Sách in ở tỉnh Chernigiv phía Bắc Thủ đô Kyiv. Thành phố Chernigiv tuy bị tàn phá hết, nhưng thị trấn nơi có xưởng in thì may mắn không bị bom đạn phá hủy.

20220718

Bản dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Ukraina tái bản năm 2022. Ảnh: Lê Giang

Tuy nhiên đây không phải là lần xuất bản đầu tiên bản dịch Lục Vân Tiên tiếng Ukraina, mà chỉ là tái bản. Bản in đầu tiên là năm 1983, do Nhà xuất bản Văn học nghệ thuật “Dnepro”, Kiev xuất bản, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Ukraina.

Rất nhiều người lầm tưởng tiếng Ukraina chỉ là phương ngữ của tiếng Nga, thực ra không phải, tiếng Ukraina là một trong ba ngôn ngữ của nhóm Đông Slav, cùng với tiếng Nga và tiếng Belarus. Nhóm miền Tây Slav có tiếng Séc, Slovakia, Ba Lan. Nhóm miền Nam có Bulgaria, Serbia, Croatia. Tiếng Ukraina có hơn 30 triệu người dùng và đã có nhiều nhà thơ, nhà văn nổi tiếng viết văn bằng ngôn ngữ ấy như: Taras Shevchenko, Lesia Ukrainka, Mikhaylo Kotsyubinsky…

Maya Kashel (1930 - 1987)

Maya Kashel (1930 - 1987)

Trong khi Lục Vân Tiên chưa được dịch ra tiếng Nga thì đã được dịch ra tiếng Ukraina. Người dịch là Maya Kashel, một dịch giả văn học (VH) Việt Nam rất nổi tiếng.

Maya Dmitrievna Kashel (Майя Дмитрівна Кашель, 1930-1987) là nhà văn Ukraina Xô viết, dịch giả VH Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Ukraina (từ 1972), hội viên Hội Nhà văn Liên Xô (từ 1973). Maya Kashel sinh ở Kiev, tốt nghiệp phổ thông năm 1947, sau đó không đi học tiếp được do bệnh tật. Năm 1954, bà tốt nghiệp khóa đào tạo 4 năm tiếng Anh. Năm 1966, bà tốt nghiệp trung học. Khi chiến tranh ở Việt Nam bắt đầu nổ ra, bà học tiếng Việt và VH Việt Nam. Sau đó, bà dịch một tập truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam sang tiếng Ukraina, xuất bản ở Hà Nội. Với mục đích hoàn thiện kiến thức của mình, bà xin vào học tiếng Việt ở Viện Các ngôn ngữ phương Đông của Đại học Tổng hợp Moskva (MGU). Từ 1-9-1966 đến tháng 6-1972, trước khi xuất hiện cuốn sách dịch độc lập đầu tiên, bà đã dịch hơn 300 tác phẩm bằng tiếng Việt.

Một số tác phẩm VH Việt Nam đã được dịch sang tiếng Ukraina của Maya Kashel: Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi và những người khác (1972), Đất rừng phương Nam của Đoàn Giỏi (1977), Tục ngữ và thành ngữ Việt Nam (1977), Tập truyện ngắn của các nhà văn Việt Nam (1981), Thơ Tố Hữu (1978), Lục Vân Tiên (và thơ Nguyễn Đình Chiểu, 1983), Đôi mắt của Nam Cao...

Kashel đã cho xuất bản tổng cộng 11 tập sách dịch. Các sách ấy thường được N. I. Nikulin, nhà Việt Nam học người Nga viết lời giới thiệu. Bản dịch Mẹ vắng nhà (1972) là cuốn sách dịch đầu tiên của bà khi gia nhập Hội Nhà văn Ukraina 1972. Thông qua sự nghiệp dịch thuật của mình, Kashel mong muốn “tăng cường mối quan hệ VH Ukraina - Việt Nam, làm giàu cho nền VH quê hương mình bằng những tác phẩm tiếng Việt hay nhất”. (Đơn xin vào Hội Nhà văn Ukraina).

Maya Kashel sống trong thời chiến tranh ở Việt Nam hết sức thảm khốc. Với tình yêu với nhân dân Việt Nam, bà đã dành toàn bộ số tiền nhuận bút có từ việc dịch tặng cho Quỹ Hỗ trợ nhân dân Việt Nam của Ukraina.

Ngoài dịch VH Việt Nam, M.Kashel còn viết nhiều bài nghiên cứu về VH Việt Nam trên các báo, tạp chí chuyên ngành, các mục từ về nhà văn Việt Nam trong Bách khoa toàn thư của Ukraina. Trước khi in thành sách, các bản dịch VH Việt Nam của M.Kashel thường được đăng trên các tạp chí lớn của Ukraina, như: Hoàn cầu, Đnepro, VH Ucraina, Tạp chí Ucraina... Nhờ thế, nhiều người Ukraina có dịp thưởng thức và hiểu biết VH Việt Nam.

Kashel chủ yếu dịch VH hiện đại Việt Nam, Lục Vân Tiên là tác phẩm VH cổ điển Việt Nam duy nhất của Việt Nam mà bà dịch. Bản Lục Vân Tiên tái bản lần này có sự gia công sửa chữa của Vũ Tuấn Hoàng, giáo sư người Việt, làm việc tại Viện Ngữ văn của Đại học Quốc gia Kiev. 

