Chu Xuan Dien1. VẤN ĐỀ

Truyện Tấm Cám nằm trong một kiểu truyện thuộc loại phổ biến nhất trên thế giới. Cô Tấm trong truyện của nhiều nước phương tây có tên là cô Tro Bếp (Cendrillon ở Pháp, Cinderella ở Anh, Cenerentola ở Ý, Cenusotca ở Rumani, Cernuska hay Doluska ở Nga...), vì vậy kiểu truyện này có tên là kiểu truyện cô Tro Bếp. Kiểu truyện cô Tro bếp trên thế giới đã được nghiên cứu nhiều, các vấn đề về nguồn gốc và sự di chuyển của cốt truyện được chú ý tới nhiều hơn cả.

  1. Vẻ hoang vu của thiên nhiên- một dấu ấn trong những bài ca của thiên nhiên đất nước.

  Vùng Nam Bộ giàu đẹp đáng tự hào ngày nay lại là vùng đất bỏ hoang hàng ngàn năm từ sau khi đế quốc Phù Nam tan rã vào thế kỷ thứ VI. Bao nhiêu thế kỷ trôi qua, mảnh đất màu mỡ này vẫn ngủ yên vì người bản địa vốn quá thưa thớt lại lạc hậu về kỹ thuật nông nghiệp. Cũng có thể một phần do thiên nhiên sẵn giàu có, ưu đãi nên họ không cần khai thác thêm. Những vùng đất cao đủ trồng tỉa, những con rạch thừa cá tôm, những cánh rừng thừa hương liệu, gỗ,.. đã đảm bảo cho đời sống. Mãi đến thế kỷ thứ XVII, những người Việt đầu tiên”đi mở cõi” đến vùng đất mới, nhận ra ngay vẻ hoang sơ của nó:
“Muỗi kêu như sáo thổi
Đỉa lội như bánh canh
Cỏ mọc thành tinh
Rắn đồng biết gáy”

20240311

Nhà văn, nhà Hán học Mai Quốc Liên sinh ngày 8-6-1941 tại xã Điện Phước, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông tốt nghiệp Đại học Văn (Đại học Tổng hợp Hà Nội), Đại học Hán học, Cao học Hán học (Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam), Tiến sĩ Văn học, hội viên Hội nhà văn Việt Nam (1981). Lúc đương thời, ông là ủy viên Hội đồng Lý luận - Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận phê bình Hội Nhà văn Việt Nam, ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP.HCM, ủy viên hội đồng chức danh Giáo sư ngành Văn học, ủy viên Hội đồng Giải thưởng Hồ Chí Minh (ngành Văn - Ngữ - Sử) của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2006. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2012.

Những tác phẩm phê bình, khảo cứu và sáng tác đã xuất bản:

Ngô Thì Nhậm tuyển tập (đồng tác giả, dịch, khảo cứu, 1980); Nhà thơ - cơn bão và những cánh hoa (1980); Ngô Thì Nhậm trong nền văn học Tây Sơn (chuyên luận, 1985); Khảo cứu Văn Chiêu hồn (1991); Trước đèn (tiểu luận, 1992); Dưới gốc me vườn Nguyễn Huệ (tiểu luận, 1986); Tạp luận (1998); Phê bình và tranh luận văn học (1998); Nguyễn Trãi toàn tập (chủ biên, và dịch, phiên âm, 2002); Cao Bá Quát toàn tập (chủ biên, dịch, giới thiệu, 2003); Vị mặn biển đời (thơ, 2003); Tiểu luận và phê bình văn học (2011); Các nhà thơ cổ điển Việt Nam (2015)…

Tôi được gặp GS. Mai Quốc Liên lần đầu tiên chừng 1988, khi ông nói chuyện về nhà văn Pháp lừng danh Rabelais tại khoa Văn Sử, Đại học Đà Lạt. Câu nói của thầy mà tôi ấn tượng nhất hôm ấy là: “Nếu nhìn từ văn học viết sang sẽ không thấy Rabelais đâu nhưng nếu nhìn từ văn hoá dân gian thì chỉ thấy mỗi Rabelais”. Tác giả đã ký tặng tôi cuốn Dưới gốc me xanh vườn Nguyễn Huệ, tất nhiên sau đấy thầy không thể nhớ tôi - một trợ giảng vô danh non trẻ...

Rồi tôi được gặp lại GS. năm 1997 khi thầy làm thư ký Hội đồng chấm đề cương Nghiên cứu sinh của tôi. Tôi nhớ là thầy đã quát tôi: - Anh nói to lên để tôi còn ghi! Tôi xin lỗi GS. và Hội đồng. Từ ngoài nắng gắt vào ngay phòng máy lạnh và bị sốc nhiệt nên tôi gần như bị mất giọng 2/3...

Kỷ niệm gắt như vậy nên có gặp lại thầy thì tôi cũng chỉ dám kính nhi viễn chi. Không ngờ GS. lại dành cho tôi món quà đặc biệt mà cách cho quà còn khiến tôi xúc động hơn nhiều...

Năm 2004, vừa bảo vệ xong luận án, GS. Mai Quốc Liên gọi điện bảo tôi chỉnh sửa bản thảo, bớt các thủ tục mang tính trường quy để Trung tâm Nghiên cứu Quốc học in thành sách. Tôi sửa chưa xong thì vợ đau phải đi cấp cứu tại TP.HCM. Tôi xin GS. thư thư cho một thời gian...

Vậy mà GS. đã viết ngay thư tay gửi đường bưu điện tới tôi. Nội dung chính của bức thư: Tập trung lo cho chị ấy, sửa luận án sau; tôi gửi trước nhuận bút với số tiền ... để anh lo cho vợ; tôi đã gửi bằng thư chuyển tiền theo địa chỉ anh...!

Tôi thực lòng xúc động trước sự quan tâm của GS. Nhiều người thấy ông nghiêm khắc trong học thuật và khó gần trong giao tiếp. Nhưng có ai chưa cầm bản thảo mà đã trả trước nhuận bút như ông đã ứng xử với tôi - một tác giả trẻ chưa từng tiếp xúc thực sự? Đó là hạnh phúc của một người viết.

Phải đến năm 2006 sách mới được phát hành, phần nhuận bút sau khi trừ ứng thì tôi dùng mua sách để tặng bè bạn và đệ tử. Vậy là thầy, GS. Mai Quốc Liên, giám đốc Trung tâm Quốc học khi ấy đã lo cho tôi trọn gói từ giấy phép, biên tập, in ấn và phát hành, lại còn cho tôi ứng nhuận bút trước khi nộp bản thảo. Chuyện lạ có thật xoay quanh việc tôi được in cuốn Tìm hiểu truyện cổ Tây nguyên - trường hợp Mạ và K’ho, NXB Văn học, 2006.

Đọc tin biết GS. Mai Quốc Liên đã từ trần! Quy luật muôn đời rồi ai cũng ra đi... Xin vĩnh biệt Thầy với sự tri ân sâu sắc của hậu thế - một học trò với bậc thầy dù chưa nghe giảng trọn một giáo trình nào chính thức...

TS. Lê Hồng Phong

(Giảng viên Đại học Đà Lạt)

V. Ia. Propp khi đặt ra vấn đề “nghiên cứu truyện cổ tích một cách cụ thể bắt đầu từ đâu?” đã cho rằng cần phải mở rộng truyện cổ tích thần kỳ về với cuộc sống, tức là về với những cội rễ hình thành nên truyện cổ tích thần kỳ. Theo ông, nghiên cứu nguồn gốc của một hiện tượng còn chưa phải là nghiên cứu lịch sử của hiện tượng đó. Nghiên cứu lịch sử có thể còn chưa được tiến hành ngay – đó là công việc của nhiều năm tháng, không phải là công việc của một người mà là của nhiều thế hệ [1;181,182]. Và nghiên cứu nguồn gốc của môtíp truyện kể dân gian cũng chỉ là bước đầu tiên trong xu hướng này.

Khoa Văn học là một trong những khoa gắn liền với quá trình phát triển của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. Đây là Khoa quy tụ nhiều thế hệ học giả, nhà nghiên cứu, cũng như tiếp tục bồi dưỡng những thế hệ tiếp nối trong lĩnh vực nghiên cứu văn học ở TP. Hồ Chí Minh nói riêng và ở Việt Nam nói chung. Khoa Văn học có nhiều hoạt động giáo dục đào tạo, hợp tác liên kết và đặc biệt sinh hoạt học thuật sôi nổi, nhiều thành tựu đáng trân quý. 

Đầu năm 2024, Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM phát hành tập sách “Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” do GS. TS. Huỳnh Như Phương, PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu, PGS. TS. Lê Quang Trường tập hợp và tuyển chọn; Nhà xuất bản Đại học Quốc gia TP.HCM ấn hành. Tập sách quy tụ nhiều bài viết của nhiều thế hệ nhà nghiên cứu[1] với đa khuynh hướng và nền tảng lý luận phê bình đa dạng, phong phú. Trong đó, người đọc có thể bắt gặp tín hiệu cảm nhận mới với sự nhiệt thành sinh khí học thuật sôi nổi trong lĩnh vực nghiên cứu văn học hiện nay.

1. Tinh thần dân tộc và việc giữ gìn, phát huy giá trị văn học Việt Nam

Điều dễ nhận thấy là sự tiếp nối truyền thống để thúc đẩy, phát triển thêm dòng mạch vốn có của cộng đồng học thuật ở Nam Bộ và hoạt động giảng dạy – nghiên cứu lý luận phê bình văn học ở Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM đã định hình như học phong nhất định. Trong đó, lịch sử hình thành và phát triển của Bộ môn Lý luận và Phê bình văn học cho thấy Bộ môn đáp ứng yêu cầu thực tiễn; chính điều này ngược lại là động lực giúp cho Bộ môn ngày càng phát triển. “Trong ý thức thực hành của Khoa Văn học, Lý luận văn học không tách rời mà gắn bó mật thiết với phê bình và lịch sử văn học; những vấn đề lý thuyết luôn được đúc kết từ thực tiễn văn học và góp phần soi sáng, lý giải thực tiễn. Lý luận văn học có sức sống là lý luận vận động và phát triển trên nền tảng của đời sống văn học Việt Nam và thế giới, phương Đông và phương Tây, cổ điển và hiện đại” (tr.9). Từ thực tiễn ấy, Bộ môn Lý luận và Phê bình văn học cùng với hoạt động Khoa Văn học nói chung càng thể hiện học phong qua việc đào tạo và kiến tạo thế hệ tiếp nối. Trong sinh hoạt học thuật, Bộ môn cho thấy sự hội tụ, tiếp nối từ thế hệ trí thức trước 1975 ở cả hai miền Nam Bắc, tới thế hệ nhà khoa học trưởng thành trong thời kỳ đổi mới và nhất là lực lượng trẻ của Bộ môn và của toàn Khoa hiện nay. Sự hội tụ và phát huy này, làm tiền đề và động lực phát huy nhiều hơn nữa những thành tựu sẵn có; đồng thời kiến tạo giá trị mới.

20240306

Bìa sách “Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” do GS. TS. Huỳnh Như Phương, PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu, PGS. TS. Lê Quang Trường tập hợp và tuyển chọn

Không chỉ tinh thần cập nhật, đổi mới, công trình “Lý luận – phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” giúp người đọc nắm bắt ý hướng bảo lưu, giữ gìn những giá trị dân tộc đáng quý theo thời gian. Nhất là góc nhìn từ phê bình giáo khoa đến việc giảng dạy văn học ở nhà trường Việt Nam. Có thể nói, PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân đã khiến cho người đọc có cái nhìn sáng rõ rất căn cơ về những vấn đề lý luận vốn phức tạp và nhiều chồng lấn. Như, phê bình giáo khoa khác với phê bình ấn tượng ỏ tính khách quan và tinh thần thực chứng; khác với phê bình tiểu sử, phê bình văn hóa lịch sử, phê bình tiến hóa luận khách quan ở chỗ nhìn thấy hạn chế của quyết định luận cá nhân và quyết định luận xã hội lịch sử (tr.15-16). Từ chắt lọc tinh thần khoa học của Gustave Lanson, người đọc có thể nhận ra nhà nghiên cứu muốn nhấn mạnh đến việc dạy học văn học trong nhà trường không nên chỉ là học “mỹ văn” mà nên chăng hướng đến “rèn luyện một văn hóa đích thực” (tr.16). Có lẽ cần nói thêm, đó là việc rèn luyện cho người học văn học nhận thức văn hóa và khả năng thực hành văn hóa đích thực. Lẽ đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Thanh Xuân đánh giá vai trò của phê bình giáo khoa đối với việc giảng dạy văn học trong nhà trường: “Ông muốn đào tạo những con người có khả năng tham gia vào đời sống văn học, văn hóa, một cách tự giác và chuyên nghiệp. Công việc này được chuẩn bị xuyên suốt từ tiểu học, trung học đến đại học, nhằm vực dậy lòng yêu văn học và kích thích cảm hứng công dân, dân tộc” (tr.20). Và hơn thế nữa, nhà nghiên cứu đã cho thấy cái nhìn trực diện, thẳng thắn, nhiệt thành. Đó là nhiệt tâm chính đáng của người trí thức với thời đại mình đang sống.

Tuy vậy, nếu rà soát kỹ từ nền tảng, phải thừa nhận rằng đời sống học thuật Việt Nam vẫn đang ở vào thời kỳ tiền lý thuyết, hay nói cách khác, đời sống học thuật Việt Nam đang ở trong bước ngoặt mà nền giáo dục Pháp trải qua vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Việt Nam hôm nay cũng như nước Pháp thuở ấy, đang cần có một cải cách từ căn bản về giáo dục và hẹp hơn là chương trình văn học trong nhà trường để có thể bước vào thế giới hiện đại một cách vững chắc, đường hoàng, đủ tư cách” (tr.21).

Người đọc ngẫm suy và thú vị bởi các bài viết trong tập sách đều có cái nhìn soi chiếu lại thực tiễn sinh hoạt văn học ở Việt Nam như thế. Tập sách trải rộng ở nhiều địa hạt lý luận phê bình khác nhau, cả cổ kim lẫn đông tây; song trên hết, là tinh thần dân tộc và sự “bản địa hóa”. Nói khác đi, đó là ước mong đóng góp thêm cho bản sắc lý luận phê bình văn học (chí ít ở khu vực phía Nam) hiện nay. Phần nhiều tiểu luận trong tập sách đều nêu cao tinh thần dân tộc và khả năng ứng dụng cho trường hợp rất đặc thù của nền văn học nước nhà. Ví dụ, như: bài viết của PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân đối với việc giảng dạy văn học trong nhà trường Việt Nam; bài viết của PGS. TS. Đoàn Lê Giang về khả năng ứng dụng cho việc nghiên cứu văn học Việt Nam trong khu vực Đông Á, bài viết về Ngô Thì Vị và Nguyễn Du của PGS. TS. Lê Quang Trường trong việc nhấn mạnh tinh thần bản địa hóa và ý thức dân tộc.

Nguyễn Du cảm nhận phong tục đương thời đã không còn thuần hậu như cảm nhận của Ngô Thì Vị trước đó, song ông nhấn mạnh hơn ở sự du nhập văn hóa ngoại lai dị tộc bằng hàng loạt những bài thơ vịnh sử. Trong ý thức đó, cả Ngô Thì Vị và Nguyễn Du đều cảm nhận được một sự pha trộn văn hóa có tính suy đồi trên mảnh đất đã sản sinh ra nó. Điều đó càng khiến họ cảm nhận rõ hơn về văn hóa Nho gia của nước Nam đã tiếp tu và nối dài liên tục với tinh thần bản địa hóa và ý thức dân tộc rất cao” (tr.49).

Tinh thần bản địa hóa hài hòa cũng việc giới thiệu tinh hoa tư tưởng và nghệ thuật của các nền văn học trên thế giới. Cũng tức là tinh thần dân tộc cởi mở và hiện đại. Như, “Siêu hình học Arab và Islam giáo” qua sự chuyển ngữ của nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Bảo Trâm; hay “Zeami bàn về nghệ thuật kịch No: Mô phỏng, Yugen và cái kỳ diệu” qua sự chuyển ngữ của nhà nghiên cứu Ngô Trà Mi. Bên cạnh đó, nhiều tiểu luận quan tâm nghiên cứu văn học Nam Bộ ở nửa đầu thế kỷ XX. Như, tiểu thuyết lịch sử xuất bản ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX trong bài nghiên cứu của PGS. TS. Phan Mạnh Hùng; tiểu thuyết Người bán ngọc của Lê Hoằng Mưu trong bài nghiên cứu của PGS. TS. Võ Văn Nhơn và TS. Nguyễn Ngọc Bảo Trâm; nhà văn Sơn Khanh từ lý thuyết trường lực của Pierre Bourdieu của TS. Nguyễn Thị Phương Thúy;… Các nhà nghiên cứu thể hiện nỗ lực và khát vọng đóng góp cho sự phát triển căn tính dân tộc. Và hơn thế, như bài viết của PGS. TS. Phan Mạnh Hùng đã khẳng định:

Căn tính dân tộc, trong quan niệm của chúng tôi không hoàn toàn theo cách mà Anderson đã quan niệm trong khái niệm “cộng đồng tưởng tượng” vốn gắn liền với tính không gian. Mà căn tính, ở đây, là đặc tính của một dân tộc, là cái hồn cốt tạo thành nếp sinh hoạt văn hóa có tính cộng đồng, những thực hành thiết chế chính trị, ngôn ngữ và tâm lý chung của cộng đồng đó. Căn tính được hình thành trong một lịch sử lâu dài của một tộc người, một thứ căn cước giúp cá nhân có thể định vị nơi mình thuộc về” (tr.270-271).

Nhà nghiên cứu Phan Mạnh Hùng đã tìm hiểu và thử soi chiếu quan niệm căn tính của Anderson vào trường hợp tiểu thuyết lịch sử Nam Bộ đầu thế kỷ XX, giúp người đọc – trong giới học thuật hay ngoài giới – nhận ra hai vấn đề: vấn đề lý luận, khi tìm hiểu tiếp thu lý luận phê bình phương Tây, nhà nghiên cứu đã thận trọng cân nhắc về khoảng chênh lệch trong khái niệm công cụ và phương pháp nghiên cứu; vấn đề thực tiễn, đó là căn tính dân tộc trong quan niệm phương Tây và phương Đông – chí ít ở Nam Bộ – không đồng nhất mà thậm chí rất khác biệt. Nếu, ở phương Tây khái niệm dân tộc cơ hồ xuất hiện từ thế kỷ XVIII với sự phát triển của chủ nghĩa tình cảm rồi chủ nghĩa lãng mạn, thì ý thức dân tộc ở Á Đông – trong đó có Việt Nam – cần được đặt trong cái nhìn “khác”. Nhà nghiên cứu Phan Mạnh Hùng giúp ta thấy cần tỉnh táo hơn trong việc sử dụng các khái niệm. Và trường hợp này, khái niệm căn tính dân tộc trong quan niệm phương Tây và quan niệm Á Đông – trong đó có các nhà văn Nam Bộ đầu thế kỷ XX – hẳn nên phân biệt rạch ròi, cụ thể và toàn diện.

Tựu trung, các bài viết đều cho thấy tấm lòng của người nghiên cứu đối với việc giữ gìn và gia cố thêm ý thức dân tộc trong văn học Nam Bộ nói riêng và văn học Việt Nam nói chung.

2. Nhãn quan giao lưu hội nhập quốc tế trong nghiên cứu văn học

Từ 2007 đến nay, Bộ môn Lý luận và Phê bình văn học cùng với các bộ môn khác của Khoa Văn học đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. “Trên tinh thần đó, những thành tựu của Khoa Văn học được ghi nhận qua những giáo trình, chuyên khảo và các hội thảo khoa học về văn học so sánh, về thi pháp tác phẩm và thể loại, về tiến trình hiện đại hóa văn học Việt Nam và Đông Á, về phong cách các tác gia văn học Việt Nam và thế giới, về hoạt động nghiên cứu – lý luận – phê bình văn học dân tộc từ cổ điển đến hiện đại, về ảnh hưởng của các lý thuyết và trường phái văn học nước ngoài vào Việt Nam,…” (tr.9). Khuynh hướng nghiên cứu ngày càng mở rộng, cập nhật và đa kết nối, cùng với đó là sự đa dạng hoạt động học thuật. Theo thời gian, Bộ môn và Khoa Văn học ngày càng thúc đẩy giao lưu, trao đổi học thuật trong nước và khu vực, vừa tiếp thu thành tựu nghiên cứu mới ở ngoại quốc vừa giúp giới thiệu văn học Việt Nam với bạn bè quốc tế.

Cuốn sách này phản ánh những nỗ lực của Khoa Văn học trên con đường nghiên cứu Lý luận văn học trong quan hệ chặt chẽ với đời sống xã hội và văn hóa Việt Nam thời Đổi mới và hội nhập quốc tế. Từ những góc nhìn khác nhau, các tác giả là giảng viên của khoa góp phần nhỏ bé của mình làm đa dạng, và phong phú sinh hoạt học thuật trong nhà trường hiện nay. Tuy có một số bài viết từng công bố trên các tạp chí khoa học, nhưng đây là lần đầu tiên tất cả được đưa vào trong cấu trúc một cuốn sách với tên gọi chung Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” (tr.10).

Tinh thần bảo lưu giữ gìn giá trị truyền thống đồng thời với việc tiếp nối và khai thác thêm nữa khả năng ứng dụng của khuynh hướng nghiên cứu mới mẻ, hiện đại. Trong đó, có thể thấy nghiên cứu văn học cổ trung (nhất là trong lý luận phê bình văn học cổ trung ở Việt Nam và Đông Á) ngày càng được hiện đại hơn, cập nhật hơn, cho thấy sự gắn kết đông tây hài hòa. Cụ thể, theo PGS. TS. Đoàn Lê Giang, đó là những ứng dụng mới của lý luận văn học cổ điển Trung Quốc trong nghiên cứu phê bình văn học cổ điển Trung Quốc với Nhật Bản, Hàn Quốc trong cái nhìn khu vực (khu vực văn hóa chữ Hán) và nghiên cứu lý luận phê bình văn học cổ điển Việt Nam. Hơn thế nữa, nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang còn nhấn mạnh việc dung hòa Đông – Tây trong lý luận văn học.

Trong thời đại ngày nay, quan niệm châu Âu trung tâm đã trở nên lỗi thời, trong lĩnh vực lý luận văn học cũng vậy. Nền lý luận có tính phân tích, khoa học của phương Tây cần phải được bổ sung cái uyên áo, thâm trầm và cách viết đầy tính nghệ thuật của lý luận phê bình văn học phương Đông. Chúng ta mơ ước có những bộ sách lý luận văn học, không chỉ trình bày tư tưởng lý luận phương Tây mà cả phương Đông nữa, để thấy rằng, phương Tây và phương Đông gần nhau lắm bởi tính nhân loại phổ biến của nó, nhưng đồng thời cũng thấy văn hóa phương Tây và phương Đông cũng có những bản sắc riêng, làm cho vườn hoa nhân loại thêm đa sắc” (tr.36).

Cho thấy, nhà nghiên cứu vận động thoát ra khỏi tư duy trung tâm luận – có lẽ cả Âu tâm luận lẫn Hán trung tâm luận – để vận động về phía đa nguyên hóa với cái nhìn cởi mở, hiện đại. Hơn thế nữa, việc nghiên cứu văn học phương Tây có thể như gương phản chiếu cho văn học Đông Á, và nghiên cứu văn học nước ngoài thực sự có thể gợi thêm góc nhìn để chúng ta nhìn lại văn học nước nhà. Tiêu biểu như bài viết của PGS. TS Trần Thị Phương Phương “Người kể chuyện về chiến tranh thời hậu chiến trong Số phận con người của Mikhail Sholokhov”. Qua bài viết này, người đọc có thêm góc nhìn và đồng thời có thêm nền tảng lý luận; cũng như phương pháp nghiên cứu về một số tác giả, tác phẩm thời hậu chiến trong văn học Việt Nam. Ở bài viết, nhà nghiên cứu Trần Thị Phương Phương xuất phát từ vấn đề người kể chuyện đề tài chiến tranh thời hậu chiến – tuy không mới, nhưng cần và đủ để làm bật lên tấm chơn tình, lòng nhân đạo như giá trị cốt tủy của tác phẩm văn học.

Địa hạt nữa cũng rất nổi bật, đó là việc tìm hiểu và ứng dụng lý luận phê bình văn học Pháp. Như, một số bài nghiên cứu: Tiểu thuyết mới từ phương Tây đến miền Nam Việt Nam (1954-1975); lý thuyết trường lực của Pierre Bourdieu; Trường hợp Gaston Bachelard; … Nổi bật trong số đó, tiểu luận của GS. TS. Huỳnh Như Phương làm sâu sắc thêm mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Pháp qua hai trường hợp: tiểu thuyết dòng ý thức và tiểu thuyết mới. Bằng cách làm rõ sự ảnh hưởng của chúng đối với sự đổi mới sáng tác văn xuôi ở miền Nam. Nhưng nhà nghiên cứu làm rõ thêm ở trường hợp văn xuôi miền Nam bấy giờ không đơn thuần chỉ là tiếp biến thụ động mà có sự pha lẫn của nhiều khuynh hướng tư tưởng (thiền, hiện sinh) (tr.360) và cả sự pha lẫn đa dạng nhiều thủ pháp trần thuật khác nhau. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương mang lại những nhận xét xác đáng, chừng mực và cái nhìn rộng về trường hợp các nhà văn miền Nam như: Nguyễn Đình Toàn, Nhất Hạnh và đặc biệt là Hoàng Ngọc Biên. Rất hữu lý khi ông cho rằng không thể hoàn toàn đồng nhất lối trần thuật của Hoàng Ngọc Biên với các đại diện của tiểu thuyết mới ở Pháp như A. Robbe-Grillet, N. Sarraute, M. Butor. “Nhưng không hẳn lúc nào Hoàng Ngọc Biên cũng chỉ có cái nhìn khách quan và loại trừ mọi xúc động, nhận xét, suy tưởng: đoạn văn trích từ Đêm ngủ ở tỉnh trên kia là một dẫn chứng” (tr.363-364). Và, không chỉ trường hợp Hoàng Ngọc Biên, nhìn chung văn xuôi đô thị miền Nam 1954-1975 vẫn dừng lại ở mức nhỏ lẻ trong việc thể nghiệm dòng ý thức và tiểu thuyết mới. “Dù sao những thể nghiệm đó cũng góp phần đổi mới văn xuôi về mặt kỹ thuật mà những nhà văn sau chiến tranh có thể rút tỉa kinh nghiệm” (tr.364). Với cái nhìn lịch đại, người đọc có thể thấy sự du nhập và thể nghiệm tiểu thuyết mới trong các nhà văn miền Nam (1954-1975) cũng cho thấy vận động văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX từ văn xuôi tiền chiến đến sáng tác văn xuôi ở các giai đoạn về sau. Như thế có thể nói, thể nghiệm theo khuynh hướng tiểu thuyết mới của giới cầm bút ở miền Nam hẳn có ít nhiều đóng góp cho lịch sử phát triển của văn xuôi Việt Nam trong thế kỷ XX.

Qua một số bài viết trên, người đọc hẳn nhận ra: nền tảng lý luận phê bình được tìm hiểu và ứng dụng trong tập sách phần nhiều từ nửa sau thế kỷ XX đến nay. Mối quan tâm về các khuynh hướng lý luận phê bình nước ngoài của các nhà nghiên cứu cũng phản ánh vận động lý luận phê bình ở Việt Nam – hoặc chí ít ở khu vực phía Nam. Trong đó, người đọc có thể bắt gặp nhiều tín hiệu đáng chú ý. Không hoàn toàn là những quan niệm, khuynh hướng tiếp cận hoàn toàn mới ở Việt Nam, song những hướng nghiên cứu (như phê bình phản hồi - độc giả; giải thực dân và căn tính văn hóa; nghiên cứu di cư, lý thuyết trường lực; hướng tiếp cận trình diễn trong folklore học;…) chưa thực sự được quan tâm đúng mức và rộng rãi. Lẽ đó, những bài viết của các nhà nghiên cứu trong tập sách này (khi nghiên cứu bao quát, căn cơ và ứng dụng đa dạng các hướng nghiên cứu vừa nêu) ít nhất cũng đã thúc đẩy đa dạng hóa, đa nguyên hóa lý luận phê bình văn học hiện nay.

Tập trung ở khả năng ứng dụng, hầu hết bài nghiên cứu đều đặt trong nhãn quan gắn liền với thực tiễn xã hội. Cho thấy, nhà nghiên cứu lắng nghe tiếng lòng của xã hội. Lẽ đó, nghiên cứu của các tác giả trong tập sách “Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” có ý nghĩa thực tiễn rất đáng trân quý. Theo đó, ta cũng thấy các nhà nghiên cứu ở Khoa Văn học ý thức rất rõ ràng và sâu sắc vai trò xã hội của người trí thức đối với sự phát triển xã hội. Người đọc có thể nhận được tín hiệu ý thức này bởi sự thể hiện sâu sắc, thấm nhuần qua tất cả bài viết trong tập sách. Trong đó, đáng chú ý có bài viết “Từ phê bình giáo khoa, nghĩ về việc giảng dạy văn học ở nhà trường Việt Nam” của PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân hay bài viết “Tầm quan trọng của giáo dục cảm xúc trong môn Ngữ văn qua một số ngữ liệu của văn học Việt Nam cho cấp phổ thông” của PGS. TS. Trần Lê Hoa Tranh. Nhắc đến quan niệm giáo dục của Howard Gardner, người đọc nhận ra, nhà nghiên cứu Trần Lê Hoa Tranh chủ yếu bám sát thực tiễn giảng dạy văn học Việt Nam ở cấp phổ thông. Qua đó, nhà nghiên cứu họ Trần giúp người đọc (mà chủ yếu có lẽ các thầy cô giáo trực tiếp đứng lớp hiện nay) nhận thấy vai trò quan trọng của việc giáo dục cảm xúc (sự cảm thông, lòng trắc ẩn) cho học sinh thông qua những tác phẩm văn học (như Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Cuộc chia tay của những con búp bê của Khánh Hoài).

Khi đọc và khi phân tích cho học sinh, người dạy nên xoáy vào một số ý chính quan trọng mà người học phát hiện ra khi đọc tác phẩm. Nên khuyên học sinh phải “đọc” tác phẩm, đừng đọc các lời bình, các ghi nhớ. Sau khi đọc, các bạn ghi ra giấy những gì mình cảm nhận đã, rồi nếu cần, mới đọc các bài giảng, bài bình luận. Hãy tôn trọng và đi theo cảm xúc của mình khi đọc tác phẩm, đó mới là những gì quan trọng nhất trong quá trình đọc văn” (tr.121).

Tập sách cho thấy khuynh hướng vận động về phía nghiên cứu liên ngành. Đặc biệt, nhiều cây viết trẻ cho thấy sự hăng hái trong việc tiếp nhận và ứng dụng những khung lý thuyết mới, rất hiện đại, rất cập nhật. Điều này, cho thấy sự giao lưu hội nhập trong lĩnh vực lý luận phê bình hiện nay. Tư duy giải thực dân hóa và sự định vị căn tính, nhất là trường hợp văn học Mỹ Latinh. Giới nghiên cứu ngày càng quan tâm hơn đến khu vực văn học này và ở đó, tìm thấy nhiều điều khả dĩ có thể thúc đẩy sinh hoạt văn học ở Việt Nam. Trước hết, đó là những vận động tương đồng về chính trị xã hội của Á - Phi - Mỹ Latinh trong thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Tư duy giải thuộc địa trong văn hóa, văn học cho thấy nỗ lực “giành lại tiếng nói và kinh nghiệm của cái khác”. Sự xuất hiện của chủ nghĩa hậu thực dân khoảng thập niên 1970-1990, đồng thời cho thấy sự xoay trục địa chiến lược của trật tự thế giới lưỡng cực sang trật tự thế giới đa nguyên – đa cực. Cho nên có thể nói:

Lý thuyết này cũng chú trọng việc phân tích mối quan hệ quyền lực giữa các nước thực dân, đế quốc với các nước đang/ từng là thuộc địa. Quyền lực ở đây không chỉ là quyền lực về chính trị, kinh tế, xã hội mà còn quyền lực về văn hóa, văn học. Lý thuyết hậu thực dân giúp cho việc xem xét văn học ở các nước bị xâm chiếm cần được đặt ra một cách khách quan hơn, nghiêm túc hơn và cần được đánh giá là một thực thể như chính nó, tìm hiểu bản sắc riêng của nền văn học đó mà không bị phụ thuộc bởi tư tưởng chính trị áp đặt từ bên ngoài” (tr.168).

Lẽ đó, nhà nghiên cứu Lê Ngọc Phương đưa ra nhận định quan trọng:

Vấn đề giải thực dân hóa và sự khẳng định bản sắc căn tính dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Khẳng định bản sắc chính là một cách thức giải thực dân hóa ở các khu vực hậu thuộc địa” (tr.175).

Với quá trình tìm kiếm và khẳng định căn tính văn hóa trong trường hợp văn học Mỹ Latinh, người đọc có thể thấy bài viết của nhà nghiên cứu Lê Ngọc Phương mang lại nhiều gợi ý cho sinh hoạt văn chương ở Việt Nam. Theo nhà nghiên cứu họ Lê, một trong những biểu hiện dễ nhận thấy của tư duy giải thực dân hóa chính là sự tìm kiếm và khẳng định căn tính văn hóa bản địa (tr.176). Chính ở đây, khi bạn liên hệ với bài viết của PGS. TS. Phan Mạnh Hùng – Lịch sử và kiến tạo ý niệm dân tộc: trường hợp tiểu thuyết lịch sử xuất bản ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX, sẽ thấy rằng văn học Việt Nam hoặc ít nhiều văn học ở Nam Bộ hẳn đã và vẫn tiếp tục khẳng định căn tính văn hóa bản địa như thế. Sự khẳng định căn tính như vậy diễn ra trong nhãn quan cởi mở, tiếp thu, chọn lọc và sáng tạo. Từ quá trình vận động của văn học Nam Bộ (từ thế hệ Trần Chánh Chiếu, Hồ Biểu Chánh đến thế hệ của Thẩm Thệ Hà, Bình Nguyên Lộc, Trang Thế Hy, Sơn Nam và giai đoạn hiện nay với rất nhiều cây viết trẻ) đang tiếp tục phát triển diễn ngôn văn học Nam Bộ như quá trình ngày càng khẳng định và bồi tụ thêm căn tính văn hóa bản địa của vùng văn hóa này. “Sự vươn lên của những khu vực ngoại vi đã cho thấy rằng, các khu vực, các chủng tộc đều sở hữu những đặc trưng riêng để xây dựng nền văn học độc đáo của mình” (tr.184). Và hơn thế, văn học Nam Bộ và văn học Việt Nam nói chung sẵn có những điều kiện để phát huy “thương hiệu văn học quốc gia” trong bối cảnh văn học khu vực và thế giới. Để tận dụng và phát huy những điều kiện ấy, hẳn cần thêm rất nhiều người chung sức chung lòng!

Ở phương diện khác, bài nghiên cứu dịch thuật của nhà nghiên cứu Ngô Trà Mi mang lại cho người đọc thêm góc nhìn về quan niệm thẩm mỹ của văn học nghệ thuật Nhật Bản. Nhất là, người đọc có thể hình dung sâu sắc hơn cốt lõi thẩm mỹ, giá trị cốt lõi, chủ tính thẩm mỹ của văn học nghệ thuật Nhật Bản qua thời đại. Với đặc trưng thể loại chủ đạo mang tinh thần thời đại, kịch No qua sự chuyển ngữ của nhà nghiên cứu Ngô Trà Mi giúp ta thêm cơ hội thấu hiểu văn học nghệ thuật Nhật Bản, qua đó tăng thêm khả năng nghiên cứu so sánh văn học Việt Nam và Nhật Bản cũng như văn học khu vực Đông Á nói chung. Bởi khu vực văn học này có những quan niệm thẩm mỹ cùng chia sẻ.

Yugen là cái đẹp không chỉ của vẻ bên ngoài mà quan trọng hơn là của tinh thần; nó là vẻ đẹp bên trong hiển lộ ra bên ngoài. Sự nhấn mạnh vẻ đẹp bên trong như là một đối trọng với cái đẹp của dáng vẻ bề ngoài là điều hiển nhiên khi mô phỏng trong kịch No, là tinh thần hướng nội, là bản chất bên trong. Đó là vẻ đẹp căn tủy nhất của vạn vật, cái đẹp của sự thật ẩn tàng. Phân tích từ nguyên, yugen được cấu thành từ yu  (u) có nghĩa là sâu, là mơ hồ, không nhìn rõ, còn gen  (huyền) vốn để chỉ bóng tối, sự sâu sắc, màu tịch lặng của vũ trụ, để chỉ cho cái bản thể chân thật trong Đạo giáo. Quan niệm của Zeami về yugen kết hơp nghĩa thông thường của từ này là cái đẹp ưu nhã với nghĩa từ nguyên vốn nói đến sự thẳm sâu, huyền nhiệm của vũ trụ. Zeami cảm nhận cái đẹp huyền nhiệm trong chân lý vũ trụ; có thể nói cái đẹp là màu sắc của chân lý” (tr.103).

Hơn thế, bài chuyển ngữ còn làm rõ thêm nguyên lý mô phỏng trong kịch No và qua đó cho ta thêm tấm gương phản chiếu “mô phỏng” trong quan niệm Aristotle và có lẽ như PGS. TS. Đoàn Lê Giang chia sẻ, tập sách có thể tạo ra thêm cơ hội kết nối và soi sáng quan niệm văn học phương Đông - phương Tây. Nếu như quan niệm mô phỏng trong kịch No của Zeami cho rằng:

Thuật ngữ “mô phỏng” không còn được sử dụng như nghĩa thông thường nữa. Zeami gọi nó là “cảnh giới không mô phỏng”. “Trong nghệ thuật mô phỏng (mono mane)”, ông nói, “có một cảnh giới gọi là ‘không mô phỏng’. Khi diễn viên theo đuổi nghệ thuật này đến tận cùng và thực sự thể nhập vào đối tượng, anh ấy sẽ không còn nhận ra là mình đang mô phỏng”. Đồng nhất là trạng thái cuối cùng của mô phỏng” (tr.100).

Nhưng, sự đồng nhất này, không có nghĩa bê hoàn toàn đặc trưng có thực của đối tượng lên sân khấu, hơn thế, nguyên lý mô phỏng trong kịch No có những giới hạn nhất định và chính điều này cho thấy sự quan tâm của người nghệ sĩ đối với sự tiếp nhận của người xem. “Vì thế, diễn viên cần phải biết mức độ vừa phải khi mô phỏng một đối tượng. Thước đo mức độ này là bản thân hiệu quả tiếp nhận mà diễn xuất tạo ra. Đó là cái đẹp, hay Zeami gọi là Hoa” (tr.102). Khi so sánh, mô phỏng trong thi học Ấn Độ (cụ thể với khái niệm anukarana / anukirtana / anukriti[2]) nhắm tới tính chất đồng dạng của đối tượng mô phỏng và đối tượng được mô phỏng; cùng với đó là khả năng cách điệu cao trong sự thể hiện. Mô phỏng trong quan niệm thi học Ấn Độ dường như cũng tránh gây ra phản ứng tiêu cực thái quá đối với người xem, và ở chỗ này, khá gần gũi với quan niệm của Zeami trong việc tuân thủ nguyên lý mô phỏng để đạt đến chín muồi thẩm mỹ “Hoa”.

Nhìn chung, tập sách “Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” của tập thể nhà nghiên cứu ở Khoa Văn học đã mở ra rất nhiều cơ hội và triển vọng nghiên cứu văn học. Ở đó, người đọc thấy đồng thời tinh thần bảo lưu, giữ gìn, phát huy giá trị truyền thống và tinh thần cởi mở, tiếp thu, hội nhập với sinh hoạt học thuật quốc tế.

Nhà nghiên cứu Trần Bảo Định – tác giả bài viết

3. Những triển vọng cho sinh hoạt nghiên cứu văn học

Bên cạnh những nhà khoa học thâm niên và đã thực hiện nhiều công trình khoa học trong lĩnh vực nghiên cứu, thì tập sách “Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng” tạo vùng “Đất hứa” giúp nhiều cây bút Lý luận - phê bình trẻ thực hiện ước vọng gieo hạt nảy mầm. Rõ là, qua từng bài viết được tập hợp và tuyển chọn, các nhà nghiên cứu trẻ đã cho thấy nội lực đáng kể, nền tảng lý luận vững vàng, hàm lượng khoa học dồi dào. Như, bài viết của ThS. Nguyễn Đình Minh Khuê với sự trình bày đi từ triết học hiện tượng luận đến phê bình hiện tượng luận. Đây là tín hiệu rất đáng mừng và đầy triển vọng, hứa hẹn thế hệ tiếp nối, đầy đủ khả năng thúc đẩy nền lý luận phê bình (đặc biệt ở khu vực phía Nam) có thêm bước tiến. Nhà nghiên cứu trẻ Nguyễn Đình Minh Khuê cho thấy khả năng tư duy trừu tượng và đặc biệt, khả năng kết nối giữa khoa học và sự mơ mộng của thi ca qua trường hợp Gaston Bachelard. Nguyễn Đình Minh Khuê giúp ta thuận tiện tìm hiểu thêm về Bachelard, cũng như giúp người đọc dễ đàng di từ địa hạt khoa học sang địa hạt mộng tưởng. Hơn nữa, người đọc cảm nhận một tâm hồn phương Tây lại rất phương Đông. Đó là, phê bình hiện tượng luận các thi ảnh và một siêu hình học về mơ mộng thi ca. Qua đó, người đọc đồng cảm từ thực chứng sức trẻ, sự tươi mới và khát vọng của nhà phê bình.

Một trong những di sản tinh thần quý giá nhất mà phê bình hiện tượng luận của Bachelard còn để lại, vì thế, theo chúng tôi, chính là lời nhắc nhở đầy minh triết rằng: chúng ta thực ra luôn có những khoảng không, dù rất nhỏ, để sống một cách tinh khôi, toàn vẹn với chính mình, và ta có thể tin rằng, ít nhất là trong khi đọc văn chương và giao cảm cùng các thi ảnh, ta sẽ luôn có những con đường để hiện thực hóa những dự phóng tự do cháy bỏng trong ta, để vượt ra khỏi mọi chế định, mọi buộc ràng, mọi mạng lưới ký hiệu và ý nghĩa lúc nào cũng tìm cách chi phối, thống trị, thậm chí là hủy diệt chủ thể tính của ta” (tr.165).

