20201106 6

Ảnh: Chùa Yên Phú (huyện Thanh Trì, Hà Nội)

Sau khi nhà Triệu mất ngôi, nước Nam Việt đổi thành Giao Chỉ và được chia thành quận, huyện đặt dưới nền cai trị của các quan lại nhà Hán. Khi Thái thú Tô Định vâng mệnh vua Hán sang làm Thái thú quận Giao Chỉ đã thi hành chính sách hà khắc, bạo ngược nên lòng dân oán hận... Hai chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị đã dấy binh khởi nghĩa (40-43 SCN). Cuộc khởi nghĩa này lan rộng, nhân dân bốn quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Hợp Phố hưởng ứng và hết lòng ủng hộ..., nên rất nhanh chóng đập tan bộ máy thống trị của đế chế Hán ở phương Nam.

Theo thần tích ở đền Hát Môn (nay là xã Hát Môn huyện Phúc Thọ, Hà Nội) và thần phả các làng thờ các tướng lĩnh của Hai Bà thì Hai Bà Trưng đã gieo mình xuống Hát Giang, hoá thân vào cõi vĩnh hằng, hôm đó nhằm ngày mùng 6 tháng 3 năm Quý Mão (năm 43 SCN). Cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng lãnh đạo không chỉ lan tỏa từ Mê Linh ra một vùng không gian văn hoá xã hội rộng lớn mà còn là: "... kết tinh của cả một quá trình đấu tranh, khi âm thầm, khi công khai của nhân dân Việt Nam. Đây là một phong trào nổi dậy của toàn dân vừa quy tụ vào cuộc khởi nghĩa do Hai Bà Trưng đề xướng, vừa tỏa rộng trên toàn miền Âu Lạc cũ. Khởi nghĩa đã thắng lợi vì đó là một phong trào có tính chất quần chúng rộng rãi chứ không phải là một hành động tự phát của một tù trưởng, một bộ lạc riêng lẻ"(1).

Sau khi Hai Bà mất, bên cạnh chính sử viết về cuộc khởi nghĩa còn có rất nhiều truyền thuyết dân gian về Hai Bà và các bộ tướng của Bà. Mà thể loại truyền thuyết vốn là "một câu chuyện nói đi nói lại mà không được ghi trong sử sách, nó thường mang nhiều yếu tố thần kỳ"(2). Ngay trong chính sử, Sử gia Ngô Sỹ Liên khi viết về Hai Bà cũng mang những yếu tố này: "Họ Trưng giận thái thú nhà Hán bạo ngược, vung tay hô một tiếng mà quốc thống nước ta cơ hồ được khôi phục, khí khái anh hùng há chỉ lúc sống dựng nước xưng vương, mà sau khi chết còn có thể chống ngăn tai họa. Phàm gặp những việc tai ương hạn lụt, đến cầu đảo không việc gì là không linh ứng. Cả Bà Trưng em cũng thế. Vì là đàn bà mà có đức hạnh kẻ sĩ, cái khí hùng dũng trong khoảng trời đất không vì thân chết mà kém đi. Bọn đại trượng phu há chẳng nên nuôi lấy cái khí phách cương trực chính đại ấy ư?"(3).

Thật khó phân biệt giữa truyền thuyết và lịch sử về các nhân vật tham gia khởi nghĩa, về từng trận đánh... khi cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lãnh đạo đã lùi xa gần 2000 năm. Cả chính sử nước ta lẫn Trung Quốc đều ít ghi chép về các bộ tướng của Hai Bà mà trong đó phần nhiều là nữ tướng. Cuộc khởi nghĩa này không chỉ đơn thuần là một cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, sự đối kháng của tầng lớp bị trị với tầng lớp thống trị, mà còn sâu sa hơn, đó là sự xung đột giữa hai hệ thống xã hội và văn hóa. Nó có sự khác biệt từ căn bản, đó là sự xung đột giữa tầng lớp thống trị - phụ quyền gia trưởng và tầng lớp bị trị - cộng đồng mẫu hệ và cũng chính đều này giải thích cho chúng ta biết tại sao cuộc khởi nghĩa do Hai Bà lãnh đạo lại được quần chúng nhân dân bốn quận hưởng ứng nồng nhiệt đến thế, đặc biệt là phụ nữ tham gia với số lượng đông đảo nhất. Theo nhiều nguồn tài liệu(4), thì Hai Bà có đến hơn bảy chục tướng lĩnh mà danh đã Hán hóa, trong đó có nhiều thủ lĩnh - nữ tướng các nghĩa quân địa phương, hiện còn nhiều đền thờ ở miền Bắc như Thánh Thiên công chúa; Lê Chân, Bát Nam Đại tướng Trinh Thục công chúa, Phương Dung công chúa....

Qua khảo sát một số bản thần tích của Hà Tây (cũ) thì các truyền thuyết về các nữ tướng có nét tương đồng đó là lai lịch các nữ tướng vốn thường thuộc dòng dõi trâm anh, có sắc đẹp "chim sa cá lặn" và Ni sư Phương Dung(5) cũng không ngoại lệ, bà "thuộc dòng dõi trâm anh nức tiếng đã lâu", "mặt hoa da phấn, mày cong tựa vầng trăng khuyết, dáng vẻ yểu điệu thướt tha không ai sánh bằng...".

Truyền thuyết vốn là "một câu chuyện nói đi nói lại" nên việc mở rộng các sự kiện đã được các nghệ sỹ dân gian tô điểm, và phần nhiều các truyền thuyết về các vị tướng của Hai Bà Trưng cũng theo ý này, có nghĩa là hợp với từng địa phương. Nhưng với bản Thần tích Yên Phú tự thì rõ ràng trong thần tích, ta thấy có một sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng bản địa - tục thờ Thủy thần hay Sơn thần. Tục thời này xuất hiện từ rất lâu với người Việt cổ, nó khác với quan niệm Thổ địa mang tính chất Trung Quốc chỉ người bảo trợ thiêng liêng cho một vùng đất. Trong Thiền uyển tập anh cũng có sự thỏa hiệp, hỗn dung này. Đại sư Khuông Việt (933 - 1011): "... một lần đến chơi núi Vệ Linh ở quận Bình Lỗ, thích phong cảnh đẹp, bèn muốn lập am để ở. Đêm tới nằm mộng thấy một vị thần, mình mặc áo giáp vàng, tay trái cầm cây thương vàng, tay phải đỡ bảo tháp, hơn mười người theo hầu, hình tướng dễ sợ, đến nói rằng: "Ta là Tỳ sa môn thiên vương, những người theo ta là Dạ xoa. Thiên đế có sắc sai ta đến nước này để giữ gìn biên giới, khiến cho Phật pháp thịnh hành. Ta có duyên với ngươi, nên đến đây báo cho người biết". Sư kinh hãi thức dậy, nghe trong núi có tiếng kêu ầm ĩ, lòng rất lấy làm lạ. Đến sáng sư vào núi thấy một cây to, cao khoảng mười trượng, cành lá sum suê, bên trái lại có mây xanh bao phủ, nhân đó sai thợ đến chặt. Đem về, khắc tượng như đã thấy trong mộng, để thờ..."(6). Vậy ở đây có phải là Đại sư Khuông Việt muốn dựng chùa trên núi mà vẫn phải lập đền thờ thần núi! Thiền sư lập đền thờ bên hữu chùa Kiến Sơ, mà truyền nói rằng "để làm nơi tụng niệm? để cho yên tĩnh". Đó phải chăng là bằng chứng tôn trọng tín ngưỡng cũ, thần làm người bảo vệ đất chùa hay làm chủ đất Phật...

Thần tích vốn là việc nói đến cõi thiêng liêng do các nhà Nho chép lai lịch về thần thì ít nhiều còn dè dặt về những điều nghi hoặc, nhưng những nội dung Thần tích Yên Phú tự là bằng chứng của sự hỗn dung giữa Phật giáo sơ khai với tín ngưỡng đa thần giáo của người Việt cổ, mà ở đây là tín ngưỡng Thủy thần. Sau đây là toàn bộ bản Thần tích chùa Yên Phú, do Thạc sỹ Hoàng Thị Thu Hường, Nghiên cứu viên Viện Nghiên cứu Tôn giáo phiên âm và dịch nghĩa:

Dịch nghĩa

Thần phả chép về:

Một vị âm thần Thái hậu, hai vị dương thần Đại vương triều Trưng Nữ vương.

Chính bản Bộ Lễ, quốc triều, thượng đẳng, thuộc Bắc Bộ.

Xưa trời Nam mở vận, núi sông thẳng hướng sao Dực, sao Chẩn; phương Bắc mới phong, phân dã thẳng hướng sao Đẩu, sao Ngưu. Triều Hùng vương, từ Kinh Dương vương nối nghiệp vua cha, phong nối dõi làm đế vương nước Việt. Hoan Châu thắng địa, đóng làm kinh đô; trên đỉnh Nghĩa Lĩnh, sửa sang miếu điện. Truyền nước đời sau cho Lạc Long Quân, vợ là tiên nữ Động Đình. Sống trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, nơi này có mây lành ngũ sắc tỏa ánh sáng soi. Âu Cơ mang thai, sinh ra bọc trứng, nở ra trăm người con trai. Đó đều là những chàng trai khôi ngô tuấn tú, đức độ hơn người. Đến tuổi trưởng thành, vua phong cho tước hầu, cắt cử cai trị 15 bộ trong nước.

Đầu tiên Long Quân gọi Âu Cơ lại nói: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, tuy khí ngũ hành hòa hợp mà sinh được con cái nhưng Thủy, Hỏa vốn hai giống khắc nhau, không thể ở cùng một nơi nên phải chia ra”. Bèn chia 50 con theo cha xuống biển là Thủy Thần, cai quản nguồn sông, góc biển; 50 con theo mẹ về núi làm Sơn Thần, cai quản các ngọn núi và ruộng đồng. Trong thời gian đó nếu ai có chuyện xảy ra thì các anh em cùng nhau đến giúp đỡ, không để diệt vong. Nhà Hùng kể từ đó khắp núi sông đều có thần. Các thần có thể đầu thai làm con cái các gia đình phàm trần để giúp đỡ cho đất nước, nhà nào có phúc tất sẽ được hưởng.

Lại nói: cuối thời Hùng Vương thứ 18, ý trời đã định, lúc đó vào thời Đông Hán, ở làng Lưu Hàm, huyện Thượng Hiền, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam Hạ có Trương Công Điều (tên húy là Điều) là người được kế thừa tập ấm, lấy vợ là Phùng Thị, tên húy là Huệ, vốn là người cùng quận, dòng dõi trâm anh nức tiếng đã lâu, cũng là chỗ môn đăng hậu đối. (Ông bà) đã sinh mấy người con trai, sau này sinh thêm con gái đặt tên là Phương Dung. Nàng có sắc đẹp “chim sa cá lặn”, mặt hoa da phấn, mày cong tựa vầng trăng khuyết, dáng vẻ yểu điệu thướt tha không ai sánh bằng. Năm vừa tròn 16 tuổi, duyên lành chưa định, nguyện không lấy chồng, một lòng mộ theo đạo Phật. Một ngày nọ (nàng) đến huyện Thanh Trì (xưa gọi là Thanh Đàm), châu Thường Tín, thành Thăng Long (tên xưa là phủ Phụng Thiên), khi đến đầu làng Yên Phú thấy một ngôi chùa, ngoảnh trông bốn bề thấy phóng khoáng đẹp đẽ, cảnh vật như thắng cảnh nơi nào, bèn đặt tên là Thanh Vân cổ tự và nguyện ở lại nơi đây sớm khuya hương khói. Ở đó vừa tròn một năm, ngày nọ, bà đến bến sông Kim Ngưu tắm, lúc này mặt trời chưa đứng bóng, ngước mắt nhìn lên thì thấy một đám mây lành sà xuống cuốn lấy thân thể. Kinh hãi bà chạy về chùa, đêm hôm đó nằm mộng thấy một tướng quân mặc áo gấm, đeo ngọc châu, thân thể kỳ dị từ dưới nước đi lên, tự xưng là quan Thủy thần và nói với bà rằng: “Nhà ngươi đức dày, trời đã soi tỏ, lệnh cho hai vị Thủy thần đầu thai xuống làm con nên chớ có lo lắng về điều đó”. Nói rồi vị thần lên thuyền rồng, bay trên không mà biến mất, tỉnh lại chỉ cho là một giấc mộng kỳ lạ. Ngày hôm sau, trong khi đi qua miếu, thấy trước miếu có hai quả trứng rất lớn, bèn mang về chùa, bỗng từ hai trứng phát ra tiếng vang như sấm dậy (đó là ngày 22 tháng 4 năm Quý Tỵ), trứng tách vỏ và xuất hiện hai vị đầu người, mình rắn, tướng mạo kỳ lạ, thiên tư to lớn, biết đó là Thủy thần xuất thế. Các cụ phụ lão và dân làng Yên Phú nghe về sự việc kỳ lạ ấy thì cùng nhau kéo đến chùa. Hai vị thần liền nói với các phụ lão rằng: “Anh em chúng ta vốn là Thủy thần mà các ông thờ phụng lâu nay, một người tên là Trung Vũ, một người tên là Đài Liệu. Nay phụng mệnh Thiên đình giáng sinh để giúp đỡ cho đất nước”. Các vị phụ lão và nhân dân đều tỏ ra cung kính hành lễ và tấu lên rằng:

- “Làng chúng tôi quả là có thờ các vị Thủy thần có tên như vậy!”

Bèn hành lễ bái tạ và xin nhận làm bề tôi. Thế là hai ông được Thái bà(7) nuôi dưỡng, khi các ông lên bảy tuổi, thiên tư càng tỏ rõ, học lực tinh thông, đọc Binh thư mà trưởng thành về võ lược. Thời gian đó trời hành hạn hán, cây cối đều chết khô, lập tức hai ông truyền dân làng lập đàn để cầu âm dương trời đất. Vừa cầu được một lúc, bỗng thấy trời đất u ám, giữa ban ngày mà tựa như đêm, mưa to gió lớn nổi lên khắp cả một vùng rộng, ruộng đồng đầy nước, năm đó được mùa lớn. Từ đó nhân dân đều yên ổn làm ăn, dùng đức để phục vụ hai ông. Thời đó, Tô Định đem binh xâm chiếm trung nguyên, họ Triệu tan thương không người cứu giúp. Khi đó có người cháu gái họ Hùng trước đây tên là Trắc, vốn bậc nữ trung hào kiệt, với vẻ oai hùng của bậc đại thánh thần đã dấy binh khởi nghĩa. Đương thời, nam nhi tài thao lược không có nên người con gái đó đứng đầu làm tướng. Trưng Nữ nổi chuông linh mật báo tới thánh núi Tản Viên, họp hội đồng các thần tại cửa sông Hát Môn (tức vùng Sơn Tây), lập đàn tế, tấu lên thần linh. Lời khấn rằng:

“Trời sinh ra một người, đó chính là dòng dõi của vạn vật trời đất, làm chủ mối quan hệ của các sinh linh và cỏ cây muôn loài. Thiên tử, đế vương của các triều đại trước đều là những bậc thánh minh, triều đình có đạo, yêu nước, thương dân, đức hóa rộng khắp, thiên hạ thanh bình, nước nhà yên ổn. Nay có phường dê chó họ Tô, tên Định thường ngông nghênh làm loạn, thi hành chính trị hà khắc, muôn dân điêu đứng, thiên địa thần nhân(8) đều oán giận. Thiếp dùng thân phận người cháu gái của Hùng Vương xưa để tỏ bày cùng muôn vật. Ngày nay, trời cao rơi lệ, nhân dân đau lòng, có bậc trượng nghĩa trừ tàn, nguyện mong thần linh tề tựu về đàn để chứng giám lời thề và thêm sức che chở. Thiếp Trưng Nữ xin thề dấy binh dẹp giặc, giữ nước, cứu dân. Thiếp (thề) khôi phục lại vật xưa tổ tông, đưa muôn dân thoát khỏi vòng lửa nước bước lên nệm lên chiếu, ngõ hầu không trái lại sự mong chờ của trời cao, thỏa sự linh thiêng của tông miếu tiên hoàng, an ủi tổ tiên cha mẹ ở nơi chín suối”.

Khấn xong hô xuất âm binh nghìn hàng vạn đội, lại truyền hịch khắp thần dân tại các châu, huyện, đạo ở Nam bang, nơi nào có người anh minh tài trí hơn người thì lập tức trong ngày đến tòng quân để hỏi tội kẻ nghịch tặc. Thế là mẹ con bà Phương Dung đồng tâm đứng lên trợ giúp nước nhà. Vừa nghe nữ tướng chiêu binh khắp chốn, Vũ thần lập tức trong ngày đứng lên triệu tập được mấy ngàn người trong làng, tập trung dưới trướng được 25 trai tráng khỏe mạnh ở làng Yên Phú. Trong ngày, Thái bà cùng hai ông cử binh lên đường, cờ rong, trống mở âm vang đến ngàn dặm núi cao. Một ngày đã đến nơi đóng quân của Trưng Nữ vương. (Trưng vương) vừa trông thấy hai ông văn võ toàn tài, toát lên vẻ thần lực bèn nói:

- Người trời giáng sinh nơi trần thế ắt chẳng phải kẻ tầm thường!

Bèn cho hai ông làm tướng chỉ huy hai bên tả hữu, phong mẹ nuôi là Phương Dung công chúa. Từ đó mẹ con được hưởng ân mưa móc thánh hoàng, được phụng thờ hương hỏa, đó âu cũng là duyên số. Trong ngày lại lệnh cho binh sĩ cùng nhân dân trong làng tu sửa ngôi miếu là nơi mà hai ông từng sinh sống. Hai ông ứng khẩu thành thơ rằng:

“Từ xưa đế vương ướm lòng dân,

Theo thần thì phải định tinh thần.

Trước truyền chưa từng phân Chân, Ảo

Nhớ về tên núi Phật tức Chân”

Rồi một ngày nọ thiết yến mời các phụ lão và nhân dân đến dự, hai ông nói với các phụ lão và gia thần rằng: “Anh em chúng tôi theo lệnh hiển hiện thành hai vị thần mà dân làng thờ phụng từ trước, chúng tôi có mẹ nuôi là Thái bà, nay để lại 10 thoi vàng, nếu ngày sau có chuyện gì xảy ra thì mong các ngài hãy phối thờ cả ba mẹ con chúng tôi”. Các cụ phụ lão nghe vậy đều theo lệnh mà vái lạy. Thế là cùng phụng dưỡng Thái bà và để lại 10 thoi vàng dùng cho việc cúng tế vào ngày sau. Ngày hôm sau có sứ giả mang chiếu thư đến yêu cầu mẹ con ngay trong ngày dấy binh hỏi tội Định. Trong một ngày, quân đội của hai ông cùng Trưng Nữ thẳng tiến đến doanh trại của Tô Định, chia thành 5 đạo cùng lúc tiến đánh. Quân Định bỏ chạy toán loạn, ta bắt được đại tướng giặc, thu phục được 65 thành về Nam bang, Trưng Nữ lên ngôi vua. Đương trung tuần mùa hạ năm đó, ngày 18 tháng 5, có sứ giả đến tuyên chiếu rằng đã dẹp yên giặc Tô Định, mời hai ông về triều để nhà vua mở tiệc mừng phong chức cho các tướng sĩ, ban cho mẹ con họ được trở về hưởng ấp Thanh Trì(9). Thế là bái lạy tạ ơn và quay về nhiệm sở, hai ông cùng mẹ lên thuyền rồng trở về đến giữa sông Kim Ngưu thì thấy một đám mây vàng như dải lụa xà thẳng xuống thuyền rồng. Thấy vậy ba mẹ con vô cùng kinh hãi, chạy lên đứng ở bãi đất đầu sông bên làng Yên Phú, bỗng chốc thấy trời đất tối xầm, mưa to gió lớn nổi lên, rồi thấy Thái bà mình mặc áo gấm, ngồi trên kiệu hoa cưỡi mây mà đi, rồi hai ông tự bay lên lao xuống lòng sông mất hút, lúc đó vào ngày mùng 7 tháng 11. Trong khoảnh khắc, sóng nước vụt cao, giao long, xà giải(10) cùng sắp hàng dẫn lối. Quân sĩ và nhân dân đều vô cùng kinh hãi bèn làm biểu tấu lên triều đình, nữ vương sai quân đến nơi hành lễ tế và truyền rằng đây là nơi đất tốt, đặt tên là xứ Đồng Lăng, chuẩn cho phù hộ làng Yên Phú và được nhân dân ở đây thờ phụng.

Đến năm Thiên Phúc thời vua Lê Đại Hành, khi thống kê về các thần thấy (các vị trên) hiển linh bèn phong tặng một vị là Hoàng thái hậu Tuệ Tĩnh phu nhân, hai vị là Bản cảnh Thành hoàng Linh phù chi thần. Khi hành lễ cấm dùng các trang phục màu đỏ, vàng và trắng.

Một phong Thánh mẫu Phương Dung Trinh thục Chí đức Đoan trang Cẩn tiết Hoàng thái hậu.

Một phong Trung Vũ Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Dực thánh Bảo cảnh Hiểu hữu Trợ thuận Linh ứng đại vương

Một phong Đài Liệu Tế thế Hộ quốc Khang dân Phù vận Dương võ Dực bảo cảnh Hiểu hữu Trợ thuận Linh ứng đại vương.

Lại nói: từ đó về sau các thần có nhiều lần hiển ứng rõ ràng trong khoảng 314 năm vào các thời thuộc Đông Hán, Ngô, Tấn, Tống, Tề, Lương. Đến Nam bang ta, 4 dòng họ Đinh, Lê, Lý, Trần mở cơ đồ, qua các thời đại thường thần thông biến hóa, hiển hữu anh linh, che chở cho đất nước, sắc ban cho làng Yên Phú sửa sang miếu điện để thờ phụng, hãy kính cẩn tuân theo!

Kê ra ngày sinh, ngày hóa, các khoản lễ bàn; các chữ húy cấm dùng là Phương Dung, Trung Vũ, Đài Liệu.

Chuẩn cho làng Yên Phú thờ phụng

- Ngày sinh các thần: 22 tháng 4. Lễ chính, mâm trên dùng lễ chay, mâu dưới dùng lợn đen, xôi, rượu, bánh dày; ca hát.

- Ngày hóa các thần: 07 tháng 11. Lễ chính như trên; cấm ca hát

- Khánh hạ, cầu phúc: 18 tháng 5. Lễ chính như trên, ca hát.

Niên hiệu Hồng Phúc năm thứ nhất [1572], ngày tốt, tháng Giêng, Đông các Đại học sĩ Hàn lâm viện, thần Nguyễn Bính vâng mệnh soạn thảo.

Hoàng triều Vĩnh Hựu năm thứ 6 [1740], ngày tốt, tháng 8, Nội các Bộ Lại vâng mệnh sao y bản chính.

Hoàng triều Thành Thái, năm thứ 17 [1905], ngày tốt, tháng 4, đạo sĩ trong xã kính cẩn sao y bản chính./.

 

Phạm Thị Lan Anh, Nguyễn Văn Quý

Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Hà Nội

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.26-36.

 

Chú thích:

(1) Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam: Lịch sử Việt Nam, tập 1. Nxb. KHXH, H. 1971.

(2) Hán Việt từ điển, Thiều Chửu, Nxb. TP. HCM, 2000.

(3) Ngô Sỹ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb. KHXH.

(4) Trong sách Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội, theo ông Nguyễn Vinh Phúc thì ở Hà Tây (cũ) và Hà Nội đã có trên 50 điểm làng, xã mang dấu vết của 67 vị tướng lĩnh của Hai Bà.

(5) Yên Phú tự, Đông các Đại học sỹ Hàn lâm viện, thần Nguyễn Bính vâng mệnh soạn, niên hiệu Hồng Đức thứ 1 (1572); Nội các Bộ Lại vâng mệnh sao y bản chính, Hoàng triều Vĩnh Hựu thứ 6 (1740); Đạo sỹ trong xã kính cẩn sao y bản chính, Hoàng triều Thành Thái 17 (1905). Hiện cuốn thần tích này còn lưu giữ tại chùa Yên Phú, thôn Yên Phú xã Liên Ninh huyện Thanh Trì, Hà Nội.

(6) Đại sư Khuông Việt: Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh, Lê Mạnh Thát, Nxb. Tp. HCM, tr.180.

(7) Thái bà: tức bà Phương Dung.

(8) Thiên địa thần nhân: chỉ Trời, Đất, Thần linh và con người.

(9) Câu này có nghĩa là mẹ con bà Phương Dung được hưởng những lợi tức ở ấp Thanh Trì.

(10) Giao long, xà giải: những thủy quái dưới nước thường được ví là binh lính của các vị thủy thần./.

20200823 2

Ảnh: Núi Tử Trầm (nay thuộc huyện Chương Mỹ, Hà Nội)

1. Xuất xứ tấm bia và vài nét về tác giả

Tại xóm San, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây hiện còn lưu giữ được tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Bia có chiều cao 1,22m, rộng 1,20m, trong đó trán bia cao 0,24m, chạm hoa văn rồng chầu mặt nguyệt cách điệu, hai diềm bia chạm hoa, dây leo. Bia được dựng trong một am nhỏ có mái che, chữ còn khá rõ nét, viết chân phương, dễ đọc. Bia gồm 22 dòng, mỗi dòng khoảng 50 chữ, tổng cộng hơn 1200 chữ, một bài tựa và một bài minh dài hơn 70 câu (mỗi câu 4 từ). Phần cuối bia là dòng lạc khoản ghi: “Hồng Thuận nhị niên, tuế thứ Canh Ngọ trọng thu, cát nhật, Tiến thận quang lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc Tử giám Tế tửu(1) Tri kinh diên sự thần Lê Tung đẳng phụng sắc soạn”. Nghĩa là: (Ngày tốt, tháng giữa thu [tháng 8] năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 [1510] do Tiến thận Quang Lộc đại phu, Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn soạn sắc)

Đây là tấm bia mà soạn giả là một nhà sử học nổi tiếng sống cách chúng ta khoảng 500 năm. Nội dung tấm bia cho biết nhiều sự kiện xảy ra trong giai đoạn đầu thế kỷ XVI, xung quanh việc Lê Tương Dực (1509 - 1516) lên ngôi. Ngoài ra, nội dung tấm bia còn mô tả về quang cảnh khu di tích núi Trầm thời Lê(2).

Ngoài tấm bia ở núi Trầm do Lê Tung soạn. Nội dung tấm bia tại đình Kim Liên về cơ bản cũng tương tự như tấm bia ở chân núi Tử Trầm nhưng có thay đổi thêm bớt một số từ. Bia ở đình Kim Liên có chiều cao 2,20m, rộng 1,40m, dày 0,22m, hoa văn rồng chầu mặt nguyệt, khắc đẹp rõ nét. Bia không có tên, dòng đầu ghi: “Cao Sơn Đại vương thần từ minh tịnh tự” (Bài tựa và bài minh bia ở đền thờ Cao Sơn Đại vương). Mặt sau ghi: “Cảnh Hưng tam thập tam niên, tuế tại Nhâm Thìn, trọng thu, sơ nhất nhật, phụng lập bi. Nguyên bi tại Phụng Hóa huyện tự cổ truyền lai, phù vu Bồ Đề giang tân. Ư Hoằng Định niên gian, bản phường duệ đắc nghênh hồi trí vu tự địa, trí tư huyền trưng lũ thử nhân phụng nghênh lập bản Từ tả biên dĩ thị tôn nghiêm, truyền vĩnh cửu nhưng tả dĩ vi chí vân”. Nghĩa là: (Bia dựng ngày mồng một, tháng giữa thu [tháng 8], năm Nhâm Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 33 [1772]. Bia nguyên ở huyện Phụng Hóa(3). Từ xưa truyền lại trôi đến Bồ Đề(4). Khoảng niên hiệu Hoằng Định [1602 - 1619] bản phường kéo lên đặt ở đất chùa, bày ở bên trái của đình để cho thêm phần tôn nghiêm, bèn viết vào để truyền mãi mãi).

Như vậy, xuất xứ của tấm bia này đã rõ ràng. Chúng tôi không biết ở huyện Phụng Hóa (xưa) có còn tấm bia nào của Lê Tung không, nhưng khi đối chiếu chúng tôi cho rằng tấm bia đình Kim Liên này đã chép lại gần như hoàn toàn nội dung tấm bia ở chân núi Tử Trầm. Điều đó chứng tỏ uy tín cũng như sử bút của nhà sử học Lê Tung được người đời sau trân trọng(5). Mặt khác xét về vị trí địa lý và địa hình thì tấm bia ở chân núi Tử Trầm đã phản ánh đúng cảnh quan như "núi rừng rậm rạp, cành lá giao nhau, có vực sâu...".

Lê Tung tên thật là Dương Bang Bản (1452 - 1514) người xã An Cừ, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ông là một vị công thần sống vào cuối triều Lê sơ, được ban quốc tính, sau đổi là Lê Tung. Năm 23 tuổi, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân khoa Giáp Thìn niên hiệu Hồng Đức (1484) đời Lê Thánh Tông. Ông từng được cử đi sứ, làm quan thăng đến chức Lễ bộ Thượng thư, hàm Thiếu bảo, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, tước Đôn Thư bá, thọ 63 tuổi(6). Tác phẩm của ông hiện nay được biết đến không nhiều(7), quan trọng nhất là Việt sử thông giám tổng luận (8).

Dưới triều vua Lê Uy Mục và đặc biệt dưới triều Lê Tương Dực, Lê Tung được giao nhiều trọng trách quan trọng. Năm Hồng Thuận thứ 5 (1513) ông được cử soạn tấm bia: Hồng Thuận tam niên Tân Mùi khoa Tiến sĩ đề danh ký (Khoa thi Tiến sĩ năm Tân Mùi niên hiệu Hồng Thuận thứ 3 [1511](9)). Theo Đại Việt sử ký toàn thư: "Mùa thu, tháng 9 năm Hồng Thuận thứ 6 (1514), sai Thiếu Bảo, Lễ bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự, Đôn Thư bá(10) Lê Tung soạn bài Đại Việt thông giám tổng luận. Đại Việt sử ký toàn thư cũng cho biết: năm 1514, Lê Tung cùng các nhân vật nổi tiếng khác như Lê Phụ, Đàm Thận Huy, Nguyễn Bá Thuyên, Đỗ Nhạc trông coi việc thi(11)... Được triều đình giao cho nhiều công việc quan trọng như thế, chứng tỏ tài năng mẫn tiệp và sự tín nhiệm của triều đình đối với ông.

 

2. Bối cảnh lịch sử khi Lê Tung soạn Cổ tích linh từ bi ký

Có thể nói rằng, nhà sử học Lê Tung là người đã từng chứng kiến nhiều đổi thay của xã hội Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI. Cuộc đời làm quan của ông trải qua 5 đời vua: Lê Thánh Tông, niên hiệu Hồng Đức (1469 - 1497), Lê Hiến Tông niên hiệu Cảnh Thống (1498 - 1504). Lê Túc Tông (1504), Lê Uy Mục niên hiệu Đoan Khánh (1505 - 1509), Lê Tương Dực niên hiệu Hồng Thuận (1509 - 1516).

Kể từ khi thi đậu Hoàng giáp (1484) cho đến khi qua đời, ông may mắn tận mắt thấy được thời kỳ thịnh trị vào bậc nhất của lịch sử phong kiến Việt Nam (dưới triều Lê Thánh Tông) và cũng chính ông đã chứng kiến sự khủng hoảng trầm trọng của triều Lê Uy Mục và Lê Tương Dực.

Lúc này nhiều công thần, hiền tài bị giết hại như Lễ bộ Thượng thư Đàm Văn Lễ, Đô ngự sử đài Trạng nguyên Nguyễn Quang Bật... Chính vào thời điểm này, Lê Tung được giao nhiều việc quan trọng như: Thừa tuyên xứ Thanh Hoa(12), Hàn lâm viện Kiểm thảo...

Tuy được tin dùng, được giữ nhiều chức vụ quan trọng, nhưng sống và làm việc dưới quyền một ông vua bạo ngược, gian ác, Lê Tung cùng nhiều văn thần khác phải lựa chọn hành động khởi binh chống lại. Sử chép: "Tháng 11 năm 1509, bấy giờ vua giết hại tông thất, Giản Tu Công còn bị giam ở ngục mới đem của đút lót người canh giữ thoát ra được, chưa kịp chào mẹ, anh em và vợ mình, một mình trốn vào Tây Đô. Đến cửa biển Thần Phù được Văn Lang ra đón, lập làm minh chủ, rồi cùng Văn Lang rèn đúc giáo dài, cùng bọn văn thần Nguyễn Diễm, Ngô Khế, Nguyễn Bá Cao, Lê Trạm, Lê Thanh Hoa, Tổng binh thiêm sự Nguyễn Bá Tuấn, Thừa tuyên sứ Lê Tung, Tham chính Nguyễn Thì Ung khởi nghĩa, sai Lương Đắc Bằng viết hịch dụ đại thần và các quan. Đại ý nói: Bạo chúa Lê Tuấn phận làm con thứ hèn kém, làm nhơ bẩn nghiệp lớn"(13)...

Có thể nói những sự kiện nổi bật dưới thời Lê Uy Mục, Lê Tương Dực đã được sử sách chép lại khá kĩ. Điều đặc biệt là những sự kiện lịch sử ấy đã được nhà sử học Lê Tung - người đã từng trực tiếp tham gia làm nên lịch sử giai đoạn này ghi lại gần như đồng thời qua tấm bia Cổ tích linh từ bi ký. Nội dung tấm bia không những cho chúng ta biết sự mâu thuẫn gay gắt trong triều đình Lê Uy Mục, quá trình giúp Lê Tương Dực lên ngôi mà còn giúp cho chúng ta hiểu thêm lịch sử cũng như quang cảnh khu di tích núi Trầm - một danh lam thắng cảnh nổi tiếng của tỉnh Hà Tây cách chúng ta ngày nay 5 thế kỷ. Cả hai tấm bia ở núi Trầm và ở đình Kim Liên như đã đề cập ở trên đã được một số sách giới thiệu nhưng còn sơ sài, thậm chí viết sai và chưa nghiên cứu kỹ về văn bản. Sau đây chúng tôi xin phiên âm, dịch lại cho sát nghĩa hơn đặc biệt là tiến hành khảo sát kĩ về văn bản (chúng tôi chọn văn bia ở núi Tử Trầm làm bản chính).

. Nội dung tấm bia

Phiên âm:

Cổ tích linh từ bi ký

Cao Sơn đại vương thần từ minh tịnh tự.

Cái văn:

Đế vương hưng nhân nghĩa chi binh, cứu sinh dân chi mệnh. Kỳ quy khôi hoành toán hạp tịch hùng khuých(14), dĩ thành mạc đại chi công, sáng mạc đại chi nghiệp giả. Cái hữu mạc đại chi đức, nhi cùng thiên(15) vi chi hiệp ứng, thần minh vi chi tán trợ phi ngẫu nhiên dã. Thị Chu Vũ triệu tạo Thương cơ, tất lại sơn xuyên linh thần chi khắc tướng, Hán Quang trùng hưng xích tộ, diệc lại bạch y phụ lão chi nhiên phù ư Hoàng Đại Việt.

Thánh tổ Cao hoàng đế, khởi nghĩa chi sơ, tắc hữu hoằng hựu chí linh chư danh thần vi chi âm chất khởi phi. Thiên địa quyến vu chí nhân, quỷ thần hưởng vu hữu đức giả da. Khuyết hậu miếu từ sáng lập, ân lễ triệu xưng tự điển, chiêu thùy xuân thu chí tế, giai sở dĩ báo thần tứ nhi kỳ(16) hồng hưu dã. Linh ứng chương minh, cổ kim phù khế. Khoảnh giả, Lệ Mẫn thất đức, hung bạo tứ hành, ngoại thích chuyên quyền, nội triều can chinh, đồ độc triệu thứ, ngư nhục tông phiên, thiên oán dân nộ nhi bất chi tri, chúng bạn thân(17) li nhi bất chi giác. Kỷ Tỵ niên, thập nhất cực, ức triệu chi dân. Thời tắc hữu Trường Lạc điện thân thuộc, dương vũ hiệp mưu, đồng đức hiệu trung, khai quốc công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán lý hiệu thuận, Khai phủ nghị đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Phụ quốc Thừa tướng thượng tể, Thái phó Uy quốc công Nguyễn Bá Lân; Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc Thượng tướng quân, Tả đô đốc Kim Ngô vệ đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ, Chưởng vệ sự An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ; Quang tiến Trấn quốc Đại tướng quân(18), Tả kiểm điểm tham đốc hiệu lực, Tứ quân vụ sự Nguyễn Văn Lữ đẳng, phụng mệnh tồ chinh, đồng tâm dực tán củ hợp hào kiệt, phúng tập(19) dân binh, tá bạch mao hoàng việt chi hành, đại cực nịch hanh truân(20) chi cử, Văn Lữ đẳng hành chí Ninh Sơn huyện(21). Kỳ sơn lâm linh úy, diên mậu quảng mạc, hữu uyên danh Lầm đương nhất mẫu, hứa tĩnh thâm bất trắc, thụ mộc giao gia. Thượng hữu nhất từ, cái dĩ thảo mao(22). Từ trung lập thạch đề viết: “Cao Sơn Đại vương”, Văn Lữ đẳng đổ(23) chi kinh dị, nãi khẩn chúc viết: “Đoan Khánh tàn ngược, dân bất liêu sinh. Thiên mệnh nhân tâm, quy vu hữu đức. Kim Thánh thượng dĩ Thánh Tông chi tôn, Kiến Hoàng chi tử. Tư tổ tông sáng nghiệp chi nan, mẫn(24) triệu tính đảo huyển chi khổ, vị xã tắc kế hưng, trừ tàn khử bạo chi binh. Văn Lữ đẳng cộng tá minh quân dĩ an thiên hạ. Thần như hữu linh, âm phù mặc tương, dĩ tế đại nghiệp. Sự thành chi nhật, Văn Lữ đẳng tất thỉnh mệnh vu triều tôn hiển chi dĩ chiêu thần chúc”.

Ngôn tất, nghiêm chỉnh bộ ngũ túc đội nhi hành, tứ phương thần dân bất kỳ nhi hội hồ tương đan thực dĩ nghênh vương sư. Binh vô huyết đao chi lao, dân toại vân nghê chi vọng, hùng đồ đãng địch cung cấp túc thanh, ức niên chi chung đỉnh. Cái miên(25) cửu miếu chi quang linh, vĩnh thỏa tam cương, cửu trù dĩ chi nhi phục yên(26).

Hoàng đồ quốc tộ do thị nhi tái an, tăng bất tuần nhật nhi thành công chi tốc như thử. Cái do, thánh đức tố phù, thiên nhân hiệp ứng, nhi qủy thần hữu dĩ tương chi dư. Bản niên, thập nhị nguyệt(27), sơ nhị nhật, Hoàng thượng quang đăng bảo vị, Đản phủ đa phương(28) phát chính thi nhân, dĩ sủng thỏa hồ, triệu tính(29) xưng lễ hàm trật, dĩ hoài nhu hồ. Bách thần Văn Lữ đẳng ngưỡng đại huân chi khắc tập tư thần huống chi, khổng chương dĩ kỳ sự, văn ngọc âm, tứ khả sắc Ninh Sơn huyện, Tử Trần xã(30), doãn đốc áp quân dân, cấu tác từ vũ. Mệnh Công bộ tác bi, nhưng mệnh thần đẳng soạn minh(31) dĩ thùy vĩnh cửu. Cố thần đẳng ngu lậu, xương thúc dĩ tán dương thánh hoàng công nghiệp chi long, phát huy(32) thần lý cảm thông chi diệu. Nhiên ký thao phụng. Minh chiếu cảm bất đối dương hưu mệnh hồ. Thần đẳng thiết duy: đức tất thụ mệnh, cổ kim chi(33) định lý dã, vi chi năng hiển, quỷ thần chi thịnh đức dã. Cái kỳ triệu phi thường chi nghiệp. Tuy bản đế vương chi đức, nhi tán thành phi thường chi nghiệp, diệc do thần minh chi trợ. U minh nhất lý, cảm ứng nhất cơ, thiên nhân tương dữ chi tế, hữu như thử giả, nghi kỳ luân hoán. Từ vũ, thần hôn hương hỏa báo thần tứ dã. Trật chi tự điển, lặc chi trinh mân, chiêu linh ứng dã. Duy thần tố lẫm, càn khôn chi chính khí, chung quang nhạc chi tinh linh, nhiên tương hoàng đồ, vĩnh phù bảo tộ, phù hồng hưu ư hữu vinh, giới cảnh phúc ư vô cùng, tắc tư sơn dã dữ thiên địa đồng, kỳ du hĩ(34). Y ư hưu tai.

Minh viết:

Úy bỉ sầm cương
Yên phụ thương thương(35)
Chung kỳ dựng tú
Tốt thắng dục tường
Hồi uyên(36) trừng bích
Lục thủy phù quang
Tĩnh thâm mạc trắc
Bàn vô phương dân(37)
Lương trùng khảm lập
Thần bí linh tàng
Liêu tai tứ cố
Hiên khoát vũ trụ
Xác thị (38) thử gian
Hữu nhất từ vũ
Mao cái trúc dạng
Phần đề thạch chủ
Cao Sơn trứ danh
Uy nghi khổng phụ
Hữu cảm giai thông
Khuyết thi tư phổ
Thời thuộc cấu truân(39)
Thiên khải minh quân
Tây Đô phấn thi(40)
Mao việt cung thân
Hoàn toàn danh tướng
Củ củ nghĩa dân
Tiễu trừ chí nhuệ
Khẩn chúc tư cần
Đại sự khắc tế
Tương lễ thị ban
Dương dương như tại
Linh giám hoằng khải
Trợ ngã uy thanh
Tiêu trì điện mại
Dân úy vọng nghê
Phong truyền(41) quải bái
Tăng bất du tuần
Báo tứ khổng khánh
Khẩn khoản vân tiên
Cụ trần linh huống
Nhật đốc phất huyên
Cửu trùng(42) du cửu
Thịnh ý quyền quyền
Tưu quy viện khế
Cốc nhật tải quyên
Chiêu đáp bất sảng
Cử hành thị tiên
Nãi giới tể ấp
Hưng tu duy cấp
Cưu công trợ tài(43)
Hoa tự (44) du lập
Giác suy đống lương
Luân hoán nguy ngập
Miếu mạo tôn nghiêm
Quang linh diệp dập(45)
Hương hỏa minh yên(46)
Tuế thời viên cập
Thẩn thị kí công
Duy thạch khung lung
Thu tự xuân phúc
Triện Lý, Lệ Chung
Lưu phương ích hiển(47)
Hữu(48) quốc tăng long
ức niên tích phúc
Càn khôn thanh thái
Y thùy lực dư
Duy thần thị lại
Quảng bá hưu phong
Từ tiền vĩnh trấn
Chiêu vĩnh vô cùng.

Hồng Thuận nhị niên(49), tuế thứ Canh Ngọ, trọng thu, cát nhật.

Tiến Thận Quang lộc đại phu(50), Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần, Lê Tung đẳng phụng sắc soạn.

Hiển cung đại phu Trung thư giám, Trung thư xá nhân, thần Đỗ Như Chi phụng tả.

Thí An bí danh tạo cơ san thư tượng tượng phó, thần Bùi Nhữ Dịch phụng san.

Dịch nghĩa:

Văn bia đền thiêng cổ tích

Bài tựa và bài minh đền thờ Cao Sơn đại vương

Thường nghe: Bậc đế vương lấy binh để hưng nhân nghĩa, cứu dân, khôi phục lại công nghiệp, không gì lớn lao bằng. Đại để là do sự giúp đỡ của thần linh không phải là ngẫu nhiên vậy. Vì thế Vũ Vương đã gây dựng nên công nghiệp họ Chu(51) ắt nhờ cậy vào thần linh sông núi. Quang Vũ trùng hưng công việc nhà Hán(52) cũng phải nhờ vào các bậc phụ lão áo trắng giúp đỡ(53).

Thánh tổ Cao Hoàng đế buổi đầu khởi nghĩa, tất có sự phù hộ lớn lao, họa phúc đều bởi do các bậc thần linh nổi tiếng, trời đất chí nhân, quỷ thần có đức. Về sau đền miếu được dựng xây, triều đình ban ơn lớn lao, để xuân thu tế lễ, đều là báo đáp công ơn của thần, nổi tiếng linh ứng, phù hộ xưa nay. Bỗng chốc Lệ Mẫn(54) thất đức hung bạo, ngoại thích chuyên quyền, trong triều can gián, chà đạp dân chúng, giết hại tông thần. Trời oán dân giận mà không biết, dân chúng chống lại rời bỏ mà không hay.

Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509) Hoàng thượng tránh loạn ở Tây Đô, tập trung nghĩa binh để khôi phục công nghiệp lớn lao của Cao Tổ, của muôn triệu dân. Lúc ấy, ở điện Trường Lạc(55), người thân thuộc cùng nhau bàn bạc, dốc lòng trung thành, khai quốc công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh lộc đại phu, Tán lý hiệu thuận, Khai phủ nghi đồng tam ty, Bình chương quân quốc trọng sự, Phụ quốc thừa tướng, Thượng tể Thái phó Uy Quốc công Nguyễn Bá Lân(56); Dực vận công thần, Đặc tiến phụ quốc thượng tướng quân, Tả Đô đốc Kim Ngô vệ, Đô chỉ huy sứ ty, Đô chỉ huy sứ chưởng vệ sự An Hòa hầu Nguyễn Hoằng Dụ(57). Quang tiến trấn quốc, Đại tướng quân, Tả kiểm điểm, Tham đốc hiệu lực, Tứ vệ quân vụ sự Nguyễn Văn Lữ(58) cùng kính cẩn vâng mệnh đi đánh dẹp. Cùng nhau tập hợp hào kiệt, nhóm họp dân binh, giúp cho cờ quạt đao binh đi làm việc lớn. Vượt qua khó khăn, Văn Lữ hành quân đến huyện Ninh Sơn(60). Núi rừng rậm rạp, hoang vắng, có vực sâu, khoảng một mẫu yên tĩnh ngập nước, sâu không lường được, cây cối cành lá giao nhau, trên có một đền thờ lợp bằng cỏ tranh, trong đền dựng cột đá đề chữ: "Cao Sơn Đại Vương". Văn Lữ nhìn thấy, sợ hãi mà khấn rằng: “Đoan Khánh(61) tàn ngược dân không sao sống nổi. Lòng người, mệnh trời đều trở về với người có đức. Nay Thánh thượng lấy con của Kiến Hoàng(62) cháu của Thánh Tông lên làm vua. Nghĩ rằng tổ tông gian nan dựng nghiệp, thương muôn họ phải chịu cảnh đọa đầy. Vì sự duy trì của xã tắc mà dấy binh để trừ tàn khử bạo. Văn Lữ giúp nhà vua giữ yên thiên hạ. Thần như linh thiêng, phù hộ cùng cứu giúp nghiệp lớn. Công việc thành công, Văn Lữ tâu với triều đình để tôn vinh công lao của thần”.

Cầu xong, hàng ngũ chỉnh tề kéo đi, bề tôi và dân chúng không hẹn nhau mà mọi người đều tập trung đi theo, chuẩn bị giỏ cơm, túi nước để đi đón quân của nhà vua. Binh không phải khổ máu dây mũi gươm đao, dân thỏa nguyện mong chờ, như nắng hạn gặp mưa rào, giặc bị tiêu diệt, cung cấm sạch làu, muôn năm bền vững. Đại để, do sự linh thiêng của miếu mạo, Tam cương, Cửu trù(63) được bền vững dài lâu, sự nghiệp lớn lao lại được khôi phục.

Vận nước do đó lại được an, chưa đến một tuần mà đã thành công nhanh chóng. Được như thế, là do đức thánh phù hộ, đạo trời và lòng người giúp sức, quỷ thần cùng tương trợ chăng ?

Ngày 2 tháng 12 năm ấy (1509), Hoàng thượng lên ngôi(64). Nhà vua vỗ về, thi hành nhân nghĩa để thể hiện sự sùng chuộng, muôn họ được ban hàm phẩm trật để tỏ rõ lòng mến mộ. Văn Lữ cùng trăm thần được thưởng công lớn. Nghĩ rằng, công của thần thật lớn lao. Nghe lời ngọc, ban sắc cho xã Tử Trầm, huyện Ninh Sơn. Sai quân dân xây dựng đền thờ, mệnh cho Bộ Công dựng bia, sai thần soạn bài minh để lại mãi mãi. Nhưng thần vốn nông cạn, sao đủ để ca ngợi công đức lớn lao của Hoàng đế, phát huy cái kỳ diệu của thần thánh, bèn đội ơn trọng đãi, kính cẩn vâng theo mà không dám chối từ. Thần trộm nghĩ, đức vốn thụ bẩm ở trời vốn là lẽ xưa nay, do đó mà được vinh hiển là cái đức lớn của quỷ thần vậy. Đại để, mở ra sự nghiệp phi thường cũng là do cái đức đế vương, làm nên nghiệp lớn cũng là do thần sáng suốt giúp sức, sự biến hóa linh diệu, đạo trời lòng người cùng nhau giúp đỡ. Như thế, phải sửa sang đền miếu để sớm tối hương hỏa, báo đáp công ơn của thần. Triều đình ban cho ân điển, khắc vào đá quý để tỏ rõ sự linh ứng vậy. Nghĩ rằng thần lớn lao vĩ đại tập trung cả trời đất, kết tinh linh thiêng của núi sông, cùng bảo hộ cơ đồ bền vững, phù giúp sự nghiệp đến vô cùng, phúc lớn vô tận, tức là núi này vậy. Cùng tồn tại mãi mãi với trời đất. Than ôi ! Tốt đẹp thay!

Minh rằng:

Núi cao rậm rạp
Cây cối tốt xanh
Linh thiêng kết tụ
Chứa chất điềm lành
Dòng sông uốn lượn
Nước biếc lung linh
Thẳm sâu khó lường
Mênh mông rừng núi
Non cao nước sâu
Dấu ấn thần linh
Bốn phương vắng lặng
Vũ trụ bao la
Nơi đây đất phúc
Có một ngôi đền
Lợp bằng cỏ tranh
Cột đá đề chữ
Cao Sơn trứ danh
Uy nghi gò lớn
Có cảm đều thông
Thi hành rộng khắp
Khi gặp gian truân
Trời sinh minh quân
Tây Đô giết giặc
Cùng mang cờ kiếm
Tướng giỏi hăng say
Tập hợp nghĩa dân
Một lòng diệt giặc
Kính cẩn cầu khẩn
Giúp đỡ lớn lao
Tướng lễ ban gia
Bao la như thế
Mọi chốn linh thiêng
Giúp ta tăm tiếng
Hơn bão hơn chớp
Dân mong ngóng tin
Treo cờ thắng trận
Chưa quá một tuần
Đất trời trong sáng
Bởi dựa vào đâu
Dựa vào thần thánh
Báo công thắng lớn
Khẩn khoản tâu bày
Quả được ứng ngay
Hết lòng phù giúp
Cửu trùng đáp lại
ý thánh thiết tha
Xin chọn giao ước
Ngày đẹp trai giới
Rõ rệt không sai
Cử hành trước hết
Khuyên bảo ấp này
Tu sửa liền ngay
Góp công góp của
Nhanh chóng dựng xây
Trụ cột xà rui
Nguy nga lộng lẫy
Miếu mạo tôn nghiêm
Linh thiêng ngời sáng
Nghi ngút khói hương
Suốt năm dân kính
Ghi việc ghi công
Viết vào đá quý
Xuân cúng thu thờ
Dựa vào khí tốt
Tiếng tăm lẫy lừng
Giúp nước thịnh hưng
Muôn năm tích phúc
Quảng bá tốt lành
Trước đền trấn yểm
Chiếu mãi vô cùng.

Ngày tốt, tháng trọng thu (tháng 8), năm Canh Ngọ, niên hiệu Hồng Thuận thứ 2 (1510).

Tiến thận Quang lộc đại phu, Thiếu bảo Lễ bộ thượng thư, Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế tửu, Tri kinh diên sự thần Lê Tung kính cẩn vâng soạn.

Hiển cung đại phu, Trung thư giám, Trung thư xá nhân, thần Đỗ Như Chi kính cẩn viết. Thí An bí doanh tạo sở san thư tượng thạch phó, thần Bùi Nhữ Dịch kính cẩn khắc chữ(17).

 

Nguyễn Quang Hà, Nguyễn Quang Ngọc

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 2(69) năm 2005

 

Chú thích:

(1) Quốc tử giám Tế tửu là một chức quan đời xưa. trong bia khắc là “Kiêm Quốc tử giám Tế Tri kinh diên sự”: thiếu chữ “tửu” (酒).

(2) Có thể xem bản thần tích, thần sắc của thôn Miếu, xã Long Châu thờ Cao Sơn đại vương của tổng Tiên Lữ, Hà Đông, ký hiệu Viện Thông tin khoa học xã hội Q418/1125 và của thôn San, ký hiệu Q4 18/II 24.

(3) Huyện Phụng Hóa trong sách Hồng Đức bản đồ (bản chữ Hán) lưu trữ tại Đông Dương văn khố Tokyo (Nhật Bản) ký hiệu X-2-24 tờ 6 viết: Huyện Phụng Hóa (phủ Thiên Quan, xứ Thanh Hoa) có 27 xã, 1 trang, 1 trại.

(4) Bến Bồ Đề nay thuộc huyện Gia Lâm - Hà Nội.

(5) Chúng tôi gọi tấm bia ở xóm San, xã Phụng Châu dưới chân núi Tử Trầm là bản (A) - ký hiệu Viện Nghiên cứu Hán Nôm N0 1954. Bản ở đình Kim Liên là bản (B) - N0 1025-1026. Hiện nay Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ một quyển sách chữ Hán, ký hiệu VHT.42 chép lại bản (A) có sửa chữa bằng bút chì, (đây là một cuốn sách mới chép gần đây). Xem Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1992, tr. 61 giới thiệu bản (B) là do Bùi Nhữ Trạch khắc bia, bia lập năm Cảnh Hưng thứ 23 (1762). Tên bia là Cao Sơn Đại vương thần từ bi minh. Khi dịch bản (A), sách Chương Mỹ xưa và nay, Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây, 2003, tr.678 lại viết là Bùi Văn Dịch khắc. Đúng ra là Bùi Nhữ Dịch khắc, bia lập năm Cảnh Hưng thứ 33 (1772) và bia không có tên, bản (B) dòng đầu ghi Cao Sơn Đại vương từ minh tịnh tự.

(6) Xem Đỉnh khế Đại Việt lịch triều đăng khoa lục của Nguyễn Hoãn năm Cảnh Hưng 40 (1779) ký hiệu VHv.650 - 1 quyển tờ 30a hoặc xem Các nhà khoa bảng Việt Nam (Ngô Đức Thọ chủ biên), Nxb. Văn học, H. 1993, tr.182.

(7) Hiện nay, tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu trữ một số sách chép lại tác phẩm của Lê Tung:

- Sách chép tay bài văn bia đền Cao Sơn đại vương ở ứng Hòa rồi sửa chữa bằng bút chì, kí hiệu VHt.42.

Đại Nam bi ký thi trướng bảo tập: A.222.

Nhàn ái thần từ lục: một bản viết 32 tr, 32x22,5cm, A.710. Viết về sự tích của Đỗ Kính Tu có lời bình của Ngô Sĩ Liên, Lê Tung. Ngoài ra còn một số bản thần phả mang tên Lê Tung soạn. Song về về niên đại của những bản thần này có nhiều nghi vấn. (Xem thêm bài Nhà sử học Lê Tung và lạc khoản trong một số bản thần phả hiện có của Nguyễn Quang Trung, Lê Kim Thuyên, Thông báo Hán Nôm học năm 1997, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.664-670.

(8) Việt sử thông giám tổng luận do Lê Tung soạn. Theo Phan Huy Chú, khi Vũ Quỳnh làm xong sách Đại Việt thông giám thông khảo, dâng lên vua, Tương Dực muốn tóm tắt những điều quan trọng trong bộ sử ấy và có phê phán làm thành bài tổng luận để đọc cho tiện, bèn sai Lê Tung soạn (chú thích của Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT), Nxb. KHXH, H. 1993, tập III, tr.173. Bản chữ Hán, Bản kỷ (BK) quyển XV - tờ 24b.

(9) Bia mang số 11 ở Văn Miếu Hà Nội hoặc thác bản văn bia Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, NO 1369.

(10) Đại Việt sử ký tiền biên (ĐVSKTB), Nxb. KHXH, H. 1997, tr.28 (bản chữ Hán tờ 111b) ghi là “Đôn Hòa bá”. Theo ĐVSKTT và hai tấm bia (A), (B) đều ghi là “Đôn Thư bá”.

(11) ĐVSKTT - BK, q. XV, tờ 24b, bản tiếng Việt Sđd., tr.72. Xem thêm: Hồng Thuận lục niên Giáp Tuất khoa Tiến sĩ đề danh ký, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, N0 1356.

(12) ĐVSKTT - BK, q. XIV tờ 24b, bản tiếng Việt, T. III, Sđd., tr.40.

(13) ĐVSKTT - BK, q. XIV, tờ 50b, bản tiếng Việt, T. III, Sđd., tr.97-98.

(14) Tuyển tập văn bia Hà Nội (TTVBHN), Nxb. KHXH, H. 1978, tr.16-23; tr.118-123 chép nhầm là “Hùng đồ” (雄 圖).

(15) Bản (B) viết nhầm thành chữ “thị” (示) vì chữ “thị” (示) và chữ “thiên (天) tự dạng giống nhau.

(16) TTVBHN ghi là chữ “kỳ” (期) theo bản gốc đúng ra phải là (祈).

(17) Bản (A) viết là “dân” (民), bản (B) viết là “thân” (親) cả hai chữ này đều thông nghĩa.

(18) TTVBHN thiếu chữ “quân” (軍).

(19) TTVBHN thiếu chữ “tập” (集).

(20) Bản (A) viết là

, bản (B) viết là (屯). Riêng chữ (屯) có 2 âm đọc “truân” và “đồn”. Ở đây, chữ (屯) phải đọc là “truân” (nghĩa là khó khăn) mới thông nghĩa. Có lẽ bản (A) viết lộn chữ “truân” (屯) thành chữ “đồn”().

(21) Bản (B) thay 3 chữ “Ninh Sơn huyện” (寧 山 縣) bằng chữ “Phụng Hóa huyện” (奉 化 縣) (xem thêm chú thích 3).

(22) Bản (B) viết: “cái dĩ mao thảo” (蓋 以 茅 草) bản (A) thiếu chữ “dĩ” (以).

(23) TTVBHN viết nhầm chữ “đổ” () thành chữ “thị” (視).

(24) Bản (B) viết chữ “Đồng” (同) (cả câu là: cùng muôn họ chịu cảnh đọa đầy); Bản (A) viết là chữ “mẫn” (憫), (cả câu là : thương muôn họ chịu cảnh đọa đầy) đều có nghĩa.

(25) TTVBHN ghi “ích diên” (益 延). Theo bản (B) viết là “ích miên” (益 綿). Bản (A) viết là “ích cẩm” (益 錦) có lẽ bản (A) khắc nhầm.

(26) Bản (A) khắc là “yên” (焉), bản (B) khắc là “chính” (正) ở đây phải là “yên” (焉) mới đúng. Bản (B) khắc nhầm.

(27) TTVBHN viết là “thập nguyệt” (十 月). Xin sửa lại là “thập nhị nguyệt” (十 二 月) .

(28) Bản (A) viết là “linh phương” ( 方). Bản (B) khắc là “đa phương” (多 方), chúng tôi theo bản (B),

(29) Bản (A), (B) đều ghi là “vu triệu tính” (于 兆 姓), “vu bách thần” (于 百 神). TTVBHN ghi là “vu bách tính (于 百 姓), “vu bách thần” (于 百 神).

(30) Bản (B) thay 6 chữ “Ninh Sơn huyện, Tử Trầm xã” (寧 山 縣, 紫 沉 社) bằng 3 chữ “Phụng Hóa huyện” (奉 化 縣).

(31) Bản (A) đều viết là “thần đẳng soạn minh” (臣 等 撰 銘). TTVBHN ghi nhầm là “thần đẳng soạn bi” (臣 等 撰 碑).

(32) TTVBHN thiếu 2 chữ “phát huy” (發 揮).

(33) TTVBHN viết “cổ kim định lý” (古 今 定 理). Theo Bản (A), (B) phải là “cổ kim chi định lý” (古 今 之 定 理).

(34) Bản (B) khắc là “kỳ du cửu hĩ” (其 愈 久 矣) thêm chữ “cửu” (久).

(35) Chữ “thương” (蒼) không kiêng húy. Xem Ngô Đức Thọ: Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb. Văn hóa, H. 1997, tr.70-72.

(36) TTVBHN ghi là “uyên hồi” (淵 洄) xin sửa lại theo đúng nguyên bản là “hồi uyên” (洄 淵).

(37) Bản (A) là : “bàn vô phương dân” (磅 無 方 民) bản (B) viết là “bàn bạc vô phương” (磅 礡 無 方), chúng tôi theo bản (B).

(38) TTVBHN ghi là “hùng thị” (雄 視), không có nghĩa. Xin sửa theo bản gốc là “xác thị” (確 視).

(39) Bản (A) viết là chữ “đồn” () Bản (B) viết nhầm “truân” (屯). Vì 2 chữ này tự dạng giống nhau. Theo chúng tôi bản (A) khắc nhầm, phải là “truân” mới đúng âm vận và thông nghĩa hơn.

(40) TTVBHN chép nhầm là “lưỡng đô chấn thi” (兩 都 振 施) đúng ra phải là “tây đô phấn thi” (西 都 奮 施). (Tây Đô giết giặc)

(41) TTVBHN chép nhầm là “phong tiền” (風 前), nguyên bản là “phong truyền” (風 傳).

(42) Bản (B) khắc là “cửu trùng trùng du cửu” (九 重 重 愈 久) thừa chữ “trùng” (重) (chữ này bị xóa nhưng còn khá rõ).

(43) Bản (A) là “cưu công trợ tài” (鳩 功 助 材), Bản (B) là “cưu công sức tài” (鳩 功 飭 材).

(44) Bản (A) viết là “hoa tự” (華 字) , Bản (B) là “hoa vũ” (華 宇).

(45) TTVBHN chép nhầm là “diệu tập” (耀 習) đúng ra phải là “diệu tập” (耀 熠).

(46) Bản (A) là “hương hỏa minh yên” (香 火 明 煙), bản (B) là “hương hỏa minh nhân” (香 火 明 ) vì bản (B) viết nhầm bộ “hỏa” (火) thành bộ “thị” (示) (cùng giống nhau về nghĩa).

(47) Bản (A) viết là “liệt phương ích hiển” (列 芳 益 顯), bản (B) viết là “lưu phương ích hiển” (流 芳 益 顯), chúng tôi theo bản (B).

(48) Bản )A) viết chữ “cổ” (估) (nghĩa là đánh giá). Bản (B) khắc chữ “hữu” (佑) (chữ “hữu” nghĩa là giúp đỡ). ở đây phải là “hữu”, Bản (A) khắc nhầm, vì tự dạng hai chữ gần giống nhau.

(49) TTVBHN viết nhầm là “Hồng Đức tam niên” (洪 德 三 年), đúng ra phải là “Hồng Đức nhị niên” (洪 德 二 年) .

(50) Bản (A) viết là “tiến thận quang lộc đại phu” (進 慎 光 祿 大 夫) bản (B) viết là “quang tiến thận lộc đại phu” (光 進 慎 祿 大 夫), chúng tôi theo bản (A).

(51) Nguyên văn chữ “thương cơ” (蒼 姬). Chữ “Thương” (蒼) là họ của Chu Vũ Vương, còn chữ “cơ” (姬) chưa rõ nghĩa.

(52) Lưu Bang sáng lập nhà Hán, theo truyền thuyết là con của Xích Đế đã chém chết con rắn trắng trước khởi nghĩa.

(53) Nguyên văn: “bạch y phụ lão” (白 衣 父 老) có lẽ là nhắc lại điển tích Thái tử Đan và đoàn quân tiễn Kinh Kha qua sông Dịch sang đất Tần, đầu đội khăn trắng, áo trắng tiễn đưa và ca bài hát: “Gió thổi sông Dịch lạnh tái tê - Tráng sĩ một đi không trở về” (Phong tiêu tiêu hề Dịch thủy hàn - Tráng sĩ nhất khứ, bất phục hoàn) ( Chiến Quốc sách - Yên sách ).

(54) Lệ Mẫn tức Lê Uy Mục. Theo các sách Việt sử cương mục tiết yếu (VSCMTY) Hồng Thuận trung hưng thực lục và ĐVSKTT (đều chép là “Mẫn Lệ công”. Nhưng ở hai bia (A), (B) đều viết là “Lệ Mẫn”.

(55) Điện Trường Lạc (thời Lê) được nhắc đến trong ĐVSKTT, BK, q. XVI, tờ 40a; Đại Việt Lam Sơn kính lăng bi N0 19724; VSCMTY, Sđd., tr.382. Trường Lạc còn là tên gọi của mẹ vua Hiến Tông. Năm 1504, khi Uy Mục lên ngôi giết bà Trường Lạc, duồng đuổi người họ tông thất và công thần về địa phương Thanh Hóa. Năm 2003, tiến hành khai quật tại Hội trường Ba Đình cũng phát hiện nhiều hiện vật khắc chữ “Trường Lạc điện”, “Trường Lạc khố”.

(56) Nguyễn Bá Lân sau được ban quốc tính là Lê Bá Lân. Nhưng bia này vẫn ghi họ của là Nguyễn Bá Lân. Xem ĐVSKTT, q. XIV, tờ 1b; q. XV, tờ 1a. Bản tiếng Việt, Sđd., tr.52-53.

(57) Nguyễn Hoằng Dụ là con của Nguyễn Văn Lang - một vị khai quốc công thần vào bậc nhất dưới thời Lê Tương Dực (xem chú thích 16).

(58) Nguyễn Văn Lữ là một vị khai quốc công thần cùng với Nguyễn Hoằng Dụ, Nguyễn Văn Lang, Nguyễn Bá Lân, Lê Tung... giúp Lê Tương Dực lên ngôi.

(59) Nguyên văn “bạch mao hoàng việt” chữ trong thiên Mục thệ của Kinh Thư: “Vương tá trượng hoàng việt, hữu bỉnh bạch mao” (Nghĩa là: vua Vũ Vương tay trái chống búa dát vàng, tay phải cầm cờ tiết mao trắng). Thiên Mục thệ viết về việc vua Vũ Vương cùng tướng sĩ làm lễ tuyên thệ ở đất Mục trước khi đi chinh phạt vua Trụ.

(60) Huyện Ninh Sơn đến năm 1533 (Lê Trang Tông lên ngôi - húy là Ninh) đổi thành huyện Yên Sơn. Đến thế kỷ XIX, trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú viết: "Chúc Sơn ở bên hữu núi Ninh Sơn, có ngọn núi tròn nổi lên, xung quanh có nhiều rừng vây bọc" (Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. KHXH, H. 1992, T 1, tr.89.

(61) Đoan Khánh tức niên hiệu của vua Uy Mục, tên húy là Tuấn (1479-1509), ở ngôi 5 năm (1505-1509).

(62) Sử chép: "Khi Dinh lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Hồng Thuận, truy tôn cha là Kiến Vương Tân làm Kiến Hoàng đế", ĐVSKTT, BK, q. XV, tờ 1a; VSCMTY, Sđd., tr.387.

(63) Tam cương, Cửu trù: theo học thuyết Nho giáo, "Tam cương" là ba mối quan hệ: quân thần, phụ tử, phu phụ (đạo vua tôi, cha con, vợ chồng). “Cửu trù”: chín phép lớn trị thiên hạ của thời cổ ghi trong Kinh Thư thiên Hồng Phạm.

(64) Xem ĐVSKTT, BK, q. XV, tờ 1b, 2a, bản tiếng Việt, Sđd., tr.52-53.

(65) Triện Lý, Lệ Chung: Lý Tư, đời Tấn đổi kiểu chữ Đại triện thành chữ Tiểu triện. Chung Do, đời Tam Quốc là người nổi tiếng viết chữ Lệ đẹp. Cả câu này ý nói kén chọn người viết chữ đẹp để khắc vào bia đá./.

Ngôn ngữ** gồm tiếng nói và chữ viết. Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “chữ viết là hệ thống ký hiệu bằng đường nét đặt ra để ghi tiếng nói”. Chúng tôi thiển nghĩ Chữ viết là hệ thống ký hiệu thị giác dưới dạng văn bản dùng để ghi tiếng nói và ý nghĩ của loài người. Ở đây thêm “ghi ý nghĩ” vì người ta nghĩ nhiều hơn nói, không nói được vẫn có thể dùng chữ để biểu thị ý nghĩ. Thêm “dưới dạng văn bản” để phân biệt với loại ngôn ngữ bằng tay mà người câm điếc dùng, cũng là hệ ký hiệu thị giác ghi tiếng nói và ý nghĩ nhưng không phải là chữ viết. Chữ viết gắn bó chặt chẽ với tiếng nói, khi nghiên cứu chữ viết phải xem xét mối quan hệ cực kỳ quan trọng này.

Do nguyên nhân lịch sử, người Việt Nam luôn quan tâm tới chữ Hán. Vả lại đây là loại chữ viết độc đáo và có nhiều người dùng; nghiên cứu chữ Hán có thể giúp làm rõ các vấn đề về ngôn ngữ học (NNH), một lĩnh vực khoa học xã hội nhân văn cực kỳ phức tạp.

Tính chất chủ yếu của chữ Hán

Khác với các loại chữ viết còn lại, chữ Hán được cấu tạo chủ yếu dựa vào ý nghĩa mà chữ thể hiện chứ không dựa vào ngữ âm; mỗi chữ biểu thị một ý nghĩa, nhìn chữ không đọc được âm; thông tin chủ yếu mà tự hình đem lại là ý nghĩa của chữ, không phải âm đọc; nghĩa là chữ không có quan hệ trực tiếp với ngôn ngữ nói. Đặc tính này làm cho chữ Hán có một số phận đặc biệt.

Căn cứ vào phương thức chữ viết dùng để biểu đạt ngôn ngữ, tổ sư NNH thế giới Ferdinand de Saussure (1857-1913) chia chữ viết của loài người làm hai hệ thống lớn là chữ biểu ý (chữ ghi ý, ideogram) và chữ biểu âm (chữ ghi âm, phonogram), và xác định chữ Hán là loại chữ biểu ý. Quan điểm đúng đắn này được nhiều nhà NNH Trung Quốc (TQ) tán thành. Nhưng có người cho rằng từ “chữ biểu ý” dễ gây nhầm lẫn [xem Tô Bồi Thành – từ đây ký hiệu là SĐD, trang14].

Tính biểu ý làm cho chữ Hán có những ưu điểm độc đáo cùng các nhược điểm nghiêm trọng: khó hiểu, khó học, khó viết, khó nhớ, khó dùng.

Năm 1957, Châu Hữu Quang (1906-2017) nêu quan điểm: Chữ viết trải qua ba giai đoạn phát triển là chữ hình ý, chữ ý âm và chữ biểu âm. Các loại chữ nguyên thủy đều dùng phương pháp biểu hình và biểu ý để biểu đạt ngôn ngữ, gọi là chữ hình ý (ví dụ chữ tượng hình), chưa biểu âm; về sau phát triển thành chữ ý âm (ideo-phonogram), vận dụng tổng hợp hai phương thức biểu ý và biểu âm để biểu đạt ngôn ngữ. Chữ Hán, chữ Ai Cập cổ, chữ hình nêm, chữ Maya thuộc loại chữ ý âm. Chữ biểu âm là giai đoạn phát triển cuối cùng. Chữ Ai Cập cổ và chữ hình nêm trải qua 2000 năm thai nghén sinh ra chữ cái, hình thành chữ biểu âm.[SĐD tr. 20].     

Triệu Nguyên Nhiệm (1892-1982) coi chữ Hán là chữ ngữ tố (logogram); ở đây ngữ tố (morpheme) là đơn vị nhỏ nhất kết hợp ngữ âm với ngữ nghĩa; đơn vị của chữ ngữ tố là chữ (tự, không phải là chữ cái), mỗi chữ đều có ý nghĩa; mỗi chữ Hán thể hiện một ngữ tố đơn âm của Hán ngữ, ghi một âm tiết, là một từ. Chữ biểu âm không thể hiện ngữ tố, nó là chữ âm tố, nói chung mỗi chữ cái chỉ thể hiện một âm tố, không thể hiện nghĩa; âm tố còn gọi âm vị; có thể ghép các âm tố (chữ cái) thành một âm tiết. Lã Thúc Tương (1904-1998) tán thành Triệu, và nói Chữ Hán là sự kết hợp hình, âm, nghĩa; tất cả các loại chữ khác đều chỉ là sự kết hợp hình và âm. Như vậy thực ra chẳng khác gì nói chữ Hán là chữ biểu ý. [SĐD tr.9]

Tóm lại, dù xếp vào loại nào thì chữ Hán chủ yếu vẫn chỉ là ký hiệu ghi ý của ngôn ngữ. Ngay cả chữ hình thanh (chiếm hơn 80% tổng số chữ Hán) tuy có thành phần biểu âm gọi là “thanh bàng” nhưng không thể dựa vào thanh bàng để đọc âm của chữ. Như vậy, biểu ý là đặc tính chủ yếu của chữ Hán. Vì thế chữ Hán thích hợp với tình trạng Hán ngữ có quá ít âm tiết và quá nhiều phương ngữ. Nhờ dùng chữ Hán, người TQ khác vùng nghe không hiểu tiếng của nhau nhưng vẫn có thể giao tiếp với nhau bằng chữ viết. Tính biểu ý làm cho chữ Hán có những ưu điểm độc đáo cùng các nhược điểm nghiêm trọng: khó hiểu, khó học, khó viết, khó nhớ, khó dùng1. Cho tới nay vẫn có các đánh giá khác nhau về chữ Hán. Việc chấp nhận quan điểm “Chữ Hán là báu vật của văn minh cổ đại, lại là gánh nặng của văn minh hiện đại” được coi là một bước tiến của giới NNH TQ [SĐD tr.626].    

Vì sao chữ Hán thời cổ không biến đổi, tiến hóa?

Theo định nghĩa, chữ viết là một loại công cụ của tư duy; mà đã là công cụ thì phải luôn cải tiến nhằm nâng cao tính tiện dụng. Tất cả các loại chữ viết đều sớm cải tiến theo hướng ngày càng tiện sử dụng. Chữ Quốc ngữ do các giáo sĩ châu Âu sáng tạo vốn là công cụ để họ truyền bá đạo Ki-tô cho dân ta, qua nhiều cải tiến đã đạt yêu cầu ghi được 100% âm tiếng Việt và sau mấy trăm năm đã trở thành công cụ kỳ diệu giải phóng trí tuệ người Việt (lời học giả Phạm Quỳnh).

20190703 chu Han1

Chữ Hán thích hợp với tình trạng Hán ngữ có quá ít âm tiết và quá nhiều phương ngữ. Nhờ dùng chữ Hán, người TQ khác vùng nghe không hiểu tiếng của nhau nhưng vẫn có thể giao tiếp bằng chữ viết. Nguồn bản đồ: chinahighlights.com

Riêng chữ Hán mới ra đời đã bị thần thánh hóa, bị sùng bái, coi là kết tinh của văn minh Trung Hoa, trở thành thứ vật thiêng chẳng ai dám động chạm2. Là sở hữu riêng của tầng lớp trên, chữ Hán thời xưa chủ yếu ghi thứ “văn ngôn” cực khó hiểu, khác xa ngôn ngữ nói và không có những chữ ghi tiếng nói của dân, gây ra tình trạng “hữu âm vô tự”. Chế độ phong kiến lợi dụng sự thần bí, khó hiểu của chữ Hán để thực thi chính sách ngu dân nhằm bảo vệ ách độc tài chuyên chế. Những điều đó đã cản trở sự phát triển chữ Hán và đóng góp của nó cho tiến bộ xã hội.

Do thiếu động lực biến đổi, chữ Hán cổ không đi lên con đường tiến hóa chung như các loại chữ viết khác. Châu Hữu Quang nhận xét: Từ chữ Giáp Cốt cho tới chữ Hán hiện đại, nguyên tắc tổ chức chữ là như nhau [SĐD tr.35]. Người TQ nói việc ngày nay họ vẫn đọc hiểu loại chữ Hán viết ở đời Tần đã chứng tỏ văn minh Trung Hoa là nền văn minh cổ duy nhất tồn tại tới nay, và điều đó làm họ vô cùng tự hào. Đúng là các loại chữ cổ khác hiện rất ít người đọc được, vì chúng đều đã biến mất trong quá trình tiến hóa thành loại chữ tiên tiến hơn.

Phong trào cải cách chữ Hán

Tình trạng chữ viết ít biến đổi, ít tiến hóa thực ra là điều đáng chê trách. Nó làm cho các nhược điểm nghiêm trọng của chữ Hán tồn tại quá lâu dài, kìm hãm sự phát triển văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật... Hậu quả là cuối thế kỷ XIX, sau khi tiếp xúc với văn minh Âu Mỹ, giới tinh hoa TQ đã lôi chữ Hán ra khỏi điện thờ, phê phán, lên án nó là loại chữ lạc hậu và đòi sửa đổi, thay bằng chữ biểu âm. Từ đó trở đi các đời chính quyền TQ đều ra sức tiến hành cải cách chữ Hán.

Tháng 12/1954 Nhà nước TQ thành lập Ủy ban Cải cách chữ viết trực thuộc Chính phủ. Ủy ban này đã triển khai cải cách chữ Hán với quy mô lớn nhất trong lịch sử NNH thế giới và đã thu được một số kết quả khả quan.

Luật ngôn ngữ văn tự thông dụng Nhà nước TQ thi hành từ 1/1/2001 đã luật hóa việc sử dụng ba thành tựu cải cách: - Thay hơn 2200 chữ phồn thể bằng chữ giản thể; - Phương án ghép âm (Pinyin) Hán ngữ dùng chữ Latin (Scheme for Chinese phonetic alphabet); - Chuẩn hóa cấu hình và âm đọc chữ, sàng lọc bỏ một số chữ.

