Nguyễn Văn Hoài([*])–

Nguyễn Phương Uyên ([†])

Thi văn ông Bùi Hữu Nghĩa để lại, người sau ra công sưu tầm cũng chưa thấy được là bao. Ngoài bổn tuồng hát bội “KIM THẠCH KỲ DUYÊN” ra, ta chỉ còn thấy được vài bài văn tế, độ mươi ngoài bài thơ luật Đường và năm ba câu đối thôi. Nhưng nếu lấy phẩm mà thay vào lượng, thì chỉ một bổn tuồng hát bội “KIM THẠCH KỲ DUYÊN” cũng đủ làm cho người Việt-Nam, – nhứt là trong miền Nam này –, không bao giờ quên tên ông Thủ khoa BÙI HỮUNGHĨA(1).

Thành phố Sa Đéc hiện có trên dưới 48 cơ sở thờ tự (đình, chùa, miếu, nhà thờ họ,…) và trong đó không ít những ngôi chùa, đình có niên đại trên 100 tuổi (chùa Phước Hưng xây dựng vào 1838 tính đến nay 177 năm, chùa Quảng Phước xây dựng vào 1858, tuổi thọ cũng gần 160 năm, đình Tân Quy Tây thờ vị thần hoàng khai khẩn đất đai Võ Ngọc Minh được xây dựng vào năm 1812, hơn 200 tuổi…). Bài viết của chúng tôi tập trung giới thiệu 3 trong số quần thể di tích chùa, đình cổ ở đây với số lượng văn bản Hán Nôm  vượt trội, cũng như lịch sử lâu đời: Chùa cổ Phước Hưng, chùa Bà Thiên Hậu của công đồng người Hoa và đình Vĩnh Phước.

Thể thơ ca vốn thiên trọng về loại văn trữ tình. Sự phân định như thế: người sáng tác cổ đại chưa dễ chấp nhận. Vì vậy, nhân loại mới có những thiên trường ca, sử thi bất hủ. Thế nhưng các tác giả truyện thơ Nôm thế kỷ XVIII – XIX không thể sáng tạo những trường ca, sử thi. Họ sử dụng thể thơ để sáng tác loại truyện, khá gần gũi với truyện hiện đại. Họ là người của thời trung và cận đại. Họ buộc phải có cách thế xử lý đặc thù, trong một phương thức tiếp biến văn hóa đặc thù của dân tộc Việt, một dân tộc ngồn ngộn sức sống vươn lên tự chủ, mà cơ tầng văn hóa điểm tựa của họ vốn rất mong manh, so với văn hóa ngoại lai phương Bắc và với văn hóa bản địa cộng đồng già cỗi.


Nguyễn Văn Sâm(*)

TÓM TẮT

Cuốn Tỉnh mê một cõi không phải là một quyển kinh Phật, nó là một hóa thân của kinh điển để đến thật gần với chúng sanh: Giải thích Phật đạo bằng tín ngưỡng bình dân, diễn tả những huyền nhiệm của sự tu hành và vai trò của người tu bằng hình ảnh sống động. Nó cũng không phải là truyện thơ bình thường nói chuyện phong tình, mua vui, mua cười, chấp chảnh góp nhặt lời quê. Nó khác xa với văn chương của người đời, kể cả Truyện Kiều. Nó đứng trung gian giữ đạo và đời. Ở mặt nào cũng làm tròn vai trò mà những người góp phần tạo ra nó đã định trước.

