08062025Sun
Last updateThu, 05 Jun 2025 9pm

Thơ đi sứ chữ Hán của Việt Nam trong mối quan hệ với văn hóa Hồ Nam (越南北使汉诗与湖湘地理文化)

Prof. Dr. Zhan Zhihe (詹志和)

 (Đại học Sư phạm Hồ Nam, Trung Quốc)

                                      Nguyễn Đình Phức dịch

 

Tóm tắt nội dung: Việc sáng tác thơ chữ Hán của trí thức Việt Nam trải dài suốt một quá trình lịch sử hơn một nghìn năm, trong đó mảng thơ của các sứ thần Việt Nam được sáng tác trên đường đi sứ Trung Quốc không chỉ có số lượng khả quan mà chất lượng cũng rất đáng khẳng định. Hồ Nam là vùng đất tất phải đi qua trên hành trình đi sứ của các sứ thần Việt Nam, nơi đây những địa danh như Vĩnh Châu, Hoành Dương, Tương Đàm, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Tương Giang, Hoành Sơn, Nhạc Lộc sơn… thảy đều là nơi “chung linh dục tú”, giàu giá trị văn hóa, đồng thời cũng là nguồn cảm hứng chính khiến các sứ thần Việt Nam sáng tác ra hàng loạt các tác phẩm có nội dung gắn với Hồ Nam. Những tác phẩm thơ này, nội dung phong phú, tư tưởng tình cảm sâu sắc, nghệ thuật biểu đạt đạt đến đỉnh cao, trong đó đặc biệt là các tác phẩm thơ lấy “Tiêu Tương bát cảnh” làm đối tượng ngâm vịnh hoặc bày tỏ tình cảm, nếu đem chúng so sánh với thơ ca cùng loại của Nhật Bản, Triều Tiên…toàn bộ sẽ tạo thành một hiện tượng văn học cực kỳ thú vị của vùng văn hóa chung Đông Á giai đoạn cổ trung đại. Không những thế, chúng còn là những tấm gương thơ để văn hóa Hồ Nam có dịp nhìn lại và thẩm định giá trị văn hóa của chính mình.

Từ khóa:  Thơ đi sứ Việt Nam    Thơ chữ Hán    Hồ Nam Trung Quốc    Tiêu Tương   

 

内容摘要:越南文人的汉诗创作持续兴盛千余年之久,14至19世纪间北上出使中国的越南使臣创作的汉诗尤其成就斐然。湖南是绝大多数越南北使往返必经之地,湖南境内的湘江和洞庭湖为越使天然地提供了舟行之便,湘江流域的永州、衡阳、湘潭、长沙和洞庭湖畔的湘阴、岳阳等钟灵毓秀之地引发越南北使创作了大量汉诗。这些诗叙景、抒怀、记事兼备,多为发挥诗赋外交作用而同中国文人仕宦相与酬唱。其中那些以“潇湘八景”为直接对象或者灵感触媒的诗歌,与日、韩等国的同类诗歌一道,构成了中古、近代东亚文化圈内引人注目的审美-艺术景观。

关 键 词:越南北使    汉诗    中国湖南     潇湘

 

Hai nước Việt Trung từ thời cổ đại đã có mối quan hệ về văn hóa khá chặt chẽ. Từ khi Tần Thủy Hoàng lập quận Giao Chỉ, lịch sử “thư đồng văn” giữa Việt Nam và Trung Quốc đã bắt đầu, không chỉ dừng lại ở đó, ngay cả tư tưởng, văn hóa cũng bước vào quỹ đạo “đồng văn”. Vào năm Khai Bảo thứ tám (975), vua Thái Tổ nhà Tống phong cho Đinh Bộ Lĩnh chứ Giao Chỉ Quận vương, và cũng bắt đầu từ đây, Việt Nam trở thành một vương triều độc lập, hai nước Trung Việt cũng bắt đầu từ đây kết mối bang giao hữu hảo có lịch sử kéo dài đến gần nghìn năm. Ở các triều đại Tống, Nguyên, Minh, Thanh, đặc biệt là dưới hai triều đại Minh Thanh, triều đình Việt Nam luôn theo định kỳ hoặc không theo định kỳ phái các đoàn sứ thần sang Trung Quốc, với mục đích tiến cống, tạ ơn, cầu phong, báo tang…sử sách thường dùng hai chữ “Bắc sứ” để gọi chung cho những sự việc này. Trong suốt lịch sử đi sứ Trung Quốc, các sứ thần Việt Nam đã để lại lượng tác phẩm khổng lồ, bao gồm các loại như Hoa trình ký, Hoa trình thi, Hoa trình đồ…. Thuật ngữ “Hoa trình thi” ở đây chính được hiểu là thơ chữ Hán của sứ thần Việt Nam khi đi sứ Trung Quốc, đối tượng này đồng thời thể hiện vốn Hán học uyên thâm cùng tài năng thi phú tuyệt vời của các sứ thần Việt Nam.

Hồ Nam là vùng đất tất phải đi qua trên hành trình đi sứ của các sứ thần Việt Nam, nơi đây những địa danh như Vĩnh Châu, Hoành Dương, Tương Đàm, Trường Sa, Tương Âm, Nhạc Dương, Tương Giang, Hoành Sơn, Nhạc Lộc sơn… thảy đều là nơi “chung linh dục tú” (anh khí trời đất hội tụ), giàu giá trị văn hóa, nhân văn, đồng thời cũng là nguồn cảm hứng chính khiến các sứ thần Việt Nam sáng tác ra hàng loạt các tác phẩm có nội dung gắn với Hồ Nam(1). Những tác phẩm thơ này, tả cảnh có, thuật hoài có, ghi chép sự việc có, trong đó còn có rất nhiều thiên ghi chép lại hoạt động xướng họa cùng văn nhân Trung Quốc, đây không chỉ là sản phẩm của lối “dùng thi phú ngoại giao”, là sản phẩm chứng tỏ sự phát triển đỉnh cao của văn hóa Hán, mà còn là tấm gương để văn hóa Hồ Nam có dịp thẩm định và nhìn lại chính mình, đặc biệt là các tác phẩm thơ lấy “Tiêu Tương bát cảnh” làm đối tượng ngâm vịnh hoặc bày tỏ tình cảm, nếu đem chúng so sánh với thơ ca cùng loại của Nhật Bản, Triều Tiên…toàn bộ sẽ tạo thành một hiện tượng văn học cực kỳ thú vị của vùng văn hóa chung Đông Á giai đoạn cổ trung đại. Thơ đi sứ chữ Hán của các sứ thần Việt Nam trong mối quan hệ với các yếu tố địa lý, văn hóa tỉnh Hồ Nam làm một vấn đề trước mắt đáng được quan tâm nghiên cứu.(2) Bài viết này của chúng tôi chủ yếu xoay quanh những vấn đề nêu trên, lấy thơ đi sứ của Việt Nam, đặc biệt là mảng thơ đi sứ có nội dung viết về Hồ Nam làm đối tượng nghiên cứu, sau đó triển khai thảo luận.

1. Hành trình của các sứ thần Việt Nam trong địa phận tỉnh Hồ Nam

Con đường đi sứ của các sứ thần Việt Nam sang Trung Quốc có thể đi theo đường biển, cũng có thể đi theo đường bộ. Nếu đi theo đường biển sẽ xuất phát từ Quảng Đông tiến vào tỉnh Phúc Kiến; nếu đi đường bộ sẽ xuất phát từ Quảng Tây hoặc Vân Nam. Thế nhưng các sứ thần Việt Nam phần nhiều đi đường bộ, việc đi theo đường biển là cực hiếm. Đường bộ cũng chủ yếu vào Trung Quốc theo lối Quảng Tây, rất ít có người đi theo lối Vân Nam. Tuy nói là đường bộ, nhưng thực chất thủy bộ đều có, xe thuyền thay nhau. Hành trình ở vùng Đông Nam Trung Quốc phần nhiều di chuyển bằng thuyền, nếu xét trường hợp cụ thể là Hồ Nam thì toàn bộ hành trình đều đi thuyền trên sông Tương và trên hồ Động Đình. Sông thuộc đất nước Trung Quốc do ảnh hưởng của địa hình phần lớn chảy theo hướng Tây Đông, sông Tương có thể nói là một trường hợp đặc biệt bởi có dòng chảy theo hướng nam bắc, vậy nên người đời mới có câu “Tương Giang bắc khứ”. Sông Tương phát nguồn từ huyện Hưng An tỉnh Quảng Tây, chảy đến Tương Âm đổ vào hồ Động Đình, thế nên có thể nói, từ nam tới bắc, nó hầu như bao quát toàn bộ địa giới tỉnh Hồ Nam. Việc sông Tương chảy về phía bắc đem đến điều kiện hết sức thuận lợi cho việc đi sứ của các sứ thần Việt Nam. Trong tình huống thông thường, sứ thần Việt Nam hầu hết đều từ Việt Nam qua ải Trấn Nam tiến vào Quảng Tây, đi qua đất Nam Ninh, Quế Lâm, Tuyền Châu, kế đó tiến vào đất Vĩnh Châu nơi hợp lưu của hai dòng Tiêu Tương. Sau đó đoàn sứ thần sẽ du ngoạn trên dòng Tương Giang với nguồn nước tràn trề do có sự hợp lưu từ Tiêu Giang quanh co uốn khúc chảy về phương bắc. Hành trình của đoàn sứ thần Việt Nam đi về phía bắc trên đất Hồ Nam có thể nói thực sự là hành trình “cưỡi sóng ngoạn cảnh giang hồ”: Thuận dòng Tương Giang đoàn thuyền sứ giả sẽ thứ tự kinh qua các địa danh như Vĩnh Châu, Hoành Dương, Tương Đàm, Trường Sa, Tương Âm, từ Tương Âm thuyền sứ sẽ tiến vào hồ Động Đình, kế đó tiếp tục du thuyền trên hồ Động Đình tiến tới Nhạc Dương. Từ Nhạc Dương sứ thần Việt Nam vẫn theo đường thủy tiến vào địa phận tỉnh Hồ Bắc, tới tận Vũ Xương. Hành trình của đoàn sứ thần từ Vũ Xương về phương bắc có thể phân thành hai hướng đông tây: tuyến đường phía đông xuất phát từ Vũ Xương xuôi theo dòng Trường Giang, qua các vùng Cửu Giang, An Khánh, Nam Kinh cho đến Dương Châu. Từ Dương Châu thuyền sứ đi vào dòng Vận Hà nối giữa Hàng Châu và Yên Kinh (Bắc Kinh). Đoàn sứ thần sẽ lên bờ tại bến Tế Ninh, sau khi lên bờ đi xe ngựa về phía bắc, tiến thẳng vào Yên Kinh. Tuyến đường phía tây xuất phát từ Vũ Xương đi thuyền vượt sông Trường Giang, lại đi đường bộ xuyên qua các địa danh Võ Thắng Quan (nơi tiếp giáp giữa tỉnh Hồ Bắc và Hà Nam), Tín Dương, Hứa Xương, tới Khai Phong đi thuyền trên sông Hoàng Hà, lại đi qua Trực Lệ thuộc tỉnh Hà Bắc mới tới Yên Kinh. Bất kể đi tuyến đường phía đông hay phía tây, đoàn sứ thần Việt Nam đều phải đi qua đất Hồ Nam. Có thể nói, tiếp xúc của đoàn sứ thần Việt Nam với các tỉnh thành Trung Quốc, trong đó mật thiết nhất ngoài kinh sư Yên Kinh, có lẽ chính là Hồ Nam. Đất Hồ Nam bất kể nhìn từ khía cạnh không gian, thời gian hay nhân sĩ, địa danh đều có mối quan hệ hết sức mật thiết với đoàn sứ thần Việt Nam. Có lẽ chính vì nguyên nhân trên, trong các sách có kèm bản đồ Hoa trình của các đoàn sứ thần Việt Nam đều ghi chép rất rõ về hành trình sông nước, các bến đỗ, các danh lam thắng cảnh dọc hai bên bờ sông thuộc xứ Hồ Nam; riêng thơ có nội dung viết về Hồ Nam cũng chiếm số lượng đặc biệt lớn trong tổng số toàn bộ di sản thơ đi sứ Việt Nam.(3)

Toàn bộ hành trình của đoàn sứ thần Việt Nam có độ dài ước khoảng hai vạn dặm, thời gian tiêu tốn mất gần hai năm, việc này xét trong tình hình xã hội thời ấy, thực sự là một việc hết sức quan trọng và to lớn. Liên quan đến hành trình đi sứ của các sứ thần Việt Nam ở Trung Quốc nói chung và ở Hồ Nam nói riêng, học giả Trương Kinh Hoa trong bài viết của mình từng thuật rõ hành trình của đoàn sứ thần Việt Nam được chính sứ thần Việt Nam là Nguyễn Huy Oánh (1713-1789) viết trong Phụng sứ Yên Kinh tổng ca bính nhật ký như sau(4): Theo lời tự thuật của họ Nguyễn, đoàn sứ thần xuất phát đi sang nước Thanh vào năm Cảnh Hưng thứ 27 (tức năm thứ  31 niên hiệu Càn Long, 1767), vào ngày 29 tháng 01, đoàn từ Trấn Nam quan đi vào địa phận tỉnh Quảng Tây, đi qua các địa danh Bằng Tường, Thái Bình, Ngô Châu, Dương Sóc, Quế Lâm, vào ngày 30 tháng 5, đoàn đến Tuyền Châu.

Chỉ cần đi qua Tuyền Châu là đến địa giới Hồ Nam; vào ngày 16 tháng 06, đoàn nhìn thấy Vĩnh Châu, trên đất Kỳ Dương thuộc Vĩnh Châu, tác giả viết và khắc đá bài thơ Đề thạch kính thi; ngày 29 tới Tương Đàm; ngày mùng hai tháng 07 đến Nhạc Dương, từ Vĩnh Châu nơi hai con sông Tiêu, Tương gặp nhau, chảy đến đây dòng nước đổ hết vào hồ Động Đình, mặt hồ rộng lớn, sóng nước mênh mông, thật là một thắng cảnh hiếm thấy xưa nay.

Ngày mùng bốn tháng 08, đoàn đến Hán Khẩu; ngày 14 tới Hoàng Châu; ngày 27 đến Giang Châu; ngày 13 tháng 09 đến Nam Kinh. Ngày 25 tháng 09, từ Nam Kinh đổi thuyền đi đến Nghi Trưng, “từ đây sông nước vừa hẹp vừa nông, quan quân phải dìm đá xuống nước làm cho nước dềnh lên để thuyền bè tiện qua lại.” Vào ngày 27 tháng 11, thuyền đến Tế Ninh, “trình công văn lên quan địa phương, quan ở châu ấy cấp cho 22 chiếc xe, ngựa 10 con, phu khiêng vác 50 người”, đến đây hành trình của đoàn đã vừa đúng 10 tháng, thời tiết khi ấy đã vào đông, lại do từ đường thủy chuyển sang đường bộ, vậy nên có thơ rằng: “Thu xếp đồ đạc mau ra roi ngựa, lại mặc áo cừu đội mũ để chống lại cái rét.”(5)

Vào ngày 21 tháng 12, đoàn tới Yên Kinh. Vào ngày 01 tháng 01 năm Càn Long thứ 32 (1768), đoàn ở tại Bắc Kinh, đến đây hành trình đi sứ đã vừa tròn một năm, thế nên trong bài thơ Tân niên hỉ phú, Nguyễn Huy Oánh viết câu: “Năm ngoái vào mùa xuân khởi trình nơi bến sông Nhị Hà, năm nay nơi đất khách lại gặp xuân”.

