23112024Sat
Last updateTue, 19 Nov 2024 1pm

Ảnh hưởng của tiểu thuyết nước ngoài đối với sự hình thành và phát triển nền tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX


·I.        Đặt vấn đề

Do hoàn cảnh lịch sử, Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX đã trở thành thuộc địa của thực dân Pháp và do đó cũng tiếp nhận văn minh, văn hóa phương Tây sớm hơn so với các vùng miền khác. Văn học ở Nam Kỳ vì thế cũng đi tiên phong trong việc hiện đại hóa, trong đó tiểu thuyết quốc ngữ là thể loại phát triển mạnh mẽ nhất.

Nhưng bên cạnh ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học của nước láng giềng Trung Quốc cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành nền tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, bởi với việc gần 1000 năm sống dưới sự thống trị của Trung Quốc, nền văn học Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ nền văn học của đất nước vốn có bề dầy truyền thống văn hóa này. Ảnh hưởng này cho tận đến đầu thế kỷ XX vẫn rất sâu đậm trong sáng tác của các nhà văn, trong công chúng độc giả và trở thành một yếu tố quan trọng trong đời sống văn học của Nam Kỳ từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

 

II.             nh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc

 

1.        Việc dịch thuật tiểu thuyết Trung Quốc

 

Tiểu thuyết Trung Quốc với truyền thống lâu đời của nó, đã có ảnh hưởng sâu sắc đến sự hình thành của tiểu thuyết Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Ảnh hưởng này được thấy rõ nhất qua phong trào dịch thuật “truyện Tàu” ra chữ quốc ngữ rất sôi nổi ở Nam Kỳ vào đầu thế kỷ XX. Phong trào dịch truyện Tàu này đã tác động rất lớn đến công chúng độc giả và trở thành một yếu tố quan trọng trong đời sống văn học của Nam Kỳ.

Trần Bạch Đằng đã nhận định về vấn đề này như sau: “Nói đến văn học thành phố Sài Gòn không thể bỏ qua một hiện tượng đã trở thành lịch sử: sự hưởng thụ “truyện Tàu” và sau này “truyện chưởng” của bộ phận quần chúng đông đảo. Tôi tin rằng mức hưởng thụ đó rộng và sâu hơn ở miền Bắc. Những Phong thần, Phong kiếm xuân thu, Tam Quốc, Thuyết Đường, Phi Long Nhạc Phi… Những Chinh Đông Tảo Bắc, Bình Tây… gần như sống trong mỗi nhà, các nhân vật Khương Trượng, Tôn Tẩn, Chung Vô Diệm, Quan Vân Trường, Trình Giảo Kim, Tiết Nhơn Quý, Địch Thanh… quen thuộc đến nỗi họ đi vào ngôn ngữ dân gian: nóng như Trương Phi, đa nghi như Tàu Tháo, trung như Nhạc Phi v.v…”.1)

Trong sự phát triển của phong trào dịch thuật truyện Tàu thời kỳ đầu có bàn tay của chính quyền thực dân nhúng vào. Năm 1872, Liraye đã cho rằng: “Người ta sẽ không chống lại việc học viết bằng mẫu tự Latinh, nếu tiếng Annam được thay thế để dịch một vài tác phẩm Trung Quốc cơ bản và cổ điển”.2) Như vậy ý đồ của thực dân trong việc dịch thuật truyện Tàu trước hết là để khuyến khích người dân bản xứ học chữ quốc ngữ.

Người đầu tiên dịch các sách Nho học ra quốc ngữ là Trương Vĩnh Ký, nhưng người dịch tác phẩm văn học Trung Quốc ra quốc ngữ đầu tiên phải kể đến Huỳnh Tịnh Của. Chuyện giải buồn (1885) của ông phần nhiều là những truyện được dịch từ các tác phẩm Trung Quốc như Cao sĩ truyện, Trang Tử, Chiến quốc sách, Liêu Trai chí dị.

Nhưng bản dịch một “truyện Tàu” hoàn chỉnh phải kể là Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm, đăng ngay trên số đầu tiên ngày 1. 8. 1901. Tên người dịch được ghi là Canavaggio, một chủ đồn điền và là thương gia người Pháp, chủ nhân báo Nông cổ mín đàm. Nhưng theo Vương Hồng Sển, người dịch chính là Lương Khắc Ninh, chủ bút của báo. Gần đây, Lưu Hồng Sơn trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9-2009, sau khi đưa ra các tiêu chí để phán đoán và loại trừ, cùng với tư liệu về các bài thơ ca ngợi tài dịch Tam quốc của Nguyễn Chánh Sắt, đã khẳng định Nguyễn Chánh Sắt mới chính là người đầu tiên dịch Tam quốc diễn nghĩa và bản dịch hoàn chỉnh dưới nhan đề Tam quốc chí tục dịch đăng dài kỳ trên Nông cổ mín đàm là công lao của Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương (Tam quốc chí tục dịch trên Nông cổ mín đàm đăng đến số 258, 20 September 1906, thì tên Canavaggio được thay bằng tên Nguyễn An Khương).

