Khi những khu rừng đang biến mất, khi trái đất nóng lên từng ngày, khi con người phải đối diện với cơn giận dữ khủng khiếp từ thiên nhiên, khi dịch bệnh bùng phát ở quy mô toàn cầu, văn chương đã ở đâu? Khi những nền văn minh rực rỡ huy hoàng vụt tắt, khi những khác biệt văn hóa có nguy cơ bị đồng hóa vào các “hố đen” trung tâm, khi con người trở thành kẻ thù số một của tự nhiên, văn chương đã ở đâu? Một bước tiến của văn minh, phải chăng là một bước lùi của văn hóa? Sự sung sướng trong ý nghĩa vật chất đã lấy đi niềm hạnh phúc, tốt đẹp vốn hình thành từ bản nguyên tinh thần của loài người, văn chương đã làm gì để bảo trì những giá trị thiêng liêng ấy? Những câu hỏi cứ đặt ra và không ngừng truy vấn con người trong kỉ nguyên hậu công nghiệp. Các khái niệm sống xanh, kiến trúc xanh, nghiên cứu xanh, viết xanh… đã phần nào nói lên xu hướng hối lỗi của con người với tự nhiên, nhằm cứu vãn thực tại khủng hoảng sinh thái hiện nay.

Khủng hoảng sinh thái đang trở thành vấn nạn toàn cầu và con người phải chịu trách nhiệm về những biến đổi khủng khiếp mà mình gây ra. Văn chương, có thể không đề ra chính sách, trực tiếp giải quyết được vấn nạn đó, nhưng nó tác động đến tư tưởng, tình cảm, thái độ của con người với môi trường sống. Tiểu luận này hướng đến mô tả sự hiện diện (ngầm ẩn) của dòng văn học môi trường như là một dáng vẻ của dòng “văn học thế giới” (David Damrosch) từ phía Việt Nam, đặc trưng của văn học sinh thái, những biểu đạt sinh thái trong văn chương, tương lai của văn học môi trường ở Việt Nam, hình dung về một tác phẩm văn học sinh thái có giá trị. Văn học sinh thái, trong ý thức hiện diện của nó, không chỉ là viết về môi trường sinh thái mà rộng hơn là vấn đề phát triển hài hòa của con người trong sự thương thỏa với tự nhiên…

Theo quan sát và nhận định của giới nghiên cứu, ở Việt Nam hiện nay chưa hình thành một dòng văn học sinh thái đúng nghĩa, mà mới chỉ manh nha, tự phát hoặc ngầm ẩn trong các tác phẩm. Vấn đề này cũng cần được hình dung linh hoạt hơn khi có thể các tác giả đã ý thức được vấn đề khủng hoảng môi trường sinh thái nhưng chưa/ không tuyên ngôn một cách cụ thể. Ở Việt Nam cũng chưa hình thành chính thức một lực lượng “viết xanh” với tác giả và tác phẩm cụ thể, có tôn chỉ hay khuynh hướng rõ ràng. Mặc dù, có thể điểm ra đây những tác giả như Sơn Nam, Đoàn Giỏi, Tô Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Y Ban, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Quang Thiều, Đỗ Tiến Thụy, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thế Hùng, Nguyễn Văn Học… nhưng điều đó cũng không nói lên một cách thuyết phục về sự hiện diện của dòng văn học sinh thái như là một thành tựu minh chứng cho tinh thần “lấy tự nhiên làm trung tâm”.

Kì thực, trong hầu hết các tác phẩm văn học, sinh thái vẫn được trưng dụng như là cảnh quan mật thiết cho việc triển khai cốt truyện, sự kiện, tư tưởng. Bối cảnh của tác phẩm dù là tự nhiên hay nhân tạo, dù rừng ruộng hay thị thành, dù phê phán hay quảng bá, ca tụng… đều ít nhiều thể hiện sự quan tâm của nhà văn đến môi trường sinh thái xung quanh.Và nếu như thế, không nhà văn nào có thể tách mình ra khỏi môi trường, cảnh quan được. Điều đó đồng nghĩa với khả năng to lớn của văn chương trong việc biểu đạt các bận tâm sinh thái.

Để hình dung về các vấn đề được nêu lên ở trên, trước hết cần hiểu thế nào là văn học sinh thái. Văn học sinh thái “là cách định danh thời nay đối với những tác phẩm văn học ra đời trong bối cảnh môi trường sinh thái ngày càng xấu đi, nội dung của chúng thể hiện trách nhiệm xã hội của người viết đối với vấn nạn này” (Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội Nhà văn, 2017, tr. 5). Như thế, nội hàm của khái niệm văn học sinh thái đặt ra hai đòi hỏi, cũng có thể xem là hai phạm trù căn bản của một tác phẩm văn học sinh thái: một là: thể hiện được thực tại sinh thái; hai là: có ý thức tôn trọng sinh thái, lấy sinh thái làm trung tâm. Hai phạm trù này phải bao trùm được các vấn đề chủ yếu, có thể xem là đặc trưng của văn học sinh thái: thứ nhất: cảnh báo thực tại sinh thái; thứ hai: phê phán thái độ, hành động hủy hoại môi trường sinh thái; thứ ba: chấn chỉnh hay làm sáng tỏ các mơ hồ sinh thái trong cộng đồng (từ góc độ văn học, văn hóa); thứ tư: khơi dậy, thúc đẩy, hiện thực hóa các vấn đề thuộc về nhận thức, đức tin, đạo đức hay hành động của con người. Căn cứ vào những đặc trưng này, rõ ràng ở Việt Nam, các tác phẩm văn học sinh thái khá hiếm hoi. Mặc dù vậy, ngầm ẩn hoặc ở các mức độ không hoàn toàn đáp ứng yêu cầu về thể tài, vẫn có khá nhiều tác giả, tác phẩm liên quan mật thiết đến môi trường sinh thái.

Theo đó, chúng ta có thể điểm ra ở đây, trên các thể loại: Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi, Con voi ở công viên Thủ Lệ của Ngô Văn Phú, Chuyện ông Móng, Muối của rừng của Nguyễn Huy Thiệp, Cẩm cù của Y Ban, Thần thánh và bươm bướm của Đỗ Minh Tuấn, Kẻ ám sát cánh đồng, Châu thổ, Có một người rời bỏ thành phố của Nguyễn Quang Thiều, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Màu rừng ruộng của Đỗ Tiến Thụy, Họ vẫn chưa về của Nguyễn Thế Hùng, Mình ơi anh cưới dòng sông nhé, Linh điểu của Nguyễn Văn Học,…

Có một thực tế, văn chương biểu đạt về thực trạng khủng hoảng môi trường sinh thái nảy sinh khi chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc phát triển mạnh mẽ cùng nền văn minh công nghiệp. Do vậy, không phải bất kì tác phẩm nào liên quan đến môi trường, cảnh quan đều là văn học sinh thái. Trong các nghiên cứu xanh, giới khoa học chỉ ra rằng, những tác phẩm phơi bày thực trạng môi trường bị hủy hoại; chất vấn trách nhiệm của con người; xem xét lại tư tưởng con người là trung tâm, dịch chuyển sang quan niệm sinh thái là trung tâm; kêu gọi trở về với thiên nhiên, tụng ca thiên nhiên… được xem là đặc trưng của văn học sinh thái (sáng tác và nghiên cứu).

Như thế, tiêu chí để đánh giá một tác phẩm văn học sinh thái có giá trị bao hàm cả hai phương diện: nghệ thuật văn chương và tinh thần sinh thái. Về khía cạnh giá trị văn chương (có tính lịch sử), những tác phẩm vừa nêu có thể là một tham chiếu cần thiết. Tuy nhiên, có thể nhận thấy hầu như không có tác giả nào lên tiếng tuyên bố về con đường văn chương sinh thái của mình (gần đây Nguyễn Văn Học mới có ý thức này một cách rõ nét hơn qua tác phẩm và một số phát biểu trên báo chí). Từ trong tư tưởng, tư duy nghệ thuật của các nhà văn, ý thức sinh thái vẫn chưa phải là thường trực.

Họ (nhà văn) cảm nhận được sự biến đổi của môi trường, nhận thấy những vấn đề sinh thái hiện diện trong chính đời sống xung quanh (thời tiết, dịch bệnh, cảnh quan biến đổi theo chiều hướng tiêu cực…) nhưng điều đó chưa thực sự trở thành nỗi khắc khoải sâu sắc, triền miên, sống còn. Chính trạng thái tinh thần đó mới tạo nên những diễn ngôn nghệ thuật về sinh thái có giá trị. Những mạch ngầm của tinh thần sinh thái dần được hé lộ khi các nghiên cứu xanh, phê bình sinh thái bắt đầu hiện diện trong đời sống văn học đương đại.

Một số nghiên cứu của Trần Thị Ánh Nguyệt (Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam từ sau 1975 dưới góc nhìn phê bình sinh thái), Nguyễn Thị Tịnh Thy (Rừng khô, suối độc, biển cạn… và văn chương), Hoàng Tố Mai (Những ký ức về nông nghiệp truyền thống “lạc hậu” trong một số tác phẩm văn học Việt Nam đương đại), các công trình dịch thuật, giới thiệu lí thuyết phê bình sinh thái của Đỗ Văn Hiểu, Trần Ngọc Hiếu, Đặng Thái Hà, hội thảo quốc tế Phê bình sinh thái tiếng nói toàn cầu, tiếng nói bản địa… đem đến những hiểu biết căn bản hơn về văn học sinh thái và phê bình sinh thái, nghiên cứu xanh, viết xanh trong bối cảnh khủng hoảng môi trường toàn cầu.

Mặc dù, nhấn mạnh đến khía cạnh sinh thái, bao gồm việc phản ánh, cảnh báo, giải tỏa những mơ hồ sinh thái hoặc mở rộng vấn đề môi trường sinh thái nhân văn, mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, văn minh và hoang dã, văn hóa và sinh học… nhưng các thực hành phê bình sinh thái vẫn chưa phản ánh hết các bình diện giá trị của một tác phẩm văn học sinh thái. Điều đó đặt ra thách thức nhưng cũng là cơ hội, tương lai của văn học sinh thái và phê bình sinh thái (bao gồm các biểu đạt sinh thái khác, từ văn chương đến nghệ thuật và kiến tạo thực tại sống…), bởi viết xanh trong khủng hoảng môi trường ngày càng trầm trọng có lẽ sẽ trở thành một câu chuyện lớn của văn chương thế giới.

Viết xanh là một khái niệm chỉ những diễn ngôn lấy sinh thái làm trung tâm (cả sáng tạo và nghiên cứu). Tuy nhiên, đứng trước các diễn ngôn về sinh thái, mối hoài nghi về thực tại được tạo dựng trong các diễn ngôn ấy lại nảy sinh. Tự nhiên trong tác phẩm văn học là thực tại được tạo dựng, được tưởng tượng ra hay là tự nhiên như nó vốn có, bên ngoài các diễn ngôn – hệ thống kí hiệu biểu nghĩa? Có gì nằm ngoài diễn ngôn? Sự thực, bất kì một diễn ngôn nào cũng là một tạo dựng đã làm cho tự nhiên không còn là chính nó nữa. Viết về tự nhiên là một hư cấu về tự nhiên.

Giới khoa học đã tỉnh táo chỉ ra rằng: “Tự nhiên” thuộc về văn hóa” (Phê bình sinh thái là gì?, tr. 58). Trong những tạo dựng này, một vấn đề khá quan trọng, quyết định đến giá trị của tác phẩm văn học sinh thái chính là sự hiện diện của những “mơ hồ sinh thái” như Karen Thornber đã chỉ ra. Mơ hồ sinh thái trong diễn giải của Karen Thornber là sự mâu thuẫn giữa lí tưởng và thực tại, giữa đức tin và hành động, mơ hồ trong cách con người diễn giải về mối quan hệ giữa con người và tự nhiên.

Một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp (Chuyện ông Móng, Muối của rừng), Y Ban (Cẩm cù), Nguyễn Thế Hùng (Họ vẫn chưa về)… đề cập đến những câu chuyện sinh thái, mà trong đó, sự mơ hồ của con người đã dẫn đến những hình dung sinh thái đầy mâu thuẫn. Hoàng Tố Mai trong một nghiên cứu về truyền thống nông nghiệp lạc hậu thể hiện trong tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Y Ban đã chỉ ra, sự mơ hồ về cái bẩn đã dẫn đến những ảo tưởng về cái sạch. Truyền thống nông nghiệp lạc hậu sử dụng cái bẩn (phân người) trong canh tác không phải là căn cứ để quy ước về cái bẩn của nông sản. Cũng như, những trang trại hiện đại, bóng lộn chưa chắc đã là một cam kết về cái sạch trong sản phẩm của họ.

Tương tự, việc thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên tránh khỏi sự lạm dụng của con người đôi khi lại mang đầy dấu ấn nhân tạo (chưa nói đến những hành động nhân danh bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên nhưng thực chất là hủy hoại, tàn phá thiên nhiên). Trong một nghiên cứu công phu về văn học sinh thái, Karen Thornber đã chỉ ra rằng: “Điều quan trọng và thực sự cấp thiết là phải phân tích xem văn học, trong ý nghĩa là một dạng thức diễn ngôn đã có sự giải quyết như thế nào trước những nguyên nhân và hậu quả của quá trình phá hủy hệ sinh thái một cách thản nhiên” (Phê bình sinh thái là gì?, tr. 275).

Sự giải quyết của văn học sinh thái không giống cách giải quyết của hệ thống hành chính công hay các hoạt động vì môi trường khác. Như đã nói, văn học sinh thái giải quyết vấn nạn này bằng sự tác động, chi phối, làm thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi của con người đối với môi trường. Làm sáng rõ những mơ hồ sinh thái cũng là nhiệm vụ quan trọng của văn học sinh thái, tạo nên điểm nhìn về giá trị của dòng văn học này. Rõ ràng, những tác phẩm như Đất rừng phương Nam, Chuyện ông Móng, Muối của rừng, Cẩm cù, Thần thánh và bươm bướm, Kẻ ám sát cánh đồng, Có một kẻ rời bỏ thành phố, Cánh đồng bất tận, Họ vẫn chưa về, Màu rừng ruộng, Linh điểu… đã cho thấy giá trị của nó trong việc chất vấn, xem xét hay đề đạt với cộng đồng những ứng xử, hành động thỏa đáng với tự nhiên.

Một điểm khá quan trọng ở đây chính là thái độ và nhận thức trong việc dịch chuyển từ cái nhìn lấy con người làm trung tâm sang lấy tự nhiên làm trung tâm. Tuy nhiên, không phải sự chuyển dịch có tính cực đoan mà xem xét con người như là một thành tố của sinh thái, tìm kiếm sự thương thỏa giữa con người và tự nhiên trong các sáng tạo văn chương (dẫn theo ý của Karen Thornber, Phê bình sinh thái là gì?, tr. 289). Mặt khác, cũng cần ý thức rằng, đôi khi, một tác phẩm văn chương miêu tả hoàn toàn đời sống của con người cũng có thể là một chỉ dấu cho những suy tư, kiếm tìm về sinh thái.

Một tác phẩm hoàn toàn viết về đô thị cũng ngầm ẩn về một thực tại tự nhiên nào đó đã biến mất. Bởi, chính con người là kẻ làm biến đổi sinh thái - không ai ngoài hắn - và đô thị là một tạo dựng có tính xâm lấn mãnh liệt đến cảnh quan tự nhiên. Từ những đặc trưng của văn học sinh thái, có thể hình dung về chiến lược của dòng văn học này trong việc hướng đến tương lai của môi trường sống (bao gồm cả con người và tự nhiên). Nếu nhìn vào các tác phẩm tạm gọi là có hơi hướng, yếu tố sinh thái trong văn chương Việt Nam đương đại, chúng ta nhận thấy căn bản vẫn là những cảnh báo, phản ánh tình trạng môi trường bị hủy hoại (Thần thánh và bươm bướm, Kẻ ám sát cánh đồng, Họ vẫn chưa về, Muối của rừng, Linh điểu…) hay những mơ hồ về sinh thái của con người (Chuyện ông Móng, Cẩm cù).

Tuy nhiên, khi giới nghiên cứu đặt ra cái nhìn xanh vào các diễn ngôn văn chương nghệ thuật, họ gợi lên khía cạnh hài hòa trong sinh tồn giữa con người với tự nhiên. Trong sự giao tranh giữa con người và tự nhiên, văn học sinh thái nhìn thấy nguy cơ “không phải là sự mất đi cái tự nhiên hoang dã đã phủ hào quang trong tưởng tượng, mà đáng kể hơn nữa chính là sự mất mát sự sống thực sự của con người và cả những yếu tố tự nhiên” (Karen Thornber, Phê bình sinh thái là gì?, tr. 349). Bởi vậy, văn học sinh thái với tinh thần viết xanh, nghiên cứu xanh đã thâm nhập đến vấn đề tồn tại của sinh thái toàn cầu, trong đó tự nhiên như là cảnh quan chung mà con người là một thành tố trong cấu trúc sinh thái của hành tinh trái đất.

Đến giờ, có thể nói đang dần hình thành một dòng văn học thế giới với trung tâm là sinh thái môi trường. Văn học Việt Nam sẽ dần tiếp nhận những vận động ấy để thích ứng, đặc biệt là lên tiếng kịp thời trước các biến đổi mau lẹ, nghiêm trọng, ngày càng xấu đi của môi trường. Văn học sinh thái, đặc trưng và quan niệm về giá trị cũng như tương lai của nó ở Việt Nam… bước đầu có thể được hình dung từ những hiện diện ngầm ẩn như đã nói tới ở trên. Qua đó, những liên kết khác về hướng nghiên cứu xanh, viết xanh sẽ được lan tỏa. Sự thực là, từ bản địa tới toàn cầu, trong nguy cơ khủng hoảng môi trường, văn chương nghệ thuật và các biểu đạt lấy tự nhiên làm trung tâm đã cùng chung tiếng nói.

Nguyễn Thanh Tâm

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 11.12.2020.

20201213 15

1. Từ sau năm 1986 và đặc biệt trong khoảng hai thập niên gần đây, dòng tiểu thuyết lịch sử nở rộ với nhiều tác phẩm thú vị, thu hút sự quan tâm của đông đảo bạn đọc, trở thành đối tượng khảo sát của nhiều nhà nghiên cứu. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy hầu hết các ý kiến tranh luận cũng như những công trình nghiên cứu quy mô đều mổ xẻ, đánh giá tiểu thuyết lịch sử dưới ánh sáng của phản ánh luận marxist truyền thống Xô-viết. Tiếp cận tác phẩm dưới ánh sáng lí thuyết phản ánh tất yếu phải đặt ra vấn đề hiện thực, tức là đi vào giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa sử thực và hư cấu, phạm vi và quyền hạn sáng tạo của nhà văn.

Đứng trước truyền thống mĩ học đề cao giá trị hiện thực, các tác phẩm tự sự lịch sử ở nước ta không tránh khỏi cái nhìn đối chiếu văn - sử từ phía người đọc. Một số tác phẩm thổi bùng lên những cuộc tranh luận gay gắt. Đáng chú ý nhất là cuộc tranh luận cuối thập niên 80 về ba truyện lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết của Nguyễn Huy Thiệp. Nội dung cuộc tranh luận chia thành hai luồng ý kiến. Một số phản bác gay gắt sáng tạo của nhà văn, xem đấy là những truyện “chứa không ít sai lầm, lệch lạc” khi xây dựng những chi tiết hư cấu về anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, hoán đổi vai trò lịch sử của Nguyễn Du, Nguyễn Ánh. Những cuộc tranh luận tương tự lại diễn ra với tiểu thuyết Hội thề (2010) của nhà văn Nguyễn Quang Thân. Nhà phê bình Lê Thành Nghị, trong bài “Hội thề” - lịch sử và tiểu thuyết, cho rằng nhà văn có quyền sáng tạo tác phẩm nghệ thuật để lấp đầy “những trang trắng của lịch sử”. Nhà phê bình Hoài Nam, trong bài “Hội thề”, một cái nhìn giải minh lịch sử, cũng cho rằng thành công của cuốn tiểu thuyết nằm ở chỗ tác giả chọn đúng khoảnh khắc lịch sử để phóng trí tưởng tượng của mình giải minh lịch sử, kích thích người đọc hứng thú tìm tòi, suy ngẫm về các khả năng quá khứ và tương lai. Các nhà văn Hà Văn Thùy, Trần Mạnh Hảo, Phạm Viết Đào và nhiều người khác phản đối quan niệm nói trên. Theo họ, viết Hội thề, Nguyễn Quang Thân đã khiếm khuyết ở nhiều thông tin sử liệu, hơn hết là đã làm “sai lệch tinh thần” (ý kiến của Hà Văn Thùy), “sai lệch bản chất sự thật” (ý kiến Trần Mạnh Hảo) lịch sử thời hậu Lê. Cơ sở sự thật mà những người phản đối Hội thề đưa ra là tinh thần đoàn kết chiến đấu, thiện chiến nhưng nhân nghĩa của tướng lĩnh Lam Sơn trong Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi soạn thảo.

Có thể thấy công chúng và giới chuyên môn quan tâm luận bàn chủ yếu quanh vấn đề sử thực và hư cấu. Ở vị trí người sáng tạo, các nhà văn bày tỏ quan điểm của mình qua các cuộc phỏng vấn, bài viết tranh luận. Nhà văn Hoàng Quốc Hải, Thái Vũ ủng hộ quan điểm hư cấu nghệ thuật nhưng cần đảm bảo tính chân thật, không bịa đặt làm méo mó tinh thần lịch sử. Nhà văn Hoàng Quốc Hải, trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn giải phóng (ngày 25-8-2013), khẳng định: “Sự thật lịch sử trong tiểu thuyết lịch sử đáng tin cậy hơn vì nó được giải mã, nó có cuộc sống. Sự thật lịch sử trong lịch sử chỉ là những tín hiệu chứa đựng những thông tin vô cảm. Nhưng trong tiểu thuyết lịch sử nó lại sống động”. Điều này cũng có nghĩa, vai trò phục dựng quá khứ của nhà văn có thể đạt vị trí cao hơn nhà lịch sử. Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh chia sẻ: Bản chất của tiểu thuyết là hư cấu; đối với đề tài lịch sử, nhà văn dùng đặc quyền hư cấu để thể hiện những khả năng có thể xảy ra. Nhà văn Nguyễn Quang Thân, trong bài Đọc tiểu thuyết lịch sử để lấy lại niềm tin, đề cao vai trò hư cấu cũng như tư duy sắc sảo của người viết trong đề tài lịch sử: “Những cuốn tiểu thuyết lịch sử hay không cung cấp sử liệu, sử cứ mà cho độc giả một cái nhìn, một cách sống, một hướng đi được kiểm chứng qua lịch sử”.

Vấn đề sử thực và hư cấu trong tiểu thuyết lịch sử thu hút sự quan tâm, luận bàn của nhiều nhà nghiên cứu. Đáng chú ý là quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Đình Sử trong bài viết Lịch sử và tiểu thuyết lịch sử, khẳng định “lịch sử thực chất cũng chỉ là một thứ diễn ngôn”. Ông tán đồng quan điểm của các lí thuyết gia tân lịch sử, cho rằng “sự thật lịch sử là một khái niệm ẩn dụ, mang tính chủ quan” mà nhà văn thông qua hình thức biểu đạt nghệ thuật kết nối vấn đề của quá khứ với con người và xã hội đương đại. Nhìn lại chặng đường văn học đổi mới, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân, trong bài Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại: phác họa một số xu hướng chủ yếu, cho rằng: “Tiểu thuyết lịch sử phải căn cứ vào sự kiện và nhân vật có thật, cho nên dù có hư cấu thì cũng chỉ có thể tạo ra các sự kiện giống như “chất phụ gia”, cho lịch sử chứ không thể làm sai lệch lịch sử”. Chính vì thế, “hư cấu của tiểu thuyết lịch sử phải có giới hạn”, “không được phép mâu thuẫn với logic của các sự kiện và cốt truyện lịch sử” và “phải lấy tính chính xác làm yếu tố nòng cốt”. Bởi “sự thiếu chính xác có thể sẽ dẫn đến những đánh giá sai lệch và những suy diễn chủ quan, làm cho người đọc hiểu sai lịch sử”.

Tóm lại, trong giới nghiên cứu ở ta tồn tại hai quan niệm về vấn đề sử thực và hư cấu, tương ứng với hai hướng đánh giá giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết lịch sử. Hướng thứ nhất đề cao tính chân thật lịch sử, đòi hỏi tác phẩm văn học tuân thủ nghiêm ngặt sự chính xác thông tin về nhân vật, sự kiện và tinh thần thời đại vốn được lưu trong sử sách chính thống. Điều này đồng nghĩa với quyền sáng tạo của nhà văn bị giới hạn. Hướng thứ hai đề cao yếu tố hư cấu và nghệ thuật tự sự mang lại cho tác phẩm tính hấp dẫn cùng những tầng nghĩa mới mẻ, sâu sắc về con người và đời sống. Những người theo quan điểm này loại ra khỏi quỹ đạo nghiên cứu tự sự lịch sử những tác phẩm “lịch sử hóa” tiểu thuyết hay giáo huấn lịch sử, vì cho rằng chúng không có đóng góp đáng kể thúc đẩy sự phát triển nghệ thuật, thậm chí chưa thể được coi là tác phẩm văn chương. Trong quan niệm này, chân lí nghệ thuật được đề cao, yếu tố hư cấu đi cùng sự thay đổi phương thức tự sự và sự dịch chuyển vị trí trung tâm ý nghĩa (con người cá nhân) được đánh giá như là bước tiến bộ vượt bậc của nghệ thuật tự sự hiện đại. Nói cách khác, dù đề cao hư cấu hay đề cao sử thực đều là những biểu hiện của tư duy “đơn trị”, tuyệt đối hóa một chân lí, một tri thức (lịch sử hoặc nghệ thuật).

Những tranh luận về chúng sẽ kéo dài vô tận, không có hồi kết. Thực tiễn phát triển văn học đòi hỏi được tiếp cận dưới ánh sáng của mô hình tư duy khác: mô hình của cái đa bội, trong đó có lí thuyết diễn ngôn.

2. Quan niệm diễn ngôn đã được đề xuất từ rất sớm. Người đầu tiên đề cập đến diễn ngôn là M. Bakhtin. Tuy không sử dụng chính thức thuật ngữ “diễn ngôn” (discourse) nhưng vấn đề ông đặt ra về lời nói mang nội hàm của thuật ngữ “diễn ngôn” sau này, thậm chí có thể nói chính M. Bakhtin đã truyền cảm hứng cho các lí thuyết gia diễn ngôn theo hướng xã hội học. Ngày nay, lí thuyết diễn ngôn được ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn. Mỗi lĩnh vực tiếp cận diễn ngôn theo hướng riêng. Có nhiều hướng tiếp cận diễn ngôn văn học. Chúng tôi đặc biệt quan tâm hướng tiếp cận phong cách học thể loại của M. Bakhtin và các nhà tự sự học ứng dụng Nga.

Từ những năm đầu thập niên 20 của thế kỉ trước, M. Bakhtin đã đề cập đến vấn đề “lời nói” (tức diễn ngôn) như là một thực thể độc lập, đối lập với ngôn ngữ. Trong tiểu luận Vấn đề các thể loại lời nói (in trong Mĩ học sáng tạo ngôn từ, 1979), M. Bakhtin lí giải: Ngôn ngữ (hệ thống kí hiệu toàn dân) đi vào đời sống thực tiễn qua hành vi phát ngôn. Phát ngôn là “đơn vị thực tế” của giao tiếp lời nói. Cấu trúc của phát ngôn có ba đặc điểm. Thứ nhất, tính ranh giới rạch ròi: dấu hiệu mở đầu và kết thúc tạo khung cho phát ngôn đồng thời xác định sự thay đổi chủ thể lời nói. Thứ hai, tính đối thoại nội tại: thể hiện tinh thần chủ động, tích cực của chủ thể lời nói qua việc cấu trúc phát ngôn như một chỉnh thể hồi đáp có lường trước phản ứng của người nghe. Thứ ba, tính chỉnh thể hoàn kết: thể hiện ở tính cạn kiệt về ý nghĩa sự vật, ý đồ người nói (mời chào, hối thúc hồi đáp) và hình thức kết cấu - thể loại của phát ngôn. M. Bakhtin nhấn mạnh, phát ngôn nào cũng thuộc về một “thể loại lời nói” nào đó, trong một phạm vi sử dụng ngôn ngữ nhất định. Khái niệm “thể loại” ở đây được hiểu như “những loại hình phát ngôn tương đối ổn định”, chịu sự chế định của ba yếu tố: nội dung chủ đề, phong cách và tổ chức kết cấu. Thể loại lời nói rất phong phú, đa dạng. Ông phân biệt hai thể: nguyên sinh (gốc) và phái sinh. Thể nguyên sinh là những lời nói đơn giản trong sinh hoạt thường nhật, ra đời trong điều kiện giao tiếp trực tiếp. Thể phái sinh là lời tư tưởng hệ, ra đời trong điều kiện giao tiếp phức tạp. Văn học là lời phái sinh. Mỗi tác phẩm là một phát ngôn, một diễn ngôn hoàn chỉnh. Lí thuyết thể loại là di sản quan trọng bậc nhất của M. Bakhtin đóng góp cho lĩnh vực nghiên cứu diễn ngôn văn học. Bằng việc xác định thể loại văn học mang bản chất lời nói, ông đã chuyển trọng tâm nghiên cứu diễn ngôn văn học từ hệ thống cấu trúc bề mặt sang hệ thống cấu trúc chiều sâu.

Nói chung, ở “bước ngoặt diễn ngôn”, thế giới được nhìn nhận không phải là thực thể khách quan, độc lập, bất biến, mà như là cái được kiến tạo trong quan hệ giao tiếp năng động. Nghiên cứu văn học dưới ánh sáng của lí thuyết diễn ngôn, trong đó diễn ngôn trần thuật ở vị trí trung tâm, là đặt tác phẩm trong quan hệ giao tiếp, xem hành vi giao tiếp là tiến trình diễn ra đồng thời ở nhiều cấp độ, xem đối tượng tham chiếu thuộc về ý đồ phát ngôn, và nhìn bức tranh thế giới không ngoài bản chất cái được kiến tạo.

3. Trong kỉ nguyên hậu hiện đại, khoa học bác bỏ mối quan hệ có tính chất mô phỏng giữa biểu đạt và quy chiếu, giải phóng các hình thức biểu đạt ra khỏi thực tại. Nó thừa nhận thế giới hiện diện trước chúng ta chỉ là những diễn ngôn thấm đẫm tư tưởng hệ.

Trên tinh thần giải phóng các hình thức biểu đạt ra khỏi hiện thực quy chiếu, lí thuyết tân duy sử (new-historicism) bác bỏ quan niệm lịch sử là đối tượng thuần nhất mà ta có thể tiếp cận một cách trực tiếp và nguyên khối. Lịch sử, theo họ, là cái đa trị, liên tục biến đổi và được điều chỉnh theo những mục đích khác nhau. Hayden White, trong công trình Metahistory: The Historical Imagination in 19th-Century Europe, tước đi đặc quyền diễn giải quá khứ của khoa học lịch sử, xóa nhòa ranh giới giữ sử học và văn học. Theo ông chúng chia sẻ chung các cấu trúc tự sự, ý thức hệ và bản chất ngôn ngữ. Bằng cách so sánh việc tạo lập văn bản lịch sử và sáng tạo văn học, H. White khẳng định tác phẩm lịch sử là “một cấu trúc ngôn từ mang hình thức của diễn ngôn văn xuôi tự sự”.

Như vậy, lịch sử cũng chỉ là những biểu đạt về quá khứ và luôn có nhiều cách biểu đạt về một sự kiện quá khứ. Sẽ là vô nghĩa nếu chúng ta đặt lên vai sử gia nhiệm vụ không tưởng: khám phá sự thật nguyên bản. Nghiên cứu của H. White có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nó không hạ bệ hay giới hạn vai trò của khoa học lịch sử với con người, mà đặt lại vai trò của sử gia: giải phóng con người ra khỏi “gánh nặng lịch sử”, giải phóng hiện tại ra khỏi quá khứ. Với ý nghĩa đó, nghiên cứu của H. White cũng “giải phóng” sử học khỏi địa hạt của cái được gọi là sự thật tuyệt đối, trao quyền tự do diễn giải lịch sử cho nhiều lĩnh vực khác, trong đó có văn học.

Trong bối cảnh giao lưu văn hóa toàn cầu, các lí thuyết văn học phương Tây được giới thiệu rộng rãi ở ta. Lí thuyết diễn ngôn tuy còn nhiều tranh cãi nhưng đã được một số nhà khoa học vận dụng nghiên cứu. Từ bức tranh chung về tình hình nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử ở ta hiện nay, chúng tôi mạnh dạn phác họa những hình dung cần thiết trong nghiên cứu tiểu thuyết lịch sử Việt Nam theo góc nhìn lí thuyết diễn ngôn, như một cách tìm tòi, tiếp bước những thành tựu khởi đầu của học giới.

Trước tiên, cần giới thuyết quan niệm diễn ngôn được sử dụng ở đây. Chúng tôi hiểu thuật ngữ “diễn ngôn” theo quan niệm của V.I. Chiupa trong công trình Tự sự học là khoa học phân tích diễn ngôn tự sự, cũng là quan niệm được các nhà phong cách học thể loại thống nhất. Theo đó, “Diễn ngôn (tiếng Pháp: discours – lời nói) là phát ngôn, hành động lời nói tạo sinh văn bản gồm người nghe bình đẳng với người nói và được xem là “sự kiện giao tiếp tương tác văn hóa xã hội” (Van Dijk) giữa chủ thể, khách thể và người tiếp nhận”.

Là hoạt động giao tiếp, tương tác diễn ngôn có thể diễn ra trực tiếp (khẩu ngữ), hoặc gián tiếp (văn viết). Trong văn viết, người đọc không xuất hiện cụ thể, trực diện mà được chủ thể diễn ngôn hình dung, ấn định vị thế tiếp nhận. Dù ở hình thức nào, cấu trúc giao tiếp của diễn ngôn cũng bức thiết sự tham gia đồng thời của ba yếu tố: người nói/người viết, người nghe/người đọc và đối tượng được nói đến/đối tượng tham chiếu. Ba yếu tố này không tồn tại độc lập. Chúng tương tác, chi phối chiến lược, cấu trúc và nội dung diễn ngôn.

Nghiên cứu diễn ngôn của V.I. Chiupa cho thấy có thể giải mã cấu trúc chiều sâu (cấu trúc thể loại) và nội dung diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử từ bình diện của các thẩm quyền giao tiếp. Xuất phát từ bình diện chủ thể phát ngôn, người nghiên cứu có thể sử dụng lí thuyết thể nguồn để khám phá chiến lược giao tiếp từ đó giải mã thông điệp tác phẩm. Bức tranh thế giới được tiếp cận ở đây như cái biểu đạt của chiến lược giao tiếp. Xuất phát từ bình diện thẩm quyền cái được tham chiếu, người nghiên cứu cần khái quát bức tranh thế giới thành hệ chủ đề, lí giải cơ sở xây dựng hệ chủ đề bằng điểm tựa tạo nghĩa, điểm nhìn định giá, từ đó xác định bản chất thể loại của tác phẩm. Xuất phát từ bình diện thẩm quyền tiếp nhận, người nghiên cứu có thể đi từ hệ chủ đề, phân tích tương quan vị thế giữa chủ thể tiếp nhận và chủ thể phát ngôn. Vấn đề mặt nạ tu từ và bối cảnh thời đại (thiết chế văn hóa xã hội) cũng cần được xét đến, bởi chúng tham gia chi phối ý đồ phát ngôn của chủ thể và xu hướng tiếp nhận.

Với giải mã diễn ngôn tiểu thuyết lịch sử từ bình diện cái được tham chiếu, chúng ta có thể tiếp cận từ ba vấn đề lớn: hệ chủ đề, điểm nhìn định giá và bản chất thể loại. Trước hết, xác định hệ chủ đề bằng cách quan sát và phân tích bức tranh thế giới, mà thực chất là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Bản chất lịch sử là gì? Trong phân tích diễn ngôn, chúng ta hiểu bức tranh thế giới của tác phẩm không phải và không thể là thế giới thực, mà chỉ là mô hình về thế giới được xây dựng trên một điểm tựa tạo nghĩa nhất định do nhà văn lựa chọn. Quan niệm này đưa chúng ta thoát khỏi việc quy chiếu sơ giản ý nghĩa tác phẩm. Cần lưu ý, hệ chủ đề không phải luôn trùng khớp với thông điệp mà chủ thể phát ngôn muốn truyền tải tới người tiếp nhận. Ở tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh chẳng hạn, hệ chủ đề xử thế đối lập, xung đột là một biểu đạt về căn tính dân tộc và những bước đi huyền diệu của hồn đất, hồn nước. Tiếp theo, ta xác định hệ chủ đề tác phẩm được kiến tạo trên điểm nhìn định giá nào, mà từ đó chủ thể phát ngôn phóng chiếu giá trị vào bức tranh thế giới. Giải quyết vấn đề điểm nhìn tức là trả lời câu hỏi: Lịch sử được kiến tạo theo cách nào? Ví dụ, hệ chủ đề tiểu thuyết lịch sử của Hoàng Quốc Hải (Bão táp triều Trần, Tám triều vua Lý) là quyền lực với điểm tựa tạo nghĩa mẫu gốc “cha”. Hệ chủ đề này được xây dựng trên điểm nhìn định giá: sự ưu thắng của lập trường quốc gia. Lịch sử, bằng cách ấy, được kiến tạo như hành trình của các sự kiện quốc gia. Hệ chủ đề tư tưởng xử thế trong tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh được xây dựng trên điểm nhìn định giá của nguyên tắc lưỡng cực âm - dương. Lịch sử, theo đó, được kiến tạo như là hành trình của các tư tưởng xử thế. Cuối cùng, từ hệ chủ đề và điểm nhìn định giá, chúng ta xác định bản chất thể loại của Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng ngàn, Đội gạo lên chùa là dụ ngôn. Đi vào vấn đề bản chất thể loại tức là trả lời câu hỏi về hạt nhân cấu trúc của tiểu thuyết lịch sử.

Để làm sáng tỏ cấu trúc diễn ngôn ở bình diện cái được tham chiếu, chúng ta có thể vận dụng các quan niệm về thể loại lời nói của M. Bakhtin, quan niệm về thể nguồn của N.D. Tamarchenco, quan niệm về chiến lược giao tiếp của V.I. Chiupa... Mặt khác, diễn ngôn trong giao tiếp là cuộc hành trình của các mã (tư tưởng hệ, văn hóa, thể loại…). Với đối tượng như thế, người nghiên cứu không thể sử dụng thống nhất và duy nhất một lí thuyết. Sự phát triển đa dạng, phức tạp của văn học trong kỉ nguyên hậu hiện đại đã cho thấy không có một lí thuyết nào đa năng, có thể tồn tại độc lập mà không tiếp thu, cộng hưởng các lí thuyết khác. Với đối tượng phức tạp như diễn ngôn, chúng ta có thể kết hợp vận dụng các hướng tiếp cận khác về diễn ngôn như: kí hiệu học văn hóa của Iu. Lotman, xã hội học diễn ngôn của M. Foucault, thi pháp học thể loại của G.N. Pospelov, lí thuyết liên ngành như phân tâm học của C.G. Jung.

Tóm lại, tiếp cận tiểu thuyết lịch sử dưới ánh sáng lí thuyết diễn ngôn là con đường góp phần giải phóng sử học ra khỏi tư duy quy phạm, đồng thời mở rộng quyền hạn, phạm vi sáng tạo của văn học về lịch sử, cũng là bình đẳng hóa các loại hình diễn ngôn trong vai trò diễn giải quá khứ, kiến tạo tri thức về con người và thế giới.

Lê Thị Gấm

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 04.11.2020.

  
Bản ngã tự khẳng định trong khi tự đối lập
Hegel
Ở Việt Nam, trong nghiên cứu văn học, không hiểu từ bao giờ, người ta luôn xếp lý luận vào chiếu nhất, còn phê bình ở chiếu bét. Có thể lý luận là độc quyền của một cơ quan quyền uy nào đó, hoặc của những đầu óc có tư duy trừu tượng. Vì sang cả như vậy, nên lý luận luôn hấp dẫn những đầu óc mộng mơ. Trần Đình Sử và tôi đều xuất thân ngoại ngữ, cái cửa sổ để mơ mộng thế giới. Hẳn vì vậy, anh và tôi cùng ham thích lý thuyết. Bất cứ một hiện tượng văn học nào cũng được chúng tôi nhìn từ cạnh khía lý thuyết. Có điều Trần Đình Sử, làm nghề giảng dạy lý luận, đi từ lý thuyết đến tác phẩm, còn tôi, một đãng tử đọc sách, đi từ tác phẩm đến lý thuyết, đúng hơn luận thuyết. Bởi vậy, Trần Đình Sử làm lý luận văn học, còn tôi làm phê bình.
Về tuổi đời, Trần Đình Sử chỉ hơn tôi tám, nhưng tuổi nghề, anh hơn tôi cả mấy chục. Anh thuộc thế hệ đàn anh. Trong sự phát triển tăng tốc của thế kỷ XX, “một năm có thể bằng ba mươi năm” (Vũ Ngọc Phan), thì thời điểm xuất hiện của một tác giả có nhiều ý nghĩa. Nguyễn Đình Thi tuổi cũng xấp xỉ các nhà Thơ mới, nhưng chỉ đến đầu kháng chiến chống Pháp mới xuất hiện, nên ông đã thuộc về một thế hệ nhà thơ khác. Trong phê bình cũng vậy, xuất hiện vào thời đầu Đổi mới, bị hấp dẫn bởi các vấn đề chính trị văn học, hay xã hội học văn học, lại tìm thấy những đáp án ngon ăn ở lý luận Nga – Xô viết, nên nhiều nhà phê bình, dù thông minh có thừa, sau Đổi mới thì không tự đổi mới được nữa. Hẳn họ không vượt qua nổi những “người thầy đầu tiên.” Tuy vậy, người thuộc thế hệ sau muốn đi lên phía trước, quả thực phải biết vượt gộp, tức phải kinh qua những gì mà người đi trước đã qua, không phải để bỏ lại mà gộp chúng vào hành trang của mình như một trải nghiệm riêng thuộc.
Vỡ lòng phê bình của tôi được học những bài học hay. Đầu tiên là cuốn Phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều (1985) của Phan Ngọc. Nhờ ông mà tôi vượt thoát khỏi cái quan niệm văn là người (Phong cách, chính là con người) của Buffon, mà anh Nguyễn Đăng Mạnh đã nhiều gặt hái, và đến nay không ít người còn đang mót lại, để đến với khái niệm phong cách ngôn ngữ, hoặc rõ hơn phong cách là/bằng ngôn ngữ. Phan Ngọc đã chứng minh một cách thuyết phục cho cái định nghĩa của ông, phong cách là sự lựa chọn. Tuy nhiên, với tôi thì định nghĩa ấy quá lỏng, nên trong công trình của mình, Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, tôi nêu ra một định nghĩa khác, dễ thực hành hơn: Phong cách là sự lệch chuẩn. Tôi còn thấy ở cuốn sách ấy, Phan Ngọc còn khá máy móc, do coi sáng tác như một quy trình sản xuất, đẩy thao tác thành thao tác luận, đẩy nghệ thuật thành thủ công. Tôi có viết một bài phê bình, gửi Lại Nguyên Ân bấy giờ đang trông coi mục lý luận phê bình thay chị Thiếu Mai ở báo Văn Nghệ thời Nguyên Ngọc. Một vài ngày sau, anh Ân đem trả lại: ông Phan Ngọc là người đổi mới, chúng tôi ủng hộ những ai Đổi mới, vậy mà bài của cậu lại có vài điểm chê ông Phan Ngọc. Tôi kể chuyện này cho ông hàng xóm cùng phố Lê Phụng Hiểu của tôi, nhà thơ Trần Nguyên Vấn, anh bèn gửi vào cho Nguyễn Khoa Điềm đăng trên tạp chí Sông Hương.
Một vỡ lòng khác là Thi pháp thơ Tố Hữu (1987) của Trần Đình Sử. Anh Sử đã giải quyết giúp tôi vấn đề Nội dung và Hình thức, một vấn nạn hãm bước văn học Việt Nam, làm cho sáng tác thì suy nghệ thuật, phê bình thì suy học thuật. Trong lúc người ta còn kinh sợ hình thức, coi hình thức như một cấm kỵ, thì Trần Đình Sử tuyên bố đối tượng của thi pháp học chính là hình thức, tuy nhiên không phải bất kỳ hình thức nào, mà hình thức có tính quan niệm, cái thống nhất giữa nội dung và hình thức. Trước đây, anh Nguyễn Đăng Mạnh cũng hay dẫn Belinski nói hình thức thống nhất với nội dung. Nhưng quan trọng là thống nhất như thế nào và thao tác hóa nó ra sao thì anh không nói đến/được. Tuy nhiên, hình thức có tính quan niệm cũng còn ít nhiều trừu tượng, khó thao tác hóa so với các cặp khái niệm khác như vật liệu và cấu trúc, vật liệu và hình thức, vật liệu và phong cách. Nhất là so với sự lưỡng phân triệt để của nhà ngữ học cấu trúc Đan Mạch Hjelmslev: nội dung thì chia thành nội dung của nội dung và nội dung của hình thức, hình thức cũng chia thành hình thức của hình thức và hình thức của nội dung. Như vậy, nội dung của nội dung là tài liệu, hình thức của hình thức là vật liệu, đều là những thứ phi nghệ thuật, còn nội dung của hình thức và hình thức của nội dung là nghệ thuật, đối tượng thực sự của phê bình văn học.
Giữa những năm 80, thấy tôi còn bức xúc về những cuốn sách dịch mà không/chưa được in, hoặc khi in được thì lại bị chôm chỉa, anh Nguyễn Đăng Mạnh, bạn vong niên của tôi, bảo: Thúy nên bỏ dịch chuyển sang viết phê bình, hay chí ít phê bình sự phê bình. Kìa, Phạm Mạnh Hùng dịch đến hơn 20 cuốn tiểu thuyết mà mấy ai biết đến đâu, còn cậu Suyền (GS. Trần Đăng Suyền) chỉ mới viết có một bài về Mưa mùa hạ của Ma Văn Kháng mà đi đâu cũng được cánh nhà văn săn đón. Hay như cậu Sử (GS. Trần Đình Sử) mới ở Nga về chỉ cần một bài Thời gian nghệ thuật trong truyện Kiều (Tạp chí Văn học, 5-1981) mà danh nổi như cồn. Dù thích thi pháp học, nhưng nghe anh Mạnh nói thế tôi cũng chỉ biết thế. Đến khi Trần Đình Sử có hẳn một chuyên luận về thi pháp, dẫu rằng thi pháp của thơ Tố Hữu, thì tôi không thể không viết. Nhất là chị Thiếu Mai hứa đăng. Thi pháp học, có thể nói, mang đến một cái nhìn khác về thơ Tố Hữu so với những nhà “Tố Hữu học” trước đó, thậm chí khác cả với sự hình dung của chính Tố Hữu về thơ ông. Xưa nay, Tố Hữu vẫn theo đuổi ngôi vị nhà thơ của các nhà thơ, tức ngồi vào tất cả các chiếu, nay thi pháp học Trần Đình Sử chỉ cho ông ngồi một chiếu, dù là chiếu nhất: thơ trữ tình chính trị, thì hẳn chẳng làm ông hài lòng. Bằng chứng là sự “mần thinh” không phản ứng gì của Tố Hữu, khi nhà xuất bản long trọng mang sách đến biếu tặng. Điều này liệu có thể làm Trần Đình Sử bất ngờ? Nhưng với tôi, chỉ riêng việc đưa thi pháp học vào Việt Nam, một xã hội trọng tĩnh, “bốn nghìn năm ta vẫn là ta,” đã là một đóng góp của Trần Đình Sử, còn thơ Tố Hữu, hoặc chính Tố Hữu, xét cho cùng, chỉ là dẫn liệu, một công cụ truyền tải.
Sự thành công của Thi pháp thơ Tố Hữu đã nảy ra nhiều ý kiến: học thuật có, ghen tỵ có, ghen tỵ núp dưới vỏ bọc học thuật cũng có. Trước hết là sự dè bỉu: thi pháp học có gì là mới mà phải ầm ĩ thế? Cách đây hơn hai nghìn năm đã có rồi! Trong bài viết của mình tôi đã phải “cãi” cho Trần Đình Sử, đúng hơn cho tôi, rằng cần phân biệt thi pháp học cổ điển từ Aristotle và thi pháp học hiện đại khởi từ trường phái hình thức Nga. Một đằng là thi pháp học quy phạm, dạy nhà văn viết ra những tác phẩm đúng, còn đằng kia là thi pháp học miêu tả, nghiên cứu văn bản theo cách dựng mô hình. Thi pháp học của Trần Đình Sử là thi pháp học hiện đại. Tuy nhiên, so với thi pháp học phương Tây, hoặc chính trường phái hình thức Nga, thì thi pháp học Nga - Xô viết có vẻ thiên về nội dung hơn, nên dễ lẫn với xã hội học văn học. Không phải không có lý khi La Khắc Hòa gọi đó là “thi pháp học nội dung.” Do không phân biệt được sự khác về nguyên tắc này của thi pháp học hiện đại so với thi pháp học cổ điển, nhất là không coi thi pháp học hiện đại là một lý thuyết văn học, nên số đông người tưởng rằng chỉ cần tiếp thu các thủ pháp là đủ. Sự “ngắt ngọn” này biến thi pháp học nhanh chóng trở thành thời thượng. Người người thi pháp, nhà nhà thi pháp. Đến nỗi xuất hiện những cuốn sách chẳng thi pháp tẹo nào cũng trưng biển thi pháp. Trần Đình Sử, dĩ nhiên, chẳng phải chịu trách nhiệm gì vì cái hội chứng thi pháp này. Ông thuộc thế hệ đầu tiên đưa thi pháp học vào Việt Nam, uống lý thuyết tận nguồn và thực hành phê bình với nhiều sáng tạo. Còn các thế hệ F2, F3, F4 sau ông, thì hầu như chỉ dùng lại nguồn nước của ông, khi các khái niệm công cụ đã trở nên sờn mòn. Hơn nữa, ăn theo cũng là một tệ chung của tư duy Việt Nam. Nó biến một luận thuyết nghiêm túc, khó nuốt nhanh chóng trở thành mì ăn liền: học thật thành học giả, thi pháp học thành thi phét học (từ của Phương Lựu).
Hiện nay, nhiều người đòi “xét lại” Thi pháp thơ Tố Hữu của Trần Đình Sử. Anh Phạm Vĩnh Cư hỏi một câu hỏi tu từ: Thơ dở cũng có thi pháp học à? Thực ra, thơ Tố Hữu không dở, mà thơ ông là “ngọn cờ đầu” cho một kiểu thơ dở, thơ tuyên truyền chính trị hay cổ động chính sách. Nhiều người thắc mắc tại sao Trần Đình Sử lại chọn thơ Tố Hữu, liệu còn có động cơ nào ngoài học thuật? Tôi nghĩ, vào thời điểm ấy chọn thơ Tố Hữu làm dẫn liệu cũng dễ hiểu. Thơ ông là lớp đường bọc viên thuốc đắng thi pháp học để cho những cái miệng ưa của ngọt dễ nuốt. Hơn nữa, thơ Tố Hữu đã được nhiều nhà Tố Hữu học mài miệt viết, công trình nhiều vô số, nay Trần Đình Sử tiếp cận thơ ông từ thi pháp học thì bạn đọc qua so sánh dễ thấy được thành công mới do phương pháp mới đưa lại. Hơn nữa, ngoài Thi pháp thơ Tố Hữu, Trần Đình Sử còn có Thi pháp Truyện Kiều (2002, 2018), Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam (1989), Dẫn luận thi pháp học (1998, 2004), Dẫn luận thi pháp học văn học (2017). Ngoài ra, Trần Đình Sử còn có Tự sự học, lý thuyết và ứng dụng (chủ biên, 2017), rồi dịch (chung) Những vấn đề thi pháp Dostoievsky (1993), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (1990), Bốn bài giảng về mỹ học (2004)…
Như vậy, đóng góp của Trần Đình Sử trong việc giới thiệu lý thuyết văn học thế giới và ứng dụng vào văn học Việt Nam là hết sức quan trọng. Ông lại là giáo sư đầu ngành, đào tạo ra nhiều học trò có cương vị công tác, nên mỗi thành tựu phê bình mới mẻ của ông lập tức truyền vào các thế hệ học trò theo kiểu xòe quạt. Cách đây hơn chục năm, tôi có hướng dẫn một học viên cao học làm luận văn thạc sĩ về Đóng góp của Trần Đình Sử trong Nghiên cứu và Phê bình Thi pháp học. Có người trong hội đồng chấm đề cương hỏi tôi: Sao Trần Đình Sử “đánh” ông như thế mà ông vẫn cho học viên làm luận văn về ông ta? Tôi trả lời rằng mình đủ tự tin để phân biệt được chuyện gì thuộc về cá nhân, chuyện gì thuộc về học thuật. Thành công học thuật của Trần Đình Sử cần phải được nghiên cứu, lý giải, để làm bài học kinh nghiệm cho thế hệ sau. Hơn nữa, tại sao nhiều nhà văn nhà thơ chỉ thuộc bàn nhì, thậm chí bàn ba, cũng đã là đối tượng cho các luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ mà một nhà phê bình đầu ngành hiện nay như Trần Đình Sử lại không xứng một luận văn thạc sĩ? Người trong ngành còn tự mình rẻ rúng mình như vậy thì thử hỏi sao cánh ngoài ngành, như sáng tác chẳng hạn, tôn trọng? Qua việc hướng dẫn này, trước/trên hết tôi muốn tôn trọng nghiệp phê bình văn học của tôi.
Thực ra, tôi không được/bị học văn một cách chính quy/thống, mà từ ngoại ngữ/vi xé rào sang, nên để chứng minh dẫu mình là kẻ “ngoại đạo” vẫn làm được việc, tôi phải tìm cách tự học. Một trong những cách “tự sinh tự diệt” đó là tìm người để đối thoại, có những người đối thoại theo trường hợp, theo giai đoạn, nhưng cũng có những người đối thoại suốt đời. Mà đối thoại tốt nhất là đọc, suy nghĩ và viết. Trần Đình Sử được tôi chọn là người đối thoại. Một đối trọng học thuật. Đối trọng là để tìm ra điểm yếu của mình mà tự vượt mình, chứ không phải để vượt qua người mình lấy làm đối trọng. Nhưng, có thể, chính anh hoặc đám đồ đệ đông đảo quanh anh tưởng tôi là kẻ đối lập, nên cũng nhiều lúc “cái bấc ném đi hòn chì ném lại.” Có một buổi tối, nghe tiếng chuông điện thoại reo, tôi nhấc máy lên, một giọng hùng hổ chửi: Mày là thằng nào mà dám chê Hoàng Ngọc Hiến. Mày xách dép cho ông Hiến có đáng không? Tôi sững người chưa kịp hiểu mô tê gì thì máy cúp. Chả là mấy hôm trước báo có đăng một bài viết của tôi về những nghịch lý của Hoàng Ngọc Hiến, một đối trọng khác của tôi, rằng anh Hiến cả đời nghiên cứu triết học, muốn trở thành một triết văn, một trí thức hàn lâm, nhưng anh lại thích và chỉ thành công như một trí thức bình dân với các phát ngôn gây sốc (văn học phải đạo, cái nước mình nó thế!). Tôi hình dung trong một cuộc bia bọt, có ai đó nhắc đến bài viết của tôi về anh Hiến, thế là tất cả cái mồm nhao lên thằng Thúy láo quá, phải cho nó một bài học. Rồi cái mồm nhiều bọt bia nhất rút điện thoại ra. Có điều nó vẫn rất tỉnh táo, vì chỉ gọi điện thoại bàn và cũng chỉ chửi ngắn. Với Trần Đình Sử cũng vậy. Anh nhiều lần gọi đến tôi cật vấn sao Thúy lại bảo mình là phê bình ngắt ngọn? Tại sao Thúy nói xấu mình trong bài viết về thơ Không Lộ thiền sư? Tôi bình tĩnh thanh minh và chứng minh ngay cho anh rằng tôi không đời nào mà làm điều ấy. Chắc anh lại nghe xúi bẩy. Anh bảo mình chưa đọc nhưng vừa nghe anh Ất anh Giáp gọi điện mách. Tôi vốn có nhiều kẻ ghét ít người ưa nên không lấy làm lạ chuyện này. May anh Sử tính nóng, cả tin, nhưng rất thấu tình đạt lý, nên nhanh chóng hiểu chuyện. Từ lọt lòng chúng ta đã được dạy sống là đấu tranh, và muốn đấu tranh thì phải có kẻ thù, nếu không có kẻ thù thì phải tạo ra kẻ thù. Nên người ta không hề có khái niệmđối trọng và, sau đó, đối tác, mà chỉ có đối lập, và, sau đó, đối thụi.
Cuộc “đụng độ” lớn và thẳng thừng giữa tôi và anh Sử, đúng hơn anh Sử và tôi, là bài viết trên báo Văn Nghệ. Bài viết này anh đã viết trước đó rất lâu và gửi cho Văn hóa Nghệ An. Phan Thắng hốt hoảng gọi điện cho tôi rằng anh rất khó xử giữa hai người anh quý trọng. Thắng nói sẽ gửi bài ra để tôi đọc và tùy tôi quyết định có đăng hay không. Mấy ngày sau Thắng lại gọi ra nói anh Sử bảo đừng đăng bài ấy, anh sẽ viết lại. Thắng lại gửi cho tôi bản thảo lần hai. Bài sau tuy đã bớt nặng nề hơn nhưng vẫn còn rất nặng nề. Ít lần sau Thắng lại gọi ra bảo anh Sử đề nghị không đăng nữa và cũng không nên cho ai biết. Tôi cũng không hiểu tại sao. Rồi khi sau thấy cuốn sách về thi pháp học nhân Trần Đình Sử 70 tuổi, trong có bài viết của tôi về Nguyễn Gia Thiều, nên tôi nghĩ rằng anh rút bài viết về tôi kẻo bất tiện. Nhưng đến ngày 12/06/2010, báo Văn Nghệ đăng bài Những lý luận khó tin của Trần Đình Sử. Bài này có 2 điểm mới là 10 điểm thì anh chỉ đăng 5 điểm và nhan đề cũng đổi khác, nhẹ nhàng hơn. Nhìn chung, những phê của anh với tôi chủ yếu là bắt bẻ lý luận, nhất là lỗi thuật ngữ, kể cả lỗi đánh máy như loại hình thành thể loại. Anh bảo: “Không một sinh viên nào gọi văn học là ‘thể loại nghệ thuật thời gian’ cả.” Nhiều người, kể cả bạn thân của anh, xui tôi nên “tranh luận” lại, nhưng tôi thấy giữa anh và tôi khác nhau ở hệ hình, nên nếu tạo ra một cuộc thư hùng “ai thắng ai” thì cả hai đều bại. Hơn nữa, trước sau gì tôi vẫn coi anh là đối trọng chứ không phải đối lập. Bởi vậy, tôi chỉ viết cho người đọc và trình bày thực chất của sự khác nhau giữa anh và tôi (số 27, ngày 03/07/2010). Bửu Nam bảo, cả Huế nín thở chờ cuộc xung đột. Nhưng rồi không có gì xảy ra cả: vô chiêu đã thắng hữu chiêu.
Đời sống văn học hiện nay, theo chỗ tôi biết, có ba nhà lý luận đáng kể là Trương Đăng Dung, Trần Đình Sử và La Khắc Hòa. Trương Đăng Dung làm lý luận chay, tuy, như anh nói, tránh được bầm dập, nhưng đôi khi khô cứng như những tổng thuật. La Khắc Hòa và Trần Đình Sử làm lý luận có phê bình. Lý thuyết của các anh sống động trong thực hành, hợp với tỳ vị người Việt Nam, nhưng đôi khi không tránh khỏi là “lý thuyết từ trên xuống,” thêm một ví dụ local cho lý thuyết phổ quát. Còn tôi chỉ là nhà phê bình, ngồi bệt, nhưng là phê bình có lý thuyết. Anh Thái Bá Vân, cực đoan hơn, bảo: thực ra trong nghệ thuật chỉ có phê bình và lịch sử thôi. Phê bình là cơ sở của lịch sử, còn ai làm phê bình mà chả có lý thuyết, nếu không có thì nước mẹ gì. Sự khác nhau của người phê bình và người lý luận còn ở chỗ một đằng thì nói ra, đằng kia thì nói về. Anh Sử thiên nói về, nên hầu như anh không sai, còn tôi nói ra nên sai nhiều đúng ít. Tuy nhiên trong bài này, với tư cách là đối trọng của tôi, thì anh Sử lại là người làm ra câu chuyện, còn tôi chỉ là người kể lại câu chuyện.
Chùa Thầy, 12-2019

Tổng tập văn học Việt Nam tập 16, xuất bản năm 1997, tập hợp 13 tác giả văn học nửa cuối thế kỷ 19 vài năm đầu thế kỷ 20. Có 4 người sống tràn sang thế kỷ 20. Dương Khuê 1839 - 1902. Chu Mạnh Chinh 1862 - 1905. Trần Tú Xương (Tế Xương) 1870 - 1907. Và Nguyễn Khuyến 1835 - 1909. Bốn thi nhân cùng đứng ở bên lề cửa của 2 thế kỷ văn chương. Nhưng Tú Xương được nhiều người ưu ái hơn cả. Xuân Diệu xếp Trần Tế Xương vào danh sách 5 nhà thơ lớn nhất của dân tộc. Nguyễn Trãi. Nguyễn Du. Hồ Xuân Hương. Đoàn Thị Điểm và Tú Xương. Chế Lan Viên thì bảo Tú Xương thuộc dòng lớn cùng với Nguyễn Du. Hồ Xuân Hương. Nguyễn Khuyến … Sách Khảo luận về Trần Tế Xương, xuất bản ở Sài Gòn 1960 cho rằng: Trần Tế Xương là một trong  những nhà nho nổi tiếng về văn học nôm cuối thế kỷ 19. Nhưng Trần Tế Xương giữ một địa vị quan trọng. Bởi vì ông đã ghi lại được trong văn thơ những biến cố lịch sử đương thời khá đầy đủ. Nếu Nguyễn Đình Chiểu ca ngợi lòng trung quân ái quốc, tiếng vang của thời thế chỉ phảng phất trong thơ Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Chinh thì đến Tú Xương đã khác. Người cuối cùng đưa văn nôm đến địa vị cao quý, Tú Xương là ông tổ thơ trào phúng làm nên đỉnh cao của thơ trào phúng Việt Nam. Nhà cách tân của văn chương nhà nho. Nhà thơ lớn của thời đại. Tiếng chuông cáo chung của một thời lịch sử. Bậc thần thơ thánh chữ .v.v. Bao nhiêu ánh sáng vinh quang dành cho một đời thơ ngắn ngủi. Nhưng nếu trào phúng là mạch văn chủ đạo làm nên diện mạo khác biệt của Tú Xương trong nền văn học nôm trung đại so với các bậc tiền nhân thì ở một phương diện khác dòng thơ lãng mạn trữ tình của Tú Xương như là một sự kết nối của văn chương hai thế kỷ, như là nguồn mạch trong suốt chảy ra từ những gì sâu xa nhất, tinh túy nhất của thi ca trung đại. Mặt trào phúng là một tiếng cười đau đớn nhất của văn chương Việt Nam làm nên một Tú Xương ngạo nghễ trên văn đàn khi mở cửa vào thế kỷ 20. Từ cách nhìn ấy, ta không còn nhìn thấy hình bóng của một nhà nho bất đắc chí. Nhưng điều đáng quý hơn, dòng chảy lãng mạn trữ tình của thơ ông xót xa và ngơ ngác đến mức nào thì sáng lên đến mức ấy tinh thần trách nhiệm của một nhà nho yêu nước, của một trí thức Bắc Hà trước vận mệnh của đất nước đang trong cơn bĩ cực. Tôi nghe thấy dòng chảy ấy chảy ngầm da diết như con sông Lấp ở thành Nam trăm năm xưa cũ … chảy ngầm trong ta mỗi khi thức giấc giữa đêm khuya. Đọc đi đọc lại cứ tưởng như nghe thấy tiếng gọi đò đâu đấy xa lắm của một thời đã qua. Tiếng gọi cuối cùng của thi ca trung đại chứa chan nỗi u sầu vận nước tình dân.