Trên đây mới chỉ là lượt đi, còn lượt trở về lộ trình vẫn theo y nguyên đường cũ: Sau khi lưu lại Yên Kinh gần hai tháng, vào ngày 16 tháng 02, đoàn từ biệt Kinh sư; ngày mùng năm tháng 03 về đến Tế Ninh, lại đổi sang đi thuyền; ngày 27 tháng 03 đến Nam Kinh; ngày 26 tháng 05 đến Vũ Xương; ngày 25 tháng 06 đến Nhạc Dương; ngày 25 tháng 07 đến Tương Âm; ngày mồng tám tháng bảy nhuận về đến Hoành Dương; ngày mùng bốn tháng 08 đến Quế Lâm; ngày 10 tháng 09 đến Nam Ninh; ngày 24 tháng 10 qua Trấn Nam quan, vào địa phận Việt Nam, trong bài thơ Biệt bạn tống làm tặng các quan nhà Thanh đi tiễn có câu rằng: “Nước nước non non đều thưởng ngoạn, ngày gió mát đêm trăng thanh khiến lòng sứ giả luôn lưu luyến.”(6)

Những ghi chép của Nguyễn Huy Oánh trên đây mới chỉ là lộ trình theo tuyến đường phía Đông. Phan Huy Chú trong Du Hiên tùng bút thuật lại đại khái lộ trình theo tuyến đường phía tây như sau: Từ Hán Dương đến Hiếu Cảm có câu “Kinh Hồ cảnh vật thực phong phú”; từ Vũ Thắng Quan đến Tín Dương có câu “Cảnh vật vùng Trung Nguyên thật quá khác chốn Kinh Sở vậy”; đến Toại Bình, Tây Bình (nay là Trú Mã Điếm) có câu “Phong cảnh thực quá khác biệt với chốn Tam Sở”; đến Trực Lệ lại có câu “Ngựa xe qua lại, bụi bốc đầy trời”(7). Đây chính là lộ trình phía tây, xuất phát từ Vũ Xương vượt sông Trường Giang, chuyển sang đi đường bộ, đi qua địa phận Hà Nam, Hà Bắc sau đó mới tới Yên Kinh.

Tác giả danh tác Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam Nguyễn Du (1765-1820) cũng từng đi sứ Trung Quốc, hành trình diễn ra vào năm Gia Khánh thứ 18 (1813). Trong Bắc hành tạp lục với 132 bài thơ đi sứ, trong đó căn cứ vào tên bài thơ, chúng ta có thể hoàn toàn biết được những nơi mà tác giả đi qua. Đoàn sứ bộ của Nguyễn Du cũng đi theo con đường phía tây, toàn bộ hành trình có thể phân thành bốn đoạn, mỗi đoạn đều lưu lại dấu tích bằng một số bài thơ.

Đoạn đầu từ bài thơ thứ nhất Thăng Long cho đến bài thứ bảy, bảy bài này đều viết khi còn ở địa phận Việt Nam, số lượng thơ không nhiều, có thể coi là bước mở màn cho Bắc hành tạp lục.

Đoạn hai từ bài số tám Trấn Nam Quan đến bài số 23, trong đó hơn mười bài đầu vịnh cảnh “Việt Tây”. Đoạn hành trình này tương đối dài, có thể sánh với đoạn Hồ Nam, nhưng thơ ca viết ở giai đoạn này cũng không nhiều.

Đoạn ba từ bài số 24 Thương Ngô tức sự đến số 64 Nhạc Dương lâu. Số lượng bài thơ viết ở giai đoạn này rõ ràng tăng lên. Với hơn 40 bài thơ này, ngoài một số ít bài thơ bị xếp đặt lộn xộn, các bài còn lại thảy đều vịnh cảnh vật trên đất Hồ Nam. Như Thương Ngô tức sự chính khởi hứng từ truyền thuyết Ngu Thuấn đi tuần phương nam băng hà, hai phi tần của ông là Nga Hoàng, Nữ Anh khóc thương lệ nhỏ trên thân tre biến thành Tương Phi trúc. Tiếp đó bài số 25 Thương Ngô mộ vũ, bài 26 đến bài 40 là một tổ hợp thơ 14 bài Thương Ngô trúc chi từ, bài 50 Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch, bài 55 Tương Giang dạ bạc, bài 56 Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu, bài 60 Trường Sa Giả thái phó, bài 61 Tương Âm dạ, bài 64 Đăng Nhạc Dương lâu

Đoạn thứ tư từ bài số 65 Hán Dương vãn diểu cho đến bài số 132 Chu phát. Hơn 60 bài thơ này chủ yếu sáng tác từ khi vượt Trường Giang đi về phương bắc và giai đoạn trở về nam, trong đó hai bài Hán Dương vãn diểu và Chu phát chính là cảm hoài của tác giả nơi đất Hán Dương ở hai giai đoạn khi đi và khi trở lại. Ngoài ra trong đó còn có bài 71 Vũ Thắng Quan, bài 72 Tín Dương tức sự, bài 74 Hà Nam đạo trung khốc thử, bài 85 Cựu Hứa Đô, bài 86 Đồng Tước đài, bài 94 Hàm Đan tức sự, bài 101 Kinh Kha cố lý, bài 113 Mạnh tử từ cổ liễu,…phần lớn nội dung đều vịnh về những thắng tích lịch sử văn hóa phân bố dày đặc trên con đường phía tây. Riêng bài thơ cuối cùng Chu phát có đoạn viết: “Từ cửa sông Hán Giang, lại đến cưỡi thuyền du ngoạn trên hồ Động Đình. Thân ta so với lúc đến đây đã gầy và tiều tụy đi rất nhiều, chỉ có nước sông là đậm chất thu hơn năm ngoái.” Những câu này chính gợi ra cảnh hành trình sẽ đi lại trên đất Hồ Nam.(8) Thơ được tác giả làm ở đoạn này có số lượng nhiều hơn thơ viết ở đoạn Hồ Nam khoảng 30%, nhưng đây là số thơ được tác giả sáng tác trên lộ trình kinh qua ba tỉnh Hồ Bắc, Hà Nam, Hà Bắc và cả Yên Kinh.

Thời gian của việc đi sứ bằng con đường phía đông và phía tây nhìn chung là tương đương nhau. Trên đây đã thuật lại tường thuật của sứ thần Việt Nam Nguyễn Huy Oánh đi theo con đường phía đông, nếu như đem thời điểm đến và trở lại Trấn Nam Quan xem như điểm đầu và cuối của hành trình đi sứ, tức đi vào địa phận Trung Quốc vào ngày 19 tháng 01 năm Càn Long thứ 31, thời điểm về đến Trấn Nam Quan là ngày 24 tháng 10 năm Càn Long thứ 32, thế thì toàn bộ hành trình đi sứ diễn ra trong khoảng thời gian khoảng một năm chín tháng. Trong suốt quá trình ấy, đoàn sứ thần Việt Nam phải sinh hoạt trên đất Hồ Nam ước khoảng bốn tháng, cụ thể từ ngày 30 tháng 05 năm thứ nhất từ Tuyền Châu vào đất Tương Nam, ngày 14 tháng 07 đến Nhạc Dương thuộc vùng Tương Bắc, ngày mùng bốn tháng 08 đến Hán Khẩu, nếu trừ đầu trừ đuôi, thời gian đoàn sứ thần sinh hoạt ở Hồ Nam cũng cần hai tháng. Hành trình trở về vào ngày 26 tháng 05 năm thứ hai đoàn sứ thần về đến đất Vũ Xương, ngày 25 tháng 06 đến Nhạc Dương, ngày 25 tháng 07 đến Tương Âm, ngày mùng tám tháng bảy nhuận về đến Hoành Dương, ngày mùng bốn tháng 08 đến Quế Lâm. Như vậy, thời gian ở Hồ Nam đã vượt qua con số hai tháng, nguyên nhân của sự trì hoãn này có lẽ do khi về phải chèo thuyền ngược dòng sông Tương. Nói tóm lại, trong suốt hành trình của đoàn sứ thần Việt Nam ở Trung Quốc, tổng cộng có khoảng bốn tháng, tức một phần tư khoảng thời gian đi sứ phải trải qua trên đất Hồ Nam, hoặc cũng có thể dùng thơ để biểu đạt chính là “có khoảng thời gian tương đối dài chèo thuyền du ngoạn trên dòng Tương Giang và hồ Động Đình”. Ở đây tất nhiên cũng phải kể luôn những ngày vì công vụ hoặc do thời tiết xấu nên đoàn tạm phải dừng chân.

Có điều mang đậm chất lãng mạn, đó là, hành trình du thuyền của sứ thần Việt Nam ở Hồ Nam cũng có thể xem là hành trình của việc ngâm thơ. Văn nhân thời cổ trong hành trình lữ thứ, mình ngồi trên xe thuyền, chính là lúc có thể để tinh thần du ngoạn, khi ấy cũng là thời điểm dễ sản sinh ra thơ nhất. Âu Dương Tu trong Quy điền lục từng viết: “Ta bình sinh sáng tác văn chương phần lớn ở ‘tam thượng’, đó là trên lưng ngựa (mã thượng), trên gối (chẩm thượng) và trên hố xí (xí thượng). Đại khái chỉ ở những nơi này mới có thể chuyên tâm mà thôi.” Khang Hữu Vi cũng từng có kinh nghiệm tương tự, ông nói thuở nhỏ ông từng có chí “kinh bang tế thế”, thế nên không thể đem hết tinh lực đầu tư vào thi ca, sở dĩ ông có những tác phẩm không tồi, ấy phần nhiều đều có được lúc du thuyền, khi trên lưng ngựa, lúc một mình trong quán vắng hay nơi dịch trạm, những lúc hoàn toàn không phải bận tâm vào việc học.(9) Có lẽ cũng chính vì vậy mà hàng ngàn năm trở lại đây, các sứ thần Việt Nam không ngừng “bắc vãng nam lai”, nơi địa giới Hồ Nam, họ du thuyền thả hồn nơi cảnh vật tuyệt mỹ của Tương Giang, Động Đình, lại khi trên trên lưng ngựa, lúc cô độc nơi quán dịch, tất cả đều gợi lên trong lòng họ những cảm xúc mãnh liệt, thúc đẩy họ cầm bút viết thành vô số thơ ca. Nhìn từ góc độ phát sinh luận, hành trình trên đất Hồ Nam đối với thơ đi sứ của các sứ thần Việt Nam đồng thời sản sinh cả tác dụng tích cực lẫn tiêu cực. Nhìn từ góc độ tiêu cực, liên tục mấy tháng trổi nổi bồng bềnh trên sông nước, không khỏi khiến các sứ thần cảm thấy buồn, phải mượn thơ phú để giải sầu, thế nên trong Yên Chiểu thi văn tập của Nguyễn Tư Giản, trong chùm thơ viết về Hồ Nam lại xuất hiện các tiêu đề như Thuyền hộ Văn Quốc Nhân dĩ Tương lộ nhàn vô sự khất tác trường ca thư dĩ dữ chi và Liên nhật bắc phong khấu quyết bất tiền ký để Tương Âm hàn vũ ích thậm vị tri hà nhật khả quá hồ dã diệc khởi trướng nhiên phú thử…; lại như các bài Tương Âm lao liên nhật đình chu muộn tác, Thứ tảo quá Lộc Giác Đường hựu ngộ phong vũ đình bạc nhị nhật khiển muộn trong Hoa trình tục ngâm của Phan Huy Chú; hay Bắc phong hàn vũ Tĩnh Cảng đình chu nhị nhật muộn tác trong Phương Đình vạn lý tập của Nguyễn Văn Siêu,…có thể nói, tất cả đều xuất phát từ thứ tình cảm tiêu cực nêu trên. Nhìn từ góc độ tích cực, Hồ Nam vốn là chốn địa linh nhân kiệt, nơi hội tụ của bao vẻ đẹp tự nhiên văn hóa, tất cả những điều ấy đều đã trở thành nguồn cảm hứng kích thích hứng thơ cũng như tài năng sáng tạo thơ ca của các sứ thần Việt Nam, bằng chứng là hàng loạt các tác phẩm “tiếng vàng tiếng ngọc” ra đời. Ví như Lê Quang Định đi sứ nhà Thanh vào niên hiệu Gia Khánh, trong tập Hoa Nguyên thi thảo của ông có tổ hợp thơ vịnh về bốn điều hứng thú gồm tửu, họa, trà, thơ khi cưỡi thuyền rong ruổi trên dòng Tương Giang. Lại như Hoàng Bích San đi sứ sang Thanh vào năm Đạo Quang thứ năm, trong Bắc du tập của ông có bài thơ Tự Trường Sa tiến phát giang thủy liên thiên viễn phong nồng bích vạn phàm bạch liệt thụ như yên châu chử thương mang uyển tự Bồng hồ biệt thắng Sở sơn Sở thủy chân thị đại quan, tên bài thơ dài tổng cộng 39 chữ, uyển chuyển như một bức tranh vĩ đại, nhà thơ đem cảnh đẹp trên dòng Tương Giang như nước sông xanh biếc, ở điểm tận cùng như hòa cùng với màu xanh lam của bầu trời, núi xa xanh biếc, trên cái nền vạn vật đều xanh biếc như thế, hàng vạn con thuyền dương buồm trắng xóa,…thể hiện sống động nơi từng câu thơ. So với loại thơ là sản phẩm trực tiếp của thứ tình cảm tiêu cực, loại thơ này rõ ràng chiếm ưu thế về số lượng.