Các cải cách trên đã giảm bớt khó khăn khi học và dùng chữ Hán, nhờ thế nâng cao được trình độ biết chữ của dân, phổ cập tiếng Phổ thông, thống nhất tiếng nói trong cả nước, đưa được chữ Hán vào bàn phím máy tính. Phương án Pinyin Hán ngữ trở thành công cụ ghi âm chữ Hán thuận tiện, năm 1982 được công nhận là Tiêu chuẩn quốc tế ghi âm Hán ngữ (ISO 7098), góp công đầu cho việc quốc tế hóa Hán ngữ. TQ hiện áp dụng chế độ gọi là “Song văn”, tức đồng thời sử dụng chữ Hán và chữ Pinyin Hán ngữ; chữ Pinyin không phải là loại chữ mới, chỉ là công cụ biểu âm có tính hỗ trợ nhằm bù đắp khiếm khuyết của chữ Hán là nhìn chữ mà không đọc được âm. Học sinh tiểu học phải học chữ Pinyin Hán ngữ trước khi học chữ Hán. Hầu hết dân TQ hiện đã nắm vững “Song văn”, sử dụng thành thạo chữ Pinyin Latin trên máy tính và smartphone.

Do thiếu động lực biến đổi, chữ Hán cổ không đi lên con đường tiến hóa chung như các loại chữ viết khác.

Tuy vậy các cải tiến trên vẫn chưa khắc phục được những nhược điểm lớn của chữ Hán như số lượng chữ quá nhiều không ai có thể nhớ hết; chữ đồng âm, chữ đa âm quá nhiều gây nhầm lẫn khi sử dụng; khó có thể tạo ra chữ mới... Ngoài ra một số người TQ chưa tán thành chữ giản thể. Người Đài Loan chưa chấp nhận các cải cách chữ Hán do đại lục TQ thực hiện. Chữ Hán vẫn khó quốc tế hóa, cản trở nâng cao sức mạnh mềm của TQ. Ví dụ chữ Hán được 20% nhân loại sử dụng nhưng tỷ lệ dùng để soạn văn bản ở Liên Hợp Quốc lại dưới 1%, kém xa Anh ngữ (80%). 15 năm qua TQ mở cả nghìn viện và lớp Khổng Tử dạy Hán ngữ miễn phí trên toàn cầu nhưng hiệu quả thu được còn là dấu hỏi.

Các cải cách chưa đạt yêu cầu của Chủ tịch Mao: Phải đi theo phương hướng chung của chữ viết thế giới là pinyin hóa. Lý do: các nghiên cứu cho thấy đi theo hướng đó sẽ thất bại. Rốt cuộc dự án “Latin hóa chữ Hán” đã bị gác lại, tức không còn đặt vấn đề thay chữ Hán nữa  – đây được coi là một tiến bộ [SĐD tr.626]. Từ 16/12/1985 Ủy ban Cải cách chữ viết đổi tên thành Ủy ban Công tác ngôn ngữ chữ viết, từ 1998 đưa về Bộ Giáo dục, quyền lực thu hẹp.

20190703 chu Han

Chữ Hán từ khi mới ra đời đã bị thần thánh hóa, sùng bái, được coi là kết tinh của văn minh Trung Hoa. Tranh lụa về Phục Hy, người được cho là phát minh ra chữ viết ở TQ. Nguồn: wikipedia.

Tóm lại, chữ Hán sau nhiều thăng trầm về cơ bản vẫn giữ nguyên vai trò cũ. Cải cách chữ Hán đành dừng lại ở mức chấp nhận chế độ “song văn” chắp vá; từ nay trở đi người TQ tiếp tục dùng chữ Hán với các cải tiến đã được luật hóa.

Có lẽ hiện nay TQ đã không còn cơ hội thay chữ Hán. Họ bắt đầu cải cách chữ viết quá muộn, giả thử có tạo ra một loại chữ mới thì cũng khó làm cho 1,5 tỷ người chấp nhận sử dụng, bởi lẽ họ đã quen dùng thứ chữ tổ tiên để lại từ mấy nghìn năm trước.

Nhưng các nước thuộc vành đai Hán ngữ lại sớm mạnh dạn cải cách chữ Hán. Thế kỷ XII, Việt Nam phát triển chữ Hán thành chữ Nôm ghi được tiếng mẹ đẻ, làm nên nền văn học tiếng Việt rực rỡ một thời. Thế kỷ XV người Triều Tiên sáng tạo hệ chữ Hangul có tính biểu âm thay cho chữ Hán. Thế kỷ VIII người Nhật làm ra hệ chữ Kana biểu âm, nhờ thế giảm được 5/6 số chữ Hán cần dùng (còn 1850 chữ). Cuối thế kỷ XIX họ lại đi đầu hiện đại hóa Hán ngữ3. Thiết nghĩ hiện nay do người TQ đã quen dùng chữ Pinyin Latin, nên họ có thể áp dụng kinh nghiệm của Nhật là dùng thật nhiều từ ngoại đã quốc tế hóa thay cho chữ vuông, ví dụ computer, internet, fan, v.v… như vậy có thể giảm lượng chữ Hán và lượng chữ/từ đồng âm, đa âm.

Chữ biểu ý thích hợp với Hán ngữ

Kết quả cải cách chữ viết ở TQ cho thấy Chữ biểu ý là loại chữ viết thích hợp với Hán ngữ; mọi loại chữ biểu âm đều không thích hợp.

Tuy vậy giới NNH TQ chưa ngừng tranh cãi. Phái theo “Thuyết chữ Hán ưu việt” vẫn đòi “sửa sai” các cải cách chữ Hán... Đúng là còn quá nhiều vấn đề cần bàn. Từ góc nhìn của người sống trong môi trường chữ viết Việt Nam giàu tính biểu âm, chúng tôi thiết nghĩ chính là do có tính biểu ý mà chữ Hán thích hợp với Hán ngữ - vấn đề này xem ra cần nhấn mạnh. Thậm chí có nhà NNH TQ nói chữ Hán là chữ biểu âm! Phải chăng họ ngại chữ Hán bị gọi là “chữ biểu ý”, loại chữ bị coi là lạc hậu? Ví dụ Tằng Tính Sơ nói“Xưa nay chưa từng có loại chữ viết nào thực hiện được chức năng nhìn chữ mà biết âm đọc của chữ” [SĐD tr.597]Nhận xét này vơ đũa cả nắm hạ thấp năng lực biểu âm của chữ biểu âm, như thế là không đúng. Chữ Quốc ngữ Việt Nam nói thế nào viết thế ấy, bất cứ âm tiếng Việt nào cũng viết được thành chữ, nhìn chữ là đọc được âm.         

Có nhiều trở ngại lớn về mặt tâm lý, xã hội, lịch sử cũng như về NNH khiến cho hiện nay không thể nào sửa chữ Hán thành chữ biểu âm. Dưới đây chỉ bàn về mặt NNH.

Trở ngại không thể vượt qua là chữ Hán có quá nhiều chữ đồng âm. Đây là hậu quả của tình trạng Hán ngữ có quá ít âm tiết – vấn đề này chưa được bàn nhiều. Âm tiết (syllable) là đơn vị kết cấu tự nhiên nhất trong ngữ âm, là đơn vị phát âm ngắn nhất. Hán ngữ, Việt ngữ là ngôn ngữ đơn âm tiết, mỗi từ chỉ có một âm tiết, tức mỗi âm tiết là một từ. Anh, Pháp, Nga ngữ… là ngôn ngữ đa âm tiết cho nên hầu như không có vấn đề từ đồng âm.

Thống kê chữ đồng âm khác nghĩa trong Tự điển Tân Hoa bản thứ 10, chúng tôi thấy 10.000 đơn tự trong sách chỉ có cả thảy 415 âm tiết (không xét thanh điệu), trong đó 22 âm tiết có 1 chữ4; còn lại 393 âm tiết có nhiều chữ khác tự hình, khác nghĩa. Tổng số chữ Hán khoảng 80-100 nghìn; đem chia cho 393, suy ra mỗi âm tiết có hàng chục chữ đồng âm. Như [yi] có 135 chữ, [xi] – 123, [ji] – 122, [yu] – 118, [fu] – 98… Nếu dùng “Từ Hải” để thống kê, do sách có gần 20 nghìn đơn tự nên riêng âm [yì] (thanh điệu huyền) đã có 195 chữ đồng âm [SĐD tr.442]. Thật bất tiện khi nghe hoặc khi đánh máy một âm [yì], phải từ 195 chữ chọn ra một chữ cần thiết.   

Nhiều chữ đồng âm dẫn đến nhiều từ đồng âm. Như các từ chính thị, chính thức, chính sự, chính thất,… đều cùng một âm [zhèng shì]; từ công kích và công kê (gà trống) cùng âm [gong ji]; âm [mủ ji] có thể hiểu là gà mái hoặc gà trống; tên các loài vật tê giác, đỉa, dế, đều cùng âm [xi]… Chữ/từ đồng âm quá nhiều làm cho khi nghe thì dễ hiểu nhầm, khi viết thì dễ viết sai. Có khi người nói buộc phải viết ra chữ cho người nghe xem thì mới hiểu; như khi nói tên người tên đất.         

Giả thử sửa chữ Hán thành chữ biểu âm thì khi đọc chữ sẽ lẫn lộn các khái niệm cần diễn tả. Triệu Nguyên Nhiệm từng viết một đoạn “kỳ văn” gồm 95 chữ Hán5, tất cả đều đọc cùng một âm [shi]; nhìn chữ Hán thì có thể hiểu nhưng nếu nghe đọc thì sẽ chẳng thể hiểu gì; khi nhìn chữ Pinyin Latin cũng vậy, vì tất cả đều viết bằng một từ shi.

Ngoài ra chữ Hán còn có nhiều chữ đa âm đa nghĩa, nhìn chữ không biết đọc theo âm nào, hiểu theo nghĩa nào. Có chữ đọc theo 5 âm! Chữ đa âm chiếm khoảng 10% tổng số chữ Hán, chiếm 17% trong 2000 chữ thường dùng. Chữ biểu âm không có vấn đề rắc rối này.

Thực ra ngôn ngữ nào cũng có từ đồng âm, bởi lẽ số lượng ngữ âm mà thanh quản con người phát ra được là có giới hạn, trong khi số lượng từ cần dùng lại nhiều hơn; nếu từ đồng âm ít thì có thể phân biệt theo ngữ cảnh; nếu quá nhiều thì khó phân biệt.

Nói cho đến cùng, chữ/từ đồng âm quá nhiều hoặc âm tiết quá ít cũng chẳng phải là lỗi của Hán ngữ. Thiển nghĩ vấn đề này liên quan tới cấu tạo thanh quản của người Hán: Không rõ vì sao họ không phát âm được một số âm và âm tiết, như âm “b”, “đ”, “v”, “r” rung, “ng”, “nh” v.v… cùng nhiều âm tiết có trong ngôn ngữ khác. So sánh lượng âm tiết trong hai ngôn ngữ đơn âm tiết là Việt ngữ và Hán ngữ cho thấy, ở các âm tiết bắt đầu bằng âm a, Hán ngữ có 5 (a, ai, an, ang, ao), Việt ngữ có 29 (kể cả âm tiết bắt đầu bằng âm ă, â); âm tiết bắt đầu bằng âm o: Hán ngữ có 2, Việt ngữ có 32 (kể cả ô, ơ)…

Việc chấp nhận quan điểm “Chữ Hán là báu vật của văn minh cổ đại, lại là gánh nặng của văn minh hiện đại” được coi là một bước tiến của giới NNH TQ.

Hiện chưa có số liệu chính thức về tổng số âm tiết của tiếng Việt. Theo Luong Hieu Thi’s blog, tiếng Việt có 17.974 âm tiết6. Do giàu âm tiết nên tiếng Việt hầu như không có vấn đề từ đồng âm. Hán ngữ vì quá nghèo âm tiết nên có nhiều chữ/từ đồng âm; chỉ chữ biểu ý mới phân biệt được ý nghĩa của các chữ/từ đó. Ít âm tiết có thể do người Hán thời xưa ít đi lại, ít giao tiếp; chính quyền lại chủ trương đóng cửa đất nước. Nhật là đảo quốc giữa biển, thời xưa ít giao tiếp với các nước khác nên tiếng Nhật cũng rất ít âm tiết; cho tới nay họ chưa bỏ được chữ Hán biểu ý. Tiếng Hàn cũng ít âm tiết do đó tuy đã dùng chữ Hangul biểu âm nhưng vẫn phải dùng thêm chữ Hán để ghi chú khi viết các từ ngữ cần độ chính xác cao, như khi viết văn bản pháp lý, viết danh từ riêng, ví dụ tên họ trong thẻ căn cước.

Phải chăng có thể tạm kết luận: Ngôn ngữ có nhiều âm tiết thì thích hợp dùng chữ biểu âm; ngôn ngữ có quá ít âm tiết không thích hợp dùng loại chữ này. Cải cách chữ viết phải làm rất sớm, từ khi nó chưa chín muồi và cần hàng trăm, hàng nghìn năm.

Dựa vào lý lẽ trên có thể giải thích vì sao tổ tiên người TQ tạo ra loại chữ viết biểu ý để ghi Hán ngữ; vì sao chữ Hán không tiến hóa thành chữ biểu âm như các chữ viết khác; do đâu không thể thay chữ Hán bằng loại chữ biểu âm. Cũng vậy, có thể hiểu vì sao chữ Hán tuy từng là chữ viết chính thức của nước ta suốt 2000 năm song không thể nào ghi được tiếng Việt giàu âm tiết.

Lời kết

– Chữ Hán có tính biểu ý, vì thế thích hợp với Hán ngữ ít âm tiết và nhiều phương ngữ.

– Do xa rời nhân dân, chữ Hán thời cổ không tiến hóa thành chữ biểu âm; ngày nay chữ Hán không còn cơ hội biến đổi căn bản. Nếu muốn biến đổi thì phải cải cách Hán ngữ.

– Các cải cách chữ Hán TQ đã thực hiện và việc sử dụng chế độ Song văn là hợp lý.

– Các nhược điểm về mặt NNH chứng tỏ Thuyết chữ Hán ưu việt không có cơ sở tồn tại.

– Nhận định “Chữ Hán là báu vật của văn minh cổ đại lại là gánh nặng của văn minh hiện đại” là hợp lý; người TQ có đủ ý chí và sức mạnh để giảm tác động tiêu cực của gánh nặng ấy. 

Ghi chú:

* 坑텬냥廖 “랗枷各셩돨君덜볶俚桔씩”。蝎베놔경2001.8. Tác giả  Tô Bồi Thành. Nxb Thư Hải, 8.2001, sau đây ký hiệu là SĐD (Sách đã dẫn).

** Từ tiếng Việt “ngôn ngữ” ứng với từ chữ Hán “刀‮(‬٪‭ ‬‭ ‬(ngữ ngôn)”, khác nghĩa với “喇刀 (ngôn ngữ)”;  từ “chữ viết” ứng với “匡俚 văn tự”.

http://tiasang.com.vn/-van-hoa/Tan-man-doi-dieu-ve-chu-Han-10194

http://nghiencuuquocte.org/2017/08/16/ve-nan-say-dam-chu-tau

http://nghiencuuquocte.org/2017/02/07/nguoi-nhat-phat-trien-han-ngu-hien-dai

4 Đó là 22 âm tiết: [chua], [dei], [den], [dia], [ei], [eng], [fo], [gei], [hm], [hng], [kei], [lia], [lo], [neng], [nin], [nou], [nuan], [ri], [sen], [seng], [shei], [zhei].

5 “嘉幹稼哥袈, Chuyện ông Thi ăn sư tử”, tên gốc “柯杆嘉却稼哥袈” (Story of Stone Grotto Poet: Eating Lions”) công bố tại Mỹ năm 1930, có ghi trong Encyclopedia Britannica.   柯杆家却嘉幹,閣哥,珏稼枷哥。嘉幹珂珂刊懇柬哥。枷珂,刊枷哥刊懇。角珂,刊嘉幹刊懇。嘉幹柬角枷哥,揀訶覺,賈角枷哥脚各。幹歌角枷哥暇,刊柯杆。柯杆嫁,幹賈奸殼柯杆。柯杆殼,幹迦桿稼角枷哥暇。稼珂,迦街角枷哥暇,茄枷柯哥暇。桿姦角慤。

6 All syllables in Vietnamese language.  (http://www.hieuthi.com/blog/2017/03/21/all-vietnamese-syllables.html). Mạng hoctiengnhatcungakira.wordpress.com  cho biết Anh ngữ có 15.831 âm tiết, Nhật ngữ có 112 âm tiết.

 

Nguyễn Hải Hoành

Nguồn: Tia sáng, ngày 26.9.2019.

20200823

Ảnh: Mộ Vũ Duy Thanh ở xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình

Vũ Duy Thanh 武惟清 (1807-1859), tự là Trừng Phủ 澄甫, hiệu là Mai Khê 梅溪 và Bồng Châu 蓬洲…, người làng Vân Bồng, huyện Yên Khánh (nay là thôn Vân Bồng, xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình).

Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Duy Thanh đã tỏ ra là người thông minh, cẩn trọng và có văn tài. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép tiểu sử của ông, có nhận xét: “Vũ Duy Thanh, tự là Trừng Phủ, người Yên Khánh, thuộc Ninh Bình. Lúc trẻ thông tuệ, xem đâu nhớ đấy, 14, 15 tuổi biết làm văn. Anh là Đề, là học trò giỏi, mà Duy Thanh lại còn học giỏi hơn…”(1). Tuy vậy, mãi tới năm 37 tuổi, Vũ Duy Thanh mới đi thi Hương, khoa Quý Mão (1843), trường Nam Định và đỗ Cử nhân(2). Năm sau, khoa Giáp Thìn (1844), ông dự kỳ thi Hội, nhưng không đỗ. Bẩy năm sau, tới khoa thi Hội năm Tân Hợi (1851), ông đi thi và đỗ Phó bảng. Cùng năm Tân Hợi ấy, vua Tự Đức mở khoa thi Cát sĩ (hay Chế khoa), ông đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (tức Bảng nhãn)(3).

Sau khi thi đỗ, Vũ Duy Thanh được bổ chức Hàn lâm viện Thị độc, rồi chuyển sang Tập hiền viện. Năm 1853, ông được thăng lên chức Triều liệt Đại phu Quốc tử giám Tư nghiệp. Năm 1855, ông được bổ chức thự Quốc tử giám Tế tửu. Tháng 9 năm Tự Đức thứ 10 (1857), ông được chính thức bổ chức Trung Thuận Đại phu Quốc tử giám Tế tửu.

Trong thời gian giữ chức Tế tửu ở Quốc tử giám, trường Nho học cao cấp bậc nhất của quốc gia Đại Nam ngày đó, Vũ Duy Thanh tỏ rõ là một bậc thầy đạo cao đức trọng, có vốn kiến thức uyên bác và đặc biệt luôn hết lòng đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo lớp hậu tiến.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, nhận xét về ông như sau: “Duy Thanh tính chất phác ngay thẳng, đối với mọi người vui vẻ giản dị, không cạnh tranh. Nhưng đến khi luận về sự sai lầm của tục học và cái tai hại của dị đoan thì tất ra sức nói…”(4).

Theo Nhà thư tịch học Trần Văn Giáp, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam thì tác phẩm của Vũ Duy Thanh có:

- “Bồng Châu Vũ Tiên sinh thí văn - 蓬洲武先生試文 (Văn) ký hiệu VHv.442.

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集 (Văn)”(5).

Trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), các tác giả cho biết, Vũ Duy Thanh có các tác phẩm sau:

- “Bồng Châu thi văn tập 

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集

Bồng Châu tạp thảo 蓬洲雜草, v.v…”(6).

Tác phẩm Bồng Châu thi văn tập hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1043. Văn bản Bồng Châu thi văn tập là một tập sách chép tay, trên giấy dó, gồm có 222 trang, khổ 27x15cm, mỗi trang có 8 hàng, mỗi hàng trung bình, 22, 23 chữ Hán, nét bút khá già dặn, theo lối Hành thư rõ ràng, dễ đọc.

Bồng Châu thi văn tập được chia làm 3 quyển:

1. Quyển thứ nhất - Thi tập:

+ Thơ Ngũ ngôn cổ phong: 8 bài

+ Thơ Thất ngônTứ tuyệt 23 bài, Trường thiên 8 bài, Bát cú 85 bài.

Như vậy, Quyển thứ nhất có tất cả 124 bài thơ: tiễn tặng bạn bè, mừng thi đỗ, mừng thọ, vịnh cảnh thiên nhiên, vịnh di tích lịch sử, v.v...

2. Quyển thứ hai - Văn tập, gồm có 21 bài trướng: mừng bạn thăng quan, mừng được về hưu, mừng thượng thọ, v.v...

Trong Quyển 2 này, sau bài Nghĩ Hàn Xương Lê cầm, có chép 10 bài thơ thể Sở từ của Vũ Duy Thanh.

3. Quyển thứ ba - Tạp tập, là phần chép các bài Thuyết Luận , Ký Bình Thư Tế văn , v.v… gồm có 18 bài như: Mộng thuyết, ca ngợi Quản Trọng đời Xuân Thu; phê bình bài Linh Tế tháp ký của Trương Hán Siêu; phê phán đạo Giatô; bác bỏ thuyết thần tiên; phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Dũ… Ngoài ra, Quyển 3 còn có 19 bài Văn tế thần, cầu mưa, cầu phúc, v.v…

Bồng Châu thi văn tập chia thành 3 quyển như trên, gồm có 2 nội dung: thơ và văn xuôi, cho nên chúng tôi cũng xin tách ra làm 2 phần để phân tích và bình luận:

I. Thơ Vũ Duy Thanh - tiếng thơ của một nhà Nho quân tử

Bao trùm lên toàn bộ tập Bồng Châu thi văn tập là một đạo lý nhân nghĩa của đạo Nho và tấm lòng yêu nước, thương dân của một bậc chính nhân quân tử.

Hầu như ở bài thơ nào, từ thơ thù phụng gửi cho bạn bè, đến thơ tả cảnh, vịnh vật…, tác giả Vũ Duy Thanh đều ý thức mình là một nhà Nho chân chính, một nhà giáo mẫu mực. Trong bài Hạ Áng Ngũ Nguyễn Phó bảng(7)賀盎伍阮副榜(Mừng ông Nguyễn Phó bảng người Áng Ngũ), Vũ Duy Thanh nói về bạn mình, nhưng thực ra là ông tự bạch về con người mình:

Phiên âm:

Ngô hữu Nguyễn Tuấn phủ

Phú chất tối thanh thuần.

Vi học thậm khắc khổ

Thanh tùng nại tuế hàn

Hoàng cúc nghi thu phố…

Dịch nghĩa:

Bạn ta là Nguyễn Tuấn phủ

Tư chất rất trong sạch, thuần nhã

Học tập cực khắc khổ

Giống như cây tùng xanh tốt chịu được năm rét buốt.

Giống như hoa cúc vàng thích nghi với tiết trời thu…

Vũ Duy Thanh ví người bạn của ông là Phó bảng Nguyễn Ngạn với cây tùng, hoa cúc, bởi lẽ hai loài cây ấy đều tượng trưng cho người quân tử mà văn chương cổ điển xưa thường nói tới.

Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử từng nói: “” - Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã (Nghĩa là: Mỗi năm rét đến, mới biết cây tùng, cây bách rụng lá cuối cùng [sau mọi loài cây khác] (Luận Ngữ - Tử Hãn).

Trong cuộc đời làm quan ngắn ngủi, chưa đầy 10 năm, Vũ Duy Thanh chỉ giữ các chức vụ về văn hóa, giáo dục như: Hàn lâm viện Thị độc, Tập hiền viện, Quốc tử giám Tế tửu. Trong đó, chức vụ lâu nhất là Tế tửu Quốc tử giám tại Kinh đô Phú Xuân - Huế, do vậy, Vũ Duy Thanh luôn luôn ý thức được trách nhiệm của một bậc thầy mô phạm đối với bạn đồng liêu và học trò.

Trong bài Thứ Lưu Đông nguyên vận tiễn Ngô Trợ giáo lĩnh Bắc Ninh Đốc học - (Họa vần thơ của Lưu Đông và tiễn Ngô Trợ giáo đi lĩnh chức Đốc học Bắc Ninh), Vũ Duy Thanh có những suy nghĩ khá sâu sắc về nghề làm thầy của mình:

Phiên âm:

Cổ xưng giáo chức lãnh

Ngã hỷ giáo chức thanh…

Kinh điển như uyên hải

Nghĩa lý vị Dịch tinh.

Khóa tập hữu trình hạn

Nhật nguyệt nan vi tranh

Nguyện tử thể thường thái

Nguyện tử tâm thường tỉnh

Nguyện tử thủ thường ngạnh

Nguyện tử mục thường minh

Dịch nghĩa:

Thời xưa cho nghề thầy giáo là chức quan lạnh,

Chúng ta vui lòng vì nghề thầy giáo là nghề thanh bạch.

Kinh điển nhà Nho thì sâu sắc như biển cả,

Còn nghĩa lý thì không chỉ có Kinh Dịch là tinh túy.

Việc dạy học thì có quy trình thời hạn,

Đến mặt trời, mặt trăng cũng khó tranh giành [sự vận hành ấy].

Mong Bác giữ cho thân thể lúc nào cũng thư thái,

Mong Bác giữ cho tâm hồn lúc nào cũng sáng suốt.

Mong Bác giữ cho tay chân lúc nào cũng mạnh cứng,

Mong Bác giữ cho đôi mắt lúc nào cũng tinh tường…

Cuối bài thơ, Vũ Duy Thanh khẳng định giáo chức là một nghề rất cao quý và đầy vinh dự:

Phiên âm:

Định vô ngâm Mục túc

Khởi tất tiển thuần canh

Phạt Đàn năng bất tố

Nhất chức hữu dư vinh.

Dịch nghĩa:

Nhất định không phải ngâm câu thơ Mục túc.

Há lại chẳng thừa món canh rau dút, cá vược?

Nhớ bài thơ Phạt Đàn, chẳng phải ăn không ngồi rồi.

Nghề nhà giáo có thừa sự vinh dự!

Vũ Duy Thanh nói đùa với bạn mình là “Không phải ngâm câu thơ Mục túc” (Vô ngâm Mục túc) là có ý nhắc tới câu thơ trong bài Ký hữu 寄友 (Gửi bạn) của Nguyễn Trãi dưới đây:

Phiên âm:

Thập tải độc thư bần đáo cốt

Bàn vô mục túc, tọa vô chiên.

Dịch nghĩa:

Mười năm đọc sách nghèo đến tận xương,

Mâm cơm không có rau mục túc, chỗ ngồi không có đệm.

Còn nói “Khởi tất tiển thuần canh” là tác giả sử dụng điển tích văn chương cổ điển mà nhà Nho xưa, không ai là không biết, đó là “Thuần canh lô khoái” 蓴羹纑膾 (tức Canh rau dút, gỏi cá vược).

Theo Tấn thư, Trương Hàn, người đất Ngô Quận, tính tình phóng khoáng, làm quan ở Kinh đô, nhân buổi gió thu nổi, chạnh lòng nhớ nhà, nhớ món rau thuần, gỏi cá vược ở quê, bèn than rằng: “Người ta ở đời quý nhất là được thỏa chí, sao lại có thể buộc mình vào con đường làm quan ở xa ngàn dặm để cầu lấy tiếng tăm tước vị!”. Sau đó, ông bèn từ quan, về quê nhà. Ở đây, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh chỉ dùng với ý nơi bạn ông làm chức Đốc học là tỉnh Bắc Ninh, cũng không thiếu gì những món ăn đậm đà phong vị quê hương, nên cứ yên tâm với chức vụ triều đình giao phó.

Bảng nhãn Vũ Duy Thanh và bạn ông, trong bài thơ này, đều là những bậc đỗ đại khoa, hết sức thiệp liệp kinh điển, sử sách Nho gia, cho nên hầu như ở đâu cũng thấy các vị sử dụng các điển tích từ Tứ thư(8)Ngũ kinh(9). Vũ Duy Thanh viết để nhắc nhở bạn mình:  - Phạt đàn năng bất tố (Tiếng đốn cây bạch đàn, khiến cho không phải ăn không ngồi rồi!).

Đó là xuất xứ từ bài thơ Phạt đàn, phần Ngụy Phong trong Kinh Thi. Bài thơ Phạt đàn nguyên tác có tất cả 27 câu thơ, từ 4 chữ cho đến 8 chữ. Tôi xin trích 4 câu trong chương I dưới đây:

Phiên âm:

Khảm khảm phạt đàn hề

Trí chi hà chi can hề

Bỉ quân tử hề

Bất tố xan hề.

Dịch nghĩa:

Tiếng chặt cây bạch đàn, tiếng nghe khảm khảm

Rồi đặt cây ấy ở bên bờ sông…

Người quân tử kia!

Không hề ngồi không mà ăn!

Bài thơ Phạt đàn là để khen người quân tử không chịu ngồi không mà ăn, mà hưởng thành quả lao động của người khác.

Bài Trường trung dạ ngâm, đồng bộc hôn thụy cảm tác - 場中夜吟童僕昏睡感作 (Trong trường, đêm đọc thơ bên cạnh đứa tiểu đồng đang ngủ) càng cho thấy tài học của Vũ Duy Thanh:

Phiên âm:

Xảo chuyết sơ lai phận bất đồng

Đại quân phú vật lý hà cùng

Tĩnh tư Âu lão(10) Thu thanh tác

Hạt nhược thùy đầu hãn thụy đồng?

Dịch nghĩa:

Khéo và vụng từ xưa đến nay, phận từng người không giống nhau

Tạo hóa sinh ra muôn vật, cái lý thật vô cùng

Trong lúc yên tĩnh nhớ đến bài Thu Thanh phú của ông già Âu Dương Tu

Sao giống với cảnh đứa tiểu đồng đang gục đầu mà ngủ lúc này?

Trong các bài phú sáng tác vào thời Bắc Tống (960 - 1126), sau hai bài Tiền Xích Bích phúHậu Xích Bích phú của danh sĩ Tô Đông Pha (1036 - 1101), thì người ta hay nhắc đến nhất là bài Thu Thanh phú của Âu Dương Tu. Bài phú này của Âu Dương Tu vừa hay về nội dung, vừa hay về nghệ thuật ngôn từ. Trong Thu Thanh phú, ông tả màu sắc của thu, hình dáng của thu, cả tới cái ý, cái khí của thu, để độc giả cảm nhận được cái thê lương trong tiếng thu. Cuối bài Âu Duy Tu lại liên tưởng tới kiếp người: “Bách ưu cảm kỳ tâm, vạn vật lao kỳ hình” (Trăm mối lo làm xúc động trong lòng, vạn việc đời làm lao khổ thân hình), gây cho ta một mối cảm thán vô hạn… Câu kết của bài Thu Thanh phú, đã được Vũ Dương Thanh nhắc đến ở trên: “Đồng tử mạc đối, thùy đầu nhi thụy. Đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức, như trợ dư nhi thán tức” (Đồng tử không đáp, gục đầu mà ngủ. Chỉ nghe bốn phía vách có tiếng dế ri rỉ kêu, như thể góp thêm tiếng than thở với ta vậy!).

Sử thần triều Nguyễn từng nhận xét về Vũ Duy Thanh là người bản tính chất phác, ngay thẳng, giản dị. Tôi đọc khá kỹ thơ của ông trong Bồng Châu thi văn tập, nhận thấy thơ Vũ Duy Thanh quả đúng là phần nhiều đều bình dị. Tất cả lời thơ của ông đều rất ôn tồn, thuần hậu và phác thực có phong vị thơ của Đào Tiềm (365 - 427), nhà thơ lớn cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lục Triều của Trung Quốc. Đào Tiềm là một thi nhân danh tiếng của Trung Quốc, rất yêu hoa cúc.

Vũ Duy Thanh cũng làm khá nhiều bài thơ về hoa cúc: Vịnh cúcTrùng Dương vô cúcĐình tiền mẫu đơn, tuế tứ khai, Hoàng cúc kinh thu bất phát, hý vấn

Bài Vịnh cúc  (Vịnh hoa cúc) là một bài thơ hay mà tôi đọc thấy phảng phất phong vị thơ của Đào Tiềm:

Phiên âm:

Ngọc nhụy kim anh sắc sắc tân

Hòa yên, đới lộ cánh thiêm thần

Thùy tri Đào Lệnh sơ ly hạ

Cử thế giai thu, ngã độc xuân.

Dịch nghĩa:

Nhụy như ngọc, cánh như vàng, sắc tươi tốt lúc nào cũng như mới nở.

Tắm gội trong sương sớm, mây chiều, lại càng tôn thêm vẻ thần thái.

Có ai biết ông quan Lệnh họ Đào từng hái cúc dưới hàng giậu thưa?

Mọi người đang trong cảnh mùa thu, chỉ có Ta (chỉ hoa Cúc) giữ riêng vẻ xuân tươi tốt!

Vũ Duy Thanh nói “Đào Lệnh”, là vì Đào Tiềm từng giữ chức quan Lệnh (tức Tri huyện) ở huyện Bành Trạch. Còn “Sơ ly hạ” là có ý nhắc tới 2 câu thơ rất nổi tiếng của thi sĩ họ Đào, trong bài Ẩm tửu (Uống rượu) dưới đây:

Phiên âm:

Thái cúc Đông ly hạ

Du nhiên kiến Nam sơn.

Dịch nghĩa:

Hái cúc dưới hàng giậu phía Đông

Phơi phới thấy núi Nam.

Tôi đã trích một vài bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú của Vũ Duy Thanh trên đây, nhưng ông còn sáng tác nhiều bài thơ Thất ngôn trường thiên nữa. Hầu như ở thể loại nào, thơ Vũ Duy Thanh cũng có những câu thơ hay. Thí dụ một số câu thơ dưới đây:

Phiên âm:

Thê tâm sương lộ kinh thu tự

Cực mục vân sơn cảm hạo tư.

(Trường trung ngộ tiên khảo kỵ)

Dịch nghĩa:

Tấm lòng thương đau lạnh lẽo như sương móc, ở trong trường thêm lo sợ mùa thu.

Đôi mắt đăm đăm dõi nhìn áng mây trên núi, càng nhớ tới ơn lớn của cha.

(Trong trường gặp ngày giỗ của cha)

Hoặc câu:

Phiên âm:

Vụ tỏa tằng Man không mạc mạc

Đào phi vạn khoảnh tự sàn sàn.

(Hoành Sơn quan hoài cổ)

Dịch nghĩa:

Sương mù tựa như thể giam giữ nhà của dân tộc thiểu số ở trong, không gian thật yên tĩnh.

Hàng vạn con sóng lớn chồm lên vỗ dồn dập vào bờ tiếng ào ào.

(Qua Đèo Ngang hoài cổ)

Hay câu: 

宿

Phiên âm:

Lạc bút ba đào kinh biến thái,

La hung tinh tú động hàn hương.

(Ức Hàn Văn công)

Dịch nghĩa:

Mỗi khi hạ bút xuống, lời văn như sóng lớn thật đáng kinh sợ, không thể tính trước được,

Giãi bày ý tứ trong lòng như có hàng tinh tú bày ra la liệt, chấn động cả bầu trời lạnh.

(Nhớ Hàn Văn công(11))

Từ khi Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đi vào cõi vĩnh hằng đến nay đã hơn một thế kỷ rưỡi (1859-2013). Với một độ lùi thời gian dài hơn 150 năm ấy, đủ cho hậu thế thẩm định giá trị văn chương, thi ca của Vũ Duy Thanh. Thực ra, ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã đánh giá cao giá trị nghệ thuật cũng như nội dung thi ca của ông.

Trần Trung Viên (1890-1947), soạn giả bộ tuyển tập thi ca Văn đàn bảo giám (gồm 3 tập), xuất bản lần đầu năm 1926, đến năm 1938 mới trọn bộ, là một trong những người đầu tiên công bố thơ ca của Vũ Duy Thanh. Trong tập thi tuyển nói trên, soạn giả Trần Trung Viên, đã tuyển 7 bài thơ Thất ngôn bát cú(12) của Vũ Duy Thanh là: Thơ túng, Thăm cảnh Nhiệt Đàm, Nhớ thầy học cũ, Đề nhà học cũ, Tiễn đưa Nguyễn Tri Phương vào Nam chống giặc, Qua đèo Hải Vân, Qua suối Bạch Đàn.

Trong bộ hợp tuyển thi ca này, tên tuổi của Vũ Duy Thanh được đứng tề danh với các nhà thơ nổi tiếng khác đương thời như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, v.v…

Ở trên tôi có nói thơ của Vũ Duy Thanh bình dị, thuần hậu và phác thực. Vì thế, nếu cần trích thêm những câu thơ hay trong bộ Bồng Châu thi văn tập, thì không có gì là khó. Tuy nhiên, loại thơ bình dị ấy không phải ai cũng có thể làm được. Về vấn đề này, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học đời Thanh là Viên Mai (1716-1798) đã nhận xét rất chí lý như sau:

“Thơ nên mộc mạc không nên khéo léo, nhưng tất phải là cái mộc mạc từ trong khéo lớn mà ra; thơ nên nhạt không nên nồng, nhưng tất phải là cái nhạt theo sau cái nồng mà có. Cũng ví như ông quan to, công thành danh toại, rồi xõa tóc, cởi dây ấn, tức là danh sĩ phong lưu, nếu bọn thiếu niên con nhà giàu sang cũng bắt chước thái độ ấy, thì sẽ nên đánh roi…”(13).

II. Văn Vũ Duy Thanh - sự uyên bác của bậc sư biểu học cao hiểu rộng

Tản văn của Vũ Duy Thanh, phần lớn được ghi chép lại trong 2 quyển (Quyển 2 và Quyển 3) của Bồng Châu thi văn tập.

Vào tháng 12 năm 2012, trong Hội thảo khoa học lần thứ nhất “Về thân thế, cuộc đời Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, tôi đã viết bài Mấy cảm nghĩ nhân đọc bài Văn sách khoa thi Cát sĩ của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Trong đó, tôi đã trích lời nhận xét của Học giả Cao Xuân Dục (1843-1923) về khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), mà Vũ Duy Thanh đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn) là “Khoa đặc biệt phi thường để đãi tài phi thường” (14).

Khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi (1851) này, người phúc duyệt cuối cùng và trực tiếp lấy đỗ bao nhiêu người, ai được đỗ đầu chính là vua Tự Đức (1848-1883). Tự Đức là một ông vua thông minh, chăm học từ nhỏ và là một nhà văn hóa, nhà thơ khá nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ XIX. Chúng ta biết một chút về thi tài của vua Tự Đức, để thấy rằng khi ông lựa chọn Vũ Duy Thanh làm người đỗ đầu “Khoa thi đặc biệt phi thường” là không phải chuyện đơn giản chút nào. Tôi cho rằng cái điều mà Vũ Duy Thanh để lại ấn tượng mạnh trong lòng vua Tự Đức không phải chỉ là tài về thi ca, mà chắc chắn ở cả sự uyên bác, thể hiện trong các bài tản văn nghị luận của vị Bảng nhãn họ Vũ này.

Trong số các bài tản văn của Vũ Duy Thanh được tuyển trong Bồng Châu thi văn tập, có khá nhiều bài thể hiện sức học quảng bác của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh, như: Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải (Phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Xương Lê); Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay)); Thượng Hình bộ Thượng thư Trương công từ hạ thư (Thư mừng gửi lên Hình bộ Thượng thư họ Trương), v.v… Trong đó, tôi đặc biệt chú ý tới bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải của Vũ Duy Thanh. Tôi thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà người biên tập bộ Bồng Châu thi văn tập, lại xếp bài này lên đầu Quyển 2, tức bài đầu tiên trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh. Vì bày này, tác giả họ Vũ của chúng ta, Nghĩ  (tức phỏng theo, bắt chước) bài Tiến học giải  của Hàn Xương Lê (tức Hàn Dũ), một trong số Đường - Tống bát đại gia(15), do vậy, chúng ta cần biết nội dung tác phẩm của họ Hàn nói về vấn đề gì?

Bài Tiến học giải của Hàn Dũ được ông sáng tác với mục đích chính để cổ xúy phong trào Cổ văn, mà ông được coi là người lãnh đạo. “Cổ văn” là khái niệm đối lập với Biền văn. Đặc trưng của “Cổ văn” là câu văn xuôi riêng rẽ, không gò bó theo một công thức nhất định, khác với “Biền văn” rất chú trọng đối ngẫu, văn vẻ, âm luật và điển cố. Về thể văn, nó khôi phục truyền thống văn chương Tiên Tần(16), Lưỡng Hán(17), cho nên gọi là Cổ văn 古文. Thời kỳ Trung Đường (765-836), Hàn Dũ và những nhà văn khác đề xướng thể văn này, để phản đối văn phong phù hoa, diễm lệ từ đời Lục triều (thế kỷ thứ V-VI) về sau. Phong trào Cổ văn dựa vào ngọn cờ phục hồi Nho học mà phát triển.

Trong bài Tiến học giải, Hàn Dũ phát biểu chủ trương của mình trong công cuộc vận động phục hưng cổ văn. Trong đó, có đoạn ông viết:

調”.

Phiên âm:

Thượng quy Diêu Tự(18), hồn hồn vô nhai, Chu Cáo(19), Ân Bàn(20), cật khuất ngạo nha, Xuân Thu cẩn nghiêm, Tả thị phù khoa, Dịch kỳ nhi pháp, Thi chính nhi nhập ba, hạ đãi Trang, Tao, Thái sử(21) sở lục, Tử Vân(22), Tương Như(23) đồng công dị khúc, tiên sinh chi vu văn, khả điều hoành kỳ trung nhi tứ kỳ ngoại hỹ”.

Dịch nghĩa:

“Trên thì theo quy củ của vua Thuấn, vua Hạ Vũ mênh mông vô bờ bến; bốn thiên Chu Cáo, ba thiên Bàn Canh văn chương rất khó, sáu thiên Xuân Thu(24) thì cẩn nghiêm; Tả thị(25) giải thích kinh [Xuân Thu] thì phù hoa, khoe khoang; Kinh Dịch thì biến hóa khôn lường; nhưng lại đáng làm phép tắc; Kinh Thi thì nghĩa lý chính đính, còn từ cú thì hoa lệ; tiếp đến là sách của Trang Chu(26), sách Ly Tao(27) và những điều mà Thái sử Công ghi lại(28); Tử Vân, Tương Như tuy cùng tạo những khúc điệu khác nhau, nhưng nét khéo léo thì tương đồng. Tiên sinh(29) về mặt văn chương có thể nói là một túi kinh luân để rồi có thể phóng tứ ra ngoài vậy”.

Cổ văn của Hàn Dũ đều được đặt nền tảng trên văn chương của những nhà văn và những tác phẩm mà ông lược kể trên. Hàn Dũ tuyên bố dứt khoát rằng:  “Phi Tam đại, Lưỡng Hán chi thư, bất cảm quan” (Không phải là văn chương thời Tam đại (Hạ - Thương - Chu) và Lưỡng Hán (Tiền Hán, hậu Hán), thì không dám xem).

Qua đó, ta thấy chủ trương của vị đại Nho thời Đường, Hàn Dũ trong bài Tiến học giải rất hợp với mong muốn chấn chỉnh việc học đương thời của vị Quốc Tử giám Tế tửu, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết về vấn đề ấy như sau: “[Vũ Duy] Thanh từng dâng sớ [lên vua Tự Đức], nói rằng: Muốn được thực tài tất phải khôi phục phép dạy, phép thi của cổ nhân và liệt ra 8 mục:

1. Cẩn thận phép dạy ở trường tư các làng.

2. Kén chọn tổng lý và tá lại.

3. Dựng xã thương.

4. Giữ nghiêm phép dạy ở các trường phủ, huyện.

5. Nghị đổi lại phép thi Hương.

6. Mở rộng phép dạy ở các nhà Quốc học.

7. Chọn thầy bạn cho Tôn sinh(30).

8. Sửa định lại việc ban phát kinh sách”(31).

Trong bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh cũng mở đầu bằng nỗi băn khoăn cho việc học của sinh viên Quốc tử giám thời bấy giờ. Ông viết: “Quốc tử [giám] Tiên sinh cổ khiếp chi hạ dữ luận văn ư đường thượng, ngữ chi viết: “Học dục kỳ bác, vô thiển, dĩ tạc thức dục kỳ trác, dĩ bác phương kim. Minh thánh viễn lãm, xiển lãng nhân văn, cột dương Phong Nhã(32), đào chú Điển Phần(33); hóa tương long ư Thái thượng. Đạo lưu nhất hồ thánh chân…” - Dịch nghĩa: “Trong một buổi nhàn hạ, vị Tiên sinh ở Quốc tử giám, bên cạnh có mấy bài luận văn, đang ngồi chơi ở giảng đường, ông nói với học trò rằng: “Sự học là muốn có kiến thức uyên bác, chớ nông cạn, cần phải đào sâu suy nghĩ để có được hiểu biết cao xa, chớ hẹp hòi hoặc bác tạp. Phàm bậc thánh minh luôn nhìn xa, để xiển dương, sáng tỏ nhân văn, phát huy Phong Nhã, đào chú Điển Phần, để cải hóa và có dầy dặn kiến thức ở trước nhà vua. Đạo học phải thông tỏ, thống nhất ở nơi đích thực của các bậc thánh…”. Đó là điều, ta thấy Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đã có cái nhìn về sự học giống với bậc đại Nho Hàn Dũ vừa nói ở trên.

Bài Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (Đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương(34) được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay), cũng có nhà nhiều câu văn hay, sử dụng hình ảnh đẹp, như:

 - Long Hưng vân chí, đồng sinh phượng minh, phù cố hữu thiên giả, tồn yên”. Dịch nghĩa: Rồng có bay lên, thì mây mới có chỗ tụ lại, cây ngô đồng có sinh ra, thì phượng hoàng mới có chỗ để kêu hót. Phàm mọi sự vật trên muốn vững bền và tồn tại được là vì có trời vậy!

Bài Đề Tam hữu đồ tịnh tự thuyết chí  (Đề bức tranh “Ba người bạn”, cùng bài tự) là một bài tạp văn khá hay và ngắn gọn. Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết: “Dư ngẫu nhàn tọa, cố đông bích gian, đa điểm ô tích, nhân dĩ ngốc bút nhu mặc, hý tùy ô tích vi họa, sậu thành sổ phong, dĩ vi hữu “Sơn”; bất khả vô thụ. Toại thành “Mai” nhất; hựu dĩ vi thụ; bất khả độc; kế thành “Tùng”, “Trúc”, vi “Tam hữu”(35).

Hữu Sơn, hữu Thụ, bất khả vô Cầm; nhân tả hạc, lập phong đầu; mi du cốc khẩu, các thành song yên. Nhân chiếm nhất tuyệt; dĩ kỷ kỳ thực. Hốt ức Phan, Lê lưỡng quân tử, hựu vi thuyết dĩ quảng chi, tịnh chí kỳ hậu vân:

Mai cù, trúc sấu hợp tùng trinh

Đạm bạc tương tao ngẫu nhĩ thành

Nhất hác gian tình, mi cộng viễn

Sổ phong dật trí, hạc đồng thanh”.

Dịch nghĩa:

Ta ngẫu nhiên có một buổi nhàn hạ, ngồi ngắm bờ tường phía Đông, thấy khá nhiều những vết ố, nhân đó, bèn lấy chiếc bút lông cùn thấm vào đĩa mực, cứ theo những vết ố mà vẽ đùa, chẳng mấy chốc, thành dăm ngọn núi. Ta cho rằng đã có núi, thì không thể không có cây cối. Lại vẽ một cây Mai. Ta lại cho rằng đã có cây, thì không thể đứng một mình. Tiếp đó, vẽ luôn Tùng, Trúc [để cùng với Mai] làm thành ba người bạn.

Nhưng có núi, có cây rồi không thể không có bầy cầm thú, vì thế vẽ một con hạc đậu trên đầu ngọn núi, và một con Nai lững thững trước cửa hang núi, để cho thành một đôi vậy! Nhân đó khẩu chiếm một bài thơ tứ tuyệt để ghi lại sự việc. Rồi bỗng nhớ đến hai bậc quân tử họ Phan, họ Lê, lại làm thêm một bài Thuyết để mở rộng nghĩa, cũng ghi chép lại có cuối bài. Thơ rằng:

Mai gầy trúc võ, với tùng trinh.

Đạm bạc ngẫu nhiên hóa bạn lành.

Ngòi nước mát trong nai thấp thoáng

Đỉnh non nhàn nhã hạc cao thanh.

Ngoài một vài bài, tôi vừa trích dẫn ở trên, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh còn nhiều bài tản văn khá hay, nội dung vừa hàm súc vừa uyên bác, như bài: Đông song mộng thuyết, trình Vũ Đông Dương (Nói về giấc mộng bên cửa sổ phía Đông, gửi Vũ Đông Dương(36)); Đề Linh Tế tháp ký hậu (Đề ở dưới bài Linh Tế tháp ký(37)); Linh Tế tháp ký giải (Giải thích rõ về bài ký tháp Linh Tế [của Trương Hán Siêu]); Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký phê bình (Phê bình bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy), v.v… Tuy nhiên, trong giới hạn của một bài tạp chí, chúng tôi không thể viết dài hơn được. Do vậy, hy vọng trong một tương lai gần, được trở lại vấn đề này, chúng tôi xin bàn kỹ, để bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật thơ ca cũng như sự uyên bác, hàm súc trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh.

Để tạm kết bài này, tôi xin rút ra một vài nhận xét dưới đây:

1. Vũ Duy Thanh là một danh nhân lịch sử, một nhà thơ tài năng sống và hoạt động vào nửa đầu thế kỷ XIX. Ông là nhà khoa bảng lớn, là người đỗ vào hàng cao nhất trong lịch sử khoa cử Nho học (1807-1919), dưới triều Nguyễn. Lịch sử khoa cử Nho học triều Nguyễn, không lấy Trạng nguyên, chỉ lấy đỗ 2 vị Bảng nhãn (tức Đệ nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh) là: Phạm Thanh (1821-?) đỗ Bảng nhãn, Chính khoa Tân Hợi (1851) và Vũ Duy Thanh đỗ Bảng nhãn, Chế khoa Cát sĩ Tân Hợi (1851), cùng dưới triều vua Tự Đức (1848-1883).

Người đời tiếc cho tài năng của Vũ Duy Thanh, cho rằng tài của ông đáng Trạng nguyên, nên đương thời gọi ông là “Trạng Bồng” (Ông Trạng nguyên làng Bồng).

Như chúng ta đều biết, hoạn lộ của Vũ Duy Thanh không dài, các chức quan mà ông phụ trách đều thiên về công việc giáo dục, văn hóa như: Hàn lâm viện Thị độc, Quốc lử giám Tế tửu, tuy nhiên, không vì thế mà ông tỏ ra xao nhãng với các công việc chính trị trọng đại thời bấy giờ. Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn, phần lớn muốn nghị hòa, Vũ Duy Thanh và một số người cùng chí hướng với ông, đều cho rằng “Phải đánh mới định được đại cục”. Vũ Duy Thanh dâng sớ lên vua Tự Đức xin tăng cường lực lượng quốc phòng, chấn chỉnh việc nội trị, cải cách học thuật, văn hóa, kinh tế. Sớ dâng lên, không được vua Tự Đức chấp thuận, Vũ Duy Thanh ngày đêm nghiên cứu Binh thư, rồi viết Bình Tây thất sách (Bẩy sách lược bình giặc Pháp), và còn trích tiền lương của mình để mua sắm vật liệu, với ý định đóng thuyền thủy chiến có hỏa pháo để chống lại tàu chiến của Pháp. Nhưng công việc chưa xong, thì Vũ Duy Thanh đột ngột đi vào cõi vĩnh hằng…

2. Cuộc đời làm quan của Vũ Duy Thanh, tuy có một vài trắc trở, nhưng như ông tự nhận xét, cũng có nhiều vinh dự… Có được điều đó, là vì Vũ Duy Thanh luôn luôn là một vị quan thanh liêm, mẫu mực. Trên cương vị là Tế tửu Quốc tử giám, vị Hiệu trưởng của Trường cao cấp Nho học đứng đầu cả nước thời bấy giờ, ông là bậc thầy đạo cao, đức trọng luôn tận tụy với việc đào luyện nhân tài cho đất nước.

Trên cương vị là một nhà trước thư, lập ngôn, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh để lại cho hậu thế một số tác phẩm, trong đó có giá trị hơn cả là: Bồng Châu thi văn tập, mà chúng tôi vừa giới thiệu sơ lược nội dung ở trên.

Tôi thật lấy làm tiếc rằng: Hiện nay giới nghiên cứu văn hóa nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng chưa biết nhiều về các tác phẩm thi văn của Vũ Duy Thanh. Ở trên, tôi đã nhắc đến bộ thi tuyển Văn Đàn bảo giám của Trần Trung Viên, có tuyển chọn 7 bài thơ Thất ngôn bát cú của ông. Thế mà, vào tháng 10 năm 2004, trong Từ điển Văn học (Bộ mới), do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành, khổ 19x27cm, dày 2182 trang, không có tên Vũ Duy Thanh! Trong số 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ có tên trong bộ Từ điển Văn học này, thì mở đầu là Nhà thơ, nhà văn Vũ Anh Khanh (1926 -1956) và kết thúc là Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939). Tôi đã đọc tất cả tiểu sử và sự nghiệp thi ca, tản văn của 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ nói trên, thấy rằng đều rất xứng đáng được vinh danh trong bộ từ điển dày dặn này! Nhưng tôi nghĩ thầm trong bụng rằng: “Giá như hỏi một vài vị nhà thơ, nhà văn họ Vũ ấy, thử so sánh thi tài, văn tài của mình với cụ “Trạng Bồng - Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, thì không biết họ sẽ nghĩ sao đây?!”.

Điều đó, đặt ra cho giới nghiên cứu Sử học, Văn học hiện nay một trách nhiệm thiết thực cần tiến hành ngay là: Dịch những tác phẩm chữ Hán, đặc biệt là bộ Bồng Châu thi văn tập(38)của Vũ Duy Thanh, và cho xuất bản để công bố rộng rãi.

Tôi thiết nghĩ, nếu làm được như vậy, không chỉ là việc tôn vinh một danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa của Việt Nam ở thế kỷ XIX, mà còn quan trọng hơn, chúng ta đã góp phần giới thiệu một tác gia tầm cỡ, còn ít người biết tới cho độc giả hiện tại.

3. Có thể khẳng định Vũ Duy Thanh là một danh nhân văn hóa, có những đóng góp rất đáng ghi nhận đối với tiến trình lịch sử văn hóa của nước nhà. Với những trước tác của mình, nhất là tác phẩm Bồng Châu thi văn tập, Vũ Duy Thanh xứng đáng được coi là một tác gia tên tuổi của nền văn học Việt Nam vào thế kỷ XIX.

Tôi hoàn toàn tin rằng: Nếu làm được các điều trên đây, một cách trọn vẹn, thì nhân dân mọi miền đất nước, trong đó có nhân dân Yên Khánh - Ninh Bình sẽ tin yêu cuộc sống hơn, trân trọng những gì thuộc về quá khứ vẻ vang của dân tộc hơn. Và, tại cõi vĩnh hằng kia, cụ “Bảng Bồng - Vũ Duy Thanh” chắc sẽ hài lòng và mãn nguyện đôi phần.

PGS.TS. Nguyễn Minh Tường

Viện Sử học

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121), tr.29-42, phiên bản trực tuyến ngày 28.12.2014.

Chú thích:

(1Đại Nam chính biên liệt truyện. Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, tập 4, tr.304.

(2Cao Xuân Dục: Quốc triều Hương khoa lục. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 1993, tr.243.

(3Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm Học liệu xb, Sài Gòn. 1961, tr.121.

(4Đại Nam chính biên liệt truyện. tập 4, Sđd, tr.305.

(5Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp chủ biên, tập 1, Nxb. Sử học, H. 1962, tr.437.

(6Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993, tr.839.

(7Nguyễn Phó bảng: tức Nguyễn Ngạn , người xã Áng Ngũ, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Sau đổi tên là Nguyễn Tiến Khanh. Đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849). Làm quan đến Đốc học.

(8Tứ thư là Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh tử.

(9Ngũ Kinh là Thi - Thư - Lễ - Dịch - Xuân Thu.

(10Âu lão: Ông già họ Âu, tức Âu Dương Tu  (1007-1072), tự là Vĩnh Thúc , hiệu là Lục Nhất  và Túy Ông , quê ở Lô Lăng (nay là tỉnh Giang Tây). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1030, làm chức Quán các Hiệu khám ở triều. Mười năm sau mới được làm chức Hàn lâm viện Học sĩ và được giao soạn bộ Tân Đường thư, 222 quyển. Soạn xong bộ sách trên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị độc, rồi Khu mật Phó sứ, cuối cùng làm tới chức Binh bộ Thượng thư. Ông trước tác nhiều, ngoài bộ Tân Đường thư, ông còn tự soạn bộ Tân Ngũ đại sử, 75 quyển.

(11Hàn Văn công tức Hàn Dũ  (768 - 824): tự làThoái Chi退, đỗ Tiến sĩ năm 792. Năm 796, ông làm chức Quán sát, sau được làm chức Giám sát Ngự sử, rồi Sứ quán Tu soạn, cuối cùng được thăng tới Hình bộ Thị lang. Hàn Dũ có danh vọng trên văn đàn nhờ có tài về cổ văn và nhiệt thành bênh vực đạo Nho.

(12Trong Văn đàn bảo giám, ngoài 7 bài thơ Thất ngôn bát cú nói trên, soạn giả Trần Trung Viên còn tuyển bài Cổ Kinh danh thắng, một bài Biền phú, hạn vận, ca ngợi cảnh đẹp của Cổ Kinh đô Hoa Lư.

(13Viên Mai: Tùy Viên thi thoại. Nxb. Giáo dục, H. 1999. Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, tr.59.

(14Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm học liệu xb, Sài Gòn 1961, tr.121-122.

(15Đường - Tống bát đại gia: Tám đại gia thời Đường - Tống, gồm có:

Thời Đường: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên

Thời Tống: Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức (Tô Đông Pha), Tô Triệt.

(16Tiên Tần: tức trước đời Tần (221 TCN - 206 TCN). Chủ yếu chỉ thời kỳ: Xuân Thu (770 TCN - 480 TCN) và Chiến Quốc (480 TCN - 221 TCN).

(17Lưỡng Hán: Hai đời Hán, tức: Tiền Hán (206 TCN-8 SCN) và Hậu Hán (24-220).

(18Diêu: họ của vua Thuấn; Tự: họ của vua Vũ.

(19Chu Cáo, gồm có: Đại Cáo, Tửu Cáo, Khang Cáo, Lạc Cáo, Thang Cáo.

(20Ân Bàn, gồm 3 thiên Bàn Canh: Thượng, Trung, Hạ.

(21Thái sử công, tức Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi tiếng.

(22Tử Vân: là tên tự của Dương Hùng (53 TCN - 18 SCN), nhà tư tưởng nổi tiếng thời Tiền Hán. Tác phẩm có: Thái Huyền, Pháp Ngôn

(23Tương Như: tức Tư Mã Tương Như (179 - 117 TCN), người Thành Đô, tự Tràng Khanh, rất đa tài, văn hay đàn giỏi. Ông là một tác giả nổi tiếng nhất về phú, có các tác phẩm: Tử hư phú, Đại nhân phú, Mỹ nhân phú, Trường môn phú

(24Xuân Thu: tức Kinh Xuân Thu, bộ sử nước Lỗ do Khổng Tử (551 - 479 TCN) soạn.

(25Tả thị: tức Tả truyện của Tả Khâu Minh, giải thích nội dung Kinh Xuân Thu, vì vậy còn được gọi là Xuân Thu Tả truyện.

(26Sách của Trang Chu: chỉ bộ Nam Hoa kinh của Trang Tử.

(27Ly Tao: bài thơ theo thể Sở từ của Khuất Nguyên (343 - 277 TCN), một bài thơ trường thiên, có 370 câu tả tâm sự của ông.

(28Chỉ bộ Sử ký của Tư Mã Thiên.

(29Tiên sinh: chỉ Tư Mã Tương Như.

(30Tôn sinh: tức số con em trong tôn thất nhà Nguyễn học tại Quốc tử giám.

(31Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 4, tr.305.

(32Phong Nhã: chỉ Kinh Thi. Kinh Thi có 3 phần: Phong - Nhã - Tụng. Ở đây dùng để phiếm chỉ thi ca cổ điển của Trung Hoa.

(33Điển Phần: chỉ Tam phần - Ngũ điển.

Tam phần: chỉ thư tịch cổ của các đời Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế, để nói về Đại đạo.

Ngũ điển: chỉ thư tịch cổ của các đời Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

(34Ông họ Trương: tức Trương Quốc Dụng (1797-1864), người xã Phong Phú, huyện Thạch Hà (nay thuộc xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829). Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, thăng Lang trung Bộ Hình. Phạm lỗi phải đi hiệu lực. Sau được phục dụng điều đi Án sát Quảng Ngãi, Hưng Yên, về Kinh sung làm Kinh diên Giảng quan. Sau thăng Hình bộ Thượng thư, kiêm Quốc sử quán Tổng tài, được điều làm Thống đốc Hải An quân thứ (Hải Dương - Quảng Yên). Ông tử trận trong khi dẹp cuộc phiếm loạn của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên năm 1864.

(35Tam hữu: Văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam… thường lấy hình tượng tùng, trúc, mai làm biểu tượng cho sự can đảm, khí tiết, chịu đựng được cái rét và sương tuyết của mùa Đông, gọi là “Đông hàn tam hữu” (Ba người bạn chịu được cái rét mùa Đông). Ở đây ám chỉ bậc kẻ sĩ quân tử có khí phách trượng phu “Uy vũ bất năng khuất” (Mạnh Tử).

(36Vũ Đông Dương: tức Vũ Phạm Khải (1807-1872), tự là Đông Dương, hiệu là Ngu Sơn và Dưỡng Trai, quê xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831), làm quan tới chức Hàn lâm Trực học sĩ, quyền biện Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người đứng đầu phái chủ chiến trong triều đình Tự Đức. Tác phẩm có: Ngu Sơn toàn tập, gồm 3 quyển thơ, 15 quyển văn.

(37Linh Tế tháp ký: tên cả bài là Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy) của Trương Hán Siêu (? - 1354) là một danh Nho học vấn sâu rộng vào nửa đầu thế kỷ XIV đời Trần.

(38Tôi được nhà nghiên cứu Phạm Như Thơm (Viện Sử học), photocopy cho 1 bản dịch ra tiếng Việt bộ Bồng Châu thi văn tập, không thấy ghi tên người dịch!. Tuy nhiên, sau khi đọc kỹ bản dịch này và đối chiếu với nguyên tác chữ Hán, tôi nhận thấy bản dịch chất lượng thấp, không thể đem ra xuất bản được./.

Vũ Duy Thanh 武惟清 (1807-1859), tự là Trừng Phủ 澄甫, hiệu là Mai Khê 梅溪 và Bồng Châu 蓬洲…, người làng Vân Bồng, huyện Yên Khánh (nay là thôn Vân Bồng, xã Khánh Hải, huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình).

Ngay từ thuở nhỏ, Vũ Duy Thanh đã tỏ ra là người thông minh, cẩn trọng và có văn tài. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện chép tiểu sử của ông, có nhận xét: “Vũ Duy Thanh, tự là Trừng Phủ, người Yên Khánh, thuộc Ninh Bình. Lúc trẻ thông tuệ, xem đâu nhớ đấy, 14, 15 tuổi biết làm văn. Anh là Đề, là học trò giỏi, mà Duy Thanh lại còn học giỏi hơn…”(1). Tuy vậy, mãi tới năm 37 tuổi, Vũ Duy Thanh mới đi thi Hương, khoa Quý Mão (1843), trường Nam Định và đỗ Cử nhân(2). Năm sau, khoa Giáp Thìn (1844), ông dự kỳ thi Hội, nhưng không đỗ. Bẩy năm sau, tới khoa thi Hội năm Tân Hợi (1851), ông đi thi và đỗ Phó bảng. Cùng năm Tân Hợi ấy, vua Tự Đức mở khoa thi Cát sĩ (hay Chế khoa), ông đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (tức Bảng nhãn)(3).

Sau khi thi đỗ, Vũ Duy Thanh được bổ chức Hàn lâm viện Thị độc, rồi chuyển sang Tập hiền viện. Năm 1853, ông được thăng lên chức Triều liệt Đại phu Quốc tử giám Tư nghiệp. Năm 1855, ông được bổ chức thự Quốc tử giám Tế tửu. Tháng 9 năm Tự Đức thứ 10 (1857), ông được chính thức bổ chức Trung Thuận Đại phu Quốc tử giám Tế tửu.

Trong thời gian giữ chức Tế tửu ở Quốc tử giám, trường Nho học cao cấp bậc nhất của quốc gia Đại Nam ngày đó, Vũ Duy Thanh tỏ rõ là một bậc thầy đạo cao đức trọng, có vốn kiến thức uyên bác và đặc biệt luôn hết lòng đối với sự nghiệp giáo dục, đào tạo lớp hậu tiến.

Sách Đại Nam chính biên liệt truyện, nhận xét về ông như sau: “Duy Thanh tính chất phác ngay thẳng, đối với mọi người vui vẻ giản dị, không cạnh tranh. Nhưng đến khi luận về sự sai lầm của tục học và cái tai hại của dị đoan thì tất ra sức nói…”(4).

Theo Nhà thư tịch học Trần Văn Giáp, trong Lược truyện các tác gia Việt Nam thì tác phẩm của Vũ Duy Thanh có:

- “Bồng Châu Vũ Tiên sinh thí văn - 蓬洲武先生試文 (Văn) ký hiệu VHv.442.

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集 (Văn)”(5).

Trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam, Ngô Đức Thọ (chủ biên), các tác giả cho biết, Vũ Duy Thanh có các tác phẩm sau:

- “Bồng Châu thi văn tập 

Trừng Phủ thi tập 澄甫詩集

Bồng Châu tạp thảo 蓬洲雜草, v.v…”(6).

Tác phẩm Bồng Châu thi văn tập hiện đang được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A.1043. Văn bản Bồng Châu thi văn tập là một tập sách chép tay, trên giấy dó, gồm có 222 trang, khổ 27x15cm, mỗi trang có 8 hàng, mỗi hàng trung bình, 22, 23 chữ Hán, nét bút khá già dặn, theo lối Hành thư rõ ràng, dễ đọc.

Bồng Châu thi văn tập được chia làm 3 quyển:

1. Quyển thứ nhất - Thi tập:

+ Thơ Ngũ ngôn cổ phong: 8 bài

+ Thơ Thất ngônTứ tuyệt 23 bài, Trường thiên 8 bài, Bát cú 85 bài.

Như vậy, Quyển thứ nhất có tất cả 124 bài thơ: tiễn tặng bạn bè, mừng thi đỗ, mừng thọ, vịnh cảnh thiên nhiên, vịnh di tích lịch sử, v.v...

2. Quyển thứ hai - Văn tập, gồm có 21 bài trướng: mừng bạn thăng quan, mừng được về hưu, mừng thượng thọ, v.v...

Trong Quyển 2 này, sau bài Nghĩ Hàn Xương Lê cầm, có chép 10 bài thơ thể Sở từ của Vũ Duy Thanh.

3. Quyển thứ ba - Tạp tập, là phần chép các bài Thuyết Luận , Ký Bình Thư Tế văn , v.v… gồm có 18 bài như: Mộng thuyết, ca ngợi Quản Trọng đời Xuân Thu; phê bình bài Linh Tế tháp ký của Trương Hán Siêu; phê phán đạo Giatô; bác bỏ thuyết thần tiên; phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Dũ… Ngoài ra, Quyển 3 còn có 19 bài Văn tế thần, cầu mưa, cầu phúc, v.v…

Bồng Châu thi văn tập chia thành 3 quyển như trên, gồm có 2 nội dung: thơ và văn xuôi, cho nên chúng tôi cũng xin tách ra làm 2 phần để phân tích và bình luận:

I. Thơ Vũ Duy Thanh - tiếng thơ của một nhà Nho quân tử

Bao trùm lên toàn bộ tập Bồng Châu thi văn tập là một đạo lý nhân nghĩa của đạo Nho và tấm lòng yêu nước, thương dân của một bậc chính nhân quân tử.

Hầu như ở bài thơ nào, từ thơ thù phụng gửi cho bạn bè, đến thơ tả cảnh, vịnh vật…, tác giả Vũ Duy Thanh đều ý thức mình là một nhà Nho chân chính, một nhà giáo mẫu mực. Trong bài Hạ Áng Ngũ Nguyễn Phó bảng(7)賀盎伍阮副榜(Mừng ông Nguyễn Phó bảng người Áng Ngũ), Vũ Duy Thanh nói về bạn mình, nhưng thực ra là ông tự bạch về con người mình:

Phiên âm:

Ngô hữu Nguyễn Tuấn phủ

Phú chất tối thanh thuần.

Vi học thậm khắc khổ

Thanh tùng nại tuế hàn

Hoàng cúc nghi thu phố…

Dịch nghĩa:

Bạn ta là Nguyễn Tuấn phủ

Tư chất rất trong sạch, thuần nhã

Học tập cực khắc khổ

Giống như cây tùng xanh tốt chịu được năm rét buốt.

Giống như hoa cúc vàng thích nghi với tiết trời thu…

Vũ Duy Thanh ví người bạn của ông là Phó bảng Nguyễn Ngạn với cây tùng, hoa cúc, bởi lẽ hai loài cây ấy đều tượng trưng cho người quân tử mà văn chương cổ điển xưa thường nói tới.

Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử từng nói: “” - Tuế hàn, nhiên hậu tri tùng bách chi hậu điêu dã (Nghĩa là: Mỗi năm rét đến, mới biết cây tùng, cây bách rụng lá cuối cùng [sau mọi loài cây khác] (Luận Ngữ - Tử Hãn).

Trong cuộc đời làm quan ngắn ngủi, chưa đầy 10 năm, Vũ Duy Thanh chỉ giữ các chức vụ về văn hóa, giáo dục như: Hàn lâm viện Thị độc, Tập hiền viện, Quốc tử giám Tế tửu. Trong đó, chức vụ lâu nhất là Tế tửu Quốc tử giám tại Kinh đô Phú Xuân - Huế, do vậy, Vũ Duy Thanh luôn luôn ý thức được trách nhiệm của một bậc thầy mô phạm đối với bạn đồng liêu và học trò.

Trong bài Thứ Lưu Đông nguyên vận tiễn Ngô Trợ giáo lĩnh Bắc Ninh Đốc học - (Họa vần thơ của Lưu Đông và tiễn Ngô Trợ giáo đi lĩnh chức Đốc học Bắc Ninh), Vũ Duy Thanh có những suy nghĩ khá sâu sắc về nghề làm thầy của mình:

Phiên âm:

Cổ xưng giáo chức lãnh

Ngã hỷ giáo chức thanh…

Kinh điển như uyên hải

Nghĩa lý vị Dịch tinh.

Khóa tập hữu trình hạn

Nhật nguyệt nan vi tranh

Nguyện tử thể thường thái

Nguyện tử tâm thường tỉnh

Nguyện tử thủ thường ngạnh

Nguyện tử mục thường minh

Dịch nghĩa:

Thời xưa cho nghề thầy giáo là chức quan lạnh,

Chúng ta vui lòng vì nghề thầy giáo là nghề thanh bạch.

Kinh điển nhà Nho thì sâu sắc như biển cả,

Còn nghĩa lý thì không chỉ có Kinh Dịch là tinh túy.

Việc dạy học thì có quy trình thời hạn,

Đến mặt trời, mặt trăng cũng khó tranh giành [sự vận hành ấy].

Mong Bác giữ cho thân thể lúc nào cũng thư thái,

Mong Bác giữ cho tâm hồn lúc nào cũng sáng suốt.

Mong Bác giữ cho tay chân lúc nào cũng mạnh cứng,

Mong Bác giữ cho đôi mắt lúc nào cũng tinh tường…

Cuối bài thơ, Vũ Duy Thanh khẳng định giáo chức là một nghề rất cao quý và đầy vinh dự:

Phiên âm:

Định vô ngâm Mục túc

Khởi tất tiển thuần canh

Phạt Đàn năng bất tố

Nhất chức hữu dư vinh.

Dịch nghĩa:

Nhất định không phải ngâm câu thơ Mục túc.

Há lại chẳng thừa món canh rau dút, cá vược?

Nhớ bài thơ Phạt Đàn, chẳng phải ăn không ngồi rồi.

Nghề nhà giáo có thừa sự vinh dự!

Vũ Duy Thanh nói đùa với bạn mình là “Không phải ngâm câu thơ Mục túc” (Vô ngâm Mục túc) là có ý nhắc tới câu thơ trong bài Ký hữu 寄友 (Gửi bạn) của Nguyễn Trãi dưới đây:

Phiên âm:

Thập tải độc thư bần đáo cốt

Bàn vô mục túc, tọa vô chiên.

Dịch nghĩa:

Mười năm đọc sách nghèo đến tận xương,

Mâm cơm không có rau mục túc, chỗ ngồi không có đệm.

Còn nói “Khởi tất tiển thuần canh” là tác giả sử dụng điển tích văn chương cổ điển mà nhà Nho xưa, không ai là không biết, đó là “Thuần canh lô khoái” 蓴羹纑膾 (tức Canh rau dút, gỏi cá vược).

Theo Tấn thư, Trương Hàn, người đất Ngô Quận, tính tình phóng khoáng, làm quan ở Kinh đô, nhân buổi gió thu nổi, chạnh lòng nhớ nhà, nhớ món rau thuần, gỏi cá vược ở quê, bèn than rằng: “Người ta ở đời quý nhất là được thỏa chí, sao lại có thể buộc mình vào con đường làm quan ở xa ngàn dặm để cầu lấy tiếng tăm tước vị!”. Sau đó, ông bèn từ quan, về quê nhà. Ở đây, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh chỉ dùng với ý nơi bạn ông làm chức Đốc học là tỉnh Bắc Ninh, cũng không thiếu gì những món ăn đậm đà phong vị quê hương, nên cứ yên tâm với chức vụ triều đình giao phó.

Bảng nhãn Vũ Duy Thanh và bạn ông, trong bài thơ này, đều là những bậc đỗ đại khoa, hết sức thiệp liệp kinh điển, sử sách Nho gia, cho nên hầu như ở đâu cũng thấy các vị sử dụng các điển tích từ Tứ thư(8)Ngũ kinh(9). Vũ Duy Thanh viết để nhắc nhở bạn mình:  - Phạt đàn năng bất tố (Tiếng đốn cây bạch đàn, khiến cho không phải ăn không ngồi rồi!).

Đó là xuất xứ từ bài thơ Phạt đàn, phần Ngụy Phong trong Kinh Thi. Bài thơ Phạt đàn nguyên tác có tất cả 27 câu thơ, từ 4 chữ cho đến 8 chữ. Tôi xin trích 4 câu trong chương I dưới đây:

Phiên âm:

Khảm khảm phạt đàn hề

Trí chi hà chi can hề

Bỉ quân tử hề

Bất tố xan hề.

Dịch nghĩa:

Tiếng chặt cây bạch đàn, tiếng nghe khảm khảm

Rồi đặt cây ấy ở bên bờ sông…

Người quân tử kia!

Không hề ngồi không mà ăn!

Bài thơ Phạt đàn là để khen người quân tử không chịu ngồi không mà ăn, mà hưởng thành quả lao động của người khác.

Bài Trường trung dạ ngâm, đồng bộc hôn thụy cảm tác - 場中夜吟童僕昏睡感作 (Trong trường, đêm đọc thơ bên cạnh đứa tiểu đồng đang ngủ) càng cho thấy tài học của Vũ Duy Thanh:

Phiên âm:

Xảo chuyết sơ lai phận bất đồng

Đại quân phú vật lý hà cùng

Tĩnh tư Âu lão(10) Thu thanh tác

Hạt nhược thùy đầu hãn thụy đồng?

Dịch nghĩa:

Khéo và vụng từ xưa đến nay, phận từng người không giống nhau

Tạo hóa sinh ra muôn vật, cái lý thật vô cùng

Trong lúc yên tĩnh nhớ đến bài Thu Thanh phú của ông già Âu Dương Tu

Sao giống với cảnh đứa tiểu đồng đang gục đầu mà ngủ lúc này?

Trong các bài phú sáng tác vào thời Bắc Tống (960 - 1126), sau hai bài Tiền Xích Bích phúHậu Xích Bích phú của danh sĩ Tô Đông Pha (1036 - 1101), thì người ta hay nhắc đến nhất là bài Thu Thanh phú của Âu Dương Tu. Bài phú này của Âu Dương Tu vừa hay về nội dung, vừa hay về nghệ thuật ngôn từ. Trong Thu Thanh phú, ông tả màu sắc của thu, hình dáng của thu, cả tới cái ý, cái khí của thu, để độc giả cảm nhận được cái thê lương trong tiếng thu. Cuối bài Âu Duy Tu lại liên tưởng tới kiếp người: “Bách ưu cảm kỳ tâm, vạn vật lao kỳ hình” (Trăm mối lo làm xúc động trong lòng, vạn việc đời làm lao khổ thân hình), gây cho ta một mối cảm thán vô hạn… Câu kết của bài Thu Thanh phú, đã được Vũ Dương Thanh nhắc đến ở trên: “Đồng tử mạc đối, thùy đầu nhi thụy. Đãn văn tứ bích trùng thanh tức tức, như trợ dư nhi thán tức” (Đồng tử không đáp, gục đầu mà ngủ. Chỉ nghe bốn phía vách có tiếng dế ri rỉ kêu, như thể góp thêm tiếng than thở với ta vậy!).

Sử thần triều Nguyễn từng nhận xét về Vũ Duy Thanh là người bản tính chất phác, ngay thẳng, giản dị. Tôi đọc khá kỹ thơ của ông trong Bồng Châu thi văn tập, nhận thấy thơ Vũ Duy Thanh quả đúng là phần nhiều đều bình dị. Tất cả lời thơ của ông đều rất ôn tồn, thuần hậu và phác thực có phong vị thơ của Đào Tiềm (365 - 427), nhà thơ lớn cuối đời Đông Tấn, đầu đời Lục Triều của Trung Quốc. Đào Tiềm là một thi nhân danh tiếng của Trung Quốc, rất yêu hoa cúc.

Vũ Duy Thanh cũng làm khá nhiều bài thơ về hoa cúc: Vịnh cúcTrùng Dương vô cúcĐình tiền mẫu đơn, tuế tứ khai, Hoàng cúc kinh thu bất phát, hý vấn

Bài Vịnh cúc  (Vịnh hoa cúc) là một bài thơ hay mà tôi đọc thấy phảng phất phong vị thơ của Đào Tiềm:

Phiên âm:

Ngọc nhụy kim anh sắc sắc tân

Hòa yên, đới lộ cánh thiêm thần

Thùy tri Đào Lệnh sơ ly hạ

Cử thế giai thu, ngã độc xuân.

Dịch nghĩa:

Nhụy như ngọc, cánh như vàng, sắc tươi tốt lúc nào cũng như mới nở.