Sau Tam quốc chí, Nông cổ mín đàm còn lần lượt đăng các truyện dịch Liêu Trai chí dị, Kim cổ kỳ quan, Bao Công kỳ án...

Đội ngũ dịch “truyện Tàu” sau đó có Nguyễn Chánh Sắc, Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương, Nguyễn An Cư, Đinh Văn Đẩu, Trần Hữu Quang, Huỳnh Trí Phú..., vốn là những người tinh thông Hán học và biết chữ quốc ngữ. Họ đều là chủ bút hay phụ bút cho các tờ báo như Nông cổ mín đàm, Lục Tỉnh tân văn. Chính họ trong khoảng từ 1905 đến 1910 đã đua nhau dịch nhiều tiểu thuyết thần kỳ, anh hùng nghĩa hiệp của Trung Quốc, tạo thành một phong trào dịch “truyện Tàu”. Nguyễn An Khương, Nguyễn Chánh Sắc, Trần Phong Sắc đã được báo Phụ nữ tân văn đánh giá là “những tay dịch thuật trứ danh của Nam Kỳ”, riêng “Trần Phong Sắc là nhà dịch thuật trứ danh nhứt”. Một mình Trần Phong Sắc đã dịch đến 29 bộ truyện Tàu.

Nhìn chung, truyện Tàu được dịch ở Việt Nam có thể chia làm ba loại: loại tiểu thuyết anh hùng như La Thông tảo Bắc, Ngũ hổ bình Tây, Anh hùng náo Tam Môn Giai, Càng Long hạ Giang Nam, … Loại này chiếm số lượng rất lớn ở Nam Kỳ do phù hợp với tâm lý di dân của dân Nam Kỳ và cả người Minh Hương xa xứ. Loại thứ hai là loại tiểu thuyết kiếm hiệp như Phong kiếm xuân thu, Giang hồ nữ hiệp, Hậu Hán tam hợp bảo kiếm,… được ưa chuộng cả ở hai miền Nam Bắc. Loại thứ ba là loại tiểu thuyết tình cảm xã hội, tiểu thuyết diễm tình như Tây sương ký, Tuyết hồng lệ sử, … rất ít thấy ở Nam Kỳ trong khi lại được độc giả miền Bắc rất ưa chuộng. Tuyết hồng lệ sử chẳng hạn, đã từng làm cho người đọc xứ Bắc mê mệt đến nát ruột tan gan. Hồng Lâu Mộng cũng vậy, không thấy được dịch ở Nam Kỳ trong giai đoạn này. Nguyễn Văn Ngọc đã nhận xét: “Thực vậy, ở trong Nam thì người ta tranh nhau mà coi những Ngũ hổ bình Tây, Ngũ hổ bình Nam… còn ở ngoài Bắc thì người ta chỉ ham coi Song phượng kỳ duyên, Lục mẫu đơn”.3)

Như vậy ở Nam Kỳ, về xu hướng dịch thuật, các loại tiểu thuyết anh hùng, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết nghĩa hiệp… được dịch nhiều hơn bởi chúng phù hợp với thị hiếu và hấp dẫn độc giả hơn loại truyện tình lãng mạn, truyện tài tử giai nhân.

Việc dịch thuật này cũng có thuận lợi do nguồn sách cung cấp phong phú từ người Hoa ở Sài Gòn – Chợ Lớn. Các truyện này được in báo hoặc in thành tập. Dưới hình thức tập truyện, chúng dễ dàng phổ cập đến giới bình dân, nhờ vậy mà chữ quốc ngữ có thêm phương tiện truyền bá. Những Phong thần, Tam Quốc đều là những chuyện gần gũi với tâm hồn người bình dân, họ đàm luận với nhau về những nhân vật ấy, những gương trung hiếu tiết nghĩa rất quen thuộc ấy. Các truyện có từng chương từng hồi, tình tiết rõ ràng, do đó rất được hoan nghênh và chữ quốc ngữ cũng được ưa thích theo. Cha mẹ nhà nghèo cũng chỉ muốn cho con mình biết đọc, biết viết để đọc truyện Tàu cho nghe những khi mùa màng rảnh rỗi. Những nhà văn lão thành như Hồ Hữu Tường hay Vương Hồng Sển trong tác phẩm của mình đều có ghi lại cái thú đọc truyện Tàu này.