2. Nội dung vịnh cảnh vật Hồ Nam trong thơ đi sứ Việt Nam

Thơ đi sứ của Việt Nam có nội dung viết về Hồ Nam có số lượng thực tế là bao nhiêu cho đến nay thực khó có thể thống kê cụ thể. Thế nhưng căn cứ hai tình huống dưới đây có thể cho phép chúng ta nắm được số lượng đại khái. Thứ nhất, Giáo sư Trương Kinh Hoa, giám đốc Sở nghiên cứu Liêm Khê thuộc Học viện Khoa học kỹ thuật Hồ Nam trên cơ sở khảo sát chỉ ra rằng: “Bộ tùng thư Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành thu thập 79 tác phẩm của 53 sứ giả Việt Nam từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 19,… trong đó thơ có nội dung viết về Hồ Nam, Tiêu Tương có tới hơn 700 bài.” Cũng cần nhấn mạnh rằng, ở đây con số hơn 700 bài này chỉ tính trên số tựa bài thơ, còn có những chùm thơ có tới vài bài hoặc vài chục bài cũng chỉ tính là một, ví dụ chùm thơ Tiêu Tương bách vịnh của Lê Quý Đôn có tới 100 bài thất ngôn tuyệt cú. Như vậy, có thể thấy rõ rằng, nếu tính theo số lượng cụ thể từng bài, chỉ xét thơ trong Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành có nội dung viết về Hồ Nam chắc chắn không thể dừng ở con số hơn 700.(10) Thứ hai, như trên đã đề cập, Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du có tổng cộng 132 bài thơ, từ bài số 24 Thương Ngô tức sự đến bài số 64 Nhạc Dương lâu, hơn 40 bài thơ này tất cả đều được viết ở đoạn hành trình Hồ Nam – Tiêu Tương, nếu xét tỷ lệ phần trăm trên tổng số trong tập, số lượng này đã chiếm tới gần một phần tư. Từ hai thực tế nêu trên, có thể thấy rõ rằng, bởi sứ thần Việt Nam phải đi trên đất Hồ Nam trong một khoảng thời gian khá lâu, một không gian quá rộng, lại ngồi trên thuyền du ngoạn trên vùng đất không chỉ có thiên nhiên tươi đẹp mà còn giàu truyền thống văn hóa, tất cả những điều đó đã đem đến cho sứ thần Việt Nam rất nhiều thi hứng, khiến họ đặt bút sáng tác ra hàng loạt những tuyệt tác thơ ca.

Thơ viết về Hồ Nam của sứ thần Việt Nam chủ yếu có ba loại: tả cảnh, cảm hoài và ký sự. Phần thơ ký sự tuy không nhiều nhưng thường được viết rất hay và cảm động. Ví dụ trong Quế Đường thi vựng tuyển của Lê Quý Đôn có bài thơ chép việc các nhà sư Quân Sơn tặng bưởi, tặng trà cho sứ thần, trong Hoa trình ngẫu bút lục của sứ thần Lê Quang Viện đi sứ năm Đạo Quang thứ 13 có bài thơ Văn lân thuyền lý tranh, có tình tiết không khác gì tình tiết trong tuyệt tác Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Thơ chép sự cảm động và thú vị không gì hơn bài thơ Dư thuyền hồi đáo Trường Sa tỉnh thời cựu thuyền hộ Chu Quang Huyên đáo lai tham kiến thả hữu tương luyến chi tình dư tình cảm khuyến tửu chi hậu dĩ thi lưu biệt (Thuyền ta về tới tỉnh Trường Sa, có chủ thuyền cũ là Chu Quang Huyên tới thăm, tình cảm hết sức lưu luyến, ta sau khi lấy rượu tiếp đãi lại dùng thơ để tiễn biệt) trong tập Mộng Mai đình thi thảo của Trương Hảo Hợp, người từng đi sứ hai lần ở niên hiệu Đạo Quang đời Thanh. Thế nhưng ghi chép sự kiện có ý nghĩa trọng đại nhất phải kể đến hai bài thơ sau: một là bài thơ chép việc nghe tin Tăng Quốc Phiên tạ thế Văn Tăng tướng công ai tín trong tập Bắc minh sồ vũ ngẫu lục của sứ thần Phạm Hy Lượng đi sứ vào năm Đồng Trị thứ chín; một là bài thơ Tương nam Tương Đàm đa hữu Giang Tây khách kỳ địa hạ sơ tương đấu sát thương đãi thất bách số trung hưng chí thử viên thuật sở văn của sứ thần Đinh Tường Phủ, đi sứ năm Gia Khánh thứ 24 (1819), chép lại thảm kịch xảy ra ở Tương Đàm, nguyên nhân bởi ngôn ngữ bất đồng giữa khách buôn Giang Tây và dân bản địa, mâu thuẫn xung đột dẫn đến ẩu đả, đến nỗi hơn 700 người vì đó mà mất mạng.

Mảng thơ cảm hoài có số lượng khá nhiều, những bài thơ này phần nhiều do tác giả đối diện danh thắng cổ tích, những nơi mang dấu ấn của các danh nhân lịch sử, tức cảnh sinh tình mà viết ra. Các danh nhân lịch sử thường được các sứ thần Việt Nam đề cập như Khuất Nguyên, Giả Nghị, Liễu Tông Nguyên, Chu Đôn Di… trong đó những bài thơ viết về Khuất Nguyên, Giả Nghị chiếm tới bảy tám mươi phần trăm; riêng các danh thắng được chú ý nhiều nhất gồm Nghi Sơn, Ngô Khê, Hồi Nhạn phong, Nhạc Dương lâu…. Nhìn chung các bài thơ này phần nhiều đều hoặc mô phỏng nỗi ai oán của thần tử bị xa lánh, hoặc biểu lộ lòng ngưỡng mộ, cảm thông, nhung nhớ cổ nhân, hoặc tán thán, ngợi ca vẻ tươi đẹp của các danh lam thắng tích. Thông qua những bài thơ này, chúng ta không chỉ thấy sự am hiểu của sứ thần Việt Nam đối với kinh điển, điển cố Trung Quốc, đó còn là sự kết hợp tuyệt vời giữa tài học và tình cảm cao thượng được tu dưỡng trong bản thân các sứ thần Việt Nam. Nói về thơ vịnh danh nhân, không thể không kể tới những bài thơ viết theo thể thất luật của Nguyễn Du, như Tương Đàm điếu Tam Lư đại phu, Trường Sa Giả thái phó, Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch, những bài thơ này thảy đều viết hết sức cảm động. Nguyễn Du được xem là người học rộng tài cao nhưng đa nạn trong giới văn nhân cổ trung đại Việt Nam, ông đi sứ trong tình trạng Việt Nam vừa có sự thay đổi triều đại, lại do triều đại mới bức bách nên phải ra làm quan, thế nên không khó nhận ra, trong những bài thơ này tác giả cố ý đem tậm sự cá nhân “thuở tráng niên ta cũng là người có tài”, đến khi về già “tóc trắng thu phong tự thở than” kín đáo lồng vào sự sùng kính ngưỡng mộ đối với đức hạnh cao khiết của tiền nhân, xót xa cảm thông cho thân phận đa nạn đa cùng của họ.

Về thơ vịnh danh thắng có thể kể Đăng Nhạc Dương lâu của Ngô Sĩ Đống, hoặc bài Vịnh Nhạc Dương lâu của Nguyễn Trung Ngạn, trong hai bài này bài đầu giỏi việc dụng điển, ví câu “Tống nho văn tại thiên quang trượng” (Văn của các nhà nho đời Tống còn sáng đến ngàn dặm), tức chỉ danh tác Nhạc Dương lâu ký của Phạm Trọng Yêm; câu “Tiên tích mai lưu họa nhất chu” chỉ việc xảy ra vào năm Sùng Trinh đời Minh khi trùng tu lầu Nhạc Dương, khi ấy từ lòng đất phát hiện một phiến đá, trên mặt có khắc dòng chữ “hoa văn của cây mai khô được người đời gọi là tiên tích (tích tiên), sau lập đình lấy tên là Tiên Mai đình.”

Trong thơ đi sứ Việt Nam có nội dung viết về Hồ Nam, mảng thơ tả cảnh cũng có số lượng khá nhiều, đồng thời không thiếu tuyệt tác. Loại thơ này so với loại thơ vịnh danh thắng nêu trên có điểm khác nhau cơ bản là, chủ yếu tập trung vào cảnh trí thiên nhiên, vậy nên ý thức “thẩm mỹ” có phần đậm hơn. Nhìn từ khía cạnh phong cách, loại thơ này bao gồm cả hai xu hướng hào phóng và uyển ước. Bài thơ Tương giang dạ bạc của Nguyễn Du được viết hết sức mới mẻ và tươi đẹp, nhưng vẫn u uất chất thương cảm. Bài thơ Quá Động Đình hồ của Đoàn Nguyễn Tuấn, khí tượng đạt đến tận cùng của sự rộng rãi phóng khoáng; bài thơ Động Đình của Nguyễn Kiều tạo nên ấn tượng đặc biệt đối với người đọc ngay từ những câu thơ đầu tiên. Điểm chung của những bài thơ này là đều viết về vẻ mênh mông bao la bát ngát của hồ Động Đình, vào những ngày trời quang mây tạnh, đứng trên lầu Nhạc Dương phóng tầm mắt nhìn ra xa, có thể cảm nhận thật rõ vẻ đẹp hùng vĩ mà hồ Động Đình sở hữu.

Trong số những bài thơ vịnh cảnh, có chùm thơ hai bài Vĩnh Châu sơ thu nhàn vọng tập cổ của Lê Quý Đôn rất đáng trân trọng. Cả hai bài thơ đều miêu tả phong cảnh tươi đẹp của xứ Vĩnh Châu, nhưng điều đặc biệt là nó được hình thành từ trên cơ sở tập cú, từ đây đủ thấy sự am hiểu kinh ngạc của các sứ thần Việt Nam đối với thơ ca Trung Quốc, cũng như sự thuần thục trong kỹ pháp sáng tác thơ chữ Hán của họ. Bài thơ số một viết:

Hà xứ thu phong chí, thôn khư nãi nhĩ lương.

Trang yên phân mạc mạc, sơn thụ uất thương thương.

Tịch lộ tình sơ thấp, sa khê vãn cánh quang.

Khải đồ tình dĩ miễn, viễn tứ mãn Tiêu Tương.

Tám câu thơ này theo thứ tự rút từ thơ Lưu Vũ Tích, Lục Du, Tạ Thiếu, Tào Thực, Đỗ Phủ, Khấu Chuẩn, Đào Uyên Minh và Tư Không Thự, mỗi câu tuy được tác giả lấy từ các bài thơ có thể tài khác nhau, như ngũ tuyệt, ngũ luật, ngũ cổ,…nhưng dưới sự điều chỉnh xếp đặt khéo léo của tác giả, nó lại hết sức hoàn thiện và tự nhiên. Bài thơ thứ hai cũng tương tự: tám câu lần lượt đến từ thơ của Chu Hưng Dư, Cao Thích, Thẩm Thuyên Kỳ, Đỗ Thẩm Ngôn, Lưu Trường Khanh, Vương Duy, Đỗ Phủ và Triệu Hà(11), có thể thấy rõ, từng bức từng bức tranh hết sức tươi đẹp, được tác giả khéo léo xâu chuỗi, tạo thành cảnh sắc tuyệt đẹp của giai đoạn chớm thu trên đất Vĩnh Châu.

Trong thơ vịnh cảnh có một loại thơ rất đáng chú ý đó là những bài thơ có nội dung ngâm vịnh “Tiêu Tương bát cảnh”. Tiêu Tương bát cảnh là một chủ đề thường xuất hiện với tần số rất lớn trong thơ ca cổ điển Trung Quốc, nó có nguồn gốc lâu đời và cũng rất nổi tiếng. Ước khoảng từ thế kỷ 11, 12, nó đã trở thành biểu tượng nghệ thuật thẩm mỹ của người dân Đông Á bao gồm cả Nhật Bản, Triều Tiên và Việt Nam. Sau đó nó còn ảnh hưởng đến cả văn học của các nước phương Tây, cụ thể đại biểu của thi phái ấn tượng Pond cũng từng có thơ vịnh về “Tiêu Tương bát cảnh”(12). Thẩm Quát trong Mộng Khê bút đàm chép rằng: “Viên ngoại lang Tống Địch giỏi hội họa, đặc biệt sở trường ở mảng tranh sơn thủy vẽ theo phong cách bình viễn, các bức nổi tiếng của ông có thể kể đến Bình sa nhạn lạc, Viễn phố quy phàm, Sơn thị tình lam, Giang sơn mộ tuyết, Động Đình thu nguyệt, Tiêu Tương dạ vũ, Yên tự vãn chung, Ngư thôn lạc chiếu, gọi chung là bát cảnh, người đời mô phỏng và truyền tụng rất rộng.” Bộ tranh Tiêu Tương bát cảnh của Tống Địch mà Thẩm Quát thuật lại thực ra có nguồn gốc từ cảnh thực và được sắp đặt thứ tự từ nam đến bắc như sau: Tiêu Tương dạ vũ (cảnh quan nơi hai con sông Tiêu Tương hợp lưu, phía đông thành Vĩnh Châu), Bình sa nhạn lạc (cảnh quan Hồi Nhạn phong ở Hoành Dương), Yên tự vãn chung (cảnh quan chùa Thanh Lương ở phía bắc thành Hoành Sơn), Sơn thị tình lam (cảnh quan núi Triêu Sơn đứng cô độc bên bãi bồi sông Tương thuộc địa phận Tương Đàm), Giang sơn mộ tuyết (cảnh quan bãi Quất Tử ở giữa dòng Tương Giang thuộc địa phận Trường Sa), Viễn phố quy phàm (cảnh quan nơi con sông Tương đổ vào hồ Động Đình thuộc địa phận Tương Âm), Động Đình thu nguyệt (cảnh quan hồ Động Đình ở Nhạc Dương), Ngư thôn lạc chiếu (cảnh quan bãi Bạch Châu bên cạnh hồ Động Đình phía tây suối Hoa Đào ở Thường Đức). Tiêu Tương bát cảnh thực ra là quần thể cảnh đẹp tự nhiên thuộc lưu vực sông Tương và hồ Động Đình, vì vị trí địa lý đặc thù cùng sự thay đổi bốn mùa, sớm tối, mưa tuyết, âm u quang đãng mà tạo ra tám loại cảnh quan khác nhau, cụ thể dùng tám đặc trưng như mông lung, xa xăm, thanh kỳ, sáng sủa, thoáng đãng, mênh mông, tĩnh mịch, nhàn nhã để phân biệt. Thế nhưng, kỳ thực nguồn gốc và cảnh vật cũng hoàn toàn không phải một đối một.

Từ đời Đường Tống trở về sau, Tiêu Tương bát cảnh dần dần trở thành đại biểu thể hiện đỉnh cao của vẻ đẹp thẩm mỹ của mỹ học Trung Quốc, đồng thời cũng trở thành “ý niệm điển hình” trong lĩnh vực thẩm mỹ nghệ thuật, nó không chỉ truyền bá rộng rãi ở Trung Quốc mà còn truyền sang cả các nước lân bang như Việt Nam, Nhật Bản, Triều Tiên… Học giả Đài Loan Y Nhược Phấn từng nghiên cứu khá sâu về quá trình truyền bá văn hóa Tiêu Tương bát cảnh ra nước ngoài nhận định rằng, “nhìn từ góc độ địa lý, ‘Tiêu Tương’ chỉ toàn bộ vùng Hồ Nam; thế nhưng từ đời Tiên Tần đến đời Đường Tống, những tác phẩm văn học lấy ‘Tiêu Tương’ làm đối tượng hoặc bối cảnh đã đem mẫu thể ‘Tiêu Tương’ ‘khái niệm hóa’ và ‘điển cố hóa’(13); khiến cho “ban đầu vốn là một từ vựng chuyển tải văn hóa chỉ vùng đất Hồ Nam Trung Quốc, thông qua ấn tượng thị giác của tranh thủy mặc và chữ Hán đã vượt khỏi không giai địa lý và những khác biệt về văn hóa của mỗi dân tộc, thể hiện ra ý thức thẩm mỹ, quan niệm nhân văn, tự nhiên trong văn minh Đông Á.”(14) Ở đây chúng tôi hoàn toàn đồng ý cách nhìn nhận vấn đề của tác giả. Thế nhưng, TS. Y Nhược Phấn lại cho rằng “Tiêu Tương bát cảnh” khá thịnh hành trong thi họa Hàn Quốc, Nhật Bản, nhưng thi nhân Việt Nam lại rất ít đề cập đến, hoàn toàn không giống như ở Nhật Bản, Hàn Quốc. Cùng thuộc vùng văn hóa Hán, Việt Nam cũng có thơ văn liên quan đến “Tiêu Tương bát cảnh”,… thế nhưng, nhìn tổng thể, số lượng tác phẩm cùng nội hàm có liên quan đến “Tiêu Tương bát cảnh” thực không thể so sánh cùng Hàn Quốc cùng Nhật Bản.(15) Chúng tôi cho rằng, quan điểm này chưa thật đúng, cần thiết phải có sự thương xác.