Tắm gội trong sương sớm, mây chiều, lại càng tôn thêm vẻ thần thái.

Có ai biết ông quan Lệnh họ Đào từng hái cúc dưới hàng giậu thưa?

Mọi người đang trong cảnh mùa thu, chỉ có Ta (chỉ hoa Cúc) giữ riêng vẻ xuân tươi tốt!

Vũ Duy Thanh nói “Đào Lệnh”, là vì Đào Tiềm từng giữ chức quan Lệnh (tức Tri huyện) ở huyện Bành Trạch. Còn “Sơ ly hạ” là có ý nhắc tới 2 câu thơ rất nổi tiếng của thi sĩ họ Đào, trong bài Ẩm tửu (Uống rượu) dưới đây:

Phiên âm:

Thái cúc Đông ly hạ

Du nhiên kiến Nam sơn.

Dịch nghĩa:

Hái cúc dưới hàng giậu phía Đông

Phơi phới thấy núi Nam.

Tôi đã trích một vài bài thơ Thất ngôn tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú của Vũ Duy Thanh trên đây, nhưng ông còn sáng tác nhiều bài thơ Thất ngôn trường thiên nữa. Hầu như ở thể loại nào, thơ Vũ Duy Thanh cũng có những câu thơ hay. Thí dụ một số câu thơ dưới đây:

Phiên âm:

Thê tâm sương lộ kinh thu tự

Cực mục vân sơn cảm hạo tư.

(Trường trung ngộ tiên khảo kỵ)

Dịch nghĩa:

Tấm lòng thương đau lạnh lẽo như sương móc, ở trong trường thêm lo sợ mùa thu.

Đôi mắt đăm đăm dõi nhìn áng mây trên núi, càng nhớ tới ơn lớn của cha.

(Trong trường gặp ngày giỗ của cha)

Hoặc câu:

Phiên âm:

Vụ tỏa tằng Man không mạc mạc

Đào phi vạn khoảnh tự sàn sàn.

(Hoành Sơn quan hoài cổ)

Dịch nghĩa:

Sương mù tựa như thể giam giữ nhà của dân tộc thiểu số ở trong, không gian thật yên tĩnh.

Hàng vạn con sóng lớn chồm lên vỗ dồn dập vào bờ tiếng ào ào.

(Qua Đèo Ngang hoài cổ)

Hay câu: 

宿

Phiên âm:

Lạc bút ba đào kinh biến thái,

La hung tinh tú động hàn hương.

(Ức Hàn Văn công)

Dịch nghĩa:

Mỗi khi hạ bút xuống, lời văn như sóng lớn thật đáng kinh sợ, không thể tính trước được,

Giãi bày ý tứ trong lòng như có hàng tinh tú bày ra la liệt, chấn động cả bầu trời lạnh.

(Nhớ Hàn Văn công(11))

Từ khi Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đi vào cõi vĩnh hằng đến nay đã hơn một thế kỷ rưỡi (1859-2013). Với một độ lùi thời gian dài hơn 150 năm ấy, đủ cho hậu thế thẩm định giá trị văn chương, thi ca của Vũ Duy Thanh. Thực ra, ngay từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu văn học Việt Nam đã đánh giá cao giá trị nghệ thuật cũng như nội dung thi ca của ông.

Trần Trung Viên (1890-1947), soạn giả bộ tuyển tập thi ca Văn đàn bảo giám (gồm 3 tập), xuất bản lần đầu năm 1926, đến năm 1938 mới trọn bộ, là một trong những người đầu tiên công bố thơ ca của Vũ Duy Thanh. Trong tập thi tuyển nói trên, soạn giả Trần Trung Viên, đã tuyển 7 bài thơ Thất ngôn bát cú(12) của Vũ Duy Thanh là: Thơ túng, Thăm cảnh Nhiệt Đàm, Nhớ thầy học cũ, Đề nhà học cũ, Tiễn đưa Nguyễn Tri Phương vào Nam chống giặc, Qua đèo Hải Vân, Qua suối Bạch Đàn.

Trong bộ hợp tuyển thi ca này, tên tuổi của Vũ Duy Thanh được đứng tề danh với các nhà thơ nổi tiếng khác đương thời như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Quát, v.v…

Ở trên tôi có nói thơ của Vũ Duy Thanh bình dị, thuần hậu và phác thực. Vì thế, nếu cần trích thêm những câu thơ hay trong bộ Bồng Châu thi văn tập, thì không có gì là khó. Tuy nhiên, loại thơ bình dị ấy không phải ai cũng có thể làm được. Về vấn đề này, nhà thơ, nhà lý luận phê bình văn học đời Thanh là Viên Mai (1716-1798) đã nhận xét rất chí lý như sau:

“Thơ nên mộc mạc không nên khéo léo, nhưng tất phải là cái mộc mạc từ trong khéo lớn mà ra; thơ nên nhạt không nên nồng, nhưng tất phải là cái nhạt theo sau cái nồng mà có. Cũng ví như ông quan to, công thành danh toại, rồi xõa tóc, cởi dây ấn, tức là danh sĩ phong lưu, nếu bọn thiếu niên con nhà giàu sang cũng bắt chước thái độ ấy, thì sẽ nên đánh roi…”(13).

II. Văn Vũ Duy Thanh - sự uyên bác của bậc sư biểu học cao hiểu rộng

Tản văn của Vũ Duy Thanh, phần lớn được ghi chép lại trong 2 quyển (Quyển 2 và Quyển 3) của Bồng Châu thi văn tập.

Vào tháng 12 năm 2012, trong Hội thảo khoa học lần thứ nhất “Về thân thế, cuộc đời Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, tôi đã viết bài Mấy cảm nghĩ nhân đọc bài Văn sách khoa thi Cát sĩ của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Trong đó, tôi đã trích lời nhận xét của Học giả Cao Xuân Dục (1843-1923) về khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi, niên hiệu Tự Đức thứ 4 (1851), mà Vũ Duy Thanh đỗ đầu: Đệ nhất giáp Cát sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn) là “Khoa đặc biệt phi thường để đãi tài phi thường” (14).

Khoa Cát sĩ, năm Tân Hợi (1851) này, người phúc duyệt cuối cùng và trực tiếp lấy đỗ bao nhiêu người, ai được đỗ đầu chính là vua Tự Đức (1848-1883). Tự Đức là một ông vua thông minh, chăm học từ nhỏ và là một nhà văn hóa, nhà thơ khá nổi tiếng của Việt Nam thế kỷ XIX. Chúng ta biết một chút về thi tài của vua Tự Đức, để thấy rằng khi ông lựa chọn Vũ Duy Thanh làm người đỗ đầu “Khoa thi đặc biệt phi thường” là không phải chuyện đơn giản chút nào. Tôi cho rằng cái điều mà Vũ Duy Thanh để lại ấn tượng mạnh trong lòng vua Tự Đức không phải chỉ là tài về thi ca, mà chắc chắn ở cả sự uyên bác, thể hiện trong các bài tản văn nghị luận của vị Bảng nhãn họ Vũ này.

Trong số các bài tản văn của Vũ Duy Thanh được tuyển trong Bồng Châu thi văn tập, có khá nhiều bài thể hiện sức học quảng bác của Bảng nhãn Vũ Duy Thanh, như: Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải (Phỏng theo bài Tiến học giải của Hàn Xương Lê); Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay)); Thượng Hình bộ Thượng thư Trương công từ hạ thư (Thư mừng gửi lên Hình bộ Thượng thư họ Trương), v.v… Trong đó, tôi đặc biệt chú ý tới bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải của Vũ Duy Thanh. Tôi thiết nghĩ không phải ngẫu nhiên mà người biên tập bộ Bồng Châu thi văn tập, lại xếp bài này lên đầu Quyển 2, tức bài đầu tiên trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh. Vì bày này, tác giả họ Vũ của chúng ta, Nghĩ  (tức phỏng theo, bắt chước) bài Tiến học giải  của Hàn Xương Lê (tức Hàn Dũ), một trong số Đường - Tống bát đại gia(15), do vậy, chúng ta cần biết nội dung tác phẩm của họ Hàn nói về vấn đề gì?

Bài Tiến học giải của Hàn Dũ được ông sáng tác với mục đích chính để cổ xúy phong trào Cổ văn, mà ông được coi là người lãnh đạo. “Cổ văn” là khái niệm đối lập với Biền văn. Đặc trưng của “Cổ văn” là câu văn xuôi riêng rẽ, không gò bó theo một công thức nhất định, khác với “Biền văn” rất chú trọng đối ngẫu, văn vẻ, âm luật và điển cố. Về thể văn, nó khôi phục truyền thống văn chương Tiên Tần(16), Lưỡng Hán(17), cho nên gọi là Cổ văn 古文. Thời kỳ Trung Đường (765-836), Hàn Dũ và những nhà văn khác đề xướng thể văn này, để phản đối văn phong phù hoa, diễm lệ từ đời Lục triều (thế kỷ thứ V-VI) về sau. Phong trào Cổ văn dựa vào ngọn cờ phục hồi Nho học mà phát triển.

Trong bài Tiến học giải, Hàn Dũ phát biểu chủ trương của mình trong công cuộc vận động phục hưng cổ văn. Trong đó, có đoạn ông viết:

調”.

Phiên âm:

Thượng quy Diêu Tự(18), hồn hồn vô nhai, Chu Cáo(19), Ân Bàn(20), cật khuất ngạo nha, Xuân Thu cẩn nghiêm, Tả thị phù khoa, Dịch kỳ nhi pháp, Thi chính nhi nhập ba, hạ đãi Trang, Tao, Thái sử(21) sở lục, Tử Vân(22), Tương Như(23) đồng công dị khúc, tiên sinh chi vu văn, khả điều hoành kỳ trung nhi tứ kỳ ngoại hỹ”.

Dịch nghĩa:

“Trên thì theo quy củ của vua Thuấn, vua Hạ Vũ mênh mông vô bờ bến; bốn thiên Chu Cáo, ba thiên Bàn Canh văn chương rất khó, sáu thiên Xuân Thu(24) thì cẩn nghiêm; Tả thị(25) giải thích kinh [Xuân Thu] thì phù hoa, khoe khoang; Kinh Dịch thì biến hóa khôn lường; nhưng lại đáng làm phép tắc; Kinh Thi thì nghĩa lý chính đính, còn từ cú thì hoa lệ; tiếp đến là sách của Trang Chu(26), sách Ly Tao(27) và những điều mà Thái sử Công ghi lại(28); Tử Vân, Tương Như tuy cùng tạo những khúc điệu khác nhau, nhưng nét khéo léo thì tương đồng. Tiên sinh(29) về mặt văn chương có thể nói là một túi kinh luân để rồi có thể phóng tứ ra ngoài vậy”.

Cổ văn của Hàn Dũ đều được đặt nền tảng trên văn chương của những nhà văn và những tác phẩm mà ông lược kể trên. Hàn Dũ tuyên bố dứt khoát rằng:  “Phi Tam đại, Lưỡng Hán chi thư, bất cảm quan” (Không phải là văn chương thời Tam đại (Hạ - Thương - Chu) và Lưỡng Hán (Tiền Hán, hậu Hán), thì không dám xem).

Qua đó, ta thấy chủ trương của vị đại Nho thời Đường, Hàn Dũ trong bài Tiến học giải rất hợp với mong muốn chấn chỉnh việc học đương thời của vị Quốc Tử giám Tế tửu, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh. Sách Đại Nam chính biên liệt truyện cho biết về vấn đề ấy như sau: “[Vũ Duy] Thanh từng dâng sớ [lên vua Tự Đức], nói rằng: Muốn được thực tài tất phải khôi phục phép dạy, phép thi của cổ nhân và liệt ra 8 mục:

1. Cẩn thận phép dạy ở trường tư các làng.

2. Kén chọn tổng lý và tá lại.

3. Dựng xã thương.

4. Giữ nghiêm phép dạy ở các trường phủ, huyện.

5. Nghị đổi lại phép thi Hương.

6. Mở rộng phép dạy ở các nhà Quốc học.

7. Chọn thầy bạn cho Tôn sinh(30).

8. Sửa định lại việc ban phát kinh sách”(31).

Trong bài Nghĩ Hàn Xương Lê, Tiến học giải, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh cũng mở đầu bằng nỗi băn khoăn cho việc học của sinh viên Quốc tử giám thời bấy giờ. Ông viết: “Quốc tử [giám] Tiên sinh cổ khiếp chi hạ dữ luận văn ư đường thượng, ngữ chi viết: “Học dục kỳ bác, vô thiển, dĩ tạc thức dục kỳ trác, dĩ bác phương kim. Minh thánh viễn lãm, xiển lãng nhân văn, cột dương Phong Nhã(32), đào chú Điển Phần(33); hóa tương long ư Thái thượng. Đạo lưu nhất hồ thánh chân…” - Dịch nghĩa: “Trong một buổi nhàn hạ, vị Tiên sinh ở Quốc tử giám, bên cạnh có mấy bài luận văn, đang ngồi chơi ở giảng đường, ông nói với học trò rằng: “Sự học là muốn có kiến thức uyên bác, chớ nông cạn, cần phải đào sâu suy nghĩ để có được hiểu biết cao xa, chớ hẹp hòi hoặc bác tạp. Phàm bậc thánh minh luôn nhìn xa, để xiển dương, sáng tỏ nhân văn, phát huy Phong Nhã, đào chú Điển Phần, để cải hóa và có dầy dặn kiến thức ở trước nhà vua. Đạo học phải thông tỏ, thống nhất ở nơi đích thực của các bậc thánh…”. Đó là điều, ta thấy Bảng nhãn Vũ Duy Thanh đã có cái nhìn về sự học giống với bậc đại Nho Hàn Dũ vừa nói ở trên.

Bài Thạch Hà Trương công thăng thụ Hình bộ Thượng thư, huyện thân hạ tự (Đại nhuận) (Văn thân huyện Thạch Hà mừng ông họ Trương(34) được thăng lên chức Hình bộ Thượng thư (Nhuận sắc thay), cũng có nhà nhiều câu văn hay, sử dụng hình ảnh đẹp, như:

 - Long Hưng vân chí, đồng sinh phượng minh, phù cố hữu thiên giả, tồn yên”. Dịch nghĩa: Rồng có bay lên, thì mây mới có chỗ tụ lại, cây ngô đồng có sinh ra, thì phượng hoàng mới có chỗ để kêu hót. Phàm mọi sự vật trên muốn vững bền và tồn tại được là vì có trời vậy!

Bài Đề Tam hữu đồ tịnh tự thuyết chí  (Đề bức tranh “Ba người bạn”, cùng bài tự) là một bài tạp văn khá hay và ngắn gọn. Bảng nhãn Vũ Duy Thanh viết: “Dư ngẫu nhàn tọa, cố đông bích gian, đa điểm ô tích, nhân dĩ ngốc bút nhu mặc, hý tùy ô tích vi họa, sậu thành sổ phong, dĩ vi hữu “Sơn”; bất khả vô thụ. Toại thành “Mai” nhất; hựu dĩ vi thụ; bất khả độc; kế thành “Tùng”, “Trúc”, vi “Tam hữu”(35).

Hữu Sơn, hữu Thụ, bất khả vô Cầm; nhân tả hạc, lập phong đầu; mi du cốc khẩu, các thành song yên. Nhân chiếm nhất tuyệt; dĩ kỷ kỳ thực. Hốt ức Phan, Lê lưỡng quân tử, hựu vi thuyết dĩ quảng chi, tịnh chí kỳ hậu vân:

Mai cù, trúc sấu hợp tùng trinh

Đạm bạc tương tao ngẫu nhĩ thành

Nhất hác gian tình, mi cộng viễn

Sổ phong dật trí, hạc đồng thanh”.

Dịch nghĩa:

Ta ngẫu nhiên có một buổi nhàn hạ, ngồi ngắm bờ tường phía Đông, thấy khá nhiều những vết ố, nhân đó, bèn lấy chiếc bút lông cùn thấm vào đĩa mực, cứ theo những vết ố mà vẽ đùa, chẳng mấy chốc, thành dăm ngọn núi. Ta cho rằng đã có núi, thì không thể không có cây cối. Lại vẽ một cây Mai. Ta lại cho rằng đã có cây, thì không thể đứng một mình. Tiếp đó, vẽ luôn Tùng, Trúc [để cùng với Mai] làm thành ba người bạn.

Nhưng có núi, có cây rồi không thể không có bầy cầm thú, vì thế vẽ một con hạc đậu trên đầu ngọn núi, và một con Nai lững thững trước cửa hang núi, để cho thành một đôi vậy! Nhân đó khẩu chiếm một bài thơ tứ tuyệt để ghi lại sự việc. Rồi bỗng nhớ đến hai bậc quân tử họ Phan, họ Lê, lại làm thêm một bài Thuyết để mở rộng nghĩa, cũng ghi chép lại có cuối bài. Thơ rằng:

Mai gầy trúc võ, với tùng trinh.

Đạm bạc ngẫu nhiên hóa bạn lành.

Ngòi nước mát trong nai thấp thoáng

Đỉnh non nhàn nhã hạc cao thanh.

Ngoài một vài bài, tôi vừa trích dẫn ở trên, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh còn nhiều bài tản văn khá hay, nội dung vừa hàm súc vừa uyên bác, như bài: Đông song mộng thuyết, trình Vũ Đông Dương (Nói về giấc mộng bên cửa sổ phía Đông, gửi Vũ Đông Dương(36)); Đề Linh Tế tháp ký hậu (Đề ở dưới bài Linh Tế tháp ký(37)); Linh Tế tháp ký giải (Giải thích rõ về bài ký tháp Linh Tế [của Trương Hán Siêu]); Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký phê bình (Phê bình bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy), v.v… Tuy nhiên, trong giới hạn của một bài tạp chí, chúng tôi không thể viết dài hơn được. Do vậy, hy vọng trong một tương lai gần, được trở lại vấn đề này, chúng tôi xin bàn kỹ, để bạn đọc hiểu rõ hơn về nội dung và nghệ thuật thơ ca cũng như sự uyên bác, hàm súc trong các bài tản văn của Vũ Duy Thanh.

Để tạm kết bài này, tôi xin rút ra một vài nhận xét dưới đây:

1. Vũ Duy Thanh là một danh nhân lịch sử, một nhà thơ tài năng sống và hoạt động vào nửa đầu thế kỷ XIX. Ông là nhà khoa bảng lớn, là người đỗ vào hàng cao nhất trong lịch sử khoa cử Nho học (1807-1919), dưới triều Nguyễn. Lịch sử khoa cử Nho học triều Nguyễn, không lấy Trạng nguyên, chỉ lấy đỗ 2 vị Bảng nhãn (tức Đệ nhất giáp, Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh) là: Phạm Thanh (1821-?) đỗ Bảng nhãn, Chính khoa Tân Hợi (1851) và Vũ Duy Thanh đỗ Bảng nhãn, Chế khoa Cát sĩ Tân Hợi (1851), cùng dưới triều vua Tự Đức (1848-1883).

Người đời tiếc cho tài năng của Vũ Duy Thanh, cho rằng tài của ông đáng Trạng nguyên, nên đương thời gọi ông là “Trạng Bồng” (Ông Trạng nguyên làng Bồng).

Như chúng ta đều biết, hoạn lộ của Vũ Duy Thanh không dài, các chức quan mà ông phụ trách đều thiên về công việc giáo dục, văn hóa như: Hàn lâm viện Thị độc, Quốc lử giám Tế tửu, tuy nhiên, không vì thế mà ông tỏ ra xao nhãng với các công việc chính trị trọng đại thời bấy giờ. Năm 1858, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn, phần lớn muốn nghị hòa, Vũ Duy Thanh và một số người cùng chí hướng với ông, đều cho rằng “Phải đánh mới định được đại cục”. Vũ Duy Thanh dâng sớ lên vua Tự Đức xin tăng cường lực lượng quốc phòng, chấn chỉnh việc nội trị, cải cách học thuật, văn hóa, kinh tế. Sớ dâng lên, không được vua Tự Đức chấp thuận, Vũ Duy Thanh ngày đêm nghiên cứu Binh thư, rồi viết Bình Tây thất sách (Bẩy sách lược bình giặc Pháp), và còn trích tiền lương của mình để mua sắm vật liệu, với ý định đóng thuyền thủy chiến có hỏa pháo để chống lại tàu chiến của Pháp. Nhưng công việc chưa xong, thì Vũ Duy Thanh đột ngột đi vào cõi vĩnh hằng…

2. Cuộc đời làm quan của Vũ Duy Thanh, tuy có một vài trắc trở, nhưng như ông tự nhận xét, cũng có nhiều vinh dự… Có được điều đó, là vì Vũ Duy Thanh luôn luôn là một vị quan thanh liêm, mẫu mực. Trên cương vị là Tế tửu Quốc tử giám, vị Hiệu trưởng của Trường cao cấp Nho học đứng đầu cả nước thời bấy giờ, ông là bậc thầy đạo cao, đức trọng luôn tận tụy với việc đào luyện nhân tài cho đất nước.

Trên cương vị là một nhà trước thư, lập ngôn, Bảng nhãn Vũ Duy Thanh để lại cho hậu thế một số tác phẩm, trong đó có giá trị hơn cả là: Bồng Châu thi văn tập, mà chúng tôi vừa giới thiệu sơ lược nội dung ở trên.

Tôi thật lấy làm tiếc rằng: Hiện nay giới nghiên cứu văn hóa nói chung, nghiên cứu văn học nói riêng chưa biết nhiều về các tác phẩm thi văn của Vũ Duy Thanh. Ở trên, tôi đã nhắc đến bộ thi tuyển Văn Đàn bảo giám của Trần Trung Viên, có tuyển chọn 7 bài thơ Thất ngôn bát cú của ông. Thế mà, vào tháng 10 năm 2004, trong Từ điển Văn học (Bộ mới), do Nhà xuất bản Thế giới ấn hành, khổ 19x27cm, dày 2182 trang, không có tên Vũ Duy Thanh! Trong số 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ có tên trong bộ Từ điển Văn học này, thì mở đầu là Nhà thơ, nhà văn Vũ Anh Khanh (1926 -1956) và kết thúc là Nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939). Tôi đã đọc tất cả tiểu sử và sự nghiệp thi ca, tản văn của 23 nhà thơ, nhà văn họ Vũ nói trên, thấy rằng đều rất xứng đáng được vinh danh trong bộ từ điển dày dặn này! Nhưng tôi nghĩ thầm trong bụng rằng: “Giá như hỏi một vài vị nhà thơ, nhà văn họ Vũ ấy, thử so sánh thi tài, văn tài của mình với cụ “Trạng Bồng - Bảng nhãn Vũ Duy Thanh”, thì không biết họ sẽ nghĩ sao đây?!”.

Điều đó, đặt ra cho giới nghiên cứu Sử học, Văn học hiện nay một trách nhiệm thiết thực cần tiến hành ngay là: Dịch những tác phẩm chữ Hán, đặc biệt là bộ Bồng Châu thi văn tập(38)của Vũ Duy Thanh, và cho xuất bản để công bố rộng rãi.

Tôi thiết nghĩ, nếu làm được như vậy, không chỉ là việc tôn vinh một danh nhân lịch sử, danh nhân văn hóa của Việt Nam ở thế kỷ XIX, mà còn quan trọng hơn, chúng ta đã góp phần giới thiệu một tác gia tầm cỡ, còn ít người biết tới cho độc giả hiện tại.

3. Có thể khẳng định Vũ Duy Thanh là một danh nhân văn hóa, có những đóng góp rất đáng ghi nhận đối với tiến trình lịch sử văn hóa của nước nhà. Với những trước tác của mình, nhất là tác phẩm Bồng Châu thi văn tập, Vũ Duy Thanh xứng đáng được coi là một tác gia tên tuổi của nền văn học Việt Nam vào thế kỷ XIX.

Tôi hoàn toàn tin rằng: Nếu làm được các điều trên đây, một cách trọn vẹn, thì nhân dân mọi miền đất nước, trong đó có nhân dân Yên Khánh - Ninh Bình sẽ tin yêu cuộc sống hơn, trân trọng những gì thuộc về quá khứ vẻ vang của dân tộc hơn. Và, tại cõi vĩnh hằng kia, cụ “Bảng Bồng - Vũ Duy Thanh” chắc sẽ hài lòng và mãn nguyện đôi phần.

Chú thích:

(1Đại Nam chính biên liệt truyện. Nxb. Thuận Hóa, Huế 1993, tập 4, tr.304.

(2Cao Xuân Dục: Quốc triều Hương khoa lục. Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh. 1993, tr.243.

(3Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm Học liệu xb, Sài Gòn. 1961, tr.121.

(4Đại Nam chính biên liệt truyện. tập 4, Sđd, tr.305.

(5Lược truyện các tác gia Việt Nam. Trần Văn Giáp chủ biên, tập 1, Nxb. Sử học, H. 1962, tr.437.

(6Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ chủ biên, Nxb. Văn học, H. 1993, tr.839.

(7Nguyễn Phó bảng: tức Nguyễn Ngạn , người xã Áng Ngũ, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình (nay thuộc huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình). Sau đổi tên là Nguyễn Tiến Khanh. Đỗ Phó bảng khoa Kỷ Dậu, niên hiệu Tự Đức thứ 2 (1849). Làm quan đến Đốc học.

(8Tứ thư là Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh tử.

(9Ngũ Kinh là Thi - Thư - Lễ - Dịch - Xuân Thu.

(10Âu lão: Ông già họ Âu, tức Âu Dương Tu  (1007-1072), tự là Vĩnh Thúc , hiệu là Lục Nhất  và Túy Ông , quê ở Lô Lăng (nay là tỉnh Giang Tây). Ông đỗ Tiến sĩ năm 1030, làm chức Quán các Hiệu khám ở triều. Mười năm sau mới được làm chức Hàn lâm viện Học sĩ và được giao soạn bộ Tân Đường thư, 222 quyển. Soạn xong bộ sách trên, ông được thăng Hàn lâm viện Thị độc, rồi Khu mật Phó sứ, cuối cùng làm tới chức Binh bộ Thượng thư. Ông trước tác nhiều, ngoài bộ Tân Đường thư, ông còn tự soạn bộ Tân Ngũ đại sử, 75 quyển.

(11Hàn Văn công tức Hàn Dũ  (768 - 824): tự làThoái Chi退, đỗ Tiến sĩ năm 792. Năm 796, ông làm chức Quán sát, sau được làm chức Giám sát Ngự sử, rồi Sứ quán Tu soạn, cuối cùng được thăng tới Hình bộ Thị lang. Hàn Dũ có danh vọng trên văn đàn nhờ có tài về cổ văn và nhiệt thành bênh vực đạo Nho.

(12Trong Văn đàn bảo giám, ngoài 7 bài thơ Thất ngôn bát cú nói trên, soạn giả Trần Trung Viên còn tuyển bài Cổ Kinh danh thắng, một bài Biền phú, hạn vận, ca ngợi cảnh đẹp của Cổ Kinh đô Hoa Lư.

(13Viên Mai: Tùy Viên thi thoại. Nxb. Giáo dục, H. 1999. Bản dịch của Nguyễn Đức Vân, tr.59.

(14Cao Xuân Dục: Quốc triều đăng khoa lục. Trung tâm học liệu xb, Sài Gòn 1961, tr.121-122.

(15Đường - Tống bát đại gia: Tám đại gia thời Đường - Tống, gồm có:

Thời Đường: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên

Thời Tống: Âu Dương Tu, Tăng Củng, Vương An Thạch, Tô Tuân, Tô Thức (Tô Đông Pha), Tô Triệt.

(16Tiên Tần: tức trước đời Tần (221 TCN - 206 TCN). Chủ yếu chỉ thời kỳ: Xuân Thu (770 TCN - 480 TCN) và Chiến Quốc (480 TCN - 221 TCN).

(17Lưỡng Hán: Hai đời Hán, tức: Tiền Hán (206 TCN-8 SCN) và Hậu Hán (24-220).

(18Diêu: họ của vua Thuấn; Tự: họ của vua Vũ.

(19Chu Cáo, gồm có: Đại Cáo, Tửu Cáo, Khang Cáo, Lạc Cáo, Thang Cáo.

(20Ân Bàn, gồm 3 thiên Bàn Canh: Thượng, Trung, Hạ.

(21Thái sử công, tức Tư Mã Thiên, tác giả bộ Sử ký nổi tiếng.

(22Tử Vân: là tên tự của Dương Hùng (53 TCN - 18 SCN), nhà tư tưởng nổi tiếng thời Tiền Hán. Tác phẩm có: Thái Huyền, Pháp Ngôn

(23Tương Như: tức Tư Mã Tương Như (179 - 117 TCN), người Thành Đô, tự Tràng Khanh, rất đa tài, văn hay đàn giỏi. Ông là một tác giả nổi tiếng nhất về phú, có các tác phẩm: Tử hư phú, Đại nhân phú, Mỹ nhân phú, Trường môn phú

(24Xuân Thu: tức Kinh Xuân Thu, bộ sử nước Lỗ do Khổng Tử (551 - 479 TCN) soạn.

(25Tả thị: tức Tả truyện của Tả Khâu Minh, giải thích nội dung Kinh Xuân Thu, vì vậy còn được gọi là Xuân Thu Tả truyện.

(26Sách của Trang Chu: chỉ bộ Nam Hoa kinh của Trang Tử.

(27Ly Tao: bài thơ theo thể Sở từ của Khuất Nguyên (343 - 277 TCN), một bài thơ trường thiên, có 370 câu tả tâm sự của ông.

(28Chỉ bộ Sử ký của Tư Mã Thiên.

(29Tiên sinh: chỉ Tư Mã Tương Như.

(30Tôn sinh: tức số con em trong tôn thất nhà Nguyễn học tại Quốc tử giám.

(31Đại Nam chính biên liệt truyện. Sđd, tập 4, tr.305.

(32Phong Nhã: chỉ Kinh Thi. Kinh Thi có 3 phần: Phong - Nhã - Tụng. Ở đây dùng để phiếm chỉ thi ca cổ điển của Trung Hoa.

(33Điển Phần: chỉ Tam phần - Ngũ điển.

Tam phần: chỉ thư tịch cổ của các đời Phục Hy - Thần Nông - Hoàng Đế, để nói về Đại đạo.

Ngũ điển: chỉ thư tịch cổ của các đời Thiếu Hạo, Chuyên Húc, Cao Tân, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn.

(34Ông họ Trương: tức Trương Quốc Dụng (1797-1864), người xã Phong Phú, huyện Thạch Hà (nay thuộc xã Thạch Kim, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh). Đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Sửu (1829). Lúc đầu được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, thăng Lang trung Bộ Hình. Phạm lỗi phải đi hiệu lực. Sau được phục dụng điều đi Án sát Quảng Ngãi, Hưng Yên, về Kinh sung làm Kinh diên Giảng quan. Sau thăng Hình bộ Thượng thư, kiêm Quốc sử quán Tổng tài, được điều làm Thống đốc Hải An quân thứ (Hải Dương - Quảng Yên). Ông tử trận trong khi dẹp cuộc phiếm loạn của Tạ Văn Phụng ở Quảng Yên năm 1864.

(35Tam hữu: Văn chương cổ điển Trung Hoa, Việt Nam… thường lấy hình tượng tùng, trúc, mai làm biểu tượng cho sự can đảm, khí tiết, chịu đựng được cái rét và sương tuyết của mùa Đông, gọi là “Đông hàn tam hữu” (Ba người bạn chịu được cái rét mùa Đông). Ở đây ám chỉ bậc kẻ sĩ quân tử có khí phách trượng phu “Uy vũ bất năng khuất” (Mạnh Tử).

(36Vũ Đông Dương: tức Vũ Phạm Khải (1807-1872), tự là Đông Dương, hiệu là Ngu Sơn và Dưỡng Trai, quê xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Đỗ Cử nhân khoa Tân Mão (1831), làm quan tới chức Hàn lâm Trực học sĩ, quyền biện Bố chánh Thái Nguyên. Ông là người đứng đầu phái chủ chiến trong triều đình Tự Đức. Tác phẩm có: Ngu Sơn toàn tập, gồm 3 quyển thơ, 15 quyển văn.

(37Linh Tế tháp ký: tên cả bài là Dục Thúy sơn Linh Tế tháp ký (Bài ký tháp Linh Tế ở núi Dục Thúy) của Trương Hán Siêu (? - 1354) là một danh Nho học vấn sâu rộng vào nửa đầu thế kỷ XIV đời Trần.

(38Tôi được nhà nghiên cứu Phạm Như Thơm (Viện Sử học), photocopy cho 1 bản dịch ra tiếng Việt bộ Bồng Châu thi văn tập, không thấy ghi tên người dịch!. Tuy nhiên, sau khi đọc kỹ bản dịch này và đối chiếu với nguyên tác chữ Hán, tôi nhận thấy bản dịch chất lượng thấp, không thể đem ra xuất bản được./.

(Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121), tr.29-42)

Tải về:  
 In
Lượt truy cập: 

20190617 Tho mai gia le

Ảnh: Bìa sách Thọ Mai gia lễ

Bài viết Confucian Family Ritual and Popular Culture in Vietnam (Gia lễ Nho giáo và Văn hóa Dân gian Việt Nam - VVB) của Giáo sư Shimao Minoru 嶋尾稔được in trong Memoirs of the Research Department of the Toyo Bunko (Kỉ yếu của Phòng nghiên cứu thuộc Đông Dương văn khố - VVB) số 69 xuất bản năm 2011, trang 57 - 96.

Shimao Minoru 嶋尾稔là Giáo sư Viện Nghiên cứu Ngôn ngữ và Văn hóa thuộc Đại học Keio(慶應義塾大学), chuyên gia nghiên cứu lịch sử Đông Nam Á, dành nhiều tâm huyết nghiên cứu lịch sử, văn hóa, phong tục Việt Nam. Trong chương trình nghiên cứu văn hóa Việt Nam,Giáo sư Shimao Minoru dành khá nhiều trang viết khảo cứu tư liệu gia lễ.Liên tục từ năm 2006 đến 2009, trên Tạp chí của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa của Trường Đại học Keio các số 37 năm 2006(2), số 38 năm 2007(3), số 39 năm 2008(4), số 40 năm 2009(5), Shimao Minoru công bố nhiều kết quả nghiên cứu về Thọ Mai gia lễ chủ yếu ở phương diện cơ sở tư liệu hình thành tác phẩm. Tháng 10 năm 2009, Shimao Minoru có bài viết Sự dung nạp và phát triển của gia lễ ở Việt Nam trong Hội nghị thường niên của hội nghiên cứu sử học Hiroshima của trường Đại học Hiroshima công bố kết quả nghiên cứu về tiếp nhận gia lễ ở Việt Nam. Trên cơ sở kế thừa và tổng hợp thành quả nghiên cứu trước đó, tháng ba năm 2010, Shimao Minoru nghiên cứu gia lễ Việt Nam trong mối quan hệ với văn hóa dân gian Việt Nam, kết quả được công bố trong bài viết Gia lễ và Văn hóa dân gian Việt Nam(6). Năm 2011, bài viết được được chính tác giả chuyển thể Anh ngữ in trong Memoirs of the Research Department of the Toyo Bunko (the Oriental Library) số 69 với nhan đề Confucian Family Ritual and Popular Culture in Vietnam. Với độ dài 40 trang, ngoài phần giới thiệu (Introduction), kết luận, thư mục tài liệu tham khảo, bài viết gồm bốn phần:

1. Tư liệu gia lễ Việt Nam: giới thiệu thư mục (The Various Vietnamese Versions: A Bibliographical Introduction)

2. Sự ảnh hưởng của gia lễ Trung Quốc đối với Việt Nam (The Adoption of Chinese Family Ritual in Vietnam)

3. Việc truyền bá gia lễ của các triều đại Việt Nam (Family Ritual in Relation to Indoctrination Efforts)

4. Gia lễ và văn hóa dân gian (Family Ritual and Popular Culture)

Bài viết tập trung vào đối tượng là bốn tác phẩm gia lễ Việt Nam lịch đại: Tiệp Kính gia lễ, Hồ Thượng thư gia lễ, Thọ Mai gia lễ, Văn Công gia lễ tồn chân; nghiên cứu ở các phương diện văn bản học, quá trình hình thành tư liệu gia lễ Việt Nam (động cơ, cơ sở hình thành); thông qua tư liệu, Shimao Minoru nhìn nhận gia lễ trong mối quan hệ với văn hóa dân gian. Kết quả nghiên cứu về tư liệu gia lễ Việt Nam ở góc độ văn bản học được trình bày trong phần “1.The Various Vietnamese Versions: A Bibliographical Introduction”. Kết quả nghiên cứu trong đó rất có giá trị đối với nghiên cứu hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam.

Shimao Minoru có cái nhìn khá toàn diện về tư liệu gia lễ Việt Nam lịch đại, ông nhận định ngoài Tiệp Kính gia lễ, Hồ Thượng thư gia lễ, Thọ Mai gia lễ, không có tác phẩm gia lễ khác được khắc in. Với đối tượng chính là bốn tác phẩm nói trên, ngoài khái quát về tác giả, hoàn cảnh ra đời, kết cấu hình thức các tác phẩm, Shimao Minoru đi sâu tìm hiểu những vấn đề còn đang tranh cãi, hoặc chưa được giải đáp, hoặc chưa được ai đề cập, đồng thời đề xuất một số phát hiện mới liên quan đến tư liệu gia lễ Việt Nam, như vấn đề văn bản và tác giả Tiệp Kính gia lễ, vấn đề tác giả Thọ Mai gia lễ. Trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu từ năm 2006 đến năm 2009, bài viết dành khá nhiều trang viết về Thọ Mai gia lễđặc biệt là tổng hợp thông tin nghiên cứu về vấn đề tác giả. Chúng tôi nhận định, trong một số phát hiện mới của Shimao Minoru, bài viết của Trần Thị Kim Anh: Ai soạn “Thọ Mai gia lễ” đăng trên Nguồn sáng dân gian năm 2003 đóng vai trò quan trọng. Nhờ bài viết của Trần Thị Kim Anh, Shimao Minoru có thêm tư liệu chứa đựng thông tin về Tiệp Kính gia lễ, Hồ Thượng thư gia lễ, Thọ Mai gia lễ, đó là tác phẩm Vũ trung tùy bút. Từ Vũ trung tùy bút (bản R.1069 lưu trữ tại Thư viện Quốc gia), mục “Quán tẩy chi thiết”Shimao Minoru không những tìm được thông tin về tác giả Thọ Mai gia lễ (Trần Thị Kim Anh đã đề cập trước đó) mà còn có thể tìm hiểu kĩ hơn về tác giả Tiệp Kính gia lễ.

Ngoài nghiên cứu về tư liệu gia lễ hiện còn, thông qua một số tư liệu Hán Nôm, Shimao Minoru còn thu thập nhan đề một vài tác phẩm gia lễ hiện đã thất lạc, như Gia lễ của Trần Tú Dĩnh, Chu Văn Công gia lễ tứ đại bổ chính diễn nghĩa quốc âm.

Đầu năm 2012, chúng tôi công bố một số kết quả nghiên cứu về tư liệu gia lễ Việt Nam trong báo cáo tập sự tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nhờ thông tin do thầy giáo chúng tôi cung cấp, và thông qua một số webside, chúng tôi có được một số bài nghiên cứu viết bằng tiếng Nhật và tiếng Anh của Shimao Minoru về tư liệu gia lễ Việt Nam. Đọc bài viết của Shimao Minoru, chúng tôi không khỏi ngỡ ngàng vì những gì chúng tôi vừa công bố đã được Giáo sư đề cập và công bố từ trước, như vấn đề văn bản Tiệp Kính gia lễ, vấn đề tác giả Thọ Mai gia lễ. Với nguồn tài liệu phong phú kể cả tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Nhật, bài nghiên cứu của Giáo sư đã cung cấp cho chúng tôi một số nguồn tư liệu có thông tin liên quan đến tư liệu gia lễ Việt Nam. Tuy vậy, nghiên cứu của Giáo sư Shimao Minoru mang tính tổng hợp về văn hóa Việt Nam và tư liệu gia lễ được nghiên cứu với tư cách là một thành phần trong đó, vì thế tư liệu gia lễ mới được đề cập ở góc độ thư mục học, đồng thời phạm vi tư liệu mới chỉ xoay quanh những tác phẩm nhan đề “Gia lễ”, hoặc những tác phẩm có uy tín, chưa thống kê một cách hoàn chỉnh hệ thống tư liệu gia lễ Việt Nam, trong khi đó tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện còn lưu trữ ít nhất 12 tác phẩm thuộc môn loại này(7) như Thanh Thận gia lễ, Tam lễ tập yếu, Tứ lễ lược tập, Tang lễ bị kí… Tuy vấn đề tác giả Tiệp Kính gia lễ, Thọ Mai gia lễ đã được Giáo sư đề cập và phân tích với nhiều luận cứ khoa học nhưng chưa đưa ra kết luận cụ thể, hơn nữa vấn đề văn bản tác phẩm cũng chỉ dừng lại ở mức độ thống kê, chưa mô tả kết cấu, khảo dị văn bản, đặc biệt với Thọ Mai gia lễ tác phẩm khá phức tạp về mặt văn bảntuy được dành nhiều trang viết nhất nhưng mới chỉ dừng lại ở mức độ thống kê và mô tả sơ bộ hình thức dị bản. Ngoài đó ra, bài viết còn một vài khiếm khuyết nhỏ, như ở mục “3.1. Các điều giáo hóa trong nửa cuối thế kỉ 17”, Shimao Minoru đã trích thông tin ở điều 41 trong Lê triều giáo hóa điều lệ: “Tang gia, trung nguyên tiết đương tuân gia lễ” 喪家中元節當循家 禮, nhưng nguyên văn chính xác phải là “Tang gia, trung nguyên tiết đương tuân gia thể” 喪家中元節當循家体.

 

Chú thích:

(1). Bài này in trong “Memoirs of the Research Department of the Toyo Bunko” số 69 xuất bản năm 2011).

(2). Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của Thọ Mai gia lễ, Tạp chí của Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa của Trường Đại học Keio, số 37, 2006, tr.141-158 嶋尾稔: “『寿梅家礼』に関する基礎的考察” 慶應義塾大学言語文化研究所紀要37 号. 141-158 (2006).

(3). Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của “Thọ Mai gia lễ”, (phần 2), Sđd. số 38, 2007, tr.123-143.

(4). Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của Thọ Mai gia lễ, (phần 3), Sđd. số 39, 2008, tr.215-231.

(5). Shimao Minoru: Khảo sát cơ sở căn bản của Thọ Mai gia lễ, (phần 4), Sđd. số 40, 2009, tr.247-257.

(6). Shimao Minoru: Gia lễ văn văn hóa dân gian Việt Nam,「ベトナムの家礼と民間文化」in trong sách do Eiji Yamamoto山本英史(Chủ biên)『アジアの文人が見た民衆とその文化』, 應 慶 義 塾 大學 出 版 会, 東 京, 2010.

(7). Qua khảo sát, nghiên cứu tình hình văn bản, chúng tôi xác lập hệ thống tư liệu gia lễ lưu tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm gồm những tác phẩm sau:


S

t

t

Tên

tác

phẩm

Tác

giả

Niên

đại

Số lượng (kí hiệu)

Chủ

đ

Loại

văn

tự

In Viết tay
1.  Tiệp kính gia lễ 捷徑家禮

Ngô

Bình

Lê,

1707

in khắc

1[1]

Tang lễ Quyển một: Nôm; quyển hai: Hán
2. 

Hồ Thượng thư gia lễ

胡尚書家禮

Hồ

Dương

Hậu Lê:

1739, 1767

in khắc

2[1] 1[1] Tang lễ Quyển một: Nôm; Quyển hai: Hán
3.  1 tuyển tập
4.  Thọ Mai gia lễ 壽梅家禮

Hồ

Gia

Tân

Hậu Lê

25[1]

3[1]

Hôn lễ, Tang lễ,

Tế lễ

Nôm

xen Hán

5.  Thanh Thận gia lễ đại toàn 清慎家禮大全

Thanh

Thận tập thành

Hậu Lê

2[1]

Tang lễ,

Tế lễ

Nôm

xen Hán

6.  1 tuyển tập
7.  Tam lễ tập yếu 三禮集要

Phạm

Phủ

1782

4[1]

Hôn lễ, Tang lễ,

Tế lễ

Hán

8.  1 tuyển tập
9. 

Tứ lễ lược tập

四禮略集

Bùi

Lĩnh

1839

2[1]

Quan lễ, Hôn lễ, Tang lễ,

Tế lễ

Hán

10.  Văn Công gia lễ tồn chân 文公家禮存真

Đỗ

Huy

Uyển

1870

1[1]

Tang lễ,

Tế lễ

Hán

11. 

Nguyễn Thị gia huấn

阮氏家訓

Phượng Đình Nguyễn Mai Hiên cẩn chí

1849

1[1]

Quan lễ, Hôn lễ, Tang lễ,

Tế lễ

Hán

12.  Tang tế khảo nghi 喪祭考疑 ? 1894 1[1]

Tang lễ,

Tế lễ

Hán
13.  Tang lễ bị kí 喪禮備記 ? 1911 1[1] Tang lễ Hán
14.  Gia lễ lược biên 家禮略編 Sách do họ Trần giữ Nguyễn 1[1] Tế lễ Hán
15.  Gia lễ tạp nghi家禮雜儀 Trúc Đình chủ nhân Nguyễn Tuấn Ông

Nguyễn

1[1]

Luận Gia lễ nói chung

Hán

TỔNG SỐ 28 18
  46

 

VŨ VIỆT BẰNG

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.88-93, phiên bản trực tuyến ngày 23.02.2015.

20200711 8

Ảnh: Một buổi cầu tiên giáng bút ngày trước ở đền Bích Câu. (Nguồn: http://vnca.cand.com.vn/)

Vào thời điểm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược, khai thác thuộc địa, vơ vét của cải, tài nguyên, ra sức đàn áp phong trào đấu tranh của dân tộc ta, thuần phong mỹ tục, giá trị cương thường của ta theo đó ít nhiều đã bị ảnh hưởng, đảo lộn. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận nhà Nho có lòng yêu nước bất đắc chí về quê mở trường dạy học hoặc dựng Thiện đàn để mong làm được điều gì đó cho dân tộc ta. Trong bối cảnh xã hội ấy, một phong trào yêu nước dấy lên ở nhiều nơi trong cả nước như: Nam Định, Vĩnh Yên, Bắc Ninh, Sơn Tây, Hưng Yên, Thái Bình, Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ… có tên gọi là Thiện đàn.

Thiện đàn trong suốt quá trình tồn tại và phát triển với những tên gọi khác nhau như: Chính Tâm đàn, Lạc Đạo đàn, Hội Thiện đồng, Phổ Thiện đường, Khuyến Thiện đàn, Thất Diệu đàn… được thiết lập bởi một nhóm người đứng lên. Thành phần tham gia bao gồm nhiều tầng lớp từ thân hào, nông dân cho đến các tầng lớp nho sĩ, trí thức. Tất cả tham gia cuộc giáng bút đều có chung một mục đích đó chính là thông qua việc tổ chức Thiện đàn, cầu cơ, giáng bút nhằm tiếp tục tuyên truyền những tư tưởng ái quốc; khuyến thiện, phục dựng đạo lý luân thường đang bị đảo lộn; gắn chặt tinh thần đoàn kết dân tộc… Phong trào này mỗi lúc một rầm rộ ở Bắc kỳ cho đến vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh cũng như tầm ảnh hưởng của nội dung các bản kinh giáng bút qua phong trào Thiện đàn đã khiến thực dân Pháp thời kỳ này bắt đầu bất an.

Nhằm phục vụ nhiều tầng lớp, thế nên ngôn ngữ trong kinh giáng bút theo đó được sử dụng chủ yếu là Quốc âm, Nam âm. Tuy nhiên cũng không loại trừ một số tác phẩm có sử dụng xen kẽ Quốc âm và Hán tự. Đặc biệt, ẩn sau hoạt động tín ngưỡng - phong trào Thiện đàn này chính là lòng yêu nước, đoàn kết dân tộc trước thời khắc kẻ địch đang đặt “đế giầy” xâm lược lên nước ta. Theo thống kê của Nguyễn Xuân Diện, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hiện Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang lưu giữ 166 bản kinh giáng bút có niên đại vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và tinh thần yêu nước quật cường là một trong những nội dung xuyên suốt trong các áng thơ, văn kinh giáng bút ở vào thời đoạn này.

Sau đây, chúng tôi xin giới thiệu qua về 3 bản kinh giáng bút tiêu biểu của phong trào Thiện đàn trong giai đoạn trên, đó là bản Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經(1904); Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經(1906) và Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經(1910).

I. Giới thiệu và mô tả ba bản kinh đại diện

1. Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh (1904) 曾廣明善國音真經

Văn bản Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經 được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.143. Văn bản này có kích thước 27x15cm và dày 228 trang. Toàn bộ nội dung của văn bản được in trên nền giấy dó mỏng loại tốt. Sách còn khá đẹp, bìa cứng được gập đôi, đã rách gáy tuy nhiên nó được khâu bằng chỉ thừng tương đối chắc chắn. Ngay tờ đầu tiên, tên sách được nhà chế bản cho in bằng nét mực đen. Năm tờ kế tiếp được sử dụng mực đỏ để làm nổi lên hình ảnh 4 bức ảnh của Quan Âm 觀音 và Thánh Mẫu 聖母 khá đẹp. Những trang còn lại của văn bản thì đều sử dụng một màu mực đen bình thường.

+ Mặt 1 của văn bản được trang trí hoa văn với con chim phượng đang uốn lượn ngậm phong thư. Xung quanh là đám mây uốn lượn.

  • Thân giữa có đề dòng chữ Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經

+ Mặt 2 được chia làm 3 ô:

  • Ô giữa đề: Hoàng triều Thành Thái Giáp Thìn niên tứ nguyệt vọng trùng san 皇朝成泰甲辰年四月望重刊 [Trùng san vào ngày rằm tháng 4 năm Giáp Thìn niên hiệu Thành Thái].
  • Ô phải đề: Nam Định Đồng Lạc Khuyến Thiện đàn tàng nguyên bản 南定同樂勸善壇藏原本[Nguyên bản lưu giữ tại đàn Khuyến Thiện, Đồng Lạc, tỉnh Nam Định].
  • Ô trái đề: Mộc ân tín nữ Phan thị cẩn phụng thuyên khắc 沐恩信女潘氏謹奉鐫刻 [Tín nữ họ Phan đội ơn kính cẩn phụng khắc].

Kế đó là 4 bức tranh Quán Thế Âm Bồ Tát 觀世音菩薩, Vân Hương đệ nhất Thánh Mẫu 雲鄉第一聖母, đệ nhị Thánh Mẫu第二聖母, đệ tam Thánh Mẫu 第三聖母.

Văn bản Tăng quảng Minh Thiện quốc âm chân kinh 曾廣明善國音真經 đã được biên tập vào năm Canh Tý niên hiệu Thành Thái (tức năm 1900) do các tín chủ phụng san. Đó là tập hợp thi văn giáng bút của Đệ nhất công chúa Liễu Hạnh cũng như của Đệ nhị, Đệ tam Thánh Mẫu, khuyên mọi người lấy thiện làm gốc, vợ kính chồng, trẻ giúp già, con kính thờ cha mẹ, em tôn trọng anh, trong nhà ngoài làng phải đối xử theo đúng đạo lý. Bản kinh được đàn Khuyến thiện Đồng Lạc (Nam Định) in, dày 144 trang. Bản kinh Minh Thiện này hiện đang được lưu giữ tại Pháp mà theo Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, có ghi ký hiệu là Paris SA.PD 2343. Còn văn bản mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm đang giữ là bộ kinh Minh Thiện 明善 đã được tăng quảng, có ký hiệu AB.143, có niên đại Hoàng triều Thành Thái Giáp Thìn niên tứ nguyệt vọng trùng san 皇朝成泰甲辰年四月望重刊[Trùng san vào ngày rằm tháng tư năm Giáp Thìn niên hiệu Thành Thái triều ta (1904)] cũng do đàn Khuyến thiện Đồng Lạc (Nam Định) in nhưng độ dày lên tới 228 tr.

2. Tam bảo quốc âm chân kinh (1906) 國音真經

Văn bản Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經hiện đang được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu VNv.529. Văn bản gồm 72 tờ, in hai mặt khổ 28x16cm. Mỗi trang gồm 7 dòng, mỗi dòng có 221 chữ xuất hiện. Qua thống kê thủ công bằng phương pháp đếm thấy được trong văn bản xuất hiện 21.462 lượt chữ. Toàn bộ chữ được khắc in theo lối chân phương khá rõ nét.

Ở trang bìa của văn bản được chia làm 3 ô rõ rệt:

  • Ô giữa đề: Tam bảo quốc âm 三宝國音真經
  • Ô bên phải đề: Thành Thái, Bính Ngọ niên, trọng đông, thượng hoán tân thuyên 成泰丙午年仲冬上浣新鐫 [San khắc mới vào tiết Thượng nguyên (thượng tuần) tháng trọng đông (tháng một) năm Bính Ngọ niên hiệu Thành Thái (1906)].
  • Ô bên trái đề: Đông Đồ xã Thiên Hoa đường tàng bản 東塗社天花堂藏板[Bản cất giữ ở Thiên Hoa đường, xã Đông Đồ (nay thuộc huyện Đông Anh - Hà Nội)].

Văn bản Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經 không có kết cấu các chương mục một cách rõ ràng. Nó được thể hiện theo lối chữ viết có kiêng húy và viết đài. Điều này được thể hiện ở chữ kiêng húy thời 時 thành thìn Và tên của các quần chân giáng bút đều được viết cao hơn so với những chữ thể hiện nội dung thông thường khác. Ngay tại lời TựaTam Cung thánh cứu, Tam Chúa tiên thương 三宮聖救, 三主仙愴để có mừng nay Tam bảo nên kinh, lời in cẩm tú, rót trước tam tào yêu chỉ, thể rõ chương tương 明呢三宝年經唎印錦繡,捽著三曹腰只,体爐章襄… rồi đến Tam giáo dạy khuyên đà thống thiết 三教?勸它痛設đã cho thấy phần nào hoàn cảnh ra đời cũng như mục đích của văn bản Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經Và sau khi đã khái lược qua nội dung và ý nghĩa cơ bản của kinh, Tam bảo quốc âm chân kinh 三宝國音真經 đề cập ngay đến quần chân giáng bút.

3. Hồi xuân Nam âm chân kinh (1910) 回春南音真經

Là một bộ kinh giáng bút tàng bản tại đàn Phổ Thiện đường, xã Xuân Kỳ huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên (nay là xã Đông Xuân huyện Sóc Sơn thành phố Hà Nội). Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經 gồm “nội tập” và “ngoại tập”. Nội tập của bộ kinh này hiện nay còn được ông Đào Văn Cốt lưu giữ ở dạng ván khắc (không đủ cả bộ) tại Phổ Thiện đường trên khuôn viên mảnh đất nhà ông ở xã Đông Xuân - Sóc Sơn - Hà Nội. Văn bản mà chúng tôi mô tả ở đây là bản “Ngoại tập” hiện đang được lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu là AB.237, dày 107 trang. Bộ kinh giáng bút này được giáng trước vào ngày tốt tháng ba năm Canh Tuất (1910).

+ Mặt 1: trán được trang trí họa tiết hoa văn (giống hình thức trang trí của một tấm bia), bên dưới trán là hình chữ nhật chia làm 3 ô. Ở giữa có dòng chữ Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經. Ở 2 bên có in hình con rồng đang uốn lượn. Bốn góc của hình chữ nhật là biểu tượng 4 bông hoa giống nhau.

+ Mặt 2: trán có hình hoa văn giống như mặt 1, phía bên dưới cũng là hình chữ nhật và được chia làm 3 ô.

  • Ô bên phải đề dòng chữ Phúc Yên, Kim Anh, Xuân Kỳ 福安金英春棋 [Xuân Kỳ, huyện Kim Anh, tỉnh Phúc Yên].
  • Ô giữa đề Canh Tuất niên, tam nguyệt, cát nhật giáng trứ 庚戌年三月吉日降著 [Ngày lành, tháng ba năm Canh Tuất giáng bút].
  • Ô bên trái đề Phổ Thiện đàn tàng bản 普善壇藏板 [Bản lưu trữ tại đàn Phổ Thiện].

Văn bản được chia ra làm hai phần chính:

Phần đầu: Gồm từ trang bìa đến trang (2b). Trong phần này nói đến địa điểm, thời gian và nơi cất giữ văn bản. Đồng thời gồm có một bài tựa do Phật tổ Quán Thế Âm động Hương Sơn giáng 佛祖觀世音洞香山降.

+ Phần thứ hai: Là phần nội dung của văn bản bao gồm các bài thơ ca, phú, dụ, v.v… do các vị tiên nữ liệt thánh giáng bút.

Về niên đại: Được ấn hành vào năm Duy Tân, tức ngày vào ngày lành, tháng 3 năm 1910 (Duy Tân thứ 4).

II. Lược điểm giá trị nội dung, tư tưởng

Dẫu được thể hiện, ra đời trong thời điểm khác nhau, thế nhưng có một điều dễ nhận thấy ở 3 tập kinh giáng bút trong thời kỳ này: Tăng quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh (1904), Tam bảo Quốc âm chân kinh (1906) và Hồi xuân Nam âm chân kinh (1910); đó chính là việc, các bản kinh đều ra đời từ trong phong trào Thiện đàn đầu thế kỷ XX. Nội dung của nó không nằm ngoài hệ thống tư tưởng mà phong trào Thiện đàn đã phản ánh. Ba tập kinh đều thể hiện sâu sắc các vấn đề có liên quan đến cuộc vận động ái quốc, chấn hưng văn hóa dân tộc.

1. Thúc giục lòng yêu nước

Trong bối cảnh xã hội thời bấy giờ, khi mà thực dân Pháp tiến hành xâm lược, khai thác thuộc địa, vơ vét của cải, tài nguyên thiên nhiên. Những cuộc đàn áp, đầu độc người dân nước ta bằng rượu cồn, thuốc phiện…đòi hỏi nhân dân phải đứng lên đấu tranh, đoàn kết giành chính quyền. Để rồi quá trình tập hợp lực lượng cũng như định hướng cho phong trào đấu tranh theo đó được hình thành và chú trọng. Ngay từ đầu tập kinh Hồi xuân Nam âm chân kinh 回春南音真經 (1910), đã có những vần thơ giáng bút ám chỉ một xã hội đương thời đang bị lệ thuộc:

Ba núi đá rêu in dấu ngựa,

Bốn sông cát lở lấp mình voi.

Buồn khi thánh thót chim chào khách,

Ngán nỗi vu vơ cóc đớp ruồi

Quán Âm Phật tổ. Thi

(Hồi xuân Nam âm chân kinh)

Hình ảnh “Ba núi đá”, “Bốn sông cát”, đó chính là hình bóng của non sông dân tộc ta, những hình ảnh gắn liền với một nước nông nghiệp với 3/4 diện tích là đồi núi. “ba, bốn” là những con số nhiều, nó ngầm định cho ta hiểu rằng vùng in bóng kẻ thù không phải là một vùng hay hai vùng mà nó là rất nhiều. Sự kết hợp hài hòa giữa số từ “ba”, “bốn” với danh từ “núi đá”, “sông cát” đã làm cho bức tranh “cóc đớp ruồi” thêm sống động hơn.

Rước voi về dày mả

Ai chết mặc ai

Mặc sức nay bàn mai cuộc

Khi cấp nạn chân le chân vịt

Ẩy chó vào bụi rậm

Chú chết mặc chú

Tìm đường cao chạy xa bay

Hoàng Mai Doãn công chúa. Tỉnh mê phú

(Tăng Quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh)

2. Khuyên con người ta hướng thiện, yêu thương đùm bọc lẫn nhau

Có thể nói rằng, nội dung tu đức hướng thiện, khuyên con người ta luôn yêu thương đùm bọc lẫn nhau là một trong những giá trị nội dung, tư tưởng xuyên suốt trong các tác phẩm Kinh giáng bút của phong trào Thiện đàn đầu thế kỷ XX.

Lời dụ của Quốc Vương công chúa muốn nói tới việc mọi người phải bớt xa hoa tu tâm tích đức, thành kính thần chẳng xa, thánh chẳng xa. Có như vậy mới tránh được cảnh “hậu táng bại gia”. Tương tự trong lời phú của Hoàng Mai Doãn công chúa (Tăng Quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh) cũng nêu rõ về việc không nên ăn gian nói dối, chớ đem lòng gian tham mà hại người. Bởi khi đó gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy, ác giả ác báo:

Trời cao đất dầy

Con tạo vần xoay

Ơn trời nhờ thánh

Sinh được hội này

Ai là chẳng nức lòng nức dạ

Ai chẳng mong mở mặt mở mày

Hậu giả hậu lai

Ở hiền lại gặp lành

Mới biết tre già măng mọc

Ác giả ác báo

Ăn mặn thì khát nước

Khác nào cây yếu gió lay

Trong cuộc sống, ta cần nhận thức rõ gia đình là một tế bào của xã hội. Gia đình có ấm no, hạnh phúc, mọi thành viên trong gia đình biết yêu thương đoàn kết với nhau thì mới mong xã hội theo đó phồn vinh, thịnh vượng được. Căn nguyên cũng bởi, con người ta luôn có tổ, có tông, ta phải luôn chú trọng truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã tồn tại từ ngàn đời nay.

Những lời ca, tiếng hát của Quần chân trong 3 tập kinh trên về việc khuyên con người ta phải tu thân, hướng thiện, đùm bọc yêu thương lẫn nhau dẫu được thể hiện dưới những thái cực khác nhau, song nó rất thích hợp với thời thế bấy giờ - thời điểm mà giá trị nhân luân, đạo đức của một bộ phận người dân đang bị lực lượng thù địch đầu độc, phá vỡ bởi tệ nạn xã hội.

3. Vãn hồi đạo cương thường

Để chà đạp lên giá trị đạo đức, nô dịch dân tộc ta, ngay từ những ngày đầu đặt chân xâm lược nước ta, thực dân Pháp, một trong những “vũ khí” được chúng sử dụng triệt để đó chính là văn hóa nô dịch, chúng núp dưới danh chủ nghĩa khai sáng để đồng hóa, biến dân tộc ta trở thành một nước thuộc địa của chúng về mọi mặt. Chúng muốn mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp vốn tồn tại từ lâu đời ở ta bị mai một, sớm đảo lộn mọi giá trị, làm băng hoại đạo đức nhân luân.

Những kẻ xâm lược dùng chính sách văn hóa nô dịch đã khiến một bộ phận người sống trong xã hội bị đảo lộn nhân tâm, không còn nhớ đến ơn sinh thành, đạo phụ, phu - tử nữa. Chuyện xằng bậy thì diễn ra ở nhiều nơi:

Rồi trong cuộc sống xuất hiện những hiện tượng như: không giữ chữ trinh nhu, đạo luân thường:

Rằng hiền không phải rằng ngu,

Sao mà chẳng giữ trinh nhu đạo thường.

Thiện môn nay cũng biết đường,

Biết đường con phải biết phương tu trì.

Khuyên con chớ lãng hào ly

Quốc Vương công chúa. Ca. (Tăng quảng Minh thiện Quốc âm chân kinh)

Thậm chí, dù đã môi ấp, gối kề chung sống với nhau gần cả đời người, song một số cá nhân đã không quan tâm những lời phê phán, oán trách rồi tự đắc với cái mác lấy chồng, bỏ mặc chồng đau ốm sưng tấy mà cầu thác đi, thậm chí sau khi người chồng chết liền “bước thêm bước nữa”:

Trước những gì đã và đang tồn tại trong thời cuộc có liên quan đến văn hóa dân tộc, đạo đức nhân cách, lời ca, tứ thơ, dẫn dụ… của các Quần chân đã gióng lên hồi chuông báo động, thức tỉnh những người đang bị đánh mất mình hãy ngoảnh đầu lại, chung tay đoàn kết đẩy lùi kẻ thù.

4. Đề cao vị thế người phụ nữ

Qua 3 tập kinh đại diện trên cho chúng ta thấy đối tượng được nhắc đến trong văn bản chiếm đa phần là phụ nữ. Thánh Mẫu Liễu Hạnh cùng với các vị thần tiên như Đệ nhị Thánh Mẫu, Đệ tam Thánh Mẫu, Đông Ngạc Tiết phụ, Thượng Ngàn công chúa, Tam giang Trương công chúa, Quế Hoa công chúa… đã dốc tâm, đem những lời khuyên, tán dương chân thành mang đậm giá trị nhân văn sâu sắc đối với chị em phụ nữ. Từ thuở xưa, người phụ nữ trong xã hội đều thể hiện rõ thiên chức làm mẹ, làm vợ cao cả của mình. Không có chị em phụ nữ, thế giới sẽ không còn tồn tại. Đây cũng chính là lý do chứng minh vì sao tần suất, lời văn giáng được dành nhiều cho phụ nữ.

Họ luôn thẹn mình không đem được sức ra giúp ích cho dân tộc, đất nước khi mà xung quanh đầy rẫy những bất công rình rập, nô dịch. Nhiều khi họ đã phải thốt lên muốn được đem thân liệt nữ đọ gan anh hùng:

Thẹn mình phấn bạc son phai,

Những người tài sắc ấy trời hay ghen.

Canh khuya chong một ngọn đèn,

Trách mình chịu phận bạc đen thế mà.

Thân bèo bao quản nước xa,

Một thuyền một lái một nhà một sông.

Tam giang Trương công chúa. Ca. (Hồi xuân Nam âm chân kinh)

Có lẽ chính vì thiên chức của người phụ nữ như vậy nên bên cạnh việc đề cao nhân cách, đức tính, nhiều bài giáng toát lên những câu từ, lời văn khuyên nhủ chị em phụ nữ. Ví như, khi người con gái về nhà chồng thì phải luôn coi cha mẹ chồng là cha mẹ của mình, hiếu kính với cha mẹ chồng sao cho phải đạo làm con dâu, không để người đời chê trách.

Những vần thơ, mạch văn khuyên răn, đề cao vị thế của người phụ nữ đã được các vị thần tiên đề cập trên nhiều bình diện. Từ cuộc sống đời thường cho đến ý chí quật khởi muốn cùng đọ gan với anh hùng, đánh đuổi kẻ thù. Chấn hưng văn hóa dân tộc. Đây cũng chính là những lời khuyên răn quý báu có giá trị để lại cho muôn đời sau. Ngoài những nội dung tư tưởng chính ở trên ra, 3 tập kinh trên còn đề cập đến một số lĩnh vực khác như: suy tôn đạo phật, đề cao dân trí, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên đất nước, diễn đạt về đạo lý gia đình…

Như vậy, với việc nghiên cứu những giá trị về văn bản cũng như nội dung các bản kinh giáng bút trong phong trào Thiện đàn đầu thế kỷ XX, được thể hiện đa phần bằng Quốc âm, sẽ góp phần hiểu rõ hơn về đời sống Quốc văn Nôm Việt Nam ở một thời điểm đặc biệt của lịch sử - thời điểm cho sự giao thời Âu - Á, cho bước chuyển của truyền thống và hiện đại.

ThS. Trần Quang Huy

(Báo Công an nhân dân)

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (115). 2012, tr.35-42.

----

Tài liệu tham khảo

[1] Henri Maspero: Đạo giáo và các tôn giáo Trung Quốc, Lê Diên dịch, Nxb. KHXH, H. 2000, 834 tr.

[2] Kinh Đạo Nam - Thơ văn giáng bút của Vân Hương đệ nhất thánh mẫu (Liễu Hạnh) và các vị thánh nữ. Đào Duy Anh khảo chứng, Nguyễn Thị Thanh Xuân phiên âm và chú thích, Nxb. Lao động, H. 2007, 390 tr.

[3] Đào Duy Anh: Nhớ nghĩ chiều hôm, Hồi ký, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1989, tr.217-218.

[4] Toan Ánh: Nếp cũ tín ngưỡng Việt Nam, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1997, 420 tr.

[5] Điển cố Trung Hoa, Võ Ngọc Châu dịch, Nxb trẻ, Tp. Hồ Chí Minh, 1994, 419 tr.

[6] Nguyễn Xuân Diện: Văn thơ Nôm giáng bút với việc kêu gọi lòng yêu nước và chấn hưng văn hóa dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nghiên cứu chữ Nôm (Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm), Nxb. KHXH, H. 2006, tr.218-230.

[7] Nguyễn Xuân Diện: Về các tác phẩm thơ văn giáng bút hiện lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán NômThông báo Hán Nôm học năm 2000, Nxb. KHXH, H. 2001, tr.96-104.

[8] Phạm Đức Duật: Thơ ca giáng bút và Hồi thuần chân kinh hạ tậpThông báo Hán Nôm học năm 1997, Nxb. KHXH, H. 1998, tr.85-90.

[9] Nguyễn Đăng Duy: Đạo giáo với văn hóa Việt Nam, Nxb. Hà Nội, H. 2001, 502 tr.

[10] Trần Quang Huy: Phổ Thiện đường và văn bản Hồi xuân Nam âm bảo kinh ngoại tập, Khóa luận tốt nghiệp, khóa 49, 2008, 119 tr.

[11] Nguyễn Văn Huyên: Tục thờ cúng thần tiên ở Việt NamGóp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam(tập 2), Nxb. KHXH, H. 1996, tr.135-250.

[12] Đinh Thị Lệ Huyền: Tìm hiểu đạo mẫu ở Việt Nam qua tư liệu Hán Nôm, Luận văn Thạc sĩ, H. 2007, 153 tr.

[13] Vũ Đình Ngạn, Triệu Triệu: Mượn việc “giáng bút” để lưu hành thơ văn yêu nướcTạp chí Hán Nôm, Số 2 (19) - 1994, tr.65-66.

[14] Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, Trần Nghĩa và François.Gros đồng chủ biên, 3 tập, Nxb. KHXH, H. 1993.

[15] Nguyễn Thị Nguyệt: Văn giáng bút của Trạng Trình ở các đền thờ các vua Trần tại xã Tức Mặc, Kỷ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 1996, Nxb. KHXH, H. 1997, tr.297-304./.

20190503 Lopol Cadire

Ảnh: Phonétique Annamite của Léopol Cadière

Trong giai đoạn bản lề giữa hai thế kỷ này, tiếng nói và chữ viết thực sự đã có sự giao lưu giữa hai dân tộc Việt Nam và Pháp, mặc dù có thể, mức độ giao lưu giữa hai bên là không ngang bằng nhau. Vậy thực tế, quá trình này đã diễn ra như thế nào?

Hoạt động của người Pháp

Người Pháp đã dụng công tìm nhiều cách để truyền bá và phổ cập tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ alphabetique, trong đó, đầu tư vào giáo dục là một hướng đi đáng kể, mở đầu là sự ra đời trường Thông ngôn ở Việt Nam. Tại Nam kỳ, một trường như vậy được khai giảng ngày 8 tháng 5 năm 1862, chính nơi đây, nhà Bác học Trương Vĩnh Ký đã có thời gian giảng dạy. Tại Hà Nội, một trường nữa cũng đi vào hoạt động năm 1866. Cùng thời kỳ này, tờ Gia Định báo do người Pháp lập ra được phát hành với mục đích cổ động sử dụng chữ Quốc ngữ. Năm 1897, trường Hậu bổ ra đời, chính thức khởi động một cuộc cải cách giảng dạy trong nhà trường Việt Nam đương thời, cụ thể là, lần đầu tiên, học sinh Việt Nam được nghe các bài giảng và dự các kỳ thi bằng chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp(1).

Bắt đầu "từ giữa những năm 1890, việc tiếp xúc giữa viên chức Pháp và Việt trở nên dễ dàng hơn, bởi vì các Tú tài và Cử nhân ngày càng nhiều người làm chủ được chữ Quốc ngữ cũng như tiếng Pháp.

Thành quả đôi khi còn xuất sắc hơn thế nữa, người Việt Nam khi ấy không những sử dụng được tiếng Pháp trong đời sống và trong công việc, có những người còn có thể chơi chữ với ngoại ngữ này. Marco Polo, người châu Âu nổi tiếng với phát hiện Ấn Độ, vào thế kỷ XIII, đã viết đôi dòng liên quan tới Việt Nam trong nhật ký du hành của mình:

"Và khi chúng tôi từ hòn đảo Java này ra đi, được 700 dặm giữa Midi và Garbin, chúng tôi thấy hai hòn đảo, một lớn và một nhỏ hơn, một có tên là Sondur và hòn kia là Condur"(2).

Sondur trong tiếng Pháp nếu đọc tách ra thành hai từ son dur có thể mang nghĩa là âm thanh chát chúa, nặng nề. Người Việt nào đó đã nói vui rằng, chắc vì ông Polo thấy tiếng sóng biển xô bờ ì oạp thế nào đó, nên liên tưởng đặt luôn tên ấy cho hòn đảo. Xin nói thêm, theo bản in Description du monde về chuyến đi của Marco Polo, chú thích cho biết:

Hai hòn đảo được Polo gọi tên ấy nằm trong một quần đảo đối diện với đồng bằng sông Mê kông, được biết đến với cái tên Poulo-Condor. Những hòn đảo này đã được các nhà địa lý học Ả rập miêu tả vào thế kỷ IX, họ đặt tên cho những hòn đảo này là Sundar Fulat, cách gọi Fulat này chắc chắn tương đồng với Poulo ; có lẽ những hòn đảo này đã được những người Trung Quốc biết tới với cái tên là K’ouen-louen. Những đảo này đã từng thuộc về đế chế Khmer, trải qua bước chân chinh phục của nhà nước An Nam - những người chiến thắng vương quốc Cham pa năm 1471 và vào thế kỷ XVII thuộc về lãnh thổ Nam kỳ hiện nay(3).

Việc sử dụng tiếng Pháp còn thâm nhập vào sinh hoạt thường ngày của người Việt, đương thời, người Việt Nam học tiếng Pháp đôi khi thấy buồn cười khi thấy ai đó được đặt tên là Chiến, bởi khi phát âm, từ này có thể giống với chien(chó, động vật rất được người Pháp yêu chuộng). Nhuần nhuyễn hơn, tiếng Pháp được kết hợp với tiếng Việt trong thơ song thất nhịp nhàng:

"J’écris tình thư une lettre

Gửi cho người six, sept années." 

đọc là:

Giê cờ ri tình thư uyn lét

Gửi cho người sít sét an nê.

nghĩa là:

Bức tình thư này đây tôi viết,

Gửi cho người sáu, bảy tuổi xuân.

Tiếng Pháp cũng có thể được tận dụng thanh điệu để đưa vào nhịp thơ song thất của Việt Nam:

"Couché donc mon cher petit

Maintenant fini papa." 

đọc là:

Cú sê đồng mông se pơ tí

Manh tơ năng phi ní pa pa.

nghĩa là:

Nào ngủ đi con yêu bé nhỏ

Cha con giờ xong việc rồi đây.

Những nỗ lực của người Pháp đưa tiếng nói và chữ viết mới vào xã hội Việt Nam đã đạt được những kết quả như trên và nhiều hơn thế nữa:

"Từ những trường Pháp - Việt được mở ra từ sớm tại thủ phủ của các tỉnh, rồi xuất hiện ở những trung tâm khác. Từ 42 trường sơ cấp với 4.874 học sinh vào năm 1910, đã tăng lên đến 66 trường với hơn 9.000 học sinh năm 1917(4)".

Trên nền móng của việc học bằng chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp, các môn học có tính thực dụng cho hoàn cảnh đất nước Việt Nam đương thời được đề cao, nhất là học về kinh tế, thương mại, công nghiệp, thủy nông, luật pháp...

Một điểm nhấn của người Pháp trong nỗ lực đẩy mạnh giao lưu Việt - Pháp là quyết định của Toàn quyền Đông Dương lúc đó là Paul Beau, cho phép: "... một số quan chức, viên chức hoặc một số trí thức gốc Bắc bộ và Trung bộ..., hàng năm được thực hiện chuyến du học sang Pháp(5).

Nếu đánh giá "mỗi du học sinh là một đại sứ" (6) thì quyết định nói trên đã tạo điều kiện tăng lên không ít các phái đoàn và nhân viên ngoại giao Việt Nam sang Pháp. Những chuyến du học này cùng với những tác động nhiều mặt khác có được do thời cuộc mang lại, đã thúc giục người Việt Nam thấy cần phải vận động để đổi mới mình nhanh mạnh và thấu triệt hơn nữa.

Cùng với giáo dục, người Pháp để tâm thực hiện nhiều nghiên cứu về Việt Nam, đặc biệt là đề tài ngôn ngữ. Silvestre từng nhận định trong nghiên cứu của mình về tiếng nói của người Việt:

“Rất dễ áp dụng chữ viết châu Âu của chúng ta để ghi lại ngôn ngữ này bằng cách sử dụng một số ký hiệu miêu tả âm dài, âm ngắn và thanh điệu. Duy có điều đáng buồn, bắt đầu từ người Bồ Đào Nha, là chúng ta đã biết tới những chữ cái không có cách phát âm chung, đó là ch, l và d không có gạch ngang(7)".

Một người Pháp khác là Edmond Nordemann (được phiên âm sang tiếng Việt là Ngô Đê Mân), Giám đốc Nha Học chính Trung kỳ, đã thể hiện rõ nét sự hào hứng của mình về mối giao lưu đa dạng giữa hai nền văn hóa. Trong Vài lời với độc giả Pháp khi giới thiệu và khảo cứu Cung oán ngâm khúc trong bản in bằng tiếng Pháp(7), Nordemann nhấn mạnh:

"Cuốn sách này là một phần trong chuỗi tác phẩm mà chúng tôi xuất bản với mục đích kép:

1. Phổ cập chữ Quốc ngữ cho người An Nam và từng bước, qua sự trung gian của chữ Quốc ngữ, (truyền bá) ngôn ngữ và kiến thức của dân tộc chúng ta.

2. Giúp cho đồng bào ta làm quen với những tác phẩm văn học bản địa nói chung. Những tác phẩm này nhằm để bổ sung cho những công trình về ngôn ngữ học An Nam và dân tộc học An Nam mà chúng tôi sẽ cho cùng xuất bản. Những tác phẩm này hoặc khác giúp cho bạn đọc của chúng ta tận dụng được kinh nghiệm cần thiết sau 27 năm cư trú trên xứ sở này, và về phần chúng tôi, cũng là để đóng góp cho mối hợp tác ngày càng thân thiết của hai dân tộc chúng ta, những ưu điểm để hiểu biết nhau thêm".