Đã có nhiều nhà nghiên cứu giải thích về sự hấp dẫn đặc biệt này của truyện Tàu đối với công chúng độc giả Nam Kỳ. Bằng Giang cho rằng: “Truyện Tàu tiêu thụ mạnh trong mấy năm đầu của phong trào một phần cũng vì mảnh đất sáng tác của ta hãy còn là một bãi đất trống… Truyện Tàu tung hoành được cũng do vào thời đó những phương tiện giải trí cho người dân còn hiếm hoi”.4)

Vũ Hạnh giải thích như sau : “Việc người miền Nam thích đọc truyện Tàu phải được cắt nghĩa bằng nhu cầu của họ tiếp cận với những đức tính cố hữu của họ mà họ tìm thấy trong những nhân vật tích cực của truyện: đó là trung hiếu, tiết nghĩa, trí dũng, tín lễ, cương trực, anh hùng. Truyện Tàu cho họ những cặp đối kháng như La Thành - Đơn Hùng Tín, Tần Cối - Nhạc Phi, Bàng Quyên - Tôn Tẫn, Sài Trịnh Triệu - Lưu Quan Trường…; mà họ không tìm thấy sách báo nào khác khi đó”.5)

Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh cũng nhìn việc tiếp nhận truyện Tàu ở một khía cạnh tích cực khác: “Rất nhiều truyện Tàu là những cái túi khôn, đâu phải là nhảm nhí là chính? Người miền Nam đọc truyện Tàu, thuộc truyện Tàu, lấy ra từ đó những cách ứng xử ở đời, soi vào gương tốt, răn mình bằng những gương phản diện”.6)

Vương Hồng Sển cũng nói: “Truyện Tàu dạy tôi nhiều điều xử thế nên tôi gọi nó là một nghệ thuật, chứ chẳng phải chơi… Ngoài ra truyện Tàu có nhiều gương tốt, truyện Tàu là một vùng rừng thật lớn, một biển sâu và rộng, khai thác không bao giờ hết và cạn cùng”.7)

Những nhận định này cho thấy rằng truyện Tàu đã thực sự trở thành một phần máu thịt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Nam Bộ trong thời kỳ đó và nó đã tác động không nhỏ đến khuynh hướng sáng tác của tiểu thuyết trong giai đoạn này.

Cũng cần nói thêm là Nam Kỳ còn là nơi dung thân của đông đảo người Minh Hương, tức những người Việt gốc Hoa mang tinh thần “phản Thanh phục Minh”. Những truyện dịch mang không khí tảo Bắc, chinh Tây có lẽ cũng phần nào thỏa mãn ước mơ phục quốc của họ.

Việt Nam và Trung Quốc vốn được coi là “đồng văn”, việc dịch truyện Tàu là sự tiếp nối truyền thống giao lưu văn học giữa hai nước, vừa để đáp ứng nhu cầu giải trí của công chúng. “Truyện Tàu”, với lối văn xuôi theo tiếng nói thường, với nội dung hấp dẫn, đã tỏ ra thích hợp với thị hiếu và trình độ thuởng thức của quần chúng độc giả nơi vùng đất mới này. Việc đọc truyện Tàu một thời gian dài đã thực sự trở thành một thú vui trong quần chúng nhân dân Nam Kỳ.

Nhưng việc dịch và xuất bản truyện Tàu tràn lan vì lý do thương mại, chạy theo thị hiếu của quần chúng cũng tạo nên một phản ứng tích cực sau này, đó là phong trào sáng tác những truyện văn xuôi quốc ngữ, những “kim thời tiểu thuyết” có bối cảnh là đất nước Việt Nam, con người Việt Nam, đặc biêt là tiểu thuyết lịch sử với ý hướng muốn thể hiện lịch sử dân tộc. Đó là một phản ứng của lòng tự trọng dân tộc trước sự xâm lăng của văn hóa nước ngoài, nhưng quan trọng hơn, đó là bước quẫy đạp mạnh mẽ của văn học Việt Nam để thoát ra vòng kiềm tỏa lâu đời của văn học Trung Hoa, là một nỗ lực trên bước đường hiện đại hóa của văn học Việt Nam, bước đường vượt ra khỏi ảnh hưởng của văn học khu vực để hòa nhập vào dòng chảy của văn học thế giới.

 

2.    Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc về mặt thể loại

 

Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc về mặt thể loại trước hết phải nói đến ảnh hưởng của tiểu thuyết chương hồi. Tiểu thuyết này thuộc loại hình văn hóa trung cổ, xuất hiện, định hình và phát triển trong khoảng thời gian từ giữa thế kỷ XIV đến đầu thế kỷ XIX. Thuộc thể loại tự sự văn xuôi, tiểu thuyết chương hồi xuất hiện từ lâu nhưng phát triển mạnh mẽ nhất trong thời kỳ Minh – Thanh và có thể chia làm ba loại: dân gian, bác học và thị dân. Ba loại này có tính độc lập tương đối nhưng cũng có sự giao thoa, thâm nhập lẫn nhau. Có thể tìm thấy dấu ấn của ba loại này trong các tác phẩm Tam Quốc chí, Tây Du ký… Nhìn tổng quát, tiểu thuyết chương hồi thời kỳ Minh - Thanh thuộc thể loại trung gian giữa truyện kể sử thi và tiểu thuyết hiện đại.