Và, tín hiệu mới của tập sách có lẽ còn ở nhãn quan của các nhà nghiên cứu được thể hiện trong bài viết – nhãn quan giúp người đọc soi chiếu bởi chính những vấn đề của xã hội đương đại. Tập sách khiến người đọc – dù khó tính, cũng giật mình tự nhìn lại các vấn đề xã hội mà có lẽ, con người nào cũng dễ dàng nhận ra xung quanh mình. Do vậy, nghiên cứu khoa học không đơn thuần lãnh vực hàn lâm mà thực ra, rất gần – gần gũi với đời sống thường nhật của người bình dân. Đặc biệt, trong thế giới vận động ngày càng nhanh hơn, con người trở nên sinh vật đa liên kết. Hơn thế, trong nhận thức căn tính, con người hiện nay sống như “cộng đồng di cư” và quan niệm “nhà” của con người như thế cũng dần trở nên phức tạp. Theo nhà nghiên cứu Trần Tịnh Vy, thì:

Hơn thế nữa, chủ thể thậm chí có thể trải qua cảm giác mất quê hương ngay tại nơi mình sinh sống và bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi mà bản thân họ thuộc về, một không gian an toàn về mặt chính trị xã hội, văn hóa và tri thức mà người ta có thể gọi là nhà. Chủ thể di dân trải qua những trải nghiệm đa dạng và phức tạp của việc đồng thời được hòa nhập lẫn bị loại trừ. Do đó, khái niệm nhà trở nên phức tạp hơn nhiều so với cách tiếp cận cộng đồng diaspora truyền thống vốn dựa trên cảm thức hoài niệm, tình yêu quê hương và nguồn cội” (tr.200).

Từ việc soi chiếu quan niệm “nhà”, trên nền tảng quan niệm của nghiên cứu di cư, nhà nghiên cứu cho ta nhận ra nhà không chỉ nơi che nắng che mưa mà “nhà là những địa điểm hay nơi chốn chứa đựng những ý nghĩa xã hội, tâm lý và cảm xúc đối với mỗi cá nhân hay cộng đồng” (tr.191). Tính nhân loại phổ quát ở chỗ ta có thể nhận ra được những đồng cảm giữa những cộng đồng di cư (chẳng hạn tâm thức lưu dân Việt) với nghiên cứu cộng đồng diaspora. Nỗi niềm tha hương có lẽ trái tim nào cũng như nhau! Nhưng, nhờ đó, người đọc thấm thía nhận ra, với những người di cư hiện đại, quan niệm “nhà” lại khá phức tạp, nếu không nói là dần trở nên khu biệt ở cảm nhận cá nhân.

Bên cạnh bài viết liên lý thuyết với xã hội học (lý thuyết trường lực, nghiên cứu di cư), tập sách cũng có những bài viết đi sâu vào tiếp nhận và văn bản. Bên cạnh bài viết về phê bình phản hồi - độc giả, người đọc thấy bài viết liên quan đến ký hiệu học hàm nghĩa cũng rất mới mẻ và nhiều điểm gần gũi với quan điểm tiếp nhận. Người viết cũng cho thấy nhãn quan khoa học vận động. Ở chỗ, nhà nghiên cứu đã phát hiện ra và chú trọng làm rõ quan niệm văn bản người viết (writerly text) và văn bản người đọc (readerly text) của Roland Barthes.

Có hai khái niệm mà ông đưa ra liên quan đến hiện tượng này, là khái niệm writerly text và readerly text, để nhấn mạnh tính chất độc đáo nói trên của văn bản và người đọc. Writerly text nghĩa là phần viết của tác giả và phần chữ nghĩa toát ra từ nó; readerly text nhấn mạnh đến việc người đọc diễn giải và bổ sung cách nhìn, cách đọc của họ để hoàn thiện một tác phẩm. Tuy nhiên, hai loại văn bản này không phải là văn bản cụ thể, hữu hình, mà ông chỉ dùng để nhấn mạnh phần đọc và phần viết của văn bản, tức là một văn bản toát ra phần đọc giúp người đọc hiểu ngay nghĩa của nó, và phần viết là phần không được viết ra, nhưng người đọc vẫn hiểu, và là phần quan trọng mà người viết muốn nhắm đến. Văn bản người viết liên quan đến hành động viết của tác giả. Theo ông, văn bản người viết quan trọng và có giá trị hơn, vì nó làm cho người đọc không phải là một người tiêu thụ (consumer) mà là một người sản xuất (producer) ra văn bản trong quá trình đọc của mình” (tr.210).

Như nhà nghiên cứu đã nói, sự phân biệt này không phải một phân biệt hữu hình mà chỉ nhằm làm rõ thêm tính quá trình, tính vận động, tính tương tác, tính triển sinh của văn bản; cũng tức là nhấn mạnh vào sức sống không ngừng nảy nở, không ngừng biến đổi của văn bản – nhất là, đó lại là một bài thơ. Sức sống một bài thơ, có lẽ, qua nhãn quan này, người đọc có thể nhìn thấy sáng rõ hơn. Hình như, điểm nhấn tinh thần chung của tập sách: cởi mở, đổi mới…!

Bên cạnh trình bày hiểu biết tổng quan, sâu sắc về nền tảng lý luận, như tinh thần chung của tập sách, các nhà nghiên cứu đều nêu ra ở phần kết luận khả năng ứng dụng, triển vọng phát triển của lĩnh vực đang nghiên cứu.

Theo chúng tôi, Ký hiệu học hàm nghĩa còn có thể được sử dụng trong việc phê bình và khám phá các hình ảnh biểu trưng ở thể loại văn xuôi, nơi các ký hiệu ngôn ngữ và hình ảnh cũng như ý nghĩa của chúng không luôn hiển hiện, đặc biệt, khi mối liên kết giữa các tầng ý nghĩa khá lỏng lẻo và tự do. Ký hiệu học hàm nghĩa, do vậy, sẽ có thể là một phương pháp phê bình phù hợp cho các tác phẩm hiện đại và hậu hiện đại” (tr.218).

Không dừng lại ở những hiểu biết tổng quan, nhiều nhà nghiên cứu còn chú ý đến tính lịch sử của vận động văn học Việt Nam tương liên với văn học nước ngoài. Qua đó, nhà nghiên cứu rút ra được những hiểu biết như bài học kinh nghiệm cho việc nghiên cứu văn học nước nhà. Ngay ở những giai đoạn mang tính bước ngoặt, sự chuyển dịch hệ hình kéo theo hầu như mọi phương diện đời sống văn học. Đặc biệt, đó là một bước ngoặt thẩm mỹ. Có thể nói, bài viết của PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu chính là góc nhìn rộng và bao quát như thế. ““Chủ nghĩa tượng trưng xuất hiện như là một hiện tượng văn học quốc tế”. Từ quê hương của nó – nước Pháp – chủ nghĩa tượng trưng nhanh chóng trở thành hình thức thơ phổ biến, quyết định diện mạo thơ ca phương Tây và châu Âu. Hình thức thơ này cũng ảnh hưởng tới nhiều nền thơ của những nền văn hóa khác nhau, trong đó có cả những nền thơ thuộc các quốc gia Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam” (tr.237).

Thay lời kết

Như lời nói đầu của tập sách, công trình này là nỗ lực và sự kết hợp của nhiều khuynh hướng nghiên cứu khác nhau, nhằm mang lại bức tranh học thuật đa dạng đa màu sắc. Đó là sự kết hợp giao thoa giữa tinh thần xưa và nay, giữa phương Đông và phương Tây. Trong đó ta nhận thấy nổi bật là tinh thần dân tộc và bản địa hóa mạnh mẽ của nhãn quan nghiên cứu. Đồng thời, hầu hết nhà nghiên cứu đều có tâm thế cởi mở, tiếp thu và giao lưu quốc tế trong lao động học thuật. Nổi bật, có lẽ, vẫn là những bài viết dựa trên nền tảng lý luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX. Song, tập sách cũng cho thấy khuynh hướng mở rộng biên độ nghiên cứu và xu hướng vận động hòa nhập với sinh hoạt học thuật quốc tế. Đặc biệt, là những nhà nghiên cứu trẻ sung mãn nội lực và ước vọng.

“Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng”, tập sách giúp người đọc nhận tín hiệu mới với kỳ vọng mới trong sinh hoạt học thuật ở Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM; hứa hẹn một sự khởi động đột phá chiều sâu lẫn chiều rộng những vấn đề nền tảng lý luận, và triển vọng từ nghiên cứu văn học theo hướng liên ngành. Trọng tâm, kết nối nhiều thế hệ gắn bó – đặc biệt, những nhà nghiên cứu trẻ (trong và ngoài Khoa Văn học) – từng bước hình thành lực lượng nghiên cứu học thuật đạt chất và lượng ở khu vực phía Nam.

Xóm Cả Gừa, Rằm tháng Giêng, Giáp Thìn 24.2.2024

Trần Bảo Định

Nguồn: VanVn.vn, ngày 6.3.2024.

_________________________________

[1] Tác giả được tuyển chọn (Thứ tự theo mục lục): PGS. TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân, PGS. TS. Đoàn Lê Giang, PGS. TS. Lê Quang Trường, TS. Nguyễn Ngọc Bảo Trâm, ThS. Ngô Trà Mi, PGS. TS. Trần Lê Hoa Tranh, ThS. Lê Thị Kim Loan, ThS. Nguyễn Đình Minh Khuê, TS. Lê Ngọc Phương, TS. Trần Tịnh Vy, TS. Phạm Thị Hồng Ân, PGS. TS. Nguyễn Hữu Hiếu, ThS. Lê Thụy Tường Vy, TS. Hồ Thị Khánh Vân, PGS. TS. Phan Mạnh Hùng, PGS. TS. Võ Văn Nhơn – TS. Nguyễn Ngọc Bảo Trâm, TS. Nguyễn Thị Phương Thúy, TS. Đào Lê Na, PGS. TS. Trần Thị Phương Phương, GS. TS. Huỳnh Như Phương, ThS. Trần Thị Thùy Dương, TS. La Mai Thi Gia, TS. Lê Thị Thanh Vy.

[2] Phan Thu Hiền (2020). Lý luận về kịch trong Poetics của Aristotle và Natyasastra của Bharata. Nguồn: http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ngo%C3%A0i/p/ly-luan-ve-kich-trong-poetics-cua-aristotle-va-natyasatra-cua-bharata-1163

Tài liệu tham khảo:

–   Phan Thu Hiền  (2020). Lý luận về kịch trong Poetics của Aristotle và Natyasastra của Bharata.

Nguồn: http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghi%C3%AAn-c%E1%BB%A9u/V%C4%83n-h%E1%BB%8Dc-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ngo%C3%A0i/p/ly-luan-ve-kich-trong-poetics-cua-aristotle-va-natyasatra-cua-bharata-1163

– Khoa Văn học (2024). Lý luận - phê bình văn học: tìm hiểu và ứng dụng. TPHCM: Nxb. Đại học Quốc gia TPHCM.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Công tác xét duyệt đạo đức nghiên cứu (ĐĐNC) là quy chuẩn trong giảng dạy và thực hành nghiên cứu tại các trường đại học và các cơ sở nghiên cứu tại rất nhiều nơi trên thế giới. Tuy nhiên, tại Việt Nam, công tác này mới nhận được sự quan tâm trong thời gian gần đây; nhận thức của phần lớn giảng viên và những người làm nghiên cứu về ĐĐNC còn chưa đồng đều và có phần hạn chế. Đã có nhiều công bố phản ánh các trường hợp vi phạm liên quan đến các khía cạnh của ĐĐNC và tính liêm chính trong nghiên cứu, cùng các hành vi phi đạo đức. Trong một nghiên cứu của Armont và cộng sự (2021), các tác giả đã phân tích 14,719 công bố khoa học về các trường hợp vi phạm, lỗi đạo đức, đánh giá kém, hoặc thực hành nghiên cứu có hại đến khách thể. Kết quả cho thấy, sự ngụy tạo dữ liệu và làm giả thông tin chiếm tỷ lệ vi phạm cao nhất (44.9%); Không tuân thủ các luật và quy định liên quan, như thiếu sự đồng thuận của người tham gia và thiếu phê duyệt của hội đồng ĐĐNC, chiếm tỷ lệ vi phạm cao thứ hai (15.7%); Tiếp theo là vấn đề an toàn của bệnh nhân trong các nghiên cứu về y học (11.1%); Sau nữa là vấn đề vi phạm liêm chính học thuật mà cụ thể là đạo văn (6.9%). Khi phân tích theo lĩnh vực, 80.8% trường hợp thuộc lĩnh vực Y khoa và Khoa học Sức khỏe, 11.5% thuộc Khoa học Tự nhiên, 4.3% thuộc Khoa học Xã hội, 2.1% thuộc Kỹ thuật và Công nghệ, và 1.3% thuộc Nhân văn. Về các biện pháp xử lí đối với các hành vi vi phạm, nghiên cứu chỉ ra rằng, rút bài báo là biện pháp xử phạt phổ biến nhất (45.4%), tiếp theo là loại trừ khỏi đề xuất tài trợ (35.5%).

Trong bối cảnh giáo dục đại học và hoạt động nghiên cứu khoa học của Việt Nam đang nỗ lực nâng cao chất lượng và tiệm cận với các chuẩn mực quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH KHXH&NV), Đại học Quốc gia Tp.HCM (ĐHQG-HCM) đã thành lập Hội đồng Đạo đức nghiên cứu (Hội đồng ĐĐNC) theo quyết định số 905/QĐ-XHNV-TCCB ngày 30.12.2021. Hội đồng ĐĐNC được hình thành dựa trên quá trình nghiên cứu các bộ quy tắc ĐĐNC như Điều luật Nuremberg 1947, Tuyên bố Helsinki 1964, Báo cáo Belmont 1978 và các mô hình hội đồng ĐĐNC trên thế giới như mô hình ĐĐNC Đại học Oxford, Đại học Chicago, Hội đồng ĐĐNC trong lĩnh vực y sinh học ở Việt Nam (Ngọc và cộng sự, 2023). Hội đồng ĐĐNC có vai trò quan trọng trong việc nâng tầm chất lượng nghiên cứu khoa học của Nhà trường theo các chuẩn mực quốc tế. Với nhiệm vụ cụ thể là xem xét các khía cạnh ĐĐNC của các nghiên cứu được đề xuất và đang tiến hành liên quan đến đối tượng con người, Hội đồng ĐĐNC sẽ tư vấn, giám sát các vấn đề liên quan đến ĐĐNC cho các nhà nghiên cứu, cũng như bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và sự an toàn thể chất và tinh thần của các đối tượng con người tham gia nghiên cứu. Các nội dung hoạt động của Hội đồng ĐĐNC bao gồm: (1) Bảo vệ quyền và các lợi ích chính đáng của tất cả các khách thể nghiên cứu là con người, đặc biệt là những người thuộc vào các nhóm yếu thế trong xã hội tham gia vào các nghiên cứu thuộc phạm vi xét duyệt của Hội đồng; (2) Xem xét các vấn đề cần nghiên cứu nhằm đảm bảo rằng việc thực hiện nghiên cứu phải phục vụ những lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức và xã hội nói chung; (3) Đảm bảo các chuẩn mực ĐĐNC và tuân thủ pháp luật, cũng như các quy định có liên quan đến quyền lợi, an sinh, an toàn của con người.

Hội đồng ĐĐNC của trường ĐH KHXH&NV là hội đồng đầu tiên tại Việt Nam thực hiện việc xét duyệt ĐĐNC trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Các hoạt động xét duyệt ĐĐNC cho học viên sau đại học đã được triển khai trong 2 năm vừa qua theo công văn số 288/XHNV-ĐN&QLKH ban hành vào ngày 5 tháng 5 năm 2022. Kể từ đó, Phòng quản lý đào tạo phổ biến và thực hiện quy trình xét duyệt ĐĐNC dành cho học viên cao học và nghiên cứu sinh. Để nâng cao nhận thức về ĐĐNC và phổ biến thủ tục xét duyệt ĐĐNC cho các đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ, Hội đồng ĐĐNC đã triển khai chuỗi tọa đàm dành cho từng đối tượng liên quan bao gồm, lãnh đạo các đơn vị chuyên môn, giảng viên, nghiên cứu viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh trong năm 2023.

Hàng năm, Trường ĐH KHXH&NV có hàng trăm học viên cao học và nghiên cứu sinh theo học. Do đó, không ngừng gia tăng nhận thức về ĐĐNC và thực hành chuẩn mực về xét duyệt ĐĐNC trước khi tiến hành nghiên cứu là việc rất cần được quan tâm. Trong bài viết này, chúng tôi trình bày hai nội dung chính: (1) các nguyên tắc căn bản về đạo đức trong nghiên cứu; (2) các vấn đề không tuân thủ ĐĐNC và các hệ quả. Từ đó, chúng tôi đề xuất giải pháp để nâng cao nhận thức về ĐĐNC đối với các học viên sau đại học.


2. NỘI DUNG

2.1. Các nguyên tắc căn bản về đạo đức trong nghiên cứu
Căn cứ quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội đồng ĐĐNC Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, việc xét duyệt ĐĐNC dựa trên các nguyên tắc sau đây:

2.1.1. Nguyên tắc tôn trọng các cá nhân
Dựa trên cơ sở quyền tự quyết của cá nhân, người tham gia nghiên cứu trong vai trò khách thể nghiên cứu có quyền tham gia hoặc không tham gia nghiên cứu. Trong trường hợp quyền tự quyết của cá nhân không được đảm bảo (ví dụ như trẻ em, tù nhân, hay các cá nhân có năng lực trí tuệ và học vấn không thể hiểu trọn vẹn những hàm nghĩa và hệ quả của việc tham gia nghiên cứu) thì người tham gia nghiên cứu sẽ phải được bảo vệ để tránh khỏi những điều gây hại cho họ, cũng phải được tránh khỏi sự lệ thuộc vào những điều khoản khi tham gia nghiên cứu. Để đảm bảo quyền tự quyết của cá nhân khi tham gia nghiên cứu, Hội đồng ĐĐNC phải đảm bảo các nghiên cứu đáp ứng các điều kiện cần thiết, bao gồm:

- Sự đồng thuận tự nguyện tham gia nghiên cứu, có nghĩa là tất cả các khách thể tham gia nghiên cứu một cách tự nguyện, không chịu bất kỳ sự ép buộc hay dụ dỗ nào, các quyền, nhân phẩm và sự tự chủ của họ phải được tôn trọng và được bảo vệ bằng những biện pháp phù hợp.

- Sự đồng thuận dựa trên cơ sở nắm rõ thông tin, có nghĩa là khách thể phải được cung cấp đầy đủ những thông tin phù hợp liên quan đến nghiên cứu theo cách dễ hiểu nhất và không có sự ép buộc hay dụ dỗ nào kèm theo. Khách thể được đọc hoặc nghe nội dung bản mô tả thông tin về nghiên cứu và xác nhận bằng chữ ký hoặc lời nói có ghi lại bằng chứng; hoặc được đọc mô tả thông tin về nghiên cứu trên phần mở đầu của các bản khảo sát và chỉ trả lời khảo sát khi đồng ý tham gia nghiên cứu. Đối với khách thể là trẻ em dưới 13 tuổi và người có sự giám hộ thì phụ huynh hoặc người giám hộ phải được cung cấp thông tin và xác nhận sự đồng thuận tham gia.

- Bảo vệ quyền riêng tư và ẩn danh thông tin, có nghĩa là tôn trọng mong muốn của cá nhân tham gia nghiên cứu đối với việc ẩn danh trong nghiên cứu, cũng như tôn trọng những yêu cầu liên quan đến tính bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân. Hội đồng ĐĐNC sẽ xem xét việc sử dụng các loại dữ liệu trong nghiên cứu bao gồm dữ liệu lớn (big data) và dữ liệu cá nhân (về hình ảnh, ghi âm, ghi hình thực nghiệm, v.v…) sao cho đảm bảo những nguyên tắc cơ bản của ĐĐNC cũng như luật pháp quốc gia và các thông lệ quốc tế.

- Ngưng tham gia và rút khỏi nghiên cứu mà không chịu bất kỳ một mất mát hay sự giảm sút cơ hội nào, có nghĩa là các khách thể có thể không tiếp tục tham gia nghiên cứu ở bất cứ giai đoạn nào trong suốt quá trình nghiên cứu. Việc ngưng không tham gia nghiên cứu phải được tôn trọng tuyệt đối và khách thể không gặp phải bất kỳ sự ép buộc hay đe doạ nào.

- Nghiên cứu hành vi và lời nói nơi công cộng: Những hành vi và lời nói nơi công cộng mà công chúng có thể quan sát và ghi nhận (thí dụ hành vi trên xe buýt, trên bãi biển, trên truyền thông đại chúng, hay ở những không gian công cộng khác) thì nhà nghiên cứu không phải xin phép những khách thể được quan sát nếu không nêu danh tính cụ thể của khách thể được quan sát trong báo cáo học thuật

2.1.2. Nguyên tắc hướng thiện và tránh hại

Các nghiên cứu cần hướng đến việc tối ưu hoá lợi ích chính đáng và giảm thiểu tối đa những rủi ro tiềm tàng có thể xảy đến cho khách thể. Những rủi ro có thể xảy ra bao gồm các tác động tiêu cực đến tâm lý, thể chất, hoặc những nguy cơ rò rỉ thông tin cá nhân, nguy cơ mang tính chất pháp lý, xã hội và kinh tế đối với khách thể. Để thực hiện được nguyên tắc này, Hội đồng ĐĐNC sẽ đánh giá các rủi ro cũng như lợi ích của việc tham gia nghiên cứu đối với các khách thể. Việc đánh giá này được thực hiện dựa trên cơ sở sau.

- Xem xét những rủi ro của việc tiến hành nghiên cứu trong tương quan với những lợi ích đối với cá nhân là khách thể nghiên cứu và xã hội nói chung. Trong những trường hợp cụ thể, Hội đồng ĐĐNC sẽ cân nhắc giữa rủi ro đối với cá nhân và lợi ích xã hội của nghiên cứu, điều này phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể của từng nghiên cứu. Nói cách khác, nếu có rủi ro gây hại nào đó thì phải ở mức chấp nhận được và lợi ích dự kiến phải vượt trội so với rủi ro gây hại.

- Nghiên cứu cần được thiết kế sao cho giảm thiểu những rủi ro và tối ưu hóa những lợi ích có thể mang lại cho khách thể. Hội đồng ĐĐNC sẽ xem xét phương pháp thu thập và xử lý dữ liệu trong sự so sánh với các phương pháp có thể thay thế và các giải pháp phòng ngừa những rủi ro có thể xảy ra.

- Các xung đột lợi ích (nếu có) cần phải được giảm thiểu và quản lý sao cho hạn chế tối đa sự thiên vị trong các quyết định quan trọng của quá trình nghiên cứu. Xung đột lợi ích hình thành khi nhà nghiên cứu không hoặc có nguy cơ không giữ được vai trò độc lập trong nghiên cứu do có những lợi ích liên quan đến bản thân hay những bên liên quan khác phát sinh trong quá trình nghiên cứu; hoặc do có những cam kết hay nghĩa vụ đối với các cá nhân hay tổ chức có khả năng tác động đến tính độc lập trong quá trình tiến hành nghiên cứu. Những xung đột lợi ích này có thể tồn tại trực tiếp hoặc tiềm ẩn, và nhà nghiên cứu cần phải công khai những yếu tố có thể được nhìn nhận là xung đột lợi ích từ phía các bên liên quan trong quá trình nghiên cứu, bao gồm cả khách thể nghiên cứu, và đề xuất các phương án giảm thiểu rủi ro xung đột lợi ích.

- Chỉ sử dụng các biện pháp thu thập thông tin một cách bí mật trong trường hợp thực sự cần thiết để tránh đi ngược lại nguyên tắc tôn trọng cá nhân. Bất kỳ nghiên cứu nào có sử dụng các phương pháp thu thập dữ liệu một cách bí mật đều phải được thẩm định toàn diện bởi Hội đồng ĐĐNC và nhà nghiên cứu phải giải trình về tính chính đáng của việc áp dụng này bằng các luận cứ khoa học vững chắc và cho thấy đó là lựa chọn không thể thay thế bằng những phương pháp khác.

2.1.3. Nguyên tắc công bằng

Các nghiên cứu phải mang tính công bằng giữa các cá nhân. Các cá nhân không được hưởng những quyền lợi chính đáng của mình mà không có lý do thỏa đáng, hoặc họ phải chịu những trách nhiệm hay nghĩa vụ bị áp đặt một cách vô lý thì khi đó sự công bằng bị phá vỡ. Nguyên tắc này đòi hỏi sự công bằng trong phân bổ cả lợi ích và nguy cơ rủi ro cho khách thể tham gia nghiên cứu, cũng như những lợi ích chính đáng mà khách thể được hưởng. Do đó, nhà nghiên cứu cần phải thận trọng xem xét những tác động xã hội của nghiên cứu trong cả việc lựa chọn khách thể cũng như các lợi ích và rủi ro có khả năng phát sinh trong quá trình nghiên cứu. Nguyên tắc này được thể hiện qua các điểm sau.

- Các rủi ro tiềm tàng khi thực hiện nghiên cứu phải được chia sẻ một cách công bằng giữa các nhóm và cá nhân có khả năng được hưởng lợi từ nghiên cứu đó trong xã hội. Hội đồng ĐĐNC sẽ thẩm định những đặc điểm của quần thể mẫu mà nghiên cứu hướng đến.

- Nhà nghiên cứu không được phép chủ tâm lựa chọn một cách có hệ thống những cá nhân nhất định do có khả năng dễ dàng tiếp cận hoặc giữ một vai trò hay vị trí trái ngược hoàn toàn với những vấn đề liên quan trực tiếp đến nghiên cứu. Các cá nhân trong một số nhóm xã hội mà Hội đồng ĐĐNC sẽ lưu ý là người dân tộc thiểu số, người đang trong tình trạng bị giới hạn tự do cá nhân (tù nhân) v.v…
Ngoài ra, việc tránh không lựa chọn các cá nhân thuộc những nhóm xã hội có tiềm năng hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu cũng được xem là vi phạm nguyên tắc này.

2.1.4. Nguyên tắc trung thực, chính xác và liêm chính khoa học
Nguyên tắc này cần được nhà nghiên cứu thể hiện qua các điểm sau.

- Trung thực trong việc lựa chọn các phương pháp, công cụ nghiên cứu dựa trên trình độ, chuyên môn được đào tạo và đủ thẩm quyền để tiến hành.

- Trung thực và chính xác về chi phí tài chính trong các hoạt động nghiên cứu.

- Trung thực và chính xác trong sản phẩm và công bố khoa học; không cố ý bỏ qua, gian lận, hoặc trình bày sai lệch chuyên môn về nghiên cứu và che giấu những hạn chế thực tế và tiềm năng.

- Ghi nhận sự đóng góp chuyên môn của cá nhân và tổ chức nghiên cứu: trong những báo cáo khoa học và các ấn phẩm được xuất bản, nếu có sự hợp tác từ các đồng nghiệp, sinh viên hay tổ chức thì cần ghi nhận công khai sự đóng góp của họ.

2.1.5. Những nguyên tắc khác
Bên cạnh những nguyên tắc nêu trên, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, các nghiên cứu cũng cần phải tuân theo một số nguyên tắc khác, bao gồm:

- Tôn trọng, tuân thủ và thượng tôn luật pháp quốc gia ở nơi tiến hành nghiên cứu;

- Bảo vệ môi trường và sự sống của các thế hệ tương lai;

- Bảo vệ và tôn trọng các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của các cộng đồng khi tiến hành nghiên cứu.

2.2. Thực trạng xét duyệt ĐĐNC
Trong 2 năm vừa qua (từ 2022 đến 2024) Hội đồng ĐĐNC đã thực hiện xem xét và phê duyệt 31 đề tài nghiên cứu. Số lượng các đề tài gia tăng, năm 2022: 2 đề tài; Năm 2023: 14 đề tài; Năm 2024 (tính đến tháng 6/2024): 15 đề tài. Tất cả đề tài đều thông qua hình thức xét duyệt hồ sơ, trong đó có 18 đề tài của nhà nghiên cứu trong trường, 13 đề tài của nhà nghiên cứu ngoài trường.
Đối với việc xét duyệt ĐĐNC ở cấp đơn vị chuyên môn, phần lớn các khoa đã tiến hành theo đúng quy định, ngoại trừ một số khoa chưa đào tạo hoặc chưa có học viên cao học thực hiện việc xét duyệt ĐĐNC vào thời điểm thống kê. Thông tin cụ thể theo dữ liệu của phòng Quản lý đào tạo như sau:

20240929 3

2.3. Các vấn đề không tuân thủ ĐĐNC và hệ quả
Trong quá trình xét duyệt ĐĐNC cho các đề tài của nhà nghiên cứu, của học viên cao học, và nghiên cứu sinh tại cấp đơn vị chuyên môn, chúng tôi tổng hợp một số vấn đề không tuân thủ ĐĐNC như sau:

- Thứ nhất, trong các bảng hỏi thu thập thông tin, nhà nghiên cứu yêu cầu thu thập thông tin cá nhân của người tham gia (chẳng hạn tên, địa chỉ) mà không thuyết minh tại sao cần những thông tin này và không trình bày cách bảo mật những thông tin này;

- Thứ hai, nhà nghiên cứu thu thập dữ liệu từ các khách thể nghiên cứu trước khi tiến hành xét duyệt ĐĐNC; 

- Thứ ba, nhà nghiên cứu có ý định thực hiện nghiên cứu có chủ đề nhạy cảm, chưa xác định rõ các rủi ro nghiên cứu, do đó chưa đề xuất các giải pháp giảm thiểu rủi ro trong nghiên cứu;

- Thứ tư, nhà nghiên cứu sử dụng các bảng hỏi khảo sát các vấn đề tâm bệnh lý (psychopathology) của người tham gia, tuy nhiên nhà nghiên cứu chưa ý thức được rủi ro từ các câu hỏi có nguy cơ kích hoạt các suy nghĩ tiêu cực hoặc cảm xúc khó chịu ở người tham gia.

- Thứ năm, nhà nghiên cứu thiếu bằng chứng về việc nhận được sự đồng thuận (informed consent) của người tham gia, hoặc chỉ cung cấp một phần thông tin liên quan đến nghiên cứu mà chưa cung cấp đầy đủ thông tin.

- Thứ sáu, nhà nghiên cứu tiến hành các thực nghiệm trên người tham gia là trẻ vị thành niên nhưng không báo cáo rõ việc xin sự đồng thuận thông tin với phụ huynh hoặc người giám hộ.

Việc không tuân thủ đạo đức trong nghiên cứu có thể dẫn đến nhiều hậu quả tiêu cực, bao gồm:

- Gây hại cho người tham gia: Nghiên cứu phi đạo đức có thể gây tổn hại về thể chất, tâm lý hoặc cảm xúc cho người tham gia. Điều này bao gồm các rủi ro như tiếp xúc với các chất có hại, đau khổ về tâm lý hoặc vi phạm quyền riêng tư.

- Mất niềm tin: Nếu các hành vi phi đạo đức bị tiết lộ, điều đó có thể dẫn đến sự mất niềm tin đáng kể vào cộng đồng nghiên cứu, vào các cơ quan khoa học và vào các công trình nghiên cứu đã được công bố. Điều này có thể dẫn đến sự từ chối tham gia vào các nghiên cứu và làm suy yếu niềm tin của công chúng vào khoa học.

- Kết quả không hợp lệ: Nghiên cứu được thực hiện mà không có sự giám sát về ĐĐNC có thể mang lại kết quả không đáng tin cậy hoặc không hợp lệ, có thể gây hiểu nhầm cho các nhà nghiên cứu, nhà hoạch định chính sách và công chúng. Điều này có thể dẫn đến việc đưa ra quyết định kém giá trị do đã dựa trên dữ liệu không hợp lệ. Ngày nay, nhiều tạp chí, đặc biệt là các tạp chí quốc tế uy tín đã không chấp thuận công bố kết quả nghiên cứu nếu nghiên cứu không được thông qua xét duyệt ĐĐNC.

- Hậu quả pháp lý: Các nhà nghiên cứu và tổ chức có thể phải đối mặt với hành động pháp lý nếu không tuân thủ các nguyên tắc đạo đức. Điều này có thể bao gồm các vụ kiện từ những người bị tổn hại khi tham gia nghiên cứu hoặc các biện pháp thi hành kỷ luật từ các cơ quan quản lý.

- Hậu quả về mặt học thuật: Các nhà nghiên cứu có thể phải đối mặt với các biện pháp kỷ luật từ tổ chức của họ, bao gồm việc rút lại các bài báo đã xuất bản, mất kinh phí hoặc gây tổn hại đến danh tiếng nghề nghiệp của họ.

- Hậu quả xã hội: Nghiên cứu phi đạo đức có thể làm trầm trọng thêm sự bất bình đẳng và bất công xã hội, đặc biệt nếu các nhóm yếu thế bị lợi dụng hoặc làm tổn hại dưới danh nghĩa nghiên cứu.

- Tính chính trực về mặt khoa học: Tính toàn vẹn tổng thể của nghiên cứu khoa học có thể bị tổn hại, dẫn đến một nền văn hóa không coi trọng sự cân nhắc về ĐĐNC, điều này có thể góp thêm hành vi phi đạo đức trong xã hội.

Tóm lại, việc không tuân thủ ĐĐNC có thể có tác động sâu sắc không chỉ đối với các cá nhân liên quan mà còn đối với toàn xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin vào khoa học, giá trị của các kết quả nghiên cứu và tiêu chuẩn đạo đức của nghiên cứu trong tương lai.


3. KẾT LUẬN & KIẾN NGHỊ
Các nguyên tắc ẩn danh, bảo mật thông tin và dữ liệu cá nhân, sự đồng thuận tham gia nghiên cứu với thông tin đầy đủ, người tham gia được ngưng tham gia và rút khỏi nghiên cứu mà không chịu bất kỳ một mất mát hay sự giảm sút cơ hội nào, hướng thiện, tránh hại, giảm thiểu các rủi ro trong nghiên cứu là những nguyên tắc căn bản trong thực hành ĐĐNC. Gia tăng nhận thức của học viên cao học, nghiên cứu sinh về thực hành ĐĐNC đúng đắn cần được quan tâm trong các trường đại học nói riêng và cộng đồng nghiên cứu nói chung. Chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau:

(1) Đưa nội dung về đạo đức trong nghiên cứu như là một nội dung bắt buộc trong môn Phương pháp nghiên cứu khoa học để giúp người học hiểu biết, nhận thức về việc tôn trọng ĐĐNC.
Người giảng dạy môn học này cần hiểu rõ và thực hành đúng về ĐĐNC. Họ cần giải thích thấu đáo cho học viên ý nghĩa của việc xét duyệt ĐĐNC, các nguyên tắc căn bản trong xét duyệt ĐĐNC, các hành vi thực hành sai hoặc không tuân thủ ĐĐNC, hệ quả của hành vi phi đạo đức trong nghiên cứu. Mặt khác, các giảng viên cần giảng dạy cho người học hiểu rõ nội hàm và phân biệt được các quy định giữa ĐĐNC (ethical research), tức là đảm bảo quyền lợi của người tham gia nghiên cứu với liêm chính học thuật (academic integrity), tức là đảm bảo sự chính trực về mặt học thuật của nhà nghiên cứu.

(2) Tổ chức các hoạt động tọa đàm, chuyên đề hoặc các sinh hoạt khoa học giúp gia tăng nhận thức và thực hành việc tôn trọng ĐĐNC với không chỉ người học, nhà nghiên cứu mà với cả cộng đồng.
Hiện nay, cộng đồng còn có nhận thức hạn chế về ĐĐNC, do đó điều này cũng ảnh hưởng tới việc đón nhận các thực hành đúng đắn của nhà nghiên cứu như: ký hoặc thể hiện các hình thức cho thấy sự đồng thuận có hiểu biết để tham gia nghiên cứu. Do đó, việc gia tăng nhận thức về đạo đức trong nghiên cứu sẽ góp phần xây dựng một quy ước chung trong quá trình làm nghiên cứu ở cả nhà nghiên cứu và người tham gia.

(3) Việc xét duyệt ĐĐNC cần trở thành một yêu cầu bắt buộc trong việc nghiệm thu các công trình khoa học hoặc bảo vệ tốt nghiệp các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ.
Để thực hiện điều này, Phòng Quản lý đào tạo và Phòng Đối ngoại và Quản lý khoa học của nhà trường cần bổ sung và thể hiện rõ các yêu cầu về phê duyệt ĐĐNC trong các văn bản liên quan đến công tác quản lý đào tạo sau đại học và quản lý các đề tài nghiên cứu và phổ biến đến các bên liên quan.

GS. TS. Lương Văn Hy (Thường trực Hội đồng ĐĐNC- Trường ĐH KHXH&NV-ĐHQG HCM)
PGS. TS. Nguyễn Hồng Sinh (Thường trực Hội đồng ĐĐNC- Trường ĐH KHXH&NV-ĐHQG HCM)
TS. Lê Thị Mai Liên (Thường trực Hội đồng ĐĐNC- Trường ĐH KHXH&NV-ĐHQG HCM)


4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Armond, A. C. V., Gordijn, B., Lewis, J., Hosseini, M., Bodnár, J. K., Holm, S., & Kakuk, P. (2021). A scoping review of the literature featuring research ethics and research integrity cases. BMC Medical Ethics, 22(1), 1-14.
Hội đồng ĐĐNC Trường ĐH KHXH&NV, Quy chế Tổ chức và hoạt động của Hội đồng ĐĐNC Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (Ban hành kèm theo Quyết định số: 906/QĐ-XHNV-TCCB ngày tháng 12 năm 2021 của Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn)
Ngọc C H, Tiến T A, Thanh N V D, 2023. Hội đồng ĐĐNC trong khoa học xã hội và nhân văn: Một số vấn đề lý luận và mô hình triển khai tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM. Sci. Tech. Dev. J. - Soc. Sci. Hum.; 7(2):1958-1968.

Trong những nhà giáo - nhà nghiên cứu được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2023, trên lĩnh vực văn học, có giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân Lê Văn Lân, giảng viên cao cấp của Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

20240118

         Là người Thanh Hóa, Lê Văn Lân được biết đến dưới bút hiệu đặt theo tên dòng sông quê hương: Mã Giang Lân. Bút hiệu này đứng trên chín tập thơ và 18 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình, nay đã được tập hợp trong Mã Giang Lân - Tuyển tập gồm bốn cuốn, dày 2.880 trang.

         Là chuyên gia về lý luận văn học và lịch sử văn học Việt Nam, Mã Giang Lân tập trung nghiên cứu lý thuyết thơ và thơ Việt Nam hiện đại. Những công trình tiêu biểu của ông về mặt này là Nhà thơ Việt Nam hiện đại (viết chung), Thơ - những cuộc đời, Sức bền của thơ (viết chung), Thơ Việt Nam 1954 - 1975, Tìm hiểu thơ, Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Thơ hiện đại Việt Nam - những lời bình, Thơ - hình thành và tiếp nhận, Những cấu trúc của thơ, Chiến tranh cách mạng và thơ ca. Ngoài ra ông còn tuyển chọn, biên soạn những tập thơ của Tế Hanh, Thâm Tâm, Thôi Hữu, Trần Mai Ninh và chủ biên tập 22, 23 bộ Tổng tập văn học Việt Nam. Hai công trình khác mở rộng đối tượng khảo sát và có sức khái quát là Văn học hiện đại Việt Nam: vấn đề, tác giả; Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX.

        Bàn về thơ, Mã Giang Lân quan niệm: “Có một mối quan hệ kỳ diệu giữa thơ và tuổi trẻ. Thơ là sáng tạo, làm thơ là một hành động sáng tạo. Và tuổi trẻ đồng nghĩa với tuổi sáng tạo, hành động sáng tạo. Hạnh phúc cho những ai giữ được thanh xuân cho đến già, không để cho tâm hồn mình nguội lạnh đi, khô cằn đi. Muốn thế, cách hữu hiệu là hòa mình vào cuộc sống nên thơ, tham gia vào hoạt động sáng tạo thơ. […] Tìm hiểu thơ là tìm hiểu cái hay cái đẹp của thơ, tìm hiểu cái hồn, cái dáng của nó, từ đó nhận diện, cảm thụ và có thể sáng tác thơ tùy theo hoàn cảnh, năng lực của mình”. (Tìm hiểu thơ, NXB Thanh Niên, 1997, tr. 7-8).

        Trong công trình Những cấu trúc của thơ, Mã Giang Lân nhìn thơ từ một góc độ khác: “Muốn nghiên cứu thơ, chúng ta phải nghiên cứu ngôn ngữ, vì thơ là một hình thức đặc biệt của ngôn ngữ. Nhưng không nên quan niệm nghiên cứu thơ là một nhánh của ngôn ngữ học. Thơ không phải là phòng thí nghiệm của ngôn ngữ học mà rộng hơn nó còn chứa đựng nhiều yếu tố, nhiều năng lượng khác để các ngành khoa học khác hướng tới”. (Những cấu trúc của thơ, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011, tr. 3).

         Trong ý hướng nghiên cứu đó, Mã Giang Lân đi tìm đặc trưng thể loại và phong cách các nhà thơ từ cấu trúc của văn bản thơ. Ông kết hợp cách tiếp cận nội tại với cách tiếp cận ngoại tại, nhờ vậy những nhận định, đánh giá của ông thường hài hòa, cân đối mà không rơi vào phiến diện hay cực đoan. Nhờ hòa mình vào đời sống văn học, lại là người sáng tác, nên ông có những mối quan hệ thân tình với các thế hệ nhà thơ, am hiểu lao động và tâm lý sáng tạo của họ. Có thể nói ông là người tri âm của Yến Lan, Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Thôi Hữu, Trần Mai Ninh, Ngô Văn Phú… và nhất là Tế Hanh. Nhưng hình như ngòi bút phê bình của ông hợp với những phong cách hiền hòa, thanh nhã hơn là những phong cách dữ dội, sắc sảo.

         Mã Giang Lân viết về Tế Hanh thật thuyết phục: “Tế Hanh tinh tế rút lấy cái thần, cái hồn của thiên nhiên để bộc lộ cảm xúc đa dạng, phong phú của trái tim mình. Đồng thời ông gửi vảo thiên nhiên cả cuộc sống tâm hồn mình khiến cho cảnh vật không chỉ có hình sắc mà chứa chất biết bao tiếng nói tự bên trong. Vốn là người yêu cái đẹp, suốt cuộc đời Tế Hanh luôn đi tìm và chắt chiu cái đẹp, từ vẻ đẹp thanh cao đến vẻ đẹp bình dị của cuộc đời, của thiên nhiên”. (Những cấu trúc của thơ, Sđd, tr. 238).

        Nói về khía cạnh tâm linh trong thơ Hoàng Cầm, Mã Giang Lân viết: “Hoàng Cầm linh thiêng hóa, tôn giáo hóa một vùng văn hóa đã phôi pha. Thế giới thơ Về Kinh Bắc lặng lẽ, âm thầm, mê hoặc. Thời gian, không gian mờ ảo, nhạt nhòa mà có khả năng hóa giải những đau buồn, đem đến một niềm tin dù còn xa vời vô vọng”. (Thơ và đời sống tâm linh, Tạp chí Thơ, số 12/2015).