(Nguyễn Khuê, tham luận Hội thảo Nghiên cứu Hán Nôm và nghiên cứu văn hoá Việt Nam,

hội thảo nhân dịp GS. Bửu Cầm 90 tuổi, tháng 3.2009)

Nghiên cứu Hán Nôm có một vai trò rất quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá dân tộc, điều đó ai cũng thừa nhận. Nhưng đối tượng của nghiên cứu Hán Nôm là gì? Vai trò của việc nghiên cứu Hán Nôm quan trọng như thế nào trong việc bảo tồn và phát huy di sản văn hoá Việt Nam? Nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hoá Việt Nam có gì khác biệt với nghiên cứu văn hoá dân gian, nghiên cứu báo chí và văn học quốc ngữ? Đó là những vấn đề tôi muốn đặt ra và, trong một chừng mực nhất định, cố gắng làm sáng tỏ vấn đề theo cách nhìn và sự hiểu biết của tôi. Những ý kiến của tôi là những gợi ý để mời gọi các nhà nghiên cứu tham dự cuộc hội thảo khoa học này phát biểu thêm nhằm đi tới cái nhìn chung, tiếng nói chung bao quát và đầy đủ hơn về vai trò và ý nghĩa của nghiên cứu Hán Nôm đối với việc nghiên cứu văn hoá Việt Nam.

Tóm tắt. So với nhóm truyện thơ Nôm được vay mượn từ văn học thông tục Trung Quốc thì mảng truyện thơ Nôm có nguồn gốc bản địa Việt Nam có những nét khác biệt khá rõ. Một trong những nét khác biệt đáng lưu ý đó là những yếu tố văn hóa tâm linh hiện diện trong tác phẩm. Phật giáo và tín ngưỡng dân gian là những yếu tố tham gia mật thiết vào cốt truyện, cấu trúc tác phẩm của mảng truyện thơ Nôm này. Trên cơ sở khảo sát tác phẩm, tham luận thử tìm hiểu những yếu tố này có vai trò như thế nào đối với thi pháp thể loại của mảng truyện thơ Nôm nói trên.

(Huỳnh Minh Đức, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

 

(Nguồn: Google) 

Việt Nam là nước văn hiến. Trong nền giáo dục xưa, ông cha chúng ta đã bằng tấc lòng vàng để lại câu “Tiên học lễ, hậu học văn”.

Câu nói này do ai nói, có từ lúc nào chúng ta không thể biết, chỉ biết rằng hiện nay, thời của thập niên cuối thế kỷ 20, trên báo chí cũng như trên các vách của lớp học Việt Nam đều treo đầy khẩu hiệu trên. Nhưng, tình hình học trò mất đạo đức, học trò đánh thầy, con đánh cha mẹ, luân lý gia đình, xã hội xuống dốc và đang thách thức khẩu hiệu này với thời gian…

Trên Tạp chí Hán Nôm số 1-1999, chúng tôi đã giới thiệu sách Hán Nôm Việt Nam tại 4 tàng thư lớn của Nhật Bản, gồm Đông Dương văn khố, Quốc lập Quốc hội đồ Thư quán, Thư viện Đại học Khánh Ứng, và Thư viện Nghiên cứu văn hóa Đông Dương thuộc Đại học Tokyo. Ở cuối bài viết lần đó, chúng tôi có chú thích: “Riêng thư viện Đại học Khánh Ứng hãy còn một số sách do E. Gaspardone hiến tặng, đang chờ kiểm kê, chúng tôi chưa có điều kiện tìm hiểu và giới thiệu với bạn đọc trong dịp này”(1).

 (Bửu Cầm, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa Văn học và Ngôn ngữ)

I. Nguồn gốc Kinh Thi

Kinh Thi là một bộ sách gồm có những câu ca dao rất cổ của Trung Hoa. Ngày xưa, Thiên tử cứ năm năm đi tuần thú một lần và ra lệnh cho quan Thái sư hiến dâng ca dao để xem phong tục của dân. Thiên Nghệ văn chí trong Hán thư có chép: "Cổ hữu thái thi chi quan, vương giả sở dĩ quan phong tục, tri đắc thất." (nghĩa là: Xưa có chức quan phụ trách việc đi nhặt ca dao; bậc vương giả lấy đó mà xem xét phong tục, biết được sự đắc thất về chính trị).