Tiểu thuyết chương hồi bắt nguồn từ những thoại bản. Thoại bản là những văn bản làm gốc để người kể thuật chuyện cho thính giả nghe. Đối với người kể chuyện mỗi hồi là một quyển dùng để kể trong một buổi, một kỳ hoặc một đêm. Để hấp dẫn người nghe và giúp người nghe dễ theo dõi câu chuyện, trước khi kể tiếp, người kể có mấy câu thơ giới thiệu, nhắc lại những đoạn đã kể một cách sơ lược. Kết thúc buổi kể, thường ở ngay vào chỗ gay cấn, hồi hộp nhất sẽ dừng lại ở câu “muốn biết việc thế nào xin xem hồi sau phân giải”. Vì bắt đầu từ thoại bản nên trong tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc yếu tố kể còn lưu dấu rất rõ. Những chữ “rằng” xuất hiện trong lối kể như: “Đổng Trác hỏi rằng, Trương Phi nổi giận mà rằng …” chính là dấu tích của truyện kể, khác với tiểu thuyết là để đọc thầm.

Tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc kết cấu theo trình tự thời gian đơn tuyến, xoay tròn, khép kín. Ở đây thời gian là cái trục chính để dẫn dắt sự kiện, biến cố và số phận nhân vật. Những sự kiện có trước nói trước, có sau nói sau theo đúng thời gian lịch sử. Trong loại tiểu thuyết anh hùng thời gian diễn ra thật gấp gáp, khẩn trương. Thời gian trong tiểu thuyết đời thường là dàn trải, chậm chạp. Không gian ở đây là không gian không biên giới, không phải biến động tự thân mà hầu như tĩnh tại và tác giả có thể khống chế được.

Trong tiểu thuyết Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hình thức kết cấu chương hồi có thể thấy ở các tác phẩm như Nặng gánh cang thường, Nhơn tình ấm lạnh,… của Hồ Biểu Chánh; Giọt máu chung tình, Gia long tẩu quốc… của Tân Dân Tử; Việt Nam anh kiệt, Lê triều Lý thị… của Phạm Minh Kiên. Cả  những tiểu thuyết tôn giáo trên báo Nam Kỳ địa phận phần lớn cũng đều tổ chức theo kết cấu truyền thống này. Các nhà văn vẫn sử dụng lối kết cấu theo thời gian đơn tuyến. Tiểu thuyết Trung Quốc còn chi phối cách miêu tả ngoại hình nhân vật, cách tả cảnh, tả tình… Câu văn biền ngẫu còn tồn tại khá rõ trong nhiều tác phẩm cũng cho ta thấy ảnh hưởng sâu sắc này. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, một số nhà viết tiểu thuyết Nam Bộ vẫn quan tâm nhiều hơn đến việc miêu tả hành động và ngôn ngữ của nhân vật. Về đề tài, nhiều nhà văn chú ý đến hành động của các nhân vật anh hùng, những con người nghĩa hiệp, hảo hớn, ca ngợi những con người nghĩa khí. Đó cũng là sự gặp gỡ thú vị giữa truyện Tàu và cá tính của con người Nam Bộ.

Loại truyện tài tử - giai nhân Trung Quốc cũng có ít nhiều ảnh hưởng đến nội dung cốt truyện của một số tác phẩm tiểu thuyết ở Nam Kỳ. Hình ảnh Vương Thế Trân, Nhan Khả Ái (Phan Yên ngoại sử), Võ Đông Sơ, Bạch Thu Hà (Giọt máu chung tình) v.v… rất gần gũi với loại nhân vật tài tử giai nhân của truyện Tàu.

Các nhà văn Nam Kỳ cũng chịu nhiều ảnh hưởng của tiểu thuyết bình dân Trung Quốc. Qua thống kê của Nhan Bảo, một nhà Việt Nam học người Trung Quốc, chúng ta thấy trường hợp các tiểu thuyết như Gái trả thù cha, Man hoang kiếm hiệp, Tiểu hồng bào hải thụy, Giang hồ nữ hiệp của Nguyễn Chánh Sắc;  Nhi nữ tạo anh hùng của Gabriel Võ Lộ,… thực chất cũng được dịch từ những tiểu thuyết bình dân của Trung Quốc.8) Vì thế phải hết sức cẩn trọng khi nghiên cứu các tác phẩm của giai đoạn này, hầu tránh việc gán ghép không chính xác những tác phẩm dịch hoặc mô phỏng, phóng tác từ tiểu thuyết Trung Quốc cho các tác giả Việt Nam.