Văn nhân Việt Nam liên quan đến hội họa gắn liền với “Tiêu Tương bát cảnh” có thể thực sự không bằng Nhật Bản, Hàn Quốc, thế nhưng xét từ lĩnh vực thơ ca thì tình hình hoàn toàn không phải như vậy, thậm chí còn thể hiện sự vượt trội so với Nhật Bản, Hàn Quốc. Trong dòng thơ chữ Hán chiếm vị trí chủ đạo trong văn học Việt Nam,  mô thức “Tiêu Tương bát cảnh” thường rất được coi trọng. Trên đây đã đề cập, khoa cử tuyển sĩ ở Việt Nam tất yếu phải thi sáng tác thơ chữ Hán, tác giả Ngô Cao Lãng trong Lịch triều tạp ký chép rằng, khoa thi ở Việt Nam từng lấy “Tiêu Tương bát cảnh” làm đề thi: “Mùa thu năm 1715, khoa thi sĩ vọng ra đề thi thơ thất luật là ‘Tiêu Tương bát cảnh’, dùng vận ‘kiêm’”. Trong lịch sử văn học cổ điển Việt Nam, từng có hai nhà thơ là Đặng Trần Côn và Nguyễn Du có thơ vịnh tám cảnh Tiêu Tương. Đặng Trần Côn (1710 - 1745) từng có tập Đề Tiêu Tương bát vịnh đồ thi sao, trong tuyệt tác Chinh phụ ngâm khúc của ông còn có những câu rằng: “Kẻ về, người đi cùng ngoảnh lại, chỉ thấy mây biếc cùng núi xanh. Chàng ngóng lại thiếp ở Hàm Dương, thiếp ngóng sang chàng ở Tiêu Tương. Khói Tiêu Tương cách cây Hàm Dương, cây Hàm Dương cách khói Tiêu Tương. Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy, thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu…. Ngóng chàng thấy những gì? Sông Hà uốn lưỡi câu. Trời mênh mông vài điểm nhạn, bến xa khơi một thuyền về”, ý của những câu này thực ra đều có nguồn gốc từ “Tiêu Tương bát cảnh”. Nguyễn Du trong Kim Vân Kiều truyện ở bài từ mở đầu của hồi hai cũng có những câu đề cập đến Tiêu Tương, như “Chốn thanh lâu kẻ tri âm thiểu; nỡ phụ Tiêu Tương một đoạn duyên.” Có thể nói, với tư cách là một khái niệm điển hình ở lĩnh vực văn hóa thẩm mỹ, “Tiêu Tương bát cảnh” còn đi sâu vào lòng người Việt Nam, văn nhân Việt Nam hơn cả ở Nhật Bản và Hàn Quốc.

Ở đây vẫn còn một vấn đề cần phải suy nghĩ, đó là, đối với văn nhân Hàn Quốc và Nhật Bản mà nói, “Tiêu Tương bát cảnh” phần nhiều mang xu hướng truyền văn hoặc tưởng tượng của cá nhân; riêng đối với văn nhân Việt Nam, những người đã từng sang sứ Trung Quốc, họ đều là những người đã trực tiếp trải nghiệm và chu du trên sóng nước Tiêu Tương. Đối với các văn nhân Nhật Bản, Hàn Quốc, những người chỉ có thể tiếp xúc với Tiêu Tương thông qua tưởng tượng, vẻ đẹp Tiêu Tương đối với họ chỉ hạn chế trong những vịnh đề bát cảnh; nhưng đối với sứ thần văn nhân Việt Nam, vẻ đẹp Tiêu Tương có thể bắt gặp ở khắp mọi nơi. Bởi thế cho nên, thơ tả cảnh Tiêu Tương của các sứ thần Việt Nam phần nhiều là thứ “Tiêu Tương bát cảnh” hiểu theo nghĩa rộng, cũng có thể nói, thơ “Tiêu Tương bát cảnh” của họ chính là thơ vịnh cảnh đẹp thuộc địa phận tỉnh Hồ Nam. Trong số thơ viết về Hồ Nam của các sứ thần Việt Nam in trong Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, số tác phẩm có tựa đề ghi rõ bốn chữ “Tiêu Tương bát cảnh” chỉ có duy nhất chùm tác phẩm của Phan Huy Chú, Tiêu Tương bát cảnh vịnh bính tự (gồm 08 bài thơ và 8 bài từ). Thế nhưng, các tựa đề thơ có hai chữ “Tiêu Tương” lại khá nhiều, như Tiêu Tương dạ bạc, Tiêu Tương kỷ thắng, Quá Tiêu Tương hợp lưu giang khẩu, Tiêu Tương tình phiếm, Thập nguyệt vọng Tiêu Tương, Tiêu Tương chu hành…những tác phẩm này đều mang giá trị nghệ thuật khá cao, chúng thật sự là thơ “Tiêu Tương bát cảnh”, chỉ có điều chưa được gọi đúng tên của mình mà thôi. Trên thực tế, nếu xét luôn cả thi nhân Trung Quốc, lại nhìn từ tính liên tục và ổn định của vấn đề, những người có nhân duyên gắn bó mật thiết cùng cảnh đẹp “Tiêu Tương bát cảnh” nhất, chính là các sứ thần Việt Nam, chính là thơ của họ, bởi phần lớn những bài thơ viết về Hồ Nam của họ đều tập trung vào “Tiêu Tương bát cảnh”. Như vậy, có thể thấy rõ, thơ mang nội dung vịnh “Tiêu Tương bát cảnh” của Việt Nam hoàn toàn không thua kém thơ cùng loại của Nhật Bản, Hàn Quốc cả ở phương diện số lượng lẫn nội dung, nó cùng thơ ca của các nước này tạo thành một hiện tượng văn học cực kỳ thú vị của vùng văn hóa chung Đông Á giai đoạn cổ trung đại. Đây là một hiện tượng giao lưu văn học hết sức thú vị và cần thiết được giới nghiên cứu quan tâm.

3. Hoạt động xướng họa giữa sứ thần Việt Nam và văn nhân Hồ Nam

Sứ thần Việt Nam thường lấy danh nghĩa quan chức ngoại giao đồng thời là thành phần chủ yếu tham gia vào quá trình giao lưu văn học giữa hai nước Việt Trung. Mô thức giao lưu thường thấy nhất đó chính là, trên đường đi cùng tiến hành hoạt động ngâm vịnh, thù tạc với các văn thần Trung Quốc hoặc thay nhau viết lời tựa, lời bạt cho thi tập của nhau. Lại do văn hóa Hồ Nam từ đời Tống Nguyên không ngừng phát triển, đến đời Thanh đã trở thành vùng đất nổi tiếng văn vật, thế nên các sứ thần Việt Nam cũng đặc biệt coi trọng cơ duyên được cùng các văn sĩ Hồ Nam kết mối giao hảo thi văn. Căn cứ nguồn tư liệu chúng tôi khảo sát, các văn sĩ Hồ Nam có mối kết giao khá sâu với sứ thần Việt Nam có thể kể đến các vị như Lao Sùng Quang, Vương Tiên Khiêm, Lý Phù Diệu, Dương Ân Thọ, Quách Tung Đảo, Hoàng Tự Nguyên, Thành Tích Ngô,… trong bốn nhân vật đầu tiên, người để lại nhiều giai thoại nhất chính là Dương Ân Thọ.

Lao Sùng Quang (1802 - 1867), là danh thần cuối đời Thanh, người đất Thiện Hóa (nay thuộc thành phố Trường Sa, tỉnh Hồ Nam), tên tự là Tân Giai, đậu tiến sĩ dưới triều Đạo Quang, từng làm quan đến chức Tổng đốc Vân Quý(Vân Nam-Quý Châu), Tuần phủ tỉnh Quảng Tây. Lao Sùng Quang từng tiếp đón sứ thần Việt Nam, cũng từng đi sứ sang Thuận Hóa, Việt Nam. Trong Lao Sùng Quang thi thảo có lời tựa Nam quốc phong nhã thống biên tự có đoạn viết như sau:

Nước Việt Nam bốn năm hai lần cống sứ, các sứ thần trên đường đi sứ vừa ghi chép sự kiện, vừa ngâm vịnh thù tạc cùng các văn nhân Trung Hoa, giai thoại cũng thấy truyền trong dân gian, nhưng chỉ tiếc không thể xem hết. Năm Kỷ Dậu niên hiệu Đạo Quang, tôi phụng mệnh thiên tử sang sứ Việt Nam để tuyên phong, sứ thần thỉnh phong là Nguyễn Quân cùng các vị cống sứ Phan Tĩnh, Mai Đức Thường, Nguyễn Văn Siêu lần lượt đến Quế Lâm, thảy đều tới gặp và đều dùng thơ do chính mình sáng tác làm quà. Thơ của họ thảy đều nhu nhã đáng đọc….Nhận thơ xem qua, thảy đều thanh kỳ nồng đạm, không câu thúc vào bất kỳ phong cách nào. Hoặc miêu tả tính linh, hoặc lưu luyến cảnh vật, hoặc mô tả sơn thủy, bàn cổ nhớ người, những bài hay câu hay, nhiều không kể xiết, trong đó những bài hay đáng sánh cùng các tác phẩm kiệt xuất của các nhà thơ cổ Trung Hoa cũng không phải hiếm.

Khen ngợi thơ của các nhà thơ Việt Nam đến mức “những bài hay câu hay, nhiều không kể xiết, trong đó những bài hay đáng sánh cùng các tác phẩm kiệt xuất của các nhà thơ cổ Trung Hoa cũng không phải hiếm”, điều này thực sự chưa từng thấy trong quá khứ. Lao Sùng Quang trong con mắt của các văn nhân Việt Nam cũng từng được đánh giá rất cao. Tuy Lý Vương Nguyễn Miên Trinh (Vĩ Dã) trong lời tựa tập Tuần Cai biệt thự thi hợp tập viết: “Thương Sơn tiên sinh anh tôi thơ ca đứng đầu một thuở, từng được Lao Sùng Quang tiên sinh tôn xưng là ‘Thương Sơn nhất lão’, đáng làm mô thức cho nước Nam. Lao công là Khâm sứ nước Thanh, là văn nhân bậc nhất xứ Trung Hoa, những kẻ trong làng văn nghệ khắp nơi, không ai không nói như vậy.” Ở đây “huynh Thương Sơn” chính là Tùng Thiện Vương Nguyễn Miên Thẩm. Thương Sơn từng nhờ sứ thần đem tập Thương Sơn thi sao của mình sang Trung Quốc tặng cho Lao Sùng Quang vào xin lời tựa,(16) trong Thương Sơn thi thoại còn có đoạn ghi chép như sau:

Lao Sùng Quang từng xướng họa với rất nhiều nhà thơ Việt Nam, thơ của họ được chép lại trong mục Văn học thuộc quyển 2 của sách Việt Nam tập lược. Sách ấy hiện còn lưu giữ 07 bài thơ xướng họa của Lao Sùng Quang, ngoài ra còn 02 bài thơ tống biệt của Ngụy Khắc Thuần, bên dưới mỗi bài đều phụ thêm lời bình của họ Lao.

Vương Tiên Khiêm (1842 - 1917), là vị đại thần cuối đời Thanh, người đất Trường Sa tỉnh Hồ Nam, tự là Ích Ngô, cuối đời lấy tên hiệu là Quỳ Viên, người đời vì vậy thường gọi ông là Quỳ Viên tiên sinh. Vương Tiên Khiêm có thể xem là lãnh tụ của giới văn sĩ Hồ Nam, học vấn uyên bác, đậu tiến sĩ năm Đồng Trị thứ tư, từng giữ chức Tế tửu, Học chính tỉnh Giang Tô, trung niên từ quan về làng, chuyên tâm vào việc giảng học, từng giữ chức trưởng thư viện Nhạc Lộc và thư viện thành nam Trường Sa. Do sứ thần Việt Nam là Nguyễn Thuật đem theo thơ văn của Vĩ Dã trên đường đi sứ, nhờ thế họ Vương có dịp bái độc. Trong Vĩ Dã thi văn hợp sao tự ông viết:

Năm Quang Tự thứ bảy, sứ thần Việt Nam Nguyễn Thuật tới Kinh sư, đem bộ Vĩ Dã thi văn hợp tập của nước ấy cho tôi xem, Vĩ Dã chính là em trai của Thương Sơn vậy. Thương Sơn giỏi thơ, người Trung Quốc đọc thơ ông không ai không khen hay. Nay lại có dịp đọc thơ Vĩ Dã, người đọc không ai không cảm thấy kinh hãi, đều bảo rằng hoàn toàn không thua kém Thương Sơn vậy. Riêng tôi còn đặc biệt xem trọng văn của ông, đặc biệt các thiên như Hoàng chung vi vạn sự căn bản luận, Xuân vương chính nguyệt luận….

Cuộc gặp gỡ giữa Vương Tiên Khiêm và sứ thần Việt Nam Nguyễn Thuật sau này còn được Hoàng Tự Nguyên (danh thần cuối đời Thanh, người đất Hóa An, Hồ Nam) nhắc lại trong lời tựa Giá Viên toàn tập của Phạm Phú Thứ:

Mùa hạ năm Tân Tỵ niên hiệu Quang Tự, sứ thần Việt Nam là Nguyễn Thuật tới thăm nhà của người đồng hương với tôi là quan Tế tửu Vương Tiên Khiêm, ông ta lấy ra tập thơ của thầy ông mình là Phạm Phú Thứ, Giá Viên thi tập, bốn quyển, nhờ tôi viết lời tựa.