(Nguyễn Văn Hoài,  Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

1. Về việc phân loại truyện thơ Nôm

Kho tàng truyện thơ Nôm Việt Nam hết sức phong phú về số lượng tác phẩm và cũng khá phồn tạp về mặt chủng loại. Trong chuyên luận Truyện Nôm - lịch sử phát triển và thi pháp thể loại, nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch thống kê được 120 tác phẩm truyện thơ Nôm(1). Đây chỉ là con số tương đối, bởi một số tác phẩm vẫn còn lưu giữ trong dân gian hoặc lưu trữ trong các thư viện trong nước, ngoài nước mà tác giả chưa tiếp cận được, và trong đó vẫn còn lẫn vào một số tác phẩm là diễn ca hoặc tuồng(2).

Bài thơ “Nam quốc sơn hà” (NQSH) tuy vẻn vẹn có 4 câu, mỗi câu 7 chữ nhưng trước nay vẫn được nhiều người đánh giá cao và xem như là một tài liệu quan trọng để tìm hiểu chủ nghĩa yêu nước, khí phách anh hùng của dân tộc Việt Nam sau khi khôi phục nền độc lập tự chủ.

Nguyễn Cư Trinh 阮居貞 (1716-1767) tự là Nghi, hiệu là Đạm Am, danh tướng và cũng là danh sĩ thời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) và Định vương Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777). Với tài năng về chính trị, quân sự, Nguyễn Cư Trinh đã lập công lớn trong việc: ổn định nội chính, củng cố quốc phòng, trừ nội loạn, dẹp ngoại xâm, khai cương mở cõi. Sau khi mất, Nguyễn Cư Trinh được truy tặng Tá lý công thần, Vinh Lộc Đại phu, thụy Văn Định. Đến đời Minh Mạng, ông lại được truy tặng Khai quốc công thần, Hiệp biện Đại học sĩ, truy phong tước Tân Minh hầu, đổi tên thụy là Văn Khác, được tòng tự ở Thái miếu(1).

Nguyễn Văn Sâm phiên âm và giới thiệu 2015.

 

Thúy Kiều, dầu là nhân vật thiệt sự ngoài đời, được Thanh Tâm Tài Nhân cấu tạo thành nhân vật tiểu thuyết, đối với người Việt Nam nói chung hay đối với người đọc Đoạn Trường Tân Thanh nói riêng cũng chỉ là một nhân vật tiểu thuyết. Do đó những gì người ta viết thêm về Kiều - hay những nhân vật trong Đoạn Trường Tân Thanh - đều chỉ là hình thức bày tỏ lòng cảm phục Nguyễn Du qua sự lân mẫn hay oán ghét nhân vật của ông mà thôi… (Thúy Kiều Án chẳng hạn)

Việc tổng kết trong đó có phân kỳ văn học Hán Nôm Việt Nam không phải là chuyện gì mới, nhưng đến nay công việc này vẫn chưa được tiến hành một cách triệt để nên kết quả vẫn chưa đạt tới mức độ chính xác và hợp lý cần có. Chẳng hạn một số công trình, giáo trình văn học sử vẫn gọi chung văn học viết Việt Nam thời gian 1778 – 1802 là văn học thời Tây Sơn hay văn học Tây Sơn, nhưng ở Đàng Trong cũ nói chung hay Nam Bộ nói riêng thì lại có chính quyền Nguyễn Ánh ra sức phản kích và một dòng văn học chống Tây Sơn khá thuần nhất. Hay trước nay văn học Hán Nôm Việt Nam từ 1858 trở đi chủ yếu chỉ được tìm hiểu trên cơ sở các tác giả và tác phẩm yêu nước chống Pháp và chỉ đến khoảng đầu thế kỷ XX, nên sau khi triều đình nhà Nguyễn chấm dứt nền khoa cử Hán học từ 1919 thì gần như mặc nhiên được coi là đã chấm dứt, mặc dù thực tế cho thấy nó vẫn kéo dài đến Cách mạng Tháng Tám 1945. Hạn chế về quan niệm và phương pháp nghiên cứu trước tháng 4. 1975 đã đưa tới tình hình nói trên, nhưng việc tổng kết trong đó có phân kỳ văn học không toàn diện và chính xác như vậy tới lượt nó lại hạn chế việc nghiên cứu văn học Hán Nôm Việt Nam trên nhiều phương diện. Việc phân kỳ văn học Hán Nôm Việt Nam mà đặc biệt là từ thế kỷ XVIII trở đi do đó là vấn đề cần được đặt ra.