Bản dịch Lục Vân Tiên tiếng Ukraina có vị trí danh dự trong các dịch tác phẩm này ra ngoại ngữ. Thống kê cho đến tháng 6-2022, tức là trước Hội thảo Khoa học quốc tế kỷ niệm 200 năm Ngày sinh Danh nhân Nguyễn Đình Chiểu ở Bến Tre, thì tác phẩm Lục Vân Tiên được dịch ra 5 thứ tiếng với 11 bản dịch, đó là tiếng Pháp, Nhật, Anh, Hàn và tiếng Thái cổ, là tác phẩm được dịch nhiều thứ ba trong VH cổ điển Việt Nam sau Truyện Kiều của Nguyễn Du (21 thứ tiếng với 86 bản dịch) và thơ Hồ Xuân Hương (12 thứ tiếng với 30 bản dịch).

Tuy nhiên, với bản dịch ra tiếng Ukraina của Maya Kashel thì Lục Vân Tiên đã được dịch ra 6 thứ tiếng với 12 bản dịch:

- Ngôn ngữ dịch đầu tiên là tiếng Pháp, có 7 bản dịch: (1) G.Aubaret 1864, (2) Abel des Michels 1883, (3) Eugène Bajot 1886, (4) Nghiêm Liễn 1927, (5) Dương Quảng Hàm 1944, (6) Phan Văn Thiết 1972, (7) Lê Trọng Bổng 1997.

- Tiếp theo là các bản Lục Vân Tiên tiếng Ukraina của Maya Kashel 1983. Bản tiếng Nhật của Takeuchi Yonosuke 1986. Bản tiếng Anh của Éric Rosencrantz 2016. Bản tiếng Hàn của Jeon Hye Kyeong (Toàn Huệ Khanh) và Lý Xuân Chung 2022.

- Ngoài ra còn có bản dịch ra tiếng Thái cổ (Tây Bắc Việt Nam) vào đầu thế kỷ XX.

Với những thông tin trên, thì bản dịch Lục Vân Tiên của Maya Kashel là bản dịch ra ngoại ngữ sớm thứ hai sau các bản dịch tiếng Pháp, không kể bản tiếng Thái cổ. Bản dịch ấy cũng là bản dịch duy nhất cho đến nay ra nhóm các ngôn ngữ Slav.

Giữa những ngày chiến sự ác liệt ở Ukraina, chúng tôi được tin: Bản dịch Lục Vân Tiên (Лyк Ван Тiен) của Nguyễn Đình Chiểu (Нгуєн Дінь Tьєу) ra tiếng Ukraina được xuất bản ở Ukraina, bao gồm cả sách song ngữ và sách đơn ngữ. Đây là một hoạt động đẹp nhằm kỷ niệm 200 năm Ngày sinh nhà thơ lớn của nhân dân Việt Nam Nguyễn Đình Chiểu, hưởng ứng hoạt động tôn vinh nhà thơ của Tổ chức Khoa học, Giáo dục và Văn hóa Liên hiệp quốc (UNESCO) mà Ukraina cũng là thành viên.

Đoàn Lê Giang - Trần Thị Phương Phương (*)

(*) PGS.TS Đoàn Lê Giang, PGS.TS Trần Thị Phương Phương - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

Nguồn: Báo Đồng khởi, ngày 15.7.2022.

Văn bản Lục Vân Tiên khá phong phú và phức tạp. Hiện nay người ta thường dùng bản Trương Vĩnh Ký 2076 câu, cũng có người nói theo bản Lục Vân Tiên ca diễn của Abel des Michels 2088 câu. Có nhà nghiên cứu không dùng các bản đó mà công bố bản Lục Vân Tiên sớm nhất xuất bản năm 1874 (Trần Nghĩa-Vũ Thanh Hằng  phiên âm, khảo thích (1994) Lục Vân Tiên truyện: Bản Nôm mang niên đại cổ nhất mới sưu tầm ở Paris, NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội), nhưng có nhà nghiên cứu lại công bố bản Lục Vân Tiên 1865 mới là cổ nhất (Nguyễn Quảng Tuân  phiên âm, khảo thích (2008), Lục Vân Tiên truyện: Bản Nôm và bản quốc ngữ cổ nhất, NXB. Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học). Vậy bản nào tốt nhất, bản nào cổ nhất, các bản ấy có quan hệ với nhau thế nào, và quan trọng nhất là các truyền bản Lục Vân Tiên như thế nào?

1. Các bản Nôm Lục Vân Tiên khắc in hiện còn

Hiện nay có tất cả 13 bản Nôm Lục Vân Tiên đã được khắc in như danh mục dưới đây (sắp xếp theo trình tự thời gian xuất bản):  

Quyển

số

Nhan đề/ Tên tắt văn bản Người biên tập, Nơi xuất bản Năm xuất bản, số trang, số câu

Lục Vân Tiên truyện,

蓼雲仙傳Gọi tắt là bản “Bảo Hoa Các-Quảng Thạnh Nam 1865”

Gia Định thành, Duy Minh Thị đính chính 嘉定城惟明氏訂正

Quảng Đông nhai, Quảng Thạnh Nam phát thụ 廣東街廣盛南發售. Việt tỉnh, Phật trấn, Phước Lộc đại nhai, Bảo Hoa các tàng bản 粵省佛鎮福祿大街寶華閣藏板 Năm 1865, 92 trang, 2174 câu

Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳

Gọi tắt là bản “Bảo Hoa Các-Thiền Phước Lộc”

Thiền Phước Lộc đại nhai. Bảo Hoa các phát hành 禪福祿大街寶華閣發行

(không ghi năm in),

92 trang, 2174 câu

Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳

Gọi tắt là bản “Bảo Hoa Các-Phật Sơn”

Gia Định thành, Duy Minh Thị đính chính Phật Sơn, Bảo Hoa các tàng bản 佛山寶華閣藏板

(không ghi năm in), 

92 trang, 2174 câu

Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳   

Gọi tắt là bản “Thiên Bửu Lâu”