Bên cạnh những tác phẩm, những kiến thức về văn hóa Việt Nam được Nordemann dụng công truyền bá, không thể không nhắc tới những chuyên khảo về ngôn ngữ Việt Nam của Léopol Cadière. Đó là Phonétique Annamite(8) (Ngữ âm An Nam), Monographie de la semi-voyelle labiale en sino - annamite et en annamite(9) (Chuyên khảo về bán nguyên âm môi Hán - Nôm và An Nam), Le dialecte du bas-Annam(10) (Phương ngữ miệt hạ An Nam), Syntaxe de la langue vietnamienne(11) (Cú pháp của ngôn ngữ Việt Nam). Sự am hiểu sâu sắc về tiếng nói của người Việt giúp Cadière đưa ra những nhận định chính xác và có tính hệ thống về ngôn ngữ Việt Nam, tiêu biểu như:

“Tồn tại một phương ngữ của miệt hạ An Nam, cũng như tồn tại một phương ngữ của miệt thượng An Nam, và tồn tại cả một phương ngữ Bắc bộ cũng như chắc chắn tồn tại một phương ngữ vùng Nam bộ”.

Có thể nói, cho đến đầu thế kỷ XX, những công trình nghiên cứu này đã góp phần giúp cho đại bộ phận người Việt Nam có được cái nhìn tổng quan về cấu tạo ngôn ngữ của chính dân tộc mình.

   Người Pháp, không chỉ truyền bá ngôn ngữ văn tự mới và nghiên cứu ngôn ngữ Việt Nam, họ còn thực hiện phiên dịch nhiều tư liệu Hán - Nôm của Việt Nam ra tiếng Pháp, như G. Aubaret đã dịch Gia Định thành thông chí嘉定城通誌với nhan đề Description de Gia Dinh, Philastre dịch Hoàng Việt luật lệ 皇越律例 với tên gọi Code Annamite. Tại Thư viện Hiệp hội Á châu ở Paris (Pháp), hiện còn lưu trữ bản Hoàng Việt luật lệ 皇越律例 ký hiệu 401466, được ban hành vào niên hiệu Gia Long thứ 12 (1813), do chính quyền Pháp ấn hành và ban cấp cho các địa phương (大富浪沙印行頒給衙奉守).

Thêm nữa, để thâm nhập vào cuộc sống địa phương, nhiều người Pháp đã sử dụng tên gọi được Việt hóa hoàn toàn như Đức cha Vạn (Mgr Vandaele), Nguyễn Văn Chấn (G. Forçant), Nguyễn Văn Trí (Dayot), Nguyễn Văn Thắng (Vannier), Mặt Giời (Albert de Pouvourville), Ngô Đê Mân (Edmond Nordemann), Mặt Giăng (René Crayssac)... Đến nay, nhiều người còn nhớ câu chuyện về Mặt Giăng - dịch giả Truyện Kiều ra tiếng Pháp, người sở hữu kiến thức sâu sắc về tiếng Việt và có khả năng phiên dịch mẫn tiệp. Trong một buổi giao tiếp, những người lão luyện về tiếng Pháp còn chưa thể diễn đạt được câu đồng dao Việt Nam: Ông giẳng ông giăng... ra tiếng Pháp thì Mặt Giăng đã dịch ngay, đảm bảo nhịp điệu của nguyên bản: La luỷn la luyn...

Trong tiếng Pháp, la lune (phát âm là la luyn) có nghĩa mặt trăng (giăng), Crayssac đã tận dụng thành công sự gần như đơn âm của từ tiếng Pháp này, kết hợp sự đa dạng về thanh điệu của tiếng Việt, để dịch không chỉ câu đồng dao Việt Nam, mà còn chính là tên gọi bằng tiếng Việt của mình.

Việc tận dụng sự tương đồng về phát âm giữa các ngôn ngữ đã đưa vào ngôn ngữ tiếng Pháp một số từ mới, diễn đạt khái niệm mới mà trước đó chưa có ở Pháp, như longane (phiên âm từ long nhãn 龍眼, quả nhãn)typhon (phiên âm từ đại phong 大風, cơn bão), litchi (phiên âm từ lệ chi 荔枝, quả vải)... Đặc điểm của những từ mới này trong tiếng Pháp là sự mô phỏng âm đọc Hán - Việt của người Việt. Sự du nhập ngôn ngữ theo hướng từ Việt sang Pháp này chứng minh hiệu quả của sự giao lưu văn hóa có đi có lại giữa hai đất nước, dù có thể ảnh hưởng giữa hai bên là không cân bằng với nhau.

Nỗ lực của người Việt

Từ thế kỷ XIX, mặc dù triều đình Huế có những động thái chính trị bế quan tỏa cảng thì nỗ lực của nhiều tầng lớp nhân dân Việt Nam để xúc tiến giao lưu văn hóa với nước Pháp và nhiều quốc gia khác vẫn tự nhiên diễn ra. Họ, những người có cơ hội đặt chân đến Pháp, có thể là nhà nho học kỳ cựu như Phan Thanh Giản (1796-1887), Phạm Phú Thứ (1820-1881), Ngụy Khắc Đản (1817- 1878), Nguyễn Trọng Hợp ; có thể là người trẻ nhiều học thức như Đặng Văn Nhã, Nguyễn Văn Đào ; hoặc là người nơi cửa Phật như hòa thượng Thanh Cao; hay là bậc trí thức-người tiên phong của nền văn hóa mới như Trương Vĩnh Ký. Dầu rằng có thể có những nhìn nhận khác nhau sau mỗi chuyến sang Pháp, những vị sứ giả này đều để lại đến ngày nay, trong ghi chép của họ, bằng chứng về sự giao lưu văn hóa Việt-Pháp, Pháp-Việt. Ngụy Khắc Đản trong Như Tây ký 如西记(1863) đã nhận xét về ngôn ngữ của người Pháp:

"Người Tây không có sự phân biệt hai thanh bình và khứ, khi nói ra lại rất nhanh, thường có nhiều âm tiết gộp lại để phiên âm một từ, có khi có nối âm và đột ngột dừng lại, nghe như là thanh nhập"(13).

Năm 1912, trong Âu học hành trình ký 歐學行程記(VHv.1437), Nguyễn Văn Đào đã bày tỏ mục đích khi ghi chép tư liệu về chuyến du học sang Pháp của mình:

"Huống chi năm châu gần gũi, bốn biển láng giềng, không trở lại cái thời khóa cảng cài then nữa... Nếu không sưu tập biên chép để cung hiến cho đồng bào ta biết thì hiện tượng văn minh của nước lớn tuy đẹp đẽ mà chẳng được truyền, còn công phu du lịch nửa đời (ta) rốt cuộc cũng hóa ra uổng phí"(14).

Những tư liệu ghi chép với tâm nguyện như thế phải chăng có rất ít? Câu trả lời là không, bởi riêng tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, hiện lưu trữ ít nhất trên hai chục văn bản về chín phái đoàn Việt Nam sang Pháp hồi thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Khảo sát bước đầu của chúng tôi về phông tư liệu này cho thấy, có 27 văn bản tác phẩm chứa đựng từ ngữ tiếng Pháp, 08 văn bản được dịch từ tiếng Pháp ra chữ Nôm và chữ Hán, 49 chuyên khảo Hán - Nôm về nước Pháp và 7 văn bản tác phẩm có sự góp công biên soạn của người Pháp. Có thể dẫn ra một vài ví dụ tiêu biểu: Legrand de la Liraye (tên phiên âm Hán-Việt là Lư Gia Lăng), với tư cách là viên chức dân sự ở Gia Định(14) đã viết tựa cho sách Đại Nam thực lục chính biên大南實錄正编, ông cũng là người dịch Đại Nam Gia Long thực lục大南嘉隆實錄 ra tiếng Pháp. Edmond Nordemann biên soạn văn bản và viết Vài lời với độc giả cho sách Hoa văn tự vựng toản yếu tập đồ華文字匯纂要習圖, Quảng tập hoa văn廣集華文, Tập Hán tự thức 習漢字識. Năm 1921, René Robin với tư cách là Công sứ Bắc kỳ đã ban hành Nghị định chỉnh đốn lại hương hội các xã An Nam ở Bắc Kỳ, phụ chép Bưu chính Từ hàn Dân luật議定整顿吏鄉會各社安南於北圻附劄郵政詞翰民律.

Bên cạnh đó, nằm rải rác trên nhiều địa phương là những tấm bia mà trong đó, chứa đựng một số lượng nào đó từ ngữ tiếng Pháp. Cụ thể, giữa nhiều chữ Hán là một số từ ngữ tiếng Pháp được khắc bằng chữ Quốc ngữ như MgrVandaele (Đức cha Vạn), Paris, nhà cimentsœur Gabrielcha MassardMr Hamilton, cha Cornille, cha Leury, cha Guidonvicaire trong bia Ồ thôn thánh đường 塢村聖堂(15) ở huyện Thạch Thất, tỉnh Sơn Tây (nay là tỉnh Hà Tây) cũng như trong Thúc đê kỷ niệm bi束堤紀念碑(16) ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, Thanh Hóa bi ký 清化碑記(17) ở thành phố Thanh Hóa, Thanh châu Mật sơn kỷ niệm bi清州密山紀念碑(18) ở huyện Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa... Đó là chưa kể tới những tư liệu Hán Nôm hiện được lưu trữ ở nhiều nơi khác. Một ví dụ tiêu biểu, trong số hơn trăm văn bản ký hiệu B thuộc phông sách Việt Nam ở thư viện Quốc gia Pháp tại Paris, có 18 văn bản Nôm với rất nhiều từ ngữ tiếng Pháp và các ngôn ngữ alphabetique khác được thể hiện bằng chữ Nôm và chữ Hán để phiên âm các khái niệm Thiên chúa giáo.

Tuy vậy, nếu chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp chưa thể có được vị thế vững chãi của ít nhất hàng trăm năm lịch sử như chữ Hán và chữ Nôm, thì người Việt sẽ không thể sở hữu và vận dụng được triệt để những ngôn ngữ và văn tự mới. Chính vì thế, Trương Vĩnh Ký (1818 - 1898), vào năm 1865, ở cương vị phụ trách bài vở của tờ Gia Định báo, đã nêu lên rõ ràng ba mục đích để phát hành tờ báo này. Thứ nhất, phổ cập chữ Quốc ngữ tới toàn thể nhân dân Việt Nam; thứ hai, cổ động cho sự truyền bá nền tân văn trên lãnh thổ nước Nam; thứ ba, giục giã người Việt Nam học chữ Quốc ngữ. Trong báo cáo về sứ mệnh năm 1863 mà Trương Vĩnh Ký đóng vai trò phiên dịch chính cho các vị đứng đầu phái đoàn sang Pháp và Tây Ban Nha, ông bày tỏ:

"Trước được Đại nhân sức xuống cho bỉ chức, dùng chữ Quốc ngữ dịch thuật những sách khoa học kỹ thuật của phương Tây, bỉ chức đã nhận mệnh, chỉ có điều trong ý nghĩ của bỉ chức, có sở nguyện gì với Triều đình thì dám đâu không bẩm báo đầy đủ. Trộm thấy, dân phương Tây và Tân Thế giới sở dĩ được hưng thịnh phát triển như ngày nay, phần lớn là do ham học tập các sách khoa học đến thông hiểu mà thôi. Vậy nên, bỉ chức cho rằng, cần lệnh cho học sinh nhỏ tuổi ở các xã, tổng học chữ Quốc ngữ và chữ Tây để thông thạo được Quốc âm thì có khả năng đọc được những sách khoa học mà bỉ chức khái quát, dịch thuật. Vả lại, chữ Quốc ngữ rất dễ học, trong vòng không đầy năm, sáu tháng thì học sinh nhỏ tuổi sẽ biết được hết các chữ, cho nên không vướng ngại gián đoạn việc học chữ Hán. Về sau này, khiến các học sinh này tìm hiểu những sách mà bỉ chức dịch thuật thì có thể nắm bắt được khoa học kỹ thuật"(20).

Ý nguyện của Trương Vĩnh Ký không chỉ thể hiện khao khát đổi mới học thuật nước nhà, đó còn là dự báo về mô hình giáo dục mới ở Việt Nam. Cùng với các trường học do người Pháp mở ra, nhiều nhà cải cách Việt Nam cũng thành lập cở sở giáo dục. Đông kinh Nghĩa thục là một ngọn cờ nổi bật. Một nhóm các nhà trí thức, xuất thân nho học cổ điển, vào tháng 3 năm 1907, đã mở ngôi trường này trên phố Hàng Đào, Hà Nội. Ở đó, học sinh ở nhiều trình độ khác nhau, có người am hiểu chữ Hán, có em vừa kịp tuổi đến trường, đều sử dụng sách giáo khoa bằng chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp. Mặc dù tồn tại chỉ trong 9 tháng, Đông kinh Nghĩa thục cho đến nay vẫn được đánh giá là nét son về nỗ lực tự thân của người Việt Nam cho nền giáo dục nước nhà.

Chữ Hán Nôm trong buổi giao thời với chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp

Từ hai vị thế khác nhau của người Việt Nam và người Pháp, mỗi bên đương nhiên có mục đích và cách thức khác nhau trong việc làm mới tiếng nói và chữ viết của Việt Nam. Tuy vậy, chữ Hán và chữ Nôm vào giai đoạn thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX vẫn không bị quên bỏ. Đến tận năm 1917, học sinh của trường Pháp-Việt còn phải học thêm giờ về chữ Hán-Nôm do trình độ quá kém của họ về chữ viết tượng hình có truyền thống ở Việt Nam. Một trường hợp khác thể hiện điều này là Nguyễn Văn Đào - người trẻ tuổi trong số ít nhân tài trên toàn Đông Dương, được chọn để sang Pháp du học vào năm 1912. Ông đánh giá rất cao ích lợi của việc du học cũng như tầm vóc của văn hóa phương tây, tuy nhiên, ông vẫn dùng chữ Hán để miêu tả những điều đó:

"Riêng việc học thuật trước tiên ắt phải du học... Hết thảy các nước văn minh sở dĩ có thể đạt được giàu mạnh thịnh vượng, tuy được học thuật sẵn có làm cơ sở mà thực ra là nhờ du học từng trải... Đương lúc này đây, văn minh tiến hóa, giao thông các nước, thủy bộ đều rất tiện lợi, nên cử cả nước xuất dương du học... nhất thiết nên chọn nhiều người trẻ thông minh mẫn tiệp, phái sang nước lớn du học..."(21).

Có thể thấy, chữ Quốc ngữ - thành quả sáng tạo của nhiều thế hệ người Việt và người nước ngoài - vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, là phương tiện đúng lúc và hiệu quả giúp dân tộc Việt Nam có thể vượt cũ đổi mới. Sự thâm nhập tích cực của chữ Quốc ngữ và tiếng Pháp trong nhiều lĩnh vực đời sống là một trong nhiều nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Phương pháp sử dụng cùng một hệ ngôn ngữ với các nước lớn ở phương tây đã tạo điều kiện để người Việt Nam lĩnh hội và tận dụng ưu điểm từ những quốc gia này. Nhưng dù sao, đương thời, cả hai ngôn ngữ mới này vẫn chưa thể bắt rễ sâu bền như Hán-Nôm, mô hình văn hóa và chữ viết đã tồn tại trong đời sống người Việt ít nhất từ hàng trăm năm. Để du nhập những khái niệm mới, những từ mới của bên ngoài, vốn chưa có trong tiếng Việt, sự phiên âm bằng chữ Nôm và chữ Hán đã được thực hiện, với phương pháp chủ yếu là mô phỏng âm đọc của từ ngữ gốc. Thao tác phiên âm này được diễn ra trên nền tảng của chữ Hán và sự phong phú của chữ Nôm. Trong giai đoạn chuyển giao từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, phiên âm từ ngữ của phương Tây (nhất là tiếng Pháp, tiếng Anh) trở thành một hiện tượng đáng chú ý trong tư liệu Hán - Nôm.

Chú thích:

(1) Emmanuel Poisson: Mandarins et subalternes au Nord du Vietnam, une bureaucratie à épreuve 1820-1918 (Quan và lại miền Bắc Việt Nam, một bộ máy hành chính trước thử thách 1820-1918), Paris, Nxb. Maisonneuve et Larose, 2004, tr.209.

(2) La description du monde (Miêu tả thế giới), Toàn tập bằng tiếng Pháp, Mở đầu và Chú thích bởi Louis Hambis, Paris, Nxb. C. Klincksieck, 1995, tr.241.

(3) "il s’agit du groupe d’îles situées en face du delta du Mékong, qui sont connues sous le nom de Poulo-Condor. Ces îles furent déjà décrites par les géographes arabes au IXe siècle; ils les nomment Sundar Fulat, ce dernier terme correspondant sans doute à Poulo; il semble que ces îles furent connues des Chinois sous le nom de K’ouen-louen. Elles devaient dépendre de l’Empire Khmer, et passèrent sous la domination de l’Annam quand celui-ci eut vaincu le Champa en 1471 et occupa au XVIIe siècle le territoire de l’actuel Cochinchine." (tr.241)

(4) “Le Tonkin scolaire, un pays d’adaptation pédagogiques originales" (Đông Kinh học vụ, xứ sở của sự thích nghi giáo dục kỳ lạ), Triển lãm thuộc địa quốc tế, Paris, 1913. Hà Nội, Nhà in Viễn Đông, 1931, tr.12.

(5) Emmanuel Poisson, đã dẫn, tr.184.

(6) Theo Việt Phương, bài cùng tên, dantri.com.vn.

(7) Silvestre, L’empire d’Annam et Le peuple annamite (Aperçcu sur la géographie, les productions, l’industrie, les mœurs et les coutumes de l’Annam) [Đế chế An Nam và nhân dân An Nam, Khái lược về địa lý, sản vật, công nghiệp, phong tục và tập quán của An Nam]Paris, Nhà sách cổ Germer Baillière và Cfe, Félix Alcan, 108 đại lộ Saint Germain, 1889 (380 tr.), p.117.

(8) Nguyên văn là L’Odalisque mécontenteAvis au lecteur français, 1905.

(9) Paris, Nhà in Quốc gia, E. Leroux, (BEFEO, tập 3), 1902.

(10) BEFEO 8 (1908), tr.93-148, 381-485; 9 (1909) tr.51-89, 315-345, 533-547, 681-706; 10 (1910) tr.61-93, 287-337.

(11) BEFEO 11 (1911) tr.67-110.

(12) Paris, EFEO, 1958.

(13) Như Tây ký如西记, A.764, tr.1.

(14) Âu học hành trình ký欧学行程记, VHv.1437, tr.3.

(15) Nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

(16) N.18187

(17) N.19362-63.

(18) N.17530-33.

(19) N.16622-23.

(20) Kỷ Tỵ niên chính nguyệt nhật phúc tư công văn nhật ký 己巳年正月日覆咨公文日記, A.1083, tr.3-4.

(21) Âu học hành trình ký 歐學行程記, VHv.1437, tr.110-112.

ThS. VIỆT ANH (Viện Nghiên cứu Hán Nôm)

Tạp chí Hán Nôm, Số 1 (86) 2008; Tr.55-62, phiên bản trực tuyến, ngày 24.01.2010.

Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧 中 上 士, 1230 - 1291), tên là Trần Tung (陳 嵩), tước hiệu Hưng Ninh Vương (興 寧 王) là Thiền sư nổi tiếng của Việt Nam. Ông là người hướng Trần Nhân Tông vào cửa Thiền và có nhiều ảnh hưởng đến tư tưởng của vị Tổ sư sáng lập Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Trước tác của Trần Tung chủ yếu được tập hợp trong cuốn Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Trong bài Tựa viết về việc trùng san năm Chính Hòa, Tì kheo Tuệ Nguyên viết: “Những ghi chép này là do Đại đức Tiêu Dao nói với Tuệ Trung Thượng sĩ, Thượng sĩ nói với Trúc Lâm đệ nhất tổ Điều ngự Giác hoàng. Điều ngự Giác hoàng nói với Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp Loa đại sư. Pháp Loa đại sư nói với Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang Tôn giả.Huyền Quang Tôn giả nói cho tông phái Trúc Lâm và Thiền tông khắp Thiên hạ. Xưa nay việc truyền thụ vẫn như vậy. Quyển sách này là phương thuốc hay đối với các chứng bệnh, nhanh chóng đốn ngộ thành Phật, thẳng suốt nguồn tâm, vượt qua bể giác, giết chết vọng thức, phá sạch danh tướng. Là nguồn cội của đạo Không. Vượt Tam thừa, vượt Phật thừa, là yếu chỉ thượng thượng”(1). Khi giảng giải Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, Thích Thanh Từ đã nhận định: “Quyển Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm trác tuyệt, triết lý uyên thâm, văn chương thanh thoát”(2). Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ và cấp độ như vấn đề tư tưởng Phật giáo, giá trị văn học, tác phẩm cụ thể, toàn bộ phần thơ… Tuy nhiên, vấn đề văn bản học của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục chưa được đề cập đến một cách thấu đáo. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng khảo sát những văn bản hiện còn và đưa ra những nhận định về bố cục văn bản, quá trình lưu truyền của văn bản, văn bản cơ sở của tác phẩm này.

20200610 2

1. Tình hình văn bản

Hiện tại, tác phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục còn 2 văn bản là Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục (竹 林 慧 忠 上 士 語 籙)kí hiệu A.1932 tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm (TVVNCHN) và Tam tổ thực lục (三 祖 寔 籙)kí hiệu A.2048 tại TVVNCHN. Sau đây là phần giới thiệu về từng cuốn sách.

1.1. Văn bản Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

Trúc Lâm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, kí hiệu A.1932, giấy dó, bốn trang đầu bị rách góc mép phải dưới, bìa màu nâu cũ. Khổ sách 16cm x 28cm, khung chữ 14cm x 21 cm. Rốn sách có phần trên ghi上 士 語 籙 còn phần dưới là số trang. Sách gồm 44 trang, mỗi trang 8 cột, mỗi cột 15 chữ (có khi là 14 chữ, có khi là 16 chữ), nếu viết đài là 16 chữ (có khi là 17, 18 chữ). Sách này gồm các phần sau:

a) Lời Tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên về việc Trùng san Thượng sĩ ngữ lục vào thời Lê niên hiệu Chính Hòa thứ 4 (1683).

Phần mở đầu của bài tựa ghi: Trúc Lâm hội thượng Yên Tử sơn Long Động tự Đồng tử Tì kheo Tuệ Nguyên trùng san Trúc Lâm tổ sư Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục, phần hương cẩn tự (竹 林 會 上 安 子 龍 峒 寺童 子 比 丘 慧 源 重 刊 竹 林 祖 師 慧 忠 上 士 語 籙 焚 香 謹序 - Trên hội Trúc Lâm, núi Yên Tử, chùa Long Động, đồng tử Tì kheo Tuệ Nguyên khắc bản lại ngữ lục của Trúc Lâm tổ sư Tuệ Trung Thượng sĩ, thắp hương và kính cẩn viết tựa). Trong lời đề tựa, Tì kheo Tuệ Nguyên có viết: tôi khắc bản để lại, truyền lâu ức kiếp gương xưa sáng mãi, tiếp nối sáng không cùng, khiến chúng sinh khắp thế giới đại thiên, cùng rõ thấu pháp môn bất nhị, truyền bá trong nước được muôn đời, đồng chứng Phật quả nhất thừa. Phần cuối bài tựa cho biết thời gian khắc in lại : Lê Triều Chính Hòa tứ niên tuế thứ Quý Hợi đông tiết cốc nhật trùng san (黎 朝 正 和 四 年 歲 次 癸亥 冬 節 穀 日 重 刊 - Triều Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 4 năm Quý Hợi, tiết đông, ngày tốt khắc bản in lại - 1683)

b) Lược dẫn Thiền phái đồ (略 引 禪 派 圖) do Tì kheo Tuệ Nguyên viết.

c) Trần Triều Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn. Chính văn ghi: Trúc Lâm Đại đầu đà đệ nhất tổ Tịnh tuệ Điều ngự Giác hoàng khảo đính, Trúc Lâm Hương đàn Tự pháp đệ tử Tiểu đầu đà Pháp Loa phổ huệ biên (竹林 大 頭 陀 第一祖 淨 慧 調 御 覺 皇 考 訂, 竹 林 香 壇 嗣 法 弟 子 小頭 陀 法 螺 普 慧 編 - Trúc Lâm Đại đầu đà đệ nhất Tổ tịnh tuệ Điều ngự giác hoàng khảo đính, Trúc Lâm Hương đàn tự pháp đệ tử Tiểu đầu đà Pháp Loa phổ huệ biên soạn thành sách). Nội dung gồm các phần sau:

Đối cơ (對機)(3).

Tụng cổ (頌 古)(4).

Thơ gồm các bài : 1. Phật tâm ca (佛 心 歌 ). 2. Phóng cuồng ngâm (放 狂 吟 ). 3. Sinh tử nhàn nhi dĩ (生 死 閑 而 已 ). 4. Phàm thánh bất dị (凡 聖 不 異 ). 5. Mê ngộ bất dị (迷悟 不 異 ). 6. Trừu thần ngâm (抽 脣 吟 ). 7. Trữ từ tự cảnh văn (抒 辭 自 警 文 ). 8. An định thời tiết (安 定時 節 ). 9. Dưỡng chân (養 真 ). 10. Nhập trần (入塵 ). 11. Vạn sự quy như (萬 事 歸 如 ). 12. Thế thái hư huyễn (世 態 虛 幻 ). 13. Họa huyện lệnh (和 縣 令). 14. (thiếu nhan đề) Tịnh bang cảnh vật (淨 邦境 物 ). 15. Họa Hưng Trí thượng vị hầu (和 興 智 上 位 侯 ). 16. Tụng Thánh Tông đạo học (頌 聖 宗 道 學 ). 17. Thủ nê ngưu (守 泥 牛). 18. Giang hồ tự thích (江湖 自 適 ). 19. Vật bất năng dung (物 不 能 容 ). 20. Phỏng Tăng Điền đại sư (訪 僧 田 大 師 ). 21. Vấn Phúc Đường đại sư tật (問 福 堂 大 師 疾). 22. Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền sư (上 福 堂 逍遙 禪 師 ). 23. Phúc Đường cảnh vật (福 堂 境 物). 24. Tặng Thuần Nhất pháp sư (贈 純一 法 師). 25. Hí Trí Viễn Thiền sư khan kinh tả nghĩa (戲 智 遠 禪 師 看 經 寫 義). 26. Điệu Tiên sư (悼先 師 ). 27. Khuyến thế tiến đạo (勸 世 進 道 ). 28. Thị chúng (示 眾 ). 29. Thị chúng (示眾). 30. Thị học (示 學 ). 31. Ngẫu tác (偶作 ). 32. Giản để tùng (澗底 松 ). 33. Xuất trần (出 塵 ). 34. Chí đạo vô nan (至 道 無 難 ). 35. Tâm vương (心王 ). 36. Phóng ngưu (放 牛 ). 37. Đề tinh xá (題 精 舍 ). 38. Ngẫu tác (偶 作 ). 39. Tứ sơn khả hại (四山 可 害 ). 40. Trụ trượng tử (柱 杖子). 41. Chiếu thân (照身 ). 42. Tự đề (自題 ). 43. Đốn tỉnh (頓 惺 ). 44. Tự tại (自 在 ). 45. Thoái cư (退 居 ). 46. Thị đồ (示 徒 ). 47. Thị tu Tây phương bối (示 修 西 方 輩). 48. Thoát thế (脫世 ). 49. Giang hồ tự thích (江湖 自 適).

Thượng sĩ hành trạng (上 士 行 狀- Hành trạng của Thượng sĩ).

Chư nhân Tán tụng (諸人贊訟 – Mọi người ca tụng).

Thượng sĩ (hậu bạt) (上 士 (後 跋)).

Câu Trần triều Thượng sĩ ngữ lục chung (陳 朝 慧 忠 上 士 語 錄 終- Thượng sĩ ngữ lục triều Trần kết thúc) có chữ Trần kiêng húy, gồm bộ xuyên bên trên, bộ phụ bên phải, chữ đông bên trái. Việc kiêng húy này cũng phù hợp với đặc điểm chung của văn bản thời Lê. “Văn bản thời Lê Trung hưng không bắt buộc kiêng húy. (…) Do tính chất tự nguyện không bắt buộc, các văn bản thời Lê Trung hưng thể hiện những cách lựa chọn khác nhau trong việc kiêng húy. Sự lựa chọn đó trong nhiều trường hợp là do thói quen, người này chịu ảnh hưởng của người khác”(5). “Chữ Trần nguyên là một chữ húy quan trọng thời Lê sơ, được ban bố từ thời Lê Thái Tổ. Theo danh nghĩa chính thức. Trần là tên húy của Hoàng hậu Phạm Thị Ngọc Trần, bà vợ cả của Lê Lợi, đi theo chồng trong cuộc hành quân của nghĩa quân Lam Sơn vào Nghệ An tháng Chạp năm Ất Tị (tháng 1 năm 1425). Gương hi sinh cao cả của bà có nhiều người biết, nhất là việc bà tự nguyện hi sinh để làm vật tế thần Phổ Hộ mang màu sắc huyền thoại càng làm cho sự tích của bà được truyền tụng lâu dài. Do đó, mặc dù triều Lê Trung hưng không quy định về việc viết húy nhưng vẫn có một bộ phận nhân dân chọn cách viết kiêng húy chữ Trần để thể hiện lòng kính mộ công lao đức nghiệp thiên triều”(6).

Cuối văn bản ghi: Bản lưu tại Yên Tử sơn động Long Động tự dĩ hiểu hậu lai ấn học thức kì xứ (板 留 在 安 子 山 龍 峒 寺 以 曉 後 來 印學 識 其 處 - Ván khắc lưu tại chùa Long Động trên núi Yên Tử để đời sau có thể in để học và biết được chỗ này).

1.2. Văn bản Tam tổ thực lục

Tam tổ thực lục, kí hiệu A.2048 có 47 trang đầu (trong tổng số 64 trang) là Thượng sĩ ngữ lục. Mỗi trang 8 cột, mỗi cột 14 chữ, viết đài là 15 chữ. Sách gồm các phần sau:

a) Lời tiểu dẫn về việc Trùng san Thượng sĩ ngữ lục (Trùng san Thượng sĩ ngữ lục tiểu dẫn) vào thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 15 do Bồ tát Tì kheo Thanh Hanh viết. Toàn bộ phần Tiểu dẫn như sau:

我 越 於 陳 朝, 屢 有 王 公士庶 神 留 內 典. 道 悟 禪 機, 而 得 見 於 方 冊. 其 來 尚 矣. 蓋 觀, 上 祖 逍 遙及 至 玄 光 尊 者, 出 處 躬 行, 為 他 作 則. 考 斯 二 錄 而 概 知 一 二 焉. 上 年 丁 酉 季 秋, 住 持 法 雨 妙 湛 覺 靈, 重 刊 竹 林 三 祖 錄 流 通竣工. 今 癸 卯, 繼 住 持 法 雨 比 丘 清 渠 得 上 士 語 錄 古 版於 清 磷 長 老 以 為 遺 寶, 願 續 刊 之. 夾 在竹 林 錄上, 合 成 一 帙. 蓋 因 睹 此, 則 知 禪 譜 承 繩. 世 次 有 自 乃 徵 予 言. 略 記, 是 引. 時皇 朝 成 泰 十五 年 歲 次 癸 卯 十 月 吉 日. 後 學 菩 薩 比 丘 清 亨 檢 校 敬 引(Ngã Việt ư Trần triều, lũ hữu Vương công sĩ thứ. Thần lưu nội điển, đạo ngộ Thiền cơ nhi đắc kiến ư phương sách. Kì lai thượng hĩ. Cái quan Thượng tổ Tiêu Dao cập chí Huyền Quang tôn giả xuất xử cung hành vi tha tác tắc. Khảo tư nhị lục nhi khái tri kì nhất nhị yên. Thượng niên Đinh Đậu quý thu Trụ trì Pháp Vũ diệu trạm giác linh. Trùng san Trúc Lâm Tam Tổ lục lưu thông thuyên công. Kim Quý Mão kế trụ trì Pháp Vũ Tì kheo Thanh Cừ đắc Thượng sĩ ngữ lục cổ bản ư Thanh Lân Trưởng lão. Dĩ vi di bảo nguyện tục san chi, giáp tại Trúc Lâm lục thượng, hợp thành nhất trật. Cái nhân đổ thử tắc tri thiền phả thừa thằng. Thế thứ hữu tự, nãi trưng dư ngôn, lược kí thị dẫn. Thời Hoàng Triều Thành Thái thập ngũ niên tuế thứ Quý Mão thập nguyệt cát nhật. Hậu học Bồ tát Tì kheo Thanh Hanh kiểm hiệu kính dẫn - Nước Việt ta vào thời Trần thường có vương công sĩ thứ lưu dấu ấn trong điển tịch. Về tư tưởng họ giác ngộ tinh thần Thiền tông mà có thể thấy được trong cách sách vở. Những việc đó đến nay vẫn rất đáng ngưỡng mộ. Xem xét chung, từ Thượng tổ Tiêu Dao đến Huyền Quang Tôn giả thì việc xuất xử cung hành đều vì người khác mà tạo phép tắc. Đọc hết phần ghi chép về hai con người này có thể lĩnh hội được một hai điều. Ngày trước, vào mùa thu năm Đinh Dậu, Trụ tì chùa Pháp Vũ đã thấu hiểu giá trị của những điển tịch như vậy. Ngài tiến hành trùng san Trúc Lâm tam tổ và công việc được hoàn tất. Năm nay, năm Quý Mão, người kế tục trụ trì Pháp Vũ là Tì kheo Thanh Cừ may mắn được một cuốn Thượng sĩ ngữ lục bản cổ tại nhà Trưởng lão Thanh Lân. Tì kheo nhận thấy đây là sách quý nên có ý nguyện khắc in nó. Rồi gộp vào trước cuốn Trúc Lâm lục thành một quyển. Vì thế mà xem quyển sách này cũng là biết được về sợi dây của Thiền phả. Thế thứ các đời có nguồn gốc của nó đã chứng rõ lời của tôi. Tôi lược ghi để làm lời dẫn vậy. Thời Nguyễn, niên hiệu Thành Thái thứ 15 năm Quý Mão, tháng mười, ngày tốt (1903). Kẻ hậu học là Bồ tát Tì kheo Thanh Hanh kiểm hiệu và kính cẩn dẫn lời.

Như vậy, Lời dẫn cho biết năm Quý Mão (1902) quyển Trần triều Thượng sĩ ngữ lục được khắc in rồi đính kèm trước Trúc Lâm lục. Quyển để khắc in lại này là một văn bản cổ mà Tì kheo Thanh Cừ có được từ Trưởng lão Thanh Lân. Tác giả Thanh Hanh không nói gì cụ thể về bản cổ này. Tuy nhiên, sau phần lời tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên trong cuốn sách này có ghi năm khắc in: Cảnh Hưng nhị thập tứ niên tuế thứ Quý Mùi đông tiết cốc nhật trùng san. (景 興 二 十 四 年 歲 次 癸 未 冬 節 穀 日重 刊 - Niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24 năm Quý Mùi, tiết đông, ngày tốt khắc bản in lại). Có lẽ, cổ bản nói đến trong lời dẫn chính là bản được khắc in thời Cảnh Hưng thứ 24 (1763). Bản khắc in năm 1902 và bản khắc in năm 1683 không có sự khác biệt lớn, chỉ khác biệt ở cấp độ một vài văn tự. Cuốn in năm 1902 khắc lại cuốn in năm 1768, nên có thể nhận định cuốn khắc in năm 1768 không khác nhiều so với cuốn khắc in năm 1683.

b) Lời tựa của Tì kheo Tuệ Nguyên và ghi năm trùng san vào thời Cảnh Hưng (1763). Phần lời dẫn này có nội dung cơ bản trùng khớp với Lời dẫn của bản trùng san năm Chính Hòa 1683, chỉ thêm khảo dị(7) 1 trường hợp, hiệu chính(8) 1 trường hợp.

c) Lược dẫn Thiền phái đồ của Tì kheo Tuệ Nguyên, giống như bản A.1932.

d) Trần triều Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục. Phần này cũng được ghi do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn. Nội dung cơ bản như bản khắc in năm 1683 và có một số trường hợp khảo dị và hiệu chính. Cụ thể gồm các phần:

Đối cơ (對機), hiệu chính 1 trường hợp.

Tụng cổ (訟古), khảo dị 3 trường hợp, hiệu chính 2 trường hợp.

Thơ gồm 49 bài như bản khắc in năm 1683. Tuy nhiên, văn bản này không bị khuyết nhan đề bài Tịnh bang cảnh vật. Phần khảo dị gồm: Phật tâm ca (1 trường hợp), Phóng cuồng ca (1 trường hợp), Sinh tử nhàn nhi dĩ (1 trường hợp), Tụng Thánh Tông đạo học (1 trường hợp), Vấn Phúc Đường Đại sư tật (1 trường hợp), Thướng Phúc Đường Tiêu Dao Đại sư (1 trường hợp). Phần hiệu chính gồm: Vật bất năng dung (2 trường hợp), Xuất trần (1 trường hợp), Thị tu Tây phương bối (1 trường hợp).

Thượng sĩ hành trạng (上 士 行 狀- Hành trạng của Thượng sĩ), hiệu chính 1 trường hợp.

Chư nhân Tán tụng (諸 人 贊 訟- Mọi người tán tụng), khảo dị 2 trường hợp, hiệu chính 1 trường hợp.

Thượng sĩ (hậu bạt) (後 跋), khảo dị 1 trường hợp, hiệu chính 3 trường hợp.

Cuối sách ghi : Cựu bản lưu tại Đông Triều huyện, An Lâm xã, Đoan Nghiêm tự (舊 板 留 在 東 潮 縣 安 林社 端 嚴 寺 - Ván khắc cũ lưu tại chùa Đoan Nghiêm, xã An Lâm, huyện Đông Triều).

2. Một vài nhận định về văn bản tác phẩm Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

2.1. Quá trình truyền bản của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

Từ việc khảo sát hai văn bản hiện còn, chúng tôi nhận định về quá trình truyền bản của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục như sau:

Bản gốc Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn hiện đang bị thất lạc.

Năm 1683 (thời Lê, niên hiệu Chính Hòa thứ 4), văn bản Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục được trùng san. Việc trùng san này do Tì kheo Tuệ Nguyên thực hiện. Tì kheo Tuệ Nguyên có bổ sung thêm Lời Tựa và Lược dẫn Thiền phái đồ. Văn bản hiện mang kí hiệu A. 1932 tại TVVNCHN, được chụp lại với kí hiệu VHc2584, VHc2585.

Năm 1763 (Thời Lê, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 24) văn bản Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục được trùng san. Văn bản này đã mất. Việc xác định năm 1763 trùng san dựa vào phần khắc in thời gian sau lời tựa Tì kheo Tuệ Nguyên trong bản Tam tổ thực lục khắc in năm 1902.

Năm 1902 (thời Nguyễn, niên hiệu Thành Thái thứ 15) văn bản Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục được trùng san. Việc trùng san này do Tì kheo Thanh Hanh thực hiện. Nguyên do bởi Tì kheo Thanh Cừ may mắn tìm được một cuốn Thượng sĩ ngữ lục bản cổ tại nhà trưởng lão Thanh Lâm và nhận thấy đây là cuốn sách quý nên có ý nguyện được khắc ván in. Vì vậy, Tì kheo Thanh Hanh đã khắc in lại cuốn Thượng sĩ ngữ lục mà Tì kheo Thanh Cừ tìm thấy và gộp nó vào trước Trúc Lâm lục thành một quyển.

2.2. Bố cục văn bản: bao gồm trước tác của Trần Tung và những trước tác có liên quan

Trước tác của Tuệ Trung Thượng sĩ gồm:

Đối cơ

Tụng cổ

- 49 bài thơ

Những trước tác có liên quan (phụ thuộc vào năm khắc in)

Tiểu dẫn về việc trùng san Thượng sĩ ngữ lục năm 1683 do Tì kheo Tuệ Nguyên viết.

Lược dẫn Thiền phái đồ do Tì kheo Tuệ Nguyên viết.

Tiểu dẫn về việc trùng san Thượng sĩ ngữ lục năm 1902 do Tì kheo Thanh Hanh viết.

Thượng sĩ hành trạng (Hành trạng của Thượng sĩ), do Trần Nhân Tông viết.

Chư nhân tán tụng (Chư nhân ca tụng), do 8 người viết gồm: Tự Pháp đệ tử Trúc Lâm Đại đầu đà, Trúc Lâm thị hạ tự pháp đệ tử Pháp Loa, Trúc Lâm thị hạ đệ tử Bão Phác, Môn đệ tử Tông Kính, Môn đệ tử Thiên Nhiên cư sĩ Vương Như Pháp, Trúc Lâm thị giả đệ tử Pháp Cổ, Trúc Lâm thị giả Tuệ Nghiêm, Trúc Lâm thị giả tiểu đệ tử Pháp Đăng.

Thượng sĩ (hậu bạt) (Bài bạt của Thượng sĩ ngữ lục), do Trần Khắc Chung viết.

2.3. Kết luận về văn bản cơ sở của Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục

Văn bản đầu tiên của Thượng sĩ ngữ lục hiện đang thất lạc. Cuốn sách này được trùng san ít nhất ba lần. Tuy nhiên, hiện nay chúng tôi mới chỉ tìm được hai cuốn sách còn lưu trữ tại TVVNCHN. Theo nhận định của chúng tôi, văn bản được khắc in năm 1902 hoàn thiện hơn vì những lý do sau:

Về mặt hình thức văn bản, bản khắc in năm 1683 có bố cục chữ không đều. Nét chữ của các trang chưa thống nhất, ví dụ trang 41 nét chữ mảnh hơn toàn văn bản, trang 43 kiểu chữ nghiêng, xô lệch. Văn bản này cũng có hiện tượng viết chèn chữ để bổ sung chữ thiếu hoặc sửa chữ sai, ví dụ các trang 10, 12, 17, 32, 37, 42. Văn bản này cũng dùng chữ viết tắt, chữ giản thể. Chữ trong văn bản 1902 thể hiện tính ưu việt so với bản 1683. Số chữ trong 1 cột luôn là 14 chữ, nếu viết đài là 15 chữ. Văn bản này không có hiện tượng viết chèn chữ để bổ sung chữ thiếu hoặc sửa chữ sai, cũng không viết tắt và không dùng giản thể.

Mặt khác, bản khắc in năm 1902 có nội dung phong phú hơn. Về cơ bản, bản khắc in năm 1902 và bản khắc in năm 1683 tương đối giống nhau, chỉ khác nhau ở một vài chữ, không ảnh hưởng đến tổng thể văn bản. Tuy nhiên, bản khắc in năm Thành Thái có thêm lời tiểu dẫn của Tì kheo Thanh Hanh. Lời tiểu dẫn này cho người đọc hiểu hơn về lịch sử văn bản.

Bản khắc in năm 1902 có cả phần khảo dị và phần hiệu chính, cụ thể là 13 trường hợp khảo dị và 13 trường hợp hiệu chính. Phần khảo dị và hiệu chính này giúp cho người đọc có cái nhìn thấu đáo, chính xác hơn khi tiếp cận văn bản. Ở đây, chúng tôi xin dẫn chứng một trường hợp khảo dị và một trường hợp hiệu chính của bản khắc in năm 1902. Trong bản khắc in năm 1683, tại phần Tụng Cổ, trang 13a cột 2 là: 若 也 不 因 迷 萩 岸, 胡 為 得 到 武陵 溪 (Nhược dã bất nhân mê thu ngạn, hồ vi đắc đáo Vũ Lăng khê -Nếu không có chuyện lầm đường ở bờ cỏ thì làm sao đến được suối Vũ Lăng ). Tại bản khắc in năm 1902, câu này ở trang 15a dòng 2, dưới chữ thu có ghi 2 chữ: 恐荻 (khủng địch - e là chữ địch). Nguồn suối Vũ Lăng là tích được nhắc đến trong Đào hoa nguyên kí của Đào Uyên Minh. Suối ở Vũ Lăng có hoa đào, có rừng đào và dẫn đến một thế giới “người già con trẻ đều vui vẻ, thư thái, mãn nguyện” (黃 髮 垂 髫 並 怡 然 自 樂 - hoàng phát thùy thiều tịnh di nhiên tự lạc). Nguyên tác Đào hoa nguyên kí không nhắc gì đến bờ lau hay bờ cỏ mà chỉ tả cảnh rừng hoa đào “hai bên rộng vài trăm bước, trong không có loài cây nào khác, cỏ thơm tươi tốt, hoa rơi rực rỡ” (夾 岸 數 百 步, 中 無 雜 樹, 芳 草 鮮 美, 落 英 賓 紛 - giáp ngạn sổ bách bộ, trung vô tạp thụ, phương thảo tiên mĩ, lạc anh tân phân). Trong câu này, Vũ Lăng khê là thế giới lý tưởng mà con người đặt chân đến khi vượt qua được bến mê. Bởi vậy, từ được hiệu chính trong bản 1902 sẽ khiến người đọc đi tìm câu trả lời: thu ngạn (bờ cỏ) hay địch ngạn (bờ lau) là từ chính xác để đối lập với hình tượng suối Vũ Lăng?. Tóm lại, phần khảo dị sẽ cho chúng ta xác định được một văn bản hiện đang thất lạc, phần hiệu chính sẽ giúp người đọc hiểu văn bản một cách thấu đáo hơn.

Như vậy, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục là một tác phẩm có giá trị về tư tưởng Phật giáo, lịch sử, văn học… Bố cục nội dung của văn bản gồm trước tác của Trần Tung (Đối cơ, Tụng cổ, thơ) và những trước tác có liên quan khác (Lời tựa, lời dẫn, Lược dẫn Thiền phái đồ, Thượng sĩ hành trạng, Chư nhân tán tụng, bạt). Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục do Trần Nhân Tông khảo đính và Pháp Loa biên soạn đã bị thất lạc. Tác phẩm trùng san ít nhất ba lần vào các năm 1683, 1768, 1902 và hiện còn 2 đầu sách được lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Khảo sát 2 văn bản hiện còn cho thấy bản khắc in thời Nguyễn niên hiệu Thành Thái thứ 15 là văn bản cơ sở của tác phẩm này.

 

Nguyễn Thị Thanh Chung

Đại học Sư phạm Hà Nội

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012, tr.141-155, phiên bản trực tuyến ngày 23.02.2015.

-------

Chú thích:

(1). Nguyên văn chữ Hán: 此 錄, 逍 遙 大 德 說 與 慧 中 上 士, 上 士 說 與 竹 林 第 一 祖 調 御 覺 皇, 調 御 覺 皇 說 與 竹 林 第二 祖 法 螺 大 師, 法 螺 大 師 說 與 玄 光 尊 者, 玄 光 尊 者 說 與 竹 林 宗 派, 天 下 禪 宗. 古 往 今 來 相 傳 授 受. 這 此 錄 的 巧 對 證 之 良 樂, 太 速 成 佛 之 頓 悟, 直 徹 心 源, 騰 超 覺 海, 殺 死 識, 破 名 相, 空 空 之 心 宗, 超 三 乘, 越 佛 乘, 上 上 之 旨 (Thử lục Tiêu Dao đại đức thuyết dữ Tuệ Trung thượng sĩ. Thượng sĩ thuyết dữ Trúc Lâm đệ nhất tổ Điều ngự Giác hoàng. Điều ngự Giác hoàng thuyết dữ Trúc Lâm đệ nhị tổ Pháp Loa đại sư. Pháp Loa đại sư thuyết dữ Trúc Lâm đệ tam tổ Huyền Quang Tôn giả. Huyền Quang Tôn giả thuyết dữ Trúc Lâm tông phái. Cổ vãng kim lai tương truyền thụ thụ. Giá thử lục đích xảo đối chứng chi lương lạc, thái tốc thành Phật chi đốn ngộ. Trực triệt tâm nguyên, đằng siêu giác hải, sát tử thức, phá danh tướng, không không chi tông, siêu Tam thừa, việt Phật thừa, thượng thượng chi chỉ).

(2). Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Thích Thanh Từ, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TpHCM, 1996, tr. 6.

(3). Đối cơ: thuật ngữ nhà Phật, Phật Đà đối với căn cội của chúng sinh có cách thức thực thi giúp đỡ phù hợp. Thuật ngữ này cũng là chỉ những người tài giỏi trong Thiền gia trả lời câu hỏi của người học. (Theo Phật học đại từ điển, Đinh Phúc Bảo biên, Thượng Hải thư điếm, Thượng Hải, 1991, tr.2528).

(4). Tụng cổ: thuật ngữ nhà Phật chỉ việc làm sáng rõ nghĩa việc cổ. Nêu lên việc cổ thì gọi là Ngữ vận. (Theo Từ điển Phật học, tập 2, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Hà Nội, 1994, tr. 1710).

(5). Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Ngô Đức Thọ, LATSNV, Trung tâm KHXH và NVQG, Hà Nội, 1995, tr.170.

(6). Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Ngô Đức Thọ, LATSNV, Trung tâm KHXH và NVQG, Hà Nội, 1995, tr.174.

(7). Các trường hợp khảo dị trong văn bản này được viết chữ nhỏ bên cạnh: 舊cựu … - Chữ này trong bản cũ là…

(8). Các trường hợp hiệu chính được viết chữ nhỏ bên cạnh: 恐khủng… - Chữ này e là chữ…

Tài liệu tham khảo:

1.竹林 慧 忠 上 士 語 籙kí hiệu A.1932 tại TVVNCHN.

2.三祖 寔 籙kí hiệu A.2048 tại TVVNCHN.

3.Nguyễn Duy Hinh, Trần Tung Thượng sĩ Nhân sĩ Thi sĩ, Nxb. KHXH, H, 1997.

4.Phật học đại từ điển, Đinh Phúc Bảo biên, Thượng Hải thư điếm, Thượng Hải, 1991.

5.Thích Thanh Từ, Tuệ Trung Thượng sĩ ngữ lục giảng giải, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, TPHCM, 1996.

6.Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy trên các văn bản Hán Nôm, Trung tâm KHXH và NVQG, H. 1995.

7.Thơ văn Lý Trần, tập II, Nxb. KHXH, H. 1989.

8.Tổng tập Văn học Việt Nam, Nxb. Văn học, H. 1998.

9.Tuệ Trung Thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam, Viện KHXH TPHCM, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, Tp Hồ Chí Minh, 1993.

10.Từ điển Phật học, tập 2, Kim Cương Tử (Chủ biên), Giáo hội Phật giáo Việt Nam, H. 1994.

Giáo sư Bửu Cầm giảng dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn từ năm 1958. Đến năm 1976, trường Đại học Văn khoa Sài Gòn đổi tên thành Đại học Tổng hợp Thành phố Hồ chí Minh, Giáo sư vẫn tiếp tục giảng dạy ở đây đến năm 1980, khi ông tự xin về hưu. Trước năm 1975, ngoài việc giảng dạy chuyên môn, bảo trợ nhiều tiểu luận Cao học và luận án Tiến sĩ, ông còn viết nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử, văn học, mà nhất là về văn hoá, phần lớn công bố trên tạp chí Văn hoá nguyệt san, một tạp chí có uy tín lớn về học thuật bấy giờ. Tập san Sử Địa, Tập san Khảo cổ, Đồng Nai văn tập cũng là những tạp chí thường đăng tải bài viết của ông. Theo bước đầu tìm hiểu của chúng tôi, số bài ông viết và gửi đăng từ năm 1957 đến 1973, hầu hết là khảo cứu, khoảng 50 bài. Về sách, ông biên soạn hoặc tham gia biên soạn, dịch thuật, hiệu đính, khoảng 20 đầu sách, và hầu hết cũng là khảo cứu, xuất bản rải rác từ 1949 đến 1969.

20200518 3

Bản in Cổ duệ từ (Nguyễn Quang Duy dịch), Nxb Hội nhà văn năm 2020

Trong số các từ tập ít ỏi hiện còn có một từ tập khá đặc biệt bởi nó toàn vẹn nhất, dung lượng lớn nhất, lại có một quá trình lưu lạc khá lâu tại nước ngoài, đó là Cổ duệ từ của Tùng Thiện vương Miên Thẩm (從善王綿審, 1819-1870).

Liên quan đến sáng tác từ của Miên Thẩm, nhà Thư mục học Trần Văn Giáp trong Lược truyện các tác gia Việt Nam và Tìm hiểu kho sách Hán Nôm cho biết Miên Thẩm có Thương Sơn từ tập. Tuy nhiên, không rõ Trần Văn Giáp dựa vào đâu để đưa ra những thông tin này bởi ở trong nước hiện nay không hề có Thương Sơn từ tập. Phan Văn Các trong phần đầu sách Cổ duệ từ - Khúc hát gõ mái chèo thì cho rằng ngoài Thương Sơn thi tập gồm 54 quyển, Miên Thẩm “còn có những tập từ”(1). Trên thực tế, sáng tác từ của Miên Thẩm hiện còn chỉ có một từ tập duy nhất mang tên Cổ duệ từCổ duệ từ sở dĩ còn lại đến hôm nay là vì vào năm Giáp Dần niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh [1854], một sứ đoàn nước ta khi đi sứ Trung Quốc đã mang theo từ tập này để giới thiệu với các sĩ phu ở Trung Quốc. Nhân đó nó được một nhà nho Trung Quốc là Lương Sằn Dư (梁莘畬)(2) chép lại. Rồi từ đó, qua những con đường khác nhau lan truyền khá rộng ở Trung Quốc.

Ở trong nước, người đầu tiên nhắc đến từ tập này là Phan Văn Các. Trên Tạp chí văn học số 3 năm 1998, trong bài “Về một chùm từ của Miên Thẩm”, Phan Văn Các dịch giới thiệu một chùm từ gồm 3 bài trong Cổ duệ từ. Đến năm 1999, trong sách Cổ duệ từ - Khúc hát gõ mái chèo, Phan Văn Các dịch công bố 14 bài trong Cổ duệ từ, đồng thời ông cũng cho biết một số thông tin về các bài từ mà ông đã dịch(3). Theo đó, có thể biết rằng Phan Văn Các thực ra không nắm được diện mạo toàn vẹn của Cổ duệ từ, phần mà ông tiếp xúc, phiên dịch chỉ là 14 bài được nhà nghiên cứu từ học Trung Quốc là Hạ Thừa Đảo (夏承燾, 1900-1986) trích tuyển từ Cổ duệ từ, in trong sách Vực ngoại từ tuyển (域外詞選), xuất bản năm 1934(4).

Hạ Thừa Đảo cùng Du Bình Bá (俞平伯, 1900-1990), Đường Khuê Chương (唐圭璋, 1901-1990), Long Du Sinh (龍榆生, 1902-1966)… đều là các nhà từ học nổi tiếng đương thời. Vực ngoại từ tuyển là tuyển tập từ ngoài cõi Trung Hoa do Hạ Thừa Đảo tuyển chọn, gồm tác phẩm của: 8 tác giả Nhật Bản (74 bài), 1 tác giả Triều Tiên (Lí Tề Hiền 李齊賢, 1287-1367, 53 bài)(5), 1 tác giả Việt Nam (Miên Thẩm, 14 bài). Phần cuối phụ lục 54 bài từ của Lí Tuân (李珣, sinh mất vào khoảng năm 855-0930), người gốc Ba Tư, sống tại Trung Quốc. Tổng cộng tuyển tập này gồm 11 tác giả với 195 bài từ.

Tuy nhiên, bản Phan Văn Các tiếp xúc cũng không phải bản in năm 1934, mà là bản do nhà xuất bản Thư mục văn hiến in lại vào năm 1981(6).

Để độc giả trong nước có cái nhìn đầy đủ hơn về Cổ duệ từ, trong Thông báo Hán Nôm năm 2001, Trần Nghĩa có bài “Cổ duệ từ của Miên Thẩm dưới dạng toàn vẹn của nó”. Về văn bản Cổ duệ từ Phan Văn Các đã giới thiệu, Trần Nghĩa cho biết thêm: “Tập từ chép tay sau đó được Lương Tụy Xa(7) đem tặng lại cho học trò yêu của mình là Kính Duy công, rồi người con trai của Kính Duy công lại đem tập từ chép tay nhân bản lần nữa, và viết thêm lời Bạt để gửi cho tòa soạn Từ học quý san ở Thượng Hải. Kết quả là Cổ duệ từ được tòa soạn Từ học quý san chọn ra 14 bài, ghép với một số bài từ của các tác giả Triều Tiên, Nhật Bản để in chung dưới tiêu đề Vực ngoại từ tuyển công bố năm 1934. Khúc hát gõ mái chèo do Phan Văn Các dịch và giới thiệu chính là dựa vào phần Cổ duệ từ "tuyển" in trong Vực ngoại từ tuyển, được Nxb. Thư mục văn hiến Bắc Kinh in lại vào năm 1981”. Sau đó Trần Nghĩa thông tin một số nét về bản Cổ duệ từ do Lương Tụy Xa sao lục mà ông đã chép lại được toàn bộ. “Bìa sách, bên trên có dòng chữ "Thuý thuỷ thảo xá từ độc 翠水艸舍詞讀" viết theo hàng ngang từ phải sang trái. Giữa bìa sách có 3 chữ "Cổ duệ từ 鼓枻詞" viết theo hàng dọc từ trên xuống. Bên phải, có 5 chữ "Việt Nam Bạch Hào Tử trứ 越南白豪子著” viết theo hàng dọc từ trên xuống. Bên trái có 8 chữ "Tương Thủy Hồ Nhai Thuý Thủy thủ sao 湘水胡街翠水手抄" cũng viết theo hàng dọc từ trên xuống”. Ông cho biết thêm: bên trong sách, tờ đầu dành cho lời Bạt của Dư Đức Nguyên soạn năm Trung Hoa dân quốc 23 [1934]. Lời Bạt này, trong bản in năm 1981 của Nxb. Thư mục văn hiến Bắc Kinh đã bị lược đoạn cuối. “Tiếp sau lời Bạt là phần chính văn, gồm cả thảy 104 bài từ”. Cuối bài viết, Trần Nghĩa có bảng liệt kê 104 bài từ trong Cổ duệ từ(8).

Thực ra muốn biết Cổ duệ từ đã truyền sang Trung Quốc, lưu truyền ra sao, chỉ cần đọc lời Bạt của Dư Đức Nguyên thì sáng tỏ về cơ bản. Toàn văn lời bạt như sau:

“Trên đây là một quyển Cổ duệ từ, do Bạch Hào Tử người Việt Nam sáng tác. Bạch Hào Tử là người trong tông thất ở Việt Nam, được tập phong là Tùng Quốc công, tên là Miên Thẩm, tự Trọng Uyên, hiệu Thúc Viên, ở khoảng lông mày có lông trắng nên lấy hiệu như vậy. Ông lại trước tác 4 quyển Thương Sơn thi sao. Thương Sơn là tên phủ đệ của ông vậy.

Tháng Ba năm thứ 4 niên hiệu Hàm Phong nhà Thanh [1854], đoàn cống sứ Việt Nam đến kinh, trên đường qua đất Việt [粵-Quảng Đông], có mang theo Thương Sơn thi sao và tập từ này. Bấy giờ ông cậu tôi là Tiên sinh Lương Sằn Dư người ở Thiện Hóa đang ở mạc phủ của quan Đốc trấn Quảng Đông, thấy vậy thì rất thích thú, liền chép lại toàn bộ cất vào trong tráp, đem về liền tặng cho tiên phụ tôi là Kính Dung công (敬鏞公) vì coi tiên phụ tôi như học trò đắc ý của mình vậy. Tôi từ lâu đã muốn san khắc lưu hành mà chưa làm được. Nay may thay tòa soạn Từ học quý san ở Hỗ Thượng [滬上-Thượng Hải] đang sưu tập trước tác của các danh gia để công bố với đời bèn chép ra một bản gửi đến, đặng có thể in thành sách để khiến tác phẩm từ lâu u ẩn sẽ được rạng tỏ.

Ôi! Việt Nam chỉ là một nước nhỏ ở đất phương Nam xa xôi, cũng có người tinh thông từ học, nghiễm nhiên trở thành một nhà, vốn là do linh tú của núi sông, tuy là ở nơi tuyệt vực vẫn không sao hết được. Vậy đủ thấy đương thời thanh giáo Trung Hoa lan truyền đến các nước đồng văn rất mạnh mẽ. Gần đây bản đồ Việt Nam đổi thuộc vào Pháp đã ba mươi năm, học thuật từ lâu đắm chìm vào Âu hóa, chẳng hay có còn ai nghiên cứu văn học Hoa ta như Bạch Hào Tử nữa không? Nghĩ đến đây, tôi khôn ngăn sùi sụt nhìn về phương Nam mà cảm khái vô cùng vậy.

Trung Hoa dân quốc năm thứ 23 [1934], ngày Kinh chập [ngày 6 tháng Ba], Lục Đình - Dư Đức Nguyên (陸亭-余德沅(9)) ở huyện Du viết lời bạt khi 70 tuổi”(10).

Trong Vực ngoại từ tuyển, cuối phần tuyển từ của Miên Thẩm có chép lời Bạt này, song đã lược bỏ đi đoạn “Ôi! Việt Nam chỉ là một nước nhỏ ở đất phương Nam xa xôi… Nghĩ đến đây, tôi khôn ngăn sùi sụt nhìn về phương Nam mà cảm khái vô cùng vậy”(11).

Theo lời Bạt nói trên, Cổ duệ từ được sứ giả nước ta mang sang Trung Quốc năm 1854, đến Quảng Đông, được Lương Sằn Dư sao chép, sau đó Lương Sằn Dư giao lại cho Kính Dung công, rồi Kính Dung công truyền lại cho con trai là Dư Đức Nguyên. Năm 1934, khi đó Dư Đức Nguyên đã 70 tuổi, ông chép lại một bản Cổ duệ từ, viết lời Bạt gửi cho Từ học quý san ở Thượng Hải. Từ học quý san là tạp chí chuyên về từ học do Long Du Sinh Chủ biên, hoạt động từ tháng 4 năm 1933 đến tháng 9 năm 1936. Bản do Trần Nghĩa chép lại cũng có lời Bạt nói trên, theo đó, có nhiều khả năng chỉ là bản sao lại từ bản mà Dư Đức Nguyên đã sao lục để gửi cho Từ học quý san.

Vực ngoại từ tuyển in lần đầu năm 1934, cùng năm Dư Đức Nguyên viết lời Bạt trên nhưng trong Lời nói đầu sách này không thấy Hạ Thừa Đảo ghi rõ ông tuyển từ bản nào, tuy vậy sách có in lời Bạt của Dư Đức Nguyên (tuy đã lược bỏ một đoạn), rất có thể ông đã tuyển 14 bài từ của Miên Thẩm từ bản Cổ duệ từ do Dư Đức Nguyên sao chép gửi cho Từ học quý san. Không chỉ vậy, hai năm sau, vào 30 tháng Sáu năm Dân quốc thứ 25 [1936], Cổ duệ từ đã được in toàn văn trên tạp chí Từ học quý san, bao gồm trọn vẹn cả lời Bạt của Dư Đức Nguyên (Từ học quý san, số 2, quyển 3, tr.102-123). Như vậy, từ năm 1936, thông qua Từ học quý sanCổ duệ từ của Miên Thẩm đã được lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc.

Theo ghi chép trong các thư tịch, từ năm 1854, khi Cổ duệ từ truyền sang Trung Quốc, nó không phải chỉ nằm trong tráp của Lương Sằn Dư, Kính Dung công hay Dư Đức Nguyên, vì năm 1890, nhà từ học Huống Chu Di (況周頤, 1859-1926), một trong bốn danh gia từ học cuối triều Thanh, cũng từng tiếp xúc với từ tập này. Trong cuốn Huệ Phong từ thoại (蕙風詞話) nổi tiếng, Huống Chu Di từng viết: “Năm Canh Dần [1890], tôi làm khách ở Hộ Giang [Thượng Hải], mượn được một quyển Cổ duệ từ của Nguyễn Miên Thẩm, người Việt Nam, các bài từ ngắn (đoản điệu) trong trẻo đẹp đẽ, đáng để đọc, các bài từ dài (trường điệu) cũng có khí cách”(12).

Từ tập này ở Việt Nam hiện không thấy trong các kho tư liệu Hán Nôm, có phần chắc là đã mất. Tuy nhiên, bài tựa Cổ duệ từ hiện vẫn còn được lưu trong sách Thương Sơn ngoại tập (kí hiệu A.781/1, quyển IV, tờ 40-42), chúng tôi đã công bố toàn văn trên Tạp chí Hán Nôm(13). Trong Cổ duệ từ và lời Tựa đều không ghi niên đại, do đó không rõ đích xác thời gian hoàn thành của Cổ duệ từ, chỉ biết rằng tập từ này được các sứ giả Việt Nam mang sang Trung Quốc năm 1854. Như vậy, nó được hoàn thành trước, hoặc muộn nhất là năm 1854.

Về số lượng tác phẩm trong Cổ duệ từ, Huống Chu Di chỉ cho biết Cổ duệ từ gồm một quyển nhưng không nói rõ cụ thể số bài. Vực ngoại từ tuyển cho biết “Bạch Hào Tử tên là Miên Thẩm, hiệu là Tiêu Viên, người trong tông thất nước Việt Nam, có một quyển Cổ duệ từ, cả thảy 104 bài”(14). Trần Nghĩa cho là 104 bài(15). Hà Thiên Niên cũng cho biết tương tự(16).

Xét kĩ, Cổ duệ từ gồm 104 đề mục, mỗi đề mục thông thường tương ứng với một bài từ; nhan đề của mỗi đề mục có khi chỉ có tên từ điệu, có khi có cả từ điệu và từ đề, thảng hoặc còn có lời dẫn ngắn. Ở đề mục thứ 50 là điệu Vọng Giang Nam - Điệu vong (望江南-悼亡) thực chất là một chùm từ theo điệu Vọng Giang Nam gồm tất cả 10 bài. Huống Chu Di trong Huệ Phong từ thoại cũng từng ghi rằng điệu Giang Nam Hảo có 10 bài, ông chỉ trích hai bài trong số đó (Huệ Phong từ thoại, quyển V). Đề mục thứ 89 là điệu Giảm tự mộc lan hoa - Đại nhân đáp nữ bạn họa vận (減字木蘭花-代人答女伴和韻) thực chất gồm 02 bài cùng điệu. Như vậy, tổng số tác phẩm trong Cổ duệ từ của Miên Thẩm không phải 104 mà là 114 bài. Các bài này viết theo 82 điệu, các điệu được sử dụng nhiều nhất gồm: Vọng Giang Nam (11 lần), Hành hương tửCán khê sa (4 lần), Giảm tự mộc lan hoaLâm giang tiênTây giang nguyệt (3 lần), Xú nô nhi lệnhSơ liêm đạm nguyệtBồ tát manLãng đào saLiễu sao thanhMô ngư nhiThâu thanh mộc lan hoaDương châu mạnNgu mĩ nhânGiá cô thiênTúy xuân phong (2 lần), các điệu khác đều chỉ được sử dụng một lần duy nhất.

Xét các điệu thức được sử dụng, về phân phiến gồm 2 loại đơn phiến và song phiến, không có loại tam điệp và tứ điệp. Về dung lượng có tiểu lệnh, trung điệu và trường điệu, tuy nhiên loại tiểu lệnh vẫn chiếm một tỉ lệ khá lớn.

Cổ duệ từ là một trong hai từ tập hiếm hoi hiện còn(17). Đây cũng là từ tập có số lượng tác phẩm lớn nhất trong từ sử Việt Nam. Số lượng tác phẩm cũng như các từ điệu được sử dụng trong từ tập này lớn số lượng tác phẩm, số lượng các từ điệu đã được các tác giả Việt Nam sử dụng từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII(18). Đây cũng là tác phẩm tiêu biểu đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thể loại từ ở Việt Nam giai đoạn nửa sau thế kỉ XIX.

Về phong cách từ học và nguồn ảnh hưởng của Cổ duệ từ, trong phần mở đầu sách Vực ngoại từ tuyển, Hạ Thừa Đảo có các bài thơ luận về tác phẩm từ của các tác giả Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Về Miên Thẩm ông viết:

Nguyên văn:

前身鐵腳吟紅萼,

垂老蛾眉伴綠缸.

喚起玉田商夢境,

深燈寫泪欲枯江.

Phiên âm:

Tiền thân Thiết Cước” ngâm hồng ngạc,

Thùy lão nga mi bạn lục cang.

Hoán khởi Ngọc Điền thương mộng cảnh,

Thâm đăng tả lệ dục khô giang.

Tạm dịch:

“Tiền thân Chân Sắt”(19) ngâm mai thắm(20),

Già rủ mi cùng ang nước xanh.

Cõi mộng Ngọc Điền khơi dậy bán,

Trước đèn nhỏ lệ viết thâu canh.

Lại cho rằng Cổ duệ từ của Miên Thẩm “phong cách rơi vào khoảng Bạch Thạch, Ngọc Điền, tả diễm tình mà không tổn hại đến nét lả lướt kiều mị” (…風格在白石玉田間, 寫艷情不傷軟媚). Hạ Thừa Đảo có trích dẫn một số câu trong bài từ điệu Sơ liêm đạm nguyệt (疏簾淡月) và bài Chúc lệ điệu Tiểu đào hồng của Miên Thẩm, cho rằng các câu đó “đều rất ý vị” (皆堪玩味)(21).

Bạch Thạch tức Bạch Thạch Đạo Nhân Khương Quỳ (姜夔, 1155-1221?). Khương Quỳ tự Nghiêu Chương, sau lại lấy hiệu là Bạch Thạch Đạo Nhân, là một trong những từ gia lớn nhất thời Nam Tống, được các từ nhân đương thời xưng tụng, gây ảnh hưởng quan trọng đến các từ nhân từ thời Nam Tống đến tận thời Thanh.

Ngọc Điền là tên hiệu của từ gia Trương Viêm (張炎, 1248-1320?). Trương Viêm tự là Thúc Hạ, hiệu là Ngọc Điền và Lạc Tiếu Ông, là một từ gia lớn thời Tống - Nguyên. Ngoài ra ông còn có sách Từ nguyên, là một bộ sách lí luận từ học hết sức quan trọng. Trương Viêm đặc biệt hâm mộ tác phẩm từ của Khương Quỳ, do đó Từ nguyên chuyên luận về từ của Khương Quỳ, suy tôn từ của Khương Quỳ “Như mây nội lẻ bay, qua lại không dấu” (如野鶴孤飛, 去留無跡), “chẳng những thanh không mà còn tao nhã, đọc lên khiến người ta tinh thần bay xa” (不惟清空, 又且騷雅, 讀之使人神觀飛越), vì thế được hậu nhân gọi chung là “Khương - Trương”. Một số từ nhân đời Thanh hâm mộ tác phẩm của Khương Quỳ và Trương Viêm, coi tông chỉ làm từ của mình là “Lấy Khương Quỳ làm nhà, lấy Trương Viêm làm cửa” (家白石而户玉田). Các khái niệm như “thanh không”, “tao nhã”, “ý thú”, “chất thực”… do Trương Viêm đưa ra trong Từ nguyên dần trở thành các khái niệm công cụ trong nghiên cứu và phê bình tác phẩm từ.

Như vậy, theo cách nói của Hạ Thừa Đảo, Miên Thẩm chịu ảnh hưởng của các từ gia Khương Quỳ, Trương Viêm thời Nam Tống, hoặc chí ít phong cánh từ học của ông gần gũi với hai từ gia trên. Còn Huống Chu Di chỉ khen “các bài từ ngắn (đoản điệu) trong trẻo đẹp đẽ đáng để đọc, các bài từ dài (trường điệu) cũng có khí cách”, sau đó dẫn các bài Quy tự dao (歸自遙), 2 bài trong chùm mười bài từ điệu Vọng Giang Nam (望江南), điệu Tấm viên xuân (沁園春), bài từ điệu Ngọc lậu trì - Trở vũ dạ bạc (玉漏遲-阻雨夜泊) làm lệ chứng; cuối cùng ghi: “Miên Thẩm tự là Trọng Uyên, tước Công”, ngoài ra không bình luận gì thêm.

Trong các tác gia cung đình triều Nguyễn, Tự Đức, Miên Trinh, Miên Khoan, Mai Am… đều quan tâm đến thể loại từ ở những mức độ khác nhau, song có lẽ chỉ có Miên Thẩm và người dụng công sâu sắc nhất vào thể loại văn học này. Trong lời tựa Cổ duệ từ, ông nhắc đến hàng loạt các từ gia nổi tiếng từ thời Ngũ đại đến thời Thanh và một số tác phẩm của họ, đồng thời cũng cho biết sự quan tâm sưu tập sách về từ của mình:

“Khách có kẻ nói: Nga Hoàng xét nhạc phổ, còn tìm về được dư thanh của thời Thiên Bảo(22); Tống Duyện nghe tiếng chuông, vẫn tìm được nhạc khí cổ của Thái thường tự(23). Huống nữa sách Âm vận của Chu Đức Thanh(24), gốc ở sách Từ nguyên của Trương Thúc Hạ(25). Chú từ phổ cậy ở Khương Quỳ(26), sáng yếu chỉ nhờ vào Lục Phụ(27). Trước do Thảo Đường biên tập(28), sau thì Trúc Tra chép sao(29). Ngoài ra còn, mấy trăm nhà ngữ nghiệp(30) thời Tống - Nguyên; vài chục pho Túy biên(31) thời Minh - Thanh, không năm nào tôi không sưu tập, ngày ngày ngâm nga, tuy kĩ nữ Hà Gian cũng chưa đủ để thổi sáo đánh đàn(32), như rương nhỏ của Hành Dương, chứa đầy sách vở”(33) (Thương Sơn ngoại tập: A.781/1, quyển IV, tờ 40-42).

Về động cơ sáng tác và nguồn ảnh hưởng trực tiếp đến việc tác từ, Miên Thẩm cho biết:

“Nay thiên tử: sửa sang lại lễ nhạc, giáo hóa bằng nền văn trị rực rỡ, há chỉ có cương vực mở rộng(34), mà riêng từ học(35) chẳng nhiều như như cây vực sum suê(36), còn âm nhạc cổ không nối lại được nữa chăng? Bởi thế thần đây tuy vốn biết tài năng chẳng theo kịp [người xưa], xét lời Cố quân nói cũng có chỗ phải lẽ(37). Thủy nhạc thuyết của Nguyên Thứ Sơn, không có Cung có Chủy thì cũng có hại gì đâu(38); tập Khuê Đường của Hứa Hữu Phu, đặt tên là “Khoản nãi” rất hợp(39). Cảm tạ Chân Trường hiểu lòng ta(40), tin rằng Tử Hạ phát khởi được ý ta(41). Vội phạt một chén lớn(42), đưa chân gõ mạn thuyền(43), khách gọi Tiểu Hồng(44), đáp lời khua chèo. Liền án theo 28 điệu(45) nhạc chương(46) thời Tống - Nguyên, điệu đều là bài hát của Ngư phủ(47); đọc lớn mấy ngàn lời tiểu thuyết mua vui(48), chẳng đoái đến mắt nhìn của người trời vậy” (Thương Sơn ngoại tập: A.781/1, quyển IV, tờ 40-42).

Theo cách nói đó, Miên Thẩm là người có ý hướng phát huy thể loại từ. Riêng về Tiểu Hồng (小紅), vốn là ca kĩ tài sắc của Phạm Thành Đại (范成大, 1126-1193). Phạm Thành Đại rất yêu quý tài năng của Khương Quỳ, từng khen Khương Quỳ “văn chương nhân phẩm đều giống như các kẻ sĩ tao nhã thời Tấn-Tống” (翰墨人品皆似晉宋之雅士), do đó trở thành bạn vong niên. Mùa đông năm Thiệu Hi nguyên niên [1190], Khương Quỳ đội tuyết đến Thạch Hồ trao cho Phạm Thành Đại hai bài từ vịnh hoa mai là Ám hương (暗香) và Sơ ảnh (疏影) mới làm, Phạm Thành Đại rất yêu thích, liền tặng Tiểu Hồng cho Khương Quỳ. Trong bài thơ tứ tuyệt Quá Thùy Hồng (過垂虹, Qua cầu Thùy Hồng) của Khương Quỳ viết trong đêm trừ tịch trên đường trở về Hồ Châu có câu: “Tự trác tân từ vận tối kiều / Tiểu Hồng đê xướng ngã xuy tiêu” (自琢新詞韻最嬌 / 小紅低唱我吹簫 - Mới chuốt bài từ vần tuyệt đẹp/ Tiểu Hồng ca khẽ, ta thổi tiêu).

Trong lời tựa Cổ duệ từ, Miên Thẩm có nhắc đến sách Từ nguyên của Trương Thúc Hạ (tức Trương Viêm) cùng việc chú giải từ phổ của Khương Quỳ, cũng từng đề cập đến khái niệm “thanh không”: “Bởi bắc nam vốn xa cách, mà giọng hát bổng trầm, vốn chẳng khác đường; nhã tục năng phân, mà bút ý thanh không(49), tự nhiên cao giá”. Thêm vào đó cuối bài lại nhắc đến Tiểu Hồng, ý hướng mong muốn như Khương Quỳ thuở nào. Hạ Thừa Chú vốn là nhà từ học, khảo cứu rất sâu về Khương Quỳ và Trương Viêm, do đó khi cho rằng Cổ duệ từ của Miên Thẩm phong cách gần gũi với Khương Quỳ và Trương Viêm hiển nhiên là một nhận định đầy quyền uy. Lại như, trong lời tựa Cổ duệ từ, Miên Thẩm cũng tự nhận Cổ duệ từ của ông “án theo 28 điệu nhạc chương thời Tống - Nguyên”. Thêm nữa trong tác phẩm, ở bài từ điệu Quế chi hương để “Cảm tạ Chuyết Viên huynh nhân tặng một cành mai” (桂枝香-謝拙園兄惠梅花一枝) Miên Thẩm cũng nhắc đến hai bài từ Sơ ảnh và Ám hương của Khương Quỳ, đủ thấy sáng tác của ông chịu ảnh hưởng của Khương Quỳ và Trương Viêm là điều hết sức rõ ràng.

Phạm Văn Ánh

Viện Văn học

Chú thích:

(1). Phan Văn Các: Cổ duệ từ - khúc hát gõ mái chèo, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 1999, tr.3.

(2). Lương Sằn Dư (梁莘畬): chữ “畬” có hai âm là “Dư” và “Xa”, khi đi với chữ “Sằn莘” thì phiên là “Dư” hợp lí hơn. Tuy nhiên, cũng tên nhân vật này trong Vực ngoại từ tuyển in là “梁萃畬”, theo đó có thể phiên là “Lương Tụy Dư” và “Lương Tụy Xa” (Xem các bộ vận thư: Đường vậnTập vận).

(3). Bản dịch này công phu, nhưng tiếc là chưa được toàn mĩ vì một số bài từ ngắt câu chưa thực chuẩn.

(4). Phan Văn Các, sđd, tr.17-19.