        Đi vào thế giới phong phú và vi diệu của thơ, Mã Giang Lân tâm sự: “Thơ như cuộc đời, có khi nhận ra được, có khi lẩn khuất đâu đâu, có lúc hiểu được, có lúc mờ ảo khó nắm bắt, khó lý giải. Mỗi lần đọc, suy nghĩ, vô tình lại phát hiện ra thêm nét mới lung linh của nó. Mấy ai tự nhận là mình đọc và cảm được đúng, được đầy đủ vẻ đẹp của thơ, nhất là những bài thơ hay, thường có những hình ảnh, câu chữ đa nghĩa hàm chứa nhiều thông báo thẩm mỹ”. (Mã Giang Lân: Tuyển tập, Tập 1, NXB Văn học, 2017, tr. 5). Đó là kinh nghiệm rút tỉa từ một đời lao động học thuật và sáng tạo nghệ thuật.

         Con đường sáng tác thơ ca của Mã Giang Lân khởi đi từ truyền thống với những bài thơ mang phong cách trữ tình - sử thi, đặc biệt những tác phẩm viết về sông Mã và cầu Hàm Rồng trong chiến tranh: Nơi nghìn đời “long mã tranh châu”/ rồng uốn mình chồm tới/ ngựa quất đuôi dựng bờm tung vó/ Hòn Ngọc bên sông đứng giữa trời/ dưới dòng sông những tảng đá mồ côi/ những tảng đá như răng rồng lởm chởm/ những hang huyệt ngoằn ngoèo uốn lượn/ con cá măng phục sẵn chờ mồi/ đàn cá trôi thơ dại nhởn nhơ bơi/ cá anh vũ quây quần trong hang đá… (Hàm Rồng, trường ca).  

         Ông ưa chuộng thơ lục bát, đồng thời từng bước đổi mới thể thơ, ngôn ngữ thơ, tìm cách thay đổi nhịp điệu thơ bằng cách cài đặt những từ láy khi gieo vần ở câu tám chữ:

                            Mới sớm nắng lại trưa mưa

                     bạn bè sau trước đã lưa thưa dần

                            lối mòn khỏa hết dấu chân

                     người đi chẳng biết có bần thần không

                            người sau chỉ thấy mênh mông

                     một hoang vắng với một bồng bềnh xa.

                                                                   (Buồn)

           Ở đây, hình như nỗi sầu thiên cổ trong thơ Trần Tử Ngang, Bà Huyện Thanh Quan, Huy Cận được khúc xạ dung dị, nhẹ nhàng hơn mà cũng đời thường hơn.

           Đến những tập thơ gần đây, Mã Giang Lân đưa chất văn xuôi của cuộc sống hiện đại vào thơ một cách tự nhiên: Bảy người lên xe/ đi hướng nào không ai biết/ xe cứ chạy qua mưa phùn giá buốt/ người ta chất lên xe đủ thứ nợ đời/ la hét qua đi động/ Có con đường lồng lộng/ có con đường âm âm chui dưới gầm đường/ phía trước mờ mờ sương/ phía sau bao người giơ tay xương xẩu/ chẳng biết điều tốt hay xấu/ xe cứ đi mải mê theo ánh sánh lung linh/ hình như chiều sắp hết/ hình như chiếc cầu dài nhất/ đang bay/ Bàn nhau lảo đảo một ngày/ cứ ngồi im sẽ về nơi cũ. (Ngày đông chí).

          Những bài thơ như thế, chủ yếu trong ba tập thơ Những lớp sóng ngôn từ (2013), Phía sau tưởng tượng (2017) và Ngẫm nghĩ chiều (2021) cho thấy cảm hứng, tình điệu và giọng thơ của một tâm hồn đã thấu hiểu lẽ đời, thể hiện trong những tìm tòi nghệ thuật giúp thơ đến gần hơn với tâm cảm của người cùng thời.

          Huỳnh Như Phương

Lea Ypi, một trong mười nhà tư tưởng hàng đầu thế giới, chia sẻ những chiêm nghiệm về nghệ thuật dưới góc nhìn triết học, và về cách tiếp cận các vấn đề luân lý bằng văn chương trong cuộc trò chuyện tại Hà Nội.

Lea Ypi (1979) là tác giả gốc Albania và giáo sư lý thuyết chính trị ở Đại học London School of Economics. Năm 2022, bà được tạp chí Anh Prospect vinh danh là một trong mười nhà tư tưởng hàng đầu thế giới, và được tờ Frankfurter Allgemeine Zeitung của Đức coi là một trong những nhân vật văn hóa quan trọng nhất. Năm 2023, bà tiếp tục được tờ El Pais của Tây Ban Nha coi là một trong sáu nhà tư tưởng quan trọng nhất.

Cuốn hồi ký "Free: Coming of Age at the End of History" viết về tuổi thơ lớn lên với những biến động lớn ở Albania được xuất bản vào năm 2021 của bà đã giành được một loạt giải thưởng lớn.

Bài phỏng vấn này được thực hiện khi bà có mặt ở Hà Nội mới đây, trong đó bà chia sẻ những chiêm nghiệm về nghệ thuật dưới góc nhìn triết học, và về cách tiếp cận các vấn đề luân lý bằng văn chương.

20240923

Cuốn sách của bà có nhan đề Tự do. Ý tưởng về tự do của bà là gì?

Tự do với tôi là điều cung cấp nội lực cho sự tự quyết đạo đức (moral agency), vốn phân biệt chúng ta với các sinh vật khác. Trong mỗi chúng ta luôn có tiềm năng đạo đức, có nội lực để đứng lùi lại khỏi bản năng, khuynh hướng hoặc những ham muốn tự nhiên của mình, và luận lý về chúng. Nhưng tiềm năng đạo đức đó luôn bị làm méo mó trong các hệ thống chính trị khác nhau. Cuốn sách lần theo những thất bại của tự do ở Albania qua các thời đoạn lịch sử để cho thấy thất bại trong việc thực hiện tự do thực chất.

Làm cách nào để chúng ta duy trì sự tự quyết đạo đức độc lập ngay cả khi đối mặt với hạn chế vật chất trong đời sống thường ngày?

Cuốn sách đi sâu vào cách mà những con người bình thường duy trì sự tự quyết đạo đức bất chấp những hạn chế vật chất trong cuộc đời họ. Nó khám phá một ý tưởng rằng sự chính trực đạo đức là một khả năng thực chất mà ta có thể đạt được, dù không phải lúc nào cũng vậy. Đây cũng là điều gói ghém trong điều mà mọi người hay gọi là "các thánh đạo đức", nói cách khác, những minh chứng sống về những con người cá nhân mà, dù đối mặt thách thức đáng kể, vẫn đưa ra quyết định có đạo đức mà không thỏa hiệp sự chính trực của mình. Những hình tượng này cho chúng ta những "bằng chứng về tính khả thi". Chúng ta không cần những ví dụ thường hằng chứng minh rằng tính tự quyết đạo đức sẽ luôn được duy trì; thay vào đó, chỉ cần ta biết nó khả thi là đủ.

Có những người cho rằng bởi vì tính chính trực đạo đức không phải lúc nào cũng được duy trì, thực chất nó không hề khả thi. Chính vì vậy mà việc có các ví dụ này càng quan trọng - những minh chứng của phẩm tính - những người cho ta thấy một thế giới có đạo đức là có thể đạt được, dù rất khó khăn. Nghệ thuật và văn học đóng một vai trò quan trọng trong điều này, khi chúng mang cho ta những ví dụ, dù đến từ đời thật, những tình thế tưởng tượng, những sự kiện lịch sử, hay từ những suy nghiệm về chính trị. Những ví dụ này truyền cho ta cảm hứng và nâng tư duy ta lên, cho ta đức tin vào nội lực đạo đức của chính mình.

Ý tưởng này gắn chặt với quan niệm của Schiller rằng mỹ học là biểu tượng của đạo đức. Nghệ thuật cho ta hé nhìn vào một thế giới có thể thành thật, cho ta thấy sự chính trực trong đạo đức là có thể đạt tới, và truyền cho ta cảm hứng để hành động dựa trên niềm tin đó. Qua ống kính này, nghệ thuật mang đến hy vọng và niềm trấn an rằng ta không phải đang lạc quan tếu hay tin vào truyện cổ tích mà việc cư xử có đạo đức cũng là một phần của việc làm người, giống như chệch hướng khỏi quy phạm đạo đức cũng là một phần của việc làm người.

Trong cuốn sách tiếp theo viết về người bà của mình, bà bày tỏ quan niệm coi "nghệ thuật như một công cụ giáo dục cảm quan chính trị" được chủ trương bởi Schiller, một người vốn tin rằng "nghệ thuật, giống như khoa học, gắng vọt lên thoát khỏi lề thói con người", bà giải thích rõ hơn được không?

Schiller viết vào đúng thời khởi phát của Cách mạng Pháp, ông tiếp tục suy tư về hệ quả của Cách mạng Pháp cho đến sau này. Ông đã viết trong một bối cảnh chính trị rất chia rẽ và phân cực.

Sau cuộc Cách mạng Pháp, ý tưởng của cuộc cách mạng mà các triết gia, nghệ sĩ và học giả vẫn hằng ủng hộ lại gây nên những thái cực chính trị cực đoan, khiến nhiều người tuyệt vọng khi chứng kiến cách những lý tưởng được hiện thực hóa. Trong bối cảnh đó, Schiller viết về sự tiêu tan của ý tưởng cổ điển về sự hòa hợp, về tầm quan trọng bức thiết của thống nhất và hòa giải trong một thế giới vô cùng chia rẽ và phân cực. Ông nghĩ rằng khi chính bản thân chính trị bị phân hóa và thao túng đến nhường ấy, thì rất khó có được thay đổi đi ra chỉ từ lĩnh vực chính trị. Cần có một thứ khác, ông tin tưởng rằng nó đến từ nghệ thuật và văn học, vì chúng dễ thoát khỏi sự thao túng chính trị hơn.

Những hàm ý từ đây cho thời đại của chúng ta rất quan trọng bởi ở nhiều mặt chúng ta đã mất đi khả năng để nghĩ về một loại nghệ thuật chú tâm, dấn thân vào xã hội và chính trị. Phần lớn nghệ thuật ngày nay muốn tiến hành trong thế tách biệt hoàn toàn với những kiềm tỏa xã hội và chính trị. Điều này vô cùng thách thức vì về một mặt, việc khơi lại khuynh hướng xã hội của nghệ thuật và việc gợi cho con người phản tư về chính trị là thực sự quan trọng, nhưng mặt khác, ta không muốn nghệ thuật chỉ thuần túy là công cụ tuyên truyền. Chỉ khi nghệ sĩ có được quyền tự do thì nghệ thuật mới có thể đóng góp để mài dũa khả năng phản tư mà nhờ những khả năng đó ta cải thiện được chất lượng của thảo luận công cộng. Đó là lý do vì sao tôi nói rằng chúng ta nên quay về việc suy nghĩ lại vai trò của người nghệ sĩ và giáo dục thẩm mỹ trong việc cải thiện đạo đức của mình.

Giáo sư Lea Ypi: "Tiểu thuyết khuyến khích niềm khoan dung..." - Ảnh 2.

Giáo sư Lea Ypi

Vậy bà quan niệm như thế nào về việc nghệ thuật là một hình thức giáo dục chính trị? Trong hình dung đó, vai trò của phê bình nghệ thuật là gì? Liệu nhiệm vụ của người phê bình thuần túy là chắt lọc lại bài học đạo đức từ tác phẩm nghệ thuật?

Tôi không nghĩ chúng ta nên loại trừ hoàn toàn các suy xét về mặt luân lý khỏi phê bình nghệ thuật, nhưng chúng ta nên chống lại những hướng diễn giải cho rằng nghệ thuật chỉ nên là nói đến chính trị. Với tôi điều quan trọng là ta phải hiểu rằng trong bất cứ bối cảnh sản xuất nghệ thuật nào cũng có những khó khăn đặc thù. Ở những quốc gia như của tôi - Vương quốc Anh - có những ràng buộc về tài chính liên quan đến môi trường tư bản chủ nghĩa nơi chúng tôi làm việc, những ràng buộc liên quan đến hướng đi của dòng tiền, và sự phụ thuộc vào nhà tài trợ nắm nhiều quyền thế.

Sẽ có những bối cảnh khác nơi vấn đề không nằm ở tiền bạc của tư nhân mà là tài chính và sự kiểm soát nghệ thuật từ phía công quyền. Phê bình nghệ thuật có thể lưu tâm đến những câu thúc này, những khủng hoảng mà từ đó tác phẩm nghệ thuật nảy nở, cách mà các tác phẩm nghệ thuật phản chiếu lại thời đại của mình, cũng như đóng góp từ người nghệ sĩ vào cuộc phản tư đó. Nhưng chúng ta phải làm những việc đó mà không rơi vào khuôn định rằng nghệ thuật phải như thế nào đó mới là nghệ thuật, vì hành động khuôn định đó là một kiểu kiểm duyệt áp lên người nghệ sĩ. Thành thử, việc đa nguyên hóa cuộc tranh luận và khuyến khích suy tư về xã hội mà không áp một khuôn mẫu xem cái suy tư xã hội đó phải như thế nào là rất quan trọng.

Nếu ta giới hạn nghệ thuật quá mức vào chiều kích xã hội của nó, ta sẽ hủy hoại chính cái chức năng xã hội đó. Nhưng mặt khác, nếu ta nói rằng nghệ thuật phải luôn phi chính trị thì cũng có vấn đề, vì vậy là ta đã tách rời nghệ thuật khỏi những lĩnh vực khác, và ta sẽ không còn nghĩ về văn hóa theo một hướng bao quát. Đó là một mất mát. Việc cô lập một cách cực đoan nghệ thuật khỏi tất thảy khoa học, lý thuyết xã hội, chính trị, tiến bộ công nghệ... bản thân nó là một mối nguy.

Bà nghĩ nghệ thuật có thể thay thế lý luận đạo đức và triết học như một công cụ tìm đến chân lý triết học không?

Không, tôi không nghĩ nó thay thế được triết học. Mỗi thứ phải đảm nhận một vai trò riêng và cả hai đều quan trọng. Tôi nghĩ với mọi thứ thì điều quan trọng phải nghĩ về sự phức tạp và đa dạng thay vì hoặc cái này hoặc khác. Ví dụ, lập luận triết học rất quan trọng, đặc biệt là trong truyền thống triết học mà tôi được đào tạo, triết học phân tích. Đó là vì tư duy triết học luôn đi kèm sự sáng sủa của tư duy, sự mạch lạc và sự nhất quán - nói chung là tư duy logic. Tất cả những điều này rất quan trọng để xây dựng lập điểm tốt và rèn dũa khả năng lập luận tốt.

Song, thường thì đây là điều trái ngược với những gì văn chương cần có. Văn chương là nơi ta đưa ra cảm xúc, lý giải những giới hạn của tư duy trừu tượng và nguyên tắc triết học. Tôi luôn nghĩ triết học như một công cụ để tạo ra sự chắc chắn và tìm đến chân lý, còn công việc của văn chương là làm lung lay chân lý và khơi lên sự bất định. Đôi khi tôi nghĩ chúng ta cần cả hai, cũng như tâm hồn con người cần cả hai: rõ ràng và nhất quán và logic ở một mặt, nhưng cũng cảm xúc và nổi loạn ở mặt còn lại. Tôi không nghĩ cái nào quan trọng hơn cái nào.

Bà có nghĩ rằng văn học phải mang nghĩa vụ đạo đức không? Làm sao để thực hiện nghĩa vụ đó mà không rơi vào giáo điều với những tác phẩm chán ngắt?

Tôi nghĩ cuộc đời của tất cả chúng ta đều cấu trúc dựa trên các nghĩa vụ đạo đức và những điều mang lại ý nghĩa cho việc ta là người, đối lập với các loài sinh vật khác nằm chính ở việc ta có thể lý luận về những nghĩa vụ đó. Nhưng tôi không nghĩ ta nên đi đặt cho một tác giả là anh có nhiều nghĩa vụ này hay ít nghĩa vụ kia hơn. Nói cách khác, ta không nên giám sát nghệ thuật.

Tôi nghĩ cách một tác phẩm được tiếp nhận mới là cái nói lên liệu tác phẩm đó có ở lại trong lòng công chúng, tạo ra suy tư và phê bình. Người phán quyết một tác phẩm phải là công chúng. Ta phải để cho tác phẩm nghệ thuật và sự sáng tạo phát triển. Có thể không phải tất cả đều thành công và có cùng mức độ suy tư và tiếp nhận; chúng ta có khi sẽ phải bàn luận với nhau về tầm quan trọng của một số chủ đề nhất định và cố gắng nhạy bén hơn với một số đề tài, nhưng tôi không nghĩ ta nên quy định một người phải viết hay sáng tạo ra tác phẩm như thế nào.

Giáo sư Lea Ypi: "Tiểu thuyết khuyến khích niềm khoan dung..." - Ảnh 3.

Giáo sư Lea Ypi: "Tiểu thuyết khuyến khích niềm khoan dung..." - Ảnh 4.

Các tác phẩm của Lea Ypi

Trong cuốn Tự do, một kỹ thuật được bà sử dụng để truy tầm các vấn đề triết học mà không rơi vào kiểu luận bàn rao giảng đạo đức, là cung cấp cho mỗi quan điểm một chỗ để cất tiếng. Trong thuật ngữ phê bình văn học, đó có thể gọi là "đa thanh". Liệu tính đa thanh có phải một thước đo phân biệt giữa cách tốt và cách xấu trong việc suy tư đạo đức bằng văn chương?

Tôi rất ngại để nói về tốt và xấu vì ngay khi nói cái gì là hay thì có vẻ như bạn đang cố che đi cái thực hành đi lạc khỏi cái chuẩn tốt đó.

Nói vậy nhưng phải nhấn mạnh rằng trong tác phẩm của tôi, nỗ lực tạo nên đa thanh liên quan tới tình yêu tôi dành cho Dostoevsky. Điều tôi yêu thích nhất ở Dostoevsky chính là khả năng cho ta thấy các quan điểm khác nhau về cả mức độ cá nhân và xã hội qua phổ đa dạng các nhân vật chính của một tiểu thuyết. Cụ thể, khi một xã hội chia rẽ sâu sắc và mỗi nhóm lại có niềm tin sắt đá vào chân lý của mình, không có khả năng vượt khỏi điểm nhìn của mình để nhập vào quan điểm của người khác ở một bối cảnh khác, điều quan trọng là ta phải cùng đi qua sự bất đồng. Đây chính là chỗ văn học có thể giúp những quan điểm khác nhau đối thoại với nhau và khiến tất cả những giằng co mà ta có thể thấy được trong đời bị bày ra.

Điều này cũng cho ta hy vọng tìm ra cách xử lý những xung khắc đó. Vì hội lại, quyển sách cũng là một thể thống nhất, nhà văn cũng ở đó nghĩ cùng độc giả, để bước qua những nghịch lý trong đời qua con đường suy tư. Ở mặt đó, một tác phẩm nghệ thuật là một không gian của sự tự do, một lý tưởng về sự thấu hiểu lẫn nhau mà ta mong mỏi xã hội này sẽ cho thấy. Hướng tiếp cận đa thanh cho phép người viết suy nghĩ thấu suốt về thế giới này qua những quan điểm khác biệt và bằng cách nào đó hiểu biết rõ ràng hơn về chính những xung đột của nó.

Dù vậy, tôi thấy [hướng tiếp cận đa thanh này] gây cho mình khá nhiều bất ổn lúc đầu. Khi ta viết như một triết gia, ta luôn cố thuyết phục người khác tin vào sự đúng đắn của quan điểm mình, và sự sai lầm của quan điểm người khác, tiến đến khẳng định chân lý bằng cách giải hủy lập luận phản đối. Nhưng với văn học thì thứ cần thiết lại là ngược lại. Ta không thể mở đầu đã nói nhân vật này sai này đúng nhân vật kia sai; ta phải nhìn nhận thế giới qua quan điểm từng nhân vật, sống cùng họ, tin vào cùng những gì họ tin. Tiểu thuyết khuyến khích một niềm khoan dung trước sự bất đồng và đa dạng mà triết học thường chật vật đương đầu.

Cảm ơn bà.

Cuốn sách của bà có tựa đề là "Tự do", nhưng một ý tưởng trung tâm khác của cuốn sách giúp các loại tự do khác nhau tồn tại chính là hy vọng. Hy vọng có ý nghĩa như thế nào đối với bà?

Hy vọng là một khái niệm phức tạp bởi vì đối với tôi, đó là một phần thiết yếu của việc là một chủ thể đạo đức. Hành động có đạo đức tất yếu liên quan đến hy vọng - khi cố gắng làm điều đúng mà lại không tin, ở một mức độ nào đó, rằng điều đúng đắn có thể thắng thế chính là một sự mâu thuẫn về logic. Ta không thể đưa ra các lựa chọn đạo đức nếu ta không có hy vọng rằng những người khác cũng sẽ hành động có đạo đức hoặc rằng kết quả công bằng là khả thi. Không có hy vọng, không có động lực để hành động.

Bạn có thể đã quen thuộc với cuốn tiểu thuyết Nga Oblomov, nơi nhân vật chính, Oblomov, dành vài chục trang đầu tiên không thể ra khỏi giường vì anh ta quá chìm đắm trong chủ nghĩa hư vô. Anh ta không có hy vọng, và ngay cả khi rơi vào lưới tình, anh ta cũng nhanh chóng rơi khỏi lưới tình vì bị nỗi tuyệt vọng chiếm lấy. Ngược lại, việc rơi vào lưới tình tự thân đòi hỏi hy vọng - giống như hầu hết những việc chúng ta làm trong cuộc sống.

Mặc dù chúng ta thường nói về thế giới xám xịt như thế nào và chúng ta thiếu hy vọng ra sao, nhưng đây chỉ là một lập trường mang tính tu từ hơn là niềm tin thực sự. Mỗi sáng, chúng ta thức dậy, chăm sóc con cái, đưa chúng đến trường, và sống tiếp - những hành động này bắt nguồn từ một niềm hy vọng tiềm ẩn, ngay cả khi chúng ta không thừa nhận nó một cách rõ ràng. Hy vọng tạo nên nền tảng hiểu ngầm của phần lớn những gì chúng ta làm. Mất hoàn toàn hy vọng thực sự có nghĩa là trở thành như Oblomov, không thể ra khỏi giường - và may mắn thay, hầu hết mọi người không sống như vậy.

Hoàng Hải và Zét Nguyễn

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 14.9.2024.

 

'Con người và công nghệ luôn quan hệ hỗ tương với nhau chứ không phải công nghệ hoàn toàn điều khiển con người. Ta không nên lo công nghệ số sẽ bào mòn cảm xúc của con người; chỉ nên lo con người không biết khai thác thế mạnh của công nghệ số để làm giàu cho kiến văn, suy tưởng và cảm xúc của chính mình'.

Đây là ý kiến của giáo sư (GS) Huỳnh Như Phương khi nói về mối quan hệ giữa con người và công nghệ, văn học và công nghệ số - được trích trong tập tiểu luận phê bình Hồi âm từ phương Nam của ông.

Sáng 14.12, tại khoa Văn học Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM đã diễn ra buổi ra mắt tập tiểu luận phê bình Hồi âm từ phương Nam, do GS Huỳnh Như Phương biên soạn, NXB Đà Nẵng - Book Hunter ấn hành.

20231219 3

GS Huỳnh Như Phương chia sẻ trong buổi gặp gỡ sáng nay - HÀ ÁNH

"Tôi không hề nghĩ rằng mình sẽ làm… phê bình văn học"

Hồi âm từ phương Nam tập hợp và chọn lựa 36 bài viết về thơ, về văn xuôi nghệ thuật và chính luận cùng một số vấn đề chung của văn học. Nhan đề sách lấy lại từ lời bạt trong tập truyện ngắn của nhà văn Trần Trường Khánh được dịch sang tiếng Việt, cũng muốn gửi gắm ý nghĩa rằng đây là những lời hồi đáp của một độc giả có quan tâm đang sống và viết ở mảnh đất phương Nam. Phần 1 "Nơi cư trú của tình yêu" của cuốn sách có những bài viết về thơ của Pablo Neruda, Xuân Tâm, Nguyễn Vỹ, Ngô Kha, Diễm Châu, Tường Linh, Đông Trình, Ý Nhi... Phần 2 "Trong người có ta" dành cho những bài viết về thiền sư Thích Nhất Hạnh, Nguyễn Văn Trung, Võ Hồng, Nguyên Ngọc, Hoàng Ngọc Biên, Cao Huy Thuần, Thanh Thảo, Lê Văn Nghĩa... Các bài viết đều đã được công bố trên các ấn phẩm trong nước khoảng 10 năm nay.

Trong buổi gặp gỡ, GS Huỳnh Như Phương cho biết Hồi âm từ phương Nam là cuốn sách in riêng thứ 15 của ông, trong đó có 5 tập tiểu luận phê bình. "Từ khi được đăng những bài báo đầu tiên vào những năm 1970-1972, trong đó có cả văn sáng tác và văn nghị luận, cho đến khi vào ĐH, tôi không hề nghĩ rằng mình sẽ làm công việc gọi là phê bình văn học. Nhưng khi ra trường, làm nghề dạy học, việc đọc sách và theo dõi đời sống văn học gợi cảm hứng cho tôi viết những bài điểm sách, nhận xét, bình luận về một số hiện tượng văn học cùng thời", GS Phương cho hay.

GS Huỳnh Như Phương: 'Không nên lo công nghệ số sẽ bào mòn cảm xúc con người...' - Ảnh 2.

GS Huỳnh Như Phương ký tặng sách cho bạn bè và các học trò - HÀ ÁNH

Ngoài những cuốn sách viết chung và viết riêng, trong khoảng hơn 40 năm ông đã viết chừng 250 bài báo ngắn dài có liên quan đến văn học. Nhưng theo GS Phương, từ việc xuất hiện trên các tạp chí, tuần báo hay nhật báo, những bài viết như thế thường chỉ được bạn đọc để ý một tháng, một tuần hay thậm chí một ngày rồi thôi.

Ông nói: "Người ta đã ví những bài báo như thế như là những bọt nước mau tan trên dòng chảy, lúc trầm lặng, lúc cuộn xiết, nhưng không bao giờ ngưng nghỉ của đời sống văn học. Thời gian trôi đi, cuộc sống đổi thay, nhận thức của mình cũng không như cũ, nên những gì mình viết ra bị vượt qua rất nhanh. Có gì còn lại chăng là dấu tích ghi lại một thời văn chương và chút tình nghĩa với đồng nghiệp, văn hữu. Việc ấn hành những cuốn sách tiểu luận phê bình tập hợp những bài báo như thế là nỗ lực lưu giữ những trang văn phần nào khỏi bị lãng quên trong dòng thời sự".

Người ưu tư về vai trò của văn chương trong đời sống…

Trong buổi gặp mặt, PGS-TS Nguyễn Hữu Hiếu, Trưởng bộ môn Lý luận và phê bình văn học, Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, bày tỏ: "GS Phương đã viết bằng cảm hứng về trách nhiệm rất cao. Không chỉ viết về nhà văn và tác phẩm, thầy còn viết về những vấn đề liên quan đến giáo dục, mang đến cho người đọc những cảm xúc và nhận thức mới. Nếu không ưu tư về vai trò của văn chương trong đời sống thì không thể viết được như thế".

GS Huỳnh Như Phương: 'Không nên lo công nghệ số sẽ bào mòn cảm xúc con người...' - Ảnh 3.

Tiểu luận phê bình Hồi âm từ phương Nam của GS Huỳnh Như Phương - HÀ ÁNH

Đúng như nhận định trên, trong Hồi âm từ phương Nam, người đọc một lần nữa tiếp cận cách nhìn về học văn của GS Huỳnh Như Phương thông qua bài "Góp bàn câu chuyện học văn". Có thể thấy điều này qua đoạn văn in trên bìa 4 cuốn sách: "Văn học là con đường giao tiếp và hiệp thông giữa người và người. Công nghệ số giúp cho sự kết nối và tương tác giữa văn học và cuộc đời thêm sâu sắc. Nhưng đôi khi sự giao lưu trong thế giới ảo lại khiến con người trở nên hờ hững với những giao tiếp trong đời thật. Văn học là tiếng nói của cá nhân đến với cá nhân. Công nghệ số vừa cung cấp phương tiện thuận lợi để cá nhân hóa giáo dục, lại vừa có thể giản lược bản sắc của cá nhân qua những dữ liệu được số hóa. Vấn đề là con người và công nghệ luôn quan hệ hỗ tương với nhau chứ không phải công nghệ hoàn toàn điều khiển con người. Như vậy, ta không nên lo công nghệ số sẽ bào mòn cảm xúc của con người; ta chỉ nên lo con người không biết khai thác thế mạnh của công nghệ số để làm giàu cho kiến văn, suy tưởng và cảm xúc của chính mình". 

"Làm sách bây giờ là chấp nhận hy sinh…"

Không chỉ nói về sách, buổi gặp gỡ còn bàn về chuyện làm sách. GS Huỳnh Như Phương cho rằng: "Làm sách bây giờ là chấp nhận hy sinh khi đó không phải là dòng sách đại chúng. Điều này càng đúng trong thời buổi thị trường sách in ngày càng thu hẹp, sách nghiên cứu - lý luận - phê bình lại càng khó tiêu thụ".

Nhà văn Hà Thủy Nguyên, người sáng lập Book Hunter, chia sẻ, việc tái hiện lịch sử văn hóa Việt Nam thông qua tác phẩm văn chương nghệ thuật hiện có những khó khăn do không có sự kết nối chặt chẽ với giới trí thức Việt Nam thuộc các thế hệ. Nữ nhà văn mong muốn, thông qua sự kiện này, có thể xây dựng được danh mục các cuốn sách góp phần tái hiện được diện mạo và sự phát triển của văn hóa Việt Nam.

PGS-TS Bùi Thanh Truyền, Trưởng khoa Ngữ văn Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, nhận xét cuốn sách Hồi âm từ phương Nam rất dễ đọc do có sự kết hợp giữa bình luận, phân tích và cảm nhận. "Không chỉ từ cuốn sách này mà cả những ấn phẩm trước đó của tác giả, có thể rút ra điều tâm đắc: trong sự nghiệp viết, việc kết hợp hai nhân tố là sự tác động của vùng đất nơi mình gắn bó, trưởng thành và tâm cảm của con người sẽ tạo nên những tác phẩm chạm đến trái tim", GS Truyền nói thêm.

Hà Ánh

Nguồn: Thanh niên, ngày 14.12.2023.

Việc cho học sinh lớp 11 đọc Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian đang dấy lên cuộc tranh luận sôi nổi trong cộng đồng. Đó có phải tác phẩm “đồi trụy” không, lứa tuổi nào nên đọc, tiếp cận tác phẩm như thế nào… là những câu hỏi được đặt ra.

Cảnh nóng trong tác phẩm mang thông điệp gì?

Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là tiểu thuyết đầu tay của nhà văn Ocean Vương. Tác phẩm được viết theo hình thức một bức thư của một cậu con trai người Mỹ gốc Việt  gửi cho người mẹ không biết đọc của mình. Theo chia sẻ của Ocean Vương trong một buổi giao lưu trực tuyến với khán giả Việt Nam, hình thức bức thư của hai mẹ con gốc Việt sẽ giúp câu chuyện trở nên riêng tư hơn. Nếu người Mỹ đọc bức thư này có nghĩa là họ sẽ phải “đọc trộm”. Từ đó, vị thế của người đọc cũng sẽ thay đổi.

20240524 4

Ngoài ra, thông qua bức thư, các vấn đề về người nhập cư, chấn thương chiến tranh, sự phân biệt chủng tộc, căn tính và tình yêu đồng tính cũng được tác giả đào sâu, khai thác. Nhan đề của tác phẩm, Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian gợi nên sự tỏa sáng để được thừa nhận và chấp nhận của các cá nhân bị xã hội gạt bỏ ra “bên lề”.

Theo tác giả, những người thuộc bộ phận thiểu số như: người nhập cư, người da màu, người đồng tính bị “săn đuổi”, bị phân biệt, bị kỳ thị là vì họ trình hiện trong xã hội bằng vẻ đẹp quá rực rỡ: “Bởi vì hoàng hôn, như việc sống còn, chỉ tồn tại bên rìa sự biến mất của chính nó. Để rực rỡ, trước tiên mình phải được nhìn thấy, nhưng được nhìn thấy cũng tức là cho phép bản thân trở thành con mồi.”

Mặc dù cuốn sách đề cập đến những vấn đề khác nhau về thân phận con người, tuy nhiên mới đây, phụ huynh của một trường Quốc tế đã bày tỏ sự nghi ngại khi giáo viên cho học sinh đọc tác phẩm này. Bà cho rằng, tác phẩm này là “sự đầu độc về mặt tinh thần” vì có một số đoạn trích khiến độc giả phải đỏ mặt.

Rõ ràng, nếu tách hai đoạn trích này ra khỏi bối cảnh thì chắc chắn sẽ gây tranh cãi. Tuy nhiên, nếu đọc cả tác phẩm, người đọc có thể khám phá ra được rằng việc miêu tả một số cảnh quan hệ tình dục một cách trực diện của hai nhân vật đồng tính là có lý do. Nhân vật Chó Con (tên tiếng Anh: Little Dog) bị ám ảnh vì sự kỳ thị chủng tộc và mặc cảm vì mình là người đồng tính. Do đó, trong quá trình khám phá bản thân và thích nghi trên đất Mỹ, cậu tìm cách khẳng định vị thế của mình bằng vẻ đẹp rực rỡ của một người đồng tính và sự thắng thế trước một thanh niên da trắng. Cảnh quan hệ của Chó Con và Trevor vừa là sự khám phá cơ thể của một cậu bé đồng tính mới lớn, vừa là ngụ ý về sự khẳng định quyền lực. Ngay sau lần thứ hai quan hệ, tác giả viết: “Bởi vì, con sớm nhận ra, khuất phục cũng là một dạng quyền lực. Để được vào trong khoái lạc, Trevor cần con. Con có một lựa chọn, một ngón nghề, cậu lên hay xuống đều phụ thuộc vào việc con có sẵn lòng xếp chỗ cho cậu, vì ta không thể vươn lên nếu không có gì cho ta vươn cao hơn nó”.

Tiếp cận tác phẩm có nội dung nhạy cảm

Việc một số tác phẩm văn học kinh điển và một số tác phẩm văn học đương đại có những cảnh nhạy cảm về tình dục không phải là điều gì mới mẻ. Có rất nhiều tác phẩm miêu tả cảnh quan hệ tình dục hoặc các bộ phận sinh dục trực diện dẫn đến tranh cãi và nhiều tác phẩm đã bị cắt đi những cảnh này khi xuất bản. Tuy nhiên, trong văn học, việc miêu tả những cảnh nhạy cảm như thế là có lý do.

Tình dục trong văn chương không chỉ là về tình dục mà còn nói về nhiều vấn đề khác liên quan đến thân phận con người. Do đó, nếu những cảnh như thế này bị cắt đi sẽ khiến cho tác phẩm phần nào giảm đi giá trị tạo nghĩa và người đọc sẽ không được hiểu tác phẩm một cách toàn vẹn như mong muốn của tác giả. Thế nhưng, nếu loại những tác phẩm như thế này khỏi chương trình học trung học phổ thông thì học sinh cũng sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội được tiếp cận các chủ đề đương đại phức tạp trong văn chương thế giới.

Văn học là một trong những cách tốt nhất giúp con người khám phá những trải nghiệm của chính mình và người khác, hiểu hơn về bản thân và những vấn đề phức tạp trong cuộc sống. Với những người ở độ tuổi chuyển giao sang giai đoạn trưởng thành, điều này là quan trọng. Tuy nhiên, cũng cần nhận thấy rõ ràng rằng không phải ai cũng có khả năng tiếp nhận được những tác phẩm có những cảnh “nặng đô” như thế. Trải nghiệm tâm lý ở mỗi người cũng khác nhau. Tầm đón đợi của mỗi người cũng khác nhau. Vì vậy, khi đưa tác phẩm này vào giảng dạy, cần thẳng thắn và rõ ràng với học sinh về những cảnh nhạy cảm có trong tác phẩm. Học sinh có quyền được chọn đọc hay không đọc.

Bên cạnh đó, giáo viên cũng có thể giúp học sinh tiếp cận với những tác phẩm như thế này thông qua các buổi hướng dẫn đọc sách. Cuốn Đọc văn sành như giáo sư văn của Thomas Foster, một cuốn sách hướng dẫn đọc sách cho giáo viên và học sinh trung học phổ thông cũng chia sẻ về cách đọc các cảnh tình dục trong văn học ở cả hai phần: những phần viết về tình dục theo kiểu ẩn ý và phần viết về tình dục trực diện: “Khi họ viết về những thứ khác, họ thực sự muốn nói đến tình dục, và khi họ viết về tình dục, họ thực sự có ý gì đó khác. Nếu họ viết về tình dục và có ý nói nghiêm túc về tình dục, thì chúng ta có một từ cho điều đó: khiêu dâm.” (Đọc văn sành như giáo sư văn). Ông dẫn ra rất nhiều tác phẩm miêu tả tình dục để nói về chuyện khác như: Ulysses của Joyce, Người tình của phu nhân Chatterley của D.H. Lawrence (1928), Cỗ máy con người của Anthony Burgess (1962) và Lolita của Vladimir Nabokov (1958).

Triết gia Immanuel Kant cũng chia sẻ về vấn đề “tính hợp mục đích không có mục đích” trong tác phẩm nghệ thuật, nghĩa là đối với các đối tượng được phản ánh trong tác phẩm, nếu người đọc nhận thấy nó có chức năng không khác gì được trình hiện trong đời sống thì nó chưa đạt được tính nghệ thuật. Chẳng hạn, nếu những cảnh tình dục trong tác phẩm văn chương chỉ dùng để khơi gợi sự ham muốn, khiêu dâm thì đó chính là tác phẩm khiêu dâm. Còn nếu những cảnh tình dục được đưa vào với mục đích khác, ngụ ý về những vấn đề khác thì nó sẽ có ý nghĩa về mặt nghệ thuật. Như vậy, giáo viên cần phải hướng dẫn cho học sinh mục đích của những cảnh này là gì và vì sao lại cần thiết. Bên cạnh đó, việc hướng dẫn cũng phải được thực hiện từ từ, từng bước. Chẳng hạn, nếu các tác phẩm kiểu này có nhiều chủ đề, đề tài thì giáo viên có thể cho học sinh đọc và phân tích từng đoạn với các chủ đề khác nhau và dần dần mới tiếp cận toàn bộ tác phẩm nếu có thể.

Có thể thấy việc tranh luận về việc có nên đưa các tác phẩm văn chương có những cảnh nhạy cảm như Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian của Ocean Vương vào chương trình giáo dục phổ thông hay không trên mạng xã hội vừa qua là một trường hợp cần thiết để những người giảng dạy văn chương và những người làm công tác giáo dục nhìn nhận lại những tác động của văn chương đối với học sinh trung học phổ thông, nhằm đưa ra các khuyến cáo phù hợp. 

Chúng ta không thể phủ nhận những giá trị to lớn của văn học trong việc mở rộng tầm nhìn và khả năng hiểu biết cho học sinh, giúp họ không chỉ làm giàu đẹp về vốn từ tiếng Việt, học hỏi được nhiều điều về thế giới và tâm lý con người mà còn giúp họ chuẩn bị tốt hơn cho hành trang của mình khi bước vào giai đoạn trưởng thành. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng, học sinh trung học phổ thông vẫn đang trong độ tuổi vị thành niên. Vì vậy, bất kỳ tác phẩm văn chương nào có những cảnh nhạy cảm khi đưa đến học sinh cũng cần được cảnh báo rõ ràng và có sự hướng dẫn cụ thể.

Đào Lê Na

Nguồn Văn nghệ số 19/2024

20231120 2

Tóm tắt

Việt Nam đổi mới đã gần ba mươi năm, một khoảng thời gian đủ để nền văn hoá, văn nghệ đất nước tiến thêm một quãng đường dài. Câu chuyện đổi mới văn hoá, văn nghệ không chỉ tính từ cột mốc đổi mới đất nước năm 1986 mà bước chuẩn bị đã được thực hiện từ trước đó nhiều năm. Buổi đầu đổi mới ấy là những năm tháng nhiều khó khăn nhưng cũng đầy niềm vui và hy vọng.

 1.     Thành lập Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương

Trong quá trình thực hiện kế hoạch kiện toàn cơ quan tham mưu của Trung ương Đảng đã đề ra từ tháng 11/1980, Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương được thành lập vào tháng 3/1981. Ban này tồn tại trong vòng tám năm, đến cuối năm 1989 thì sát nhập với Ban Tuyên huấn Trung ương thành Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương.

Trong suốt tám năm tồn tại, hoạt động của ban có thể chia thành ba giai đoạn. Giai đoạn 1981-1983 do Trần Độ làm trưởng ban. Tôi khi ấy đang phụ trách Viện Đại học Huế và Trường Đại học Sư phạm Huế thì được cử tham gia đoàn cán bộ lãnh đạo và quản lý văn hóa văn nghệ sang Liên Xô dự bồi dưỡng chuyên đề về quản lý văn hoá, văn nghệ. Tôi quen Trần Độ trong dịp ấy. Khi ở Liên Xô về vào tháng 7/1981, tôi nhận quyết định cử làm phó Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương Thế là tôi ra Hà Nội cộng tác với Trần Độ. Chúng tôi làm việc rất ăn ý. Những ý tưởng về một nghị quyết đổi mới quản lý, lãnh đạo văn hoá, văn nghệ đã manh nha từ dạo ấy.

Đến năm 1983, Trần Độ thôi làm trưởng ban, Hà Xuân Trường được cử lên thay. Hà Xuân Trường là cán bộ chính trị được cử sang phụ trách công tác văn hóa văn nghệ, nên suốt thời gian tại nhiệm từ 1983-1987 không lưu lại dấu ấn nào thật rõ rệt về đổi mới văn hóa văn nghệ. Thời kỳ này, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Thị Bình tôi chuyển sang làm Thứ trưởng Bộ Giáo dục.

Sau Đại hội Đảng lần VI, Trần Độ được tái bổ nhiệm làm trưởng ban Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương vào đầu năm 1987. Ông tha thiết mời tôi về ban, vì chúng tôi cùng chung quan điểm, tư tưởng, lại làm việc rất ăn ý. Vì quý mến ông, ngưỡng mộ phong cách làm việc của ông, tôi đã nhận lời. Thế là chúng tôi lại trở về làm việc cùng nhau ở cơ quan cũ. Hôm liên hoan tiễn trưởng ban cũ và đón tiếp trưởng ban mới, Trần Độ nói đùa rằng không phải “tống cựu nghênh tân” mà là “tống cựu nghênh nguyên”. Thời kỳ này, chúng tôi hồ hởi chuẩn bị cho công cuộc đổi mới văn hoá văn nghệ, mà cột mốc là sự ra đời của Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về đổi mới lãnh đạo và quản lý văn hóa văn nghệ.