Gia Định thành, Duy Minh Thị đính chính Việt Đông, Phật trấn, Phước Lộc đại nhai. Thiên Bửu Lâu tàng bản 粵東佛鎮福祿大街天寶樓藏板 (không ghi năm in), 92 trang, 2174 câu

Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳

Gọi tắt là bản “Anh Hoa thư cục”

Gia Định thành, Duy Minh Thị đính chính Trung Quốc Việt Đông, Phật Sơn, Anh Hoa thư cục tàng bản 中國粵東佛山英華書局藏板 (không ghi năm in), 92 trang, 2174 câu

Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳

Gọi tắt là bản “Kim Ngọc Lâu 1874”

Duy Minh Thị đính chính Việt Đông, Phật Trấn, Phước Lộc đại nhai, Kim Ngọc Lâu tàng bản 粵東佛鎮福祿大街金玉樓藏板 Giáp Tuất niên (1874) san khắc, 110 trang, 2174 câu

Lục Vân Tiên ca diễn 陸雲僊歌演

Gọi tắt là bản “Abel 1883”

Abel des Michels, Giáo sư Trường Sinh ngữ phương Đông, Paris Ernest Leroux xuất bản. Trần Ngươn Hanh viết bằng bút sắt từ bản quốc ngữ của Janneau 1873 Năm 1883, 2088 câu, 4 đoạn phụ lục 170 câu

Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳

Gọi tắt là bản “Lăng Vân Đường 1886”

Lăng Vân Đường (Huế) tàng bản 凌雲堂藏板 Đồng Khánh nguyên niên xuân tân san (1886), 2055 câu, 106 trang đơn (53 tờ), mỗi trang 10 hàng

Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳

Gọi tắt là bản “Tụ Văn Đường 1897”

Tụ Văn Đường聚文堂, Hà Nội Thành Thái thứ 9 (1897), chép theo hàng ngang, 2036 câu

Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳

Gọi tắt là “Bản Liễu Văn Đường 1916”   

Liễu Văn Đường tàng bản 柳文堂藏板 Khải Định nguyên niên (1916) thu  tân san, 53 tờ, khoảng 2050 câu

Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳

Gọi tắt là bản “Liễu Văn Đường 1921”

Liễu Văn Đường tàng bản 柳文堂藏板, Hà Nội Khải Định thứ 6 (1921), 53 tờ, khoảng 2050 câu

Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳

Gọi tắt là bản “Tụ Văn Đường 1924”

Tụ Văn Đường tàng bản 聚文堂藏板, Hà Nội Khải Định thứ 9 (1924), 53 tờ, khoảng 2050 câu

Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳

Gọi tắt là “Bản Bảo Đại 1927”

(Không ghi) Bảo Đại nhị niên (1927) xuân tân san, 53 tờ, khoảng 2050 câu

Danh mục trên là từ sưu tầm và tổng hợp theo Thư mục về Nguyễn Đình Chiểu do Ban Văn học (Viện Khoa học xã hội tại TP.HCM) biên soạn, Ty Văn hoá và Thông tin Long An xuất bản, 1981;  Trần Nghĩa-Vũ Thanh Hằng phiên âm, khảo thích Lục Vân Tiên truyện: Bản Nôm mang niên đại cổ nhất mới sưu tầm ở Paris, NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội,  năm 1994; Nguyễn Quảng Tuân phiên âm, khảo thích Lục Vân Tiên truyện: Bản Nôm và bản quốc ngữ cổ nhất, NXB. Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học, 2008.

Có thể có vài bản in nữa ở Quảng Đông do Bảo Hoa Các tàng bản hiện chưa sưu tầm được, nhưng không thật quan trọng vì lý do chúng tôi phân tích dưới đây. 

2. Các bản Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙Duy Minh thị đính chính, in ở Quảng Đông thực chất chỉ là một bản

Nguyễn Đình Chiểu thi đậu tú tài năm Quý mão (1843) ở trường thi Gia Định lúc 21 tuổi. Sau đó ông ra Huế học chờ kỳ thi lần sau. Năm Kỷ dậu (1849) Nguyễn Đình Chiểu đi thi thì nghe tin mẹ mất, ông vào Gia Định chịu tang. Trên đường đi đến Quảng Nam ông bị ốm nặng, phải nghỉ lại chữa bệnh, sau đó bị mù cả hai mắt. Năm Canh tuất (1850) mãn tang, ông mở trường ở Bình Vi (Gia Định). Từ gian nan của cuộc đời mình, từ những ước mơ, lý tưởng của mình mà cũng là của đông đảo người dân, Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác nên truyện Lục Vân Tiên. Truyện được hoàn thành vào khoảng những năm từ 1851 đến 1854, lúc Nguyễn Đình Chiểu ngoài 30 tuổi. Tác phẩm được dân chúng ưa thích, truyền tay nhau chép và học thuộc lòng, trong khoảng 10 năm. Cho đến khi G.Aubaret dịch tác phẩm này sang tiếng Pháp và in ở Kỷ yếu châu Á (Journal asiatique) thì Lục Vân Tiên chưa từng được khắc in: “Truyện thơ này, hay nói đúng hơn, truyện truyền thuyết này đã được sáng tác bằng tiếng nói của người bình dân, chưa bao giờ được in thành bản; tác phẩm lưu truyền đến ngày nay với những đoạn chép tay bằng thứ chữ riêng, kiểu chữ Trung Hoa mà dân tộc An Nam dùng” (Vũ Đình Liên dịch, in trong Nguyễn Đình Chiểu, 1976, tr.319). Bản in đầu tiên là bản do Duy Minh Thị đính chính, in ở Quảng Đông năm 1865. Điều này đã được Khuông Việt ghi nhận từ năm năm 1943 trên Nam Kỳ tuần báo số 41 (26/6/1943) số chuyên đề về Nguyễn Đình Chiểu: Lục Vân Tiên, bản in chữ Nôm do Duy Minh Thị sao lục, Tôn Thọ Tường trông nom in, Chợ Lớn, Hiệu sách Quảng Thạnh Nam,1865”. Bản này đã được Nguyễn Quảng Tuân sưu tầm và phiên âm vào năm 2008. Thực ra Quảng Thạnh Nam không in, trên bìa ghi rõ: “Quảng Đông nhai Quảng Thnh Nam phát thụ tức Nhà sách Quảng Thạnh Nam ở phố Quảng Đông (Chợ Lớn) chỉ là nơi phát hành, bán sách, (thụ: bán, trong từ Tiêu thụ), mà nơi khắc in là “Việt tỉnh, Phật trấn, Phước Lộc đại nhai, Bảo Hoa Các tàng bản: Nơi in sách, giữ mộc bản là Bảo Hoa Các, địa chỉ ở phố Phước Lộc, Phật trấn, tỉnh Việt Đông, tức Quảng Đông.  