(5). Lí Tề Hiền là người Triều Tiên, có thể coi là danh gia từ học Triều Tiên, sáng tác dưới ảnh hưởng từ phong của Tô Đông Pha và Nguyên Hiếu Vấn. Tuy nhiên do ông ta sống nhiều năm ở Trung Quốc nên trong một số sách của Trung Quốc, nhất là các sách về thể loại từ thường coi ông là tác giả từ Trung Quốc.

(6). Phan Văn Các, sđd, tr.19.

(7). Xem chú thích 2 ở trên.

(8). Trần Nghĩa: “Cổ duệ từ của Miên Thẩm dưới dạng toàn vẹn của nó”, in trong Thông báo Hán Nôm năm 2001, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản, H. 2002, tr.385-392.

(9). Tên nhân vật này ở bản Vực ngoại từ tuyển in là Dư Đức Nguyên (余德源)

(10). Dịch từ Từ học quý san, số 2, quyển 3, tr.102-123.

(11). Hạ Thừa Đảo: Vực ngoại từ tuyển, Thư mục văn hiến xuất bản xã, 1981, tr.155.

(12). Huống Chu Di: Huệ Phong từ thoại (quyển 5), Nhân dân văn học xuất bản xã, Bắc Kinh, 1960, tr.124.

(13). Phạm Văn Ánh: “Bài tựa Cổ duệ từ của Miên Thẩm”, Tạp chí Hán Nôm, số 3, năm 2010.

(14). Hạ Thừa Đảo, sđd, tr.1.

(15). Trần Nghĩa: Bđd, tr.385-392.

(16). Hà Thiên Niên (何仟年, Trung Quốc): “Điền từ  từ học ở Việt Nam - Một [nghiên cứu] trường hợp về thể loại văn học trong bối cảnh di thực của văn hóa Hán (越南的填詞及詞學- 漢文學移植背景下的文体案例), đăng trên Học báo Đại học Quảng Tây (廣西大學學報), số tháng 6 năm 2008, tr.109.

(17). Từ tập còn lại là Mộng Mai từ lục của Đào Tấn. Từ tập này chép lẫn nhiều tác phẩm từ của Trung Quốc, theo giám định, nhiều nhất chỉ có 17/60 tác phẩm trong từ tập này là của Đào Tấn (Xem: Phạm Văn Ánh: “Sự thực nào cho Mộng Mai từ lục”Tạp chí Văn học, số 9 năm 2009 và “Thêm một số lưu ý về Mộng Mai từ lục của Đào Tấn”, Tạp chí Hán Nôm, số 3 (106) - 2011).

(18). Theo khảo sát của chúng tôi đến thời điểm hiện nay, các tác giả từ Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVIII hiện còn khoảng 91 tác phẩm từ, viết theo 58 điệu.

(19). Mấy chữ “Tiền thân có bàn chân sắt” trong bài thơ của Hạ Thừa Đảo, vốn lấy ý từ bài Sơ liêm đạm nguyệt vịnh hoa mai của Miên Thẩm: “…Bản lai diện mục / Quân ưng tri ngã / Tiền thân thiết cước” (Bản lai diện mục / Người nên biết tớ / Tiền thân chân sắt). “Chân sắt” (Thiết cước) tức Thiết Cước đạo nhân, tương truyền là một vị đạo sĩ thời cổ, thích ăn hoa mai với tuyết, có người hỏi lí do, ông nói: “Ta thích cái lạnh của tuyết và hương thơm của hoa mai ngấm vào tận phế phổi”.

(20). Mai thắm: dịch từ chữ “hồng ngạc”. Theo logic bài thơ, trước nó đến Thiết Cước đạo nhân là người thích ăn hoa mai, nên “Hồng ngạc” ở đây chỉ hoa mai. Bài từ điệu Nhất ngạc hồng của Khương Quỳ có câu: “Cổ thành âm / Hữu quan mai kỉ hứa / Hồng ngạc vị nghi trâm” (Dưới bóng thành cổ, có mấy cây mai trong phủ quan / Nụ thắm chưa thích hợp để cài lên mái tóc).

(21). Hạ Thừa Đảo, sđd, tr.4.

(22). Thiên Bảo: niên hiệu của Đường Huyền Tông (từ 742 đến 756). Nga Hoàng là vợ của Nam Đường hậu chủ Lí Dực (từ gia kiệt xuất thời Ngũ đại). Trước đó, Đường Huyền Tông từng chế ra khúc Nghê Thường vũ y, song trải thời gian, đến thời Ngũ đại thì mai một. Nhạc phổ tàn khuyết của bản Nghê Thường vũ y rơi vào tay Lí Dực, sau được Nga Hoàng bổ sung, chỉnh lí và cho diễn tấu.

(23). Tống Duyện: người thời Đường. Theo Thái Bình quảng kí: Thái thường lệnh Tống Duyện những người rành âm nhạc, đời gần đây không ai sánh bằng. Thái thường tự bị mất điệu “Chủy”, Thẩm Duyện tra cứu âm luật của chuông mà tìm lại được.

(24). Chu Đức Thanh (1277- 1365): người thời Nguyên, tác giả của sách Trung nguyên âm vận.

(25). Trương Thúc Hạ: tức Trương Viêm (1248-1319?), từ gia thời Tống - Nguyên, tác giả sách Từ nguyên (gồm 2 quyển, 29 mục, khảo về lã luật, từ nhạc; bàn về phong cách, đặc trưng thể loại…).

(26). Khương Quỳ (1155-1221): từ gia nổi tiếng thời Nam Tống. Nhà từ luận Vương Quốc Duy trong Nhân gian từ thoại đánh giá rất cao về Khương Quỳ, cho là: từ nhân xưa nay giỏi về cách điệu không ai bằng Bạch Thạch đạo nhân - Khương Quỳ.

(27). Lục Phụ: từ nhân thời Nguyên, tác giả sách Từ chỉ, tương tự như thầy mình là Trương Viêm, ông cũng đánh giá rất cao về tác phẩm từ của Khương Quỳ. Từ chỉ là sách chịu ảnh hưởng rất sâu sắc bởi bộ Từ nguyên của Trương Viêm.

(28). Thảo Đường: tên hiệu của từ gia Chu Mật (1232-1298) thời Nam Tống, tác giả sách Thảo Đường vận ngữ, 6 quyển.

(29). Trúc Tra: tên hiệu của Chu Di Tôn (1629-1709), từ gia nổi tiếng thời Thanh.

(30). Nhà ngữ nghiệp: tức các từ gia. Ngữ nghiệp là một tên gọi khác của thể loại từ. Theo Vương Chước trong Bích kê mạn chí (quyển II), “Trần Vô Kỉ (tức từ gia Trần Sư Đạo) sáng tác mấy chục bài [từ], gọi là ngữ nghiệp”.

(31). Túy biên: tức Hoa Đường túy biên, là một tuyển tập từ do Trần Diệu Văn thời Minh tuyển chọn và biên tập, gồm 12 quyển, chủ yếu tuyển tác phẩm từ thời Đường - Tống, thảng hoặc có chọn thêm một số ít tác phẩm từ thời Nguyên.

(32). Theo Lạc Dương thành tây Già lam kí của Dương Huyễn Chi, Hà Gian vương là Sâm có đến 3 trăm kĩ nữ, thảy đều là hạng sắc nước hương trời.

(33). Hành Dương vương tên là Quân ở nước Tề thường tự tay viết bộ Ngũ kinh nhỏ, cho vào rương nhỏ, để tiện cho việc đọc sách.

(34). Cương vực: nguyên văn là “Bức viên 幅隕”. Chữ “viên 隕”, nguyên bản khắc nhầm bộ “phụ 阜” thành bộ “cân 巾”. Hai chữ “Bức viên” lấy chữ từ thơ Trường phát trong phần Thương tụng của Kinh Thi: “Ngoại đại quốc thị cương / Bức viên kí trường 外大國是疆 / 幅隕既長”, nghĩa là: Lấy các nước chư hầu bên ngoài làm biên giới / Cương vực đã rộng lớn.

(35). Từ học: ban đầu chỉ sự học về từ chương nói chung, đến thời Minh - Thanh mới chuyên chỉ việc điền từ. Điền Đồng Chi thời Thanh trong tác phẩm Tây phố từ thuyết cho rằng cái đạo ỷ thanh (điền từ), nhân “cung điệu thất truyền, từ học cũng dần rối loạn vậy”. Các học giả Trung Quốc từ thời cận đại trở đi còn coi từ học là một lĩnh vực học thuật chuyên biệt, lấy từ và các vấn đề hữu quan của nó làm đối tượng nghiên cứu.

(36). Cây vực sum suê: nguyên là “Vực bốc”, nghĩa là cây vực mọc thành bụi đan xen vào nhau, cũng là tên một bài trong phần Đại nhã của Kinh Thi, ca ngợi thịnh đức của vua Văn Vương nhà Chu; cũng có khi dùng chỉ hiền tài đông đúc.

(37). Cố quân: chỉ Cố Ung, người thời Tam quốc. Mục Cố Ung truyện, trong phần Ngô chí sách Tam quốc chí ghi: “Cố quân không nói [thì thôi], đã nói ắt là trúng”. Bùi Tùng Chi chú dẫn Giang Biểu truyện của Ngu Phổ thời Tấn rằng: “Tôn Quyền nói: Cố công vui mừng, việc này hợp lẽ vậy; như ông ta không nói thì việc này chưa ổn thỏa, quả nhân cần xem xét lại đã.

(38). Nguyên Thứ Sơn: tức Nguyên Kết (919-772), người thời Đường, tự là Thứ Sơn, hiệu là Mạn Tẩu. Tác phẩm có Thủy nhạc thuyết. Nhận xét về tác phẩm này, từ gia Nguyên Hiếu Vấn thời Kim cho là: “Thử xem Thủy nhạc thuyết của Nguyên Kết thời Đường: vốn chẳng có âm hưởng của Cung, Chủy, nhưng cũng tự thành thứ nhã nhạc tự nhiên giữa khoảng mây núi”.

(39). Hứa Hữu Phu: từ gia thời Nguyên, cùng Hứa Hữu Nhâm soạn sách Khuê Đường Khoản nãi tập (2 quyển).

(40). Chân Trường: tức Lưu Chân Trường. Thế thuyết Tân ngữ dẫn lời của Vương Trọng Tổ nói: “Chân trường hiểu ta, còn hơn ta tự hiểu về mình”.

(41). Thiên Bát dật sách Luận ngữ ghi: Tử Hạ hỏi [Khổng Tử]: “Nét cười tươi quyến rũ, cặp mắt đẹp rạng ngời, trên nền trắng vẽ nên bức họa nhiều màu sặc sỡ, là nghĩa thế nào? Khổng Tử đáp: phải có nền trắng rồi sau mới vẽ nên bức tranh. Thưa: [Ý nói] lễ là cái có sau chăng? Khổng Tử khen: Phát khởi được ý ta chính là trò Thương vậy. Thương có thể bắt đầu cùng ta nói về Thi rồi đó”.

(42). Nguyên văn là “phù đại bạch”. Theo Thuyết uyển của Lưu Hướng, Nguỵ Văn hầu cùng các đại thần uống rượu, có đưa ra quy định, ai không cạn chén thì bị phạt một chén lớn. “Phạt một chén lớn”, nguyên phải nói là “phạt nhất đại bôi 罰一大杯”, nhưng vì rượu đã ngà ngà nên nói nhịu thành “phù nhất đại bạch 浮一大白”.

(43). Lấy ý từ Li tao của Khuất Nguyên, ngư phủ gõ mạn thuyền hát: Sông Thương Lang trong xanh chừ, ta giặt dải mũ; sông Thương Lang ngầu đục chừ, ta rửa chân.

(44). Tiểu Hồng: ca kĩ của Phạm Thành Đại, sau Phạm Thành Đại tặng lại cho Khương Quỳ.

(45). 28 điệu: Các cung điệu âm nhạc, như: chính cung, cao cung, trung lã cung, đạo điệu cung, nam lã cung, tiên lã cung, hoàng chung cung… Nguyên chú ghi: “phàm cái gọi là ‘tục nhạc’ gồm 28 điệu”.

(46). Nhạc chương: đây dùng với nghĩa là thể loại từ.

(47). Bài hát của Ngư phủ: từ tập này của Miên Thẩm mang tên là “Cổ duệ từ”, nghĩa là tập từ của người gõ mái chèo, lấy ý từ Li tao của Khuất Nguyên. Trong từ cũng có điệu Ngư phủ, là điệu từ rất nổi tiếng, được sáng tác từ thời Đường (như chùm từ điệu Ngư phủ của Trương Chí Hòa thời Đường ảnh hưởng lan tỏa sang cả Nhật Bản), thường dùng viết về cuộc sống ẩn dật.

(48). Tiểu thuyết mua vui: nguyên văn là “bài ưu tiểu thuyết”, một thể loại văn học có tính chất hài hước. Qua cách nói này, có thể thấy cho dù rất dụng công trong việc điền từ song Miên Thẩm vẫn coi từ là thể loại văn học giải trí, không có vị trí trang trọng như thơ ca nói chung.

(49). “Bút ý thanh không” được thể hiện trong Cổ duệ từ như thế nào đòi hỏi những phân tích sâu, chúng tôi sẽ trình bày trong một bài viết khác.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012,tr.62-79, phiên bản trực tuyến, ngày 24.2.2015.

20190304 Chau ban

1- Chữ Nôm là một loại hình văn tự do người Việt sáng tạo ra để ghi âm tiếng Việt. Chữ Nôm từ khi xuất hiện chỉ là các mã chữ ghi tên người, tên đất xuất hiện trên các tấm bia từ thế kỷ thứ XI(1) đến khi chữ Nôm xuất hiện thời Hồ(2) (1400-1407), thời Tây Sơn (1778-1801), và thời Gia Long (1802-1819) cho thấy vai trò và giá trị của chữ Nôm trong đời sống xã hội của người Việt. Tuy nhiên, các mã chữ Nôm xuất hiện thời Hồ, thời Tây Sơn đã được biết qua sử sách. Mã chữ Nôm xuất hiện thời Gia Long (1802-1819) lần đầu tiên được nhắc đến trong lời giới thiệu về châu bản triều Nguyễn của ông Trần Kinh Hòa(3), sau đó thì mảng văn tự này dường như bị bỏ quên, chưa một công trình nghiên cứu về chữ Nôm, chưa một cuốn tự điển chữ Nôm nào nhắc tới. Bài viết này, chúng tôi giới thiệu các mã chữ Nôm xuất hiện trong châu bản thời Gia Long (1802-1819).

2- Châu bản thời Gia Long (1802-1819) đã được Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I công bố một danh mục tóm tắt gồm 822 văn bản(4) gồm các loại chiếu, dụ, công đồng truyền, công đồng phó, công đồng sai, trát, thân, tấu, khải, quốc thư… Đây là nguồn tư liệu quí giá giúp người nghiên cứu đi sâu tìm hiểu các khía cạnh của đời sống xã hội thời Gia Long, trong đó có chữ viết. Chữ viết trên châu bản thời Gia Long có 2 loại: chữ Hán và chữ Nôm.

3- Các mã chữ Nôm xuất hiện trong châu bản thời Gia Long (1802-1819) gồm 2 loại: mã chữ Nôm tự tạo và mã chữ Nôm mượn chữ Hán. Các mã chữ Nôm xuất hiện trong các văn cảnh như sau:

Về văn bản chiếu, dụ, chỉ: đây là loại văn bản chuyên giành cho nhà vua. Theo Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập I, loại này có 164 đơn vị văn bản. Một tờ chiếu đề ngày 15 tháng 12 năm Gia Long thứ 1 (1802), nhà vua đã lệnh cho Nguyễn Phúc Thí, một chi phái con cháu nhà chúa trước đây kê khai phổ hệ(5), trong tờ chiếu này có đoạn: 德先聖王生下公子纙買?, 埃羅?嫡, 埃羅?庶, 継生子孫世次鄧包饒, 忍典列朝拱丕. 係公姓各支派現存羅包饒, 埃㐌預固官職, 埃渚預受官職調沛備開, 從前世系詳究的實具修譜牒進覽. (đức Tiên thánh vương sinh hạ công tử là mấy ngôi, ai là dòng đích, ai là dòng thứ, kế sinh tử tôn thế thứ đặng bao nhiêu, nhận đến liệt triều cũng vậy. Hễ Công tính(6) các chi phái hiện tồn là bao nhiêu, ai đã dự có quan chức, ai chưa dự thụ quan chức đều phải bị khai (kê khai đầy đủ). Trong đoạn văn này có 3 mã chữ Nôm tự tạo là ? (ngôi), ?(dòng), 饒 (nhiêu). Các mã chữ còn lại là các mã chữ Hán được nhà vua mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt. Trong tờ dụ ghi ngày 3 tháng 1 năm Gia Long thứ 2 (1803) có các mã chữ ?固差欽差屬內該奇玖?嘉定 (nay có sai Khâm sai thuộc nội Cai cơ Cửu vào Gia Định…). Các mã chữ Nôm tự tạo là: ? (nay), ?(vào). Các mã chữ Nôm còn lại là các mã chữ Nôm mượn chữ Hán.

Về loại công đồng truyền, công đồng sai, công đồng phó. Riêng loại công đồng truyền thì hiện có 309 đơn vị văn bản. Về loại này, sau các mã chữ công đồng truyền cho (quan địa phương)… có mã chữ Nôm tự tạo ? (nay) và các mã chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong dạng công thức như: ??固攽下… [nay vâng có ban hạ… Châu bản ngày 6 tháng giêng năm Gia Long thứ 4 (1805)], hoặc cụm từ ??固傳 [ngày trước có truyền. Văn bản đề ngày 20 tháng giêng năm Gia Long thứ 2 (1803)], ??旨 [nay vâng chỉ. Văn bản đề ngày 6 tháng giêng năm Gia Long thứ 4 (1805)]…

Về loại Quốc thư. Đây là những văn bản bang giao của một số nước trong khu vực như Thái Lan, Miến Điện… với Việt Nam được dịch ra tiếng Việt, phần Việt văn ghi bằng chữ Nôm. Một bức thư của một người thủy thủ Pháp gửi cho nhà đương cục Việt Nam đề ngày 9 tháng 7 năm Gia Long thứ 16 (1817), mở đầu bức thư ghi 眾碎於在渃葩朗沙城浦都盧?… (Chúng tôi ở tại nước Ba Lãng Sa thành phố Đô Lô tên là…). Trong đoạn văn này có mã chữ Nôm tự tạo 渃 (nước); ? (tên)... Các mã chữ còn lại là các mã chữ Hán được mượn để diễn đạt theo lối tư duy của người Việt

Về loại tấu, trong mỗi bản tấu, các mã chữ Nôm tự tạo và các mã chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong các cụm từ công thức 奏德皇上閍閍?高明御覽 (tấu vái đức hoàng thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm). Trong công thức này có 4 mã chữ Nôm tự tạo là (vái) 閍閍? (muôn muôn năm) hoặc cụm từ ?具表奏浪 [nay cụ biểu tấu rằng. Văn bản đề ngày 20 tháng 1 năm Gia Long thứ 4 (1805)]. ? (nay) là mã chữ Nôm tự tạo, các mã chữ còn lại trong cụm từ này là mã chữ Nôm mượn chữ Hán.

Các mã chữ Nôm tự tạo và các mã chữ Nôm mượn chữ Hán xuất hiện trong châu bản thời Gia Long phần lớn đều ở dạng viết tay. Một tờ tâu gửi lên nhà vua của bề tôi Khâm sai Bắc thành Chưởng hậu quân Lê Tông Chất đề ngày 10 tháng 12 năm Gia Long thứ 16 (1817) trình bày sự việc binh lính đóng đồn ở vùng biển thuộc thành Gia Định được thay phiên, trên đường trở về gặp bão, trôi dạt đến vùng biển của Nhật Bản, người Nhật Bản đã cứu những nạn binh và nhờ tầu buôn của Trung Quốc giúp họ trở về Việt Nam.

Trong văn bản này, mã chữ Nôm tự tạo được thể hiện trong các văn cảnh như sau:

TT Các chữ Nôm tự tạo Văn cảnh xuất hiện
2

Mã chữ Nôm tự tạoxuất hiện trong các cụm từ công thức:

閍閍?

奏德 皇 上 閍 閍 ? 高 明 御 覽 (tấu vái đức hoàng thượng
muôn muôn năm cao minh ngự lãm) (tr.1 d1; tr.8 d4)
2 Mã chữ Nôm tự tạo biểu thị số đếm từ số 2 đến số 10: ? (hai), ?(ba), ? (bốn), ?(năm), ? (sáu), (bảy), 糝 (tám), ?(chín), ? (mười)

- ?: 出港鄧??? (xuất cảng đặng hai đêm ngày) (tr.2 d5)

- ?: 戈?糝??? (qua tháng tám ngày mười ba) (tr.4 d1)

- ?: ?道文差 (bốn đạo văn sai) (tr.4 d5)

- ?: 眾奴乘轎陸行?? (chúng nó thừa kiệu lục hành năm 
ngày) (tr.5 d2)

- ?: 戈???? (qua ngày rằm tháng sáu) (tr.3 d4)

- : 共?呈貝該隊 (cùng bảy người trình với cai đội) (tr.3 d5)

- 戈 ? 仲 夏 ? 夢  ? 意 拔 ? ?葛 ? 㴜 (qua tháng trọng hạ, 
ngày mồng bảy bè ấy dạt vào cồn cát giữa biển) (tr.2 d7)

-糝: 戈?糝??? (qua tháng tám ngày mười ba) (tr.4 d1)

- ?: 戈????? (qua tháng chín ngày hai mươi) (tr.7 d2)

- ?: 戈????? (qua tháng chín ngày hai mươi) (tr.7 d2)

3

Mã chữ Nôm tự tạo biểu thị thời gian

? (đêm) ? (ngày), ?(tháng), ?(năm)

- ?, ?: 戈 ? 仲 夏 ? 夢  (qua tháng trọng hạ ngày mồng 
bảy) (tr.2 d7)

- ?: 自 ? ? 蔑 ? 乙亥 (từ tháng mười một năm Ất Hợi) 
(tr.5 d7)

4

Mã chữ Nôm tự tạo biểu thị vật dụng

?(bè), ? (ghe), ?(dây), 鐮 (liềm),

- ?: 群片?意 (còn phiến bè ấy) (tr.2 d6)

- ?: 共 肆 拾 柒 員 人 調 共 ? 筏 團 出 港 (cùng tứ thập thất 
viên nhân đều cùng ghe phiệt đoàn xuất cảng) (tr.2 d5)

- ?: 藤 雲 候 坐 意 坦 ? 漂 拔 ? 兜 庄 ?(Đằng Vân hầu tọa 
ấy đứt dây phiêu bạt đi đâu chẳng thấy) (tr.2 d6)

- 鐮: 貝 ? 錠 鉑 蔑 貫 錢 蔑 丐 鐮 (với bốn đĩnh bạc một 
quan tiền một cái liềm) (tr.6 d6)

+原 銀 錠 錢 壹貫, 鐮 壹 件 (nguyên ngân tứ đĩnh, tiền nhất 
quan, liềm nhất kiện) (tr.4 d5)

5 Mã chữ Nôm tự tạo ghi tên các loài thực vật 椥(tre) - 椥: 眾 奴 嗔 ?仍 椥 ? 㵢 ? ? (chúng nó xin lấy những tre 
bè trôi vào cồn) (tr.3 d5)
6

Mã chữ Nôm tự tạo ghi tên các loài hải sản

?(chim), ?(cá), 䗔(hầu), ? (ốc)

- ? , 䗔 , ?: 伊 等 於 在 ? 扒 ? 䗔 ? 麻 咹 拖 ? (y đẳng ở 
tại cồn bắt chim hầu ốc mà ăn đỡ đói) (tr.3 d4)

- ?: 渃 㵢 沚 ?仍 ?預  ?意 (nước trôi chảy thấy những 
cá dự theo bè ấy) (tr.3 d8)

7

Mã chữ Nôm tự tạo ghi người và hoạt động của con người

?(người), 咹(ăn), 㕵(uống), 粓(cơm), ?(cháo), ? (vải), 袄 (áo) 裙(quần) ?(đai); 渃(nước), 焒 (lửa); 茦(thuốc)…

- ?: 自???意眾奴? (từ bữa rằm tháng ấy chúng nó 
bảy người) (tr.2 d7)

- 粓, ?: ??於妬救冘眾奴?廚朱於貝朱??咹(thấy 
người ở đó cứu, đem chúng nó lên chùa cho ở với cho cơm 
cháo ăn) (tr.4 d2)

- 官日本國吏發?共?… (quan nhật bản lại phát vải cùng gạo) 
(tr.6 d5)

- ?, 袄裙?:

給朱粓咹茦㕵貝發朱每?蔑丐袄錦芃 (cấp cho cơm ăn 
thuốc uống với phát cho mỗi người một cái áo bông) (tr.4 d7)

給朱咹㕵如?吏發袄巾褲??錦, 幪?… (cấp cho ăn uống 
như trước lại phát áo khăn khố đai nệm gấm

8

Mã chữ Nôm tự tạo ghi phương hướng

 (xuống), ? (vào), ?(ra), …

- ?: 伊等員軍援取拋苗??? (y đẳng viên quân vin thủ phao 
miêu nha bơi vào cồn) (tr.2 d7)

- :眾奴調冘??塊?(chúng nó đều đem theo xuống 
mảng chống ra khỏi cồn) (tr.2 d7)

Trong văn bản này, mã chữ Nôm mượn chữ Hán được chia thành các tiểu loại, xuất hiện trong các văn cảnh như sau:

TT Mã chữ Nôm mượn Văn cảnh xuất hiện
1 - Mã chữ Nôm mượn hình, âm, nghĩa chữ Hán: 從 (tòng= theo) 答 (đáp= trả lời)

從: 群 伊 等 從 左 勝 奇(còn y đăng tòng Tả thắng cơ) (tr.2 d4)

答: 曰?答吏 (viết chữ đáp lại)(tr.4 d3)

2

- Mã chữ Nôm mượn hình, âm, không mượn nghĩa chữ Hán

戈 (qua= mác) 吏 (lại= 1- viết chữ; 2- chức quan nhỏ)

戈: 戈?仲夏?蒙(qua tháng trọng hạ ngày mồng bảy) (tr.2 d7)

吏: ?曰答吏(thấy viết đáp lại) (tr.4 d3)

3

- Mã chữ Nôm mượn hình, âm chữ Hán nhưng đọc chệch

朱 (chu = màu đỏ) 奴 (nô = nô lệ)

- 朱: 朱眾奴於在廚 (cho chúng nó ở tại chùa)(tr.4 d6)
4

- Mã chữ Nôm mượn hình, nghĩa chữ Hán

外 (ngoại = ngoài)

外: 吏被海程漂流外國(lại bị hải trình phiêu lưu ngoài nước) (tr.7 d7)

 

Từ các biểu bảng nêu trên, chúng ta nhận thấy:

- Nhiều mã chữ Nôm tự tạo như mã chữ Nôm chỉ số đếm - ? (hai), ? (ba), ? (bốn), ? (năm), ? (sáu),  (bảy), 糝 (tám), ? (chín), ? (mười) hoặc mã chữ Nôm tự tạo chỉ thời gian ? (đêm), ? (ngày), ? (tháng), ? (năm)… đã xuất hiện nhiều lần trong văn bản.

- Các mã chữ Nôm tự tạo (vái), 閍閍? (muôn muôn năm) và các mã chữ Nôm mượn chữ Hán 德皇上 (đức hoàng thượng) 高明御覽 (cao minh ngự lãm) cùng xuất hiện tạo nên một công thức cho loại tấu như: - 奏 德皇上閍閍?高明御覽 (tấu vái đức hoàng thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm).

- Các mã chữ Nôm như: 朱眾奴於在廚 = cho chúng nó ở tại chùa (tr.4 d6) hoặc 伊國無有陸路通往越南 = y quốc không có lục lộ thông vãng Việt Nam (tr.5 d8). Đây là các mã chữ Nôm mượn chữ Hán được người Việt sử dụng để diễn tả lối tư duy của người Việt.

4- Chữ Nôm đã trải qua một quá trình phát triển. Theo sử sách ghi chép, Nguyễn Thuyên người đời Trần đã làm bài văn tế đuổi cá sấu trên sông Lô, phần Việt văn viết bằng chữ Nôm. Sau đó có Hồ Quí Ly (1400-1407)(7) dịch Kinh Thi, sai nữ sư dạy hậu phi và cung nhân. Từ thời Lê đến thời Tây Sơn (1778-1801), chữ Nôm được dùng để:

- Dịch các bộ kinh Phật, các tác phẩm văn học, lịch sử ghi bằng chữ Hán sang Việt văn. Phần Việt văn ghi bằng chữ Nôm như: Phật thuyết đại báo ân trọng kinhTruyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, biên soạn Tứ thư Ngũ kinh theo quan niệm của nhà Nho Việt Nam bằng chữ Nôm để phục vụ cho thi cử.

- Dùng chữ Nôm để sáng tác thơ ca như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Hồng Đức quốc âm thi tậpThơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Truyện Kiều của Nguyễn Du, Quốc sử diễn ca

- Dùng chữ Nôm để biên soạn Hương ước, thần phả…

Từ các thành tựu nêu trên cho thấy chữ Nôm đã có một bước phát triển dài trong lịch sử. Tuy nhiên, các mã chữ Nôm được sử dụng trong giai đoạn này chưa được coi là văn tự chính thống của nhà nước, chưa được qua chuẩn hóa và điển chế hóa. Chỉ đến thời Gia Long (1802-1819), các mã chữ Nôm xuất hiện trong các văn bản hành chính nhất là trong các văn bản Châu bản thời Gia Long (1802-1819) cho thấy chữ Nôm đã được nhà nước thừa nhận và được sử dụng vào trong các văn bản hành chính nhà nước. Điều này cho thấy vị trí của chữ Nôm đã đạt tới đỉnh cao của sự phát triển và là một nguồn tài liệu quí cần được nhà nước Việt Nam bảo vệ và tôn vinh.

 

Chú thích:

(1) Trên tấm bia Phụng thánh phu nhân Lê thị mộ chí dựng năm 1173 tại chùa Diên Linh thuộc huyện Tam Nông tỉnh Phú Thọ có 8 mã chữ Nôm. Tấm bia Báo Ân tự bi ký dựng năm 1210 tại chùa Báo Ân huyện Yên Lãng tỉnh Vĩnh Phúc có 24 mã chữ Nôm.

(2)(7)Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Quí Ly dịch thiên Vô dật của Kinh Thi để dạy cho quan gia (nhà vua), T.II, Nxb. KHXH, H. 1993, tr.188.

(3) Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập I, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2010, tr.XXXIII.

(4) Xem thêm: Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập I, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2010, tr.IX.

(5) Xem thêm: Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập I, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2010, tr.3.

(6) Công: một thuật ngữ chỉ nhà chúa tự xưng. Từ chúa Ninh Vương (1725-1738) trở về trước, nhà chúa xưng là 公 = Công. Từ chúa Thế tông Võ vương (1738-1765) trở về sau, nhà chúa xưng là 王 = vương (Đại Nam thực lục tiền biên VHv.1320). Theo Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc), thì chúa Nguyễn xưng vương từ trước năm 1695.

Tài liệu tham khảo

1- Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, H. 1993.

2- Nguyễn Tài Cẩn. Một số vấn đề về chữ Nôm, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, H. 1985.

3- Nghiên cứu chữ Nôm. Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 2006.

4- Di văn thời Tây Sơn trên đất Thăng Long Hà Nội. Trần Nghĩa chủ biên, Nxb. Hà Nội, H. 2010.

5- Đại tự điển chữ Nôm. Vũ Văn Kính chủ biên, Nxb. Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, 1999.

6- Tự điển chữ Nôm. Nguyễn Quang Hồng chủ biên. Nxb. Giáo dục. H. 2006.

7- Đại tự điển chữ Nôm. Trương Đình Tín - Lê Quí Ngưu chủ biên, Nxb. Thuận Hóa, 2007.

Phụ lục

Tấu vái đức Hoàng thượng muôn muôn năm cao minh ngự lãm.

[1] Nay ngày mồng 6 tháng này chúng tôi cứ vào tờ trình của viên trấn trấn Lạng Sơn trả lời về tờ trát của quan Lương chính đường phủ Thái Bình thuộc nội địa (chỉ Trung Quốc), trong đó có đoạn: Vâng theo tờ chuẩn của quan đại hiến... có bọn nạn binh Phạm Duy Nạp gồm 5 tên gặp bão, theo lời khai binh lính của bản quốc thay ban trực trên đường trở về gặp bão phiêu dạt tới nước Nhật Bản. Họ được cứu sống đưa lên bờ rồi nhờ tầu buôn của Nội địa đem về đến cửa khẩu, theo lệ được chuyển giao về nước. Nhưng những binh lính này vào tháng năm nào được sai đi làm những công việc gì, ở đâu, vì sao lại bị phiêu bạt thì không được rõ. Viên trấn ấy ngay lập tức có tờ trát hỏi rõ lai lịch, đến sau ngày 15 tháng này viên trấn ấy có tờ trình phúc đáp quan phủ Thái Bình và sao lại gửi đính kèm với bản tâu gửi tỉnh Quảng Đông và sai người đi theo dẫn binh lính gặp nạn về thành.

[2] Chúng tôi đã sức lấy lời khai của những viên ấy. Chiếu theo lời khai thì viên Đội trưởng cơ Tả Thắng thuộc Hậu quân là Đặng Hữu Bôi, viên Đội trưởng Tiên nghi Phạm Văn Kính, Nguyễn Tài Lương viên Ngũ trưởng Nguyễn Duy Bảo, viên Đội trưởng Tiên nghi cơ Trung Thắng Ngô Văn Bình, vào năm Nhâm Thân vâng mệnh được sai phái đến lưu thú (đóng đồn) ở thành Gia Định. Ngày tháng 4 năm Ất Hợi được sai đi theo viên Trưởng hiệu thuộc nội quân Đằng Vân hầu cùng đi bè về kinh. Viên Đằng Vân hầu cùng quân lính ngồi trên một chiếc suồng kéo chiếc bè ấy, còn bọn (Bôi) theo viên Cai đội đội 3 Tiền hiệu cơ Tả Thắng tên Đống ngồi trên bè cùng với 47 người, đều cùng quây tròn trên chiếc ghe rời cảng. Chừng 2 đêm ngày thì gặp bão, chiếc suồng của Đằng Vân hầu ngồi ấy đứt dây, phiêu bạt đi đâu chẳng thấy, còn phiến bè theo gió trôi ra ngoài biển. Qua tháng trọng hạ (tháng 5) ngày mồng bẩy, bè ấy dạt vào chốn cồn cát giữa biển, chẳng biết xứ gì. Các viên quân ấy [ tr.3] lấy tre gai trên bè làm phao bơi vào cồn...... sau ngày mồng 8, thấy 6 người khách chống 2 chiếc thuyền ván đến đó nghe hỏi, chúng nó mà chẳng rõ tiếng,. lũ khách ấy lại chống thuyền ván đi. Đến ngày mồng 9, lại thấy lũ khách ấy chống thuyền ván đến đem cho viên quân ấy mỗi hai người một vắt cơm, một bát gạo, rồi khách ấy lại chống thuyền ván đi như trước. Những viên quân ấy ở lại cồn ấy bắt chim cùng hầu, ốc mà ăn đỡ đói. Qua ngày rằm tháng 6, các ông Đặng Hữu Bôi 5 người với Phạm Duy Nạp cùng Yên Hùng cộng 7 người trình với Cai đội Đống rằng ở đó lâu ngày thế cũng đói chết, chúng nó xin lấy những tre bè nổi trôi vào cồn ấy, kết làm một cái mảng đặng (để) chúng nó chống đi hoặc nhờ trôi dạt vào bờ tìm người ra cứu. Từ bữa rằm tháng ấy, chúng nó 7 người đem nước lửa cùng củi với tiền bạc, cùng 4 đạo văn sai khâm sai do Tả quân quan cấp cho chúng nó đều đem theo xuống mảng, chống ra khỏi cồn ấy. Theo mảng nước trôi chảy, thấy những cá nhẩy vào bè ấy, chúng nó... [tr.4] ăn đỡ đói, khi đó Phạm Duy Nạp cùng Yên Hùng bị đói ốm chết chỉ còn chúng nó 5 người. Qua tháng 8 ngày 13, mảng ấy dạt vào một chốn cù lao, thấy người ở đó cứu đem chúng nó lên chùa cho ở với cho cơm cháo ăn. Tỉnh lại, trong chúng nó có Nguyễn Duy Bảo biết chữ mới viết chữ hỏi người ở đó là xứ nào, thấy viết chữ đáp lại Nhật Bản quốc. Lại viết chữ hỏi chúng nó là người nước nào ? chúng nó viết chữ đáp lại Việt Nam quốc binh lưu thú hoán phiên phản hồi hải trình bị phiêu (Lính Việt Nam đi lưu thú, khi đổi phiên trên đường biển trở về bị phiêu bạt) rồi chúng nó viết chữ cậy người đó tìm đồ vật để dưới mảng ấy gồm 4 đạo văn sai với 4 đĩnh bạc, một quan tiền, một cái liềm. Ở đó được 3 ngày, người đó lại chở chúng nó đi, cách một ngày đêm đến chốn cù lao khác. Chúng nó viết chữ hỏi, thấy viết báo rằng xứ ấy hiệu là Trung quân, đêm cho chúng nó ở tại chùa chốn ấy, sai người coi giữ. cấp cho cơm ăn thuốc uống với phát cho mỗi người một cái áo gấm bông. Ở đó cách một tháng, lại thấy (... mất một dòng chữ) [tr.5] cho chúng ở chùa chốn ấy, có người coi giữ cấp cho ăn uống với phát cho áo cùng khố, dây lưng cho chúng nó mặc. Ở được 20 ngày, thấy quan quân chốn ấy phỏng 45 người khí giới hộ tống chúng nó ngồi kiệu đi bộ 5 ngày, kế đó đi thuyền, quan quân chia nhau ngồi trên 7 chiếc tầu, hộ tống chúng nó đi cách 11 ngày lại đến một chốn có thành quách, quan quân đô hội. Chúng viết chữ hỏi, đáp rằng Đại quan thành, bèn đem chúng nó vào vái. Đại quan thành ấy cấp cho một bữa yến thịnh soạn, rồi đem ra ở chốn ngoài thành theo cùng người sắc phục nội địa và cấp cho ăn uống như trước. Lại phát cho áo khăn, khố, quần, nệm gấm, mùng muỗi cho chúng nó, thường cấp cho than củi, nước sôi, trà, thuốc, vật dụng ăn uống đầy đủ, có quan quân coi giữ, chẳng cho đi đâu. Ở đó từ tháng 11 năm Ất Hợi, đến năm ngoái, chúng nó thường kêu khóc, xin cho về nước.Nhưng quan ở đó thay viết đáp rằng nước đó không có đường bộ thông với Việt Nam. Qua năm nay, thấy có tầu nội địa qua buôn bán, quan chốn ấy nói cùng các tầu trưởng nội địa [tr.6] làm sao thì chúng nó chẳng biết. Thấy tầu trưởng nội địa viết chữ báo danh Trầm Dung Đường bảo chúng nó khai tính danh rồi lĩnh chở về nội địa, báo quan tấu rõ chuyển đưa về nước nên chúng nó mới theo tên trong bốn đạo văn sai ấy. Đặng Hữu Bôi thì nhận khai lấy tên văn sai, Đặng Đình Hợp năm trước đổi cho tên ấy mang tên Nguyễn Duy Bảo khai nhận lấy tên văn sai. Trước đây Phạm Duy Nạp, Phạm Văn Kính, Nguyễn Tài Lương, mỗi người nhận theo tên của mình ghi trong văn sai. Còn Ngô Văn Bình thì không có văn sai nên khai thực tính danh. Trầm Dung Đường nhận lấy rồi sắm áo quần cho chúng nó đổi theo sắc phục nội địa, mà quan nước Nhật Bản lại phát vải cùng gạo, đồ ăn với giao văn sai cho mỗi người một đạo, cùng bạc nguyên chất 4 đĩnh, tiền một quan, liềm một chiếc để Trầm Dung Đường nhận về. Từ 28 tháng tư khởi hành ở nước Nhật Bảnđến 28 tháng trọng hạ mới đến huyện Bình Hồ tỉnh Triết Giang thuộc nội địa. Trầm Dung Đường cho chúng nó ở tại nhà chủ hàng, cấp dưỡng mà [tr.7]... (mất 1 dòng chữ). Chúng nó qua Hàng Châu, cho ở tại chùa, chu cấp, đến mồng tám tháng tám, nghe quan phủ ấy báo rằng việc đã tâu rõ, phát cấp hộ tống chúng nó về nước. Có tuần đi bộ có tuần đi thuyền, qua tháng 9 ngày 20 đến tỉnh thành Quảng Đông, tỉnh ấy cũng cho chúng nó ở tại chùa, gần thành ấy, cho ăn uống. Đến tháng 10 ngày 14, quan tỉnh thành ấy phát cấp thuyền hộ tống chúng nó theo đường thủy qua tỉnh thành Quảng Tây. Ở đó đặng 8 ngày, lại phát cho một chiếc thuyền hộ tống chúng nó. Ngày mồng 2 tháng này, đến trước phủ Thái Bình, rồi chuyển, hộ tống chúng nó đi đường bộ. Qua ngày mồng 6, về đến Nam Quan, giao cho viên Thủ ải nhận trình quan trấn Lạng Sơn. Quan trấn Lạng Sơn sai người dẫn về thành. Như từ huyện Bình Hồ đến phủ Thái Bình, đến Nam quan, trên đường đi, quan nội địa phát cấp cho chúng nó mỗi người mỗi ngày tiền một trăm văn để chi tiêu theo lệ. Điều mà chúng nó khai đại lược là như vậy. Vả lại chúng nó là binh lính của nước nhà từng đi làm lính thú nơi xa xôi, lại bị bão phiêu bạt ở nước ngoài, mấy năm việc chu cấp, nhờ nội địa chuyển đưa về nước. Chúng tôi chẳng giám [tr.8] cúi dâng tờ biểu và kính trình quan phủ Thái Bình 2 đạo trát văn, trong đó sau một đạo có đính kèm một bản tấu, và bốn đạo văn sai của bọn ấy đem theo cùng một bản ghi lời khai và sai người dẫn viên đội trưởng Đặng Hữu Bôi theo đường trạm về kinh chờ lệnh. Còn bọn Nguyễn Tài Lương 4 người đã sức cho quan viên địa phận ấy đưa về bản quán nghỉ ngơi. Chúng tôi thật lo thật sợ cúi vái.

Đức Hoàng thượng muôn muôn năm.

Ngày 10 tháng 12 năm Gia Long thứ 16 (1817).

Bề tôi Lê Tông Chất cẩn tấu./.

 

TS. PHẠM VĂN THẮM

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121) năm 2013, tr.58-65, phiên bản trực tuyến

 

20200426 3

Cuốn từ điển song ngữ Hán Việt cổ nhất hiện còn là Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa 指南玉音解義 (CNNAGN)lâu nay vẫn được coi là một nguồn tài liệu quý hiếm để khai thác tư liệu cho các lĩnh vực nghiên cứu về khoa học xã hội. Mặc dù đã được nhiều người quan tâm khai thác, nghiên cứu nhưng đến nay thấy vẫn còn những vấn đề về văn bản và giá trị của cuốn từ điển cần phải làm sáng tỏ thêm. Những vấn đề chúng tôi muốn trình bày trong bài viết này là về niên đại và thể thơ lục bát trong cuốn từ điển CNNAGN.

1. Về văn bản của CNNAGN

Chúng tôi muốn trình bày thêm về văn bản của CNNAGN vì nó liên quan đến sự xuất hiện của thể thơ lục bát cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV.

Cho đến nay, số lượng dị bản CNNAGN hiện còn vẫn là 7 văn bản trong đó có 5 bản khắc in và 2 bản chép tay. Các bản in gồm:

- Bản lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu AB.372.

- Bản tại tư gia PGS.TS Ngô Đức Thọ

- Bản tại tư gia GS. Nguyễn Tài Cẩn

- Bản tại tư gia ông Phùng Uông

- Bản tại Thư viện Société Asiatique (Hội Á châu, Paris), ký hiệu HM.2225.

Hai bản chép tay là: bản ký hiệu AB.163 do Viện Viễn đông Bác cổ thuê chép; bản ký hiệu VNv.201 tiếp thu từ thư viện Long Cương của Cao Xuân Dục. Đã có nhiều nhà nghiên cứu xưa, nay đề cập đến văn bản CNNAGN như: Nguyễn Văn San (1880), Sở Cuồng Lê Dư (1932), Trần Văn Giáp (năm 1968), Đào Duy Anh (1985), Trần Xuân Ngọc Lan (1985), Lê Văn Quán, Ngô Đức Thọ (2006),... Mỗi người đề cập đến CNNAGN ở một góc độ khác nhau và ai cũng có đề cập đến vấn đề niên đại văn bản. Điều mà mọi người cùng quan tâm là vấn đề năm "năm Tân Tỵ" ở dòng cuối cùng của bài tựa chữ Hán. Ý kiến gần đây nhất, năm 2006, cho rằng CNNAGNcó niên đại năm Tân Tỵ 1401. Chúng tôi cũng có một số bài tạp chí và tham luận Hội nghị Thông báo Hán Nôm học có nội dung xung quanh vấn đề văn bản của CNNAGN(1). Gần đây, trong bản tham luận Một chứng tích về sự xuất hiện của thể thơ lục bát thời kỳ đầu, kỷ yếu Hội nghị Thông báo Hán Nôm học năm 2011 (tr.796-804), chúng tôi mới chỉ trình bày thông báo một cách tóm lược ý kiến của mình về văn bản CNNAGNliên quan đến thể thơ lục bát.

2. Tên sách Chỉ nam phẩm vựng 指南品彙 (CNPV) và CNNAGNlà tên của một bộ sách qua các lần truyền bản khác nhau. Ở bộ sách từ điển này cần có sự phân biệt rạch ròi về mặt niên đại và tính chất văn bản khi nó mang tên gì. Có như vậy mới thấy hết được những giá trị tiềm ẩn trong văn bản tác phẩm.

Trong các bài tham luận đăng tải trên Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học chúng tôi đã trình bày khá rõ ý kiến của mình về mối quan hệ giữa tên sách ngoài bìa CNNAGNvà tên sách ghi trong 2 bài tựa đầu sách Chỉ nam 指南, CNPV. Bài tựa Nôm gọi quyển Chỉ nam 指南(Bèn dọn quyển Chỉ nam này) là nói tắt tên sách CNPV, tên này được ghi rõ trong bài tựa chữ Hán. Tên sách CNNAGNlà tên gọi sau khi nhà sư nào đó đã từ sách CNPV "lựa lọc từng chữ, chua âm đọc, giải nghĩa đen từng chữ, tay viết thành quyển sách". Bởi vậy niên đại của sách CNPV và CNNAGNlà ở hai thời điểm khác nhau. Hơn nữa nếu đọc qua 2 bài tựa sẽ thấy tiếp theo là phần mục lục đề CNNAGNvà hết phần mục lục đến phần nội dung từ điển thì thấy ngay dòng chữ Trùng thuyên Chỉ nam phẩm vựng dã đàm tịnh bổ di đại toàn 重鐫指南品彙野談并補遺大全. Thiết tưởng dòng chữ này đã nói rõ sự trùng thuyên và bổ di của CNNAGN.

3. CNPV có phải có từ thời Sĩ Vương ?

Trong bài tựa chữ Hán có đoạn nói về quyển CNPV: "... Chí ư Sĩ Vương chi thời, di xa tựu quốc, tứ thập dư niên, đại hành giáo hóa, giải nghĩa Nam tục, dĩ thông chương cú, tập thành quốc ngữ thi ca, dĩ chí hiệu danh, vận tác Chỉ nam phẩm vựng, thượng hạ hai quyển, học giả nan tường... 至於士王之時移車就國四十餘年大行教化解義南俗以通章句 tập 成國語詩歌以成號名韻作指南品彙上下二卷學者難詳 ..." (Đến mãi thời Sĩ Vương sang đóng ở nước ta, trong khoảng hơn 40 năm, đem giáo hóa phổ biến khắp nơi, giải nghĩa bằng tiếng Nôm để thông hiểu từng đoạn, từng câu, họp lại thành thơ ca quốc ngữ, để ghi tên gọi, ghép vần làm thành sách CNPV, chia ra thượng hạ hai quyển, nhưng người học khó hiểu rõ được... - Trần Văn Giáp dịch)(2). Ở đoạn này, bài tựa chữ Hán cho thông tin: sách Chỉ nam phẩm vựng được làm từ thời Sĩ Vương. Mà ta biết Sĩ Vương là tên gọi tôn xưng của Sĩ Nhiếp, người thời Đông Hán sang làm Thái thú quận Giao Chỉ từ năm 187. Vì có công khai hóa, mở mang, mở trường dạy chữ Hán cho dân nên được dân yêu quý tôn gọi là Sĩ Vương, là "Nam Giao học tổ". Cũng chính từ thông tin này, một số người cho rằng chữ Nôm có từ thời Sĩ Nhiếp. Đó là Nguyễn Văn San (1880), Sở cuồng Lê Dư (1932) rồi sau này là Nguyễn Đổng Chi, Trần Văn Giáp, Hoàng Trọng Miên, Nghiêm Toản... Hiện nay với nhiều thành tựu nghiên cứu về chữ Nôm và tiếng Việt cổ đã cho phép phủ nhận điều đó. Chữ Nôm có thể được hình thành sớm hơn nhưng chỉ có thể thành một hệ thống văn tự ở thế kỷ XII. Bởi vậy theo chúng tôi, nếu CNPV có từ thời Sĩ Nhiếp thì đó cũng chỉ là một công trình giống như sách An Nam dịch ngữ 安南譯語và phải đến thế kỷ XIII-XIV, CNPV mới có khả năng có phần giải nghĩa bằng chữ Nôm. Chữ Nôm lúc này sẽ có tự dạng của chữ Nôm thời sơ kỳ, ghi tiếng Việt cổ khi còn rất đậm yếu tố tiền âm tiết và thành tố thứ nhất của tổ hợp phụ âm đầu, đó là dạng chữ Nôm dùng 2 mã chữ Hán riêng biệt để ghi một tiếng Việt, loại chữ này xuất hiện ở giai đoạn đầu của lịch sử phát triển chữ Nôm(3). Bản CNNAGNđã được một nhà sư "dọn", "lựa lọc" từng chữ và hoàn thành vào khoảng cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII. Chúng tôi cho đó là một cuộc "cách mạng" về văn tự, tức là có sự loại bỏ những yếu tố rườm rà không còn chức năng văn tự trong chữ Nôm (ở đây là quá trình loại bỏ mã chữ thứ nhất trong loại chữ Nôm cổ dùng 2 mã chữ tách rời để ghi một tiếng Việt). Cứ theo như trong bài tựa chữ Hán thì CNPV có từ thời Sĩ Vương, điều có cũng có thể bởi vì dấu vết của chữ Hán cổ còn lại rất đậm trong văn bản. Có lẽ chưa thấy một văn bản nào có hiện tượng này. Chúng tôi cho rằng vì mãi đến giữa thế kỷ XVIII người ta mới "dọn" quyển CNPVthời đó nhìn vào thứ chữ lạ cách hàng 4, 5 thế kỷ sẽ không khỏi cảm nhận là sách có từ thời rất xa xưa, từ thời Sĩ Nhiếp. Nhưng những dấu vết còn lại của chữ Nôm và tiếng Việt cổ trong bản CNNAGNlà những chứng tích của truyền bản CNPV ở thế kỷ XIV, đầu thế kỷ XV như chúng tôi đã trình bày trước đây. Cho đến nay, đã có thêm cứ liệu do Ngô Đức Thọ cung cấp để có thể đi đến nhận định rằng CNNAGNlà kết quả của việc "dọn", "lựa lọc"... từng chữ từ một truyền bản CNPV ở thời nhà Hồ, đời Hồ Hán Thương. Chúng tôi sẽ trình bày rõ điều này ở phần sau.

4. Về dòng niên đại ghi ở cuối bài tựa chữ Hán và vấn đề "năm Tân Tỵ"

Ở đầu sách CNNAGNcó 2 bài tựa: bài đầu tiên viết bằng chữ Nôm theo thể thơ song thất lục bát và lục bát. Bài thứ 2 tiếp sau bài thứ nhất là bài tựa viết bằng chữ Hán. Cuối bài tựa chữ Hán là dòng ghi niên đại. Dòng ghi niên đại này không có sự nhất quán trong các bản in. Các bản chỉ ghi Niên thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 年次辛巳孟春穀日(Ngày tốt, tháng Giêng, năm Tân Tỵ) là: bản Viện Nghiên cứu Hán Nôm, bản của Ngô Đức Thọ, bản của Nguyễn Tài Cẩn. Các bản có ghi rõ Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập nhị niên tuế thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 皇朝景興二十二年歲次辛巳孟春穀日(Hoàng triều niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22, năm Tân Tỵ, tháng Giêng, ngày tốt) là bản của Hội Á châu và bản của ông Phùng Uông. Năm Tân Tỵ, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 là năm 1761. Từ 2 dòng ghi niên đại trên đã có những ý kiến khác nhau xung quanh vấn đề năm Tân Tỵ. Nhà nghiên cứu Trần Văn Giáp cho năm 1761 là năm hoàn thành việc sửa chữa CNPV thành CNNAGN. Trần Xuân Ngọc Lan thống kê một loạt các năm Tân Tỵ và cho một cái mốc giới hạn về năm Tân Tỵ sớm nhất là năm Tân Tỵ 1461 và muộn nhất là năm Tân Tỵ 1761(4). Lê Văn Quán cho CNNAGN xuất hiện "phải sau thế kỷ XVI"... Gần đây nhất, năm 2006, Ngô Đức Thọ cho rằng năm Tân Tỵ là năm 1401, "năm khắc in Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa"(5). Về vấn đề năm Tân Tỵ chúng tôi thấy như sau:

Trong CNNAGN, Trần Xuân Ngọc Lan đã khảo sát, mô tả rất rõ tình hình đặc điểm của tất cả các truyền bản CNNAGNhiện còn. Sau khi thống kê sự khác nhau giữa các tờ trong các bản, tác giả đã căn cứ vào sự giống nhau và tính kế thừa thể hiện rõ trong các trang không có sự khác nhau (tr.15 Sđd) để cho rằng: bản Thư viện AB.372 được khắc in trước, sau đó bộ ván bị hỏng 3 tấm, người ta khắc 3 tấm mới thay vào rồi in bản Nguyễn Tài Cẩn. Sau lượt này lại có 43 tấm ván nữa bị hỏng, người ta lại khắc 43 tấm mới thay vào rồi in bản Hội Á Châu. Chúng tôi đã rà soát lại và thấy nhận định đó là thuyết phục. Theo thiển ý của chúng tôi thì năm Tân Tỵ ở tất cả các truyền bản đều vẫn chỉ là năm Tân Tỵ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 22 mà thôi. Bởi vì các lý do sau:

+ Chỉ có một bộ ván khắc in, bộ ván đó được in lại nhiều lần, mỗi lần lại có sự loại bỏ những tấm hỏng, bổ sung những tấm mới.

+ Ngay sau khi hoàn thành việc sửa chữa dạng chữ, soạn giả đã cho khắc in bản CNNAGNđầu tiên, bản này có bài tựa được viết theo thể song thất lục bát và lục bát theo phong khí thơ lục bát của cuốn từ điển. Trong bài tựa bằng thơ này, soạn giả nói rõ lý do làm sách vì:

Trời sinh thánh chúa vạn niên

Cắp tay xem trị bốn bên thuận hòa

Vương phi Thái tử hoàng gia

Nam Sơn chúc tuổi chúa Bà nghìn xuân...

Sau đó, soạn giả tự giới thiệu về mình và công việc làm sách:

Trẻ từng vả đấng khoa danh

Già lên cõi thọ tìm doành bụt tiên

Tụng kinh đọc sách thánh hiền

Tải thông ba giáo dự trên sánh bày

Bèn dọn quyển Chỉ nam này...

Hồng Phúc danh Hương Chân pháp tính

Bút hoa bèn mới đính nên thiên

Soạn làm chữ cái chữ con

San bản lưu truyền ai được thì thông

Sau đó, soạn giả nói rõ lý do làm sách và kết quả công việc là:

Vốn xưa làm Nôm xa chữ kép

Người thiểu học khôn biết khôn xem

Bây giờ Nôm dạy chữ đơn

Cho người mới học nghỉ xem nghỉ nhuần...

Cuối cùng, soạn giả nói rõ ích lợi của việc đọc quyển sách "xem bằng ngọc vàng" này. Bài tựa bằng thơ giống như lời tự sự, tâm sự của soạn giả sau khi hoàn thành một công việc đầy khó khăn nhưng có ý nghĩa lớn lao. Sau bài tựa Nôm bằng thơ, soạn giả lại viết tiếp một bài tựa nữa bằng chữ Hán. Bài này được viết với nội dung như thông lệ của một bài tựa khi khắc in một quyển sách. Nội dung bài tựa chủ yếu nói về việc làm sách, nói rõ những điều mà bài tựa chữ Nôm chưa nói hết ý. Cuối cùng là dòng ghi niên đại của cả hai bài tựa Niên thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 年次辛巳孟春穀日(Ngày tốt tháng Giêng năm Tân Tỵ). Vì sách được làm để cho người đương thời học nên không cần ghi cụ thể, chỉ cần ghi như thế ai cũng biết là năm Tân Tỵ nào, thuộc thời nào rồi. Hiện tượng gọi là "thánh, chúa", "chúa Bà" trong bài tựa Nôm là cách gọi suy tôn những người đang còn sống ở thời vua Lê chúa Trịnh. Ví dụ như trong Thiên Nam minh giám天南明鑑, Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh安子山竹林陳朝禪宗本行, Đông Tác Nguyễn Đại vương bản truyện diễn âm 東作阮大王本傳演音...

Ta biết trong vòng 60 năm mới có một năm Tân Tỵ. Do nhu cầu sách cho người học nên cần phải in lại sách nhiều lần. Ván in lại được chứa ở một nơi, mỗi lần đem in thấy tấm ván nào hỏng thì chỉ việc khắc lại tấm mới thay vào bởi vậy mới có hiện tượng các bản in có số tờ khác nhau. Phần không hỏng, trong đó có tờ in dòng niên đại cứ thế tồn tại. Cho đến khi bộ ván hỏng quá nhiều, tới 43 rồi 45 tấm trong đó có cả tấm ghi niên đại, lúc này thì năm Tân Tỵ cũng đã xa dần và có thể sắp hết vòng 60 năm nên cần phải ghi rõ để truyền bản cho đời sau khỏi nhầm. Có lẽ vậy nên đến khi khắc in bản Hội Á Châu và bản của ông Phùng Uông, người ta đã cho khắc thêm cho rõ thành Hoàng triều Cảnh Hưng nhị thập nhị niên tuế thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật 皇朝景興二十二年歲次辛巳孟春穀日.

Trong bài Thông tin mới nhất về CNNAGN(Sđd), Ngô Đức Thọ đã đưa ra chữ húy Hỏa là húy tên cũ của Hồ Hán Thương để chứng minh CNNAGNcó niên đại vào năm Tân Tỵ (1401). Điều đó rất có giá trị ở chỗ đã chỉ ra dấu vết của một văn bản tồn tại ở đầu thế kỷ XV, đời Hồ Hán Thương. Chữ huý Hỏa lại nằm trong phần chữ Hán của mục từ nên chỉ có mục từ chữ Hán là còn bảo lưu dấu vết của văn bản Chỉ nam phẩm vựng ở thế kỷ XV. Vì Hồ Hán Thương ở ngôi 6 năm nên truyền bản CNPV mà soạn giả dùng để sửa chữa dạng chữ thành CNNAGNcó niên đại vào khoảng những năm từ 1401 đến 1406, đời Hồ Hán Thương. Như vậy năm Tân Tỵ được ghi một cách "tắt" là Niên thứ Tân Tỵ mạnh xuân cốc nhật cũng chính là năm 1761, niên đại của "Minh giám bản" CNNAGN.

5. Cấu trúc của cuốn từ điển

Về cơ cấu và nội dung cuốn từ điển, Trần Xuân Ngọc Lan đã trình bày khá rõ trong công trình CNNAGN (tr.17-33 Sđd), chúng tôi xin phép không nhắc lại. Ở đây chỉ xin lưu ý trong nội dung của từ điển gồm có 2 phần: phần chính văn và phần Bổ di. Theo thống kê của Trần Xuân Ngọc Lan, tất cả có 3394 mục từ.

Phần chính văn: phần chính văn của từ điển là phần vốn có từ CNPV, gồm 41 chương, bộ. Trong đó có 38 chương bộ giải nghĩa từ theo lối văn vần lục bát.

Ngoài phần chính văn có phần Bổ di. Tổng số có 35 Bổ di. Hầu như các chương, bộ đều có phần Bổ di để bổ sung cho các mục từ còn thiếu sót trong CNPV. Các Bổ di là do người sau bổ sung thêm vào nên được trình bày bằng văn xuôi Nôm.

Như vậy phần chính văn bằng lục bát trong CNNAGNgiữ lại nguyên diện mạo thơ lục bát của CNPV đầu thế kỷ XV. Người biên soạn chỉ sửa dạng chữ Nôm để người đương thời đọc hiểu còn lời thơ, vần thơ, nhịp điệu và nội dung của các câu thơ vẫn được bảo lưu một cách trung thực. Điều này, dòng chữ dọc, phía bên phải của trang bìa Thuật thánh hiền chi thược vận 述聖賢之龠韻đã nói rõ, chính là thuật lại sách CNPV bằng thơ ca gồm 2 quyển thượng hạ.

Như vậy, có thể thấy thể thơ lục bát đã xuất hiện trong CNPV từ đầu thế kỷ XV, đời Hồ Hán Thương (1401-1406), sớm hơn bài Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn của Lê Đức Mao (1462-1529) khoảng 1 thế kỷ. Đó cũng là một giá trị đáng kể của văn bản từ điển CNNAGN.

6. Sơ bộ về diện mạo thể thơ lục bát đầu thế kỷ XV qua văn bản CNNAGN

Các mục từ trong phần chính của từ điển CNNAGNbao gồm cả mục từ Hán và phần giải nghĩa Nôm đều được trình bày dưới hình thức thơ lục bát. Ví dụ:

Thiên văn trước nói cho hay

Hồng quân trời cả cao thay trùng trùng

Kim ô mặt trời sáng hồng

Thiềm luân nguyệt sáng trên không làu làu (Thiên văn chương đệ nhất)

Đại địa đất cả rộng dầy

Đại Lỗ rét rày phèn nổi đất chua

Thổ khối hòn đất rắn khô

Đại phụ là đống tô mô giữa đồng

(Địa lý bộ đệ nhị)

Để rõ hơn về diện mạo của thơ lục bát cổ cuối thế kỷ XIV - đầu thế kỷ XV qua dấu tích còn lại trong CNNAGN, chúng tôi đã sơ bộ khảo sát và thấy như sau:

Trong phần giải nghĩa có rất nhiều câu thơ lủng củng, cách gieo vần và phối điệu lỏng lẻo, gượng ép, chưa nhuần nhuyễn. Hiện tượng phổ biến là câu thơ được gieo vần lưng, tiếng thứ 6 của câu lục được gieo vần với tiếng thứ 4 câu bát. Câu lục có khi 7 tiếng; câu bát có khi 9, 10 tiếng. Có thể thấy những điều đó qua một số đoạn thơ sau :

- Hoàng già là hột cà vàng,

Lang đãng danh rằng cà độc dược độc song.

- Thác lô câu kỷ hột ngâu

Hột cải lú bú hiệu là hồ lô ba thuở này...

Thạch liên nhục hiệu là hột sen

Gương khô lại có rằng cựu liên

(Nam dược loại đệ tứ thập)

- Ô cẩm gấm đen bằng mây

Trầm hương gấm này là mùi khói hương

Đâu la gấm tốt dịu dàng

Kẻ xưa truyền rằng là gấm trần đâu

- Thiên nga nhung khéo dệt nên

Là thúc trắng sánh liên da trời

(Cẩm tú bộ đệ thập)

Trong CNNAGN có thể tìm thấy rất nhiều đoạn dài chỉ thấy hơi hướng âm điệu của thơ lục bát còn vần và nhịp điệu thì có sự sai lạc rất nhiều. Ví dụ:

Bảo giám gương sáng làu làu

Cổ kính gương cũ để lâu chăng nhìn

Thố quang gương có hiệu là bạch chiêu

Lại là huyền tích hoà phen thuỷ ngân

Thao quang chùi sáng thập phân

Cổ kính mai trần kính đài sa gương

Luân sơ lược chải đầu tiên

Phòng khi xởn tóc gỡ liền lại xong

Cơ sơ lược sừng nhỏ răng

Trúc sơ lược bí có bằng cái go

Tiểu hạp tử lục sáp thơm tho

Tiếp tử díp sắt để hoà nhổ râu...

(Khí dụng loại nhị thập nhất)

Ngôn ngữ trong thơ lục bát CNNAGN thuộc loại nhiều từ cổ nhất, đặc biệt có nhiều từ rất hiếm thấy ở thế kỷ XVII về sau(5). Theo thống kê của chúng tôi, ít nhất trong văn bản có 218 từ cổ. Ví dụ từ cổ xuất hiện trong các câu sau:

- Đến đâu lớp lớp no đôi

Ăn mày lộc vợ hổ ngươi thay là

- Cái dạm hiệu óc kỳ bành

Chấp hỏa, ủng kiếm cũng danh cái còng

(Lân trùng loại đệ tam thập tam)

-Côn đang là xống đàn bà

Quấn ngang bẩy bức giao gia phủ tràn

Gian quần sặc sỡ quần gian

Du cù là bức lót giường nằm.

(Y quan bộ đệ cửu)

Tỵ lương dọc mũi giữa nơi trung đình

Có hiệu niên thọ cực lành

Dài hơn chốn ấy thì mình yêu đang

Khoáy trán hiệu óc thái dương

Dưới cằm ấn đường hai mày giáp nhau

Mâu tử là đôi con sâu

Coi sáng làu làu trong nữa ngọc thu

(Thân thể bộ đệ tứ)

Lời thơ trong từ điển cũng rất mộc mạc, giản dị, đặc biệt còn giữ lại cách đọc cổ (đọc thành 2 âm tiết một từ), ví dụ:

Hải tảo rong bể rập rềnh

La đá dưới nước mọc quanh xanh rì. (Nam dược loại đệ tứ thập)

Bàn thạch la đá cả thay

Chỉ trụ la núi mọc bầy giữa sông

Thạch khối hòn la đá chồng

(Địa lý bộ đệ nhị)

Có khi việc sửa lại dạng chữ chưa nhất quán thể hiện ở chỗ một số từ song âm tiết khi thì loại bỏ, khi thì giữ lại yếu tố tiền âm tiết như trong câu:

Thư thiều la núi đất cực thung

Thôi ngôi núi đá sánh cùng cao xây

(Địa lý bộ đệ nhị)

Nhìn chung, thơ lục bát trong CNNAGN khá cổ kính. Nếu so về sự mượt mà, chau chuốt trong lời thơ và sự nhịp nhàng uyển chuyển trong vần điệu của thơ lục bát trong Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa với các tác phẩm lục bát Nôm gần thời điểm như Yên Tử sơn Trúc Lâm Trần triều Thiền tông bản hạnh (cuối thế kỷ XVII - Đầu thế kỷ XVIII), Thiên Nam ngữ lục (cuối thế kỷ XVII), Cổ Châu Phật bản hạnh (1752), Quốc âm sự dẫn của Nguyễn Hy Quang (cuối XVII).... ngay cả so với Đào Nguyên hành của Phùng Khắc Khoan và Việt sử diễn âm, (thế kỷ XVI) thì quả là có một khoảng cách khá xa.

Thể thơ lục bát là một trong hai thể thơ dân tộc được sử dụng có lẽ nhiều nhất trong thơ Nôm Việt Nam. Nó đắc dụng trong các diễn ca lịch sử, truyện Nôm và diễn ca các loại kinh sách, thơ giáng bút... Cùng với sự phát triển ngày càng phong phú của ngôn ngữ tiếng Việt, thể thơ lục bát ngày càng hoàn thiện và có những thành tựu là đỉnh cao của văn học trung đại Việt Nam như Truyện Kiều của Nguyễn Du, có những tác phẩm đồ sộ trên 8000 câu thơ như diễn ca lịch sử Thiên Nam ngữ lục. Nhưng ở ngọn nguồn của thể loại thơ lục bát, mới biết đến CNPV ở đầu thế kỷ XV thì diện mạo của thể thơ là như chúng tôi sơ bộ giới thiệu. Nếu đến đầu thế kỷ XV, đã có một tác giả có cảm hứng sử dụng thể thơ lục bát như trong CNPV để lại dấu vết trong CNNAGN thì ta có quyền nghĩ thể thơ này có lẽ còn xuất hiện sớm hơn nữa, hy vọng có tư liệu để chứng minh cho điều đó.

PGS.TS. Hoàng Thị Ngọ

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (115) 2012; tr.12-19.

 

-----------

Chú thích:

(1) Xin xem: Hoàng Thị Ngọ: Một cách hiểu về khái niệm "chữ đơn", "chữ kép" trong bài tựa cuốn Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa - Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học năm 1997, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 1998. Hoàng Thị Ngọ: Suy nghĩ thêm về tác giả và thời điểm xuất hiện của tác phẩm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa - Kỷ yếu Thông báo Hán Nôm học năm 2000, tr.325-340, Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản năm 2001.

(2) Xin xem Trần Văn Giáp: Lược sử vấn đề chữ Nôm, Bản thảo, Phòng tư liệu Viện Sử học.

(3) Xin tham khảo thêm Hoàng Thị Ngọ: Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Nxb. KHXH, H. 1999.

(4) Xin xem Trần Xuân Ngọc Lan: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985, tr.16.

(5) Xin xem Ngô Đức Thọ: Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm, Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 2006, tr.299.

Tài liệu tham khảo chính

1. Trần Văn Giáp: Lược khảo vấn đề chữ Nôm từ khởi thủy đến thế kỷ XIX - Bản thảo, 1968, Phòng tư liệu Viện Sử học.

2. Đào Duy Anh: Chữ Nôm - Nguồn gốc Cấu tạo Diễn biến, Nxb. KHXH, H. 1975.

3. Trần Xuân Ngọc Lan: Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa, Nxb. KHXH, H. 1985.

4. Nguyễn Xuân Diện: Những phát hiện về Lê Đức Mao và bài "Đại nghĩ bát giáp thưởng đào giải văn". Trong sách Ca trù nhìn từ nhiều phía, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2003, tr.504-527.

5. Ngô Đức Thọ: Thông tin mới nhất về Chỉ nam ngọc âm. Trong sách Nghiên cứu Chữ Nôm, Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế về Chữ Nôm, Nxb. KHXH, H. 2006, tr.299-313.

6. Các bản Nôm Chỉ nam ngọc âm giải nghĩa./.

 

Quảng Trị thường được nhắc nhớ nhiều bởi đây là mảnh đất khô cằn, nắng gió khắc nghiệt. Trong quá khứ, Quảng Trị là địa bàn quần tụ đông đảo các lớp cư dân bản địa, là nơi đứng chân lập nghiệp của rất nhiều thế hệ lưu dân Việt trên bước đường khẩn hoang lập làng.

20190204 Trao Trao

Miếu “Trảo Trảo phu nhân” nằm trên một bãi cát ven sông Thạch Hãn về phía Tây, thuộc địa phận của làng Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong - Ảnh: thegioidisan.vn

Xuyên suốt chiều dài lịch sử, hơn 700 năm hình thành phát triển, Quảng Trị là chứng nhân của biết bao sự đổi dời của thế cuộc, nhưng đồng thời là vùng đất lưu giữ đậm nét nhiều giá trị văn hóa truyền thống rất đặc trưng.

Phải chăng những kiến tạo về điều kiện địa lý tự nhiên vốn đã sắp đặt và ấn định cho vùng đất nơi đây nắm giữ vai trò và vị thế hết sức to lớn trong dòng chảy lịch sử dân tộc. Từng được xem là vùng biên viễn của Đại Việt dưới thời Trần - Hồ, đến thời chúa Nguyễn, Quảng Trị là nơi dừng chân dựng nghiệp của Tiên chúa Nguyễn Hoàng, mở đầu cho công cuộc mở đất về phương Nam.

1. Thần tích về Nữ thần Trảo Trảo

Sau năm 1306, Quảng Trị, một phần của hai châu Ô - Lý được sáp nhập vào bản đồ Đại Việt, kể từ đây lớp lớp thế hệ người Việt vì nhiều lý do khác nhau lần lượt chọn miền “non Mai sông Hãn” làm điểm tụ cư, khai thiết xã hiệu. Dải đất Quảng Trị trước đó là Ô châu ác địa, sau hơn hai trăm năm khai hoang trở nên trù phú. Năm 1558, Đoan Quận công Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa. Cùng đi với ông đợt này là những người “bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những nghĩa dũng xứ Thanh Hoa1 . Trong suốt 55 năm trấn trị ở Thuận Hóa dưới thời chúa Nguyễn Hoàng, Quảng Trị 3 lần được chọn làm dinh phủ của cả xứ Đàng Trong: Ái Tử [1558 - 1570], Trà Bát [1570 - 1600], Dinh Cát [1600 - 1626].

Qua các thư tịch, chúng ta biết rằng, Trảo Trảo phu nhân được chính thức thờ tự dưới thời chúa Nguyễn Hoàng, gắn liền với công lao của vị nữ thần trong trận chiến giữa đoàn quân của chúa Tiên với vị tướng Lập Bạo.

Sách Đại Nam thực lục tiền biên 大南寔錄前編 cho biết: Vào tháng 07 năm Nhâm Thân [1572], tướng Mạc lúc bấy giờ là Lập Bạo chiêu mộ binh dân ở châu bắc Bố Chính dẫn theo 60 binh thuyền vượt biển vào đánh cướp, đóng trại từ con đường xã Hồ Xá đến đền Thanh Tương, xã Lãng Uyển. Nhận được tin báo, chúa tôi mới hội bàn. Biết thế giặc đang mạnh, chúa cho cắt cử quân lính bố phòng, ra sức trấn giữ, đóng trại ở bờ sông Ái Tử. Đêm nghe từ lòng sông có tiếng kêu “trao trao”, bèn lấy làm lạ, kinh ngạc vô cùng. Nghĩ ngợi một lúc, chúa mới khấn rằng: Thần sông có thiêng thì giúp ta đánh giặc.

Đêm hôm đó, chúa ngủ mộng thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay cầm quạt the, đến trước mà nói rằng “minh công muốn trừ giặc thì nên dùng mỹ kế dụ đến bãi cát, thiếp xin giúp sức”. Tỉnh dậy, chúa ngẫm nghĩ rằng ta nên dùng kế mỹ nhân. Trong số thị nữ có nàng Ngô thị, tên là Ngọc Lâm, người làng Thế Lại có sắc đẹp và mưu cơ biện bác. Chúa sai nàng đem vàng lụa đi dụ Lập Bạo, nhân đó mà bày bố phục binh, đào hầm ẩn nấp quân sĩ. Đúng như dự kiến, Lập Bạo vì mải mê sắc đẹp mà quên mất cả chuyện đề phòng. Sau trận thắng ấy, để tưởng nhớ ơn đức của thần, chúa mới phong thần sông làm “Trảo Trảo Linh Tưu Phổ Trạch Tương Hựu phu nhân 封江神為爪爪靈湫普澤相佑夫人立祠祀之”2 và cho lập đền thờ3 .

Nam triều công nghiệp diễn chí 南朝功業演志, một trong những bộ tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng, được biên soạn dưới thời chúa Nguyễn do công thần Bảng Trung hầu Nguyễn Khoa Chiêm 榜中侯阮科占 chấp bút, mô tả rất kỹ trận chiến đánh bại tướng Lập Bạo. Theo Nguyễn Khoa Chiêm, sau khi thắng trận trở về, chúa cho mở tiệc khoản đãi binh sĩ, để tưởng nhớ công lao của thần Trảo Trảo, chúa “sai người tu sửa miếu Trảo Trảo, phong hiệu cho vị thần ấy là Linh Thu Phổ Trạch Tướng Hựu phu nhân, bốn mùa thờ phụng. Chúa nghĩ đến công lao của nàng hầu Ngô thị muốn đền đáp trọng hậu4 .

Thần tích về tín tục thờ Trảo Trảo phu nhân về sau dưới thời nhà Nguyễn được khá nhiều tư liệu đề cập, như: Đại Nam nhất thống chí, Viêm giao trưng cổ ký của Cao Xuân Dục. Trong sách Đại Nam nhất thống chí 大南一統志 [tỉnh Quảng Trị, mục Đền miếu] còn cho biết thêm, sau khi dẹp giặc, sắc phong cho thần làm Phu nhân, lập đền thờ tại chỗ, đến “Năm Gia Long thần được thờ vào miếu Hội đồng. Năm Minh Mạng thứ 5 [1824] gia tặng Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Linh Trợ Thuận Trai Thục trung đẳng thần. Gặp đại hạn cầu mưa rất linh ứng. Năm Thiệu Trị thứ 2 [1842] ngự giá ra bắc, vua có làm bài thơ khắc lên bia để ghi sự tích 嘉隆年間列祀會同廟, 明 命 五年加贈柔和端懿昭 靈助順齋淑中等神旱 禱 輒應,紹治二年北巡聖製 詩祀其事勣碑誌 之5 .

20190204 Trao Trao 2

Trích xuất trang ghi chép thần tích Trảo Trảo phu nhân trong “Đại Nam nhất thống chí”

Sách Viêm Giao trưng cổ ký 炎郊徵古 記 của Tổng tài Quốc sử quán, Hiệp biện Đại học sĩ, An Xuân nam Cao Xuân Dục soạn vào năm Thành Thái thứ 12 [1900] 國 史館 總裁協辨大學士安春男高春育 ý trong phần chép về cổ tích tỉnh Quảng Trị, có đoạn “Đền Trảo Trảo phu nhân tại xã Ái Tử, huyện Đăng Xương, thờ thần là Trảo Trảo Linh Thứu Phổ Trạch Tương Hựu phu nhân […] đánh thắng trận ấy, phong cho nàng làm phu nhân, dựng ngôi đền ở bên tả ngạn để thờ. Đời Minh Mệnh có gia ban sắc phong6 .

Dẫn giải từ những nguồn tư liệu trên, có thể nói rằng tục thờ Trảo Trảo được khởi lập dưới thời Nguyễn Hoàng nhằm tôn vinh vị nữ thần có công tích hết sức to lớn. Qua đó cho thấy hình ảnh bà Trảo Trảo có mối quan hệ mật thiết với sự nghiệp khai thiết xứ Đàng Trong trong buổi đầu đầy gian nan thử thách. Xung quanh câu chuyện Trảo Trảo phu nhân với ít nhiều yếu tố huyền thoại, phải chăng đó là dụng ý nhằm cố kết và thu phục nhân tâm, đồng thời truyền tải thông điệp chính thần linh đã “ủy quyền”, chỉ định cho chúa Nguyễn Hoàng là vị chân chúa thực sự.