 2.     Củng cố và xây dựng Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương

Việc đầu tiên Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương thực hiện sau khi thành lập là củng cố và xây dựng ban. Cả Trần Độ và tôi đều nhất trí xây dựng một ban có cơ cấu gọn nhẹ, nhưng phải gồm những người thật sự am hiểu văn hóa văn nghệ. Trong khi các ban của đảng khá đông người, có ban hàng mấy trăm, chúng tôi bàn với ông Nguyễn Văn An là Phó Ban Tổ chức Trung ương lúc bấy giờ rằng biên chế Ban Văn hóa-Văn nghệ Trung ương sẽ chỉ trên dưới hai mươi người. Ban không thành lập vụ, chuyên viên của ban sẽ trực tiếp làm việc với lãnh đạo trung ương khi có việc cần. Cách tổ chức ban như thế thuận lợi cho công việc, nhưng có thể thiệt hại cho quyền lợi của cán bộ. Vì thế, chúng tôi đề nghị với Ban Tổ chức Trung ương là sẽ cử các chuyên viên có trình độ hàm vụ trưởng, vụ phó để anh em được hưởng các chế độ tương ứng về ăn ở, đi lại.

Khi ấy, phụ trách theo dõi mảng văn học gồm có Từ Sơn, Bùi Công Minh, Nguyễn Nghĩa Trọng, Hoàng Trung Nho. Từ Sơn trước đó làm Tổng biên tập báo Văn Nghệ, về ban làm Chánh văn phòng Ban Văn hoá-Văn nghệ. Bùi Công Minh nguyên là giảng viên Khoa Văn Đại học Sư phạm Hà Nội, thiếu tá Quân đội, làm phó văn phòng. Đoàn Đức phụ trách mảng sân khấu, Lương Xuân Đoàn phụ trách hội hoạ, Tú Ngọc phụ trách âm nhạc, Phạm Quang Thuận theo dõi mảng văn hóa, Phạm Ngọc Trương theo dõi mảng điện ảnh, Nguyễn Trung Thu phụ trách tạp chí của ban. Nguyễn Thanh, học ở Trung Quốc về, làm vụ trưởng vụ tổ chức của ban ngay từ thời Hà Xuân Trường.

Ban Văn hoá-Văn nghệ giữ mối liên hệ chặt chẽ với Bộ Văn hoá, các hội văn học nghệ thuật trung ương, ban tuyên huấn các tỉnh thành, các nhà văn hóa có tên tuổi trong cả nước.

 3.     Bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa văn nghệ

Ban đã tổ chức hai đoàn cán bộ lãnh đạo văn hóa văn nghệ đi bồi dưỡng ở Viên Hàn lâm Khoa học Xã hội (AON) ở Liên Xô. Đoàn thứ nhất đi Liên Xô từ tháng 4/1981 đến tháng 7/1981, gồm có Dương Đình Thảo (Trưởng Ban Tuyên huấn TP. HCM), Trần Hoàn (Trưởng Ban Tuyên huấn Bình-Trị-Thiên), Vũ Cẩm, (Trưởng Ban Tuyên huấn Quảng Ninh), Hoàng Thao (Trưởng Ban Tuyên huấn Hải Phòng), Dương Viên (Tổng Thư ký Hội Mỹ thuật), Lý Thái Bảo (Tổng Thư ký Hội Điện Ảnh), Nguyễn Thụ (Cục trưởng Cục Điện ảnh), Hải Ninh (Cục phó Cục Điện ảnh, nghệ sĩ nhân dân), Lê Minh (Trưởng ban Văn nghệ báo Nhân dân), Nguyên Ngọc (Bí thư đảng đoàn, Phó Tổng thư ký Hội Nhà văn), Dương Ngọc Đức (Bí thư Đảng-Đoàn, Tổng thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu), Huy Du (Tổng Thư ký Hội Nhạc sĩ), Vũ Khắc Liên (Thứ trưởng Bộ Văn hoá-Thông tin), Tạ Phong Châu (vụ trưởng, tạp chí Học tập, tức tạp chí Cộng sản sau này), Nguyễn Văn Nghi (Vụ trưởng Vụ Tổ chức Bộ Văn hoá). Trần Độ làm trưởng đoàn, tôi là lớp trưởng kiêm bí thư chi bộ.

Đoàn thứ hai đi vào năm 1988, do tôi làm trưởng đoàn, Vũ Hữu Ngoạn (Phó Bí thư Thành uỷ Hà Nội) làm bí thư chi bộ. Chuyến đi này có Ca Lê Thuần (Phó ban Văn hoá Văn nghệ phụ trách phía Nam), Nguyễn Khoa Điềm (Trưởng Ban Tuyên huấn Bình-Trị-Thiên), Tô Nhuận Vỹ (Tổng Biên tập tạp chí Sông Hương, Tổng thư ký Hội Văn nghệ Bình-Trị-Thiên), Trung Kiên (Thứ trưởng Bộ Văn hoá-Thông tin, nghệ sĩ nhân dân), Trọng Bằng (Giám đốc Nhạc viện Hà Nội), Hồ Ngọc (Phó Tổng thư ký Hội Sân khấu), Đặng Thị Khuê (Hội Mỹ thuật), Huỳnh Thị Xuân (Phó Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Đak Lak), Nguyễn Ngọc Thung (Phó Ban Tuyên giáo Quảng Ninh), Trần Thanh Hải (Ban Tuyên huấn Tiền Giang), người trong Ban Văn hoá-Văn nghệ có Từ Sơn, Bùi Công Minh, Lương Xuân Đoàn, Nghiêm Hà và Vũ Hoà. Trần Đăng Tuấn (Tiến sĩ, sau này làm Phó Tổng giám đốc thường trực Đài Truyền hình Việt Nam), làm phiên dịch cho đoàn công tác này.

Ở các lớp học này, các học viên được nghe giảng về vị trí và đặc điểm của văn hóa văn nghệ, kinh nghiệm về lãnh đạo và quản lý văn hóa văn nghệ ở Liên Xô và một số nước khác, đi tham quan nhiều cơ sở văn hóa văn nghệ ở Liên bang Nga và một số nước cộng hòa.

Qua kinh nghiệm thực tế trong nước và từ những thu hoạch ở các lớp học này, chúng tôi cũng trao đổi với nhau về những việc cần làm để đổi mới văn hóa văn nghệ sau này.

 4.     Tham gia xử lý một số sự kiện văn hóa văn nghệ “có vấn đề”

Một trong những việc mà ban Văn hoá-Văn nghệ phụ trách là tham gia xử lý một số sự kiện văn hoá văn nghệ “có vấn đề”. Có thể kể ra đây một vài sự kiện. Trước hết là câu chuyện về hai bộ phim tài liệu Hà Nội trong mắt ai Chuyện tử tế của đạo diễn Trần Văn Thuỷ. Trần Văn Thuỷ là một đạo diễn có tài, về sau được phong nghệ sĩ nhân dân. Hai phim này lúc mới làm đều bị cấm chiếu, vì có môt cái nhin khác lạ về thực trạng xã hội, đề cập đến nhiều tiêu cực trong cuộc sống. Cả hai bộ phim chỉ được công chiếu sau khi có sự can thiệp của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh vào năm 1987. Ban Văn hoá-Văn nghệ đã đề nghị Bộ Văn hoá đưa bộ phim Chuyện tử tế đi Đức tham dự Liên hoan phim Quốc tế Leipzig. Bộ phim đã đạt giải thưởng Bồ câu bạc và được nhận định là “Quả bom đến từ Việt Nam làm nổ tung thành phố Leipzig”. Trần Văn Thủy qua các tác phẩm và hoạt động trong điện ảnh đã làm cho đất nước Việt Nam gần gũi hơn với thế giới.

          Trong lĩnh vực điện ảnh cũng không thể không nhắc đến đạo diễn Đặng Nhật Minh với bộ phim Cô gái trên sông. Bộ phim cũng bị nhiều cấp lãnh đạo ngày ấy phê phán, dù không có văn bản cấm, nhưng nhiều nơi cũng hoang mang không dám chiếu. Phim kể về cô gái điếm trên sông Hương trong những ngày Huế bị kẻ thù chiếm đóng đã hết lòng che chở cho cán bộ cách mạng, nhưng khi hoà bình thì người thọ ơn cô năm xưa lại không nhận là đã quen biết cô, vì giờ đây anh ta đã là cán bộ cao cấp của thành phố. Suy nghĩ ấy của Đặng Nhật Minh cũng gặp gỡ Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn Mùa trái cóc ở miền Nam, kể chuyện một sĩ quan ở Bắc vào Nam không dám liên hệ với mẹ ruột của mình vì bà mê tín dị đoan. Ban đã đánh giá cao phim của Đặng Nhật Minh, khuyên đạo diễn nhận đề cử vào Ban chấp hành Hội Điện ảnh và làm Tổng thư ký của Hội. Trong văn học có thể kể đến Thu Bồn, cũng là một người tài năng và trong sạch, nhưng tác phẩm cứ bị phê bình thế nọ, thế kia. Tác phẩm Miền hoang tưởng của Đào Nguyễn (Nguyễn Xuân Khánh) cũng bị công kích ghê gớm, rồi Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh… Tất cả những sự kiện trên, ban Văn hoá-Văn nghệ của chúng tôi đều góp phần che chở, giúp tác phẩm vượt qua những trở ngại kiểm duyệt và phê bình để đến được với công chúng.

 5.     Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về lãnh đạo, quản lý văn hoá văn nghệ

Một việc rất đáng kể mà Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương đã làm được là chuẩn bị và thúc đẩy cho sự ra đời của Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị ngày 28/11/1987, với tên gọi đầy đủ là “Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới”.

          Ngay khi trở lại vị trí Trưởng ban Văn hoá-Văn nghệ, trước sự mở đường của Đại hội VI, Trần Độ đã nghĩ ngay đến một nghị quyết riêng dành cho việc đổi mới văn hoá, văn nghệ. Ông trình bày ý kiến với Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và được ông Linh đồng ý. Trần Độ báo ngay với tôi với tâm trạng hết sức hồ hởi, bởi đây là điều mà chúng tôi đã từng bàn với nhau trong lớp học nghiên cứu văn hoá, văn nghệ ở Liên Xô năm 1981. Ngay lập tức, chúng tôi triển khai việc lấy ý kiến anh em văn nghệ sĩ. Tôi nhận nhiệm vụ thu thập và chưng cất ý kiến của anh em để soạn dự thảo nghị quyết. Các cuộc họp văn nghệ sĩ được tổ chức khắp trong Nam ngoài Bắc, anh em được khuyến khích thoải mái trình bày những quan điểm, trăn trở, và bức xúc của mình. Chúng tôi chủ trương để anh em nói nói hết ý của mình một cách công khai, vì chỉ có công khai thì người tài mới xuất hiện, mới tránh được chuyện đặt điều, vu khống. Không khí ngày ấy vô cùng sôi nổi, đầy tin tưởng vào một giai đoạn mới cởi mở của nền văn hoá, nghệ thuật nước nhà. Trụ sở của ban ở 49 Phan Đình Phùng tấp nập anh em vào ra trò chuyện.

          Trong thời gian ấy, theo đề nghị của Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, Ban Văn hoá-Văn nghệ đã tổ chức một cuộc họp văn nghệ sĩ để Tổng bí thư trực tiếp lắng nghe ý kiến của anh em. Cuộc họp diễn ra trong hai ngày 6 và 7 tháng 10 năm 1987. Trong lịch sử chưa từng có một Tổng bí thư nào ngồi với văn nghệ sĩ suốt hai ngày liên tục như thế, không phải ngồi để dạy, mà là ngồi để nghe. Tôi còn nhớ rõ những câu ông nói: “Giờ không phải là lúc bón phân cho lúa, phải nhổ cỏ để lúa có sức mọc lên”, “Không được bẻ cong ngòi bút”, “Các anh nghĩ thế nào, thích thế nào thì viết thế ấy, có bị tù thì tôi bới cơm cho”, “Phải tự cứu mình trước khi trời cứu”. Cuộc họp quy tụ hơn một trăm văn nghệ sĩ thuộc tất cả các lĩnh vực. Nguyên Ngọc, Lưu Quang Vũ nói rất nhiều về tình hình bao cấp tư tưởng tồn tại suốt một thời gian dài, đó là tình trạng một người suy nghĩ cho mọi người, một cái đầu suy nghĩ cho mọi cái đầu. Nguyễn Đình Thi ví con người là hạt bụi lấp lánh tư tưởng, bị Dương Thu Hương chỉ trích gay gắt. Nguyễn Đăng Mạnh than phiền lãnh đạo đã khinh bỉ văn nghệ sĩ, quản lý văn nghệ theo lối chăn vịt đàn, và cho rằng con người mà bị khinh bỉ mãi thì tự nhiên thấy mình nhỏ bé, mà nếu được tôn trọng thì sẽ tự thấy mình cao lớn hơn. Ông cũng ví văn nghệ như con chim, nhốt lại thì không hót, hoặc hót không ra gì, thả ra thì hót hay hơn nhưng lại sợ nó bay mất, người quản lý phải biết làm thế nào để cánh chim văn nghệ có thể hót hay trên bầu trời tự do của chúng ta. Trần Độ gọi cuộc gặp gỡ này là “Hội nghị Diên Hồng” của văn nghệ.

          Sau cuộc gặp gỡ ấy, đời sống văn học nghệ thuật còn sôi nổi và vui hơn nữa với những cuộc tranh luận rất dân chủ trên báo Văn nghệ do Nguyên Ngọc làm Tổng biên tập. Những cuộc hội thảo văn nghệ vẫn được tiếp tục tổ chức. Công cuộc chuẩn bị cho Nghị quyết 05 kéo dài gần một năm trời và không hề ngơi nghỉ. Tôi đã gần 65 năm tuổi Đảng, nhưng chưa bao giờ thấy gần Đảng như buổi đầu đổi mới ấy. Sự cởi mở về đường lối của Đảng thật sự đã thổi một luồng gió mới vào đời sống văn hoá văn nghệ và nhiệt huyết cống hiến của anh chị em văn nghệ sĩ. Không phải ngẫu nhiên mà thời ấy chúng ta nghe được những ý kiến đầy tâm huyết và sáng suôt về văn hóa văn nghệ của Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Nguyễn Khắc Viện, chứng kiến sự xuất hiện những tài năng văn học như Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài…

 Bộ Chính trị Trung ương Đảng khoá VI đã họp vào ngày 28/11/1987 để thông qua Nghị quyết 05. Trước tiên, nghị quyết đánh giá tình hình văn hoá văn nghệ suốt thời gian qua, khẳng định nền văn nghệ cách mạng có công lao to lớn, đặc biệt đối với hai cuộc kháng chiến của dân tộc, nhưng cũng đã bộc lộ những bất cập trong bối cảnh mới. Thứ hai, nghị quyết yêu cầu các nhà lãnh đạo, quản lý văn hóa văn nghệ phải hiểu rõ vị trí, đặc điểm của văn hoá văn nghệ, rằng giá trị của văn hoá văn nghệ là đơn nhất. Không ai có thể thay một người nghệ sĩ cụ thể trong một thời điểm cụ thể sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật cụ thể. Nếu không phải Nguyễn Trãi đã viết Bình Ngô đại cáo ngay sau khi thắng quân xâm lược Minh thì dân tộc ta sẽ không có bản “thiên cổ hùng văn” đó. Vì vậy, tài năng văn hoá văn nghệ có một giá trị đặc biệt cần phải giữ gìn. Tài năng nghệ thuật cũng có thể xuất hiện rất sớm, cho nên ông cha ta nói “Thầy giáo già, con hát trẻ”. Tài năng văn nghệ cần được quý trọng và nâng niu chứ không nên trừng phạt. Trên cơ sở đó, nghị quyết đặt ra vấn đề tự do sáng tác, xem tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hoá, văn nghệ, để phát triển tài năng. Tự do sáng tác đi đôi với tự do phê bình. Nghị quyết cũng đề xuất thành lập các hội đồng nghệ thuật địa phương để đánh giá văn nghệ, tránh sự can thiệp không phù hợp của các cơ quan sở, bộ văn hoá vào lĩnh vực đặc thù này Rất tiếc là chủ trương này cuối cùng chỉ có Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện được. Nghị quyết cũng nói qua về nền văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà không nói phương pháp, vì phương pháp rất đa dạng và tùy thuộc vào sở trường của từng nghệ sĩ.

Cuộc họp hôm ấy có rất đông thành viên Bộ Chính trị, cả ba cố vấn là Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ cũng có mặt đầy đủ. Phạm Văn Đồng bảo đừng nói đến chuyện làm lính gác văn nghệ. Người góp ý rất kỹ về nghị quyết này là ông Trường Chinh. Lê Đức Thọ thì bảo trước đây ông cũng muốn làm, nhưng không làm được vì phải một cấp cao hơn. Buổi chiêu hội nghị bàn thêm ba tiếng nữa rồi thông qua nghị quyết,

Về sau, có người không thích nghị quyết này, nhưng đại tướng Võ Nguyên Giáp thì cho đó là “nghị quyết hay nhất của Trung ương từ xưa đến nay”.

 6.     Hậu Nghị quyết 05

Cao trào đổi mới kéo dài không được bao lâu. Năm 1989, Liên Xô sụp đổ, không khí tự do, dân chủ của văn nghệ trong nước cũng theo đó mà gặp sóng gió. Nếu như trước kia, Nguyễn Văn Linh do bức xúc nhiều điều đã gửi gắm cả vào văn nghệ thì giờ đây ông lại bối rối, lo sợ, tìm cách tắt “cái đài” Trần Độ đi. Năm 1989, Trần Độ thôi chức Trưởng Ban Văn hoá-Văn nghệ Trung ương. Tôi làm ở đó thêm một thời gian rồi cũng chuyển công tác. Nguyên Ngọc bị buộc thôi chức Tổng biên tập báo Văn nghệ. “Cánh” đổi mới bị đánh dồn dập. Hồi chuẩn bị cho Nghị quyết 05, Nguyễn Khải có bảo rằng: “Đất nước có minh quân, văn nghệ có Trần Độ, tình hình tốt như vậy, nhưng nếu lùi thì lùi to”. Nói thế mà hoá ra lùi thật.

Như vậy, câu chuyện về đổi mới văn hoá văn nghệ đã kéo dài suốt cả thập kỷ 1980 và tạm kết lại một giai đoạn bằng Đại hội Nhà văn lần thứ IV tổ chức vào cuối năm 1989. Đại hội triệu tập gần như tất cả nhà văn trong cả nước, và thể hiện sự phân hoá rất quyết liệt giữa phe bảo thủ và phe cấp tiến. Trong cuộc họp các đảng viên trong khuôn khổ đại hội, có người còn đồn Trần Độ muốn làm đảo chính. Tôi nghĩ đó là chuyện vu khống. Khi Ban Văn hóa-Văn nghệ đã giải thể, tôi chuyển sang làm phó ban Ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương. Tôi cũng đã nói trước đại hội rằng: “Rồi đây, tôi có thể tiếp tục làm hoặc không làm công tác này. Nếu tiếp tục làm, tôi sẽ vẫn làm hậu cần cho văn nghệ sĩ, nhưng nếu không còn làm nữa thì lương tâm tôi cũng hoàn toàn thanh thản, vì những gì chúng ta đã làm được với nhau là không thể đảo ngược được”. Sau vụ đó, tôi bị kiểm điểm rút kinh nghiệm. Thế rồi tôi viết đơn từ chức, lấy lý do là tôi không được chuẩn bị để làm chính trị.

Trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, văn học có tầm quan trọng đặc biệt. Có thể có nhiều cách nói vè bản chất của văn học, nhưng tôi cho rằng văn học có ba thành tố quan trọng, đó là tư tưởng, nghệ thuật, và ngôn ngữ. Phê bình có lúc chỉ tập trung nói về tư tưởng, có lúc chỉ nói về nghệ thuật, hoặc về ngôn ngữ, nhưng về nguyên tắc và về lâu dài phải chú ý cả ba thành thố đó.

Trong nghiên cứu, lý luận, phê bình, trong nhiều năm gân đây, có thể nói chúng ta đã quá tôn sùng lý luận văn học hiện đại phương Tây. Lý luận văn học hiện đại phương Tây có mặt được, nhưng có mặt không được. Đáng chú ý là nhà phê bình văn nghệ nổi tiếng Todorov trong Văn chương lâm nguy đã nhận xét rằng phê bình lý luận văn học hiện đại phương Tây càng ngày càng xa văn chương.

Trong thời gian tới, chúng ta phải dành nhiều công sức để nghiên cứu về di sản của ông cha ta và của phương Đông, nhát là Trung Quôc, Ấn Độ, Nhật Bản. Để bảo đảm tự do tư tưởng, trong văn hóa văn nghệ cũng như trong cuộc sống, tôi nghĩ chúng ta phải đề cao quan niệm lẽ phải. Gandhi đã từng nói: “Quy luật của loài vật là bạo lực, quy luật của loài người là lẽ phải”. Từ hơn hai trăm năm trước trong Truyện Kiều, Nguyễn Du cũng đã từng khẳng định: “Rằng trong lẽ phải có người có ta”. Biết lẽ phải “có người có ta” sẽ biết tôn trọng những ý kiến khác mình, tránh được nhiều cuộc đấu đá vô bổ, dành thì giờ để khám phá, sáng tạo. Ở đây không bao giờ nên quên lời khuyên thấu tình đạt lý của Lê Quý Đôn: “Văn chương là của chung của thiên hạ, ý kiến mỗi người mỗi khác, phân tích thì được mà không nên chê mắng”.

GS. TS. Nguyễn Văn Hạnh

(Phương Thuý ghi)

Bài đã đăng Tạp chí Nghiên cứu văn học, 2014

Nhiều chuyên gia nhận định "Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian" của Ocean Vuong có chi tiết về giới tính, tình dục nhưng không phải "sách khiêu dâm".

Hôm 2/5, bài đăng trong nhóm phụ huynh các trường quốc tế gây xôn xao với nội dung một người mẹ phản ánh có con - học lớp 11 tại trường Quốc Tế TP HCM, ISHCMC - được giáo viên phát cuốn Một thoáng ta rực rỡ nhân gian (bản tiếng Anh: On Earth We're Briefly Gorgeous), của tác giả Mỹ gốc Việt Ocean Vuong, để đọc.

Khi đọc cùng con, phụ huynh bất bình vì sách chứa nội dung "khiêu dâm", miêu tả cảnh quan hệ tình dục của hai nam thiếu niên, có thể khiến con chị bị "đầu độc về mặt tinh thần".

20240506 2 Bìa bản tiếng Việt của tác phẩm "On Earth We're Briefly Gorgeous", 304 trang, người dịch: Khánh Nguyên. Khi phát hành trong nước năm 2022, tác phẩm tạo "cơn sốt", tái bản sau một tháng. Ở lễ trao giải Sách hay 2022, bản dịch tiếng Việt thắng hạng mục sách Văn học. Ảnh: Quế Chi

Tối cùng ngày, ISHCMC cho biết thu hồi 19 sách và đang đánh giá, xem xét quy trình tác phẩm được giới thiệu cho học sinh. Theo đại diện ISHCMC, cuốn này và tác giả Ocean Vuong thuộc danh mục đọc tham khảo, gồm nhiều ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt, do Chương trình Tú tài Quốc tế (IB) giới thiệu.

Hiện, tiểu thuyết Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian được phát hành tại Việt Nam. Theo nhiều chuyên gia, sách có chi tiết nhạy cảm ở đoạn viết về nhân vật Chó Con và người bạn trai Trevor khám phá cơ thể của cả hai trong mối tình đồng giới. Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên - thành viên hội đồng xét giải Sách Hay 2022, sự kiện vinh danh tác phẩm này ở hạng mục sách văn học - cho rằng chi tiết nhạy cảm chưa nói hết tinh thần tác phẩm. Sách gồm nhiều mẩu chuyện nhỏ, xen kẽ với những đoạn trữ tình ngoại đề, triết lý và thơ ca, về cuộc di cư dài từ làng quê Việt Nam sang đất Mỹ của ba thế hệ. "Sách mang giá trị nhân văn, không khiêu dâm", ông Nguyên nói.

Còn theo tiến sĩ văn học Hồ Khánh Vân (Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP HCM), sự chật vật trong cuộc sống được tác giả mô tả qua mối quan hệ giới tính và trải nghiệm tính dục. "Không phải sách nào có chi tiết về tình dục thì đều là sách khiêu dâm", Hồ Khánh Vân cho biết.

Thạc sĩ lý luận văn học Nguyễn Đình Minh Khuê cho rằng nội dung sách chưa hợp với lứa tuổi dưới 16. "Nhưng các bạn lớp 11 thì đã trên 16 tuổi, nên việc đưa cuốn sách vào danh mục tham khảo không hẳn là không được. Chưa kể, không phải cứ nhắc đến chuyện chăn gối là đồi trụy. Cùng nói về vấn đề thân xác, nhục cảm, song giữa đồi trụy và nghệ thuật có những lằn ranh rõ ràng", ông Khuê nói.

Dù vậy, một số nhà nghiên cứu cho rằng trường học cần cân nhắc chọn sách phù hợp với đối tượng bạn đọc, nhất là học sinh. Theo tiến sĩ Đào Lê Na, trước khi phổ biến, nhà trường nên có lưu ý để học sinh hiểu vì sao những đoạn trích trong tác phẩm cần thiết cho việc học và thưởng thức văn chương.

Với sách có những đoạn miêu tả nhạy cảm về tình dục, học sinh cần được chuẩn bị kiến thức, tâm lý để tiếp cận, có quyền chọn đọc hoặc không đọc.

Trường có thể tổ chức buổi hướng dẫn cách đọc, tiếp cận sách văn học trước khi giới thiệu tác phẩm cho học sinh, để các em có đủ lý luận, tư duy tìm hiểu, cảm nhận và phân tích giá trị tác phẩm. Ngoài ra, nếu sách được dùng giảng dạy ở trường quốc tế, học sinh nên đọc bản tiếng Anh, có thể đối chiếu tiếng Việt nếu cần.

Trong quá trình là học giả thỉnh giảng tại Mỹ, Đào Lê Na nhận thấy nhiều độc giả đánh giá ngôn ngữ văn chương của Ocean Vuong giàu chất thơ. Việc đọc sách của học sinh Mỹ đa dạng, ít bị giới hạn thể loại, đề tài. Trong đó, một số tác phẩm phân loại theo độ tuổi để học sinh được lựa chọn. Còn khi đưa sách vào môi trường học đường tại Việt Nam cần được cân nhắc, chuẩn bị về nhiều mặt."Hiện không có quá nhiều sách viết về đề tài người đồng tính nhập cư từ góc nhìn của một người trong cuộc như Ocean Vuong. Độc giả, đặc biệt là người yêu thích, nghiên cứu văn học, có thể tham khảo tác phẩm của Ocean Vuong, do sách thể hiện tinh thần đương đại của văn chương", Đào Lê Na nói.

Nhà văn, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhận định việc tiêu chí phân loại sách còn phức tạp và chưa cụ thể hóa, dẫn đến tình trạng từ xưa đến nay, trẻ em lén đọc sách không phù hợp lứa tuổi. Nguyên nhân đến từ phía cha mẹ không có thời gian quan sát con, còn trẻ em không biết cách chọn sách cho mình. "Cha mẹ nên chọn sách, cổ vũ thói quen đọc sách của con. Nếu phụ huynh không biết thì nên tìm đến các thầy cô, chuyên gia văn học để tìm những cuốn sách chất lượng", nhà văn cho biết.

Ngoài ra, việc phân loại sách theo độ tuổi cần thiết cho độc giả. Tiến sĩ Hồ Khánh Vân cho biết khác với văn học, điện ảnh được phân loại theo độ tuổi và đối tượng khán giả một cách khá rõ ràng thành phim P, 13+, 16+, 18+, C-, K-. Khi nhìn vào phân loại phim, người xem có thể tự định hướng và chọn tác phẩm phù hợp với mình.

Còn sách phát hành trong nước được phân loại theo thể loại (thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn), nội dung (tâm lý xã hội, trinh thám, phiêu lưu, khoa học viễn tưởng) và theo đối tượng khán giả, không cụ thể độ tuổi (thiếu nhi, tuổi mới lớn, người lớn). Các tác phẩm chứa đựng yếu tố kinh dị, tính dục, bạo lực chưa phân loại rõ ràng, dễ gây ra sự nhập nhằng cho người đọc khi lựa chọn.

"Bộ Giáo dục đang áp dụng, nhiều bộ sách giáo khoa với chủ trương và định hướng phát triển văn hóa đọc, việc giới thiệu sách tham khảo đáng được khuyến khích trong bối cảnh này. Và khi giáo viên chọn sách để giới thiệu cho học sinh thì cần có hệ thống tiêu chí chọn sách phù hợp từng đối tượng. Đồng thời, các cơ quan quản lý xuất bản ở Việt Nam có thể nghĩ đến một hệ thống phân loại sách rõ ràng hơn, nhất là các sách có các yếu tố tính dục, bạo lực để người đọc dễ lựa chọn", tiến sĩ nói.

Tác giả Ocean Vuong. Ảnh: Columbia Journal

Tác giả Ocean Vuong. Ảnh: Columbia Journal

Ocean Vuong, tên tiếng Việt là Vương Quốc Vinh, 36 tuổi, là nhà thơ, tiểu thuyết gia. Anh sinh ra ở TP HCM, lớn lên tại Hartford, Connecticut (Mỹ). Năm 2016, tập thơ đầu tay Night Sky With Exit Wound đoạt giải T.S Eliot. Cuốn tiểu thuyết đầu tay của anh, On Earth We're Briefly Gorgeous, xuất bản năm 2019 và sắp được hãng A24 chuyển thể thành phim.

Bản tiếng Anh nằm trong danh sách 10 cuốn sách hay về tình cảm gia đình của The Guardian. Lauren Puckett-Pope, phó tổng biên tập tạp chí Elle đánh giá là một trong 15 tiểu thuyết hay nhất năm 2022. Bà cho biết đọc hết cuốn sách trong một chiều hè và sau đó liên tục suy ngẫm về nỗi đau, sự kiên cường nhân vật đã trải qua. Lauren cho rằng độc giả nên nghiền ngẫm cuốn sách, nhất là những bài thơ tác giả viết.

Theo đài NPR, ngôn ngữ của tác giả bay bổng khi viết về cái đẹp, sự sinh tồn và tự do. Ocean Vuong khẳng định mình và mẹ không phải được sinh ra từ chiến tranh như chính anh nghĩ bấy lâu, mà là "từ cái đẹp".

Bìa cuốn sách On Earth We’re Briefly Gorgeous, phát hành năm 2019. Ảnh: Penguin Press

Bìa bản gốc sách "On Earth We're Briefly Gorgeous", phát hành năm 2019. Ảnh: Penguin Press

Quế Chi - Hà Thu

Nguồn: VnExpress, ngày 03.5.2024.

K.VH - Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh sinh năm 1931 tại Điện Bàn, Quảng Nam, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Sư Phạm Huế, nguyên Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, nguyên Phó trưởng ban Văn hóa - Văn nghệ Trung ương, là tác giả của nhiều giáo trình, chuyên khảo, tiểu luận phê bình, đã qua đời lúc 22 giờ 30 ngày 19/11/2023 tại TP Hồ Chí Minh.

Chúng tôi xin đăng lại bài viết về một cuốn sách của GS Nguyễn Văn Hạnh để tưởng niệm Thầy.

20231120

*

*  *

         Lý luận - phê bình văn học: thực trạng và khuynh hướng (NXB Khoa học Xã hội, 2009) tập hợp 15 bài viết của GS Nguyễn Văn Hạnh từ 1998 đến nay. Đây là những tiểu luận thực hiện vào những thời gian khác nhau, nhưng tập trung vào một chủ đề nên tạo được tính hệ thống cho cuốn sách.

        Nội dung cuốn sách gồm 3 phần: Những bài viết về một số vấn đề lý luận văn học cơ bản đồng thời có ý nghĩa thời sự trong giai đoạn hiện nay: bản chất và ý nghĩa của văn học, mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, tự do tư tưởng và tự do sáng tác. Tiếp đó là những suy nghĩ về vai trò, nhiệm vụ của lý luận và phê bình văn học; về yêu cầu đặt ra cho người làm công tác lý luận - phê bình trên bình diện xã hội và trong phạm vi nghề nghiệp. Tác giả dành những trang cuối để bàn về một số hiện tượng trong đời sống lý luận, phê bình và sáng tác như: Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, thơ Việt Nam sau 1975, thơ Quảng Nam thế kỷ XX. Ba phần này hỗ trợ, bổ sung cho nhau.

        Trong những bài viết thiên về lý luận có nhiều ý kiến đúc kết từ thực tiễn và soi sáng cho đời sống văn học. Ngược lại, những bài viết phân tích các hiện tượng văn học sử cũng nằm trong mạch văn có thiên hướng lý luận của tác giả.

        Công trình có tính nhất quán về nội dung là vì các luận điểm được xây dựng và triển khai trên một nền tảng chung: tinh thần dân chủ và ý thức trách nhiệm cao của tác giả đối với việc xây dựng một nền lý luận - phê bình tiên tiến, hiện đại và một nền văn học có phẩm chất dân tộc và giá trị nhân văn sâu sắc. Tinh thần đó xuyên suốt 320 trang sách, nổi bật ở những chỗ tác giả đề cao truyền thống đồng thời với việc cổ vũ sự cách tân trong văn học; đòi hỏi tính chuyên nghiệp của người làm lý luận - phê bình đồng thời với việc tôn trọng sự tiếp nhận của bạn đọc; khẳng định sức sống của lý luận mác-xít đồng thời kêu gọi học tập, tiếp thu lý luận và phương pháp luận hiện đại.

       Cuốn sách gắn liền với giai đoạn mà sự đổi mới văn học trải qua những cuộc tranh luận sôi nổi, thúc đẩy quá trình tìm tòi suy nghĩ của các nhà lý luận - phê bình cũng như người sáng tác. Cuốn sách cũng phản ánh không khí học thuật và văn nghệ của thời đại, đồng thời thể hiện sự trăn trở của tác giả trước những vấn đề nóng bỏng của văn học. Những ý kiến tâm huyết của tác giả có tác dụng gợi mở trao đổi trong tinh thần đối thoại với tất cả những người cùng chia sẻ một niềm tin rằng “qua thảo luận, tranh luận, nhiều điều sẽ sáng tỏ, giúp cho nền văn học của chúng ta phát triển thuận lợi và đạt được nhiều kết quả tốt đẹp hơn”.

        Là một nhà khoa học hàng đầu trên lĩnh vực lý luận - phê bình văn học ở nước ta, bằng sự trải nghiệm và những suy nghĩ đã đến độ chín, GS Nguyễn Văn Hạnh đã tìm cách lý giải hướng đi của văn học đương đại qua tấm gương của lý luận - phê bình. Điều đó được trình bày bằng một văn phong mạch lạc, khúc chiết và nồng nhiệt. Có thể nói Lý luận - phê bình văn học: thực trạng và khuynh hướng là một cuốn sách có giá trị thực tiễn, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp xây dựng và phát triển văn học hiện nay.

Huỳnh Như Phương

(2009)

Dựa trên nền tảng lý thuyết về phê bình sinh thái, bài viết tìm kiếm sự liên hệ giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi, qua đó, gửi thông điệp về bảo vệ môi trường; khẳng định vai trò của văn học thiếu nhi trong việc thúc đẩy những chương trình hành động nhằm bảo vệ môi sinh.

20240419 5

Sự tương đồng về mặt chức năng giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi nằm ở việc cả hai phương pháp tiếp cận này đều hướng đến việc nâng cao ý thức của độc giả đối với các vấn đề môi sinh cấp bách đang diễn ra hiện nay như ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, sa mạc hoá và các vấn đề khác. Vai trò của văn học thiếu nhi đã được Greta Gaard, chuyên gia về nữ quyền sinh thái, nhấn mạnh khi cho rằng văn học thiếu nhi chuẩn bị cho trẻ em khả năng kháng cự lại sự phát triển mang tính huỷ diệt về văn hoá, kinh tế và môi trường1. Đứng trước một tương lai bất định, văn học thiếu nhi trở thành một không gian thuận lợi để nuôi dưỡng nhận thức về phê bình sinh thái cho trẻ em và cả người trưởng thành. Thông điệp về việc hãy quan tâm và chăm sóc Mẹ thiên nhiên được truyền tải và lĩnh hội ở nơi đâu, nếu như không phải trong văn học thiếu nhi, nơi vốn được nhiều học giả coi là mảnh đất màu mỡ để ươm mầm nhận thức về sinh thái trong trái tim và khối óc trẻ thơ2.

    Trong bài viết này, bắt đầu bằng việc giới thiệu về phê bình sinh thái, chúng tôi nỗ lực tìm kiếm sự liên hệ giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi; nói cách khác, văn học thiếu nhi đóng vai trò gì trong việc nâng cao nhận thức về môi sinh cũng như sự tương tác giữa các loài. Chúng tôi cũng giới thiệu sơ lược một số tác phẩm văn học thiếu nhi khu vực châu Á, được lược dịch từ nghiên cứu People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education của Novita Dewi, nhằm đưa đến cái nhìn toàn cảnh về cách thức môi trường được tái hiện trong văn học thiếu nhi. Chúng tôi lập luận rằng bất chấp những thông điệp về bảo vệ môi trường thể hiện qua các tác phẩm này, vai trò của văn học thiếu nhi trong việc thúc đẩy các chương trình hành động nhằm bảo vệ môi sinh vẫn chưa được giải quyết triệt để.

    1. Từ phê bình sinh thái đến phê bình sinh thái trong văn học thiếu nhi

    Thuật ngữ phê bình sinh thái xuất hiện lần đầu tiên trong tiểu luận Literature and Ecology: An Experiment in Ecocriticism của William Rueckert vào năm 1978 và trở nên phổ biến trong cuộc họp của Hiệp hội Văn học phương Tây vào năm 1989, khi Cheryll Glotfelty sử dụng thuật ngữ này để tiếp cận những văn bản tự nhiên. Trong tuyển tập Ecocriticism Reader, Cheryll Glotfelty định nghĩa: “Phê bình sinh thái nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và môi trường vật chất. Giống như phê bình nữ quyền xem xét ngôn ngữ và văn học từ ý thức về giới, và phê bình Marxist áp dụng nhận thức về phương thức sản xuất và giai cấp kinh tế trong việc đọc văn bản, phê bình sinh thái áp dụng cách tiếp cận lấy trái đất làm trung tâm để nghiên cứu văn học”3.

    Việc thành lập Hiệp hội Nghiên cứu Văn học và Môi trường (ASLE) vào năm 1992, sự ra đời của tạp chí chuyên về môi trường ISLE: Interdisciplinary Studies in Literature and Environment vào năm 1993 và việc xuất bản tuyển tập The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology vào năm 1996 có thể coi là những cột mốc quan trọng đánh dấu sự ra đời của phê bình sinh thái. Những mục tiêu ra đời của phê bình sinh thái ban đầu dường như khá đơn giản: tạo một diễn đàn về mặt học thuật cho giới học giả nghiên cứu, thảo luận các tác phẩm văn học về môi trường; nghiên cứu sự trình hiện của thiên nhiên và môi trường trong văn chương, qua đó nhìn thấy sự tương tác giữa thiên nhiên và văn hoá; tiến hành các hoạt động học thuật như một cách ứng phó với các vấn đề về môi trường và môi sinh4.

    Ở giai đoạn phát triển ban đầu, phê bình sinh thái dường như là cuộc chơi của tầng lớp học giả da trắng trung lưu, những người đồng thời cũng là những nhà hoạt động vì môi trường mà phê bình sinh thái trở thành một hình mẫu tiêu biểu của tinh thần bảo vệ môi trường trong bối cảnh học thuật và tri thức. Các giai đoạn phát triển sau này của phê bình sinh thái cho thấy có một sự chuyển hướng trong đội ngũ nghiên cứu và cách thức tiếp cận. Các văn bản về môi trường dần bộc lộ ý thức sâu sắc về sự khác biệt giới và giai cấp. Giới học giả không chỉ xoay quanh nam giới trung lưu da trắng, tức những đối tượng lợi thế trong xã hội, mà đa dạng về tầng lớp và giới, chẳng hạn như sinh viên, người da màu và đặc biệt là sự tham dự của phụ nữ. Một số công trình nghiên cứu nổi bật trong giai đoạn này có thể kể đến như Ecocomposition: Theoretical and Pedagogical Practices (2001) của Christian R. Weisser và Sid Dobrin, Natural Discourse: Toward Ecocomposition (2002) của Dobrin and Weisser, Literature and the Environment: A Reader on Nature and Culture (1999) của Anderson, Slovic và O’Grady.

    Hiệp hội Diversity Caucus được thành lập tại hội nghị ASLE tại Kalamazoo vào năm 1999 có thể xem là động thái tích cực nhằm khuyến khích sự hiện diện và tham dự của tầng lớp học giả nghiên cứu về môi trường từng thuộc vào những nhóm thiểu số. Tuy những thành viên sáng lập của Hiệp hội xuất thân từ những nhóm đặc quyền trong xã hội, họ dù sao vẫn là thành phần tích cực chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và cam kết đa dạng hoá lĩnh vực học thuật này5. Điều này không chỉ giúp đa dạng hoá lực lượng sáng tác mà còn dẫn đến những thay đổi căn bản về mặt thể loại trong nghiên cứu về phê bình sinh thái, cụ thể là việc chuyển hướng từ tiểu luận sang thơ ca, tiểu thuyết, khoa học viễn tưởng, thậm chí là các hình thức truyền thông khác như phỏng vấn hay xã luận.

    Dẫu tất cả nỗ lực nhằm giới thiệu và đa dạng hoá nghiên cứu về phê bình sinh thái, đại đa số các văn bản viết về môi trường đều hướng đến độc giả trưởng thành. Số chuyên đề “Green Worlds: Nature and Ecology” trên Tạp chí The Lion and The Unicorn (Suzanne Rahn chủ biên) vào năm 1995 và một số chuyên đề khác là “Ecology and the Child” trên Tạp chí Children’s Literature Association Quarterly (Winter 1994-1995) có thể xem là những động thái đầu tiên đánh dấu sự chuyển hướng về đối tượng độc giả. Đồng thời, một loạt tiểu luận của ISLE vào năm 1996 thảo luận về cuốn sách thiếu nhi The Lorax6 của Dr. Seuss cũng dấy lên những bận tâm về tự sự môi trường trong văn học thiếu nhi. Mười năm cuối thế kỷ XX đến những năm đầu của thế kỷ XXI, các chương sách và tiểu luận tập trung vào vấn đề sinh thái trong văn học thiếu nhi, đặc biệt là sự ra đời của ấn phẩm Wild Things: Children’s Culture and Ecocriticism của Sid I. Dobrin and Kenneth B. Kidd, đánh dấu sự ra mắt chính thức của lĩnh vực nghiên cứu này.

    Cốt lõi của hướng tiếp cận phê bình sinh thái đối với văn học là ý tưởng về ảnh hưởng của văn học và những tạo tác văn hoá đối với cách chúng ta tưởng tượng về tự nhiên, điều góp phần hình thành nên những công dân sinh thái7. Những ý tưởng mà chúng ta có được hình thành bởi mối quan hệ của chúng ta với môi trường tự nhiên8. Hiểu biết này đồng thời giúp chúng ta nhận ra rằng bên cạnh lý trí thì cảm xúc và trực giác cũng quan trọng trong việc đưa ra quyết định9.