Bây giờ sau một thế kỷ, nhìn nhận lại thời gian Tú Xương sinh sống, bi kịch của ông và những người như ông như một điều không thể tránh khỏi của sự đổi thay thời cuộc. Những buổi đầu cay đắng và sự xuống cấp của đạo đức xã hội, đặc biệt trong giới thi cử và quan trường, những ngài quan đốc, tuần phủ; những ông cử đủ hạng; những ông đồ cậu ấm đến những cô ký cô đầu … sản phẩm lố lăng mới nảy mầm từ nền cai trị thực dân. Ở đâu đó người ta còn thấy sự sượng sùng trớ trêu của sự gặp gỡ bẽ bàng giữa hai nền văn hóa khác biệt phương Đông và phương Tây. Sự đổi thay ấy, nhìn cả một tiến trình lịch sử là một sự đổi thay không thể cưỡng lại được. Sự đổi thay dẫn tới bi kịch của thế hệ ông, thời đại ông. Tú Xương sinh ra để lập chí theo quan điểm nhà nho đã nhiều thế kỷ khăn gõ áo the lều chõng đi thi rồi làm quan, cùng tứ thư ngũ kinh gửi phận mình vào khoa bảng. Đó là nét sống chủ đạo, cũng là cảm hứng thơ chủ đạo. Vậy mà thời cuộc đã không như cũ. Từ năm 1898, Toàn quyền Pháp Paul Doumer cải cách học chế bằng việc từ năm 1900 các kỳ thi hương (đương nhiên là cả ở Nam Định) nơi Tú Xương đăng trình, bớt phần thi chữ Hán, bổ sung thêm thi tiếng Pháp, và chữ quốc ngữ, toán. Bớt đi cái phần mạnh nhất Tú Xương có. Thêm cái phần Tú Xương chưa thể một sớm một chiều bồi đắp kịp cộng với thói bịp bợm của chế độ thi cử dở trăng dở đèn đã như vết chém thẳng của thời cuộc đã dẫn đến 8 kỳ thi hỏng của Tú Xương và là nguồn gốc tiếng kêu đau đớn và khinh bạc cuộc đời thi cử của nhà thơ. Thôi, thôi tôi cũng méc xì ông! Trong tổng số 134 bài thơ nôm trong đó có 8, 9 bài phú và câu đối  Tú Xương để lại, có đến 40 bài nói về chuyện hỏng thi, than sự thi và người đi thi làm nên tiếng thơ trào phúng đặc biệt mà văn học trung đại chưa thi nhân nào viết như thế cả. Bực quá, Tú Xương nhiều lần chửi.

Chẳng hay gian dối vì đâu vậy

Bá ngọ thằng ông biết chữ gì.

            Sự phản đối tức thì, diễu cợt, khinh miệt và đau đớn làm nên một Tú Xương trào phúng số một. Nhưng điều kỳ lạ hơn, Trần Tế Xương đã nén chặt lại được sự tức tưởi, chua cay để cất lên tiếng thơ trữ tình đầy nhân ái và ẩn ức của một nhà nho ưu thời mẫn thế. Nếu thơ trào phúng của ông là sự mở đầu mới mẻ và độc  đáo thì dòng thơ trữ tình lại là sự tiếp nối truyền thống thi ca trung đại, một trong những sự tiếp nối cuối cùng.

            Dòng chảy thơ trữ tình lãng mạn của Tú Xương có hai nguồn cảm hứng thơ đặc sắc hơn cả. Đó là thơ về tình bạn và tình non nước trong sự hòa quyện vào một bản sắc thi nhân.

            Lý giải thơ Nhớ bạn, khóc bạn ... của Tú Xương, ở thế kỷ trước, các học giả thường hay truy nguyên người bạn đó là ai. Nhớ bạn, Tú Xương viết:

                        Ta nhớ người xa cách núi sông

                        Người xa, xa có nhớ ta không?

     …   Lúc nhớ nhớ cùng trong mộng tưởng

                        Khi riêng riêng cả đến tình chung

                ... Một ngọn đèn xanh trống điểm thùng

            Năm 1929, khi giới thiệu tác phẩm lên báo, ông Phan Khôi cho rằng Tú Xương làm bài này để nhớ đến cụ Phan Bội Châu. Những năm sau này, nhiều người đều cho là thế cả. Nhưng có người lại bảo Tú Xương nhớ ông Cử Hồng, bạn cùng nho học với nhà thơ.

            Bài Khóc bạn, làm theo thể thơ lục bát cả thảy có 22 câu, được viết như sau:

                        Đêm qua trằn trọc không yên

                        Vắng người cùng bạn bút nghiên sao đành.

                 ... Ngậm ngùi đối nguyệt trước đèn

                        Ta vui ai biết, ta phiền ai hay.

            Toàn tập Tú Xương in năm 1929 cũng chú thích rằng Tú Xương khóc ông Phạm Tuấn Phú, một nhà nho có tâm huyết. Bạn ông.

            Tôi cho rằng: điều quan trọng hơn cả là ở việc Tú Xương mô tả tâm trạng không có bạn! Nhớ bạn, Khóc bạn chỉ là cái cớ mà thực ra là không có bạn. Bạn mà không bạn, tình không thấy tình. Một tâm sự cô đơn trước thời thế mà không biết ngỏ cùng ai? Chỉ nhớ một người xa cách núi sông; chỉ nhớ nhung trong mộng tưởng. Không có gì là riêng cả bởi một nỗi buồn Khi riêng riêng cả đến tình chung như chính Tú Xương đã viết. Ông Tú vui buồn không ai biết vì thiếu những người bạn cùng chí hướng. Chỉ ngậm ngùi ngắm ánh trăng trước ngọn đèn lẻ bóng mà thôi. Đó là tâm trạng của một nhà nho yêu nước, sau khi đã chán ngấy và bực tức trước những trò nhố nhăng của xã hội đương thời, của những kẻ dở dở ương ương, vừa dốt nát vừa hợm hĩnh đang chiếm lĩnh bảng vàng bia đá, chức nọ quyền kia và sau khi đã trào ngược ra những vần trào phúng xót xa cay nghiệt thì đến lúc lắng lại nơi thẳm sâu nhất của tâm hồn thi nhân mà bắt gặp tâm trạng buồn cô đơn, vô định, không biết ngỏ cùng ai. Có lẽ, đó cũng là quy luật chung của tư duy. Tú Xương vượt qua ranh giới của cái giới hạn tâm sự với một người cụ thể để vươn tới tâm trạng của một thời đại- Thời đại mà xã hội Việt Nam bước vào cuộc thực dân hóa, khi ở đó nó từ bỏ và ngoảnh mặt đi không kiêng dè những lý tưởng nho gia.

            Nhưng tình bạn khi nhớ bạn, khóc bạn để mượn lời nói đến thế sự cũng chỉ trong một phạm vi nào đó mà thôi. Tình non nước là tâm trạng rộng lớn của dòng chảy lãng mạn trữ tình trong thơ Tú Xương. Đêm dài. Chợt giấc. Đại hạn. Than nước lụt Bính Ngọ. Than đạo học. Chữ nho. Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu  và đặc biệt là Sông Lấp. Bao nhiêu tâm trạng băn khoăn, trăn trở của nỗi buồn cô đơn như đêm tối không có đường ra mà thiết tha nhắn gửi có ai là kẻ đốt đuốc đi tìm ta mà chẳng biết có tìm được hay không, hay lẫn lộn giữa đêm trường, kẻ đó là ai ta còn chưa biết và liệu có kẻ đó hay không?

                        Đêm sao đêm mãi thế ru mà

                 ... Xao xác năm canh một tiếng gà

                        Nào ai là kẻ tìm ta đó

                        Đốt đuốc mà soi kẻo lẫn nhà.

            Đó là tâm trạng thực sự những đêm không ngủ, chợt một mình thức giấc mà ngờ rằng thiên hạ đang ngủ cả hay sao? Nhận ra nỗi buồn cô quạnh và lạc lõng. Một đêm dài không ngủ chỉ còn lại sao xác tiếng gà của muôn năm cũ rằng đêm đã qua để lại đến một đêm khác nữa. Không hiểu vì sao ta phải thức một mình. Một nỗi băn khoăn thời thế chưa thấy lối ra như là bóng đêm lan tỏa rộng hơn rất nhiều bài thơ 4 câu và tiếng trống canh ba buồn nản gõ vào giấc chiêm bao.             

                        Nằm nghe tiếng trống canh ba

                        Vừa giấc chiêm bao chợt tỉnh ra

                        Thiên hạ có khi đang ngủ cả

                        Việc gì mà thức một mình ta?

            Đôi khi băn khoăn và tự vấn mình về cảnh mưa, cảnh hạn ..., những lẽ thường của đời sống thiên nhiên mà sâu đậm tình cảm của non nước núi sông. Không phải là một trí thức có trách nhiệm với thời cuộc thì làm gì phải tự trách mình rằng ngày xưa chưa biết gì chỉ ăn, chỉ ngủ đã đành, sao bây giờ lại cho phép mình có thể yên ổn được trước nhân sinh đại hạn đến đá chảy vàng trôi?

                        Hoàn cảnh nhà ai nông nỗi ấy

                        Quạt mo phe phẩy một mình tôi?

             Khi nén lại tâm trạng đau đớn chua cay than cho sự thất thế của nào có ra gì cái chữ nho là lắng xuống sâu thẳm của tình non nước như nhắn gửi một lời kêu gọi, người trí thức hãy nhìn nhận hiện thực của nước nhà.

                        Nhân tài đất Bắc nào ai đó

                        Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà.

            Thơ tình bạn, tình non nước của Trần Tế Xương là sản phẩm của một thời đang đổi thay; cái nghìn năm xưa cũ dường như đang bị biến cải không gì cưỡng lại được trong khi cái hình thành còn đang loang lổ đầy những vết nhơ để nhà thơ của đất Vị Xuyên phải hoài cổ trong nỗi xót xa khi trời kia xui khiến sông nên bãi, ai khéo xoay ra phố cửa hàng, tiếng trống, tiếng chuông xưa cũ vẫn gõ vẫn khua mà non nước như cảnh chùa vẫn vắng, trong khi cái xã hội thị dân đã xì xào tôm tép chợ gần tan. Và cảnh xuân vẫn đến chẳng của riêng ai mà hỏi những ai nơi cố quận rằng xuân xuân vẫn thế ru mà cùng với sự ngỡ ngàng của cuộc đổi thay con khinh bố vợ chửi chồng và:

                        Có đất nào như đất ấy không ?

                        Phố phường tiếp giáp với bờ sông

                 … Bắc Nam hỏi khắp bao nhiêu tỉnh

                        Có đất nào như đất ấy không?

            Cảm nhận về sự đổi thay của thời cuộc và dòng đời, giống như quy luật khắc nghiệt của bãi bể nương dâu mà thi ca trung đại đã nhiều lần thổ lộ. Nhưng có lẽ và dường như đến Tú Xương là lời thổ lộ cuối cùng khi một thế kỷ đã chấm dứt và ông là người gọi cuối cùng khi một thế kỷ đã chấm dứt và ông là người gọi đò cuối cùng của thi ca trung đại. Tứ thơ thật giản dị. Ở nơi con sông kia đã chảy, giờ người ta đã làm nhà cửa và cày cấy mưu sinh. Bỗng một đêm nghe tiếng ếch kêu mà giật mình ngỡ là có ai ngày xưa gọi đò trên dòng sông ấy đã vọng lại - con sông đã bị lấp đi rồi.

                        Sông kia rày đã nên đồng

                        Chỗ làm nhà cửa chỗ trồng ngô khoai

                        Vẳng nghe tiếng ếch bên tai

                        Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.

            Sông Lấp – bài thơ lục bát chỉ có 4 câu như vậy đã làm nên một Tú Xương lãng mạn trữ tình như là tiếng gọi cuối cùng của thi ca trung đại để ghi tên tuổi của ông vào lịch sử thi ca Việt Nam. Nhà văn Nguyễn Tuân, trong bài Thời và Thơ Tú Xương trên tạp chí Văn Nghệ số 5-1961 viết: Sông Lấp là tiêu biểu của hơi thơ, giọng thơ Tú Xương. Nếu chúng ta cũng liệt Tú Xương vào loại đỉnh thơ nôm thì Sông Lấp chính là một cái bóng cây hiên ngang trên sườn non đó vậy”. (1) ông Nguyễn còn cho rằng cái tiếng gọi đò u hoài trong thơ Sông Lấp còn là cái tiếng gọi của cả đoạn sử ta cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20. Tôi cho rằng Tú Xương mà không phải Dương Khuê, Chu Mạnh Trinh, thậm chí cả Nguyễn Khuyến, là người đã đi sang bờ bên kia của dòng sông ấy, cất tiếng gọi đò để quay trở lại. Nhưng không còn con đò ấy nữa. Không còn dòng sông ấy nữa. Cậu ấm Nguyễn Khắc Hiếu – Tản Đà (1889-1939) cũng là một nhà nho tài tử nhưng được cái may mắn của kẻ sinh sau đẻ muộn – khi mà xã hội kinh tế thị trường đã bước đầu hình thành, khi mà các đô thị mới bắt đầu dùng nước máy và đèn điện, một tầng lớp đông đảo thị dân đã thông thạo chữ quốc ngữ (thứ chữ mà thời Tú Xương bắt đầu phải học để thi) sinh thành một tầng lớp đông đảo háo hức đọc văn chương quốc ngữ … Không giống Tú Xương qua sông gọi đò quay trở lại, nhà nho tài tử Tản Đà đi tiếp để ngồi chiếu trên một thời đại mới trong thi ca của thế kỷ 20- Phong trào Thơ Mới (1930- 1945); sau khi Tế Xương tạ thế chừng 23 năm. Và dường như hai nhà nho tài tử này có sự đồng cảm với nhau sâu sắc. Tú Xương chỉ có một lần viết: non non nước nước tình tình, vì ai ngơ ngẩn cho mình ngẩn ngơ thì đến lượt Tản Đà cái điệp khúc non nước ấy thường xuyên nhắc lại trong một bối cảnh mới, mà xao xuyến lạ lùng, nhất là Thề non nước. Nhà văn Nguyễn Công Hoan kể lại hồi sau trận lụt 1926 ra Hà Nội được Tản Đà rủ đi ngồi xe tay chơi, hết lời ca ngợi Sông Lấp mà theo Tản Đà nó chan chứa kín đáo cái ngậm ngùi của tinh thần  hoài cổ. Điều lưu ý là Tú Xương đại diện cho những nhà nho thi sỹ của quá khứ nhiều thế kỷ, cất lên tiếng gọi u hoài, tiếng gọi đò cuối cùng của thi ca trung đại, nhớ thương một trời mây cũ và không hề có điều gì oán trách ở đây. Ông đã vượt qua những bực bội trần thế để cất lên tiếng nói thanh cao của một thời đại đã đi vào dĩ vãng. Ông hiểu được thời đại đã đổi thay từ chữ viết và cây bút viết.

             Nam Định là đất cổ nghìn năm thi thư văn hóa. Đậu phụ Thủy Nhai, tú tài Hành Thiện. Bỏ tổ bỏ tiên không ai bỏ chợ Viềng mồng tám… Mùa hạ năm 2016, tôi cùng mấy anh em văn nghệ rủ nhau đi chơi thuyền sông nước Tràng An- Ninh Bình rồi đến bên hồ Vị Xuyên viếng Tú Xương. Mộ Tú Xương nằm đó, giữa công viên đông người qua lại. Mộ ông xây gạch. Ngửa mặt lên trời; không có mái che. Có mấy cụ già dép lê guốc mộc ngồi đánh cờ tướng quanh đấy. Dường như không ai để ý đến Tú Xương, đến sự có mặt của ông ở đây. Tôi ao ước một lần được nhìn thấy hình dáng ngạo nghễ của Tú Xương mà chẳng bao giờ thấy được. Ngay cả toàn tập của ông in năm 2010 cũng chỉ thấy ở bìa cuốn sách bản vẽ sơ sài một nho sỹ dáng còn trẻ, túi bó củ hành, tay cầm bút lông viết chữ nho; có thể suy đoán là ai cũng được. Trưa ngày 11-12-1873, khi Tú Xương vừa 3 tuổi, Thành Nam Định mất vào tay Pháp lần thứ nhất. 10 năm sau, khoảng 1 giờ trưa ngày 26-3-1883, sau vài giờ cầm cự, Thành Nam Định lại rơi vào tay Pháp lần thứ 2. Khi Tú Xương 13 tuổi. Cùng năm đó, triều đình Huế công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam. Một năm sau, 1884, Pháp lập hội đồng cai quản Bắc Kỳ. Vì vậy, Nguyễn Tường Phượng đã gọi Tú Xương bằng cái tên nhà thơ lãng mạn vong quốc, có lẽ cũng là hợp lý. Năm tháng dường như đã xa quá rồi với thời đại của chúng ta , dù chỉ một trăm năm ngắn ngủi thôi mà. Nhưng nếu chỉ hình dung theo những điều Tú Xương nói về bản thân mình thì sẽ thành bức biếm họa khó tin. Có lúc Tự đắc thì ăn mặc vẫn ra người thiệp thế. Nhưng lúc nhà thơ tự giễu mình Vị Xuyên có Tú Xương. Dở dở lại ương ương. Cao lâu thường ăn quỵt. Thổ đĩ lại chơi lường. Tôi không tin điều đó. Bực quá mà nói vậy thôi. Nhà văn Nguyễn Công Hoan kể lại rằng: các bậc cao niên nhiều tuổi ở đất Vị Xuyên truyền tụng rằng: Thường ngày, Tú Xương vẫn ăn vận lịch sự. Áo the, quần trắng, giày Gia Định. Đến Tết ông mặc áo xuyến tàu màu tam giang và áo bông nhiễu. (2) Tôi  hình dung bóng dáng Tú Xương, nhà thơ của Sông Lấp  chan chứa u sầu  hoài niệm về một quá khứ thanh bình không ngơi nghỉ vọng lại tiếng gọi đò của dĩ vãng trong thi ca. Mỗi độ xuân về, Tú Xương lại khoác áo xuyến tàu màu tam giang đi trẩy hội quanh hồ Vị Xuyên giữa bao nhiêu người là người của thành Nam Định vốn bình dị như chẳng hề đổi thay từ hơn 100 năm trước trở về đây, chẳng khác gì thành Sơn Tây xứ Đoài của tôi bao năm chìm đắm trong yên lặng để giữ lại những gì xưa cũ của nước mây.

            Thế kỷ 20 bước sang thế kỷ 21, lịch sử đã không lặp lại nhiều phương diện thời 19-20, kể cả cánh đồng cỏ thi ca. Nhà thơ Nguyễn Lương Ngọc (1958-2001), hậu duệ của thi sỹ Tản Đà, đã bừng nở như một bông hoa mới lạ đầy hương sắc trên cánh đồng bất tận ấy.

             Mùa hạ 24 tháng 6.2020

Nguồn: Tạp chí Thơ số tháng 9-10/2020

  1. Nguyễn Tuân – Thời và thơ Tú Xương – Tú Xương toàn tập – NXB Văn học năm 2010. Trang 597
  2. Nguyễn Công Hoan – Chân dung kẻ sỹ - Giai thoại – NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh năm 1988. Trang 186.

Trước tiên, phải khẳng định rằng, từ rất sớm chúng ta đã có được đội ngũ phê bình văn học nghệ thuật khá đông đảo. Và không chỉ đông đảo, đội ngũ ấy, trong từng giai đoạn lịch sử, đều hoàn thành xuất sắc sứ mệnh phê bình văn học nghệ thuật. Càng về sau, đội ngũ này càng có sự phát triển cao hơn, đa dạng và phong phú hơn, đáp ứng tốt nhu cầu phê bình văn học nghệ thuật trong tương quan xây dựng nền văn hóa mới.

Nói như thế, không có nghĩa là đội ngũ phê bình văn học nghệ thuật không cần thiết phải có những điều chỉnh, bổ sung, thậm chí làm mới ở nhiều lĩnh vực. Văn học nghệ thuật vốn phát triển không ngừng, có những lúc vừa sôi nổi vừa phức tạp. Để theo kịp sự phát triển đó, tương tác và đồng hành, thậm chí là dẫn dắt các xu hướng, khuynh hướng của sáng tác văn học nghệ thuật, rất cần tới đội ngũ phê bình tương ứng. Điều này là một đòi hỏi chính đáng của sự phát triển lành mạnh của nền văn học trong thời kỳ mới. Điều này cũng là thời cơ và thách thức của đội ngũ làm công tác phê bình văn học nghệ thuật hiện nay.

SachVHVN

1. Thực tiễn và thành tựu

Chúng ta đã có một thực tiễn phê bình văn học nghệ thuật phong phú với những thành tựu đã được ghi nhận. Từ các tác phẩm rải rác phê bình phong trào Thơ mới, phê bình các sáng tác tiểu thuyết, truyện ngắn trước năm 1945 khá sôi động mà tiêu biểu nhất phải kể đến Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân. Đời sống phê bình văn học nghệ thuật luôn bám sát và đồng hành với đời sống sáng tác. Thời kỳ văn học tiền chiến cũng là thời kỳ nở rộ nhiều khuynh hướng sáng tác và phê bình. Trong một xã hội ngột ngạt về chính trị, kiệt quệ về kinh tế, xuống cấp sâu sắc về văn hóa, đạo đức xã hội, nhưng kỳ lạ thay, các sáng tác văn học nghệ thuật trong đó có mảng phê bình lại phát triển rất mạnh, nhiều thành tựu về văn học, các loại hình nghệ thuật như văn học, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, nhiếp ảnh… đều có những cột mốc đáng ghi nhận. Điều này nói lên cái gì? Tại sao trong một xã hội tương đối ổn định như hôm nay không có được sự nở rộ đó? Phải chăng công tác quản lý về sáng tác và phê bình văn học nghệ thuật của chúng ta có vấn đề? Hàng loạt những câu hỏi đã và đang được đặt ra một cách khách quan, khoa học, đòi hỏi không chỉ giới sáng tác, giới phê bình mà cả giới quản lý, thậm chí quản lý cấp rất cao phải trả lời câu hỏi này.

Quay trở lại thực tiễn sáng tác và những thành tựu mà phê bình văn học nghệ thuật đã đạt được trong khoảng thời gian sau năm 1945 đến nay, ta thấy có mấy đặc điểm lớn, cũng là những thành tựu đã được ghi nhận.

Thứ nhất, trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945-1954, từ thực tiễn cuộc chiến đấu gian khổ của nhân dân ta, các tác phẩm văn học nghệ thuật ra đời, vừa để phục vụ kịp thời đời sống tinh thần của các tầng lớp xã hội vừa là khẳng định tư duy mới, con người mới, con người khao khát hướng tới độc lập, tự do. Bởi vậy, các sáng tác văn học nghệ thuật trong thời gian này đã làm tròn vai trò lịch sử. Từ các loại hình âm nhạc, hội họa, điêu khắc, nhiếp ảnh, văn học đều bám sát đời sống mọi mặt của quần chúng nhân dân. Các tác phẩm được nhân dân đón nhận. Có tác phẩm ra đời ngay trên chiến hào còn sực mùi thuốc súng, thậm chí còn đang chảy máu như tác phẩm: Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ của Nguyễn Sáng; Viếng bạn của Hoàng Lộc; Trận phố Ràng của Trần Đăng… Ngay như một nhà văn kỹ tính như Nguyễn Tuân cũng đã theo sát cùng bộ đội trực tiếp đánh đồn giặc. Ông còn cầm dùi trống thúc mạnh cho quân ta xông lên giết giặc, sau đó trực tiếp viết luôn về trận đánh đó. Có thể nói, chính cuộc sống chiến đấu cần lao và lẫm liệt của quân và dân ta đã là chất liệu làm nên những thành tựu, những cột mốc sáng tạo của các loại hình văn học nghệ thuật trong kháng chiến chống Pháp. Chính từ thực tiễn ấy, những sáng tác đã tự cất lên tiếng nói của thời đại mình. Và từ nền tảng sáng tác ấy, phê bình văn học nghệ thuật đã làm tròn trách nhiệm, thậm chí có lúc đã làm rất tốt công việc dẫn dắt, định hướng cho sáng tác.

Thứ hai, trong kháng chiến chống Mỹ đến năm 1975, từ thực tiễn cách mạng, các thành tựu về văn học nghệ thuật đã có những xu hướng vận động mới. Cuộc kháng chiến càng bước vào giai đoạn cam go, khốc liệt càng đòi hỏi những sáng tác văn học nghệ thuật trực diện hơn, kích hoạt tính chiến đấu kiên quyết hơn. Vì vậy không tránh khỏi có lúc là cực đoan một chiều, ta đúng địch sai, nhất nhất tiến thẳng về phía trước, bất chấp những đặc tính của văn học nghệ thuật luôn đòi hỏi sự cân bằng bản thể, sự thâm trầm được chắt lọc chứ không thể nào văn học nghệ thuật giống như những nguyên tắc của chiến tranh. Nguyên tắc của chiến tranh là vô nguyên tắc. Mọi thứ phi lý nhất đều có thể xảy ra. Văn học nghệ thuật lại cần sự hữu lý, sự cân bằng và sự nhân văn đến tận cùng. Điều này dường như đối nghịch với nguyên tắc chiến tranh. Bởi vậy mới nói rằng, thành tựu của văn học nghệ thuật thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đến năm 1975 đã có những dấu mốc quan trọng, nhưng thời gian đi qua sẽ dần dà bộc lộ những thiếu khuyết của nó. Điều này là chấp nhận được. Nó là tất yếu của một giai đoạn lịch sử văn học chứ không đáng lo ngại như một số người lầm tưởng. Chúng ta có những khúc, những thời kỳ lịch sử buộc phải diễn ra như vậy. Điều đó bao gồm cả văn học nghệ thuật. Đây cũng là sự phát triển bình thường, tất yếu, khách quan. Phải hiểu được như vậy, chúng ta mới dám nhìn thẳng vào những thiếu khuyết của sáng tác văn học nghệ thuật để vững vàng bước tiếp. Trong khoảng thời gian này, phê bình văn học nghệ thuật luôn đi cùng sáng tác, cổ vũ, động viên và có những đánh giá kịp thời để sáng tác đi đúng con đường mà dân tộc và nhân dân đòi hỏi.

Thứ ba, sau cột mốc lịch sử năm 1975 đến Đổi mới 1986, trong tư duy của người chiến thắng, dường như chúng ta bị ngây ngất một thời gian trong đó có các sáng tác văn học nghệ thuật. Điều này cũng là dễ hiểu và tiếp đó chúng ta phải trả giá là đương nhiên. Sau chiến tranh, cuộc sống bừa bộn và phức tạp hơn nhiều chúng ta tưởng tượng. Phải quản lý và kiến thiết một đất nước từng có vài chục năm chia cắt với những sự khác biệt rất lớn đã đặt lên vai người chiến thắng quá nhiều việc, có những việc là quá sức mình thì theo đó là những đổ vỡ, mất kiểm soát là đương nhiên. Văn học nghệ thuật thời điểm này phải giáp mặt với những nẻo khuất trong cuộc sống vô cùng phức tạp. Trước xu thế mới của xã hội đòi hỏi văn học nghệ thuật phải có cách nhìn mới, phải “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Mục tiêu là như vậy, nhưng sự thật ở đây là sự thật nào? Đã có sự phân hóa sâu sắc trong giới sáng tác và đương nhiên hình thành sự phân hóa dữ dội trong giới phê bình văn học nghệ thuật. Dẫu là thế, cũng không thể không nhắc đến những thành tựu đã trở thành cột mốc. Những chuyển động dữ dội đã trở thành những làn sóng mang giá trị tư tưởng, làm tiền đề cho sự đổi mới văn học nghệ thuật sau này. Chúng ta đã có những đánh giá, tổng kết xác đáng về văn học nghệ thuật giai đoạn này. Đó vừa là thành tựu của sáng tác vừa là nền tảng thành công của phê bình văn học nghệ thuật giai đoạn 1975-1986.

Thứ tư, sau dấu mốc Đổi mới 1986, các sáng tác văn học nghệ thuật có sự đa dạng và phức tạp đan xen. Các loại hình nghệ thuật tìm đường đi mới cho mình đã bộc lộ nhiều khuynh hướng trong đó phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa dường như đã chững lại. Đó cũng là một tất yếu mang tính khoa học biện chứng. Ngay như chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và một số nước Đông Âu cũng rơi vào thoái trào, thậm chí sụp đổ. Điều đó vừa bất ngờ vừa không bất ngờ. Chính sự mới mẻ này đã là nền tảng mạnh mẽ nhất để thúc đẩy các khuynh hướng sáng tác khác nhau. Chỉ riêng lĩnh vực văn học, ở mảng tiểu thuyết, một loạt tác phẩm có khuynh hướng mới, khác trước ra đời gây tiếng vang như: Thời xa vắng của Lê Lựu; Bến không chồng của Dương Hướng; Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc trường; Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh đã khiến đời sống văn học nghệ thuật, trong đó có phê bình văn học nghệ thuật sôi động hẳn lên. Đặc biệt, đến khi Nguyễn Huy Thiệp trình làng các tác phẩm: Tướng về hưu; Vàng lửa; Kiếm sắc; Phẩm tiết; Những ngọn gió Tua Hát; Con gái thủy thần; Thương nhớ đồng quê… đã tạo ra sự chấn động trong giới văn chương chữ nghĩa. Lúc này, sự phân hóa của giới phê bình văn học nghệ thuật đã lên tới đỉnh điểm chia thành hai phái khen chê quyết liệt. Có lúc điều này đã trở thành lo lắng cho những người làm công tác quản lý văn học nghệ thuật. Đã có lúc có sự thái quá về khen chê khiến công chúng yêu văn học dường như bị chênh chao, mất phương hướng khi đi tìm giá trị thẩm mỹ cốt lõi. Sau độ lùi thời gian, chúng ta thấy hiện tượng phê bình Nguyễn Huy Thiệp theo nhiều chiều như vậy cũng là lẽ bình thường, tất yếu của một nền văn học, nhất là trong Đổi mới. Điều này là sự lành mạnh đáng khen ngợi. Chúng ta phải biết gạn đục khơi trong mới có thể tạo điều kiện tốt nhất để văn học nghệ thuật phát triển tự nhiên. Sự phân hóa của phê bình văn học nghệ thuật phải được hiểu là một tất yếu khoa học. Các nhà quản lý văn học nghệ thuật dường như không hiểu hoặc cố tình lờ đi vấn đề này chỉ làm cản trở sự phát triển của văn học nghệ thuật mà thôi.

Tựu chung lại, từ thực tiễn và thành tựu của sáng tác văn học nghệ thuật, đã dẫn đến những thành tựu từng bước của chuyên ngành phê bình văn học nghệ thuật. Xưa nay, thường khó có sự thống nhất ý kiến, đánh giá, nhìn nhận của giới sáng tác và giới phê bình. Dường như luôn có sự vênh nhau, phản biện lẫn nhau, thậm chí là phủ định nhau. Điều này đã tồn tại và sẽ còn tồn tại. Chúng ta nên nhìn nó dưới góc độ khoa học sẽ thấy rằng đó cũng là vẻ đẹp của văn học nghệ thuật. Bất kỳ một sản phẩm văn học nghệ thuật nào đều cần và phải được đánh giá, phê bình một cách liên tục và sòng phẳng. Đây chính là công sức, thành tựu, lẽ sống của phê bình văn học nghệ thuật. Chúng ta nên vừa phản biện vừa lắng nghe nhau, vừa phê bình vừa dẫn dắt nhau, hướng tới sự đồng thuận để cùng tiến đến bầu trời đích thực của nghệ thuật.

2. Thách thức và giải pháp

Phê bình văn học nghệ thuật hiện nay đang chịu rất nhiều thách thức. Thách thức từ chính sáng tác và đời sống văn học. Phê bình văn học nghệ thuật cũng có nhiều “căn bệnh” mà những nhà quản lý, người sáng tác, công chúng thưởng thức văn học nghệ thuật đã chỉ ra. Có nhiều ý kiến cho rằng phê bình không theo kịp sáng tác, chạy theo sáng tác, màu mè nhõng nhẽo, thậm chí làm “nhiễu” đời sống văn học nghệ thuật. Bình tâm mà xét, không phải những ý kiến trên thiếu lý lẽ thuyết phục, điều này giới phê bình hãy tự tìm hiểu nguyên nhân. Điều này vừa phù hợp với yếu tố khoa học vừa là để tìm ra đường đi tất yếu, bền vững, góp phần làm nên thành tựu mới của phê bình văn học nghệ thuật.

Phải thấy được rằng, những bất cập, thậm chí rối ren của phê bình văn học nghệ thuật đang diễn ra có nguyên nhân trước tiên từ phía những người sáng tác. Những khuynh hướng sáng tác mang quá nhiều tính thử nghiệm, phiêu lưu, gây sốc đã vô hình chung làm phương hại tới công việc phê bình. Nhà văn chẳng hạn, nhiều người, nhất là các tác giả trẻ ưa thích phiêu lưu, muốn sớm nổi danh đã tung ra các tác phẩm bất chấp luân thường đạo lý khiến các nhà phê bình lúng túng. Các nhà phê bình im lặng hoặc khen chê không theo quy cách gì càng khiến người đọc mất phương hướng. Các nhà văn đích thực lúc này đây trông chờ sự minh định của nhà phê bình nhưng mỏi mòn không thấy. Điều này càng kéo giãn khoảng cách, sự ngán ngẩm giữa giới sáng tác và phê bình. Điều này khiến công chúng bất an. Có lẽ nào một cuốn sách hạ cấp như vậy lại bán chạy và nhà phê bình lại vô can và vô cảm?

Thách thức của phê bình văn học nghệ thuật còn đến từ sự vô lối của các nhà xuất bản. Thời kinh tế thị trường, mọi thứ đều sôi động và phức tạp. Diễn biến xuất bản của các nhà xuất bản trong cả nước không tránh khỏi những hệ lụy. Ngay như Cục xuất bản mong muốn thiết lập một “bàn tay thép” đã nhiều lúc tỏ ra bối rối, bất lực, nói đúng hơn là lực bất tòng tâm. Các loại sách tràn ngập thị trường hiện nay là một thách thức lớn lao đối với công tác phê bình. Đặc biệt là những sách vô thưởng vô phạt, thậm chí sai trái về ngôn ngữ, đạo đức, kiến thức, thậm chí lệch lạc về tư tưởng chính trị vẫn được xuất bản và lưu hành vô tội vạ. Phê bình văn học nghệ thuật đứng trước một núi sách hay dở lẫn lộn chỉ biết thở dài. Các nhà xuất bản không ít nơi nhắm mắt để các tác phẩm vô thưởng vô phạt đua nhau ra đời. Họ cũng phải mưu sinh, phải nuôi nhau. Cơm áo gạo tiền không đùa với các nhà xuất bản. Thế là xảy ra hiện tượng, thà là nhắm mắt nhắm mũi in các tác phẩm dở ẹc còn hơn in các tẩm phẩm hay nhưng nhạy cảm về chính trị để đảm bảo an toàn kiếm miếng cơm ăn. Các nhà phê bình văn học nghệ thuật dường như bất lực trước đống sách dở được hà hơi tiếp sức từ các nhà xuất bản. Đây là một thách thức không nhỏ, một ngáng trở không cần thiết đã và đang diễn ra thách thức không chỉ nhà phê bình mà giới sáng tác chân chính.

Một thách thức nữa đến từ phía bạn đọc phổ thông, nhất là những bạn đọc ưa thích ném đá trên mạng càng dễ gây rối cho các nhà phê bình. Năm người mười ý. Trong nhà chưa tỏ ngoài ngõ đã thông. Đọc vội dăm ba trang phán xét cả cuốn sách. Không vừa ý ở đâu đó đem tác phẩm bất kỳ nào đó ra thóa mạ. Ngay như trên các trang mạng văn chương đang ngày càng nhan nhản thì những ý kiến đao to búa lớn, đông tây kim cổ rất ghê gớm thiếu kiểm chứng khiến không chỉ nhà phê bình mà ngay người sáng tác cũng chỉ biết ngơ ngác nhìn nhau. Điều này biểu hiện cái gì? Xin trả lời đó là chúng ta chưa có sự trưởng thành của một xã hội văn minh. Các nhà văn và các nhà phê bình phải làm gì? Câu trả lời này không hề đơn giản bởi đã qua rồi thời kỳ im lặng là vàng, mũ ni che tai, chó cứ sủa đoàn người cứ đi mà cần phải có một phương lược dài rộng, sự chung tay góp sức từ người quản lý cấp cao nhất tới mọi giai tầng trong xã hội ở mức độ quyết liệt nhất.

Một thách thức không nhỏ đến từ chính đội ngũ những người làm công tác phê bình văn học nghệ thuật. Chính đội ngũ này đang có sự phân hóa rõ rệt. Chia tách nhau ra để khai thác mỗi cá tính, mỗi tiềm năng làm nên sự khác biệt, góp phần để phê bình văn học nghệ thuật đa dạng, phong phú, nhiều màu sắc là điều đáng quý, nhưng chia rẽ đến mức chỉ dành thời gian công kích lẫn nhau, bỏ bóng đá người, đánh lận con đen là một yếu điểm đang hiện hình trong đội ngũ phê bình văn học nghệ thuật. Phê bình cũng như sáng tác, không chỉ cần trái tim đồng điệu, tài năng toàn diện mà phải biết từ con mắt xanh ấy, từ trái tim nóng ấy, bình tĩnh mà sáng tạo trên những tác phẩm đã được sáng tạo bằng tim óc của nhà văn. Chúng ta vẫn hay phàn nàn thiếu những nhà phê bình tầm cỡ mà không biết trân quý những nhà phê bình tài hoa, tuy chỉ ở từng mảng nhưng đó mới là cuộc sống đích thực. Chưa có ngay được người đại tài để dùng thì những người tài vừa, tài ít hãy lên sử dụng và tôn vinh họ. Đừng đem cái đòi hỏi vô cùng tận để áp đặt vào sáng tác hoặc phê bình văn học nghệ thuật như hôm nay.

Từ những thực tiễn, thành tựu và những thách thức đã và đang được đặt ra, hoạt động phê bình văn học nghệ thuật hiện nay đang đứng trước những vận hội và thời cơ mới. Vượt lên trên tất cả, dung hòa và tìm hướng đi đúng đắn cho mình, tạo dựng một hệ thống lý luận phê bình văn học nghệ thuật chuẩn hóa trên cơ sở lấy sự phát triển toàn diện của các hoạt động văn học nghệ thuật làm trung tâm, phát huy mọi giá trị sẵn có từ truyền thống tới hiện đại làm diện mạo, tự tin xác lập nền tảng riêng trên tinh thần nền tảng văn hóa, các thành tựu văn hiến của dân tộc và hội nhập quốc tế có chọn lọc chính là con đường mới của lý luận phê bình văn học nghệ thuật hiện nay.

Chúng ta đang trong xu thế hội nhập mạnh mẽ trong đó có hội nhập về văn hóa. Điều này đòi hỏi không chỉ ở nền tảng lý luận, các mảng sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật, mà cái đích đến cao nhất chính là xây dựng sự trưởng thành toàn diện trong đó có trưởng thành về văn hóa của người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh trong dòng chảy văn minh nhân loại. Chúng ta không chỉ cần tự chủ, tự tin, tự hoàn thiện năng lực và nhân cách của mình mà phải biết bứt phá và bước đi từng bước vững chắc trong xu thế hội nhập. Chúng ta không chỉ mãi trích dẫn người khác từ lý thuyết đến thực hành, từ sáng tác đến phê bình. Ở một đất nước với trên chín mươi triệu dân, với bề dày văn hóa lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước vô cùng đậm đặc bản sắc, chúng ta phải biết tự mình rèn luyện, trưởng thành. Những thành tựu trong đó có thành tựu về văn hóa, văn học nghệ thuật của loài người đem đến đối với người Việt Nam phải biết tiếp nhận và chuyển hóa, nhận thức và sáng tạo trên tinh thần đổi mới, biết cách mở rộng, nâng tầm để đóng góp những tinh hoa của riêng mình vào ngôi nhà chung nhân loại. Điều này phải được mỗi người làm công tác sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật tiếp nhận và tự đặt ra từng mục tiêu riêng, từng mốc sáng tạo, hướng đến xây dựng thành tựu từ riêng mỗi cá thể tới cộng đồng rộng lớn. Một dân tộc, một con người nếu thiếu tự tin, tự ti về văn hóa sẽ không thể nào ngẩng cao đầu lao động sáng tạo và đóng góp hữu ích để trưởng thành. Đây chắc chắn là ước muốn và khát vọng không chỉ của giới sáng tác, nghiên cứu phê bình văn học nghệ thuật trong giai đoạn lịch sử sôi động hôm nay.

PHÙNG VĂN KHAI

(Bài đăng Tạp chí Lý luận, phê bình văn học - nghệ thuật, số tháng 2/2020)

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 21.5.2020.

Man goes to the noisy crowd to

 drown his own clamour of silence.

R.Tagore

Mùa thu này gấp lại cuốn tiểu luận và phê bình văn học có tiêu đề: Bến văn và những vòng sóng với 454 trang, tập hợp 57 bài viết trong khoảng 15 năm trở lại đây. Phát hành quý 1 năm 2020. Điều hiện ra trước tiên với tôi là diện mạo người đã sinh nở quặn đau ra nó. Đó là hồi 1956, 1957. Có cậu bé còn đang học cấp 1 tại một trường làng trung du hẻo lánh bạo hổ bằng hà viết một truyện ngắn để giữa trưa tháng 6 nắng bỏng rát một mình nón lá chân đất đi bộ lên bưu điện huyện Tam Dương gửi về một nhà xuất bản ở Hà Nội- gây cho sự thấp thỏm chờ đợi bỗng dưng mấy năm trời không nhận được hồi âm. Đó là năm 1963. Có anh lính binh nhì ở trung đoàn xe tăng 202 đêm khuya chờ anh em ngủ cả mới chùm chăn bí mật bằng ánh sáng của ngọn đèn tự chế đọc chuyện Cô Nhụy của Lưu Trọng Lư đã bị lộ vì không kìm được nước mắt khóc nức nở, vì thương cô Nhụy quá. Đó là hồi mùa đông rét mướt cuối những năm đầu 80, chàng sinh viên của trường viết văn Nguyễn Du đã chia nửa niêu cơm bé nhỏ, chia nửa tấm chăn chiên mỏng dính với người đã viết Hai nửa vầng trăng. Đó là một ngày tháng 7-2017, cựu học trò của trường viết cư ngụ ở Vân Hồ, xúc động với thơ và đời Chính Hữu đã không ngần ngại hô lớn: Hỡi anh em Vân Hồ! Nếu không có anh Chính Hữu hồi đó thì chúng mình tan tác chim muông từ khuya rồi.

Vài nét chấm phá như thế, tôi hình dung ra nhà phê bình Hữu Thỉnh trong thế giới văn chương của ông.

Những năm 60, Hữu Thỉnh bước vào làng văn trên cương vị là một người lính và một thi sỹ. Cùng với Phạm Tiến Duật, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Nguyễn Đức Mậu, Thanh Thảo... làm thành một lực lượng đông đảo đóng vai trò lĩnh xướng của phong trào thi ca chống Mỹ cứu nước. Gần hết cuộc đời chìm nổi trong thơ. Thế kỷ 21. Nhà thơ Hữu Thỉnh làm một cuộc phục sinh - Ông đặt chân vào lĩnh vực phê bình văn học bằng việc đi tìm Lý do của Hy Vọng. Xuất hiện năm 2010. Mười năm sau thì đến Bến Văn và những vòng sóng. Dường như ngay cả những điều đó cũng để thể hiện một tâm hồn văn chương, một cách cảm cách nghĩ của một thi sỹ lúc nào cũng biển bạc đầu nông nổi tuổi đôi mươi hơn là một nhà lý luận thâm trầm trong hệ thống cấu trúc dày đặc điển cố văn chương. Gần đây trong một cuộc đến thăm nhà 49 Hàng Bạc, nơi cách đây 110 năm, Nguyễn Tuân cất tiếng khóc chào đời ở đấy mà tôi không hình dung được Nguyễn khóc ra sao, một vị giáo sư đại học khả kính bảo tôi rằng: Hữu Thỉnh làm lý luận cũng sắc nước đấy. Sắc chứ! Vào phê bình văn học, Hữu Thỉnh tiềm ẩn những lợi thế để tạo ra văn chương phê bình có phong vị riêng. Từ một thi sỹ, mang theo lối tư duy hình tượng và lời văn giàu cảm xúc; kết hợp với người giữ cương vị chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam 4 khóa liền đặt người viết vào trách nhiệm ở tầm bao quát những vấn đề của thời cuộc văn chương cùng với sứ mệnh và phẩm giá của người cầm bút cũng như trang trải những điều tâm sự với nhiều thế hệ nhà văn từ người nổi tiếng đến những người còn lẩn khuất, thậm chí cả một vài người vì một lý do nào đó của cuộc đời đã đi qua cửa việc làm văn trong cuộc bể dâu dữ dội của thời cuộc. Dường như muốn không quên một ai, không trừ một ai, có khi chỉ nhắc đến tên một lần, để nghe họ thở và ca hát trên những trang văn và cả những lúc họ sắp cũng như đã lìa xa cõi dương thế đầy bất trắc này với tư cách một người bạn như Bạch Cư Dị đã viết: Đồng thị thiên nhai luân lạc nhân. Tương phùng hà tất tằng tương thức.** Làm nên sắc thái đa dạng, đa chiều với khoảng không trùm phủ của văn chương phê bình.

Bến văn và những vòng sóng đặc biệt quan tâm đến sứ mệnh của văn chương và nhân cách của người nghệ sỹ. Theo đó, văn học có vai trò lĩnh xướng của lịch sử trong chặng đường đồng hành cùng lịch sử và cuộc sống của dân tộc. Vai trò của văn học rất cần thiết cho đời sống xã hội và cá nhân mỗi con người như là một tự nhiên nhân. Văn học có nhiệm vụ đưa văn hóa thấm sâu vào đời sống từ đó góp phần nhân đạo hóa các mối quan hệ xã hội. Trong điều kiện một xã hội đang đổi mới, sứ mệnh của văn học tạo ra các giá trị mới như là một trong những nguồn cung cấp năng lượng cho tiến trình đổi mới, làm sâu sắc thêm những quan hệ mới đang được hình thành. Một vấn đề mới mẻ của đời sống văn học trong thời kỳ kinh tế thị trường ở đó văn học bằng sự nhạy cảm và tinh tế vốn có đã sớm nhận ra vấn đề muôn thuở mà có lúc chúng ta xem nhẹ. Việc chăm lo đến lợi ích là một tiến bộ xã hội và là những bước đi bão táp trong việc nhân đạo hóa các quyền con người. Mặt khác, không thể không thừa nhận sự ngông cuồng đến ngạo mạn của cơ chế kinh tế thị trường với cỗ xe săn lùng lợi ích bất chính vào sâu ngõ ngách của đời sống con người, đe dọa mọi thành trì vốn đã được vun đắp từ truyền thống và hiện đại của đạo đức xã hội - Điều mà các nhà chính trị khắp nơi trên thế giới gọi là mặt trái của thị trường. Hơn bao giờ hết, văn học phải đứng vào một trong những vị trí tiên phong là thức tỉnh lương tâm con người bằng vũ khí của chính nó là cái đẹp và sự thật để cảm hóa con người. Ôn lại và ngợi ca giá trị văn học của gần hết một thế kỷ chiến tranh khi mà một nhà lãnh đạo đã nói không một gia đình Việt Nam nào không phải chít khăn tang, văn học đã được viết trong máu và nước mắt, đã phát đi và lan tỏa khắp sông núi ruộng vườn của xứ sở này thông điệp nóng bỏng về lòng yêu nước và ý chí bất  khuất của toàn dân tộc trong cuộc chiến vĩ đại vì độc lập, tự do của nhân dân và đức tin của cái thiện, giờ vẫn như vang vọng ở khắp mọi nơi trong thành phố sáng ngời ánh điện cũng như trên những khám thờ heo hút ở những miền quê xa xôi. Nhưng ngày nay, không thể chối bỏ một thực tế: thị trường nếu không được kiểm soát sẽ dễ dàng lu mờ các giá trị người Việt Nam phải trả bằng máu, kéo xã hội lùi về thời hoang dại. Nhưng Hữu Thỉnh tin rằng văn học của chúng ta còn đủ sức và tỉnh táo vươn tới việc nắm bắt đời sống ở thế vận động toàn vẹn của nó. Ba đặc điểm của xã hội hiện đại là thị trường, dân chủ và vai trò cá nhân tác động mạnh mẽ đến nỗi mọi khuôn thước bị tháo tung ra, mở đầu cho một cuộc trở dạ về văn hóa vô cùng nhọc nhằn, phức tạp... Viết được những vấn đề có tính tổng kết và định hướng như thế trong xúc cảm trào lên của một thi sỹ, tôi hiểu Hữu Thỉnh không phải là không cân nhắc trong sự cẩn trọng của tư duy trừu tượng mà còn là sự tan chảy của những dòng cảm xúc mạnh mẽ với sự tỉnh táo của một người lãnh đạo Hội nhà Văn. Tỉnh táo để nhận biết nguy cơ và áp lực đối với văn học. Áp lực đó là thị trường bao hiểm họa luôn muốn biến văn học nghệ thuật thành hàng hóa trao tay. Xu hướng toàn cầu hóa tiềm ẩn lâu dài nguy cơ đồng phục hóa văn hóa. Bởi thế, việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa của dân tộc chưa bao giờ gay gắt và bức thiết như hiện nay. Nhưng sự tỉnh táo còn nhìn ra cơ hội vàng khi nói thị trường văn học nghệ thuật cũng đồng thời thừa nhận văn học nghệ thuật là một loại hàng hóa đặc biệt phải trả công đặc biệt cho nó, nhưng nó dứt khoát không thể là tay sai của thị trường. Cơ chế kinh tế thị trường, người bạn cũ hàng thế kỷ của nhân loại còn là cơ hội cho sự bùng cháy của văn chương là nhờ quyền năng của công chúng nghệ thuật chờ đợi sự bứt phá đau đớn của con người cũng là của người nghệ sỹ trong quá trình vươn tới cái thiện. Hữu Thỉnh viết: Họ đóng vai trò thượng đế luôn được xu nịnh để tỏ ra có quyền trượng hơn bao giờ hết. Phải chấp nhận thượng đế của thị trường ấy. Và ông lý giải một cách hợp lý đòi hỏi của công chúng ấy như sau: Họ vừa muốn thấy một con người xã hội, vừa khát khao chia sẻ với con người cá nhân, vừa chấp nhận con người lý tưởng nhưng cũng dành mọi sự ưu ái cho sự tồn tại của con người bản năng với sự sục sôi gào thét của dục vọng, thậm chí vô cùng thầm kín. Những cung bậc phức hợp trong yêu cầu của độc giả thật là một thách thức lớn đối với nhà văn. Nhưng cũng vì nó, vì chính những yêu cầu tưởng như phi lý ấy đã là lý do cho những Fedor Dostoyevky, những Garcia Marquez... xuất hiện.

Bến Văn và những vòng sóng thường gắn sứ mệnh của văn học với nhân cách của nhà văn mà tiêu điểm là vấn đề tài năng của người cầm bút.

Trong khi đòi hỏi nhà văn phải dấn thân và nhập cuộc vào cuộc sống của nhân dân để có những tác phẩm có sức khái quát cao và sức sống lâu bền, bên cạnh việc phát hiện, ủng hộ cái mới, cái tích cực phải thích ứng mau lẹ với vai trò phê phán cảnh tỉnh và luôn luôn sáng tạo trong quỹ đạo của sự thật thì Hữu Thỉnh cũng nhìn nhận một cách công bằng đối với lao động riêng có của nhà văn. Ông bộc bạch: Nhà văn vốn đã cô đơn, ngày nay càng cảm thấy cô đơn hơn trước dòng thác của các cuộc tìm kiếm lợi ích. Tác phẩm văn học là sản phẩm của cá nhân, cho nên cần tôn trọng sự sáng tạo độc lập mang dấu ấn cá nhân. Trong văn học, không ai thay thế được ai. Cái độc đáo, cái dị biệt, cái không thể thay được không thể trong xiêm áo của cái tầm thường mà phải là của những tài năng. Văn chương là câu chuyện của tài năng. Nhiều nhà văn lão thành đã nói điều này. Nhưng ít có ai dằn vặt, trở đi trở lại việc này như trong Bến Văn và những vòng sóng. Một nền văn học được làm giàu bởi tài năng của các thế hệ, đó là sự đòi hỏi của cuộc sống và nhu cầu nội sinh của văn học. Hữu Thỉnh nêu câu hỏi: Những người viết văn trẻ, bạn từ đâu đến? và ông tự trả lời: đến từ miền tài năng. Tài năng ấy đi liền với sự trải nghiệm, một quá trình từ đam mê trở thành bản lĩnh làm nên sức khỏe của một tài năng. Con đường sáng tạo văn học của các tài năng là con đường đi tìm cái mới trong nỗi khổ tâm không dứt, một sự đeo đẳng suốt đời. Và cái mới đáng đi tìm nhất là triết lý nghệ thuật hiểu theo nghĩa: Văn học là triết học trong trạng thái loãng của một nhà văn phương Tây. Và cũng vì vậy, câu chuyện tuyệt đối hóa phương pháp sáng tác, lấy thi pháp thay cho tài năng, tuyệt đối hóa hình thức thì dù nhân danh cái gì, dù có thiện ý và không thiếu say mê thì lịch sử văn học cho thấy không mấy sáng sủa, chưa kể những cuộc trống dong cờ mở, bóp nặn... cũng một sớm một chiều bị người đọc lãng quên.

Nói đến tài năng văn chương lại liên quan đến một thế hệ những người cầm bút, đến thực trạng chung của một nền văn học. Nhiều đầy tràn nhưng ít sâu lắng. Dàn đồng ca khá mạnh nhưng ít giọng lĩnh xướng vang xa. Thêu thùa cho cá nhân thì khéo, may cắt cho thiên hạ còn ít dụng công. Câu chuyện không phải của riêng ai. Đôi khi một khuynh hướng sáng tác đã đưa nhiều cá nhân vào một đội ngũ thăng hoa khởi sắc. Ví như cảm hứng phê phán đã làm thơ bớt bằng phẳng một chiều. Đọc những sáng tác mà Hữu Thỉnh đã lựa chọn của Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Chính Hữu, Việt Phương, Phạm Tiến Duật, Phùng Quán, thường là những sáng tác cuối đời, không phải xám hối, không phải lạc lõng, tôi gặp được nỗi đau và lòng trắc ẩn, gặp cái lan tỏa của nhân cách nhà văn trước những biến thiên của thời cuộc, những giây phút xót lòng của đời sống cộng sinh cùng với sự nhọc lòng đau đớn của Chế Lan Viên, tự chảy một cách diết dóng trong bài thơ Cách mạng của Nguyễn Đình Thi; cái rẽ qua những tranh cãi ồn ào để trở về cái vĩnh hằng ở cuộc đời thường của Chính Hữu; cái đoạn trường dư ba đủ vị khi bản thể của ta chỉ là cây thông thương nhớ hoàng hôn mà lòng ta tin cậy ở con người của Việt Phương... Tôi nhận ra một thi sĩ Hữu Thỉnh trong khi nói về vấn đề lý luận.

Nhưng câu chuyện văn chương lớn nhất và có nhiều tâm trạng nhất của Bến Văn và những vòng sóng lại là chân dung của các nhà văn Việt Nam hiện đại. Khoảng 50 nhân vật văn chương được vẽ lên bởi nhiều thể tài: diễn văn kỷ niệm, tùy bút và bút ký văn học, lý luận phê bình văn học v.v... Đầy đặn và sắc nét hơn cả là các bài về các nhà thơ. Chớp cánh Nguyễn Đình Thi. Làm mới thơ - phương án Nguyễn Đình Thi. Chính Hữu - một nhịp lắc lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Một vỉa Lưu Trọng Lư. Hoàng Hữu và Thơ Hoàng Hữu. Ấn tượng Nguyễn Quang Thiều. Phát hiện Võ Thanh An. Thanh Thảo người đem đến những giá trị bổ xung. Huy Cận với tâm nguyện làm bục nhảy đưa sự sống lên cao...

Trong các chân dung văn học, thường thấy những kỷ niệm riêng của người viết và thường sử dụng nhiều mệnh đề khẳng định để soi chiếu, làm rạng lên hình nét của những khoảng sáng rộng lớn một khuôn mặt văn chương rồi đi đến cái nét chủ yếu của diện mạo đó. Với hai bài viết về Nguyễn Đình Thi có tới 12 mệnh đề như vậy. Như là sự hò hẹn tiền định với văn chương. Sự bừng sáng của trí tuệ. Hay như là: Lời thơ thi nhã mà ý thơ đậm, rất đời mà rất Việt Nam. Hoặc giả: thuộc số những người vượt qua giới hạn của cái chết. Hoặc một cỗ máy chưa được sử dụng hết công suất. Hay một thi sỹ đủ tài năng để cất lên tiếng nói của thời đại v.v... Tôi chờ đợi cái mệnh đề, cái kết luận cuối cùng về con người này. Không phải sự vàng son của một pho tượng hay một nóc nhà thờ ảo vọng mà lại là chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người, lại là vấn đề rất gần gũi với chúng ta: Vấn đề nhân phẩm con người - Một cống hiến quan trọng của Nguyễn Đình Thi vào tiến trình hiện đại thơ ca.

Với Chính Hữu, là tiếng hát của tâm hồn người lính trải qua những biến cố của lịch sử, những chấn động của thời cuộc với vang vọng nội tâm. Lưu Trọng Lư là dòng sông hợp lưu rạo rực của tuôn chảy lãng mạn, hiện thực và yêu nước v.v…

Mỗi chân dung văn học là một lần trân trọng lao động của nhà văn, đồng thời như một lần phát hiện ra sự reo vang của tâm hồn bản thân người viết. Chan chứa yêu thương mà tưởng như mềm yếu với Hoàng Hữu; chân chất kỷ niệm mà tỏa ấm với thương quá mười Thanh khi gặp lại mưa lưa thưa vừa đủ thương nhau ở đất mũi Cà Mau; Trang trọng mà chân thành với Nguyễn Quang Thiều, Thanh Tịnh... Phát hiện Võ Thanh An như phát hiện ra cả hai người... Đó là người đàn ông có trái tim đa cảm, có lúc mềm yếu, hào hiệp và khoan dung, hai người cùng một tâm trạng với nỗi buồn nhân thế, sự xấp ngửa ở đời, nỗi cô đơn, sự mất mát trong tình yêu, sự rợn ngợp trước cái thoáng chốc và cái vĩnh cửu. Những thi nhân đã tan biến vào nhau rồi chăng để người đọc chỉ thấy sự cảm thông, đồng điệu và tình thương mến?

Một cuốn sách bao phủ nhiều vấn đề như Bến Văn và những vòng sóng không phải không có những điểm cần bàn luận thêm như vấn đề kế tiếp của Thơ Mới, thơ kháng chiến chống Pháp, thơ thời chống Mỹ và thơ của bây giờ; Hay như tiến trình La tinh hóa tiếng Việt và giá trị của nó trong lịch sử văn học Việt Nam v.v... là những vấn đề phải có cả một chuyên luận mới giải quyết đầy đủ. Một cuốn sách phê bình văn học gợi mở cho người đọc tiếp tục mở mang ý nghĩa đa chiều của nó cũng là điều cần thiết.

Ở thế kỷ trước, các thi sỹ tài danh Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Đình Thi... và nhất là Chế Lan Viên sau khi tỏa sáng trên thi đàn họ tìm đến phê bình văn học như là lý do bù đắp lại cái ý tại ngôn ngoại của thơ nhằm giãi bày nét gãy khúc vô tận của chân trời văn học và nỗi tiềm ẩn thăm thẳm số phận con người qua những đời văn khát khao, dằn vặt trong cuộc bể dâu văn chương xem chừng chẳng bao giờ cạn. Xót xa, đau đớn và sâu sắc hơn cả là tâm sự của Chế Lan Viên về nhà phê bình vừa khóc vừa ôm lấy thi sỹ để cùng uống rượu và hát ở chợ danh vọng cũng là chợ văn chương rồi rút nắm tranh trên lều chợ ấy đốt lên để đọc trang thơ hay đến nỗi chẳng thể phê bình được nữa. Kỳ lạ thay, ngọn lửa đốt lều ấy cứ ám ảnh tôi bao lâu rồi như thể ngọn lửa của trí tuệ, lòng tin, danh dự và trách nhiệm của người được gọi là thi sỹ. Sau khi Thương lượng với thời gian, Hữu Thỉnh đã lên đường tìm kiếm Lý do của hy vọng để đến được Bến văn và những vòng sóng năm 2020, cho lan tỏa những trang trải và dư ba của một đời văn. Vì thế tôi không gặp lại nhà phê bình và thi sỹ đã đốt lều tranh ở thế kỷ trước để cùng đọc trang thơ ấy nữa suốt 454 trang sách của Hữu Thỉnh. Bởi vì như Hữu Thỉnh nói Ta im lặng vì quá nhiều mây trắng và:

Có gì trời đất mang theo

Thế gian muôn nỗi cánh diều mong manh

Rút từ tập Thương lượng với thời gian, nơi Hữu Thỉnh đã từng Sống một ngày lội qua cả kiếp người ./.