Hoàn cảnh xã hội, môi trường văn hoá bản địa và phiên dịch quan hệ với nhau vô cùng mật thiết. Phiên dịch là loại hình giao lưu văn hoá vượt ngoài ranh giới quốc gia, vì thế nó là hành vi giao tiếp văn hoá mang tính liên quốc gia, là hoạt động truyền bá liên văn hoá và cũng là nhịp cầu giao lưu văn hoá giữa các quốc gia.

039
Bành Hàng là cháu nội Bình sự Nghi Dương Bành Huy Quân, lên kinh ứng thí không đậu, ở lại học tiếp chờ khoa sau, gởi cho vợ là nàng họ Trương một bài thơ rằng:

Mạc nhạ Tương Như hiến phú trì,
Cẩm thư thùy đạo lệ triêm y.
Bất tu hóa tác sơn đầu thạch,
Đãi ngã Đông đường chiết quế chi.

(Đoàn Ánh Loan, In trong " Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Trong tiến trình phát triển của dân tộc, mỗi một thời đại được lưu dấu bởi sự kiện lịch sử và nhân vật nổi bật gắn liền với sự kiện ấy. Chẳng hạn, khi nói đến lịch sử đấu tranh chống quân Tống xâm lược (đặc thù lịch sử của dân tộc Việt) vào đời Lý, người ta thường nhắc đến Lý Thường Kiệt và bài thơ bất hủ Nam quốc sơn hà. Hay khi nói về Đại vương Trần Hưng Đạo, người ta thường liên tưởng đến chiến thắng chống quân Nguyên cùng bài Hịch tướng sĩ một thời vang danh v.v… Mỗi một anh hùng dân tộc là hình ảnh, là tiếng nói đại diện cho cả dân tộc thời đại đó. Điều này dễ thấy, dễ biết. Nhưng ít ai để ý đến nền tảng để làm nổi bật những dấu mốc sự kiện và nhân vật lịch sử chính là tinh thần, tình cảm, nguyện vọng của người dân xuyên suốt quá trình lịch sử. Nếu mỗi nhân vật lịch sử là phát ngôn cho mỗi thời đại, các tác phẩm cụ thể của họ để lại là phát ngôn cho cá nhân anh hùng ấy, thì sự thể hiện tinh thần, tình cảm và nguyện vọng của người dân được phát biểu qua một thể loại đặc biệt: câu đối trong các chùa, đình, đền, miếu. Thật vậy, câu đối chính là tiếng lòng của người dân Việt.

Xuân nhật tức sự là một bài thơ hay, được các thi tuyển xưa chép vào phần thơ của Huyền Quang (1), do đó được nhiều người dẫn và bình luận (2). Có điều trong thơ văn chữ Hán của nước ta, đặc biệt trong thơ văn chữ Hán của các nhà sư Việt Nam có lẫn rất nhiều bài thơ của Trung Quốc. Chẳng hạn, trong số 40 bài thơ do Lê Quý Đôn chép lại trong Kiến Văn Tiểu Lục và nói là của Thiền sư Hương Hải, thì có đến 32 bài là của tác giả Trung Quốc đời Tống (3) mà ta có thể tìm lại trong các sách Trung Quốc hiện còn. Trường hợp Chân Nguyên cũng thế (4). Thậm chí những tác giả sống gần thời với ta như Viên Thành (1879-1928) cũng có những bài thơ chữ Hán của Trung Quốc chép trong thi tập của mình, mà những người sau do thiếu cẩn thận đã cho là của chính Viên Thành (5). Vậy Xuân nhật tức sự có ở trong trường hợp nhầm lẫn, gán ghép đó không?

Thông tin truy cập

60758542
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2712
10454
60758542

Thành viên trực tuyến

Đang có 196 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website