    Trước ý thức về vai trò quan trọng của môi trường đối với sự hình thành nhân cách, câu hỏi được đặt ra là liệu một tác phẩm văn học có thể tác động đến cách thức trẻ em hình dung và suy tưởng về thiên nhiên, qua đó là góp phần hình thành nên công dân sinh thái hay không. Quan điểm lấy sinh thái làm trung tâm (ecocentric) bác bỏ ý kiến cho rằng thiên nhiên “tồn tại để phục vụ nhu cầu và lợi ích của con người”10. Ngược lại, nó ngụ ý rằng tất cả các sinh thể đều được kết nối với nhau, do đó những gì ảnh hưởng đến vật nào đó sẽ ảnh hưởng đến tất cả. Việc trở thành một công dân sinh thái ngụ ý nhận thức về sự kết nối lẫn nhau này, cùng với “ý chí làm sáng tỏ dấu ấn của chúng ta trong một thế giới nơi tất cả thiên nhiên đều có ý nghĩa sống còn”11.

    Tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển khả năng cảm thụ của trẻ em, đặc biệt là giai đoạn niên thiếu. Lovlie (2013) cho rằng “tất cả các hình mẫu thực sự về vị giác đều có trong thiên nhiên” (trích trong Goga, Nina et al.). Những trải nghiệm về cảnh quan cũng giúp trẻ em phát triển sự nhạy cảm, bởi nếu một đứa trẻ “không lang thang trên những đồng bằng khô cằn, nếu cát cháy không làm nó bỏng chân, nếu cái sột soạt thô ráp của những viên đá phơi dưới ánh mặt trời không khiến nó bức bối, thì làm sao nó có thể tận hưởng không khí mát mẻ của một buổi sớm mai?”12. Cách hiểu này đồng thời cũng đặt lại vấn đề về việc nên tuân theo tình cảm hay lý trí. Lựa chọn đúng lẽ ra là con người nên vận dụng ý thức và sự nhạy cảm trước khi dùng lý trí để suy xét mọi việc.

    Vai trò định hình nhân cách được Massey và Bradford (2011) khẳng định trong cách thức các tác giả nhìn nhận giá trị của văn học thiếu nhi viết về đề tài môi trường. Các tác giả định nghĩa bộ phận văn học này là “những văn bản hệ thống hóa các vấn đề sinh thái đương đại-phản ánh những chương trình nghị sự toàn cầu đang thay đổi và dự đoán các khả năng trong tương lai. Một trong những chức năng chính của văn học là xã hội hóa giới trẻ để biến chúng trở thành những người trưởng thành có trách nhiệm và khả năng thấu cảm trong tương lai bằng cách định vị độc giả là những công dân sinh thái”13. Dựa vào định nghĩa này, các tác giả đã phân tích những tác phẩm văn học dành cho trẻ em gần đây (bao gồm cả phim ảnh và phi hư cấu) xoay quanh “cách thức văn bản về môi trường tìm cách định vị trẻ em”14. Quan điểm của họ là “nếu độc giả chấp nhận các vị trí chủ thể được đặt ra trong các văn bản môi trường, họ có thể thừa nhận thế giới quan mà các văn bản đó đề xuất; nghĩa là, những hiểu biết của độc giả về công dân sinh thái có thể được xây dựng khi họ tương tác với các văn bản”15.

    Sư phạm sinh thái, một nhánh của phê bình sinh thái, được xem là có mối quan hệ gần gũi và phần nào lý giải mối liên hệ giữa phê bình sinh thái và văn học thiếu nhi. Về cơ bản, sư phạm sinh thái (ecopedagogy) nhấn mạnh tầm quan trọng về sự hợp lưu giữa công bằng xã hội, công bằng sinh thái và công bằng giữa các loài như là trọng tâm của việc thực hành toàn diện và khai phóng (inclusive and liberatory praxis). Richard Kahn chỉ ra ba mục tiêu của sư phạm sinh thái, bao gồm: “(1) nâng cao hiểu biết về vùng sinh học, sự tương tác giữa các hệ sinh thái địa phương, khu vực và toàn cầu; (2) nghiên cứu sinh thái văn hoá, cụ thể là tìm hiểu các nền văn hoá bền vững lẫn không bền vững, các chiến lược chống lại sự đồng hoá, củng cố cộng đồng, phát triển các công nghệ phù hợp và tổ chức tri thức tập thể; (3) phê phán các tác động phản sinh thái của chủ nghĩa tư bản công nghiệp, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa đế quốc và văn hoá thống trị, đi cùng với đó là tổ chức và vận động mọi người tham gia vào các hình thức chính trị sinh thái phù hợp và xây dựng phong trào”16. Mục tiêu thứ ba của sư phạm sinh thái về cơ bản chia sẻ động lực được những nhà phê bình sinh thái xem xét khi nghiên cứu về văn học thiếu nhi. Kamala Platt định nghĩa văn học thiếu nhi về công bằng môi trường như “những câu chuyện dành cho thiếu nhi xem xét mối tương quan giữa các vấn đề về quyền con người và công bằng xã hội với các vấn đề sinh thái, làm thế nào suy thoái môi trường ảnh hưởng đến các cộng đồng người, và làm thế nào các cộng đồng người duy trì mối quan hệ cộng sinh với môi trường sống trên trái đất của họ”17.

    Văn học nói chung phải được xem như tác nhân mang tính biểu cảm (expressive agent) cho sự thay đổi xã hội. Bởi văn bản được nhìn nhận là nhân tố góp phần thúc đẩy sự thịnh vượng của môi trường và công bằng xã hội, văn học thiếu nhi, đặc biệt nhánh văn học thiếu nhi về công bằng môi trường, trong chừng mực nào đó có thể cung cấp những liều thuốc giải độc cho logic của sự thống trị. Những câu chuyện về kết nối và tương trợ lẫn nhau giữa các loài, giữa con người, tự nhiên và toàn nhân loại có thể giải huyền thoại về cái tôi riêng biệt và lạ hoá mà logic thống trị thường nhấn mạnh. Tương tự, nếu logic thống trị nhấn mạnh đến hệ thống phân cấp thì những câu chuyện kể lại đề cao tình trạng vô chính phủ, sự hiện diện đa dạng của con người-loài vật-tự nhiên trong một xã hội dân chủ, tự do. Giải được hai logic thống trị này về cơ bản sẽ giải quyết tình trạng bị áp bức, tức trạng thái thứ ba của logic thống trị18.

    Việc nhìn nhận văn học trẻ em như một thành tố quan trọng giữa sự hợp lưu của sư phạm sinh thái, nữ quyền sinh thái và phê bình sinh thái cho thấy triển vọng của văn học thiếu nhi trong việc cung cấp một liều thuốc giải cho tình trạng xa lạ hoá và khuyến khích độc giả dấn thân, hướng đến dân chủ sinh thái và công bằng xã hội. Cụ thể, văn học thiếu nhi được kỳ vọng giải quyết ba vấn đề cơ bản về môi trường và sinh thái.

    Thứ nhất, văn bản giải quyết câu hỏi bản thể luận “tôi là ai” như thế nào? Bản sắc con người được xây dựng tương hỗ hay đối lập với thiên nhiên, động vật và các nền văn hóa/ bản sắc đa dạng của con người? Nói cách khác, làm thế nào để văn bản cung cấp liều thuốc giải độc cho bước đầu tiên trong logic thống trị?19.

    Như Clare Bradford đã lập luận, vì nhiều cuốn sách về môi trường dành cho trẻ em tuy rất mạnh trong việc chỉ ra các cuộc khủng hoảng về môi sinh nhưng lại không thúc đẩy các chương trình chính trị hoặc hành động tập thể để giải quyết các khủng hoảng được đặt ra20, các nhà nghiên cứu đặt ra vấn đề thứ hai khi tiếp cận văn học thiếu nhi. Cụ thể, câu chuyện đó giới thiệu vấn đề công bằng sinh thái như thế nào? Kết truyện có đưa ra một chiến lược thích hợp để giải quyết vấn đề đặt ra trong truyện, bác bỏ hệ thống phân cấp để ủng hộ cộng đồng và dân chủ tham gia (participatory democracy) hay không? Nhân vật trẻ em có bị bỏ lại để một mình giải quyết các vấn đề công bằng sinh thái do người lớn tạo ra lúc ban đầu hay không?21.

    Thứ ba, văn bản thừa nhận bản chất của những trung gian nào? Thiên nhiên có phải là đối tượng được cứu bởi nhân vật trẻ em anh hùng? Có phải thiên nhiên đóng vai như một thiếu nữ bị gặp nạn, một người mẹ hi sinh hết mình, hay thiên nhiên mang tính chủ thể và có quyền tự quyết của nó?22

    Viết, đọc và nghiên cứu văn học thiếu nhi dưới lăng kính của phê bình sinh thái mở ra nhiều triển vọng cho bộ phận văn học này thay vì đóng khung nó như một thể loại chỉ dành cho độc giả nhỏ tuổi. Ba câu hỏi lớn trên đây cho thấy vai trò quan trọng của văn học thiếu nhi trong việc góp phần giải quyết các vấn đề sinh thái xã hội, khắc phục ô nhiễm môi trường, xác lập lý tưởng sống lành mạnh, dung hoà với tự nhiên và duy trì ổn định xã hội. Những câu hỏi này đồng thời có thể xem như những định hướng trong nghiên cứu văn học trẻ em dưới góc nhìn sinh thái nhằm cho thấy mối quan hệ tương tác giữa môi trường văn hoá tinh thần và sáng tạo văn chương. Khảo sát sơ lược dưới đây về một số truyện viết cho thiếu nhi ở khu vực châu Á một mặt giới thiệu cách thức thiên nhiên được thể hiện trong văn học thiếu nhi, mặt khác lại bộc lộ những vấn đề trong cách thức con người đối diện và định vị bản thân giữa môi trường xung quanh.

    2. Khảo sát bước đầu một số truyện viết về thiếu nhi của châu Á

    Nghiên cứu của Novita Dewi, People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education, về một số tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi có thể cung cấp một cái nhìn sơ lược về tình hình văn học thiếu nhi tại một số nước châu Á23. Sử dụng lăng kính của phê bình sinh thái và hậu thuộc địa, Dewi cho thấy những chủ đề xuất hiện phổ biến trong văn học thiếu nhi bao gồm sự cạn kiệt của trái đất và tài nguyên thiên nhiên, lòng tham của con người và sự bảo tồn và lưu giữ trí khôn của nhân loại. Dù không thể phủ nhận vai trò của những tác phẩm này trong việc duy trì và nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ, những chủ đề được tìm thấy trong những tác phẩm đồng thời cũng cho thấy vai trò trung tâm của con người trong mối quan hệ với thiên nhiên và muôn loài. Cụ thể, văn học thiếu nhi vẫn bộc lộ cung cách trịch thượng mà con người định vị về chính mình trong mối tương quan với sinh thái.

    Là một phần của một dự án lớn hơn, bài báo của Dewi chọn lọc một số truyện ngắn, truyện ngụ ngôn, truyện dân gian, bài hát hay bài thơ miêu tả về thiên nhiên và con người làm đối tượng nghiên cứu. Các tác phẩm này được trích ra từ tuyển tập CeritaCerita Pelestarian Lingkungan: Cerita Rakyat dari Berbagai Penjuru Dunia (2003). Cuốn sách là bản dịch tiếng Indonesia từ tác phẩm Earth Care-World Folktales to Take About của MacDonald, được xuất bản lần đầu vào năm 1992 và thường được sử dụng trong giáo trình giáo dục sinh thái trên thế giới (Dewi, 41). Nghiên cứu của Dewi tập trung vào 13 câu chuyện, bao gồm The Farmer and His Crops (Hmong), Hold Tight and Stick Tight (Japan), The New Lake (China), Fox Rulesthe Stream (Thailand), The Mosquito Extermination Project (India); Gecko Cannot Sleep (Bali), Avvaiyar’s Rest (Tamil Nadu), Hidden Divinity (India), Love the Weeds (Iran), The Useless Tree (China), Sharing the Wine (China), In Your Hands (India), The Tamarind Tree (Thailand) và Don’t Throw Stones from Not Yours to Yours (Israel). Năm chủ đề chính được Dewi tổng kết qua khảo sát bao gồm chăm sóc môi trường, tác động của hành vi con người đối với thiên nhiên, mối liên hê tương hỗ của đời sống tự nhiên, giá trị của vạn vật trên trái đất và lòng tham của con người.

    Chủ đề đầu tiên, việc quan tâm và nuôi dưỡng môi trường tự nhiên, được tìm thấy trong hai câu chuyện The Farmer and His Crops”  In Your Hands. Cả hai câu chuyện này đều chứa đựng những bài học đạo đức, mặc dù câu chuyện thứ hai mang màu sắc tôn giáo rõ ràng hơn. The Farmer and His Crops lý giải vì sao thời gian thu hoạch vụ mùa ngắn thông qua việc chỉ trích thói lười biếng của một người nông dân. Nhân vật chính được cho là lười biếng đến nỗi anh ta thậm chí không muốn thu hoạch mùa vụ trên cánh đồng của mình. Ngô và lúa đành tự nguyện tìm đến nhà người nông dân và thất vọng nhận ra chẳng có kho thóc nào đang chờ đợi chúng cả. Thất vọng, ngô và lúa đành quay ngược lên đồi và kể từ đó, người nông dân phải vất vả lên đồi mới có thể thu hoạch được mùa vụ. Ở câu chuyện thứ hai, một thanh niên láu cá tìm cách lừa một nhà thông thái bằng cách hỏi xem con chim trên tay ông còn sống hay đã chết. Nhìn thấy mưu mẹo của gã thanh niên kia, nhà thông thái trả lời nếu ta bảo con chim ấy còn sống, người sẽ giết chúng đi trong khi chỉ thả ra nếu ta bảo rằng con chim ấy đã chết. Tính chất ngụ ngôn phản ánh qua câu chuyện, ta gặt hái những gì ta bắt gặp, đồng thời cũng cho thấy cách thức con người đối xử với môi trường xung quanh. Dưới góc nhìn của phê bình sinh thái, nhân vật con người trong hai câu chuyện trên luôn cho thấy vị trí chủ đạo, nắm quyền và kiểm soát môi trường. Thiên nhiên chỉ được xem là nguồn dự trữ thực phẩm và phục vụ cho lợi ích con người.

    Hai câu chuyện ngụ ngôn Sharing the Wine và Don’t Throw Stonesfrom Not Yoursto Yours mang đến những bài học về hậu quả của thói ích kỷ và keo kiệt. Trong Sharing the Wine, môt bữa tiệc rượu đã kết thúc bằng một bữa tiệc nước lã dưới ánh trăng bởi mỗi một vị khách tham dự đã lén lút đổ một vò nước lã vào thùng, chắc mẩm sẽ không ai phát hiện nếu chỉ một chút nước bị hoà tan với rượu. Tương tự, Don’t Throw Stonesfrom Not Yours to Yours chỉ trích thói ích kỷ của nhân vật nam chính. Một người đàn ông giàu có liên tục ném những viên đá xấu xí trong sân nhà mình ra ngoài đường và tảng lờ tất cả những phàn nàn của hàng xóm xung quanh. Đến một ngày, nhân vật chính bị phá sản và cay đắng nếm trải những phiền toái từ đống đất đá mà ông đã thải ra trước đây. Bài học nhãn tiền từ hai câu chuyện này cho thấy hành vi của cá nhân có thể ảnh hưởng đến cộng đồng xung quanh như thế nào. Thêm vào đó, con người một lần nữa thể hiện sự thống trị và đô hộ thiên nhiên thông qua cách thức câu chuyện kể chỉ xoay quanh nhân vật là con người.

    Ngược với câu chuyện được kể lại bên trên, hai câu chuyện thiếu nhi Gecko Cannot Sleep và Mosquito Extermination Project lại truyền tải thông điệp về cuộc sống thuận hoà giữa muôn loài. Điều đáng chú ý là muôn loài ở đây không bao gồm con người. Cảm thấy bị phiền toái bởi đom đóm cứ nhấp nháy suốt đêm, một con tắc kè bèn đến gặp trưởng thôn để phàn nàn. Bất ngờ là tại đây Tắc Kè đã được các loài vật khác khuyên bảo về vai trò của các loài vật khác nhau trong cuộc sống, hiểu ra và về nhà. Đom đóm nhấp nháy soi đường để dân làng không dẫm phải hố Trâu. Trâu lấy đất lấp đường rồi nước Mưa rửa sạch. Nhưng Mưa vẫn sẽ đến để Ao không cạn khô. Bởi nếu Ao cạn khô thì Muỗi không sinh sôi nảy nở và Tắc Kè không còn gì để ăn. Thông qua việc mô tả sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các sinh thể, hai câu chuyện trên truyền tải thông điệp về sự kết nối giữa vạn vật, và sự vắng mặt của bất kỳ một sinh vật nào cũng có thể làm xáo trộn chuỗi sự sống trên trái đất. Những giá trị phổ quát này phần nào cho thấy những câu chuyện thiếu nhi có thể chia sẻ những thông điệp chung với những câu chuyện sinh thái toàn cầu.

    Ba câu chuyện Love the Weeds, The Useless Tree, và The New Lake lại mang đến thông điệp nhẹ nhàng hơn,rằng trên thế gian này, không có vật gì là không có giá trị. Thoạt nhìn, hai câu chuyện đầu tiên tưởng chừng chỉ xoay quanh thế giới loài người bởi trong cả hai truyện, con người chủ động vứt bỏ những thứ bị cho là vô dụng. Những thứ được cho là vô dụng ấy có thể là cây cỏ hay đồ vật không còn giá trị sử dụng. Tương tự, The New Lake kể về một hoạch định sai lầm của Thủ tướng Trung Quốc trong quá trình xây dựng thành phố. Dự định lấp hồ để có đất xây dựng nhà cửa, ông trao đổi với vị phó thủ tướng và ngỡ ngàng nhận ra người này có dự định đào một cái hố tương tự chính xác bằng cái hồ mà thủ tướng muốn lấp. Trong khi đó, hai câu chuyện Avvaiyar’s Rest và Hidden Divinity đều nói về sự thiêng liêng của thiên nhiên được Chúa tạo ra cũng như sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống hàng ngày. Câu chuyện Laudato si còn nhấn mạnh những người không yêu quý thiên nhiên thì không thể yêu thương đồng loại, cũng như yêu mến Chúa.

    Lòng tham có sức mạnh huỷ diệt là thông điệp cuối cùng mà hai câu chuyện dân gian từ Nhật Bản và Thái Lan muốn truyền tải. Truyện dân gian Nhật Bản Hold Tight and Stick Tight, gửi gắm một bài học muôn thuở rằng người lương thiện sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng còn những kẻ tham lam rồi sẽ bị trừng trị. Nhân vật người lương thiện được mách là hãy giữ chặt cây thông thần kỳ mà từ đó nhựa của nó biến thành vàng. Ngược lại, nhân vật kẻ tham lam ôm cùng một cái cây nhưng chỉ nhận lại toàn nhựa thông lan tràn khắp cơ thể. Trong hai câu chuyện dân gian của Thái Lan, lòng tham trở thành một thói xấu cố hữu của cả loài vật lẫn con người, thúc đẩy các nhân vật lao vào những cuộc cạnh tranh không lành mạnh. Câu chuyện đầu tiên Fox Rules the Stream, kể về cuộc chiến giữa các loài động vật lớn nhỏ. Bởi tính háu ăn, một con cáo ranh mãnh đã sử dụng sức mạnh của mình huy động những con vật lớn hơn như trăn và voi bắt nạt những con vật nhỏ hơn nhằm chiếm hữu dòng suối mà cáo đang sinh sống. Cuối cùng, nhờ khả năng của thỏ mà những con vật nhỏ hơn cùng nhau đoàn kết lại và chiến thắng những con vật lớn hơn. Trong câu chuyện thứ hai The Tanmadrin Tree, hai người bạn lên đường nhằm tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn và hẹn ngày gặp lại sau 5 năm. Người thứ nhất thành công nhờ đức tính kiên trì và tiết kiệm. Người thứ hai, ngược lại, lại thất bại vì chỉ biết tiêu xài hoang phí. Sau 5 năm gặp lại, người thứ nhất nhường cho người thứ hai một căn nhà nhỏ với cây me sau vườn. Vẫn chứng nào tật nấy, người thứ hai không chịu làm lụng mà tiếp tục nuông chiều bản thân bằng cách bứt lá me để cho vào bữa ăn khiến cây me mỗi lúc một cằn cỗi. Cuối cùng, người thứ nhất một lần nữa giúp đỡ và giảng giải khiến cho người thứ hai hiểu ra lòng tham của bản thân khi luôn muốn được thêm một chút nữa.

    Dewi chuyển chủ đề của cuộc thảo luận sang một số truyện thiếu nhi được đăng trên Sunday Kompas, những truyện được cho là góp phần gia tăng nhận thức về môi trường sinh thái đối với độc giả. Hai truyện ngắn Growing Mangrove và Warisan Mbah Amat nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cứu trái đất cho thế hệ mai sau bởi thiên nhiên không trường tồn mãi mãi. Trong câu chuyện Putri Alor, nhân vật nữ chính, một cô gái nhỏ, thường xuyên chơi đùa với loài rùa xanh trên đảo Alor và ý thức rõ ràng tầm quan trọng của việc bảo tồn chúng. Hành động này ban đầu không được những người lớn hưởng ứng nhưng họ dần nhận ra kho báu nằm trong chính những sinh vật thông thường hiện diện trong cuộc sống của họ.

    Nói chung, những chủ đề của văn học thiếu nhi được tìm thấy trong nghiên cứu của Dewi không phải là những chủ đề xa lạ. Tuy những câu chuyện này không giải quyếtrốtráo ba câu hỏi quan trọng về chức năng của văn học thiếu nhi đối với tiến bộ xã hội, chúng dù sao cũng góp phần minh hoạ mối quan hệ tương hỗ thay vì mang tính thứ bậc giữa con người, loài vật và tự nhiên xung quanh. Hơn thế nữa, việc thể hiện những nội dung phổ quát trong văn học thiếu nhi không quan trọng bằng cách thức những đề tài ấy được thể hiện như thế nào. Những nghiên cứu trường hợp về văn học thiếu nhi dưới góc nhìn phê bình sinh thái thậm chí được McDowell xem là khởi đầu quan trọng để nghiên cứu về tính đa thanh và tính đối thoại trong văn chương, hai khái niệm được mượn từ cách hiểu của Bakhtin. Việc tập trung vào cách thức nhà văn thể hiện sự tương tác giữa những “tiếng nói” của con người và phi con người trong tự nhiên giúp chúng ta “nhận ra rằng tất cả các yếu tố trong mạng lưới khổng lồ của tự nhiên đều có giá trị và cái mà chúng ta có thể gọi là “những tiếng nói” không có nghĩa là chúng ta có thể dịch tiếng nói đó sang ngôn ngữ của con người. Thách thức là làm thế nào ý thức được các giá trị đạo đức và thái độ mà ngôn ngữ văn học phản ánh, vì thứ ngôn ngữ này cũng “mang những bằng chứng về các giá trị xã hội” (chữ dùng của McDowell 1996, tr. 373) ở vào thời của nó”24. Việc phân tích sự tương tác giữa những “tiếng nói” khác nhau qua những cuộc hội ngộ văn chương giữa con người, động vật và môi trường xung quanh có thể giúp khám phá những quan điểm đạo đức khác nhau liên quan đến giá trị của mỗi loài bởi mỗi cuộc “gặp gỡ”, theo khái niệm “không-thời gian” (chronotope) của Bakhtin, là “nơi những nút thắt tự sự được buộc lại và cởi ra”25.

    3. Kết luận

    Bằng cách truy vấn về tính chủ thể hay khách thể của đối tượng loài vật trong văn học thiếu nhi, nhánh nghiên cứu về phê bình sinh thái trong văn học thiếu nhi cho thấy sự tương đồng và kề cận trong mối quan hệ giữa trẻ em và loài vật. Hướng nghiên cứu này cũng đặt nền tảng quan trọng để “khám phá những giao điểm về mối quan hệ giữa các loài hay nghiên cứu về loài vật, văn học môi trường (và công bằng môi trường) dành cho trẻ em, chủ nghĩa nữ quyền sinh thái và sư phạm sinh thái”26. Trong bài viết này, chúng tôi cố gắng tìm hiểu sự giao thoa giữa văn học thiếu nhi và phê bình sinh thái, đồng thời giới thiệu một số các tác phẩm văn học thiếu nhi ở khu vực châu Á nhằm hình dung sự tương tác giữa các loài và cách thức con người định vị cá nhân trong mạng lưới đa loài ấy. Các lý thuyết về văn học thiếu nhi dưới góc nhìn phê bình sinh thái đồng thời cũng cho thấy vai trò của văn học thiếu nhi với tư cách là hoạt động sáng tạo trong việc thúc đẩy ý thức về tính tương tác giữa các loài, tinh thần hoà hợp với thiên nhiên, thừa nhận hậu quả của việc thay đổi môi sinh và tham gia tích cực vào việc thay đổi môi trường sống.

Trần Tịnh Vy

Nguồn: Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 28.02.2024.

Tài liệu tham khảo:
* Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 602.04-2021.08
1. Bakhtin,M.M.(1981),The Dialogic Imagination. Four Essays, University of Texas Press, Austin.
2. Bradford, Clare (2003), “The sky is falling: Children as environmental subjects in contemporary picture books”, trong Roderick McGillis,Children’s Literature and the Fin de Sie’cle, Greenwood Publishing Group, Inc, Westport, 111-120.
3. Dewi, Novita (2017), “People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education”, K@ta, vol. 19, no. 1, Jun. 2017, 39-46, doi:10.9744/kata.19.1.39-46.
4. Elnady, Abdulgawad (2018), “The Intersection between Ecocriticism and Chilren’s Literature: The Case of AbdelTawad Youssef”, HERMS, Vol.7, Issue No.2, 9-44.
5. Gaard, Greta (2009), “Children’s environmental literature: from ecocriticism to ecopedagogy”, Neohelicon 36, 321-334, https://doi.org/10.1007/s11059-009-0003-7).
6. Glotfelty, Cheryll, and Fromm, Harold (1996), The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, Chicago.
7. Goga, Nina et al. (2018), Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and Cultures: Nordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke.
8. Khaneman, D. (2011), Thinking, Fast and Slow, Farrar, Strous and Ferroux, New York.
9. Lidström, S., & Garrard, G.(2014), “Images Adequate to Our Predicament. Ecology, EnvironmentandEcopoetics”,Environmental Humanities, 5, 35-53.
10. Løvlie, L. (2013), “Rousseau i våre hjerter”, Studier i Pedagogisk Filoso . Årgang 2. Nr. 1, 1-20.
11. Massey, G., & Bradford, C. (2011), “Children as Ecocitizens: Ecocriticism and Environmental Texts”,trong K.Mallan & C. Bradford, Contemporary Children’s Literature and Film: Engaging with Theory, PalgraveMacmillan, Basingstoke, 109-126.
12. McDowell, M. J. (1996), “The Bakhtinian Road to Ecological Insight”, trong C. Glotfelty& H. Frommeds.,The Ecocriticism Reader. Landmarksin Literary Ecology, The University of Georgia Press, Athens and London, 371-391.
13. Nyrnes, Aslaug (2018), “The Nordic Winter Pastoral: A Heritage of Romanticism”, trong Nina Goga et all, Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and Cultures: Nordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke, 75-90.
14. Platt, Kamala (2004), “Environmental justice children’s literature: Depicting, defending, and celebrating trees and birds, colors and people”, trong S. I. Dobrin & K. Kidd, Wild things: Children’s culture and ecocriticism, Wayne State University Press, Detroit, 183-184.

Chú thích:
1, 4, 5, 16, 18, 19, 21, 22, 26 Gaard, Greta (2009), “Children’s environmental literature: from ecocriticism to ecopedagogy”, Neohelicon 36, tr. 334, 322, 324, 326, 327, 327, 328, 330, 325, https://doi.org/10.1007/s11059-009-0003-7).
2 Elnady, Abdulgawad (2018), “The Intersection between Ecocriticism and Chilren’s Literature: The Case of Abdel-Tawad Youssef”, HERMS, Vol.7, Issue No.2, 9-44, tr. 11.
3 Glotfelty, Cheryll, and Fromm, Harold (1996), The Ecocriticism Reader: Landmarksin Literary Ecology, University of Georgia Press, Chicago, tr. xviii.
6 The Lorax là tác phẩm văn học thiếu nhi do Dr. Seuss viết và xuất bản vào năm 1971. Câu chuyện xoay quanh lòng tham của con người dẫn đến nguy cơ huỷ hoại môi trường tự nhiên và nỗ lực bảo vệ môi trường của nhân vật chính The Lorax. Truyện độc đáo không chỉ thông điệp mà nó mang đến mà còn bởi cách thức nhà văn sử dụng nhân cách hoá để tạo nên các nhân vật đại diện cho các thành phần liên quan, bao gồm ngành công nghiệp (Once-ler), môi trường (cây Truffula) và nhà hoạt động môi trường (Lorax).
7, 10, 13, 14, 15 Massey, G., & Bradford, C. (2011), “Children as Ecocitizens: Ecocriticism and Environmental Texts”, trong K. Mallan & C. Bradford, Contemporary Children’s Literature and Film: Engaging with Theory, Palgrave Macmillan, Basingstoke, 109-126, tr. 110, 109, 109, 110.
8, 11 Lidström, S., & Garrard, G. (2014), “Images Adequate to Our Predicament. Ecology, Environment and Ecopoetics”, Environmental Humanities, 5, 35-53, tr. 43, 42.
9 Khaneman, D. (2011), Thinking, Fast and Slow, Farrar, Strous and Ferroux, New York.
12 Nyrnes, Aslaug (2018), “The Nordic Winter Pastoral: A Heritage of Romanticism”, trong Nina Goga et all, Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and CulturesNordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke, 75-90, tr. 79.
17 Platt, Kamala (2004), “Environmental justice children’s literature: Depicting, defending, and celebrating trees and birds, colors and people”, trong S. I. Dobrin & K. Kidd, Wild things: Children’s culture and ecocriticism, Wayne State University Press, Detroit, 183-184, tr. 186.
20 Bradford, Clare (2003), “The sky is falling: Children as environmental subjects in contemporary picture books”, trong Roderick McGillis, Children’s Literature and the Fin de Sie’cle, Greenwood Publishing Group, Inc, Westport, 111-120, tr. 116.
23 Dewi, Novita. “People and Nature in Asian Stories: Reading and Writing Materials for Eco Education.” K@ta, vol. 19, no. 1, Jun. 2017, pp. 39-46, doi:10.9744/kata.19.1.39-46.
24 Goga, Nina et al. (2018), Ecocritical Prespectives on Children’s Texts and Cultures: Nordic Dialogues, Palgrave Macmillan, Basingstoke, tr. 62.
25 Bakhtin, M. M. (1981), The Dialogic Imagination. Four Essays, University of Texas Press,Austin, tr. 250.

20230907 2

Từ những khởi điểm

     Trò chơi có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống con người. Johan Huizinga, sử gia người Hà Lan, trong công trình kinh điển khảo cứu về trò chơi, Homo Ludens, đã nhận định: “[nền văn minh nhân loại] đã nảy sinh trong trò chơi, như là trò chơi và chưa bao giờ rời bỏ nó” [6, tr.173]. Trò chơi, theo đó, không đơn thuần là một hoạt động cơ bản của con người; nó xuyên thấm vào tất cả các hoạt động khác, trở thành nguyên mẫu của các mô hình tổ chức đời sống, các hình thái ý thức, đi vào trong tư duy của con người như một khái niệm công cụ để hình dung, nhận thức về thế giới và về chính mình. Bởi thế, có lẽ không khó hiểu khi trò chơi xuất hiện thường trực trong các diễn ngôn lý thuyết văn học như một từ khóa với nhiều nét nghĩa gắn liền với những nỗ lực tư duy về đặc trưng văn học, phương thức tồn tại cũng như quá trình của nó.

     Để tìm hiểu ý niệm trò chơi trong diễn ngôn lý thuyết văn học hiện đại, cần thiết phải quay trở về với khởi nguồn triết học. Ngay từ trong triết học cổ đại, ở cả phương Đông và phương Tây, ý niệm trò chơi đã hiện diện trong thế giới quan và nhân sinh quan của người xưa. Ở phương Tây, triết gia Heraclitus được ghi nhận là người đầu tiên đã đưa trò chơi vào trong diễn ngôn triết học khi ông hình dung: “Tiến trình của thế giới (aion) là một đứa trẻ đang chơi, thực hiện những nước đi của nó trên bàn chơi”[13, tr.15]. Trò chơi thực sự trở thành một khái niệm then chốt trong hệ thống triết học của Plato. Theo tổng thuật của Gordon E. Slethaug, Plato ý thức được sự phân biệt giữa sự chơi (play) và trò chơi (game); ông xem sự chơi là “hoạt động hoàn toàn không được cấu trúc trong khi trò chơi lại là các hoạt động được cấu trúc hóa với những chỉ dẫn, luật lệ và mục tiêu”, từ đó, dành sự ưu ái cho trò chơi hơn là sự chơi, xem trò chơi có khả năng cung cấp những mô thức để giáo dục con người trong khi sự chơi bị coi là “phù phiếm” [12, tr.145]. Mihai Spariosu trong công trình nghiên cứu của mình Literature, Mimesis and Play đưa ra một nhận xét đáng lưu ý: hệ thống triết học của Plato trên thực tế đã duy lý hóa khái niệm “chơi”, dùng nó để trấn áp, loại bỏ tính chất dionysian (tính từ phái sinh từ tên thần Rượu Nho Dionysus, tạm dịch là tính chất phóng túng, tự do, phi duy lý…) của sự chơi vốn hiện diện khá đậm nét trong truyền thống tư duy người Hy Lạp trước đó, kết tinh trong văn chương của Homere. Plato kết nối sự chơi với mô phỏng (mimesis) – một khái niệm trung tâm của nhận thức luận và mỹ học cổ đại Hy Lạp – và cho rằng trò chơi chỉ thật sự có ý nghĩa khi nó mô phỏng Thượng đế, hướng đến một thế giới trật tự, hài hòa, nơi ngự trị cái đẹp bất diệt, công lý phổ quát mà Thượng đế đã tạo ra như một nguyên mẫu lý tưởng. Sự mô phỏng như thế được Plato gọi là “trò chơi cao quý” và chỉ có nó mới đem đến cho con người khoái cảm lớn nhất [13, tr.17-19].

     Quan niệm về trò chơi của Plato có sức ảnh hưởng lớn và lâu dài trong lịch sử triết học phương Tây cho đến thế kỷ XVIII. Immanuel Kant và Friedrich Schiller – hai triết gia của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức – đã phát triển khái niệm chơi, mở rộng nội hàm đồng thời suy tư thêm về ý nghĩa, chức năng của sự chơi. Từ Kant, Schiller, trò chơi trở thành một khái niệm trung tâm trong diễn ngôn triết học từ thời kỳ hiện đại. Trong hệ thống triết học của mình, Kant đặc biệt lưu ý đến sự tương hợp giữa trò chơi và phán đoán thẩm mỹ ở chỗ cả hai đều cùng mang “tính mục đích phi mục đích”, vô cầu, vô tư, bất vị lợi. Slethaug tóm lược quan điểm của Kant như sau: “Tác phẩm của Kant thường được coi là khúc ngoặt phê phán trong việc khái niệm hóa sự chơi, vì ông đã kết nối phán đoán thẩm mỹ và nghệ thuật với sự chơi, xem chúng là những hình thái độc lập với nhận thức và những khẳng quyết chân lý của khoa học. Như là một hình thức của sự chơi, nghệ thuật cũng mang tính chất bộc phát, tự do và vui thú tự thân, nó được giải phóng khỏi việc nhất thiết phải xoay quanh hiện thực, phải mang tính biểu hiện hay phải nói lên một điều gì đó; nó có thể xác nhận sự độc lập của nó và chơi với những khái niệm khác nhau về hiện thực mà không bị ràng buộc bởi một nội dung cụ thể” [12, tr.145]. Có thể nói, đến Kant, cái gọi là bản chất trò chơi của nghệ thuật thực sự được phân tích cụ thể, gắn chặt với ý niệm về tính chất tự trị của nghệ thuật. Kế thừa những kiến giải của Kant và tiếp tục đẩy mạnh những suy tư về bản chất trò chơi của nghệ thuật, Schiller chú ý đến bình diện chủ thể. Câu nói của Schiller về trò chơi được trích dẫn nhiều nhất: “Con người chỉ là chính mình trọn vẹn trong khi chơi” cho thấy con người trong thực tại luôn là những khả thể hơn là một bản chất đã hoàn kết. Sự chơi giúp con người hiện thực hóa những khả thể bị kìm nén lại trong thực tại vốn dĩ cũng chỉ là những ảo ảnh (illusions), thế nhưng “lại thường xuyên bị ngộ nhận là các sự thật (truths) tối hậu, và điều này, đến lượt nó, dẫn đến chủ nghĩa giáo điều, thậm chí chủ nghĩa cuồng tín – những thứ “chủ nghĩa” dường như được biện hộ bởi những cam kết mang tính bản thể luận còn non nớt với các sự thật đó” (Julius A. Elias) [6]. Quan điểm về trò chơi của Schiller như thế gắn liền với ý niệm về sự tự do – tự do như thể vượt thoát khỏi những ràng buộc, quy phạm của hiện thực và bằng sự tự do đó, con người mới khẳng định tư cách chủ thể của mình. Schiller cũng gợi mở nhiều suy tưởng về bản chất của thế giới trò chơi, ảnh hưởng khá sâu sắc đến nhiều triết gia ở thế hệ sau.

     Hai triết gia Đức đã tạo thành một truyền thống mang tên mình – “truyền thống Kant-Schiller” trong dòng mạch tư duy về trò chơi trong triết học, mỹ học hiện đại. Theo truyền thống này, ý niệm trò chơi gắn bó khăng khít với ý niệm về tính tự trị của nghệ thuật, bản chất vô tư, bất vị lợi của phán đoán thẩm mỹ, sự giải phóng của chủ thể sáng tạo cũng như tính chất khả nhiên của thế giới nghệ thuật… Đó là những tiền đề sẽ được tiếp tục phát triển và đối thoại trong sự vận động của lý thuyết trò chơi về sau. Ở đây, chúng tôi cho rằng lý thuyết trò chơi được đúc kết từ những quá trình tư duy về trò chơi, dùng trò chơi như một khái niệm để xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan.

     Đến sự bùng nổ của khái niệm “trò chơi” trong diễn ngôn lý thuyết văn học hiện đại. Có thể nói “trò chơi” xứng đáng được coi là một từ then chốt trong diễn ngôn lý thuyết văn học hiện đại. Theo tổng thuật của Slethaug tại mục từ “Game Theories” và “Play/Freeplay Theories” trong Encyclopedia of Contemporary Literay Theory – Approaches, Scholars, Terms, khái niệm trò chơi, cùng với những từ ngữ khác nằm trong vùng nghĩa của nó (hội hè, mặt nạ, sắm vai, trình diễn, giải trí, tiếng cười…) được vận dụng trong hệ thống tư tưởng của hầu hết những triết gia, những nhà lý luận văn học, những khuynh hướng lý thuyết quan trọng nhất của thời kỳ hiện đại – hậu hiện đại, kể từ Nietzsche đến Heidegger, Wittgenstein, Freud, Bakhtin, Gadamer, Derrida, Foucault, Barthes, Kristeva, Lacan [12, tr.65-69 và tr.145-149]. Dĩ nhiên, bảng liệt kê chưa bao quát được hết những học giả đã sử dụng khái niệm trò chơi như một khái niệm công cụ trong tư duy của họ. Câu hỏi đặt ra: tại sao khái niệm trò chơi lại hiện diện với tần số, mật độ cao như vậy trong diễn ngôn tư tưởng từ thời kỳ hiện đại? Điều này hẳn liên quan đến sự nhận thức ngày một sâu sắc hơn về ý nghĩa, chức năng của trò chơi, sự chơi đối với nhân loại, sự lan rộng, thẩm thấu của trò chơi đến mọi bình diện đời sống, xã hội, sự biến chuyển của tâm thức con người khi “thế giới trở thành hình ảnh”, nói như Martin Heidegger (dẫn theo Hoàng Ngọc Tuấn) [18, tr.216]. Khái niệm “trò chơi” lúc này bộc lộ tính năng sản dồi dào, trở thành một từ khóa hữu hiệu với những nét nghĩa không bị đông cứng lại để mô tả, nắm bắt những trạng thái, vận động của thế giới cũng như con người.

     Được sử dụng và phát triển bởi những nhà tư tưởng có khuynh hướng nhiều khi trái ngược nhau, khái niệm “chơi” trong diễn ngôn lý thuyết văn học rõ ràng không dễ tổng thuật, nhất là khi bản thân lý thuyết văn học bây giờ thực tế là một lĩnh vực liên ngành. Nói khác đi, chúng ta đang trực diện với một đối tượng vừa rộng, vừa phức tạp mà để khảo sát nó, phân loại là một thao tác cần thiết song cũng không hề đơn giản. Gordon E. Slethaug trong cuốn từ điển ở trên có nhắc đến đã phân chia lý thuyết trò chơi đương đại thành ba khuynh hướng: khuynh hướng chính trị – gắn liền với tên tuổi Mikhail Bakhtin, khuynh hướng thông diễn học – mà đại diện tiêu biểu là HansGeorg Gadamer và khuynh hướng giải cấu trúc – quy tụ vào khuynh hướng này là những tên tuổi quyền uy như Jacques Derrida, Michel Foucault, Julia Kristeva, Jacques Lacan, Jacques Erhmann [12, tr.145]. Bài viết này thể nghiệm một phương thức phân loại khác: khảo sát trò chơi gắn với tâm điểm của các hệ hình lý thuyết văn học hiện đại, từ chủ thể sáng tạo, đến văn bản nghệ thuật, hoạt động diễn giải và gần đây, chính trị học vănhóa.