Nhưng không chỉ có tiểu thuyết cổ điển, tiểu thuyết hiện đại của Trung Quốc cũng đã kịp ảnh hưởng đến tiểu thuyết Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Lê Hoằng Mưu đã thú nhận điều này trên Lục Tỉnh Tân Văn số 1941 ngày 2.2.1925: “Tiểu thuyết Hoan hỉ kỳ oan này chẳng trọn ở tôi bày đặt. Trừ các bộ tiểu thuyết ở tôi làm ra, truyện này vẫn là tiểu thuyết kim thời của Trung Huê cách mạng. Xem qua thật là phong tình xằng xịu nhởm nhúa lắm, trong xứ ta chưa có bộ tiểu thuyết nào dám bì. Nhưng bởi trong có nhiều khúc chiết éo le, lại cũng có vay trả nhãn tiền và có thói tục đàn bà. Nên muốn có tiểu thuyết khác ý tôi viết để độc giả mua vui trong canh vắng tôi mượn tạm bộ tiểu thuyết này chế giảm và sửa tình cảnh lại chút ít hiến chư tôn nhàn duyệt.”

Hoan hỉ kỳ oan được đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn là một tên gọi khác của Người bán ngọc, một tác phẩm đã được nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung đánh giá rất cao, bởi cho đây là một tiểu thuyết có nhiều dáng dấp hiện đại trong việc xây dựng một cốt truyện ly kỳ, hấp dẫn, xen lẫn những trang miêu tả tình yêu sắc dục với những tình tiết án mạng và phá án. Nhà văn đã có những thao tác miêu tả tâm lý nhân vật, đi sâu vào nội tâm nhân vật, để từ đó tính cách nhân vật hiện lên một cách rõ rệt.9)

Nhưng như đã nói ở trên, Người bán ngọc chỉ là một tác phẩm phóng tác. Qua tư liệu chúng tôi mới tìm được, tác phẩm mà Lê Hoằng Mưu dựa vào để phóng tác có thể là Hương Thái Căn cải trang gian dâm mệnh phụ của Tây Hồ ngư ẩn chủ nhân đời Thanh.10) Tác phẩm này từng được đoàn sứ thần do Lê Quý Đôn làm Phó sứ, mua, đọc và mang về nước trong trong chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1762. Tài năng của Lê Hoằng Mưu là từ cốt truyện của một tác phẩm vỏn vẹn 23 trang đã xây dựng được thành một tiểu thuyết phức tạp với sự miêu tả, phân tích tâm lý tinh tế, sâu sắc dày đến gần 200 trang.

 

 

III. Ảnh hưởng của tiểu thuyết Phương Tây

 

1.          Việc dịch thuật tiểu thuyết phương Tây

 

Tiểu thuyết phương Tây, đặc biệt là tiểu thuyết Pháp đã được dịch ra quốc ngữ và xuất bản ở Nam Kỳ khá sớm, hơn cả tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc. Từ năm 1884 Trương Minh Ký đã dịch cuốn Truyện Phansa diễn ra quốc ngữ, dịch cuốn Riche et Pauvre (Phú bần truyện diễn ca) đăng ở Gia Định báo, từ số 47, ngày 22-11-1884. Năm 1887 ông dịch cuốn Les aventures de Telemaque của Fenelon (Chuyện Tê Lê Mặc gặp tình cờ). Bản dịch này bằng văn vần, theo thể thơ lục bát. Năm 1886, Truyện Robinson (tức Robinson Crusoe) được dịch ra quốc ngữ và đăng ở Gia Định báo (số 6, ngày 24-4 –1886). Cuối thế kỷ XIX còn có Trần Nguyên Hanh dịch Les conseils du Père Vincent (Gia huấn của lão Vincent).

Đến đầu thế kỷ XX, sự xuất hiện của những tờ báo có uy tín như Nông cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Đông Pháp thời báo, Nam Kỳ địa phận,… đã góp phần rất lớn trong việc đưa các bản dịch tiểu thuyết phương Tây đến tay công chúng một cách sâu rộng hơn.

Trên Lục Tỉnh tân vănLe Comte de Monte Cristo (Tiền căn báo hậu - 1907), Les trois mousquetaires (Ba người ngự lâm pháo thủ - 1914) của Alexandre Dumas, do Trần Chánh Chiếu dịch.