Nguồn: Báo Văn nghệ ngày 17/10/2020

Chú thích:

* Thơ Tagore:

Con người đi vào đám đông sôi động để nhấn chìm sự im lặng gào thét của chính mình.

** Thơ bạch Cư Dị

Cùng một lứa bên trời lận đận

Gặp gỡ nhau nào sẵn quen nhau.

Bài thơ Mộ Xuân tức sự - Tức cảnh cuối Xuân được Nguyễn Trãi (1380-1442) viết bằng chữ Hán là một trong số 73 bài của Ức Trai thi tập được người đời sau thu thập lại. Nguyên văn bài thơ đó được phiên âm như sau, có kèm theo lời đề tựa.

Nhĩ Nhã: khổ luyện tam nguyệt khai hoa, phương hương mãn đình.

Nhàn trung tận nhật bế thư trai,

Môn ngoại toàn vô tục khách lai.

Đỗ vũ thanh trung xuân hướng lão,

Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai.

Dịch nghĩa là:

            Sách Nhĩ Nhã nói: Tháng 3 cây xoan nở hoa, mùi hương thơm đầy sân.

                        Trong lúc nhàn nhã suốt ngày khép cửa phòng Văn,

                        Ngoài cửa không có một khách tục nào tới.

                        Trong tiếng Cuốc kêu, Xuân sắp tàn

                        Đầy sân mưa phùn nhẹ rơi khi hoa Xoan đang nở.

            Mộ Xuân tức sự mô tả cảnh cuối Xuân thật bình yên mà thanh tao. Chủ nhân nhàn tản và thư thái trong phòng văn suốt ngày khép cửa. Làm bạn với thánh hiền ẩn dật nơi trang sách. Tuyệt nhiên không có một người khách tục nào đến được nơi đây, cái phong cảnh mà có lần thơ Quốc âm của Ức Trai nói là không có khách đường trần nên chỉ làm bạn với thiên nhiên Láng giềng một đám mây bạc, khách khứa hai nghìn núi xanh thôi. Trong vắng lặng như tờ ấy, chợt nghe tiếng Cuốc kêu, người hiền sỹ mới biết ngày tháng đã qua đi và mùa Xuân sắp tàn. Như một lời nhắc nhở từ trong sâu thẳm của thiên nhiên với bậc cao nhân đã lâu ngày không nhuốm vào cõi tục. Lúc nghe tiếng chim mà ở đâu người Việt Nam ta đều cảm thấy có cái gì đó giục giã đến nao lòng và như nhắn nhủ phận người phiêu bạt nhớ về cố quốc quê hương ấy, người như mới thấy mưa phùn đang nhẹ rơi khi hoa Xoan đang nở. Bài thơ ẩn hiện thâm trầm chữ Hòa  和 trong tư tưởng người Phương Đông. Hòa là chuẩn tắc phổ biến nhất. Bức tranh chỉ nói đến phong cảnh mà ta thấy người ở đó. Thấy tâm trạng của thi nhân không thể không nói là không buồn trong sự thanh khiết của tâm hồn. Đáng chú ý nhất là cảnh hoa Xoan đang nở - Một loài hoa chẳng có gì rực rỡ hay quyến rũ tức thì. Người phương Bắc có danh từ để chỉ hoa Xoan. Nhưng hoa Xoan có nhiều loại. Thứ hoa Xoan mà Ức Trai tả ở đây là một loài hoa bình dân. Thường nở vào cuối Xuân. Cũng là lúc mùa Hạ sắp đến. Một loài hoa riêng có của vùng đồng bằng châu thổ Bắc Bộ bờ khoai ruộng mật của sông Hồng. Điều kỳ lạ ở chỗ. Dường như đó là lần đầu tiên, hoa Xoan nở trong thơ trung đại và cũng là lần đầu tiên trong thơ Nguyễn Trãi. Sau đó không thấy lặp lại một lần nào nữa trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông. Hiện tượng ấy có thể lấy ý tưởng của bài thứ 33 phần Bảo Kính Cảnh Giới của Quốc Âm Thi Tập để so sánh. Bảo Kính Cảnh Giới thứ 33 lấy hình tượng “giới tử đầu châm” nghĩa là hạt cải rơi xuống đầu kim trong Đại Niết Bàn Kinh của Phật giáo để nói về cái kỳ lạ không gặp lại ấy. Sự xuất hiện một lần của hoa Xoan nở trong thơ Ức Trai không phải là duyên phận tình cờ của tích Phật kia. Đó là sự mở đường cho thơ Việt Nam, tâm hồn và cốt cách của người Việt Nam với loài hoa dân dã này. Nó nhu mì và thuần phác, nín lặng nhường nhịn nhiều hơn nói của người nhà quê, nó khe khẽ báo hiệu rằng không phải mùa Xuân đến mau đây mà là mùa Xuân sắp tàn. Mùa Xuân sắp ra đi.

            Ức Trai Thi Tập có hẳn 73 bài thơ chữ Hán. Theo truyền thống thơ Phương Đông cổ điển thường mô tả Tùng, Cúc, Trúc, Mai như là biểu hiện của người quân tử. Tập thơ này có 12 lần nói đến Trúc, 7 lần nói đến Cúc, 10 lần nói đến Mai. Và như đã nói, không thấy Nguyễn Trãi gặp lại hoa Xoan một lần nào nữa. Quốc Âm Thi Tập với 254 bài thơ chữ Nôm có 33 bài trong mục Hoa Mộc Môn – Tức là thơ về các loài hoa có tới 9 loài hoa từ các loại hoa được coi là quý phái đến dân dã như Mai (5 lần), Cúc (2 lần), Đào, Mẫu Đơn và các loại hoa dân dã như hoa Dâm Bụt, hoa Mộc, hoa Nhài, hoa Sen mỗi thứ một lần xuất hiện; Cũng như thế với các loài cây Tùng, Trúc, cây Chuối, cây Đa cổ, cây Hòe, cây Mía, cây Dương Liễu … Cả 210 bài thơ thế sự khác của Thơ quốc âm Nguyễn Trãi không một lần nói đến hoa Xoan.

            Các nhà thơ cổ điển Phương Đông coi Tùng, Cúc, Trúc, Mai là biểu hiện cốt cách của Người quân tử nên thường có thơ về chúng. Còn lại họ để cho mùa Xuân hoa Đào nở, mùa Thu lá vàng bay. Ít ai như Nguyễn Trãi lại để tâm đến hoa Xoan nở vào lúc Xuân tàn.

            Các nhà thơ Trung Đại dường như không nói đến hoa Xoan. Xem thơ của 134 nhà thơ từ thế kỷ thứ 10 đến nửa đầu thế kỷ 19 trong hợp tuyển thơ văn Việt Nam in hồi năm 1976, tôi chưa tìm thấy một lần hoa Xoan xuất hiện. Ngay như Nguyễn Du (1765- 1820) sinh sau Nguyễn Trãi khoảng 400 năm, cũng thấy chưa một lần cho hoa Xoan nở trong các thi phẩm của mình qua ba tập thơ chữ Hán. Thanh Hiên Thi Tập viết từ 1786 đến 1804 – những năm gió bụi đường trường vất vả. Có khi đến 6, 7 năm, từ 1789 đên 1795 phải về quê vợ ở Thái Bình để ẩn thân. Thanh Hiên Thi Tập cả thảy 78 bài phần nhiều nói về sông Lam núi Hồng và một ít bài viết ở Lạng Sơn. Về các loài hoa có ba lần tả Cúc, hai lần tả Đào. Còn lại là Lan, Lựu, Đường Lê, Mai mỗi thứ một lần. 40 bài của tập Nam Trung Tạp Ngâm  viết khoảng 1804 đến 1812 khi nhà thơ thụ chức Đông Các học sĩ tước Du đức hầu và làm cai bạ ở Quảng Bình. Thơ Nam Trung Tạp Ngâm đặc biệt tâm sự hướng về sông Lam núi Hồng, nhớ về gia đình – Nơi ở Tiên Điền ông có người thiếp với 10 người con trai và 6 người con gái. Cảnh nhà quan lương thấp đông con nghèo túng, chỉ thấy đôi lần nói đến Trúc, đến Mai và một loạt năm bài viết về hoa Sen. Nguyễn Du thương cho bản thân mình khi đường về nhà chỉ mất có 3 ngày mà ôm lòng nhớ nó đến 4 năm, thẹn mình với làn mây trên đỉnh núi Hồng. Tập Bắc Hành Tạp Lục viết từ 1813 – 1814 thời gian đi sứ ở Trung Quốc. Tập thơ có tới 15 bài thơ dài. Trong đó có những bài thơ dài đặc sắc hơn cả như Long Thành Cầm Giả Ca, Phản Chiêu Hồn, Lương Chiêu Minh Thái tphân kim thạch đài, Sở Kiến Hành… là điều chưa gặp trong Thanh Hiên Thi TậpNam Trung Tạp Ngâm. Chuyến đi sứ phương Bắc kéo dài 12 tháng gối đầu từ tháng 4 – 1813 đến cuối tháng 3 – 1814 đã chứng tỏ sự am hiểu uyên bác lịch sử văn hóa Trung Hoa mà Nguyễn Du đã cảm nhận. Có lẽ cũng là một trong nhiều yếu tố giúp ông nhập hồn vào cảnh vào người của Kim Vân Kiều Truyện  đề viết ra những áng văn chương trác tuyệt của Đoạn Trường Tân Thanh mà chính trong bản nguyên gốc không hề có được. Nhưng tiếc thay, đó không phải là nơi để ông cảm hứng dù chỉ một lần trong hoài vọng về loài hoa Xoan quê kiểng. Đất Bắc, cái xứ sở mà ngay từ thời đó Nguyễn Du đã nhận ra sự suy tàn Đại thế của Trung Nguyên đã sụp đổ rồi. Tông miếu xã tắc của nhà Minh suy tàn đầy cỏ thu, về hoa trong tập thơ đồ sộ 120 bài, Nguyễn Du chỉ nhận ra có mỗi ba điều. Đó là cốt cách của cây Liễu khi đẹp nhất là lúc nó điên cuồng trong bão tố: tối điên cuồng xứ tối phong lưu. Đó là đất đai còn tỏa mùi hương thơm của hoa Lan, hoa Chỉ Thử địa do văn lan chỉ hương để Sở từ vạn cổ thử văn chương. Từ nỗi đau lòng, đau đời mà ông viết Phản Chiêu Hồn để khuyên Khuất Nguyên đừng bao giờ trở lại. Ngay cả hoa Mai mà Nguyễn Du chỉ thấy có hai lần khi 3 tháng chống chọi gió rét trên đường Từ Châu; một lần khác trên đường An Huy và biết loài hoa đó đâu phải giành cho người lữ khách xa lạ. Chỉ một lần nghĩ là tháng 3 sẽ về đến nơi quê nhà để thấy hoa Tường Vi nở. Tôi nín thở theo dõi ông trên đường thiên lý ấy, có một lần ông nghe tiếng Cuốc kêu: Nhất đái đề quyên triệt Vị Thành – tiếng chim Cuốc kêu suốt một dải Vị Thành, nhưng hôm ấy ở phương Bắc cánh đồng mùa Thu rất rộng, có hoa Xoan nào nở được ở đây. Cũng như có lần trong thơ Quốc Âm có bài Vãn Xuân – Xuân Muộn chỉ thấy tiết dương hòa ấm áp, cầm đuốc chơi đêm nghe tiếng chuông chùa chưa gióng mà biết mùa Xuân chưa hết và bài Hạ Cảnh Tuyệt Cú – Cảnh Mùa Hạ chẳng hiểu vì ai mà con Cuốc nó kêu để tay ngọc dùng dằng chỉ biếng thêu mà không thấy vế đối của tiếng chim Đỗ Quyên là hoa Xoan nở. Một lần thôi không gặp lại.

            Lịch sử thi ca Việt Nam ghi nhận, Nguyễn Trãi như là thi sỹ đầu tiên xúc động trước vẻ đẹp bình dị và quê mùa của hoa Xoan nở trong thơ và xem đó như là một trang thơ hoa thuần Việt khiêm nhường mà đầy ẩn ức. Bẵng đi mấy trăm năm, đến thế kỷ 20, điều mà Nguyễn Trãi mở đầu, hoa Xoan lại hiện về trong thơ như xốn xang nhắc nhở một thời rất xa đã trở lại. Nguyễn Trãi không chỉ sống trong lòng xã hội mới bằng những thiên cổ hùng văn mà cả những tâm sự đời thường như hoa Đào kín tiễn mùi hương dễ động người hay tàu lá chuối non chưa mở mà như tình thư một bức phong còn kín cùng với hoa Xoan như là những điều giản dị hàng ngày bước vào trong thơ mà có người nói nó đã mở ra một bước ngoặt cho cảm hứng sáng tạo giàu sức sống của thi ca Việt Nam gắn liền với quá khứ và hiện tại. Trên nhiều phương diện, Thơ Nguyễn Trãi là cầu nối giữa thơ ca bác học và thơ ca dân gian.

Phong trào thơ Mới 1930 -1945 được thế kỷ 20 gọi là một thời đại mới trong Thơ. Lạ thay nhiều thi sỹ bao duyên nợ đa đoan với làng quê như Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân … Thơ hay của họ chưa một lần có hình bóng hoa Xoan. Nhưng bức tranh quê thùy mị mà yên tĩnh của nữ sỹ Anh Thơ đã nhắc nhở người ta rằng thiên nhiên tĩnh tại là giá trị muôn thủa của hồn quê. Hoài Thanh cho rằng: Anh Thơ từ lâu chỉ chuyên lối thơ tả cảnh. Song đúng như ông ấy nói: Sau câu thơ ta mơ hồ thấy một cái gì: Có lẽ là hồn thi nhân. Chiều Xuân của Anh Thơ cũng có mưa bụi êm êm trên một bến đò vắng lặng và tôi như thấy hoa Xoan của ngày xưa đã hiện trở về cũng như thấy hình bóng chữ Hòa 和 trong thơ Nguyễn Trãi lan tỏa ở đây.

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng

Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi

Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng

Bên chòm Xoan hoa tím rụng tơi bời.

Nguyễn Bính là thi sỹ nhà quê nhất trong số các nhà thơ nhà quê thời 1930 – 1945. Hoài Thanh nói Nguyễn Bính đã đánh thức người nhà quê vẫn ẩn náu trong lòng chúng ta, nhưng tiếc thay ông ấy quá say sưa với hoa Chanh, hoa Bưởi, hoa Cam của Nguyễn Bính mà đã quên hẳn không đưa vào Thi Nhân Việt Nam hoa Xoan của thi sỹ nhà quê ấy. Mãi đến năm 1990, khi đã sau gần suýt soát một nửa thế kỷ, những người làm Tổng tập văn học Việt Nam tập 27 về Thơ 1930 – 1945, khi mà họ đã mất cái lợi thế anh hùng đoán giữa trần ai mới già của Hoài Thanh, lại không mấy thành công và được hoan nghênh bằng việc đưa thêm nhiều tác giả khác không thật tiêu biểu cho Thơ thời kỳ đó. Mặc dầu vậy, bài thơ hay nhất về hoa Xoan của thi ca Việt Nam hiện đại với vẻ đẹp sung mãn rồi tàn tạ của nó gắn với thân phận không may của người con gái làng Đặng đã được lựa chọn – Bài Mưa Xuân của Nguyễn Bính mở đầu bằng màn giới thiệu. Em là em gái trong khung cửi, dệt lụa quanh năm với mẹ già. Hoa Xoan ở đây không trầm tư như Nguyễn Trãi hay thùy mị như Anh Thơ. Nó ẩn chứa đầy dự báo không ngờ về thân phận con người.

                        Bữa ấy mưa Xuân phơi phới bay

                        Hoa Xoan lớp lớp rụng vơi đầy.

Người con gái nghe lời mẹ ngừng thoi dệt lụa để đi dự hội chèo làng Đặng; Mặc dù và có lẽ mưa bụi không ướt áo nên chàng lỗi hẹn không sang. Để cả mùa Xuân cũng lỡ làng. Kết cục duyên phận con người đã để hoa Xoan lúc mùa Xuân tàn tạ nói thay lời.

                        Bữa ấy mưa Xuân đã ngại bay

                        Hoa Xoan đã nát dưới chân giày.

Gần 40 năm sau kể từ Mưa Xuân của Nguyễn Bính, vào năm 1957, thi sỹ Trở Về Quê Cũ. Tôi ái ngại vẩn vơ với một người có lúc hay quên như ông, có lẽ sẽ quên mất hoa Xoan nở mất rồi. Nhưng không. Hoa Xoan một lần nữa lại nở trong ngập tràn hy vọng của nắng vàng và màu tím của hoa giữa buổi bồi hồi nơi chốn cũ.

                        Hôm ấy tôi đi nắng ửng vàng

                        Bồi hồi ngõ cũ tím hoa Xoan.

Giống như Nguyễn Bính, nữ sỹ Xuân Quỳnh cũng ươm được hai bài thơ hoa Xoan nở thật xuất sắc. Bài thơ Mùa Hoa Xoan N. Tháng 3 khi mưa phùn, chiều dạo qua ngang cửa, hoa tím rụng đầy sân. Có một người thiếu nữ nhặt cánh hoa cài lên tóc. Người ấy đã sớm nhận biết sự tàn tạ của mùa Xuân. Nhớ lại thời xưa yêu dấu khi biết làm duyên ở tuổi trăng tròn. Hoa Xoan gợi lại thời khắc đẹp nhất ấy, dù đó là xưa cũ chẳng bao giờ trở lại.

Hoa Xoan tàn mùa Xuân tàn rồi đó

                        Xưa, mười lăm em đã biết điệu đàng.

            Mùa xuân năm 1976, khi Xuân Quỳnh đã 34 tuổi, có viết bài thơ Gửi Mẹ, kể về làng dệt La Khê ngoại thành Hà Đông với sông Nhuệ đò sang hoa Xoan tím ngát; Hoài niệm về người mẹ, ngỡ như mẹ trở về vào dịp hoa Xoan: Mẹ ạ, hoa Xoan bay đầy ngõ.

Hồi 1969-1970, tôi đã thấy hoa Xoan của Xuân Quỳnh bên bờ sông ấy và trong sân các ngôi chùa cổ ở xứ Đoài. Không hiểu sao lúc đó lại nghĩ loài hoa đó dành riêng cho người già thanh bạch, nhiều ẩn ức và những cô thôn nữ đã mơ hồ nhận biết được mình là ai. Đôi khi liên tưởng hoa Xoan trầm lắng kia cũng yên lặng giống như một hoài niệm hay lý thuyết của đạo Phật mà có lần Nguyễn Du đã nói: Phật vốn là không, không dính gì đến muôn vật. Mỗi lần đi xa, ngoảnh lại quê hương xứ Đoài lần nào cũng thấy hoa Xoan ấy im lặng như bóng người mẹ hiền thầm nhắn nhủ một điều gì và chờ đợi một điều gì ở đứa trẻ xa quê.

            Khoảng 20 năm gần đây có tới hơn 20 bài thơ viết về hoa Xoan. Phần nhiều được đăng trên văn học mạng. Ít bài có tứ thơ khác lạ. Phần nhiều nói hoa Xoan cùng với các loài hoa khác và nhiều khi với tâm trạng của người thành thị. Cái nhu mì mà ẩn ức của hoa Xoan Nguyễn Trãi đã không còn nữa. Cây Xoan người nhà quê trồng để lấy gỗ làm nhà. Không phải để lấy hoa. Hoa Xoan theo chân Xuân cuối mùa để trầm lắng một niềm tâm sự những gì chưa nói hết của mùa Xuân ở thôn quê.

Trở lại bài Mộ Xuân Tức Sự, người ta cho là được Nguyễn Trãi viết ở Côn Sơn. Tôi đã xem Côn Sơn Ca của Nguyễn Trãi viết vào thời đó và đã đi theo Côn Sơn Hành của thiên tài Cao Bá Quát (1808-1855) xem ngày xưa cho đến bây giờ có hoa Xoan nở vào dịp cuối Xuân không? Chỉ thấy Cao Chu Thần miêu tả tiếng thông reo làm khuây cả nỗi lòng xa xôi, chỉ thấy bên cầu Thấu Ngọc dưới động Thanh Hư hoa dại lăn tăn nở và tiếng chim ríu rít, Danh cao tự nghìn xưa phó mặc cho vòm trời xanh ngát. Phía xa bến sông Lục Đầu từng trải qua trăm trận đánh mà nay Cao Bá Quát chỉ thấy một chiếc thuyền câu. Trong bài thơ dài Tiễn ông Nguyễn Trúc Khê Ra Nhậm Chức ở Phủ Thường Tín, Cao Bá Quát có dặn bạn nhớ về làng Nhị Khê mà vái lạy nhân vật tuyệt vời ấy. Có lẽ hình bóng của hoa Xoan nở vào thơ Ức Trai là đi từ ký ức của ông về loài hoa đó ở Nhị Khê chăng?

Nguyễn Trãi sinh năm 1380 ở kinh thành Thăng Long. Năm 1385 bà Trần Thị Thái, con gái quan tư đồ Trần Nguyên Đán - đã từng ở Côn Sơn mượn lửa thuyền chài đọc sách xưa - là mẹ của Nguyễn Trãi mất, Nguyễn Trãi theo cha về sống ở Nhị Khê. Không biết kéo dài bao lâu cho đến 1400, ông thi đỗ Thái Học Sinh và ra làm quan với chức Ngự Sử Đài Chánh Chưởng. Cha ông Nguyễn Ứng Long đổi tên Nguyễn Phi Khanh làm Hàn Lâm Học Sỹ kiêm Tư Nghiệp Quốc Tử Giám dưới triều Hồ Quý Ly. Trong Quốc Âm Thi Tập, có tới 5 lần ông nhắc tới quê  hương Nhị Khê. Khi thì Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân (Mạn thuật bài số 11). Khi thì quê cũ chẳng về nỡ bỏ hoang (Tự thuật bài số 6). Khi thì quê cũ tìm về cảnh cũ thanh (Bảo kính cảnh giới - bài số 31). Rồi Một cày một cuốc thú nhà quê (Thuật hứng bài số 3). Hoặc là trong Bảo kính cảnh giới bài số 28.

Nghìn dặm xem mây nhớ quê

Chẳng chờ cởi ấn guợng xin về.

Ức Trai Thi Tập có bài Tặng hữu nhân, Nguyễn Trãi giải bày tâm sự thương người bạn vừa nghèo vừa bệnh, cùng ngông cuồng và cùng ông làm khách xa nghìn dặm, cùng biết đọc mấy hàng chữ sách… không biết người này là ai. Lý Tử Tấn? Vũ Mộng Nguyên? Cùng đỗ Thái học sinh. Ông hẹn người đó về quê làm ruộng.

                        Năm nào hẹn về Nhị Khê

                        Đội nón lá, vác cuốc đi làm vụ Xuân.

Tôi nhớ có lần Lý Tử Tấn (1378-1454) người cùng phủ Thường Tín với Nguyễn Trãi, cùng đỗ Thái học sinh, cùng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn làm bài thơ Đế vách nhà Ức Trai có câu: Khi việc đã xong, lui về đốt hương ngồi một mình. Theo những dòng tâm sự ấy, vào năm 2000 tôi về làng Nhị Khê viếng Nguyễn Trãi. Đúng vào dịp Mộ Xuân. Qua khỏi Quán Gánh, rẽ tay phải là đến nơi. Thật là bất ngờ. Hoa Xoan nở vào thơ Ức Trai ở xóm Nhị Khê. Tháng 3 năm nay loài hoa tím chốn thôn quê lại rải đầy mặt đất. Tưởng năm trăm qua chẳng có chuyện gì. Loài hoa nhỏ nhập vào hồn thi nhân nhập vào hồn đất Việt. Năm trăm năm qua ông vẫn trở về nhà. Đội nón lá, vác cuốc đi làm trên cánh đồng mùa Xuân. Hoa Xoan nhỏ như những hạt mưa tím rắc đầy trong ngõ. Đó là đoạn thơ trong bài Về Nhị Khê, nhớ Nguyễn Trãi, tôi viết vào năm 2000, khi vừa được trên bổ nhiệm một… chức quan nhỏ, gần giống như Ngự Sử Đài ngày xưa. Chuyến đi ấy, tôi đã nhìn thấy những khoảng đất trong làng Nhị Khê trồng Xoan đang mùa hoa nở. Có lẽ nó đã ở đây từ 500 năm trước rồi sao?

Nguyễn Trãi đã tự buộc phận mình vào lịch sử. Như buộc sợi cỏ bồng vào một chiều đất Việt đầy mây. Không có ai khen Nguyễn Trãi hay như vua Lê Thánh Tông. Ức Trai lòng sáng tựa sao khuê. Vâng, Nguyễn Trãi sáng như sao khuê trong lịch sử Việt Nam không phải chỉ bằng Bình Ngô Đại Cáo thiên cổ hùng văn ngợi ca sự chiến thắng của nhân nghĩa mà còn bằng Mộ Xuân tức sự nhu mì một chữ Hòa với hoa Xuân nở trong làng quê Việt Nam nghìn năm bình dị.

Sự liên hệ của một lần hoa Xoan xuất hiện trong thơ Nguyễn Trãi và sự tiếp nối của loài hoa ấy trong thơ hiện đại phải chăng như kinh Phật đã nói: Một là tất cả, tất cả là một. Đó là lẽ sống của thi ca Việt Nam mọi thời đại cùng yêu mến và nâng niu cảnh sắc đất nước quê hương mình dù đó chỉ là điều bình dị nhất như hoa Xoan nở mà thôi.

                                                                                                            Mộ Xuân 3-2020.

20200831 3

Năm 2017, khi quan sát hành trình phát triển của thơ Việt trên mạng internet, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Hiếu nhận thấy có 2 chặng: 10 năm đầu thơ xuất hiện trên tạp chí điện tử với những thử nghiệm cách tân và 10 năm kế tiếp thơ phát triển mạnh trên blog cá nhân, thiên về lối viết đại chúng. Sự sinh sôi này của dòng thơ đại chúng gắn liền với sự phổ biến của mạng xã hội, với những đặc trưng cơ bản của văn học thị dân là tính giải trí và thương mại.

1. Những nhà thơ “best-seller” và công chúng

Tập thơ Đi qua thương nhớ của Nguyễn Phong Việt tạo nên một hiện tượng trong giới xuất bản cuối năm 2012 khiến nhiều người hồ hởi mong đợi một sự hồi sinh của thị hiếu dành cho thơ, khi mà những nỗ lực cách tân ngày càng khiến thơ đương đại trở nên xa lạ với công chúng. Đúng như dự doán, nhiều tập thơ từ đó ồ ạt ra kệ sách. Số lượng ấn bản thơ được tiêu thụ đủ để một số cây bút thơ trẻ trở nên quen thuộc với công chúng. Mật độ xuất bản thơ của những tác giả này rất dày. Nguyễn Phong Việt (1980) mỗi dịp Giáng sinh đều ra mắt một tập thơ mới: Từ yêu đến thương (2013), Sinh ra để cô đơn (2014), Sống một cuộc đời bình thường (2015)...; Nguyễn Thiên Ngân (1988) khởi nghiệp với truyện nhưng sau đó lại gặt hái tiếng tăm từ thơ với các tập Mình phải sống như mùa hè năm ấy (2012), Lạ lùng sao đớn đau này (2013)...; Trần Việt Anh (1989) có Rẽ lối nào cũng gặp nhớ thương (2014) dẫn đầu danh mục sách bán chạy của trang web bán hàng Tiki. Du Phong Nguyễn Tuấn Trung (1991) mỗi năm ra 2 tập thơ: Đừng gọi anh là người yêu cũ (2015), Có anh ở đây rồi hạnh phúc cũng ở đây (2015), Những gì đã qua đừng nghĩ lại quá nhiều (2016), Nắm tay anh rồi bình yên sẽ tới (2016)… Nhiều tập thơ trong số kể trên được tái bản nhiều lần, có tập đạt đến hàng vạn bản in.

Khu vực thơ viết bằng tiếng Anh cũng nổi lên những hiện tượng mạng xã hội tương tự. Gây chú ý nhất là nhà thơ Canada gốc Ấn Rupi Kaur (1992) với gần 3.7 triệu lượt theo dõi trên instagram. Tập thơ đầu tay của cô Milk and Honey (2014) có tên trong danh sách bán chạy của The New York Times suốt 103 tuần, được dịch ra 40 thứ tiếng và tiêu thụ hơn 3.5 triệu bản trên toàn thế giới (Myers, 2019). Rupi Kaur và những nhà thơ khác trên mạng xã hội như Lang Leave, Atticus, Amanda Lovelace... tạo ra một dòng thơ mới, gọi là instapoetry. Khái niệm này không chỉ dùng để gọi thơ (poetry) xuất hiện và lưu truyền trên instagram (insta) mà chỉ chung thơ ca trên mạng xã hội, nhấn mạnh tính chất tức thời (instant) của nó: sáng tác tức thời và lưu hành tức thời. Instapoetry thu hút nhiều ý kiến tranh luận trái chiều. Có người tin rằng instapoetry là sự hồi sinh của thơ trong một dạng thức mới, như Monique View trong bài “Thơ ca đại chúng và thế giới tương lai: thơ mạng xã hội của thế hệ mới”, Faith Hill - Karen Yuan trong bài “Instagram đã cứu thơ như thế nào”, Jessica Myers trong “Thơ instagram: mạng xã hội đã phục sinh một loại hình nghệ thuật lâu đời như thế nào”... Ở chiều ngược lại, rất nhiều người cho rằng instapoetry không phải là thơ vì sự đơn giản và thô sơ quá mức trong câu chữ, hình ảnh, có khi trùng khít với lời nói thông thường. Thậm chí Andrew Lloyd còn tự tạo một tài khoản instagram để đăng các bài thơ dở tệ của mình lên - và lạ thay, chúng vẫn thu hút công chúng trên instagram - để chứng minh rằng thành công của instapoetry nằm ngoài các giá trị thẩm mĩ.

Thơ Việt trên mạng xã hội không đơn giản, thô sơ đến mức trùng khít lời nói đời thường như instapoetry vì đa phần chúng vẫn được viết theo các thể thơ truyền thống ít nhiều đòi hỏi dụng công trau chuốt, nhưng thành công về mặt doanh số của các nhà thơ mạng xã hội Việt Nam giống các instapoet phương Tây ở chỗ họ đã tạo nên một cộng đồng văn hóa đại chúng của riêng họ trên các nền tảng mạng xã hội. Mạng xã hội dung chứa và nuôi dưỡng cùng lúc thơ dân gian đương đại và thơ đại chúng. Cả hai đều do người dùng đương đại sáng tác và lưu truyền, nhưng nếu thơ dân gian mang tính ẩn danh, phi lợi nhuận, mang nét giễu nhại, giải thiêng thì thơ đại chúng đặc biệt lăng-xê tác giả, có tính thương mại và chiều theo thị hiếu đám đông.

Nhìn vào số lượng tiêu thụ ấn bản đáng kinh ngạc của dòng thơ đại chúng sinh thành từ mạng xã hội, người ta dễ đặt câu hỏi rằng người mua những tập thơ ấy là ai. Vận dụng khái niệm phục trang bản ngã (self-fashioning), Trần Ngọc Hiếu giải thích rất thuyết phục tâm lí của không chỉ người sáng tác mà cả người thụ hưởng các tác phẩm thơ đại chúng trên mạng. Mỗi người luôn biểu hiện những chân dung/ tổ hợp tính cách (persona) khác nhau trong các tương tác xã hội khác nhau và những tổ hợp tính cách này được “đọc” thông qua các tín hiệu về hình thức (fashion) do bản thân (self) người đó tạo nên một cách có chủ đích. Trên mạng xã hội, người dùng xây dựng chân dung chỉ là một phần con người thật của họ. Người viết xây dựng chân dung để hấp dẫn người đọc, người đọc trích dẫn hoặc chia sẻ tác phẩm như một phần trong việc xây dựng chân dung cho mình, để cho thấy mình thuộc một nhóm xã hội nào đó mà họ muốn thuộc về. Từ phân tích của Trần Ngọc Hiếu có thể mở rộng giải thích việc người đọc đổ xô mua các tập thơ nổi tiếng trên mạng xã hội. Phục trang bản ngã là một vấn đề tâm lí - xã hội nói chung nhưng nó biểu hiện rõ nét trên không gian mạng, nơi các chân dung được xây dựng nếu không đẹp đẽ hoàn hảo thì cũng khiếm khuyết một cách hấp dẫn để gửi đi một thông điệp nào đó, chẳng hạn “ế trong tư thế ngẩng cao đầu”, “phụ nữ cần mạnh mẽ dù cô đơn”... Phục trang bản ngã đặc biệt thu hút tuổi thanh thiếu niên, độ tuổi khách hàng tiềm năng của các ấn phẩm thơ mạng xã hội. Ở tuổi này, con người thường có hình mẫu lí tưởng mà họ xây dựng trong đầu. Nếu gặp một chân dung trùng khít với tưởng tượng của mình, họ sẽ lập tức trở thành người hâm mộ. Hơn nữa, hiệu ứng đám đông cũng tác động mạnh đến tuổi thanh thiếu niên, là kết quả của nhu cầu thể hiện chân dung ở tuổi này nhằm khẳng định sự thuộc về một nhóm xã hội mong muốn. Điều này giải thích cho hiện tượng ăn theo xu hướng và sùng bái thần tượng đại chúng của giới trẻ, kể cả trong âm nhạc, phim ảnh lẫn văn chương.

Sức hút chân dung của người sáng tác và nhu cầu xây dựng chân dung cho bản thân không phải là động cơ tâm lí duy nhất của công chúng thơ mạng xã hội. Sự hấp dẫn của thơ mạng xã hội với công chúng trẻ hiện nay còn có thể giải thích dựa vào đặc trưng không lặp lại của thế hệ Y và lứa đầu của thế hệ Z. Thế hệ Y ở các nước Âu - Mĩ gồm những người sinh khoảng từ đầu thập niên 80 đến giữa thập niên 90 của thế kỉ XX, nhưng ở Việt Nam muộn hơn, khoảng từ giữa thập niên 80 đến cuối thế kỉ XX. Đây là thế hệ tiếp xúc với thế giới ảo trong quá trình trưởng thành, nhưng vẫn có hoài niệm về một thế giới không có các thiết bị kĩ thuật số. Tuy nhiên, thế hệ Y chỉ là công dân nhập cư của thế giới ảo chứ không phải là công dân bản xứ của thế giới này như thế hệ Z (ra đời trong thập niên đầu thế kỉ XXI) và thế hệ alpha (sinh trong khoảng thập niên thứ hai của thế kỉ XXI) không có kí ức về thế giới phi kĩ thuật số. Thế hệ Y mang tâm trạng cô đơn lưỡng phân đặc thù. Họ vừa hài lòng với thế giới ảo tốt đẹp, tiện nghi nơi mình đang định cư vừa nuối tiếc thế giới phi kĩ thuật số vì nó gắn với thời thơ ấu trong lành. Trên bình diện kinh tế, thế hệ Y ở Việt Nam lớn lên trong thời kì Đổi mới chịu rất nhiều áp lực ở tuổi trưởng thành khi phải tìm cách chen chân vào một thị trường lao động có sự cạnh tranh khốc liệt khi đất nước góp mặt vào quá trình toàn cầu hóa. Những điều này khiến thế hệ Y được nhận diện là một thế hệ tràn ngập nỗi buồn, sự cô đơn nhưng vẫn chứa chan mộng tưởng. Đặc điểm này gặp gỡ đặc trưng của chủ nghĩa lãng mạn, tạo nên một làn sóng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm văn học lãng mạn ở thế hệ này trên quy mô đại chúng. Phần lớn tác giả thơ Việt đại chúng trên mạng xã hội thuộc thế hệ Y. Thơ của họ xoay quanh hạnh phúc, buồn đau trong tình yêu: Chúng mình quên được nhau chưa? Hay còn tuyệt vọng như vừa qua nhau?! (Nguyễn Thiên Ngân); ý thức về sự mong manh của niềm vui trong cuộc đời: Muốn đưa tay níu thời gian/ Để đời mình có thêm ngàn khắc vui (Du Phong). Những cảm xúc và nhạc điệu của dòng thơ này vừa giống Thơ mới 1932-1945 vừa mang dấu ấn đương đại từ ngôn từ đến lối sống: Em đã có nửa tháng tư xa cách/ chiều hôm qua lướt facebook thấy buồn/ ở trên mạng người ta thay nhau trách/ ôi, những ngày chỉ muốn bỏ đi luôn (Linh Tumblr); đến cảm giác căng thẳng, mệt mỏi rất đặc trưng của thanh niên thế kỉ XXI: Nếu một ngày nào đó trong đời/ Tôi gửi đi một tin nhắn cầu cứu/ Bạn có đến tìm tôi? (Trần Việt Anh). Những nội dung và cách diễn đạt này bắt được tần số của đông đảo công chúng thế hệ Y vừa hiện đại vừa hoài cổ.

2. Mạng xã hội như một trường lực của thơ đại chúng

Nhà xã hội học người Pháp Pierre Bourdieu hình dung văn học và các thiết chế xã hội khác như những trường (field) vật lí trong đó các tác tố (agent) được hình dung như các ion dương và ion âm, phóng những lực tác động ngược chiều nhau lên các tác tố khác, chi phối sự di chuyển của tác tố trong trường. Với lí thuyết này, Bourdieu muốn giải thích các vấn đề của khoa học xã hội một cách khách quan như khoa học tự nhiên. Tuy nhiên, ông không hoàn toàn loại bỏ vai trò của con người nên đã tính luôn vào hợp lực những lực phát ra từ chiến lược (strategy) sử dụng vốn (capital) của tác tố con người. Mạng xã hội cũng có thể hình dung như một trường lực mà các tính năng kĩ thuật của mạng, người dùng, cùng những nội dung được tạo ra và chia sẻ là những tác nhân vừa phóng lực vừa chịu lực từ những tác nhân khác trong trường và từ các trường lân cận. Hợp lực từ những tác nhân này đã hình thành, thúc đẩy sự phát triển và định hình đặc trưng của thơ đại chúng mạng xã hội.

Lực kĩ thuật - công nghệ tác động đến thơ xuất phát từ các tính năng đặc thù của mạng xã hội mà không gian sáng tạo thơ truyền thống ít hỗ trợ hoặc thậm chí không có. Nổi bật trong số đó là kĩ thuật truyền thông đa phương tiện giúp tạo nên các sản phẩm nghệ thuật đa phương tiện (multimedia art). Những nền tảng như facebook, instagram... đều tạo điều kiện để người dùng đăng nhiều hình ít chữ. Lực này tác động lên tác giả khiến họ có lúc ít dụng công hơn trong từ ngữ, có nhiều câu thơ như ngẫu hứng viết ra: Ngày nào đó hạnh phúc/ Xin đừng ngang qua nhà/ Tôi đâu còn ở đó/ Tôi mang tim đi xa (Nồng Nàn Phố). Đặc biệt lực này khiến thơ tự do và thơ văn xuôi ngày một phổ biến hơn: Anh đừng nói xin lỗi em nghe đã đủ rồi, nếu nói chỉ cho có vậy thì đừng nói thì hơn (Du Phong). Ở phía người đọc, truyền thông đa phương tiện làm giảm sức mạnh khơi gợi trí tưởng tượng của ngôn từ. Trong một lượt thưởng thức, tranh vẽ hoặc hình chụp và video lấp vào khoảng trống lẽ ra là chỗ của trí tưởng tượng, lâu dần làm mòn năng lực cảm thụ ngôn từ của người đọc, khiến họ chỉ cảm thấy dễ chịu với những câu từ, hình ảnh thơ đơn giản, quen thuộc.

Một lực kĩ thuật khác của mạng xã hội nhưng thật ra lại bắt nguồn từ lực thương mại là hiệu ứng buồng phản âm (echo chamber). Khái niệm này chỉ việc người dùng mạng xã hội phát ra thông tin gì thì thuật toán của mạng xã hội sẽ lọc những thông tin tương tự để cung cấp cho họ. Thuật toán này ban đầu được tạo ra nhằm thu thập thông tin nhu cầu người dùng để bán lại cho các nhà quảng cáo. Một lần nhấn nút thích (like) đôi câu thơ của một nhà thơ trên facebook rất có thể dẫn đến việc người dùng bị bao vây trong thế giới ngập tràn những câu thơ, bài thơ tương tự. Lâu dần, họ có thể từ từ ngấm và gia nhập cộng đồng thơ này.

Lực thương mại tác động lên thơ ca trong trường mạng xã hội là loại lực rất mạnh tạo nên dòng thơ đại chúng trực tuyến này. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của các công ti sách tư nhân khiến trường văn học Việt Nam thế kỉ XXI nghiêng hẳn về cán cân thương mại. Với chuyên môn kinh doanh, họ nhanh chóng xác định được đối tượng khách hàng tiềm năng là thế hệ Y và những người ở tuổi thiếu niên (thế hệ Z), biết khai thác bản thảo bằng cách lùng sục các trang mạng xã hội, tận dụng hiệu ứng buồng phản âm để quảng cáo, hỗ trợ tác giả xây dựng các chân dung (persona) trên mạng như cách mà truyền thông xuất bản gọi Du Phong là “hoàng tử thơ tình”. Đặc biệt, các công ti sách giúp tác giả tập hợp, chăm sóc một cộng đồng người hâm mộ (fan) trung thành trên mạng xã hội. Các tác giả trẻ nổi tiếng của dòng thơ đại chúng đều có tài khoản ở nhiều mạng xã hội khác nhau và có trang người hâm mộ (fanpage). Nguyễn Thiên Ngân có tận 3 trang người hâm mộ là Nomad Nguyễn Thiên Ngân, Thơ Nguyễn Thiên Ngân và Trang thơ Nguyễn Thiên Ngân. Nguyễn Phong Việt cũng có 3 trang người hâm mộ là Nguyễn Phong Việt, Thơ Nguyễn Phong Việt và Trang thơ Nguyễn Phong Việt. Dưới tác động của hiệu ứng buồng phản âm, người hâm mộ đến lượt họ cũng chia sẻ lại các câu thơ của các tác giả đại chúng mình yêu thích. Đặc biệt hơn, người hâm mộ chuyển vai trò từ người tiêu thụ sang người sản xuất khi họ không chỉ chia sẻ các nội dung đã được soạn sẵn, mà họ tái sản xuất một đơn vị nghệ thuật đa phương tiện trên mạng xã hội bằng cách tách những đoạn thơ, câu thơ họ thích và gắn cho nó những bức ảnh hoặc đoạn phim khác, thậm chí chèn thêm cho nó một câu chuyện hay hoàn cảnh khác. Ở khía cạnh này, văn hóa đại chúng tiệm cận văn hóa dân gian nhìn từ góc độ tái sáng tạo sản phẩm nghệ thuật, nhưng nó khác với văn hóa dân gian ở chỗ sự tồn tại của các từ khóa đảm bảo quyền sở hữu và tăng giá trị thương mại cho tác giả, tác phẩm.

Trong trường văn học, lực thẩm mĩ ngược chiều với lực thương mại. Tác phẩm càng bán chạy thì càng ít khả năng làm thỏa mãn nhóm người đọc chuyên nghiệp đã trải qua giáo dục đặc thù về văn học, càng không có sức đẩy văn học thuần túy lên bước phát triển mới. Với tác động mạnh của lực công nghệ và lực thương mại, lực thẩm mĩ trong trường mạng xã hội tất yếu giảm xuống. Dòng thơ đại chúng tiếng Việt trên mạng xã hội hầu như không có cách tân hay nỗ lực đổi mới kĩ thuật, phương thức phản ánh. Tóm lại, không thể trông chờ sự phát triển về chuyên môn, chất lượng nghệ thuật của dòng thơ đại chúng trên mạng xã hội.

Thơ là thể loại có sức lan tỏa mạnh mẽ trên mạng xã hội trong thập niên thứ hai của thế kỉ XXI. Bị chi phối bởi lực kĩ thuật công nghệ, lực thương mại và lực thẩm mĩ, dòng thơ đại chúng Việt trên mạng xã hội cuốn vào trong nó không chỉ người sáng tác mà cả người thưởng thức cùng tham gia sáng tạo những giá trị mang tính nghệ thuật - thương mại. Xu thế này không chỉ xuất hiện trong không gian mạng tiếng Việt, cho thấy tác động của mạng xã hội đến việc sáng tạo và thưởng thức thơ ca của nhân loại nói chung, đặc biệt lôi cuốn sự tham gia của thế hệ Y và lứa đầu của thế hệ Z. Với sự tiến bộ đến chóng mặt của khoa học công nghệ, thế giới ảo từng ngày đổi dạng, thế hệ Y và Z rồi sẽ đi qua thời niên thiếu, tuổi trẻ của họ, nên dòng thơ này rất có thể sẽ mất đi hoặc tự biến hóa, mang những thanh sắc khác trong tương lai.

 

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 31.8.2020.

Trong cuộc nói chuyện mới đây tại festival văn học Hay, nhà sử học và nhà viết tiểu sử ở Cambridge là John Guy đã nói rằng ông đang nhìn thấy một số lượng lớn sinh viên có triển vọng trích dẫn các tiểu thuyết lịch sử Wolf Hall (2009) và Bring up the Bodies (2012) của Hilary Mantel(1), nhà văn được giải Booker, như một cứ liệu bổ sung cho hiểu biết của họ về lịch sử thời Tudor(2).

Guy cho rằng có lẽ bộ ba chưa hoàn tất của Mantel viết về cuộc đời và sự nghiệp của Thomas Cromwell - tập cuối của nó, The Mirror and the Light, sẽ ra vào năm nay - là một kho tri thức đối với một số lớn học sinh cuối cấp say mê lịch sử. Và điều này bất chấp việc là trong các sách của bà có không ít những sự kiện lịch sử không chính xác (đơn cử chẳng hạn Thomas More bị coi là một bạo chúa căm ghét phụ nữ, Anne Boleyn là một con quỷ cái, còn một chánh án ở London đã đưa More tới chỗ hành hình).

Báo Anh The Guardian dẫn lời Guy nói rằng “sự xóa nhòa ranh giới giữa thực tế và hư cấu này là điều đáng lo ngại”. Thực sự, lời nhận xét của Guy về sự mập mờ thực tế và hư cấu cũng như những quan niệm về tính xác thực cần được đọc như một điều dự đoán lo lắng. Vào thời đại của Trump và các tin giả (fake news), điều đặc biệt quan trọng là phải coi cái gọi là “những sự kiện thay thế” (alternative facts) là thứ nhảm nhí và phải kiểm tra kĩ lưỡng cách viết của các tác phẩm nghệ thuật.

Thế nhưng truyện lịch sử, với tất cả các biến thể của nó, vẫn có khả năng và thường nêu lên những câu hỏi sống còn về việc chúng ta mô tả và quan niệm thế nào về quá trình lịch sử. Quả thực, khi các nhà văn viết truyện lịch sử hư cấu về quá khứ thì đôi khi họ làm việc đó nhằm làm sắc nét hơn là làm mờ đi khả năng của chúng ta trong việc tách biệt thực tế khỏi hư cấu.

Không có những sự kết thúc

Bài giảng đầu tiên trong năm bài giảng sẽ phát trên sóng Radio 4 đài BBC, Mantel cũng nói rằng khi chết “chúng ta bước vào hư cấu”, cuộc đời của những người chết là được cấu thành và cấp nghĩa bởi người sống - dù đó là nhà sử học hay là nhà viết truyện lịch sử. Như người kể chuyện trong cuốn Bring up the Bodies nói: “Không có những sự kết thúc”. Thay vào đó, những sự kết thúc luôn là “những sự khởi đầu”, là nền tảng của các hành động diễn dịch.

Theo Mantel, quá khứ không phải là cái chúng ta tiếp nhận một cách thụ động, mà là cái chúng ta tích cực “tạo ra” trong mỗi hành động nhớ lại. Tất nhiên nói thế Mantel không có ý nói là không có các “sự kiện” lịch sử hay là quá khứ không hề diễn ra. Đúng hơn bà nhắc chúng ta rằng bằng chứng mà chúng ta dùng để cấp cho quá khứ một hình thức tự sự “luôn tản mát” và thường là “không đầy đủ”. “Sự kiện không phải là sự thật”, Mantel nói, mà là “sự ghi lại cái đã được ghi lại” (bằng chứng việc người đương thời đã nhìn chúng như thế nào). Việc của người sống là diễn dịch, hay đúng hơn là diễn dịch sai, những cái được ghi lại đó.

Về mặt này công việc của nhà văn viết truyện lịch sử không trái ngược hẳn với công việc của nhà sử học chuyên nghiệp: Cả hai đều phải suy nghĩ sáng tạo về những cái còn được giữ lại, phải tiến hành - nhất là khi đối mặt với những khoảng trống và sự câm lặng trong kho lưu trữ - “sự lựa chọn, sàng lọc, sắp xếp khéo léo”, tức là những thủ pháp văn học gần với nhà tiểu thuyết Philippa Gregory hơn là với nhà sử học Guy. Tuy nhiên, Mantel nói tiếp, trong cả hai lĩnh vực đều có những trường hợp ngoại lệ, đưa đến sự “tự vấn” và luôn muốn hoài nghi tính xác thực trong công việc của mình.

Hàm răng của Richard

Những suy nghĩ của Mantel về truyện lịch sử có nhiều điểm chung với một tác giả vĩ đại khác cũng viết về thời Tudor: William Shakespeare.

20200518 2
Trong khi tác phẩm Richard III (1592) của Shakespeare có thể đọc như một tượng đài hùng tráng tuyên truyền lịch sử - nó kể về Richard, vị vua cuối cùng của dòng họ Plantagenets, kẻ tiếm ngôi độc ác, và Richmond, vị vua đầu tiên của dòng họ Tudor và là người ông của Elizabeth I như một nhà tiên tri cứu quốc, vở kịch cũng nêu lên những suy nghĩ nghiêm túc về bản chất đặc thù của sự thật lịch sử.

Lấy đoạn đối thoại ở hồi II cảnh IV của vở kịch diễn ra ngay trước khi hai chàng hoàng tử trẻ bị kết án được giải đến tháp tù. Tại đây, người trẻ hơn, công tước York, hỏi bà mình, nữ công tước York, về những chuyện mà chàng nghe được về sự ra đời của người bác:

“Công tước: Bà ơi, họ nói là bác cháu lớn nhanh đến mức mới hai giờ tuổi đã gặm được vỏ bánh mì.
Nữ công tước: Cháu ơi, ai kể cho cháu chuyện đó vậy?
Công tước: Thưa bà, nhũ mẫu của bác kể ạ.
Nữ công tước: Nhũ mẫu của bác ư? Sao lại thế được, bà ấy chết trước khi cháu sinh ra mà.
Công tước: Nếu không phải bà ấy thì cháu không biết là ai kể”.

Khi biết được bà nhũ mẫu của bác mình đã chết trước khi mình sinh ra, cậu bé không thể nói được là cậu nghe chuyện về hàm răng sắc của người bác từ ai. Cậu đã nhớ sai nguồn của mình, đã xóa mờ ranh giới giữa thực và bịa? Có phải bác của cậu sinh ra là quái vật hay câu chuyện này là kẻ thù của người bác kể cho nhau nghe? Và tại sao Shakespeare lại phải nói đến chuyện này?
Về tất cả các mặt khác, vở Richard III luôn phân biệt thẳng băng rõ ràng về mặt lịch sử giữa Thiện (dòng họ Tudor) và Ác (triều đại Plantagenet). Nhưng ở đây, những sự nghi ngờ có tính hủy hoại đã len vào tận nguồn gốc của các câu chuyện chúng ta nói về những con người thực, thoáng cho ta thấy “thực tế lịch sử” như là một quan niệm hỗn độn, rối rắm, luôn ở trên rìa của sự hư cấu.

Cận lịch sử

Vở Richard III nhắc chúng ta rằng các sự kiện lịch sử có thể là hư cấu, nhưng cái hư cấu cũng có thể dễ biến thành thực tế. Bộ tác phẩm lịch sử của Mantel phản ánh sự lo lắng đó. Lấy bối cảnh triều đình Henry VIII luôn sống trong khiếp sợ, các tiểu thuyết của bà cho thấy chứng hoang tưởng bộ phận đã sinh ra tin đồn như thế nào, tin đồn đã gây đổ máu và cấu thành thực tế như thế nào, kết quả là, “tìm đến được sự thật khó như thế nào”. Lịch sử, đối với Mantel, không phải là một xứ khác, mà là cái gắn bó mật thiết với những sự hư cấu mà chúng ta bám vào.

Quả thực vậy, trong Wolf Hall, mối quan hệ mập mờ giữa thực tế và hư cấu, lịch sử và huyền thoại, thường nằm ở mặt tiền và trung tâm. Trong Wolf Hall quá khứ nằm đâu đó ở trên, ở giữa, ở dưới những ghi chép chính thức. Lịch sử không phải được tìm thấy trong “những cuộc đăng quang, những hội nghị của các giáo chủ, cảnh hoa lệ và đám rước”. Thay vào đó nó ở trong “tiếng thở dài của người phụ nữ”, hay mùi hương nàng “để lại trong không trung”, trong “bàn tay kéo lại tấm màn che giường” - tất cả những cái không tìm thấy trong các tài liệu lưu trữ.

Tính phù du của lịch sử mở ra một “khoảng trống” cho hư cấu để chúng ta rót vào đó “những nỗi sợ hãi, tưởng tượng, ham muốn [của chúng ta]”. Như Mantel đã từng đặt ra câu hỏi: “Có chăng một sự phân định rạch ròi giữa huyền thoại và lịch sử, hư cấu và thực tế; hay chúng ta cứ đi tới đi lui trên đường ranh ở giữa, vị thế của chúng ta là bất định và luôn dịch chuyển?”.

Đối với nhà tiểu thuyết Canada Guy Gavriel Kay, tưởng tượng là tiền đề cần thiết của tất cả mọi kiểu viết lịch sử: “Khi chúng ta làm việc với lịch sử xa xôi chúng ta phải đoán định rất nhiều”.

Đấy là lí do Kay thoải mái sử dụng những sự quy ước của tưởng tượng khi hướng đến quá khứ, chuyển mọi sự kiện, con người, địa điểm lịch sử - như Tây Ban Nha thời trung đại và Roderigo Diaz (El Cid) trong tác phẩm The Lions of Al-Rassan (1995), hay cuộc quân Viking xâm chiếm nước Anh trong The Last Light of the Sun (2004) - vào lĩnh vực hư cấu.

Kay đã tiến hành nghiên cứu (trong các sách của ông luôn có bảng thư mục), sau đó hé lộ lịch sử và chứng cứ lịch sử, đặt “góc quay một phần tư” vào những thực tế hư cấu: thay tên các nhân vật lịch sử, đảo lộn và phá vỡ trật tự các sự kiện đã biết, thay những tôn giáo bịa ra vào những tôn giáo thật, đưa cái huyền ảo vào lịch sử châu Âu thời Phục hưng hoặc Trung Quốc. Ông gọi kết quả của quá trình này là “cận lịch sử”: đó là những quá khứ thay thế vừa rất khác với cái quá khứ đã quen lại vừa giống một cách kì lạ.

Giống như ở Mantel, các truyện (cận) lịch sử của Kay có thể đọc không phải như nỗ lực tránh sự mập mờ giữa thực tế và hư cấu mà đúng hơn như sự chỉ ra trung thực sự mập mờ đó là điều kiện của chính lịch sử. Xét cho đến cùng, lịch sử là trường tranh cãi và thường không thể kiểm chứng được. Cần thêm một lần nữa nhắc lại rằng đôi khi chúng ta cần tới những phép chuyển nghĩa của văn chương để san bằng những rối rắm đó hoặc để làm cho chúng trở nên dễ hiểu và đáng tin cậy hơn ở thời hiện tại. Chúng ta cần những ẩn dụ và so sánh để người chết có thể nói năng và hành động, sống và chết

Michael Durrant
(Giảng viên về văn học sơ kì hiện đại, Đại học Bangor, Anh)

Ngân Xuyên
dịch từ nguyên bản tiếng Anh (6/2017)

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 06.06.2019.
---------
1. Hilary Mantel (1952): Nhà văn Anh, hai lần được giải Booker (2009, 2012).
2. Tudor: Triều đại hoàng gia Anh thời kì 1485 - 1603.

Mặc dù số lượng những nhà văn nổi tiếng chọn hình thức tự sát để kết thúc đời mình là thật sự đáng kể nhưng vẫn chưa nhiều hơn ở nhóm những ngành nghề khác.

“Ngay cả khi còn dang dở, The Pale King [1] vẫn cứ là một tác phẩm văn học xuất chúng – một cuộc thám hiểm tới cõi bí hiểm nhất của loài người, một công trình được dựng lên nhờ bản lĩnh phi thường của người nghệ sĩ. David [2] bắt tay vào cuốn tiểu thuyết để đời của mình với một đề tài khó nhằn muôn thuở – nỗi buồn, sự tẻ nhạt - đổi lại, anh đã biến chúng thành một hành trình li kì đầy hài hước lẫn xúc động. Bất cứ ai từng có cơ hội tiếp xúc với David đều quá hiểu một chuyện rằng, anh sẽ không đời nào để độc giả trông thấy những tác phẩm của mình nếu như chúng chưa hoàn chỉnh theo cách anh muốn. Nhưng giờ, cả thế giới có được trong tay cuốn tiểu thuyết dù chưa hoàn tất của anh, ai có thể làm ngơ mà không đọc nó? David đã chẳng còn trên cõi đời này đểngăn sự tò mò của chúng ta, anh cũng chẳng còn khả năng tha thứ nếu như ta cứ một mực khăng khăng phải đọc nó.” - Theo Michael Pietsch – người biên tập cho cuốn The Pale King của David Foster Wallace.

“Ở Pháp, quá trình tiếp nhận cuốn Tự sát của Edourd Levé [3] thường bị chi phối bởi hiện thực về cái chết của chính tác giả. Ai cũng hiểu, đây là một tiểu thuyết hoàn toàn hư cấu, được viết bởi một cái tôi khác ngoài tác giả, kể câu chuyện về một người bạn đã quyết định tự sát hai mươi năm về trước; và người ta cũng biết rằng, Levé trên thực tế, đã để lại một lá thư tuyệt mệnh khác trước khi chính thức từ giã cuộc đời, nhưng không ai có thể ngưng liên tưởng rằng câu chữ trong văn bản kia chính là những lời diễn giải kĩ càng nhất cho quyết định tự sát của tác giả sau này.” – Theo Jan Steyn, lời bạt cho cuốn Tự sát của Edouard Levé.

Một hành động mà đi kèm với nó là văn bản cùng những diễn giải về chủ thể nhưngbuộc phải được đọc thông qua những người khác: “tự sát” và “văn học” thật ra lại là những khái niệm mang nhiều những nét tương đồng.

Mặc dù số lượng những nhà văn nổi tiếng chọn hình thức tự sát để kết thúc đời mình là thật sự đáng kể nhưng vẫn chưa nhiều hơn ở nhóm những ngành nghề khác. Người ta thống kê được rằng, những người theo đuổi ngành y tỉ lệ tự sát cao nhất. Tuy nhiên , nhà văn lại đặc thù là những kẻ sở hữu mối ràng buộc chặt chẽ với thế giới của ngôn từ nên nhờ đó, họ có thể có những cách kết nối đặc biệt với lãnh địa của cái chết, và tất nhiên, cả với một trải nghiệm như tự sát.

Trong cuốn Literature and the Right to Death, Maurice Blanchot [4] đã phát hiện ra rằng, nhờ sự xuất hiện của ngôn ngữ, con người đã có thể tiệm cận được ý tưởng về cái chết. Trước ngôn từ, cuộc đời đơn giản chỉ có sự “tồn tại”. Cái cây sẽ chỉ là một vật thể vô định hình, không bản sắc trước khi nó được đặt tên là “cái cây”. Nói một cách rõ ràng hơn, khi ta gọi “cái cây” hay thậm chí gọi “vật thể vô định hình” trong bất cứ hoàn cảnh nào thì đều không còn chỉ chính cái cây đang tồn tại khách quan kia nữa. Bởi, cũng giống như “cái chết” chỉ được thật sự biết tới khi người ta hoàn thành xong “sự sống”, “cái cây” của một thực tại trước ngôn từ cũng đã chết đi ngay khi nó đi vào ngôn từ; trừ khi ở trong một diễn biến xa xôi nào đó, con người có thể trải nghiệm được sự chết và những cung bậc của nó ngay trong sự sống.

Trước ngôn từ, “chết” chỉ đơn thuần là một sự chuyển dịch giữa những trạng thái sống. Sau đó, nó trở thành sự dịch chuyển giữa những trạng sống nhưng mang tính bản thể luận. Từ ý nghĩa đơn giản để biểu thị những thay đổi như khi ta hớt tóc hay cắt móng tay, giờ đây, cùng với sự nở rộng của ngôn từ, cái chết “thăng tiến” trở thành ý niệm về một sự đứt gãy nghiêm trọng cỡ chuyện diệt chủng hay tuyệt chủng trong đời sống. ““Phát ngôn” thật ra chính là công việc đòi hỏi chúng ta phải chôn vùi xuống đáy biển tất cả những ý nghĩa được kiến tạo trước đó về sự vật trước khi quyết định nói ra lời nào về nó. Chúa ban sự sống, còn việc của con người là phá hủy chúng đi.”

Trong từ điển của nhân loại, nhà văn được miêu tả như là những người có năng lực “phân thân” ra khỏi những mô thức đời sống bất biến thông thường nhờ vào khả năng sử dụng ngôn từ theo những cách cá biệt. “Tôi viết thế này sẽ chính xác hơn: “cái chết đang lên tiếng ở bên trong tôi.” Blanchot viết. “Rõ ràng là, ở bên trong tôi, sức mạnh thôi thúc tôi nói ra lại nằm chính ở trong khoảnh khắc tôi biến mất khỏi sự tồn tại của mình.” Nhà văn là kẻ đứng xa nhất với thực tại ở cả không-thời gian, và trong một chừng mực nào đó, chính y cũng tự kiến tạo nên những thực tại hư cấu, giam giữ mình trong một thế giới tưởng tượng mà có thể xem như là những nghĩa địa sống. Đối với nhà văn, trở lại được với thực tại là công cuộc đòi hỏi nhiều ý chí và nỗ lực “dấn thân” hơn ở bất cứ hành trình nào. Và một khi họ từ bỏ, điều mà chắc chắn sẽ đem lại cho nhà văn sự tuyệt vọng đau đớn tột cùng, họ sẽ chọn im lặng - cái chết của tác giả bên trong một con người – hoặc tự sát - cái chết của tác giả thông qua cái chết của một con người.

“Cái chết phải chăng chính là một món quà của sự tự do?” Blanchot tự hỏi, “được chết phải chăng là khoảnh khắc viên mãn nhất khi sống?” Chúng ta chỉ có thể trả lời: “Nếu quả thực vậy thì đó cũng là điểm mù, là khoảnh khắc trống rỗng nhất của tự do, là bằng chứng cụ thể cho luận điểm: tự do rốt cục vẫn luôn là một khái niệm trừu tượng, mù mờ, thậm chí luô rơi vào diện bị lý tưởng hóa (như trong văn học). Còn thực tế này vẫn chỉ toàn là đói nghèo và sự buồn tẻ.” Đây chính là nghịch lý cốt lõi nằm trong bản chất của cả hành vi sáng tác văn học lẫn hành vi tự sát. Và theo cách này, tự sát và sáng tác văn học lại luôn song hành với nhau, cho dù “điểm đến cuộc đời” của từng nhà văn có thể rất khác nhau.