1. Trò chơi trong các diễn ngôn lý thuyết về chủ thể sáng tạo

     Chủ thể sáng tạo, phạm trù tác giả từng là trọng tâm của hệ hình lý thuyết văn học của thời kỳ hiện đai, đặc biệt là thời kỳ mà ý thức hệ của chủ nghĩa lãng mạn thống trị. Có thể nói khái niệm trò chơi trong các diễn ngôn lý thuyết về chủ thể sáng tạo ở thời kỳ này chịu ảnh hưởng khá sâu sắc từ truyền thống Kant-Schiller, thể hiện ở các khía cạnh: hoạt động chơi có nhiều điểm đồng dạng với hoạt động sáng tác; thái độ chơi đồng dạng với thái độ thẩm mỹ; nỗ lực tự biểu hiện của chủ thể sáng tạo cũng đồng dạng với nỗ lực của con người khi dấn thân vào trò chơi…

     Có thể dẫn ra đây quan niệm của Friedrich Nietzsche. Theo Lawrence M. Hinman, trong hệ thống triết học của Nietzsche, chơi là hình thức cao nhất trong các hoạt động của con người, và con người lý tưởng chính là một người chơi vĩ đại [5, tr.106-124]. Sự chơi trong triết học của Nietzsche là một hành vi sáng tạo, con người giải phóng cho tinh thần của mình, chặt đứt những xiềng xích nô lệ trói buộc nó, vượt thắng chủ nghĩa hư vô, vươn lên thành con người siêu nhân, con người làm chủ cuộc chơi thế giới thay vì bị xoay vần như thể là vật chơi trong cuộc chơi đó. Chơi, do vậy, là hiện thân của ý chí quyền lực. Trong hệ thống triết học của mình, Nietzsche có xu hướng nhấn mạnh đến khía cạnh Dionysus của sự chơi – ông muốn nói đến một sự chơi say sưa, mãnh liệt, hưng phấn, bất tuân những quy phạm duy lý, những bảng giá trị chuẩn mực, ổn định, chiếm giữ thế đặc quyền. Về điểm này, Slethaug nhận xét: “Sự chơi [theo quan niệm của Nietzsche –N.H], với tư cách là cái không lý trí và phi lý mang tính chất xâm phạm, vượt ngưỡng có chức năng hiệu chỉnh lại sự mất cân bằng trong văn hóa và tư tưởng; và nghệ thuật, giống như sự chơi, tách khỏi những mô thức đặc quyền của lý trí trong nền văn hóa, lại thôi thúc một tinh thần bất an và bất tuân, thách thức và hướng công chúng đến những quan niệm mới về hiện thực” [12, tr.146]. Tinh thần Dionysus của trò chơi mà Nietzsche đề cao đã tỏa bóng xuống toàn bộ nền nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa.

     Trò chơi cũng xuất hiện trong diễn ngôn của phân tâm học, một trong những khuynh hướng tiếp cận chủ thể sáng tạo từ bình diện tâm lý có vị trí quan trọng trên bản đồ lý thuyết văn học hiện đai. Sigmund Freud cho rằng hành động kiến tạo thế giới nghệ thuật của người nghệ sĩ về bản chất tương tự như hành vi chơi của trẻ thơ. Ông viết: “Ta có quyền nói mọi trẻ em chơi là ứng xử của một nhà thơ, ở chỗ nó tạo ra cho mình một thế giới, hoặc nói đúng hơn, nó hoán vị các vật của thế giới nơi nó sống sang một trật tự mới hoàn toàn thích hợp với mình… Chơi của trẻ con không khác gì với “mộng giữa lúc thức”. Nhà thơ cũng như trẻ em chơi: tạo ra cho mình một thế giới tưởng tượng, rất coi trọng, nghĩa là dành cho nó rất nhiều tình cảm trong khi vẫn phân biệt rất rõ thế giới đó với thực tế” [17, tr.37-38]. Thế giới nghệ thuật của nhà thơ, theo đó, là một dạng thức của thế giới chơi; nó tách khỏi thực tại, nói đúng hơn, vượt thoát khỏi sự kìm nén của thực tại được kiến tạo bởi lý trí nhờ năng lượng của giấc mơ, của vô thức. Ta có thể thấy ý niệm về trò chơi như thế đã được kế thừa và phát triển trong nguyên tắc thi pháp của chủ nghĩa siêu thực. Một cách khái quát, trong các diễn ngôn lý thuyết hiện đại về chủ thể sáng tạo, khái niệm trò chơi có xu hướng giải thể tính chất duy lý được áp đặt lên nó kể từ Plato đến Kant, Schiller, trong khi đó lại giải phóng tính chất phản duy lý vốn bị kìm nén suốt bao nhiêu thế kỷ trong lịch sử tư duy về khái niệm. Điều này cũng phản ánh động hướng của lý thuyết văn học hiện đại muốn vượt khỏi hệ hình duy lý thống trị truyền thống lý luận phương Tây kể từ Aristote cho đến tận cuối thế kỷ XIX.

     Hệ hình lý thuyết lấy tâm lý của chủ thể sáng tạo làm trung tâm hẳn nhiên cũng hàm chứa những giới hạn và thực tế, nó đã bị thách thức, lấn lướt bởi các hệ hình lý thuyết coi văn bản, người đọc là tiêu điểm, thậm chí, có vẻ như bị xem là lạc hậu, lỗi thời khi chủ nghĩa hậu hiện đại tuyên cáo về cái chết của tác giả, của chủ thể. Tuy nhiên, cần phải hiểu cái chết ở đây là sự mất hiệu lực của những ý niệm truyền thống, được phổ biến rộng về tác giả, chủ thể cũng như quyền uy được độc tôn của những ý niệm này. Tuyên cáo về cái chết của tác giả, chủ thể thực chất là đề nghị phải tư duy lại, hiểu sâu hơn những khái niệm này, thay vì phủ nhận chúng. Trên thực tế, một số vấn đề liên đới đến chủ thể sáng tạo như hoạt động hư cấu, đặc thù của thế giới nghệ thuật, biểu hiện chủ thể… vẫn đang tiếp tục được đào sâu trong các diễn ngôn lý thuyết hiện nay. Chẳng hạn, trong hệ hình lý thuyết đương đại, việc xem viết (cũng như trò chơi) là sự biểu hiện của một chủ thể đã hiện hữu trước sự viết (hay trò chơi) có thể bị coi là một ý niệm đơn giản. Chủ thế là cái đang được biểu hành, thực thi trong quá trình viết/chơi. Không phải ngẫu nhiên, một trong những khái niệm công cụ để tư duy về chủ thể đang rất thịnh hành hiện nay là “performativity” – tạm dịch là tính biểu hành – lại xuất xừ từ từ “performance” (biểu diễn/trình diễn – một từ hoàn toàn có thể xếp vào trường của khái niệm “chơi”). Trong những nghiên cứu có tính chất đột phá về phái tính, Judith Butler cho rằng quá trình hình thành chủ thể đồng thời cũng là quá trình chủ thể được phái tính hóa. Chủ thể trở thành nam hay nữ xét đến cùng chính là sự trình diễn, hiện thực hóa những quy tắc, chỉ dẫn đã tồn tại trước chủ thể, buộc chủ thể phải phải tuân theo. Nói khác đi, trở thành nam/nữ tức là tham gia vào một cuộc chơi với những luật lệ, khuôn mẫu, đã được hình thành từ trước, diễn lại các điệu bộ, hành vi được xem là tín hiệu quy định bản sắc giới. Phái tính không hoàn toàn là hiện tượng tự nhiên, nó gần hơn với trò diễn. Vấn đề biểu hiện bản sắc trong sự viết đến đây không còn là vấn đề tâm lý đơn thuần nữa, nó chính là một sự chơi trong đó các luật lệ, quy tắc tồn tại trước chủ thể chính là độ khó của trò chơi đặt ra mà chủ thể phải chinh phục để kiến tạo nên mình (Về khái niệm “tính biểu hành” và tư tưởng của Judith Butler, chúng tôi tổng thuật theo tài liệu tham khảo số 11).

2. Trò chơi trong các diễn ngôn lý thuyết về văn bản nghệ thuật

     Hệ hình lý thuyết lấy văn bản làm trung tâm có lẽ được bắt đầu từ trường phái Hình thức Nga. Đến chủ nghĩa Hình thức Nga, đối tượng của nghiên cứu văn học là tính văn học được thể hiện tập trung trong văn bản nghệ thuật chứ không phải ở bất kỳ yếu tố bên ngoài nào. Một trong những khái niệm quan trọng của chủ nghĩa hình thức Nga là “lạ hóa”, cho thấy ngôn từ trong văn bản văn học luôn có xu hướng phá vỡ những quán tính ngôn ngữ vốn luôn có xu hướng kéo tư duy trượt theo lối mòn của chúng. Do đánh bật thói quen tư duy, ngôn từ trong văn bản văn học luôn có tính chất của một thứ câu đố. Bởi lẽ đó mà nhà mỹ học Chu Quang Tiềm khi bàn về nguồn gốc của thơ ca cho rằng thơ ca gắn với các trò chơi chữ, câu đố, trò chơi con trẻ [16, tr.255]. Thiết nghĩ, trò chơi không chỉ là cội nguồn mà còn là thành tố nội tại, không thể triệt tiêu của ngôn từ văn học.

     Thế giới nghệ thuật luôn được cấu tạo theo nguyên tắc ước lệ. Bản chất ước lệ này của tác phẩm văn học, theo Trần Đình Sử, có thể được xem là một sản phẩm carnival – để dùng lại một thuật ngữ của Bakhtin, cũng là một từ nằm trong trường của khái niệm chơi. Theo đó, mỗi một tác phẩm văn học đều tạo ra một khoảng không thời gian tạm thời, mang tính chất hư cấu, tưởng tượng thoát khỏi những bó buộc, quy phạm của không-thời gian thực tại, từ đó hình thành nên một điểm tựa khác để nhìn thế giới, nhân sinh. Ngôn từ trong tác phẩm văn học do vậy cũng mang tính chất carnival, hội hè; nó luôn là sự vi phạm những quy tắc ngôn ngữ thông thường, được coi là chuẩn mực, phép tắc để có thể có những khả năng tạo sinh những ý nghĩa mới” [16, tr.72]. Tư biện về thế giới nghệ thuật theo tinh thần đó có thể nói chính là sự nối dài truyền thống Schiller.

     Các diễn ngôn lý thuyết về văn bản văn học lẽ dĩ nhiên đều dồn trọng tâm vào ngôn từ. Theo Huizinga thì bản thân việc con người sáng tạo nên ngôn ngữ và sử dụng nó để tri nhận, tư duy về thế giới đã là một trò chơi. Ông viết: “Ngôn ngữ,…- công cụ đầu tiên và quan trọng nhất mà con người tạo nên để giao tiếp, dạy dỗ, ra lệnh. Ngôn ngữ cho phép con người phân biệt, thiết lập và phát ngôn về sự vật; nói gọn là, là cho phép ta gọi tên sự vật và bằng việc gọi tên như thế, ta đã đưa sự vật vào trong địa hạt tinh thần. Khi hình thành lời nói và ngôn từ, tinh thần luôn luôn cọ xát giữa sự kiện và trí tuệ, hay nói khác đi, nó đang chơi với khả năng định danh kỳ lạ này. Đằng sau mỗi hình thức biểu đạt trừu tượng luôn là những ẩn dụ đậm nét, và mỗi ẩn dụ là một trò chơi trên ngôn ngữ. Do đó, với việc tạo ra một hình thức biểu đạt đời sống, con người đã tạo ra một thế giới thứ hai, mang tính thơ cùng với thế giới tự nhiên” [6, tr.4]. Một số học giả như Jacques Erhmann cho rằng phản đề thực tại – trò chơi là không xác đáng, thực tại – văn hóa – sự chơi không những không thể tách rời mà còn đồng dạng, đồng nghĩa và có thể hoán đổi cho nhau. Tất cả đều được cấu thành và triển diễn bên trong ngôn ngữ. Không có gì tồn tại bên ngoài ngôn ngữ, không còn vật mà chỉ còn lời, do đó, hiện sinh luôn là một quá trình con người tham gia vào những trò chơi ngôn ngữ. Đó là trò chơi của những khả thể, khiến cho không một bản chất nào, một sự thật nào có thể được xem là tối hậu, tất yếu. Ludwig Wittgenstein viết: “Có vô số các kiểu câu; vô số những cách sử dụng khác nhau những cái mà chúng ta gọi là ‘biểu trưng’, ‘từ ngữ’, ‘câu’. Và sự đa bội này không phải là cái gì đó đã cố định, hoàn tất; mà những kiểu dạng ngôn ngữ, những trò chơi ngôn ngữ mới, chúng ta có thể nói như vậy, hiện hữu trong khi những kiểu dạng khác, trò chơi khác trở nên lỗi thời và bị lãng quên” [3, tr.23]. Trò chơi ở đây là những công thức, khuôn mẫu sử dụng ngôn ngữ mà tại một thời điểm nhất định, những công thức, khuôn mẫu này quy định tính hợp thức của phát ngôn. Bình luận về điều này, Edwards viết: “Với việc mở rộng ẩn dụ trò chơi, Wittgenstein chứng minh không một định nghĩa nào có thể giải thích cho tất cả các cách sử dụng cụ thể một từ nào đó. Các cách sử dụng và luật lệ gắn chặt với tập quán nhưng nếu chính tính chất không cố định này cho thấy những thỏa thuận bên trong các quy phạm được xác định bởi thời gian và không gian thì đồng thời nó cũng cho thấy sự bất định của những khái niệm như sự thật, tri thức, sự hiểu biết và nghĩa. Nó khuyến khích những động thái đặc biệt ngay bên trong bản chất bị phân chia, mang tính đặc thù và khả sai của ngôn ngữ chống lại những khẳng định bá quyền của truyền thống, điển phạm và quyền uy thiết chế” [3, tr.23]. Đến đây, có thể thấy khái niệm “chơi” được hình dung như là cơ chế vận hành nội tại của ngôn ngữ, nhờ chơi mà ngôn ngữ luôn ở trong tình trạng không tự đủ, và chính tình trạng không tự đủ này là tiền đề để những cách sử dụng ngôn ngữ, cách tạo nghĩa mới, hay nói gọn hơn, những trò chơi ngôn ngữ mới nảy sinh, và bởi điều đó, không gian hiện sinh của con người không bao giờ tĩnh tại. Một quan niệm như vậy về ngôn ngữ, về trò chơi rất gần với tinh thần giải cấu trúc luận, đặc biệt là của Jacques Derrida. Có thể xem Jacques Derrida là một khúc ngoặt của lý thuyết trò chơi trong nghiên cứu văn hóa, văn học. Đến Derrida, trò chơi dường như đã mờ hẳn nét nghĩa trỏ một hoạt động cụ thể, mờ hẳn bình diện tâm lý mà truyền thống Schiller tô đậm, trở thành một ý niệm trừu tượng, gần như mang tính siêu nghiệm. Khía cạnh của trò chơi mà Derrida bảo lưu trong hệ thống triết học của mình, được ông nhấn mạnh nhất là sự tương tác: sự chơi luôn là “chơi với cái gì”. Ngôn ngữ, theo đó, luôn tồn tại như một cuộc chơi giữa các ký hiệu với ký hiệu, khiến cho nghĩa luôn bị trượt đi, không dừng lại trên một cái được biểu đạt tối hậu nào. Văn bản văn học, bởi thế, là một bản thể mở. Đây chính là một tiền đề quan trọng để ta bàn đến ý niệm trò chơi trong các lý thuyết diễn giải.

     Trò chơi trong các diễn ngôn lý thuyết về diễn giải văn học

     Theo John Lye thì lý thuyết văn học đương đại là một bộ phận của “khúc ngoặt diễn giải”, “một trào lưu văn hóa rộng lớn hơn đã dẫn đến sự cách mạng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu” [8]. Trong bước chuyển này, khái niệm trò chơi xuất hiện với tần số cao trong các diễn ngôn lý thuyết và có nhiều giá trị hơn chỉ là một ẩn dụ về hoạt động diễn giải.

     Trong hệ thống triết học của Hans – Georg Gadamer, một chủ soái của thông diễn học hiện đại, trò chơi và nghệ thuật không chỉ là hai lĩnh vực chia sẻ nhiều điểm tương đồng, trò chơi cũng không chỉ được xem là một cội nguồn của nghệ thuật. Gadamer khẳng định, trò chơi là phương thức tồn tại của nghệ thuật. Đột phá khỏi truyền thống Kant-Schiller vốn xem người chơi là chủ thể của trò chơi, biểu hiện mình thông qua sự chơi, Gadamer cho rằng ngược lai, trò chơi mới chính là chủ thể trong khi đó người chơi chỉ là cách thức qua đó trò chơi thể hiện ra. Trò chơi kéo người chơi, người chứng kiến cuộc chơi, luật lệ, phương tiện, chủ định của trò chơi lại vào trong một sự kiện chung. Đây cũng chính là đặc trưng của nghệ thuật. Theo diễn giải của Nicolas Davey về tư tưởng của Gadamer, “trò chơi hay tác phẩm nghệ thuật không thể quy giản về chủ định, phương tiện hay quy ước; đúng hơn mỗi một thành tố này chỉ thật sự là nó khi bị cuốn hút vào việc chơi trò chơi hay thực hành cái được xem là nghệ thuật… Điều này đưa đến một quan điểm tương tác về nghệ thuật như là một sự kiện giao tiếp. Nó trao cho nghệ thuật chiều kích tương thoại. Một tác phẩm luôn hàm chứa nhiều hơn một tiếng nói, đúng như ngụ ý của từ diễn giải [inter-pretation]” [1]. Ở đây, Davey đã dùng phép chơi chữ khi diễn giải tư tưởng Gadamer; trong tiếng Anh chữ “inter” trong từ “interpretation” [diễn giải] có khi được sử dụng như một tiền tố chỉ quan hệ liên kết. Diễn giải là một quan hệ có tính chất liên kết. Thưởng ngoạn, diễn giải tác phẩm nghệ thuật chính là hành vi gia nhập vào trò chơi mà ở đây, “người thưởng ngoạn bị kéo đi bởi kinh nghiệm thẩm mỹ của mình, bị cuốn vào trò chơi rồi bị biến đổi âm thầm bởi chính cái mà quyền của người thưởng lãm đã góp phần hình thành” [1].

     Thông diễn học là một tiền đề quan trọng của lý thuyết tiếp nhận, lấy người đọc, hành động đọc là tâm điểm. Người đọc là người chơi, hành động đọc là hành động đọc tương tự như hành động chơi bởi lẽ bản thân văn bản văn học đã là một thực thể mang tính trò chơi. Lý thuyết tiếp nhận đề cao địa vị của người đọc xuất phát từ chính những khám phá sâu sắc hơn của nó về đặc trưng của văn bản văn học. Chúng tôi muốn nói đến những kiến giải của Wolfgang Iser về văn bản văn học và hoạt động đọc. Kế thừa một phần tư tưởng của nhà hiện tượng luận người Ba Lan Roman Ingarden, Iser cho rằng văn bản văn học luôn tồn tại những những khoảng chưa xác định, những khoảng trắng tạo thành một thứ kết cấu vẫy gọi thu hút người đọc bằng sự đọc của mình lấp vào những chỗ bỏ ngỏ đó. Hình ảnh độc giả đối diện với những khoảng trắng của văn bản có thể khiến ta, trong một chừng mực nào đó, liên tưởng đến hình ảnh của trò chơi giải đố hay ghép hình để hoàn thiện một bức tranh.

     Trên nền của lý thuyết tiếp nhận, một số nhà nghiên cứu như Robert R. Wilson, Elizabeth W. Bruss, Peter Hutchinson đã phác họa mô hình quan hệ giữa tác giả – văn bản văn học – độc giả như thể mô hình lý thuyết trò chơi trong toán học hay trong hoạt động kinh tế. Đó là một kiểu quan hệ hoặc có tính cộng tác, hoặc mang tính cạnh tranh và mục tiêu của sự cộng tác, hay cạnh tranh này là “nghĩa” được tìm thấy. Tác giả, người kiến tạo văn bản văn học, được hình dung như là người khởi xướng, chủ trì trò chơi; văn bản văn học luôn hàm chứa những luật lệ, những độ khó nhất định đòi hỏi hành động đọc phải có những chiến lược nhất định để chinh phục những thử thách của trò chơi. Ở đây, người đọc không phải là nhân tố thụ động, bị khống chế tuyệt đối bởi tác giả và văn bản. Wilson phân biệt giữa trò chơi trong văn học và trò chơi trong các hoạt động khác: “Nếu như lý thuyết trò chơi [trong cách lĩnh vực khác – T.N.H] nhấn mạnh tầm quan trọng của luật lệ, yếu tố xác định cách chơi và trò chơi thì tính trò chơi của văn học lại đậm nét hơn bởi khả năng chuyển hóa chính những luật lệ, quy ước của nó bằng sự giễu nhại, biếm phỏng và thể nghiệm; trong khi lý thuyết trò chơi đòi hỏi phải đưa ra những quyết định rõ ràng và những hệ quả minh bạch thì văn học lại không thể tránh khỏi được tính chất mơ hồ bởi bản chất hàm ngôn của nó và bởi khả năng kiểm soát bị giới hạn của nó đối với người đọc” [3, tr14]. Ở đây, văn bản văn học luôn là một thực thể chưa hoàn thành, nó chờ đợi người đọc tạo nên sinh mệnh cho mình và do đó, khi nhìn một văn bản, độc giả đem theo những khung khổ quy định trường nhìn của mình (lịch sử, văn hóa, phái tính, chủng tộc, v.v…) vào văn bản. Chính ở điểm này, các lý thuyết diễn giải đã dần dần chuyển hóa thành các diễn ngôn về chính trị học văn hóa.

     Trò chơi trong các diễn ngôn lý thuyết tiếp cận đặc thù chính trị văn hóa của văn học

     Phải bắt đầu từ việc xác định lại khái niệm “văn hóa”, “chính trị” để đi đến ý niệm về đặc trưng chính trị học văn hóa của văn học. Khái niệm văn hóa ở đây mang tính diễn ngôn, là một cấu trúc diễn ngôn định nên khung, biên giới mà bên trong những khung, biên giới ấy, các trò chơi ngôn ngữ, hay nói cụ thể hơn, các khái niệm về thế giới, về lịch sử, về chính bản thân con người… được hình thành, được tự nhiên hóa đến mức một thời gian rất dài, chúng được nghĩ như là những bản chất trong suốt, không có gì ở phía sau. Văn hóa giống như một sân chơi với những luật lệ được coi là tất yếu, đương nhiên phải tuân theo nếu ta muốn gia nhập vào sân chơi đó. Tính chất điều kiện hóa này chính là phương diện chính trị của văn hóa. Văn học không nằm ngoài văn hóa, sự cấu thành và vận động của văn học không thể tách rời khía cạnh chính trị học văn hóa như đã diễn giải ở trên.

     Trở lại với cách phân loại của Gordon E. Slethaug, một trong ba khuynh hướng của lý thuyết trò chơi đương đại là khuynh hướng chính trị. Nói khác đi, khuynh hướng này chú ý khai thác khía cạnh chính trị, ý thức hệ của động thái chơi. Theo Slethaug thì Bakhtin là đại diện tiêu biểu nhất cho khuynh hướng này. Công trình của Bakhtin luôn được nhắc đến trong các tổng thuật về lý thuyết trò chơi là Sáng tác của Francois Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và Phục hưng. Trong cuốn sách này, Bakhtin tập trung tìm hiểu một hiện tượng phổ biến trong xã hội châu Âu thời kỳ trung cổ và phục hưng mà tầm quan trọng của nó trước đó chưa được đánh giá thỏa đáng: lễ hội carnival – một dạng thức của trò chơi. Bakhtin cho rằng lễ hội carnival không chỉ đơn thuần là một hiện tượng văn hóa mà còn hàm chứa một thế giới quan. Nó được hình thành và duy trì xuất phát từ nhu cầu con người muốn vượt thoát khỏi đời sống thường nhật của xã hội phong kiến quan phương với những lề lối, trật tự, quy phạm nghiêm ngặt, hà khắc. Chính ở đây, ta nhận ra được tính chính trị của carnival. Slethaug bình luận: “Dùng những lễ hội và hội chợ thời trung cổ và phục hưng làm ví dụ minh họa, Bakhtin cho thấy sự chơi có thể phơi bày những hành vi và sự lạm dụng được đặc quyền trong một hệ thống xã hội, có thể đưa ra một sự hiệu chỉnh thông qua tiếng cười, và do đó, có thể dẫn đến những đổi thay xã hội. Sự chơi, được cấu trúc như một hoạt động giải trí công cộng, có thể tạo ra sự vượt ngưỡng, phá vỡ và cách mạng xã hội” [12, tr.146].

     Sự vượt ngưỡng, vi phạm những khuôn khổ, phép tắc, quy ước rắn chắc đã trở thành thế giới quan của carnival, xuyên thấm vào các hình thái ý thức xã hội khác, trong đó có văn học. Robert Rawdon Wilson cho rằng: “Carnival không chỉ đơn thuần là một hành động, một sự kiện tập thể, dẫu mang tính vi phạm, vượt ngưỡng, nó còn là một bình diện bản chất của tính văn chương” [19, tr77]. Trần Đình Sử chia sẻ quan điểm này khi cho rằng mỗi một tác phẩm văn học là một sản phẩm carnival xét từ bình diện thế giới hình tượng và tổ chức ngôn từ. Xét từ góc độ này, tác phẩm văn học nào cũng là một hành vi chính trị văn hóa.

      Mihai Spariosu, từ một góc độ khảo sát khác, đã cho thấy trò chơi và quyền lực đã gắn bó mật thiết với nhau từ buổi đầu văn minh phương Tây. Theo ông thì ngay từ đầu, bản thân từng khái niệm – “chơi” và “quyền lực” đã có một sự phân cực giữa một bên là sự chơi và quyền lực được biểu hiện trong những dạng thức cụ thể, chưa bị duy lý hóa, bị trừu tượng hóa ở thời kỳ tiền Plato với một bên là sự chơi và quyền lực đã bị duy lý hóa, trở thành ý niệm trừu tượng, siêu nghiệm. Spariosu nhận xét: “Ngay từ đầu, những quan điểm phân cực của người Hy Lạp về quyền lực, cũng như về ý niệm đối ứng với quyền lực – tức sự chơi – đã ở trong tình thế giao tranh nhau để giành uy quyền văn hóa. Đó là cuộc giao tranh liên tục, cho đến hôm nay vẫn còn tiếp diễn” [14, tr.6]. Văn học, theo Spariosu, vừa là một hình thức của sự chơi (luận điểm này không mới) vừa là một thành tố không thể thiếu của trò chơi quyền lực văn hóa nói chung. “Văn học không phải là một ảo ảnh, cũng không phải một sự thật cao hơn, mà là một kiến tạo ngôn ngữ như mọi thứ khác, tham gia vào quá trình sáng tạo, duy trì và phá hủy một quyền năng diễn ngôn nào đó” [14, tr.26]. Luận điểm này của Spariosu vừa có sự gần gũi với ý niệm văn học như một trò chơi carnival của Bakhtin vừa có hơi hướng tinh thần giải cấu trúc. Nếu “lịch sử của cái chúng ta gọi là ‘sự chơi’ trong văn minh phương Tây là một lịch sử của những khái niệm về sự chơi cạnh tranh, xung đột với nhau để giành thế thống trị, rồi mất đi vị thế, và đến lúc nào đó, lại tái xuất tùy theo nhu cầu của các nhóm hay các cá nhân khác nhau đang tranh chấp quyền uy văn hóa ở một thời kỳ lịch sử nhất định” [14, tr.ix], thì cũng có thể nói cái chúng ta quan niệm là văn học không bao giờ chỉ là một bề mặt trong suốt, thống nhất, duy nhất. Ở một thời điểm nhất định, trong một ngữ cảnh văn hóa cụ thể, một ý niệm về văn học được chính thống hóa sẽ luôn trấn áp, gạt ra những ý niệm khác về văn học, quyền được hiện diện như là văn học của các diễn ngôn khác. Và sự trấn áp, ngoại vi hóa này chính là biểu hiện của sự tranh chấp văn hóa.

     Khía cạnh chính trị học văn hóa của văn học được đào sâu hơn qua những khám phá về tính văn bản (textuality) dưới ánh sáng giải cấu trúc. Khái niệm tính văn bản từ quan điểm giải cấu trúc luận từ chối xem văn bản như một thực thể tự trị, có sự nhất quán, mạch lạc về ý nghĩa. “Tính văn bản trong ngữ cảnh này cho thấy ngôn ngữ không tạo ra một cái quy chiếu đơn nhất về một thế giới bên ngoài ngôn ngữ mà là một sự đa bội của những hiệu ứng biểu nghĩa ngầm tương phản với nhau được kích hoạt trong quá trình đọc. Do đó, thuật ngữ này hàm ẩn sự phủ định trạng thái đóng kín diễn giải như một hệ quả tất yếu từ tính chất đa bội nói trên” [7, tr145]. Tính văn bản còn phải chịu những lực cấu thành bởi các nhân tố chính trị, lịch sử, văn hóa; tất cả những nhân tố này đều không nằm ngoài tính diễn ngôn. Bởi vậy, trong tính văn bản đã bao hàm tính liên văn bản. Jacques Derrida và Michel Foucault là hai lý thuyết gia đã xây dựng lý thuyết về tính văn bản phức tạp hơn cả. Mặc dù có một số điểm đối lập nhau song cả Derrida và Foucault đều gặp nhau ở tư tưởng: trong văn bản luôn có những yếu tố bị giấu đi, bị vô hình hóa và nhiệm vụ của người đọc, của nhà phê bình là phải cho những yếu tố bị che đi, bị khuất mặt này được hiện hình. Theo diễn giải của Edward Said, Foucault cho rằng: “nếu văn bản giấu đi một điều gì đó, hay nếu như một điều nào đó về văn bản bị vô hình hóa, thì tất cả những điều này đều có thể được phát lộ và được nói lên, dẫu ở một hình thức khác nào đó, chủ yếu là vì văn bản là một bộ phận trong mạng lưới quyền năng mà hình thức văn bản của nó chính là sự che mờ có chủ đích thứ quyền năng nằm dưới hay bên trong tính văn bản và tri thức. Do vậy, quyền năng bù lại của phê bình là đưa văn bản trở về một mức độ hữu hình nhất định” [10, tr.675]. Chúng tôi chủ ý in nghiêng một số chữ trong trích dẫn trên để thấy trong lập luận của Foucault, mối quan hệ giữa tính văn bản với diễn giải ít nhiều đồng dạng với một quan hệ trò chơi có tính thách đố, trinh thám. Những yếu tố bị giấu đi, bị làm cho vô hình trong văn bản đã trao cho văn bản một phẩm chất của trò chơi: sự bí ẩn. Công việc của nhà phê bình không đơn thuần chỉ là giải mã sự bí ẩn mà còn phải khuấy động thứ quyền năng chìm bên dưới tính văn bản kiến tạo nên nghĩa hợp thức của nó, phá vỡ sự đóng kín của văn bản. Phê bình, theo đó, cần được hiểu như một hành vi vượt ngưỡng, một trò chơi nghiêm túc chứ không hề đối lập với sự nghiêm túc, có thể phơi mở những bình diện bị trấn áp, khuất mặt trong tính văn bản. Chính ở đây, ta nhận thấy rõ hơn tính chính trị của động thái chơi. Derrida cho rằng ngôn ngữ và ý nghĩa chính là một không gian, một trường (field) của sự chơi tự do (freeplay). “Xã hội luôn tìm cách tổ chức, cấu trúc sự chơi tự do (của ngôn ngữ, tư tưởng, các hoạt động xã hội,v.v…) này để hình thành nên những tôn ti trật tự, những trung tâm, trao cho một số hình thức biểu đạt đặc quyền hơn so với những hình thức biểu đạt khác, một số tư tưởng được coi là hiển nhiên, siêu nghiệm, hay nói khác đi, được xem là “hiện hữu” [12, tr.146]. Trong luận văn nổi tiếng “Structure, Sign and Play in the Discourse of Human Sciences”, Derrida định nghĩa “chơi là sự phá vỡ hiện hữu” [2, tr.208]. Chơi, trong triết học của Derrida, là một động thái chất vấn, giải trung tâm cái hiện hữu, để những cái khuất mặt được nhận thức, để các giá trị độc tôn phải lung lay, không còn yên vị, “mở ra một trường thay thế bất tận”, như Slethaug nhận định [12, tr.147].

     Những quan điểm của Foucault, Derrida, Said… giúp ta hiểu được phần nào vì sao khái niệm “chơi” lại xuất hiện tần số cao trong các diễn ngôn của chủ nghĩa hậu hiện đại. Các đại tự sự – đối tượng mà chủ nghĩa hậu hiện đại muốn giải cấu trúc – chính là những trung tâm, hiện hữu, những nhân tố quyền năng muốn đồng hóa, bao gộp hết những khác biệt, những tiểu tự sự vào trong nó, và bởi thế, biến tất cả những khác biệt, tiểu tự sự này thành vô hình, không hiện hữu. Giải thể đại tự sự thực chất chính là động thái làm hữu hình những khác biệt bị trấn áp, những tiểu tự sự bị đồng hóa để chúng được thừa nhận bình đẳng. Trò chơi cũng là khái niệm giúp chúng ta tiếp cận một cách sâu sắc hơn những trường hợp tính văn bản được hình thành trong những hoàn cảnh phức tạp như văn chương da màu, văn chương nữ giới, văn học hậu thực dân… Ở những trường hợp ta vừa nói đến này, vượt ngưỡng, vi phạm được xem như là một điều kiện tất yếu đặt ra đối với hoạt động sáng tác cũng như diễn giải. Bởi lẽ chỉ bằng động thái chơi có tính chất vượt ngưỡng, những dòng văn học này mới có thể phá vỡ được cái logic trung tâm luận vốn tước đi tiếng nói độc lập, áp đặt những tự sự, hư cấu về bản sắc cho những chủ thể bị gạt ra ngoại vi.

*

     Từ tổng thuật trên đây, có thể nhận xét chung như sau: Hầu như tất cả các hệ hình tư duy lý thuyết đương đại đều dùng đến khái niệm trò chơi (và những khái niệm gần gũi, cùng “họ hàng” với nó) trong diễn ngôn của mình. Trong diễn ngôn lý thuyết hiện đại, trò chơi ban đầu xuất hiện như là một hoạt động thực tiễn, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nền văn minh nhân loại cũng như giáo dục nhân cách, giải phóng tâm lý của con người. Dần dần, nó bị trừu tượng hóa, siêu nghiệm hóa trở thành một ẩn dụ, một khái niệm để tư duy về thế giới, về văn hóa. Từ chỗ các diễn ngôn lý thuyết cố gắng đưa ra một định nghĩa về trò chơi, ta nhận thấy dần dần việc định nghĩa này bị xem là bất khả. Trò chơi từ chối một định nghĩa có thể bao gộp, nhất thể hóa mọi biểu hiện của nó, quy giản nó về một vài đặc tính đếm được. Chơi được hình dung như một thứ cơ chế sâu kín trong sự vận hành của văn hóa, trong sự cấu thành và giải cấu trúc các phạm trù tri thức mà từ đó, không gian tinh thần của con người được thiết lập và giải thể. Khi thực tại được ý thức như một tập hợp các quy phạm, các ước lệ không hơn, thì sự chơi cần thiết bởi nó là sự vượt ngưỡng các quy phạm, các ước lệ đó, dựng nên những khả thể khác của đời sống. Quan niệm đối lập trò chơi với nghiêm túc trở thành một luận đề lỗi thời trong diễn ngôn lý thuyết hiện đại. Trò chơi từ chỗ gắn liền với việc phô diễn chủ thể trong các diễn ngôn lý thuyết lãng mạn đã đi đến chỗ gắn liền với việc giải cấu trúc chủ thể trong các diễn ngôn lý thuyết hậu hiện đại, xem chủ thể tan hòa vào ngôn ngữ trong khi bản thân ngôn ngữ đã là một hệ thống chơi. Quan niệm về bản chất trò chơi của văn học cũng có sự vận động. Trong hệ hình lý thuyết hiện đại, bản chất trò chơi được xem như gắn liền với khuynh hướng duy mỹ, tự trị của tác phẩm nghệ thuật, đề cao phương diện hình thức. Song sang đến hệ hình lý thuyết hậu hiện đại, ta nhận thấy bản chất trò chơi của văn học không thể tách rời những bình diện chính trị văn hóa, không đứng ngoài cuộc tranh chấp để giành lấy quyền lực văn hóa. Điều này nằm sâu trong tính văn bản của mỗi tác phẩm văn học. Những ý thức như vậy về trò chơi không những chi phối cách tiếp cận, phê bình văn học mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến thực tiễn sáng tác văn học. Trò chơi trong diễn ngôn văn chương hiện đại rõ ràng là một đề tài lý thú mà để bàn luận về nó, cần thiết phải dành cho nó ít nhất một tiểu luận khác.

Trần Ngọc Hiếu (Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Văn Hiến, số 11 – tháng 5/2016, trang 34-43.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     [1] Nicolas Davey. “Gadamer’s Aesthetics”, Stanford Encyclopedia of Philosophy, http://plato.stanford.edu/entries/gadamer-aesthetics

     [2] Jacques Derrida. “Structure, Sign and Play in the Discourse of Human Sciences” Modern Literary Theory: A Reader, Patricia Waugh & Phillip Rice chủ biên, Arnold Publisher: London, 2001.

     [3] Brian Edwards. Theories of Play and Postmodern Fiction, Garland Pub, 1998.

     [4] Ju lius Elias. “Art and Play”,
http://xtf.lib.virginia.edu/xtf/view?docId=DicHist/uvaBook/tei/DicHist1.xml;chunk.id=dv1-17;toc.depth=1;toc.id=dv1-17;brand=default;query=Dictionary%20of%20the%20 History%20of%20Ideas#1

     [5] Lawrence M. Hinman. “Nietzsche’s Philosophy of Play”, Philosophy Today, 18:2, (1974: Summer).

     [6] Johan Huizinga. Homo Ludens, Press: Boston, Beacon, 1955.

     [7] Manina Jones. “Textuality” Encyclopedia of Contemporary Literary Theory, Irena R. Makaryk chủ biên, University of Toronto Press, 1995.

     [8] John Lye, “Lý thuyết văn chương đương đại”, Hải Ngọc dịch, Tạp chí Văn học nước ngoài, số 2-2009.

     [9] Peter J. Rabinowitz. “Reader-Oriented Theories of Interpretation” trong The Cambridge History of Literary Criticism: From Formalism to Poststructuralism, Cambridge University Press, 2008.

     [10] Edward Said. “The Problems of Textuality: Two Exemplary Positions”, Critical Inquiry, Vol.4, No.4, Summer 1978.

     [11] Sarah Salih. Judith Butler, Routledge: London, 2002.

     [12] Gordon Slethaug. “Game Theory”and “Play/freeplay theories” trong Encyclopedia of Contemporary Literary Theory, Irena R. Makaryk chủ biên, University of Toronto Press, 1995.

     [13] Mihai Spariosu. Literature, Mimesis and Play, Gunter Narr Verlag Tubingen, 1982.

     [14] Mihai Spariosu. Dionysus Reborn: Play and the Aesthetic Dimension in Modern Philosophical and Scientific Discourse, Cornell University Press: Ithaca, 1989.

     [15] Trần Đình Sử (2002), “Lý thuyết các nền văn hóa của Bakhtin và tư duy tiểu thuyết hiện đại”, Tạp chí Sông Hương.

     [16] Trần Đình Sử (chủ biên, 2008), Lý luận văn học (tập II) – Tác phẩm và thể loại văn học, NXB Đại học Sư phạm Hà Nội.

      [17] Đỗ Lai Thúy (2000), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin.

     [18] Hoàng Ngọc Tuấn (2002), “Viết, từ hiện đại đến hậu hiện đại” trong Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng tác và góc nhìn lý thuyết, Văn nghệ: Hoa Kỳ.

     [19] Robert Rawdon Wilson. “Play, Transgression and Carnival: Bakhtin and Derrida on Scriptor Ludens”, Mosaic, 19:1, 1986:Winter.

 

Nhiều chuyên gia trong giới nghiên cứu cho rằng cần tránh lạm dụng cụm từ sang chấn (trauma), vì không phải cứ đau khổ (suffer), tổn thương (hurt), cảm thấy trầm buồn u sầu (feel depressed/melancholy) là sang chấn. 

20240408
Đau khổ, tổn thương, u sầu dai dẳng hay tâm trạng trầm buồn không đồng nghĩa với sang chấn - Ảnh minh họa: QUANG ĐỊNH

Phân biệt "đau khổ" và "sang chấn", tránh "thi vị hóa" các rối loạn tâm thần

Theo Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ, chấn thương tâm lý (hay sang chấn tâm lý) là phản ứng cảm xúc trước một trải nghiệm khủng khiếp. Trong đó, cá nhân phải trải qua, chứng kiến hoặc đương đầu với sự kiện liên quan đến cái chết, mối đe dọa đến sự an toàn thể chất của bản thân/người thân, đe dọa tính mạng hoặc bị thương tích nghiêm trọng.Đau khổ, tổn thương, u sầu dai dẳng hay tâm trạng trầm buồn không đồng nghĩa với sang chấn.Vì thế, việc gán mác "sang chấn" một cách vội vàng cho những trải nghiệm đau khổ thông thường có thể dẫn đến nhiều hệ lụy, bao gồm việc đánh giá thấp mức độ nghiêm trọng của sang chấn thực sự, tạo ra kỳ thị đối với những người mắc rối loạn tâm lý, hoặc đưa đến thái độ dễ dãi trong việc tự chẩn đoán.Đồng thời, việc thi vị hay lãng mạn hóa các vấn đề sức khỏe tâm thần như trầm cảm, tâm thần phân liệt, đa nhân cách... có thể gián tiếp tạo ra các hệ lụy xã hội không mong muốn.
Ví dụ, việc miêu tả một nhân vật có hành vi tự làm hại bản thân một cách đẹp đẽ, lãng mạn có thể khiến cho người đọc có cái nhìn sai lệch về hành vi này, thậm chí là mang tính khích lệ họ tìm đến đó như một giải pháp khả dĩ.Nhiều tác phẩm nghệ thuật, đặc biệt là điện ảnh, chọn các rối loạn tương đối hiếm gặp để khắc họa. Điều này lâu dần cũng dễ tạo ra cách nhìn nhận chưa chính xác về sức khỏe tinh thần (ví dụ như quan điểm cho rằng cứ đi khám tâm lý thì chắc chắn là bị tâm thần phân liệt, một tình trạng rối loạn tâm thần nghiêm trọng) và hàm chứa nguy cơ làm gia tăng kỳ thị trong cộng đồng.Cần thận trọng, tránh lạm dụng cụm từ sang chấn (trauma), vì không phải cứ đau khổ (suffer), tổn thương (hurt), cảm thấy trầm buồn u sầu (feel depressed/melancholy) là sang chấn.

Hiểu về chữa lành (healing)

Bên cạnh đó, cũng cần tránh lạm dụng từ "chữa lành" bởi nó có thể dẫn đến một số nguy cơ như: xem nhẹ hay đơn giản hóa quá trình vượt qua khó khăn tâm lý.Các từ ngữ "nhậu chữa lành", "karaoke chữa lành", "gội đầu dưỡng sinh chữa lành"... khiến người nghe nảy sinh những mong đợi xa thực tế về việc phục hồi tâm lý (như kỳ vọng vượt qua và mãi mãi không mắc lại một khó khăn tinh thần nào đó). Trong khi đây là một hành trình dài, đòi hỏi nỗ lực của bản thân và sự hỗ trợ từ môi trường.Hiện nay, từ "chữa lành" được dùng khá phổ biến và trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, theo thuật ngữ tâm lý, khái niệm có tính khoa học, chính xác hơn là phục hồi (recovery).Những tổn thương tâm lý cũng giống như tổn thương thể lý, cần có quá trình để phục hồi dần dần và bao giờ cũng để lại dấu vết thương tổn, chứ không thể quay trở lại như ban đầu.Chấp nhận chấn thương của mình là một bước quan trọng. Từ đó mới có thể diễn ra việc đối thoại và từng bước làm lành với những xung đột bên trong, hoặc thậm chí là với đối tượng gây ra sang chấn.Vì vậy, hiểu chính mình, hiểu vấn đề mình đang gặp phải một cách chính xác thông qua các thuật ngữ chuyên ngành thì chúng ta mới có thể kiến tạo lại trạng thái cân bằng bên trong cơ thể mình, giữ sức khỏe tinh thần một cách bền vững, tránh hai thái cực (trầm trọng hóa hoặc đơn giản hóa quá mức), cũng như sự lạm dụng khái niệm một cách vô tội vạ.