Nông cổ mín đàm đăng các bản dịch của Lê Hoằng Mưu. Lê Hoằng Mưu dịch cả truyện Mỹ, Nga (qua tiếng Pháp) như Chồng bắt chạ vợ, Vi Lê giết vợ đăng trên Nông cổ mín đàm….

Từ năm 1916 báo Nam Kỳ địa phận cũng bắt đầu đăng các truyện dịch hoặc phóng tác. Đến năm 1926 báo tăng thêm số trang và dành hẳn phần phụ trương (supplément du N.K.Đ.P.) gồm 4 trang chuyên đăng quảng cáo và truyện, tiểu thuyết.

Đông Pháp thời báo năm 1928 có các bản dịch Quan về vườn của nhà văn Pháp H. de Racan, một số tác phẩm của Eroshenko, phần đầu tiểu thuyết Bá tước Monté Cristo của A. Dumas. Tất cả do Phan Khôi dịch.

Chương trình giảng dạy văn học Pháp ở nhà trường Pháp – Việt thời bấy giờ cũng góp phần làm tiểu thuyết Pháp ảnh hưởng sâu sắc hơn đối với các nhà văn Việt Nam, đối với công chúng văn học.

Việc dịch thuật tiểu thuyết phương Tây, đặc biệt là tiểu thuyết Pháp và phong trào dịch thuật truyện Tàu nói trên có thể nói đã tác động quyết định đến việc hình thành và phát triển của tiểu thuyết hiện đại ở Nam Kỳ.

 

2.          Bước mô phỏng – phóng tác

 

Sau bước dịch thuật, mô phỏng - phóng tác cũng là một bước đi quan trọng để các nhà văn của chúng ta học tập, nắm bắt được kỹ thuật viết tiểu thuyết của phương Tây. Độc giả, qua những tác phẩm này, cũng sẽ làm quen dần với những đặc điểm của thể loại mới.

Trong việc mô phỏng, phóng tác, Hồ Biểu Chánh có lẽ là nhà văn điển hình, thành công nhất. Trong Đời của tôi về văn nghệ, Hồ Biểu Chánh kể lại: “Đọc tiểu thuyết hay tuồng Pháp văn hễ tôi cảm thì tôi lấy chỗ tôi cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều, hoặc tách riêng ra mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Tuy tôi phỏng theo song kỳ thiệt tôi lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi lật ngược với đại ý, làm cho cốt truyện trái bản, tâm lý khác xa với truyện Pháp”.11) Hồ Biểu Chánh cũng cho biết là đã phóng tác nhiều tác phẩm của tiểu thuyết Pháp như Chúa tàu Kim Quy phỏng theo Le Comte de Monte Cristo của A. Dumas, Cay đắng mùi đời phỏng theo Sans famille của Hector Malot, Chút phận linh đinh phỏng theo En famille của Hector Malot. Hồ Biểu Chánh còn cho biết Người thất chí là phỏng theo Crime et châtiment của nhà văn Nga Fédor Mikhailovitch Dostoievski. Theo Thanh Lãng, ngay cả tiểu thuyết văn xuôi đầu tay Ai làm được của Hồ Biểu Chánh cũng được mô phỏng theo tác phẩm André Cornélis của Paul Bourget.12)

Khi mô phỏng, phóng tác, Hồ Biểu Chánh đã tỏ ra rất bản lĩnh. Ông đã thật sự nắm bắt được tính cách và ngôn ngữ của nhân dân Nam Kỳ nên đã Việt Nam hóa, Nam Kỳ hóa một cách rất nhuần nhuyễn, linh hoạt các tác phẩm mà ông đã vay mượn. Thường thì ta chỉ thấy Hồ Biểu Chánh mượn cái cốt truyện hoặc đại ý là chính, còn về tình tiết, diễn biến và kết cục của truyện, ông thường thay đổi, thậm chí có khi còn đi ngược lại với nguyên tác. Hồ Biểu Chánh đã khéo léo sử dụng các chất liệu từ lịch sử của dân tộc, từ phong tục tập quán, sinh hoạt xã hội của Nam Bộ để bồi đắp cho các truyện của mình. Vì vậy tuy là những tiểu thuyết mô phỏng, phóng tác, nhưng khung cảnh, nhân vật trong đó đều rất Việt Nam, đặc biệt là rất Nam Bộ từ lối ăn mặc, cách ăn nói đậm đà phương ngữ địa phương cho đến tính cách, tâm lý. Đọc các tiểu thuyết mô phỏng, phóng tác của Hồ Biểu Chánh, phải tinh ý lắm mới nhận ra dấu vết của tiểu thuyết phương Tây.

