Chúng tôi thống kê về sự phân bố họ của 805 người ở Nam Bộ và 1.136 người ở Bắc Bộ, thấy được phần nào tỉ lệ phân bố của các họ ở nước ta (chủ yếu là người Kinh). Trong số hơn 1.000 họ của người Việt, 13 họ sau đây chiếm số lượng nhiều hơn cả.
Nguyễn (38,4%), Trần (11%), Lê (9,5%), Huỳnh (Hoàng) (5,1%), Phạm (5%), Phan (4,5%), Vũ (Võ) (3,9%), Đặng (2,1%), Bùi (2%), Đỗ (1,4%), Hồ (1,3%), Ngô (1,3%), Dương (1%),...
(Nguồn: Google)
Sở dĩ họ Nguyễn chiếm tỷ lệ cao nhất vì các lý do sau đây:
a)Năm 1232, Trần Thủ Độ muốn loại bỏ hẳn ảnh hưởng của triều Lý, bắt con cháu họ Lý đổi sang họ Nguyễn với nguyên cớ nếu không đổi sẽ phạm húy: ông nội của Trần Cảnh (vua Trần Thái Tông) là Trần Lý;
b)Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần, giết hại nhiều con cháu nhà Trần (độ 300 người vì có âm mưu phục hồi triều Trần) nên khi nhà Hồ sụp đổ (năm 1407), con cháu họ Hồ sợ bị trả thù, đổi thành họ Nguyễn;
c)Năm 1592, nhà Mạc sụp đổ, con cháu sợ nhà Lê trả thù nên đổi Mạc sang Nguyễn và Lều;
d)Sợ nhà Nguyễn trả thù sau khi Trịnh - Nguyễn phân tranh chấm dứt, con cháu chúa Trịnh đổi thành họ Nguyễn;
đ)Trần Quang Diệu (cả vợ là Bùi Thị Xuân) làm quan lớn cho nhà Tây Sơn, chống lại Nguyễn Ánh, sau khi nhà Tây Sơn cáo chung, con cháu Trần Quang Diêu bị trả thù khốc liệt, phải đổi thành nhiều họ, trong đó một số thành họ Nguyễn;
e)Tục phong quốc tính (cho mang họ vua) dưới thời Nguyễn: Huỳnh Tường Đức có công với Gia Long được đổi thành Nguyễn Huỳnh Đức;
f)Một số phạm nhân muốn tránh sự trừng phạt đương thời phải đổi sang họ Nguyễn (tổ tiên Nguyễn Phạm Tuân (1842 - 1887) vốn là họ Phạm).
Có một lần chúng tôi nghe Đài truyền hình Việt Nam cho biết hiện nay số người mang họ Nguyễn ở Việt có độ 36 triệu người và đông hàng thứ sáu trên thế giới, nhưng những họ đông từ thứ nhất đến thứ năm không được kể ra.