Hội thảo khoa học quốc tế "Chấn thương, khủng hoảng và chữa lành trong văn học - nghệ thuật Việt Nam, Nhật Bản" do khoa Văn học Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM tổ chức nhân kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản tại Hội An hồi gần cuối tháng 3 đã thu hút sự tham gia của nhiều chuyên gia trong lĩnh vực văn học, tâm lý và giáo dục.

Từ sự trao đổi mang tính liên ngành, các học giả đặc biệt chú trọng đến vấn đề sử dụng thuật ngữ tâm lý trong phân tích văn học nghệ thuật cũng như trong đời sống để tránh việc hiểu sai, hiểu lầm các khái niệm vốn đang được thông dụng hóa trong xã hội như chấn thương, sang chấn, trầm cảm, chữa lành…Trong nghiên cứu, lý luận văn học - nghệ thuật, việc sử dụng các thuật ngữ chuyên ngành tâm lý như sang chấn, chữa lành ngày càng trở nên phổ biến. Tuy nhiên, việc sử dụng các thuật ngữ này cần được thực hiện một cách thận trọng.

Tường Yên, Khánh Vân

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 6.4.2024

Nhà phê bình Đặng Tiến - tác giả cuốn "Vũ trụ thơ" - qua đời ở tuổi 83, tại nhà riêng vùng Orléans, sáng 17/4.

Ông mắc ung thư nhiều năm trước, luôn giữ tinh thần chống chọi bệnh tật. Trước khi mất không lâu, ông vẫn đăng bài, cùng bạn bè bàn luận thơ ca trên Facebook.

Đặng Tiến nghiên cứu, phê bình thơ Việt Nam hiện đại, được giới chuyên môn đánh giá cao. Trong bài viết trên Đặc san Khoa học và Phát triển số 4 hồi tháng 3, tiến sĩ Huỳnh Văn Hoa nhận xét: "Đặng Tiến, trong toàn bộ bài viết, cho thấy rõ ý niệm của ông về hai điểm chính của ngôn ngữ: Nhạc điệu và hình ảnh. Ông tìm đến các nhà thơ trong một niềm đồng cảm, thanh tân và tươi mới của tâm hồn".

Khoảnh khắc Đặng Tiến bên bức tranh chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - bạn của ông, do chính ông đăng tải trên trang cá nhân hồi năm 2015. Ảnh: Facebook Tien Dang

Đặng Tiến bên bức tranh chân dung nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - bạn của ông, trong bức ảnh ông đăng trên trang cá nhân hồi năm 2015. Ảnh: Facebook Tien Dang

Trong Vũ trụ thơ - cuốn phê bình nổi tiếng của Đặng Tiến, ông viết về nhà thơ Tản Đà: "Nguồn thơ nào mà không mang ít nhiều nhan sắc của phôi pha, nếu bản chất của thơ không phải chính là di tích của phôi pha. Tập thơ nào hay mà không u ẩn một cuộc tiễn đưa, một lời tống biệt? Lá đào rơi rắc lối Thiên Thai". Ở bài viết Văn Cao, Lá khát vọng, ông nhận xét: "Thơ trĩu nặng tâm sự và khát vọng thời đại, và đất nước, nhưng nhan đề sao mà nhẹ nhàng, một chữ ngắn: Lá".

20230418

Cuốn "Vũ trụ thơ" là tác phẩm phê bình nổi tiếng của ông Đặng Tiến. Ảnh: Quansachmuathu

Trên trang cá nhân, nhà báo Nguyễn Hồng Lam cho biết khi đọc và có cơ hội bàn luận chuyện văn thơ với Đặng Tiến, anh biết thêm nhiều tác giả, có cách nhìn nhận, tiếp cận mới. Nhà báo viết: "Cách ông lý giải, đánh giá cả con người lẫn sáng tạo của các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ đều chứng tỏ ông hiểu rất sâu, rất riêng, rất khoan hòa nhưng quả quyết".

Đặng Tiến bên sông Thu Bồn, gần làng Đại Cường, năm 2009. Ảnh: Lý Đợi

Đặng Tiến bên sông Thu Bồn, gần làng Đại Cường, năm 2009. Ảnh: Lý Đợi

Đặng Tiến sinh năm 1940 tại làng An Trạch, Hòa Vang, Đà Nẵng, tốt nghiệp Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ông từng đi dạy tại THPT Yersin ở Đà Lạt. Từ năm 1966, ông sang Berne, Thụy Sĩ, làm việc trong ngành ngoại giao. Từ năm 1968, ông sang Pháp, làm giảng viên ngành văn học Việt Nam tại Đại học Paris 7. Từ đó đến nay, ông sống tại Orléans cùng vợ và các con.

Ông bắt đầu viết phê bình từ năm 1960, đăng trên các tạp chí như Mai, Văn, Tân văn. Ông từng xuất bản cuốn Vũ trụ thơ (1972), Vũ trụ thơ II (2008), Thơ - Thi pháp và chân dung (2009). Ông là bạn của nhiều văn nghệ sĩ như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, tác giả Phạm Công Thiện, nhà thơ Hoài Khanh, nhà văn, dịch giả Bửu Ý, họa sĩ Trịnh Cung.

Hiểu Nhân

Nguồn: VnExpress, ngày 17.4.2023

Trong phương diện kiến tạo cấu trúc truyện kể, gắn với nhân tố người kể chuyện, tiểu thuyết Nam Bộ (thời kỳ cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX) cho thấy hai dạng thức bản “kể” “tả”, với hai hình thức giọng chủ yếu giọng của người kể giọng của nhân vật theo hình thức đối thoại lời nửa trực tiếp. Nghiên cứu này cho thấy, trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn này, diễn ngôn “kể” vẫn chiếm một tỉ trọng tương đối cao so với “tả”. Sự xâm nhập của ngôn ngữ đời sống đã khiến cho diễn ngôn tiểu thuyết mang một phẩm chất mới so với tiểu thuyết thời trung đại.

20240404

1. Đặt vấn đề

Trong văn xuôi nghệ thuật có hai mạch chính là kể và tả. Kể gắn với sự kiện, hành động. Tả gắn với sự triển khai chi tiết bức tranh cuộc sống. Gérard Genette cho rằng: “Dù rằng các loại truyện kể có sự hòa trộn sâu sắc và biến hóa phong phú, vẫn có thể phân biệt: trình bày hành động và sự kiện, tạo nên chất ‘kể’ (kể chuyện); trình bày nhân vật, hay vật thể nào đó, tạo nên chất ‘tả’ (mô tả)”. Tuy nhiên, thực chất mối quan hệ giữa “kể” và “tả” là thống nhất trong các tác phẩm văn học, nghĩa là “mặc dù “tả” có thể độc lập với “kể”, nhưng có thể nói người ta không bao giờ thấy nó tồn tại ở trạng thái tự do; “kể” không thể thiếu “tả”, nhưng sự phụ thuộc đó không hề gây trở ngại cho “tả” (dẫn theo Trần Huyền Sâm, 2010, tr. 46).

Ngoài ra, Gérard Genette cũng lưu ý: “mọi sự khác nhau giữa ‘tả’ và ‘kể’ đều là sự khác nhau về nội dung. ‘Kể’ gắn bó với hành động và sự kiện, nhấn mạnh vào tính thời gian và tính kịch của câu chuyện. Trái lại, ‘tả’ gắn bó với các vật thể và nhân vật, diễn đạt chúng đồng thời tự xử lý các tình huống, tạo nên sự tạm dừng trong dòng thời gian; dàn trải câu chuyện trong không gian (…) Song, xét về kiểu thức trình diễn (mode de représentation) thì kể một sự kiện và tả một đối tượng đều tiến hành giống nhau, nghĩa là cùng vận dụng một phương tiện chung là ngôn ngữ. Sự khác nhau có ý nghĩa hơn cả có lẽ là: ngôn ngữ kể đòi hỏi những sự kiện được tái hiện nối tiếp nhau; còn ngôn ngữ tả thì ngân nga diễn đạt những đối tượng của mình, cùng một thời gian, gắn liền với nhau và bằng ngôn ngữ riêng. Nhưng trong văn học viết thì sự đối lập đó bị giảm hiệu lực rất nhiều” (dẫn theo Trần Huyền Sâm, 2010, tr. 48). Như vậy, sự phân biệt giữa “kể” và “tả” chỉ có tính ước lệ và chủ yếu phụ thuộc vào phương diện nội dung.

Nghiên cứu tiểu thuyết Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy người kể chuyện một vai trò to lớn trong việc điều phối, tổ chức lời văn nghệ thuật. Có thể thấy, diễn ngôn của người kể chuyện là diễn ngôn chủ đạo trong các tác phẩm bên cạnh diễn ngôn của nhân vật. Do vậy, lời người kể có một vai trò hết sức quan trọng và đặc biệt mang tính đại chúng, hướng đến đại chúng; còn lời của nhân vật (diễn ngôn của nhân vật) được sử dụng như một sự bổ trợ, và luôn được điều phối bởi lời của người kể chuyện. Đó cũng là nguyên nhân khiến tiểu thuyết Nam Bộ ít có sự đa dạng về giọng điệu. Tuy nhiên, trong tác phẩm của một số tác giả như Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Bửu Đình, diễn ngôn của nhân vật bắt đầu có xu hướng tách khỏi diễn ngôn người kể chuyện nhờ sự tính hóa trong lời thoại độc thoại nội tâm. Đây là những vấn đề của tiểu thuyết Nam Bộ mà chúng tôi muốn thảo luận ở phần dưới. Nhìn chung, có thể thấy, kỹ thuật kiến tạo diễn ngôn trong tiểu thuyết luôn chú ý đến tính mạch lạc, thông tục theo tinh thần đại chúng hóa.

2. Phương thức kể

Trong tiểu thuyết Nam Bộ, như chúng tôi đã đặt vấn đề, phương thức kể gắn chặt với diễn ngôn của người kể chuyện bị chi phối bởi người kể - dạng người kể phổ biến mang sự toàn tri. Chính sự “toàn tri” đã cho phép người kể chuyện chủ động tạo ra diễn ngôn của mình và cả diễn ngôn của nhân vật. Với tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất, trong đó xuất hiện mối quan hệ đặc biệt giữa nhân vật tự kể và nhân vật nghe kể rồi kể lại, thì hình thành hai dạng diễn ngôn: diễn ngôn của người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật cũng mang vai trò kể chuyện. Tuy nhiên, ngay trong tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ ba, ở một số trường hợp cụ thể, cũng bắt đầu có sự phân biệt giữa diễn ngôn của người kể và diễn ngôn của nhân vật.

Trong tiểu thuyết Nam Bộ diễn ngôn kể chiếm ưu thế so với tả. Thực ra, giữa kể và tả có mối quan hệ qua lại đặc biệt. Nếu tả một cách sơ lược có thể biến thành kể, kể tỉ mỉ sẽ thành ra tả. Khi kể, đối tượng được kể có mặt khá ít trong chiều thời gian và tính kịch của câu chuyện. Do tiểu thuyết Nam Bộ chú trọng thứ thời gian theo trình tự trước sau, tức chú trọng tuyến tính và tình tiết, dẫn đến một hệ quả là nhân vật ít được chú ý miêu tả tâm lý và hoàn cảnh có thể bị lược đi rất nhiều. Đây là một đặc điểm cho thấy tiểu thuyết Nam Bộ chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Hoa, mà rõ nhất là trong một số bộ tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết Trung Hoa có nguồn gốc từ nghệ thuật thuyết sách, thoại bản, nên chú trọng hoàn thiện phương diện kể. Bản thân tiểu thuyết Nam Bộ, ngoài những ảnh hưởng từ tiểu thuyết Trung Hoa, đã tựa trên một môi trường văn hóa, như cách định danh của Nguyễn Văn Xuân: văn hóa trình diễn. Các bộ môn nghệ thuật trình diễn phổ biến ở Nam Bộ như tuồng, nói thơ đã có ảnh hưởng nhất định đến khả năng kể và sự lựa chọn thiên về kể trong tự sự. Ngoài ra, xét về mặt ngôn ngữ, xu hướng viết như lời nói đã tạo tiền đề cho sự xâm nhập của khẩu ngữ vào văn xuôi nghệ thuật, trở thành một trong những điều kiện thuận lợi cho hoạt động kể. Mặc dù sự xâm nhập của khẩu ngữ khiến ngôn ngữ văn học được làm giàu nhanh chóng, thoát khỏi tính chất từ chương và tiến gần với đời sống, nhưng nó không phải là môi trường thuận lợi cho sự phát triển hoạt động miêu tả.

Việc chú ý đến kể, đặc biệt là kể một câu chuyện trọn vẹn, một cốt chuyện sao cho ly kỳ đã dẫn đến thực trạng nhiều bộ tiểu thuyết Nam Bộ có một dung lượng khiêm tốn. Có thể nói, thế giới tiểu thuyết Nam Bộ là thế giới của sự, không phải của từ. Trong thực tế sáng tạo, những bộ tiểu thuyết đầy đặn thường kết hợp giữa kể và tả với một tỉ trọng thích hợp, thậm chí chú trọng tả. Chính việc tả sẽ góp phần ken đầy những khoảng trống đằng sau nhân vật và cốt truyện. Nhưng tiểu thuyết Nam Bộ trong chặng đường đầu chưa quan tâm đến phương pháp này.

Diễn ngôn kể trong tiểu thuyết Nam Bộ có sự kết hợp giữa lời kể với lời bình luận, trữ tình ngoại đề, khiến diễn ngôn kể mang dấu ấn văn hóa, tình cảm và quan điểm của người kể. Ở đây, thử xét một trường hợp trong tiểu thuyết Lòng người nham hiểm của Nguyễn Chánh Sắt:

“Từ ngày Xuân Lan trò chuyện với Lê Xuân Kỳ tại quán Tư Quăn, thiên hạ đồn rùm, thấu tới tai bà phủ. Bà liền tức giận bồi hồi, trách sao nàng lại tư tình với đứa nghịch. Nhưng mà, bà tuy giận vậy, song bà không la hét như kẻ tầm thường, cứ lấy điều đại nghĩa mà thống trách âm thầm vậy thôi, chớ người ngoài không ai nghe được. Thu Cúc cũng giả ý rầy em, mắng nhiếc Xuân Lan là đồ hư đồ chạ. Bà nghĩ tới chừng nào thì bà lại ứa gan chừng nấy. Bà bèn nhứt định đuổi nàng, chớ không thèm nuôi chứa trong nhà thứ đồ hư như vậy nữa.

Lời bàn: (Bà phủ giận phải lắm, đuổi cũng phải lắm! Điều thứ nhứt là con gái trong hạng danh gia mà làm điều nhục nhã, hư danh mất nết, thật là tội ác quán dinh. Điều thứ hai là nhè đứa nghịch mà tư tình, rất phản đối với cái chủ nghĩa của bà, lẽ nào bà không giận? Bà giận phải! Bà giận nhằm! Ai là người không giận? Nhưng nghĩ cho đến mấy cái điều đáng giận đó: rồi mới đáng sợ, đáng thương, đáng kính, đáng vì cô Xuân Lan là một nàng con gái thiếu niên, đào tơ liễu yếu mà tâm chí rất cao, vì nghĩa cứu người mà phải liều danh giá. Thật cũng khổ tâm thay! Mà cũng đáng thương đáng kính thay!)” (Nguyễn Chánh Sắt, 1925, tr. 25).

Sở dĩ chúng tôi phải trích dẫn dài như vậy là nhằm để thấy hết ngữ cảnh lời bình luận của người kể chuyện. Trong đoạn vừa dẫn, lời bình luận của người kể có lời dẫn là “lời bàn” cùng nội dung đặt trong ngoặc đơn. Cách thức này gần giống với các lời bàn trong các truyện thời trung đại. Chẳng hạn, trong truyện truyền kỳ, những lời bàn thường đặt ở cuối truyện có khi của tác giả hoặc người khác thêm vào. Trong tiểu thuyết Nam Bộ, những lời bình luận như vậy thường chen ngang trong diễn ngôn kể, có tác dụng dẫn dắt và định hướng người đọc. Trong nhiều trường hợp, các luận bàn này hé lộ quan niệm đạo lý, nhân sinh của người kể chuyện.

Sự xuất hiện của khẩu ngữ trong văn xuôi nghệ thuật đã làm tăng chất lượng đáng kể cho diễn ngôn kể trong tiểu thuyết Nam Bộ. Nhìn lại văn học thời trung đại, với sự phân cấp về ngôn ngữ, văn xuôi tự sự chủ yếu viết bằng chữ Hán có một khoảng cách khá lớn với ngôn ngữ đời sống, với khẩu ngữ. Các truyện thơ dù viết bằng chữ Nôm, nhưng với đặc thù của thi pháp, khẩu ngữ cũng ít cơ hội để hiện diện. Các nhà văn Nam Bộ, đặc biệt là các nhà văn người Công giáo đã đóng vai trò quan trọng trong việc đưa khẩu ngữ vào văn chương hiện đại, thông qua truyện các Thánh viết bằng chữ Nôm. Nghiên cứu của Nguyễn Huệ Chi (2002, tr. 15) đã chỉ ra rằng việc “sử dụng tiếng nói nôm na thì dù muốn hay không cũng góp phần giúp văn xuôi tự sự gia nhập vào đời sống thông tục, hay đúng hơn là gia nhập vào cái đang diễn ra hàng ngày trong sinh hoạt xã hội”. Nhờ mang nguồn gốc, bản chất thông tục nên tiểu thuyết trở thành thể loại tiên phong của xu hướng này. Có thể nói giữa khẩu ngữ và tính chất thông tục của tiểu thuyết có một sự tương hợp đặc biệt, thể hiện rõ trong các diễn ngôn mang đậm chất đời thường sinh động của tiểu thuyết Nam Bộ. Hãy đọc một đoạn trong tiểu thuyết Ba Tràh:

“Khi Đặng Huỳnh Kim dứt câu chuyện của mình thì cô Năm Quang lạnh lùng xương sống, nói thầm rằng: thật là quân tán tận lương tâm là đồ khốn kiếp, cả gan trộm tiết cướp trinh của người. Song nàng giả đò cười mà nói rằng:

- Cha chả! Mình khôn lanh quá. Tưởng là chuyện gì chứ chuyện như vậy mà mình rầu cái gì. Hễ rồi thì thôi mà buồn lo chi cho mệt. Bây giờ nếu mình gặp nó nữa thì nó cũng chửi rủa mình, chớ nó thương yêu gì mình mà mình đi kiếm nó.

Khán quan nghe lời cung chiêu của Đặng Huỳnh Kim thì đã rõ cô Liên Tử Tâm vì sao mà phải nỗi ức oan, bỏ nhà cha mà lưu ly đất khách như tôi đã thuật trước nầy” (Nguyễn Ý Bửu, 1927, tr. 42).

Đoạn trích trên đây đã cho thấy sự xâm nhập của khẩu ngữ qua các dấu hiệu lời nói hằng ngày như “quân tán tận lương tâm”, “đồ khốn kiếp”, “rầu cái gì”, “chi cho mệt”... chen thán từ như “cha chả” và cả lời bình luận trực tiếp.

Có thể thấy, việc chen các lời tán thán, chen các lối nói trực tiếp, chen các lời bình luận vào câu tường thuật đã tạo nên một đặc điểm của phong cách khẩu ngữ trong diễn ngôn tiểu thuyết Nam Bộ.

Một điểm cần ghi nhận trong tiểu thuyết Nam Bộ là thời gian trở thành một yếu tố quan trọng của hoạt động kể và diễn ngôn kể. Hay nói khác, thời gian cụ thể đã trở thành đối tượng và phương tiện của diễn ngôn kể. Hoạt động kể gắn với thời gian bao gồm hai dạng thức chủ yếu: thời gian tuyến tính và thời gian phi tuyến tính. Các dạng thức tổ chức thời gian này đã tạo nên các kiểu cấu trúc tự sự của tiểu thuyết. Ở cấu trúc diễn ngôn tự sự, yếu tố thời gian được thể hiện một cách cụ thể bằng ngày, tháng, năm, như là những dấu mốc để đính các sự kiện, nhờ vậy thế giới truyện được phơi mở, khai triển. Thời gian trở thành một dấu hiệu quan trọng để nhận biết diễn ngôn kể.

Truyện Thầy Lazarô Phiền là tiểu thuyết đầu tiên của văn học Nam Bộ và của Việt Nam thể hiện rõ đặc điểm này. Trong truyện của Nguyễn Trọng Quản, thời gian gắn với các mốc quan trọng trong cuộc đời của nhân vật. Hoàng Dũng (2000, tr. 57) đã phát hiện điều này và đưa ra những thống kê cụ thể: “Thầy Phiền sinh năm 1847. Mẹ thầy chết năm 1850, lúc thầy mới ba tuổi. Năm 1860, thầy nghe Tây đánh chiếm thành Gia Định. Năm 1862, bố thầy mất khi Tây lấy Bà Rịa. Năm 1864, sau một năm rưỡi học chữ Quốc ngữ, thầy vào học trường Latinh. Năm 1866, thầy học trường d'Adran. Năm 1870, thầy đi thi tại Sài Gòn, mấy tháng sau được cử làm thông ngôn và lấy vợ. Thầy nhận được bức thư đề ngày 14 tháng 8 năm Tân Mùi, tố cáo vợ thầy ngoại tình với bạn là Vêrô Liễu. Hơn một tuần lễ sau, thầy sát hại người thầy cho là tình địch. 15 ngày sau đó, thầy đầu độc vợ. Giữa năm 1873, vợ thầy chết, thầy đi tu. Năm 1882 thầy được phong chức. Ngày 7 tháng 1 năm 1884, thầy mất. Năm sau, 1885, tôi, người trần thuật, viếng mộ Lazarô Phiền. Thật như một bản khai sơ yếu lý lịch”. Ngoài ra, có những chi tiết khác liên quan đến cuộc đời thầy Phiền chưa được Hoàng Dũng đề cập, chẳng hạn như sự kiện thầy Phiền sát hại bạn được nhắc đến qua hai mốc thời gian: “chừng 6 giờ chiều” là lúc thầy chuẩn bị và do thám về chiếc ghe của Liễu, chuyện hạ sát được diễn ra vào lúc “nửa canh ba”. Tất cả những mốc về thời gian như vậy, theo các nhà nghiên cứu, tạo ra một ảo giác rằng đây là một câu chuyện có thật. Thế nhưng, đấy mới chỉ là phương diện thời gian gắn với cốt truyện, tức cái thuộc về cấu trúc tạo ra quan hệ nhân quả của câu chuyện. Điều cần quan tâm hơn ở đây chính là phương diện thời gian truyện kể, thời gian gắn với hoạt động kể nhằm tạo nên diễn ngôn kể. Trần Văn Toàn (2010, tr. 77) đã phát hiện các mốc thời gian liên quan đến hoạt động kể như sau: “thời gian mà Phiền kể chuyện đời mình cho nhân vật xưng tôi nghe diễn ra trong một đêm và những vạch khắc thời gian trong đêm đó cũng được Nguyễn Trọng Quản điểm ra một cách đặc biệt chi tiết. Bắt đầu từ khi nhân vật xưng tôi xuống tàu là 8 giờ. Gặp gỡ nói chuyện với Phiền và tàu bắt đầu chạy là 10 giờ. ‘Gần nửa đêm’, khi mọi người đã ngủ, Phiền kể chuyện đời mình cho nhân vật xưng tôi nghe. ‘Khi đồng hồ tàu đổ 2 giờ khuya’ thì Phiền kể đến lúc mình mồ côi cả cha lẫn mẹ. Phiền kể đến giai đoạn hai năm trở lại đây bị mắc bệnh nặng thì ‘trời vừa sáng, tàu đến Vũng Tàu’…”. Lớp thời gian Trần Văn Toàn phát hiện chính là thời gian gắn với diễn ngôn của nhân vật thầy Phiền kể với nhân vật tôi - người đồng hành trên chuyến tàu xuống Bà Rịa. Ngoài ra, còn một dạng thời gian khác gắn với người kể chuyện xưng tôi mà chúng ta có thể truy xuất được qua văn bản, thời gian đủ để anh ta kể lại câu chuyện này với độc giả qua 45 trang giấy. Lớp thời gian này chúng ta có thể ức đoán qua các dấu hiệu vào truyện, kết thúc truyện và thậm chí là thời điểm xuất bản quyển truyện.

Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản đã mở đầu cho các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất. Những tiểu thuyết này mang dấu hiệu của thời gian khá rõ và khá đặc biệt so với mặt bằng tiểu thuyết Việt Nam đương thời. Ngay lời phụ chú tựa đề của các tác phẩm đã cho thấy những dấu hiệu thuộc về thời gian diễn ngôn kể: Duyên phận lỡ làng ( Cảnh Lạc năm ngày tự thuật), Oan kia theo mãi (Ba mươi hai đêm Hồ Cảnh Tiên tự thuật). Thật ra, gọi là “đêm” nhưng không phải là trọn đêm mà là một khoảnh khắc vài giờ đồng hồ lúc về chiều. Cũng giống truyện Thầy Lazarô Phiền, trong các tiểu thuyết này, có ba dạng thời gian cùng tồn tại: thời gian của cốt truyện gắn với cuộc đời của nhân vật, thời gian gắn với diễn ngôn của nhân vật - người kể câu chuyện của chính mình và thời gian gắn với diễn ngôn của người nghe chuyện (xuất hiện trực tiếp trong văn bản như một nhân vật có hội thoại với nhân vật khác) kể lại câu chuyện bằng văn bản cho độc giả thực. Như vậy, với việc tạo ra một phối cảnh: nhân vật kể - người nghe - người nghe kể lại, diễn ngôn kể trong các tác phẩm này đã một điểm tựa từ nhân vật, quan trọng đã tạo ra được một ảo giác nơi người đọc rằng đây một câu chuyện thật, diễn ngôn này đáng tin cậy. Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, dù đẩy trách nhiệm về phía diễn ngôn của người kể với tư cách là nhân vật, thì diễn ngôn của người kể chuyện tạo nên văn bản ít nhiều vẫn mang sự toàn tri. Dù vậy, theo chúng tôi, điều đó vẫn cần được xem là một trong những yếu tố hiện đại của nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đến năm 1932.

3. Phương thức tả

Có thể nói, trên bề mặt diễn ngôn, hoạt động tả được tri nhận bởi đối tượng tả được tải ra chậm với những chi tiết phong phú trong bối cảnh của không gian cụ thể. Lúc này, yếu tố thời gian không được nhấn mạnh bằng yếu tố không gian, thời gian truyện kể dường như ở trong trạng thái “ngưng đọng” để ưu tiên cái nhìn về không gian. Nhờ tả mà nhân vật, cảnh vật hiện lên dưới góc độ tạo hình, giúp độc giả có thể xây dựng được thế giới sinh động của truyện trong tâm tưởng. Trong thế giới truyện, việc tả đã tạo nên những phối cảnh của truyện kể góp phần làm chậm nhịp độ trần thuật.

Cũng như hoạt động kể, hoạt động tả trong tiểu thuyết Nam Bộ cũng gắn với người kể chuyện, do người kể chuyện điều phối, mang dấu ấn, quan điểm của người kể. Hay nói cách khác, sự vật và sự việc chủ yếu được tả qua diễn ngôn của người kể chuyện.

Tả chân dung nhân vật

Nhân vật trong tiểu thuyết Nam Bộ được tả qua cái nhìn của người kể chuyện toàn tri ở ngôi thứ ba và người kể chuyện (nghe kể và kể lại) ở ngôi thứ nhất. Sự toàn tri nơi người kể chuyện chính nguyên nhân khiến cho trong sự miêu tả nhân vật đã những dấu hiệu của tính cách đặc biệt số phận của .

Như vậy, để thể hiện diễn ngôn về nhân vật, người kể chuyện bắt đầu miêu tả ngoại hình và miêu tả tâm lý. Người kể chú trọng đến việc miêu tả ngoại hình như một cách thức gợi mở vào những uẩn khúc tâm hồn nhân vật. Cách xây dựng nhân vật thông qua miêu tả ngoại hình của nhân vật không phải là mới. Thủ pháp này được thể hiện khá phổ biến trong văn học thời kỳ trung đại. Tuy nhiên, trong diễn ngôn của người kể trong tiểu thuyết Nam Bộ, các thủ pháp này đã có nhiều khác biệt và có sự cách tân đáng kể. Nếu như trong văn học cổ, việc miêu tả ngoại hình nhân vật mang những chi tiết có tính ước lệ, thể hiện tính cách phi phàm của nhân vật thì trong tiểu thuyết Nam Bộ giai đoạn này đã đổi khác. Các chi tiết bình thường, cụ thể làm nên hình hài và tính cách nhân vật được người kể chuyện chú trọng. Do vậy, nhân vật trong tiểu thuyết đã thoát khỏi tính ước lệ kiểu “Râu hùm hàm én mày ngài, Vai năm tấc rộng thân mười thước cao” (Truyện Kiều) để trở về với khuôn mẫu của cuộc đời thực, như họ đang hiện diện đâu đó trong cuộc sống.

Vị thầy tu khả kính tên Phiền (Thầy Lazarô Phiền), nếu cái tên đã được cha mẹ đặt từ khi lọt lòng, thì đó là một báo hiệu bất hạnh đã ứng nghiệm vào cả cuộc đời thầy. Thầy hiện lên trước mắt độc giả và người bạn đồng hành của mình với một ấn tượng đặc biệt: “Thầy chừng ba mươi tám, ba mươi chín tuổi, thấp người, giọng nói đau thương. Mặt mũi thì xanh xao mét ưởng, mình thì ốm o gầy mòn, lại cái áo dòng người mặc nó bay phấp phới hai bên làm cho thầy ấy giống như hình con bù nhìn, để nơi đồng ruộng mà đuổi chim” (Nguyễn Trọng Quản, 1987, tr. 40). Hình ảnh khổ hạnh ấy cho thấy đây là một con người mang nhiều tâm sự buồn thương, tạo sự tò mò muốn khám phá cho người bạn đối diện và với độc giả. Là con người của đời thường, Hồ Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi) được Lê Hoằng Mưu tả: “Bây giờ đây tôi xem kỹ, lại cũng nhờ có ngọn đèn dầu càng khuya càng rạng ánh soi, tôi mới thấy rõ người ấy đầu vấn khăn lược, chơn mang giày Tây, mình mặc áo ca-sơ-mia, quần nhiễu. Mặt xanh như màu lá, mắt sâu má thỏm, càng nhìn coi càng thẳm lạnh lùng, nếu trước tôi chẳng biết có người ấy đây, bỗng nhiên mà thấy, ắt tôi tưởng là hồn ma hiện tại” (Lê Hoằng Mưu, 1922, tr. 5). Hình dạng của Hồ Cảnh Tiên thật tiều tụy. Rõ ràng, đây không phải là hình vóc của con người nghèo đói mà là người bị suy sụp về tình cảm, tư tưởng. Trên khuôn hình đó, nhân vật thường “mỉm cười một cách đau đớn” trong quá trình thuật lại chuyện của mình. Hay hình ảnh của Hà Cảnh Lạc (Duyên phận lỡ làng) của Phạm Minh Kiên, Minh Gương ( hồng cay nghiệt) của Phú Đức cũng được miêu tả với cách thức như vậy. Có thể thấy, điểm chung giữa những nhân vật chính trong các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất trong văn học Nam Bộ là những nam nhân, có học thức và có bi kịch tình cảm gia đình. Ngoài ra, các nhân vật không chỉ là chứng nhân kể lại các biến cố mà chính là nạn nhân 

của các biến cố đó. Thầy Phiền không chỉ là chứng nhân của một thời kỳ giao tranh giữa quân đội Pháp - Nam, của chính sách cấm đạo, mà còn là nạn nhân của thời cuộc. Hồ Thanh Xuân, Lâm Kim Liêng là những nạn nhân của “thói đời đen bạc”. Có thể thấy, nhà văn chỉ tập trung miêu tả nhân vật chính của tác phẩm, những nhân vật khác được đề cập qua cái nhìn của nhân vật chính thường không được miêu tả.

Dường như có một dụng ý của người kể khi tạo một văn cảnh (context) cho sự xuất hiện của các nhân vật này: thầy Phiền với vẻ khổ hạnh đứng đối diện với sông nước mênh mông trên đường xuống Bà Rịa; Hồ Cảnh Tiên cô đơn trên cầu Thủ Ngữ dưới màn đêm; Hà Cảnh Lạc một mình ngồi day mặt xuống mé sông vào một buổi chiều; Minh Gương ngồi đầu cầu tàu một mình ngắm trăng. Cảnh sông nước mù khơi có lẽ hợp với tâm trạng cô đơn của nhân vật và cũng khiến cho nhân vật dễ bộc lộ, sẻ chia nỗi đau của mình với người khác. Và nếu cái tên Phiền (Thầy Lazarô Phiền) như một sự trùng ứng với số phận thì những cái tên khác như Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi), Cảnh Lạc (Duyên phận lỡ làng), Thanh Xuân (Thói đời đen bạc), Minh Gương ( hồng cay nghiệt) đáng lẽ là tươi vui, hoan lạc, sáng sủa thì lại có một sự trái ngược trớ trêu trong cuộc đời: buồn thương, thất vọng.

Có thể nói, xét từ bình diện tác giả - chủ thể của tác phẩm, cách đặt tên như vậy nhằm tiến đến việc mô tả một cách toàn diện hình tượng nhân vật trung tâm trong tác phẩm. Cách đặt tên ấy đã có những nét khác với một số tác giả cùng thời. Trong một số tác phẩm, tên gọi của nhân vật thường “hé lộ” tính cách và phẩm chất, số phận. Những cái tên lắm lúc gợi cho người đọc đoán biết được những tính cách và phẩm chất nhân vật. Chẳng hạn những cái tên như: Hảo trong Cười gượng của Hồ Biểu Chánh; Hạnh trong Kẻ oán người ưng của Nguyễn Bửu Mộc gợi nhớ những người con gái có phẩm hạnh tốt; thị Bần, thằng Bỉ, thằng Cực, con Lượm trong Mạng nhà nghèo của Nguyễn Bửu Mộc gợi lên hình ảnh đói khổ, cơ cực của các nhân vật; Thiện Tâm trong Hòn máu bỏ rơi của Nguyễn Thới Xuyên, Hữu Nhơn trong Tại tôi của Hồ Biểu Chánh, Lê Quý Hữu trong Hổ thầm của Nguyễn Bửu Mộc là những người tốt bụng luôn giúp những người nghèo khó; Bội Nghĩa trong Hổ thầm có bản chất lừa thầy phản bạn; Diệt Tộc trong Mạng nhà nghèo là người giết vợ cả, giết vợ hai và giết cả cha của mình.

Song trùng với ngoại hình, thế giới nội tâm phức tạp của nhân vật cũng được chú ý miêu tả. Phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, ở đó nhân vật tự bộc lộ mình, đã mang đến cho tiểu thuyết một xu hướng hướng nội đậm nét. Qua những lời tự thú, trần tình của nhân vật, thế giới nội tâm được phơi mở. Người kể chuyện có điều kiện chạm đến những khuất lấp bí ẩn, những biến thái tế vi của tâm hồn nhân vật. Ở đó chúng ta bắt gặp những giây phút nhân vật nói thật sau những đổ vỡ, lầm lạc, sa ngã trước sự phán xét của tòa án lương tâm. Thầy Lazarô Phiền có thể thoát sự trừng trị của pháp luật sau khi gây tội ác, nhưng thầy luôn phải sống trong lo sợ và ân hận. Nhân vật cố trốn chạy vết thương quá khứ, nhưng càng lẩn tránh, quá khứ càng ám ảnh, bủa vây, xiết chặt và theo thời gian dồn nhân vật đến cái chết. Không phải ngẫu nhiên, người kể chuyện đã miêu tả thầy Phiền “nước mắt chảy ròng” nhiều lần trong tác phẩm. Đó là giọt nước mắt của sự hối hận, một biểu hiện của tính thiện trong con người thầy Phiền. Truyện Thầy Lazarô Phiền đã tạo dựng được thế giới nghệ thuật độc đáo tựa trên hành trình tâm lý của nhân vật, đưa ra một thử nghiệm, một lối đi đầy hứa hẹn khám phá thế giới nội tâm con người trong các tiểu thuyết sử dụng phương thức trần thuật ngôi thứ nhất. Đấy là chưa kể đến sự ảnh hưởng của hình mẫu nhân vật thầy Phiền đối với nhân vật Hồ Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi) của Lê Hoằng Mưu. Hồ Cảnh Tiên cũng ghen tuông rồi dẫn đến ngộ sát, sống trong sự dằn vặt khổ đau và kết thúc bằng cái chết. Có thể thấy, thể hiện diễn trình tâm lý phức tạp của nhân vật là tâm điểm chú ý của nhà văn trong quá trình kiến tạo tác phẩm. Xuất phát từ phương thức trần thuật ở ngôi thứ nhất, thế giới nội tâm của nhân vật được mở ra một cách tự nhiên, mang đậm tính chất tự thú, sám hối. Qua hành trình kể lại câu chuyện cuộc đời, nhân vật đã tự mình nhận xét, ứng xử, suy nghĩ về những biến cố cuộc đời. Điều này dẫn đến một hệ quả: tình tiết cốt truyện của tiểu thuyết vận động gắn chặt với hành trình của tâm nhân vật, do vậy, toàn bộ cấu trúc nghệ thuật tác phẩm mang đậm dấu ấn chủ quan của người kể. Trong thực tế, phải đến sau năm 1932 chúng ta mới thấy lại phương thức tự sự này trong những sáng tác của Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, và dĩ nhiên là ở một cấp độ mới. Như vậy tiểu thuyết Nam Bộ đã mang tinh thần hiện đại và tiên phong, đóng góp quan trọng vào tiến trình hiện đại hóa văn học của Việt Nam.

Trong kỹ thuật miêu tả nhân vật của tiểu thuyết Nam Bộ, còn có một điểm mới mẻ, đó là nhân vật được miêu tả sự biến đổi theo thời gian hoàn cảnh. Lấy một ví dụ, trong Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh (1988), nhân vật Lý Ánh Nguyệt 5 lần được tả. Mỗi lần tả, nhân vật này lại mang một sắc thái trong một khung cảnh, hoàn cảnh cụ thể và nhìn chung là có những thay đổi:

(1) “Nàng để đầu trần, tóc vuốt mà bới chứ không cần lược, nhưng mà mái tóc nàng xấp xải hai bàn tang, đầu tóc nàng xụ xợp đứng sau ót, làm cho chiều lả lơi pha lộn với vẻ hữu tình. Mặt nàng không dồi phấn mà trắng hồng hồng, môi nàng không thoa son mà ửng đỏ đỏ; hàm răng nàng khít khao mà lại trắng trong; chơn mày nàng cong vòng mà lại nhỏ mức; ngón tay nàng dài mà nhọn như mũi viết, lại thêm phao hồng hồng; móng tay suôn đuột nên đánh đờn xa coi dịu nhểu, bàn chân nàng không đi giày, mà gót ửng đỏ, bàn no vun, nên hễ gió phất ống quần thì ai cũng phải ngó” (tr. 71);

(2) “Ánh Nguyệt đứng giữa sân mà ngó mấy bụi bông lài. Con mèo mướp chạy theo cạ lưng vô chưn của nàng rồi nằm ngửa quào ống quần làm cho nàng bày cái cườm chưn ra coi trắng nõn. Gió phất mái tóc xấp xải ánh mặt trời giọi vào mặt đỏ lòm, nàng nheo mắt cúi xuống, tay trái vén mái tóc, tay mặt vỗ con mèo, miệng chúm chím cười, coi chẳng khác nào như hoa xuân vừa nở. Nàng bắt con mèo mà ôm trong tay, rồi lại hái một cái hoa lài kê vào mũi mà hưởi. Hoa đã trắng mà da mặt nàng cũng trắng, bởi vậy mặt chói hoa, hoa chói mặt, khó phân ai trắng hơn ai” (tr. 71-72);

(3) “Ánh Nguyệt ở đợ hơn một năm, vì làm công việc nặng nề nên mấy ngón tay móng gãy, hai bàn tay chai cứng nhưng mà nước da của nàng cũng còn trắng như dồi phấn, gương mặt nàng cũng còn sáng như trăng rằm, tướng đi của nàng cũng còn dịu dàng, giọng nói của nàng cũng còn nho nhã” (tr. 89);

(4) “Năm nay nàng mới hai mươi lăm tuổi, mà vì lắm dày bừa gió bụi, rồi lại nặng mang niềm thảm sầu, bởi vậy tóc nàng đã thưa, thân nàng đã ốm, gò má nàng đã thỏn, da mặt nàng lại dùn, làm cho có hai lằn nhỏ trên trán. Tuy nhan sắc nàng tuy mười phần kém hơn xưa hết hai ba phần nhưng mà nếu ngó cho kỹ thì thấy gương mặt nàng có vẻ nghiêm trang tề chỉnh hơn, vóc vạc nàng có tường dịu dàng dung dảy hơn” (tr.149);

(5) “Đỗ Cẩm ngó thấy Lý Ánh Nguyệt đương lum khum để một đứa nhỏ, chừng năm sáu tuổi đứng xuống đất thì anh ta chưng hửng. Vì cách nhau đã sáu năm, bởi vậy gặp nhau cả ba người đều mừng, nên hỏi nhau lăng xăng. Đỗ Cẩm thấy Ánh Nguyệt tuy quần áo lang thang, tuy tay chơn lem luốc, nhưng mà gương mặt còn sáng rỡ, bộ tướng còn dịu dàng, nhắm thế chắc nghèo nàn, mà nhan sắc càng xinh đẹp” (tr. 186).

Trong đoạn 1, Lý Ánh Nguyệt được tả mang vẻ đẹp tự nhiên, mộc mạc với nhiều tính từ mang sắc thái tươi mới: hồng, đỏ, ửng đỏ, trắng nõn… với sự liệt kê chi tiết, cụ thể từ khuôn mặt, bàn tay đến gót chân. Cách miêu tả này cũng là công thức cho nhiều nhân vật nữ khác của Hồ Biểu Chánh và một số nhà văn cùng thời với ông. Trở lại với đoạn 2, ngoài những chi tiết ngoại hình của Lý Ánh Nguyệt được tả trong đoạn 1, nhân vật được đặt trong một khung cảnh “động” vào một thời khắc cụ thể: gió phất mái tóc xấp xải, ánh mặt trời; những cử động cụ thể của nhân vật: nheo mắt, vén mái tóc, vỗ con mèo, miệng cười chúm chím, rồi hái một bông hoa lài đưa lên mũi mà ngửi... Rõ ràng, những cử động của nhân vật cùng các yếu tố ngoại cảnh được thêm vào làm cho nhân vật hiện lên một cách sinh động.