Sáng tạo của Hồ Biểu Chánh trong tiểu thuyết là một sự tổng hợp khá hài hòa giữa kỹ thuật của tiểu thuyết phương Tây và tinh thần “văn dĩ tải đạo” của văn chương Á Đông. Ông chỉ học tập kỹ thuật viết sao cho truyện mang màu sắc phiêu lưu hoạt động và tính chất ly kỳ hấp dẫn, còn thì vẫn trung thành với khuynh hướng đạo lý và bút pháp thật sự như trong truyện Nôm, truyện chí truyền thống, chỉ có khác là bố cục, kết cấu, cách miêu tả và ngôn ngữ có phần mới mẻ hơn bắt nguồn từ ảnh hưởng của văn học Pháp. Vì thế nên các tác phẩm của ông đã được công chúng Nam Kỳ đón nhận hết sức nồng nhiệt.

Nhiều tác giả khác của thời kỳ này cũng có tác phẩm phóng tác. Sau giai đoạn dịch, Lê Hoằng Mưu đã có những tác phẩm phóng tác từ văn học phương Tây, như từ tác phẩm Racambole Tom V. Les drames de Paris của Pierre Alexis Ponson du Terrail (Nông cổ mín đàm số 18 năm 1912), từ tiểu thuyết Le Comte de Monte Cristo của A. Dumas với nhan đề Tiền căn báo hậu (9 cuốn, Imp. de l’Union, Sài Gòn, 1920; sau đó đăng trên Lục tỉnh tân văn từ số 2054 ngày 18.6.1925). Cuốn tiểu thuyết Người vợ hiền (1929) của Nguyễn Thời Xuyên được phóng tác từ cuốn Une honnête femme (1903) của Henry Bordeaux,…

Chúng ta còn có thể nhận ra sự gần gũi về nội dung cốt truyện, đề tài… giữa tiểu thuyết phương Tây với các sáng tác của Lê Hoằng Mưu, Phú Đức, Bửu Đình…  Phóng tác là thời kỳ để các nhà văn chúng ta làm quen với thể loại mới, để học tập các kỹ thuật như kết cấu, miêu tả nhân vật, phân tích tâm lý và cách viết văn ngắn gọn, trong sáng của phương Tây. Những tác phẩm này cũng giúp người đọc làm quen với thể loại mới, với những suy nghĩ, tâm lý mới. Các nhà văn Nam Kỳ khi phóng tác cũng đã cố gắng Việt hóa khi xây dựng hoàn cảnh truyện, tình huống truyện, tính cách nhân vật, nhờ đó mà các tác phẩm này vẫn mang đậm màu sắc Việt Nam, màu sắc Nam Kỳ. Có thể nói công lao sáng tạo của các nhà văn ở những tác phẩm này cũng rất đáng trân trọng, ghi nhận, như trường hợp của Hồ Biểu Chánh chẳng hạn.

Hiện tượng mô phỏng, phóng tác này không chỉ là trường hợp cá biệt của Việt Nam. Đây cũng là tình hình chung của văn học các nước Đông Nam Á, Đông Á trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Vào đầu thế kỷ XX, nhà xuất bản Nhà sách của Inđônêxia đã xuất bản một lượng không ít những tác phẩm phỏng dịch, viết lại theo nội dung, cốt truyện của các tác phẩm nước ngoài.13) Những nhà tiểu thuyết tiên phong vào đầu thế kỷ XX của Đông Nam Á cùng thời với Hồ Biểu Chánh là  Takin Côđô Hmanh của Mianma, Merari Sirega của Inđônêxia... cũng có không ít những tác phẩm mô phỏng từ tiểu thuyết Anh, Hà Lan... Tiểu thuyết của Triều Tiên, trong giai đoạn quá độ từ “cũ” sang “mới”, cũng bắt đầu từ hình thức dịch thuật, mô phỏng các tác phẩm của nước ngoài, nhất là của Nhật Bản và phương Tây. Chẳng hạn Ku Yon-hak có truyện Hoa mận nở trên tuyết (1908) mô phỏng tác phẩm cùng tên của nhà văn Nhật Bản Suehiro Tettcho. Cho Il-chae có Giấc mơ về nỗi sầu vĩnh cửu (1913- 1915) và Kim U-jin có Hoa lựu trong mưa (1912) phóng tác từ Con quỷ vàng (Konjiki yasha) của Ozaki Koyo và Con chim cúc cu (Hototogisu) của Tokutomi Roka, Yi Sanghyop có Thần biển (1915) mô phỏng Bá tước Monte Cristo của A.Dumas,…14)

 

IV. Kết luận

 

Tiểu thuyết quốc ngữ Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX phản ánh một nghịch lý của văn học Nam Kỳ thời kỳ này. Sớm chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết phương Tây, tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ đã có những cách tân mới mẻ, táo bạo mang tính tiên phong, như trường hợp Truyện thầy Lazarô Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản và những tác phẩm của Lê Hoằng Mưu, Biến Ngũ Nhy, Nguyễn Chánh Sắt,….