So sánh các bản Lục Vân Tiên truyện Duy Minh Thị đính chính (từ quyển số 1 đến  quyển số 5), đều giống nhau, giống nhau hoàn toàn từ nhan đề (chữ Nôm) “Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳” cho đến phần ruột, dù là “Bảo Hoa Các tàng bản - Quảng Thạnh Nam phát thụ” (quyển số 1), hay “Bảo Hoa Các tàng bản - Thiền Phước Lộc đại nhai” (quyển số 2), “Phật Sơn - Bảo Hoa Các tàng bản” (quyển số 3), “Thiên Bửu Lâu tàng bản” (quyển số 4), “Anh Hoa thư cục tàng bản” (quyển số 5). Giống hoàn toàn cả cái đúng, cái sai, các vết mẻ trên bản khắc. Cụ thể, cả 5 bản đều:  92 trang in không kể bìa; Mỗi trang 12 cột, trên 6 chữ dưới 8 chữ, tổng cộng 2174 câu (lục-bát kể là 2 câu). Những chữ khác biệt với các bản khác và các lỗi sai y như nhau. Ví dụ trang 1: Câu 1: Tây minh 西明 , đúng ra phải: 西銘; Câu 6-7: “Có người ở quận Đông Kinh/ Lục ông chữ đặt phỉ tình yến anh/ Vợ chồng ăn ở hiền lành/ Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.” . Đa số các bản khác: “Có người ở quận Đông Thành/ Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền”. So sánh thử trang 1 của 3 bản để thấy thực chất nó chỉ là một bản, chỉ khác nhau cái bìa:

20220716 4

Có thể kết luận: Các bản Bảo Hoa Các đều là bản in đầu tiên, do cùng một ván khắc với bản “Bảo Hoa Các tàng bản - Quảng Thạnh Nam phát thụ” (quyển số 1), in 1865. Do nhu cầu của độc giả Việt Nam mà sách được nối bản liên tục hàng chục năm, và chỉ thay cái bìa. Nếu như ngày nay thì đây là vụ gian lận thương mại và vi phạm bản quyền nghiêm trọng của Bảo Hoa Các.

Phải đến quyển Lục Vân Tiên truyện “Kim Ngọc Lâu 1874” (quyển số 6) thì mới thực sự là bản khắc mới: Bản Kim Ngọc Lâu có 110 trang in không kể bìa, mỗi trang 10 cột, trên 6 dưới 8 chữ, vẫn giữ tổng cộng 2174 câu. Bản này không phải là “nối bản” mà là tái bản có sửa chữa, tức là khắc ván mới, sửa tất cả các chữ Nôm sai, các chữ Nôm giả tá khó đọc thành chữ Nôm hình thanh dễ hiểu, sửa cả bài thơ Nguyệt Nga thất niêm luật ở câu 222 cho đúng niêm luật hơn. Bản Kim Ngọc Lâu cũng in ở Quảng Đông.

20220716 53. Lục Vân Tiên - phồn bản, giản bản, bản Kinh

Lục Vân Tiên có bản dài trên 2100 câu và có loại ngắn dưới 2100 câu, chênh nhau gần 100 câu. Có thể gọi bản dài là Phồn bản và bản ngắn là Giản bản.

3.1. Lục Vân Tiên phồn bản có 5 dấu hiệu sau:

- Trên 2100 câu, cụ thể là 2174 câu

- Có thơ Nguyệt Nga tặng Vân Tiên (ở câu 222)

- Thầy của Vân Tiên tính giả làm ông Quán để giúp Vân Tiên: 14 câu (câu 439-452)

- Nguyệt Nga gặp lại Vân Tiên, từ giã lão bà về thăm cha: 34 câu (câu 1977-2010)

- Vân Tiên đi thăm thầy, Sở vương gọi về truyền ngôi cho: 82 câu (câu 2093-2174)

Các khác biệt trên chính là đặc điểm của các bản Lục Vân Tiên truyện Duy Minh Thị đính chính: “Bảo Hoa Các tàng bản - Quảng Thạnh Nam phát thụ”, “Bảo Hoa Các tàng bản - Thiền Phước Lộc đại nhai”, “Phật Sơn - Bảo Hoa Các tàng bản”, “Thiên Bửu Lâu tàng bản”, “Anh Hoa thư cục tàng bản”, “Kim Ngọc Lâu 1874” (quyển số 1 đến quyển số 6).

