1939 ở 4 khu trường là Thăng Long, Trí tri, trường tư thục Nguyễn Vạn Tòng và 1 khu ở bãi Phúc Xá với số học viên tăng lên 1.000 người và 45 giáo viên. Khóa ba khai giảng 10-9-1939 tại 9 khu trường với 1.200 học viên, 60 giáo viên. Khóa bốn khai giảng ngày 4-3-1940 với số học viên xấp xỉ khóa trước[10].

Như vậy, giai đoạn này, Hội đã tổ chức được 4 khóa học, bước đầu xóa mù chữ cho hơn 4.000 học viên, bước đầu tạo được ảnh hưởng tốt về Hội trong nhân dân, góp phần thúc đẩy tinh thần say mê cống hiến của các hội viên cho các hoạt động truyên truyền, mở rộng Hội TBQN. Số hội viên tham gia Hội ngày càng đông. Số hội viên tham gia trực tiếp các ban chuyên môn cũng ngày càng nhiều, đặc biệt là Ban Dạy học. Sau các khóa, một số học viên đọc thông, viết thạo đã tình nguyện xung phong đi dạy cho Hội.

Với những đóng góp và sức ảnh hưởng của phong trào chống nạn mù chữ do Hội TBQN tạo ra, ngày 5-01-1939, Hội TBQN Trung Kỳ đã chính thức được thành lập tại Huế.

b, Giai đoạn 2: 10/1940-7/1944

 Hội đưa yêu sách đòi chính quyền thực dân nới rộng phạm vi hoạt động, cho phép mở thêm trường, lớp ở ngoại thành Hà Nội và các tỉnh lân cận. Đến khóa học thứ năm (11/1940), Hội đã mở thêm nhiều khu trường, lớp học mới. Năm 1942, Hội còn thành lập được chi nhánh tại các tỉnh: Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên…

Ở giai đoạn này, Hội đã được củng cố về cả tổ chức lẫn hoạt động, đặc biệt là việc biên soạn sách giáo khoa, xây dựng chương trình học cụ thể hơn. Ngoài sách “Vần Quốc ngữ” và “Tập đọc”, Ban Dạy học còn biên soạn thêm chương trình cho lớp Cao đẳng, biên soạn một số cuốn sách thường thức: “Truyện bác Hai Bền”, “Vệ sinh thường thức”.

Đặc biệt, một sự kiện quan trọng đánh dấu bước tiến mới của Hội Truyền bá Quốc ngữ là Hội nghị Giáo khoa toàn quốc diễn ra trong hai ngày 29 và 30-7-1944. Hội nghị diễn ra nhằm mục đích trao đổi kinh nghiệm và sáng kiến về tổ chức và chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng, nâng cao tinh thần phấn đấu và thắt chặt tinh thần đoàn kết giữa các hội viên của Hội Truyền bá Quốc ngữ. Hội nghị Giáo khoa toàn quốc của Hội đã đánh dấu bước nhảy vọt về cả chất lượng giảng dạy, tinh thần dạy học cho quần chúng nhân dân mù chữ nghèo khó cũng như kinh nghiệm trong công tác tổ chức trường lớp, vận động học viên đi học, giáo viên đi dạy.

Trong giai đoạn 2, Hội TBQN đã đẩy mạnh hoạt động trên nhiều mặt, mở rộng phạm vi ra nhiều tỉnh lân cận Hà Nội, mở rộng chi nhánh tại Trung Kỳ và ảnh hưởng đến các tỉnh Nam Kỳ. Tại Hà Nội, tính đến tháng 9-1943, số người theo học các lớp đã lên đến con số 23.000 người. So với khóa 4, số khu trường tăng từ 9 lên 35 khu, số giáo viên tăng từ 70 lên 245 người; số học viên tăng từ 1.100 lên 3.000 người[11]. Từ khóa 5, Hội đã mở được một số lớp cao đẳng, bổ túc thêm cho những người đã biết chữ. Hội đã thành lập thêm được 11 chi hội mới ngoài Hà Nội, Hải Phòng và Việt Trì.

Tính đến tháng 7-1944, riêng Hội TBQN Bắc Kỳ đã mở được 820 lớp học, có 2.908 giáo viên và 41.118 học viên biết đọc và biết viết chữ Quốc ngữ; tại Trung Kỳ, tính đến tháng 9-1944, số học viên biết đọc, biết viết là 9458 người[12]. Tại Nam Kỳ, tuy Hội TBQN chưa được thành lập nhưng trên thực tế đã có một số lớp học dạy chữ cho nhân dân lao động theo phương pháp của Hội TBQN.

c, Giai đoạn 3: 8/1944 - 8/1945

Đây là thời kỳ cao trào của Hội TBQN. Hội đã tiếp tục mở thêm nhiều trường lớp tại các vùng nông thôn, tăng cường liên hệ với các tỉnh để lập thêm nhiều chi nhánh mới, góp phần đẩy mạnh công cuộc chống nạn mù chữ, đồng thời phục vụ sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc.

Cụ Nguyễn Văn Tố (áo dài trắng, thứ hai từ trái sang) dự lễ khai mạc lớp huấn luyện cán bộ bình dân học vụ tại Hà Nội, ngày 8/10/1945. Ảnh: TL

Bên cạnh việc dạy học, Hội còn tổ chức các cuộc tuyên truyền, nói chuyện về ý nghĩa của việc thành lập Hội cho đông đảo quần chúng nhân dân hiểu rõ và nhận thức sâu sắc về việc cần thiết phải tham gia công cuộc chống nạn mù chữ.