Lý Phù Diệu (1848 - 1916), tên tự là Ấu Mai, người đất Tương Âm. Cha ông là Lý Nguyên, một vị đại thần cuối đời Thanh, từng làm quan tới chức Binh bộ Thượng thư, Tổng đốc Lưỡng Giang, khi về vườn cho dựng “Dụ Viên”, người đương thời xem gia đình ông là gia đình vọng tộc bậc nhất đất Trường Sa. Lý Phù Dược từng giữ chức Lưỡng Giang hậu bổ đạo, vốn học của ông uyên thâm, lại giỏi thi họa, thế nên tên tuổi của ông hết sức nổi tiếng trên văn đàn. Đối tượng giao du của ông khá rộng, không chỉ giao du với các sứ thần Việt Nam, Nhật Bản, mà tương truyền còn tiếp kiến cả các sứ thần Triều Tiên. Hà Thiên Niên trong Việt Trung điển tịch trung đích lưỡng quốc thi nhân giao vãng viết:

Trong quyển thứ 13 sách Hư Thọ Đường thi có bài thơ mang tựa đề Việt Nam cống sứ Nguyễn Tư Giản thư quyển vị Lý Ấu Mai đề có lời chú thích như sau: “Nguyễn từng đi qua Trường Sa, gặp gỡ Lý Ấu Mai, nên mới viết lời tựa cho quyển này.” Đồng thời trong Hư Thọ Đường văn tập hiện vẫn còn bài tựa của ông viết cho Vĩ Dã thi văn hợp sao. Trong Ngoạn Chỉ Thủy trai di cảo của Lý Ấu Mai (Phù Diệu) hiện còn 08 bài thơ xướng họa cùng sứ thần Việt Nam Nguyễn Tư Giản, trong thơ có nhắc đến tên của 05 nhà thơ Việt Nam gồm Phạm Hối Thúc, Nguyễn Tư Giản (Tuân Thúc), Bùi Dị (tức Bùi Văn Dị, tự Ân Niên), Lâm Hoằng (Tùng Chi) và Lý Cát (Trọng ). Riêng ở quyển 03 còn có một bài thơ đáp tạ sứ giả Nhật Bản là Thôn Sơn Tiết Nam đề từ cho tập thơ của Nguyễn Tư Giản. Có thể thấy rằng, cá nhân Lý Ấu Mai không chỉ viết lời tựa cho các tác giả Việt Nam, mà ông còn dựa vào mối giao hảo rộng rãi của mình, nhờ thi nhân Nhật Bản phẩm bình và viết lời tựa cho các tác giả Việt Nam. Từ những bài thơ có phụ thêm tự chú của Lý Phù Diệu, có thể rõ rằng, giao lưu giữa họ Lý và sứ thần Việt Nam không chỉ diễn ra một lần, mà trải dài trong rất nhiều năm.

Lý Phù Diệu rõ ràng có mối giao hảo với rất nhiều sứ thần Việt Nam trong một khoảng thời gian khá dài. Trong Yên Chiểu thi văn tập của Nguyễn Tư Giản có một số bài thơ có tựa đề như Đề phiến tặng Tương Âm Lý Phù Diệu, Hòa đáp Lý Ấu Mai đầu tặng nguyên vận nhị thủ, Ký Trần Tả Khanh Từ Hư Trúc Bành Ngư Cai Lý Ấu Mai bính giản…. Trong Bắc minh sồ vũ ngẫu lục của Phạm Hy Lượng có các bài như Thù tặng Lý Phù Diệu công tử, Giang thôn tức sự điệp Ấu Mai tiền vận khước ký…. Trong Vạn lý hành ngâm của Bùi Văn Dị có các bài như Ngẫu du Dụ viên đề tặng, Lý Ấu Mai xá nhân đầu tặng dĩ thi tức phú đáp phục…. Riêng Lý Phù Diệu cũng có rất nhiều bài thơ viết tặng cho sứ thần Việt Nam như Thứ vận đáp tạ Việt Nam Phạm Hối Thúc, Ân Niên lai du Dụ Viên hữu thi y vận đáp chi, Tặng Việt Nam sứ thần Bùi Ân Niên Tông Bá….

Dương Ân Thọ (1835-1891), tự là Hạc Trù, tên Thản Viên, người đất Trường Sa, tỉnh Hồ Nam. Ông được xem là nhà thơ, nhà Hý khúc nổi tiếng cuối đời Thanh, là người tài cao vọng trọng, nên rất được người đời tán thưởng, thế nhưng con đường khoa cử cũng như hoạn lộ của ông lại hết sức trắc trở, từng giữ các chức quan như Diêm vận sứ tỉnh Hồ Bắc, Hồ Bắc hậu bổ tri phủ…. Vào năm Quang Tự thứ hai (tức năm Tự Đức thứ 29, 1876), Bùi Văn Dị đi sứ Trung Quốc, Dương Ân Thọ nhậm chức hộ tống sứ đoàn đoạn đường thuộc tỉnh Hồ Nam, hai người có cơ duyên cùng làm việc trong vòng hai tháng hai mươi ba ngày, cùng ngâm vịnh thù tạc tổng cộng 106 bài thơ, sau Dương Ân Thọ khắc in tập ấy lấy tên Trĩ chu thù xướng tập, hai người trao đổi viết lời tựa cho tập thơ của nhau. “Duyên văn tự” giữa Bùi Dị và Dương Ân Thọ có thể xem là đóa hoa đẹp nhất nở tự do bởi cơ duyên giao du thù tạc giữa sứ thần Việt Nam và các thi sĩ Hồ Nam(17). Dương Ân Thọ trong Trĩ chu thù xương tập tự tự khái quát toàn bộ quá trình hộ tống đoàn sứ thần Việt Nam như sau:

Ân Thọ nhận mệnh hộ tống thuyền sứ, đón ở Ba Lăng, tiễn đến Tín Dương, thảy đều tuân theo thể chế cũ vậy. Vào ngày 20 tháng 01 năm Đinh Sửu niên hiệu Quang Tự, thuyền sứ đậu tại Ba Lăng, lần đầu tiên gặp nhau dưới chân lầu Nhạc Dương. Tới đất Hán Dương, đoàn sứ ngược lên phía bắc, vượt qua núi Đại Phúc, ta bèn từ biệt đoàn sứ. Như vậy thời gian hộ tống vừa đúng hai tháng 23 ngày vậy(18).

Hai người hội ngộ lần đầu tiên dưới chân lầu Nhạc Dương, Dương Ân Thọ hình dung lại tình cảnh khi ấy: bất đồng ngôn ngữ, mới gặp hoàn toàn không giới thiệu, chỉ sai bảo kẻ hầu đồng thời cũng tiến hành nghi thức gặp nhau theo lệ. Tuy lần đầu gặp mặt nhưng dường như đã quen biết từ lâu, hai bên hoàn toàn không hàn huyên, chỉ dùng thơ tặng đáp(19). Bùi Văn Dị viết được chữ Hán, thông hiểu Hán văn, nhưng không biết nói tiếng Hán, hai bên trao đổi chủ yếu dựa vào bút đàm. Còn sở dĩ “lần đầu gặp mặt nhưng dường như đã quen biết từ lâu” ấy là bởi, trước đây (vào năm Đồng Trị thứ 8, 1869) Dương Ân Thọ từng có mối giao tình cùng đoàn sứ thần Việt Nam do Nguyễn Tư Giản dẫn đầu đi qua địa phận Trường Sa(20), mà Bùi Văn Dị lại là bạn thân của Nguyễn Tư Giản, thế nên hai người tuy mới lần đầu gặp mặt nhưng dường như đã quen từ lâu là vậy. Dương Ân Thọ làm thơ gửi tặng Nguyễn Tư Giản ở phương xa, lại đưa thơ ấy cho Bùi Văn Dị xem, Văn Dị lập tức hòa đáp, bài thơ ấy có câu: “Bất di nhi chí, mẫn nhi thả công”(21). Điều này thật sự ngoài dự liệu của Ân Thọ, không chịu lép vế, Ân Thọ lập tức hòa theo, cứ thế hai người không ngừng cùng nhau ngâm vịnh, thù tạc(22).

Cứ như vậy đến khi thuyền sứ đến đất Tín Dương, nhiệm vụ hộ tống của Ân Thọ cũng hết, buộc phải chia tay, họ đã xướng họa được tổng cộng 106 bài thơ, trong đó hơn 40 bài của Bùi Văn Dị, số còn lại hơn 50 bài là của Ân Thọ. Thơ ca xướng họa của họ có tổng số 36 đề mục, trong đó có 10 đề liên quan trực tiếp đến công việc trong chuyến hành trình, chủ yếu viết về thời tiết trong suốt lộ trình thuộc tỉnh Hồ Nam, ví dụ bài xướng Nhạc Châu trở phong hữu cảm của Bùi Văn Dị; thơ vịnh cảnh 07 đề, chủ yếu vịnh danh thắng cổ tích hai bên đường, như bài xướng Nguyệt dạ phiếm Động Đình của Bùi Văn Dị; thơ mang nội dung hoài cổ 09 đề, chủ yếu vịnh danh nhân xưa và những di tích liên quan đến họ hai bên đường, như bài xướng Anh Vũ châu điếu Di xử sĩ của Dương Ân Thọ; thơ tặng đáp 10 đề, nội dung chủ yếu đối đáp thù tạc với các quan địa phương dọc đường đi, như bài xướng Trình Tôn Cầm Tây, Phương Bá Y ngôn của Bùi Văn Dị. Có thể nói, Trĩ châu thù xướng tập thuộc hình thái văn học giao du, nó phản ánh một cách sinh động mối giao lưu văn học giữa một bên là sứ thần Việt Nam, một bên là các quan lại Trung Quốc làm nhiệm vụ hộ tống đoàn sứ trên các đoạn đường thuộc hành trình đi sứ. Vào tháng 09 năm sau đó (năm Quang Tự thứ ba, 1877), Bùi Văn Dị hoàn thành công việc đi sứ trên đường trở về nước, lúc về tới Hán Dương, Dương Ân Thọ lại từ Vũ Xương chèo thuyền tới thăm, đây là cơ hội trùng phùng sau một thời gian xa cách giữa họ, đồng thời cũng là lần tống biệt mãi mãi khó có ngày gặp lại, quan cảnh khi ấy hết sức cảm động, Dương Ân Thọ sau này ghi lại như sau:

Trước tiết Trùng Dương một ngày, Thị lang (chỉ Bùi Văn Dị) từ Kinh về tới, đậu thuyền nơi bến sông trong…Triệu tôi tới nơi, ân cần nắm tay, kế đó lấy ra giấy mực, cầm bút thảo đến mấy trăm lời, tôi lấy ra tập thơ mới sáng tác gần đây, để đầy bàn khách, ông cũng lấy ra Tốn Am tập nhờ tôi viết lời tựa. Trong lúc nhà thuyền thôi thúc, thật khó chia tay, mượn rượu khởi hứng, tức thì viết thành trường thiên, thật đúng lệ ứa theo nét bút vậy.(23)

Tình cảnh hai người khi ấy thật đặc biệt, vừa là kẻ ký thác vừa là kẻ nhận lời, Bùi Văn Dị viết lời tựa cho tập thơ Thản Viên thi lục và tác phẩm lý luận hý khúc Từ dư tùng thoại của Dương Ân Thọ; còn Dương Ân Thọ viết lời tựa cho Tốn Am tập của Bùi Văn Dị.

Mối duyên văn tự giữa Bùi Văn Dị và Dương Ân Thọ duy trì mãi đến khoảng năm Quang Tự thứ bảy (1881). Vào năm ấy, Dương Ân Thọ viết bài thơ có tựa đề như sau: Bùi Ân Niên nước Việt Nam gửi tặng hương thơm, quế quý, Tuy Lý Vương Vĩ Dã lão nhân làm thơ gửi tặng, trong thơ có câu “Thức khúc phiên tòng hải ngoại luận”, bèn lấy đó làm vần, làm thơ gửi Ân Niên kiêm đáp Vĩ Dã, dưới tựa thơ dài tổng cộng có 07 bài thơ, 04 bài đầu viết về mối giao du của cá nhân với Bùi Ân Niên, 03 bài sau  chủ yếu khẳng định sự thành công của thơ Vĩ Dã. Vĩ Dã là bạn thơ của Bùi Văn Dị, chưa từng gặp Dương Ân Thọ, sở dĩ ông gửi thơ cho Dương Ân Thọ là bởi có sự giới thiệu của Bùi Văn Dị, mộ danh nên viết thơ gửi tặng. Bảy bài thơ này sau được dùng thay lời tựa, thu vào phần đầu sách Vĩ Dã hợp tập.(24) Từ đây có thể thấy rõ, mối duyên văn tự giữa Bùi Văn Dị và Dương Ân Thọ không dừng lại ở quan hệ giữa hai người, mà còn có sự ảnh hưởng và phát tán rộng hơn. Vào năm Quang Tự thứ 10 (1889), thực dân Pháp ép Việt Nam ký Điều ước Thuận Hóa, quan hệ gắn kết giữa Việt Nam và Trung Quốc đến đây chấm dứt. Mối duyên văn tự giữa Bùi Văn Dị và Dương Ân Thọ vì thế cũng trở thành bản tuyệt xướng của thể loại văn học giao du giữa sứ thần hai nước, hay nói chính xác hơn chính là mối giao du giữa sứ thần Việt Nam và văn sĩ Hồ Nam.

Hoạt động giao lưu giữa sứ thần Việt Nam và một số văn sĩ Hồ Nam như Lao Sùng Quang, Vương Tiên Khiêm, Lý Phù Diệu, Dương Ân Thọ được nêu trên đây thực ra mới là bề nổi của vấn đề. Vào năm Càn Long thứ 7 và thứ 13, sứ thần Việt Nam Nguyễn Tông Quai từng hai lần đi sứ Trung Quốc, trong Sứ trình thi tập của ông còn chép hai việc cho đến nay vẫn không thấy sử sách Trung Quốc nhắc tới: “Tới thành Trường Sa, cư sĩ Vương Duẫn Du tới đón, lại viết trát xin được xem thi cảo, bèn viết ba bài thơ trình lên để thỉnh giáo”; “Lúc thuyền sắp xuất phát, có người đánh cá trên sông Tương là Trần Vân đến dâng thi cảo gồm bốn chương, lại nói thêm: ‘Hôm qua trên đường gặp người đồng hương họ Vương, ông ấy lấy từ tay áo ra những tác phẩm họa thơ của ngài, tôi cầm đọc cảm thấy thán phục và hết sức ngưỡng mộ, bèn theo thứ tự họa theo, biết ngài phải đi ngay, không kịp họa theo toàn bộ. Tạm hòa theo bốn chương, dùng để ghi lại cảnh vật trên đường đi, gửi ngài phê giám trước khi thuyền sứ nhổ neo.’ Xem thơ và lời của người ấy, thực trên tài Vương Duẫn Du. Theo ý tôi, chắc chẳng phải người đánh cá, chắc hẳn là một cao sĩ nào đó không muốn lộ tên mà thôi.” Ở đây cư sĩ Vương Duẫn Du và người tự xưng là người đánh cá trên sông Tương đều không phải quan viên, tên họ không chép trong kinh truyện hoặc bất kỳ sách vở nào, thế nên liên quan đến họ vẫn còn phải đợi khảo chứng của các học giả. Từ những điều đã trình bày ở trên, có thể thấy rằng, hoạt động giao lưu thù tạc giữa sứ thần Việt Nam và các văn sĩ Hồ Nam là vấn đề sâu và rộng hơn nhiều so với tưởng tượng của chúng ta, trước mắt liên quan đến vấn đề này còn rất nhiều vấn đề học búa cần phải tiếp tục nghiên cứu.