Ở Mỹ, hành vi tự sát được xem như là một hiện tượng tâm lý - xã hội, cùng “trường” với trầm cảm, bệnh tâm thần, hội chứng anomie [5], chủ nghĩa vị kỉ, các hành vi cô lập xã hội, vấn đề tự ý thức, nỗi buồn chán, sự tuyệt vọng… Trong khi ở Pháp, mặc dù được trang bị đầy đủ lý thuyết khoa học của Durkheim [6], người Pháp vẫn luôn nhìn nhận tự sát ở một khía cạnh siêu hình, bên cạnh những khái niệm về sự tồn tại, cảm giác hiện hữu, tính đại diện, khả năng nhận thức, sự phi lý, và cảm quan về số mệnh.

Mỗi cách tiếp cận đều đem lại một cách hiểu khác nhau cho từ “sự vô nghĩa” trong cụm “sự vô nghĩa của cuộc sống”. Nếu nhìn về khía cạnh tâm lý học, chất vấn về “sự vô nghĩa” cũng không khác là bao như khi ta đặt câu hỏi để đánh giá về tính giá trị hay tầm quan trọng của một vấn đề, và như vậy đồng nghĩa với chuyện ta cũng trao cho mình một câu trả lời lạc quan rằng, một cá nhân có khả năng thay đổi được hoàn cảnh của mình, rằng, những tổn thương trong cuộc sống là hoàn toàn có thể chữa lành được. Nhưng ngược lại, một khi nhìn “sự vô nghĩa” như một khái niệm siêu hình, đây hoàn trở thành câu chuyện về kí hiệu học. Còn gì bi quan hơn khi phũ phàng nhận ra “sự vô nghĩa” là một phương diện bất biến thuộc về thân phận con người, nó cố định chặt chẽ như mối quan hệ giữa tồn tại của con người với ngôn ngữ, giữa ngôn ngữ với phần còn lại thế giới này.

Cho dù được đề cập trong bất kì không gian nào (riêng tư trong nhà hay ngoài nơi công cộng), theo bất cứ cách diễn giải nào (có thể nhiều hay ít tính bạo lực, được cường điệu hóa hoặc là không), “tự sát” luôn đòi hỏi một phiên chất vấn không hồi kết và không có chỗ để đặt ra những câu hỏi đơn giản.

Hơn bất cứ hành vi nào, “tự sát” luôn cần có một lời giải thích cho nó. Giống như những kẻ phạm tội luôn chuẩn bị một bản kế hoạch chi tiết cho tội ác của mình, những kẻ đào tẩu thì thường để lại một lá thư, hành vi tự sát tích hợp cả hai kiểu và có biến tấu theo cách riêng, nó vừa có vẻ của một tội ác, vừa hao hao giống hành vi của một kẻ muốn bỏ trốn khỏi chính căn nhà của mình – mặc dù cả hai khái niệm bỏ trốn hay phạm tội đều có thể liệt những phạm trù siêu hình, không định nghĩa được.

Tuy nhiên, chúng ta sẽ gặp khó khăn về diễn giải khi cần nói về “tự sát”. Hoặc đúng hơn, nói về “tự sát” cũng là đang động chạm đến vấn đề kinh điển của thông diễn từ xưa tới nay. Bởi, chỉ có thông qua hình thức tự sát, thì chết mới được coi là “hành động” chứ không còn là một trạng thái. Nhưng đó cũng chính là hành động cực đoan sẽ ngay lập tức cắt lìa tác giả khỏi bối cảnh có thể để đưa ra lí do và khả năng để cho ta chất vấn xa hơn. Chúng ta liệu có thể khẳng định khi cầm trên tay một lá thư tuyệt mệnh rằng “không có gì nằm ngoài văn bản”? Chúng ta liệu có thể không quan tâm đến tác giả mà cứ thế áp dụng lí thuyết về “sự ngụy biện về chủ đích” ở đây? Và liệu rằng một lá thư tuyệt mệnh có thể được thuần túy xem xét như là một văn bản dụng được ý tưởng về “cái chết của tác giả” của Roland Barthes hay rồi chúng ta sẽ luẩn quẩn mãi trong câu chuyện con gà hay quả trứng có trước?

Một mảnh giấy nhàu nát để lại cùng dòng chữ viết tay có vẻ đã được viết trong quằn quại, đau đớn “Tôi không còn muốn sống nữa nên giờ tôi sẽ tự lấy đi cuộc sống của mình” chắc chắn không thể là một lá thư tuyệt mệnh nếu như ngay sau đó, chủ nhân của mảnh giấy được phát hiện đang ngồi thưởng trà trước màn hình tivi. Vậy thì mảnh giấy đó có ý nghĩa gì trong trường hợp này? Một lời thông báo về ý định tự sát có tính chất trình diễn, phô trương và thậm chí là vô duyên? Tự sát - hành động có thể khiến những từ ngữ trên mảnh giấy trở nên có nghĩa lại chính là hành động mà bản thân nó không bao giờ có thể diễn giải được thông qua ngần ấy kí tự được để lại. Những lá thư tuyệt mệnh được tìm thấy cho dù có độ dài đến đâu cũng là không đủ đối với những người đọc nó, đó là những văn bản mà người ta cần và muốn được đọc nhất dẫu có đem tới họ nhiều những bàng hoàng, tuyệt vọng. Giống như một đứa trẻ lên ba, một người đang cầm trên tay một lá thư tuyệt mệnh sẽ không thể ngừng thắc mắc và ngổn ngang những câu hỏi “tại sao” – những dòng thư phải kéo dài vô tận may ra mới có thể làm vừa lòng họ. Điều này khiến cho lá thư tuyệt mệnh để lại hay bản thân việc tự sát trở thành vô nghĩa (khi mà người ra đi đã cố giải thích rằng cuộc sống đơn giản cần phải kết thúc lúc này). Những người khi quyết định chết đi rồi nhưng vẫn còn bị đeo đẳng bởi nghĩa vụ phải giải thích cho cái chết của mình có lẽ là những kẻ thiệt thòi nhất thế gian. Bởi y chẳng những chưa bao giờ được sống một cách đúng nghĩa mà còn không có khả năng tự giết được chính mình.

-------

Và mọi chuyện sẽ trở nên phức tạp hơn cả trăm lần khi hành vi tự sát được gắn với việc sáng tác của một nhà văn. “Tự sát” có nhiều yếu tố mang dáng dấp của một thể loại văn học mặc dù hiển nhiên chưa có một ai từng làm công tác phân loại cho nó.

Đối với một lá thư tuyệt mệnh,ai mới thực sự là chủ nhân của chúng? Chính người quyết định tự tử hay người sáng tác? Sau cái chết của Nietzsch [7] – đương nhiên là ông đã không tự sát – người ta tìm được những mảnh giấy vụn với dòng chữ “Tôi đã quên chiếc ô của mình” trong rất nhiều những bản thảo chưa được xuất bản của ông. Câu hỏi ở đây là, liệu rằng thông điệp của dòng note kia có đơn giản như tất cả mọi người đều thấy, hay, như thường lệ, là một kiểu ẩn dụ của Nietzsche, một câu khái quát có vẻ giá trị trong tuyển tập Ý chí quyền lực bỏ ngăn kéo của ông? “Tôi đã quên chiếc ô của mình” – là một câu của Nietzsche, một người bình thường, hay của Nietzsche, một nhà văn, một triết gia?

Trong trường hợp của một diễn viên, Richard Burbage [8] chưa bao giờ được cho là đã tự sát ngay cả khi anh ta nói anh ta luôn sống trong vai diễn Hamlet. Nhưng, một nhà văn thì không bao giờ bước từ cánh gà ra sân khấu hay chiều ngược lại. Không có một ranh giới cụ thể nhất định nào gián cách được những phát ngôn của y ra khỏi ngữ cảnh để phân định được khi nào tư cách của một nhà văn được hiện diện, khi nào thì chỉ là một người bình thường đang viết.

Đó cũng là lí do mà Jacques Derrida [9] trong cuốn Spurs [10] sau nhiều lần cố gắng diễn giản thì cuối cùng đã kết luận: ý nghĩa của dòng “cập nhật trạng thái” có vẻ đầy ẩn ý về chiếc ô của Nietzsche là “không thể kết luận được.” Nó cũng tương tự với trường hợp của những lá thư tuyệt mệnh với style phổ thông nhất như: “Tôi không còn muốn sống nữa nên giờ tôi sẽ tự lấy đi cuộc sống của mình”. Rất có thể những dòng văn bản như thế này lại là lời đề từ của một bài thơ, một truyện ngắn hay tiểu luận nào đó… thay vì là một phát ngôn cho một hành động cụ thể. Giống như chuyện ta cũng không có lý do gì để khẳng định khi đại từ nhân xưng “tôi” xuất hiện thì nó ám chỉ tới tác giả, hoặc một cái “tôi” khác của tác giả, hay thật ra chỉ là một nhân vật hư cấu của y. Điều này cũng đã được Roland Barthes [11] cảnh báo tới chúng ta từ rất sớm trong cuốn sách mang tên ông, rằng: mọi thứ rất có thể chỉ là phát ngôn của một nhân vật trong tiểu thuyết. Và những dòng có vẻ như của một lá thư tuyệt mệnh cũng rất có thể chỉ là một trích dẫn hơn là một tuyên bố, nhưng nếu chẳng may, có một sự trùng hợp ngẫu nhiên rằng đó cũng là những dòng cuối cùng của tác giả đã viết thì khả năng gây tổn thương, mất mát cho những người đọc vẫn là cực lớn. Một lá thư (có vẻ) tuyệt mệnh càng chi tiết, cụ thể, không chỉ thông báo suông về ý định tự sát, mà còn có những tự sự đi kèm, cặn kẽ những lí do và để ngỏ nhiều những chỉ dẫn, … sẽ càng làm những người đọc hoang mang, lẫn lộn thật giả.

 Trong trường hợp không có một văn bản cụ thể nào note về việc tự sát được để lại, thì bằng mọi giá, người ta cũng sẽ lục lọi để tìm ra những manh mối và ôm một niềm tin có phần mù quáng rằng, chúng chắc chắn được cất giấu sâu trong những sáng tác của nhà văn – lúc này, bất cứ một câu văn bóng gió nào cũng tiềm tàng nguy cơ đang che đậy về ý định tự sát, bất cứ một từ nào được dùng cũng có thể mang dáng dấp của một bia mộ. Giống như một ca tự sát của thực tế đang được các điều tra viên xem xét trong nhà xác, “thi thể” của một “nhà văn đã tự sát” cũng sẽ được khám nghiệm bởi những nhà thông diễn, từ xa lạ cho đến quen sơ, quen thân, từ kẻ diễn giải nghiệp dư cho đến những tay chuyên gia phân tích. Và phải nhờ có “cái chết” của nhà văn hay những người tự vẫn thì mới có công ăn việc làm cho những người làm công tác thông diễn hay điều tra. Các nhà phê bình văn học nói riêng đã không thể xây dựng được một nguyên tắc nhất định nào cho công việc diễn giải của mình. Một nhân vật hư cấu tự sát trong tác phẩm viết năm 20 tuổi của nhà văn liệu có liên can tới chết thực sự của chính anh ta năm 40 tuổi? Chúng ta sẽ khác đi thế nào khi nghĩ về chàng Werther [12] nếu như Goethe [13] giả sử đã tự tay giết chính mình sau khi viết cuốn Marienbad Elegy? “Anh ta thật ra đã được định sẵn là phải chết bởi chính bàn tay của mình sau những đổ vỡ trong tình yêu.” – ai có thể sẽ phán xét mập mờ như vậy, nói đúng cũng được mà nói sai cũng xong.

20200831 6
Tranh "Nỗi đau của chàng Werther"

Những khía cạnh nhìn từ hành vi tự sát có thể gợi dẫn chúng ta một thông điệp rằng: những ý tưởng như “không một ý nghĩa nào nằm ngoài văn bản” hay “có thể hiểu được thấu đáo câu chữ của nhà văn bằng cách lục lọi thông tin từ tiểu sử của ông ấy” giờ đây là không đủ dùng và không đủ thuyết phục khi thực hành đọc văn bản. Liệu chúng ta có thể kìm lòng mà không tìm cách “giải mã” một ca tự sát bằng việc huy động mọi dữ kiện có được bất kể có hợp lý hay không? Một khi còn thở thì có vẻ như chúng ta sẽ khó mà để yên cho những “vụ tự sát” có quyền là một điều bí mật.

KIỀU CHINH dịch theo Ryan Ruby, trang The New Inquiry

(Ghi chú: Mọi chú thích trong bài là của người dịch).

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 06.01.2020.


[1]The Pale King, tạm dịch Nhà vua nhợt nhạt, cuốn tiểu thuyết chưa hoàn thành của Foster WallaceDavid khi anh tự sát vào năm 2008. Ngay cả khi còn dang dở, The Pale King vẫn là một tác phẩm lớn với 50 chương có độ dài khác nhau với tổng số hơn 500 trang.

[2] Foster WallaceDavid (1962-2008), nhà văn người Mỹ, đã tự tử ở tuổi 46 sau khi phải vật lộn với chứng trầm cảm trong nhiều năm. Cuốn tiểu thuyết Infinite Jest (1996) của anh được tạp chí Time liệt kê là một trong 100 tiểu thuyết tiếng Anh hay nhất được xuất bản từ năm 1923 đến 2005.

[3] Édouard Levé (1965-2007), nhà văn, nghệ sĩ và nhiếp ảnh gia người Pháp, đã treo cổ tự sát ở tuổi 42. Tự sát (Suicide) là cuốn tiểu thuyết cuối cùng của Levé, anh đã giao nó cho biên tập của mình 10 ngày trước khi anh tự sát.

[4] Maurice Blanchot (1907-2003) nhà văn, triết gia, lý thuyết gia văn học người Pháp.

[5] Anomie: một trạng thái của ý thức đạo đức-tâm lý công cộng hoặc cá nhân, được đặc trưng bởi sự tham nhũng của các chuẩn mực đạo đức, sự sụp đổ của hệ thống giá trị đạo đức. Khái niệm anomie được đề Durkheim Emil, với mục đích diễn giải một phản ứng hành vi lệch lạc, ví dụ, ý định tự tử, hành vi bất hợp pháp.

[6] Émile Durkheim (1858 - 1917), nhà xã hội học người Pháp nổi tiếng, người đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa chức năng và chủ nghĩa cấu trúc; góp công lớn trong sự hình thành bộ môn xã hội học và nhân chủng học.

[7] Friedrich Wilhelm Nietzsche (1844 – 1900) triết gia nổi tiếng người Phổ, nhân vật quan trọng của triết học hiện đại với các công trình về chủ nghĩa hiện sinh (existentialism), chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), phân tâm học (psychoanalysis) …

[8] Richard Burbage (1567-1619), một diễn viên sân khấu người Anh, là bạn và thường xuyên diễn các vở kịch của William Shakespeare.

[9]Jacques Derrida (1930 – 2004), nhà triết học người Pháp, phát triển lý thuyết phê phán được biết đến là giải cấu trúc (déconstruction), các tác phẩm của ông được gọi là hậu cấu trúc luận và có gắn với triết học hậu hiện đại.

[10]Spurs, cuốn sách của Derrida với ý tưởng “giải cấu trúc” các luận đề của Nietzsche.

[11] Roland Gérard Barthes (1915 – 1980), nhà lý luận văn học, triết gia, nhà ký hiệu học người Pháp, ảnh hưởng tới sự phát triển của các trường phái lý thuyết bao gồm chủ nghĩa cấu trúc, ký hiệu học, xã hội học, nhân chủng học và chủ nghĩa hậu cấu trúc.

[12] Werther, nhân vật chính đã tự sát sau những đổ vỡ trong tình yêu trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đau của chàng Wertherra đời năm 1774,tiểu thuyết kinh điển của văn hào Johann Wolfgang von Goethe trong phong trào "Bão táp và xung kích" (Sturm und Drang) ở Thời kỳ Khai sáng trong lịch sử Đức nửa cuối thế kỷ thứ 18

[13] Wolfgang von Goethe (1749 – 1832), nhà thơ, nhà viết kịch, tiểu thuyết gia, nhà văn, nhà khoa học, họa sĩ lỗi lạc người Đức, được coi là một trong những vĩ nhân trong nền văn chương thế giới.

20200504

Vào năm 1834, ở Peterburg, bức tranh Ngày cuối cùng của Pompéi [1]của Karl Briullov  được đem ra trưng bày cho khách tham quan chiêm ngưỡng. Bức tranh đã để lại cho Pushkin một ấn tượng mạnh mẽ. Ông định sao lại một số chi tiết của bức tranh và lúc ấy đã phác hoạ thành một đoạn thơ:

Họng Vesuvio mở rộng - Khói cuồn cuộn bốc lên – Ngọn lửa lan rộng như lá cờ chiến. Mặt đất rung chuyển, từ các cột trụ chao đảo, những Tượng thờ sập xuống! Dân chúng chạy tán loạn (vì sợ hãi), Dưới trận mưa đá (dưới tro bụi mịt mù), Từng đám đông, già và trẻ, chạy trốn khỏi thành phố chiến tranh (III,332).

Đối chiếu văn bản với bức họa của Briullov, ta thấy rõ, cái nhìn của Pushkin trượt theo đường chéo từ phía trên, bên góc phải, xuống phía dưới, bên góc trái. Điều đó phù hợp với trục kết cấu cơ bản của bức tranh. Nhà nghiên cứu các kết cấu đường chéo, hoạ sĩ và nhà lí luận N. Tarabukin từng viết: “Trong trường hợp này, người xem tranh tựa như đang đứng giữa đám đông được mô tả trong bức họa”[2].

Điều quan sát của Tarabukin là hết sức chính xác, những cuộc phỏng vấn cung cấp thông tin khẳng định, sự chú ý của khán giả khi xem tranh thường đổ dồn vào chỗ đám đông. Về điều này, ý kiến sau đây của P.P. Martynov, nhân viên quản lí lâu đài, rất đáng lưu ý. Theo lời của người đương thời, thì khi quan sát bức tranh, Martynov nói: “Với tôi, tuyệt nhất chính là lão già Pompéi mà đám trẻ đang mang theo”[3]. Theo lời của Pushkin, Martynov là “kẻ đần độn”, là một thứ “súc vật” (III, 36), nhưng ý kiến của ông được dẫn ra như một thí dụ về sự dốt nát trong lịch sử La Mã. Nhưng với chúng ta, trong trường hợp này, nó là ý kiến của một người xem ngây thơ, thiếu hiểu biết, một người bị những khuôn hình lớn ở phía mặt tiền trói chặt cái nhìn vào đó.

Đem đối sánh Kị sĩ đồng với Ngày cuối cùng của Pompéi, ta sẽ có thể rút ra một kết luận quan trọng về thi pháp Pushkin. Cả thi pháp của Boileau, thi pháp của phái lãng mạn Đức, lẫn thi pháp của triết học cổ điển Đức đều xuất phát từ quan niệm cho rằng, trong ý thức của nghệ sĩ, thoạt đầu bao giờ cũng xuất hiện một tư tưởng được diễn đạt bằng ngôn từ, rồi sau đó mới chuyển vào hình tượng, như là hình thức biểu hiện cảm tính của nó. Với mĩ học duy tâm - khách quan, loại mĩ học xem tư tưởng là hiện thực siêu nhân, tối thượng, thì người hoạ sĩ khi vẽ lại hiện thực một cách vô ý thức, anh ta tạo ra cho cho tư tưởng tăm tối không thể nhận biết bản thân một tồn tại sáng láng khác. Vì vậy, ở đây, hình tượng giống như cái bọc che kín một sự diễn giải bằng ngôn từ duy nhất đúng (tức là hợp lí) nào đó. Cách tiếp cận sáng tác của Pushkin từ quan điểm như thế đã làm nảy sinh những cuộc tranh luận kéo dài nhiều năm về chuyện, ví như, trong Kị sĩ đồng, lũ lụt có nghĩa gì và cần diễn giải thế nào về hình tượng đài kỉ niệm?

Hệ hình ý nghĩa của Pushkin được kiến tạo không phải bằng ngôn từ, mà bằng cáchình tượng - mô hình, loại hình tượng có tồn tại hỗn hợp bằng lời - thị giác mà bản chất mâu thuẫn của nó hé lộ khả năng không chỉ cho phép tồn tại những cách đọc khác nhau, mà còn cho phép những cách đọc bổ trợ (theo tinh thần của N. Bohr, tức là những cách đọc lí giải hợp lí như nhau, nhưng đồng thời lại loại trừ lẫn nhau). Hơn nữa, cách giải thích một trong số các đầu mối kết cấu của Pushkin sẽ tự động quyết định cách cụ thể hoá cả chuỗi phù hợp với nó. Vì thế, thật là vô bổ, nếu tranh cãi về cách hiểu thế này hay thế kia đối với ý nghĩa biểu tượng của các hình tượng này hay hình tượng khác trong Kị sĩ đồng được đem ra khảo sát một cách riêng rẽ.

Thành phần đầu tiên của hệ hình có thể là toàn bộ những gì trong ý thức của nhà thơ, ở thời điểm này hay thời điểm kia, có thể được liên tưởng với một vụ nổ thảm khốc trong tự nhiên. Thành phần thứ hai khác với nó bởi bởi những dấu hiệu nổi bật của cái “tạo tác”, cái thuộc về thế giới văn minh, giốnh như cái “ý thức” đối lập với “vô thức”. Thành phần thứ ba khác thành phần thứ nhất tựa như cái cá tính khác biệt với cái vô bản sắc. Các dấu hiệu còn lại có thể phân bố theo những cách khác nhau bên trong cấu trúc ba thành phần tuỳ thuộc vào vào sự diễn giải truyện kể và tính lịch sử cụ thể của nó.

Chẳng hạn, trong đoạn phác thảo Người lính gác bất động ngủ gật trên bậc cửa hoàng cung của Pushkin, chúng ta đọc được:

Tự bao giờ các dân tộc trên thế gian

Cung kính ngợi ca sự sụp đổ của Tượng thờ vĩ đại.

Tượng thờ sụp đổ là trật tự thời phong kiến của một “châu Âu già nua”. Hình tượng thiên nhiên cũng có thể diễn giải theo kiểu tương tự như vậy. So sánh với hai câu sau ở chương 10, Evgeni Oneghin:

Pyrénées rung lên khủng khiếp

Núi lửa Napoli bốc cháy bừng bừng[4]

Cùng là một hình tượng như thế lúc nào cũng nhất nhất được biểu hiện bằng những từ như thế:

Mặt đất rung lên

Những hàng cột chao đảo…

Mặt đất chao đảo…

Mặt đất rung lên - thành phố chao đảo(III, 946) -

Đó là những biến thể Họng Vesuvio mở rộng...;

Nước Áo chao đảo, Napoli nổi loạn(II, 331)

Đây lại là câu trong  Người lính gác bất động ngủ gật trên bậc cửa hoàng cung. Ý tưởng của bài thơ về Aleksandr I và Napoléon rõ ràng là bao hàm cả chiến thắng của “Tượng thờ”:

Ngay cả lãnh chúa cũng ngạc nhiên trước sự nghiệp của mình(II, 310).

Hình ảnh bàn chân sắt dày xéo cuộc nổi loạn vẽ ra bóng dáng tượng đài Pie phía sau vai Aleksandr I. Nhưng sự xuất hiện của bóng đen Napoléon lại như có ngụ ý tiên đoán về chiến thắng sau này của tự nhiên:

Và tự do đời đời cho nhân loại

Người trối lại, từ bóng tối lưu đày (II, 216).

Khả năng chia tách “Tượng thờ” thành Aleksandr I (hoặc người đại diện cho hình tượng mang tính tổng hợp của thành phần cấu trúc này) và Kị sĩ đồng (pho tượng) đã được chỉ ra ở bài thơ đầy bí ẩn (và, có thể, hoàn toàn không mang tính đùa bỡn như thế) Khi hoàng đế cau mày:

Khi hoàng đế cau mày,

Người nói: “Hôm qua

Bão tố nổi lên

Tượng đài Pie (II, 430)[5].

Tương quan giữa các thành phần của hệ hình tạo ra sự uyển chuyển ngữ nghĩa của nó, khiến cho các ranh giới ngữ nghĩa khác nhau trở thành nhân tố có ý nghĩa quan trọng ở những giai đoạn phát triển khác nhau trong tư tưởng của Pushkin. Chẳng hạn, nếu trong tự nhiên, tính phá huỷ được nhấn mạnh, thì thành phần đối lập sẽ có chức năng sáng tạo; cái phi lí của tự nhiên “vô nghĩa và tàn nhẫn” bao giờ cũng tô đậm nhân tố ý thức[6]. Nhưng trong một biến thể ở đầu những năm 1820, các “tượng thờ” mang tính thụ động, người đại diện cho hành động là “núi lửa”. Trong ý thức nằm đằng sau Kị sĩ đồng, xung đột giữa hai sức mạnh ấy đều có khả năng xẩy ra như nhau. Và điều này lại gắn với hoạt động của thành phần thứ ba, ấy là cá nhân con người và số phận của nó trong cuộc đấu tranh giữa hai sức mạnh nói trên. Ngoài ra, cần nhấn mạnh thêm một lần nữa, rằng trong Kị sĩ đồng, xung đột giữa các hình tượng - mô hình  không phải cách nói phúng dụ của một ý nghĩa đơn trị nào đó, mà là biểu thị cho một sự “gióng hàng” văn hoá - lịch sử nào đó cho phép mọi sự thay thế ngữ nghĩa để bảo toàn tương quan giữa các thành phần của hệ hình. Pushkin chỉ nghiên cứu những khả năng bị che khuất trong các yếu tố xung đột đầy bi kịch tạo thành hệ hình lịch sử của nó, chứ ông không có ý định dùng các “hình tượng” để giải thích cho ta hiểu một tư tưởng hoàn kết nào đó mà ông đã lĩnh hội được và đã gói gém khít khao trong một định thức hoàn kết nào đó.

Chúng ta sẽ thấy rõ hơn, quan niệm của Pushkin về xung đột lịch sử tối quan trọng đối với ông có ý nghĩa thế nào, nếu ta nghiên cứu tất cả những gì đã được hiện thực hoá và những biến đổi của hệ hình mà chúng tôi đã chỉ ra trong toàn bộ văn bản chúng ta từng được biết của Pushkin.  Từ góc độ ấy, nhân tố mang nghĩa không chỉ riêng hình tượng bão tuyết mở ra xung đột truyện kể trong Người con giá viên đại uý (“Này, ông chủ,- người xà ích gào lên, - tai hoạ rồi: bão tuyết đấy!” - VIII, 287), mà còn là việc Pugachev xuất hiện đồng thời cùng với bão tuyết và cứu Grinhev thoát khỏi bão tuyết[7]. Pugachev được kết nối hài hoà khi thì với thành phần thứ nhất (tự nhiên), lúc với thành phần thứ hai (con người) của hệ hình. Trong Kị sĩ đồng, việc tách thành phần thứ ba sang các chức năng bổ trợ (tức là, tương thích - bất tương thích) khiến cho hình tượng Pie trở nên cực kì phức tạp: Pie ở khúc nhập đề, Pie trong cặp đối lập với lũ lụt, Pie trong cặp đối lập với Evgheni - đó là những hình tượng có vẻ như hoàn toàn khác nhau, bất tương thích, là thay đổi toàn bộ hệ hình phù hợp với nó. Nhưng tất cả các hình tượng ấy chỉ chiếm một vị trí cấu trúc như nhau bằng cách tạo ra một hệ hình vi tế và, ở bình diện này, nó tự đồng nhất.

Cho nên, điều cơ bản là làm thế nào để duy trì được tam giác được tạo thành bởi bão tố trong tự nhiên, pho tượng và con người. Sau đó, hoàn toàn có khả năng đưa ra nhiều cách diễn giải khác nhau khi phóng chiếu các hình tượng ấy vào lĩnh vực khái niệm. Có thể phóng chiếu theo kiểu huyền thoại thuần tuý: nước (= lửa) - đá đã được chế tác - con người. Nhưng thành phần thứ hai cũng có thể giải thích về mặt lịch sử: văn hoá, ratio, chính quyền, thành phố, quy luật lịch sử. Trong khi đó, thành phần thứ nhất lại có thể chuyển thành các khái niệm: “tự nhiên”, “vô thức tự phát”, “bạo loạn”, “thảo nguyên”, “chống lại mù quáng các quy luật lịch sử”. Nhưng đó cũng có thể là đối lập giữa “tự do hoang dã” với sự “nô lệ chết cứng”. Cũng sẽ cực kì phức tạp là mối quan hệ giữa thành phần thứ nhất với thành phần thứ hai của hệ hình với thành phần thứ ba, trong đó, cái được đem ra phân tích có thể là điều được Gogol gọi là “sự giàu có khốn khổ” của con người bình thường, quyền sống và hạnh phúc của nó xung đột với cả cái dữ dội của tự nhiên điên khùng, lẫn “sự buồn tẻ, lạnh lẽo”, “ý chí sắt đá” và “lí trí phi nhân tính”, nhưng trong đó có thể ánh lên những nét của thói ích kỉ nhỏ mọn mà rốt cục, đã biến Liza trong Con đầm pích thành một bup bê vặn dây cót lặp lại con đường xa lạ. tuy nhiên, ở Pushkin, chẳng bao giờ một khả năng nào đó trong số ấy hoạt động như một khả năng duy nhất. Hệ hình được đưa ra trong tất cả các biểu hiện có thể có của nó. Chính sự vênh lệch của những biểu hiện ấy với nhau mang lại cho hình tượng chiều sâu của cái chưa hoàn kết, tạo ra khả năng giải đáp cả những câu hỏi của người đương thời Pushkin, lẫn những câu hỏi của các thế hệ hậu bối sau này.

Việc đưa vào hệ thống đang được xem xét các mặt tương phản từ những cặp đối lập quan trọng nhất đối với Puskin: “sống động - chết cứng”, “nhân tính - phi nhân tính”, “động - tĩnh” trong những kết hợp đa dạng nhất[8] và, cuối cùng, khả năng di chuyển linh hoạt điểm nhìn tác giả, sẽ làm tăng thêm khả năng giải thích, đánh giá chúng khi áp dụng một chuẩn mực giá trị. Để hiểu được khả năng tạo ra những kiểu diễn giải cực kì phức tạp cái bi và cái hài trong phạm vi của hệ hình này, chỉ cần hình dung ra cảnh Pushkin, người đứng nhìn trong ngày lễ kỉ niệm ngày thành lập trường trung học ngày 19 tháng 10 năm 1828, giống như  Jakovlev - một anh “hề”, người đã mô tả rất giống cảnh lũ lụt ở Peterburg, từng “trình ra một nhân vật bằng sáp”[9], tức là pho tượng chuyển động của Pie.

Thi pháp tương phản - linh hoạt của Puskin không chỉ mang lại cho các sáng tác nghệ thuật của ông sự sinh động, mà còn tạo ra cho chúng chiều sâu tư tưởng mà đến nay ta vẫn nhìn thấy ở đó cả nhà nghệ sĩ thiên tài, lẫn nhà tư tưởng cực kì vĩ đại.

Ta hiểu vì sao, các tác phẩm được gọi là “những bi kịch nhỏ” đã trở thành đỉnh cao sáng tạo của Pushkin vào những năm 1830 và thường xuyên cuốn hút sự chú ý của giới nghiên cứu. Công trình này không đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu cặn kẽ nhữngc tác phẩm ấy. Chúng tôi tập trung giải quyết một nhiệm vụ hết sức khiêm tốn: đưa thêm vào thế giới biểu tượng hiện thực chủ nghĩa của Pushkin một hình tượng nữa. Trước đây, vào giữa những năm 1930, trong bài Pho tượng trong huyền thoại thơ của Pushkin, Jakovson từng viết:  “Trong thế giới biểu tượng đa dạng của tác phẩm thi ca, chúng ta tìm thấy một sự tổ chức ổn định nào đó, những yếu tố cố kết vừa là đại diện cho sự thống nhất trong trong sáng tác đa diện của nhà thơ, vừa mang lại cho tác phẩm của ông ta dấu ấn của một cá nhân. Những yếu tố này đưa thế giới huyền thoại toàn vẹn mang tính cá nhân của nhà thơ vào một mớ bòng bong muôn hồng nghìn tía của những môtip thi ca thường chệch đi và trượt đi rất khó nắm bắt”[10].

“Bảng chữ cái” biểu tượng của một nhà thơ nào đó không phải bao giờ cũng mang tính cá nhân: nó có thể khai thác cho mình hệ thống biểu tượng từ kho nguyên liệu của thời đại, từ một khuynh hướng văn hoá, một phạm vi xã hội. Biểu tượng gắn với kí ức văn hoá, có hàng loạt những hình ảnh mang tính biểu tượng thấm vào chiều sâu toàn bộ lịch sử, hoặc trên bề mặt vô cùng rộng lớn của nó. Сá tính của nghệ sĩ không chỉ thể hiện ở việc sáng tạo ra những biểu tượng mới mang tính đột phá (trong sự đọc biểu tượng của cái phi biểu tượng), mà còn bộc lộ ở việc huy động, làm sống dậy những hình tượng mang tính biểu tượng đôi khi rất cổ xưa. Nhưng cái có ý nghĩa quan trọng nhất lại là hệ thống các quan hệ mà nhà thơ thiết lập gữa các hình tượng – biểu tượng cơ bản. Phạm vi ngữ nghĩa của các biểu tượng bao giờ cũng mang tính đa trị. Chỉ khi nào tổ chức được một màng lưới kết tinh của những mối liên hệ tương hỗ chúng mới tạo ra một “thế giới thi ca” làm nên đặc điểm của một nghệ sĩ nào đó.

Trong tác phẩm hiện thực chủ nghĩa của Pushkin, hệ thống biểu tượng tạo thành một cấu trúc vô cùng uyển chuyển, mềm dẻo, sinh ra những ý nghĩa phong phú đến kinh ngạc và, đây mới là điều đặc biệt quan trọng, tạo nên sự đa tạp đầy hàm súc gần như đồng nhất với sự đa tạp của chính bản thân đời sống. Miêu tả toàn bộ hệ thống biểu tượng của Pushkin là nhiệm vụ quá sức với chúng tôi, xét theo dung lượng có hạn của công trình này, cũng như mức độ phức tạp của vấn đề. Nhưng “những bi kịch nhỏ” cho phép rút ra một số biểu tượng bổ trợ và quan sát mối liện hệ giữa chúng với cấu trúc đã mô tả ở trên.

Trung tâm ngữ nghĩa trongVị khách bằng đá, Mozart và Salieri, Yến tiệc thời dịch hạch được tạo thành bởi mô tip có thể xác định như một cuộc “yến tiệc thảm khốc”[11]. Trong cả ba truyện kể, yến tiệc được gắn với cái chết: yến tiệc với vị khách là pho tượng, yến tiệc là vụ giết người, và yến tiệc trong thành phố có dịch hạch. Hơn nữa, trong tất cả các trường hợp ấy, yến tiệc không chỉ là việc gở, mà còn mang tính đồi bại: nó là sự báng bổ và phạm vào những điều cấm kị căn cốt nào đó mà con người không được phép xoá bỏ. Môtip yến tiệc thảm khốc là môtip cổ đại, bữa tiệc của Atréelà một thí dụ. Nhưng ở Pushkin, nó có ý nghĩa đặc biệt, bởi biểu tượng có ý nghĩa rất quan trọng đối với toàn bộ sáng tác của ông.

Trong sáng tác của Pushkin, yến tiệc, ở phần ý nghĩa cơ bản của nó, trước hết, có âm hưởng tích cực. Chủ đề yến tiệc là chủ đề về tình bằng hữu :

Chúa nâng đỡ các người, bằng hữu của ta ơi

Trong lo toan cuộc đời, trong phụng sự hoàng đế

Cả trong yến tiệc của tình bạn chân tình

Và trong tình yêu ngọt ngào đầy bí ẩn (III, 80).

Ngày hôm qua, khi rời buổi dạ yến của đám bạn bè thân hữu (II, 82).

… Và cùng những kẻ chiến bại ngồi vào bàn tiệc bạn bè nồng ấm (IV, 16).

Yến tiệc, đó là sự kết nối mọi người thành một khối huynh đệ. Bàn tiệc, vui nhộn, tình bằng hữu bao giờ cũng gắn chặt với tự do. Vui nhộn là dấu hiệu của tự do, còn buồn chán, sầu muộn lại là con đẻ của tình trạng nô lệ.

Như tự do, vui nhộn sao quán trọ đêm của họ (IV, 179).

… Khi đã quen với tự do <…> vui nhộn (IV, 408).

Bây giờ chàng là cư dân tự do của vũ trụ. Mặt trời vui vẻ ánh lên sắc

đẹp lúc giữa trưa trên đầu chàng(IV, 183).

Mối liên hệ tay ba: yến tiệc - vui nhộn - tự do mở ra lớp đầu tiên và cơ bản của biểu tượng này:

Tôi yêu cái buổi tiệc đêm

Nơi chủ nhân ông là sự nhộn vui bất tận

Cả tự do và thần tượng của tôi

Ngồi sau bàn làm người chấp pháp (I, 100).

Do đó mà có dấu hiệu bổ sung - các vành tròn, vòng tròn: là vòng tròn bè bạn, anh em, đồng chí. Điều này đã làm cho yến tiệc có ý nghĩa tích cực không chỉ ở trong thơ trữ tình bằng hữu, mà còn cả trong thơ trữ tình chính trị của Pushkin: tư tưởng đấu tranh, đồng chí hướng, tư tưởng về liên minh chính trị được gắn với men rượu, sự vui nhộn và những cuộc tranh luận thân thiện. Nhưng cũng nên biết rằng, yến tiệc – rước thánh thể, cùng với uống rượu vang và ăn bánh mì - là biểu tượng cổ xưa về sự liên minh sinh tử, về sự nối kết muôn đời bền chặt. Vì thế mà có sự kết hợp giữa yến tiệc và bí tích thánh thể (Sứ điệp gửi V.L. Davydov). Đồng thời, yến tiệc cũng có những dấu hiệu của sự chè chén say sưa và nhiệt huyết tràn trề.

Trong thơ Pushkin, Bài ca Tửu thần là tác phẩm kết tinh độc đáo các yếu tố cơ bản của yến tiệc. Ngay ở câu thơ mở đầu, tác phẩm đã đã thể hiện chủ đề về niềm vui, chẳng những thế, các hình thức “vui nhộn”, “tiếng nói” của nhà thờ Slavơ đã tạo ra cho nó âm hưởng trang trọng, gần như là nghi lễ. Cả bài thơ thấm đẫm giai điệu vui tươi trang trọng. Chỉ mỗi câu thơ đầu tiên có giọng nghi vấn. Trong dòng thơ nói về giây phút lặng im sắp tới, chỉ mỗi một từ có ngữ nghĩa là sự tĩnh mịch và, có thể, là sầu muộn: “im bặt”. Toàn bộ bài thơ ở phần còn lại đối lập với dòng đầu tiên và đầy ắp từ ngữ hân hoan, vui nhộn. Chỉ có một động từ ở dòng thơ mở đầu được sử dụng dưới hình thức trình bày trạng thái. Những động từ còn lại: “Hãy rót”, “Hãy thả”, “Hãy nâng”, “Hãy chia” - đều dùng ở thức mệnh lệnh. “Muôn năm” (tiếng Nga: “Да здравствуют”.- ND) theo tiếng Slavơ cổ cũng thể hiện ngữ nghĩa mệnh lệnh (lối mệnh lệnh - jussivus - ngữ pháp Latin, kiểu nhưabeat - “Hãy để cho qua”).

Điều trên đã mang lại cho văn bản âm hưởng tươi vui. Ý nghĩa biểu tượng cơ bản của bài thơ: sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Điều này có quan hệ với tình huống ngoài văn bản, thời điểm sáng tác khúc ca này. Bài ca Tửu thần là thánh ca chào đón mặt trời, được tấu lên vào cuối buổi dạ tiệc, lúc mặt trời mọc[12].

Chủ đề từng bước làm phát lộ hệ thống biểu tượng của hình ảnh yến tiệc:

 - niềm vui chè chén,

- tình yêu

- rượu,

- hình ảnh mang ý nghĩa kép của chiếc nhẫn: nhẫn thề thả vào li tròn và vòng tròn của những chiếc cốc lớn đặt sát vào nhau thân ái (“đáy lanh lảnh” cũng tạo ra hình ảnh vòng tròn như vậy)[13],

- nàng thơ và trí tuệ

- mặt trời.

Sự so sánh mặt trời với lí trí, với “mặt trời bất tử của trí tuệ”, và việc đối lập nó với ngọn đèn “thông thái rởm”, hình dung từ “mặt trời thiêng liêng” đã mang lại cho hình tượng tính khái quát cao nhất, chứ không chỉ có ý nghĩa tinh tú (ý nghĩa của vòng tròn như là dấu hiệu của thời viễn cổ về mặt trời được lặp lại ở đây).

Tính chất phức tạp của biểu tượng bộc lộ ở chỗ: yến tiệc như là biểu hiện của tình bạn không loại trừ các kết hợp: “yến tiệc om sòm và tranh cãi dữ dội”, tôn thờ trí tuệ và sự phụng sự nó như một lễ nghi không ngăn cấm sự “hoạt náo cuồng si của yến tiệc”. Cả lí trí, lẫn thi ca đều không thù địch với sự cuồng si của lễ hội vui nhộn.

… Hãy cầu nguyện cả Tửu thần, lẫn tình yêu,

Và đám dân đen coi khinh những lời ta thán điên rồ;

Họ không biết có thể thuận hoà sống

Với đảo Kythera, với hàng hiên dãy cột, với cuốn sách và

                                                             cả cốc rượu đầy

Rằng trí tuệ cao siêu có thể dấu kín

Những trò đùa điên rồ dưới đôi cánh mong manh(II, 27)

Ta dẫn Nàng Thơ xinh tươi

Vào chốn om sòm yến tiệc và tranh giành kịch liệt

Giông tố tuần phòng vào lúc nửa đêm[14]

Và Nàng mang theo quà tặng của mình

Đem đến nơi điên rồ om sòm yến tiệc… (VI, 166).

Một nét nghĩa khác của yến tiệc gắn với bất kì một dấu hiệu còn dư thừa nào đó: “yến tiệc của trí tưởng tượng”, “yến tiệc của tuổi trẻ”.

Nét nghĩa thứ ba có nguồn gốc từ Folklore “trận chiến - yến tiệc”, mặc dù trước Pushkin, nó đã có truyền thống đáng kể trong văn học. Không phải ngẫu nhiên, nét nghĩa này đã xuất hiện trong những bài thơ đầu tay thời trung học[15].

Cách diễn đạt trong bài Andrei Senhie hoàn toàn mang tính ngoại lệ:

Vụ tử hình vào sáng ngày mai, Là yến tiệc quen rồi, với dân chúng(II, 397).

Nó gần như báo trước lớp từ vựng ngữ nghĩa về loại yến tiệc khủng khiếp mà chúng tôi đặc biệt quan tâm. Trong công trình nghiên cứu chứa đựng hàng loạt ý tưởng thú vị, nhưng hết sức chủ quan của I.L. Pankratova và V.E. Khalizev[16], viết về bài Yến tiệc thời dịch hạch, xuất phát từ quan niệm về một Pushkin “lầm lỗi” thời trẻ và Pushkin trưởng thành với tình cảm chủ đạo là sám hối, các tác giả đã gắn thơ về yến tiệc với những lỗi lầm thời trẻ của nhà thơ. Sự phát triển của Pushkin được họ trình bày rất rõ trong công thức thế này: “Vào năm 1835 đã thấy vang lên những lời của Người hành hương[17]: “Tôi nhìn thấy trần gian”, mà theo các nhà nghiên cứu, những lời ấy đã tổng kết sự “tiến hoá tư tưởng của Pushkin”[18]. Dựa vào phương pháp như thế, chắc phải cho rằng, những ý thơ: “Trái đất bất động. Kho trời/ Hỡi Hoá công, xin người phù trợ” đều thể hiện quan niệm vũ trụ của bản thân Pushkin.

Phân tích các văn bản (một cách toàn diện, chứ không phải theo kiểu phiến diện – chủ quan), ta sẽ có một kết luận khác: hình tượng yến tiệc theo nghĩa đen của biểu tượng này hiện diện trong toàn bộ sáng tác của Pushkin như một hình tượng tích cực (xem: Yến tiệc của Pie Đại đế, bài thơ mà Pushkin đã sử dụng để mở đầu tạp chí Người cùng thời, sau khi nhấn mạnh ý nghĩa cương lĩnh của văn bản này. Những hình tượng khủng khiếp của yến tiệc đồi bại hoạt động ngay trên cái nền của nó. Ý thức về tính chất đặc biệt và bất thường của những hình tượng này đã nhấn mạnh ý nghĩa của chúng. Việc gán cho Pushkin tư tưởng sám hối trong lí tưởng về yến tiệc như nó vốn dĩ hoàn toàn làm sai lệch viễn tượng ngữ nghĩa.

Yến tiệc là hình tượng phản ánh theo kiểu biểu tượng sự liên kết, hợp nhất, sự hoà đồng đầy hân hoan của tình bằng hữu. Nhưng liệu có thể có sự hợp nhất và hoà đồng giữa sinh và tử, giữa sự sống và cái chết hay không? Chính sự hoà trộn này đóng vai trò quan trọng trong “những bi kịch nhỏ”. Thực tế là, ở dạng khái quát như thế, các xung đột ấy sẽ hiện lên trong hình thức sâu sắc nhất của chúng. Chúng nổi gần bề mặt truyện kể, giữa bộ ba biểu tượng quen thuộc với chúng ta (sức mạnh thiên nhiên tự phát - quy luật - con người). Cuối cùng, trên chính bề mặt truyện kể, chúng được thể hiện trong các hình tượng cụ thể - lịch sử và văn hoá – thời đại. Đồng thời, mỗi cấp độ trước không biểu hiện tự động và trọn vẹn trong ngôn ngữ của cấp độ tiếp theo, mà cùng sắm vai với nó, và chỉ biểu hiện bản thân tới một mức độ nhất định trong một ngôn ngữ hoàn toàn khác của một cấp độ khác.

Trong “những bi kịch nhỏ”, các biểu tượng cơ bản trong thế giới nghệ thuật của Pushkin vào những năm 1830 được diễn giải theo kiểu riêng: có sự đụng độ giữa các đồ vật, tư tưởng và con người. Những xung đột này không chỉ mang tính cực đoan, mà còn diễn ra trong những biến thái kì quái. Thế giới của “những bi kich nhỏ” là thế giới dịch chuyển, nằm ở chỗ đứt gẫy (G.A. Gukovski  đã cảm nhận điều đó hết sức tinh tế, mặc dù rất khó tán thành với nhiều khía cạnh phân tích của ông), trong đó, mỗi hiện tượng có những đặc điểm không đúng với bản chất của mình: cái tĩnh tại thì chuyển động, tình yêu mừng thắng lợi trong những cỗ quan tài, tình cảm thẩm mĩ tinh tế, theo lôgic, dẫn sự giết người, còn yến tiệc hoá ra là tiệc tùng của cái chết. Nhưng chính sự phá vỡ quy phạm lại tạo ra hình tượng của một loại quy phạm cần thiết, dẫu chưa được hiện thực hoá.

Nhu cầu về sự hài hoà, niềm tin vào tính khả nhiên và tự nhiên của nó tạo thành cái nền ngữ nghĩa của những câu chuyện bi kịch, để lại cho người đọc ấn tượng lạ lùng về một sức khoẻ nghệ thuật sâu sắc nhất, dẫu là chúng đã vẽ ra những bức tranh bệnh hoạn và đồi bại.

Trong Hiệp sĩ keo kiệt, đồ vật lấn át con người. Buổi yến tiệc phản tự nhiên với sự tham gia của Nam tước và những cái rương vàng thân thiết tựa như anh em tất yếu sẽ kéo theo sự thù hận giữa cha và con cùng thái độ sẵn sàng đâm chém lẫn nhau. Tiền bạc được cổ vũ, linh hoạt hẳn lên. Chúng là lũ “đầy tớ”, là “bằng hữu”, là “những quí ông”. Nhưng trước hết, chúng là thần linh[19]. Và chính trong cái xã hội bè bạn - thượng đế ấy, Nam tước quyết định “hôm nay ta sẽ tổ chức yến tiệc cho mình”. G.A. Gukovski đã chỉ ra những đặc điểm của tâm lí hiệp sĩ trong lời nói của Albert về bá tước Delorge:

… Ngài chưa bao giờ chịu lỗ vốn

Áo giáp che ngực ngài vẫn nguyên vẹn sắc thành Venise

Mà ngực mình: một đồng xu không đáng

Thì cái khác, đời nào ngài chịu bỏ tiền mua.

Nhưng trong ý kiến nói trên, người ta thấy đập ngay vào mắt: dưới sự thống trị của đồng tiền, cái sống động và cái thiếu sinh khí đổi chỗ cho nhau. Cái chết cứng, được làm ra một cách nhân tạo, cần phải thay đổi, lại là cái có giá trị, còn cái sống động, tự nhiên, không thể ghẻ lạnh lại có vẻ vô giá trị. Simeon Poloski cũng đã từng viết như thế về thế giới suy đồi:

Việc nghệ thuật thì được gìn giữ thanh danh

Còn gương mặt tự nhiên lại được tạo ra giả dối[20].

Mọi mối liên hệ của con người bị đứt tung: chỗ đứng của con người được thay thế bằng các đồ vật: vàng, rương hòm, chìa khoá.

Trong Hiệp sĩ keo kiệt, bữa tiệc của Nam tước đã diễn ra, nhưng còn một bữa tiệc khác chỉ được nhắc qua, ấy là bữa tiệc mà Albert sẽ đầu độc cha mình. Bữa tiệc ấy rồi sẽ diễn ra trong Mozart và Salieri, nó dùng “thi vận tình thế”  để nối kết hai vở kịch cực khì khác nhau còn lại vào một  “câu lắp ghép” thống nhất.

G.A. Gukovski đã chứng minh rất thuyết phục, rằng xung đột của Mozart và Salieri không nằm ở sự ghen tị giữa kẻ tầm thường với người tài năng. Salieri là nhà soạn nhạc lớn, trung thành với nghệ thuật và thấy mình không hề thua kém Mozart. Trung thành với quan niệm của chủ nghĩa hiện thực về quyết định luận xã hội - lịch sử đối với con người,  G.A. Gukovski nhìn thấy ý nghĩa của vở kịch là ở chỗ, nó đã chỉ ra sự chiến thắng của các hình thức tiến bộ trong nghệ thuật đối với các hình thức đã lỗi thời, và ông quả quyết, Salieri là nghệ sĩ của thế kỉ XVIII, còn Mozart là nghệ sĩ lãng mạn chủ nghĩa : “Hệ thống tư tưởng, sáng tác, tồn tại kiểu mới tạo nên Mozart đã thay thế cho tổ hợp văn hoá - thẩm mĩ đã tạo nên Salieri. Nếu không ngại sẽ thu hẹp tư tưởng và ý nghĩa trong quan niệm của Pushkin, có thể xác định một cách ước lệ hệ thống được phản ánh trong hình tượng Salieri là chủ nghĩa cổ điển, hoặc, nói chính xác hơn, chủ nghĩa cổ điển thế kỉ XVIII, còn hệ thống được phản ánh trong hình tượng Mozart là chủ nghĩa lãng mạn theo quan niệm của Pushkin”[21].

Quan điểm của G.A. Gukovski có một điểm yếu chí mạng: những gì Pushkin biết về Salieri không thể cung cấp cơ sở để tạo ra hình tượng nghệ sĩ – nhà cổ điển chủ nghĩa. Trái với ý kiến của nhà nghiên cứu, điều này chẳng liên quan gì với việc nhắc tới tên tuổi của Beaumarchais (mà Pushkin gắn với điểm khởi đầu của cách mạng), cũng giống như việc viện vào Tarta - vở nhạc kịch lãng mạn cách mạng, một trong những vở nhạc kịch nổi tiếng nhất vào những năm 1830, trong đó để ca ngợi cảnh sát nhân tàn bạo, trên sân khấu đã xuất hiện các vị thần linh, thiên tài và những cái bóng của các nhân vật (Karamzin gọi đó là vở kịch “kì lạ”).

Nhưng vấn đề không phải là ở đấy. Sự thay đổi của các thời đại văn hoá có thể giải thích cho sự nảy sinh của  lòng đố kị. Nhưng bản thân Salieri không đơn giản chỉ ghen tị - anh ta hạ sát.

Pushkin không chỉ phơi bày tâm lí ghen tị, mà còn vẽ ra một cách tài tình cơ chế nẩy sinh tội giết người. Cho rằng, ở giai đoạn hoàn kết lịch sử, chủ nghĩa cổ điển sinh ra tâm lí sát nhân, đó là chuyện kì lạ, giống như gán những quan điểm như thế cho Pushkin.

Chúng ta hãy theo dõi con đường dẫn Salieri tới tội giết người.

Salieri là một nhạc sĩ bẩm sinh (“tôi sinh ra cùng với tình yêu âm nhạc”). Từ thủa thiếu thời y đã dâng hiến đời mình cho âm nhạc. Thái độ của anh ta với sáng tạo là sự phụng sự dâng hiến tự nguyện. Những lời nói sau đây của Salieri rất hay được trích dẫn:

… Giết chết những âm thanh

Ta cắt nghĩa âm nhạc giống như một xác chết.

Ta tin vào sự hài hoà của đại số học(VII, 123).

Người ta quá quen nhìn thấy ở đó lời tuyên ngôn cho chủ nghĩa duy lí khô khan trong nghệ thuật, tới mức, không ai còn để tâm suy ngẫm về ý nghĩa đích thực của chúng trong ngữ cảnh của toàn bộ dòng độc thoại. Trong khi đó, ngay sau những lời trên, lại có những lời sau đây:

… Khi ấy

Ta đã đánh liều, trong khoa học, tinh thông

Đắm mình vào lạc thú ước mơ sáng tạo

                         (VII, 123; Do tôi nhấn mạnh.- Iu.M.)

Salieri không phải là địch thủ của cảm hứng sáng tác, không phải là kẻ thù của “ước mơ sáng tạo”. Với sự kiềm chế lạnh lùng, chàng chỉ nghĩ rằng, quyền sáng tác bằng cảm hứng chỉ có thể chiếm lĩnh bằng quá trình thử thách lâu dài, bằng sự phụng sự mở ra con đường thâm nhập vào thế giới của những người sáng tạo biết dâng hiến. Quan điểm ấy nhắc ta nhớ tới dòng hiệp sĩ đạo nhiều hơn là về viện hàn lâm của các nhà toán học. Cả tư tưởng phụng sự nghệ thuật, cả sự thử thách khó khăn để chiếm lĩnh tài nghệ, tất cả đều không xa lạ với lí luận của chủ nghĩa lãng mạn. Ví như Wackenroder, người lấy Dürerlàm mẫu mực, từng viết rằng, Dürer, “bằng cách hợp nhất tâm hồn với sự hoàn hảo của cơ giới”[22], đã nghiên cứu “hội hoạ với sự nghiêm túc, trân trọng và phẩm giá lớn hơn bội phần so với với các hoạ sĩ tao nhã của thời đại chúng ta”[23]. Hoàn toàn có thể hình dung ra những lời ấy trên cửa miệng Salieri của Pushkin.

Salieri đã thấm nhuần tinh thần phụng sự nghệ thuật theo tinh thần trung cổ. Đó không chỉ là nghĩa vụ và sự phụng sự gắn với thái độ quên mình, mà còn là ân sủng độc đáo ban cho những người xứng đáng. Ân sủng cao hơn thủ tế, cũng như nghệ thuật cao hơn nghệ sĩ. Và những lời này chắc không làm phật lòng nhà lãng mạn từng viết: “Vinh quang dành cho nghệ thuật, chứ không dành cho nghệ sĩ: anh ta chỉ là công cụ yếu ớt của nó”[24].

Vận động đến với tội ác mang tính định mệnh của Salieri được bắt đầu chính là ở bình diện này. Pushkin đã nắm bắt một tư tưởng cao quí nhất trong số những tư tưởng trừu tượng, một tư tưởng nghệ thuật, mà từ trong bản chất, nhân đạo nhất, và chỉ ra rằng, được đặt cao hơn con người, biến thành sự trừu tượng mang tính mục đích tự thân, tư tưởng ấy có thể trở thành vũ khí giết người. Đặt nghệ thuật của con người cao hơn con người, Salieri dễ dàng tiến thêm một bước bằng cách thuyết phục bản thân, rằng con người và cuộc sống của nó có thể mang ra làm vật hiến tế cho bái vật ấy.

Tư tưởng bị tách khỏi nội dung nhân tính của nó thường bị biến thành một chuỗi nguỵ biện. Bàn về hình tượng Angelo trong vở Phương cách vì phương cách (Measure for Measure.- ND) củaShakespeare, Pushkin viết: “… ông đã bào chữa cho sự nghiệt ngã của mình bằng việc thu hẹp ý nghĩa sâu sắc của con người quốc gia, ông làm cho sự ngây thơ phải siêu lòng bằng những lời nguỵ biện mạnh mẽ, lôi cuốn…” (XII, 160). Cho nên, tư tưởng bị đông lại, bị bó mình trong giáp trụ của những chân lí hư nguỵ, tức là trở thành chết cứng. Tảng đá chống lại con người, sự trừu tượng ám hại đời sống.

Bước đầu tiên tiến tới tội giết người là sự khẳng định, rằng kẻ sát nhân chỉ là người thừa hành của một ý chí tối cao nào đó và y không phải chịu một trách nhiệm cá nhân nào cả: “Ta được chọn lựa”, “Ta không thể chống lại định mệnh/ Số phận của mình”. Tiếp theo là bước đi quyết liệt nhất: huý kị hoá chữ “giết”, thay nó bằng uyển ngữ “ngăn lại”

… Ta được chọn lựa

Để ngăn nó lại(VII, 128).

Cái khó nhất trong hành động tội ác, ấy là học được tên gọi thích hợp của nó, nắm vững được kho từ vựng của kẻ sát nhân. Ngay cả khi nói với chính mình, Salieri cũng không muốn gọi sự vật trực tiếp bằng tên của nó: chỉ nói về một hành động vô tội thôi - cần phải “ngăn lại”. Đồng thời, cũng còn một bước đi quan trọng của nguỵ biện: Mozartđược mô tả như phía gây hấn, “những viên thủ tế, những người phụng sự âm nhạc” được mô tả như những vật hiến tế đang phòng vệ. Điều này cũng có ý nghĩa quan trọng giống như trong phép nguỵ biện về tội sát nhân: vật hi sinh được mô tả như kẻ thù đang tấn công dữ dội và nguy hiểm, còn tên sát nhân được mô tả như vật hiến tế đang phòng vệ.

Và cuối cùng, điều quyết định:

Có lợi ích gì, nếu Mozart còn sống

Đỉnh cao mới, liệu y còn vươn tới nữa ?

Và như thế, y chấn hưng nghệ thuật được sao?(VII, 128).

Quyền của mozart (và con người nói chung) đối với cuộc sống hoá ra chỉ là một thứ “lợi ích” nào đó mà ông ta mang tới cho sự tiến bộ nghệ thuật. Còn “các thủ tế, những người phụng sự âm nhạc” được thừa nhận là pháp quan trong vấn đề này. Và nếu họ phán quyết, rằng cuộc đời của Mozart chẳng có ích lợi gì cho tư tưởng nghệ thuật, thì họ có quyền giáng cho ông bản án tử hình.

Tóm lại, giáo điều trừu tượng, ngay cả khi nó mang tính thanh cao trong những tiền đề xuất phát, nếu được đặt cao hơn cuộc sống sinh động, phập phồng, run rẩy của con người và xem cuộc sống ấy như một phương tiện để đạt tới mục đích tối cao của mình, thì nó sẽ đông lại, hoá đá, có những đặc điểm của “Tượng thờ” phi nhân tính và biến thành vũ khí sát nhân.

Bữa tiệc của Mozart trong Sư tử vàng, bữa tiệc cuối cùng của đời ông, không diễn ra trong xã hội của người bạn – nhạc sĩ, như Mozart vẫn nghĩ, mà trong xã hội của vị khách bằng đá. Trực tiếp trên cấp độ truyện kể, ngồi sau bàn tiệc là con người yêu đời, con người bằng hữu, chính là con người, chứ không phải nhạc sĩ (những đoạn có người nghệ sĩ vĩ cầm mù, chuyện kể về trò chơi với trẻ con trên sàn nhà vẽ ra một hình tượng con người, chứ không phải hình tượng tư tế) và cái người định giá tình tế và người sành sỏi âm nhạc, cái người tự nói về mình: “Tôi không mấy yêu cuộc sống”, cũng là một con người, một nguyên tắc. Nhưng bóng đen của buổi tiệc định mệnh đã xuất hiện trong đoạn đối thoại đầu tiên của Mozart và Salieri:

Hãy hình dung… có một người nào đó?

Nào, cứ cho là đôi chút trẻ hơn tôi:

Yêu không nhiều, nhưng may mắn bao nhiêu –

Với người đẹp, với bạn bầu, dẫu là với cậu –

Ta sướng vui…

Nhưng bỗng: ma đội quan tài

Bóng đen bất ngờ, hay một cái gì đại loại là như thế(VII, 126 - 127).

Thế là sự xuất hiện của Huân tước đã được báo trước. Nhưng sự gay cấn của tình huống nằm ở chỗ: bạn chính là Huân tước. Vì xem thiên tài và sự tàn ác là những thứ bất cộng đái thiên, nên Mozart cho rằng, dự yến tiệc với thiên tài, tức là  yến tiệc với con người. Nhưng thực ra, ngồi cùng Mozart sau bàn tiệc lại là tảng đá, là “ma đội quan tài”.

Chuyện kể thứ hai - những lời của Mozart, nhân vật có cảm giác là người đàn ông đen đúa đã đặt lễ Cầu hồn, “cùng chúng tôi, chính - người thứ ba/ Ngồi xuống”.

Chuyện kể thứ ba - tên Beaumarchais được thốt ra từ miệng Salieri. Không biết vu cáo hay có thực, nhưng đúng là danh tiếng của kẻ đầu độc đã bám theo  Beaumarchais suốt đời và làm vấy bẩn tên tuổi ông cho tới khi ông đã xuống dưới mồ. Cho nên, biểu tượng yến tiệc và môtip tranh đấu giữa con người với tảng đá bắt đầu dẫn tới hồi quyết định : giết người.