Ngày 18-8-1944, Hội TBQN Nam Kỳ đã được thành lập. Như vậy, phong trào TBQN đã phát triển mạnh mẽ, rộng khắp trên khắp ba kỳ, từ thành thị đến các vùng nông thôn[13].

Như vậy, sau hơn 7 năm hoạt động, Hội TBQN đã mở được 14 khóa học, giúp cho hơn 7 vạn người biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ (trong đó, hơn 1 vạn người đọc thông, viết thạo và biết làm bốn phép tính phổ thông là cộng, trừ, nhân, chia), nắm được những tri thức phổ thông tối thiểu. Hội đã góp phần khơi dậy, hun đúc tinh thần hiếu học của toàn thể nhân dân, làm dấy lên phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ sâu, rộng nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam.

Hội TBQN cũng đặt cơ sở và làm nền tảng cho phong trào diệt giặc dốt, bình dân học vụ do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Những đóng góp của Hội đã thực sự tạo nên một cuộc cải cách về văn hóa giáo dục ở Việt Nam trước năm 1945 và chính phong trào do Hội phát động là điểm kết thúc của cuộc cách mạng chữ viết ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Kết luận

Có thể nói Hội TBQNlà tổ chức truyền bá chữ Quốc ngữ rộng rãi, quy củ và có tổ chức nhất trong thời kỳ cận đại với mục đích dạy cho quần chúng nhân dân biết đọc, biết viết chữ Quốc ngữ.

Trong suốt 7 năm hoạt động, Hội TBQN đã có những đóng góp quan trọng đối với công cuộc chống nạn mù chữ ở Việt Nam trước năm 1945. Hội TBQNđã tổ chức được một phong trào học tập sôi nổi, rộng khắp trong nhân dân. Hội biết cách khơi dậy lòng nhiệt huyết của quần chúng, nhất là lòng yêu nước, sự tự hào dân tộc về truyền thống hiếu học vốn đã có trong mỗi con ng­ười Việt Nam; khơi dậy truyền thống hiếu học của nhân dângắn liền với lòng nhiệt huyết, sự hy sinh của các nhà trí thức.

 

            Tài liệu tham khảo

  1. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Văn kiện Đảng từ 10-8-1935 đến 1939, Nxb Hà Nội, 1964
  2. Nguyễn Ái Quốc, Bản án chế độ thực dân Pháp, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1976
  3. Báo Đông Pháp số ra ngày 9-10-1944
  4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập tập 2 (1930), Nxb Chính trị Quốc gia, 1999
  5. Kỷ yếu Nha học chính Đông Dương, tháng 4/1938
  6. Hồ Chí Minh, Nguyễn Lương Bằng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Văn Tiến Dũng, Nhân dân ta rất anh hùng, Nxb Văn học, Hà Nội, 1960.
  7. Võ Thuần Nho, 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông, Nxb Giáo dục Hà Nội, Hà Nội, 1996
  8. Lê Văn Phong, Hoạt động của Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 năm 2014
  9. Phạm Như Thơm, Tầng lớp trí thức tân học với việc phổ biến chữ Quốc ngữ thời cận đại, Đề tài cấp cơ sở năm 2017, Viện Sử học
  10. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Phông MHN-2865, MHN-2865-02
  11. Tuần báo Đông Dương, số 77 ra ngày 19 tháng 2 năm 1942
  12.  Xô Viết Nghệ Tĩnh diễn ca, Nxb Phổ thông

 

Trương Thị Phương

*ThS. Viện Sử học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 05.04.2020.


 

[1]Võ Thuần Nho, 35 năm phát triển sự nghiệp giáo dục phổ thông, Nxb Giáo dục Hà Nội, Hà Nội, 1996, tr,8

[2]Kỷ yếu Nha học chính Đông Dương, tháng 4/1938, tr.267

[3]Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập tập 2 (1930), Nxb Chính trị Quốc gia, 1999, tr.05

[4]Xô Viết Nghệ Tĩnh diễn ca, Nxb Phổ thông, tr.17

[5]Phan Thanh (1908-1939) quê ở làng Bảo An, Huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông là một trong những người sáng lập Hội TBQN. Ông cũng là người hoạt động tích cực trong phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

[6]Nguyễn Văn Tố, hiệu Ứng Hòe (1889-1947), sinh ra trong một gia đình nhà Nho ở Hà Nội. Tốt nghiệp trường Thông ngôn và làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ, chuyên nghiên cứu và viết các vấn đề văn học, lịch sử. Ông cũng tham gia dạy ở các trường tư thục. Năm 1938, tham gia sang lập Hội TBQN.

[7]Tuần báo Đông Dương, số 77 ra ngày 19 tháng 2 năm 1942

[8]Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng, Văn kiện Đảng từ 10-8-1935 đến 1939, Nxb Hà Nội, 1964, tr.306

[9]Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, Phông MHN-2865

[10]Phạm Như Thơm, Tầng lớp trí thức tân học với việc phổ biến chữ Quốc ngữ thời cận đại, Đề tài cấp cơ sở năm 2017, Viện Sử học, tr.73-74

[11]Lê Văn Phong, Hoạt động của Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 năm 2014, tr.93

[12]Báo Đông Pháp số ra ngày 9-10-1944

[13]Lê Văn Phong, Hoạt động của Hội truyền bá Quốc ngữ (1938-1945), Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5 năm 2014, tr.94

 

 

Thông tin truy cập

63679449
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
23167
17595
63679449

Thành viên trực tuyến

Đang có 192 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website