3.2. Lục Vân Tiên giản bản

            Điều khác biệt đáng chú nhất giữa phồn bản và giản bản là ở đoạn kết: Phồn bản có đoạn gần 100 câu kể về Lục Vân Tiên khi thắng giặc Ô Qua được vua Sở nhường ngôi. Giản bản thì chỉ đến chỗ Vân Tiên, Nguyệt Nga gặp nhau, Vân Tiên được phong thưởng, hai người lấy nhau “Sanh con sau nối gót lân đời đời” là hết.

            Giản bản có 2 loại:

     - Giản bản Nam Kỳ. Trước nay nói đến bản Nam Kỳ đều nói bản Lục Vân Tiên truyện của Trương Vĩnh Ký 1889, nhưng xem xét kỹ thì bản Trương Vĩnh Ký lại chịu ảnh hưởng chủ yếu từ bản Lục Vân Tiên ca diễn 陸雲僊歌演 của Abel des Michels. So sánh bản Trương Vĩnh Ký 1889 với bản Abel des Michel thì thấy vai trò của Trương Vĩnh Ký không nhiều, sự giản lược cho gọn gàng Lục Vân Tiên không phải sáng tạo của riêng ông mà là tiếp thu từ Abel des Michels. Và Abel lại tiếp thu từ bản Janneau 1873, còn Janneau lại tiếp thu từ bản G.Aubaret 1864. Đến lượt G.Aubaret, có thể ông tiếp thu từ một bản kể nào đó của Đồ Chiểu hay những dị bản trong dân gian. Giản bản Nam từ bản Abel des Michels đã chi phối bản Trương Vĩnh Ký 1889, từ đó chi phối đa số các bản quốc ngữ xuất bản ở Nam Kỳ trước 1945, và cả các bản Bắc từ 1954 đến nay (Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Thạch Giang…).

            - Giản bản Bắc Kỳ. Trước nay nói đến bản Bắc Kỳ đều nói bản Tụ Văn Đường 1897, tuy nhiên mọi người không ngờ là hệ bản Bắc Kỳ lại chỉ là phiên bản của giản bản Huế Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳 - Lăng Vân Đường tàng bản, có thể gọi đó là “bản Kinh”.

3.3. Bản Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳- Lăng Vân Đường: Bản Kinh và là  giản bản Bắc (Huế-Hà Nội)

Như đã nói nhiều tài liệu cho rằng các bản Lục Vân Tiên ở Bắc Kỳ chịu ảnh hưởng bản Tụ Văn Đường 1897 như Nguyễn Thạch Giang viết: “Bản sớm nhất hiện nay chúng ta có là bản Vân Tiên cổ tích tân truyện của hiệu khắc ván Tụ Văn Đường ở phố Hàng Gai, in năm Thành Thái thứ 9 (1897) (…) Bản Vân Tiên cổ tích tân truyện của hiệu khắc ván Liễu Văn Đường in năm Khải Định thứ sáu (1821) đã dựa vào bản của Tụ Văn Đường mà khắc lại, cho nên cả hai bản hầu như không có dị đồng nào đáng kể, hai mà như một vậy”(Nguyễn Đình Chiểu, 1980, tr.77). Tuy nhiên mọi người không ngờ là hệ bản Bắc Kỳ lại chỉ là phiên bản của giản bản Huế, có thể gọi là “bản Kinh” mà khởi đầu là bản Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳- Lăng Vân Đường tàng bản, khắc in năm Đồng Khánh thứ nhất (1886).

20220716 6

Việc phát hiện ra bản Kinh chính là từ sự phát hiện ra bản truyện tranh Lục Vân Tiên nằm im lìm 112 năm ở Thư viện Viện Pháp (Institute de France) ở Paris. Năm 2016 với sự dày công nghiên cứu của tập thể các nhà nghiên cứu, NXB. Văn hoá Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, NXB.École française d'Extrême-Orient Paris đã cho ra mắt công trình Lục Vân Tiên cổ tích truyện/ Histoire de Lục Vân Tiên/ The story of Lục Vân Tiên, 2 tập với 4 thứ chữ: Nôm, Quốc ngữ, Pháp (bản dịch của Abel des Michel) và Anh.  Trong  bản này có truyện tranh Lục Vân Tiên do một người hoạ sĩ cung đình tên là Lê Đức Trạch vẽ, văn bản Nôm mà ông sử dụng để chép lại là bản Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳- Lăng Vân Đường tàng bản, khắc in năm Đồng Khánh thứ nhất (1886).

Bản Lục Vân Tiên, Lăng Vân Đường 1886 có lẽ đã ra Bắc, được các phường khắc chữ ở Hàng Gai khắc lại thành các bản: Tụ Văn Đường 1897 (lưu ở Thư viện ĐH Yale), Tụ Văn Đường 1924; Liễu Văn Đường 1916, 1921. Còn bản Bảo Đại 1927 chữ Nôm khắc in rất, gần giống với chữ bản Lăng Vân Đường 1886, cho thấy nguồn gốc của nó chắc vẫn là tiếp tục dòng bản Kinh Lục Vân Tiên ở Huế.