 

Tài liệu tham khảo:

 [1] Ở đây “thơ Tương Hồ” chuyên chỉ thơ chữ Hán của sứ thần Việt Nam sang sứ Trung Quốc, có nội dung liên quan đến Hồ Nam.

[2] Liên quan đến đối tượng nghiên cứu nói trên, chúng tôi chỉ có điều kiện tham khảo chuyên luận của giáo sư thuộc Viện Khoa học kỹ thuật Hồ Nam Trương Kinh Hoa, Tùng Việt Nam khán Hồ Nam———Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, Hồ Nam thi đề yếu, Hồ Nam khoa kỹ học viện học báo, kỳ 3, 2011.

[3] Ở đây tỷ lệ bình quân chỉ số thơ có nội dung viết về Hồ Nam xét trong toàn bộ lượng thơ đi sứ của sứ thần Việt Nam.

[4] Xem Trương Kinh Hoa, Tùng Việt Nam khán Hồ Nam———Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, Hồ Nam thi đề yếu, Hồ Nam khoa kỹ học viện học báo, kỳ 3, 2011.

[5] Xem Viện Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, Phúc Đán đại học xuất bản xã, 2010, tr.109-110, tr.120-121.

[6] Xem Viện Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, Phúc Đán đại học xuất bản xã, 2010, tr.159.

[7] Xem Viện Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, Phúc Đán đại học xuất bản xã, 2010, tr.98-100, tr.141.

[8] Xem luận văn tiến sĩ của Khổng Sĩ Giác, Cổ Việt Hán thi sử thuật cập văn bản tập khảo, Hoa Đông sư phạm đại học, 2006, xem phần phụ lục Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du, tr.350-367.

[9] Xem Khang Hữu Vi, Thi tập tự tự, chuyển dẫn từ Quách Thiệu Ngu chủ biên, Trung Quốc lịch đại văn luận tuyển, sách số 4, Thượng Hải cổ tịch, 1980, tr.189.

[10] Xem Trương Kinh Hoa, Tùng Việt Nam khán Hồ Nam———Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, Hồ Nam thi đề yếu, Hồ Nam khoa kỹ học viện học báo, kỳ 3, 2011.

[11] Xem Ôn Tổ Ấm, Việt Nam Hán thi dữ Trung Hoa văn hóa, Phúc Kiến sư phạm đại học học báo, số 4, 2006.

[12] Tưởng Hồng Tân, Bàng Đức (Pond) Thất hồ thi chương dữ Tiêu Tương bát cảnh, in trong Ngoại quốc văn học bình luận, số 3, 2006.

[13] Y Nhược Phấn, Văn nhân Cao Ly Lý Nhân Lão, Trần Hoa và sự truyền bá thi họa Tiêu Tương bát cảnh về phía đông, in trong Trung Quốc học thuật, số 16, Thương vụ ấn thư quán, 2003.

[14] Y Nhược Phấn, Tiêu Tương bát cảnh: sự tái sin và vượt biên giới của ý tượng thi thư, Singapo, 2006.

[15] Y Nhược Phấn, Văn nhân Cao Ly Lý Nhân Lão, Trần Hoa và sự truyền bá thi họa Tiêu Tương bát cảnh về phía đông, in trong Trung Quốc học thuật, số 16, Thương vụ ấn thư quán, 2003.

[16] Luận án tiến sĩ của Lưu Ngọc Quân, Việt Nam Hán Nôm cổ tịch đích văn hiến học nghiên cứu, Đại học Dương Châu, 2005, tr.166.

[17] Xem Trương Vũ, Việt Nam cống sứ dữ Trung Quốc bạn tống quan đích văn học giao du, in trong Học thuật dẫn sách, 2010.

[18] Dương Ân Thọ, Thản Viên toàn tập, bản khắc nhà họ Dương in năm Quang Tự, tr.01.

[19] Dương Ân Thọ, Thản Viên toàn tập, bản khắc nhà họ Dương in năm Quang Tự, tr.01.

[20] Dương Ân Thọ, Thản Viên nhật ký, Thượng Hải cổ tịch, 1983, tr.327.

[21] Dương Ân Thọ, Thản Viên toàn tập, bản khắc nhà họ Dương in năm Quang Tự, tr.01.

[22] Dương Ân Thọ, Thản Viên toàn tập, bản khắc nhà họ Dương in năm Quang Tự, tr.01.

[23] Dương Ân Thọ, Thản Viên toàn tập, bản khắc nhà họ Dương in năm Quang Tự, tr.01.

[24] Vương Tiểu Thuẫn, Việt Nam Hán Nôm văn hiến mục lục đề yếu, Đài Loan, 2002, tr.721.

 

 

 

越南北使汉诗与湖湘地理文化

 

中国 湖南师范大学文学院 詹志和

 

内容摘要:越南文人的汉诗创作持续兴盛千余年之久,1419世纪间北上出使中国的越南使臣创作的汉诗尤其成就斐然。湖南是绝大多数越南北使往返必经之地,湖南境内的湘江和洞庭湖为越使天然地提供了舟行之便,湘江流域的永州、衡阳、湘潭、长沙和洞庭湖畔的湘阴、岳阳等钟灵毓秀之地引发越南北使创作了大量汉诗。这些诗叙景、抒怀、记事兼备,多为发挥诗赋外交作用而同中国文人仕宦相与酬唱。其中那些以“潇湘八景”为直接对象或者灵感触媒的诗歌,与日、韩等国的同类诗歌一道,构成了中古、近代东亚文化圈内引人注目的审美-艺术景观。

:越南北使  汉诗 中国湖南  潇湘

 

中越两国自古就随其研究渐渐转入沿革地理的考索,有密切的文化关系。从秦始皇设交趾郡起,越南就开始了与中国“书同文”的历史。是从魏的才德与功业入手回答的,开宝八年(975)宋太祖每一卷的结封越南丁部领为交趾郡王,[38]徐松身后的道咸以降,自此越南成为独立王朝,笔者也感到,中越两国建立了长达近千年的宗藩关系。永乐十四年(14 16)在宋元明清时期特别是明清两朝,敦煌残卷共约110卷。越南定期或不定期选派富于才学特别是精通汉文化、汉文学的官员到中国处理外交事务,史称知所以听言受事而不“北使”。在赴中国的使交活动中,越南北使留下了大量汉文华程记、华程诗、华程图。其中的华程诗(即北使汉诗)尤其显示了越南文人精湛的汉文化修养和出色的汉诗赋才能。

湖南是大多数越南北使往返必经之地,湖南境内的永州、衡阳、湘潭、长沙、湘阴、岳阳和湘江、洞庭湖、衡山、岳麓山等钟灵毓秀、人文荟萃之地引发越南北使创作了大量“湖湘诗”[]。这些诗歌叙景、抒怀、记事兼备,颇多同中国文人仕宦酬唱之作,是“诗赋外交”的产物,也是“湖湘文化”借以观照自身的“诗镜”,特别是那些以“潇湘八景”为吟咏对象或者情绪触媒的诗歌,与日、韩等国的同类诗歌一道,构成了中古至近代东亚文化圈内十分引人注目的文学景观。越南北使汉诗与中国湖湘地理、文化之关系是一个值得深入研究的课题[]。本文试围绕这一课题就越南北使在湖湘境内的旅程、对湖湘风物的吟咏、与湖湘文士的酬唱等层面做一番粗略的探讨。

 

一、越南北使在湖湘境内的旅程

越南北使的华程路线可取海道也可走陆路。海道从广东、福建进入,陆路从广西、云南进入。但取海道者少,大都是走陆路。陆路又主要是走广西而极少走云南。所谓陆路,实为水陆兼程,舟车交替,在中国东南地区的旅程大都是行舟于江湖之上,在湖南境内的旅程更全部是在湘江和洞庭湖上舟行。中国内河多为西东流向,湘江却是罕见的南北流向,故有“湘江北去”之说。湘江发源于广西兴安,全长近两千华里,流至湘阴汇入洞庭,自南而北贯通湖南。湘江(以及洞庭湖)的地理形势使之成为古代、近代中越之间最重要的一段国际交通线,北去的湘江为北行的越使天然地提供了最佳行旅方式。一般情况下,越南北使都是由睦南关进入中国广西,经南宁、桂林、全州而进入潇、湘二水合流处的永州,再沿接纳了潇水而扩张了水势的湘江逶迤北上。越南北使在湖南境内的“行脚”乃是名副其实地“浪迹江湖”:顺湘江依次行经永州——衡阳——湘潭——长沙——湘阴,在湘阴入洞庭湖再浮舟至岳阳。继续前行仍是水路,进入湖北到达武昌。武昌以后的行进路线则分为东西两线:东线在武昌东折沿长江顺流而下,经九江、安庆、南京至扬州,在扬州进入京杭大运河,到济宁上岸,然后改乘车马北上赴燕京;西线则是在武昌渡长江,走陆路经武胜关(鄂豫交界处)、信阳、许昌,至开封渡黄河,再经直隶(河北)抵燕京。无论走东线还是走西线,湖南都是越南北使往返双程的必经之地。可以说,越南北使与中国各省区的接触关系,最多最密切者,恐怕要算湖南。湖南无论在空间上、时间上还是人次上乃至人文关系上都与越南北使交往特别频繁。或许正是因此,越南北使留下来的“华程图”都对湖南境内的江湖航道、水陆码头、沿途名胜绘示甚详,而“华程诗”更有超出正常比例的很大一部分是产生在湖南境内。[]

越南北使一个周程行程约二万里,历时近两年。关于越南北使在华及在湘的行程,有论者就曾经使清的越使阮輝莹(1713~1789)《奉使燕京总歌并日记》中所述情况做过勾稽订正[]。阮氏自述于越景兴二十七年(即乾隆三十一年,1767)使清,正月二十九日由镇南关(今睦南关,下同)进入广西境内,经过太平、梧州、桂林,于五月三十日到达全州。

过全州即入湖南地界,六月十六日“望见永州”,在永州祁阳浯溪作《题石镜诗》并刻石;二十九日到湘潭;七月初二到长沙;二十日到岳阳,“自永州二水(即潇水、湘水——引者注)合流,至此入洞庭湖,烟波浩渺,古今大观”。

八月初四到汉口;十四日到黄州;二十七日到江州;九月十三日到南京。九月二十五日在南京换船到仪征,“自此河道浅狭,官置石闸障水通舟”。十一月二十七日到济宁,“呈起陆文,州官给车二十二辆,马十匹,丁夫五十人”。——至此行程正好十个月,时已入冬,又由水路改陆路,故有诗称“收拾东西快著鞭,直将裘帽斗寒天”。[]

十二月二十一日到燕京。乾隆三十二年(1768)正月初一在燕京度过。至此出行已近一年,作《新年喜赋》称“昨岁舟开珥水津,如今旅次又逢春”。

以上为去程。回程即原路返回:在燕京逗留近两月后,于二月十六日辞京;三月初五还至济宁,又改舟行;三月二十七日到南京;五月二十六日到武昌;六月二十五日到岳阳;七月二十五日到湘阴;闰七月初八到衡阳;八月初四到桂林;九月初十到南宁;十月二十四日出镇南关还国,作《别伴送》诗赠清朝伴送官员:“水国山云同玩赏,风晨月夕共盘桓”。[]

阮輝莹所述的是东线行程。道光五年(1826)使清的潘辉注在其《輶轩丛笔》中勾勒了西线的大致情况:汉阳、孝感有“荆湖风物志盛”;武胜关至信阳,则“中原景物迥别于荆楚矣”;至遂平、西平(今驻马店),则“殊异三楚膏华”;行至直隶一境,则“车马往来,沙尘如飞”[]。这是走的在武昌渡长江转陆路,取道河南、河北(直隶)入燕京的路线。

越南古典名著《金云翘传》的作者阮攸也曾充任北使,于嘉庆十八年(1813)使清。其《北行杂录》收汉诗132首,基本上是按行程编排,大都从诗题即可推知行经地,他走的也是西线,其行程可分为四个阶段,每一阶段都留下诗若干首。

第一阶段为第1首《升龙》(今河内市)至第7首,系在越南境内的诗歌,为数寥寥,可视为“北行”序曲。

第二阶段为第8首《镇南关》至第23首,这10多首是咏“粤西”情事的一组诗。此段行程长,与湖南境内相当,但比较之下作诗并不多,只有“湖湘诗”的约三分之一。

第三阶段是第24首《苍梧即事》至第64首《岳阳楼》。诗作数量显著增加。这40多首诗,除少数几首似编排错乱外,余皆为在湖南境内咏得的“湖湘诗”。如《苍梧即事》就是行经永州遥想虞舜南巡病逝九嶷、娥皇女英泪洒斑竹的:“虞帝南巡更不还,二妃洒泪竹成斑。悠悠陈迹千年上,历历群书一望间。新潦初添三尺水,浮云不辨九疑山。寻声遥谢琵琶语,千里青衫不耐寒。”接下来有《苍梧暮雨》(第25首)、《苍梧竹枝词》(组诗,从第26首直至第40首)、《永州柳子厚故宅》(第50首)、《湘江夜泊》(第55首)、《湘潭吊三闾大夫》(第56首)、《长沙贾太傅》(第60首)、《湘阴夜》(第61首)等。

第四阶段是第65首《汉阳晚眺》至第132首《舟发》。这60多首诗是渡长江北上和后来又南返的途中所作,前后两首就是在汉阳一往一返时的感怀,前者(《汉阳晚眺》)有句云“龟鹤两山相对岸,神仙一去只空楼”,后者(《舟发》)亦有“鹤楼成咏处,白云空悠悠”句。中间则有《信阳即事》(第72首)、《旧许都》(第85首)、《邯郸即事》(第94首)、《荆柯故里》(第101首)、《孟子祠古柳》(第113首)等咏西线文史胜迹的诗。而末了《舟发》中“便从江汉口,来泛洞庭舟。人比来时瘦,江同去日秋”等句则提示了回程即将重蹈的湖湘行脚[]。此阶段的诗比“湖湘诗”约多出三分之一,但这是湖北、河南、河北还有京畿地区所作诗歌的总和。

越南北使使程所费时日,东西两线大致相仿。以阮輝莹走的东线为例,如果将其往返镇南关作为上下时限——乾隆三十一年正月十九日往,乾隆三十二年十月二十四日返,则一个周程历时约一年零九个月(包含一个闰七月)。其间往返行经湖南的时间约为四个月:去程是头年五月三十日由全州进入湘南,七月二十日到达湘北的岳阳,八月初四到汉口,抛头续尾在湖南境内的时间应该将近两个月;回程是翌年五月二十六日到武昌,六月二十五日到岳阳,七月二十五日到湘阴,闰七月初八到衡阳,八月初四到桂林,在湖南境内的时间应该超过两个月,大概因为回程是逆水,故所需时日略长。总之,越南北使在中国境内的一个周程中约有四个月也即约四分之一的时间是“耗”在湖湘地界,或者浪漫地说,是“泛舟于湘江和洞庭湖之上”。当然其中还包括因使交事务或天气情况而在沿途滞留停歇的时日。