Đền thờ Trảo Trảo phu nhân là “công trình tâm linh” đầu tiên sau ngày vào Nam lập nghiệp của chúa Nguyễn Hoàng. Từ việc huyền thoại hóa 7 vò nước trong của Nguyễn Ư Dĩ, đến năm 1601 cho thiết lập chùa Thiên Mụ trên đồi Hà Khê gắn liền với huyền tích Bà Trời Áo Đỏ là chuỗi sự kiện phảng phất màu sắc chính trị, nhằm khẳng định sự chính danh của chúa Nguyễn Hoàng trong công cuộc cai trị cõi Nam Hà.

2. Dấu ấn nữ thần Trảo Trảo phu nhân qua khảo sát một số đạo sắc phong

Tất cả 4 đạo sắc vẫn đang được trân giữ trang trọng tại chùa Giác Minh (nay thuộc làng Ái Tử, xã Triệu Ái, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị)7 . Sắc tứ Giác Minh là cổ tự thờ tiền Phật, hậu Thần, đây là ngôi chùa có mặt từ rất sớm, song hành với quá trình tụ cư lập làng của những lưu dân Việt. Bên cạnh 4 đạo sắc phong cho bà Trảo Trảo thì hiện tại chùa bảo lưu rất tốt 11 đạo sắc cho một số thần hiệu khác nhau và đặc biệt là quả đại hồng chung do Năng Tín hầu Châu Phước Năng (能信侯朱福能) chú tạo và tiến cúng chùa vào năm Minh Mạng thứ 9 [1828].

Về tình trạng văn bản, ngoại trừ sắc phong năm Thiệu Trị 3 [1843] hiện còn khá tốt, thì cả 3 đạo sắc còn lại bị mối mọt xâm hại, hệ thống viền bao quanh tờ sắc đã rách, nhưng thật may mắn nội dung sắc phong vẫn được đảm bảo. Về phương diện văn bản học, qua quá trình tiếp cận, đo đạc và bước đầu khảo sát, chúng tôi nhận thấy 4 đạo sắc phong đều có chung một đặc điểm với hệ thống sắc phong dưới thời nhà Nguyễn. Sự thống nhất này được thể hiện rất rõ ràng cả về hình thức lẫn nội dung trình bày.

Dưới đây, chúng tôi xin được trích dẫn nguyên văn và bước đầu lược dịch 4 đạo sắc phong ân ban cho Trảo Trảo phu nhân:

20190204 Trao Trao 3

Sắc phong cho Trảo Trảo phu nhân năm Thiệu Trị thứ 3 [1843]. Ảnh Nguyễn Văn Thịnh

[SP1]

Nguyên văn:

敕柔和端懿爪爪夫人中等神護國庇民稔 著靈應節蒙頒給贈敕準許奉事。明命貳拾 壹年值我聖祖仁皇帝五旬 大慶節欽奉寶詔覃恩禮隆登秩。肆今丕膺耿命緬念神庥可加贈 柔和端懿昭靈中等神。仍準許登昌縣愛子社 依舊奉事神其相佑保我黎民。欽哉

紹治參年貳月初拾日

[硃印: 敕 命 之寶]

Tạm dịch: Sắc cho Nhu Hòa Đoan Ý Trảo Trảo phu nhân Trung đẳng thần, bảo vệ cho nước che chở cho dân, linh ứng lâu năm, đã được ban cấp phong tặng, sắc chuẩn cho phụng thờ. Năm Minh Mệnh thứ 21 [1840], gặp dịp Ngũ tuần Đại khánh của Thánh Tổ Nhân Hoàng đế, kính ban bảo chiếu ân rộng rãi, lễ lớn nên gia tăng cấp bậc. Nay Trẫm vâng mệnh lớn, nghĩ đến công đức của thần gia tặng thêm mỹ tự Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Linh trung đẳng thần. Chuẩn cho xã Ái Tử, huyện Đăng Xương được phụng thờ như cũ. Ngõ hầu, thần hãy che chở trợ giúp dân ta. Khâm tai!

Ngày mồng 10 tháng 02 năm Thiệu Trị thứ 3 [1843]

[Đóng ấn son: Sắc mệnh chi bảo]

[SP2]

Nguyên văn:

敕爪爪夫人原贈柔和端懿昭靈助順中等神護國庇民稔

著靈應節蒙頒給贈敕準許奉事。肆今丕膺耿命緬念神庥可加贈柔和端懿昭靈助順齋 淑中等神仍準登昌縣愛 子社依舊奉事神其相佑保我黎民。欽哉

嗣德參年玖月參拾日

[硃印: 敕 命 之寶]

Tạm dịch: Sắc cho Trảo Trảo phu nhân vốn được phong tặng Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Linh Trợ Thuận Trung đẳng thần, bảo vệ cho nước che chở muôn dân, linh ứng lâu năm, đã được ban cấp tặng sắc chuẩn cho phụng thờ. Nay Trẫm vâng mệnh nối nghiệp lớn, nghĩ đến công đức của thần, tặng thêm mỹ tự Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Linh Trợ Thuận Trai Thục trung đẳng thần. Chuẩn cho xã Ái Tử, huyện Đăng Xương được phụng thờ như cũ. Ngõ hầu thần hãy che chở trợ giúp dân ta. Khâm tai!

Ngày 30 tháng 09 năm Tự Đức thứ 3 [1850]

[Đóng ấn son: Sắc mệnh chi bảo]

[SP3]

Nguyên văn:

敕旨廣治省登昌縣愛子社從前奉事含弘光大至德溥博顯化莊徽大乾國家南海四位上 等神,

弘惠普濟靈感妙通默相莊徽天依阿那演玉妃上等神,柔和端懿昭應助順齋淑爪爪夫 人中等神,節經頒給敕封準 其奉事。嗣德三十一年正值朕五旬大慶節經頒寶詔覃恩禮隆登 秩。特準許依舊奉事用誌國慶而伸祀典。欽 哉

嗣德參拾參年拾壹月貳拾肆日

[硃印: 敕 命 之寶]

Tạm dịch: Sắc chỉ cho xã Ái Tử, huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị phụng thờ: Hàm Hoằng Quang Đại Chí Đức Phổ Bác Hiển Hóa Trang Huy Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Tứ Vị thượng đẳng thần; Hoằng Huệ Phổ Tế Linh Cảm Diệu Thông Mặc Tướng Trang Huy Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi thượng đẳng thần; Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Ứng Trợ Thuận Trai Thục Trảo Trảo phu nhân trung đẳng thần, đã được ban cấp sắc phong chuẩn cho phụng thờ. Năm Tự Đức thứ 31, gặp dịp Ngũ tuần Đại khánh của Trẫm, đã ban bố ân chiếu rộng rãi, lễ lớn nên gia tăng cấp bậc. Đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ, để ghi nhớ ngày mừng của nước nhà mà tỏ phép tắc thờ tự. Khâm tai!

Ngày 24 tháng 11 năm Tự Đức 33 [1880]

[Đóng ấn son: Sắc mệnh chi bảo]

[SP4]

Nguyên văn:

敕廣治省肇豊府愛子社從前奉事原贈柔和端懿沼應助順齋淑翊保中興爪爪夫人中等 神護國庇民稔著靈應節 蒙頒給敕封準許奉事。肆今正直朕四旬 大慶節經頒寶詔覃恩禮隆 登秩著加贈莊徽上等神準其奉事用誌國慶 而申祀典。欽哉

啟 定玖年 柒 月貳拾五日

[硃印: 敕 命 之寶]

Tạm dịch: Sắc cho xã Ái Tử, Triệu Phong phủ, Quảng Trị tỉnh trước đây đã phụng thờ thần, vốn được phong tặng Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Ứng Trợ Thuận Trai Thục Dực Bảo Trung Hưng Trảo Trảo phu nhân trung đẳng thần, bảo vệ cho nước che chở muôn dân, linh ứng lâu năm, đã được ban cấp sắc phong chuẩn cho phụng thờ. Nay gặp dịp Tứ tuần Đại Khánh của Trẫm, đã ban bố chiếu ân rộng rãi, lễ lớn nên gia tăng cấp bậc, tặng thêm mỹ tự Trang Huy thượng đẳng thần. Đặc chuẩn cho phụng thờ như cũ, dùng để ghi nhớ ngày mừng của nước mà tỏ rõ phép tắc thờ tự. Khâm tai!

Ngày 25 tháng 07 năm Khải Định thứ 09 [1924]

[Đóng ấn son: Sắc mệnh chi bảo]

Thay cho lời kết:

Thông qua các đạo sắc phong và những tư liệu liên quan, dễ dàng nhận thấy bắt đầu từ thời vua Minh Mạng, triều đình đã ân chuẩn ban tặng sắc phong cho Trảo Trảo phu nhân. Theo quy định của nhà Nguyễn, cứ mỗi lần ban cấp, đồng nghĩa gia tặng mỹ tự tương ứng đi kèm. Theo đó, thời Thiệu Trị mỹ tự của Trảo Trảo phu nhân: 柔和端懿昭靈 Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Linh. Sang đời vua Tự Đức mỹ tự: 柔和端 懿昭靈助順齋淑 Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Linh Trợ Thuận Trai Thục. Đến triều vua Khải Định [1924] thì thần hiệu, phẩm trật và mỹ tự của thần đầy đủ như sau: 和端懿沼應助順齋淑莊徽翊保中興 爪爪夫人上等 神 Nhu Hòa Đoan Ý Chiêu Ứng Trợ Thuận Trai Thục Trang Huy Dực Bảo Trung Hưng Trảo Trảo Trảo phu nhân thượng đẳng thần. Song hành với định lệ gia tặng mỹ tự, đến triều vua Khải Định, việc nâng cấp phẩm trật từ Trung đẳng thần lên Thượng đẳng thần cho thấy sự linh ứng, chủ ý tôn xưng, xiển dương công đức “hộ quốc tý dân” của triều đình nhà Nguyễn đối với nữ thần Trảo Trảo.

Sắc phong thần, với tư cách là loại hình văn bản hành chính, thể hiện tính chính thống quan phương của một chính thể. Ân ban sắc phong thần là phương cách biểu thị quyền uy thống quản của bậc đế vương đối với thế giới thần linh. Việc phụng thờ Trảo Trảo phu nhân vốn được khởi lập từ thời chúa Nguyễn và ngay từ rất sớm đã được liệt vào hàng điển chế. Có thể nói rằng, 4 đạo sắc phong hiện tồn là minh chứng rõ nét tiến trình tiếp nối và kế thừa hoạt động tế tự trước đó nhằm thừa nhận ơn đức và công lao của Trảo Trảo phu nhân.

Những đạo sắc phong cho Trảo Trảo phu nhân là nguồn tư liệu gốc, có giá trị trên nhiều phương diện, đây là cứ liệu quan trọng khẳng định quá trình tôn phong của triều đình và thể hiện vai trò, dấu ấn của vị nữ thần trong đời sống tín ngưỡng của mỗi người dân vùng quê Ái Tử.

Phủ Cam, lập đông 2018

Đ.M.Đ

(TCSH359/01-2019)

---------------

1. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002) “Đại Nam thực lục”, [Tiền biên, Quyển 1 - Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế], bản dịch Nguyễn Ngọc Tĩnh, Nxb. Giáo Dục, tr 28.

2. Trong các bản dịch như Nam triều công nghiệp diễn chí, Đại Nam thực lục, Đại Nam nhất thống chí, Viêm giao trưng cổ ký… đều cho biết thần hiệu của Trảo Trảo phu nhân là: Trảo Trảo Linh Thu Phổ Trạch Tương Hựu phu nhân. Tuy nhiên, đối chiếu với bản gốc của những tư liệu nói trên thì chúng tôi cho rằng Linh Tưu 靈湫 (爪爪夫人祠在愛子社祀爪爪靈湫普澤相佑 夫人之神) chứ không phải là Linh Thu hoặc Linh Thứu. Xin xem thêm: Đại Nam nhất thống chí 大南一統志, tỉnh Quảng Trị 廣 治 省, quyển 07 卷之七, mục Đền miếu 祠廟. Đại Nam thực lục tiền biên 大南寔錄前編, Quyển 1卷一, Thái Tổ Gia Dụ Hoàng đế 太祖嘉裕皇帝.

3. Quốc sử quán triều Nguyễn (2002) “Đại Nam thực lục”, Sđd, tr: 30 - 31.

4. Nguyễn Khoa Chiêm (2003) “Nam triều công nghiệp diễn chí”, bản dịch Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga, Nxb. Hội Nhà Văn, tr: 31.

5. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012) “Đại Nam nhất thống chí”, tập 1, bản dịch Hoàng Văn Lâu, Nxb. Lao Động, tr: 463.

6. Cao Xuân Dục (2010) “Viêm giao trưng cổ ký”, bản dịch Nguyễn Văn Nguyên, Nxb. Thời Đại, tr 35 - 36.

7. Đây là thành quả của đợt khảo sát do Nhóm nghiên cứu Liễu Quán tổ chức vào 11/2017 tại Quảng Trị. Nhân đây, chúng tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc đến quý thầy, quý anh, chị đã hoan hỷ đồng ý cho tôi toàn quyền sử dụng nguồn tư liệu. Đặc biệt là sự giúp đỡ nhiệt thành của Đại đức Thích Không Nhiên, nhiếp ảnh gia Nguyễn Văn Thịnh và TS. Võ Vinh Quang. Mọi sai sót trong bài viết hoàn toàn thuộc về tác giả.

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, ngày 02.02.2019

20170814. Co Loa

Thần tích hay còn gọi là thần phả, ngọc phả, phả lục... là loại hình văn bản ghi chép sự tích các thần được thờ ở đình, đền, miếu. Trước khi chữ Quốc ngữ ra đời, thần tích được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, sang thời kỳ thực dân, trong các bản kê khai thần tích ở các làng xã, bên cạnh thần tích, thần phả viết bằng chữ Hán, chữ Nôm, còn có cả thần tích viết bằng chữ quốc ngữ. Các thần tích viết bằng chữ Hán, chữ Nôm được lưu trữ chủ yếu ở Viện nghiên cứu Hán Nôm. Các bản thần tích bằng chữ Quốc ngữ được lưu trữ ở Thư viện Viện Thông tin KHXH. Ngoài ra, còn một số bản thần tích hiện còn nằm rải rác ở một số đình, đền ở các địa phương.

Thần tích Hán Nôm của Hà Nội, trước hết chúng ta phải kể đến 57 cuốn sách, ký hiệu AE a7/12, AE a2/14-38, AE a2/59-86, AE a2/103 và AE a11/1-4 ghi về thần tích của các huyện Gia Lâm, Hoàn Long, Từ Liêm, Thanh Trì, Đông Anh. Tiếp đó là một số thần tích của Hà Nội mang ký hiệu A, như An Lãng hậu thổ sự tích (Láng), ký hiệu A.2879; Định Công Trang thần tích (Thanh Trì), ký hiệu A.711; Thượng Thụy xã ngũ vị thần tích (A.2510) (Từ Liêm)... Ngoài ra, còn có các sách ghi chép về sự tích các thần ở Hà Nội khác như Hà Thành linh tích cổ lục (A.497); Đại Nam thần lục (A.1213); An Lãng Chiêu Thiền Từ Đạo Hạnh sự tích thực lục (A.587); Cổ Loa thành sự tích điền thổ sắc phong hợp biên (A.92)...

Do khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi xin đi sâu giới thiệu mảng thần tích viết bằng chữ Hán, chữ Nôm của 143 phường, thôn, xã các huyện Hoàn Long, Thọ Xương (nay hầu hết thuộc nội thành Hà Nội) và các huyện Gia Lâm, Đông Anh, Từ Liêm, Thanh Trì, với các ký hiệu AE a7/12, AE a2/14-38, AE a2/59-86, AE a2/103 và AE a11/1-4. Các thần tích trên hầu hết được các quan chức địa phương sao chép lại từ thần tích do các quan phụ trách việc lễ nghi của triều đình biên soạn, được đặt thờ ở các đình, đền Hà Nội.

I. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM, SỐ LƯỢNG

1. Về nguồn gốc sao chép

Thần tích Hà Nội cũng như thần tích các địa phương khác hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm có nguồn gốc từ Thư viện của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (EFEO). Năm 1901, EFEO chính thức được thành lập tại Hà Nội với nhiệm vụ nghiên cứu khảo cổ học, lịch sử, văn hóa... và nhiệm vụ trọng tâm là sưu tầm các văn bản thư tịch cổ. Thần tích cũng như các văn bản thư tịch cổ khác được nhà trường cho sao chép từ nhiều nguồn, nhưng chủ yếu vẫn là nguồn từ các bản thần tích hiện đang thờ cúng ở các địa phương, còn đầy đủ chứng thực "sao y bản chính" của chính quyền địa phương. Cũng có một số bản được sao chép ở Kinh đô Phú Xuân, ví dụ thần tích chùa Thủ Lệ thờ Linh Lang, đóng chung với thần tích phường Kim Mã, huyện Hoàn Long được chú thích "sao ở Kinh đô Phú Xuân" (nay là thành phố Huế); hoặc sao lại từ một số sách vở, như thần tích xã Tranh Khúc, huyện Thanh Trì, ký hiệu AEa2/82, thờ thần Quý Minh đại vương được ghi chép theo sách Địa dư; hoặc sao chép từ văn bia, như thần tích phường Kim Hoa thờ Cao Sơn đại vương (tức thần tích phường Thịnh Hào, huyện Hoàn Long, ký hiệu AEa2/30, do Lê Doãn Địch sao năm 1840 từ văn bia soạn năm 1742.

Về hình thức, các văn bản thần tích có chung đặc điểm: đều là bản chép tay (không có bản in), được viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Cho đến nay, mảng thần tích ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm vẫn giữ nguyên ký hiệu AE do EFEO đặt ra.

2. Về tên gọi

Thần tích Hà Nội cũng như thần tích các địa phương khác hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, có nhiều tên gọi khác nhau: "Ngọc phả" 玉譜, "Thần phả" 神 譜; "Phả lục" 譜 錄 ... tên gọi "Thần tích" 神 跡 là do EFEO đặt tên theo sự phân loại thư mục học và từ đó được giới khoa học sử dụng rộng rãi. Tên gọi "thần tích" thường gắn với địa danh làng xã và được EFEO thống nhất ghi ở trang đầu của các bản sao thần tích. Ví dụ: thần tích xã Mai Động, ký hiệu AE.a2/23 ghi: Hoàn Long Mai Động xã thần tích 環 龍 梅 洞 社 神 跡(Thần tích xã Mai Động, huyện Hoàn Long); hay thần tích xã Ngọc Xuyên, ký hiệu AEa2/38, tờ đầu ghi là "Hoàn Long Ngọc Xuyên xã thần tích"環 龍 玉 川 社 神 跡.

Tuy nhiên, ngoài tên gọi "thần tích", EFEO vẫn giữ lại tên gọi vốn có gắn với các từ như "Ngọc phả", hay "phả lục", “thần phả”... được ghi chép ở tờ 2a của thần tích. Ví dụ, Thần tích xã Mai Động, ký hiệu AE.a2/23 ghi: Hoàn Long Mai Động xã thần tích 環 龍 梅 洞 社 神 跡(Thần tích xã Mai Động, huyện Hoàn Long), nhưng ở tờ 2a ghi như sau: Trưng Nữ Vương triều nhất vị đại vương phả lục 徵 女 王 朝 一 位 大 王 譜 錄(Ghi chép về phả một vị đại vương triều Trưng Nữ Vương); Thần tích xã Vĩnh Tuy, ký hiệu AE a2/35, tờ đầu ghi: Hoàn Long, Vĩnh Tuy xã thần tích 環 龍 永 綏 社 神 跡, ở tờ 2a ghi: Vĩnh Tuy xã ngọc phả lục 永 綏 社玉 譜 錄(Ngọc phả xã Vĩnh Tuy); Thần tích xã Ngọc Xuyên, ký hiệu AEa2/38, tờ đầu ghi là Hoàn Long Ngọc Xuyên xã thần tích 環龍玉川社神跡, nhưng tờ trong ghi cụ thể hơn: Việt Thường thị Lý triều công thần khai quốc đại hữu huân lao khả gia thần tước linh ứng khả phong nhị vị đại vương ngọc phả cổ lục 粵 裳 氏 李 朝 功 臣 開 國 大 有 勳 勞 可 加 神 爵 靈 應 可 封 二 位 大 王 玉 譜 古 錄(Ngọc phả ghi chép về hai vị đại vương triều Lý, họ Việt Thường là công thần khai quốc có công lao, được gia phong tước hiệu linh ứng).

Đi sâu tìm hiểu hình thức sao chép thần tích, chúng tôi thấy những thần tích có ghi hai chữ "Ngọc phả", "Thần phả" cho đến nay vẫn được gọi chung là "thần tích", song thực tế chúng chỉ là bản sao chép các thần tích đang được thờ cúng ở các địa phương (lẽ đương nhiên, không có bản gốc của thần tích, tức bản được Bộ Lễ ở triều đình lưu giữ hoặc đang được người dân các địa phương thờ cúng, mà chỉ có bản sao chép thần tích có chữ ký hoặc chứng thực của các chức sắc địa phương). Các bản thần tích Hà Nội nói riêng, cũng như thần tích các địa phương khác nói chung đều được gọi là "thần tích" song chúng lại có sự khác nhau về hình thức kết cấu thần tích. Xem xét cụ thể thần tích của 143 phường, thôn, xã của Hà Nội chúng tôi nhận thấy thần tích có thể chia làm hai loại:

- Một loại là bản sao chép lại các thần tích mang tính quan phương đã được các quan trông coi việc lễ nghi của triều đình biên soạn thành văn bản, có ghi rõ tên người năm tháng biên soạn và sao chép. Phía dưới có chứng thực của các chức sắc địa phương (thường là Lý trưởng).

- Một loại là bản ghi chép ngắn gọn (hay có thể gọi là bản kê khai sự tích ) của các quan lại, chức sắc địa phương về lai lịch các vị thần làng xã mình hiện thờ cúng nhưng chưa được các quan chức phụ trách việc lễ nghi của triều đình biên soạn thành văn bản, không ghi năm tháng, tên người biên soạn và sao chép.

Để dễ dàng phân biệt hai loại thần tích trên, chúng tôi xếp mảng tư liệu thần tích Hà Nội thành hai loại và tạm đưa ra tên gọi như sau:

Thứ nhất: các thần tích sao lại theo chính bản của bộ Lễ do Nguyễn Bính, giữ chức Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ biên soạn vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572); Nguyễn Hiền, Quản giám bách thần tri điện, Hùng lĩnh thiếu khanh sao chép chủ yếu vào các năm niên hiệu Vĩnh Hựu (1735-1740) và một số thần tích do các tác giả khác biên soạn, sao chép được xếp vào loại một, tạm gọi là "bản sao thần tích ".

Thứ hai: các bản ghi chép lai lịch các thần khác được địa phương thờ cúng, viết theo lối ngắn gọn, không có niên đại, tên người biên soạn và năm tháng sao chép, tạm gọi là "bản kê khai thần tích ".

3. Về kết cấu thần tích

Để phân biệt rõ hơn sự khác nhau giữa "bản sao thần tích " và bản "bản kê khai thần tích " chúng ta có thể tìm hiểu thêm kết cấu của hai loại trên.

Thứ nhất, các bản sao thần tích do Nguyễn Bính biên soạn, Nguyễn Hiền sao chép thường biên soạn theo một công thức nhất định, gồm ba phần:

- Phần thứ nhất là lai lịch và công trạng. Phần này, ngoài mào đầu (thường kể về sự ra đời của nước Văn Lang và thời vua Hùng Vương thứ 18; hoặc nói về cương vực và các triều vua của nước ta), còn có các mục: lai lịch (cha mẹ, quê quán); sinh nở thần kỳ (hoặc hình dáng dị thường); tài đức; công tích; hóa thân thần kỳ; hiển linh âm phù.

- Phần thứ hai gồm: sự phong tặng của triều đình phong kiến và các nghi thức thờ cúng. Phần này có các mục như: sắc phong mỹ tự; ngày sinh, ngày hóa; các nghi thức trong ngay lễ chính; các điều cấm kỵ.

- Phần thứ ba là lạc khoản. Phần này gồm các mục như: ngày tháng năm, tên người biên soạn và sao chép; chứng thực của chức sắc địa phương.

Ví dụ thần tích làng Đông Xã, ký hiệu AEa2/18 (nay là phường Bưởi, quận Tây Hồ) ghi chép về hai vị thần Bảo Hựu đại vương và Quý Minh đại vương. Hai ông là các danh tướng công thần của Hùng Duệ Vương thời Hùng Vương. Cả hai vị danh thần này đều có gia đình, quê quán, nhưng lại được mô tả theo motip sinh nở thần kỳ, bà mẹ của hai ông nằm mơ thấy rồng vàng bay lên trời nuốt hai ngôi sao vào bụng rồi nhập vào người bà, từ đó bà có thai và sinh ra hai ông. Đến khi quân Thục sang xâm chiếm, hai ông cùng với Tản Viên sơn thánh đã tham gia đánh giặc, lập được chiến công, sau đó cả hai ông đều hóa. Việc hóa của hai ông cũng được mô tả theo motip hóa thân thần kỳ, người mất ở sông được thuồng luồng, ba ba rắn rết đến chầu, người mất trên núi có long ly quy phượng từ trên trời bay xuống. Kết thúc bản thần tích là mỹ tự của thần do triều đình phong tặng; các ngày sinh, ngày hóa, các lễ tiết khánh hạ, các điều cấm kỵ và dòng lạc khoản ghi tên thần Nguyễn Bính soạn thần tích vào năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và Quản giám bách thần là Nguyễn Hiền phụng sao vào năm Vĩnh Hựu thứ 3 (1737).

Thứ hai là các "bản kê khai thần tích”. Các bản thần tích này thường chỉ có phần thứ nhất, thiếu hẳn phần thứ hai và ba. Ví dụ Thần tích phường Trích Sài, huyện Hoàn Long (AEa2/34) ghi chép về nhân vật lịch sử Mục Thận, người đã cứu vua Lý Nhân Tông (1072-1075) khỏi sự ám hại của đại thần Lê Văn Thịnh, tuy có ghi chép cả ngày sinh, ngày hóa của thần, song không theo kết cấu của bản thần tích thường thấy do Nguyễn Bính biên soạn. Bản thần tích này ngoài việc ghi chép những truyện lạ về gia đình họ Mục, còn bổ sung lai lịch, công trạng của các vị thần, đều là anh em, con cháu của dòng họ Mục với tư cách như một phả hệ thần. Hoặc Thần tích xã Yên Quyết, tổng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc nội thành Hà Nội), ký hiệu AE.a2/60 ghi chép sự tích đền thiêng Diêm La Đại vương, nhưng cũng chỉ là bản kê khai sự tích. Thần tích này được ghi chép ngắn gọn, xin nêu làm ví dụ về loại thứ hai này như sau:

“Đại vương vốn là Nguyên Hy Diêm La thiên tử, là Thiên lão thần quân. Lão phu nhân sinh ra Đại vương vào ngày mồng 8 tháng 2, thác giáng xuống nhập vào 5 bức tranh tượng ở Thập điện Minh vương ở chùa Ngọc Quan là nơi cổ tích danh lam chùa xã ta. Đại vương phụng mệnh Thiên tào nắm giữ Địa phủ, chức chưởng ty tội phúc, phán việc sống chết, thường ở âm giới, răn bảo những kẻ tối tăm. Vào năm Ứng Thiên (nguyên văn là Thiên Ứng) (994-1005), thời Tiền Lê Đại Hành bỗng gặp dịch bệnh, dân bị tai ương, người dân trong thôn trẻ giả lão ấu bèn tới chùa thắp hương làm lễ âm cầu mật đảo, đều được ứng nghiệm, trừ được tai họa, dân yên vật thịnh, từ đó người dân trong thôn bèn lập ngôi miếu để thờ phụng, tôn Đại vương làm Phúc thần, tứ thời được hưởng tế lễ. Trải đến thời Lý, Trần, đều được nhà nước phong tặng. Cho đến trước thời Tiền Lê mở nước, Thái tổ từ đạo Sơn Tây mang binh tiến thẳng ra thành Thăng Long, tiễu trừ giặc nhà Minh. Tướng sĩ đóng đồn ở mé tây bên sông Tô Lịch, nghe nói miếu vũ thần thánh linh thiêng bèn cung kính làm lễ cầu đảo, quả ứng nghiệm thắng trận. Sau khi đại định vua bèn gia phong mỹ tự tôn làm Phúc thần, nêu trong tự điển. Hàng năm vào tiết xuân, cho phát tiền công, sai quan làm lễ tế ở miếu hiệu Diêm La Đại vương”.

Việc phân chia thần tích làm hai loại như trên cũng khá trùng hợp với sự phân chia của các nhà nghiên cứu đi trước khi phân loại và nghiên cứu thần tích. Tác giả Kiều Thu Hoạch khi phân tích văn bản thần tích cũng cho rằng, ngay trong thần tích cũng có hai loại, một loại “trong triều” (kiểu Việt điện u linh) (tức được ghi ở tự điển nhà nước-tác giả bài viết chú thích thêm) và một loại “ngoài nội” (thần tích để ở đền miếu địa phương)(1). Nguyễn Duy Hinh khi tìm hiểu mối quan hệ giữa thành hoàng và bách thần cũng cho rằng: “Nhà Lê đề cao Nho giáo tất nhiên phải cải tạo thần linh dân gian tự phong đó. Nhưng triều đình cũng không thể nào áp đặt thần linh cho dân làng”(2). Thực tế khi khảo sát thần tích Hà Nội, chúng tôi cũng thấy bên cạnh những thần tích của các thần làng được triều đình phong tặng, do bộ Lễ “đặt ra tiểu sử chính thức” từ thời Lê(3), còn có những thần tích do các cụ địa phương và thân hào lí trưởng khai báo theo mệnh lệnh của chính quyền đầu thế kỷ XX(4). Nguyễn Văn Huyên cho biết cụ thể hơn: “Đầu năm 1938 ông Georges Coedès, Giám đốc Trường Viễn đông Bác cổ Pháp đã có sáng kiến mở một cuộc điều tra về việc thờ cúng thành hoàng trong các làng xã Việt Nam. Để làm được việc đó, thông qua các quan chức hành chính địa phương, ông ta đã gửi một bản câu hỏi điều tra đến tất cả các làng có thờ một vị thần bảo hộ tại đình làng. Bản câu hỏi đó, bắt nguồn từ một bài báo quan trọng của ông Nguyễn Văn Khoan, phụ tá Trường Viễn đông Bác cổ được công bố vào năm 1930, gồm nhiều phần: sự tích của thần, những nơi thờ thần; ngày tháng các nghi lễ cúng tế, các tế vật, chủ lễ, y phục và đồ cúng, những điều cấm ký khi tiến hành cúng tế trong đời sống hàng ngày, sự tiến triển của việc thờ cúng...”(5)

4. Về các mục khác trong thần tích

Xem xét thần tích của 143 làng xã nội ngoại thành Hà Nội, chúng tôi thấy thần tích của nhiều địa phương không chỉ có “bản sao thần tích” và “ bản kê khai thần tích” mà còn bao gồm một số tư liệu văn hiến khác. Có thể chia làm 2 loại:

- Loại thứ nhất: chỉ có “bản sao thần tích”, như: Thần tích Hoàn Long, Hà Nội, ký hiệu AEa2/1; Thần tích xã Mai Động, huyện Hoàn Long, ký hiệu AEa2/23...

- Loại thứ hai: tập hợp cả “bản sao thần tích” và “bản kê khai thần tích”. Thông thường các “bản kê khai thần tích” thường được xếp sau “bản sao thần tích”, như: Thần tích Trại Ngọc Hà, huyện Hoàn Long, ký hiệu AEa2/26. Ở bản thần tích này sau “bản sao thần tích” ghi chép về nữ thần Ngọc Nương còn có các “bản kê khai thần tích” của các thần như: ghi chép về 3 thủy thần Minh Khiết, Triều Đình, Bảo Trung (thời Lý); ghi chép về Sĩ Nhiếp (thời Hán); nữ thần Quỳnh Hoa (thời Trần) và Đỗ Thiện (thời An Dương Vương).

Trong loại thứ hai còn tập hợp thêm cả tư liệu ghi chép khác như văn tế, câu đối. Văn tế, câu đối... thường được đặt phía sau các “bản sao thần tích” và “bản kê khai thần tích”. Ví dụ: Thần tích xã Nhật Tảo, ký hiệu AEa2/67; Thần tích xã Phú Gia, ký hiệu AEa2/66 (thuộc huyện Từ Liêm) đều ghi chép thêm nhiều văn tế, như văn tế an vị, văn tế nhập tịch, văn tế mật nghênh, văn tế giao thừa... ; Thần tích xã Yên Ngưu, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì, ký hiệu AEa2/76 còn ghi thêm cả câu đối thờ ở đền.

5. Về số lượng thần tích

Theo thống kê thần tích của 143 phường, thôn, xã của Hà Nội có:

- 75 “bản sao thần tích “(tức thần tích do Nguyễn Bính biên soạn, Nguyễn Hiền sao chép); 21 bản thần sao thần tích do các tác giả khác biên soạn hoặc sao chép.

- 64 “bản kê khai thần tích”. Các bản kê khai thần tích đều ngắn gọn, hầu như không ghi một thông tin nào về niên đại biên soạn và người sao chép.

Có lẽ do sự tách nhập các làng xã sau này mà có sự khác nhau về mật độ xuất hiện “bản sao thần tích” giữa từng khu vực. Ví dụ, trong các xã của tổng Phương Canh huyện Từ Liêm chỉ có 1 thần tích của thôn Thị Cấm xã Hòe Thị ghi tên Nguyễn Bính và Nguyễn Hiền, các thôn xã khác không thấy xuất hiện. Trong khi đó thần tích ở các xã thuộc tổng Xuân Nộn, huyện Đông Anh có tới 8 trên 9 thần tích là do Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền biên soạn và sao chép. Đó là các xã Nhạn Tái, Thư Lâm, các thôn Biểu Khê, Cổ Miếu, Hương Trầm (xã Thư Lâm), Kim Tiên, Cán Khê.

Theo thống kê, trong 143 làng xã ở Hà Nội, số lượng thần tích của Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền chiếm hơn nửa, điều đó cho thấy việc cố định hóa văn bản thần tích, hay nói cách khác là “cố định hóa tiểu sử các thần” ở các địa phương và công việc khảo hạch bách thần luôn được chính quyền phong kiến đương thời coi trọng.

6. Về niên đại

Thần tích cũng như sắc phong thần thường được các làng, xã trân trọng đặt trong hòm sắc hoặc trong ống quyển, đặt thờ trong khám thờ ở đình hoặc đền. Vào ngày làm lễ khai sắc, nghênh thần, các làng lấy sắc ra làm lễ, việc xong lại cất sắc vào trong hòm sắc gọi là lễ nạp sắc. Thần tích cũng như vậy, do được viết chủ yếu bằng chữ Hán, người dân hầu như không được tiếp xúc với thần tích nên chỉ biết lai lịch của thần qua lời kể lại. Điều đó cho thấy thần tích là loại văn bản để thờ, người dân bình thường không dễ được tiếp cận, nó cũng chứng tỏ phần nào sự tin cậy về niên đại của thần tích (không thể dễ dàng tự ý sửa chữa nếu không được triều đình, hoặc chức dịch trong làng xã đó chấp nhận), nhưng ngược lại việc giả tạo niên đại cũng dễ xảy ra. Ví dụ, do trình độ của người kê khai sự tích có hạn nên hay nhầm lẫn về cả sự kiện, nhân vật và niên đại; hoặc do sự thiên lệch của các quan biên soạn thần tích từ chính Bộ Lễ... Ví dụ niên hiệu Hồng Phúc là niên hiệu vua Lê Anh Tông (tức Duy Bang) (1557-1573) chỉ tồn tại trong 1 năm, từ tháng Giêng, mùa xuân đến hết tháng 12 năm Nhâm Thân (1572). Năm 1573, vua Lê Thế Tông (tức Duy Đàm) lên ngôi, đổi niên hiệu Gia Thái. Nhưng có thần tích ghi niên đại năm Hồng Phúc thứ 2 (Thần tích xã Nha môn, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, ký hiệu AEa9/23), hoặc năm Hồng Phúc thứ 3 (Thần tích xã Thường An, huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên, AEa11/1), hoặc Hồng Phúc thứ 6 (Thần tích xã Vinh Quan, huyện Thanh Quan, tỉnh Thái Bình, AEa5/36) (tr.31).

Về trường hợp làm giả mạo thần tích có thể nêu một trường hợp được nhiều người biết tới. Chúng ta đã biết, ngoài Nguyễn Bính được cho là tác giả của nhiều thần tích hiện được thờ ở các địa phương còn có một số tác giả khác. Ví dụ, thần tích phường Thịnh Hào, huyện Hoàn Long, ký hiệu AEa2/30, do Chư Cát, giữ chức Chủ bạ Bộ Lễ biên soạn viết Tựa vào năm Cảnh Hưng Giáp Ngọ (1744). Tìm hiểu nhân vật này trong các bộ sử của triều Nguyễn như Đại Nam thực lục và Quốc s di biên được biết, Chư Cát tên thật là Nguyễn Gia Cát (1760-?), người xã Hoa Cầu, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên). Nguyễn Gia Cát thi đỗ Đồng chế khoa xuất thân năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống thứ 1 (1787). Thời Tây Sơn ông làm Đốc học Bắc Thành. Thời Nguyễn làm quan đến chức Tả Tham tri Bộ Lễ, tước Quỳ Giang hầu được cử đi sứ nhà Thanh. Theo Đại Nam thực lục, ông còn giữ chức Cần chính điện học kiêm Chế cáo lệnh, cùng với Phạm Quý Thích hợp làm công việc từ chương ở Bắc Thành. Đến năm 1805 được thăng chức Tả Tham tri Bộ Lễ. Theo Đại Nam thực lục và Quốc sử di biên, năm Gia Long thứ 9 (1811) nhân việc nhà nước cho các xã dân nhận sắc phong đem về thờ nên triều đình mới phái hai quan ở bộ Lễ là Nguyễn Cát và Vũ Dĩnh xem xét ấn định rõ ràng đẳng cấp các vị thần linh để gia tặng. Trong khi phong sắc văn cho các thần linh, Nguyễn Cát đã tự ý thêm bớt sự tích và công đức các vị thần, liệt Việp Quận công (Hoàng Ngũ Phúc) bề tôi trung thành của họ Trịnh vào hàng thượng đẳng thần... Còn tên Dĩnh viết tổ phụ mình vào làm vị phúc thần làng Mộ Trạch, bị dân kiện tố cáo nên Dĩnh mắc tội "khi quân mạn thần" nên bị xử tử hình, bêu đầu tại quê ba ngày(6).

Khảo sát niên đại thần tích Hà Nội, chúng tôi thấy được phần nào tình hình sao chép thần tích qua các đời, đặc biệt dưới triều Nguyễn. Tuy nhiên, trước khi bàn về niên đại của các thần tích cũng cần tìm hiểu việc gia phong bách thần qua các thời đại; cần tìm hiểu tình hình sao chép thần tích qua các thần tích cụ thể; cần tìm hiểu, đối chiếu việc gia phong phúc thần đối với một số nhân vật lịch sử của triều đình phong kiến với thần tích hiện được thờ ở các địa phương... từ đó mới có thể đưa ra kết luận khoa học về niên đại của thần tích. Trước mắt, chúng tôi tạm thống kê và đưa ra một vài thông tin về niên đại thần tích Hà Nội như sau:

Trong số các thần tích ghi chép năm biên soạn, ngoài thần tích do Nguyễn Bính biên soạn vào năm 1572 thì bản thần tích của 3 xã Cổ Điển, Cương Ngô, Đồng Trì, tổng Cổ Điển, huyện Thanh Trì (AEa2/77) có niên đại ghi chép vào năm Thái Bình thứ 7 (976), và đây được coi là bản sao thần tích có niên đại biên soạn sớm nhất.

Niên đại 1572 và tác giả Nguyễn Bính cũng còn nhiều điểm nghi ngờ khi khá nhiều thần tích mang tên tác giả này, song nhiều nhà nghiên cứu cho rằng tác giả Nguyễn Bính với cái mốc 1572 và Nguyễn Hiền với cái mốc từ 1735-1740 quả có ý nghĩa quan trọng trong việc biên soạn và sao lục thần tích. Vì thế chúng tôi tạm chấp nhận niên đại ghi trên văn bản, chưa bàn đến tính xác thực hay không của các niên đại này.

Về năm sao chép. Trong số các thần tích, ngoài niên đại do Nguyễn Hiền sao chép vào các năm Vĩnh Hựu (từ 1735 đến 1740) thường thấy trong các bản thần tích, thì bản sao thần tích sớm nhất vào năm 1476 là bản sao thần tích của xã Ngọc Du tổng Đại Mỗ huyện Từ Liêm (AEa2/62). Trang cuối của thần tích có nhận thực của Lý trưởng Nguyễn Huy Trinh.

7. Về tác giả biên soạn và người sao chép

- Về tác giả Nguyễn Bính

Các nhà nghiên cứu trước đây có một số ý kiến khác nhau khi đề cập đến tác giả Nguyễn Bính.

Thứ nhất: một số nhà nghiên cứu dựa vào một số sách như Trưng Vương công thần phả lục để suy đoán ông sống vào khoảng năm 1572, niên hiệu Hồng Phúc năm đầu(7). Một số nhà nghiên cứu khác dựa vào Nguyễn Trí tộc gia phả để đi đến suy đoán Nguyễn Bính là tổ thứ sáu, người xã Sơn Đồng huyện Đan Phượng (nay là Hà Nội). Ông sống vào khoảng nửa sau thế kỷ XVI, giữ chức Hàn lâm viện Đông các Đại học sĩ, làm việc ở Bộ Lễ(8). Thứ hai, năm 1988, tác giả Nguyễn Hữu Mùi, trong luận văn Thạc sĩ: Tác giả Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền và quá trình tàng trữ, sao lục thần tích ở thời Nguyễn đã đi sâu phân tích nội dung 6 đạo sắc phong thời Lê được ghi chép trong cuốn Nguyễn Trí tộc trưởng chi phả ký do dòng họ Nguyễn Trí ở Sơn Đồng lưu giữ; đối chiếu với Nguyễn Trí tộc gia phả ký hiệu A.669 lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, để đi đến nhận định: "tổ thứ 6 họ Nguyễn Trí ở làng Sơn Đồng không liên quan gì đến Nguyễn Bính"(9) như các nhà nghiên cứu đi trước suy đoán. Tuy nhiên, theo khảo sát bước đầu, chúng tôi cho rằng cần phải sưu tầm thêm tư liệu và xem xét thật kỹ mối liên hệ giữa tư liệu và “tổ thứ 6 họ Nguyễn Trí ở làng Sơn Đồng” để đưa ra nhận định khoa học về tác giả Nguyễn Bính. Do khuôn khổ của bài viết có hạn, chúng tôi xin tạm dừng ở đây, hy vọng ở bài viết sắp tới có thể công bố kết quả nghiên cứu tiếp theo của chúng tôi về tác giả này.

Ngoài Nguyễn Bính, còn có một số tác giả khác tham gia biên soạn và sao chép. Có thể nêu một số vị như: Thần tích xã Hoàng Mai, huyện Hoàn Long (AEa2/15) do hai vị, một là Vũ Toản soạn năm Khai Đại (1403-1407) đời nhà Hồ và Lê Hựu biên soạn vào năm Thuận Thiên thứ 3 (1430); Thần tích xã Nội Am, huyện Hoàn Long (AEa2/81) do Phạm Thuần phu soạn năm 1738; Thần tích phường Thịnh Hào huyện Hoàn Long do Chư Cát giữ chức Chủ bạ ở Bộ Lễ biên soạn; Thần tích thôn Hậu Ái xã Vân Canh tổng Phương Canh huyện Từ Liêm (AEa2/69) do Nguyễn Bá Đôn ghi chép vào năm Tự Đức thứ 12 (1859). Thần tích được sao chép muộn nhất là thần tích xã Vĩnh Tuy huyện Hoàn Long (AEa2/35) được sao lại năm 1904.

- Về người sao chép.

Sao chép lại các bản thần tích của tác giả Nguyễn Bính là Nguyễn Hiền. Theo tác giả Nguyễn Hữu Mùi: "Nguyễn Hiền chính là nhà khoa bảng Tô Thế Huy, người xã Bằng Đắng, huyện Bạch Hạc, tỉnh Sơn Tây (nay là thôn Cao Bình, xã Cao Đại, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông từng đi sứ, giữ nhiều chức quan, khoảng niên hiệu Vĩnh Hựu, khi giữ chức Quản giám bách thần, ông lấy bút danh Nguyễn Hiền, chuyên sao lục và hoàn thiện tiếp các bản ngọc phả của Nguyễn Bính"(10).

Ngoài Nguyễn Hiền, còn có nhiều người tham gia sao chép thần tích. Có thể liệt kê một số vị như: Thần tích xã Dư Dụ, tổng Hà Liễu, huyện Thanh Trì, ký hiệu AEa2/78 do Nguyễn Nhu, Thư lại Bộ Lễ sao chép. Có bài Tựa của Định An Tổng đốc Nguyễn Trọng Hợp viết năm Tự Đức thứ 30 (1877); Thần tích Cao Sơn đại vương ở phường Thịnh Hào, huyện Hoàn Long (AEa2/30) do Lê Doãn Địch sao năm 1840 từ văn bia dựng năm 1742; Thần tích xã Tam Lạc, huyện Hoàn Long (AEa2/28) do Ngô Vĩnh Thuận sao năm 1827 từ bản thần tích soạn năm 1735. Các chức sắc địa phương là lực lượng tham gia sao chép thần tích đông đảo nhất. Có thể nêu một số trường hợp: Thần tích xã Ngọc Kiều, tổng Tây Tựu, huyện Từ Liêm (AEa2/70) do Lý trưởng Nguyễn Văn Tri sao; Thần tích xã Phù Trung, tổng Tây Tựu, huyện Từ Liêm do Lý trưởng Đỗ Văn Phả sao; Thần tích thôn Tổ Thượng xã Thượng Trì, tổng Thượng Trì huyện Từ Liêm (AEa2/73) do Lý trưởng Nguyễn Văn Nhuệ sao...

8. Về hình thức văn tự

Các bản thần tích Hà Nội chủ yếu được viết bằng chữ Hán, duy nhất 1 bản thần tích viết bằng chữ Nôm, đó là bản Thần tích xã La Dương, tổng Yên Lãng, huyện Từ Liêm (AEa2/64). Ở thần tích này, ngoài bản sao thần tích viết bằng chữ Hán về ba vị Việt công, Minh công, Tuất công dưới thời Hùng Vương do Nguyễn Bính soạn năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) và Nguyễn Hiền sao chép vào năm Vĩnh Hựu thứ 6 (1740), còn phụ thêm Tam thánh sự tích viết bằng chữ Nôm, được soạn năm 1822, do Tổng trưởng Nguyễn Bá Dụ phụng sao.

II. GIÁ TRỊ CỦA THẦN TÍCH HÀ NỘI

1. Giá trị về mặt lịch sử

Thần tích được sáng tác xuất phát từ sự tôn vinh lịch sử và là việc làm được các triều đại phong kiến nước ta coi trọng nhằm mục đích lấy thần quyền phục vụ cho vương quyền. Trước khi được đưa vào thờ tự ở đình đền, miếu mạo thì các sự tích về thần đã được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân, trong cộng đồng làng xã. Có thể nói gốc gác của các thần tích đa phần đều bắt đầu từ câu chuyện dân gian. Hồ Tông Thốc đã cho biết nguồn gốc của dĩ vãng chính là từ việc nghe người xưa kể lại: "Nước Nam ta ở vào dải nóng nực, trong cõi mênh mông, vua sáng đời nào cũng có. Dẫu ràng núi sông rộng lớn, chia biệt mỗi lúc một khác, nhưng từ xưa đến nay, chỉ căn cứ vào tục truyền và dấu vết, hỏi về việc dĩ vãng thì nhờ các cụ già kể lại, xét nghiệm ở tương lai thì đã có các đền miếu cúng thờ"(11) .

Vũ Quỳnh trong lời Tựa sách Lĩnh Nam chích quái cũng cho rằng: "Những truyện chép ở đây là sử trong truyện cổ chăng"(12)Như vậy, lịch sử trong thần tích không phải là "lịch sử ở bề mặt, mà là lịch sử ở chiều sâu". Những nhân vật lịch sử trong thần tích hay truyền thuyết dân gian (được nhà nước ghi lại và cố định ở thời điểm lịch sử nào đó, hoặc do dân gian truyền đi) đều trở thành "biểu tượng của tiến trình lịch sử mà ký ức cộng đồng còn lưu giữ được"(13).

Có lẽ thần tích cũng như các bản kê khai thần tích về người anh hùng rất khó có thể cung cấp những chi tiết chính xác của lịch sử, song trong đó vẫn tồn tại đơn vị lịch sử chất liệu, "hay ký sự về một sự thật lịch sử". Có thể đơn cử một thí dụ về nhân vật lịch sử Phùng Hưng. Về nhân vật này, Đại Việt sử ký toàn thư chép:

"Tân Mùi [791] (Đường Trinh Nguyên năm thứ 7). Mùa xuân, An Nam đô hộ phủ là Cao Chính Bình làm việc quan bắt dân đóng góp nặng. Mùa hạ, tháng 4, người ở Đường Lâm thuộc Giao Châu (Đường Lâm thuộc huyện Phúc Lộc) là Phùng Hưng dấy binh vây phủ. Chính Bình lo sợ mà chết. Trước đây Phùng Hưng vốn là nhà hào phú, có sức khỏe, có thể vật trâu, đánh hổ. Khoảng niên hiệu Đại Lịch [766-780] đời Đường Đại Tông, nhân Giao Châu có loạn, cùng với em là Hãi hàng phục được các ấp bên cạnh, Hưng xưng là Đô Quân, Hãi xưng là Đô Bảo, đánh nhau với Chính Bình, lâu ngày không thắng được. Đến đây dùng kế của người làng là Đỗ Anh Hàn, đem quân vây phủ. Chính Bình lo sợ phẫn uất thành bệnh ở lưng mà chết. Con là An Tôn xưng làm Bố Cái Đại Vương. Vương thường hiển linh, dân cho là thần, mới làm đền thờ ở phía tây phủ đô hộ, tuế thời cúng tế (tức là Phu hựu chương tín sùng nghĩa Bố Cái Đại Vương. Đền thờ nay ở phường Thịnh Quang, phía đông nam ruộng tịch điển"(14).

Trong khi đó, hầu hết các thần tích thôn, phường ở Hà Nội thờ Phùng Hưng như thần tích thôn Kim Mã, huyện Hoàn Long, thần tích phường Thịnh Hào, thần tích phường Quảng Bá... đều ghi chi tiết về tổ tiên, dòng họ Phùng Đại vương, tuy được thêu dệt thêm bằng rất nhiều câu chuyện kỳ lạ về khả năng phi thường của cha mẹ, anh em nhà Vương (có tài chế ngự bóng ma đen thường tác yêu tác quái làm hại mọi người, hiển linh âm phù sau khi mất...), song dường như vẫn nhìn thấy sợi dây liên hệ giữa nhân vật lịch sử mang tính biểu tượng với quan niệm thẩm mỹ của dân gian. Qua nhân vật Phùng Hưng, có thể thấy hình tượng nhân vật trong thần tích được dân gian thêu dệt thường có tầm vóc cao hơn lịch sử mà nó phản ánh. Nó cho thấy những giá trị trường tồn của nhân vật và sự kiện. Có nhiều sự kiện và tình tiết được thần tích ghi lại, nhưng lại không được các nhà chép sử đề cập tới. Những ghi chép đó không có trong một bộ sử biên niên nào mà chỉ sống trong ký ức của người dân và không bị lụi tàn theo thời gian. Họ kể với niềm tin, không quan tâm nhiều đến tính xác thực miễn sao tôn vinh được những giá trị vĩnh cửu của nhân vật. Vì thế, truy tìm tính xác thực về các sự kiện và nhân vật mà thần tích đăng tải là việc làm ít có ý nghĩa.

Tuy nhiên, việc thờ cúng thần linh ở nước ta xưa kia nhiều vốn là hành động có ý nghĩa tích cực, bởi từ sự tích các anh hùng thần linh ít hoặc nhiều dấu vết cụ thể của những thời kỳ lịch sử nhất định. Ở họ là những kinh nghiệm làm ăn, chiến đấu, những đức tính yêu nước thương dân, trung thực, ngoan cường. Cho nên cũng như tục thờ cúng tổ tiên với ý nghĩa là tổ tiên vẫn tồn tại, tuy ở một thế giới khác, và vẫn theo dõi con cháu, khi cần thì phù họ cho con cháu vượt qua khó khăn, nhân dân ta từ xưa tới nay thờ cúng các vị thần linh vì đều tin rằng các vị đó vẫn sống mãi, bất tử và luôn phù hộ cho dân cho nước. Những anh hùng có công với dân với nước đều được nhân dân lập đền miếu thờ cúng, tôn làm thần linh và đã là thần linh thì có thể hiển ứng mỗi khi cần thiết.

Việc thờ cúng thần linh một mặt còn mang màu sắc tôn giáo nhưng một mặt thì lại gắn với ý thức vững bền của dân tộc về những kỳ tích của cha ông trong quá khứ. Việc thờ cúng như vậy rõ ràng là bao hàm những hy vọng và niềm tin chân thành của nhân dân. Xét đến cùng thì đây cũng là một hình thức bảo vệ truyền thống khá đặc biệt.

Như vậy, các vị thần linh đã thể hiện sức mạnh tinh thần bất diệt, và được miêu tả như những lực lượng viện trợ cho các thế hệ đời sau trong lúc nguy biến bằng con đường âm phù. Nhiều thần tích kể lại với một niềm tin chân thành, và dù có tin hay không tin vào sự việc hoang đường, khi kể lại sự âm phù của anh hùng đời trước đối với anh hùng đời sau, nhân dân lại muốn biểu hiện sự đồng tâm hiệp lực giữa các thế hệ trong việc xây dựng đất nước, bảo vệ đất nước, qua đó phản ánh sức sống mãnh liệt của những truyền thống dân tộc. Thăng Long là nơi còn lưu giữ được hàng trăm thần tích và các ngôi đình đền vẫn bền bỉ song hành với cuộc sống hiện đại. Người Hà Nội ngày nay dường như vẫn còn tìm một mối hòa đồng với thế giới tâm linh, thấy ở đó tiềm ẩn một năng lượng vô hình nhưng hữu hiệu.

2. Giá trị về mặt văn học

Trong các thần tích, motip của truyền thuyết dân gian được sử dụng đậm đặc. Đó là các motip sinh đẻ thần kỳ, chiến công phi thường và hóa thân thần kỳ. Ba motip nay được sử dụng như ba chặng chủ yếu của cốt truyện mà từ đó những chi tiết phụ được xâu chuỗi xung quanh.

Về motip sinh đẻ thần kỳ, thần tích có thể sử dụng nhiều dạng như: nuốt sao, giao long phủ, rắn quấn, mộng thấy thần nhân trao cho bông sen trắng...

Về motip chiến công phi thường, thì thần tích cũng kể ra vô số loại giặc có thật và không có thật, cùng với sự mô tả tính phi thường của nhân vật từ sức khỏe đến quyền phép. Khác với truyền thuyết thường chỉ kể vắn tắt, trong khi đó thần tích lại miêu tả tỉ mỉ cuộc chiến phi thường với nhiều tình tiết ly kỳ. Có lẽ đây là điểm khác nhau cơ bản giữa phương thức truyền miệng với phương thức ghi chép bằng văn tự.

Motip thứ ba mà ta thường gặp là motip hóa thân thần kỳ, trong dân gian gọi là ngài hóa. Theo các nhà nghiên cứu, trong khi miêu tả cái chết của các nhân vật phi thường, tác giả dân gian thường dùng motip hóa thân để chỉ sự bất tử của họ. Trong tiềm thức dân gian, người anh hùng luôn sống mãi, cái chết của họ chỉ là sự "trở về với tự nhiên, với hồn thiêng sông núi" và cho dù ở thế giới khác, họ vẫn hiện hữu, hiển linh âm phù và được người đời thờ phụng.

Cũng giống với hầu hết truyền thuyết về người anh hùng của Việt Nam, hiển linh âm phù cũng là chi tiết xuất hiện trong hầu hết các thần tích. Ví dụ thần tích phường Nhược Công, huyện Hoàn Long (AE.a2/27) kể về cái chết thần kỳ của Thưởng công: "Bấy giờ Thưởng công đang chiêu mộ binh sĩ ở châu Hoan, châu Ái, bỗng thấy Đông Hải Vương sứ thần tới triệu. Hôm đó, ông bèn hội binh tại huyện Yên Ninh được gần một ngàn người, lập tức truyền bắt lấy hơn 300 chiếc thuyền, đi theo đường biển, nhưng than ôi đạo trời khiến ra thành bại, việc hưng suy chỉ định một ngày (ngày mồng 10 tháng 9), ông tiến về mới đến con sông nhỏ Mãn Giang (bến Thanh Lũng huyện Thanh Lâm), bỗng cuồng phong nổi lên, trời đất tối sầm, sóng dâng cuồn cuộn, đáy sông cuồng dâng, ầm ầm sấm dậy, trên trời có dải mây xanh, rơi thẳng xuống thuyền của ông, làm thuyền ông tan ra, biến thành muôn màu lấp lánh. Bỗng có 3 tiếng sấm sét, đường thủy tan tành, thuyền của ông đột nhiên chìm mất. Gia thần ở các thuyền phía trước phía sau thấy ông đã hóa. Được một lúc, trời quang mây tạnh, thuyền của ông đã chìm từ lúc nào. Mọi người thấy thế ai cũng kinh ngạc, bàng hoàng cho là việc kỳ lạ, bèn tự giải tán trở về, chỉ còn vài trăm gia thần, chia làm hai đạo, một đạo trở về phường dinh báo cho phu nhân, một đạo theo sứ thần trở về báo với Đông Hải Vương".

Có thể thấy, các yếu tố truyền thuyết dân gian được sử dụng đậm đặc trong thần tích. Có hiện tượng này là bởi vì truyền thuyết dân gian luôn có xu hướng thiêng hóa thực tại để thể hiện sự tôn vinh của tác giả dân gian đối với nhân vật thông qua vai trò kỳ ảo. Thần tích đã dùng những yếu tố kỳ ảo để biểu hiện niềm tin của người dân vào tính thiêngcủa các vị thần trong tín ngưỡng thành hoàng mà họ phụng thờ.

Nhiều bản thần tích đã kể lại việc các vị thần báo mộng cho vua chúa để chỉ rõ điềm lành, điều dữ, hoặc là hiển linh âm phù để giúp triều đình dẹp giặc, trừ họa. Có khi các vị đó không giấu giếm mục đích của mình là lập công để mong được hưởng sự tế tự lâu dài, để được sửa sang hoặc xây dựng đền miếu. Không chỉ lúc chiến tranh, loạn lạc hay tai ương, ngay cả khi đất nước đã thái bình, thì việc mong muốn đất nước phồn thịnh, vận nước dài lâu, ngai vua bền vững cũng vẫn phải nhờ cậy thần linh giúp đỡ. Truyện Bảo quốc trấn linh định bang, quốc đô thành hoàng đại vương, sách Việt điện u linh kể về giấc mơ gặp thần nhân của vua Lý Thái Tổ khi dời đô ra Thăng Long. Truyện kể rằng: Khi Lý Thái Tổ thiên đô về, thường nằm mộng thấy có ông già đầu bạc thấp thoáng ở trước sân rộng, lạy hai lạy, cúi đầu mừng hô: "Vạn tuế". Vua lấy lạ liền hỏi họ tên. Ông già tâu hết nguyên ủy. Vua cười nói: "Vị tôn thần muốn hưởng giữ hương lửa tới trăm năm hay sao ? Đáp: "Cốt mong cho cơ đồ của Hoàng đế bền lâu như Thái Sơn, bàn thạch, thánh thọ vô cương, trong triều ngoài quận đều được thái hòa, thì lũ chúng tôi chẳng phải giữ được trăm năm hưởng lửa mà thôi đâu". Nhà vua tỉnh dậy, sai quan đền tế lễ phong thần làm quốc đô thăng Long Thành hoàng đại vương. Dân cư cầu đảo và làm lễ thề, thì họa hay phúc hiển ứng rõ ràng”.

Câu chuyện trên phản ánh mối quan hệ qua lại giữa “thần quyền” và “vương quyền”. Ở đây ta thấy có sự bắt gặp giữa một việc làm đáp ứng được hai nhu cầu. Một bên là nhu cầu muốn hệ thống hóa thần linh của triều đình phong kiến, một bên là nhu cầu muốn quan phương hóa thần linh sở tại. Không chỉ dân làng có thần được thờ mong muốn thần làng mình được công nhận thờ ở tầm quốc gia mà ngay cả thần linh cũng muốn được giữ hương lửa thờ cúng mãi mãi. Cho nên ở các bản thần tích, công tích của các thần thường được thêu dệt, tô vẽ quá mức, khiến cho văn phong các bản thần tích không còn gọn gàng súc tích mà trở lên dài dòng, nhàm chán. Đó cũng là một trong những hạn chế của các thần tích. Sự hạn chế đó là do điều kiện lịch sử quy định, khó có thể đòi hỏi người xưa phải vượt ra khỏi tư tưởng thần linh chủ nghĩa và ý thức hệ phong kiến.

Tóm lại, mặc dù còn có những hạn chế, nhưng những giá trị về mặt lịch sử, văn học, hay tâm linh... mà thần tích đem lại luôn được đánh giá cao. Hy vọng những vấn đề trong bài viết này sẽ được tiếp tục đi sâu nghiên cứu, nhằm làm sáng tỏ những giá trị mà thần tích Hà Nội đem lại, đồng thời để hiểu sâu hơn về mảnh đất Thăng Long "linh thiêng mà hào hoa".

Bài viết được sự tài trợ của Quĩ NAFOSTED, chúng tôi xin chân thành cảm ơn.

 

PGS.TS. Nguyễn Thị Oanh

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 5 (120).2013; tr. 48-61.

 

Chú thích:

(1) Kiều Thu Hoạch: Truyền thuyết anh hùng trong thời kì phong kiến, in trong sách Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.290.

(2) Nguyễn Duy Hinh: Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam. Nxb. KHXH, H. 1996, tr.383.

(3) Nguyễn Văn Huyên: Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Nxb. KHXH, H. 1995, tr.290.

(4) Bách thần lục. Nguyễn Tá Nhí dịch, Tài liệu chép tay, Thư viện Viện Văn học, Ký hiệu DHL/146, tr.2.

(5) Nguyễn Văn Huyên: Góp phần nghiên cứu văn hóa Việt Nam. Sđd, tr.450.

(6) Đại Nam thực lục. T.1, Nxb. Giáo dục, tr.484, 527, 644, 815 và 866; Quốc sử di biên, Nxb. KHXH, H. 2010, tr.184-185).

(7) Trần Văn Giáp: Lược truyện các tác giả Việt Nam, Nxb. KHXH, H. 1971, tr.259.

(8) Xem thêm: Từ điển văn họcTừ điển văn hóa Việt Nam; Luận án Tiến sĩ: Nghiên cứu và đánh giá văn bản thần tích địa phương Thái Bình của Mai Ngọc Hồng...).

(9)(10)Nguyễn Hữu Mùi: Tác giả Nguyễn Bính, Nguyễn Hiền và quá trình tàng trữ, sao lục thần tích ở thời Nguyễn. Luận văn Thạc sĩ. Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(11) Thơ văn Lý - Trần. Nxb. KHXH, 1978, Tập 3, tr.77.

(12) Lĩnh Nam chích quái, sách chữ Hán, ký hiệu A.2914, Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

(13) Trần Thị An: Đặc trưng thể loại và việc văn bản hóa truyền thuyết dân gian Việt Nam. Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. Hà Nội. 2000, tr.47.

(14) Đại Việt sử ký toàn thư. Tập I, Nxb. KHXH. H. 1998, tr.191-192./.

 

Hành trình thiên di của khối tài liệu lưu trữ Hán Nôm

Cũng như các quốc gia độc lập có chủ quyền khác trên thế giới, nước ta cũng đang sở hữu một khối văn thư lưu trữ khổng lồ, được tích lũy qua nhiều triều đại, thể chế chính trị; Mặc dù không còn đầy đủ như vốn có, nhưng đây là khối di sản vô cùng quý báu của tiền nhân, là bảo vật quốc gia, chứa đựng những gì mà bao thế hệ tiền nhân muốn để lại cho hậu thế.

Hiện nay, cơ quan vinh dự được giao cho nhiệm vụ quản bảo khối bảo vật này là Cục Văn thư và Lưu trữ nhà nước và quản lý ở bốn Trung tâm Lưu trữ quốc gia. Trung tâm Lưu trữ quốc gia I và III ở Hà Nôi, Trung tâm Lưu trữ quốc gia II ở TP.Hồ chí Minh, Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV ở Đà Lạt, theo nội dung và đặc điểm của tài liệu[1].

Về tư liệu Hán Nôm, hiện nay được lưu trữ, bảo quản ở ba Trung tâm:

Trung tâm I đang  quản lý một khối lương lớn tài liệu, khoảng hơn 4.000m kệ chứa tư liệu, bao gồm: Khối tư liệu Hán Nôm: gồm Châu bản, Địa bạ triều Nguyễn, các sách do Quốc sử quán biên soạn in ấn, các sách ngự lãm của các hoàng đế trong thư viện hoàng gia trước đây cùng các phông sưu tập khác, như Nha Kinh lược Bắc kỳ, Nha huyện Thọ Xương, sưu tập thời Hồng Đức, Tây Sơn… Trung tâm II hiện đang lưu trữ khối tài liệu Sổ bộ Hán Nôm (Các loại văn bản liên quan đến tình hình nạp thuế ở các địa phương từ 1819-1918). Trung tâm IV lưu trữ khối tài liệu Mộc bản (bản khắc chữ trên gỗ cây thị và gỗ cây mít của Quốc sử quán triều Nguyễn).

Các khối tài liệu đều có vị trí quan trọng trong công tác nghiên cứu. Hai khối tư liệu Châu bản triều Nguyễn và Địa bạ Nam kỳ là những tài liệu vô cùng quan trọng cho công tác nghiên cứu lịch sử văn hóa và cả kinh tế Nam bộ trong hai thế kỷ  XVIII, XIX.

Châu bản là các văn bản thuộc thẩm quyền hoàng đế ban hành và các loại tấu sớ của các cơ quan trung ương (Nội các, Cơ mật viện, Quốc sử quán, Tôn nhân phủ, lục bộ…) hoặc của các tỉnh thần địa phương tâu lên được hoàng đế phê chuẩn băng mực son (châu phê). Đó là cơ sở chính thống để Quốc sử quán biên soạn các bộ lịch sử. Còn Địa bạ là sổ mô tả ghi chép về quyền sở hữu từng mảnh ruộng đất, với diện tích, tứ cận cụ thể của từng, chủ sở hữu, khác với điền bạ là sổ tính thuế ruộng đất. Địa bạ làm một lần khi đo đạc, còn điền bạ mỗi năm làm một lần. Trước cách mạng tháng Tám 1945, hai khối tài liệu này lưu trữ ở Tàng Thư Lâu (Huế)

Ở Việt Nam công tác lưu trữ được hình thành và phát triển rất sớm cùng với các giai đoạn lịch sử của dân tộc. Kế thừa thành quả và kinh nghiệm của các triều đại trước, đến thời nhà Nguyễn mọi văn bản hình thành trong hoạt động của bộ máy nhà nước đều được lưu giữ bảo quản chu đáo. Tàng Thư Lâu và các cơ quan chuyên trách về lưu trữ được thành lập. Dưới thời Pháp thuộc, công tác lưu trữ ở nước ta đặt dưới sự quản lý tập trung quản lý theo kỹ thuật phương tây. Năm 1917, Nha Lưu trữ và Thư viện Đông Dương được thành lập, trực thuộc Phủ Toàn quyền Đông Dương, tổ chức lại các kho lưu trữ cùng với việc chỉ đạo và thanh tra công tác đặc biệt này.

Năm1938, ông Ngô Đình Nhu[2] về nước làm việc ở Văn khố Phủ Toàn quyền Đông Dương (Hà Nội). Năm 1943, ông được chuyển sang làm Giám đốc Văn khố Tòa khâm sứ Huế. Về sau được Văn phòng Nam triều mời giữ chức Chủ tịch Hội đồng chỉnh đốn Châu bản và Văn khố nhà Nguyễn. Trong thời gian 3 năm, từ 1942 đến 1944, với vai trò Chủ tịch Hội đồng cứu nguy Châu bản và Cố vấn kỹ thuật, ông Ngô Đình Nhu đã đóng góp một phần quan trọng vào việc tập trung tài liệu của 5 nguồn (Quốc Sử quán, Tàng Thơ lâu, Nội các, Viện Cơ mật trước đó và Thư viện Bảo Đại) vào cơ quan Lưu trữ và Thư viện của Chính phủ Nam triều.

thiendi1

          Sắc lệnh số 21 (8-9-1945) do ông Võ Nguyên Giáp ký

 cử ông Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ và Thư viện toàn quốc.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này, nên ngay khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ký Sắc lệnh cử Ngô Đình Nhu làm Giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện Quốc gia tại Hà Nội. Ông phục vụ cho ngành lưu trữ đến năm 1946.

Trước khi cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954) kết thúc, người Pháp có đưa một khối lớn văn thư lưu trữ của Việt Nam về Pháp hiện đang lưu trữ tại nhiều nơi trên đất Pháp.

Trong thời gian sau khi Nhật đảo chính (9/3/1945) đến khi ký kết Hiệp định Genève (7/1954), các văn khố ở kinh đô Huế hầu như không người quản lý, không biết bao nhiêu văn bản hư mục, mất mát, đem bày bán làm giấy vấn thuốc rê đầy rẫy ở nhiều chợ trên đất kinh đô Huế[3].

Năm 1959, chính quyền VNCH thành lập Nha Giám đốc Văn khố và Thư viện toàn quốc trực thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục, cho chuyển tất cả châu bản, mộc bản, sách cổ và sách ngự lãm về Đà Lạt để bảo quản trong điều kiện khí hậu tốt hơn Huế.

Ngày 28-1-1973, Thủ tướng VNCH đã ban hành Sắc lệnh số 18-SL/QVK/VH cải danh Nha Văn khố và Thư viện quốc gia thành Nha Văn khố quốc gia.[4] Đến tháng 3/1975, để bảo đảm an toàn cho các tài liệu lưu trữ trước sức tiến quân ào ạt của Quân Giải phóng, các tài liệu châu bản, địa bạ, sách cổ, sách ngự lãm…  được gấp rút chuyển về Sài Gòn.

Sau năm 1975, đáp ứng yêu cầu thống nhất xây dựng và phát triển công tác văn thư lưu trữ, năm 1976, Nha Văn khố quốc gia thuộc Chính phủ VNCH bàn giao cho Sở Lưu trữ miền Nam (thuộc Cục Lưu trữ Phủ Thủ tướng) và ngay sau đó, Bộ Trưởng Phủ Thủ tướng thành lập kho Lưu trữ Trung ương II (thuộc Cục Lưu trữ) đặt tại thành phố Hồ Chí Minh.

Đến năm 1991, để thống nhất quản lý các kho tư liệu trong phạm vi cả nước, các kho châu bản, địa bạ, sách cổ và sách ngự lãm ở Trung tâm Lưu trữ II đã chuyển ra Hà Nội giao cho Trung tâm Lưu trữ quốc gia I để bảo quản và xử lý kỹ thuật.

Đối với hoạt động học tập, phổ biến kiến thức, nghiên cứu về lịch sử, văn hóa và cả kinh tế về Nam bộ, khối tài liệu Châu bản triều Nguyễn và Địa bạ Nam kỳ có vai trò đặc biệt quan trọng, có thể nói nó mang tính quyết định chất lượng của công trình, nếu khối tài liệu này được khai thác đúng mức. Tuy nhiên, trong thời qua, do nhiều yếu tố khách quan tác động, khối tài liệu này chưa phát huy được tối đa giá trị của nó:

– Trước đây khối tài liệu này được lưu trữ bảo quản ở kinh đô Huế, từ 1959 đến 1991, chỉ trong 36 năm, phải trải qua 4 lần di chuyển.

– Sự thay đổi liên tục nơi tàng trữ, quản lý ảnh hưởng đến tuổi thọ số lượng và quá trình xử lý kỹ thuật chuyên môn lưu trữ đối với tài liệu lưu trữ.

– Ở mỗi nơi quản lý có cách xử lý kỹ thuật chuyên môn khác nhau, từ phân loại, ghi trích yếu, đánh mã số, xây dựng mục lục; việc này ảnh hưởng lớn đối với công tác sưu tầm nghiên cứu.

– Cách tiếp cận với khối tài liệu này còn quá nhiều hạn chế: trước hết là trong nước quá ít người biết chữ Hán, kế đến là nơi tàng trữ tài liệu quá xa với đối tượng nghiên cứu đi lại nhiều tốn kém, cuối cùng là thủ tục hành chính.

Chính vì vậy mà có một số công trình nghiên cứu về lịch sử, văn hóa, xã hội và con người Nam bộ có cái  nhìn lệch lạc méo mó, không thật như đối tượng vốn có.

Công trình nghiên cứu Địa bạ Nam kỳ của nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu chỉ mang tính khái quát, nhưng cố giáo sư Phan Huy Lê đã đánh giá: “ Anh Nguyễn Đình Đầu đi đầu trong việc khai thác kho tư liệu (Địa bạ) cực kỳ phong phú này…Kết quả nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu đặt lại một số vấn đề buộc các nhà khoa học phải kiểm tra lại nhận thức cũ của mình[5]. Giáo sư Trần Văn Giàu cũng nhận định: Thật vậy, công trình này sẽ khỏa lấp một phần, một phần đặc biệt quan trọng trong sự tìm hiểu đất nước và dân tộc Việt Nam[6].

Châu bản triều Nguyễn về cuộc kháng chiến chống Pháp tại Nam kỳ

Đối với khối tài liệu Châu bản triều Nguyễn, đặc biệt là châu bản thời Tự Đức có nhiều châu bản liên quan đến công cuộc chống Pháp ở Nam kỳ; trước đây có rất ít nhà nghiên cứu, luận án sau đại học trong nước có điều kiện tiếp cận. Gần đây được sự tạo điều kiện thuận tiện của Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, chúng tôi tiếp cận được kho tư liệu này và sơ bộ trích chọn ra được gần 200 châu bản thuộc loại này; qua đó giúp chúng ta có cái nhìn khác với trước đây về thái độ của nhà Nguyễn trước cuộc xâm lược của thực dân Pháp. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu ba trong số châu bản nói trên:

1. Châu bản liên quan đến Nguyễn Trung Trực – Hồ Huân Nghiệp:

Dịch nghĩa:

Chúng thần viện Cơ mật tâu: Ngày tháng 12 năm ngoái, nhận được phiến tấu của quan Điền Nông sứ Phan Trung, căn cứ thám báo gửi về sự trạng tử tiết của Hồ Huân Nghiệp và Nguyễn Trung Trực, đã tâu trình đầy đủ lên, vâng được châu phê: Xem xét lại cho rõ đầu đuôi sự trạng của 2 người đó, xuất thân từ đâu, từng làm quan chưa, theo người nào, làm việc gì, chết ngày nào mới có thể biết xứng đáng hay không, rồi tâu hết lên. Chúng thần đã lục giao thực hiện. Nay nhận được phúc của viên đó nói rằng, Hồ Huân Nghiệp, Nguyễn Trung Trực làm gì, chết ngày nào, thì hỏi các người Trung Nam đến nói không biết rõ. Xin chờ viên đó phái người do thám cho rõ xin sẽ phúc đáp.

thiendi2

Châu bản Tự Đức về truy lục sự trạng tử tiết của Nguyễn Trung Trực, Hồ Huân Nghiệp.

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

2. Châu bản liên quan đến Võ Duy Dương:

thiendi3

Châu bản Tự Đức về truy xét công trạng và thưởng cho thân nhân Thiên hộ Võ Duy Dương

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

Dịch nghĩa:

Viện Cơ Mật tấu: Ngày mùng 4 tháng trước, tiếp nhận 1 bản mật phúc của Thự Tổng đốc Bình Phú là Thân Văn Nhiếp đã kính cẩn dâng lên. Vâng xét: Ngày tháng 5 năm nay, viện thần vâng làm tờ phiến liệt kê công trạng người miền Nam xin cho thưởng, có ghi kèm: Võ Duy Dương quê huyện Tuy Viễn, tỉnh Bình Định, xin mật tư về tỉnh ấy dò hỏi viên này có con cháu hay không, phúc trình đầy đủ để xét thưởng. Theo tờ tư của viên Đốc thần tỉnh ấy ghi: Người anh ruột của Dương là Võ Hữu Biểu, Võ Duy Tân khai rõ rằng em ruột của y là Võ Duy Dương cũng lần lượt theo làm việc quân. Lại tỉnh ấy đã cấp cho mẹ già (hiện nay 71 tuổi) mỗi tháng 1 phương gạo và 5 quan tiền. Vợ cả của Dương sinh 1 con trai là Võ Duy Cung (hiện nay 11 tuổi), vợ lẽ sinh 1 con trai là Võ Duy Phụng (hiện nay 13 tuổi). Viên Đốc thần ấy lại đem những người chết vì việc nghĩa đã dò hỏi được từ Nguyễn Quang đến Nguyễn Thị Diệu gồm 38 người, liệt kê phía sau. Trong bản sách này Võ Duy Dương được đề nghị xét công đầu truy thọ Quản cơ chánh tứ phẩm. Hai con còn nhỏ của ông ta xin được ghi tên đợi sau này trưởng thành sẽ do quan địa phương sở tại tâu xin được tập ấm. Lại từ Võ Duy Dương và Nguyễn Quang gồm 39 người, xin được theo phê bảo cho lập 1 đàn tế tự để an ủi vong linh người đã mất. Khoản này nếu được chuẩn y, xin để tỉnh thần Khánh Hòa chi xuất tiền công, mua sắm lễ, cùng với Phan Trung chọn ngày soạn bài văn lập đàn tế tự.