Có hai thế giới đụng độ với nhau: thế giới bình thường, thế giới con người của Mozart khẳng định mối liên hệ giữa nghệ thuật với nhân tính, với trò chơi, với sự vô tư, với cuộc đời giản dị, với sự sáng tạo tìm kiếm cái không thể tìm thấy; và thế giới tà ác của Salieri, nơi tội giết người được gọi tên là “nghĩa vụ” (“Tôi nhọc nhằn hoàn thành nghĩa vụ”), địa ngục gọi là “quà tặng của tình yêu”, còn rượu đánh thuốc độc gọi là “chiếc li của tình bạn”, nơi đời sống của con người chỉ được xem là phương tiện, chân lí đã được tìm thấy, đã được đúc kết, đám tư tế, thủ từ sẽ bảo vệ nó.

Thế giới thứ hai giành được chiến thắng thực tế, thế giới thứ nhất giành được chiến thắng đạo đức. Đồi bại, ấy là quy luật của thế giới thuộc về Salieri, và sự phối hợp phản tự nhiên: “Ta yến tiệc với vị khách đáng căm hờn” được y sử dụng như là như là sự phối hợp thường nhật và bình thường. Trong Vị khách bằng đá, bầu không khí này thấm sâu vào tất cả các nhân vật, làm đầy ắp không gian của vở kịch. Tính ngây thơ tự nhiên, đầy tình người của Mozart, lòng nhân hậu thuần phác ở tài năng của ông đã biến thành dục vọng tàn ác trong tâm hồn Don Juan, muốn làm đầy cảm giác của thứ dục vọng này, cần phải có sự hiện diện của cái chết. Don Juan cũng là thiên tài, nhưng y không hề nói, rằng thiên tài và tội ác là “hai thứ bất cộng đái thiên”. Mozart là hiện thân của tính tự nhiên. Ông chỉ ra rằng, trở thành thiên tài, đó là chuẩn mực đối với sự tồn tại nhân sinh. Don Juan là loại thiên tài kêu gọi vi phạm chuẩn mực, phá bỏ mọi giới hạn chỉ vì chúng là những giới hạn.

Nhưng nếu sự di chuyển điểm nhìn tác giả sẽ mở ra một cái gì đó mới mẻ trong hàng dẫy “cong người” (tiến hành phân tích cơ sở cá nhân trong con người: Mozart phát hiện ra bản chất thiên tài trong tính người, còn Don Juan lại tìm thấy sự khủng khiếp trong tài năng), thì chính cái thế giới của những giáo điều và nguyên tắc “bằng đá” cũng hiện lên dưới ánh sáng mới: là người bảo vệ cho tư tưởng về sự thuỷ chung, về mái nhà thân thương và đạo đức gia đình. Huân tước đã được soi sáng khác đi, so với kẻ ghen ghét tài năng Salieri. Điều này sẽ dẫn tới chỗ: trong Vị khách bằng đã có hai nhân vật đối kháng đều khủng khiếp, mỗi người khủng khiếp theo kiểu của mình, và đều hấp dẫn, mỗi người hấp dẫn theo kiểu riêng.

Hình tượng Don Juan được phân đôi: y là kẻ quyến rũ ranh mãnh, là tên vô liêm sỉ có tính toán, là “kẻ phóng đãng và đứa vô lại”, như Don Carlosđã nhận xét về hắn.Nhưng y còn là một Don Quixotetrong tình yêu, và trong cửa miệng y, mỗi lời dối trá trở thành lời nói biểu hiện một cách kì diệu cho chân lí và sự chân thành. Giây phút nào y cũng hằng tin tưởng vào những điều y nói, rằng lời nói của y sẽ hoá thành chân lí. Y là kẻ thù của những người đàn bà phải lòng y (“Ngươi đã huỷ hoại cuộc đời của bao nhiêu người phụ nữ đáng thương?”), nhưng đồng thời, y cũng là người bạn vĩ đại nhất của họ. Thậm chí, ngay khi lừa dối, y vẫn nói với họ cái điều mà họ vẫn thầm bí mật chờ đợi được nghe, và với mỗi người trong số họ, tình yêu của Don Juan vừa là sự quyến rũ, là cái chết, vừa đại hỉ, là hạnh phúc.

Don Juan là “kẻ vô thần truỵ lạc, táng tận lương tâm” (VII, 141), như vị tu sĩ vẫn gọi hắn. Nhưng thái độ vô thần của y không gắn với sự thèm khát báng bổ bệnh hoạn, mà gắn với sự can đảm vô bờ không cho phép thừa nhận sự tồn tại của những sức mạnh có thể gợi dậy ở y nỗi sợ hãi. Y xuất hiện với lời tuyên bố: “Ở Mandrid, ta chẳng sợ một ai” và y đã chiến thắng nỗi sợ hãi trong những khoảnh khắc cuối cùng của mình.

Don Juan: Lạy chúa tôi! Ôi Dona Anna!

Pho tượng: Hãy từ bỏ nàng đi, Tất cả đã kết thúc. Ngươi kinh sợ sao Don Juan?

Don Juan: Ta mà sợ ư? Không! Ta gọi ngươi và vui mừng, vì đang nhìn thấy (VII, 171).

Y từ chối làm theo mệnh lệnh của pho tượng hãy “từ bỏ” Dona Anna và đã chết cùng với tên gọi tình yêu trần thế của mình nơi cửa miệng (đây là sự cám dỗ tinh ranh chuyển thành đam mê dục vọng, mà trong Thánh kinh đã nói: “…Tình yêu, cũng như cái chết, mạnh mẽ thay, …”, “Nước cả không thể dập tắt được tình yêu, và những dòng sông không thể dìm nó chết đuối” - Khúc ca 8: 6 - 7). Lòng can đảm vô biên, mang tính bản năng của con người tạo nên vẻ đẹp quyến rũ cho hình tượng Don Juan, sức phá hoại ở dục vọng của y cho thấy mặt khủng khiếp của cá nhân con người.

Hình tượng Huân tước cũng bị phân đôi, và chính điều đó khiến cho nhân vật này khác với Salieri. Ông là pho tượng, là nguyên tắc hiện hình, là “người hạnh phúc đã chết”, là đức “lang quân bằng cẩm thạch” (VII, 163). Nhưng ông cũng là con người. Tính hai mặt này được thể hiện trong đoạn độc thoại nổi tiếng của Don Juan:

Người hiện lên ở đây đồ sộ làm sao! Chao ôi đôi vai! Khác gì Hercules!...

Thế mà người quá cố thì nhỏ bé, còi cọc, Ở đây, dẫu cố kiễng chân, Cũng không sao với tới cái mũi của mình  (VII, 153).

Sự tương phản của vẻ đẹp uy nghi đường bệ ở kí hiệu của pho tượng và cái nhỏ bé vật lí của Don Alvartrong thực tế từ lâu đã trở thành một thí dụ mang tính giáo khoa thư. Nhưng những lời:

…. Ông đã từng

Kiêu hãnh và can đảm, có tâm hồn nghiêm nghị, khắt khe… (VII, 153)

đã xác lập sự tương thích giữa bản chất tinh thần ở người chồng quá cố của Dona Anna và dáng vẻ bề ngoài của pho tượng. Cả Don Alvar lúc sinh thời cũng được phân đôi. Ông đã mua được tình yêu củaDonaAnna:

… Chúng ta thì nghèo. Don Alvar lại giàu có.

… Mẹ ta

Lệnh cho ta phải nhận lời cầu hôn của Don Alvar… -

tình thế của Tachiana.  Nhưng ông yêu Dona Anna:

Giá khi nào bạn biết được, Don Alvar đã yêu ta biết chừng nào!... -

Và ông giữ mãi tình yêu chung thuỷ với nàng, ngay cả khi đã yên nghỉ dưới mồ:

… Khi ông đã trở thành goá bụa. - Ông vẫn cứ thuỷ chung

Với tình yêu chồng vợ của mình(VII, 164).

Vai trò của pho Tượng không mang tính đơn trị. Đó là hiện thân của nguyên tắc NGHĨA VỤ nghiệt ngã và phi nhân tính, từ chối quyền hưởng hạnh phúc trần thế của con người. Nhưng đó cũng chính là toà án và là sự trừng phạt tối cao dành cho kẻ vi phạm các chuẩn mực luân lí, mang đến cho thế giới sự hỗn loạn và huỷ diệt.

Nhưng ở pho tượng còn một khía cạnh khác. Thành phần cơ bản thứ ba ở hệ thống biểu tượng của Pushkin - các hình tượng của tự nhiên, chưa được trình bày trong Mozart và Salieri. Thực ra, trong vở kịch, đã có thể nhận ra sự hiện diện của những sức mạnh cõi âm, nhưng chỉ mỗi mình Mozart nghe thấy tiếng nói của nó – Salieri điếc đặc trước mọi chuyện, ngoài những lời nguỵ biện của lí trí trừu tượng. Trong Vị khách bằng đá, sự can thiệp của các thế lực siêu nhiên thuộc một thế giới khác là một trong những môtip cơ bản của vở kịch. Có một cái gì xa lạ cả với con người, lẫn những nguyên tắc trừu tượng của văn hoá, của nghĩa vụ, thậm chí của đạo đức, có một cái gì bí hiểm, phi nhân tính can thiệp vào số phận của Don Juan, một kẻ trong khi cười nhạo báng bổ các giá trị của con người, vẫn cứ phải đụng chạm tới một cái gì khủng khiếp mà thậm chí y không tin vào sự tồn tại của nó. Hình tượng hàm súc về các sức mạnh tự nhiên cho phép hoán đổi không biết bao nhiêu những ý nghĩa xa xôi, ví như sự nổi loạn của dân chúng và sự can thiệp của những sức mạnh siêu nhiên (liên hệ: bão tuyết trong Người con gái viên đại uý và Những người quỷ ám) và, nói chung, mang lại khả năng tạo ra một thành phần ngữ nghĩa đa diện, cho phép diễn giải theo nhiều cách khác nhau. Don Juan mời đức “lang quân cẩm thach” “đi tới nhà phu nhân vào buổi chiều muộn”, nhưng không phải kẻ ghen tuông đã chết, mà là một ai đó cực kì khủng khiếp đã tới chỗ Don Juan. Don Juan đã vượt qua cuộc gặp gỡ này.

Trong trường hợp thứ nhất, sự hợp nhất giữa hệ thống biểu tượng “tượng thờ” bằng đá với những căn nguyên tự nhiên – không thể diễn tả đã làm hiện ra một số giới hạn mới mẻ nào đó hoàn toàn không có trong hình tượng Salieri. Còn trong phiên bản Don Juan, con người thường lâm vào trạng thái đơn độc, một trạng thái vừa có sức mạnh ở tính cách của nó, vừa không tránh được cái chết chung cuộc. Trong Kị sĩ đồng, “tượng thờ” và lực lượng tự nhiên đối địch nhau theo kiểu cừu thù. Chính cách tổ hợp đa dạng các nhóm ngữ nghĩa khởi điểm cho phép Pushkin khám phá sự phức tạp nhiều mặt của những xung đột lịch sử và xã hội.

Yến tiệc âm phủ với sự hiện diện của cái chết diễn ra hai lần trong Vị khách bằng đá: nó tựa như được diễn tập ở nhà Laura, nơi Donalvar được thay thế bằng người anh em cau có của ông ta, và ở nhà Ana Donna, nơi Huân tước xuất hiện trong hình tượng của pho Tượng. Chuỗi “bi kịch nhở” kết thúc bằng vở kịch, trong đó hình tượng yến tiệc trở thành trung tâm tổ chức ngữ nghĩa.

Yến tiệc thời dịch hạchthu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu ít hơn rất nhiều so với tất cả các vở kịch khác nằm trong chuỗi tác phẩm này, có lẽ một phần do tính chất chuyển tiếp của nó. Nhưng ý nghĩa của tác phẩm này lại cực kì lớn.  Ngay trong Vị khách bằng đá, hành động diễn ra trong một không gian đặc biệt, kì lạ và khủng khiếp. Pushkin đã loại bỏ các cảnh bắt buộc phải có đối với tất cả các truyện kể gắn với Don Juan với sự quyến rũ một cô thôn nữ và những truyện kể thứ yếu khác. Các cảnh mất hết ý nghĩa trong lâu đài, ở nông thôn… Chỉ còn lại nghĩa địa và những cảnh có người chết và những hiện tượng siêu nhiên. Nghĩa địa là nơi cư trú của cả Don Juan, lẫn Huân tước. Từ chốn này, họ lần lượt đến nhà Dona Anna. Trong Yến tiệc thời dịch hạch, nghĩa địa trở thành một trong hai yếu tố cơ bản của không gian.

Yến tiệc thời dịch hạchdẫn chúng ta đến với thế giới của những chuẩn mực bị phá huỷ và bóp méo. Mọi hành động được triển khai trong một không gian biến dạng, giống như trong một tấm gương lồi. Một trong những biểu tượng không gian cơ bản trong sáng tác ở giai đoạn cuối của Pushkin là Ngôi Nhà. Đó là không gian của mình, không gian gia tộc, đồng thời là không gian khép kín, không gian được bảo vệ, không gian của đời sống riêng tư, trong đó lí tưởng về sự độc lập được thực hiện: “Một nồi súp bắp cải, phải, rất to”. Nhưng đó cũng là nơi con người sống cuộc đời đích thực, ở đây kinh nghiệm văn hoá của dân tộc được tích luỹ, một đời sống thật, chứ không hư ảo, đời sống bên trong, chứ không phải bên ngoài của nhân dân cũng được giải quyết ở đây (Lev Tolstoi rất hưởng ứng tư tưởng này). Không gian này là thế giới của cá nhân con người, là thế giới đối lập với sự thâm nhập của các lực lượng tự nhiên và tất cả những gì mà đời sống của con người cá nhân xem là không đáng phải để tâm. Đó vừa là “ngôi nhà lao động”, vừa là “mái ấm ta về” mà ngay ở ngưỡng cửa của nó người ta nhận ra thây xác của Evgheni từ Kị sĩ đồng. Nhưng đó cũng là trung tâm và nơi tụ hội của trật tự thế giới. Những vị thần hộ gia chính là Penates, là các “quân sư của Zeus”:

… Các người có sống dưới gầm trời này chăng, hay là, các đấng thần linh chí tôn là nguồn cội của tất cả, các nhà thông thái nói, theo sau các ngươi tưng bừng là Zeus với phu nhân đầu trắng, Và nữ thần trí tuệ, các nữ thần sức mạnh, Athens Pallas, - bảo vệ các người. Hãy nhận lấy bài ca, sức mạnh thần bí!(III, 192).

Chính ở đây, trong NHÀ mình, con người học được “khoa học đầu tiên” - khoa học “kính trọng bản thân” (III, 193). Vế sau của câu nói ấy đã được Pushkin nhấn mạnh.

 NHÀ là không gian tự nhiên của yến tiệc. Nhưng Yến tiệc thời dịch hạch lại diễn ra ngoài đường phố. Lời hướng dẫn đầu tiên tuyên bố: “Đường phố. Bàn tiệc đã sẵn sàng”. Sự kết hợp này đã tạo nên “sự liên kết cái không thể liên kết”. Nhưng khi các cỗ xe tải chở đầy xác chết đi ngang qua những thực khách đang ngồi ăn sau bàn tiệc, gần như lập tức xuất hiện hiệu ứng siêu thực nhắc người ta nhớ tới sự xuất hiện của những con ngựa với xe kéo trong phòng khách ở bộ phim Chú chó Andalou (Un chien Andalou.- ND) của Luis Buñuel. Sự đứt gẫy ấy của không gian nghệ thuật trong Yến tiệc thời dịch hạch có ý nghĩa rất sâu sắc: hành động diễn ra trong một “thế giới điên khùng”. Nhà cửa bị bỏ hoang, không ai sống trong nhà, người ta sợ trở về đấy. Đời sống gia đình diễn ra ngoài đường phố.

Nhà cửa chỗ chúng tôi buồn lắm - mà thanh niên lại thích vui(VII, 182).

Vị chủ toạ nói về nỗi khiếp đảm

… sự vắng vẻ chết chóc mà ta bắt gặp trong ngôi nhà của mình… (VII, 182)

Sự hoang vắng của ngôi nhà đối lập với cảnh náo nhiệt ngoài nghĩa địa. Trong bài hát của Mary:

… Và xóm ấp, như nhà ở Pororelo. Cả bố bề lặng lẽ như tờ. Mình nghĩa địa, không vắng vẻ, chẳng lặng im -

Chốc chốc, người ta lại khiêng xác chết…(VII, 176).

Nhà của người sống đối lập với nhà của người chết - nơi ở lạnh lẽo, dưới âm phủ (theo phép nghịch du, chữ “nơi ở”[25] (tiếng Nga: “жи­лище”.- ND) được sử dụng để chỉ “nấm mồ”).

Trong vở kịch này có ba trung tâm ngữ nghĩa: những người dự tiệc với không gian truỵ lạc của họ – đường phố biến thành nơi mở tiệc, linh mục với không gian là nghĩa địa (“tôi cầu nguyện ngoài nghĩa địa giữa những con người xanh xao”) và DỊCH HẠCH đầy ắp thế giới của vở kịch.

Dịch hạch nhập vào đội ngũ hình tượng nói về các sức mạnh tự nhiên trong sáng tác của Pushkin. Xin nhấn mạnh sự khác nhau về nguyên tắc giữa hai khuôn mặt của nhân tố tự nhiên: khi lực lượng tự nhiên xuất hiện trong gương mặt của một đám người thì sự nghiệt ngã của nó được kết hợp với sự từ bi (Arkhip, Pugachev). Khi biểu tượng được thể hiện trong thiên tai, dịch hoạ - dịch hạch, lũ lụt, thì sự tàn nhẫn khắc nghiệt và sự phá huỷ vô nghĩa lí lại nổi lên trên.

Dịch hạch tạo ra bối cảnh về một cái chết chung, và điều đó làm lộ ra những đặc điểm bị che đậy rất kĩ của những người khác cùng tham gia vào tình huống.

Thế giới con người khao khát được sống, khao khát niềm vui và hạnh phúc đáp trả Dịch hạch bằng cái mà nó thách thức. Ở vở bi kịch nguyên tác của Wilson, khía cạnh báng bổ, phạm thánh được nhấn mạnh hết sức rõ nét trong yến tiệc, nhất là trong hành vi của Thanh niên. Dù câu nói của linh mục: “yến tiệc vô thần thánh, những kẻ điên rồ vô thần thánh” cũng ám chỉ điều đó, nhưng Pushkin đã làm dịu bớt ý nghĩa của nó. Cảnh vui nhộn của yến tiệc, đó là sự nổi loạn. Nhưng sự nổi loạn này chỉ gián tiếp chống lại Thần linh, ý nghĩa cơ bản của nó là không thừa nhận quyền lực của Dịch hạch, là cuộc nổi loạn chống lại Sợ hãi. Trung tâm của tuyến truyện kể này là bài hát của vị Chủ toạ - sự biện hộ cho lòng can đảm - chống lại nỗi sợ cái chết. Yến tiệc trong thời dịch hạch là hành vi tương đương với “niềm hân hoan xông vào trận chiến”, tương tương với lòng can đảm của người bơi biển trên “đại dương gầm gào giông tố”, hay người hành hương đang bị bão táp xô đẩy:

Tất cả, tất cả, đều bị cái chết đe doạ, đang ẩn dấu một niềm hân hoan khôn tả với trái tim can đảm(VIII, 90).

Bài ca chào đón dịch hạchcủa vị Chủ toạ thường được mang ra so sánh với Anh hùng, một bài thơ được viết trong thời Boldino, dành cho huyền thoại về chuyến viếng thăm của Napoléon tới quan y viện dịch hạch ở Jaffa. Trong đoạn đối thoại giữa Thi sĩ và Bạn, chính lòng nhân từ của vị hoàng đế từng  “lạnh lùng bắt tay dịch hạch” để củng cố tinh thần cho những người lính ốm đau, được xem là đỉnh cao vinh quang của ông:

Hỡi các vị thần linh

Xin thề: ai dùng cuộc sống của mình mà đùa vui trước bệnh dịch để làm lung linh những ánh nhìn sắp tắt, Xin thề, người ấy sẽ là bạn của trời xanh, dẫu bản án của Trái Đất mù loà là thế nào…(III, 252).

Sự đối sánh này được sử dụng để lên án Walsingham: “Ở Napoléon, sự coi thường hiểm nguy đã hoà quyện một cách tuyệt vời cùng sự đồng cảm với con người bị “dịch bệnh hung dữ hành hạ” <…> Vì hành động dũng cảm và nhân từ ấy, “ông trở thành bạn của trời đất”. Walsingham, người viết ra khúc ca, giống như chàng Thanh niên, chỉ nhìn thấy thấy hố sâu thối rữa khủng khiếp và chỉ nghe thấy tiếng gõ rành rọt của vành xe tang”[26].

Vì thế, trong bài ca của Chủ toạ, các tác giả nói trên chỉ nhìn thấy, theo kiểu không thể lí giải, nỗi sợ cái chết.

Khi so sánh Walsinghamvới Napoléon trong bài thơ Anh hùng, cần nhớ rằng, vị thế ngữ nghĩa của hai nhân vật ấy khác nhau hệt như Kị sĩ đồng và Evgheni trong Kị sĩ đồng. Napoléon là nhân vật lịch sử “được tuyển lựa”, “ngự trên ngai vàng” (III, 251). Ông là Quyền Bính, là hiện thân của tư tưởng quốc gia, đại diện cho tất cả sức mạnh mà nếu thiếu gốc rễ nhân đạo sẽ trở thành tai hoạ của nhân loại:

Hãy để lại trái tim cho nhân vật. Thiếu trái tim,

Y liệu thành cái gì? Tên bạo chúa…(III, 253).

Walsinghamlà con người, chứ không phải nhà cầm quyền. Bản thân ông là vật hi sinh của nạn dịch từng cướp đi của ông người mẹ, người vợ, nhưng ngày mai, có thể, ông là cuộc sống. Cần so sánh ông với những người lính đang nằm trong quân y viện, chứ không phải Napoléon. Pushkin không lên án sự thách thức hỗn xược quyền năng của dịch bệnh và lòng can đảm được biểu hiện ở Walsingham.

Nếu Walsinghamđại diện cho cá nhân, thì Linh mục đại diện cho nguyên tắc đạo đức. Linh mục lên án sự nổi loạn mang tính cá nhân vì nghĩa vụ đạo đức. Nhưng khác với Don Juan và Huân tước, Walsinghamvà linh mục có kẻ thù chung là Dịch Hạch. Và, Yến tiệc giữa thời dịch hạch là tác phẩm duy nhất trong chuỗi “những bi kịch nhỏ” không kết thúc bằng cái chết của một, hoặc cả hai nhân vật đối kháng, mà kết thúc bằng sự hoà giải thực sự của họ - bằng sự thừa nhận cái quyền của mỗi người được đi theo con đường riêng phù hợp với bản chất và chân lí của mình. Vở kịch chìm ngập trong không khí chết chóc, nhưng không có bất kì nhân vật nào phải chết. Ngoài ra, nếu so sánh kĩ lưỡng văn bản của Pushkin với văn bản tiếng Anh[27], ta sẽ nhận ra sự gần gũi về mặt văn bản giữa kịch Pushkin với nhiều đoạn trích từ tác phẩm thơ kịch Thành phố dịch hạch của John Wilson. Nhưng điều đó chỉ làm nổi bật sự khác biệt cơ bản: Wilsonngắm nghía mọi nỗi khiếp sợ theo tinh thần lãng mạn chủ nghĩa, với ông, thành phố dịch hạch quái đản trở thành bức tranh thế giới đích thực, còn ý đồ của tác giả muốn làm người đọc xúc động bằng những bức tranh khủng khiếp được biến thành nhiệm vụ mĩ học trung tâm của ông.

Đằng sau Yến tiệc thời dịch hạch, cũng như đằng sau toàn bộ chuỗi “những bi kịch nhỏ” bao giờ cũng có hình tượng về chuẩn mực hài hoà của đời sống và các quan hệ của con người, hình tượng yến tiệc của tình yêu và tình bầu bạn, của tự do và lòng nhân hậu, mà với Pushkin, bao giờ cũng tạo nên bản chất sâu kín của cuộc đời.

Nghiên cứu các xung đột bất thường là con đường chiếm lĩnh chuẩn mực một cách sâu sắc, đằng sau sự phản hài hoà, bao giờ cũng có hình tượng tiềm ẩn về sự hài hoà.

* * *

Qua hàng loạt ví dụ được dẫn ra ở trên, chúng ta thấy, biểu tượng bao giờ cũng giữa vai trò như là cương lĩnh cô đọng của quá trình sáng tạo. Sự phát triển về sau của truyện kể chỉ là sự triển khai một số tiềm năng được dấu kín trong đó. Đó là tổ chức mã hoá ở chiều sâu, là cái “gène văn bản” độc đáo. Nhưng việc cùng một biểu tượng khởi điểm có thể triển khai thành nhiều truyện kể khác nhau và việc bản thân quá trình triển khai ấy có đặc tính không thể đảo ngược và không thể đoán trước chứng tỏ, từ trong bản chất, quá trình sáng tạo là bất đối xứng. Sử dụng thuật ngữ của I. Prigozin, có thể xem bình diện cảm hứng sáng tạo là tình thế mất cân bằng nghiêm trọng loại trừ khả năng tiên đoán về sự phát triển theo kiểu đơn trị.

IuM Lotman

Lã Nguyên dịch

Từ: Ю.М. Лотман.- Семиосфера. - С.-Петербург: «Искусство - СПБ», 2000.

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 27.04.2020.

 


[1] Pompéi là một thành bang của La Mã, nằm bên cạnh núi lửa Vesuvio. Ngày 24 tháng 8 năm 79, thế kỉ I sau công nguyên, núi lửa Vesuvio thức giấc, hoạt động dữ dội trở lại, chỉ sau 48 giờ, Pompéi và hai thành phố bên cạnh bị chôn vùi và bị xoá sổ hoàn toàn.- ND.

[2] Tarabukin N. Ý nghĩa của kết cấu đường chéo trong hội hoạ//“Ghi chép học thuật Tổng hợp Quốc gia Tartu”. 1973. Quyển 308. Tr. 474,476 (Những công trình nghiên cứu về các hệ thống kí hiệu. GG.6).

[3] Trích từ sổ ghi chép của viên kĩ sư Nordshteyn// Lưu trữ Nga. 1905. Quyển 3.№ 10. Tr. 256.

[4] Việc cảm thụ núi lửa Vesuvio bốc cháy bừng bừng như là biểu tượng chính trị  trở thành cách thụ cảm hết sức phổ biến trong giới những nhà tháng Chạp trẻ tuổi. Trong một bản thảo viết vào năm 1820, Pestel đã dùng phúng dụ để mô tả cuộc khởi nghĩa Napoli dưới dạng núi lửa Vesuvio phun trào; bức vẽ được đồ lại trong sách: Pushkin và thời thài của ông: Nghiên cứu và tư liệu. L., 1962. Quyển 1. Tr. 135. 

[5] Có thể sự tách đôi như thế, sư tách đôi như thế có cơ sở ngay ở cách hiểu của Pushkin về hình tượng pho tượng là hiện tượng từ trong bản chất của nó mang tính hai mặt. Xin liên hệ:

Người hiện lên ở đây đồ sộ làm sao!

Chao ôi đôi vai! Khác gì Hercules!...

Thế mà người quá cố thì nhỏ bé, còi cọc

Ở đây, dẫu cố kiễng chân

Cũng không sao với tới cái mũi của mình (VII, 153).

Xem thêm: Jakobson R.Puskin and his Sculptural Myth/ Trad. and ed. J. Burbank. Paris, 1975. P. 32—44.

[6] Vì phong trào củ các nhà tháng Chạp không bao giờ xuất hiện trong ý thức của Pushkin như là một hiện tượng tự phát, cho nên, sẽ không hợp lí, nếu giải thích lũ lụt trong Kị sĩ đồng là sự ám chỉ về ngày 14 tháng Chạp.

[7] Trên thực tế, Pugachev như một hoàng đế nông dân thay thế Ekaterina II đứng đầu quốc gia đã bị cuốn vào trung tâm ngữ nghĩa thứ hai của một cấu trúc tam đoạn thức. Cần nhấn mạnh rằng, từng vị thế cấu trúc được nêu ra ở trên đều có thi ca riêng của mình: thi ca của tự nhiên khoáng đạt, ở vị thế thứ nhất, thi ca cô đơn của các “tượng thần”, ở vị thế thứ hai, thi ca của mái nhà và tổ ấm gia đình, ở vị thế thứ ba. Nhưng trong từng rtường hợp cụ thể, dấu hiệu của chất thơ có thể được nhấn mạnh, hoặc để mờ nhạt. Chất thơ tự nhiên khoáng đạt được nhấn mạnh trong hình tượng Pugachev đã biến vị thế này thành vị thế chủ đạo. Gần như không có sự thi vị hoá trong hình tượng Etekarina, một hình tượng hợp nhất vị thế cấu trúc thứ hai và thứ ba. Pushkin sử dụng điêu luyện sức mạnh thi ca của cả ba vị thế cấu trúc ấy và thường xây dựng mâu thuẫn ở nơi đụng độ giữa chúng. Chẳng hạn, trong Bữa tiệc thời dịch hạch, thơ của tự nhiên (dịch hạch được xem là một trận chiến, là giông tố, bão bùng) xung đột với thơ của mái ấm bị tàn phá và thơ nghiệt ngã của nghĩa vụ. Trò chơi “trùng hợp – vênh lệch” giữa các quan điểm cấu trúc và các quầng tán chất thơ đặc thù của chúng luôn tạo ra những khả năng ngữ nghĩa vô cùng rộng lớn. Chẳng hạn, giọng điệu “gia đình” của Sa hoàng (Aleksandr I) trong Kị sĩ đồng do tương phản với giọng gia đình ở sự miêu tả Evgheni và giọng cô đơn của Pie đã tạo ra ấn tượng về sự “bất lực của vua chúa”.

[8] Ngoài kết hợp “tự nhiên”: “sinh động – vận động – nhân tính”, có thể có biến thể: “chết cứng - vận động - phi nhân tính”. Tạo ra được hình tượng “xác chết cử động”, thành phần thứ hai có thể có dấu hiệu của sự phi lí, quy luật mù quáng và phi nhân tính, trong khi đó, dấu hiệu của cái hợp lí lại có được những lí tưởng giản dị, “nhân tính” của thành phần thứ ba của hệ hình. Bởi vậy, cùng một nhân vật (ví như Pie trong Kị sĩ đồng), ở cặp đối lập này, nó có thể hoạt động như là đại diện cho cái hợp lí, còn trong đối lập khác, nó lại đại diện cho cái phi lí. Cho nên, một phong trào lịch sử có thật nào đó có thể có thể được đặt vào các vị thế thứ nhất và thứ ba (liên hệ với hình tượng Arkhip trongDubrovski và những lời trong lá thư gửi cho Pushkin của người bạn N.M. Konsin - XIV, 216. Ở đó, Konsin chỉ thấy rằng, trong dân chúng chẳng thấy “hiện lên một đốm lửa của tư tưởng lành mạnh nào”). Với Pushkin, mâu thuẫn sâu sắc của những lực lượng lịch sử thực tế đã được khám phá, muốn “nắm bắt” những lực lượng ấy, phải có sự hỗ trợ của cái mô hình cực kì uyển chuyển mà nghệ thuật đích thực mới có khả năng xây dựng.

[9] Bản thảo của Pushkin. Quan hệ giữa sự “hình dung” của Jakovlev và  ý tưởng của Kị sĩ đồng đã bộc lộ rất rõ, nhưng không phải theo nghĩa Jakovlev đã trao cho Pushkin tư tưởng của bản trường ca bằng trò chơi của mình, mà với Pushkin, trò chơi của Jakovlev đã tìm được ý nghĩa dưới ánh sáng của một ý tưởng đã chín muồi.

[10] Jakovson R. Puskin and his Sculptural Myth. P. 1.

[11]Nếu nhớ lại đoạn độc thoại của Nam tước trước những cái rương vàng: Hôm nay ta muốn bày yến tiệc: trước mỗi cái rương ta sẽ thắp một ngọn nến, Và ta sẽ mở ra tuốt tuột… (VII, 112), thì Hiệp khách keo kiệt có thể xếp vào loại này.

[12]Cần từ bỏ một giả thiết vô căn cứ từng được đề xướng trong nghiên cứu văn học, cho rằng, Bài ca tửu thần thể hiện bản chất của hội Tam điểm. Việc nâng cốc chào đón tình yêu và cụng li mừng các “thiếu nữ dịu dàng” và những người “vợ trẻ” dứt khoát không thể xuất hiện trong thơ “phòng tiệc” của các hội viên Tam điểm. Không thấy ở đâu ghi chép nghi lễ thả nhẫn vào cốc của hội Tam điểm và đó chỉ là chuyện hư cấu. Nghi lễ thả nhẫn vào cốc rượu có ý nghĩa hoàn toàn khác: khi mời nhau chạm cốc chúc mừng tình yêu, thì các chàng trai gọi thật to tên người yêu của mình. Nhưng người tình khiêm tốn cũng có thể lặng lẽ uống, sau khi đã thả nhẫn thề, tức là nhẫn bí mật trao cho nhau, vào cốc rượu, để lúc cạn cốc, thì môi cũng vừa chạm môi. 

[13] Liên hệ: … Vòng hoa yến tiệc và những chiếc tách tròn… (II, 145).

[14] Ghi chú sau đây của Vejemski về những câu thơ này có ý nghĩa rất quan trọng: “chắc trong sáng tác của Pushkin là thế này: Giông bão của những mưu đồ vào lúc nửa đêm…” (Barsukov N. Ghi chú về Pushkin// Lưu trữ Nga. 1887. Q. 3. № 12. Tr. 578); các bản thảo còn lưu giữ không cho ta cơ sở để đọc như vậy, nhưng nó không mâu thuẫn với tinh thần của khổ thơ và cần phải xem xét. Nhiều văn bản khác đã khẳng định mối liên hệ giữa hệ thống biểu tượng với mưu đồ tự do yêu đương.

[15]“Bay tới buổi yến tiệnc dữ dội; người ta tìm con mồi cho đao kiếm… ” (Hồi ức trong làng Sa hoàng - I, 81), “… Bữa tiệc đẫm máu chiến tranh” (Bachiuskov - I, 144) và “… Bữa tiệc đẫm máu vẫy gọi ngươi…” (Rusmilan và Lutmila – IV, 80). Sau này, chỉ còn bắt gặp một lần cách sử dụng như vậy.

[16] Pankratova I.L.; Khalizev V.E. Tính chỉnh thể của tác phẩm trong ngữ cảnh so sánh loại hìnhKinh nghiệm đọc “Yến tiệc thời dịch hạch” của A.S. Pushkin// Phân tích loại hình tác phẩm văn học/ Chủ biên N.D. Tamarchenko. Kemerovo. 1892. Tr. 53 - 66. Phụ đề bài báo Kinh nghiệm đọc “Yến tiệc thời dịch hạch” của A.S. Pushkin chứng tỏ, các tác giả không chỉ có ý đồ phân tích tác phẩm của Pushkin, mà còn có ý đồ trình bày cách đọc riêng của mình. Tất nhiên, không thể không thừa nhận cái quyền ấy của họ.

[17] Có ý muốn nói tới sự mô phỏng John Bunyan, trong đó, Dostoievski đã nắm bắt tinh tế linh hồn của “đạo Tin lành phương Bắc, tà giáo Anh”, chủ nghĩa thần bí cực đoan, với tham vọng đần độn, tối tăm, không thể kiềm chế và với toàn bộ sự vô hạn độ của ước mơ thần bí.

[18] Pankratova I.L.; Khalizev V.E. Tính chỉnh thể của tác phẩm trong ngữ cảnh so sánh loại hình. Tr. 64.

[19] R.O. Jakovson cho rằng, trong cửa miệng của các hiệp sĩ thời trung đại và tín đồ Kitô giáo, cách nói “Như thượng đế ngủ dưới trời sâu” xem ra rất lỗi thời. Nhưng sự hiện diện của những điểm giống nhau trực tiếp trong văn bản chứng tỏ, Pushkin đã đặt vào cửa miệng Nam tước cách nói được rút ra từ triết học Epicure của những người sống truỵ lạc Pháp, nhưng có thay “sùng bái khoái lạc bằng sùng bái đồng tiền” (xem: Lotman Iu.M. Mấy nhận xét về vấn đề Pushkin và văn hoá Pháp// Lotman Iu.M. Pushkin. SPb., 1995. Tr. 357 - 362).

[20] Simeon Poloski. Tuyển tập. I.P. Eremin tuyển chọn và chú giải. M; L., 1953. Tr. 21.

[21] Gukovski G.A. Pushkin và vấn đề phong cách hiện thực. M., 1957. Tr. 307.  Đáng lưu ý là G.A. Gukovski nói về hệ thống tạo nên Mozart, chứ không phải hệ thống được tạo nên bởi Mozart. Với ông, con người là “sản phẩm” của hoàn cảnh và thời đại. Vấn đề về tính tích cực của con người và sự tác động của nó tới thế giới bị loại bỏ như một vấn đề của “chủ nghĩa lãng mạn”. Câu rào đón này có ý nghĩa cực kì quan trọng: “Nếu không ngại sẽ thu hẹp tư tưởng”. Tức là, tác giả biết chắc, điều lo ngại này có thể xẩy ra, nhưng không thể tránh được nó. Quan niệm của G.A. Gukovski chứa đựng nhiều phần chân lí và là tiếng nói cách tân trong thời đại của ông, nhưng rõ ràng nó đã “thu hẹp” Pushkin.

[22] [Wackenroder W.H.] Về nghệ thuật và các hoạ sĩ. Suy ngẫm của một ẩn sĩ, người yêu cái đẹp, do Tik xuất bản/ Bản dịch từ tiếng Đức của V.P. Titov, S.P. Sevyrev, N.A. Melgunov. M., 1826. Tr. 241.

[23] Wackenroder W.H. Về hai ngôn ngữ kì lạ và sức mạnh bí ẩn của chúng. Tr. 74.

[24] [Wackenroder W.H.] Về nghệ thuật và các hoạ sĩ. Tr. 233.

[25] Liên hệ với cách diễn đạt theo kiểu chơi chữ trong bài Chiếc quan tài: “Không có giày, người sống chịu được. Không quan tài, người chết không sống được đâu”.

[26]Pankratova I.L.; Khalizev V.E. Tính chỉnh thể của tác phẩm trong ngữ cảnh so sánh loại hình… Tr. 57.

[27]Trong phần chú giải cho phiên bản đầu tiên tập VII của bộ Toàn tập tác phẩm Pushkin (xem: VII, 579 – 609) N.V. Jakovlev đã tiến hành so sánh như thế. Nói về tình hình nghiên cứu xung quanh tác phẩm Yến tiệc thời dịch hạch, không thể bỏ qua một nhận xét tuy ngắn, nhưng hết sức sắc sảo của L.V. Pumpijanski: “Hoàn cảnh hiện thực lịch sử ở Pushkin rất rõ ràng: Phục dựng; thách thức láo xược mà những kẻ tạm thời chiến thắng trong lĩnh vực chính trị, giới quý tộc nếm ra trước nỗi đau khổ của nhân dân; linh mục, tàn tích thất bại đầy tủi nhục của cuộc cách mạng thanh giáo, xung đột giữa chủ nghĩa cá nhân tinh tế  và đạo đức xã hội” (xem: Pumpijanski L.V. Lời thơ của Lermontov// Di sản văn học. T. 45/46. 1942. Tr. 398). Không thể tán thành quan niệm như thế, dẫu chỉ là vì một lí do thế này: dịch hạch đe doạ những người dự tiệc cũng giống như đe doạ những cư dân khác. Vì thế , nói về lời thách thức dành cho nhân vật xa lạ trở thành câu chuyện không có nội dung. Tuy nhiên, L.V. Pumpijanski tỏ ra sắc sảo khi đặt vấn đề về mối quan hệ của Pushkin với truyền thống “tự do tư tưởng” của châu Âu.

Phát hiện khá muộn màng về tác phẩm của Georg Lukács ở phương Tây và gần đây nhất, ở đất nước này, đã có xu hướng cô đặc lại quan niệm về sự chia rẽ rất sâu sắc giữa Lukács thời kỳ đầu phi Mácxít và Lukács thời kỳ sau theo Mác-xít.

20200806

Ảnh: internet

Chắc chắn rằng có một sự khác biệt rõ rệt về giọng điệu và mục đích ở những tiểu luận thời kỳ đầu như Die Seele und die Formen (Tâm hồn và hình thể, 1911) và Die Theorie des Romans (Lý thuyết tiểu thuyết, 1914- 15) với các tiểu luận được dịch gần đây về các chủ đề văn học như Studies in European Realism (Các nghiên cứu về chủ nghĩa hiện thực châu Âu, 1953). Cũng có một mối nguy hiểm với cái nhìn quá đơn giản về một Lukács tốt ở thời kỳ đầu và một Lukács xấu ở thời kỳ sau. Các tác phẩm bàn về chủ nghĩa hiện thực khi được dịch sang Mỹ đã bị công kích rất gay gắt bởi rất nhiều các nhà phê bình khác nhau như Harold Rosenberg (trên Dissent) và Peter Demetz (trên Tạp chí ĐH Yale); tuy nhiên, Lý thuyết tiểu thuyết lại được Harry Levin (JHI, tháng 1 - tháng 3 năm 1965, trang 150) xem “[nó] có thể là bài tiểu luận thấm thía nhất từng đề cập đến chủ đề khó nắm bắt của tiểu thuyết.” Nếu việc lên án những tác phẩm bàn về chủ nghĩa hiện thực không được biện minh một cách rõ ràng, đặc biệt là nếu người ta nhớ đến số lượng đáng kể những sự biện minh lý thuyết hấp dẫn nhưng lại gây tranh cãi được đề ra ở trong Mỹ học (1963) của Lukács, thì sự xác nhận gần như không được biện minh về Lý thuyết tiểu thuyết dường như lại chẳng có lý do xác đáng nào cả. Dù người ta có thể nghĩ gì về Lukacs đi nữa, thì ông vẫn chắc chắn là một nhân vật đặc biệt quan trọng để được nghiên cứu một cách toàn diện, cũng như việc diễn giải mang tính phê phán về tư tưởng của ông sẽ không thể được hỗ trợ bởi sự phân chia quá hời hợt như đã nói ở trên. Các tác phẩm thuộc giai đoạn sau này của ông vẫn có những điểm yếu nhất định như chúng đã xuất hiện ở giai đoạn đầu, cũng thế, các tác phẩm thuộc giai đoạn đầu vẫn có những điểm mạnh đủ sức để hoạt động xuyên suốt đến giai đoạn sau. Tuy nhiên, cả điểm yếu và điểm mạnh đều tồn tại ở cấp độ triết học và mang một ý nghĩa nhất định. Chúng chỉ có thể hiểu được theo quan điểm rộng hơn của lịch sử trí thức thế kỷ XIX và thế kỷ XX: như thể là một phần của di sản tư tưởng lãng mạn và duy tâm luận. Điều này một lần nữa nhấn mạnh đến tầm quan trọng lịch sử của Georg Lukács và bác bỏ những lời chỉ trích thường xuyên chống lại ông rằng ông vẫn còn liên quan đến các kiểu mẫu tư tưởng của thế kỷ XIX (một kiểu chỉ trích xuất hiện trong cả quan điểm của Demetz và Rosenberg).

Chắc chắn, tôi không có ý định tự giải quyết nhiệm vụ phức tạp về việc xác định các yếu tố thống nhất trong tư tưởng của Lukács. Qua một nghiên cứu phê phán ngắn gọn về Lý thuyết tiểu thuyết, tôi hy vọng sẽ tạo ra một số khác biệt sơ bộ giữa những gì dường như vẫn còn đúng và những gì đã trở thành nghi vấn trong tiểu luận cô đọng và thuộc loại khó này. Được viết bằng một thứ ngôn ngữ sử dụng các thuật ngữ đậm chất Hegel tiền kỳ nhưng với một biện pháp tu từ kiểu hậu Nietzsche, cộng với khuynh hướng có chủ ý để thay thế các ví dụ cụ thể bằng các hệ thống khái quát và trừu tượng, Lý thuyết tiểu thuyết chắc chắn không dễ đọc. Một điều đặc biệt thường bị các quan điểm khác bỏ qua nhưng lại chiếm ưu thế trong suốt tiểu luận này, đó là: cuốn sách được viết ra từ quan điểm của một bộ óc tuyên bố đã đạt đến một mức độ khái quát cao cấp nhất mà nó có thể nói cho chính ý thức tiểu thuyết; tức là ở đây, chính Tiểu thuyết kể cho chúng ta biết lịch sử phát triển của chính nó, rất giống như, trong Hiện tượng học tinh thần của Hegel, chính Tinh thần là người kể lại hành trình của chính nó. Tuy nhiên, ở đây có một sự khác biệt quan trọng, khi mà Tinh thần của Hegel đã đạt được sự hiểu biết đầy đủ về bản thể của chính nó, nó có thể khẳng định đặc quyền không thể vượt qua được, thì ý thức tiểu thuyết của Lukács, bằng chính sự thừa nhận của mình, lại không bao giờ được phép đạt tới điều đó. Vì bị vướng vào tính ngẫu nhiên của chính nó, và thực sự là một cách diễn đạt về tính ngẫu nhiên này, nên nó vẫn là một hiện tượng đơn thuần chẳng có sức mạnh nào làm thay đổi được; do đó, người ta sẽ kỳ vọng vào một cách tiếp cận hiện tượng học bài bản và thận trọng hơn so với một lịch sử sâu rộng khẳng định các quy luật của chính nó. Nếu dịch tác phẩm này theo một ngôn ngữ ít xuất sắc hơn, người ta sẽ mất đi mỹ cảm triết học đầy rung động và ấn tượng của nó, nhưng lại khiến một số định kiến trở nên rõ ràng hơn.

So với tác phẩm mang tính hình thức luận chẳng hạn như Tu từ học của truyện (Rhetoric of Fiction) của Wayne Booth, hoặc với một tác phẩm dựa trên quan điểm truyền thống hơn về lịch sử như Phương thức mô phỏng thực tại (Mimesis) của Auerbach, Lý thuyết tiểu thuyết của Lukács đưa ra những tuyên bố căn bản hơn nhiều. Sự xuất hiện của tiểu thuyết với tư cách là thể loại chính của chủ nghĩa hiện đại được xem như là kết quả của sự thay đổi cấu trúc ý thức của con người; sự phát triển của tiểu thuyết phản ánh những sự biến đổi trong cách mà con người xác định chính bản thân mình liên quan đến tất cả các phạm trù tồn tại. Trong tiểu luận này, Lukács không đề ra cho chúng ta một lý thuyết xã hội học tiến hành khám phá ra mối quan hệ giữa cấu trúc và sự phát triển của tiểu thuyết cùng cấu trúc và sự phát triển của xã hội, ông cũng không đề xuất một lý thuyết tâm lý học tiến hành giải thích tiểu thuyết theo các mối quan hệ của con người. Ít ra ở đó chúng ta thấy ông đã trao quyền tự chủ cho các phạm trù hình thức như tự chúng sẽ mang lại cho mình một đời sống riêng, độc lập với ý định chung. Thêm vào đó, ông còn đi đến cấp độ kinh nghiệm chung nhất có thể, một cấp độ mà việc sử dụng các thuật ngữ như Số phận, Thượng đế, Tồn tại, v.v... dường như được đưa vào hoàn toàn tự nhiên. Từ vựng và sơ đồ lịch sử ở đây thuộc về quan niệm mỹ học của thế kỷ XVIII; ngoài ra, người ta còn liên tục nhắc đến các tác phẩm triết học của Schiller liên quan đến công thức mà Lukács bàn về sự khác biệt giữa các thể loại văn học chính.

Sự phân biệt giữa sử thi và tiểu thuyết được thiết lập dựa trên sự phân biệt giữa tinh thần Hy Lạp và tinh thần phương Tây. Như ở Schiller, sự phân biệt này được nêu ra dưới dạng phạm trù tha hóa (alienation), đây được xem như là một đặc tính nội tại của ý thức phản tư. Mô tả của Lukács về sự tha hóa rất hùng hồn, nhưng không mấy ấn tượng độc đáo; tương tự như ở mô tả của ông khi bắt đầu tiểu luận lúc bàn về sự thống nhất hài hòa trong lý tưởng Hy Lạp. Ngay từ đầu, bản chất thống nhất đã bao quanh chúng ta ở “thời kỳ ngập tràn trong ân huệ của thánh thần… khi mà ngọn lửa bùng cháy trong tâm hồn chúng ta có cùng bản chất với ngọn lửa của các vì sao”1 thì giờ đây đã bị chia thành những mảnh vỡ “không gì khác ngoài hình thức lịch sử của sự tha hóa (Entfremdung) giữa con người và công việc của anh ta (seine Gebilden).” Và đoạn sau đây có thể là một trong số những trích dẫn tuyệt vời của đầu thế kỷ XIX: “Cá nhân sử thi, anh hùng tiểu thuyết, bắt nguồn từ sự tha hóa với thế giới bên ngoài. Trừ khi thế giới hướng vào bên trong thì mới không có những sự khác biệt về tính chất có thực giữa các hiện thể của nó”.

Một yếu tố chắc chắn theo hướng hậu Hegel được Lukács nhấn mạnh đến ở đây đó là sự cần thiết của tính toàn bộ xét như là tính tất yếu bên trong định hình nên tất cả các tác phẩm nghệ thuật. Kinh nghiệm Hy Lạp về sự thống nhất của thế giới có một mối tương quan hình thức trong việc tạo ra các hình thức tổng thể, khép kín và mong muốn về tính chỉnh thể này là một nhu cầu cố hữu của tâm trí con người. Nó gắn kết với con người hiện đại, vốn bị tha hóa, nhưng thay vì hoàn thiện chính nó trong biểu hiện đơn thuần của sự thống nhất của anh ta với thế giới, thì nó lại muốn tuyên bố về ý định lấy lại sự thống nhất mà nó không còn sở hữu nữa. Rõ ràng, tiểu thuyết được lý tưởng hóa theo tinh thần Hy Lạp, theo Lukács, là một thủ pháp để nêu ra một lý thuyết về ý thức có cấu trúc của một sự vận động có chủ ý. Do đó, điều này ngụ ý một tiền giả định về bản chất của thời đại lịch sử, mà chúng ta sẽ quay lại sau.

Lý thuyết tiểu thuyết của Lukács nổi lên một cách vững chắc và mạch lạc nhờ vào phép biện chứng giữa sự thôi thúc cho một tính toàn diện và tình trạng bị tha hóa của con người. Là kết quả của sự tách biệt giữa trải nghiệm thực tế của chúng ta và mong muốn của chúng ta, bất kỳ nỗ lực nào trong sự hiểu biết toàn diện về bản thể của chúng ta cũng đều sẽ trái ngược với trải nghiệm thực tế, cái vẫn còn dính dáng đến những thứ rời rạc, cụ thể và bất toàn. Sự tách biệt giữa đời sống (Leben) và tồn tại (Wesen) được phản ánh về mặt lịch sử theo sự suy tàn của kịch nghệ và sự nổi lên song song của tiểu thuyết. Đối với Lukács, kịch nghệ là phương tiện mà ở đó, như trong bi kịch Hy Lạp, cái mô thức đã được xác nhận phổ biến nhất của con người phải được thể hiện ra. Nếu tại một thời điểm nào đó trong lịch sử mà ở đó tính phổ quát như thế vắng mặt khỏi tất cả các trải nghiệm thực tế, thì kịch nghệ sẽ tách biệt hoàn toàn khỏi đời sống, trở nên lý tưởng và đi sang một thế giới khác; sân khấu cổ điển Đức sau Lessing được Lukács xem như một ví dụ cho sự rút lui này. Tiểu thuyết, ngược lại, muốn né tránh sự phân mảnh này vẫn bắt nguồn từ sự cụ thể của kinh nghiệm; như thể loại sử thi, nó không bao giờ có thể từ bỏ liên hệ của nó với hiện thực kinh nghiệm, vốn là một phần cố hữu của hình thức riêng của nó. Nhưng, trong thời kỳ tha hóa, nó buộc phải trình ra cái thực tế này như là một thực tế không hoàn hảo, khi cố gắng vượt qua các ranh giới hạn chế nó, như liên tục kinh nghiệm và đả phá sự không phù hợp của kích thước và hình dạng của chính nó. “Ở tiểu thuyết, cái được cấu thành không phải là toàn bộ đời sống mà là mối quan hệ, không chỉ là lập trường đúng đắn hoặc sai lầm mà nhà văn dấn thân vào hoàn cảnh như một chủ thể kinh nghiệm trong sức vóc đầy đủ của anh ta, mà còn là sự bắt chước hoàn toàn của anh ta như một tạo vật đơn thuần, hướng tới cái toàn bộ này.” Do đó, chủ đề của tiểu thuyết nhất định phải bị giới hạn với từng cá nhân và với kinh nghiệm chống đối của cá nhân này trước sự bất lực để có được các các chiều kích phổ quát của mình. Tiểu thuyết bắt nguồn từ sự xung đối kiểu Đông-ki-sốt giữa thế giới lãng mạn và thế giới hiện thực. Cội rế của khuynh hướng bảo thủ ở giai đoạn sau này của Lukács với chủ nghĩa hiện thực chắc chắn được tìm thấy trong khía cạnh này của lý thuyết của ông. Tuy nhiên, tại thời điểm của Lý thuyết tiểu thuyết, việc nhấn mạnh về sự hiện diện tất yếu của yếu tố kinh nghiệm trong tiểu thuyết hoàn toàn thuyết phục, tất cả đều là vì nó được đối trọng bởi nỗ lực vượt qua những giới hạn của hiện thực.

Tính đối ngẫu theo chủ đề này, sự xung đối giữa một số phận thế tục (earth-bound) và một ý thức cố gắng vượt qua tình cảnh này, dẫn đến những sự bất liên tục về cấu trúc trong hình thức của tiểu thuyết. Tính toàn thể hướng đến một sự liên tục có thể được so sánh với tính thống nhất của một thực thể hữu cơ, nhưng thực tế bị ghẻ lạnh lại xâm nhập vào sự liên tục này và phá vỡ nó. Ngoài một “sự ổn định thống nhất và hữu cơ”, tiểu thuyết còn thể hiện một “sự bất ổn đứt đoạn và ngẫu nhiên” (tr. 74). Theo Lukács, sự đứt đoạn này được định nghĩa như là sự mỉa mai (irony). Cấu trúc mỉa mai hoạt động theo hướng phá vỡ, dẫu nó có tiết lộ sự thật của điều đã xác nhận mang tính nghịch lý mà tiểu thuyết thể hiện. Vì lý do này, Lukács có thể nói rằng sự mỉa mai thực sự cung cấp các phương tiện mà nhà tiểu thuyết vượt qua, dưới hình thức tác phẩm, tính ngẫu nhiên được công khai thừa nhận về tình trạng của anh ta. “Trong tiểu thuyết, sự mỉa mai giống như sự tự do của nhà thơ trong tương quan với cái thiêng… bởi vì qua sự mỉa mai, trong một cái nhìn trực giác mơ hồ, chúng ta có thể cảm nhận được sự hiện diện của cái thiêng trong một thế giới thần linh bị chiếm đoạt.” Khái niệm mỉa mai hiểu như một sức mạnh tích cực của sự vắng mặt cũng bắt nguồn trực tiếp từ những bậc tiền bối theo khuynh hướng duy tâm và lãng mạn của Lukács; nó cho thấy sự ảnh hưởng của Friedrich Schlegel, của Hegel và hầu hết tất cả những hậu duệ của Hegel lên ông. Sự độc đáo của Lukács nằm ở việc ông sử dụng sự mỉa mai như một phạm trù cấu trúc.

Vì nếu sự mỉa mai thật sự là nguyên lý xác định và tổ chức của hình thức tiểu thuyết, thì quả thật Lukács đã tự mình giải phóng ra khỏi các quan niệm từ trước đến nay về tiểu thuyết xét như một sự mô phỏng hiện thực. Sự mỉa mai chắc chắn tháo bỏ tuyên bố về sự mô phỏng và bổ sung cho nó một nhận thức có ý thức, như được diễn giải về khoảng cách giữa kinh nghiệm có thực với sự hiểu về kinh nghiệm này. Ngôn ngữ mỉa mai của tiểu thuyết trung giới giữa kinh nghiệm và ham muốn, và thống nhất cái lý tưởng với cái hiện thực vào trong một nghịch lý phức tạp của hình thức. Hình thức này có thể chẳng có điểm chung nào với hình thức thống nhất, hữu cơ của tự nhiên: nó được thiết lập dựa trên hoạt động ý thức, chứ không phải dựa vào sự mô phỏng vật thể tự nhiên. Trong tiểu thuyết… mối quan hệ giữa các thành phần và toàn thể, tuy cố gắng càng sát sao càng tốt với một mối quan hệ hữu cơ, nhưng thật sự lại là một mối quan hệ khái niệm luôn bị ngưng hãm, chứ không phải một mối quan hệ hữu cơ thực sự” (trang 74). Qua các phát biểu về loại hình này, Lukács tiến rất gần đến việc đạt được một quan điểm mà từ đó có thể khởi đầu một môn thông diễn đích thực về tiểu thuyết.

Tuy nhiên, phân tích của ông dường như đi theo một hướng khác; phần thứ hai của tiểu luận chứa đựng một sự phản đối phê bình sắc bén về loại hình hướng nội được gắn kết với một lý thuyết thông diễn về ngôn ngữ. Trong lời nói đầu vào năm 1961, Lukács đã thêm vào cách đặt vấn đề gần đây về tiểu luận của ông, ông tỏ ra khinh bỉ khi nhắc đến hướng tiếp cận hiện tượng học như một “nhận thức luận cánh hữu” đối trọng với đạo đức học cánh tả. Phê bình này đã hàm ẩn ở trong tác phẩm gốc. Khi ông đi đến gần nhất trong việc giải quyết những sự phát triển đương đại ở trong tiểu thuyết và những thời điểm mà ở đó bản thân tiểu thuyết dường như trở nên có ý thức về ý định có thực của nó, thì một sự thay đổi đột ngột diễn ra ở trong tranh luận. Ông cho chúng ta thấy rằng, một cách đủ thuyết phục, làm thế nào sự hướng nội với mục đích của nó lại có thể đẩy tiểu thuyết vào một sự lãng tránh thoái lui ở trong một địa hạt Không tưởng sai lạc, “một sự Không tưởng mà ngay từ đầu, đã có một lương tâm tồi tệ và một nhận thức về sự thất bại của nó” (trang 119). Tiểu thuyết lãng mạn về sự vỡ mộng (Desillusions-romantik) là một ví dụ cho sự vặn xoắn của thể loại này, ở đó tiểu thuyết nới lỏng quan hệ với hiện thực kinh nghiệm; Lukács đang nghĩ đến Novalis, người đã tấn công theo cách nói tương tự vào tiểu luận từ quyển đầu tiên Tâm hồn và hình thể, bên cạnh đó ông còn đưa ra ví dụ từ Niels Lyhne của Jacobsen và Oblomov của Gontcharov. Tuy nhiên, ông hoàn toàn cho rằng các ví dụ này chẳng thể đem lý giải cho những sự phát triển khác về tiểu thuyết ở châu Âu khi mà ở đó có cùng một chủ đề vỡ mộng và ông chẳng thể cũng như chẳng mong muốn xóa bỏ điều đó. Giáo dục cảm thụ (Sentimental Education) của Flaubert dĩ nhiên là ví dụ gây cấn nhất, một tiểu thuyết hiện đại đích thực được định hình bởi sự phủ định áp đảo một sự hướng nội hầu như ám ảnh nhưng, theo phán đoán của riêng Lukács, vẫn thể hiện được một thành tựu cao nhất của thể loại này ở thế kỷ XIX. Cái làm nên điều đó ở Giáo dục cảm thụ của Flaubert phải chăng là cái cứu nó khỏi việc bị kết án cùng với các tiểu thuyết hậu lãng mạn của sự hướng nội hay không?

Về vấn đề này ở trong tiểu luận, Lukács giới thiệu một yếu tố được nhắc đến một cách rõ ràng, đó là tính thời gian (temporality). Trong lời nói đầu vào năm 1961, ông tự hào với lối sử dụng nguyên bản phạm trù thời gian, ở thời điểm khi mà tiểu thuyết của Proust vẫn chưa được biết đến rộng rãi. Vì sự điêu tàn và lãng mạn xảy đến một cách chậm chạp, nên thời gian được kinh nghiệm như là sự phủ định thuần túy; hoạt động hướng nội của tiểu thuyết là “cuộc đấu vật vô vọng chống lại sức mạnh ăn mòn của thời gian.” Nhưng ở Flaubert, theo Lukács, điều này không thực sự như thế. Dẫu cho vị anh hùng có những thất bại và thất vọng liên tục đi nữa thì thời gian vẫn chiến thắng như một nguyên lý tích cực ở trong Giáo dục cảm thụ, bởi vì Flaubert nắm bắt được cái cảm giác không thể kháng cự của thời gian đặc trưng cho thời lượng (durée) của Bergson. “Thời gian có thể tạo ra sự thành công này. Dòng chảy thời gian không bị gián đoạn và không thể trấn áp chính là nguyên lý thống nhất từ đó khiến cho tính đồng nhất bị tháo rời ra thành từng mảnh, rồi đặt chúng vào trong một mối quan hệ, tuy phi lý và không thể nói được, nhưng đó lại là một mối quan hệ thống nhất. Thời gian mang trật tự vào sự rung động ngẫu nhiên của con người và ban cho nó sự xuất hiện của một sự tăng trưởng có tổ chức…” (trang 128). Trên cấp độ của kinh nghiệm thời gian đích thực, những sự bất liên tục đến từ mỉa mai biến mất và việc xem xét đến chính thời gian, theo Flaubert, không còn mang tính mỉa mai nữa.

Chúng ta có thể chấp nhận diễn giải của Lukács về cấu trúc thời gian trong Giáo dục cảm thụ không? Khi Proust, trong một cuộc trao đổi luận chiến với Thibaudet, thảo luận về phong cách của Flaubert theo tính thời gian, cái mà ông nhấn mạnh không phải là tính đồng nhất mà chính xác là cái ngược lại: thủ pháp mà Flaubert sử dụng đó là các thì/thời, qua đó cho phép ông ấy tạo ra những sự bất liên tục, những thời đoạn chết và phủ định làm thay đổi các thời khắc thuần túy, phức tạp ở trong các cấu trúc ký ức như nó có thể so sánh với thủ pháp của Gerardde Nerval trong Sylvie. Dòng chảy đơn tuyến của thời lượng (durée) đơn thuần được thay thế bởi một sự tương cận phức tạp của những sự vận động có thể trở lại cho thấy bản chất bất liên tục và đa thanh/ nhịp của tính thời gian. Nhưng một sự khai mở như thế về tính thời gian đích thực cần đến các thời khắc quy giản của sự hướng nội có thực ở đó ý thức đối diện với bản thân đích thực của nó; và khoảnh khắc này chính xác là khoảnh khắc mà ở đó sự tương đồng có hệ thống giữa chủ thể và đối tượng thể hiện ra một cách không thật.