越南北使在湖湘境内的“浪迹江湖之旅”很可以称为“诗歌丰产之旅”。古时文人于舟车羁旅途中,正可以纵情遐思,最能够产生诗文。欧阳修《归田录》尝谓:“余平生所作文章,多在三上,乃马上、枕上、厕上也。盖惟此尤可以属思尔。”康有为也有类似经验,说自己志在经世之学,“不能雕肝呕肺以为诗人”,之所以也有不菲的诗作,乃是在“船唇马背,野店驿亭,不暇为学”的情况下游弋诗情所得[]。或许正是因此,近千年间南来北往络绎不绝的越南北使“泛舟于湘江和洞庭湖之上”,在湖南羁旅途中的“船唇马背”吟咏出了难以胜数的诗歌。其中有的是驱遣闲愁消磨时日的产物,如阮思僩《燕轺诗文集》中的《船户文国仁以江路闲无事乞作长歌书以与之》、阮文超《方亭万里集》中《北风寒雨靖港停舟二日闷作》等;有的则是钟灵毓秀的湖湘人文文化、自然景观激发起越南北使的诗兴和才情的结果,如嘉庆朝使清的黎光定,其《华原诗草》中就有《潇湘舟行杂兴四首》,乃分别咏潇湘舟行中的夜酒兴、朝画兴、午茶兴、晚诗兴,再如道光五年使清的黄碧山《北游集》中的《自长沙进发江水连天远峰浓碧万帆挂白列树如烟洲渚苍茫宛似蓬壶别胜楚山楚水真是大观》,这个长达39字的诗题已经宛如一幅巨画,诗人为湘江之上“江水连天,远峰浓碧,万帆挂白,列树如烟,洲渚苍茫,宛似蓬壶别胜”的“楚山楚水”景观所鼓荡起来的豪情逸兴跃然纸上。此类由积极情绪促生的诗歌,总的说来所占比重要多。

 

二、越南北使对湖湘风物的吟咏

越南北使的“湖湘诗”总数有多少迄今尚不清,但借助下面两个情况可作管窥蠡测。其一,湖南科技学院濂溪研究所主任张京华教授有一个特定范围内的“盘点”数据:“复旦大学文史研究院、越南汉喃研究院合编《越南汉文燕行文献集成(越南所藏编)》,收录1419世纪越南使者53人共计79部著作……其中湖南、潇湘的诗作总量多达700馀首。”[]这里说的700馀首,凡同一诗题的“组诗”,不论包含多少首诗,均只计1首,如乾隆二十七年(1762)使清的黎贵惇的《潇湘百咏》,包括七言绝句100首,他还有《济洞庭湖绝句三十首》,却都只在总量中作1首计,“组诗”是频繁出现的,若拆展计数,则该《越南汉文燕行文献集成(越南所藏编)》中的“湖湘诗”总量大大超过甚至数倍于700余首。而该《集成》远未囊括全部越南北使汉诗。其二,上引阮攸《北行杂录》收132首诗,从第24首《苍梧即事》至第64首《岳阳楼》,这40余首诗大体都是“湖湘诗”,在阮攸此行所作全部汉诗中占将近三分之一。由这两个情况即不难想见,由于行经湖南境内的时间长、空间广,湖湘文化又蕴藉深厚,而泛舟于湘江、洞庭湖之上又“尤可属思于诗”等原因,使越南北使创作了蔚为大观的“湖湘诗”。

越南北使的“湖湘诗”主要有叙景诗、感怀诗、记事诗三类。记事者不多,但饶有意味。如黎贵惇的《桂堂诗汇选》中有记岳阳君山僧人赠柚子、赠茶的诗,黎光院《华程偶笔录》中有由头类似白居易《琵琶行》的《闻邻船理筝》诗等。记事温馨有趣者莫如道光年间曾两次使清的张好合《梦梅亭诗草》中的《余船回到长沙省时旧船户周光萱到来参见且有相恋之情余亦情感劝酒之后以诗留别》;而具“重大时事”意义者则要算同治九年(1870)使清的范熙亮记曾国藩驾鹤西去的《闻曾相公哀信》和嘉庆二十四年(1819)北使丁翔甫的《湘南湘潭多有江西客其地夏初相斗杀伤殆七百数中兴至此爰述所闻》,后者是记述其时在湘潭发生的江西客商与本地原住民聚众械斗以致死伤700余人惨剧的,“中兴至此爰述所闻”云云显然对嘉庆朝治象语带讽刺。

感怀诗数量多,皆为对湖湘历史名人、人文胜迹有所感而抒怀,大抵或追念迁客之思、逐臣之怨,或表露崇敬之意、仰慕之情,或赞叹人文之富盛、风物之华瞻,表现出越使对中国文史的相当熟稔,堪称显示才学和展露襟怀相结合的产物。缅怀最多的历史名人是屈原、贾谊、柳宗元、周敦颐,特别是屈、贾,十之七八都要咏及,如阮攸咏屈原、贾谊、柳宗元的几首七律:“好修人去二千载,此地犹闻兰芷香。宗国三年悲放逐,楚辞万古擅文章。鱼龙江上无残骨,杜若洲边有众芳。极目伤心何处是,秋风蔡木过沉湘。”(《湘潭吊三闾大夫》)“绛灌武人何所知,孝文澹泊惮更为。立谈不展平生学,事职何妨至死悲。天降奇才无用处,日斜异物有来时。湘潭咫尺相邻近,千古相逢雨不违。”(《长沙贾太傅》)“衡岭浮云潇水波,柳州故宅此非耶。一身斥逐六千里,千古文章八大家。血指汗颜诚苦矣,清溪嘉木奈愚何。壮年我亦为材者,白发秋风空自磋。”(《永州柳子厚故宅》)阮攸在越南士子中属于才高命薄者,他使清是在越南易主之际迫于新朝压力不得已为之,不难看出,在这些诗歌里,他对中国古德先贤景行亮节的崇仰、坎坷命运的慨叹与自己“壮年我亦为材者”的自诩、“白发秋风空自磋”的感喟是糅合在一起的。

吟咏最多的人文胜迹则是九嶷山、浯溪、回雁峰、岳阳楼等,岳阳楼几可谓无人不有诗。如吴士栋《登岳阳楼》:“百尺危楼耸汉孤,背撑巴岳面重湖。宋儒文在光千丈,仙迹梅留画一株。俯视亭台尘外境,退观云水眼中图。昌翁醉后谁飞渡,远浦纷纷泛舶舻。”诗中“宋儒文在光千丈”系指范仲淹的《岳阳楼记》;而“仙迹梅留画一株”则指明崇祯年间在维修岳阳楼时,从地下挖出一块石板,上有“枯梅花纹,时人称为仙迹,后建一亭曰:召仙梅亭”。

叙景诗也很多,且佳作频出。此类诗与上述咏人文胜迹诗的区别是,多着眼于自然山水景致,审“美”意识更强。此类诗既有豪放的也有婉约的。且看阮攸的《湘江夜泊》:“一去六十里,悠悠江水长。浮云连五岭,明月会三湘。别浦分新色,遥空失故乡。鹤来人不见,晚树郁苍苍。”写得清新妩媚,又略带几分缠绵悱恻,有婉约风格。而段阮俶的《过洞庭湖》则气象宏大:“岸连云色水连空,水色云光望莫穷。天地此间何旷漠,波涛终古自冲融。荆南楼橹青冥外,岳北帆樯杳霭中。白苇黄茅何处远,飞过谁是朗吟翁。”阮翘的《洞庭》也气象不凡:“涵虚凝一混茫间,四望玲珑海藏宽。红日东西乘巨浪,君山南北障狂澜。嫦帆万叶人千里,碧水三秋月一团。浩荡最堪娱目处,岳阳楼上倚阑干。”都写出了洞庭湖水天辽阔无比壮观的浩淼气势。

叙景诗中的绝妙佳什要算黎贵惇的《永州初秋闲望集古》二首,该诗从中国历代诗歌中拈取成句来描叙诗人亲炙的永州风光,对“汉诗”如数家珍而且牵合熨帖,令人拍案称奇。其一:

6 U) s, W! W$ b/ N5 |9 p9 X何处秋风至,村墟乃尔凉。庄烟纷漠漠,山树郁苍苍。

夕露晴初湿,溪沙晚更光。启涂情已缅,远思满潇湘。

这八句诗依次出自中唐刘禹锡、南宋陆游、南朝谢朓、三国曹植、盛唐杜甫、北宋寇准、东晋陶渊明、中唐司空曙八人,所出之原作有五绝、五律、五古等多种体裁,却被调理得浑然一体,宛如天作之合。其二亦然:“江馆迢遥处(朱庆余),清秋思不穷(高适)。霜威变绿树(沈佺期),日气抱残虹(杜审言)。远岸谁家柳(刘长卿),深山何处钟(王维)。乾坤万里眼(杜甫),野艇几西东(赵嘏)。”[11]一幅幅诗意葱茏的画面写照出诗人游目所见的“永州初秋”景色,也透出淡淡的迁客之愁。

叙景诗中特别值得注意的是有关“潇湘八景”的诗歌。“潇湘八景”是中国古典诗画中频繁出现的题材,盛名远播,约从十一二世纪起成为东亚文化圈里辗转称誉的审美-艺术景观,后来还影响到西方,英美意象派诗歌领袖庞德就有诗咏及“潇湘八景”[12]。“潇湘”作为地理名词就是指称湖南。潇湘山水在中国审美-艺术文化中很早就成为风景佳胜的代称,频繁出现在诗歌、绘画中,尤以北宋画家宋迪所绘之潇湘山水对后世影响最大,沈括《梦溪笔谈》载:“度支员外郎宋迪工画,尤善平远山水,其得意者有《平沙落雁》、《远浦归帆》、《山市晴岚》、《江天暮雪》、《洞庭秋月》、《潇湘夜雨》、《烟寺晚钟》、《渔村夕照》,谓之八景,好事者多传之。”一般认为,若按实景来源,“潇湘八景”自南而北依次为:潇湘夜雨——永州城东二水合流处景观;平沙落雁——衡阳回雁峰景观;烟寺晚钟——衡山城北清凉寺景观;山市晴岚——湘潭境内兀立湘江之滨的昭山景观;江天暮雪——长沙湘江橘子洲景观;远浦归帆——湘阴城湘江汇入洞庭湖处景观;洞庭秋月——岳阳洞庭湖景观;渔村夕照——常德桃源西洞庭湖白鳞洲景观。“潇湘八景”实为湘江流域和洞庭湖上因地理情势和晨昏四季、雨雪阴晴的变化而呈现的八种类型的自然美景(个别兼有人文景象),分别以朦胧、渺远、清奇、明媚、疏朗、辽阔、静谧、闲适等为风格特征。不过其来源与景象也不必一一坐实。

约在唐宋以后,“潇湘八景”逐渐衍变为中国古典意境美的极致,成为审美-艺术文化中的“典型概念”而在中国周边的越南、日本、朝鲜等国流布。台湾学者衣若芬博士对“潇湘八景”做过深入的文化研究和跨国考察,认为“就实质地理区域而言,‘潇湘’指的是湖南一带;然而自先秦以迄唐宋,以‘潇湘’为背景或对象的文学作品,已经将‘潇湘’母题‘概念化’与‘典故化’”[13];“原本意指中国湖南地方的文化语汇,透过汉字与水墨画的视觉印象,跨越了地理空间及民族差异,展现了东亚文明中的自然、人文观念与审美意识”[14]。这些见地笔者深以为然。但是,衣若芬博士认为“潇湘八景”在越南受到的关注远不如日、韩——“同样属于‘汉字文化圈’的越南,也有关于‘潇湘八景’的诗文……总体而观,越南的‘潇湘八景’作品数量与内涵远逊于日本和韩国”[15],这一结论笔者以为值得商榷。

“潇湘八景”在越南官方主导的文化中享有盛誉,越南科举考试必考汉诗(近体诗)写作,吴高浪《历朝杂记》中记载,越南科考中竟然出过“潇湘八景”的考题:“1715年秋天,士望科试以‘潇湘八景’为题,‘兼’韵,七言律体”。越南古典文学史上两大名家邓陈琨和阮攸都有吟咏“潇湘”的作品。邓陈琨作有《题潇湘八景图诗抄》,其被誉为“高情逸调霸词林”的长诗《征妇吟曲》中有诗句云:“归去两回顾,云青兮山苍。郎顾妾兮咸阳,妾顾郎兮潇湘。潇湘烟阻咸阳树,咸阳树隔潇湘江。相顾不相见,青青陌上桑……望君何所见,河水曲如钩。长空数点雁,远浦一归舟”,这里的意境显然来自“潇湘八景”。阮攸《金云翘传》第二回的开篇词中也指涉潇湘:“流落等飘烟,东西实可怜,背影偷弹血,逢人强取怜……青楼朱箔知音少,辜负潇湘一段缘”。可以说,作为审美文化领域里的“典型概念”,“潇湘八景”在越南文坛比在日、韩更深入人心。

这里还必须考虑到的是:对日、韩文人而言,“潇湘八景”大都是出自“传闻”与“想象”,而对大量曾充任北使的越南文人而言,则是得之于在潇湘旅程中的“历览”和“亲炙”。在只能“遥想”的日、韩文人那里,“潇湘”之美是附丽于“八景”之题的,而对“亲炙”湖湘山水的越南北使而言,“潇湘”流域和洞庭湖上实随处可遇“八景”之美。前者是“缘题得美”,后者则是“得美忘题”。故而认真说来,越南北使的“湖湘叙景诗”,大部分就是广义的“潇湘八景”诗或者说未冠“潇湘八景”题的“潇湘八景”诗,也可以说“潇湘八景”诗就是“湖湘美景”诗。以《越南汉文燕行文献集成(越南所藏编)》中的“湖湘诗”为例,在诗题中即标示出“潇湘八景”者仅有潘辉注的《潇湘八景咏并序》(含诗八首,词八阙)。但诗题指涉“潇湘”者很多,如《潇湘夜泊》、《潇湘纪胜》、《过潇湘合流江口》、《潇湘晴泛》、《十月望潇湘》、《潇湘舟行》等,这些其实都是品位纯正有实无名的“潇湘八景”诗。如曾出使明朝的阮宗奎,其《使华丛咏集》中的《潇湘晚眺》其实就是“潇湘夜雨”:“江国春余夕照中,村村烟缕袅层空。云遮翠蟆山将雨,波鼓青鳞岸欲风。天近雾笼怀素塔,祠深树锁禹皇宫。数声渔笛扁舟晚,远水长天思莫穷。”乾隆年间两次使清的阮偍,其《华程消遣集》有“湖湘诗”21首,除7首属感怀、记事诗外,余14首都是叙景诗,如《早憩永州府城纪胜》、《月夜度湘潭》、《湘阴晓景》、《岳城夜雨》、《洞庭晓望》等,实皆为“潇湘八景”诗。其他北使的“湖湘叙景诗”大都可作如是观。事实上,在包括中国自身在内的国度里,以连续性和稳定性言之,与“潇湘山水”有着最直接最密切的“因缘”和“情分”的文人群落就是越南北使,越南北使的“湖湘叙景诗”大都就是“潇湘八景”诗。故而越南的“潇湘八景”诗绝非在“数量与内涵”上都“远逊于”日、韩等国,它们与日、韩等国的同类诗歌一道,构成了中古东亚文化圈里引人注目的文学景观,学界应当重视、加强对它们的研究。