Kết luận

Hiện nay đã tìm được 13 bản Nôm Lục Vân Tiên được khắc in, so với lần kỷ niệm 160 năm ngày sinh Nguyễn Đình Chiểu vào năm 1982 mới tìm được 9 bản thì nay có thêm 4 bản nữa, trong đó có nhiều bản quan trọng. Trong đó bản “Lục Vân Tiên truyện Duy Minh thị đính chính, Quảng Thạnh Nam phát thụ, Bảo Hoa Các tàng bản” tương truyền Tôn Thọ Tường trông nom, in năm 1865 là bản in sớm nhất, cho đến 1874 không có một bản Lục Vân Tiên chữ Nôm nào được khắc in ở trong nước. Bản Nôm này mở đầu cho truyền bản “Duy Minh thị”, in ở Quảng Đông, với nhiều bản: “Bảo Hoa Các tàng bản - Quảng Thạnh Nam phát thụ”, hay “Bảo Hoa Các tàng bản - Thiền Phước Lộc đại nhai”, “Phật Sơn - Bảo Hoa Các tàng bản”, “Thiên Bửu Lâu tàng bản”, “Anh Hoa thư cục tàng bản” giống nhau hoàn toàn phần ruột, thực chất là một bản, chỉ khác nhau cái bìa.

Bản Lục Vân Tiên truyện “Kim Ngọc Lâu 1874” là thuộc truyền bản Duy Minh Thị nói trên được khắc mới, sửa tất cả các lỗi sai, các chữ Nôm giả tá khó đọc thành chữ Nôm hình thanh dễ hiểu. Đây là bản Lục Vân Tiên truyện tốt nhất của truyền bản Duy Minh Thị. 

Lục Vân Tiên có thể chia ra thành phồn bản (2174 câu), giản bản (dưới 2100). Giản bản lại chia thành: Giản bản Nam (Abel des Michels, Trương Vĩnh Ký), Giản bản Bắc (Lăng Vân Đường). Như vậy có thể thấy: các bản Nôm Lục Vân Tiên dù đa dạng, phức tạp đến mấy cũng chỉ có 3 truyền bản:

- Lục Vân Tiên truyện 蓼雲仙傳-Duy Minh Thị (Phồn bản ): Truyền bản này bao gồm:  “Bảo Hoa Các tàng bản - Quảng Thạnh Nam phát thụ”, “Bảo Hoa Các tàng bản - Thiền Phước Lộc đại nhai”, “Phật Sơn - Bảo Hoa Các tàng bản”, “Thiên Bửu Lâu tàng bản”, “Anh Hoa thư cục tàng bản”, “Kim Ngọc Lâu 1874”.

- Lục Vân Tiên ca diễn 陸雲僊歌演- Abel 1883 (Giản bản Nam): Truyền bản này bao gồm: Lục Vân Tiên của Trương Vĩnh Ký 1889 và liên hệ với các bản Pháp-Việt trước đó: Janneau 1873 và Aubaret 1864

- Vân Tiên cổ tích tân truyện 雲僊古跡新傳- Lăng Vân Đường 1886 (Giản bản Bắc): Truyền bản này bao gồm: Tụ Văn Đường 1897, 1924; Liễu Văn Đường 1916, 1921, Bảo Đại 1927.

Đoàn Lê Giang

PGS.TS, Trường Đại học KHXH và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM/ University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM; Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay, số 540 tháng 6/2022.

Tài liệu tham khảo

  1. Khuông Việt (1943), “Những bổn Lục Vân Tiên đã xuất bản”, Nam Kỳ tuần báo số 41 (26/6/1943), Sài Gòn
  2. Nguyễn Đình Chiểu (1976), Truyện Lục Vân Tiên, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, NXB.Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
  3. Nguyễn Đình Chiểu (1980), Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải, tập I, NXB.Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội
  4. Nguyễn Đình Chiểu (2008), Lục Vân Tiên truyện: Bản nôm và bản quốc ngữ cổ nhất, Nguyễn Quảng Tuân phiên âm và chú thích, H.: Văn học, Trung tâm nghiên cứu quốc học
  5. Pascal Bourdeaux & Olivier Tessier (2016), Lục Vân Tiên cổ tích truyện/ Histoire de Lục Vân Tiên/ The story of Lục Vân Tiên, NXB. Văn hoá Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, NXB.École française d'Extrême-Orient Paris, tập 2

Ngày 23-11-2021, tại Paris (Pháp), trong phiên họp toàn thể Kỳ họp lần thứ 41 Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO) đã thông qua danh sách “Danh nhân văn hóa và sự kiện lịch sử thế giới niên khóa 2022-2023”.

Trong đó, hồ sơ kỷ niệm 200 năm Ngày sinh nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (sinh ngày 13-5 âm lịch năm Nhâm Ngọ 1822, tức ngày 1-7) của Việt Nam do 4 nước khác cùng đề xuất: Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan nhận được sự đồng thuận tuyệt đối của tất cả các quốc gia. Ông được UNESCO đánh giá là nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với tư tưởng yêu nước, thương dân, nhân đạo và yêu hòa bình.

Một cuộc đời gian truân và vượt qua nghịch cảnh  

Nguyễn Đình Chiểu tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi bị mù lấy hiệu Hối Trai, sinh tại quê mẹ là làng Tân Thới, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định (nay thuộc quận 1, TP Hồ Chí Minh). Tổ tiên xa của ông người Kinh Bắc vào sống ở Đàng Trong đã lâu. Cha là Nguyễn Đình Huy, người xã Bồ Điền, tỉnh Thừa Thiên, vào Gia Định làm thư lại dưới quyền Tả quân Lê Văn Duyệt. Mẹ là Trương Thị Thiệt, vợ thứ của ông Nguyễn Đình Huy.

20220705Tiết mục biểu diễn tôn vinh danh nhân Nguyễn Đình Chiểu trong Hội diễn “Tiếng hát hẹn hò 9 dòng sông năm 2022”. Ảnh: HẠNH LINH.