Dường như khuynh hướng có hệ thống mà Lukács đã loại bỏ khỏi tiểu thuyết khi ông tạo ra cho sự mỉa mai có được nguyên lý cấu trúc hướng dẫn của nó, đã gia nhập trở lại vào bức tranh dưới chiêu bài của thời gian. Thời gian trong tiểu luận này hoạt động như một cái bổ sung cho tính liên tục có hệ thống mà Lukács dường như không thể thực hiện nếu không có nó. Một quan niệm tuyến tính như thế về thời gian thật sự đã hiện diện xuyên suốt tiểu luận này. Do đó, tính tất yếu của việc kể lại sự phát triển của tiểu thuyết như một sự biến liên tục, như một hình thức sa đọa của sử thi nguyên mẫu có từ thời Hy Lạp được xem như một khái niệm lý tưởng nhưng vẫn có một sự hiện hữu lịch sử đích thực. Sự phát triển các lý thuyết của Lukács về tiểu thuyết ở giai đoạn sau, trở lại từ Flaubert lùi đến Balzac, từ Dostoevsky đến quan điểm khá đơn giản về Tolstoi, từ lý thuyết nghệ thuật như một sự diễn giải đến lý thuyết nghệ thuật như một sự mô phỏng phản tư (Wiederspiegelung) sẽ được đánh dấu trở lại với ý niệm tính thời gian đã được thanh tẩy vốn hết sức rõ ràng ở phần cuối của Lý thuyết tiểu thuyết.

Paul de Man

Phạm Tấn Xuân Cao dịch

(Nguồn: Georg Lukács’s Theory of the Novel, MLN, Vol. 81, No. 5, General Issue (Dec., 1966), pp. 527- 534).

Nguồn: Tạp chí sông Hương số 373/03-2020, phiên bản trực tuyến ngày 17.4.2020.

------------------

1. Mọi trích dẫn trong bài này rút ra từ Lý thuyết tiểu thuyết (Die Theorie des Romans), ấn bản lần thứ hai, Berlin, 1963. Ẩn bản lần thứ nhất có từ năm 1920.

TGVN. Với phong cách văn chương trắc ẩn và lạnh lùng, phẫn nộ và mềm yếu, táo bạo và chân thật, Nguyễn Thanh Việt đã khiến người đọc không thể dửng dưng với tác phẩm mang đậm dấu ấn lịch sử của ông. 

20200422

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt, người Mỹ gốc Việt từng giành giải thưởng Pulitzer năm 2016. (Ảnh: Matt Meindl).

Không lâu sau khi tiểu thuyết đầu tay Cảm tình viên (The Sympathizer) đoạt giải thưởng Pulitzer lừng danh vào năm 2016 và nhiều giải thưởng lớn như giải thưởng nhân tài MacArthur, Nguyễn Thanh Việt đã không dừng lại. Tiểu thuyết tiếp theo, như ông chia sẻ, sẽ tiếp nối hành trình của nhân vật điệp viên không tên trong tác phẩm trước, nhưng bối cảnh là ở “kinh đô ánh sáng”-Paris của nước Pháp.

Tiểu thuyết Cảm tình viên đã kéo người đọc vào một cuộc chiến nội tâm đầy bạo lực, bi quan, tuyệt vọng, và mất mát. Đó có thật sự là những cảm xúc ông muốn gieo vào lòng người đọc? Có niềm hy vọng nào được thắp lên trong bóng tối buồn bã đó không?

Tôi luôn nhìn ở cả hai phía, giống như nhân vật chính trong tiểu thuyết của tôi và muốn người đọc thưởng thức tác phẩm của tôi với một cảm giác thú vị, cũng như chính tôi đã cảm thấy thú vị khi sáng tác nó. Một mặt là như thế. Nhưng mặt khác, đây là là một tiểu thuyết mang tính chính trị ở vài khía cạnh...

Một khía cạnh nữa là quyển sách hướng đến mọi độc giả, cho dù là người Việt Nam, người Mỹ gốc Việt, hay người Mỹ nói chung. Tôi đã viết quyển sách này với mong muốn tạo nên một cuộc tranh luận về ý thức hệ của các bên, muốn người đọc có cảm giác bất an và không dễ dàng thoả hiệp. Do tôi vốn là một học giả và một nhà phê bình, nên tôi thấy đó là ý tưởng không tồi. Tôi cũng nghĩ rằng, điều quý giá trong học thuật mà tôi tích luỹ được chính là cảm giác luôn bất an đó.

Vâng, tôi đã rất thú vị khi suy ngẫm về những giá trị thâm thuý trong tác phẩm của ông. Và tôi vô cùng ngưỡng mộ sự kết hợp sâu sắc và tinh tế giữa yếu tố mỹ học và chính trị trong tác phẩm Cảm tình viên.

Điều đó xuất phát từ triết lý và niềm tin của tôi về sự kết hợp không thể tách rời giữa mỹ học và chính trị, vì tôi vốn là một người Việt Nam. Và những nhà cách mạng Việt Nam đã luôn nhận thức rõ giá trị cốt lõi của sự kết hợp này trong suốt quá trình chống thực dân, rất tuyệt vời.

Thế nhưng tôi nghĩ sự giao nhau giữa yếu tố mỹ học và chính trị ở giai đoạn nào của lịch sử cũng vô cùng cần thiết. Và tôi cũng nhận ra rằng, nếu như tôi ở Việt Nam, tôi sẽ thua trong cuộc tranh luận này, nên khi nhân vật điệp viên phải viết ra những lời thú tội cuối cùng ở trại cải tạo đã nói lên tất cả. Do vậy, cách mạng Việt Nam chắp cánh cho ý tưởng của tôi, nhưng ngòi bút của tôi chọn một hướng đi khác với những gì cách mạng mong muốn.

Nhưng đó không phải là một kết cục buồn, phải không? Không phải là một sự tuyệt vọng hoàn toàn chứ?

Không đâu. Không phải là hoàn toàn tuyệt vọng. Khi tôi viết đoạn cuối của tiểu thuyết Cảm tình viên, tôi chợt nghĩ mình phải cho người đọc một hy vọng nào đó. Và cũng chính ở những trang cuối cùng đó, họ sẽ tìm thấy hy vọng, nhưng không thể là một thứ hy vọng uỷ mị, mà phải là một khát vọng chân chính.

Hy vọng mà anh ta (nhân vật chính) mang theo đó chỉ là một tia sáng nhỏ nhoi trong bóng tối mịt mùng. Và đúng như vậy, một cảm giác bao trùm tất cả vẫn là những điều tồi tệ đã xảy ra, nhưng anh ta vẫn níu giữ được một chút ánh sáng đủ để tiếp tục bước tới. Vậy hy vọng đó có điên rồ không? Tôi nghĩ lại về tất cả những người tị nạn đã lao ra biển và chỉ một nửa trong số đó còn sống sót. Chúng ta phải hiểu thế nào là hy vọng đây? Những người còn sống, họ đã hy vọng, nhưng hy vọng đó xen lẫn với hiểm nguy và bóng tối đang chờ đợi ở phía trước.

Vâng, tôi đã rất xúc động khi đọc những câu truyện đẹp đẽ và đầy ám ảnh của ông, nhưng trên tất cả, là giá trị sự thức tỉnh lương tri nhân loại trong những câu truyện đó. Ngay cả tựa đề của tiểu thuyết, cũng giống như nhân vật chính trong truyện, khiến người đọc luôn hoài nghi và hoang mang. Cảm tình viên, thật ra cũng không mang một niềm tin tuyệt đối vào lý tưởng mà mình theo đuổi. Nhân vật chính là một tình báo rất khó hiểu. Ông có thể nói rõ hơn về triết lý và những ẩn ý văn học đằng sau việc đặt tên cho quyển sách không?

Vâng, có điều thú vị là ở Việt Nam, người ta tranh cãi phải dịch tựa đề của quyển sách sang tiếng Việt thế nào. Trong khi tiếng Anh, The Sympathizer mang một nghĩa rất đặc biệt, hiển nhiên là nói về một cảm tình viên cộng sản và lẽ dĩ nhiên nó cũng mang ý nghĩa là một người biết thông cảm. Và ở mức độ cảm xúc mà tác phẩm này hướng đến thì không thiên về nghĩa thứ hai lắm, cho dù anh ta (nhân vật chính) luôn thấu hiểu những người khác.

Thế nhưng từ "Empathizer" (Người thấu cảm) không có trong tiếng Anh, do đó The Sympathizer (Cảm tình viên) đã trở thành tựa đề của quyển sách. Và tôi nghĩ rằng, hai sự kết hợp của cả hai ý nghĩa trong từ “cảm tình viên” sẽ giúp tôi nhìn thấy rõ ràng hơn vấn đề cốt lõi của chính trị cách mạng. ..

Sự thiếu trong sạch và minh bạch trong lý tưởng và niềm tin sẽ không thể tồn tại trong ý thức hệ của người cộng sản, như vị thủ trưởng trong Cảm tình viên đã cảnh báo nhân vật chính, rằng “những người như anh cần phải bị kỷ luật vì sự tha hoá trong tư tưởng của anh có nguy cơ huỷ hoại tính trong sạch của cách mạng.” Vậy tại sao trong tiểu thuyết của mình ông lại xây dựng một nhân vật có tư tưởng lưỡng cực như vậy, và còn táo bạo hơn, nhân vật đó lại là con lai?

Tôi muốn viết một tiểu thuyết chính trị, và để làm điều này ở Mỹ rất khó. Không giống như ở Việt Nam, chính trị và nghệ thuật ở Mỹ thường không đi đôi với nhau. Ở Mỹ, người ta cho rằng đó là tư tưởng của chủ nghĩa cộng sản. Hiện vẫn tồn tại một trường phái văn học chính trị này ở Mỹ. Tôi cũng đã đọc vài quyển như thế. Tuy nhiên có thể thấy rằng nhược điểm rõ ràng nhất và cái bẫy dễ vấp nhất chính là việc viết ra một quyển tiểu thuyết mà trong đó yếu tố chính trị mơ hồ. Về mặt lý tưởng, chúng ta cần phải đứng về phía chính nghĩa, và đó là thể loại tiểu thuyết chính trị cần theo đuổi. Điều đó không có vẻ thú vị, tuy nhiên, văn học chỉ đạt đến đỉnh cao khi dám nhìn thẳng vào những hoang mang, mập mờ về đạo đức, bất minh trong hành động, và cả những hệ lụy sau đó.

Do đó tôi đã tạo ra một nhân vật và một cốt truyện mà trong đó tôi có thể nhìn trực diện vào sự hoài nghi như một đề tài xuyên suốt của tác phẩm. Và do đó, việc xây dựng nhân vật mang hai dòng máu cơ bản là vì một số lý do khác nhau. Tôi có thể dễ dàng rơi vào thành kiến về con lai, và trong tác phẩm này là một người Á Âu, thì hiển nhiên đã không thể nào có tư tưởng hay văn hoá thuần tuý một phía. Nhưng đó chỉ là thành kiến. Do đó, một trong sự bản lĩnh mà tiểu thuyết này làm được là nó gần như chạm đến nhưng đã không rơi vào thành kiến. Tuy nhiên, bằng việc xây dựng nhân vật hai sắc tộc, tôi đã có thể chỉ ra những mâu thuẫn và tính thiếu biện chứng. Do đó, một vấn đề khác của thể loại tiểu thuyết chính trị là, thông thường, nhà văn sẽ áp đặt tư tưởng hay quan điểm chính trị của mình vào tác phẩm.

Và người đọc cần luôn luôn quan sát những gì đang xảy ra. Tác phẩm thường gửi gắm một thông điệp và tác giả sẽ hướng tác phẩm đi theo thông điệp đó. Tuy nhiên, tôi không muốn điều tương tự xảy ra với quyển Cảm tình viên. Mọi việc phải diễn ra một cách tự nhiên. Và sự thật là, vì anh ta (nhân vật chính) mang hai dòng máu nên dĩ nhiên anh ấy luôn có cảm giác xáo trộn trong nội tâm, chứ không phải anh ta sinh ra vốn đã mang trong mình những mâu thuẫn. Nhưng do cả phía người Việt lúc đó và thực dân đều vướng vào sự phân biệt chủng tộc của cả một guồng máy đô hộ. Điều này người Việt Nam ai cũng thấu hiểu.

Sự vỡ mộng của nhân vật chính là một kết cục bị dồn nét bởi rất nhiều cảm xúc: kiêu hãnh, thất bại, phẫn nộ, và điên loạn. Thật khó hình dung khi ông giận dữ trông sẽ như thế nào. Liệu nhân vật chính có tìm thấy sự cứu rỗi sau khi viết xong bản thú tội không, và theo anh, sự tra tấn tinh thần đó có được xem là nhìn nhận quá khứ một cách công bằng?

Tôi nghĩ rằng mình cũng giống như nhân vật chính, khéo nguỵ trang bằng những chiếc mặt nạ. Do đó, vẻ bên ngoài của tôi như vậy không có nghĩa là tôi không giận dữ, và chúng ta phải đeo rất nhiều mặt nạ khác nhau ở những hoàn cảnh khác nhau. Nhà văn luôn phải làm thế, cũng như người của công chúng hay những tình báo chẳng hạn. Sự giận dữ đối với tôi là một động lực tốt để viết. Đó không chỉ là động lực và bạn không thể chỉ trút nỗi giận dữ một cách vô nghĩa. Vì vậy, trong tiểu thuyết của tôi, hy vọng tôi đã diễn đạt được một điều gì đó có ảnh hưởng về khía cạnh chính trị nhưng vẫn mang tính hài hước, phê phán ở góc độ trào phúng.

Đặc biệt là khi nó được tiết chế bằng sự hài nước có màu sắc châm biếm và nâng tầm nhận thức. Sự phẫn nộ một khi chỉ dừng lại ở mức độ điều chỉnh bản thân, khả năng mà những nhà làm cách mạng nào cũng có, sẽ trở nên nhàm chán. Vậy liệu nhân vật chính cuối cùng có tìm thấy sự thanh thản không? Tôi nghĩ là có, ngoại trừ chính tôi, tôi đã phải viết quyển tiếp theo để tiếp tục tìm ra điều gì đã làm nên sự thanh thản đó và liệu có con đường nào khác không. Do đó đoạn kết của tiểu thuyết chính là sự hụt hẫng về lý tưởng của nhân vật chính. Vì vậy, tác phẩm tiếp theo của tôi sẽ tập trung vào chủ đề này. Sự giải thoát không phải là phiên bản của cách mạng, mà chính nó phải là cách mạng theo một hướng đi riêng. Hướng đi đó sẽ là gì đây?

Tôi nghĩ rằng, ở Mỹ khi người ta nghĩ đến hy vọng, ít nhất là trong ngữ cảnh chính trị như vậy, họ sẽ muốn nói đến Giấc mơ Mỹ. Vì vậy, tác phẩm tiếp theo của tôi sẽ cố gắng tiếp cận vấn đề giải thoát này.

Ý tưởng đó thật sâu sắc và đáng để suy ngẫm. Vậy ký ức chân chính đã hiện lên từ đâu?

nguyen thanh viet toi muon tao cho nguoi doc mot tam ly bat an

Tôi nghĩ mình đã viết điều đó trong quyển Nothing Ever Dies (Không có gì mất đi bao giờ).

Nhưng tôi không nghĩ Cảm tình viên đã thể hiện thấu đáo những phê bình của tôi trong quyển Không có gì mất đi bao giờ. Do đó, kết thúc quyển Cảm tình viên, nhân vật chính đã buộc phải chứng kiến cảnh nữ đồng nghiệp của mình bị hãm hiếp và luôn muốn chối bỏ ám ảnh đó. Liệu anh ấy có thật sự muốn nhìn thẳng vào sự thật đó không? Và anh ấy có thực sự thấu cảm với điều đó để đạt được một ký ức chân chính cần phải có?

Tôi không nghĩ vậy. Cần phải để anh ta thấm thía nhiều hơn, do đó, tôi đã viết một tiểu thuyết tiếp theo để anh ta phải tìm cách nhìn nhận ký ức một cách chân thật và trọn vẹn nhất.

Tôi rất nóng lòng được đọc tác phẩm tiếp theo của ông. Cảm ơn ông về những chia sẻ rất giá trị và dồi dào cảm hứng. Chúc những tác phẩm của ông được nhiều đọc giả Việt Nam trong và ngoài nước biết đến!

Võ Hương Quỳnh

Nghiên cứu sinh ngành Nghiên cứu văn học Mỹ, Khoa Văn học, trường Đại học Hawaii tại Manoa nơi cô đã tham gia giảng dạy bộ môn Văn học Mỹ gốc Á và Viết học thuật. Cuộc trao đổi thể hiện quan điểm riêng của tác giả và nhà văn.

Nguồn: Thế giới & Việt Nam, ngày 19.02.2020.

Vị trí tiên phong của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình đổi mới văn học Việt Nam sau 1975 đã được thừa nhận ở nhiều khía cạnh như quan niệm về con người, nghệ thuật xây dựng nhân vật, tổ chức trần thuật...

20200727

Cách tiếp cận văn học từ lý thuyết diễn ngôn nổi lên mấy năm trở lại đây cung cấp một khung làm việc kiểu khác để từ đó có thể nhìn nhận tác phẩm của Nguyễn Minh Châu ở những góc độ mới, vi tế hơn, có khả năng mở rộng, thậm chí thách thức cách chúng ta nghĩ về văn chương của ông. Bài viết này hy vọng làm được điều ấy ở một mức độ nào đó với việc tập trung khảo sát diễn ngôn về tuổi già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu giai đoạn sau 1975.

Có nhiều định nghĩa về khái niệm diễn ngôn. Bài viết này sẽ xuất phát từ khái niệm diễn ngôn theo tinh thần của Michel Foucault, theo đó, diễn ngôn là kết quả của các hoạt động tạo nghĩa cho thế giới và quá trình thương thỏa để nghĩa đó được chấp nhận, được “hiểu”. Văn chương là nơi ta có thể quan sát các nghĩa của đời sống, những cách hiểu về thế giới và con người được thiết lập và duy trì như thế nào. Nhưng mặt khác, đó cũng lại là nơi mà những nghĩa đã kiến tạo và củng cố ấy thường xuyên bị thách thức. Ý thức cách tân ở một nghệ sĩ có thể được nhìn nhận ở việc anh ta tạo nên những diễn ngôn mới, phá vỡ giới hạn của những cách nghĩ, cách hiểu cũ. Ở phương diện này, có thể nói, sáng tác sau 1975 của Nguyễn Minh Châu đã chứa đựng nhiều diễn ngôn mới, ông đã tạo hình lại nhiều ý niệm để từ đó gợi ra những gì khó nói hoặc thậm chí không thể nói lên được.

Xem xét văn bản nghệ thuật từ ký hiệu học, tuổi là một “mã” đáng quan tâm. Đối với một số thể loại, “tuổi” là một đơn vị để định danh, thí dụ, người ta có thể nói dòng tiểu thuyết dành cho tuổi young-adult (tuổi mới lớn/ tuổi hoa niên) mà nhân vật trung tâm thường ở ngưỡng của tuổi trưởng thành và kiểu cốt truyện chủ đạo của nó thường xoay quanh những bối cảnh như trường học, gia đình với những mối quan hệ hay trạng thái tâm lý đặc trưng của lứa tuổi như tình bạn, tình yêu, khát vọng nhận diện và khẳng định bản thân… Trong văn hóa, tuổi cũng là một đơn vị để người ta hình dung về lịch sử và xác định nhân tố trung tâm trong từng thời kỳ. Trong công trình Các phạm trù văn hóa trung cổ, A.Ia. Gurevich có lược thuật lại quan điểm của thánh Augustin về thời gian, theo đó, lịch sử nhân loại kể từ khởi thủy đến viễn cảnh tận thế được chia thành sáu thời đại tương ứng với sáu thời kỳ đời người: tuổi ấu thơ, tuổi nhi đồng, tuổi thiếu niên, tuổi thanh niên, tuổi chín chắn và tuổi già1 . Mỗi độ tuổi được xác định bằng hàng chục thế hệ, mỗi thế hệ lại kéo dài hàng trăm năm. Theo tư biện của Augustin thì thế giới Ky tô đang ở thời kỳ tuổi già, tính từ mốc Chúa giáng sinh đến ngày tận thế. Tuổi tác gắn liền với nhiều hệ thống tôn ti và giá trị trong văn hóa, từ đó liên đới mật thiết với những vấn đề như khoảng cách thế hệ, xung đột cũ/mới, truyền thống/hiện đại, bảo thủ/cách tân… Cũng trong công trình nói trên của Gurevich, nhà nghiên cứu đã nêu lên một nghịch lý của xã hội phương Tây thời trung cổ: “đây là một xã hội bị ám ảnh bởi tư tưởng của sự già nua, sự rệu rạo của thế giới, một xã hội tôn kính những gia trưởng trong kinh thánh và những thánh tiên tri tóc bạc thế nhưng cai quản xã hội này là những người không già”2 . Nhận định này cho thấy trong thế giới trung cổ, những giá trị của thời xưa gắn liền với các bậc tiền nhân được xem là khuôn mẫu cho thời hiện tại, bởi vậy mới dẫn đến những truyền thống như tâm lý sùng cổ, đề cao người già, hoài nghi cái mới. Cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới cung cấp thêm nhiều ví dụ ở nhiều nền văn hóa thời cổ đại khi người già được xem như là hiện thân “hiền minh và đức độ”: Lão Tử ngay khi ra đời tóc đã bạc, mang dáng vẻ của một cụ già; trong sách Khải huyền của đạo Ky tô, Đức Chúa Con được thể hiện với mái tóc bạc trắng; ở đền Angkor, thần Shiva được tôn thờ dưới danh xưng là Vridheshvara (có thể dịch là Lão Chúa)3 . Từ thời kỳ cận/ hiện đại, bức tranh thế giới bắt đầu có sự dịch chuyển khi người trẻ bắt đầu trở thành hình tượng trung tâm. Không phải ngẫu nhiên khi cuốn sách được xem như phát pháo hiệu mở đầu thời kỳ lãng mạn lại là Nỗi đau của chàng Werther - một chàng thanh niên sống trong triền miên sầu muộn. Pho tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo dành những trang cảm động bậc nhất để ngợi ca những người trẻ tuổi tham gia khởi nghĩa hay những cô bé, cậu bé như Codet, Gaveroche…

Thực ra không dễ để xác định ý niệm “tuổi già”. Thứ nhất, việc một người đến ngưỡng tuổi nào thì được coi là già còn phụ thuộc vào những ngữ cảnh văn hóa nhất định. Ở thời trung cổ, tuổi thọ con người chưa cao, bởi vậy thi sĩ Dante đã khẳng định “tuổi thanh niên kéo dài cho tới hai mươi lăm, tuổi chín chắn hoàn tất vào năm bốn mươi nhăm, sau đó tuổi già bắt đầu”4 . Rõ ràng cái mốc này không còn thích đáng ở thời hiện tại khi tuổi thọ con người không ngừng được nâng lên. Thứ hai, tuổi già không chỉ được xác định theo những dấu hiệu bên ngoài như da nhăn, mắt kém, tóc bạc, răng long… mà còn gắn liền với những trạng thái con người tự cảm thấy: ốm yếu, minh mẫn, nhiều nếm trải, nhiều kinh nghiệm, có quyền uy (“sống lâu lên lão làng”), bị thất thế, lạc loài… Những trạng thái bên trong ấy rất phong phú, phức tạp, không thể giản lược và phán đoán theo những dấu hiệu định lượng. Thậm chí, đã đến lúc phải thừa nhận như là điểm đến của cuộc đời, tuổi già chính là giai đoạn con người đúc kết được nhiều trải nghiệm về lẽ đời, là lúc con người chấp nhận sự xuống dốc của sức khỏe, sự rơi rụng của ký ức và là lúc cận kề nhất với cái chết - ngưỡng giới hạn cuối cùng của đời người, nơi toàn bộ quá trình sống con người bị đặt vào cuộc kiểm tra nghiêm khắc nhất về ý nghĩa. Đó thực sự là giai đoạn con người thường rơi vào những khủng hoảng hiện sinh sâu sắc. Thứ ba, tuổi già hoàn toàn cũng có thể được xem như một kiến tạo văn hóa: việc ai đó được coi là người già, việc gán cho tuổi già những đặc điểm, phẩm chất, quyền năng hay giới hạn nào đó thực chất là kết quả của những hoạt động diễn ngôn trong văn hóa. Bên dưới những lớp nghĩa được tạo nên ấy là những nỗ lực củng cố hay làm lung lay những quyền lực, tôn ti, thứ bậc trong đời sống xã hội ở một ngữ cảnh đặc thù. Chẳng hạn, việc lý tưởng hóa đức hạnh và trí tuệ của người già thường hàm ẩn một thái độ bất mãn với hiện tại, coi những gì gắn với thế hệ cha ông luôn tốt đẹp hơn, mẫu mực hơn, từ đó mà duy trì địa vị của những bậc trưởng lão trong xã hội. Ngược lại, một motif khá phổ biến trong các truyền thống văn hóa - con nổi loạn chống lại cha, con giết cha - không chỉ là sự kịch tính hóa xung đột thế hệ mà còn cho thấy các giá trị được bảo chứng bởi uy tín của các bậc cha chú thường xuyên ở trong nguy cơ bị lật đổ như thế nào. Từ điểm nhìn sử thi, nơi tiếng nói của cha chú là trung tâm, cốt truyện này thường được kể bằng một tâm thế cảnh báo sự tha hóa về đạo đức. Nhưng với một nhãn quan phi sử thi, nơi tiếng nói của những đứa con nổi lên, cốt truyện này lại có thể đưa ra thông điệp về tính bức thiết của tinh thần bất phục tùng.

Như vậy, tuổi già là một ý niệm mang tính giao cắt: vừa là một hiện tượng thuộc về quá trình sinh lý của con người, vừa là một kiến tạo văn hóa; vừa biểu hiện ở những đặc điểm và triệu chứng thể chất, lại vừa gắn với những trải ng- hiệm tinh thần đặc thù. Chính bởi tính “có vấn đề” trong việc định hình ý niệm nên việc nhận diện thế giới tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hóa ra không đơn giản. Có nhiều nhân vật trong tác phẩm của ông rõ ràng thuộc về lớp người già với những chi tiết nhắc đến tuổi đời hay những dấu hiệu về thể trạng như nhân vật cựu thủ môn lão thành trong “Dấu vết nghề nghiệp”, bác Thông trong “Sống mãi với cây xanh”, sư bà Thiện Linh trong “Mùa trái cóc miền Nam”, người cha của Lực trong “Cỏ lau”… Nhưng cũng có những nhân vật mà sự già nua là trạng thái họ tự cảm thấy hoặc dưới cái nhìn của người kể chuyện: người phụ nữ hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” mới chỉ trạc ngoài bốn mươi nhưng “dáng đi mệt mỏi, chậm chạp như một bà già”; trong “Cỏ lau”, Lực khi nhìn tấm ảnh cũ chụp mình thời trẻ và nhìn bé Thơm đang đi bên cạnh mình không tránh khỏi cảm giác thấy mình thật “già nua”; ở “Phiên chợ Giát”, lão Khúng nhìn thấy mình như một “lão già ghê tởm” với “thân hình cao vổng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề…”5 . Đặc biệt, trong suốt tác phẩm cuối cùng này của Nguyễn Minh Châu, lão Khúng được xây dựng như một hình tượng cặp đôi với con bò khoang - con vật mà ông lão gọi bằng biệt danh “mụ già khụt khịt hay cảm cúm”. Một vài nhân vật khác như Nhĩ trong “Bến quê” hay Quỳ trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành” khó có thể coi là người già nếu chỉ căn cứ trên tuổi sinh học song Nguyễn Minh Châu lại mô tả họ như con người đã nếm trải tận cùng số phận - một trải nghiệm thường chỉ có ở những người đã đến ga cuối đời mình. Bệnh tật buộc Nhĩ phải nằm liệt trên giường, trong trạng thái ý thức còn đủ tỉnh táo để hồi cố và chiêm nghiệm cả quãng đời mình đã sống và đã lãng phí. Khi tâm sự với nhân vật người kể chuyện trong “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Quỳ tự nhận xét về bản thân: “Tuy mới hăm bảy tuổi nhưng tôi đã sống trọn cuộc đời của tôi cách đây từ nhiều năm… Lắm lúc tôi giống như một bà lão ngồi ôn lại quãng đời đầu xanh tuổi trẻ…”. Nếu coi sự già còn gắn liền với những trải nghiệm tinh thần của những người đã đủ thời gian để nhìn lại tổng kết về chính mình và thế sự thì hoàn toàn có thể xếp Nhĩ hay Quỳ vào nhóm nhân vật già. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu hầu hết đều sống trong tình trạng già đi.

Đây chính là một bình diện tuy vi mô nhưng lại cho phép nhìn ra sự tương phản sắc nét trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu thời hậu chiến với thế giới sử thi trong văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa giai đoạn trước 1975. Không phải văn chương giai đoạn ấy vắng bóng người già nhưng nó thiếu vắng sự miêu tả quá trình già đi của con người. Thật vậy, thử nhìn vào một bài thơ nổi tiếng giai đoạn chiến tranh chống Mỹ - “Đất quê ta mênh mông” (Bùi Minh Quốc), ta có thể nhận thấy rõ điều này. Bài thơ mở đầu gợi ra cả một khoảng thời gian từ khi mẹ còn trẻ cho đến khi mẹ đã già: “Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh/ Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc”. Có điều ngay cả khi ấy, quá trình già đi thực chất vẫn không được khắc họa trong bài thơ bởi lẽ mái tóc của mẹ có thể thay mầu, tín hiệu của tuổi già trở nên nổi bật nhưng sức mạnh của người mẹ vẫn cứ là cái gì không thể suy suyển. Người già trong thế giới sử thi là những hình tượng mà thân thể đã bị hóa thạch, hiểu theo nghĩa, nó không còn chiều kích vật chất của tồn tại người nữa, nó được phóng đại lên thành những biểu tượng phi thường: thân thể của họ là thân thể của quê hương đất nước, tiếng nói của họ là tiếng nói của toàn dân, trí nhớ của họ của là ký ức của cả cộng đồng, tư thế của họ là điểm tựa vững chãi cho thế hệ đi sau. Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu nếm trải sự già đi của bản thân trước hết là ở sự tự ý thức về tình trạng xuống sức về thể chất. Vị cựu thủ môn lão thành trong “Dấu vết nghề nghiệp” nhận ra mình đã già vào năm 50 tuổi, trong một tình thế mà chỉ chính ông hiểu rõ hơn hết mình đã sang chặng cuối của cuộc đời: “Đó là một buổi sáng ông lão đi đánh răng, từ trong nhà ra cái phuy nước cũng phải quãng vài chục bước chân. Mới đi được vài bước, người cựu thủ môn bóng đá lừng danh một thời kịp nhận thấy tay mình cầm một chiếc ca và chiếc bàn chải cứ chĩa thẳng về phía trước, y như đang tự sửa soạn vục chiếc ca sắt vào trong phuy. Tự nhiên ông thấy buồn vô hạn, một nỗi buồn thấm thía và da diết, biết là tuổi già đã đến với mình, nó đến với gương mặt thành thật nhất, chỉ có tính nết người già mới đón đợi cái công việc sẽ tới một cách sớm như thế, làm việc gì mới sửa soạn, chuẩn bị trước kỹ như thế, và ông lão thầm tiếc cay tiếc đắng cái bản năng phản ứng nhanh lẹ của mình khi còn trẻ.” Chuyện nhỏ nhặt này với ông lão là một biến cố (“ông lão buồn mất ba ngày”) bởi nó là chỉ dấu cho thấy ông không còn là chính mình, không còn sở hữu phẩm chất làm nên niềm kiêu hãnh của một thủ môn xuất sắc một thời, điều ông từng tin đã giúp ông thời trẻ chinh phục người vợ của mình, bởi vậy ông “cũng không đem cái chuyện đi đánh răng kể với bà vợ”. Trở nên chậm chạp, mệt mỏi, đau yếu, người già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không còn là những hình tượng siêu vượt hoàn cảnh như trong thế giới sử thi, không còn là những cây đại thụ làm cột trụ cho cả cộng đồng. Trong “Sống mãi với cây xanh”, Nguyễn Minh Châu xây dựng mối quan hệ song trùng giữa bác Thông và cây sấu cổ thụ trên phố. Cả hai đều là những thực thể bị tổn thương trong đời sống hiện đại: khi người ta đốn hạ cây sấu để mở đường, bác Thông cũng cảm thấy như thể rơi vào trạng thái chấn thương: “Kiệt sức vì đau đớn và cô độc, ông lão như một cây cổ thụ trăm tuổi đang sắp ngã xuống mặt đất.”

Sự già đi của các nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu không chỉ đơn thuần là một chặng trong tiến trình tự nhiên của đời người mà còn do những tác động của hoàn cảnh. Có thể nhận thấy hai nguồn tác động chính lên con người: mưu sinh và chiến tranh. Chính ở đây, qua cách trình hiện về sự già đi, những diễn ngôn của thời đại sử thi đã bị phá vỡ. Trong thế giới sử thi, chỉ có ý niệm về “lao động” chứ không có ý niệm về “mưu sinh”. Diễn ngôn về lao động là diễn ngôn mang tính duy ý chí cao độ, ở đó, hoàn cảnh là thứ luôn có thể bị khuất phục: “Bàn tay ta làm nên tất cả/ Có sức người sỏi đá cũng thành cơm” (“Bài ca vỡ đất” - Hoàng Trung Thông). Trong diễn ngôn về lao động của thời đại sử thi, lao động là vinh quang bởi nó là cống hiến, dựng xây, bởi thế có thể nói về sự vất vả trong lao động nhưng tuyệt nhiên không thể nói về sự cơ cực, có thể nói đến cái nghèo như một tính chất của thực tại cần cải tạo nhưng không được phép nói đến cái khổ. Diễn ngôn về mưu sinh lại là diễn ngôn liên quan đến sinh tồn của mỗi cá nhân, nó là cuộc vật lộn khốc liệt của con người với hoàn cảnh nơi không phải lúc nào ý chí cũng có thể vượt thắng. Thế giới sử thi loại trừ diễn ngôn về sự mưu sinh bởi lẽ nó không muốn kết nạp sự nhỏ bé, thậm chí bất lực, của con người trước hoàn cảnh vào bức tranh về công cuộc lao động lạc quan của nó. Trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu sau 1975, mưu sinh chính là thứ vắt kiệt sức lực của con người, làm cho con người già đi so với chính tuổi sinh học của họ mà người phụ nữ hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa” là ví dụ. Nhưng có lẽ lão Khúng trong “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát” mới thực sự là nhân vật nếm trải những tác động khốc liệt nhất của cuộc mưu sinh lên hình hài. Là một người nông dân lì lợm, quyết liệt trong cuộc mưu sinh trên mảnh đất quê nghèo “có sức nhai người ghê gớm”, “nghiền nát những con người ra rồi vắt lại theo hình thù đã có từ nghìn đời của nó”, Khúng đã từng dồn tất cả sức lực thời trai tráng của mình vào công cuộc vỡ đất, khai hoang lập nghiệp, “tranh chấp với rừng từng bước chân”. Thành quả của cuộc làm lụng nhọc nhằn phải trả giá bằng cả mồ hôi lẫn máu trao cho ông niềm hãnh diện và cả sự hào sảng của kẻ tiên phong đi mở đất. Nhưng từ điểm nhìn của Định - người chú của Khúng, không hơn ông bao tuổi, cuộc sinh tồn ấy vắt sức con người một cách tàn khốc. Trong “Khách ở quê ra”, ấn tượng của Định về người cháu sau một quãng thời gian không gặp là sự già đi trông thấy: “Khúng, y như một con bọ hung vừa từ dưới lỗ chui lên, vừa đen vừa gầy vừa già vừa xấu”, “sáu năm ở chiến trường không làm Định già nhanh đến thế”. Đến “Phiên chợ Giát”, sự già đi ấy đã trở thành trạng thái mà lão Khúng tự cảm thấy bùi ngùi, cay đắng. Nếu trong “Khách ở quê ra”, cuộc sinh tồn khốc liệt trên vùng đất hoang ít nhiều còn khiến lão có một “phép thắng lợi tinh thần” khi nhìn đời sống thành thị như một thế giới của “quân man di mọi rợ”, phải sống trong không gian đóng kín, tù túng thì đến “Phiên chợ Giát”, trong dòng suy nghĩ của nhân vật, cuộc sinh tồn ấy là một vòng luẩn quẩn, thậm chí thất bại khi không phải cái hoang dã đã bị thuần hóa bởi sức mạnh và ý chí của con người mà ngược lại, con người bị đồng hóa vào nó: “Lão sống như người rừng, đánh mất luôn tính cách một người ở đồng bằng, một anh nông dân bon chen ở làng. Vợ lão vốn một người thành phố lại càng thay đổi nhiều. Cả hai vợ chồng trở nên lầm lì, tính nết cũng âm âm u u như tính nết của rừng. Ngày đó, lắm lúc lão Khúng nhìn những đứa con chơi với nhau bên hang đá, đầu ngọn suối, lão ứa nước mắt, nói dại, lão cứ nghĩ không biết chúng nó là con lão hay là con của loài cầy cáo, beo trăn, mỗi lần nghĩ dại thế, lão lại lăn ra cười một mình, cười lăn cười lộn như một kẻ điên, trước cái sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát ra nổi của hoang vu.” Sự già đi là hệ quả của mưu sinh, đã thế, dù dốc toàn bộ công sức của mình trong cuộc mưu sinh ấy, con người vẫn cứ bị đẩy ra ngoài xa hay nằm ở ngoại biên đời sống văn minh. Trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, bức ảnh phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp mà Phùng chụp đã đóng khung thực tại mà người xem có thể nhìn thấy, từ đó vô hình hóa người đàn bà hàng chài khốn khổ. Trong “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát”, lão Khúng “cả đời chúi mũi vào hòn đất”, “đã từng leo hết quả núi này đến quả núi khác”, vậy mà khi ra Hà Nội, “mới loanh quanh trong chợ, cặp giò như hai cái trục bánh xe của lão đã mỏi”, mới ngỡ ngàng nhận ra cái gì ở Hà Nội “cũng rẻ hơn ở nhà mình một giá”. Một đời hùng hục xông pha khai hoang, giờ lại xót xa khi con trai cả của mình cũng phải bỏ cái mảnh đất mà người cha “đã tưới đến tưới đến gần cạn kiệt mồ hôi” cho nó để lập nghiệp tại một miền rừng xa xôi, mịt mùng khác. Trạng thái già đi ở đây có thể ví như sự ngấm đòn của con người trong cuộc mưu sinh - đây cũng chính là điểm quan trọng làm nên sự tương phản giữa lão Khúng trong “Khách ở quê ra” với lão Khúng trong “Phiên chợ Giát”.

Thế giới tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu cũng là thế giới kinh qua một giai đoạn lịch sử dường như được nối tiếp bởi những cuộc chiến khốc liệt. Sự già đi của họ, một phần quan trọng, liên quan đến những tổn thương mà chiến tranh gây ra. Bà mẹ của anh lính phục viên làm nghề cắt tóc trong truyện ngắn “Bức tranh” lòa mắt bởi khóc thương người con trai tưởng đã hy sinh trong chiến tranh. Ông bố của Lực trong “Cỏ lau” suốt bao nhiêu năm cũng sống với ý nghĩ rằng Lực đã hy sinh và điều đầu tiên làm Lực xót xa nhất khi trở về quê là thấy cha mình “đã già đi đến mức thế”: “Cái đầu bây giờ không còn mọc một sợi tóc, lại đầy gầu, nom cứ như mốc trắng, quá nhỏ bé như đầu một con chim lớn đã bị vặt trụi hết lông. Một bộ quần áo may bằng vải chúc bâu trắng nhưng đã ngả màu cháo lòng rộng thùng thình trong cái thân thể gầy và dài cứ nguềnh ngoàng.” Bác Thông, ông già cô độc và lặng lẽ trong “Sống mãi với cây xanh”, cũng có con trai nằm lại nơi núi rừng Trường Sơn. Và khoảnh khắc đau đớn tột cùng của lão Khúng là lúc lão nhận tin báo tử của thằng Dũng - đứa con trai mà ông đã khích lệ nhập ngũ làm lính tình nguyện để rồi chết trong cánh rừng hoang tận Campuchia. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu tụ họp nhiều ông bố, bà mẹ có con cái hy sinh hay thương vong bởi chiến tranh. Trong “Cỏ lau”, lời của một ông già khi nói về thời cuộc có thể thâu tóm được âm hưởng bi thương của thời hậu chiến: “Chao ôi, thời buổi khủng khiếp, mấy đời người mới có một lần. Người trẻ thì chết, toàn hai mươi, mười tám, còn người già thì sống.” Già mà vẫn sống - tuổi thọ không còn là ý niệm phúc lộc của đời người nữa, ngược lại, đó là sự chịu đựng nghiệt ngã, bi kịch.

Tính bi kịch của nhân vật tuổi già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, sâu xa hơn, nằm ở chỗ chính vào khoảnh khắc chạm vào ngưỡng cuối cùng của đời người, họ đối mặt với cuộc khủng hoảng hiện sinh không thể né tránh. Trong “Dấu vết nghề nghiệp” và “Bến quê”, nhân vật của Nguyễn Minh Châu đều bị đặt vào những tình huống hạn chế: khi cái đón đợi mình phía trước chỉ còn một khả năng duy nhất - cái chết, điều duy nhất con người có thể làm là nhìn lại quãng đời đã sống. Ở thời khắc ấy, những gì ký ức còn neo giữ lại là thứ làm nhân vật day dứt, thậm chí ân hận hơn cả. Vị cựu thủ môn lão luyện không thể nào quên được cú bắt bóng vụng dại và ngớ ngẩn nhất trong sự nghiệp của mình cũng như cách xử lý tình huống gian lận nhưng độ lượng của vị trọng tài từng là đối thủ của mình trên sân cỏ cũng như trong tình yêu. Có những điều mà chỉ đến khoảnh khắc cuối cùng của đời mình, người ta mới thật sự thấm thía hoặc dám thừa nhận. Điều mà vị cựu thủ môn muốn nói nhất trước khi chết là sự nghiệt ngã và tình người trong bóng đá, có những điều phức tạp hơn, sâu xa hơn bàn thắng - bàn thua mà người ta nhìn thấy trong trận đấu. Trong “Bến quê”, điều làm Nhĩ đau đớn hơn cả sự hành hạ của thân xác vào ngày cuối cùng trong đời mình là khi nhận ra mình sắp chết nhưng mình thực sự chưa từng sống - nếu hiểu sống phải là quá trình con người ta nhận ra ý ng- hĩa của bản thân đời sống.

“Cỏ lau” và “Phiên chợ Giát” - hai tác phẩm quan trọng nhất trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu sau 1975 cũng là hai tác phẩm đào sâu vào những khủng hoảng hiện sinh xuất hiện đúng vào thời điểm con người chạm ngưỡng của sự già. Trong “Cỏ lau”, Lực trở về quê hương để làm công việc quy tập thi hài của những người đồng đội nhưng ở đó suốt bao nhiêu năm, những người thân của anh đều nghĩ anh đã chết. Motif trở về ở truyện ngắn này cho phép ta liên hệ ở mức độ nào đó với cuộc hồi hương của Ulysses trong sử thi Odyssey. Sau cuộc chiến thành Troy, trải mười năm lưu lạc, Ulysses vượt qua vô vàn thử thách bằng sức mạnh và trí tuệ của mình, để tìm về quê nhà, đoàn tụ với vợ con, khẳng định tư cách anh hùng của mình. Ngược lại, cuộc hồi hương của Lực - kẻ mất khoảng thời gian gần gấp đôi Ulysses để trở về sau chiến tranh - là thời điểm đánh dấu những khủng hoảng hiện sinh của nhân vật, không phải chỉ ở chỗ người nhà đều tin anh đã chết, vợ anh đã đi lấy người khác mà ở những biểu hiện sâu xa hơn trong tâm thức của nhân vật. Trong một tiểu luận về “Cỏ lau”, Đoàn Cầm Thi đã chỉ ra một khía cạnh của sự khủng hoảng này ở nhân vật: sự xa lạ với chính mình khi Lực đối diện với tấm ảnh thời trẻ: “Không thể nào không nhận thấy ở Lực sự bất ổn, thậm chí sợ hãi, trước hình ảnh của chính mình: Lực đang biến thành ‘người xa lạ’.”6 Tôi muốn nói thêm: chính ý thức về sự già đi của bản thân sau bao năm chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến trạng thái bất ổn đó ở Lực. Song khủng hoảng hiện sinh ấy còn thể hiện ở một khía cạnh khác: Lực đối diện với tình trạng mất ý nghĩa của những gì trong thực tại anh đang thấy, đang chứng kiến khi trở về. Núi Đợi đã được người dân tự động đổi tên thành núi Tử Sĩ - cái tên nhắc đến sự mất mát khốc liệt của cuộc chiến vừa qua; vùng đất xưa kia là bãi chiến trường nơi con người hy sinh xương máu để chiếm lấy từng tấc đất nay chỉ cỏ lau mọc lên um tùm, rậm rạp, gây khó cho việc tìm hài cốt đồng đội; nơi yên nghỉ của người chết giờ là bãi chiến trường của đám trẻ chăn bò chơi trận giả. Và cuối cùng, cuộc chiến mà Lực “không hề mảy may hối tiếc đã dốc hết tuổi trẻ vào đấy mà cống hiến cho nó” nhưng rốt cục, “nó như một nhát dao phạt ngang hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắn liền lại như cũ.” Chấn thương ấy là trạng thái không thể nhìn thấy được từ bên ngoài, nó khiến Lực bơ vơ như khách lạ chính trên mảnh đất cố hương của mình, sự sống sót của mình hóa ra lại chỉ đem đến cho nhân vật mặc cảm tội lỗi khi có thể xáo trộn tất cả những cuộc đời của người khác. Sự trở về không phải là phần thưởng dành cho nhân vật như ta thấy trong sử thi Homer; trái lại ở đây, Lực ý thức việc mình chỉ như “một khách lạ” giống một hình phạt của định mệnh nhiều hơn (điều đáng nói là cảm quan về định mệnh không xuất hiện trong ý thức của Lực thời trẻ, khi cái nhìn cuộc sống của anh đậm tính duy ý chí).

Không phải đi đến cuối đời, người ta có thể nhận ra ý nghĩa của đời mình mà là sự mất ý nghĩa, thậm chí sự vô nghĩa, của tất cả những gì con người đã nhọc lòng vì chúng. Đó có lẽ là trải nghiệm của lão Khúng trên đường dắt con bò khoang ra chợ. Trong dòng ý thức của lão Khúng, cả cuộc đời của nhân vật được tái hiện và tự đánh giá một cách nghiêm khắc nhất, theo đó, cứ như thể toàn bộ lao lực của ông rốt cục giống như hành động đẩy đá của Sisyphus: người hùng khai hoang một vùng đất cuối cùng vẫn chỉ “sống trong sự vây bọc tưởng không bao giờ thoát nổi của hoang vu”. Cuộc đời vắt sức cho đất hoang rốt cục cũng đi đến kiệt cùng như con bò khoang già nua, vòng đời của nó thực ra đồng dạng với vòng đời của chính lão Khúng. Bởi thế, hành động nhân vật thả con bò về rừng hoang, thay vì đem bán nó ở chợ để cuối cùng bị làm thịt thành thức ăn cho người, nhất là dân thành thị, có thể xem là cuộc nổi loạn hiện sinh. Việc này khiến toàn bộ hành trình đi từ nhà lúc khuya khoắt đến chợ của lão Khúng trở thành một hành trình vô mục đích và không thể hiểu nổi theo lẽ thông thường. Theo Hoàng Ngọc Hiến, hành động này thể hiện “ảo tưởng tự do hoang dã” của lão Khúng, cho dù việc con bò cuối cùng lại quay trở về gặp chủ nó là “sự thất bại não nùng” của ảo tưởng ấy7 . Một thất bại theo kiểu Sisyphus nếu chỉ nhìn vào kết cục luẩn quẩn này. Nhưng khoảnh khắc đột nhiên nhân vật cảm thấy cần phải giải thoát cho con bò chính là lúc ông lão lấy lại sức mạnh nội tại, dù chỉ trước đó thôi, ông còn có cảm giác mình “sắp chết”. Sức mạnh ấy giúp ông đủ can đảm để chấm dứt việc tái diễn chu trình vô nhân đạo nhưng đã trở nên bình thường, thậm chí bị coi như tất yếu, của đời sống, để còn có thể là người - điều mà ông phải giữ lại dẫu có thể tất cả những thứ khác, dù vô cùng quý giá trong đời ông, như đất đai, con cái, đều mất hết: “Tự nhiên lão thấy lão đang làm một công việc vô cùng vô nhân đạo. Cả một đời con vật nai lưng ra kéo cày để nuôi sống gia đình lão, và bây giờ lão đền ơn trả nghĩa cho con vật bằng việc đem bán nó cho người ta giết thịt? Lão thấy lão không còn là giống người nữa chứ còn đâu nửa người nửa thú vật? Một lát sau lão không lên án, tự xỉ vả mình nữa mà chỉ thấy trong người mình một cái nhu cầu đầy bức bách tự giải thoát…”. Ý thức giữ lại tư cách người ở lão Khúng có thể gợi nhớ đến lão già Santiago trong Ông già và biển cả của Ernest Hemingway - người chấp nhận đương đầu không cân sức với đàn cá dữ giữa đại dương để không chỉ bảo vệ thành quả lao động của mình mà để khẳng định sự kiên định của việc làm người: “Con người có thể bị hủy diệt, nhưng không thể bị đánh bại.” Cố gắng ấy hoàn toàn vô nghĩa nếu chỉ nhìn vào bộ xương của cá kiếm mà Santiago mang về, sự kiên cường của nhân vật có thể cũng vô nghĩa khi toàn bộ cuộc giao tranh trên biển của ông lão là đơn độc, không có ai chứng kiến song việc làm người đòi hỏi thứ tự do nội tại trong quyết định và hành động hơn bất kể điều gì. Mọi tự do của con người có thể đều là ảo tưởng nếu ta nhìn vào kết cục, song cái tự do tại thời khắc quyết định và hành động là cái chân thực dù chỉ tồn tại trong chốc lát. Lão Khúng, vì thế, có thể xem là hình tượng người già cứng cỏi còn trụ lại trong thế giới nhân vật của Nguyễn Minh Châu, dù thực chất, khác hẳn với ông lão Santiago của Hemingway, lão không được nhà văn tạo hình như một mẫu nhân vật chiến bại anh hùng trong cuộc hiện sinh.

Khủng hoảng hiện sinh ở nhân vật tuổi già trong truyện ngắn sau 1975 của Nguyễn Minh Châu còn được khắc họa ở những trải nghiệm ăn năn, sám hối và ý thức chuộc tội. Ở trên, tôi đã nói đến mặc cảm tội lỗi ở Lực bởi chính sự sống sót của anh sau chiến tranh có thể phá vỡ cuộc sống mà anh nghĩ đã yên ổn. Nhưng sâu xa hơn, chính cuộc chiến tranh mà Lực trải qua cũng là nguồn gốc của mặc cảm trong anh: nó không hề là kỳ tích, chiến công dù anh trở về đây trong tư cách của người thắng trận. Anh nghe Quảng nói về cuộc chiến mà súng đạn từ phía anh cũng là tác nhân khiến thị xã Quảng Trị này “một nửa hòn gạch nguyên lành cũng chẳng còn thấy”. Cuộc sống thời bình sau chiến tranh vẫn cứ là cuộc sống ly tán “như dân Do Thái” (lời của Quảng nói với Lực) khi người ta phải bỏ quê hương đã tan hoang và bị xáo trộn khủng khiếp đi tứ xứ sinh sống, làm ăn. Và lời nói thật nhất về cuộc chiến ấy là lời của Huệ - người yêu của Phi, một chiến sĩ cấp dưới của Lực đã hy sinh trong trận chiến Quảng Trị: “Chiến tranh làm người ta hư đi hơn là làm người ta tốt hơn!” Những gì Lực thấy và nghe về hệ lụy mà cuộc chiến để lại khiến anh không thể phủ nhận phán xét đó từ cô gái trẻ ấy. Câu “Tôi cũng là một con người của chiến tranh” không phải là thú nhận từ Lực để mong đợi nhận được sự thông cảm hay tha thứ của Huệ - người đã mất đi người yêu bởi một quyết định độc đoán và sai lầm của Lực trong một trận đánh. Kết thúc “Cỏ lau” là một tưởng tượng của Lực về tương lai của mình, nơi anh chấp nhận sẽ sống về già trong cô độc và trong trách nhiệm chịu tội: đó là thế giới nơi chỉ có anh và người cha già sống những ngày cuối đời cùng nấm mộ của Phi. “Phiên chợ Giát” cũng mở đầu bằng cảm giác tội đồ của lão Khúng khi giật mình khỏi cơn ác mộng mà ở đó, lão nhìn thấy mình như một hung thần đang giương cây búa to nặng để đập chết bò khoang. Nỗi sợ hãi bởi cảm giác như thấy phần tăm tối nhất trong con người mình, khả năng trở nên ác độc, tàn nhẫn của chính bản thân khiến lão bàng hoàng: “Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn sám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Đằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn tên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.” Nỗi sợ hãi trước chính mình này có thể xem là cơ chế tâm lý bề sâu chi phối quyết định tưởng như đột nhiên và có vẻ “điên rồ” của lão Khúng khi giải thoát cho bò khoang ở cuối truyện. Nội tâm của nhân vật không chỉ dày đặc nỗi day dứt khi nghĩ về mối quan hệ giữa mình với con bò đã gắn bó cả đời mà còn trĩu nặng những niềm áy náy khi nghĩ đến những đứa con, đặc biệt sự ân hận khi nghĩ về Dũng - đứa con hy sinh nơi xứ người. Những lý do cao cả không đủ khỏa lấp được nỗi đau trần trụi của một người cha mất con và cũng có thể mất luôn ảo ảnh về con khi lão không có dù chỉ một tấm hình của con chụp khi còn sống.

Không chỉ sống trong những dằn vặt, mặc cảm tội lỗi, người già trong truyện ngắn còn được đặt vào tình thế của kẻ nếm trải nhiều nhất, chịu đựng nhiều nhất một thời đại đầy biến động. Lời của họ không còn là lời tiên tri về tương lai mà là dự cảm về sự tàn cuộc nhiều hơn. Bằng một linh cảm đặc biệt, sư bà Thiện Linh nghe thấy những âm thanh sám hối vang vọng ngay trong những ngày hòa bình đầu tiên: “Chẳng lẽ đã đến giờ khắp mặt đất cùng cất lời cầu nguyện? Khắp thinh không đang rung lên những hồi chuông ngân nga trong ánh chiều tắt dần, trong lúc khắp cõi mặt đất đang đắm chìm trong bóng tối, tất cả mọi con người của không biết bao nhiêu tôn giáo và không tôn giáo, đang kính cẩn chắp tay lên ngực hoặc giơ thẳng cả hai cánh tay, ngửa mặt lên trời để cầu xin lòng xót thương và lời tha thứ, đang gào lên trước cái ác cùng sự dửng dưng trước cái ác của con người.” (“Mùa trái cóc miền Nam”). Trong “Cỏ lau”, cảm quan mạt thời cũng thể hiện rõ trong lời của một ông lão đã chứng kiến cả sự khốc liệt của chiến tranh và những đảo điên của thời hậu chiến trên mảnh đất quê mình, nơi người ta “đang đánh nhau vỡ đầu vì tranh giành đất”, nơi máu xương của những người ngã xuống chỉ tưới bón cho cỏ hoang tươi tốt, nơi “cái ác mọc ra từ trong máu, trong thịt mình”. Không chỉ mất con bởi chiến tranh, người già trong truyện ngắn còn bị bỏ rơi bởi chính những đứa con của mình sau chiến tranh: sư bà Thiện Linh bị đứa con chối từ, ông lão trong “Cỏ lau” cay đắng khi thấy con trai của mình trở thành kẻ vô cảm, tàn nhẫn với ngay cả vợ con và những người mình mang ơn: “Con mắt nó không còn biết nhìn nữa mà chỉ còn biết quắc lên. Cái miệng nó không còn biết cười nói, mà chỉ còn gầm gừ. Nó không còn biết thương người…”. Chi tiết nhỏ này về thế giới người già trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu thực ra có thể nói lên một số thay đổi quan trọng trong khung tư duy của nhà văn khi ta thử làm phép so sánh với những hình tượng cùng loại trong sáng tác của một số nhà văn ở thập niên 1980. Trong kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ - tín hiệu báo trước của thời Đổi mới trong văn hóa và chính trị, Trương Ba có thể lạc lõng trong nhà nhưng không lạc loài, sự lựa chọn của ông - chấp nhận tan vào hư vô hơn là duy trì sự tồn tại trong hình hài vay mượn của kẻ khác - ít nhiều còn có thể lay tỉnh con cái và đặc biệt khiến ông kết nối lại được với thế hệ cháu mình. Những đứa con trong kịch của Lưu Quang Vũ có thể cãi cha nhưng tiếng nói của người già vẫn còn vọng được tới thế hệ sau. Đến Nguyễn Minh Châu, người già mất con trong và sau chiến tranh, theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nó là tự sự của những người già côi cút, bất lực với chính những đứa con mình. Tướng Thuấn trong “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp thì đã thấy mình “lạc loài” trong thời bình, không thể thích nghi với tất cả những phức tạp, nhốn nháo của thời bình. Những đứa con của ông không cãi lại ông, không từ bỏ ông nhưng vị tướng ấy bất lực trong việc kết nối với con cháu. “Tướng về hưu” đã không là tự sự của người cha nói về những đứa con của mình; nó là tự sự của những đứa con mất cha, đúng như phát hiện của Đoàn Cầm Thi8 . Khác với Nguyễn Minh Châu, thế giới văn xuôi của Nguyễn Huy Thiệp lại là thế giới của những đứa con thiếu cha, ghét cha, thậm chí giết cha. Trong thế giới của Nguyễn Minh Châu, người già có thể cay đắng vì “thèm chui vào đất nhưng ông trời chưa cho” (“Cỏ lau”); ở thế giới của Nguyễn Huy Thiệp, những đứa con có thể thản nhiên: “Các bác già chết đi thì có gì là lạ?” hay đề nghị biểu quyết: “Ai đồng ý bố chết giơ tay?” (“Không có vua”). Sự suy giảm trọng lực của tiếng nói và vị thế của người già từ Lưu Quang Vũ qua Nguyễn Minh Châu đến Nguyễn Huy Thiệp phản ánh sự biến động về cảm quan đạo đức ở mỗi nhà văn tương ứng với nhận thức của họ về những rạn nứt, xáo trộn về giá trị của xã hội hậu chiến. Điều này, đến lượt mình, dẫn đến sự khác nhau cơ bản về tính chất bức tranh thế giới trong sáng tác của ba nhà văn. Thế giới trong kịch Lưu Quang Vũ ở trạng thái có thể bắt bệnh và chữa lành lại, đó là nơi sự hòa giải thế hệ có thể diễn ra. Thế giới của Nguyễn Minh Châu là thế giới nơi con người phạm lỗi, mê lầm, nó đòi hỏi sự ăn năn, sám hối và điều này được tự giác thực hiện trước hết bởi những người đã đi gần hết chặng đời của mình. Thế giới của Nguyễn Huy Thiệp đối lập với thế giới của Lưu Quang Vũ ở chỗ nó mất đi ảo tưởng lãng mạn về khả năng chữa lành những căn bệnh của xã hội. Thế giới ấy gần Nguyễn Minh Châu hơn khi nó kết nạp đầy những nhân vật phạm lỗi, mê lầm chứ không chỉ mắc những thói tật xấu như ta thấy ở kịch Lưu Quang Vũ. Ở thế giới ấy, sự già đi không phải là đảm bảo về giá trị, hay ít nhất khơi gợi sự cảm thương như ta thường cảm nhận được ở tác phẩm của Nguyễn Minh Châu: bao nhiêu kinh nghiệm trận mạc của một anh hùng chẳng thể giúp vị tướng ấy thích ứng được với đời thường; tự tin vào rừng đi săn như lão Diểu trong “Muối của rừng” thì cuối cùng cũng phải trở về trần truồng và nhỏ bé, đê tiện, nham nhở như lão Kiền trong “Không có vua” thì trước khi chết cũng nếm trải đau đớn cực hình của thân xác… Nguyễn Minh Châu hầu như không mô tả cái chết của nhân vật già nào, dù ông hay mô tả trải nghiệm khi cận kề cái chết hay linh cảm về cái chết họ, theo đó, cái chết được nhìn như là điểm cuối kết của mọi sự. Nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp có chết đi thì cuộc sống vẫn xoay vần theo cách riêng của nó, cứ như thể anh hết vai nhưng tấn kịch của cuộc đời thì tiếp diễn đến không cùng. Thế giới của Nguyễn Huy Thiệp là thế giới của sự phân rã nơi người già cũng loay hoay, cũng mê muội, chẳng dạy bảo được gì con cái và thậm chí cũng chẳng bi phẫn gì. Điều này cũng rất khác so với loại hình tượng này trong sáng tác về sau của Nguyễn Huy Thiệp khi ông xây dựng một vài nhân vật người già thông suốt lẽ đời, có nhãn quan riêng và có thể độ lượng với tuổi trẻ như trong “Sống dễ lắm” chẳng hạn.

Thế giới tuổi già trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu là thế giới mang nhiều nếm trải bi kịch. Có nhiều lý do để Nguyễn Minh Châu quan tâm đến lát cắt đặc biệt này của đời người, trong đó, hẳn phải nhắc đến việc ở ngưỡng cuối cùng này, con người cần thiết phải sống thành thật, không được phép chạy trốn việc đối diện với chính mình. Sự trung thực là phẩm giá mà ông đòi hỏi ở nhân vật của ông trong hành trình tìm kiếm ý nghĩa của đời mình. Song đó cũng chính là yêu cầu mà ông tự đặt ra cho bản thân, thậm chí ở mức độ cao nhất. Đó cũng là điều quan trọng làm nên sức sống của trang văn Nguyễn Minh Châu qua thời gian.

Trần Ngọc Hiếu

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, 374/04-2020, phiên bản trực tuyến ngày 15.5.2020.

------

1. A. JA. Gurevich, Các phạm trù văn hóa trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 1996, trang 127.

2. Tlđd, trang 129.

3. Jean Chevalier & Alain Gheerbrant (chủ biên), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb. Đà Nẵng & Trường Viết văn Nguyễn Du, 2002, trang 967-8.

4. A.JA. Gurevich, Tlđd, trang 129.

5. Các trích dẫn tác phẩm Nguyễn Minh Châu trong bài viết này được lấy từ Nguyễn Minh Châu - Tuyển tập truyện ngắn, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1999.