 

三、越南北使与湖湘文士的唱和

越南北使以外交使节身份而充当了中越文学交流的主力。这种交流最常见的方式就是同中国文人仕宦唱和酬酢以及互相为诗文集作序题跋。由于湖湘文化从宋元以来日益兴旺发达,到清代更饮誉海内,越南北使颇热衷同湖湘文士(指籍贯湖南的文人仕宦)交游,中越文人结下了雅文深致的湖湘“文字缘”。据笔者所见的材料,同越南使臣交谊较深的湖湘文士有劳崇光、王先谦、李辅耀、杨恩寿、郭嵩焘、黄自元、王闿运、盛锡吾等。前四者特别是杨恩寿所留佳话甚多。

劳崇光(1802-1867),是晚清湖南籍名臣,善化(今长沙市)人,字辛陔,道光间进士,官至云贵总督、广西巡抚。他曾接待越使,也曾出使越南。其《劳崇光诗草·南国风雅统编序》中说:

越南四年两贡并进,使臣中途纪行,及与华人相投赠之作,亦传播人口,而莫由窥全豹也。道光己酉岁,余奉天子命,宣封越南,请封陪臣阮君,暨贡使潘君靖、枚君德常、阮君文超先后过桂林,来相谒见,皆以所作诗为贽。其诗皆雅驯可诵。……亟受而读之,清奇浓淡,不拘一格。或抒写性灵,或流连景物,或模山范海,论古怀人,佳篇好句,美不胜收,其中杰构居然登中华作者之堂而浸浸及于古

盛赞越南诗人“佳篇好句,美不胜收。其中杰构居然登中华作者之堂而浸浸及于古”。劳崇光在越南文人中有崇高声望,越南阮朝绥理王阮绵寊(苇野)在《循陔别墅诗合集》“序”中曰:“兄仓山先生诗冠冕一代,劳公崇光称为仓山一老,式是南邦。劳公清国钦使,中原第一流人也,四方艺苑,闻者无异辞焉。”此处绵寊所称“兄仓山”即阮朝从善王阮绵审。仓山曾嘱北使将自己的《仓山诗钞》送呈时任广西巡抚的劳崇光作序[16],其《仓山诗话》中对此有详细记述:

  徐师川《题于生画》云:“故山黄叶下,梦境白鸥前。”胡仔《苕溪渔隐丛话》以为集中好句,余《秋怀和元遗山韵》,五六曰“宾客病多黄叶散,江湖计晚白鸥惊”。劳辛陔先生评之曰:“遗山复起,当引为同调。”后余投以小诗,索其题扇次韵,报之诗云,“夜阑人静烛花残,把卷披吟释手难,诵到白鸥黄叶句,古怀萧瑟带秋寒。”至作集序,犹津津言之,不胜天涯知己之感。

《仓山诗话》中又云:

  余晚泊诗:“夕阳明细雨,落叶洒孤舟。”偶然拈得,自谓写景入神。而“明”字“洒”字,疑非力所能也。劳辛陔亦甚嗟赏。

劳崇光与越南诗人有唱和,见于《越南辑略》卷2《文学》中。该卷收有劳氏与越南诗人唱和诗共七首,另有越南官员魏克循送别劳氏的诗作二首,每一首都有劳崇光的批语。

王先谦(18421917),晚清大臣,湖南长沙人,字益吾,晚号葵园,世称葵园先生,是著名的湘绅领袖、湘学泰斗,同治四年进士,曾任国子监祭酒、江苏学政,中年辞官归里,潜心讲学,任长沙城南书院、岳麓书院山长。由于越南北使阮述的牵缀,王先谦读到上述仓山之弟苇野的诗文,作《苇野诗文合钞序》,评曰:

光绪七年越南阮君述来京师,以其国《苇野诗文合集》视余,苇野者,仓山之弟也。仓山工为诗,中国见者靡不叹异。苇野诗至,见仓山诗者咸惊,谓不亚仓山。余尤喜重其文,如《黄钟为万事根本论》、《春王正月辨》诸作。

王先谦与越南北使阮述的这次会晤在黄自元(亦为晚清名臣硕学,湖南安化人)为越南诗人范富庶《蔗园全集》所作的“序”中也有记载:

光绪辛巳夏,越南贡使阮君述集吾乡王祭酒先谦邸第,出其师范君富庶《蔗园诗集》四卷属余为叙。

李辅耀(1848-1916),字幼梅,湘阴人。其祖父李星沅为清代大臣,官至兵部尚书、两江总督,归田后建“芋园”,时号长沙第一大宅。李辅耀本人曾任浙江候补道,博学,工诗,善书画,在当时文坛很活跃,与越南、日本(可能还有朝鲜)的一些文人都有交谊。何仟年《越中典籍中的两国诗人交往》中说:

王先谦《虚受堂诗》卷十三有诗题《越南贡使阮思书卷为李幼梅题》,原注曰:‘阮早过长沙,与幼梅相得,寄题此卷。’而王氏《虚受堂文集》则保留了《苇野诗文合钞序》。充当阮思与王先谦中间人的李幼梅(辅耀)在他的《玩止水斋遗稿》中也有八首诗与越南诗人唱和次韵,涉及越南诗人范晦叔、阮思(洵叔)、裴(即裴文,字殷年)、林宏(丛之)、黎吉(仲蔼)五人。卷3另一首诗则是因为日本村山节南为阮洵叔诗札题词而作的答谢。可见李幼梅不仅为越南作者题序,也利用自己的交往请日本诗人为越南朋友的作品题序。从李辅耀的这些诗及题下自注看,李氏与越南使者的交往不止一次,时间延续多年。

    李辅耀确实同众多越南北使有长久交谊。阮思僩《燕轺诗文集》中有《题扇赠湘阴李辅燿》、《和答李幼梅投赠元韵二首》、《寄陈左卿徐虚竹彭渔陔李幼梅并柬》等。范熙亮《北溟雏羽偶录》中有《酬赠李辅燿公子》、《江村即事叠幼梅前韵却寄》等。裴文禩《万里行吟》中有《偶游芋园题赠》、《李幼梅舍人投赠以诗即赋答复》等。而李辅耀也有《次韵答谢越南范晦叔》、《殷年来游芋园有诗依韵答之》、《赠越南使臣裴殷年宗伯》等很多赠和越南北使友人的诗作。

杨恩寿(1835-1891),字鹤俦,名坦园,湖南长沙人,晚清著名诗人、戏曲家,才高望重,甚得时人称许,但其科举不利,仕途亦不顺,只任过湖北盐运使,湖北候补知府等。光绪二年(越南嗣德二十九年,1876)越南裴文禩使清,杨恩寿充任湖北境内的伴送官,两人相处“二月二十有三日”,作诗酬唱共106首,后由杨恩寿汇刻为《雉舟酬唱集》,二人还互为对方的诗文作序。裴、杨二人的“文字缘”,是越南北使与湖湘文士在自由而充分的交游酬酢中开放出来的奇葩。[17]

杨恩寿在《雉舟酬唱集自叙》中概括了伴送裴文禩的过程:

  恩寿承乏接伴使臣,迎至巴陵,送至信阳,循旧章也。光绪丁丑正月二十日,使臣泊巴陵,始相见岳阳楼下。东涉汉阳,遵陆北上,经大复山,遂与使臣别。是为二月二十有三日也。[18]

二人在岳阳的初次会面,杨恩寿形容:言语不通,初无介绍,徒以彼此于役,循例修相见礼。见则如旧相识,不作寒暄语,遽以诗相赠答[19]。裴文禩能书汉字,通汉文,却不会说汉话,二人交流依靠“抻纸笔谈”。而之所以“见则如旧相识”,则是因为杨恩寿前此(同治八年,1869)曾与途经长沙的越使阮思僩有交情[20],而裴文禩同阮思僩又恰为好友,缘此二人遂一见如故。杨恩寿作诗遥寄阮思僩,并以此诗赠示裴文禩,裴当下次韵和诗,“不移晷而至,敏而且工”[21]。这令杨恩寿始料不及,不甘示弱,迅即亦和,而裴文禩叠韵再和之作又旋踵即至。两人见面第一次的快速赠答, 揭开了后续旅程中一路酬唱的序幕。举凡晴雨行宿,揽胜怀古,无不付诸唱和,甚至连偶染疾病都以诗歌互相雅噱。“中间或以事冗或以病谢,恒三四日不见。顾见必有诗责和,严且急,从未至逾夕无报章者”[22]。如此直到抵达信阳伴送结束两人分手时,共作诗106首,其中裴文禩40多首,杨恩寿50多首。二人唱和的诗歌题目共三十六个,其中行役诗十题,主要写天气行程等,如裴文禩首唱的《岳州阻风有感》;景物诗七题,写沿途风景胜迹,如裴文禩首唱的《月夜泛洞庭》;怀古诗九题,写沿途古人史迹,如杨恩寿首唱的《鹦鹉洲吊弥处士》;赠答诗十题,主要是与沿途官员的酬酢,如裴文禩首唱的《呈孙琴西、方伯衣言》。一部《雉舟酬唱集》,生动地反映了越南使臣与中国伴送官在旅途中的文学交游形态。

翌年(光绪三年,1877)九月裴文禩完成使命回国,重返汉阳时杨恩寿从武昌渡江探望,这既是二人的小别重逢却又行将天涯远别,场面十分感人,杨恩寿记述:

重阳前一日,侍郎(裴文——引者注)觐还,泊舟睛川……召余至则握手殷殷,抻纸笔谈,叙契阔数百言,出近作诗稿,狼藉满客几,并以逊庵集索序。舟子促解维,难乎为别,命酒痛饮,即席成长篇,泪潜潜随笔下。[23]

二人互托互诺,裴文禩为杨恩寿的诗集《坦园诗录》和戏曲理论《词余丛话》作序;杨恩寿则为裴文禩的诗集《逊庵集》作序。

裴、杨二人的“文字缘”一直延续到光绪七年(1881)前后。杨恩寿该年有诗《越南裴殷年寄赠名香、上桂,国王从父绥里王苇野老人以诗见赠,有“识曲翻从海外论”之句,即以为韵,寄殷年并答苇野》,题下共七首诗,前四首是回顾与裴文禩的交游和情谊的,后三首是对苇野诗作的褒扬。苇野为裴文禩诗友,与杨恩寿未曾谋面,他之所以赠诗给杨恩寿,显然是从裴文禩处得知杨恩寿其人,慕名神交。这七首诗后被作为“序诗”收入《苇野合集》[24]。由此可见,裴文禩与杨恩寿的“文字缘”还有扩散放射式影响。光绪十年(1889)法国迫使越南签订《顺化条约》,中国与越南的宗藩关系至此彻底解体。裴文禩与杨恩寿的“文字缘”遂成为两国使臣之间同时也是越南北使与湖湘文士之间文学交游的绝唱!

上述劳崇光、王先谦、李辅耀、杨恩寿等人同越南北使的交游,只是显山露水的情况。乾隆七年、十三年两次使清的阮宗窐《使程诗集》中记载了两桩轶事:“到长沙城内,居士王允猷迎来,书札求观诗稿,并录呈他诗三首请教”;“舟将进发时,湘上渔人陈芸来呈诗藁四章,且云:‘昨者途遇王同乡,袖出巨公前后和什,捧读之馀,殊深仰慕,亦拟次第拜藁,知解缆在即,不及续全貂矣。聊和赠行四韵,用志景行,馀待旌旋补请大教。’观其诗并语,高出王允猷之上。意非渔者,特高士不欲露绽耳”。这里的居士王允猷和自称“渔人”却被阮宗窐推测为“意非渔者,特高士不欲露绽耳”的陈芸,皆非官员,名不见经传,事迹待考。由此可以想见当时越南北使与湖湘文士的交游酬酢,其深入广泛的程度超出我们的想象,还有大量这方面人事有待发掘。

 



[] 本文所谓“湖湘诗”,专指越南北使所作的与湖湘行旅、湖湘风物、湖湘文史有关的汉诗。

[] 关于该课题研究,笔者所见仅湖南科技学院濂溪研究所主任张京华教授发表过一篇论文:《从越南看湖南——〈越南汉文燕行文献集成〉湖南诗提要》,《湖南科技学院学报》2011年第3期。

[] 这里所谓正常比例指华程诗总量按越使经过的中国省区折算得出的平均数。

[] 张京华:《从越南看湖南——〈越南汉文燕行文献集成〉湖南诗提要》,《湖南科技学院学报》2011年第3期。

[] 【中】《越南汉文燕行文献集成(越南所藏编)》,复旦大学出版社,2010年,第3册,第109~110页、120~121页。

[] 【中】《越南汉文燕行文献集成(越南所藏编)》,复旦大学出版社,2010年,第3册,第159页。

[] 【中】《越南汉文燕行文献集成(越南所藏编)》,复旦大学出版社,2010年,第11册,第98~100页、第141页。

[] 参见孔士觉博士论文《古越汉诗史述及文本辑考》,华东师范大学,2006年,第350页至第367页附录的阮攸《北行杂录》。

[] 康有为:《诗集自序》。转引自郭绍虞主编《中国历代文论选(第4册)》,上海古籍出版社,1980年,第189页。

[] 张京华:《从越南看湖南——〈越南汉文燕行文献集成〉湖南诗提要》,《湖南科技学院学报》2011年第3期。

[11] 参见温祖荫《越南汉诗与中华文化》,《福建师范大学学报》1989年第4期。

[12] 蒋洪新《庞德的〈七湖诗章〉与潇湘八景》,《外国文学评论》2006年第3期。

[13] 衣若芬《高丽文人李仁老、陈澕与中国“潇湘八景”诗画之东传》,《中国学术:总第16辑》,商务印书馆,2003年。

[14] 衣若芬《潇湘八景:诗书意象的再生与越界》,新加坡南洋理工大学中华语言文化中心讲座,2006322日。

[15] 衣若芬《高丽文人李仁老、陈澕与中国“潇湘八景”诗画之东传》,《中国学术:总第16辑》,商务印书馆,2003年。

[16] 刘玉珺博士论文《越南汉喃古籍的文献学研究》,扬州大学,2005年,第166页。

[17] 参见张宇《越南贡使与中国伴送官的文学交游》,《学术探索》2010年第4期。

[18] 杨恩寿《坦园全集》,光绪间杨氏家刻本,第1页。

[19] 杨恩寿《坦园全集》,光绪间杨氏家刻本,第1页。

[20] 杨恩寿《坦园日记》,上海古籍出版社,1983年,第327页。

[21] 杨恩寿《坦园全集》,光绪间杨氏家刻本,第1页。

[22] 杨恩寿《坦园全集》,光绪间杨氏家刻本,第1页。

[23] 杨恩寿《坦园全集》,光绪间杨氏家刻本,第1页。

[24] 王小盾《越南汉喃文献目录提要》,台北台湾中央研究院,2002年,第721页。