Mặc dù bị mù từ khi trẻ tuổi nhưng Nguyễn Đình Chiểu không chịu đầu hàng số phận. Ông đã cố gắng học tập, vượt qua nghịch cảnh để trở thành thầy giáo dạy chữ cho dân, thầy thuốc chữa bệnh cho dân. Học trò ông trải khắp Sài Gòn, Cần Giuộc, Bến Tre, đông đến hàng mấy nghìn người. Người dân gọi ông bằng tên gọi vừa kính trọng vừa thân thương: Cụ Đồ hay Đồ Chiểu. Triết lý chữa bệnh của ông là chữa bệnh cho tất cả mọi người, không phân biệt giàu-nghèo. Với ai ông cũng tận tình cứu chữa. Với bệnh nhân quá nghèo, ông chữa miễn phí. Trong “Ngư Tiều y thuật vấn đáp”, ông viết: “Ăn mày cũng đứa trời sinh/ Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không”.

Nguyễn Đình Chiểu nêu tấm gương sáng về y đức, về đạo đức người thầy và tấm gương một con người vượt qua nghịch cảnh để sống có ích cho đời.

Nhà thơ lớn của nhân dân Việt Nam

Nói đến tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, trước hết phải nói đến truyện thơ Nôm “Lục Vân Tiên”. Tác phẩm viết theo thể lục bát, dài trên dưới 2.100 câu, hoàn thành vào những năm 1851-1853 tại quê mẹ. Đây là một bản trường ca ngợi ca chính nghĩa và những giá trị đạo đức ở đời. Nhân vật chính Lục Vân Tiên phản ánh cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu với những bất hạnh mà ông trải qua: Chuẩn bị vào trường thi thì phải bỏ dở về quê chịu tang mẹ rồi bị bệnh, mù cả hai mắt, bị vị hôn thê từ hôn. Các diễn biến khác của câu chuyện vừa là những cuộc đời, những cảnh đời, vừa là những ước mơ của cá nhân ông và của đông đảo người dân. Có thể thấy, “Lục Vân Tiên” có 4 giá trị nổi bật sau đây:

Thứ nhất, "Lục Vân Tiên" đề cao tình nghĩa ở đời: Tình cha con, tình vợ chồng, tình bạn bè, tình thầy trò... Tình nghĩa chính là căn cốt của tâm hồn Việt Nam, của tính cách Việt Nam, của văn hóa Việt Nam. Đã hiếu nghĩa thì phải như Vân Tiên với cha mẹ, Nguyệt Nga với Kiều công, với Lục ông. Đã yêu thì thủy chung son sắt như Nguyệt Nga với Vân Tiên. Tình bạn bè thì phải hết lòng như Vân Tiên, Tử Trực, Hớn Minh... 

Thứ hai, "Lục Vân Tiên" đề cao tinh thần nghĩa hiệp, trọng nghĩa khinh tài (tiền). "Lục Vân Tiên" có vẻ như truyện tài tử giai nhân, nhưng người tài tử ở đây không chỉ học giỏi, đậu cao, đàn hay, vẽ giỏi, si tình ngây ngất mà còn phải có tinh thần nghĩa hiệp, biết quên mình giúp dân, giúp nước. Người dân Việt Nam, nhất là người dân Nam Bộ không ai là không thuộc nằm lòng mấy câu thơ: “Nhớ câu kiến nghĩa bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”.

Thứ ba, "Lục Vân Tiên" thể hiện ước mơ của người bình dân về công lý trong cuộc sống: Ở hiền gặp lành, kẻ ác phải bị trừng trị. Vân Tiên bị mù mắt, bị từ hôn, nhưng kết thúc truyện chàng thi đậu, lập công lớn, mắt chàng sáng ra và chàng được đền bù bằng tình yêu một đời của người con gái đẹp người, đẹp nết Nguyệt Nga. Vị hôn thê trắc nết, tham phú phụ bần Võ Thể Loan; Trịnh Hâm-kẻ một thời là bạn nhưng ác tâm đố kỵ-dù được chàng tha nhưng trời đất không dung tha, kẻ thì bị cọp tha, kẻ thì bị cá nuốt.  

Thứ tư, "Lục Vân Tiên" là truyện thơ viết bằng chữ Nôm, tức là bằng tiếng mẹ đẻ, thể hiện được tâm tình dân tộc. Dù là người "tắm gội" trong văn chương Hán văn, văn chương cử tử nhưng Nguyễn Đình Chiểu lại không sáng tác bằng chữ Hán, ông chọn chữ Nôm-tiếng Việt-tiếng mẹ đẻ của ông, tiếng nói của “đàn bà con trẻ” để sáng tác. Ông kể chuyện một cách bình dân, dễ hiểu nên được dân chúng dễ dàng đón nhận. Do vậy, truyện "Lục Vân Tiên" có sức ảnh hưởng rất lớn trong nước qua nhiều thế hệ.

Ở Việt Nam, đặc biệt là miền Nam, tác phẩm “Lục Vân Tiên” đã đi vào ca dao, dân ca và trở thành một loại hình diễn xướng đặc biệt là “Nói thơ Vân Tiên”. Nó không giống như đọc thơ, cũng không giống như ngâm thơ mà nằm giữa đọc và ngâm, khi hùng hồn, khi êm dịu, lắng đọng tùy theo ý nghĩa của từng đoạn thơ. Tác phẩm “Lục Vân Tiên” còn đi vào đời sống người dân Việt Nam qua nhiều loại hình nghệ thuật khác hết sức phong phú. "Lục Vân Tiên" được chuyển thể thành tuồng, cải lương, thành kịch nói, nhạc kịch, phim truyện, phim truyền hình...  Trên bình diện thế giới, “Lục Vân Tiên” là tác phẩm văn học Việt Nam được dịch ra ngoại ngữ đầu tiên (1864) và là tác phẩm được dịch nhiều thứ ba trong các tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam sau "Truyện Kiều" và thơ Hồ Xuân Hương. Cho đến nay, tác phẩm này được dịch ra 5 thứ tiếng với 11 bản dịch.