 Châu phê: “Nay nhân tế tặng quan viên, truyền chọn ngày sắm đủ lễ phẩm, dùng lễ nghi trọng hậu tế những người tuẫn nghĩa ở Nam Kỳ.”…

3. Châu bản liên quan đến Lê Chất:

thiendi4

Tờ kê khai hành trạng của Lê Chất-Châu bản Tự Đức

Nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

Dịch nghĩa:

Nguyên coi toán lính chiến tâm, tỉnh Định Tường được thưởng thụ Chánh đội trưởng suất đội, quyền sung quản toán là Lê Văn Chất bẩm rằng: viên ấy trước đây ở phủ Tân An, tỉnh Gia Định. Năm tự Đức thứ 13 (1860), Gia Định hữu sự, y được quan lãnh tỉnh Định Tường cấp bằng ra sức chiêu mộ được 50 người khỏe mạnh lập thành một đội theo tỉnh sai phái đánh dẹp giặc, được theo lệ thưởng thụ Chánh lục phẩm suất đội, lãnh một đạo sắc văn. Khi tỉnh ấy không giữ được, y lưu lạc trong dân, ngầm về chiêu tập đội cũ chứ không nản chí. Viên ấy đổi tên là Lê Văn Xán theo tỉnh Hà Tiên sai phái. Nay thừa lịnh kê khai.

Ngày mùng 4 tháng 2 năm Tự Đức thứ 19 (1866)

Lê Văn Chất ký                                            

Viên chép tờ khai ký

Trên đây là mấy nét về hành trình thiên di của khối tư liệu lưu trữ Châu bản triều Nguyễn và Địa bạ triều Nguyễn từ năm 1959 đến nay cùng vài nhận định sơ bộ về giá trị của khối tư liệu lưu trữ được xem là di sản dân tộc và nhân loại.

Với chủ trương đưa tư liệu lưu trữ ra công chúng, để phát huy các giá trị tài liệu của Cục Văn thư và Lưu trữ hiện nay, các sinh viên sau đại học, các nhà nghiên cứu sẽ có điều kiện tiếp cận các khối tài liệu đồ sộ trong các Trung tâm Lưu trữ quốc gia, nhất là khối tư liệu Châu bản và Địa bạ triều Nguyễn; hy vọng trong tương lai gần, trong nước sẽ xuất hiện các công trình luận án tiến sĩ ngang tầm với các tác phẩm của Li Tiana, Yoshihara Tsuboi, Choi Byung Wook…

Văn hóa Việt Nam là văn hóa chữ Hán, với di sản Hán Nôm đồ sộ trong các kho lưu trữ, bị gãy khúc bởi cuộc xâm lăng và thống trị của thực dân Pháp cùng với sự xuất hiện chữ Pháp và chữ “quốc ngữ Latin”. Sự gãy khúc này có nguy cơ đứt đoạn, nếu chúng ta không kịp thời đưa chữ Hán vào chương trình giáo dục phổ thông, như ở Nhật Bản và Hàn Quốc hiện nay. Thậm chí ngay cả khi người Pháp còn thống trị nước ta, họ cũng không quên đào tạo đội ngũ chuyên viên am tường chữ Hán ở bậc Đại học hay trên nữa. Như vậy, chúng ta mới có chìa khóa mở được kho tàng di sản văn hóa do tiền nhân lưu lại.

 

Nguyễn Hữu Hiếu

Nguyễn Thanh Thuận

Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Đồng Tháp

[1]Bộ Nội Vụ (2017), Giới thiệu Cục Văn thư & Lưu trữ Nhà nước, Hà Nội

[2]Ông sinh năm 1910 tại xa Phước Qua, tổng Cự Chánh, (nay thuộc huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế). Là con trai của Ngô Đình Khả, Thượng thư Bộ Lễ dưới triều vua Thành Thái. Sang Paris theo học tại trường Cổ tự học Quốc gia (Ecole Nationale des Chartes), năm 1938 ông về nước, ông được bổ nhiệm Lưu trữ viên – Cổ tự tại Sở Lưu trữ và Thư viện Đông Dương ở Hà Nội.

[3]Nguyễn Đình Đầu (1994) Tổng kết nghiên cứu Địa bạ Nam kỳ, Nxb Tp.HCM, tr.39.

[4]Nghiêm Ky Hồng Khái quát về Lưu trữ Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975)

http://luutru.hcmussh.edu.vn/?ArticleId=77df671b-b67c-404a-bc75-e7fa1867def8

[5]Nguyễn Đình Đầu (1994), Sđd, 12.

[6]nt

Nguồn, Trung tâm lưu trữ quốc gia I, ngày 16.8.2018.

Năm 1998, Viện Nghiên cứu Hán Nôm và Viện Viễn đông Bác cổ Pháp đã xuất bản tập sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 1: Từ Bắc thuộc đến triều Lý. Đây là tập sách đầu tiên tập hợp, hệ thống toàn bộ 27 bài minh văn được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, mở đầu là văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn niên đại Tùy Đại Nghiệp thứ 14 (618) và cuối cùng là bia Trăn Tân từ tích với niên đại đoán định trong khoảng thời gian cuối đời Lý (1175-1225). Trong 27 bài minh văn này, có 18 minh văn mang niên đại thời Lý. Từ khi sách xuất bản đến nay, đã phát hiện thêm một số văn khắc có niên đại nhà Lý và sớm hơn tại các địa phương như: Bắc Ninh với bia niên đại nhà Tùy, bia Lý được phát hiện thêm tại Thái Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa và gần đây nhất là tại Nghệ An do đoàn sưu tầm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm mới in dập về. Điểm qua như vậy để thấy rằng, các tư liệu văn khắc Hán Nôm trên chất liệu đá hoặc đồng có niên đại sớm từ thời Lý - Trần ngược trở lên đến thời kỳ Bắc thuộc có thể vẫn còn tồn tại nhưng chưa được phát lộ và chúng sẽ được cập nhật bổ sung trong quá trình khảo cứu, sưu tầm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm cũng như các nhà nghiên cứu tại địa phương. Trở lại với các văn khắc Hán Nôm thời Lý hiện được công bố trong tập sách nói trên cũng như mới phát hiện thời kỳ gần đây, chúng tôi có một số nhận xét sau.

A. Về văn bản văn khắc Hán Nôm thời Lý

Theo sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, tập 1: Từ Bắc thuộc đến triều Lý có 18 văn bản thời Lý. Chúng tôi lấy bộ sách này làm bản chuẩn để khảo cứu về văn khắc Hán Nôm thời Lý vì lần đầu tiên các bài minh văn từ thời Lý được công bố ảnh chụp bia đá, thác bản và chế bản vi tính kèm theo những chú thích rất cẩn thận. Ngoài ra chúng tôi có cập nhật thêm một số thông tin mới phát hiện hoặc công bố sau khi tập sách trên được xuất bản. Dưới đây là tóm lược các văn bản.

1. A Di Đà Phật tụng 阿彌陀佛頌, đây là văn bản khắc trên bệ tượng Phật chùa Hoàng Kim hay còn gọi là chùa Một Mái xã Hoàng Ngô huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây cũ. Văn bản được khắc ngay sau khi tạc pho tượng A Di Đà vào năm Hội Phong thứ 8 (1099).

2. An Hoạch sơn Báo Ân tự bi ký 安穫山報恩寺碑記,văn bản được khắc trên bia chùa Báo Ân núi An Hoạch huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa. Văn bia do Chu Văn Thường giữ chức Thự hiệu Thư lang quản câu Ngự phủ, Đồng trung thư viện biên tu kiêm chức Thái thú quận Cửu Chân soạn. Văn bản không ghi niên đại nhưng được đoán định khắc sau năm 1110 tức là sau năm dựng chùa không lâu.

20200403 4

Bia chùa Báo Ân tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia - Nguồn: http://baotanglichsu.vn/

3. Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi 保寧崇 福寺碑,văn bản được khắc trên bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ở xã An Nguyên huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang. Văn bia do Lý Thừa Ân, chức Triều liệt đại phu Đông thượng cáp môn sứ, Thượng thư Viên ngoại lang, tứ Tử Ngư đại soạn. Văn bản không ghi niên đại nhưng cũng được đoán định là được khắc sau khi xây chùa năm 1107.

4. Thiên Phúc tự hồng chung minh văn 天福寺洪鍾銘文,là văn bản khắc trên chuông chùa Thiên Phúc núi Phật Tích xã Thụy Khuê huyện Quốc Oai tỉnh Hà Tây cũ. Minh văn do Sa môn Thích Huệ Hưng soạn vào ngày mồng 9 tháng 8 năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (5/9/1109). Minh văn nay không còn, không có thác bản mà chỉ dựa trên sách Kim văn loại tụ hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

5. Sùng Nghiêm Diên Thánh tự bi minh 崇嚴延聖寺碑銘,văn bản được khắc trên bia chùa Sùng Nghiêm Diên Thánh tại xã Thọ Hạc tỉnh Thanh Hóa. Văn bia do Đại sư Hải Chiếu tự là Pháp Bảo soạn vào ngày 19 tháng 10 năm Hội Tường Đại Khánh thứ 9 (3/12/1118).

6. Đại Việt quốc Lý gia đệ tứ đế Sùng Thiện Diên Linh tháp 大越國李 家弟四帝崇善延靈塔碑,văn bản khắc trên bia chùa Long Đọi thôn Đọi Sơn huyện Duy Tiên tỉnh Hà Nam. Văn bia do Thượng thư Bộ Hình là Nguyễn Công Bật soạn, Lý Bảo Cung vâng sắc viết chữ. Bia được dựng vào ngày 6 tháng 7 năm thứ 2 Thiên Phù Duệ Vũ (20 tháng 8 năm 1121).

7. Càn Ni sơn Hương Nghiêm tự bi minh 乾尼香嚴寺碑銘,văn bản được khắc trên bia chùa Hương Nghiêm thôn Diên Hào huyện Lôi Dương nay là xã Thiệu Trung huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa. Văn bia không ghi người soạn nhưng theo khảo cứu của Hoàng Xuân Hãn thì tác giả bài văn bia này có lẽ là nhà sư Hải Chiếu. Bia được dựng ngày mồng 4 tháng 12 năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 5 (ngày 10 tháng 1 năm 1125), nhưng văn bia được khắc lại vào mùa đông năm Bảo Thái thứ 7 (1726).

8. Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh 仰山靈稱寺碑銘,văn bản được khắc trên bia chùa Ngưỡng Sơn Linh Xứng ở xã Ngọ Xá phủ Hà Trung tỉnh Thanh Hóa. Văn bia do Đại sư Hải Chiếu soạn, Thông phán Lý Doãn Từ viết chữ, sư Huệ Thống khắc chữ. Bia được dựng ngày mồng 3 tháng 3 năm Thiên Phù Duệ Vũ thứ 7 (28/3/1205).

9. Cổ Việt thôn Diên Phúc tự bi minh 古越村延福寺碑銘,văn bản khắc trên bia chùa Diên Phúc thôn Cảnh Lâm xã Tân Việt huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên. Văn bia do Công Diếm soạn. Bia không ghi năm dựng nhưng được đoán định được dựng sau năm Đại Định thứ 18 (1157) là năm dựng chùa.

10. Cự Việt quốc Thái úy Lý công thạch bi tịnh tự 鉅越國太尉李公石碑 銘序, văn bia được tìm thấy ở thôn An Lạc xã Trưng Trắc huyện Văn Lâm tỉnh Hưng Yên. Bia được dựng cho Thái úy Lý công Đỗ Anh Vũ sau khi ông mất. Văn bia không ghi người soạn và năm dựng bia nhưng được đoán định là được soạn sau khi Đỗ Anh Vũ mất (ngày 20 tháng Thái thốc năm Mậu Dần niên hiệu Đại Định tức 9/2/1159). Hiện nay bia và thác bản văn bia đều không còn, bài văn bia dựa trên bản sao chép của Hoàng Xuân Hãn.

11. Hoàng Việt Thái phó Lưu quân mộ chí 皇越太傅劉君墓誌, đây là bia mộ chí của Thái phó Lưu Khánh Đàm tại xã Lưu Xá huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Văn bia không ghi người soạn và niên đại nhưng căn cứ theo nội dung thì niên đại đoán định là được dựng vào năm 1161, tức là năm Thái phó Lưu Khánh Đàm mất. Theo Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý thì hiện nay văn bia không còn, thác bản cũng không có. Văn bản tuyển chọn trong bộ sách trên được sao chép lại từ văn bản do Lý trưởng Trần Văn Chuyển và hào mục xã Lưu Xá sao chép lại, bản sao chép ấy hiện đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Tuy nhiên chỉ sau khi bộ sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời Lý được xuất bản vài năm thì văn bia này được phát hiện tại chính quê hương của Lưu Khánh Đàm. Theo Lâm Giang, trên Tạp chí Hán Nôm số 4/2000, bia mộ của Thái phó Lưu Khánh Đàm được phát hiện tại giữa lăng mộ của Lưu Khánh Đàm ở thôn Lưu Xá, xã Canh Tân huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Đây là bia cổ còn được giữ nguyên chưa bị khắc lại(1).

12. Đại Chu Ma sơn áng Đại Quang Thánh nham bi 大朱摩山盎大光聖岩碑, đây là bia ma nhai ở cửa động Am Tiên xã Trường Yên huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Văn bia do Đại sư Bồ Đề soạn vào năm Chính Long Bảo Ứng thứ 4 (1166).

13. Phụng Thánh phu nhân Lê thị chi mộ chí 奉聖夫人黎氏之墓誌,bia tìm thấy tại chùa Diên Linh Phúc Thánh gần xã Hương Nộn huyện Tam Dương tỉnh Vĩnh Phúc, do một vị Quốc sử không ghi tên soạn. Bia không ghi năm tạo dựng nhưng căn cứ theo nội dung văn bia thì niên đại đoán định là sau năm Chính Long Bảo Ứng thứ 11 (1174). Tuy nhiên đây không phải là bia gốc mà đã bị khắc lại, có thể vào giai đoạn Lê Trung hưng hoặc Nguyễn.

14. Bảo Chưởng Thái bà mộ chí 寶掌太婆墓誌,đây là bia mộ được tìm thấy ở xã Hòa Chúng huyện Quảng Xương (nay thuộc huyện Tĩnh Gia) tỉnh Thanh Hóa. Bia không ghi tên người soạn và năm soạn nhưng căn cứ vào niên đại ghi năm mất của chủ nhân mộ chí là năm Đinh Mão Trị Bình Long Ứng thứ 3 (1207) có thể đoán định bia được khắc và dựng vào tháng 8 hoặc tháng 9 năm 1207. Bia còn giữ nguyên văn bản gốc.

15. Viên Quang tự bi minh, 圓光寺 碑銘,văn bản được khắc trên bia chùa Viên Quang thôn Hộ Xá xã Xuân Nghĩa huyện Hải Hậu tỉnh Nam Định. Văn bia do Dĩnh Đạt soạn, không ghi năm soạn. Nhưng căn cứ theo các sự kiện được phản ánh trong văn bia thì có thể đoán định văn bia được soạn vào thời Lý Cao Tông (1175-1210). Văn bia được đời sau khắc lại.

16. Báo Ân thiền tự bi ký 報恩禪寺 碑記,văn bản được khắc trên bia chùa Báo Ân xã Tháp Miếu tổng Bạch Trữ huyện Yên Lãng nay thuộc huyện Mê Linh tỉnh Vĩnh Phúc cũ. Văn bia do Trấn ty Viên Ngoại lang Ngụy Tự Hiền soạn. Bia dựng vào tháng 12 năm Trị Bình Long Ứng thứ 5 (1210). Bia được khắc lại sau này.

17. Chúc Thánh Báo Ân tự bi 祝聖 報恩寺碑, văn bản khắc trên bia chùa Chúc Thánh Báo Ân, hiên nay bia dựng tại sân nhà thờ Đỗ Thế Diên thôn Thanh Xá xã Nghĩa Hiệp huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên. Bia do Triều liệt đại phu triều Lý là Đỗ Thế Diên dựng nhưng không ghi năm tạo dựng. Dựa vào những sự kiện nêu trong văn bia để đoán định niên đại tương đối của văn bản trong khoảng thời gian từ 1185-1214. Văn bia còn giữ nguyên bản gốc.

18. Trăn Tân từ tích 溱津祠跡,bia đặt tại đền Trăn Tân xã Phú Thọ huyện Lang Tài tỉnh Bắc Ninh. Văn bia không ghi tên người soạn và năm soạn. Niên đại tương đối của văn bia được đoán định dựng vào cuối thời Lý (1175-1225), nhưng bia này được khắc lại trong khoảng thời gian từ 1427-1527.

Ngoài 18 đơn vị văn khắc thời Lý vừa nêu trên được đưa vào bộ sách Văn khắc Hán Nôm Việt Nam tập 1 (sdd), hiện nay tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm còn lưu giữ 3 văn bản thời Lý mới được phát hiện. Văn bản thứ nhất là tấm bia Hoàng Việt Thái phó Lưu quân mộ chí viết về Thái phó Lưu Khánh Đàm mà chúng tôi vừa nêu ở trên. Văn bia này được phát hiện do Lâm Giang, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đi sưu tầm tư liệu tại huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình. Bia đá vẫn còn nguyên vẹn tại khu mộ của Lưu Khánh Đàm. Thác bản văn bia này đã bổ sung cho bài văn bia được ghi lại trong Văn khắc Hán Nôm Việt Nam tập 1. Văn bản thứ hai là bia Minh Tịnh tự bi văn 明凈寺碑文,được phát hiện tại nghè thôn Tế Độ xã Hoằng Phúc huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa. Bia dựng ngày 15 tháng 2 năm Canh Ngọ niên hiệu Quảng Hựu thứ 6 (1090). Văn bia do Sa di Bạch Liên hiệu Thiện Giác soạn, Thiền sư Thích Nghĩa Thường viết chữ, thợ đá Tô Diên Thái tạc bia, Hoàng Bí, Hoàng Thiều dựng bia, Đồng tri trại Thanh Hóa, Nội điện Sùng ban là Hoàng Thừa Nhĩ phụ giúp dựng bia. Bia do Phạm Văn Thắm phát hiện và giới thiệu trên Thông báo Hán Nôm học năm 2000 và Tạp chí Hán Nôm số 5/2003(2).

Văn bản thứ ba được phát hiện tại chùa trong động thôn Phong Phú xã Ninh Giang huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình. Đây là bia ma nhai không có tiêu đề được khắc vào vách hang. Văn bia được khắc vào năm Bính Ngọ niên hiệu Kiến Gia (1211-1224). Tuy nhiên khi đối chiếu với niên biểu Việt Nam thì chúng tôi không thấy có năm Bính Ngọ trong niên hiệu Kiến Gia. Theo tác giả Trần Thị Tiệp trong Thông báo Hán Nôm học năm 2003, thì có lẽ là niên đại bị khắc nhầm từ Nhâm Ngọ thành Bính Ngọ(3) và niên đại của văn bản được suy đoán là năm Kiến Gia Nhâm Ngọ (1222). Văn bia này hiện cũng đã có thác bản tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Văn bản thứ tư chúng tôi muốn đề cập ở đây là văn bia Cự Việt An Thái tự bi 鉅越安泰寺碑không ghi niên đại nhưng ngay dòng đầu tiên của văn bia đã ghi là Anh Tông năm thứ 4 như là cách vào đề của một câu chuyện. Vì bia mới được nhập kho chưa có điều kiện khảo cứu nhưng với tên bia là Cự Việt An Thái tự bi thì chúng tôi nghiêng về đây là niên đại Anh Tông nhà Lý hơn là Anh Tông nhà Trần. Bởi tên Cự Việt đã xuất hiện trên bia thời Lý với phong cách kiểu chữ Triện và điều này cũng lặp lại trên bia mới được sưu tầm về từ chùa Yên Thái xã Sơn Hải huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Văn bia này do nhóm sưu tầm của Vũ Việt Bằng, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đi in dập. Về kiểu dáng và hình thức trên bia gồm chữ viết, trang trí hoa văn đã cho người đọc cảm nhận rất rõ đây là bia có niên đại sớm. Theo quan sát ban đầu thì bia bị mờ chữ nhiều nhưng nếu cố gắng để khôi phục văn bản thì vẫn có thể đọc được nội dung, đặc biệt chữ trên trán bia, hoa văn trang trí xung quanh mang đậm dấu ấn văn bia thời Lý. Hy vọng khi có điều kiện khảo cứu kỹ sẽ cho biết những thông tin cụ thể được phản ánh trên bia. Với văn bia này, theo chúng tôi, bản đồ phân bố văn khắc Hán Nôm thời Lý đã kéo dài đến Nghệ An một vùng biên viễn phía nam của Đại Việt bấy giờ.

B. Một số đặc điểm của văn khắc Hán Nôm thời Lý

-Hầu hết các bài minh văn thời Lý đều khắc trên đá, chỉ có một văn bản khắc trên chuông đồng. Tuy vậy vẫn cho thấy có thể đã từng có nhiều văn bản khắc trên đồng nhưng do chất liệu đồng quý hơn đá gấp nhiều lần,lại có thể sử dụng đồng trong nhiều lĩnh vực khác nên chuông, khánh đồng dần dần bị mất mát hoặc bị sung để đúc tiền. Chính bài minh văn niên đại Cảnh Thịnh trên chuông chùa Thày ở Quốc Oai, Hà Tây cũ đã cho biết quả chuông đúc năm Long Phù Nguyên Hóa thứ 9 (1109) đã tồn tại đến năm 1789 mới bị phá đi để đúc tiền(4).

-Có 19/21 văn bia hiện vẫn còn trên bia đá dù có những văn bia đã được khắc lại sau này, 13/21 văn bản là bản gốc, số còn lại được khắc lại về sau, riêng văn bản khắc trên chuông và văn bia về Đỗ Anh Vũ chỉ dựa vào tài liệu chép tay.

-Các văn bản này chủ yếu được tạo dựng và lưu giữ tại các ngôi chùa, có đến 13/21 văn bản thuộc loại này. Tiếp đến là số văn bản được tạo dựng tại lăng mộ, có 5/21 văn bản. Bia ma nhai có 2 văn bản, tại đền có 1 văn bản.

- Niên đại của văn khắc thời Lý có một vài điều đáng lưu ý. Có tới 10/21 văn bản không ghi niên đại và niên đại được đoán định thông qua những sự kiện được nêu trong văn bản. Do vậy đây chỉ là niên đại tương đối. Số văn bản có ghi niên đại chính xác chỉ chiếm ½ trong tổng số văn khắc Hán Nôm thời Lý.

-Về các tác giả soạn các bài minh văn hoặc những người tham gia tạo dựng văn bản văn khắc Hán Nôm thời Lý có mấy điểm lưu ý. Đó là chỉ có 12/20 văn bản ghi người soạn, trong đó các nhà sư soạn 6 văn bản, riêng Đại sư Hải Chiếu đã soạn 3 văn bia ở Thanh Hóa, chứng tỏ các nhà sư bấy giờ có vai trò rất lớn trong xã hội, có một trình độ Hán học uyên thâm nên họ được mời soạn các bài minh văn truyền hậu thế. Bên cạnh đó có một đặc điểm mà văn bia thời sau ít đề cập, đó là ghi tên những người dựng bia bên cạnh tên người soạn, người viết chữ, thợ khắc đá. Bia trên chùa Minh Tĩnh còn ghi cả tên hai người dựng bia và người phụ giúp dựng bia, có thể hiểu đây là những người đã đóng góp đá để tạc bia chăng?

-Trong số 21 đơn vị văn khắc thời Lý được phân bố ở các địa phương sau: Thanh Hóa 6 văn bản, Nghệ An 1 văn bản, Hưng Yên 3 văn bản, Hà Tây cũ 2 văn bản, Ninh Bình 2 văn bản, Hà Nam 1 văn bản, Nam Định 1 văn bản, Bắc Ninh 1 văn bản, Phú Thọ 1 văn bản, Vĩnh Phúc cũ 1 văn bản, Tuyên Quang 1 văn bản. Như vậy văn khắc thời Lý có mặt tại 11 tỉnh. Nếu tính theo địa danh Hà Nội mới thì chỉ còn 10 tỉnh. Thanh Hóa là một trong hai địa danh xa nhất nhưng lại có nhiều văn bản nhất. Có thể nguyên nhân chính để số văn khắc tại Thanh Hóa còn lại do ý thức gìn giữ của nhân dân địa phương, nhưng cũng không loại trừ do chính Thanh Hóa là vùng đất phên dậu ở phương Nam của Đại Việt nên việc dựng bia cũng được chú trọng nhiều hơn chăng? Và khi chiến tranh nổ ra, Thanh Hóa ở xa Thăng Long nên cũng tránh được nhiều sự phá hoại. Kinh thành Thăng Long là chốn định đô của nhà Lý nhưng lại không lưu giữ được bài minh văn nào. Có thể trong các cuộc nội chiến cũng như ngoại xâm, Thăng Long đã phải gánh chịu nhiều hơn cả nên những di văn quý hiếm đã bị tàn phá hoặc cướp bóc mang đi. Vùng tứ trấn của Thăng Long đều có sự hiện diện của văn khắc thời Lý. Đặc biệt riêng huyện Yên Mỹ tỉnh Hưng Yên có đến 2 văn bản và 2 văn bản ấy hiện vẫn đang được lưu giữ nguyên vẹn trên bia đá. Có thể do chủ nhân của những tấm bia ở đây là những nhân vật có công lao với triều đình nhà Lý, là những người có quyền lực nên văn bia viết về họ được gia tộc và địa phương gìn giữ.

-Tất cả số văn bia thời Lý còn lại đến nay đều là những văn bản ghi về những con người có lai lịch, đóng góp cụ thể, chỉ duy nhất một văn bản ghi về thần tích. Không có những văn bia thời Lý phản ánh các sinh hoạt của cộng đồng làng xã như văn bia từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XX. Do vậy có thể nói văn bia thời Lý chỉ ghi lại những sự kiện liên quan đến một cá nhân hoặc rộng hơn là dòng họ nhưng là những cá nhân có những vị trí cao trong xã hội hoặc là dòng họ có quyền thế.

- Nội dung văn khắc thời Lý tập trung chủ yếu vào những sự việc, sự kiện liên quan đến Phật giáo. Trong đó nổi bật lên là ca tụng những người đã đứng ra hưng công xây dựng chùa. Có thể kể đến vai trò của Thái úy Lý Thường Kiệt trong việc xây dựng chùa Báo Ân và chùa Ngưỡng Sơn Linh Xứng ở Thanh Hóa, vua Lý Nhân Tông trong quá trình xây dựng chùa Sùng Thiện Diên Linh ở Hà Nam, vua Lý Thánh Tông xây dựng chùa Viên Minh ở Nam Định hoặc ca ngợi Hà Dĩ Khánh là người đã đứng ra xây dựng chùa Bảo Ninh Sùng Phúc ở Tuyên Quang, ca tụng công đức của những người tu bổ chùa Hương Nghiêm núi Càn Ny, ca ngợi những vị Hòa thượng đã xây dựng chùa trong các hang động ở Hoa Lư Ninh Bình như vị Hòa thượng đến mở chùa Phật tại Chu Ma Sơn Áng, Trường Yên, ca ngợi những tín chủ xây dựng chùa Báo Ân ở Vĩnh Phúc... Văn bia còn cho biết chi tiết về sư Trì Bát là nhà sư thuộc hệ thứ 12 dòng thiền Tì ni đa lưu chi trên bệ tượng Phật A Di Đà chùa Hoàng Kim.

Những triết lý tông chỉ từ bi độ thế của Phật giáo được đề cập trong văn bia chùa Chúc Thánh Báo Ân hay ca ngợi sự huyền diệu của đạo Phật trong bia chùa Báo Ân núi An Hoạch cho thấy Phật giáo thời Lý rất hưng thịnh và thu hút được sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân, trong đó nổi rõ vai trò của những người có thế lực đối với Phật giáo. Bài văn bia khắc trên bia chùa Minh Tịnh ở Thanh Hóa cho biết người đứng ra khởi xướng việc xây chùa là vị Quyền Tri trại Thanh Hóa, Sùng Nghi sứ Hoàng Khánh Văn, thế nhưng khi chùa xây xong thì ông lại không còn. Một trợ thủ đắc lực khác đã giúp ông hoàn thành sứ mệnh là Đồng Tri trại Thanh Hóa, Nội điện Sùng ban Hoàng Thừa Nhĩ. Như vậy, cho thấy việc đứng ra khởi dựng chùa là người có quyền thế lúc bấy giờ. Văn bia cũng cho biết khi xây dựng chùa Minh Tịnh trên nền chùa cũ thì “cỏ tốt ngập trời, nền chùa đổ nát, ông (tức Hoàng Khánh Văn) đã cho người phát chặt cỏ cây, thu dọn gai góc, kẻ tìm cây, kẻ đẵn gỗ, gỗ quý được chuyển về. Rồi tập hợp thợ nề, thợ mộc dựng lại chùa, công việc chẳng mấy chốc hoàn thành. Ngôi chùa như tòa long cung nguy nga sừng sững trên mặt đất, các đấu trụ tựa sao trời, vì kèo như vầng trăng treo. Bậc thánh sắc vẻ tôn nghiêm hiện trên đài sen, tượng A Di Đà sơn son rực rỡ, lại đặt thêm đài nghê tòa sư tử...”(5).

Văn bia thời Lý cũng cung cấp những thông tin chính xác về những nhân vật có vai trò quan trọng trong sự phát triển của vương triều Lý như vua Lý Nhân Tông, Thái úy Lý Thường Kiệt, Thái úy Đỗ Anh Vũ, Thái phó Lưu Khánh Đàm, dòng họ Hà ở châu Vị Long nay là huyện Chiêm Hóa tỉnh Tuyên Quang. Văn bia mộ của Phụng Thánh phu nhân cho biết về đời sống của phụ nữ tầng lớp quý tộc thời Lý. Minh văn trên chuông chùa Thiên Phúc, chùa Thày lại ca ngợi Phật pháp cao siêu và công đức vô lường của Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Bia Sùng Nghiêm Diên Thánh ca ngợi Thông phán quận Cửu Chân họ Chu là người đã động viên nhân dân xây dựng nên chùa này.

Bia Hoàng Việt Thái phó Lưu quân mộ chí cho biết Thái phó Lưu Khánh Đàm có quê gốc ở quận Cửu Chân, sau mới dời đến xã Lưu Xá phủ Long Hưng. Ông đã theo hầu ba vua là Nhân Tông, Thần Tông và Anh Tông. Ông là người nhận di chiếu phò tá Thần Tông Dương Hoán lên ngôi Hoàng đế. Ông làm quan với các chức: Quang lộc đại phu, Suy thành tá lý công thần, Nhập Nội thị sảnh đô Đô tri Tiết độ sứ, Đồng tam ty bình chương sự, Thượng trụ quốc Khai Quốc công.

Liên quan đến những sự kiện lịch sử về việc nhà Lý có chủ trương gả con gái cho các hào mục ở các miền biên giới xa xôi để thắt chặt các mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và các địa phương, văn bia Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi đã phản ánh dòng họ Hà ở châu Vị Long trải 13 đời đều giữ chức Thái thú châu Vị Long. Người thuộc đời thứ 10 của dòng họ này đã được vua Lý Thái Tổ gả công chúa thứ 3 cho, nhân sự kiện này ông được ban chức Hữu Đại liêu ban. Nhân vật chính của văn bia này là Hà Di Khánh đã được cưới công chúa Khâm Thánh lúc mới 9 tuổi. Ông được vua mời về kinh để gả em gái cho và sau đó được lãnh chức Tả Đại liêu ban. Văn bia còn cho biết thêm một sự kiện là thân phụ của Hà Di Khánh đã cầm quân sang đáng Ung Châu kết hợp với Lý Thường Kiệt cùng tiến đánh Ung Châu. Vì chiến công ấy, thân phụ của ông được ban chức Hữu Đại liêu ban, Đoàn luyện sứ. Hoặc văn bia chùa Báo Ân núi An Hoạch Thanh Hóa đã kể lại rõ ràng về sự nghiệp của Lý Thường Kiệt: ông từng đem quân dẹp loạn Chiêm Thành ở phía tây, đánh lui quân Tống ở phía bắc, cai quản trấn Thanh Hóa 19 năm... Ông đứng ra chọn đất dựng chùa Báo Ân núi An Hoạch v.v…

Như vậy, với số lượng văn khắc còn lại quá ít so với sự tồn tại của vương triều Lý, nhưng những giá trị của nó thật sự rất quan trọng trong việc tìm hiểu và đánh giá về tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của nhà Lý trong suốt 215 năm trị vì. Đây là những văn bản gốc duy nhất của thời Lý còn lại với chúng ta ngày nay, vì thế nó sẽ cung cấp những thông tin xác thực về thời đại đó mà không có bất cứ loại hình văn bản nào có thể so sánh được.

PGS.TS. Phạm Thị Thùy Vinh

Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Chú thích:

(1) Xem Lâm Giang: Tấm bia thời Lý viết về Lưu Khánh Đàm, trong Tạp chí Hán Nôm số 4/2000.

(2) (5) Xem Phạm Văn Thắm Tấm bia thời Lý tại huyện Hoằng Hóa, trong Tạp chí Hán Nôm số 5/2003.

(3) Xem Trần Thị Tiệp: Về tấm bia Kiến Gia thời Lý ở Ninh Bình, trong Thông báo Hán Nôm học 2003.

(4) Xem Thùy Vinh: Về hai quả chuông Tây Sơn tại chùa Thày Hà Sơn Bình, trong Tạp chí Hán Nôm số 2/1987./.

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, số 6 (121), 2013, tr.43-50, phiên bản trực tuyến ngày 28.12.2014.

Hà Thị Tuệ Thành

Khoa Ngôn ngữ học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Báo cáo trình bày một số tư liệu xung quanh bài thơ “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường...”, một bài thơ không có đề mục, thường được in đầu các bản Truyện Kiều Nôm cổ. Trong các tư liệu được trình bày, bài báo chủ yếu tập trung phân tích một tư liệu mới liên quan đến bài thơ này: bản Lập Trai Phạm tiên sinh thi tập, kí hiệu A-400, thư viện Viện Hán Nôm. Cùng với tư liệu A-2140 (Lập trai tiên sinh di thi tục tập) đã được nghiên cứu Vũ Thế Khôi phát hiện, bản A-400 sẽ góp thêm những cứ liệu cho phép xác định tên gọi và xuất xứ của bài thơ, qua đó cung cấp thêm một bằng chứng ủng hộ giả thuyết: Truyện Kiều được sáng tác trước khi Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc (1813-1814) trở về.

            Trong đa số các bản Kiều Nôm cổ, phần mở đầu thường có một bài thơ bắt đầu bằng câu: “Giai nhân  bất thị đáo Tiền Đường”. Bài thơ không được ghi rõ đề mục nên cho tới nay, xung quanh bài thơ, chúng tôi thấy nổi lên một số vấn đề như:

  • Tên gọi của bài thơ vốn là thế nào?
  • Hoàn cảnh sáng tác của bài thơ và ý nghĩa của bài thơ đối với vấn đề xác định thời điểm sáng tác Truyện Kiều.

Dưới đây chúng tôi xin trình bày ngắn gọn một số tư liệu mà chúng tôi có được về các vấn đề này.

1. Về tên gọi của bài thơ:

               

                1.1. Như đã giới thiệu ở trên, các văn bản Truyện Kiều cổ thường không ghi rõ đề mục của bài thơ “ Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường …” :

- Bản Duy Minh Thị/1872 chỉ ghi Hoa Đường Phạm tiên sinh soạn rồi sau đó khắc bài thơ.

- Bốn bản: Liễu Văn Đường/1866,1871, Quan Văn Đường/1879, Thịnh Mĩ Đường/1879 thì ghi hai chữ Thi vân rồi khắc bài thơ; cuối bài thơ mới đến dòng Lương Đường Phạm tiên sinh soạn.

- Bản Abel des Michels/1884 thì có hai nét đặc biệt là: a) ở bản Nôm có ghi Thi vân như các bản miền Bắc nhưng để hai chữ Hoa Đường như ở bản Duy Minh Thị/1872 ; b) ở bản Pháp văn thì giới thiệu đây là Bài tựa bằng thơ chữ Hán của giáo sư Hoa Đàng Phàm (Préface en vers Chinois du professeur Hoa Đàng Phàm) [1]

- Bản Nọa Phu/1870 không dùng Thi vân như các bản miền Bắc nhưng cuối bài thơ ghi một dòng dài hơn bình thường: Lê triều tiến sĩ Lương Đường Phạm Lập Trai đề.

- Đến bản Kiều Oánh Mậu/1902 thì thay Thi vân bằng hai chữ Đề từ và ở cuối bài cũng ghi một dòng không giống đa số các bản khác: Hoa Đường Lập Trai Phạm Quí Thích đề.

            Từ thực tế trên, nhất là từ ảnh hưởng của bản Kiều Oánh Mậu, dần dần hai chữ Đề từ  được một số người coi như là cái tên mà tác giả đặt ra cho bài thơ.

           

            1.2 Nhưng rồi giới nghiên cứu bắt đầu nghi ngờ cái “tên”: “Đề Từ” và cố gắng đi tìm tên thật của bài thơ.

                Năm 1998, trong bài báo Không có “bản Phường” với nghĩa là bản Truyện Kiều do Phạm Quí Thích đưa in đăng trên tạp chí Văn học số 1 và tạp chí Sông Hương số 1 và sau này được tập hợp lại trong các cuốn Văn bản Truyện Kiều, Nghiên cứu và thảo luận (năm 2001, 2003); Nghiên cứu văn bản Truyện Kiều- bản Liễu Văn Đường 1871 (2006), PGS.TS Đào Thái Tôn đã cung cấp  một thông tin quan trọng. Đó là việc nhà nghiên cứu Vũ Thế Khôi đã phát hiện trong cuốn Lập trai tiên sinh di thi tục tập kí hiệu A.2140, bài thơ “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường…” với tiêu đề là Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm [2].

               

                1.3. Tuy nhiên chúng tôi vẫn đang còn một chút băn khoăn vì theo Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu (sau đây gọi tắt là Thư mục đề yếu) thì cuốn A-2140 chỉ là một cuốn do “học trò của Nguyễn Văn Siêu sưu tầm, Nguyễn Văn Siêu viết bài chí” [3] mà Nguyễn Văn Siêu thì chỉ là một người học trò của Phạm Quí Thích, mất sau Phạm Quí Thích khoảng gần 50 năm. Khoảng thời gian gần 1/2 thế kỉ đó và việc sao đi chép lại có còn bảo đảm được tính chân xác 100% của cái tên đang tìm không?

            Do vậy, trong thời gian qua, chúng tôi đã vào thư viện Viện Hán Nôm rà soát lại tất cả các tác phẩm của Phạm Quí Thích. Và may mắn sao, ngoài bản kí hiệu A-2140 nhà nghiên cứu Vũ Thế Khôi đã phát hiện, chúng tôi còn tìm được bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm trong một bản nữa, bản Lập trai Phạm Tiên sinh thi tập, kí hiệu A-400. Bản này được Thư mục đề yếu giới thiệu là “Phạm Lập Trai soạn. Ngô Duy Viên sơ duyệt. Bùi Tồn Am phủ chính (biên tập)” [4]. Cả ba vị họ Phạm, họ Ngô, họ Bùi đều là những bậc đại khoa cuối triều Lê. Phạm Quí Thích (1759-1825) và Bùi Tồn Am (1744-1818) lại là hai danh sĩ đồng thời, đều nổi tiếng về văn học. Vậy rõ ràng bản A-400 là một bản được biên soạn ngay khi tác giả còn sống.

            Chuyện cái tên của bài thơ đến nay có thể nói là không còn gì để nghi ngờ nữa. Còn hai chữ Đề từ, theo chúng tôi, có thể tạm giải thích lai lịch như sau: về mặt ngôn ngữ, từ động từ soạn chuyển sang động từ đề và chuyển sang nghĩa tựa. Rồi từ động từ đề đẻ ra danh từ Đề từ, đó là chuyện có thể hiểu được. Còn về mặt tâm lí đối với người mua sách thì hai chữ đề từ có phần oai hơn hai chữ thi vân (thơ rằng). Về tâm lí những người buôn sách, PGS.TS Đào Thái Tôn đã phân tích, chúng tôi tự thấy không có gì phải bàn thêm [5].

             2. Về hoàn cảnh sáng tác bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm và ý nghĩa của bài thơ đối với vấn đề xác định thời điểm sáng tác Truyện Kiều:

           

            2.1. Trong bài trả lời phỏng vấn nhà báo Thuỵ Khuê về vấn đề nghiên cứu Kiều của cố học giả Hoàng Xuân Hãn, có đoạn Cụ nhắc tới một tập thơ của Phạm Quí Thích trong đó có bài  “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường..”: “ Cụ Phạm Quí Thích, người đề thơ đầu tiên về Kiều, còn để lại nhiều tập thơ. Có một tập cụ kể chuyện đi từ Bắc và Huế, vì vua Gia Long mời cụ ra làm quan. Lần đầu vào Huế, cụ làm thơ vịnh những xứ sở đã đi qua.

            Khi cụ tới Quảng Trị, chỗ gọi là Liên Hồ (Hồ Sen), cách độ một ngày thì tới Huế, cụ làm một bài thơ gọi là Đề từ Quyển Kiều, Đoạn trường tân thanh đấy. “ Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường!” . Do đấy thì biết rằng cụ có bản Nôm Kiều ở trong tay năm ấy, tôi nhớ đầu đời Gia Long, năm 1805-1806 quãng ấy. Rồi cụ  mang đi đường để đọc, từ ngoài Bắc vào Huế (…) . Cụ nằm trong cáng đọc quyển Kiều, chắc đến Quảng Trị đọc xong, cụ làm bài thơ Đề từ quyển Kiều ấy. Cho nên mình biết rằng quyển Kiều có trước đời ấy khá lâu, trước khi cụ Nguyễn Du đi sứ về. Những cớ ấy là chứng chắc chắn quyển Kiều làm từ trước.”[6]

            Tuy học giả Hoàng Xuân Hãn không nói rõ tập thơ của Phạm Quí Thích mà Cụ nhắc tới là tập nào, và do trả lời phỏng vấn theo trí nhớ nên theo chúng tôi, có thể Cụ có đôi chút nhầm lẫn [7] nhưng đoạn nói chuyện kể trên đã gợi ra một hướng đi quan trọng. Đó là cần tìm hiểu xuất xứ bài thơ “Giai nhân bất thị đáo Tiền Đường …”(Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm) vì dựa vào hoàn cảnh cũng như thời điểm sáng tác của bài thơ có khả năng sẽ chứng minh được Nguyễn Du đã sáng tác Truyện Kiều trước khi đi sứ Trung Quốc về.

           

            2.2.  Dựa vào việc học giả Vũ Thế Khôi phát hiện bài thơ  Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm trong Lập Trai Tiên sinh di thi tục tập ( kí hiệu A.2140) và đặc biệt là việc tái phát hiện bài thơ này trong  Lập Trai Phạm tiên sinh thi tập  (kí hiệu A.400 , thư viện Viện Hán Nôm), một tập thơ đã được biên soạn ngay khi Phạm Quí Thích còn sống, theo chúng tôi,  có thể cho rằng, bài thơ được sáng tác trong dịp Phạm Quí Thích vào Nam năm 1811 vì:

a) Bộ Thư mục để yếu đã nói rõ bản A.400 gồm “66 bài thơ cuả Phạm Quí Thích làm trong dịp vào Nam: đề vịnh, cảm tác, tặng đáp bạn bè”[8].  Đọc nội dung các bài thơ, chúng tôi cũng thấy, toàn bộ tập thơ là những bài được sắp xếp theo trình tự  một cuộc hành trình từ Bắc vào Huế, từ bài 1 (Sơn giao) tả cảnh “xuất đô thành” đến các bài:

  Bài 4: Quá Tam Điệp sơn        Bài 5: Quá Sùng sơn từ            Bài 8: An Dương Vương miếu

  Bài 10: Quá Hoành sơn            Bài 11: Linh Giang (sông Gianh)  Bài 12: Quá Linh giang

                                               Bài 14: Quá Lí Hoà

…[9]

            Bài Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm là bài thứ 25 trong tập, sau bài Quá Linh Giang (bài 12) và hai bài nhắc tới địa danh Lí Hoà ở Quảng Bình (bài 13, 14) nhưng trước bài tả cảnh đi qua Văn Miếu, chúng tôi ngờ là Văn Miếu ở Huế (số 32), và các bài nói đến chuyện tác giả làm thơ xướng hoạ với các quan trong triều (số 38, 39,40). Vậy nếu căn cứ vào trình tự các bài trong tập thơ thì bài Thính đoạn Trường tân thanh hữu cảm phải được sáng tác trên đường Phạm Quí Thích vào Huế.

b) Theo Đại Nam thực lục chính biên, Phạm Quí Thích chỉ vào Huế một lần vào năm 1811. Năm 1812 thì vua cho phép ông giải chức vì ông bị ốm [10].

                       2.3. Nếu bài thơ Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm đã được sáng tác vào năm 1811 thì rõ ràng Truyện Kiều phải được sáng tác trước đó. Cùng với những nguồn tư liệu được công bố gần đây về việc Nguyễn Lượng, một người đã có những dòng bình Kiều, mất vào năm 1807[11]; Mai đình mộng kí hoàn thành vào năm 1809, dưới ít nhiều ảnh hưởng của Truyện Kiều [12] …chúng tôi cho rằng, đã đến lúc cần gạt bỏ giả thuyết Truyện Kiều được sáng tác sau khi Nguyễn Du đi sứ Trung Quốc về (1813-1814) để nghĩ tới một thời điểm sáng tác sớm hơn.

 

/1/ Abel Des Michels là người Pháp nên có lẽ ông đọc không chuẩn: Hoa Đàng tức là Hoa Đường, Phàm tức là Phạm.

/2/ Đào Thái Tôn, Văn bản Truyện Kiều- Nghiên cứu và thảo luận, sở Văn hoá Thông tin Hà Tĩnh, 2003, tr 35.  

                          Nghiên cứu Văn bản Truyện Kiều, bản Liễu Văn Đường 1871, nxb Khoa học Xã hội, 2006, tr 633.

/3/ Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu (Trần Nghĩa và Francois Gros đồng chủ biên, nxb KHXH, 1993, tập II, trang 124.

/4/ / Di sản Hán Nôm Việt Nam - Thư mục đề yếu, sđd, tr 122.

/5/ Văn bản Truyện Kiều- Nghiên cứu và thảo luận, sđd, tr 31.

/6/ La Sơn Yên Hồ Hoàng Xuân Hãn, nxb Giáo dục, 1998, tập I, tr 444-445.

/7/ Có một số chỗ, chúng tôi cho rằng có thể Cụ nhớ nhầm như: năm Phạm Quí Thích vào Huế là năm 1811-1812 chứ không phải 1805-1806 ; tên bài thơ không phải là Đề từ Quyển Kiều, Đoạn trường tân thanh.

/8/ Di sản Hán Nôm Việt Nam- Thư mục đề yếu, sđd, tập II, tr 122.

/9/ Để tiện cho việc miêu tả, chúng tôi tự đánh số các bài thơ theo thứ tự trình bày trong tập Lập Trai Phạm tiên sinh thi tập  (kí hiệu A.400, thư viện Viện Hán Nôm).

Tam Điệp, Sùng Sơn là các địa danh ở Thanh Hoá, miếu An Dương Vương là  một địa danh có ở Nghệ An,  Hoành Sơn là ngọn núi phân giới Hà Tĩnh và Quảng Bình ngày nay, Linh Giang và Lí Hoà là các địa danh ở Quảng Bình. Địa danh Liên Hồ (hồ sen) mà học giả Hoàng Xuân Hãn nhắc tới, chúng tôi hiện chưa tìm được trong tập thơ. Nhưng trong hai bài thơ liền ngay sau bài Thính đoạn trường tân thanh hữu cảm, bài 26 và 28 (hai bài này trong tập A.2140 được chép liền nhau) có nhắc tới cảnh hồ nước với các hình ảnh: “xuân thuỷ lục”, “ngư ông” (bài 26) và cảnh ngắm hoa sen (bài 28: quan hà hữu cảm). Có thể đây chính là những cảnh có liên quan đến địa danh Liên Hồ mà học giả Hoàng Xuân Hãn nhắc tới?

/10/ Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, Quyển XLV.Bản dịch Viện Sử học, H, 1963, Tập IV, trang 165 (dẫn theo Văn bản Truyện Kiều- Nghiên cứu và thảo luận, sđd, tr 33).

/11/ Xin xem bài Sự đóng góp của bản Liễu Văn Đường trong việc tìm ra niên đại Truyện Kiều, Nguyễn Tài Cẩn, Đào Thái Tôn, Tạp chí Hán Nôm số 3/2005, tr 17.

/12/ Xin xem bài Hành trỡnh đi sứ của Nguyễn Du và thời điểm sáng tác Truyện Kiều,  Nguyễn Hoàng Sơn, Tạp chí Nhà văn số 3-2002, tr 67-76.

Nguồn: http://chunom.net/Mot-so-tu-lieu-xung-quanh-bai-tho-%E2%80%9CGiai-nhan-bat-thi-dao-tien-duong%E2%80%A6%E2%80%9D-7.html

20200309

Về lai lịch và các truyền bản của Đại Nam quốc sử diễn ca đã được Đại Nam thực lục chính biên, đệ tứ kỷ các quyển 16, quyển 18 và quyển 23 ghi rõ, qua đó ta có thể biết được:  Tác giảSử ký quốc ngữ ca không được truyền lại, có thể dựa vào nội dung sách chỉ chép đến Mạc Đăng Dung cướp ngôi và việc sách được nộp dưới thời Nguyễn để đoán định ông sống vào khoảng cuối đời Lê. ‚ Tháng 4 năm 1858, hai ông Lê Ngô Cát và Trương Phúc Hào được giao cho công việc sửa chữa Sử ký quốc ngữ ca và nối thêm phần sử Lê Trịnh đến đời Lê Chiêu Thống, lấy tên là Quốc sử diễn ca, sau đó lại được Phạm Xuân Quế nhuận sắc. Khoảng 1860 - 1870, Phạm Đình Toái đã lấy bản của Lê Ngô Cát (bản đã được Phạm Xuân Quế nhuận sắc) sửa chữa lại một phần quan trọng và đặt tên là Đại Nam quốc sử diễn ca (ĐNQSDC). Như vậy những tên tuổi gắn liền với sự ra đời của sách là Lê Ngô Cát, Trương Phúc Hào, Phạm Xuân Quế và Phạm Đình Toái.

Trong bài tựa sách ĐNQSDC viết vào mùa thu năm Canh Ngọ đời Tự Đức thứ 23 (1870), Phạm Đình Toái đã ghi: “Quốc sử diễn ca do quan Án sát tỉnh Cao Bằng là Lê công Ngô Cát vâng lệnh soạn, quan Hình bộ Thị lang là Phạm công Xuân Quế đã nhuận sắc”. Phạm Đình Toái trong bài tựa sách Quốc âm từ điệu của mình cũng ghi: “Sách diễn bằng thể lục bát đã xong thì có một quyển Quốc sử ca. Đó là lấy bản cũ mà bớt và chữa, lấy một phần mà thêm vào ba phần”. Căn cứ vào hai tài liệu này có thể thấy rõ Phạm Đình Toái đã có đóng góp lớn vào việc sửa chữa ĐNQSDC.

Trên thực tế thì tình hình lai lịch của tác phẩm còn phức tạp hơn nhiều. Hoàng Xuân Hãn trong công trình nghiên cứu về ĐNQSDC (Nxb. Sông Nhị, H. 1952) đã khẳng định: “Sách này không phải do một tác giả làm ra, mà cũng không phải do nhiều tác giả cùng nhau làm trong một lúc. Chính là do một bản cũ mà nhiều người sửa chữa nhiều lần. Cho đến tên sách mỗi lúc sách chữa thì tên cũng đổi”. Trong công trình của mình, Hoàng Xuân Hãn cũng đã đưa ra một loạt tên các cuốn sách mà ông cho rằng có khả năng là truyền bản của ĐNQSDC. Sau khi khảo sát kỹ về số câu của các tác phẩm, ông đã đưa ra kết luận về quá trình truyền bản của ĐNQSDC, dưới đây chúng tôi xin trích dẫn toàn bộ phần kết luận trong sách Hoàng Xuân Hãn để bạn đọc tham khảo:

- Chúa Trịnh (có lẽ Trịnh Căn 1682-1709) giao cho một sử quan soạn sách Thiên Nam ngữ lục chép sử nước ta từ Hồng Bàng đến cuối đời thuộc Minh.

- Năm Tự Đức thứ 8 (1855), vua sai sử thần soạn sách Việt sử và sai tìm sách cũ để tra cứu. Một học trò tỉnh Bắc Ninh dâng quyển Sử ký quốc ngữ ca, có lẽ tức là quyển Thiên Nam ngữ lục (1857).

- Năm Tự Đức thứ 11 (1858), vua sai sử thần chữa sách ấy và thêm đoạn Lê Trịnh. Các ông Lê Ngô Cát và Trương Phúc Hào được sung vào việc ấy và soạn ra sách Việt sử quốc ngữ (1860).

- Ông Phạm Xuân Quế có nhuận sắc, bỏ bớt 29 câu và chữa nhiều câu, nhiều chữ, thành một quyển mà ta đặt tên là Việt sử quốc ngữ nhuận chính.

- Có người lại sửa chữa quyển nhuận chính này, bớt ba câu và đổi nhiều chữ làm thành ra sách Lịch đại Nam sử quốc âm ca.

- Vào khoảng năm 1865, ông Phạm Đình Toái tự ý đem bản nhuận chính trên mà chữa rất kỹ càng, rút từ 1887 câu xuống 1027 câu, ông lại đưa cho một vài ông như Phan Đình Thực sửa chữa, thành ra sách Đại Nam quốc sử diễn ca (1870).

Theo Hoàng Xuân Hãn, cuốn sử Quốc ngữ do học trò người Bắc Ninh nộp vào Tập hiền viện là Thiên Nam ngữ lục, sách qua nhiều lần nhuận sắc với các tên như Sử ký quốc ngữ ca, Việt sử quốc ngữ, Việt sử quốc ngữ nhuận chính, Lịch đại Nam sử quốc âm ca và cuối cùng là Đại Nam quốc sử diễn ca. Tra tìm trong kho sách Hán Nôm tại các thư viện ở Hà Nội có thể dễ dàng tìm thấy các văn bản của Thiên Nam ngữ lục, còn như các tên như: Sử ký quốc ngữ caViệt sử quốc ngữ, Việt sử quốc ngữ nhuận chính, Lịch đại Nam sử quốc âm ca thì chỉ nghe tên mà không thấy sách; cũng chưa tìm ra một văn bản Thiên Nam ngữ lục có tên khác là Sử ký quốc ngữ ca như Hoàng Xuân Hãn đã nêu. Điều đó đã gây không ít khó khăn cho chúng tôi khi tìm hiểu lai lịch của tác phẩm ĐNQSDC.

1. Cứ liệu

Lần khảo cứu này, chúng tôi muốn tập trung tìm hiểu việc nhuận sắc tác phẩm ĐNQSDC. Để có thể làm được việc này, chúng tôi đã giành sự chú ý nhiều hơn đến các văn bản chép tay, những mong qua đó có thể tìm thấy lưu bút của các tác giả nhuận sắc. Bốn văn bản chép tay được đưa ra khảo sát lần này là:

- Bản 1: ĐNQSDC, ký hiệu R.267, Thư viện Quốc gia

- Bản 2: ĐNQSDC, ký hiệu R.540, Thư viện Quốc gia

- Bản 3: ĐNQSDC, ký hiệu Hv.328, Viện Sử học

- Bản 4: Nam sử diễn ca, ký hiệu Hv.329, Viện Sử học.

Chúng tôi sẽ lần lượt tiến hành khảo sát sự sai khác về văn tự cũng như cách dùng từ đặt câu của bốn văn bản nói trên với bản Phạm Đình Toái đưa đi xuất bản lần đầu tiên vào năm Tự Đức thứ 23, cụ thể là bản AB.1 (ký hiệu Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm). Sự khác nhau giữa bản 1 và bản 2 với bản AB.1 chủ yếu ở việc dùng chữ dị thể, một số ít thuộc về trường hợp có những sai biệt trong cách dùng từ đặt câu. Ngược lại, những sai biệt giữa AB.1 với bản 4 lại có chiều thiên về các trường hợp chỉnh sửa từ ngữ, về cách dùng từ đặt câu. Kết quả khảo sát cụ thể như sau:

1.1. So sánh bản 1 với bản AB.1

1.1a. Bản 1 có 85 mã chữ (311 lượt) dùng chữ có tự dạng khác với tự dạng ở văn bản AB.1 (dùng chữ dị thể), ví dụ:

- Ghi âm kịp ở bản 1: 﨤 và ở bản AB.1: 趿 như thấy trong câu: “Sính nghi ước kịp ngày mai” (4a, 7).

- Ghi âm biên ở bản 1: 边 và ở bản AB.1: 邊 như thấy trong câu “Lửa binh đâu đã động ngoài biên cương” (8b, 3).

- Ghi âm đem ở bản 1: (扌+冘) và ở bản AB.1: 冘 như thấy trong câu “Đem cờ sứ tiết để gần ải quan” (10a, 7).

1.1b. Chiếm phần thiểu số là những sai khác trong việc dùng từ đặt câu, tổng cộng có 28 trường hợp, ví dụ:

- Thay từ phẳng / vẳng ở bản 1 bằng từ biển ở AB.1, trong câu:

“Vừa đời ngang với Chu Thành

Bốn phương biển lặng trời thanh một mầu”

(AB.1, 3a,7).

- Thay từ gọi ở bản 1 bằng từ  ở bản AB.1, như thấy trong “Tuần tuyên mới  Tích Quang” (AB.1,11a,1).

- Thay từ đeo ở bản 1 bằng từ đao ở bản AB.1, như trong câu “Trồng cây trúc mộc tập bài cung đao” (AB.1, 20b,5). Chữ đao 刀 và đeo 刁 có tự dạng gần giống nhau nên cũng có thể nghĩ đến khả năng đây là sự sai khác do viết nhầm.

- Ở câu 2004, sự khác nhau của hai văn bản này không chỉ dừng lại ở những sai khác trong dùng từ mà đã tiến đến cấp độ ngữ (đó là sự đổi khác cả một ngữ), như có thể thấy trong chính văn:

“Phù kiều chém giết quan quân mấy người (bản 1) và

“Phù kiều chém giết quân mình thác oan” (AB.1, 63b,8)

Sự khác nhau giữa hai văn bản này có lúc lại thể hiện ở việc đảo trật tự của một ngữ, như trong câu: “Dặm trường nào có ngăn ai” (bản 1) và “Dặm trường nào có ai ngăn” (AB.1, 63b, 5)

1.2. So sánh bản 2 với bản AB. 1

1.2a. Bản 2 có 112 mã chữ (239 lượt) dùng chữ có tự dạng khác với tự dạng ở AB.1 (dùng chữ dị thể), ví dụ:

- Ghi âm đến ở bản 2: (至+旦) và ở AB.1: (至+典), trong câu “Quân lương đâu đã đến ngoài” (15b, 8).

- Ghi âm đổi ở bản 2: (扌+對) và ở AB.1: (扌+对), trong câu “Bể dâu biến đổi cơ trời” (5a, 8).

- Ghi âm gian ở bản 2: 奸 và ở AB.1: 姦, trong câu “Khắc Chung thêm dệt lời gian” (35a, 7).

- Ghi âm hay ở bản 2: (台+二) và ở bản AB.1: (口+台), trong câu “Mới hay giặc ở bên mình không xa” (7b, 2).

- Ghi âm  ở bản 2: 麻 và ở bản AB.1: ?, trong câu “ trong cương giới sơn xuyên chưa tường” (2b, 4).

1.2b. Sự sai khác trong việc dùng từ đặt câu ở bản AB.1 so với bản 2 cũng không ít, và có phần nào nổi trội hơn so với bản 1. Trong bản AB.1 có tổng số có 38 trường hợp thay từ đặt câu khác so với bản 2, ngoài ra còn có 2 trường hợp bản AB.1 bổ sung chữ chép thiếu của bản 2:

- Thay từ hoa (bản 2) bằng từ bông (AB.1):

“Khác thường tự thuở còn thơ

Rủ đoàn mục thụ mở cờ bông lau”

(AB.1, 24b, 2)

- Thay từ chiếm (bản 2) bằng từ cố (AB.1) “Quân Minh cố giữ thành bền” (AB.1, 39a, 4).

- Thay từ  (bản 2) bằng từ học (AB.1) “Mở khoa bác học cầu hiền” (AB.1, 28a, 6).

- Thay từ mặt (bản 2) bằng từ kẻ (AB.1) “Từ khi vắng kẻ chiết xung (AB.1, 15a, 3).

- Thay từ về (bản 2) bằng từ sang (AB.1) “Vạc Đinh đã trở sang Lê (AB.1, 25b, 8).

- Thay từ tham (bản 2) bằng từ hung (AB.1) “Rồi ra lại gặp người Minh hung tàn” (AB.1, 25b,8).

1.3. So sánh bản 3 với bản AB. 1

Giữa bản 3 và bản AB.1 thấy có mấy trường hợp sai khác như sau:

1.3a. Bản 3 có 28 mã chữ (80 lượt) dùng chữ có tự dạng khác với mã chữ ở bản AB.1 (dùng chữ dị thể), ngoài ra còn có 6 trường hợp (6 mã chữ) có sự sai khác giữa hai văn bản do chúng có tự dạng gần giống nhau, nâng tổng số chữ dị thể lên 34 chữ. Xin nêu một số ví dụ về việc dùng chữ dị thể:

- Ghi từ ấm ở AB.1: 蔭 và ở bản 3: , trong câu:

“Dõi truyền một mối xa thư

Nước non đầm ấm mây mưa thái bình”

(3a, 6)

- Ghi từ  ở AB.1: 機 và ở bản 3: , trong câu:

“Bể dâu biến đổi  trời

Mà so Hồng lạc lâu dài ai hơn”

(5a, 8)

- Ghi từ đêm ở AB.1: (日+店) và ở bản 3: , trong câu:

“Vảy nước chậu vắt khăn tay

Khi đêm đạp bóng khi ngày ngồi trông”

(32a, 1).

- Ghi từ đổi ở AB.1: (扌+對) và ở bản 3: (口+对), trong câu “Định Yên Hà Nội đổi thay” (2a, 7).

- Ghi từ gian ở AB.1: 姦 và ở bản 3: , trong câu “Quyền gian kế thống quen rày” (54b, 4).

- Ghi từ quên ở AB.1: (亡/悁) và ở bản 3: , trong câu “Quên ơn thuở trước không lòng mai sau” (10a, 3).

Ngoài ra còn có 6 trường hợp có sự nhầm lẫn khi viết chữ do chúng có tự dạng gần giống nhau:

- Chữ tường 詳 với nghĩa “tỏ rõ” và chữ còn 群 có nửa bên trái giống nhau, có lẽ vì thế mà dẫn đến sự nhầm lẫn khi viết chữ. Chữ này xuất hiện trong đoạn kể về việc vua Thục xây thành, thành xây rồi lại lở, vua cầu khấn và có rùa vàng hiện lên nói cho vua biết rõ nguyên cớ. Bản AB.1 dùng chữ tường với nghĩa “nói cho biết rõ”, thế nhưng bản 3 lại viết nhầm thành chữ còn:

“Hóa ra thưa nói cũng kỳ

Lại tường căn cớ bởi vì yêu tinh”

(AB.1, 5b, 6)

và bản 3:

“Hóa ra thưa nói cũng kỳ

Lại còn căn cớ bởi vì yêu tinh”

(bản 3)

- Chữ kinh 經 trong kinh lý với nghĩa “sửa sang sắp đặt”, đã bị viết nhầm thành chữ hồng ở bản 3:

“Bảo thành kinh lý đã an

Ngôi cao phó lại cháu hiền thừa gia”

(AB.1, 59b, 2)

và bản 3:

“Bảo thành hồng lý đã an

Ngôi cao phó lại cháu hiền thừa gia”

- Chữ thay 台 bị viết nhầm thành chữ hợp 合 ở bản 3:

“Binh quyền lại để Trịnh Tùng thay anh” (AB.1, 46a, 7) và bản 3:

“Binh quyền lại để Trịnh Tùng hợp anh”.

1.3b. Sự sai khác trong cách dùng từ đặt câu giữa hai văn bản AB.1 và bản 3 chỉ có 7 trường hợp.

- Thay từ  (bản 3) bằng từ nơi (AB.1)

“Ấy là Bạch Hạc hợp dòng Thao Giang” (bản 3);

“Ấy nơi Bạch Hạc hợp dòng Thao Giang” (AB.1, 2a, 4)

- Thay từ (đua) nối (bản 3) bằng từ (đua) dành (AB.1)trong câu:

“Anh em lại rắp đua nối ngôi cao” (bản 3);

“Anh em lại rắp đua dành ngôi cao” (AB.1, 27a, 7)

- Thay từ ngàn (pha) (bản 3) bằng từ xông (pha) (AB.1) trong câu

“Tuyết sương trăm trận ngàn pha” (bản 3);

“Tuyết sương trăm trận xông pha” (AB.1, 46a, 5).

1.3c. Bản 3 đã chép thiếu khá nhiều chữ: 14 chữ, những chữ này đều có ghi trong bản AB.1:

- Câu 1042 “Đào sông đục núi cũng là nhọc thay”, bản 3 chép thiếu chữ nhọc thay (33b, 2)

- Câu 1119 “Uy thanh xa động biên ngung”, bản 3 chép thiếu chữ xa (36a,1)

- Câu 1403 “Độc sao hàng tướng tiến dưa”, bản 3 chép thiếu chữ dưa (44b, 8)

- Câu 1615 “Lấy năm điều khảo trấn ty”, bản 3 đã chép thiếu chữ năm (51b, 5).

1.4. So sánh bản 4 với bản AB. 1

Sự sai khác giữa bản 4 và bản AB.1 khá lớn. Nếu như ở bản 1, bản 2 và bản 3 những sai biệt với bản AB.1 chủ yếu tập trung ở việc dùng chữ dị thể thì ở bản 4, sai khác lại tập trung vào những khác biệt trong việc dùng từ đặt chữ. So sánh hai văn bản này có thể thấy rõ được công việc của người nhuận chính: chỉnh sửa chữ, từ, ngữ đoạn, câu; thay từ để hiệp vần thơ; gọt dũa, thêm bớt câu. Công việc chỉnh sửa cụ thể như sau:

- Dùng chữ dị thể: Theo thống kê, bản AB.1 có 42 trường hợp dùng mã chữ có tự dạng khác với tự dạng ở bản 4; thêm 9 trường hợp viết nhầm do chúng có tự dạng gần giống nhau, nâng tổng số chữ dị thể lên 51 trường hợp.

- Chỉnh sửa, gồm:

+ Chỉnh sửa từ đơn: 275 trường hợp; dùng từ khác hoặc từ tương đương: 43 trường hợp; đổi từ khác do phải hiệp vần thơ: 7 trường hợp; đảo trật tự từ: 4 trường hợp, tổng cộng 329 trường hợp chỉnh sửa ở cấp độ từ

+ Chỉnh sửa ngữ đoạn: 21 trường hợp

+ Chỉnh sửa câu: 47 trường hợp

- Thêm bớt câu, chữ (gọt dũa): kết quả khảo sát cho biết bản AB.1 có 21 câu và 5 chữ không thấy có trong bản 4. Mặt khác, bản 4 cũng thêm 11 câu so với AB.1; có 4 câu của bản 4 đã được cấu trúc lại diễn thành 6 câu ở AB.1 (từ câu 804-809).Xin đưa ra một vài ví dụ cụ thể.

1.4a. Ở tiểu mục này, chúng tôi sẽ giới thiệu một vài trường hợp mã chữ ở bản 4 có tự dạng khác với ở bản AB.1:

- Ghi từ cùng ở AB.1: 共 và ở bản 4: “Ấy là Vũ Định tiếp cùng biên manh” (2b, 1).

- Ghi từ đến ở AB.1: (至+典) và ở bản 4: (至+旦) “Thị phi chép để đến giờ làm gương” (1a, 5).

- Ghi từ gặp ở AB.1: 﨤 và ở bản 4: 趿“Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên” (5a, 2)

- Ghi từ kẻ ở AB.1: 仉 và ở bản 4: 几“Người thục nữ kẻ tiên đồng” (5a, 4).

- Ghi từ kịp ở AB.1: 趿 và ở bản 4: “Sính nghi ước kịp ngày mai” (4a, 7).

- Ghi từ lở ở AB.1: (土+呂) và ở bản 4: (扌+呂) “Xây thôi lại lở công trình biết bao”(5b, 4).

- Ghi từ mau ở AB.1: (足+毛) và ở bản 4: “Ai mau chân trước định lời hứa anh” (4a, 7).

So sánh với AB.1 thì thấy ở bản 4 có một số chữ viết nhầm, có lẽ do tự dạng gần giống nhau đã dẫn đến tình trạng sai sót đó:

- Chữ đem 冘 (AB.1) bị viết nhầm thành cứu 究 (bản 4), trong câu:

“Hán sai Thái tử Hoằng Thao

Đem quân ứng viện toan vào tập công”

(AB.1, 22b, 2).

- Chữ hoan 歡 (AB.1) bị viết nhầm thành quyền 權 (bản 4), trong câu:

“Đương khi hoan yến nửa chừng

Lữ Gia biết ý ngập ngừng bước ra”(AB.1, 9b, 5).

1.4b. Chỉnh sửa: Như đã nêu ở trên, những sai khác trong cách dùng từ đặt câu giữa hai văn bản này khá phong phú, gồm có:

* Chỉnh sửa từ

- Từ chiếu ở bản 4 được sửa thành từ ấn ở AB.1 “Đền rồng ban ấn tử nê” (AB.1, 62b, 6).

- Từ ngôi ở bản 4 được sửa thành từ báu ở AB.1, trong câu:

“Quý Ly cho dự xu tào

Báu thiêng lại để gian hào ký du”

(AB.1, 36b, 7).

- Từ hay ở bản 4 được sửa thành từ biết ở AB.1, trong câu:

“Chử Đồng ẩn chốn bình sa

Biết đâu gặp gỡ lại là túc duyên”

(AB.1, 5a,2).

- Từ đem  bản 4 được sửa thành từ buông ở AB.1, trong câu:

“Quý Ly quyền lấn trong ngoài

Buông lời sàm gián quên bài tôn thân”

(AB.1, 37a, 3).

- Từ người  bản 4 được sửa thành từ chuyện ở AB.1, trong câu:

“Vắn dài là số tự nhiên

Tụng kinh cầu thọ khéo nên chuyện cười” (AB.1, 27b, 5).

* Đổi dùng từ khác hoặc đổi dùng từ tương đương

- Từ thủy chung (bản 4) đã được đổi thành đinh ninh ở AB.1, trong câu “Vấn an lại kể gót đầu đinh ninh” (AB.1, 59a,1)

- Từ phảng phất (bản 4) đã được đổi thành phấp phới ở AB.1, trong câu “Thúy hoa phấp phới qua đèo Hải Vân” (AB.1, 56a, 2). Dùng phảng phất như bản 4 không đúng, vì phảng phất dùng để nói về mùi hương tỏa ra.

- Dùng sơn xuyên (AB.1) thay cho giang sơn (bản 4), trong câu

“Tuần du đã tỏ dân tình

Sơn xuyên trải khắp địa hình gần xa”

(AB.1, 30a, 3).

Đổi dùng từ tương đương có khi lại xảy ra trong trường hợp muốn thay từ thuần Việt bằng một từ Hán Việt với nghĩa tương ứng:

- Dùng thái tử (AB.1) thay cho con cả (bản 4), trong câu

“Hán sai Thái tử Hoằng Thao

Đem quân ứng viện toan vào tập công”

(AB.1, 22b, 2).

- Dùng thành môn (AB.1) thay cho cửa thành (bản 4), trong câu

Thành môn nghiêm bị trong ngoài

Trồng cây trúc mộc tập bài cung đao”

(AB.1, 20b,5).

* Có một số trường hợp, ở bản AB.1 đã thấy sửa đổi đôi chút về từ ngữ để đảm bảo vần điệu của câu thơ

- Từ ngô  bản 4 đã sửa thành  ở bản AB.1 để hiệp vần với bề ở câu 8 tiếp sau:

“Cán vong Khải lại tiếm 

Phủ binh từ ấy nhiều bề tuyên kiêu”

(AB.1, 57b,1).

- Từ binh ở bản 4 đã sửa thành từ quân ở AB.1 để hiệp vần với gần ở câu 8 tiếp sau:

“Quảng Nam đồn trú lục quân

Trong Tây ngoài Trịnh xa gần với ai”

(AB.1, 56a, 3).

- Để hiệp vần thơ, từ tranh đấu ở bản 4 đã sửa thành tranh đua ở AB.1:

“Bá Tiên đã trở về Lương

Dương Sàn còn ở chiến trường tranh đua

Một cơn gió bẻ chồi ngô”

(AB.1, 16a, 8).

* Công việc sửa chữa đó không chỉ dừng ở cấp độ từ như vừa miêu tả, rất nhiều ngữ đoạn của bản 4 đã thấy sửa lại ở AB.1. Tổng cộng gồm 21 trường hợp như thế, ví dụ:

- Sửa cổ pháp sinh người ở bản 4 thành trời mở thánh minh ở bản AB.1, hãy xem chính văn:

“Bắc Giang cổ pháp sinh người” (bản 4)

“Bắc Giang trời mở thánh minh” (AB.1, 26a, 8).

- Sửa ngữ cốt nhục nên cừu ở bản 4 thành ngữ thích thứ tranh nhau ở bản AB.1, xem chính văn:

“ Đoàn con cốt nhục nên cừu” (bản 4)

“Đoàn con thích thứ tranh nhau” (AB.1, 26a, 3).

* Đối chiếu với AB.1 thì thấy ở 3 văn bản: bản 1, bản 2 và bản 3 không hề có sự sửa đổi ở cấp độ câu, thế nhưng ở bản 4 thì số câu được sửa lại khá nhiều, tổng số có 47 câu đã được sửa lại.

- Câu 607 và 608, bản 4 ghi:

“Đại La bốn cửa mở thông

Đài châu Hoan Ái nên công đắp thành”

thì ở bản AB.1 sửa lại là:

“Đại La mới đắp lũy vòng

Ái châu thành cũ đều cùng tái tu”

(AB.1, 20a, 1).

- Câu 891 đến câu 894, bản 4 ghi

“Thiệt hơn nào có biết đường

Tham voi Giao Chỉ mất vàng Quảng Nguyên

Binh uy dấy dức Nam thiên

Chiêm Thành nối đứt xưng phiên về mình”

thì ở bản AB.1 sửa lại là:

“Lại còn hối hận một chương

Tham voi Giao Chỉ mất vàng Quảng Nguyên

Năm mươi năm lẻ lâu bền

Vũ công văn đức rạng truyền sử xanh”

(AB.1, 28b, 7).

- Từ câu 679 đến câu 689, bản 4 ghi

“Con là Thừa Mỹ tài hèn

Gây thù cho Hán bắt liền bởi ai

Dương Công Đình Nghệ cũng tài

Đem quân phù nghĩa đuổi người Hán quan

Báo thù rồi mới vỗ yên

Giao Châu thống lĩnh phiên hàn vừa xong

Dưỡng Nhi sao vậy Kiều Công

Đem mưu thí nghịch an lòng cho nên”

thì ở bản AB.1 sửa lại là:

“Thừa gia vừa được tái truyền

Bởi cầu lương tiết hoá nên Hán tù

Dương Đình Nghệ lại báo thù

Đuổi người Hán lĩnh châu phù vừa xong

Nghĩa nhi gặp đứa gian hùng

Kiều Công Tiện lại nỡ lòng sao nên”

(AB.1, 22a, 5).

Đoạn nói về vua Ngọa Triều, bản 4 chỉ có 4 câu nhưng ở bản AB.1 đã cấu trúc lại, diễn thành 6 câu:

“Trung Tông vừa lập Ngọa Triều lại lên

Đêm ngày tửu sắc mê tình

Chính quyền đã lỗi pháp hình lại hơn

Những là kiếm thụ đao sơn”(Bản 4)

còn ở AB.1 sửa lại là:

“Để cho cốt nhục nên cừu bởi ai

Trung Tông vừa mới nối đời

Cấm đình thoắt đã có người sính hung

Ngọa Triều thí nghịch hôn dung

Trong mê tửu sắc ngoài nồng hình danh

Đao sơn kiếm thụ đầy thành”

(AB.1, 26a, 3).

1.4c. Thêm bớt câu

* Khi nhuận chính, tác giả đã cho thêm vào một số câu, những câu này chúng tôi không tìm thấy ở bản 4, ví dụ ở trang 34a:

“Giặc Nguyên còn muốn báo đền

Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang”

(AB.1, 34a, 7).

Đây là câu được tác giả cho thêm vào bản AB.1 khi nhuận chính tác phẩm.

Cũng vậy, đoạn vua Lý Nhân Tông thân chinh đi đánh Ma Sa động đã được cho thêm vào AB.1 khi nhuận chính:

“Thân chinh xe ngựa trì khu

Phá Sa động bắt Man tù Ngụy Bàng

Chiêm Thành nộp đất xin hàng

Ba châu quy phụ một đường thanh di”

(AB.1, 28b,1).

* Trong khi sửa chữa, tác giả nhuận chính đã bỏ bớt đi một số câu của bản 4, ví dụ sau câu 1478 (47a, 6) của bản AB.1 không thấy có mấy câu sau:

“Lưới trời sao lọt muông khôn

Làm gương cho kẻ tôi con sau này”

Sau câu 366 (12a, 8) của AB.1 không thấy có câu:

“Nam phiên dành một chức ngoài

Lại mong suy tiến hiền tài nước ta

Rằng sao Nam Bắc một nhà

Kẻ gần quý hiển người xa oán sầu”

Kết quả đối chiếu 4 văn bản chép tay nói trên với AB.1 được khái quát hóa ở bảng sau:

Bảng đối chiếu 4 văn bản chép tay với AB.1

 

Sai khác

Văn bản

Dị thể

Sửa chữa

Chép thiếu

Bổ sung

sửa từ sửa ngữ sửa câu
bản 1 85 (311)(1) 25 3
bản 2 112 (239) 36 2 2
bản 3 28 (80) + 6 = 34 7 14 chữ
bản 4 38 + 9 = 47 329 21 47 21 câu + 5 chữ 11

 

2. Nhận xét

Qua đối chiếu AB.1 với 4 văn bản chép tay nêu trên có thể đưa ra một vài nhận xét sau:

2.1. Trước hết xin nói về bản 3, ở trang 1b của bản 3 có ghi dòng niên đại Tự Đức tam thập tứ niên Tân Tị thu, chí trung đường tàng bản (mùa thu năm Tân Tị niên hiệu Tự Đức thứ 34, bản lưu tại nhà in Chí Trung đường). Như ta đã biết, ĐNQSDC đã được nhà in Chí Trung đường cho xuất bản 2 lần vào các năm Tự Đức thứ 23 và Tự Đức thứ 34. Như vậy, bản chép tay này là bản được ghi lại trước khi Chí Trung đường cho tái bản lần thứ 2 tại nhà in của mình.

