Giữa nhịp sống ngày càng xô bồ, hối hả thời hiện đại, xu hướng hoài cổ (nostalgia) càng có giá trị như một sự neo giữ tinh thần bằng niềm bình yên thanh vắng xa xưa. Có lẽ vì vậy mà những năm gần đây, phong cách thời trang những thập niên trước, nhạc bolero, kiến trúc tân cổ điển,… lại xuất hiện thành một trào lưu nổi bật. Trong lĩnh vực văn chương, các nhà nghiên cứu cũng tìm về văn chương tiền nhân trong đình cổ, trên phiến bia, giữa trang văn nâu nâu đẫm mùi giấy cũ, vừa để khám phá bằng cuộc khảo cổ chữ nghĩa, vừa như tận hưởng bầu thanh khí trong trẻo, mát lành từ thế giới tinh thần người xưa.
Cuộc du hành trên Trang sách cũ, phiến bia xưa của hai nhà nghiên cứu Phan Mạnh Hùng, Nguyễn Đông Triều là một chuyến tàu đưa độc giả thời nay về những trạm ga văn chương quá khứ ở vùng đất Nam Bộ. Khách xuống trạm rồi, cứ thẩn thơ, chậm rãi thưởng ngoạn cảnh cũ, thỉnh thoảng ồ lên thích thú khi phát hiện những điều chưa biết từ cái tưởng chừng quen thuộc. Quyển sách gồm hai phần, ứng với hai chặng lớn trên hành trình ngược thời gian: chặng di chỉ Hán Nôm trên các đình chùa, đền thờ, bia mộ, bài vị,… và chặng đi sản văn chương từ truyện kể dân gian đến tiểu thuyết đại chúng.
Ảnh: KHÁNH VÂN
Người giữ đình chốn không còn đình
Cuộc trở về của hai tác giả, ngỡ chỉ là gom nhặt chữ nghĩa, hóa ra lại lắm công phu. Cái công phu của đôi chân người nghiên cứu thực địa, nhiều gian nan, vất vả nắng mưa dọc miền điền dã khắp các tỉnh phương Nam (theo nghĩa rộng của khái niệm này, tính từ bên này đèo Ngang cho đến mũi Cà Mau). Nhưng thấm thía hơn, là cái công phu của tâm hồn: có khi lắm bồi hồi, tiếc nuối, thậm chí nghẹn ngào trước những di tích đã bị thời gian và dâu bể thời cuộc bào mòn dấu vết; có khi mừng vui rỡ ràng trước cổ vật quý hiếm còn được “gìn vàng giữ ngọc”.
Với chuyến đi này, độc giả sẽ được chiêm ngưỡng lại đình Long Hậu – ngôi đình được mệnh danh là “bề thế và đẹp đẽ nhất” (trang 12) bên dòng sông Hậu - đã bị dỡ bỏ cách đây 20 năm. Nguyễn Đông Triều và Phan Mạnh Hùng là những người đi khôi phục đình theo kiểu “xưa nay chưa từng có”, không bằng gạch ngói, vôi vữa, mà bằng những khuôn chữ vuông vắn, uy nghi trên bức hoành phi, bảng sắc phong - hồn cốt của ngôi đình đã mất. Với tinh thần của những người “trân trọng vốn xưa” (trang 10), hai tác giả tỉ mỉ ghi chép, phiên âm và dịch nghĩa di văn Hán Nôm trên lăng mộ, đền thờ Nguyễn Huỳnh Đức – một danh tướng thời Nguyễn Ánh – Gia Long ở Long An; cung cấp bức tranh khái quát về chùa cổ Phú Yên, đền, miếu và lăng mộ Đồng Tháp; sưu tầm thơ Nôm ở Tiền Giang; xác định lại những địa danh Hán Nôm và khảo sát các thể loại cổ như hệ thống câu đối và văn tế ở Nam Bộ. Những trang sách giải thích nguồn gốc tên gọi các vùng miền như Cần Thơ, Chà Và, U Minh, Cà Mau, Nam Vang, Cái Dầu, Cái Ngang từ cái nhìn về văn tự chữ Nôm mang lại nhiều khám phá bất ngờ, thú vị, khiến chúng ta thêm hiểu, thêm yêu mảnh đất phương Nam từ chữ nghĩa của ông cha.