Ngoài ra, Hồ Biểu Chánh còn cho thấy một sự cách tân đáng ghi nhận trong đoạn 3 và 4: nhân vật được miêu tả có sự biến đổi theo thời gian và hoàn cảnh. Trong đoạn 3, sau hơn một năm đi ở đợ, nhan sắc của Lý Ánh Nguyệt đã có sự sa sút đáng kể: mấy ngón tay móng gãy, hai bàn tay chai cứng. Nhưng qua đoạn 4, Lý Ánh Nguyệt mới hai lăm tuổi (sau 6 năm ở đợ) mà thân hình đã tiều tuỵ: mang niềm sầu thảm, tóc thưa, thân ốm, má thỏn, trán có nếp nhăn. Nếu so với hình ảnh nơi đoạn 2 và 1 thì nhân vật đã có những biến đổi rất lớn. Nếu đoạn 1 và 2, nhân vật hiện ra với nét đẹp tự nhiên thì đoạn 3 và 4, theo lưu ý của người kể chuyện, phải “ngó kĩ” mới thấy nàng đẹp. Như vậy, việc tả nhân vật có sự biến đổi theo thời gian không chỉ có ý nghĩa ở chỗ tạo cho nhân vật vẻ tự nhiên mà còn góp phần làm rõ cốt truyện, bức tranh cuộc sống mà tác phẩm muốn truyền tải.

Nơi đoạn 5, Lý Ánh Nguyệt được tả sau khi chia tay vợ chồng Đỗ Cẩm 6 năm, nàng đã có đứa con “chừng năm sáu tuổi”. Có một điểm cần nhấn mạnh: Lý Ánh Nguyệt được tả qua cái nhìn “ngó, thấy”, thái độ “chưng hửng” của Đỗ Cẩm. Lúc này, nhân vật được miêu tả qua cái nhìn của một nhân vật khác trong truyện (ở đây cần phân biệt với cái nhìn của người kể chuyện đối với nhân vật trong các tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất). Trên phương diện lý luận, nhà nghiên cứu IU. M. Lotman cho rằng: “Nhân vật có thể hiện lên qua sự mô tả của nhân vật khác, “bằng đôi mắt của anh ta”, tức bằng ngôn ngữ của anh ta. Đó là một yếu tố cực kỳ quan trọng. Việc một nhân vật này hay khác thay đổi ra sao khi được thể hiện qua ngôn ngữ của những cách nhìn nhận khác sẽ khắc họa cả người mang ngôn ngữ, cả cái mà ngôn ngữ đó nói đến” (IU. M. Lotman, 2004, tr. 34). Ở đây, rõ ràng Lý Ánh Nguyệt qua cái nhìn của Đỗ Cẩm (với thái độ chưng hửng) có sự khác biệt so với cái nhìn của người kể chuyện (với thái độ bình thản) dù hai cái nhìn này cùng thời điểm: nhân vật xuất hiện sau sáu năm lao khổ. Đỗ Cẩm thấy Lý Ánh Nguyệt tuy ăn mặc rách rưới nhưng “nhan sắc càng xinh đẹp”. Trong lúc với người kể chuyện phải “ngó cho kỹ thì thấy gương mặt nàng có vẻ nghiêm trang tề chỉnh hơn, vóc vạc nàng có tướng dịu dàng dung dảy hơn”. Rõ ràng có sự khác biệt trong mức độ đánh giá theo hướng chủ quan của người quan sát. Trong thế giới của truyện, việc nhân vật này đánh giá về nhân vật khác là khởi nguồn cho hiện tượng nhiều điểm nhìn. Việc miêu tả nhân vật từ nhiều điểm nhìn là một thủ pháp quan trọng của tiểu thuyết hiện đại.

Vì vậy, nhân vật được miêu tả chân thực và sống động theo thời gian, tuổi tác, hoàn cảnh, cần được xem như là một cách tân quan trọng của Hồ Biểu Chánh và của tiểu thuyết Nam Bộ. Có thể, những cách tân như vậy được gợi ý từ cách xây dựng nhân vật Fantine trong Những người khốn khổ, một sản phẩm tựa trên truyền thống miêu tả của tự sự phương Tây. Nhưng đặt trong khung cảnh tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XX, những miêu tả như vậy, dù chưa phổ biến vẫn là một bước cách tân đáng ghi nhận so với lối miêu tả trong tự sự truyền thống.

Về kỹ thuật miêu tả, khắc họa tâm nhân vật gắn với thời gian, có thể thấy, tiểu thuyết Nam Bộ đã chiếm lĩnh thời gian một cách cụ thể, chi tiết, đem đến những năng lực mới trong việc khắc họa và tái hiện hiện thực đời sống và tâm lý nhân vật. Trần Văn Toàn (2010, tr. 79) đã phát hiện trong Người bán ngọc một ý thức thể hiện thời gian gắn với tâm lý nhân vật: “để miêu tả sự giằng co giữa dục vọng và luân lý của Tô Thường Hậu, Lê Hoằng Mưu đã nhấn vào 4 mốc thời gian: rấp tối (sẩm tối), khuya, 2 giờ sáng, 4 giờ sáng, 4 giờ 30 sáng và trường hợp này kéo dài từ tr. 500 đến tr. 526. Nhờ thế mà thế giới nội tâm của nhân vật được hiện lên tường tận”. Hay các nhân vật trong tiểu thuyết trần thuật ở ngôi thứ nhất thường được đặt trong những thời khắc đặc biệt: thầy Lazarô Phiền (Truyện Thầy Lazarô Phiền) kể câu chuyện của mình trong một đêm; Minh Gương (Tơ hồng cay nghiệt), Cảnh Tiên (Oan kia theo mãi), Cảnh Lạc (Duyên phận lỡ làng), Thanh Xuân (Thói đời đen bạc) đều kể câu chuyện của mình vào khoảng thời gian chiều tối là thời khắc tâm lý con người dễ mang tâm trạng buồn; hay các bức thư trong Mảnh trăng thu được viết liên tiếp tường thuật tâm trạng của nhân vật Kiều Tiên gắn với những thời khắc: lúc mười giờ khuya, bảy giờ sáng, tám giờ sáng, ba giờ chiều… gắn với không gian không cố định: lúc ngồi trên tàu Orénoque, lúc ở Vĩnh Long, Sài Gòn… một không gian mang xu hướng đổi thay và bất định.

Tả khung cảnh là một phương diện quan trọng trong tiểu thuyết Nam Bộ. Nhiều quyển tiểu thuyết thường bắt đầu với việc tả cảnh. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thường mở đầu với việc tả khung cảnh, sau đó mới tả tới nhân vật trong khung cảnh đó. Thủ pháp này giống với thủ pháp của điện ảnh. Khung cảnh thiên nhiên đã tạo phông nền cho nhân vật xuất hiện:

(1) [1] “Trời mưa mới tạnh, đường sá trơn trượt bẩy lẩy; cây cỏ loi ngoi lót ngót. Bên hướng tây mặt trời ló ra, chiếu thẳng xuống mấy tàu lá chuối ướt, rồi nước đọng trên tàu chuối giọi lại, nên chớp chán coi sáng ngời. Ở ngoài đồng ngọn gió thổi lai rai, đưa đẩy mấy chòm lau, bóng gũ phất phơ, cọng ngã oặc oà oặc oại. Con cò ngà đậu trên nhánh bần rạch, sè cánh ra phơi; vịt xiêm mái lội xuống mé đường mương kêu con đi rút tép.

[2]  Lý Ánh Nguyệt ngồi chồm hổm dựa cửa, ngó ra trước sân, mặt mày buồn hiu. Con Thu Vân bước lẩm chẩm trong nhà, chạy vịn sau lưng, miệng cười hịt hạt.

[3]     Ngoài sân nước mưa còn đọng vũng, trong bụi, chàng hiu nhảy lom xom. Mấy đám rau đắng mọc tràn lan trước cửa, gốc ngập lấp xấp, lá ướt loi ngoi. Mấy về rong rêu đóng theo đường vô nhà, chỗ thấy xanh rời, chỗ coi láng mướt.

[4]   Ánh Nguyệt ngồi ngó mấy đám rau đắng, thì tủi phận mình chẳng khác chi rau cỏ kia, thân dãi dầu mưa nắng mà chưa hề nếm được chút ngọt bùi, rồi nàng ngó lại mấy đám rong rêu,

càng phiền não trong lòng, giận người giả dối bạc đen, để cho lòng mình đeo sầu, làm cho thân mình mang nhục, ở trong nhà tức tưởi đêm ngày, ra ngoài đường hổ ngươi cùng thiên hạ” (Hồ Biểu Chánh, 1988, tr. 146).

(2) “Kiểng nhà thờ đổ mười hai giờ, nhà giữ đạo Thiên Chúa đều lấy dấu đọc kinh; nhà đạo Phật đều niệm Phật trong cơn đúng ngọ. Thế thường gọi trời đứng bóng! Mà nào có thấy mặt trời ở đâu! Lúc gần mãn hạ sang thu, mưa rào từ sớm mơi tới tối; không ngày nào là ngày không mưa; có khi cả mười ngày không thấy vầng ô ló mặt. Chỉ thấy trời uôi uôi vần vũ như muốn mưa. Cây cối mát mẻ nở nang, tươi màu rám lá, bông trái sum suê; kia là cây chôm chôm, nọ là cây măng cụt, cây dâu, cây nhãn, cây ổi, mãng cầu, cây nào là cây không đơm trái sai oằn, trăm tía ngàn hồng, đẹp mắt biết bao kể xiết. (…) Bởi vậy mới thấy trong nhà ấy có người vừa trạc thanh xuân, tuổi chừng ba tám hình dung nho nhã, diện mạo khôi ngô, đang đứng dựa cột, miệng hút thuốc, mắt ngó mông dường trông người chậm bước” (Lê Hoằng Mưu, 1929, tr. 5).

(3) “Trong một căn phòng ở cái nhà lầu nơi đường Espagne, một chàng trạc độ hai mươi tuổi, mặt trắng, lông mày xanh, mũi thẳng, miệng rộng, tai hơi lớn, ngồi dựa lưng nơi ghế xem một bức thơ… Ngọn đèn điện chiếu sáng, trong cái phòng ấy chưng dọn rất gọn: hai bên có hai tủ đựng đầy sách để giữa một cái bàn lớn, trên trải nỉ xanh; một bên để cái ghế xích đu, một bên có cái máy đánh chữ. Phía ngoài để một cái ghế dài bằng mun láng bóng, và bốn cái ghế trắc rất đẹp… Đứng trong, dòm lên vách tay trái có cái hình thánh Gandhi, bên tay mặt có hình Tôn Dật Tiên, ở giữa thì treo một bức họa đồ rất lớn và tấm hình Phan Tây Hồ” (Bửu Đình, 1988, tr. 23).

Nơi đoạn 1, nếu tách riêng các phiến đoạn [1] và [3] thì khung cảnh chỉ còn là cái phông thuần túy, chúng ta có thể ghép vào bất cứ chỗ nào trong tác phẩm đều được. Những phiến đoạn này, dù không gắn với nhân vật thì cũng góp phần tạo ra không khí sinh động cho truyện. Những miêu tả như vậy, có thể nói là xuất hiện khá nhiều trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh thời kỳ đầu. Nhưng trong trường hợp này, sự miêu tả đã có sự kết hợp, đan cài với hình bóng và tâm trạng của nhân vật trong phiến đoạn [2] và [4]. Khung cảnh không còn là cái phông thuần tuý mà đã gắn với số phận và cảnh ngộ của nhân vật. Đặc biệt, nơi phiến đoạn [4], nhân vật nhìn cảnh vật và nghĩ đến phận mình chẳng khác chi rau cỏ “thân dãi dầu mưa nắng”. Ngôn ngữ người kể chuyện đã chập làm một với suy nghĩ tâm trạng của nhân vật khiến cho diễn ngôn mang dấu ấn nhân vật khá . Ngoài ra, trong diễn ngôn ấy đã xuất hiện hai điểm nhìn: điểm nhìn của người kể chuyện và điểm nhìn của nhân vật. Điểm nhìn của người kể bao trùm lên điểm nhìn của nhân vật: cái nhìn của người kể về/ đối với cái nhìn của Lý Ánh Nguyệt trước khung cảnh. Đó cũng là một dấu hiệu cho thấy xu hướng phân tách giữa diễn ngôn của người kể và diễn ngôn của nhân vật và sự đa dạng hóa điểm nhìn trong tự sự.

Nơi đoạn 2, việc tả cảnh bắt đầu với thời khắc (kiểng nhà thờ đổ mười hai giờ), đến thời tiết (trời mưa), tới cảnh vật (cây lá tốt tươi, cảnh đồng lúa và ngôi nhà hai gian hai chái), sau tới con người (đứng dựa cột, hút thuốc, ngó mông). Sự miêu tả như vậy có thể nói là khá chi tiết và cụ thể. Số lượng chi tiết có vai trò quan trọng trong việc cụ thể hóa bức tranh thiên nhiên và sinh hoạt của con người. Điều đáng nói là trong cách miêu tả, sự xuất hiện của các cụm từ mang ý nghĩa tượng hình như: vần vũ, nở ngang, sum suê, sai oằn, nổi lên, cuộn cuộn, đứng dựa, ngó mông… đã gợi lên các ấn tượng thị giác nơi độc giả. Ngoài ra, cần phải kể đến sự xuất hiện của câu văn phân tích, nhiều mệnh đề nhằm phục vụ cho việc miêu tả đạt hiệu quả cao.

Đoạn 3 là một đoạn tả nội thất, đồ vật. Cũng như tả cảnh, việc tả nội thất, đồ vật cũng được chú ý đến từng chi tiết nhỏ, tạo nên không khí sinh hoạt cho truyện. Nhìn vào các đồ vật bài trí trong phòng của nhân vật, chúng ta còn được cung cấp thêm một lượng thông tin khác về học vấn, sở thích, thị hiếu của chủ nhân. Chủ nhân là một người theo Tây học và có đầu óc cấp tiến. Những miêu tả về đồ vật, vì lẽ đó, đã mang tính cá thể khá cao. Những miêu tả như vậy rõ ràng là tạo nên nét hấp dẫn đối với độc giả đô thị, đặc biệt là tầng lớp thanh niên, trí thức.

4. Kết luận

Có thể thấy, càng về sau trong các bộ tiểu thuyết càng xuất hiện nhiều những miêu tả. Những bộ tiểu thuyết có dung lượng lớn của các nhà văn Hồ Biểu Chánh, Phú Đức, Bửu Đình… ý thức vận dụng thủ pháp miêu tả được chú trọng. Những nhà văn từng học trường Tây hoặc có khả năng đọc tác phẩm phương Tây, thường có kỹ thuật miêu tả tương đối thành thục dù đôi chỗ còn chịu ảnh hưởng truyền thống. Chắc chắn họ đã học được ít nhiều từ kinh nghiệm của các đồng nghiệp phương Tây. Ngoài ra, cũng cần tính đến những điều kiện trợ lực cho ý thức miêu tả là đời sống sôi động và môi trường của báo chí thời gian này. Chính việc kết hợp giữa diễn ngôn kể và tả (đặc biệt là tả tâm lý) trong tác phẩm đã ảnh hưởng đến nhịp tự sự. Những đoạn kể khiến nhịp tự sự tăng và những đoạn tả sẽ làm nhịp tự sự chậm lại. Bước đi của nhịp tự sự như vậy, có thể nói là tương đối phù hợp với nhu cầu đọc suy nghiệm của một bộ phận độc giả đang lớn dần theo thời gian trong các đô thị. 

Phan Mạnh Hùng

Nguồn: Khoa học Xã hội, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ, số 11 (207), 2015, tr.33-47.

Tài liệu trích dẫn

  1. Bửu Đình. 1988. Mảnh trăng thu (tái bản). Tiền Giang: Nxb. Tổng hợp Tiền Giang.
  2. Hồ Biểu Chánh. 1988. Ngọn cỏ gió đùa (tái bản). Tiền Giang: Nxb. Tổng hợp Tiền Giang.
  3. Hoàng Dũng. 2000. Truyện Thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản những đóng góp vào kỹ thuật cấu trong văn học Việt Nam. Tạp chí Văn học, số 10.
  4. Lê Hoằng Mưu. 1922. Oan kia theo mãi. Sài Gòn: Nhà in Nguyễn Văn Viết.
  5. Lê Hoằng Mưu. 1929. Đêm rốt người tội tử hình. Sài Gòn: Nhà in Đức Lưu Phương.
  6. Nguyễn Chánh Sắt. 1925. Lòng người nham hiểm. Sài Gòn: Nhà in Xưa nay.
  7. Nguyễn Huệ Chi. 2002. Thử tìm vài đặc điểm của văn xuôi tự sự quốc ngữ Nam Bộ trong bước khởi đầu. Tạp chí Văn học, số 5.
  8. Nguyễn Trọng Quản. 1987. Thầy Lazarô Phiền, trong Những áng văn chương quốc ngữ đầu tiên. Bản in roneo. TPHCM: Trường Đại học Sư phạm.
  9. Nguyễn Ý Bửu. 1927. Ba Tràh. Sài Gòn: Nhà in Xưa nay.
  10. IU. M. Lotman. 2004. (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch) Cấu trúc văn bản nghệ thuật. Hà Nội: Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
  11. Phạm Minh Kiên. 1925. Duyên phận lỡ làng. Sài Gòn: Nhà in Nguyễn Văn Viết.
  12. Trần Huyền Sâm (biên soạn). 2010. Những vấn đề luận văn học phương Tây hiện đại (Tự sự học kinh điển). Hà Nội: Nxb. Văn học.
  13. Trần Văn Toàn. 2010. “Tả thực” với hiện đại hóa văn xuôi nghệ thuật quốc ngữ giai đoạn giao thời. Luận án tiến sĩ. Hà Nội: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

20230417 2

Ảnh: Nhà phê bình Đặng Tiến (trái) và nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương

       Nhà văn Đặng Tiến[i] định cư và lập nghiệp ở châu Âu từ giữa những năm 1960, nhưng vẫn có mặt trong đời sống văn học miền Nam với những bài phê bình thơ cổ điển và hiện đại thường xuất hiện trên các tạp chí thời đó. Năm 1972, tập tiểu luận đầu tay của ông nhan đề Vũ trụ thơ được Nhà xuất bản Giao Điểm ấn hành ở Sài Gòn. Hơn một phần ba thế kỷ sau đó ông không hề in sách, dù sự theo dõi và quan tâm không lúc nào ngưng nghỉ của ông đối với văn học dân tộc luôn được ghi dấu trong những bài viết tài hoa trên các phương tiện truyền thông, gần gũi với chúng ta là các báo Văn Nghệ, Thanh Niên, Đất Quảng, Sông Trà…

        Trong sự nghiệp trước tác của mình, Đặng Tiến có những bài viết đặc sắc về truyện ngắn và tiểu thuyết của Nhất Linh, Sơn Nam, Bùi Ngọc Tấn, nhưng sở trường của ngòi bút ông chủ yếu vẫn là phân tích thơ ca. Điều này dễ hiểu, không chỉ vì tác giả là người am hiểu thể loại vi diệu này, mà còn vì thơ ca là sợi dây cảm ứng đo được những rung động của tâm hồn dân tộc qua những biến thiên xã hội.

       Trong chuyến về thăm quê nhà vào dịp Tết Kỷ Sửu 2009, ông mang theo tập bản thảo Thơ - thi pháp và chân dung mà nhà xuất bản Phụ Nữ vừa cho ra mắt bạn đọc.

       Những độc giả lâu năm của Đặng Tiến gặp lại ở đây những cảm nhận và phân tích mà ông thể hiện từ thời trẻ tuổi về Bà Huyện Thanh Quan, Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Đinh Hùng, Hoàng Trúc Ly. Cùng với điều đó, người ta cũng có thể ngạc nhiên nhận thấy những suy ngẫm từ rất sớm, và càng ngày càng sâu sắc, của tác giả về lý thuyết thơ, khi ông tìm hiểu và vận dụng quan niệm của những nhà thi pháp học hàng đầu như Roman Jakobson, Claude Lévi-Strauss, Paul Valéry, Nguyễn Tài Cẩn vào công việc phê bình văn học.

        Với một người say mê và có chí hướng, làm việc ở một trung tâm khoa học có điều kiện thuận lợi về tài liệu và thông tin như Paris, thì khả năng giới thiệu các quan niệm và phương pháp phê bình không phải là điều lạ. Nhưng phải nói là đặc biệt, từ ngàn trùng xa cách với đời sống văn nghệ đang biến đổi từng ngày của đất nước, Đặng Tiến tạo dựng cho mình một thế giới văn chương Việt Nam thu nhỏ đủ để ông có thể sống, suy tư và cảm xúc như từ trong nguồn của nó.

         Coi trọng chức năng thi ca của ngôn ngữ, nhưng Đặng Tiến thực ra không phải là nhà phê bình hình thức luận. Cứ xem những gì ông viết về thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Quang Dũng, Văn Cao, Lê Đạt, Bùi Giáng, thì thấy ông còn tiếp cận những chân dung sáng tạo đó từ góc độ biểu cảm cá nhân và góc độ quy chiếu về bối cảnh xã hội. Một thái độ cân bằng như vậy về khoa học cũng đi liền với một thái độ công bằng đối với những giá trị, đồng thời là công bằng với chính thị hiếu và sự cảm thụ đa dạng của bạn đọc. Điều đó cắt nghĩa cách viết uyển chuyển trong những đề tài có thể là khó viết đối với một người ở xa xôi cách trở - cả về không gian lẫn về tâm thức - như thơ kháng chiến chống Pháp, thơ Chính Hữu, Vũ Cao, Phạm Tiến Duật. Nhưng dù phải hoà giải với truyền thống phê bình đã kiến tạo nên tầm đón nhận quen thuộc của bạn đọc, Đặng Tiến vẫn giữ cho ngòi bút mình ưu thế của những phân tích nghệ thuật, những khám phá và liên tưởng về chiều sâu của biểu tượng văn hoá.

         Có lẽ không phải ngẫu nhiên khi Đặng Tiến để hai bài viết về ca dao và dân ca quan họ ở cuối tập sách - như một lời chia tay. Hãy chia sẻ với tâm tình của người viết những dòng này ở bên bờ sông Loiret, miền Nam nước Pháp: “Thế hệ chúng ta còn may mắn tiếp xúc với dĩ vãng của dân tộc qua những văn bản ca dao, những làn điệu ghi âm hay vài ba buổi trình diễn. Nhưng không khí dân gian thì đã xa xăm. Điệu hò mái đẩy não nùng tiếng sương, lời chào giã bạn nửa đêm về sáng và tiếng hò lơ trong rừng tràm rừng đước, chúng ta còn được nghe những điệu hát đã tách rời ra khỏi không gian…Chúng ta là những đêm rằm đã mất ánh trăng” (tr. 455).

        Và có ngụ ý gì không khi Đặng Tiến kết thúc những trang sách tái ngộ quê hương ở hai câu ca dao: Ra về răng được mà về/ Bức thư ai gửi lời thề ai trao…? Ai đó sẽ giải mã giùm chúng ta: đây là nói với ánh trăng trên dòng sông Loiret hay với đêm rằm hò hẹn nơi quê cũ?

Huỳnh Như Phương

Đã in: Báo Phụ Nữ, tháng 5-2009.

Tập san Quán Văn chủ đề “Ánh trăng, đêm rằm”, số 44, NXB Hồng Đức, tháng 3-2017.


[i] Nhà văn, nhà phê bình Đặng Tiến, còn có bút hiệu Nam Chi, sinh ngày 30-3-1940 tại làng An Trạch, phủ Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, nay thuộc huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng; từ trần ngày 17-4-2023 tại Orléans, phía Nam Paris, nơi ông định cư cùng gia đình hơn nửa thế kỷ nay. Ông nguyên là viên chức ngoại giao, giáo sư trung học và giảng viên ban Việt học, Đại học Paris 7 - Denis Diderot. Tác phẩm chính: Vũ trụ thơ (NXB Giao Điểm, Sài Gòn, 1972), Vũ trụ thơ II: thơ miền Nam trong thời chiến (NXB Thư Án Quán, NJ, 2008); Thơ - thi pháp và chân dung (NXB Phụ Nữ, Hà Nội, 2009). Ông là tác giả của khoảng 150 bài tản văn, tùy bút, tiểu luận phê bình với phong cách độc đáo, nhuần nhị và tinh tế (Chú thích ngày 17-4-2023. HNP).

Tháng 12/2023, nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương cho ra mắt tập tiểu luận phê bình Hồi âm từ phương Nam (Nxb Đà Nẵng).

Hồi âm từ phương Nam được cấu trúc thành hai phầnPhần 1 “Nơi cư trú của tình yêu” có những bài viết về thơ của Pablo Neruda, Xuân Tâm, Nguyễn Vỹ, Ngô Kha, Diễm Châu, Tường Linh, Đông Trình, Ý Nhi… Phần 2 “Trong người có ta” là chân dung được phác hoạ qua văn chương của Thích Nhất Hạnh, Nguyễn Văn Trung, Võ Hồng, Nguyên Ngọc, Hoàng Ngọc Biên, Cao Huy Thuần, Thanh Thảo, Lê Văn Nghĩa…; và cuối cùng là những trăn trở, tâm nguyện và tâm huyết của nhà nghiên cứu phê bình - nhà giáo Huỳnh Như Phương về nghề văn, người văn, dạy văn, học văn.

20240426

Đọc 36 bài viết trong Hồi âm từ phương Nam, ngẫm lại tiêu đề của phần 2 trong cuốn sách - “Trong người có ta” (lấy ý từ câu Kiều Mà trong lẽ phải có người có ta), tôi nghĩ đến một quy luật trong mĩ học tiếp nhận: khi bạn đọc một tác phẩm văn chương, không phải bạn đang khám phá tâm hồn tác giả, mà bạn đang khám phá chính tâm hồn bạn. Quả thật như thế. “Trong người có ta”, nghĩa là trong hơn 40 gương mặt văn chương của Hồi âm từ phương Nam, ta thấy hiện hữu một gương mặt Huỳnh Như Phương thuỷ chung với văn chương suốt hơn nửa thế kỉ; trong hơn 40 tâm hồn đa đoan với văn chương được tác giả soi chiếu, ta nhận ra một tâm hồn mẫn cảm của Huỳnh Như Phương; trong hơn 40 phong cách sáng tác đa kiểu dạng, ta nhận ra tính cách - phong cách bút mực đầy tinh tế, sắc sảo, khoan hoà nhưng thẳng thắn và kiên định của Huỳnh Như Phương: đó là phong cách giàu cảm xúc, trí tuệ, bút lực và giàu tấm lòng của người làm công việc phê bình.

Xem thơ ca là “nơi cư trú của tình yêu” - một tình yêu không biên giới, vô hạn định, tác giả dành hẳn một nửa số bài trong tập sách để trình bày những cảm nhận của mình về thơ. Dẫu rằng, đây là những bài viết rời, tuy nhiên, khi đặt chúng cạnh nhau trong cùng một tập sách, ta thấy hiển lộ một chân dung Huỳnh Như Phương - người yêu thơ ca từ thuở hoa niên cho đến tuổi xế chiều và một Huỳnh Như Phương - nhà phê bình, lí luận về thơ đầy mẫn cảm và sắc sảo. Thời đi học (những năm 1970), cậu thư sinh Huỳnh Như Phương đã chép vào tập vở những đoạn trong bài Hành trình của nhà thơ Ngô Kha mà mình thích; thuộc lòng mãi đến bây giờ bài thơ đăng trên báo Tuổi hoa của Ngọc Thuỳ Giang, mà hơn 30 năm sau gặp lại nhà thơ, Huỳnh Như Phương đã đọc thuộc lòng cả 5 khổ thơ khi chính tác giả cũng không còn nhớ. Tình yêu (cảm xúc) kết hợp với lí trí (lí luận phê bình) khiến Huỳnh Như Phương có một cách bình thơ rất riêng, không giống kiểu phê bình thù tạc, phê bình xuề xoà thường thấy trong lời tựa/ lời bạt cho các tập thơ.

Tác giả Huỳnh Như Phương thường chọn được những câu thơ, ý thơ, tình thơ, bài thơ rất hay. Từ đó, ông đi vào phân tích, thẩm bình một cách thuyết phục khiến người đọc không những tán thành mà còn thấy như được bồi thấm thêm tình yêu thơ từ người viết. Ông khiến ta phải rộn rã theo cậu học trò Xuân Tâm tất bật, vui mừng xếp dọn đồ đạc vào rương để về quê nghỉ hè trong hai câu thơ mà ngoài Xuân Tâm ra, không ai diễn tả được sự “giản dị, tinh nghịch và thân mật của tâm trạng trước một chuyến đi”: Kiểm soát kĩ, có khi còn thiếu sót/ Rương chật rồi khó nhốt cả niềm vui (Nghỉ hè); để rồi phải thừa nhận điều này: “Trong thơ Việt Nam, có lẽ Xuân Tâm là người đầu tiên đưa từ kiểm soát vào thơ” - một “kiểm soát” không nặng nề, lạnh lùng mà nhẹ bỗng niềm vui. Ông khiến ta phải suy nghĩ nhiều hơn khi quả quyết Hành trình là “bài thơ đặc sắc và vĩnh cửu nhất của ngô Kha”; hoặc “Đọc thơ Ngô Kha, ta thấy giọng thơ trầm mặc hoà quyện với giọng thơ hào sảng; lúc như lời cầu kinh âm thầm trong đêm vắng, lúc như tiếng kèn đồng gào thét giữa phố phường; lúc như bếp than hồng hừng hực ém dưới tàn tro, lúc như trái tim bùng cháy cho ánh sáng lan toả trên những ngọn gió thổi về vĩnh cửu”. Ở một đoạn thơ của Ngọc Thuỳ Giang, giữa những từ ngữ khiến “ta thấy như mình sống ở một thời nào khác, thật cổ kính, cách xa”: Mưa đã đầy trong nỗi nhớ này/ Thưa em, chiều cũng rụng gầy vai/ Ta nghe hồn đá xanh bia mộ/ Từng giọt trần gian nhỏ ướt tay, Huỳnh Như Phương phát hiện hai chữ “thưa em” như cứu được chỗ sẩy tay của nhà thơ, bởi “nó phả vào những từ ngữ có phần khuôn sáo kia ý vị nồng đượm của cõi tình”.

Sự đĩnh đạc của ngòi bút Huỳnh Như Phương được xác lập từ những nhận định mang tính phát hiện và mang tầm lí luận về thơ: “Sáng tạo cũng là một con đường bất tận; người làm thơ là người đi đường không mỏi. Đặt cột mốc ở vị trí thời gian nào, có vượt qua được không, vượt qua rồi lại hiện thêm dốc cao hay thác sâu. Không biết. Chỉ biết thơ như chim trời, như mũi tên, yếu tính của nó là bay, bay hoài không chỉ định”; “Cũng như ranh giới giữa hôm kia - hôm qua - hôm nay và hôm sau, ranh giới giữa tôi và không tôi, giữa bản văn bên trong và bản văn bên ngoài… có khi phân định, có khi mờ nhoè, có khi tan biến. Thơ mãi mãi là sự ngập ngừng, lưỡng lự khi phải chọn một thời gian, một từ ngữ, một ảnh tượng, một tâm thế”; “Có tập thơ đến với ta như một người tình xa lạ, ta đọc nó như khám phá, chinh phục một đỉnh núi cao đầy hào hứng, ngoạn mục nhưng cũng lắm khi cảm thấy mệt nhoài. Lại có tập thơ đến với ta như một người tình cũ, tuy lâu ngày gặp lại, nhưng vẫn ẩn hiện những nét gần gũi, thân quen, ta đọc nó như cùng dạo bước dọc theo những con đường, bờ sông kỉ niệm, và trên từng chặng nhàn du, ta cũng như gặp lại chính tuổi trẻ mình”…

Phần 2 của Hồi âm từ phương Nam là sự nhận diện các khuôn mặt văn xuôi, bao gồm cả người sáng tác lẫn làm công việc phê bình. Tác giả Huỳnh Như Phương xác định thiền sư Thích Nhất Hạnh là “một trong những nhà văn hoá sớm nhất kêu gọi đức khoan dung, xiển dương tinh thần đối thoại và hoà giải”; Nguyễn Văn Trung “ưu tư với văn hoá dân tộc”; Võ Hồng “trân quý truyền thống mà không bàng quan với hiện đại, không tách rời chính trị nhưng lấy văn hoá làm chọn lựa căn bản, coi trọng đạo đức nhưng vẫn giữ tư chất nghệ thuật”; Hoàng Ngọc Biên là “một trong số ít nhà văn viết văn xuôi một cách kĩ thuật và nghệ thuật nhất ở miền Nam”; “Cao Huy Thuần viết văn xuôi bằng ngôn ngữ thi ca. Văn ông có nhiều khoảng trống mời gọi người đọc liên tưởng. Văn chương ấy không làm nở những bông hoa, làm tươi những giọt nắng, nhưng có thể vĩnh cửu hoá màu nắng hạ và mùi thơm của bông sen quê nhà”…

Có lúc, Huỳnh Như Phương khiến ta giật mình với những phát hiện từ điều gần gũi quen thuộc nhất cũng như điều xa lạ nhất: Lê Văn Nghĩa là “cây bỉnh bút của báo cười lại là người ít cười nhất trong những lần tụ họp bạn bè”; Căn nhà giữa những đám mây của Vũ Thành Sơn là “một cuốn tiểu thuyết viết về tình cảnh bi đát của hiện sinh đúng nghĩa” mà từ nhiều năm nay, chúng ta khó có thể tìm thấy trong văn học nước nhà.

Giống như phê bình thơ, trong phê bình văn xuôi và phê bình của phê bình, hoặc bàn về chuyện dạy học văn, Huỳnh Như Phương cũng đưa ra nhiều nhận định sâu sắc và chí lí: “Nói đến phẩm hạnh của văn chương là nói đến sức mạnh và vẻ đẹp tinh thần soi chiếu vào văn bản như ánh sáng chiếu vào pha lê, là nói đến nghệ thuật của kí ức được truyền đạt qua ngôn từ và hình tượng. Nghệ thuật nói lên phẩm hạnh của nhà văn. Thậm chí, nghệ thuật cũng chính là phẩm hạnh, bởi đạo đức của nghề văn chủ yếu được tìm thấy trong chất lượng nghệ thuật và tài nghệ thuyết phục người đọc”; “Văn học là lĩnh vực kiên quyết không để thân phận con người biến thành một con số. Văn học là nụ cười, là nước mắt, là niềm hân hoan, là nỗi thống khổ, không có con số nào mã hoá được điều đó”.

Đặc biệt, đặt trong bối cảnh đổi mới chương trình giáo dục phổ thông 2018 với nhiều tranh luận về môn ngữ văn, đúc kết sau của nhà giáo - nhà phê bình Huỳnh Như Phương càng khiến chúng ta lưu tâm: Mục đích cuối cùng của môn văn ở trường phổ thông “...không phải là dạy người học hiểu biết kiến thức văn học, để thuộc làu lịch sử văn học hay các mệnh đề lí luận như thuộc các định luật vật lí hay định lí toán học. Môn văn ở trường phổ thông gánh sứ mạng bồi dưỡng cho học sinh tình thương yêu, lòng trắc ẩn, sự ăn năn, niềm rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, sự nhạy cảm với nỗi cô đơn cùng với lòng khát khao được giao cảm và hoà hợp”.

Trong Hồi âm từ phương Nam, tác giả Huỳnh Như Phương còn thể hiện một phẩm hạnh phê bình đáng trân trọng. Đó là khi ông thẳng thắn chỉ ra nét bại bút của người sáng tác: “Tiểu thuyết Võ Hồng… thiên về miêu tả sự kiện hơn là khắc hoạ tính cách… Khi thể hiện những tình huống gay cấn, văn Võ Hồng không giữ được vẻ mềm mại, uyển chuyển vốn có”. Là khi ông bày tỏ ý kiến không đồng tình với những cây bút mà mình mến mộ khi họ cả tin và dễ dãi đến mức “hào phóng” khen tặng những người, những tác phẩm không đúng với giá trị thực; hoặc họ cực đoan phê phán đến mức “không thấu tình đạt lí, nhất là khi chưa bao quát toàn diện và thấu đáo những tình thế của người cầm bút”.

Huỳnh Như Phương cho rằng: “Kinh nghiệm cảm thụ nghệ thuật có tính riêng tư và đôi khi bảo thủ một cách kì lạ”. Vậy mà, bằng cảm thụ tinh tế, phát hiện mới mẻ, nhận định xác đáng, chứng lí thuyết phục, ông đã khiến người đọc đồng tình với sự cảm thụ “riêng tư” và đôi khi “bảo thủ” của mình. Bởi vì, “khi cái tôi đi đến cùng con đường của nó, nó sẽ được những cái tôi khác đón chào nơi bến bờ của sáng tạo”. Ông đã viết như thế, đã tin như thế; đến lượt mình, tôi cũng tán thành với ông, bởi tôi nhận thấy qua cuốn sách này, “trong người có ta”. Tôi tin rằng, bạn đọc khác cũng vậy.

Nguyễn Thị Tịnh Thy

Nguồn Văn nghệ số 11/2024

20230207

         Đời sống văn học của đất nước được tạo dựng từ nhiều xu hướng, quan niệm, phong cách… xuất hiện ở những miền đất khác nhau. Mỗi nhà văn góp vào thế giới đó một khuôn mặt, như những bức chân dung trong phòng triển lãm đa dạng của văn học vào một thời buổi nhất định.

        Phạm Quốc Ca là một khuôn mặt riêng của văn học những năm tháng này. Ông vốn là người lính, sau chiến tranh về học ngữ văn ở Đại học Văn khoa TP Hồ Chí Minh, rồi Đại học Tổng hợp Hà Nội, ra trường đi dạy học, làm quản lý một đơn vị đào tạo ở Đại học Đà Lạt, về hưu lại từng mang gánh nặng phụ trách Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng. Ngần ấy công việc đã kinh qua không che khuất con người thơ nơi Phạm Quốc Ca. Làm thơ từ thời đi học và trong quân ngũ, trong vòng 30 năm, ông cống hiến cho đời năm tập thơ, chưa kể những bài thơ dịch từ tiếng Nga mà ông chuyển ngữ một cách nhuần nhị.

        Là nhà giáo dạy văn, Phạm Quốc Ca còn kế thừa truyền thống bình thơ của tiền nhân và tìm cách đưa cái đẹp của nghệ thuật ngôn từ đến với thế hệ trẻ. Làm văn nghệ ở một vùng đất đầy chất thơ, ông thu hút màu sắc thiên nhiên và hình ảnh con người không chỉ trong sáng tác mà cả trong phê bình văn học. Đòi hỏi của công việc nghiên cứu và giảng dạy cộng với niềm hứng thú khiến ông theo dõi khá kỹ, từ chỗ đứng của mình, hành trình của thơ ca Việt Nam đương đại. Sau cuốn sách Mấy vấn đề về thơ Việt Nam 1975-2000, vốn phát triển từ luận án tiến sĩ, tập tiểu luận phê bình Thơ và mấy vấn đề văn học, gồm những bài viết đã công bố rải rác hơn 20 năm nay, cho thấy sự quan tâm bền bỉ ấy của tác giả.

         Chủ đề thơ ca chiếm hầu hết số trang của cuốn sách. Khi bàn đến những vấn đề chung của văn học, tác giả có đề cập đến tiểu thuyết, nhưng thường hơn vẫn là liên hệ với thực tiễn sáng tác thơ ca. Điều này dễ hiểu, không hẳn vì tác giả là một nhà thơ am hiểu thể loại vi diệu này, mà còn vì thơ ca là sợi dây cảm ứng đo được những rung động của tâm hồn con người qua những biến thiên xã hội. Những trang viết về thơ lãng mạn, tượng trưng và siêu thực cho thấy Phạm Quốc Ca đồng điệu với những trang phê bình thơ của Chế Lan Viên, Lê Đình Kỵ…

        Trong bài viết “Thơ hay cho hôm nay”, Phạm Quốc Ca trình bày rõ ràng ý kiến của mình: “Thơ là một hiện tượng nghệ thuật, mà đặc trưng của nghệ thuật là sự đa dạng, phong phú. Hãy cứ để cho mọi tài năng, mọi khuynh hướng được tự do nảy nở và phát triển. Đó mới là đổi mới thật sự” (tr. 53). Đây là ý kiến dễ tìm được sự chia sẻ, đồng cảm của cả đồng nghiệp lẫn bạn đọc, nhắc nhở chúng ta tìm cách ứng xử phù hợp với đời sống văn học, nói riêng trong lĩnh vực thi ca, vốn luôn đòi hỏi sự phân tích và lý giải tinh tế, cẩn trọng.

        Khẳng định những tìm tòi, sáng tạo trong thơ Việt đương đại, đồng thời Phạm Quốc Ca tỏ ra điềm tĩnh và thận trọng trước những phá cách mà ông cho là “cực đoan”. Về quan niệm và thị hiếu, ông gần với Ý Nhi, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Thanh Thảo, Nguyễn Duy hơn là Lê Đạt, Hoàng Hưng, Bùi Chí Vinh… Dù vậy, ông vẫn thừa nhận những đóng góp trong các tập thơ Bóng chữ của Lê Đạt, Người đi tìm mặt của Hoàng Hưng, Thơ tình của Bùi Chí Vinh… Phạm Quốc Ca phê phán chủ nghĩa hình thức, nhưng tiếp thu hạt nhân hợp lý của nó và không dội nước lạnh vào những thể nghiệm hình thức. Ông không đồng ý với quan điểm xem vô thức như là nhân tố duy nhất để giải thích những bí ẩn của sáng tạo; nhưng cũng không tán thành những người khăng khăng gạt bỏ vai trò của vô thức và tiềm thức.

         Hình như tư chất nhà giáo góp phần làm nên một nhà phê bình tỉnh táo, kiềm chế mức độ của niềm say mê nơi nhà phê bình Phạm Quốc Ca. Theo thiển ý, phê bình văn học căn bản vẫn phải đề cao tính khoa học trước tính nghệ thuật. Và vì vậy, Phạm Quốc Ca có lý khi ông mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp, đồng thời mở ngỏ những cánh cửa cho sự đối thoại. Hầu hết những bài tiểu luận trong tập này được viết trong giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới. Thực tiễn sáng tác và phê bình cho thấy ý thức xã hội và ý thức văn nghệ vẫn không ngừng vận động và phát triển. Hành trình sáng tạo của Phạm Quốc Ca cho thấy ngòi bút sáng tác và phê bình của ông không dừng lại mà tiếp tục chiêm nghiệm trên con đường đi tới của văn học.

Huỳnh Như Phương

Lời tựa sách Thơ và mấy vấn đề văn học, Tiểu luận phê bình của Phạm Quốc Ca, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 12-2016.

Nhà thơ, Tiến sĩ Phạm Quốc Ca (1952-2023)– Nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Lâm Đồng khóa V (2012 – 2017), nguyên Trưởng khoa Ngữ văn Trường Đại học Đà Lạt đã từ trần lúc 3 giờ 30 sáng nay 7/2 tại nhà riêng. 

Báo Lâm Đồng

 

Thông tin truy cập

63696937
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
17229
23426
63696937

Thành viên trực tuyến

Đang có 190 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website