Tính đến năm Tự Đức thứ 34, ĐNQSDC đã được in 4 lần vào các năm Tự Đức thứ 23, Tự Đức thứ 26, Tự Đức thứ 27 và Tự Đức thứ 34. Số lượng bản in của ba lần xuất bản đầu không phải là ít, ấy vậy mà trước khi xuất bản lần thứ tư vẫn còn lưu truyền một văn bản chép tay như bản 3 cho thấy tính phổ cập rộng rãi của tác phẩm.

Khi so sánh bản Tự Đức thứ 23 (AB.1) với bản in Tự Đức thứ 34 (VNv.165) và với bản chép tay Tự Đức thứ 34 (bản 3) cho thấy:  có sự sai khác giữa Tự Đức thứ 23 với bản chép tay Tự Đức thứ 34 (bản 3) như đã khảo cứu ở trên‚ Bản in Tự Đức thứ 34 về cơ bản vẫn giữ nguyên như bản in lần đầu năm Tự Đức thứ 23, tuy vậy ở đây cũng không phải là không có sai lệch. Đó là những sai khác trong việc dùng chữ dị thể như chữ kết 結 (Tự Đức thứ 23) và 糸台(Tự Đức thứ 34, 31a, 6); chữ con (子+昆) (Tự Đức thứ 23) và (子+昆)(Tự Đức thứ 34, 17b, 3); chữ đền (田+殿) (Tự Đức thứ 23) và chữ đền (月+殿) (Tự Đức thứ 34, 36a, 4) ƒ Khi đem so sánh cả ba văn bản này với nhau thì thấy bản in Tự Đức thứ 34 có lúc chép giống như ở bản AB.1, như đã thấy trong:

- Bản AB.1 và bản in Tự Đức thứ 34 đều ghi dọc ngang thì ở bản 3 lại thay bằng thiên nhan (50a, 1)

- Bản AB.1 và bản in Tự Đức thứ 34 đều ghi là nơithì ở bản 3 lại thay bằng (2a, 4)

Trái lại cũng có lúc bản in Tự Đức thứ 34 lại ghi giống với bản chép tay Tự Đức thứ 34 (bản 3), ví dụ:

- Bản AB.1 ghi dẹp còn ở bản in Tự Đức thứ 34 và bản 3 đều ghi là hoại (33a, 1)

- Bản AB.1 ghi dành còn ở bản in Tự Đức thứ 34 và bản 3 đều ghi là nối (27a, 7)

Rõ ràng là khi in lại lần thứ hai, nhà in Chí Trung đường đã dựa vào cả hai văn bản, đó là bản in lần thứ nhất Tự Đức thứ 23 (AB.1) và bản chép tay Tự Đức thứ 34 (bản 3). Như vậy, để có thể tìm hiểu việc nhuận sắc ĐNQSDC thì chúng ta chỉ có thể dựa vào các văn bản chép tay có trước khi tác phẩm được in lần đầu. Đó chính là bản 1, bản 2 và bản 4.

2.2. So sánh kết quả điều tra việc chỉnh sửa, gọt dũa nội dung văn bản cho thấy ở bản 1 và bản 2, công việc tập trung vào việc chỉnh sửa từ (dùng phép tu từ) và hơn nữa số lượng cũng không nhiều: 28 trường hợp ở bản 1 và 38 trường hợp ở bản 2. Thế nhưng, đối chiếu bản 4 với AB.1 ta thấy rõ những công việc của người nhuận sắc gồm: chỉnh sửa từ, đổi dùng từ khác (dùng từ Hán Việt thay cho từ thuần Việt hoặc ngược lại), đổi từ để hiệp vần thơ, đảo trật tự từ; chỉnh sửa ngữ đoạn, câu; thêm bớt câu, ngữ đoạn; cấu trúc lại ngữ đoạn. Trong số đó, phần chỉnh sửa (từ, ngữ đoạn, câu) là 397 trường hợp, thêm vào 21 câu và 5 chữ, bớt đi 11 câu. Như đã biết, trong bài tựa sách Quốc âm từ điệu, Phạm Đình Toái đã nói rõ công việc chỉnh sửa gồm “.... lấy 1 phần và thêm vào 3 phần”. Điều đó cho phép ta khẳng định bản 4 không phải là lưu bút đầu tiên khi Phạm Đình Toái bắt tay vào công việc nhuận chính. Rất tiếc, chúng tôi không có trong tay những văn bản lưu lại bút tích của ông nên chưa thể đưa ra một kết luận chắc chắn. Thế nhưng, với những gì đã làm được cho văn bản (chỉnh sửa bản 4 để cho ra bản AB.1) cho phép chúng tôi tạm kết luận đây là bản nháp cuối cùng trước khi Phạm Đình Toái cho in sách.

Bản nháp này (bản 4) có tên là Nam sử diễn ca. Đây thật sự là một tên gọi khác của ĐNQSDC mà các khảo cứu trước đây chưa thấy nhắc tới.

2.3. Công việc nhuận chính xong xuôi, Phạm Đình Toái còn đưa cho một số nhà phê bình như Hộ bộ Tham tri Tiến sĩ Nguyễn Hữu Lập, Bình Phú Tổng đốc Tiến sĩ Hoàng Văn Tuyển và Hàn lâm Thị độc Tiến sĩ Lê Đình Duyên xem lại. Vậy các nhà phê bình này đã làm những công việc gì? Xem xét sự khác nhau của bản 1 và bản 2 với bản AB.1 thì thấy những sai khác chủ yếu tập trung ở việc thay đổi tự dạng (gồm 85 mã chữ ở bản 1 và 112 mã chữ ở bản 2 được viết dưới dạng dị thể so với AB.1), một số ít thuộc về công việc của tu từ học. Phải chăng đây là công việc của những nhà phê bình? bản 1 và bản 2 chính là bản lưu lại bút tích của những nhà phê bình?

*

**

Có thể nói, từ khi cuốn sử ký được nộp vào Tập hiền viện cho đến khi sách được in ra lần đầu tiên với tên gọi ĐNQSDC, cuốn sử này đã được rất nhiều người nhuận sắc và phê bình. Mỗi lần sửa chữa như thế thì lại gắn cho sách một tên gọi mới, bởi vậy số dị bản của tác phẩm khá nhiều.

Cùng chịu chung số phận với các tư liệu Hán Nôm khác, ĐNQSDC cũng không tránh khỏi sự thất tán vì binh hỏa chiến tranh và thiên tai, do đó các dị bản còn lại đến nay không đầy đủ. Điều này gây không ít khó khăn cho chúng tôi khi tìm hiểu quá trình truyền bản của tác phẩm ĐNQSDC.

Gắng tìm trong các thư viện ở Hà Nội, chúng tôi chỉ tìm thấy 29 bản ĐNQSDC, trong số đó có 4 bản chép tay được chúng tôi chọn ra để tìm hiểu quá trình truyền bản của tác phẩm. Với số văn bản chép tay hiện có, chúng tôi tiến hành khảo cứu và tạm đưa ra một vài nhận xét sơ bộ như trên. Hy vọng rằng sẽ có những nhận định chắc chắn hơn nếu như tiếp tục mở rộng địa bàn khảo sát ra các tỉnh khác ngoài Hà Nội.

Chú thích:

(1) Chữ số ở ngoài ngoặc là số mã chữ được viết dị thể, chữ số trong ngoặc là chỉ số lần xuất hiện của chữ dị thể, chữ số viết sau dấu + là số những chữ dị thể do tự dạng gần giống nhau dẫn đến nhầm lẫn.

Tài liệu tham khảo chính

A. Tài liệu tiếng Việt:

1. Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca, Hoàng Xuân Hãn tựa và dẫn, Nxb. Sông Nhị, H. 1952.

2. Lê Ngô Cát - Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca, Đinh Xuân Lâm - Chu Thiên phiên âm, khảo dị, hiệu đính, chú thích, giới thiệu, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1999.

3. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca - Lịch sử Việt Nam, Đinh Xuân Lâm - Chu Thiên phiên âm, khảo dị, hiệu đính, chú thích, giới thiệu, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2004.

4. Lã Minh Hằng: Văn bản Đại Nam quốc sử diễn ca hiện lưu giữ tại các Thư viện ở Hà NộiTạp chí Hán Nôm số 4 năm 2004.

B. Tài liệu Hán Nôm (bản Nôm):

1. Đại Nam quốc sử diễn ca, AB.1, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

2. Đại Nam quốc sử diễn ca, VNv.165, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

3. Đại Nam quốc sử diễn ca, R.267, Thư viện Quốc gia.

4. Đại Nam quốc sử diễn ca, R.540, Thư viện Quốc gia.

5. Đại Nam quốc sử diễn ca, Hv.328, Thư viện Viện Sử học.

6. Nam sử diễn ca, Hv.329, Thư viện Viện Sử học./.

*(Trong ngoặc đơn là một chữ Nôm được tạo bởi 2 bộ thủ)

TS. Lã Minh Hằng

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Số 6 (79). 2006, trang 33-43

20181119 Sach hoc tan tuyen

Ảnh: Bìa sách Sách học tân tuyển in năm Duy Tân, Kỷ Dậu (1909)

Văn học Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX dần dần bước vào quỹ đạo hiện đại hóa để chuyển từ phạm trù văn học truyền thống sang văn học hiện đại. Văn học truyền thống được đặc trưng bằng một loạt những nét chuyên biệt cả từ phương diện lý tưởng thẩm mỹ đến các thủ pháp nghệ thuật, trong đó có các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ văn tự. Văn học truyền thống do được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, nên có người gọi đó là văn học Hán – Nôm. Văn học Hán – Nôm truyền thống mang trong mình bộ phận văn học viết bằng chữ Hán trên cơ sở một hình thái ngôn ngữ viết vốn được phổ biến rất rộng khắp ở một loạt nước Đông – Á các thế kỷ trung đại – văn ngôn. Là ngôn ngữ - văn tự vay mượn, do vậy, nó xa rời với thực tế đời sống ngôn ngữ nói của quảng đại quần chúng, nó không trực tiếp dựa trên cơ sở của ngôn ngữ nói dân tộc.

Bộ phận văn học dân tộc viết bằng ngôn ngữ văn học dân tộc - chữ Nôm, trên đại thể là bộ phận văn học trực tiếp dựa vào ngôn ngữ nói, có liên quan trực tiếp đến đời sống ngôn ngữ dân tộc… Song, trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình, cho đến những năm đầu thế kỷ XX, do nhiều nhân tố xã hội - lịch sử, ngôn ngữ của nó chủ yếu là vận văn… Văn xuôi, văn chính luận rất thưa thớt, hiếm vắng. Theo đà đi lên của lịch sử, quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam ắt hẳn sẽ phải chịu sự ảnh hưởng của một loạt những nhân tố xã hội - lịch sử, trong đó có những nhân tố liên quan đến ngôn ngữ truyền thống.

Các nhà nghiên cứu bây giờ có hồ đều thống nhất cho rằng văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX dần bước vào phạm trù văn học hiện đại. Văn học hiện đại có một đặc trưng cơ bản xét về góc độ ngôn ngữ - văn học, đó là văn học có ngôn ngữ viết trực tiếp dựa trên cơ sở ngôn ngữ nói. Giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết có sự thống nhất. Bởi thế, cho nên, quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam tự mang trong mình cả nhiệm vụ “văn - ngữ nhất thể) (phải làm sao cho ngôn ngữ viết thống nhất với ngôn ngữ nói, ngôn ngữ viết phải trực tiếp dựa trên cơ sở của ngôn ngữ nói…). Chỉ có khi nào văn học viết trực tiếp viết bằng khẩu ngữ thì mới có thể coi rằng quá trình hiện đại hóa đã đạt được những cơ sở vững vàng về ngôn ngữ…

Những điều nêu trên cho phép chúng ta hình dung quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam xét từ phương diện ngôn ngữ sẽ không giản đơn chỉ gồm những bước nhảy vọt mà ngược lại, nó sẽ phải trải qua những bước quá độ, chuyển tiếp… Ở những bước quá độ này, chúng ta vừa nhìn thấy những đặc trưng của truyền thống, vừa nhìn thấy những mầm mống cho những bước chuyển tương lai… Vả lại, quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc không phải bắt nguồn từ mảnh đất hoang, chưa có người cày xới… mà ngược lại, như trên đã nói, hiện đại chỉ là sự tiếp tục đi lên của truyền thống ở những giá trị và tầm cao mới theo yêu cầu và tình hình của thời đại… Điều đó có nghĩa là nhân tố văn học Hán – Nôm sẽ đóng vai trò của mình cho tiến trình hiện đại hóa. Tiến trình hiện đại hóa ít nhiều sẽ bị nhân tố xuất phát này quy định. Từ cách nhìn như thế, để tìm hiểu được quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam, cần phải nghiên cứu kỹ văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm những năm đầu thế kỷ XX, bởi nó, một mặt vừa là hậu duệ, vừa là những sản phẩm gần như cuối cùng của văn học truyền thống. Mặt khác, nó là nhân tố kề bên của văn học hiện đại. Có lẽ vì thế, văn học Hán – Nôm những năm đầu thế kỷ XX sẽ có quan hệ nào đó với văn học Việt Nam hiện đại những thập niên sau đó.

Tình hình phát triển của văn học chữ Hán chữ Nôm đầu thế kỷ cho thấy văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm trong những năm đầu thế kỷ XX về cơ bản vẫn là bộ phận văn học chủ đạo trong đời sống văn học dân tộc. Các bộ Hợp tuyển, các công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam giai đoạn này chủ yếu sưu tầm các tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Chẳng hạn như công trình Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX của cố giáo sư Đặng Thai Mai một công trình khá lớn về văn học giai đoạn này được viết bằng con mắt, cái nhìn, tâm tưởng của một người chứng kiến lịch sử, của một người rất gần gũi với thời đại bấy giờ về mọi phương diện… đã chủ yếu dành cho văn học Hán – Nôm của các sĩ phu yêu nước. Trong sô 66 đơn vị văn bản được đưa vào phần hai của tập sách với tư cách như là phần Hợp tuyển thì có tới 32 văn bản mà nguyên tác được viết bằng chữ Hán, 34 văn bản bằng quốc âm, quốc ngữ nhưng quốc âm, quốc ngữ ở đây chủ yếu được ghi bằng chữ Nôm… Trong số 32 văn bản Hán văn ấy thì chủ yếu là các văn bản chính luận… Điều ấy nói lên quang cảnh và vai trò của văn học Hán – Nôm giai đoạn này trong tiến trình tiến hóa của văn học dân tộc.

Nghiên cứu văn học chữ Hán, chữ Nôm Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX là những vấn đề rất lớn và đã có nhiều công trình. Chúng tôi, trong bài viết này chủ yếu đề cập đến một số vấn đề có liên quan đến phương diện ngôn ngữ của loại ngôn ngữ văn học này, để qua đó, ở những mức độ rất hạn chế góp phần làm sáng tỏ tiến trình vận động của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm, cũng như vai trò của nó ở giai đoạn này cho tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam… Và cũng trong chừng mực nhất định, cũng đặt vấn đề xem xét văn học chữ Hán, chữ Nôm của các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ như là văn học của giai đoạn quá độ, văn học đóng vai trò bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại về phương diện ngôn ngữ…

Do yêu cầu của bài viết được đặt ra là như vậy, cho nên, cấu trúc các vấn đề ở đây sẽ là:

1. Trạng huống ngôn ngữ ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX.

2. Nhân tố chữ Hán (Hán văn) và chữ Nôm trong đời sống ngôn ngữ văn học những năm đầu thế kỷ XX.

3. Những đặc điểm về chức năng và cấu trúc của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm giai đoạn này.

4. Vai trò chiếc cầu nối giữa truyền thống và hiện đại của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm.

1. Trạng huống ngôn ngữ ở Việt Nam đầu thế kỷ XX

Với hiệp ước Patơ nốt (1884), thực dân Pháp đã cơ bản đặt được nền thống trị của chúng trên toàn cõi Việt Nam. Lực lượng yêu nước (phái chủ chiến) trong triều đình đã phát động phong trào Cần Vương khắp trong cả nước, song phong trào này cơ bản bị thực dân Pháp tiêu diệt sau cái chết của Phan Đình Phùng – lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Hương Khê vào năm 1897. Cũng trong thời gian đó, thực dân Pháp dần chú ý đến việc đặt cơ sở, xây dựng bộ máy cho các mục đích khai thác thuộc địa.

Rút kinh nghiệm ở Nam Kỳ nơi chúng sớm dùng loại chữ Hán trong thi cử (1867), do muốn nhanh chóng Pháp hóa… song lại gặp phải sự kháng cự dữ dội của nhân dân - nhất là tầng lớp sĩ phu… cho nên các tên cáo già của chủ nghĩa thực dân Pháp với những kinh nghiệm đầy người đã nghĩ ra rất nhiều âm mưu trong việc cố sử dụng những gì đã có để phục vụ cho âm mưu của chúng như: vua quan nhà Nguyễn và hệ thông thi cử cũ… để tạo ra lớp người phục vụ cho quyền lợi của người Pháp… Bởi vậy, từ khi ký hiệp ước Patơnốt, chúng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm cải đổi cơ cấu xã hội, trong đó, chúng đặc biệt chú ý đến giáo dục, vì sau khi nhiệm vụ của những tên lính xâm lược kết thúc thì bắt đầu nhiệm vụ của người giáo viên… Lối học hành, thi cử theo kiểu truyền thống không thể đào tạo ra bộ máy thư lại mà xã hội thực dân yêu cầu. Kinh điển thánh hiền với những sáo ngữ về thời Tam hoàng, Ngũ đế… không dạy kỹ thuật làm thư ký, lập bảng biểu thống kê… Cải biến giáo dục - chuyển từ nền giáo dục phong kiến sang thực dân được coi là nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn mới. Trong cuộc cải biến này, có một vấn đề trung tâm, đó là vấn đề ngôn ngữ - văn tự vì không thể có một nền giáo dục nào lại không thông qua ngôn ngữ văn tự.

Trong suốt mười thế kỷ tồn tại của nền giáo dục dưới thời phong kiến, giáo dục Việt Nam chủ yếu được thực hiện trên cơ sở của ngôn ngữ - văn tự vay mượn – Văn ngôn và chữ Hán với sự tham gia của tiếng Việt ở những mức độ nhất định. Hán văn tuy là ngôn ngữ chính thống, quan phương trong giáo dục, song việc giáo dục không thể diễn ra tốt đẹp và ổn thỏa được nếu không xác định đến vai trò của tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ (quốc âm, quốc ngữ) được ghi bằng chữ Nôm luôn đóng vai trò là cái cầu chuyển ngữ… Thực tế dạy chữ Hán cho những người mới bắt đầu yêu cầu phải dùng chuyển ngữ, và cả khi dạy kinh điển (Thi, Thư…) cũng có khi đã dùng chuyển ngữ - quốc ngữ, quốc âm (Phạm Văn Khoái. H, 1996).

Mục tiêu trong cải biến giáo dục về phương diện ngôn ngữ của thực dân Pháp là phổ biến tiếng Pháp. Chúng đã mở trường Thông ngôn (ở Nam Kỳ từ năm 1961), trường Thông ngôn ở Bắc Kỳ vào đầu những năm 90 thế kỷ thứ XIX, trường Hậu bổ… ) song, trước thực tế ngôn ngữ ở Việt Nam buộc chúng phải điều chỉnh, chọn những yếu tố cần thiết cho ý đồ thực dân của mình.

Nếu trước đây trong lịch sử, Hán học cần phải có sự giúp đỡ của quốc âm, quốc ngữ… thì bây giờ bọn thực dân cũng thấy rằng Pháp học (tiếng Pháp) cũng cần phải có sự giúp đỡ của tiếng người bản ngữ - Đó là quốc ngữ, quốc âm.

Quốc âm, quốc ngữ vốn là cái thuật ngữ chỉ tiếng mẹ đẻ, ngôn ngữ dân tộc. Trong các điều kiện của thời phong kiến, tiếng mẹ đẻ đã sớm được các bậc thức giả coi là một trong những nhân tố cho sự độc lập dân tộc, cho sự đối lập Bắc Nam… Cái tiếng mẹ đẻ ấy khi được ghi lại bằng chữ Nôm, thì loại văn bản naà (cả tiếng mẹ đẻ, cả chữ Nôm) được gọi là quốc âm, quốc ngữ. Với nghĩa là ngôn ngữ của người trong nước, dù chưa phải là “ngôn ngữ nhà nước”.

Tiếng mẹ đẻ được gọi là quốc âm, quốc ngữ trong nhiều thế kỷ trung đại… đã lớn mạnh rất nhanh, để tự mình có một nội lực. Nó là ngôn ngữ của văn học dân tộc mà một trong những đỉnh cao là ở nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX… Quá trình vươn lên của tiếng mẹ đẻ về mặt cấu trúc và chức năng trong suốt thời phong kiến là một thực tế lịch sử hiển nhiên. Có thể coi sự vương lên đó là quá trình xây dựng và làm phong phú ngôn ngữ viết (ngôn ngữ văn học). Tiếng mẹ đẻ cho đến những năm đầu thế kỷ XX có hai hệ thống văn tự phổ biến hơn cả ghi lại - chữ Nôm và văn tự chữ cái âm – cũng được gọi là chữ quốc ngữ (Phạm Văn Khoái. 1997).

Thực tế phát triển vững vàng của tiếng Việt đã làm cho bọn thực dân phải tính đến nhân tố tiếng Việt trong chính sách phổ biến tiếng Pháp của chúng. Đương nhiên, người Pháp sẽ chú ý đến tiếng Việt được ghi ở dạng văn tự chữ cái La tinh. Cáo già thực dân Pôn Be từng nói: “Việc người bản xứ có thể đọc, viết bằng chữ quốc ngữ đối với chúng ta là hết sức có lợi. Các công chức của chúng ta, các nhà buôn của chúng ta có thể học rất dễ dàng các ký hiệu đó, và sự liên hệ của chúng ta với người bản xứ sẽ dễ dàng hơn nhiều” (NCLS.96. 3/1967. tr.15).

“Học rất dễ dàng cách ký hiệu đó” đúng như Pôn Be nói, nhưng nắm được tiếng Việt thì lại là một vấn đề khác. Việc đó khó khăn vô cùng chứ không phải giản đơn nắm được các chữ cái là đủ… thực dân Pháp đã sử dụng tiếng Việt ở dạng ghi bằng chữ cái làm chuyển ngữ… Từ năm 1897 chúng mở một số trường Pháp - Việt ở các thành phố và các tỉnh lớn, trong đó học tiếng Pháp là chính nhưng có học chữ Quốc ngữ và chữ Hán. Năm 1898, thực dân Pháp ra nghị định sử dụng Quốc ngữ và Pháp văn vào chương trình thi Hương (chưa bắt buộc). Năm 1906, chính quyền thực dân tiến hành cải cách giáo dục làm ba cấp… Ở kỳ thi chọn Cử nhân thì thi luận chữ Nho, thi luận chữ Việt (Quốc ngữ) và có một bài dịch chữ Pháp ra chữ Nho.

Thi cử là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến tiến trình học tập và sử dụng ngôn ngữ. Thi cử sẽ kéo theo mọi vấn đề liên quan đến việc định hướng học tập… Lối thi cử truyền thống ở Việt Nam khiến cho người đi học không học và viết bằng ngôn ngữ đương thời mà bằng ngôn ngữ cổ, ngoại lai. Ở những khoa thi đầu thế kỷ, dần dần ngôn ngữ nói được sử dụng - nhất là trong dạng bài luận. Điều đó buộc người đi học phải học tiếng mẹ đẻ, tìm hiểu cách viết luận của nó, mà luận (hay văn xuôi nói chung) vốn là hầu nhưu hoàn toàn trống vắng trong văn Nôm quá khứ…

Những bước dạo đầu cho cuộc thay đổi chế độ thi cử đã được gióng lên từ những thập niên cuối thế kỷ XIX và sau đó gần 20 năm, đến năm 1919, chế độ học hành cũ chấm dứt trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam chuyển sang chế độ giáo dục Pháp - Việt.

Như vậy, nếu kể từ 1898 – năm thực dân Pháp ra Nghị định sử dụng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp vào kỳ thi Hương cho đến khi nền giáo dục sử dụng chữ Hán bị loại bỏ hoàn toàn, ta thấy ở nước ta đồng thời 3 ngôn ngữ (cả ở dạng viết lẫn dạng nói) và 4 loại hình văn tự. Có thể kể ra là:

a, Ba ngôn ngữ:

- Hán văn (Văn ngôn)

- Tiếng Việt.

- Tiếng Pháp.

b, Bốn loại văn tự cho 3 ngôn ngữ trên là:

- Chữ Hán

- Chữ Nôm

- Chữ Quốc ngữ

- Chữ Pháp

Có thể thể hiện các yếu tố đó ở bảng sau:

NGÔN NGỮ VĂN TỰ (CHỮ VIẾT)
1 Văn ngôn (Hán văn) Chữ Hán 1
Tiếng Việt Chữ Nôm 2
2 Chữ Quốc ngữ 3
3 Tiếng Pháp Chữ Pháp 4

Qua bảng đó ta thấy vai trò của chữ Hán (Văn ngôn) được xếp vào hạng thứ nhất. Nhưng tình hình đã thay đổi dần vào các năm 1903, 1906… và có thể nói thay đổi theo từng kì thi đến mức độ chóng mặt… Sự thay đổi đó dẫn đến những biến động tâm lý trong đám sĩ tử nói riêng và cả xã hội nói chung. Người ta lắng nghe từng tin đồn…

“Mong gì nhà nước còn thi nữa.

Biết rõ anh em chẳng chắc rồi”

“Nghe nói khoa này sắp đổi thi.

Các thầy đồ cổ đỗ mau đi…”

(Tú Xương)

Những thay đổi dữ dội khiến cho học trò như lũ gà phải cáo, sợ hãi trước những biến động trong thi cử… và dẫn đến biến động trong thế phân phối của các ngôn ngữ - chữ viết. Với việc chấm dứt thi cử bằng chữ Hán vào năm 1919, về cơ bản chữ Hán đã giải thể về chức năng (cho dù chữ Hán vẫn được dạy một hai giờ trong tuần..). Vị thế của các ngôn ngữ - văn tự đã có sự đảo lộn ghê gớm. Sự đảo lộn đó được thể hiện bằng bảng sau:

NGÔN NGỮ VĂN TỰ (CHỮ VIẾT)
1 Tiếng Pháp Chữ Pháp 1
2 Tiếng Việt Chữ Quốc ngữ 2
Chữ Nôm 3
3 Văn ngôn (Hán văn) Chữ Hán 4

Qua hai bảng trên chúng ta thấy sự đảo lộn vị trí ghê gớm trong bức tranh về trạng huống ngôn ngữ - văn tự ở Việt Nam từ những năm cuối thế kỷ XIX đến năm 1919. Dường như sự đảo lộn vị trí của các yếu tố cấu thành trạng huống (hoàn cảnh) ngôn ngữ có tính chất dây chuyền và kéo theo nhưng mang đầy nghịch lý về chức năng.

Sự sa sút vủa chữ Hán đến mức loại bỏ văn ngôn ra khỏi phạm vi giáo dục, hầu như gây ra phản ứng dây chuyền lan đến dẫn đến sự sa sút của chữ Nôm. Nhưng dường như lại có sự trớ trêu, sự vượt trội thăng hoa của chữ Pháp không kéo theo sự thăng hoa về chức năng xã hội, chức năng nhà nước của chữ Quốc ngữ.

2. Nhân tố chữ Hán - chữ Nôm trong đời sống ngôn ngữ Việt Nam đầu thế kỷ

Trên đây chúng tôi đã mô tả trạng huống ngôn ngữ (chủ yếu là ngôn ngữ viết) ở Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Hai bảng lược đồ trên đây đã cho ta hình dung sự sa sút của chữ Hán đến mức nào. Loại bỏ vị trí độc tôn của chữ Hán đã kéo theo ngay lập tức sự sa sút của hệ thống văn tự ghi tiếng Việt dựa trên cơ sở chữ Nôm.

Nói đến sự sa sút của hệ thống văn tự chữ Hán, nhưng mặt khác, chúng ta phải nhận thấy rằng gần như suốt 20 năm đầu thế kỷ XX chữ Hán vẫn còn được sử dụng, vẫn còn có uy lực nào đó (thậm chí còn có sức ỳ rất mạnh). Điều ấy thể hiện ở chỗ nó vẫn là ngôn ngữ của thi cử (mặc dù đã thu hẹp phạm vi và không còn giữ vị trí độc tôn nữa và đang dần đi đến loại bỏ).

Gần như tất cả các văn kiện của nhà nước thực dân và vua quan nhà Nguyễn đều có dạng viết chữ Hán hay chuyển sang chữ Nôm. Tình hình trên vẫn tiếp tục cho đến tận những năm 30 của thế kỷ này. Theo thống kê của chúng tôi qua bộ sách Di sản Hán – Nôm, Thư mục đề yếu, viết bằng chữ Hán vẫn là những văn bản cơ bản của lối quản lý đời sống truyền thống như sử ký, địa dư chí, hình luật, như các bộ:

1. Bắc Kỳ địa dư lược sao (A 2669) soạn thời Đồng Khánh – Duy Tân.

2. Bắc Kỳ quan chế Nghị định (VHv.2b) in năm Khải Định năm thứ 3 (1918).

3. Quốc triều luật lệ toát yếu (VHv.1706). Tóm tắt luật thời Duy Tân.

4. Quốc triều sử toát yếu. Cao Xuân Dục chủ biên. Viết tựa năm Duy Tân thứ 2 (1908)…

Danh sách các văn bản thuộc vào loại căn bản cho các hoạt động và các thiết chế nhà nước được viết bằng chữ Hán có thể còn được kéo dài nữa. Ấy là chúng tôi không kể đến các tác phẩm viết về chủ đề trên của các cá nhân trong xã hội…

Địa vị của chữ Hán còn thể hiện ở chỗ thời gian này đã xuất hiện một trào lưu tóm tắt biên soạn lại các sách vở xưa. Nhiều bộ sách tiết yếu các kinh điển của Nho gia phục vụ cho chương trình cải cách giáo dục ở giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX (Trung học Ngũ kinh toát yếu, Trung học Việt sử toát yếu…). Sách chữ Hán không chỉ giới hạn ở những vấn đề có liên quan đến học thuật truyền thống mà còn được sử dụng cả ở lĩnh vực sách giáo kho đề cập đến các tri thức mới như sách Cách trí của Trần Văn Khánh…

Vẫn còn tồn tại thi cử bằng chữ Hán nhưng có đổi mới về thể văn, cho nên số sách luyện thi chữ Hán theo kiểu mới cùng với các chủ trương mới của nhà nước thực dân và Nam triều xuất bản nhiều tựa hồ như nấm mọc sau trận mưa rào. Nhưng sách có tên như: Cử nghiệp luận tuyển, Hội đình văn tuyển, Luận thể tân tuyển, Sách học tân tuyển, Sách văn tân thức, Tân thức luận thể hợp tuyển… phục vụ thi cử vẫn chiếm số lượng lớn nhất trong số các sách chữ Hán trong thời kỳ này, đủ thấy thi cử theo kiểu cũ đã lụi tàn vì lối học vô dụng, nhưng vẫn còn tồn tại nên người ta vẫn chạy theo các loại văn chương trường ốc đó.

Càng về sau, tiếng Việt càng phát triển, càng có khả năng hơn trong chức năng thông báo các chính sách của chính quyền đến với dân cả ở dạng chữ Nôm và Quốc ngữ. Trên cơ sở của nền Hán học vẫn còn, nên chữ Nôm vẫn lại được dùng như một chuyển ngữ… Rất nhiều nghị định của chính quyền thực dân được dịch từ tiếng Pháp ra chữ Nôm như: Bản dịch Nôm nghị định 1911 của Thống sứ Bắc Kỳ (NHv 119). Bắc Kỳ bảo hộ - Quốc ngữ công báo in năm Khải Định 1923; (VNv 15); Bắc Kỳ dân luật quốc âm dịch bản (VNv 18); Bắc Kỳ dân luật tân san (VNv12)…

Chữ Nôm đặc biệt được sử dụng trong các lĩnh vực có liên quan đến luật pháp, dân sự, thương mại, tố tụng, thuế khoá… thậm hcí ghi cả những tiết lễ ở Bắc Kỳ…

Hán văn được sử dụng trong báo chí… Có tiếng nhất là Đại Nam Đồng Văn nhật báo, Đăng Cổ tùng báo…, các công báo khác chủ yếu bằng chữ Hán… Báo chí bằng chữ Nôm thì cơ hồ như vắng bóng.

Giáo dục truyền thóng đã sản sinh ra một lớp đông đảo những người biết chữ Hán. Không ít người trong số họ đã tham gia con đường cử nghiệp, họ từng đỗ đạt, từng giành các vị trí đứng đầu trong các kỳ thi Hương, thi Hội ngay ở giai đoạn giao thời này. Với học vấn của họ (mà con đường cơ bản biết được qua sách vở viết bằng chữ Hán), họ nhận thấy rằng cứu nươc theo con đường cũ (con đường Cần Vương) đã không hợp với tình hình nữa, kinh điển của thánh hiền, lối văn bát cổ không còn thích hợp “Hiền thánh còn đâu học cũng thừa” – mà cần phải tiến hành một cách khác, khi mà đại bộ phận giai cấp phong kiến đã đầu hàng, câu kết làm tay sai cho chủ nghĩa thực dân Pháp… Họ có nhận thức mới về thời cuộc, họ muốn duy tây để tự cường, họ xuất dương hay gửi con em xuất dương… Tiêu biểu nhất trong số các trí thức ấy là; Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền, Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp… Sự hiểu biết của họ về tinh thần thời đại, khu vực lúc đầu chủ yếu qua con đường sách vở bằng chữ Hán. Các áng thơ văn, các cương lĩnh hoạt động chính trị của họ cũng chủ yếu viết bằng chữ Hán và sau đó lại được diễn Nôm (một lối diễn rất truyền thống…). Việc tài liệu của họ Viết chữ Hán và diễn Nôm là chủ yếu đã thấy nhân tố chữ Hán và chữ Nôm trong khoảng hơn 20 năm đầu thế kỷ này vẫn có một bộ phận độc giả đông đảo. Họ sáng tác văn thơ không phải để làm văn làm thơ mà làm nhiệm vụ giác ngộ, tổ chức, tuyên truyền cách mạng. Các bộ Hợp tuyển văn học giai đoạn này chủ yếu sưu tập các tác phẩm viết bằng chữ Hán, chữ Nôm đủ mọi thể loại và phong cách.

Sự phân tích trên đây về nhân tố chữ Hán (Hán văn) và nhân tố chữ Nôm trong đời sống ngôn ngữ của đất nước đầu thế kỷ XX đã phần nào cho chúng ta thấy ở thời gian ba thập niên đầu thế kỷ XX, nhân tố chữ Hán, chữ Nôm vẫn còn vị trí của mình trong trạng huống ngôn ngữ - xã hội đặc biệt trong lịch sử nước nhà, thường được gọi là trạng huống giao thời Âu – Á. Nhân tố chữ Hán vốn là vay mượn, song, do đó là sự vay mượn tự giác (Hán học Việt Nam phát triển chủ yếu vào giai đoạn nước nhà độc lập sau thế kỷ X), cho nên vẫn có những sức mạnh nào đó có tính chất bề dày… Cái sức mạnh ấy có được chính là ở chỗ: qua Hán học, cha ông chúng ta đã xây dựng được một nền học thuật dân tộc, là cái để cho chúng ta tự hào có truyền thống văn hiến, chẳng kém gì Trung Hoa… Chính bọn thực dân cũng đã nhìn thấy điều này qua lời của Pôn Be: “Việc dạy chữ Pháp sẽ tạo điều kiện dễ dàng cho việc học quốc ngữ. Cũng cần có một khoá trình chữ Nho, nếu trẻ em An Nam rời bỏ nhà trường của chúng ta mà không biết đọc và viết chữ Nho thông dụng… họ sẽ trở thành những kẻ ngoại quốc trong xứ sở củ họ. Và sau hết, các trường của chúng ta sẽ không chiêu tập được ai vào học” (NCLS.5.1967. Tr.44).

Nhiều người khi giải thích sự luyến tiếc của các tầng lớp nhân dân khi chữ Hán bị đẩy ra khỏi phạm vi giáo dục, mới chỉ nghiêng về một phía cho rằng các tầng lớp nhân dân luyến tiếc một nền học vấn Trung Hoa, hay đi học chữ Nho dùi mài nghiên bút theo con đường cử nghiệp, bổng lộc cũng ở trong đó… nay bỗng dưng con đường đó bị đóng cửa… mà không thấy rằng: chính Hán học Việt Nam trong truyền thống (chủ yếu là sau khi nước nhà độc lập) đã tạo dựng nên những nét đặc thù, những giá trị trong truyền thống học thuật, văn hóa Việt Nam. Cha ông chúng ta trong truyền thống rất trân trọng những trước tác của người Việt Nam. Họ từng than dài trước các nguy cơ, lý do văn thơ Lý - Trần bị hủy hoại trong các điều kiện nhà Minh xâm lược. Họ than phiền về một nước có tiếng là văn hiến mà làm thơ, làm văn phải lấy các nhà thơ đời Đường ra làm khuôn mẫu. Điều này đã được các tác giả của Văn minh tân học sách một lần nhắc lại: “Nước ta từ xưa tới giờ, các nhà viết văn kể cũng khá nhiều như Khâm Định Việt sử cương mục, Thực lục, Liệt truyện, Nhất tống chí, Lịch triều chí, Vân đài loại ngữ, Công hạ kiến văn, đều đủ để cung cấp tài liệu về sơn xuyên, phong tục, văn vật, điển chương và để cho người sau mượn đó làm gương nữa…” (Chương Thâu 1982, Tr.112 – 113).

Cho nên, điều thứ hai trong cương lĩnh canh tân của Văn minh tân học sách là hiệu đính sách vở chữ Hán của nước nhà. Họ đã nhận thấy giá trị của văn hóa truyền thống tích tụ trong các văn bản chữ Hán. Và cũng do yêu cầu của thời đại, họ cho rằng việc số một là phải dùng văn tự nước nhà - chữ Quốc ngữ, nhưng họ thấy việc xóa bỏ chữ Hán là gây nên sự đứt đoạn giữa truyền thống và hiện đại. Lý do họ đề xuất phải cấp bách hiệu đính sách vở là như vậy.

Nhân tố chữ Hán – và kèm theo đó là chữ Nôm ghi tiếng Việt đã được các nhà yêu nước sử dụng một cách rộng khắp để làm lợi khi tuyên truyền, tổ chức cách mạng. Những người ấy đã dùng ngọn bút và cái mình sáng tác ra bằng ngòi bút (chủ yếu là bút lông) để làm cách mạng. Khi thực dân Pháp đàn áp, bắt bớ thì nhà tù đầy những Tiến sĩ, Phó bảng, Cử nhân… Việc họ chủ yếu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm cần phải được nhận thấy vẫn còn đông đảo số người đọc chữ Hán. Viết chữ Hán… chữ Nôm chứ không phải đơn thuần cho rằng đó là sự dị ứng với lại bút chì, bút sắt với chữ Quốc ngữ… Nếu dị ứng, các cụ đã không nêu lên việc cấp bách đầu tiên là phải dùng chữ Quốc ngữ… Chữ Quốc ngữ được các cụ cho là “hồn trong nước” nhưng cũng phải thừa nhận rằng viết chữ Quốc ngữ ở giai đoạn này còn phôi thai lắm, nó chưa có bề dày truyền thống, xã hội dường như chưa kịp chuẩn bị… Ngay cả công báo, công văn, dân luật của nhà nước thực dân vẫn phải dùng chữ Hán, chữ Nôm kia mà. Sự chưa chuẩn bị của xã hội về Quốc ngữ đã là chỗ cho chữ Hán, chữ Nôm vẫn còn chỗ đứng của mình trong những năm đầu thế kỷ.

3. Những đặc điểm về chức năng và cấu trúc của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm trong giai đoạn này

Hán văn (văn ngôn) một mặt vẫn được sử dụng trong 20 năm đầu thế kỷ với tư cách là ngôn ngữ của giáo dục, của sáng tác nhưng càng tàn dần. Mặt khác cũng phải thấy rằng Hán văn thời gian này đã thay đổi rất nhiều về chức năng xã hội cũng như về mặt cấu trúc.

Về mặt chức năng xã hội, như trên đây chúng tôi đã trình bày, văn ngôn trong chức năng là ngôn ngữ độc quyền trong giáo dục trong thời điểm này tuy cứ dần dần lụi tàn… song nó lại mở rộng trong chức năng là công cụ nhận thức cuộc sống (trong báo chí… trong biên soạn sách giáo khoa mới…). Văn ngôn trong giai đoạn này khác hoàn toàn, khác với bất kỳ giai đoạn nào trước đó. Chúng ta thấy Hán văn giai đoạn này là một trong những công cụ nhận thức các vấn đề do cuộc sống của đất nước. Nếu không kể việc chủ nghĩa thực dân và triều đình nhà Nguyễn sử dụng Hán văn và chữ Nôm vào việc phổ biến các chính sách thực dân, phục vụ cho chính sách khai thác thuộc địa của chúng, thì văn chương yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ này chủ yếu viết bằng chữ Hán, chữ Nôm. Đó là loại văn chương giác ngộ tập hợp động viên quần chúng với một bầu nhiệt huyết chứa chan. Có thể gọi đó là văn chương giác thế - một lối viết chịu ảnh hưởng của Tân văn thể của Lương Khải Siêu và Hán văn Trung Quốc thời cận đại. Văn chương chủ yếu có nhiệm vụ giác ngộ đồng bào, tổ chức động viên họ vào con đường cứu nước… Chức năng giác thế của Hán văn giai đoạn này là chức năng nổi bật nhất.

Cùng với những biến đổi của xã hội Việt Nam trong hai chục năm đầu của thế kỷ này, Hán văn đã có thay đổi về thể loại và phong cách. Nếu như trước đây lối học cử tử đã làm cho người ta chỉ học theo các kinh truyện, làm văn không phải bằng các ngôn từ của mình mà bằng ngôn từ của thánh kinh hiền truyện, khiến cho văn chương cử tử trở nên khuôn sáo và trống rỗng, những người đi học chỉ biết “nhai lại bã mía của tiền Nho” không có sáng tạo trong cách diễn đạt, trong các chủ đề đề cập (nếu có chỉ có thể viết sách thuốc, viết truyện ký…)… thì giờ đây lối văn bát cổ bị lên án và lại bị chính những đại diện có uy quyền nhất của văn chương cử tử phê phán - những Tiến sĩ… những Phó bảng… những tay cự phách về văn chương khoa cử… Hán văn thời này không chỉ giới hạn mình trong kinh truyện mà còn là ngôn ngữ viết các loại sách giáo khoa khác như luân lý, cách trí… Do vậy chức năng nhận thức của Hán văn lại mở rộng hơn.

Sự thay đổi về chức năng trên đây đã dẫn đến những thay đổi to lớn về phương diện cấu trúc của Hán văn đầu thế kỷ. Do chức năng phổ biến của mình, Hán văn Việt Nam đã bước vào thể nghiệm ở một số thể loại và phong cách mà trước đó chưa hề có. Đó là Hán văn trong công báo, thông tư, (phong cách báo chí), tức là các phong cách chính luận, tuyên truyền. Đã xuất hiện rất nhiều tờ báo viết bằng chữ Hán như Đồng văn nhật báo, chẳng hạn.

Đồng văn nhật báo vốn là tờ báo của chính quyền thực dân, nó chỉ là tờ công báo. Trên báo chúng ta chủ yếu thấy công bố việc bổ nhiệm, thuyên chuyển quan lại, các nghị định, thông tư… Mục tuyển văn thì nói chung là nghèo nàn. Mục tin tức thì chủ yếu là đưa lại (tin trong đó không ít tin báo đưa lại trên cơ sở tin của các báo chí Thượng Hải… Xét về giá trị văn học và báo chí thực, Đại Nam Đồng văn nhật báo rất bị hạn chế. Song điều quan trọng đây là tờ báo xuất hiện vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XIX, có nó số lượng độc giả rộng rãi hơn nhiều so với độc giả của những thi phẩm bình thường vốn có của truyền thống. Phong cách ngôn ngữ của Đại Nam Đông văn nhật báo là phong cách công văn… một phong cách chủ yếu chỉ có câu đơn, lối diễn đạt tránh hiểu hai nghĩa… Ở Việt Nam chúng ta không có những báo chữ Hán trong giai đoạn này đã đóng vai trò nào đó trong việc làm đổi mới phong cách của ngôn ngữ viết - chữ Hán.

Do chức năng nhận thức quy định, Hán văn thời này định về cơ bản viết theo lối văn ngôn mà lối văn ngôn này khác với văn ngôn của các giai đoạn trước đó. Sự khác biệt của văn ngôn giai đoạn này so với các giai đoạn trước đó, có thể được nhìn thấy trong các loại văn thể khác nhau. Trước hết, chúng ta hãy kể đến văn chương cử tử. Tuy lối văn chương này, nói chung, là kiểu trả bài thi, lời nói trống rỗng, khuôn mẫu, song, trước những biến đổi của thời cuộc và do ảnh hưởng của các cuộc cải cách chế độ học hành, dư luận nhìn chung đã thấy rằng văn chương khoa cử những khoa thi đầu thế kỷ XX đã khác nhiều so với văn chương trước đó… Môn thi chữ Nho chủ yếu là hai môn Luận và Sách. Đề tài của hai môn này chủ yếu lấy từ các vấn đề thời vụ… Do đó kéo theo cách trình bày vấn đề thời vụ liên quan đến cuộc khai thác thuộc địa phải khác các vấn đề theo kinh truyện… Thế là có dịp người ta tung ra thị trường một loạt sách làm bài mẫu (tựa như sách luyện thi). Những từ tân thức, tân tuyển, tân thức, luận thể, tân văn,… luôn luôn được dùng làm định ngữ cho các bộ sách luyện thi mới này. Có thể kể ra ở đây một số quyển như sau:

Luận thể tân truyện (A.1489) do nhà Tụ Văn đường in năm Duy Tân thứ 5 (1911).

Luận thể tân truyện (VHv.1489) do nhà văn Mỹ Văn đường in năm Duy Tân thứ 5 (1911).

Sách văn tân thức (VHv 965/1) in năm Duy Tân, Tân Hợi (1911).

Sách học tân tuyển (VHv 712/1-2/ in năm Duy Tân, Kỷ Dậu (1909).

Tân thức ở đây được hiểu là những bài làm theo lối mới mà đề tài chủ yếu đề cập đến các vấn đề thời sự như về kỹ nghệ, canh nông, du học, lý tài… Ngôn từ do vậy phải mới, ít dùng những lời “Tử viết, Thi vân…”. Tất nhiên do lối văn cử tử quy định, khi vắng những từ “Tử viết, Thi vân thì lại xuất hiện những lối nói mới làm đẹp lòng các quan Công sứ, Thống sứ, Toàn quyền…

Cấu trúc các nhóm văn bản Hán văn cũng thay đổi khác hoàn toàn trước đó. Nếu như trước đây sách giáo khoa chỉ giới hạn ở Tứ thư, Ngũ kinh với các lời chữ số của Tống Nho thì bây giờ Hán văn được sử dụng làm ngôn ngữ viết sách giáo khoa các lĩnh vuẹc đời sống xã hội như luân lý, cách trí, sử…

Hán văn giai đoạn này không có những bộ loại thư loại lớn (ngoại trừ các bộ sử và các bộ địa dư chí…). Có thể được giải thích bằng tình hình đầy biến động và sự thay đổi của tinh thần học thuật đầu thế kỷ. Nếu trước tác theo học thuật truyền thống thì không hợp với tinh thần của thời cuộc. Dễ hiểu, Hán văn thời kỳ này thiếu vắng những loại bộ thư lớn, những bộ khảo cứu trường thiên…

Hán văn thời kỳ này bị thời đại chi phối, do vậy được viết ra trong tinh thần đả đảo văn khoa cử, đả đảo lối viết văn tối tăm không đề cập đến những vấn đề thời cuộc… Trong số các tác giả lớn của văn học cách mạng đầu thế kỷ XX ta thấy dường như đa số họ là những người đã qua vòng khoa cử nhưng ai cũng ghét khoa cử. Khoa cử tựa như ách cường quyền thực dân:

Vạn dân nô lệ cường quyền hạ.

Bát cổ văn chương tuý mộng trung.

(Phan Châu Trinh)

Họ thấy mình có nhiệm vụ phải thức tỉnh mọi người… Trong điều kiện con số người biết chữ Hán những năm đầu thế kỷ XX không phải là lớn so với toàn bộ nhân dân, do vậy, họ chủ yếu sử dụng chữ Hán, tập trung vào khơi gợi những người có học. Còn những người không biết chữ họ quay sang sáng tác bằng Nôm cho dễ truyền miệng, một con đường truyền thống của văn học viết bằng chữ Nôm khi xưa…

4. Vai trò chiếc cầu nối giữa truyền thống và hiện đại của ngôn ngữ văn học Hán – Nôm

Một trong những điều dễ thấy của Hán văn giai đoạn này là sự xuất hiện của các từ biểu thị các khái niệm mới theo kiểu quá độ. Các vấn đề được tập trung nói đến lại là các vấn đề mà trước đây trong kinh truyện không thể có được như về đường sắt, điện, về thực nghiệp, về công thương… và phần lớn các vấn đề đó vào lúc ấy không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà là vấn đề của các nước Châu Á.. Họ học tập cách diễn đạt của các đại diện Trung Quốc thời cận đại như Lương Khải Siêu, Nghiêm Phục… Những vấn đề có tính chất khu vực và thời đại như vậy đã tạo nên tinh thần Đông học của cả khu vực. Do thế họ có cách nói của các nhà Tân thư, ngôn ngữ của họ đã được đổi mới, khác xa ngôn ngữ của nhà Nho cử tử khi xưa… Tác phẩm của họ viết ra không đòi hỏi phải có trình độ Hán học quá cao vì ít tầm chương trích cú… Họ viết tự nhiên, ít dùng điển cố (nếu buộc phải dùng thì có mức độ và được dùng rất đắt)…

Cần phải nói rằng mức độ ảnh hướng Tân thư và phong cách viết mới (Tân văn thể) ở Hán văn Việt Nam là rất rõ. Có thể dẫn ra trường hợp ở các văn bản Văn minh tân học sách và Quốc dân độc bản có một loạt trường hợp các tác giả đã dùng cách dịch thuật ngữ theo Lương Khải Siêu. Chẳng hạn như chữ “chủ nghĩa” ở cả hai văn bản trên dùng với nghĩa là “nghĩa chính”. Khái niệm kinh tế hiện nay lại được dùng theo thuật ngữ của Lương Khải Siêu là kế học (khoa học tính toán). Bởi thế, có cở sở để nói rằng ngôn ngữ các nhà Nho đã đổi mới nhưng sự đổi mới ấy chịu ảnh hưởng của Tân văn thể - phong cách viết của Lương Khải Siêu và báo chương khu vực viết bằng chữ Hán.

Số lượng văn bản Hán văn Việt Nam của giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX không phải là quá nhiều, nhưng xét về mặt chức năng và cấu trúc ngôn ngữ ta thấy đó là một loại các văn bản được viết theo một ngôn ngữ mới, khác hẳn với ngôn ngữ được dùng ở các giai đoạn trước đó. Đó là lối viết của thời cận đại.

Nếu ta thấy vốn từ và thuật ngữ hiện đại đi vào tiếng Hán và các ngôn ngữ khác như tiếng Nhật ở những năm cuối thê kỷ XIX đầu thế kỷ XX phải dựa vào các bối cảnh lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, phải vào qua con đuờng “bình cũ rượu mới”… để cho những người sử dụng chấp nhận và quen dần (chẳng hạn một loạt các thuật ngữ chính trị, khoa học… đều được xây dựng trên cơ sở các căn tố, các từ có trong các kinh điển cổ…), và bản thân hệ thống thuật ngữ này cũng đang ở giai đoạn vận động để đi đến định hình, thì tình hình này cũng thể hiện trong các văn bản Hán văn Việt Nam. Như trên đây chúng tôi đã đề cập đến một số thuật ngữ tương đương với các thuật ngữ của các nước Châu Âu được sử dụng trong tiếng Hán giai đoạn cận đại và các văn bản Hán văn Việt Nam đầu thế kỷ XX mang tính chất chuyển tiếp… ít nhiều có gắn với lịch sử, chưa ổn định, có nhiều nét khác với hệ thống thuật ngữ hiện đại. Chẳng hạn như để diễn đạt khái niệm economy người ta đã phải dùng nhiều thuật ngữ khác nhau và sau đó người ta đã dùng thuật ngữ do người Nhật đặt là kinh tế và vỏ ngôn ngữ (và cả nội dung) của thuật ngữ này được dùng cho đến tận ngày nay. Song, ngay khi đã dùng thuật ngữ kinh tế rồi, nhiều nhà Nho vẫn hiểu nó theo cách hiểu truyền thống mà trong đó kinh tế có nghĩa là “kinh thế tế dân”, “kinh bang tế thế”… chữ không hiểu ngang với nội dung hiện đại. Phải mất một giai đoạn các thuật ngữ có nội dung hiện đại mới được những người biết chữ Nho hiểu đúng. Tuy có tình hình trên, song qua đó, ta cũng thấy rằng: Hán văn thời kỳ cận đại, trong những chừng mực nhất định – qua hệ thống vốn từ, thuật ngữ của mình đã góp phần rất đắc lực để làm cái cầu trung chuyển cho học thuật từ truyền thống đến hiện đại. Không có nó, chắc hẳn việc xây dựng hệ thống thuật ngữ hiện đại (viết bằng chữ Quốc ngữ sau này) sẽ còn gặp rất nhiều khó khăn…

Khi nhận xét về ngôn ngữ văn học của văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, cố giáo sư Đặng Thai Mai có viết: “Văn học chữ Hán không phải là văn học của đại chúng nhân dân nước ta” (Đặng Thai Mai, Tr.198). Ngay cả văn Nôm cũng có nét thiếu tính đại chúng “Một ấn tượng không được thoải mái cho lắm trong khi ta đọc một số văn Nôm của thời đại này là: với các nội dung mới của nó, thơ ca các nhà chiến sĩ cách mạng vẫn chưa thể nói là hợp với khẩu vị của đại chúng được. Phần lớn các bài văn thơ viết theo thể loại nhà trường… vẫn quá nhiều những ám thị, tượng trưng, những biểu tượng quá uyên bác và mới. Tư liệu văn học lại đã quá xa lạ với thời đại rồi. Tư liệu mới lẽ ra gần với bạn đọc hơn. Khốn một nỗi là trên trình độ học thức phổ thông thời này, bao nhiêu danh từ “tân thư” từ tên đất, tên người cho đến các khái niệm khoa học – khoa học tự nhiên và nhất là khoa học xã hội đều phải vay mượn từ chữ Hán để đưa về vận dụng vào tiếng Việt. Thành ra nội dung của bấy nhiêu thực tế đối với con người thông thường lắm lúc có phần lạ tai, lạ mắt quá! Tình trạng này có phần trách nhiệm của thời đại: trí thức của người bạn đọc Việt Nam về các phạm trù khoa học đang đình đốn lại trên một trình độ quá lạc hậu” (Đặng Thai Mai, tr.199).

Nhận xét của cố giáo sư Đặng Thai Mai thật là đúng với tình hình ngôn ngữ Hán và Nôm giai đoạn này. Ngôn ngữ học viết bằng chữ Hán và chữ Nôm đã tự bộc lộ những hạn chế của mình trong điều kiện những năm đầu thế kỷ. Những hạn chế, nhược điểm của ngôn ngữ văn học chữ Hán và chữ Nôm trên đây cũng là hạn chế của ngôn ngữ văn học chữ Hán nói chung. Hán văn, tự nó là ngôn ngữ vay mượn, ngoại lai thì rõ ràng không bao giờ có thể là ngôn ngữ đại chúng được. Ngôn ngữ văn học dân tộc viết bằng chữ Nôm cũng không thể tránh khỏi tình hình phát triển thấp kém của đời sống của dân trí nói chung. Tuy có những nhược điểm như vậy, song ngôn ngữ văn học Hán – Nôm giai đoạn những năm đầu thế kỷ XX quả là một bộ phận trong phức thể của các ngôn ngữ văn học của buổi giao thời. Do vậy, trong những chừng mực nhất định, chúng mang những đặc điểm của buổi giao thời.

Văn học truyền thống cũng viết bằng chữ Hán nhưng ngôn ngữ văn học này về căn bản dựa vào ngôn ngữ truyền thống. Ngôn ngữ văn học này dựa vào tiếng Hán, và sau đó, dựa vào những thành tựu cải tiến ngôn ngữ viết – văn ngôn thời Đường - Tống.

Đến những năm cuối thế kỷ XIX (và nhất là những năm đầu thế kỷ XX) tình hình cuộc sống khác hẳn đã khiến cho ngôn ngữ văn học – văn xuôi ở ngay Trung Quốc cũng phải biến đổi để chuyển thành Tân văn thể. Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đều thống nhất cho rằng giai đoạn Tân văn thể là giai đoạn quá độ - là bước chuyển của văn học Trung Quốc từ truyền thống sang hiện đại (Lương Quang Khánh, 1996). Văn học Trung Quốc và ngôn ngữ văn học giai đoạn những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm nhiệm vụ của giai đoạn quá độ, để rồi với Ngũ Tứ vận động, một ngữ văn học mới - bạch thoại được xác lập thay thế văn ngôn. Như vậy, sự cải biến trong cách viết do Tân văn thể đã đặt tiền đề, là bước quá độ cho cuộc tiến hóa về ngôn ngữ viết ở Trung Quốc.

Còn ở Việt Nam, như trên đây đã trình bày, tình hình có phần phức tạp hơn nhiều, bởi văn ngôn là ngôn ngữ ngoại lại. Văn Nôm ở những cuối thế kỷ XVIII – cho đến đầu thế kỷ XX chủ yếu vẫn là ngôn ngữ của vận văn. Văn xuôi bằng ngôn ngữ dân tộc viết bằng chữ Nôm quả là ít ỏi. Những thay đổi trong chính sách thi cử đầu thế kỷ XX đã làm cho người ta chú ý đến viết luận trong thi cử bằng chữ Quốc ngữ. Cách viết luận này tuy xuất hiện một cách muộn mằn, nhưng dù sao, cũng đã góp phần tạo cho cả xã hội (trước hết là tầng lớp sĩ tử) chú ý đến việc rèn dũa tiếng mẹ đẻ… ở dạng rất cao cấp, nghiêm túc: viết luận. Tiếng Việt, do thế không chỉ là ngôn ngữ của sự “mua vui, giải trí, viết chơi” như trước nữa, mà nó được tập dượt trong phong cách chính luận, một vị trí mà không phải dễ dàng giành được.

Ngôn ngữ văn học chữ Hán thời này đã góp phần của mình để thúc đẩy cho thể luận của văn tiếng Việt tiến lên. Điều này thể hiện ở nhiều phương diện, chẳng hạn như Hán văn thời kỳ này là nguồn cung cấp từ vựng cho tiếng Việt. Những từ ngữ, thuật ngữ mới lấy từ Hán văn sẽ là nguồn cung cấp từ vựng chủ yếu cho tiếng Việt, nhất là ở phong cách chính luận. Không ít những người viết bằng chữ Hán lại là những người tích cực hô hào sử dụng tiếng Việt trong giáo dục, tỏng sáng tác, hô hào mọi người sử dụng chữ Quốc ngữ. Thực tế vận động sử dụng Hán văn giai đoạn này sẽ là nguồn cổ động cho công cuộc xây dựng ngôn ngữ văn học dân tộc viết bằng chữ Quốc ngữ… Khỏi phải nhắc lại vai trò của tác giả lớn trong giai đoạn này trong việc hạ bệ văn chương khoa cử… cổ vũ tân học… ta cũng thấy vai trò chuẩn bị, quá độ của ngôn ngữ ngữ văn học viết bằng chữ Hán, chữ Nôm.

Sự tăng tiến quá nhanh của các thuật ngữ khoa học cũng như nhân danh, địa danh từ các ngôn ngữ Châu Âu (nhất là của các ngành khoa học xã hội) ở giai đoạn này quả là gánh nặng quá tải cho một ngôn ngữ văn học viết bằng chữ Nôm. Thật khó bằng chữ Nôm mà dịch và phiên đúng âm đọc của một loạt nhân danh, địa danh, thuật ngữ khoa học… có nguồn gốc Âu Châu. Nếu cứ dùng chữ Nôm thì những yêu cầu trên không thể hiện thực một cách thỏa đáng được. Nhưng, phải thừa nhận rằng sáng tác bằng chữ Nôm ở giai đoạn này vẫn còn có sức sống của mình, song nếu cứ dùng nó trong khi đã có phương án lựa chọn khác - chữ Quốc ngữ thì thật là không hợp thời và hợp lôgic của lịch sử nữa… Xét về một phương diện nào đó - chữ Nôm trong điều kiện mới đã đóng vai trò làm cái nền, cái phồng mà qua đó xã hội nhận thấy sự tiện lợi của việc sử dụng Quốc ngữ. Do vậy, nó đã đóng vai trò bước chuẩn bị cho việc chiến thắng của Quốc ngữ vào các năm 20 của thế kỷ này.

Để kết thúc bài viết này, chúng tôi một lần nữa khẳng định vai trò của ngôn ngữ văn học viết bằng chữ Hán và ngôn ngữ văn học viết bằng chữ Nôm giai đoạn đầu thế kỷ XX đối với quá trình tiến hóa của ngôn ngữ văn học Việt Nam và văn học Việt Nam. Xét theo nhiều khía cạnh và ở những mức độ nhất định, hai ngôn ngữ văn học có tính chất truyền thống này, trong những năm đầu thế kỷ XX đã biến đổi về cấu trúc và chức năng, chuẩn bị những tiền đề quan trọng (và tự chúng là bước quá độ) cho sự tiến hóa của ngôn ngữ văn học Việt Nam từ truyền thống sang hiện đại.

Tản Đà - Nguyễn Khắc Hiếu tuy không giống các sĩ phu yêu nước đầu thế kỷ XX (ông có sáng tác đầu tay in vào những năm đầu của thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX) được mọi người của phong trào Thơ Mới coi như là người của sự giao thời, là dấu nối của hai thế hệ. Tản Đà như ông đã từng tự nhận mình:

Chữ nghĩa Tây Tàu trót dở dang

Nôm na phú nghiệp kiếm ăn xoàng…

Nếu xét trong tiến trình hiện đại của văn học Việt Nam, Tản Đà như một gạch nối giữa truyền thống và hiện đại. Điều đó đã được cả thời đại, cả thế hệ những người tiếp theo ông thừa nhận và tôn vinh, cùng chiêu anh hồn ông về để chứng tỏ rằng họ (thế hệ các nhà thơ mới) không phải là đứa con không có quan hệ gì với dân tộc, giống nòi. Nhưng Tản Đà lại là một người có quan hệ rất chặt chẽ với văn học truyền thống. Tản Đà chịu ảnh hưởng nặng của giáo dục truyền thống. Ông cũng là một trong những người tích cực nhất trong việc chuyển những giá trị của truyền thống sang hiện đại (chẳng hạn ở phương diện dịch thuật…). Vai trò ấy của Tản Đà ắt hẳn có quan hệ với văn học Hán – Nôm đầu thế kỷ và được dựa trên cơ sở của ngôn ngữ văn học Hán Nôm giai đoạn này.

Chúng ta không phải chờ đợi lâu đến vài thế kỷ mới có những thành tựu của nền văn học hiện đại. Chưa đến hai mươi năm sau khi chữ Hán bị loại khỏi phạm vi là ngôn ngữ trong giáo dục chúng ta đã chứng kiến những thành công lớn lao trong văn học Việt Nam như Thơ Mới, Tự Lực Văn Đoàn… Sự thành công ấy không thể nảy sinh trên cánh đồng hoang mà đó là sự nảy mầm, ra hoa, kết trái trên một vùng đất có sự chuẩn bị trước. Nền văn học dân tộc phát triển nhờ chính vào nội lực của mình từ nhiều phương diện. Về phần này cần phải nhận ra rằng ngôn ngữ của văn học Hán – Nôm đầu thế kỷ đã phần nào đóng vai trò làm cái cầu cho bước chuyển từ truyền thống sang hiện đại.

Nền văn học Việt Nam hiện đại xét về mặt ngôn ngữ là một nền văn học có ngôn ngữ viết trực tiếp dựa trên cơ sở của ngôn ngữ nói, của ngôn ngữ thông dụng… Cái ngôn ngữ thông dụng này được sử dụng trong mọi thể loại và phong cách viết. Nó đã khắc phục được các nhược điểm căn bản của văn học trung đại khi sử dụng ngôn ngữ - văn tự nước ngoài (Hán văn) và sử dụng Quốc ngữ (chữ Nôm) nhưng ở dạng không đầy đủ… Ngôn ngữ văn học Việt Nam hiện đại không thể có những bước nhảy vọt nếu như không có sự đóng góp của ngôn ngữ văn học truyền thống, trong đó trước hết phải kể đến ngôn ngữ văn học Hán – Nôm trong những thập kỷ đầu tiên của thế kỷ này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO VÀ TRÍCH DẪN

1. Trần Đình Hượu – Lê Chí Dũng

Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930

NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. H.1988.

2. Chu Quang Khánh

Hán ngữ dữ Trung Quốc tân văn hóa khải mông.

Đông Thổ đồ thư công ty. Đài Bắc.1996

3. Phạm Văn Khoái

Hai cuộc cải cách văn ngôn lớn trong lịch sử Trung Quốc.

Tạp chí Hán – Nôm số 4.1996.

4. Phạm Văn Khoái

Tân văn thể và sự ảnh hưởng của nó với ngôn ngữ văn học Việt Nam. Trong tập. Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. NXB Chính trị Quốc gia. H.199.

5. Phạm Văn Khoái

Nét truyền thống và hiện qua tên gọi CHỮ QUỐC NGỮ

Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống. Số 2. 1977.

6. Phạm Văn Khoái

Một vài vấn đề về sách giáo khoa dạy chữ Hán trong kho sách Hán – Nôm. Trong tập Thông báo Hán – Nôm 1995.

NXB BKHXH.1996.

7. Nguyễn Hiến Lê

Đại cương văn học sử Trung Quốc.

NXB. Trẻ.1997.

8. Trần Nghĩa (chủ biên)

Di sản Hán – Nôm thư mục đề yếu.

NXB. Khoa học xã hội. H.1993.

9. Đặng Thai Mai

Văn thơ cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX.

NXB Văn học. H.1971.

10. Trần Văn Giàu. Đinh Xuân Lâm. Nguyễn Văn Sự.

Lịch sử cận đại Việt Nam. Tập 3.

NXB Giáo dục. Hà Nội. 1961.

11. Trần Văn Giàu

Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ 19 đến cách mạng tháng 8 – 1945. Tập II.

NXB. BKHXH.H.1975.

12. Chương Thâu

Đông Kinh nghĩa thục và phong trào cải cách văn hóa đầu thế kỷ XX. NXB Hà Nội. 1982.

13. Chương Thâu. Triêu Dương. Nguyễn Đình Chú

Hợp tuyển thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX (1900-1930). NXB Văn học. H.1997.

14. Nguyễn Đăng Tiến (chủ biên)

Lịch sử giáo dục Việt Nam (trước cách mạng tháng 8 – 1945).

NXB Giáo dục. 1996.

15. Tú Xương thơ và đời (Lữ Huy Nguyên tuyển chọn và biên soạn).

NXB Văn học. H.1997.

16. M.V. Sophronov

Tiếng Trung Quốc và xã hội Trung Quốc (tiếng Nga).

NXB Khoa học. M.1979.

17. Nghiên cứu lịch sử. 5 – 1967.

 

Phạm Văn Khoái

Đại học KHXH và Nhân văn Hà Nội

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1997, tr.259-291, phiên bản trực tuyến ngày 03.10.2007.

20191018 Ngo mon

Học môn Thơ Đường, tôi nghĩ ngoài việc biết sơ bộ thành tựu nền thơ ca đồ sộ nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc, cũng phải thuộc vài bài thơ Đường luật, yêu thích vài tác giả, hiểu về thi pháp, bố cục niêm luật của một bài thơ Đường luật ra sao, rồi tập tành dịch vài đoạn thơ của các nhà thơ nổi tiếng thời Đường.

Song việc học Hán Nôm, dù là học môn Thơ Đường cũng cần vận dụng để tập dịch thơ của tiền nhân nước mình, giới thiệu với bạn đọc. Vì vậy, trong khi thầy trò Hán Nôm vừa học vừa dạy, lần giở những bản sách cũ, thấy có quyển Hiếu cổ đường thi tập 孝古堂詩集của Miên Ký 綿寄, hoàng tử thứ 75 của vua Minh Mạng, một nhà thơ thuộc hoàng tộc ít người biết đến, mới đem đưa cho sinh viên tập đọc và tập dịch. Trước thì tạo thêm cơ hội cho các bạn sinh viên trau dồi khả năng đọc chữ Hán viết tay với dịch thơ Đường luật, sau thì có thêm chút niềm vui trong học tập, nhưng những kết quả đầu tiên của các bạn khiến tôi vui mừng, bèn không ngại khó khăn, cùng các bạn Hán Nôm khoá 2016-2020 của Khoa Văn học chia nhau phiên dịch, đồng thời hiệu chỉnh giúp các bạn những chỗ còn vụng.

Trước khi bản dịch Hiếu cổ đường thi tập được tập hơp thành sách, chúng tôi xin trích giới thiệu và đăng trên trang web của Khoa Văn học như một lời động viên chân thành nhất đối với các bạn sinh viên Hán Nôm của Khoa. Độc giả có thể chưa hài lòng chỗ này chỗ nọ trong bản dịch thơ, nhưng tôi cùng các bạn Hán Nôm làm công việc này cũng là theo tinh thần “hiếu cổ” của người xưa, chứ không có ý gì khác.

Xin trân trọng giới thiệu.

-----*-----

Phần trích dịch Hiếu cổ đường thi tập 孝古堂詩集của Miên Ký 綿寄

(Lê Quang Trường chủ biên, hiệu chỉnh

Nguyễn Tường Vi, Ngô Thị Thanh Phương dịch)

讀弔義民陣死文

國語遺編手自開,

勤王敵愾最憐才。

揭竿斬木千夫聚,

飛炮橫舟萬里來。

青海煩冤多鬼哭,

沙埸征戰幾人回。

李華吊古无窮悢,

風颯邊聲浙浙哀。

Độc Điếu nghĩa dân trận tử văn

Quốc ngữ di biên thủ tự khai,

Cần Vương địch khái tối liên tài.

Yết can trảm mộc thiên phu tụ,

Phi pháo hoành chu vạn lí lai.

Thanh hải phiền oan đa quỷ khốc,

Sa trường chinh chiến kỉ nhân hồi.

Lý Hoa điếu cổ vô cùng hận,

Phong táp biên thanh chiết chiết ai.

Đọc bài Văn điếu nghĩa dân chết trận

Tự tay mở đọc bài văn quốc ngữ còn lại,

Tấm lòng giúp vua chống giặc, thật đáng mến tài.

Dựng cờ khởi nghĩa, nghìn người quy tụ,

Đạn pháo đánh thuyền từ muôn dặm kéo đến.

Bao nhiều hồn oan than khóc nơi Thanh Hải,[1]

Mấy ai được trở về sau chiến chinh ở sa trường.[2]

Nỗi oán hận vô cùng khác nào bài Điếu cổ của Lý Hoa,[3]

Nghe gió thổi nơi biên địa còn vang tiếng buồn thảm thiết.

Lần đọc bài văn quốc ngữ đây,

Cn Vương chống giặc, nghĩ thương tài.

Dng c khởi nghĩa muôn người đến,

Pháo n phi thuyn vạn dặm mây.

Chiến địa oan hồn vang tiếng khóc,

Sa trường chinh chiến luống còn ai?

Áng văn điếu c vô cùng hận,

Gió thổi điệu buồn thảm thiết thay!

(Tường Vi – Thanh Phương dịch)

夜泛五絕

其一

小雨連江送晚凉,

閒来獨往自徜徉。

青簾白舫知何處,

水遶蘆花月滿塘。

Dạ phiếm ngũ tuyệt

Kỳ nhất

Tiu vũ liên giang tng vãn lương,

Nhàn lai độc vãng t thang dương.

Thanh liêm bch phng tri hà x,

Thu nhiu lô hoa nguyt mãn đường.

 

Mưa phùn khắp dòng sông đưa hơi mát trong chiều,

Lúc rảnh một mình tự tại thong dong.

Chiếc thuyền trắng thả rèm xanh biết đi về đâu,

Con sông chảy quanh bờ hoa lau, trăng sáng khắp đê.

 

Mưa nh lin sông đưa gió mát,

Mt mình t ti thong dong bước.

Rèm xanh thuyn trng biết v đâu?

Trăng sáng trên đê hương c ngát.

(Ngô Thị Thanh Phương dịch)

其二

鶴渚鳧汀不覺窮,

白沙翠竹水連空。

一江風月无人管,

半属吟翁半醉翁。

Kỳ nhị

Hc ch cưu đinh bt giác cùng,

Bch sa thúy trúc thy liên không.

Nht giang phong nguyt vô nhân qun,

Bán thuc ngâm ông bán túy ông.

 

Bãi hạc bến le không thấy được điểm cuối cùng,

Cát trắng, trúc xanh, sông tiếp nối chảy đến chân trời.

Cảnh trăng gió trên sông không ai thèm quản,

Một nửa thuộc về nhà thơ, một nửa của khách say.

Bến hc bãi le trải chẳng cùng,

Trúc xanh cát trng ln bu không.

Đầy sông trăng gió không người quản,

Na để thi ông, na túy ông.

(Nguyễn Tường Vi dịch)

  

其三

何人箫鼓泛中流,

莫是追凉共夜遊。

隔水棹歌聲未歇,

輕舟已到鳳凰樓。

Kỳ tam

Hà nhân tiêu c phiếm trung lưu,

Mc th truy lương cng d du.

Cách thy tro ca thanh v yết,

Khinh chu dĩ đáo Phng Hoàng lâu.

 

Giữa dòng sông ai người đánh trống thổi tiêu?

Có lẽ là người đi hóng mát cùng chơi trong đêm.

Tiếng hò khoan bên dòng sông vẫn còn vang chưa dứt,

Con thuyền nhỏ đã lướt đến lầu Phụng Hoàng.

Sáo trống ngân vang lướt giữa dòng,

Ai người hóng mát suốt đêm trong.

Bên sông văng vẳng hò chưa dứt,

Lầu Phụng thuyền lan cập bến xong.

(Nguyễn Tường Vi dịch)

其四

相逢一笑共招邀,

沁水園中景最饒。

江上朱樓樓上月,

䌓絃急管可憐宵。

Kỳ tứ

Tương phùng nht tiếu cng chiêu yêu,

Thm Thu viên trung cnh ti nhiêu.

Giang thượng chu lâu lâu thượng nguyt,

Phn huyn cp qun kh liên tiêu.

 

Gặp nhau cùng cười cùng mời nhau,

Giữa vườn Thấm Thuỷ cảnh đẹp rất nhiều.

Lầu tía trên sông, trăng trên lầu,

Tiếng đàn tiếng sáo rộn ràng vui suốt đêm.

Gp nhau cười nói chắp tay chào,

Thm Thuỷ trong vườn đẹp biết bao.

Gác tía trên sông, trăng ngập gác,

Sáo đàn rộn rã vọng đêm thâu.

(Ngô Thị Thanh Phương dịch)

 

Tay nm ming cười lúc gp nhau,

Trong vườn Thm Thu cnh tươi màu.

Lu son trên bến trăng soi bóng,

Đàn sáo thâu đêm vng khp lu.

(Lê Quang Trường dịch)

其五

小宴追凉酒數杯,

芰荷十萬送香來。

莫令白露沾人袂,

泛泛輕舟載月回。

Kỳ ngũ

Tiểu yến truy lương tửu sổ bôi,

Kị hà thập vạn tống hương lai.

Mạc linh bạch lộ triêm nhân duệ,

Phiếm phiếm khinh chu tải nguyệt hồi.

 

Bày tiệc nhỏ cùng hóng mát, uống vài chén rượu,

Sen nõn thoang thoảng đưa hương đến.

Đừng cho sương trắng làm ướt tay áo người,

Thuyền nhỏ bồng bềnh chở ánh trăng về.

Tiệc bày hóng mát rượu vài li,

Sen nõn đưa hương ngát tối hè.

Sương trắng thôi làm tay áo ướt,

Thuyền về, chở cả ánh trăng đi.

(Lê Quang Trường - Nguyễn Tường Vi dịch)


[1] Lấy ý thơ Binh xa hành của Đỗ Phủ, trong đó có câu:  君不見青海頭,古來白骨無人收。新鬼煩冤舊鬼哭,天陰雨濕聲啾啾。

[2] Lấy ý từ câu “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi” trong bài thơ Lương Châu từ của Vương Hàn.

[3] Bài Điếu cổ của Lý Hoa:

TÓM TẮT

Chữ Nôm là hệ thống chữ viết ghi âm tiếng Việt, được sử dụng rộng khắp từ thế kỷ XIII đến đầu thế kỷ XX; tuy nhiên, chữ Nôm chưa từng được Nhà nước điển chế hoá. Do vậy, trong quá trình phát triển, chữ Nôm để lại nhiều cách viết, nhìn chung là thường mang màu sắc địa phương, phản ánh đặc điểm ngữ âm vùng miền. Chữ Nôm Nam Bộ rất tiêu biểu ở đặc điểm này. Bài viết này nhằm đưa ra một hướng lý giải mới ở một số phương diện chữ Nôm phản ánh ngữ âm địa phương (ngữ âm Nam Bộ), trên cơ sở khảo sát văn bản Nôm Kim cổ kỳ quan của Nguyễn Văn Thới.

Từ khoá: Chữ Nôm, chữ Nôm Nam Bộ, Kim cổ kỳ quan, Nguyễn Văn Thới.

Thông tin truy cập

63679695
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
23413
17595
63679695

Thành viên trực tuyến

Đang có 285 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website