6. Đoàn Cầm Thi, “Tôi là kẻ khác: Ảnh và cuộc đi tìm bản thể trong Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu” in trong Đọc tôi bên “Bến lạ”, Nhã Nam & Nxb. Hội nhà văn, 2006, trang 47.

7. Hoàng Ngọc Hiến, “Đọc Nguyễn Minh Châu từ “Bức tranh” đến “Phiên chợ Giát”, in trong Nguyễn Minh Châu - Về tác gia và tác phẩm, Nguyễn Trọng Hoàn giới thiệu và tuyển chọn, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2002, trang 192-3.

8. Đoàn Cầm Thi, “Nguyễn Huy Thiệp: Những đứa con giết cha” in trong Đọc tôi bên “Bến lạ”, Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2006, trang 26.

Nếu bạn không có niềm đam mê thực sự, đừng theo đuổi sự nghiệp viết. Nó là một bức tranh trái ngược với những hình ảnh lãng mạn mà bạn vẫn thường nhìn thấy ở những nhà văn thành công.

Chúng tôi gặp Andrew Lâm, một nhà văn, nhà báo người Mỹ gốc Việt, tác giả cuốn sách Perfume Dreams: Reflections on the Vietnamese Diaspora (Những giấc mơ hoa: Suy ngẫm về cộng đồng người Việt tha hương) và East Eats West: Writing in Two Hemispheres (Viết ở hai cực Đông, Tây) tại Thành phố Hồ Chí Minh trong dịp ông trở lại tìm kiếm tư liệu cho dự án sách mới về lịch sử, gia đình và quê hương Việt Nam.

20200419

Cách không xa cuộc sống xô bồ và guồng quay không ngừng nghỉ của Thành phố Hồ Chí Minh, “chốn trú ẩn” của Andrew Lâm nằm trong một con ngõ lặng lẽ cạnh sông Sài Gòn. Mỗi buổi sáng, ông đi bộ dọc theo con đường nhỏ thanh bình chia cách khu căn hộ và dòng sông Sài Gòn, hít làn gió mát lành và đắm chìm trong những suy tư lúc bình minh lên. Ông cũng không quên tự thưởng cho mình một tách cà phê trước khi quay về căn hộ nhỏ. Ngay tại đây, Andrew ngồi lặng lẽ bên ban công nhìn ra sông Sài Gòn trong sự thanh thản và cô độc mà ông từng viết rằng ông “sẽ giữ tuyệt đối cho riêng mình”.

_______

Với ông, trở thành nhà văn là định mệnh hay là lựa chọn cá nhân?

Tôi xem nó như một tiếng gọi, một mong ước thầm kín và theo thời gian nó trở thành một thiên hướng. Tình yêu với ngôn ngữ và niềm say mê đọc sách là điều không thể chối cãi. Khi tôi bắt đầu viết, tất cả những nỗi buồn, sự bối rối và những hiểu biết sâu sắc cuồn cuộn trong tôi bắt đầu xuất hiện hình hài và ý nghĩa. Tôi vẫn luôn vật lộn với việc tìm kiếm ý nghĩa của chúng. Tuy nhiên, viết lách cho tôi một phương tiện để bộc lộ chính mình.

_______

Trong việc viết lách, điều gì lôi cuốn ông nhất? Một nhà văn cần kỹ năng để viết hay họ đã được ban tặng bản năng viết?

Tôi nghĩ điều quan trọng nhất trong sáng tác là có thể gọi tên một khái niệm, ý tưởng, suy ngẫm và cảm xúc. Nói cách khác, thông qua việc viết lách, tôi có thể định hình những trải nghiệm, một thứ hỗn độn và muôn hình muôn vẻ. Viết lách ít nhất cho phép tôi chắt lọc những trải nghiệm và chia sẻ chúng với người đọc.

Nếu không có một sự thôi thúc, những kỹ năng sẽ trở nên vô dụng đối với người viết. Mong ước được bày tỏ là cốt lõi của việc viết, là động lực viết. Kỹ năng và kỹ thuật là thứ người viết cần học để phục vụ cho việc hiện thực hoá mong ước của mình. Còn thật khó để nói về tài năng. Tôi nghĩ, mỗi người trong chúng ta đều có tài năng theo một cách nào đó.

Tôi không bao giờ can ngăn ai theo đuổi việc viết lách nếu người đó thực sự muốn và có điều gì đó để viết. Tôi sẽ can ngăn những người lãng mạn hoá việc viết và mong muốn theo đuổi việc viết mà thiếu đi một ao ước sâu sắc được bày tỏ bản thân.

Nhà văn Mỹ gốc Việt Andrew Lâm: 'Viết là hành trình cô đơn đầy mê hoặc' -2

_______

Có bao giờ ông tách biệt hình ảnh bản thân khỏi những tác phẩm của mình hay mỗi tác phẩm đều là một hiện thân của bản ngã?

Những tác phẩm của tôi không bao giờ có thể lột tả được hết con người tôi, những trải nghiệm hàng ngày, sự kỳ lạ, những thăng trầm trong cuộc sống, nỗi buồn và niềm vui. Mặc dù mỗi tác phẩm của tôi phản ánh góc nhìn của tôi đối với những sự việc, được truyền cảm hứng bởi những sự việc nhất định cộng thêm những hiểu biết cá nhân nhưng tôi không cảm thấy rằng tôi sống để viết.

Viết lách mang lại ý nghĩa cho cuộc đời, là thứ neo đậu con người tôi, cho tôi một sự định hướng. Ngược lại, những trải nghiệm cuộc sống cá nhân bộc lộ chính nó trong các tác phẩm hư cấu và phi hư cấu của tôi. Tuy nhiên, tôi không nghĩ rằng viết lách có thể điều khiển tôi theo cách mà tôi vẫn thấy ở nhiều nhà văn khác. Tôi sống cuộc đời của mình. Và tôi viết.

_______

Liệu mỗi nhà văn có nên tìm một nơi trú ẩn để giải phóng sức sáng tạo của họ? Viết lách có phải là một lối thoát giúp các nhà văn thoát khỏi sự đơn độc của chính mình?

Có rất nhiều loại nhà văn. Một số người viết theo công thức, một số người viết những câu chuyện cá nhân. Nhắc đến nơi trú ẩn, tôi nghĩ bạn đang nói đến một không gian riêng hoặc có thể là một trang thái cô đơn mà người viết bắt đầu ngòi bút của mình. Nếu như vậy, tôi cho rằng mỗi nhà văn nên có một chốn trú ẩn cho riêng mình.

Đối với câu hỏi thứ hai, tôi không thực sự đồng ý với suy nghĩ đó. Tôi xem việc viết như một nỗ lực định nghĩa vị trí của tôi trên trái đất này, trong lịch sử và để tạo nên một khung hình xung quanh nó. Tôi không xem viết lách là một lối thoát. Tôi nghĩ ma tuý hay rượu mới là lối thoát.

Viết lách là một nỗ lực thuần khiết. Ít nhất đối với tôi là như vậy. Thêm nữa, nếu tôi không viết, tôi vẫn trân trọng sự đơn độc của mình và tôi bảo vệ nó một cách nghiêm ngặt.

_______

Làm cách nào để duy trì và nuôi dưỡng tính trung trực với vai trò là một nhà văn và một nhà báo? Ông có phương châm viết nào không?  

Trung thực là chìa khóa để có những tác phẩm tốt. Nếu bạn không nhìn vào cuộc sống với góc nhìn của “đôi mắt lạnh”, sự phân tán của bạn sẽ không mang lại những cái nhìn sâu sắc cho người đọc và dĩ nhiên không giúp bạn hiểu được chính câu chuyện đó. Đối với các tác phẩm tự truyện cá nhân, điều đó có nghĩa là bạn dám nhìn vào những lỗi lầm, vết thương của mình mà không che đậy. Thừa nhận những vết sẹo, vết thương, nỗi sợ hãi, nỗi buồn là khởi đầu của hành trình tìm hiểu chính mình. Khả năng truyền đạt những thứ bạn tìm được, những thứ bạn nỗ lực làm sáng rõ chính là thứ kết nối bạn với người khác.

Đối với một nhà báo, tôi nghĩ đó có thể là khả năng nhìn vấn đề dưới nhiều góc độ và gạt đi sự thiên vị về văn hoá, chính trị hay chủng tộc và khám phá thế giới trước mắt mình. Sự trung thực trong việc đưa tin những gì đang diễn ra thay vì đưa tin những gì bạn cho là cần thiết qua lăng kính cá nhân. Tuy nhiên, dường như điều đó không phải là những gì mà chúng ta đang nhìn thấy ở báo chí hiện nay.

Tôi cũng muốn nói thêm rằng tính trung trực mà bạn nói đến vẫn chưa đủ. Động lực cốt lõi của nghệ thuật viết ở đây là sự nhiệt huyết. Loại hình văn học hay nhất, đối với tôi, hướng đến sự mặc khải, sự hiểu biết về vị trí của mỗi người trong cõi đời này, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về nguyên do sự thống khổ của mỗi người và theo một khía cạnh nào đó, con đường hướng tới sự tự do. Văn học đóng vai trò như những vector tinh thần luôn hướng về phía ánh sáng.

Nhà văn Mỹ gốc Việt Andrew Lâm: 'Viết là hành trình cô đơn đầy mê hoặc' -4

_______

Các nhà văn thường cho rằng họ viết những tác phẩm mà họ ao ước được đọc khi còn trẻ hoặc khi họ mới bắt đầu sự nghiệp sáng tác. Những tác phẩm của ông hướng đến việc thu hẹp khoảng cách nào? Ông thêm những góc nhìn nào vào những khoảng cách đó?

Tôi không dám chắc tôi là một ví dụ như vậy. Tôi chắc chắn muốn nhìn thấy nhiều hơn nữa những tác phẩm viết về trải nghiệm của người Việt tại Mỹ trong thời điểm tôi bắt đầu viết. Tuy nhiên, vào thời điểm cách đây gần ba thập kỉ, chúng tôi đều là những người tha hương vừa đặt chân đến Mỹ, nhiều người vẫn đang vật lộn để tồn tại và tiếng Anh là một thách thức. Thực lòng, tôi vẫn chưa viết về tuổi thơ của tôi ở Việt Nam. Đấy là một điều mà tôi muốn được đọc từ một tác phẩm bằng tiếng Anh.

_______

Ông muốn độc giả nhận được điều gì từ các tác phẩm của mình? Phản ứng nào của độc giả có ích nhất đối với ông? Phản ứng nào từ độc giả giúp ông hiểu được rằng họ hiểu được mục đích của tác phẩm?  

Điều tôi hy vọng trước tiên là độc giả thích thú với những câu chuyện ngắn của tôi – họ có thể cười, khóc và tìm thấy niềm vui hay sự lạc quan. Tôi cũng hy vọng những nhân vật trong các câu chuyện hiện ra một cách chân thực và người đọc cảm thấy gần gũi với những nhân vật đó. Một sinh viên từng nói với tôi rằng cô ấy muốn mời những nhân vật của tôi đi ăn trưa và tôi thực sự rất cảm động vì điều đó. Cô ấy hoàn toàn tin rằng những nhân vật đó có thật. Khả năng sáng tạo nên những nhân vật chân thực và sống động chính là một nghệ thuật.

Trong những tác phẩm phi hư cấu, tôi có một kỳ vọng khác. Tôi kỳ vọng một tác phẩm được nhìn dưới góc hình của thực tế, lịch sử và những sự kiện được ghi lại. Có tác phẩm kỳ vọng mang lại một góc nhìn sâu sắc, có tác phẩm kì vọng truyền đạt được những ý tưởng và suy nghĩ phức tạp của người viết. Có tác phẩm tranh luận về một quan điểm hay có tác phẩm hi vọng người đọc sẽ đón nhận với một tư tưởng cởi mở.

Nhà văn Mỹ gốc Việt Andrew Lâm: 'Viết là hành trình cô đơn đầy mê hoặc' -3

_______

Ông viết cho ai? Ông hình dung những độc giả của mình là ai?

Tôi viết gần như cho chính mình nhưng hiểu rõ rằng những gì tôi viết cũng phải hiểu được bởi những người đọc của tôi. Viết là một hoạt động vừa mang tính cá nhân, vừa mang tính quần chúng.

Vì vậy, tôi không dùng thứ ngôn ngữ khó hiểu. Cũng cần phải nói rằng động lực khiến tôi viết bây giờ đã khác với động lực cách đây 27 năm khi tôi bắt đầu viết. Cách đây 27 năm, khi tôi bắt đầu viết một cách nghiêm túc, tôi nghĩ những tác phẩm của tôi phải giúp người Mỹ, những người không hề biết gì về Việt Nam hiểu được.

Tôi bắt đầu say mê với việc viết lách và sự say mê đó đơn giản chỉ là tìm cách kể một câu chuyện hay. Việt Nam, lịch sử, câu chuyện gia đình tôi vừa là điểm bắt đầu vừa là điểm neo giữ tôi. Nói cách khác, dù những tác phẩm của tôi vẫn tiếp tục neo giữ vào những đề tài tương tự nhưng tôi từ bỏ việc vận động cho một thứ gì đó cao cả bằng cách kể một câu chuyện hay. Tôi chọn cách nói về những vấn đề cá nhân nhiều hơn về những người quanh tôi.

_______

Ông muốn nhắn nhủ gì tới những bạn trẻ có hoài bão trở thành nhà văn, nhưng vẫn còn ngần ngại hay chưa dám theo đuổi ước mơ này?

Nếu bạn không có niềm đam mê thực sự, đừng theo đuổi sự nghiệp viết. Nó là một bức tranh trái ngược với những hình ảnh lãng mạn mà bạn vẫn thường nhìn thấy ở những nhà văn thành công. Một nhà văn dành nhiều thời gian một mình để viết được một hai câu văn hay mà có thể không đi tới đâu. Nếu như không có một ngọn lửa đam mê bên trong, bạn sẽ bị đốt cháy.

Và nếu bạn có một niềm đam mê, con đường trở thành nhà văn cũng vô cùng gian nan và thường không mang lại quả ngọt. Nỗ lực lao động trong sự đơn dộc không đảm bảo một sản phẩm cuối cùng chất lượng. Sự hoài nghi, lo lắng, đố kị, hi vọng xuất bản, sự thất vọng trước những thất bại – tất cả là một phần của sự nghiệp văn chương.

Nói như vậy, tôi không thể hình dung một ngày tôi không viết, thậm chí chỉ là vài câu. Khi một suy nghĩ được diễn đạt gãy gọn và chia sẻ với mọi người, nó có một sức mạnh riêng. Nó tiếp tục tồn tại và trở thành một phần của nhận thức. Khi một tác phẩm hoàn thành và thoả mãn chính bạn, một nhà văn rất kĩ tính, khi tác phẩm đó khiến bạn ngạc nhiên và hé lộ một điều gì mà bạn không hề biết tới khi đặt bút viết – thực khó có thể có một cảm xúc nào giống như vậy – phấn khích, ngạc nhiên, kì diệu. Tôi đã làm gì để đạt được chúng?

Đôi khi tôi cảm thấy rằng tôi sống vì cảm xúc đó. Tôi e rằng đó là một cám dỗ đầy mê hoặc.

_______

Cảm ơn anh đã dành cho tôi cuộc trò chuyện này.

 

Song Quỳnh

Nguồn: Doanh nhân, ngày 11.4.2020.

20200711 4

Người ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với Satyricon của nhà văn La Mã Gaius Petronius (thế kỉ I), và với Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỉ II). Tác phẩm của hai nhà văn này lần đầu tiên kể về cuộc sống của những người bình dân, đối lập với thể loại có tính quý tộc là thơ ca và trường ca (hay còn gọi là sử thi, anh hùng ca). Nhưng trên thực tế, ở thời cổ đại người ta chỉ chú trọng thơ ca, kịch thơ và trường ca. Ngay trong suốt thời trung đại, trường ca vẫn là hình thức nghệ thuật được coi trọng. Phải đến thời Phục hưng, với sự ra đời của hai tác phẩm Gargantua và Pantagruel của Rabelais (thế kỉ XVI) và Don Quixote của Cervantes (thế kỉ XVII), thì tiểu thuyết mới thực sự hình thành, mà mầm mống trực tiếp của nó ở văn hoá dân gian trung đại và ở truyện ngắn cuối thời trung đại với tập truyện ngắn nổi tiếng Mười ngày viết bằng ngôn ngữ bình dân của Boccaccio (thế kỉ XIV).

Có thể nói, giai đoạn mới của tiểu thuyết bắt đầu từ thời Phục hưng ở châu Âu. Từ đây tiểu thuyết thực sự trở thành một thể loại chủ chốt của loại văn tự sự. Đến thế kỉ XIX nó nở rộ, đem đến cho lịch sử văn học nhân loại những tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn bậc thầy như Stendhal, Zola, Balzac, Thackeray, Dickens, Gogol, Turgenev, Tolstoy, Dostoyevsky… Lúc này, quy mô tiểu thuyết đã đạt đến tầm vóc lớn lao chưa từng có như bộ Tấn trò đời của Balzac, Dòng họ Rougon-Macquart của Zola, Chiến tranh và hòa bình của Tolstoy...

Ở Trung Quốc, tiểu thuyết xuất hiện sớm ở thời Ngụy-Tấn, thế kỉ III-IV. Đặc biệt đến thời Minh đã xuất hiện các bộ tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng như Tam quốc diễn nghĩa, Đông Chu liệt quốc, Thủy hử, Tây du kí… Sang thời Thanh cũng xuất hiện các bộ tiểu thuyết đồ sộ như Hồng lâu mộng.

Tiểu thuyết ở Việt Nam phát triển muộn. Phải đến cuối thế kỉ XVII, ở ta, tiểu thuyết văn xuôi mới bắt đầu hình thành với cuốn gia phả lịch sử viết dưới dạng tiểu thuyết chương hồi Hoan châu kí (không rõ tác giả). Nhưng tác phẩm có giá trị tiểu thuyết thực sự phải kể đến là Nam triều công nghiệp diễn chí (1719) của Nguyễn Khoa Chiêm. Và phải đến đầu thế kỉ XX, với sự ra đời của tiểu thuyết lãng mạn và hiện thực, thì chúng ta mới có tiểu thuyết hiện đại.

Mặc dù ra đời muộn, nhưng tiểu thuyết đã nhanh chóng trở thành một thể loại bao trùm và có vị trí quan trọng nhất của văn học, và - theo Bakhtin - “trong số các thể loại đã hoàn bị từ lâu và một phần đã tiêu vong, tiểu thuyết là thể loại duy nhất đang phát triển”(1).

Trong bài tiểu luận Epic and Novel, viết năm 1941, xuất bản lần đầu năm 1970, Bakhtin đã nêu ra ba đặc điểm cơ bản của tiểu thuyết với tư cách là thể loại “đang phát triển” để phân biệt nó với các thể loại khác. Ba đặc điểm đó là:

“1/ Tính ba chiều phong cách học của nó, gắn với ý thức đa ngữ (multi-language consciousness); 2/ Sự thay đổi căn bản mà nó tạo ra trong các toạ độ thời gian của hình tượng văn học; 3/ Khu vực mới, được nó mở ra cho việc cấu trúc các hình tượng văn học, đó chính là khu vực tiếp xúc tối đa với cái hiện tại (tức với hiện thực đương đại) trong tính không giới hạn của nó.

Cả ba đặc điểm trên liên quan hữu cơ với nhau và đều chịu tác động mạnh mẽ bởi một sự đứt đoạn rất đặc thù trong lịch sử văn minh châu Âu: nó thoát ra từ một xã hội bán gia trưởng, cách li về mặt xã hội và vô cảm về văn hoá để gia nhập vào các mối quan hệ giao lưu liên dân tộc và liên ngôn ngữ. Cái mà châu Âu có được, cái mà từ đây sẽ trở thành một nhân tố quy định đời sống và tư duy của nó, chính là sự đa dạng của vô số ngôn ngữ, nền văn hoá, thời đại…”(2).

Đặc điểm thứ nhất, theo Bakhtin, gắn rất chặt với tính đa ngữ đang hoạt động của thế giới mới, của văn hoá mới và ý thức sáng tạo văn hoá mới. Bakhtin cho rằng tính đa ngữ luôn luôn tồn tại ở mọi thể loại, nhưng ở các thể loại đã hoàn bị, trạng thái đa ngữ chưa phải là một nhân tố sáng tạo; ở đó ý thức sáng tạo mới chỉ được thể hiện trong khuôn khổ những ngôn ngữ khép kín thuần khiết, và cái trạng thái đa ngữ đó đã được chỉnh đốn đồng thời quy phạm hoá theo xu hướng của ngôn ngữ thuần khiết này.

Với tiểu thuyết, ý thức văn hoá mới và ý thức sáng tạo văn học mới bắt đầu liên quan chặt chẽ với thế giới đa ngữ đang hoạt động. Trong tiểu thuyết, tất cả ngôn ngữ (như thổ ngữ, phương ngữ, biệt ngữ...) đã chuyển động và gia nhập tiến trình tác động lẫn nhau một cách tích cực. Tình trạng đa ngữ được tăng cường ráo riết đó chính là môi trường sản sinh và nuôi dưỡng tiểu thuyết. Nhờ thế, tiểu thuyết mới có thể cầm đầu tiến trình phát triển và đổi mới văn học về phương diện ngôn ngữ và phong cách.

Về đặc điểm này, theo Bakhtin, bất kì tiểu thuyết nào đều ít nhiều là một hệ thống hình tượng của “ngôn ngữ”, phong cách, ý thức cụ thể gắn chặt với ngôn ngữ, và hệ thống này đã được đối thoại hoá. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết không chỉ làm nhiệm vụ miêu tả mà bản thân nó còn là đối tượng miêu tả. Điều này làm cho tiểu thuyết khác biệt về nguyên tắc so với tất cả các thể loại nghiêm trang như trường ca, thơ trữ tình, chính kịch… Hình tượng đặc thù về ngôn ngữ và phong cách, sự tổ chức các hình tượng ấy, loại hình rất đa dạng của chúng, sự kết hợp hình tượng các ngôn ngữ vào một chỉnh thể tiểu thuyết, sự chuyển dịch và chuyển hoá các ngôn ngữ và bè giọng, quan hệ đối thoại giữa chúng… là những vấn đề cơ bản của phong cách học tiểu thuyết.

Bản thân ngôn ngữ, vẫn theo Bakhtin, có sự định hướng đối thoại giữa các lời nói, tạo cho ngôn từ những khả năng nghệ thuật mới và cốt yếu, làm nên tính văn xuôi nghệ thuật đặc thù. Nhưng chỉ đến tiểu thuyết, tính văn xuôi nghệ thuật đặc thù của định hướng đối thoại đó mới được thể hiện đầy đủ nhất và sâu sắc nhất. Để tìm đến hàm nghĩa và hình thức biểu cảm của mình, ngôn từ phải kinh qua môi trường ngôn từ nhiều trọng âm, nhiều giọng điệu khác nhau của những người khác, và chỉ trong quá trình đối thoại theo cách hoà âm hoặc nghịch âm với những yếu tố khác nhau trong môi trường đó thì nó mới có thể tạo nên khuôn mặt phong cách và điệu thức của mình. Đó chính là hình tượng văn xuôi nghệ thuật, đặc biệt là hình tượng văn xuôi tiểu thuyết. Những tiếng nói và ngôn ngữ khác nhau được đưa vào tiểu thuyết, ở đó chúng được tổ chức thành một hệ thống nghệ thuật hoàn chỉnh. Bakhtin cho rằng, việc đưa những tiếng nói và ngôn ngữ khác nhau vào tiểu thuyết đã được thực hiện theo các hình thức như sau:

- Du nhập những tiếng nói khác nhau theo kiểu của tiểu thuyết hoạt kê: ngôn ngữ thể loại, ngôn ngữ nghề nghiệp, ngôn ngữ đẳng cấp, ngôn ngữ trào lưu, ngôn ngữ đời sống hằng ngày...

- Đưa vào trong truyện một tác giả ước lệ (lời nói thành văn) hoặc một người kể chuyện (lời nói miệng) được nhân cách hoá cụ thể. Điều này thể hiện khả năng thuyên chuyển những ý chỉ từ một hệ thống ngôn ngữ này sang một hệ thống ngôn ngữ khác, hoà “ngôn ngữ chân lí” với “ngôn ngữ đời sống”, nói cái của mình bằng ngôn ngữ của người khác và cái của người khác bằng ngôn ngữ của mình.

- Đưa vào tiểu thuyết lời nói của các nhân vật. Lời nói của nhân vật chính có thể được coi là ngôn ngữ thứ hai của tác giả. Ở đây, tính đa thanh và tính phân tầng của ngôn ngữ vẫn là cơ sở cho phong cách tiểu thuyết. Trái với mặt phẳng của một ngôn ngữ thống nhất trong thi ca, ở tiểu thuyết luôn có một không gian ba chiều của ngôn ngữ văn xuôi, được ấn định bởi tính đa thanh trong nhiệm vụ của phong cách.

- Cuối cùng là hình thức du nhập ngôn ngữ của các thể loại khác. Tất cả những thể loại được du nhập vào tiểu thuyết đều đem theo ngôn ngữ của mình, và vì thế làm phân hoá sự thống nhất ngôn ngữ của tiểu thuyết, khơi sâu theo một cách mới tính đa thanh của nó.

Về đặc điểm thứ hai và thứ ba của tiểu thuyết, Bakhtin đã phân tích chúng trong mối quan hệ so sánh với sử thi để làm nổi bật chúng, đồng thời cho thấy hai đặc điểm này có quan hệ chặt chẽ với nhau.

Bakhtin nói: Do tính đặc thù của bản thân, tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng ta chưa thể dự đoán được hết những khả năng uyển chuyển của nó. Về bản chất, tiểu thuyết là một thể loại mềm dẻo, phi ổn định. Nhưng điều quan trọng hơn cả là tiểu thuyết không có những quy phạm như những thể loại khác. Gây nên tác động trong quá trình lịch sử chỉ là từng hình mẫu tiểu thuyết riêng biệt chứ không phải một quy phạm thể loại cố định. Nghiên cứu các thể loại khác tựa hồ nghiên cứu những tử ngữ; nghiên cứu tiểu thuyết giống như nghiên cứu những sinh ngữ, mà lại là sinh ngữ trẻ(3).

Tất nhiên, thể loại tiểu thuyết còn có nhiều đặc điểm khác nữa, nhưng đặc điểm “luôn biến đổi và chưa hoàn thành” là đặc điểm quan trọng nhất, vì đó là đặc điểm chứng tỏ sức sống bền bỉ của tiểu thuyết.

Chính việc tiếp xúc với môi trường của hiện tại chưa hoàn thành không cho phép thể loại tiểu thuyết bị đông cứng lại. Cái hiện tại đó là những sự việc bề bộn, đang còn dang dở, và có cả những sự kiện chưa và sắp xảy ra. Ngay cả khi miêu tả quá khứ thì tiểu thuyết cũng xuất phát từ hiện tại, thậm chí từ tương lai. Và chỉ có trong tiểu thuyết thì người ta mới có thể miêu tả một cách khách quan quá khứ như là quá khứ.

Do được tiếp xúc với hiện tại, đối tượng mô tả của tiểu thuyết mất đi ý nghĩa bất di bất dịch trước đây. Ý và nghĩa của nó từ nay không ngừng đổi mới và bổ sung cùng với quá trình mở rộng ngữ cảnh. Chính điều này tạo ra một khu vực hoàn toàn mới của việc xây dựng hình tượng tiểu thuyết: khu vực tiếp xúc gần gũi tối đa giữa đối tượng miêu tả với thực trạng dang dở hôm nay và vì thế mà với cả tương lai. Tiểu thuyết có tham vọng tiên đoán những sự thực, dự báo và ảnh hưởng tới cái tương lai hiện thực - tương lai của tác giả và độc giả. Tính “vấn đề” là nét mới và đặc thù ở tiểu thuyết; đặc điểm của nó là luôn luôn nhận thức lại, kiến giải lại, đánh giá lại. Cái trung tâm xuất phát mọi hoạt động biện giải và biện hộ cho quá khứ được di chuyển vào tương lai(4).

*

* *

Về ba đặc điểm của tiểu thuyết trên đây, chúng ta có thể ngược dòng lịch sử văn học Việt Nam để thấy sự thể hiện của chúng trong cả quá trình hình thành và phát triển của tiểu thuyết hiện đại. Bài viết này chủ yếu dừng lại khảo sát một số tác phẩm giai đoạn sau 1954.

Các nhà tiểu thuyết Việt Nam hiện đại cũng dùng tiểu thuyết để phản ánh một cuộc sống hiện tại chưa hoàn thành và không ngừng biến chuyển. Từ trước năm 1945, nhà văn Thạch Lam đã từng nói: “Cái khuynh hướng của tiểu thuyết bây giờ là hết sức gần sự sống để được linh hoạt và thật như cuộc sống”. Còn về sau, trong Gặp gỡ cuối năm (1982), nhà văn Nguyễn Khải lại đưa ra lời phát biểu như thể ông đang nhắc lại chính lời của Bakhtin nói cách đó 41 năm: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn bóng tối và ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là một mảng đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ”.

Quả thực, cuộc sống trong tiểu thuyết bao giờ cũng là một cuộc sống toàn diện, phong phú và nhiều mặt, đạt tới sự tiếp xúc tối đa với cuộc sống hiện tại ngoài đời. Lấy cuốn tiểu thuyết Bão biển (1969) của Chu Văn làm ví dụ. Ở đây, tác giả đã xông xáo vào nhiều lĩnh vực của cuộc sống, đã phản ánh hiện thực không phải chỉ trong những mâu thuẫn giai cấp dữ dội quyết liệt mà còn đi sâu vào cuộc sống bình thường với tất cả phong tục, lễ nghi, sinh hoạt lao động, buôn bán, hội hè; không phải chỉ trong đời sống xã hội mà còn là đời tư, phòng ngủ của các cha cố và tu sĩ, những con người xưa nay vẫn được mặc định là cao cả, thánh thiện. Cuốn tiểu thuyết gần như là một tập phóng sự ghi lại các mặt đời sống của người nông dân công giáo Việt Nam vùng biển: tục khao vọng quan viên trong họ đạo, một đám rước kiệu Thánh lễ Đầu dòng, một đám cưới đời sống mới, một phiên chợ làng chài, một cửa hàng thịt chó ở phố huyện... Cuộc sống cũng hiện lên trong tiểu thuyết của Chu Văn với tất cả những sắc thái thẩm mĩ đa dạng của nó. Cái bi và cái hài, cái cao cả và cái thấp hèn, cái đẹp và cái xấu... như những sợi chỉ óng ánh pha trộn với nhau, dệt nên tấm vải nhiều màu sắc của cuộc đời. Có chương ca ngợi con người lao động đang đắp đê lấn biển, chinh phục thiên nhiên, những người anh hùng với tình cảm cao thượng, đẹp đẽ. Có những chương lại dẫn ta vào những chuyện thầm kín xấu xa trong nhà nữ tu, trong phòng ngủ của các vị mặc áo chùng thâm, những chuyện hẹn hò trai gái tội lỗi, những chuyện ăn uống tục tĩu, thô lậu. Như vậy, khoảng cách giữa người kể chuyện và người đọc với hiện thực đã bị xoá bỏ.

Với đặc tính uyển chuyển, phi quy phạm, tiểu thuyết cũng có thể được coi là một thể loại hỗn hợp, dung nạp nhiều thể loại văn học và phi văn học như bút kí, truyện kí, phóng sự, chính luận, thư tín, nhật kí, kịch, thơ..., thậm chí cả các loại hình nghệ thuật khác như hội hoạ, điện ảnh... Bakhtin đã nói: “Sự định hướng mới về thời gian và khu vực xúc tiếp mới còn liên quan với một hiện tượng khác vô cùng quan trọng trong lịch sử tiểu thuyết, đó là những quan hệ đặc biệt của tiểu thuyết với những thể loại phi văn học - những thể loại trong đời sống hằng ngày và những thể loại tư tưởng ngay trong giai đoạn phát sinh; tiểu thuyết và các thể loại tiền thân của nó đã dựa vào nhiều hình thái phi nghệ thuật trong sinh hoạt cá nhân và xã hội, đặc biệt các hình thức văn hùng biện”(5).

Cụ thể, chúng ta thấy yếu tố chính luận pha triết lí thể hiện khá rõ trong tiểu thuyết Chiến sĩ (1973) và Gặp gỡ cuối năm (1982) của Nguyễn Khải; yếu tố thư tín, bút kí và điện ảnh trong Vỡ bờ (hai tập, 1962 và 1970) của Nguyễn Đình Thi; chất thơ trữ tình trong Đất nước đứng lên (1955) của Nguyên Ngọc, Hòn Đất (1966) của Anh Đức, Miền Tây (1967) của Tô Hoài; chất kịch trong Bão biển của Chu Văn, Cái sân gạch (1959) của Đào Vũ...

Trở lại với Bão biển, có thể thấy đặc điểm về khả năng của tiểu thuyết đối với việc tổng hợp nhiều thể loại được thể hiện rất rõ: chương nói về những người lao động đắp đê lấn biển mang bóng dáng của sử thi hiện đại; chương khác lại kể chuyện theo lối dân gian (chuyện nói phét của cụ Ba Bơ), hài hước, dí dỏm (chuyện tiếu lâm về bọn cha cố phản động), có thể nói là mang màu sắc trào tiếu dân gian theo cách nói của Bakhtin; nhưng cũng có chương căng thẳng đầy tính bi kịch (chương kết), hoặc bi hài lẫn lộn (đám cưới hụt của lão Tân Hưng phố huyện)...

Trong Vỡ bờ, Nguyễn Đình Thi sử dụng ống kính điện ảnh quay lướt nhanh một số cảnh để tránh hiện tượng dàn trải kết cấu: cảnh miền núi trong những ngày tiền khởi nghĩa, cảnh vùng xuôi chết đói, những hình ảnh trong câu chuyện về lính Nhật, những hình ảnh trong câu chuyện Việt Minh chiếm Nhã Nam và tiến về sát cầu Gia Bảy ở Thái Nguyên, những hình ảnh trong câu chuyện lính ở phố Cò bỏ đồn chạy về xuôi... Ngoài ra, nhà văn sử dụng cả kĩ thuật hội hoạ để tả cảnh sông Hồng dưới con mắt của hoạ sĩ Tư. Còn xét về mặt tổng thể thì cả cuốn tiểu thuyết cho ta một cảm giác như đang đứng trước một bức bích hoạ khổng lồ.

Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài cũng vậy, tác giả dẫn dắt người đọc đi qua nhiều địa điểm, nhiều môi trường khác nhau: phiên chợ ngày Tết, mậu dịch quốc doanh, trạm xá, nương rẫy... Những bức tranh thiên nhiên vừa dữ dội vừa thơ mộng, những bức tranh sinh hoạt xã hội đậm đà màu sắc dân tộc, những cảnh đời cũ màu xám và những cảnh đời mới tươi vui... thay đổi lẫn nhau, đan xen nhau, kế tiếp nhau hiện ra trước mắt người đọc như những đoạn chuyển cảnh trong một bộ phim.

Gắn liền với kĩ thuật điện ảnh là thủ pháp phóng sự trong tiểu thuyết. Chất phóng sự thấy rõ trong Miền Tây của Tô Hoài, Dấu chân người lính (1972) của Nguyễn Minh Châu, Chiến sĩ  Gặp gỡ cuối năm của Nguyễn Khải... Phóng sự là thể loại cận văn học rất gần gũi với cuộc sống.

Tính chất chưa hoàn thành và luôn luôn biến đổi của tiểu thuyết cũng có khi thể hiện ở cả kết cấu không hoàn thành, hay kết cấu mở của thể loại. Trong Chiến sĩ và Gặp gỡ cuối năm, số phận của các nhân vật đều được để cho người đọc tự tưởng tượng tiếp. Sang đầu thế kỉ XXI, đặc điểm này của tiểu thuyết càng được các nhà văn tận dụng, phát huy. Trong Tấm ván phóng dao (2005), nhà văn Mạc Can đã kết luận bằng một câu rất gợi mở: “Những năm cuối đời ông Ba khi quên lúc nhớ, sống một mình trong bịnh viện tâm thần Biên Hoà, nhưng khi nào nhớ ông kể lại câu chuyện này, đó là nhân vật ở ngôi thứ nhứt xưng Tôi. Ông già kể lại theo kiểu của ông, nửa hư nửa thật. Tất cả câu chuyện sau Tấm ván phóng dao bạn cầm trên tay sẽ ở trong một cuốn sách khác”. Câu kết trong Mẫu thượng ngàn (2006) của Nguyễn Xuân Khánh là một chân lí đúc kết nhưng thực ra lại để khơi mở một câu chuyện khác: “Đã là người ta, con ơi, ai chẳng là con của Mẫu”.

Quá trình biến đổi của tiểu thuyết vẫn chưa kết thúc. Ngày nay, tiểu thuyết đang bước vào một giai đoạn mới. Nét đặc thù của thời đại là thế giới trở nên phức tạp và sâu sắc phi thường, tính đòi hỏi cao, tính tỉnh táo và óc phê phán của con người cũng tăng trưởng phi thường. Những đặc điểm đó sẽ ấn định cả sự phát triển của tiểu thuyết. Tiểu thuyết Việt Nam đương đại (sau 1975, đặc biệt là sau 1986) sẽ là đối tượng khảo sát của một bài viết khác.

Việc xác định đặc điểm về sự linh hoạt và uyển chuyển của tiểu thuyết theo Bakhtin là để chúng ta thấy rõ ý nghĩa và vị trí của nó trong hệ thống các thể loại văn học, đồng thời cũng thấy được bản chất và tiềm năng to lớn của một thể loại vẫn đang không ngừng phát triển này

Nguyễn Văn Dân

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 25.6.2020.

--------

1. M. M. Bakhtin, “Epic and Novel”, The Dialogic Imagination: Four Essays, translated by Caryl Emerson and Michael Holquist, Austin: University of Texas Press, 1981, p.4.

2. M. M. Bakhtin, “Epic and Novel”, The Dialogic Imagination: Four Essays, sđd, tr.11.

3. Mikhail Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, 2003.

4. Mikhail Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, sđd.

5. Mikhail Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, sđd.

 

TTCT - "Khi gỡ bỏ lệnh phong thành, có lẽ còn có những cảm xúc phức tạp, các loại di chứng sẽ xuất hiện. Ví dụ như trẻ con có dám ra đường không, người lớn có dám nói chuyện với nhau ở cự ly gần không… Nỗi sợ hãi về dịch bệnh sẽ còn tồn tại rất lâu" - Nhà văn Phương Phương, tác giả Nhật ký Vũ Hán đình đám.

0h22 ngày 25-3, nhà văn Phương Phương đăng tải phần kết của Nhật ký Vũ Hán những ngày phong thành trên WeChat, trên blog của trang tin tài chính Tài Tân. Từ ngày 25-1 đến 24-3, suốt 60 ngày là 60 trang nhật ký của bà ghi lại trận dịch bệnh COVID-19 mang tính lịch sử, lời kết bà dẫn lời trong Kinh thánh: “Ta đã chiến đấu anh dũng trong trận mạc, đã hoàn tất cuộc chạy đua và giữ vững đức tin”.

Bà trò chuyện với trang tin tài chính Tài Tân sau khi kết thúc hành trình ghi chép đặc biệt này.

20200414 2

Nhà văn Phương Phương

Khi nào bà biết tin Vũ Hán xuất hiện dịch bệnh COVID-19?

- Là ngày 31-12-2019, anh Hai tôi là người biết tin đầu tiên. Gia đình tôi có nhóm chat 4 người, gồm tôi và 3 người anh của tôi. 10 giờ sáng 31-12-2019, anh Hai tôi gửi bài viết nói “Vũ Hán nghi ngờ xuất hiện dịch bệnh viêm phổi lạ”, trong đó mở ngoặc ghi là “SARS”. Anh tôi nói không biết có đúng sự thật không. Anh Ba tôi liền khuyên mọi người đừng nên ra ngoài. Sau đó, anh Hai tôi xác nhận thông tin đó là thật và cho biết Ủy ban Y tế quốc gia Trung Quốc đã đến Vũ Hán. Vì anh Tư của tôi ở gần chợ hải sản Hoa Nam, do đó tôi nhắn anh đừng đi bệnh viện nữa. Nhưng anh Tư tôi xuống dưới nhà quan sát thì thấy Bệnh viện trung ương ở Hán Khẩu vẫn hoạt động bình thường, anh cứ tưởng sẽ có rất nhiều phóng viên vây quanh.

Rất nhanh, tôi nhận được những đoạn clip về chợ hải sản Hoa Nam, về Bệnh viện trung ương từ bạn bè, tôi liền gửi ngay cho người nhà và nhắc nhở anh Tư ra ngoài phải đeo khẩu trang, thậm chí khuyên anh qua Tết tây thì tạm đến nhà tôi ở, vì dù sao nhà tôi cũng ở khu ngoại ô Giang Hạ, cách Hán Khẩu khá xa. Anh Tư bảo để xem tình hình. Anh Ba thì cho rằng đừng quá lo lắng, rằng chính phủ sẽ không ém nhẹm thông tin, nếu không sẽ có lỗi với bá tánh. Tôi về cơ bản cũng có suy nghĩ như anh Ba, cảm thấy chuyện lớn như vậy chính phủ không thể nào giấu giếm được, không thể không cho người dân biết sự thật.

Sáng 1-1, anh Hai tôi gửi tin chợ hải sản Hoa Nam đóng cửa của tờ Vũ Hán Buổi Tối. Anh Tư vẫn nói gần nhà anh không có gì khác thường, mọi người vẫn người nào việc nấy. Là một người dân thường, hôm đó chúng tôi đã rất quan tâm vấn đề này. Biện pháp của chúng tôi vẫn không khác bây giờ, đó là đeo khẩu trang, ở trong nhà, không ra ngoài. Tôi tin rằng những người Vũ Hán khác cũng sẽ như tôi, sau khi trải qua nỗi sợ hãi của đại dịch SARS, không ai lại không quan tâm những thông tin trên.

Khi nào bà cảm thấy tình hình dịch bệnh trở nên nghiêm trọng?

- Khoảng giữa tháng 1, thời gian đó trong dân chúng đã có rất nhiều tin đồn. Lúc đó cũng chưa cảm nhận có gì nghiêm trọng, chỉ nghe nói có căn bệnh truyền nhiễm, có nhiều người bị lây. Tôi bắt đầu đeo khẩu trang từ ngày 18-1, cũng yêu cầu cô giúp việc đeo khẩu trang khi đi chợ.

Khi nghe tin phong thành, bà nghĩ ngay đến gì? Có nghĩ đến việc rời khỏi thành phố không? Bà có cảm nhận gì về những người Vũ Hán chọn cách rời khỏi thành phố ngay trước giờ phong thành?

- Tôi có lẽ là người biết thông tin phong thành sớm nhất. Vì tối 22-1 tôi đi sân bay đón con gái, về nhà đã là 1 giờ sáng 23-1. Ngày thường tôi cũng hay ngủ trễ, mở di động ra thì thấy tin phong thành. Tôi không hề có ý định rời khỏi thành phố, đương nhiên cũng không ngờ tình hình sau đó lại trở nên nghiêm trọng như vậy. Tôi có thể thông cảm cho những người lựa chọn rời khỏi thành phố trước thời khắc phong thành, trốn chạy đi tìm sự sống là bản năng của con người. Những người “ném đá”, tôi tin nếu như họ ở Vũ Hán, phần lớn sẽ là những người trốn chạy đầu tiên.

Thời gian phong thành cuộc sống hằng ngày của bà như thế nào? Có thiếu thốn gì không?

- Tôi vốn ngủ trễ, do đó thường ngủ đến giữa trưa, rạng sáng mới đi ngủ. Thường viết văn vào ban đêm, buổi chiều thì làm việc nhà, nấu cơm, tìm hiểu thông tin dịch bệnh. Cuộc sống của tôi không thiếu thốn thứ gì vì mới đón tết, trong nhà cũng có mua sắm đôi chút, bạn bè đồng nghiệp cũng mua đồ giúp tôi. Chưa kể thường xuyên nhận được những túi rau do các mạnh thường quân tặng, với sức ăn của tôi, một túi rau có thể ăn đến mấy ngày.

Những thay đổi lớn nhất của bà sau khi phong thành là gì?

- Kế hoạch năm nay của tôi là hoàn thành tiểu thuyết đang dang dở. Phong thành làm thay đổi tâm trạng của con người, nhìn thấy cuộc sống thê thảm, sự đau thương và phẫn nộ tột cùng của người dân Vũ Hán. Không biết là khi dịch bệnh kết thúc, họ có phải chết một cách oan uổng không? Tôi rất lo những người còn sống, vì lợi ích trước mắt mà hoàn toàn lờ đi việc những người chết đã ra đi như thế nào.

Thời gian đó bà có lo sợ mình bị nhiễm bệnh không?

- Tôi không có gì lo sợ lắm. Vì tôi ở ngoại ô thời gian dài, sau khi điểm lại những chỗ mình đi, những người từng gặp, tính toán thời gian thì thấy khả năng lây nhiễm không cao. Nhưng cũng không thể loại trừ. Tôi cứ mỗi ngày lại đếm giảm đi 1 ngày, đến sau tết thì cơ bản đã loại trừ khả năng lây nhiễm của mình. Nhưng quá trình đó thật ra nghĩ kỹ lại cũng vô cùng buồn rầu.

Thời kỳ dịch bệnh bùng phát, tâm trạng người dân Vũ Hán cứ như ngồi tàu lượn siêu tốc, lúc đau khổ, cảm động, lúc phẫn nộ và hoảng sợ. Trong quá trình đó, việc khiến bà đau khổ nhất, phẫn nộ nhất và cảm động nhất là gì?

- Việc đau khổ nhất chính là cái chết. Cái chết của người quen, của bạn học; rất đau khi biết tin mọi người bất lực cầu cứu để được cứu chữa. Đau nhất là cái chết của cả gia đình đạo diễn Thường Khải. Phẫn nộ nhất là việc bỏ lỡ mười mấy hai mươi ngày trong thời gian đầu dịch bệnh bùng phát, dẫn đến sự hỗn độn nghiêm trọng ở giai đoạn sau, đó chính là tai họa do con người gây ra. Cảm động nhất là tấm lòng nhân ái không sợ hiểm nguy của đội ngũ y bác sĩ; sự kiềm chế của người dân Vũ Hán và tình cảm sâu nặng của họ đối với bác sĩ Lý Văn Lượng (1).

Nhật ký của bà trở thành cánh cửa để mọi người tìm hiểu về dịch bệnh ở Vũ Hán. Có những người không sống ở Vũ Hán nói mỗi sáng thức dậy, việc đầu tiên là đọc nhật ký của bà, bà có cảm thấy bất ngờ không? Theo bà thì tại sao nhật ký lại gây sốt như vậy?

- Không chỉ bất ngờ bình thường đâu, mà tôi hoàn toàn chưa từng nghĩ đến. Tôi không hề biết tại sao lại như vậy, việc tôi viết linh tinh trên Weibo không phải chuyện mới đây, do đó việc được chú ý khiến tôi vô cùng kinh ngạc. Tôi không xem Weibo của người khác, nên không biết giữa tôi và họ có gì khác nhau.

Nguyên do gì bà bắt đầu viết nhật ký? Tâm trạng của bà khi viết như thế nào?

- Cũng không có nguyên do gì, chỉ là do vị chủ biên tạp chí Thu Hoạch đặt hàng. Lúc đó tâm trạng tôi không được tốt, cũng chưa muốn viết, sau lại nghĩ ghi chép lại một số việc cũng hay. Trước đó chỉ là tùy tiện viết lúc nào cũng được vì Weibo cũng không có hạn chế, nên rất tiện lợi. Sau đó tôi sử dụng tài khoản WeChat của bạn để đăng tải. WeChat quy định mỗi ngày chỉ có thể đăng 1 bài, sau 12 giờ đêm mới có thể đăng, nên tôi đổi sang viết vào ban đêm. Với lại lúc đó có rất nhiều tư liệu.

Rất nhiều người xem nhật ký của bà như nhật ký thời chiến, có nhắc đến thông tin liên quan về tình hình dịch bệnh, tuyến đầu phòng chống dịch, rất nhiều thông tin đến từ bạn bè, người thân. Không đi đến tuyến đầu phòng chống dịch, bà làm sao sàng lọc và lựa chọn thông tin để đưa vào nhật ký? Tiêu chuẩn lựa chọn tư liệu của bà là gì?

- Đây không phải nhật ký thời chiến, xác định như vậy là không đúng, đây chỉ là nhật ký của nạn nhân. Tôi cũng là một trong những nạn nhân ở Vũ Hán. Tôi không có tiêu chuẩn gì, chỉ là nghĩ đến đâu viết đến đó. Tư liệu thì đầy rẫy, trên mạng, mỗi ngày đều có người kể về câu chuyện xung quanh mình.

Đương nhiên những vấn đề chuyên môn tôi sẽ hỏi bác sĩ. Loại hình ghi chép cá nhân quan trọng là cảm xúc và cách nhìn cá nhân, khác hoàn toàn với đưa tin của phóng viên. Với lại, nó không có nhiệm vụ nào hết, không có trách nhiệm hay phải hoàn thành yêu cầu cấp trên, do đó rất tùy ý. Cuộc sống vốn là những câu chuyện nhỏ nhặt, đó là những điều không tránh khỏi của nhật ký cá nhân. Thông tin không kiểm chứng cẩn thận cũng khó tránh khỏi, nhưng không nhiều. Ví dụ như mái nhà Bệnh viện Lôi Thần Sơn bị gió thổi tốc mái, tôi viết thành Bệnh viện Hỏa Thần Sơn, đó là sai tên, nhưng nội dung vấn đề vẫn không sai.

Có người cho rằng bà là người phê bình, có người cho rằng bà là người biện hộ, bà lựa chọn và cảm nhận thế nào về vai trò của mình?

- Ghi chép cá nhân chỉ là ghi chép dạng nhật ký, không có gì to tát. Tôi luôn nhấn mạnh phải thực sự cầu thị, đáng phê phán thì phê phán, đáng biện hộ thì biện hộ, tôi đâu cần phải lấy lòng ai đó. Cứ xem nó như ghi chép trong tâm dịch của một người bình thường là được.

Tác giả Nhật ký Vũ Hán: Những tổn thương tâm lý còn ở lại rất lâu...
Công nhân ăn trưa trong một nhà máy ở Vũ Hán vừa mở cửa trở lại. Ảnh: Getty Images

Trong nhật ký của bà có phê bình một số sai sót trong thời gian đầu chống dịch, bà không sợ sẽ khiến các cơ quan liên quan không vui sao? Ngoài ra, bà cũng nhắc đến việc quan chức không dễ dàng gì, có cư dân mạng cho rằng bà đang biện hộ cho quan chức, bà nhận xét gì về những chỉ trích này? Bà là người từng làm trong biên chế, có rất nhiều bạn làm quan, trong thời gian này những người bạn đó có thổ lộ gì với bà không?

- Họ không vui liên quan gì đến tôi? Tôi bị nhốt trong nhà từng ấy ngày, 9 triệu người dân Vũ Hán không được ra khỏi nhà, 5 triệu người dân Vũ Hán không được về nhà, còn biết bao nhiêu bá tánh đang phải chịu khổ, những cơ quan liên quan có nên suy nghĩ về vấn đề người dân có vui hay không?

Có một số cư dân mạng chỉ trích quan chức chỉ vì những chuyện vặt vãnh như phát âm sai, hoặc vì cái nón của thị trưởng, tôi cảm thấy đó chỉ là những chuyện cỏn con. Đang trong lúc tập trung toàn lực để chống dịch, những chuyện đó có thể bỏ qua không truy cứu. Nhưng chúng ta nhất định phải truy cứu những chuyện lớn, đó chính là khi người dân đang chịu khổ như vậy, quan chức đã làm tốt công việc an dân chưa?

Chưa kể lúc đó tình hình Vũ Hán đang căng thẳng như thế nào, người ngoài không hề biết. Trong thời kỳ dịch bệnh, chỉ có quan chức làm việc, sai sót nhỏ thì thôi bỏ qua, đó là quan điểm của tôi. Không có quan chức nào đến thổ lộ với tôi, dù tôi là người trong biên chế nhưng không phải làm quan, cũng không qua lại nhiều với quan chức, dù thân với rất nhiều người.

Nhật ký gây sốt cũng đem đến không ít phiền phức cho bà, bà làm thế nào đối phó với những quan tâm và phiền phức đó?

- Chẳng phải là những lời khó nghe của phần tử cực tả sao? Hầu như tất cả phần tử cực tả đều ló dạng. Nhưng chẳng để làm gì. Trình độ của họ quá kém, chỉ cần không vi phạm pháp luật rõ ràng như tung tin đồn, cơ bản là chẳng đáng quan tâm, để mặc họ tự sướng. Với lại, trong số họ có những người viết bài “ném đá” cũng chỉ vì tiền thưởng, họ đang kiếm tiền vì đó là nghề của họ, tôi càu nhàu họ làm gì? Làm gì thì làm, cũng không nên đạp đổ chén cơm của người khác.

Sáng tác trong tâm dịch có khác gì với những lần sáng tác trước đây của bà không? Nhật ký có bao nhiêu phần trăm là ghi chép của người trong cuộc, bao nhiêu phần trăm là sáng tác của nhà văn?

- Vừa là người trong cuộc vừa là người mắt thấy tai nghe. Tôi cũng là 1 trong 9 triệu người Vũ Hán bị nhốt trong nhà, đó là sự thật không thể chối cãi. Tuy tôi không thể ra ngoài, nhưng Internet đã cho tôi điều kiện để tìm hiểu những gì xảy ra ở Vũ Hán, đó chính là thông tin trên điện thoại, clip và các loại thông tin. Ngoài những thông tin, clip của phóng viên và thông tin trên mạng xã hội của người dân, tôi còn rất nhiều bạn học, hàng xóm, bạn bè, người quen, đồng nghiệp. Họ và tôi đều là những người trong cuộc tận mắt chứng kiến mọi thứ. Khi trò chuyện với tôi, họ kể tôi nghe rất nhiều câu chuyện, có những chuyện xảy ra với chính gia đình họ.

Trong nhật ký, bà có nhắn nhủ đồng nghiệp Hồ Bắc rằng: “Nếu có nịnh nọt, xin hãy có chừng mực”. Bà suy nghĩ thế nào về hiện tượng một số trí thức chỉ biết khen ngợi, ca tụng mỗi khi xảy ra tai họa?

- Ôi, thói nịnh hót đâu phải giờ mới thấy? Mỗi khi thảm họa ập đến lại nhan nhản những bài thơ văn ca ngợi. Khi tôi nói những lời đó, Vũ Hán đang rất đáng thương tội nghiệp, trong lòng tôi lúc đó đầy sự phẫn nộ. Thực tế ngoài tôi ra, còn rất nhiều người Vũ Hán đang ghi chép, trí thức cũng có nhiều người đang ghi chép. Trong nhà tôi đều theo ngành khoa học tự nhiên, không quan tâm chính trị, rất dát gan, đều là những người thật thà nghiên cứu. Vì tôi làm ngành này, cứ nghĩ đến có người a dua nịnh hót thì cảm thấy cần phải nhắc nhở họ. Vũ Hán trải qua thảm họa trầm trọng, có thể có một số người không hiểu, vẫn còn ca ngợi loạn cả lên, vì vậy lúc đó mới nhắn nhủ thế.

Bà viết trong nhật ký: “Một hạt cát của thời đại, rơi xuống đầu của người dân, đều là một ngọn núi, vậy mà chúng ta đang ở trong thời đại bụi bay mịt mù”. Bà cho rằng trí thức có trách nhiệm gì khi đất nước gặp tai vạ?

- Chẳng lẽ trước thảm kịch lớn của người dân và đất nước, chỉ có trí thức mới phải gánh vác? Đúng ra tất cả mọi người đều phải chung tay gánh vác. Nhưng có gánh vác được không, gánh vác như thế nào thì tùy thuộc vào lựa chọn cá nhân, cũng tùy vào năng lực 
cá nhân.

Theo bà, dịch bệnh lần này có ảnh hưởng gì đến tâm lý người dân Vũ Hán? Khi dịch bệnh qua đi, người dân cần làm gì để xoa dịu tâm lý?

- Những tổn thương mà người dân Vũ Hán phải hứng chịu là rất lớn. Những người đã qua đời, họ kêu trời trời không thấu, kêu đất đất không linh để mong được chữa trị, tôi tin họ đã tuyệt vọng đến cùng cực. Người mất thì đã mất, nhưng người nhà vẫn còn đó, họ đã cùng trải qua những thời khắc đau thương.

Bỏ qua những người chịu nhiều tổn thương nhất, chỉ riêng Vũ Hán đã có 9 triệu dân bó gối trong nhà hơn 60 ngày, đó là sự tổn thương nội tâm như sự buồn bực, ức chế, ấm ức. Khi gỡ bỏ lệnh phong thành, có lẽ còn có những cảm xúc phức tạp, các loại di chứng sẽ xuất hiện. Ví dụ như trẻ con có dám ra đường không, người lớn có dám nói chuyện với nhau ở cự ly gần không… Nỗi sợ hãi về dịch bệnh sẽ còn tồn tại rất lâu. ■

 

Cảnh Chánh chuyển ngữ từ bản tiếng Trung.

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 12.04.2020.

(1) Một bác sĩ nhãn khoa công tác tại Bệnh viện Trung ương Vũ Hán, một trong những người đầu tiên lên tiếng cảnh báo sớm về SARS-CoV-2 và qua đời vì nhiễm virus này. Anh được tôn vinh như một anh hùng.

(Thethaovanhoa.vn) - Có lẽ dư âm của tọa đàm Tiếng Kiều đồng vọng: Một mơ tưởng nguyên tố do nhà nghiên cứu Nhật Chiêu trình bày mới đây tại Đại học KHXH&NV (12 Đinh Tiên Hoàng, quận 1, TP.HCM) sẽ còn vang vọng dài lâu trong giới học thuật. Từ Hà Nội vào tham dự, PGS-TS Ngô Văn Giá cho biết buổi tọa đàm đã mang lại những kết quả mới mẻ, thú vị.

Buổi tọa đàm có sự tham dự của nhiều chuyên gia văn học, nhiều giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên… đến từ các trường đại học.

Nước - một yếu tính của “Truyện Kiều”

Trong văn minh lúa nước, văn hóa và ca dao Việt Nam, nước là một hình ảnh xuyên suốt, chất chứa tinh thần và triết lý sống, cách ứng phó với thiên nhiên, cách đối phó với ngoại xâm, chống sự đồng hóa. Điều này đi vào Truyện Kiều rất tự nhiên, rất tinh tế, chuyên chở được hầu hết các triết lý của Nguyễn Du về thế giới quan, về trăm năm, về tài mệnh, về chữ tâm… Nhật Chiêu dùng mơ tưởng của nước để tương chiếu vào hành trình của Thúy Kiều, từ gặp mộ Đạm Tiên, gặp Kim Trọng, gặp sông Tiền Đường, vào am tu, cho tới hồi gia, đoàn viên…

Trong 4 “nguyên tố gốc” theo quan niệm của triết gia Gaston Bachelard (1884-1962) là đất, khí, lửa và nước, do thời lượng buổi tọa đàm, Nhật Chiêu dành nhiều quan tâm đến trí tưởng tượng vật chất của nước (l'imagination matérielle de l'eau) khi tương chiếu với Truyện Kiều. Tất nhiên, ông cũng đưa ra các thí dụ để thấy rằng trong nhân vật Thúy Kiều có tất cả các nguyên tố vừa nêu. Quan hệ Kiều với Kim Trọng mang tính nước, chảy, động; quan hệ Kiều với Thúc Sinh mang tính chất của đất, thực tiễn; quan hệ Kiều với Từ Hải mang tính chất của gió, gắn liền với gươm đao; quan hệ Kiều với Giác Duyên mang tính lửa, vì lửa là đuốc tuệ...

Gaston Bachelard cho rằng nước là một phức cảm văn hóa (le complexe de culture), Nhật Chiêu thì cho rằng lục bát chính là nước. Đây là thể thơ hiếm hoi thời trung đại mà chỉ một cặp 6/8 cũng đủ đầy, mà mấy ngàn câu như Truyện Kiều cũng đủ đầy, rất uyển chuyển. “Điều tuyệt vời của lục bát là người sáng tạo có thể viết thêm mà không sợ thừa hoặc sai luật như nhiều thể thơ khác trên thế giới thời trung đại. Chính vì vậy mà lục bát tự do như nước, chan hòa và dễ sống chung, chính điều này làm nên sức mạnh và vẻ đẹp” - Nhật Chiêu nói.

20200701

Nhật Chiêu tại tọa đàm “Tiếng Kiều đồng vọng: Một mơ tưởng nguyên tố”. Ảnh: Lưu Phương

Sau buổi tọa đàm, lý giải về sự mới mẻ và thú vị như đã nhận định, nhà phê bình văn học Văn Giá cho biết: “Ông Nhật Chiêu sử dụng các “nguyên tố gốc” như đất, nước, lửa và gió để giải mã văn học; phối hợp với cái nhìn Kinh dịch và cả bói bài Tarot. Tiếp cận như vậy vừa mang tính khoa học, vừa mang tính trực giác, mộng tưởng. Ông lân la, trầm tư vào Kiều, sống thực với Kiều, tức là với văn hóa và tiếng mẹ đẻ; không bị nhốt chặt trong trí năng, duy lý, phát huy được cái ngộ năng, trực giác, nghệ sĩ của nhà nghiên cứu. Đây là một cách đọc Kiều mới, khác những cách đọc khác đã và đang có, làm giàu cho ngành Kiều học hiện nay. Tôi mong nhà nghiên cứu Nhật Chiêu công bố chuyên luận này, sẽ có ích cho khoa học về văn học hiện nay”.

Đọc thơ như thơ

“Đọc thơ thì phải đọc bằng chính nguyên tố thơ ca, chứ đừng đọc bằng các nguyên tố ngoại cảnh khác” - nghe Nhật Chiêu nói, cả khán phòng cười to. Họ cười không phải vì không nắm được ý của câu này, mà vì lâu nay trong phê bình và bình giảng thơ ca, chúng ta đã gán ghép quá nhiều chức năng cho thơ, mà dường như quên đi vẻ đẹp của thơ.

Nhật Chiêu nói rằng ông chia sẻ với Gaston Bachelard về ý chí cái đẹp (la volonté de beau), về khái niệm phiếm mỹ luận (pancalisme) - nếu biết nhìn thì ở đâu cũng đẹp. Nguyễn Du nhìn mọi thứ bằng cái đẹp, ngay cả nhìn bi kịch cũng bằng còn mắt của cái đẹp. Đời Kiều dù lưu lạc, bị vùi dập, nhưng “trăm dơ lấy nước làm sạch”, vẻ đẹp của Kiều cũng không mất đi. “Kiều rằng: Những đấng tài hoa/ Thác là thể phách, còn là tinh anh”. Còn nếu không biết nhìn, cứ khư khư đọc như là một cuộc đấu tranh chống phong kiến, thì Truyện Kiều sẽ bị thuyên giảm giá trị đi rất nhiều lần.