Thế nhưng ở nhiều nhà văn, nhiều tác phẩm của tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ giai đoạn này, ảnh hưởng của tiểu thuyết  Trung Hoa vẫn còn rất sâu đậm. Điều này thể hiện trong tính chất đạo lý của nhiều tác phẩm, trong nghệ thuật kết cấu, trong cách xây dựng nhân vật.

Nhìn chung, trong tiểu thuyết quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thi pháp tiểu thuyết phương Đông, mà cụ thể là tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, đã hòa lẫn với thi pháp tiểu thuyết phương Tây. Ở đây có sự tổng hợp giữa kỹ thuật của tiểu thuyết phương Tây và tinh thần “văn dĩ tải đạo” của văn chương Á Đông, tạo nên một nét rất riêng cho nghệ thuật tiểu thuyết ở vùng đất mới này.


<Tài liệu tham khảo và trích dẫn>

 

Nguyễn Kim Anh (chủ biên), (2004), Tiểu thuyết Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế

kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

Phạm Tú Châu, (1997), "Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt Nam", Hán Nôm, (3), Hà Nội.

Claudine Salmon (biên soạn), (2004), Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII-thế kỷ XX), Trần Hải Yến dịch, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Bằng Giang, (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

_________ , (1993), “Truyện Tàu với một số tiểu thuyết gia đầu tiên ở Việt Nam”, Kiến thức ngày nay, (100), TP. Hồ Chí Minh.

Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên),(1988), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh

Nguyễn Khuê, (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

__________ , (2002), “Phác thảo quá trình hình thành tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ ở Nam Kỳ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX”, Văn học, (5), Hà Nội.

Cao Xuân Mỹ (sưu tầm), (1999), Văn xuôi Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20, 2 tập, Nxb Văn nghệ TP. HCM & Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

Sơn Nam, (2003), Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên địa hội và cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn),(1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

Trần Thị Phương Phương, (2010), "Ảnh hưởng của Phương Tây và truyền thống dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa dân tộc (Nghiên cứu so sánh một số hiện tượng tiểu thuyết Việt Nam và Triều Tiên)", Nghiên cứu văn học, (7), Hà Nội.

Vương Hồng Sển, (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb TP. Hồ Chí Minh.

Bùi Đức Tịnh, (2002), Những bước đầu của báo chí, truyện ngắn, tiểu thuyết và Thơ mới, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

Lưu Đức Trung (chủ biên), (1999), Văn học Đông Nam Á, Nxb Giáo Dục, Hà Nội

Nguyễn Văn Trung, (1974), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn.

_______________, (1987), Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Thầy Phiền, Đại

học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh.

 

Nguồn: Southeast Asia Journal, Vol. 21, No.1, tr. 209-227 (2011).



1) Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), (1988), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 467-468.

2) Nguyễn Văn Trung, (1974), Chữ, văn quốc ngữ thời kỳ đầu Pháp thuộc, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn, tr.109.

3) Vương Trí Nhàn (sưu tầm và biên soạn), (1996), Khảo về tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.53.

4) Bằng Giang, (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh tr. 244-245.

5) Sơn  Nam, (2003), Phong trào Duy Tân ở Bắc Trung Nam, Miền Nam đầu thế kỷ XX – Thiên địa hội và cuộc Minh Tân, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.242.

6) Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên), (1988), Địa chí Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, tập II - Văn học, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, tr.217.

7) Vương Hồng Sển, (1993), Thú xem truyện Tàu, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr.97.

8) Claudine Salmon (biên soạn), (2004), Trần Hải Yến dịch, Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc ở Châu Á (từ thế kỷ XVII – thế kỷ XX), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 242-268.

9) Nguyễn Văn Trung, (1987), Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Thầy Phiền, Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tr.4-5.

10) Hương Thái Căn cải trang gian dâm mệnh phụ, bản dịch của Phạm Tú Châu, tài liệu chưa công bố.

11) Nguyễn Khuê, (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr.164.

12) Nguyễn Khuê, (1998), Chân dung Hồ Biểu Chánh, Nxb TP. Hồ Chí Minh, tr.143.

13) Lưu Đức Trung (chủ biên), (1999), Văn học Đông Nam Á, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, tr. 219.

14) Trần Thị Phương Phương, (2010), Ảnh hưởng của Phương Tây và truyền thống dân tộc trong tiến trình hiện đại hóa dân tộc (Nghiên cứu so sánh một số hiện tượng tiểu thuyết Việt Nam và Triều Tiên), Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7, tr. 46.

Online Members

We have 482 guests and no members online

Homepage Data

63693944
Today
Yesterday
All
14236
23426
63693944

Show Visitor IP: 3.145.34.51
23-11-2024 09:13