“Gallery” thế hệ các nhà văn Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX
Giá trị của cuốn sách nằm ở chỗ, khi chạm đến những nhà văn, những nhân vật văn học tiêu biểu của miền Nam thời cổ cận đại, hai tác giả đều mang lại nhiều điều mới mẻ về tư liệu và cách kiến giải, tạo thành một “gallery” văn học hấp dẫn. 03 dị bản của chàng Lía, vốn có nguồn gốc ở Bình Định, được tìm thấy ở miền Nam với hình ảnh ngang tàng, phóng khoáng tựa như Robinhood phiên bản Việt. Chân dung văn học của Kiều Thanh Quế - nhà phê bình “hiếm có”; Á Nam Trần Tuấn Khải – thi sĩ, chí sĩ buổi giao thời; Tô Nguyệt Đình – người nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám Bộ áo cà sa nhuộm máu, Thẩm Thệ Hà – “người nghệ sĩ đa năng”; Lý Văn Sâm - một dấu ấn của Đông Nam Bộ; Hồ Biểu Chánh – nhà văn chuyên nghiệp của người bình dân… được tô đậm nét, khai phá ở nhiều khía cạnh, giúp người đọc dần mường tượng ra một cách rõ rệt, đầy đủ hơn đời sống văn học đa giọng điệu, đa sắc thái của miền Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt, các tác giả có những luận điểm thú vị, có khả năng khơi gợi đối thoại khi so sánh hình thức tiểu thuyết “feuilleton” của phương Tây và “chương hồi” của phương Đông (cụ thể là của Việt Nam và Trung Quốc). Sự gặp gỡ, giao thoa và kết hợp của hai hình thức sáng tạo này trong tiểu thuyết nhiều kỳ “ăn khách” trên báo chí Nam Bộ thế kỷ XX chính là biểu hiện thú vị của sức sống văn hóa – văn học đại chúng. Thêm nữa, phải chăng, với tiểu thuyết chương hồi, văn học Việt Nam đã sở hữu một loại hình đại chúng “nội tại” như một thứ của riêng chứ không phải chỉ “nhập khẩu” từ phương Tây?
Và hơn nữa, các tác giả có một “đơn đặt hàng” đáng chú ý cho giới nghiên cứu: khi văn học đại chúng đã phát triển mạnh mẽ ở miền Nam từ nửa đầu thế kỷ XX và tiếp tục nở rộ trong giai đoạn hiện nay, thì nghiên cứu hàn lâm có lẽ, cần phải “triển khai một chương viết về văn học đại chúng” (trang 261) để nhìn nhận đúng vai trò, vị trí, ý nghĩa của bộ phận văn học này trong lịch sử văn học dân tộc.
Điều cuối cùng đọng lại sau cuộc du hành là “dáng đứng bất động trong buổi chiều chập choạng” và “đôi mắt ẩn chứa nhiều tâm sự chưa nói hết” của “ông từ giữ đình cuối cùng” (trang 11) ở ngôi đình Long Hậu. Cái dáng đứng đầy trông ngóng ấy dấy lên những câu hỏi cứ đau đáu suốt quyển sách của các tác giả: Làm sao bảo tồn di sản Hán Nôm trước khi quá muộn? Làm sao giữ được nguyên vẹn căn cốt dân tộc trong những hình hài kiến trúc và linh hồn chữ nghĩa? Với bề dày văn hóa độc đáo ở phương Nam, chúng ta có thể phát triển du lịch văn hóa và du lịch tâm linh, để những vàng son của quá khứ vẫn lấp lánh trong hiện tại và tương lai dân tộc được không?