Chú thích ảnhThomas L. Cooksey xếp "Truyện Kiều" vào 10 kiệt tác văn chương phi Tây phương

Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn sách Masterpieces Of Non-Western World Literature (tạm dịch: Kiệt tác văn chương phi Tây phương), Thomas L. Cooksey đã xếp Truyện Kiều ngang hàng với sử thi Mahabharata, với Truyện Genji, với Gita Govinda, với Tây du ký, với The Conference Of The Birds… Nhìn vào danh sách 9 kiệt tác còn lại, chúng ta có thể thấy Thomas L. Cooksey phải đủ cân nhắc và thuyết phục khi chọn Truyện Kiều.

Đã có một số ý kiến cho rằng Truyện Kiều chỉ là bản dịch Kim Vân Kiều truyện, điều ấy quả là ấu trĩ. Có lẽ chính những người như Thomas L. Cooksey đã đọc Truyện Kiều như Truyện Kiều, nhận ra được vẻ đẹp toàn bích nên mới xếp vào sách, còn viết thô cứng như Kim Vân Kiều truyện thì chắc không bao giờ” - Nhật Chiêu nói.

Nhật Chiêu mở đầu cho salon văn học

PGS-TS Lê Quang Trường (Trưởng khoa Khoa Văn học, Đại học KHXH&NV) cho biết: “200 năm trước, Nguyễn Du mất trong một đại dịch lớn (1820), 200 năm sau, cũng trong đại dịch mang tính toàn cầu (Covid-19), khắp nơi lại bàn về Truyện Kiều, bàn về thiên tài Nguyễn Du.

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã dùng một cách tiếp cận mới, một lý thuyết mới so với các nhà nghiên cứu trước và với chính ông. Cách tiếp cận ấy là kết quả của một tình yêu Truyện Kiều, yêu tiếng Việt và yêu sự đọc văn chương. Với những buổi nói chuyện như thế, bao giờ ông cũng khơi gợi nơi người tiếp nhận những ý tưởng mới, những nguồn cảm hứng mới và chính ông cũng nảy sinh những vấn đề mới, để chắc chắn rằng sẽ có những buổi nói chuyện tiếp theo.

Từ buổi tọa đàm của Nhật Chiêu, Khoa Văn học sẽ tiếp tục tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề với các diễn giả khác nhau trong chương trình mang tính định kỳ như một salon văn học. Ở đó có thể trao đổi, thảo luận, tiếp nhận và sáng tạo. Hy vọng, tương lai gần, chính chúng ta sẽ có lý luận riêng, lý thuyết riêng trong nghiên cứu văn học Việt Nam nói riêng, phương Đông nói chung, để từ đó gợi ý tiếp cận các lý thuyết sẵn có của phương Tây và phương Đông với tâm thế khác, con mắt khác”.

Văn Bảy
Nguồn: Thể thao và Văn hóa, ngày 01.7.2020.

20200406 2

Bản in Stopping by Woods on a Snowy Evening - Robert Frost - Nxb Scholastic (1978)

Vào một buổi sáng mùa hè năm 1922, sau một đêm thức trắng làm thơ, Robert Frost bước ra trước hiên nhà, ngước nhìn cảnh mặt trời mọc trên bầu trời vùng đồng quê Shaftsbury phía đông bắc nước Mĩ. Chính trong thời khắc ấy, theo lời Frost kể lại, chẳng hiểu vì đâu những ảo ảnh về một vị khách lãng du trên lưng ngựa trong buổi chiều u ám tuyết trắng lại đột ngột tràn về, và một bài thơ bốn khổ bật lên, vang đi trong tâm trí ông. Tên bài thơ là Dừng bước bên rừng chiều tuyết dày (Stopping by Woods on a Snowy Evening). Bốn dòng mở đầu bài thơ Là của ai đây, cánh rừng này, tôi biết/ Nhưng nhà anh nằm khuất ở trong làng/ Anh hẳn sẽ không thấy tôi dừng lại/ Ngắm cảnh rừng tràn tuyết trắng bay giản dị, nhẹ, nhưng mở ra một không gian sâu thẳm, trầm lắng và u uất: một lữ khách có công việc cần đi gấp, chợt dừng lại giữa đường, say sưa ngắm cảnh rừng chiều chìm trong gió lạnh, tuyết trắng và bóng tối.

Với nhiều người, có thể vị lữ khách trong bài thơ của Frost mộng mơ, viển vông và kì lạ quá. Công việc đang cần kíp, đêm đang sập xuống, lạnh giá và cô độc, vậy mà anh dừng lại, giữa đường, chỉ để nhìn một rừng tuyết khô gầy, chẳng có gì đặc biệt ngoài cái mênh mông ảm đạm. Nhưng chẳng phải chỉ những độc giả ấy mới thấy chuyện này lạ lùng, mà mỉa mai thay, chính người lãng du kia cũng tự nhận rằng lựa chọn của mình phi lí và kì lạ. Bằng chứng là thay vì tập trung chiêm ngưỡng cái bao la bí ẩn của rừng, anh cứ thấy lòng mình cuộn lên những ưu tư: nào là lo sợ bị người chủ khu rừng bắt gặp, nào là băn khoăn không biết con ngựa nhỏ có khó chịu bất tuân trước quyết định kì quặc của mình. Để rồi, rất nhanh, những lời hẹn giục anh phải lên đường, còn cánh rừng tuyết thì hình như cũng dần khép lại, lùi mãi vào trong một cõi lãng quên thăm thẳm.

Câu chuyện về người lữ khách trong bài thơ của Frost, ẩn đằng sau dáng vẻ khói sương mơ hồ của nó, theo tôi, có khả năng gợi nên nhiều suy tư nhức nhối và ám ảnh. Vì lí do gì và từ khi nào mà nhiều người trong số chúng ta, cũng như anh chàng trong bài thơ ấy, bắt đầu cảm thấy việc ngừng lại bên rừng một mình, nhìn ngắm những cành lá úa khô ngập trong tuyết trắng là kì lạ? Từ khi nào chúng ta bắt đầu quen với việc quay lưng lại với những sự vật quanh mình, những rừng đồi, cỏ cây, những hạt bụi, cái bàn, giọt sương, căn nhà, hòn sỏi? Từ lúc nào khi đứng trước một rừng tuyết trắng xóa, người ta không còn có thể hồn nhiên, say sưa nhìn ngắm, dù là trong vài phút ngắn ngủi, cái cảnh tượng huyền diệu huy hoàng của nó như một đứa trẻ, mà trong tâm trí chỉ còn mù mịt những dùng dằng bất quyết, những trăn trở, những ưu tư vị kỉ đến nỗi đôi khi lãng quên một vũ trụ vĩnh hằng, bí ẩn và thẳm sâu của các sự vật?

Có một điều không khó để nhận ra, rằng xuất hiện thường trực trong di sản văn chương nhân loại suốt hàng thế kỉ qua phần lớn là những điều gắn bó thiết thân với con người, những trăn trở bận lòng về thân phận con người và định mệnh của sự làm người: những yêu đương, nhục cảm, dục vọng, những mất mát, đau thương, cô độc, những hoang mang, sợ hãi và tuyệt vọng, những trái khoáy, phi lí, ngộ nhận, những cuộc cách mạng, chiến tranh, chém giết và chết chóc… Trong không gian ấy, con người đông đúc và áp đảo, ở đâu bóng dáng con người cũng xuất hiện, dù là hiển lộ hay tàng ẩn, dù bé nhỏ, hèn mạt, kiêu hãnh hay khổng lồ, đến nỗi hình như những gì mang tính phi-nhân, nằm bên ngoài con người, xa lạ và bí ẩn với con người, lại rất nhanh chóng bị lãng quên đi, trở thành những thứ bên lề, thừa thãi, thứ yếu, hoặc đôi khi chỉ xuất hiện như những trang sức. Vai trò dựng cảnh, vì thế, rất thường xuyên, đi liền với các sự vật khi chúng xuất hiện trong văn chương của chúng ta: người ta hầu như không cho vật có cơ hội xuất hiện như là chính chúng, thậm chí không quan tâm, không cần biết đến sự tồn tại nhiều chiều, phức tạp và những yếu tính bề sâu của chúng, mà gần như chỉ xem chúng như những yếu tố kiến tạo không gian, những cột mốc định vị cho sự hiện hữu của người.

Cũng có lúc cỏ cây, đồ đạc, cầm thú trở thành những phương tiện chuyên chở: người ta muốn viết về mình, muốn kể về mình, muốn nói lên những suy cảm của mình, nhưng vì một lí do nào đấy lại gán tất tật cho các sự vật, cố nhồi nhét vào trong cái vỏ vật chất hiển lộ của chúng một ý nghĩa, một tâm tưởng. Ở lối viết này, có lẽ Marcel Proust đã đạt đến tầm kinh điển. Trong lời nói đầu cho quyển Chống Sainte-Beuve, ông viết: “Thật ra, cũng giống như linh hồn của những người đã mất trong nhiều truyền thuyết, mỗi giây phút trong đời ta một khi đã trôi qua, nghĩa là đã chết, lại hóa ẩn vào một vật nào đó. Thời gian sẽ bị vật cầm tù mãi mãi, ít ra là cho đến khi chúng ta gặp lại vật đó. Nhờ có vật đó mà chúng ta nhận ra quá khứ, chúng ta gọi tên nó lên, và thế là quá khứ được giải phóng”(1). Cái bánh madelaine, tách trà, khu biệt thự cổ hay một chiếc ô ngày mưa dầm, vì thế, khi xuất hiện trong những tiểu thuyết của Proust, đều chỉ còn là cái vỏ đóng vai trò của những dẫn chất. Proust gần như không quan tâm đến sự tồn hiện thực sự của chúng. Cái ông quan tâm là khi các giác quan của người ta phóng ra ngoại giới, tiếp xúc với các vật, thì điều diễn ra trong tâm trí họ là sự trỗi dậy của những hoài niệm ẩn ức gì, những xao động nội tại nào.

Khác với Marcel Proust, Jean-Paul Sartre chú ý nhiều hơn đến hiện hữu của các vật. Trong những trang viết của ông, sự vật thường xuyên trở thành tiêu điểm, từ cái rễ cây xoan tây, những chiếc thắt lưng cho đến cái tay cầm cửa hay những hòn cuội trên bờ biển. Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, Sartre nói nhiều đến các sự vật là để trình hiện nỗi “buồn nôn” của mình trước chúng. Với ông, những sự vật, đồ đạc, cỏ cây chỉ là những hữu thể tự thân (l’être en soi), những tồn tại nhàm chán, trơ lì, vô nghĩa, tồn tại không dự phóng, không có ý hướng tự quy, vươn lên hay tiến triển. Hãy xem cách ông nghĩ về những cái dây treo trên áo anh chàng Adolphe trong Buồn nôn: “Những chiếc dây treo hơi khó nhận ra trên nền áo sơmi xanh da trời, chúng hoàn toàn bị xóa nhòa, bị che lấp trong màu xanh (…). Người ta muốn bảo chúng: Đi đi, hãy trở thành màu tím, và rồi tao sẽ không quan tâm đến mày nữa! Nhưng không, chúng vẫn lửng lơ, vẫn bị gắn chặt vào trong nỗi cố gắng bất thành của mình”(2). Sartre vì thế mà chán ngán, muốn nôn mửa trước vẻ tù đọng, mãi không chút đổi thay nào của sợi dây treo. Ông như cất lên tiếng thán oán, rằng cuộc đời này phi lí biết bao nhiêu khi cho phép những thứ trơ khấc, tẻ nhạt ấy tồn tại! Nhưng khi đưa ra một vũ trụ quan phần nhiều tuyệt vọng như thế, rõ ràng Sartre đang bắt đầu dựng tạo nên một khoảng cách giữa ông với thế giới u huyền của các sự vật: ông khăng khăng quả quyết về sự lầm lì, vô tri, bất tất của sợi dây treo màu hoa đậu biếc, và từ đó dè bỉu nó, khinh khi nó, buồn nôn trước nó mà gần như không hề lưu tâm rằng đấy rất có thể chỉ là một khía cạnh, một trắc diện đơn lẻ bé nhỏ trong sự tồn tại của nó vốn đa phức và khổng lồ mà rõ ràng, những giới hạn của tri giác khiến chúng ta, dù có là những bộ óc vĩ đại nhất cũng khó mà thấu suốt được.

Thực vậy, khi nhìn thấy một bụi cây dại bên đường hay một ngọn đèn vàng vọt trên đại lộ, làm sao ta biết chúng đang làm gì, nghĩ suy gì hay cảm thấy thế nào. Lí do đơn giản nằm ở chỗ, rằng ta là con người chứ không phải là ngọn đèn hay bụi cây kia, và việc ta nhìn thấy chúng “vô tri”, “bất động” hay “ù lì” thực ra cũng chỉ là những giá trị do ta tự kiến tạo, tự hình dung ra dưới cặp mắt chủ kiến của mình và rồi gán áp lên các vật, chứ những sự vật ấy có lẽ cũng đang bận rộn với những “đời sống”, những “thế giới” của riêng chúng, chẳng quan tâm gì đến những bình phẩm hay quan niệm của ta đâu. Trong thế giới ấy, nhiều khi công cụ giao tiếp không phải là ngôn từ, cử chỉ hay bất cứ điều gì mà ta biết, và các động thái như suy nghĩ hay cảm giác của loài người là hoàn toàn xa lạ với chúng. Chúng có lẽ cũng không quan tâm đến những xúc cảm vui, buồn, đau thương hay hạnh phúc của người đời. Chúng có những “lẽ sống” của riêng mình, những lẽ sống khó hiểu và sâu xa đến nỗi theo tôi, nhân loại chúng ta, dù có phát triển đến đâu chăng nữa, cũng khó mà tìm biết được.

Điều này, từ hơn hai ngàn năm trước, Trang Tử đã ít nhiều đề cập đến, trong những dòng huyền nhiệm của Nam Hoa Kinh, nhất là trong những thiên “Tiêu dao du” và “Tề vật luận”. Nhiều bài thơ haiku Nhật cũng có cách tiếp cận tương tự đối với thế giới của các sự vật. Yêu cầu khắt khe của thể thơ này trong việc tinh giản số lượng câu chữ đến mức tuyệt đối khiến những tính từ, cảm thán từ… gần như không còn “đất” xuất hiện. Toàn bài haiku, vì thế, nhiều khi chỉ còn là một cuộc gọi tên những sự vật, ví như bài thơ kinh điển sau đây của Basho: Cành khô/ quạ đậu/ chiều thu. Nhưng có lẽ đó mới chính là lúc con người ta bắt đầu thực sự chạm được đến chúng, giao tiếp được cùng chúng chứ không còn bị những ảo tượng chủ quan, những đôi mắt thiên kiến bao lấy, ám ảnh. Trong những thời khắc ấy, mỗi lần một tên gọi vang lên là một cuộc tương giao linh thánh giữa ta và vật xuất hiện, và chúng trôi chảy bình lặng trong nguyên lí của không.

Từ khoảng những năm 50 của thế kỉ trước, khi đi vào xây dựng một lối tiểu thuyết “đồ vật chủ nghĩa”, các nhà văn thuộc phong trào Tân tiểu thuyết có lẽ cũng chia sẻ một phần nào đó những quan niệm trên đây về sự vật. Trong nhiều tiểu thuyết của Alain Robbe-Grillet, xuất hiện một cách liên tiếp và trội bật là những dòng mô tả thuần túy các sự vật, đến nỗi nhiều độc giả, sau khi đọc xong một mạch cũng không biết thực sự tác giả đang kể câu chuyện gì hay muốn đưa đến cho người đọc những sự thật nào, những tư tưởng, suy niệm gì. Nhưng có lẽ đó mới chính là ý đồ của Robbe-Grillet. Ông hình như muốn tiến đến một lối giảm trừ (reduktion) theo tinh thần của triết học hiện tượng luận, trong đó chủ thể tri giác không đưa ra những diễn giải hay suy luận của mình về đối tượng, mà chỉ mô tả chúng theo đúng những gì mình truy nhận được từ ngoại giới. Lựa chọn này một mặt giúp các nhà Tân tiểu thuyết tạo nên một cuộc chơi của nghĩa, trong đó người đọc phải tham gia vào truy tìm xem cái thế giới đồ vật hiển hiện lên mặt chữ ấy đã được nhìn ngắm bởi ai, những ánh mắt nào, những hồi tưởng kí ức gì. Nhưng mặt khác, cách tiếp cận ngoại giới theo kiểu này cũng nhấn mạnh cho ta một sự thực khó phủ nhận, rằng thế giới của các vật thì phong nhiêu, sâu thẳm, trong đó những điều được mô tả chỉ là những hiện tượng trong đối sánh với cái siêu việt tính của chúng vốn khó hiểu và mờ đục. Chính từ đây, các nhà Tân tiểu thuyết, nói như Roland Barthes, tiến đến “tẩy sạch đồ vật khỏi những ý nghĩa vô cớ mà con người áp đặt cho chúng”(3).

Tuy vậy, trên thực tế, không phải lúc nào, ở đâu và không phải ai cũng ý thức thật rõ về những điều này. Nhiều người viết hôm nay, cũng như vị lữ khách trong bài Dừng bước bên rừng chiều tuyết dày của Robert Frost, đã đôi lần nhận ra cái vẻ đẹp huyền nhiệm của rừng - một ẩn dụ cho sự chằng chéo, phức tạp và bí ẩn của thế giới, và họ muốn bước vào, muốn hòa nhập, muốn thực hiện những tương giao, nhưng rồi điều này điều nọ giữ họ lại mãi ở phía bìa rừng, thậm chí cuốn kéo họ đi, rất nhanh, về phía những suy niệm được cho là nhân bản hơn - và vì thế, có “giá trị” hơn. Nghĩ về con người, về chính chúng ta quả tình không có gì đáng phàn nàn. Nhưng điều đó, theo tôi, có lẽ mãi mãi là chưa đủ

N.Đ.M.K

 

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 03.04.2020.

--------

1. Marcel Proust, “Lời nói đầu Chống Sainte-Beuve”, Phương Ngọc dịch, in trong Quan niệm văn chương Pháp thế kỉ XX, Lộc Phương Thủy (chủ biên), Nxb Văn học, 2005, tr.39-40.

2. Jean-Paul Sartre, Buồn nôn, Phùng Thăng dịch, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2008, tr.53.

3. Roland Barthes, “Tựa” Những tiểu thuyết của Robbe-Grillet của Bruce Morrissette, Từ Huy dịch, Nxb Đại học Sư phạm, 2018, tr.9.

 

20200627 2

Tác phẩm “Vầng trăng ai xẻ làm đôi” - họa sĩ Nguyễn Tường Lân.

Trong Truyện Kiều, có ba người đàn ông được Thúy Kiều yêu. Chuyện đơn giản vậy thôi mà mãi nửa sau thế kỷ 20 mới cơ bản được người đời thừa nhận. Cả một thế kỷ nay, dường như người ta đều thống nhất đánh giá về Thúy Kiều Kim Trọng và Thúy Kiều Từ Hải. Cả hai quan hệ đó ít nhiều được lý tưởng hóa và lối phô diễn của Nguyễn Du về họ đều chịu ảnh hưởng sâu nặng bởi văn chương ước lệ và trên những mức độ khác nhau, có vẻ đều được kết thúc có hậu hoặc chí ít cũng được hưởng luật bù trừ. Họ chỉ bị hiểu lầm hồi cuối thế kỷ 19 đầu 20, bởi các bậc đại nho. Các cụ coi Truyện Kiều là sách tà dâm. Vì thế không coi Kiều ra gì nên cũng phủ nhận luôn Kim Trọng, Từ Hải. Tham tri Bộ Hình Nguyễn Công Trứ sinh năm 1778, có lúc bị truất làm lính thú. Cụ Trứ rất mê hát ả đào nên viết một bài ca trù Vịnh Thúy Kiều trong đó coi Kiều chỉ là cánh hoa tàn đem bán lại thanh lâu, đặt Từ Hải chỉ như khách làng chơi –Ngang bằng với Mã Giám Sinh. Rủa Kiều đoạn trường cho đáng kiếp tà dâm và rút ra kết luận: Nghĩ đời mà ngán cho đời. Cụ nghè Ngô Đức Kế, sinh sau Nguyễn Công Trứ đúng 100 năm - năm 1887, đã từng bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo tới 13 năm, trong các bài báo như Nền Quốc Văn, Luận về Chánh học và Tà thuyết ... trên báo Hữu Thanh tháng 4 và tháng 9-1924 gọi Thúy Kiều là con đĩ và vì thế chuyện tình Thúy Kiều- Kim Trọng cụ coi là việc bất chính. Kim Trọng và Từ Hải còn bị như thế thì nói gì đến Thúc Kỳ Tâm. Làm gì được các cụ nhắc đến.

Riêng Thúc Sinh thì có khác. Mặc dù đến nửa sau thế kỷ 20 và đầu 21, người ta vẫn đánh giá mối tình Thúy Kiều với chàng Kỳ Tâm họ Thúc này thật là khác nhau.

Thực ra, Nguyễn Du đã có dụng ý từ đầu. Ngay ở phần lý lịch xuất thân cũng đã khác xa với Kim Trọng, Từ Hải. Một người là thiên tài. Một người là hùm thiêng. Chàng Thúc nhà ta thường thôi. Vốn là người huyện Tích, châu Thường. Được học hành đôi chút nên xếp vào nòi thư hương. Có vẻ vẫn theo đòi đèn sách nhưng chưa đỗ đạt cao sang gì. Mới đang thực tập thương trường bằng việc theo cha mở một ngôi hàng ở Lâm Truy. Nguyễn Du đã cố ý giới thiệu chàng như một người thường mà nhờ đó, ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du không bị gò bó bất cứ điều gì để miêu tả cái nhân cách của một người thường đó. Và điều kỳ lạ đã xảy ra. Không phải Kim Trọng hay Từ Hải mà chính là Thúc Sinh được Nguyễn Tiên Điền dành cho ưu ái nhiều nhất. Hiện thực nhất mà cũng sinh động nhất.

Lâu nay Thúc Sinh thường vẫn bị xem thường. Chưa nói đến việc đôi khi bị bỏ qua. Người ta quá chú tâm vào việc phân vai thiện ác, đến Thúy Kiều, Hoạn Thư, Tú Bà đến Kim Trọng, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến v.v. Giáo sư Lê Đình Kỵ trong công trình nổi tiếng của ông - Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du ở chương 1 phần 2 về những con người trong Truyện Kiều, Thúc Sinh không được xếp một phần riêng mà được đề cập đến dưới cái bóng của Hoạn Thư và nhận được kết luận thuộc loại người trung gian. Thúc Sinh muốn được như Kim Trọng, Từ Hải nhưng vì ươn hèn bất lực và vì không có một mối tình chân chính, nên cuối cùng đối với Kiều đã xử sự khi thì như người dưng nước lã, khi thì như một Sở Khanh bất đắc dĩ. Logic của tính cách nhân vật cũng là logic của con đường thứ 3 trong Truyện Kiều (1). Thúc Sinh không được như Kim Trọng và Từ Hải và trong ba người ấy Thúc Sinh là vô nghĩa nhất.

Có nhà nghiên cứu tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa đã chia các nhân vật trong Truyện Kiều thành bốn thế giới: thế giới cao nhân, thế giới quý nhân, thế giới tiện nhân và thế giới mỹ nhân (2). Thế giới cao nhân và tiện nhân thì rõ rồi. Thế giới quý nhân hàm chỉ các gia đình giàu có, dòng dõi, các quan chức, có truyền thống sinh hoạt riêng để từ đó nói là Hoạn Thư thuộc giới quý nhân, điển hình cho gia đình gia giáo. Và bằng chứng là Hoạn Thư chỉ thực  hiện kế sách trả thù của mình khi Hoạn bà đã đồng ý ...?! Rằng hay thì thật là hay nhưng nghe như thế nào ấy. Và Thúc Sinh được đề cập đến ở thế giới quý nhân nhưng không phải là quý nhân mà được xem là người ... ba phải, đa cảm, si tình. Kim Trọng hậu tình hơn. Như thế Thúc Sinh không lọt vào cao nhân, quý nhân mà tiện nhân cũng không phải ? Vậy là một người thường như tôi đã gọi chàng được không? Giữa 4 thế giới nhân vật ấy, Thúc Sinh không phải Sở Khanh, Mã Giám Sinh. Càng không phải ngang cùng một loại với Kim Trọng, Từ Hải ?

Với nhà văn Vũ Hạnh và giáo sư Trần Nho Thìn thì Thúc Sinh đã có vị trí tốt hơn nhiều. Chàng ngang bằng với Kim Trọng, Từ Hải. Theo nhà văn Vũ Hạnh, ba người đàn ông được Kiều yêu bình đẳng và ngang nhau. Họ là ba trạng thái không thể thiếu được của một người tình hoàn toàn. Chân thành của Kim Trọng. Hướng dẫn lý trí của Từ Hải. Bản năng, si mê của Thúc Sinh (3). Giáo sư Trần Nho Thìn dường như đi tiên phong trong cách đọc nhân vật Truyền Kiều theo quan điểm bản thể luận, từ góc nhìn triết luận với hai phạm trù thântâm thuộc bản thể luận của con người để chỉ ra một cách sâu sắc rằng Thúc Sinh có một vị trị đáng kể, rằng thái độ của Nguyễn Du không thể không nói là không trân trọng Thúc Sinh. Nhưng xem chừng giáo sư Trần Nho Thìn có phần nào kìm lại trong giới hạn cho thật phải chăng? Ông cho là có thể có chút hài hước nào đó nhà thơ thể hiện khi viết về Thúc Sinh. Nhưng Nguyễn Du cũng trân trọng chăm chút cho lứa đôi Kiều – Thúc bằng việc không có cuộc chia ly nào lại tả thấm thía như của quan hệ này. Đôi lứa Kiều Thúc cũng được Nguyễn Du giới thiệu trang trọng không thua kém gì Kim Trọng – Thúy Kiều, Từ Hải – Thúy Kiều (4).

Như thế cũng như nhà văn Vũ Hạnh, vị thế Thúc Sinh, suy cho đến cùng và may lắm rồi, cũng chỉ ngang bằng với Từ Hải, Kim Trọng cùng được yêu Thúy Kiều mà thôi.

Thực ra Nguyễn Du giành nhiều ưu ái hơn cả cho Thúc Sinh. Người được tự nhiên nhìn ngắm vẻ đẹp thiên nhiên của Thúy Kiều đương nhiên không phải lũ tiện nhân như Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Bạc Hạnh. Nhưng cũng không phải là Kim Trọng, Từ Hải. Một người thiên tài (chữ của Nguyễn Du) – vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa như Kim Trọng; Một người anh hùng hùm thiêng, cả đến sự xuất hiện cũng được miêu tả như là một sự siêu phàm như Từ Hải bỗng đâu có khách biên đình sang chơi thì làm gì có được tâm trạng cảm phục cái vẻ đẹp thiên nhiên ấy. Để chuẩn bị cho sự hiện diện bức tranh lõa thể ấy, Nguyễn Du đã đặt nó trong một phong cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, có cái gì đó vừa quyến rũ, vừa thấp thỏm và dự báo.

Dưới trăng quyên đã gọi hè

Đầu tường lửa lựu lập lòe đâm bông.

Còn Thúy Kiều nhi nữ  không có một sự e ngại nào cả. Thoải mái và thư thái với bản thân mình và với cả Thúc Sinh. Đó là một buổi thong dong, thang lan rủ bức trướng hồng tẩm hoa. Cảnh và người thật không phải của lầu xanh. Ở đoạn này, có thể Nguyễn Du đã say mê với bản thân mình nữa. Cụ Phạm Quỳnh, hồi năm 1919 có một trước tác về Truyện Kiều viết rằng Trước Truyện Kiều không có sách gì hay bằng Truyện Kiều  mà sau Truyện Kiều không có sách gì hay hơn Truyện Kiều nữa (5). Lời khen này có thể dùng để chỉ hai câu thơ này cũng không đến nỗi phải phân vân.

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà

Dày dày đúc sẵn một tòa thiên nhiên.

Thật là thanh tao đến tận cùng trong miêu tả cái tục. Thúc Sinh được Nguyễn Du cho là người duy nhất được ngắm nghía kỹ càng cái vẻ đẹp thuần khiết đấy. Sinh càng tỏ nét càng khen. Và cũng không đến nỗi nào, khi Nguyễn Du không để Thúc Sinh vốn là con người thường ấy làm một hành vi hay nói ra một điều gì bất nhã. Nguyễn Du vẫn cho con người ấy tỏ ra thuộc nòi thư hương mà ngụ tình tay thảo một thiên luật đường – làm thơ về sự lõa lồ. Nguyễn Du đã không có ác ý với Thúc Sinh mà trái lại. Cái đoạn này chẳng cứ các cụ nhà nho ta cách đây 100 năm lấy làm bằng cớ cho là tà dâm mà ngay cả Thích Nhất Hạnh, trong sách Thả một bè lau – có phụ đề Truyện Kiều dưới cái nhìn thiền quán mãi đến năm 1992 vẫn còn phẫn nộ: Với một cô gái làm nghệ mãi dâm thì không thể dùng những chữ này được. Hơn nữa chắc chắn cô ta có một cái sẹo ở bụng rất lớn mà cụ đã không nói tới. Cô đã tự tử gần chết thì cái sẹo đó phải rất to ... có phải cụ giấu diếm sự thật hay không ... (6) Thưa cụ Thích Nhất Hạnh, có lẽ ít ai nghĩ rằng Nguyễn Du lại đi giấu diếm sự thật. Nguyễn Du chỉ vượt lên giới hạn của thời đại mình, công khai thừa nhận và ca ngợi vẻ đẹp hình thể của con người mà lâu nay người ta không dám thừa nhận nó và tình yêu của con người không chỉ mơ hồ gió trăng mà trong cả dục tình. Thúc Sinh đã được hưởng cái nhìn vượt thời đại đó của Nguyễn Du. Còn chàng Kim phong nhã hào hoa thì không thể được; khi sóng tình dường đã xiêu xiêu, xem ra âu yếm có chiều lả lơi thì Nguyễn Du đã dành tới 22 câu thơ để Kiều thuyết giáo về chữ trinh, về đạo tòng phu ... Mười lăm năm sau đoạn trường gặp lại, lúc đầu thì thật trữ tình động phòng dìu dặt chén mồi nhưng lại bị chặn lại bởi  cái bâng khuâng duyên mới ngậm ngùi tình xưa. Nguyễn Du thiên tài đến mức thật là dài dòng viết ra tới 86 câu thơ cho việc họ gặp lại nhau. Hết chuyện này đến chuyện khác rồi lại gảy đàn cho đến lúc gà đà gáy sáng trời vừa rạng đông để trong trạng thái kết thúc nửa chừng chẳng trong chăn gối cũng ngoài cầm thơ. Nghe nói Garcia Marquez, tác giả của Trăm năm cô đơn đọc đến đoạn này trong bản Kiều tiếng Pháp đã chép miệng bảo: Tiếc thật, chưa đến được ... cái hiện thực huyền ảo lắm. Nhạt ... Thực ra Marquez cũng hiểu Nguyễn Du để diễn biến như thế là hợp lẽ. Không thể khác được. Sau 15 năm ở lầu xanh thiếp từ ngộ biến đến giờ, ong qua bướm lại đã thừa xấu xa thì còn làm gì hay hơn ngoài nói chuyện và mượn tiếng đàn u sầu để trang trải suốt năm cung, tiếng nào cũng não nùng xót xa cả.

Truyền tình giữa Từ Hải với Thúy Kiều Nguyễn Du để không khí trang nghiêm như  buổi thiết triều ở cung đình. Đặt giường thất bảo, vây màn bát tiên đúng như Vũ Hạnh gọi tên cho nó là hướng dẫn lý trí ...

Đáng chú ý nhất, tình cảm của Nguyễn Du giành cho Thúc Sinh hơn là với Kim Trọng – Từ Hải ở những đoạn tả cảnh khi chia tay với Thúy Kiều.

Cảnh chia tay Kim Trọng – Thúy Kiều, sau khi hai người đã hẹn ước thề bồi, Kim Trọng phải về quê nhà vì nỗi nhà tang tóc, nỗi mình xa xôi, Nguyễn Du miêu tả lẻ loi và nhàn nhạt lắm, khi người ra đi buộc yên quẩy gánh vội vàng, phong cảnh buồn mà thấy xa lạ và thưa thớt quá.

Buồn trông phong cảnh quê người

Đầu cành quyên nhặt, cuối trời nhạn thưa.

Cuộc chia tay giữa Kiều với Từ Hải cũng đặt trong sự trang hoàng, oai vệ, nghi lễ. Mới được nửa năm hương lửa đương nồng thì Từ đã động lòng bốn phương nên thanh gươm yên ngựa lên đường đi thẳng – thng dong. Thúy Kiều ở lại trong cảnh buồn rêu phong sân rêu chẳng rẽ dấu giày, cỏ cao hơn thước liễu gầy hơn phân. Với Từ Hải có cái gì thật xa xôi như cánh hồng bay bổng tuyệt vời, đã mòn con mắt phương trời đăm đăm mà Kiều bé nhỏ không với tới được.

Chia tay với Thúc Sinh thì khác hẳn. Phong cảnh và tâm trạng được miêu tả vào loại hay nhất, đằm thắm và say mê nhất của tình yêu lứa đôi. Tràn trề yêu thương. Cũng chỉ mới 6 tháng quen nhau giống như Từ Hải nhưng ở Thúc Sinh là nửa năm hơi tiếng vừa quen, sân ngô cành bích đã chen lá vàng. Mùa thu tuyệt vời đang đến. Thúc Sinh tỏ ra am hiểu lịch lãm tình đời khi sử dụng phép chiến hòa với Tú Bà để đón được Thúy Kiều hoàn lương, làm nên cuộc sống lứa đôi đầm ấm nhất của đời sống Truyện Kiều; không ai có được cả tình lẫn sắc như thế. Bây giờ Thúc Sinh không phải nhìn ngắm như người mới làm quen ngày hoa lựu đỏ lập lòe mới vào hè thủa ấy mà vây hòa mặn nồng yên ấm.

Một nhà sum họp trúc mai

Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông

Hương càng đượm lửa càng nồng

Càng sôi vẻ ngọc càng hồng màu sen

Họ đẹp đôi đến nỗi khi Thúc Ông đưa Kiều và Thúc Sinh ra xét xử trước quan tòa – không phải Hồ Tôn Hiến nhưng mặt vị này cũng mặt sắt đen sì, phải hạ một câu khen thơ Kiều hay như thơ thời thịnh Đường và ông quan mặt sắt đánh giá lại cái người đã bán mình chuộc cha lấy 300 lạng bằng một giá trị khác Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân. Với logic ấy Nguyễn Du chuẩn bị cho Kiều Thúc chia tay thật cổ điển và lãng mạn, đầy nhạc tính.

Sông Tấn một dải xanh xanh

Loi thoi bờ liễu mấy cành Dương quan.

Rồi hiện lên phong cảnh chia tay Kiều Thúc, có lẽ là hay nhất trong Truyện Kiều và cả trong văn học trung đại Việt Nam. Nó làm cho bao nhiêu ý định muốn bình thơ bỗng trở nên không nỡ để ảnh hưởng đến sự toàn bích ấy.

Người lên ngựa kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san

Dặm hồng bụi cuốn chinh an

Trông người đã khuất mấy ngàn dâu xanh

Người về chiếc bóng năm canh

Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường.

Và cái gì đến cũng phải đến. Chỉ có Thúc Sinh mới được chia nửa vầng trăng. Không ai khác.

Trong tình sử Kiều Kim dài đến 15 năm, Trăng đã xuất hiện đến 10 lần. Có phải ít đâu.

Gương Nga chênh chếch dòm song.

Vầng trăng dọi qua cửa sổ.

Vầng trăng khuyết đĩa dầu vơi.

Trăng khuyết dầu vơi là sự thay đổi của thời gian.

Lần lần ngày gió đêm trăng.

Sự ẩn hiện thường tình ngày qua ngày của trăng như gió mà thôi.

Nhặt thưa gương giọi đầu cành.

Ánh trăng đậm nhạt trên đầu cành lá.

Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần

Theo tích dưới bóng trăng tưởng như có người con gái đi đến.

Vầng trăng vằng vặc giữa trời.

Trăng sáng vằng vặc trên trời cao.

Bóng tàu vừa nhạt vẻ ngân.

Bóng tàu lá hiện ra trong khi vầng trăng đã nhạt.

Trăng thề còn đó trơ trơ.

Trăng như lời thề ngày xưa vẫn trơ trơ giữa trời.

Còn vầng trăng bạc còn lời thề xưa.

Lời thề xưa vẫn còn như ánh trăng bạc.

Trăng tàn mà lại thêm tươi.

Trăng đã tàn rồi đang tươi hơn lại.

Thực ra vầng trăng của họ đã khác tự lâu rồi. Khi rơi vào tay Mã Giám Sinh giữa buổi vi lô san sát hơi may, Thúy Kiều đã thấy vầng trăng ấy khác. Thấy trăng mà thẹn những lời non sông. Kim Trọng không phải là người được nhận nửa vầng trăng của Thúy Kiều và của Nguyễn Du.

Thi hào Nguyễn Du giành tới 372 câu thơ trong tổng số 3254 câu thơ để nói về chuyện Từ Hải. Nhưng tiếc thay vầng trăng chỉ xuất hiện một lần, nó cũng không phải một nửa vầng trăng mê đắm hai kẻ si tình đã chia nửa cho nhau. Nguyễn Du viết Lần thâu gió mát trăng thanh. Gió mát trăng thanh thật nhưng chỉ là lần thâu thôi. Lần thâu nghĩa là trăng của hết đêm này đến đêm khác. Một sự tuần tự như phép đếm của thời gian thôi mà.

Chuyện tình duyên Kiều Thúc bắt đầu từ câu 1275 đến câu 2040, khoảng 765 câu. Tức là đến khi Trạc Tuyền Kiều trốn khỏi am thờ ở nhà Hoạn Thư đến gặp vãi Giác Duyên lần đầu. Cũng tới 10 lần trăng xuất hiện. Đủ các cung bậc ánh sáng của tâm trạng và dáng vẻ của trăng. Nào là Trăng sầu, Non đoài ngậm gương, Trăng tủi hoa sầu, Nửa vầng trăng khuyết không phải đĩa dầu hao như Kim Trọng mà là ba sao giữa trời; Nào là Trăng mới in ngần, sân Thu trăng đã vài phen đứng đầu... Đặc biệt nhất Nguyễn Du đã xẻ làm đôi vầng trăng thương nhớ và Thúc Sinh là người duy nhất được nhận nửa vầng trăng ấy. Hình tượng này đẹp đến nỗi trong thi ca hiện đại có người đã mượn lại và mượn rất hay.

Nguyễn Du giành bao ưu ái cho Thúc Sinh Thúy Kiều. Đến nỗi cả câu thơ đẹp nhất của văn học trung đại ông cũng dành bởi cái nhìn Thúc Sinh.

Long lanh đáy nước in trời

Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng

Đôi khi có cảm tưởng bị lôi kéo bởi sự ưu ái đó, Nguyễn Du đã quên đi cả bản thân họ mà làm cho những tâm trạng của họ như là tâm trạng của chính thi hào thoát ra.

Bốn phương mây trắng một màu

Trông vời cố quốc biết đâu là nhà.

Người ta hay nói cái hèn của Thúc Sinh khi thấp cơ thua trí đàn bà. Nguyễn Du thừa nhận điều đó. Nhưng dường như ông cố gắng làm nhẹ bớt đi và trao cho chàng cơ hội được hưởng những lời tốt đẹp mà Kiều cũng sẵn lòng ghi nhận. Sau lời nói có phần nhẫn tâm bảo Kiều liệu mà cao chạy xa bay, ái ân ta có ngần này mà thôi thì lại chẳng biết bao giờ mới nối lại lời non nước và hứa dù sông cạn đá mòn, con tằm có thác vẫn còn vương tơ. Không thể không nói là giảo ngôn. Nhưng quả thực Nguyễn Du đã làm cho Thúc Sinh phần nào đó chung tình trong con mắt Thúy Kiều.

Việc Thúy Kiều báo ân cũng là một điểm nhấn. Trước hết là những lời nói ân tình của Kiều. Nàng chỉ nhắc lại như là một kỷ niệm của ân nghĩa. Rằng Lâm Truy người cũ chàng còn nhớ không? Rằng đó là nghĩa trng nghìn non. Kiều còn ví tình yêu của họ như Sâm Thương chẳng vẹn chữ tòng, tức là như sao Hôm sao Mai chẳng bao giờ gặp nhau nên ai mà dám phụ lòng cố nhân được. Lôgic câu chuyện vì thế, không phải ai khác, trên cả vãi Giác Duyên người đã vớt Kiều trong cơn sóng tử nạn, Thúc Sinh lại là người thứ nhất được báo ân “gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân”. Và quan trọng hơn là cái lý do được nhận t lòng dễ xứng, báo ân gọi là. Nguyễn Du ơi! Còn ai hơn Thúc Sinh được nữa. Ngần ấy gấm và bạc mà còn bảo gọi là thì có quá nhún nhường hay không?

Vậy có phải Thúc Sinh – người duy nhất được nhận nửa vầng trăng ấy là nhân cách sống Nguyễn Du cổ xúy và ca ngợi chăng? – không. Hoàn toàn không. Tuyệt đối không! Nguyễn Du làm như thế bởi vì với tư cách là một thi nhân, tuân thủ nghiêm ngặt phương pháp sáng tác của ông được đặt trên nền tảng của sự ràng buộc bởi chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo. Thúc Sinh không phải là nhân vật được lý tưởng hóa như Kim Trọng, Từ Hải. Thúc không phải là thiên tài. Cũng không phải là hùm thiêng. Như đã nói ở trên, chàng là một người thường. Hành động và suy nghĩ theo quy luật và tâm thế của một người thường. Chuyện tình yêu với Thúy Kiều và thấp cơ thua trí vợ Hoạn Thư là câu chuyện có thật như là có thật ở cuộc đời này. Khi vào thăm Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh hay những khu lăng mộ của các Vua Nguyễn ở Huế thấy chỗ nhốt cung nữ còn sống sát gần lăng sau khi vua đã chết mới hiểu vì sao mơ ước của họ được làm người thường mà khát khao đến thế. Cả tiến trình diễn biến câu chuyện, Thúc Sinh không bị ép làm bất cứ điều gì, những áp lực của lý tưởng hóa. Những người đi theo lý thuyết điển hình hóa nhân vật, xưa nay phân tích thường để tâm đến Thúy Kiều, Tú Bà, Hoạn Thư, Hồ Tôn Hiến v.v… mà đôi khi chưa thật để mắt đến Thúc Sinh. Thúc Sinh trong diện mạo một người bình thường đã là nhân vật sinh động góp phần cho Truyện Kiều trở nên áng văn bất hủ. Trong đời sống tinh thần từ xưa đến nay, không biết đã bao nhiêu lần, người Việt Nam tha thứ cho những Thúc Sinh ở ngoài đời. Nguyễn Du cũng như thế. Bởi vậy ai mà trách ông được khi động đến cái phần ưu ái với Thúc Sinh.

Năm 2011, vào lúc cuối đông, sau khi rời chốn quan trường, tôi cùng vợ vào Tiên Điền, Nghi Xuân viếng Nguyễn Du. Trên đường đi gió bấc thổi rất lạnh phía sau lưng. Lá cây bị gió lật mặt sau lên trắng xóa dọc cung đường thiên lý. Thỉnh thoảng lại gặp những dòng sông lớn. Không hiểu những năm gió bụi Nguyễn Du xuôi ngược từ đất Bắc Hà vào xứ Nghệ có thấy gió thổi thế không? Và ông đã bao nhiêu lần tan vào hoàng hôn lênh láng trên  mặt sóng những dòng sông ấy? Còn tôi cứ ngỡ gió chạy sau lưng mình với đau đáu câu hỏi thiên hạ đã gói hết 3254 câu Kiều suốt hơn 200 năm qua hay chưa? Vào đến Tiên Điền rồi, khi ra bãi biển Thiên Cầm mới hay gió bấc lệch đông không chạy sau lưng khách bộ hành mà từ biển đi vào Nghi Xuân. Gió Bấc chồm lên trên những đợt sóng lớn ào ạt đỗ vào bờ cát Thiên Cầm lạnh giá. Vắng lặng không một bóng người. Nhưng cát ở Thiên Cầm lúc ấy thật vàng và đằm thắm. Thấm thoát thế mà 10 năm đã qua không trở lại. Và 3254 câu Kiều thiên hạ chẳng bao giờ gói hết được đâu ./.

Tháng 3-2020.

Khuất Bình Nguyên 

Bài đã in trong Viết và đọc - Chuyên đề mùa hạ 2020

-------

Chú thích

  1. Lê Đình Kỵ - Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du. NXB Hội nhà văn thành phố HCM -1992- Trang 159.
  2. Lê Nguyên Cẩn – Tiếp cận Truyện Kiều từ góc nhìn văn hóa - Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ 21- NXB Giáo dục -2009- từ trang 349 đến trang 420.
  3. Vũ Hạnh – Trích theo Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ 21 – NXB Giáo dục – 2009 trang 471.
  4. Trần Nho Thìn – Nhân vật Truyện Kiều và vấn đề tiếp cận nhân học văn hóa Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ 21- NXB Giáo dục từ trang 463 đến trang 561.
  5. Phạm Quỳnh – Luận giải văn học và triết học – Nhà xuất bản Văn học- năm 2016- trang 150.
  6. Thích Nhất Hạnh – Bẻ một bè lau – NXB Văn hóa Sài gòn – năm 2007- Trang 139 – 140.
  7. Garcia Marquez (1927 – 2014) nhà văn nổi tiếng Colombia – Tác phẩm Trăm năm cô đơn (Cien ànos de Joledad) – Giải thưởng Nobel văn học 1982.

TTCT - Độc giả của TTCT từng “gặp” nhà văn Diêm Liên Khoa qua cuộc trò chuyện về các tác phẩm văn chương của ông mà rất nhiều trong số đó đã được dịch sang tiếng Việt. Bài giảng online ngày 21-2-2020 tại Trường ĐH Khoa kỹ Hong Kong của ông mà TTCT đăng trong số báo này như một sự tiếp nối những gì mà ông quan niệm về viết văn: “Tôi không hề nói rằng sáng tác phải phản ánh mặt đen tối của xã hội, mà cần nhìn thấy ánh sáng trong bóng tối. Văn học vô cùng đa dạng phong phú, nhưng văn học càng phức tạp, càng sâu sắc phải viết được thứ ánh sáng trong bóng tối, cái thiện và tình yêu thương trong sự đen tối, điều tốt đẹp trong sự đen tối”.

Qua nạn dịch này, để chúng ta trở thành những người có trí nhớ

Thuở nhỏ, khi tôi liên tục phạm những lỗi giống nhau đến lần thứ hai, lần thứ ba thì bố mẹ tôi sẽ gọi tôi đến trước mặt, rồi chỉ ngón tay vào trán tôi mà hỏi: “Mày có trí nhớ không?!”.

Khi tôi đọc bài ngữ văn đã nhiều lần mà vẫn không thể thuộc lòng được, thầy giáo lại bắt tôi lên đứng trước lớp, rồi chất vấn tôi ngay trước mặt mọi người: “Em có trí nhớ không?!”.

Trí nhớ là mảnh đất của ký ức, ký ức được sinh trưởng và lan tỏa trên mảnh đất ấy. Có trí nhớ và ký ức là sự khác biệt căn bản giữa con người chúng ta so với động vật, thực vật, là yêu cầu trước nhất để chúng ta thành thục, trưởng thành. Tôi cho rằng nhiều khi nó còn quan trọng hơn cả ăn cơm, mặc áo, hít thở. Bởi vì, khi chúng ta đánh mất đi trí nhớ, ký ức, chúng ta sẽ đánh mất đi công cụ và kỹ năng trồng trọt, nấu ăn; sẽ một đêm tỉnh dậy mà quên mất mình đã để quần áo ở đâu; sẽ thực sự cho rằng hoàng đế không mặc quần áo còn đẹp hơn là mặc quần áo nhiều.

Hôm nay vì sao tôi lại nói những điều này? Bởi vì đại nạn dịch viêm phổi do virút corona chủng mới trên toàn quốc, toàn thế giới này, vẫn chưa thực sự khống chế được, còn truyền nhiễm rất xa mà chưa qua đi và biến mất. Nhưng lúc này, từ Vũ Hán, Hồ Bắc, cho đến các tỉnh thành, khu vực khác trên toàn quốc, khi những tiếng khóc than vì người chết nhà tan, toàn gia diệt tuyệt vẫn chưa dứt bên tai, chúng ta đã nghe thấy, nhìn thấy số liệu thống kê có xu hướng tốt lên, từ trên xuống dưới, chỗ nọ chỗ kia đã bắt đầu chuẩn bị cất cao tiếng hát, chiêng trống chúc mừng rồi. Một bên thì tiếng khóc than bên những cái xác còn chưa lạnh vẫn chưa lắng xuống, bên kia thì bài hát khải hoàn, cùng những tiếng hô anh minh vĩ đại đã cất vang lên.

Từ khi căn bệnh viêm phổi do virút corona chủng mới bắt đầu từng bước từng bước một tiến vào cuộc sống của chúng ta, đến hôm nay chúng ta vẫn chưa thực sự biết rõ đã có tổng cộng bao nhiêu người chết vì căn bệnh này, chết ở trong bệnh viện là bao nhiêu, chết ở ngoài bệnh viện là bao nhiêu? Thậm chí còn chưa kịp đi điều tra, hỏi han những điều ấy. Thậm chí là, những điều tra và hỏi han như thế, sẽ cùng với thời gian trôi qua mà kết thúc, và vĩnh viễn là một câu đố. Là một cuốn sổ sinh tử mơ hồ không có căn cứ mà chúng ta để lại cho hậu thế. Cố nhiên khi dịch bệnh xảy ra, chúng ta không nên giống như thím Tường Lâm (nhân vật trong tác phẩm Cầu phúc của Lỗ Tấn - ND), ngày nào cũng chỉ lảm nhảm: “Tôi chỉ biết sau khi tuyết rơi thì thú dữ trong rừng núi không có cái gì ăn sẽ vào trong làng, chứ tôi đâu biết mùa xuân cũng sẽ đến”. Nhưng chúng ta cũng không nên hết lần nọ sang lần kia, tái tam ba bận giống như A.Q, khi bị ăn đánh, bị làm nhục và sắp chết đến nơi mà vẫn còn tin rằng mình mới là hảo hán, mình mới là người chiến thắng.

Trong cuộc sống của chúng ta, trong lịch sử và hiện thực mà chúng ta đang sống, bất luận là kiếp nạn và tai ương của cá nhân, gia đình hay xã hội, thời đại, quốc gia, vì sao luôn cứ cái nọ nối tiếp cái kia như thế? Vì sao những kiếp nạn và vực thẳm của lịch sử và thời đại luôn luôn do những cái chết và sinh mạng của hàng ngàn hàng vạn người dân chúng ta gánh chịu và lấp đầy? Trong rất nhiều, rất nhiều nhân tố mà chúng ta không biết, không truy hỏi, không cho truy hỏi thì không hỏi, có một điểm, đó là chúng ta là những con người - hàng ngàn hàng vạn người dân chúng ta hay con sâu cái kiến - nhưng bản thân chúng ta rất không có trí nhớ! Ký ức cá nhân của chúng ta đã bị khoanh vùng, thay thế và xóa bỏ rồi! Chúng ta thảy đều bị người ta cho ghi nhớ cái gì thì nhớ cái ấy, bắt quên cái gì thì quên cái ấy, bắt im lặng thì im lặng, cho hát ca thì hát ca. Ký ức cá nhân đã trở thành công cụ của thời đại, còn ký ức của tập thể và quốc gia thì trở thành nơi phụ trách và phân phối cho cái quên hay cái nhớ của mỗi cá nhân.

Thử nghĩ một chút, chúng ta sẽ không thảo luận về những chuyện lịch sử đã được thay đổi nhan đề và áo bìa nữa, mà chỉ cần nói đến những chuyện trong hai chục năm gần đây nhất, và những tai họa gần như toàn quốc mà những bạn trẻ 8X, 9X giống như các bạn đều trải qua và nhớ được: bệnh AIDS, dịch SARS và dịch viêm phổi do virút corona chủng mới này. Rốt cuộc chúng là những tai nạn nhân họa, hay là kiếp nạn do ông trời gây ra mà con người khó có thể cưỡng lại như động đất ở Đường Sơn, Vấn Xuyên? Trong những tai họa toàn quốc ở điều thứ nhất, yếu tố nhân tạo vì sao lại giống nhau tựa hồ cùng một khuôn đúc ra như thế? Đặc biệt là sự hoành hành và lây lan của dịch SARS xảy ra 17 năm trước và dịch viêm phổi do virút corona chủng mới hôm nay, nó giống hệt như cùng một vị đạo diễn đem cùng một vở bi kịch lại một lần nữa soạn lại và trình diễn.

Là những con người nhỏ bé như một hạt cát, chúng ta đã chẳng những không thể truy vấn vị đạo diễn ấy là ai, mà cũng không có tri thức chuyên ngành để suy tưởng, cấu tứ và sáng tác hoàn nguyên lại kịch bản. Vậy khi chúng ta lại một lần nữa đứng trước vở kịch sống chết đang soạn lại, ít nhất chúng ta có thể thử hỏi ký ức còn lưu lại về vở diễn bi thương lần trước của chúng ta đã đi đâu cả rồi? Trí nhớ của chúng ta đã bị ai xóa đi, moi đi mất rồi?!

Người không có trí nhớ, về bản chất mà nói, chỉ là đất trên đường đi, trên đồng nội. Một cái giày da muốn giẫm chúng ta thành ra hình dạng thế nào, thì ấy là do hoa văn khắc trên đế cái giày da ấy quyết định. Người không có ký ức, về bản chất mà nói, chỉ là một khúc gỗ hay tấm ván đã bị cắt đứt khỏi sinh mệnh trước kia của mình, tương lai chúng sẽ thành một đồ vật với hình dáng thế nào là do lưỡi búa và cái cưa quyết định.

Đối với chúng ta mà nói - đối với những người vì say mê viết lách mà khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa, những người cả đời phải sống dựa vào những con chữ chúng ta, nếu như ngay chúng ta cũng đều vứt bỏ ký ức và trí nhớ đến từ máu và sinh mệnh của chúng ta, thuộc về cá nhân chúng ta, như vậy thì sáng tác rốt cuộc còn có ý nghĩa gì đây? Văn học còn có giá trị gì đây? Xã hội này của chúng ta còn cần nhà văn làm gì? Dẫu có viết lách không ngừng, nỗ lực phấn đấu, trước tác đầy mình thì bạn với con rối gỗ bị người giật dây, điều khiển cũng có khác gì nhau đâu? Nhà báo không viết những gì anh ta chính mắt trông thấy; nhà văn không viết về ký ức cá nhân, những cảm nhận của riêng mình; giữa dư luận của xã hội, những người có thể nói và biết nói, chỉ luôn dùng giọng điệu trữ tình chính thống đơn thuần của quốc gia để nói, để đọc, để hô hào, thì còn có ai có thể nói cho chúng ta biết được sống trên thế giới này, làm một cá thể chân thực chân tướng, và tồn tại với sinh mệnh đầy đủ máu thịt là gì?

Thử nghĩ một chút xem, Vũ Hán ngày hôm nay nếu như không có sự tồn tại và ghi chép của nhà văn Phương Phương, không có Phương Phương dùng văn tự để viết lại những ký ức và cảm nhận của cá nhân cô ấy, không có hàng ngàn hàng vạn những người giống như Phương Phương, qua chiếc điện thoại di động truyền tới cho chúng ta những tiếng kêu cứu, những tiếng gào khóc sống chết, thì chúng ta sẽ nghe thấy những gì đây, sẽ nhìn thấy những gì đây?

Qua nạn dịch này, để chúng ta trở thành những người có trí nhớ

Trong dòng thác lũ to lớn của thời đại, ký ức của cá nhân thường bị coi là những bong bóng, bọt nước, và tiếng ồn ào thừa thãi của thời đại, sẽ bị thời đại cắt bỏ, ném đi hay vứt sang một bên, khiến cho nó trở nên im lặng, không lời, giống như trước nay nó chưa từng tồn tại, vì vậy mà khi một thời đại giống như một cái guồng nước quay qua thì một sự lãng quên to lớn đã đến rồi. Máu thịt có linh hồn đã không còn nữa rồi. Tất cả đều đã bình an và tĩnh lặng rồi. Một điểm tựa có thể nâng cả địa cầu, nhỏ nhưng có sự chân thực của nhỏ, không còn nữa rồi! Như vậy là lịch sử sẽ trở thành một truyền thuyết không căn không cứ, lãng quên và tưởng tượng.

Từ góc độ này mà nói, việc chúng ta luôn có trí nhớ, sẵn có một ký ức cá nhân không bị thay đổi, mài mòn, mới là một việc quan trọng thế nào, là sự chân thực và chứng cứ thấp nhất để nói một chút sự thực… Nếu một ngày, ngay cả chúng ta cũng không còn chút ký ức và chân thực đáng thương ấy thì trên thế giới này, rốt cuộc có còn sự thực và chân tướng của cá nhân và lịch sử nữa hay không?

Nói thật rằng, trí nhớ và ký ức vốn có của chúng ta dẫu cho không thể thay đổi thế giới và hiện thực nhưng chí ít khi đối diện với sự thật được thống nhất, khoanh vùng, chúng ta cũng sẽ thầm nhủ trong lòng mình rằng: “Sự tình không phải như thế này!”. Chí ít khi bước ngoặt của dịch bệnh viêm phổi do virút corona chủng mới thực sự đã đến, trong tiếng trống chiêng ầm ĩ chúc mừng thắng lợi, chúng ta còn có thể nghe thấy, nhớ được những tiếng than khóc kêu gào bên lề của những cá nhân, gia đình.

Ký ức cá nhân không thể thay đổi thế giới, nhưng nó có thể khiến chúng ta có được một nội tâm chân thực.

Ký ức cá nhân không nhất định có thể trở thành sức mạnh thay đổi hiện thực, nhưng khi bắt gặp những lời dối trá chí ít nó có thể giúp chúng ta đặt một dấu hỏi trong lòng mình. Chí ít là, một ngày nào đó lại có thời đại của đại nhảy vọt, đại luyện gang thép, thì chúng ta tin rằng cát không thể luyện thành thép được, sản lượng một mẫu không thể đạt được một vạn cân, là những hiểu biết thường thức cơ bản nhất của thường thức, chứ không hề có kỳ tích ý thức sáng tạo vật chất, không khí sản xuất ra lương thực đâu. Cũng chí ít là, một ngày nào đó lại có một cuộc cách mạng giống như “mười năm kiếp nạn ấy” thì chúng ta có thể đảm bảo rằng sẽ không đem cha mẹ mình tống vào nhà tù hay lên đoạn đầu đài.

20200401 2

Nhà văn Diêm Liên Khoa trong buổi sinh hoạt khoa học với chủ đề “Trung Quốc và văn học trong một thôn trang” tổ chức tại khoa Văn học - Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn - ĐHQG TPHCM - tháng 4.2019.

Các bạn thân mến, chúng ta đều là học sinh văn khoa, chúng ta có thể cả đời đều phải dựa vào ngôn ngữ để giao lưu với hiện thực và ký ức. Nói về ký ức, chúng ta không nói những câu như ký ức của hàng ngàn hàng vạn cá nhân, cũng chính là ký ức của tập thể, ký ức của quốc gia, ký ức của dân tộc, bởi vì trong lịch sử của chúng ta, ký ức quốc gia, ký ức tập thể luôn luôn che đậy, thay đổi trí nhớ và ký ức cá nhân của chúng ta. Vào hôm nay, lúc này đây, khi bệnh dịch vẫn còn rất lâu mới ngưng kết thành ký ức, nhưng bên cạnh, xung quanh chúng ta, đều đã bắt đầu vang lên những tiếng trống chiêng ca tụng thánh minh, vui mừng khánh chúc rồi. Chính vì một điểm này, tôi hi vọng các bạn, hi vọng chúng ta - những người đã trải qua kiếp nạn dịch bệnh viêm phổi do virút corona chủng mới, từ việc trải qua kiếp nạn này đều có thể trở thành những người luôn có trí nhớ, những người có thể khiến trí nhớ sản sinh ra ký ức.

Trong thời gian không lâu nữa, có thể dự đoán trước được, khi tiếng chiêng trống vang trời, thơ văn tới tấp, bắt đầu vang trời dậy đất ca tụng thắng lợi của cuộc chiến đấu đánh thắng bệnh viêm phổi do virút corona chủng mới, hi vọng mọi người chúng ta không phải là những người sáng tác sáo rỗng ấy, mà chỉ cần là một người có được ký ức cá nhân chân thực. Khi màn diễn xuất hoành tráng che trời rợp đất diễn ra, hi vọng chúng ta không phải là những diễn viên hay người đọc tấu trên sân khấu, không phải là người vỗ tay cho màn diễn ấy, mà là một người yếu đuối bất lực, đứng cách xa nhất sân khấu ấy, lặng lẽ xem trò diễn mà mắt tràn lệ nóng. Tài hoa, dũng khí và tâm lực của chúng ta, nếu như không thể khiến chúng ta trở thành một người viết như Phương Phương thì chí ít trong đám đông đang nghi kỵ, chê cười Phương Phương, không được có hình bóng và tiếng nói của mình. Trong đời thịnh trị êm đềm mà cuối cùng sẽ phải quay về, phải đến ấy, trong tiếng hát ca mênh mang như đại dương, đối diện với căn nguyên và sự lan tràn của dịch bệnh này, nếu chúng ta không thể đem câu hỏi nghi vấn nói to lên thì nhỏ lời than thở cũng là lương tri và dũng khí. Đứng sau trại tập trung Auschwitz (trại tập trung của Đức Quốc xã ở Ba Lan - ND) làm thơ là dã man, nhưng nếu lại không nói không rằng và lãng quên thì chẳng những là dã man, mà còn càng dã man, đáng sợ hơn vậy.

Không thể làm một người thổi còi như Lý Văn Lượng thì hãy để chúng ta làm một người nghe thấy tiếng còi.

Không thể nói lớn thì làm một người nói thầm, không thể làm một người nói thầm thì làm một người im lặng có trí nhớ và ký ức.

Trong dàn hợp xướng muôn người ca ngợi cuộc chiến tranh thắng lợi trước phát sinh, hoành hành và tràn lan của dịch bệnh lần này sắp diễn ra này, hãy để chúng ta lặng lẽ đứng sang một bên, trở thành một người mang mộ phần trong tim, một người có trí nhớ in sâu, một người có thể trong một ngày nào đó đem trí nhớ ấy sinh ra ký ức cá nhân và trao nó lại cho những người đi sau mình. ■

Diêm Liên Khoa

Châu Hải Đường (dịch)

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 31.03.2020.

Thông tin truy cập

63698804
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
19096
23426
63698804

Thành viên trực tuyến

Đang có 159 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website