Nhà thơ yêu nước, thương dân, yêu hòa bình

Tình cảm nhân đạo, thân dân, yêu hòa bình thể hiện chủ yếu ở văn tế, thơ của Nguyễn Đình Chiểu sáng tác sau khi thực dân Pháp xâm lược. Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là nhà thơ hàng đầu trong dòng văn chương yêu nước Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19 và trong phong trào chống thực dân của các dân tộc Á-Phi - một phong trào được sự ủng hộ rộng rãi của dư luận tiến bộ trên thế giới, phù hợp với hiến chương Liên hợp quốc, trong đó có tổ chức UNESCO. 

Không trực tiếp đánh giặc bằng súng, gươm, Đồ Chiểu chọn lấy cây bút. Nhà thơ đã ghi lại cả một thời kỳ đau thương và vĩ đại của dân tộc với một thái độ yêu-ghét rõ ràng, đúng đắn để cổ vũ cho cuộc kháng chiến và giữ lấy ngọn lửa yêu nước trong nhân dân.

Cuộc kháng chiến ở Nam Bộ là một hiện thực rất mới mẻ. Đó là cuộc chiến tranh nhân dân: Cuộc chiến tranh của những người nông dân tự mình đứng lên chống giặc, dưới sự chỉ huy của những lãnh tụ nghĩa binh từ nhân dân mà ra. Thời đại đã đưa người nông dân lên sân khấu chính trị, trở thành nhân vật chính, người nghệ sĩ chỉ có nhiệm vụ nhìn nhận ra hiện thực mới này và phản ánh nó. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu tạo ra hình tượng bất hủ về người nông dân đứng lên chống thực dân Pháp vì nền độc lập trong bài văn bi hùng “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”. Chưa bao giờ trong văn học nước nhà, người nông dân lại được thể hiện với sức mạnh và vẻ đẹp như thế.

Khi ra trận, người nghĩa dân tự trang bị cho mình bằng những vật dụng quen thuộc hằng ngày: Cái nùi rơm để hút thuốc, con dao phay để làm bếp... Những vật dụng như thế bỗng chốc trở thành vũ khí để chống chọi với “đạn nhỏ, đạn to”, “tàu thiếc, tàu đồng”. Cái gì đã tạo nên những phép thần kỳ ấy? Đó chính là sức mạnh của ý chí con người, của lòng yêu thiết tha quyền tự chủ của dân tộc mình. Chấp nhận đối đầu với vũ khí tối tân, đó là sự lựa chọn tự giác của những người nông dân-một sự lựa chọn quả cảm. Chính tinh thần ấy đã tạo nên sức mạnh phi thường của họ. Nguyễn Đình Chiểu đã vẽ nên bức tranh công đồn sinh động và hào hùng: “Chi nhọc quan quản gióng trống kỳ, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không/ Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có/ Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà, ma ní hồn kinh...”.

Tư tưởng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với chủ nghĩa nhân đạo, thân dân, với tinh thần yêu hòa bình truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong các tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu luôn phản ánh số phận của nhân dân: Nhân dân là nạn nhân đầu tiên của chiến tranh, trong đó Nguyễn Đình Chiểu đặc biệt chú ý đến phụ nữ, trẻ em-những nhóm người yếu thế nhất trong xã hội. Những câu văn sau đây thể hiện một tình cảm nhân đạo-nhân văn sâu thẳm: “Phạt cho đến kẻ hèn người khó thâu của quay treo/ Tội chẳng tha con nít đàn bà đốt nhà bắt vật” (Văn tế nghĩa sĩ trận vong lục tỉnh).

Yêu nước, thương dân, Nguyễn Đình Chiểu không mơ ước gì hơn là đất nước được hòa bình, dân sống yên ổn. Lòng yêu nước của Nguyễn Đình Chiểu gắn liền với tinh thần nhân đạo, thương dân, yêu chuộng hòa bình-một truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam sẽ sống mãi trong trái tim con người. 

 Nhận định về Nguyễn Đình Chiểu, UNESCO cho rằng: “Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là nhà thơ Việt Nam nổi tiếng với tư tưởng yêu nước, thương dân, nhân đạo và yêu hòa bình. Ông cũng là một nhà văn hóa lỗi lạc, người đã phổ biến các quan niệm đạođức của Nho giáo về trung thành, hiếu thảo, thủy chung theo triết lý sống của người Việt Nam. Truyện thơ "Lục Vân Tiên" miêu tả đạo đức và lòng khoan dung của con người là một trong những truyện thơ hay nhất trong các tác phẩm nổi tiếng của văn học Việt Nam. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng như: Tiếng Pháp, tiếng Nhật, tiếng Anh... Mặc dù bị mù lòa, Nguyễn Đình Chiểu vẫn cố gắng trở thành một người thầy giáo đáng ngưỡng mộ và một thầy thuốc có y đức lớn. Dạy chữ và chữa bệnh cho mọi người dân là triết lý sống mà ông theo đuổi suốt đời. Nguyễn Đình Chiểu đã nêu tấm gương về khả năng học tập suốt đời của người khuyết tật mà mọi người trên thế giới có thể noi theo”.

PGS. TS. Đoàn Lê Giang

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh     

Nguồn: Quân đội nhân dân, ngày 01.7.2022.

Thông tin truy cập

70015086
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
14476
25697
70015086

Đang có 424 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website