(Hình minh họa, http://sankhau.com.vn)

            Từ khá lâu, trong giới nhạc Tài tử Nam bộ đã có sự phân biệt ranh giới nhạc Tài tử và nhạc Cải lương kể từ sau khi Cải lương ra đời. Sự phân biệt đó là lẽ tất nhiên, vì hai loại hình có những đặc điểm riêng, nhưng cũng có những nội hàm chung. Tuy nhiên, xưa nay về sự khác biệt giữa hai loại hình này chưa có một công trình nghiên cứu khoa học, hoặc bài viết nào nghiên cứu chuyên đề này, để lý giải sự phân biệt cho thỏa đáng… Bài viết này sẽ đặt vài vấn đề có liên quan, có tính thiết thực của đề tài.

NCS. Đỗ Dũng

Từ khá lâu, trong giới nhạc Tài tử Nam bộ đã có sự phân biệt ranh giới nhạc Tài tử và nhạc Cải lương kể từ sau khi Cải lương ra đời. Sự phân biệt đó là lẽ tất nhiên, vì hai loại hình có những đặc điểm riêng, nhưng cũng có những nội hàm chung. Tuy nhiên, xưa nay về sự khác biệt giữa hai loại hình này chưa có một công trình nghiên cứu khoa học, hoặc bài viết nào nghiên cứu chuyên đề này, để lý giải sự phân biệt cho thỏa đáng… Bài viết này sẽ đặt vài vấn đề có liên quan, có tính thiết thực của đề tài.

          Nếu ai đó yêu thích phim của Ozu Yasujirō, bậc thầy của điện ảnh Nhật Bản, người sử dụng chính xác từng khuôn hình, từng đồ vật trong khuôn hình để tạo nên những kiệt tác điện ảnh vĩ đại và rồi bất chợt nhìn thấy bức họa Las Meninas của Diego Velazquez thì ít nhiều sẽ có sự liên tưởng. Không chỉ vậy, chúng ta còn có thể nhìn ra được những liên hệ đầy lí thú giữa hai loại hình nghệ thuật điện ảnh và hội họa thông qua bức họa này.

Ngày 13 tháng 11 năm 2013, trong chuỗi hội thảo văn hóa thuộc Chương trình Giáo Dục Tổng Quát, trường Đại học Hoa Sen, ban tổ chức đã mời Đạo diễn Đặng Nhật Minh  tới nói chuyện với sinh viên và giảng viên, cùng thân hữu của trường. Đạo diễn Đặng Nhật Minh đã cuốn hút gần 100 khán giả bởi lối nói đơn giản, sâu sắc, chia sẻ những trải nghiệm chân thực, đam mê, nhiệt huyết, và hiểu biết sâu rộng về điện ảnh. Buổi nói chuyện được phân làm ba phần: 1. Hướng đi riêng, 2. Lịch sử điện ảnh, và 3. Giao lưu với khán giả.

Ước lệ, không phải thủ pháp nghệ thuật. Ước lệ là loại hình ngôn ngữ, quy chuẩn các trạng thái tồn tại nghệ thuật và cuộc sống, ước định hiện thực hoá tự nhiên xã hội. Ngôn ngữ ước lệ tĩnh và động, biểu trưng các dạng tồn tại không điều kiện, mặc nhiên toàn xã hội công nhận một hình thức diễn tả đời sống con người và trong các loại hình nghệ thuật.

Nhà soạn nhạc Nga Sergei Rachmaninov từng nói: “Âm nhạc đủ cho một đời nhưng một đời không đủ cho âm nhạc.” Câu nói đó như thể tổng kết cả cuộc đời của nhạc trưởng Claudio Abbado. Bạn bè ông kể lại, vài ngày trước khi qua đời, ông vẫn còn nghiên cứu giao hưởng của Schumann, như thể mới 18 tuổi.

Chiều muộn ngày 27/1/2014. Quảng trường Scala, Milan, Ý.

     Khi nhìn vào những thành tựu phát triển khoa học và công nghệ của con người ngày hôm nay, ta không tránh khỏi cảm giác ngưỡng mộ, tự hào. Song, hãy thử thoát ra khỏi cái nhìn có tính so sánh, ta sẽ thấy mọi thành tựu tự bản thân nó vào lúc xuất hiện, trong trạng thái cuối cùng của thành tựu, bao giờ nó cũng mang tính chất gây ngưỡng mộ.

Nhạc cổ truyền đối với chúng ta là một loại nhạc xưa được truyền tụng cho tới ngày nay. Tân nhạc là loại nhạc mới.

Mới ở đây là nghĩa gì? Có phải là loại nhạc soạn theo nhạc ngữ Âu Mỹ, hay nói một cách khác, là các bài nhạc được soạn trong khoảng 70 năm nay (từ năm 1930) theo kiểu Tây phương nghĩa là có hòa âm, dùng các nốt nhạc như Do-Re-Mi-Fa-Sol-La-Si-Do mà không dùng Hò, Xự, Xang, Xê, Cống, Líu như trước thời Pháp thuộc? Có những bài ca như Vọng cổ, Tứ Đại Oán, vàrất nhiều bài bản được sáng tác cho hát cải lương miền Nam có phải là cổ nhạc hay tân nhạc, vìcác bài này được sáng tác từ khoảng đầu thế kỷ thứ 20 trở đi? Vấn đề "Cổ" và "Tân " hoàn toàn tương đối tùy theo quan niệm, nhận xét của người nghiên cứu.

I. Nhận quê tổ đã thành một vấn đề

Cũng như bao nhiêu sản phẩm tinh thần khác, ca trù có nguồn gốc với các điều kiện văn hóa, điều kiện địa lý và thời điểm lịch sử sản sinh ra nó. Ca trù cũng có thể còn có dấu tích, dấu ấn của thời điểm lịch sử và vùng văn hóa mà nó sinh ra và có khả năng, với những đặc điểm, dấu tích đó cho phép chúng ta hy vọng tìm ra nguồn cội của ca trù ngoài hướng tìm qua thư tịch. Hướng tìm qua thư tịch khá mong manh vì công việc lưu trữ của chúng ta không tốt lại thiên tai địch họa liên miên và việc ghi chép cẩn thận cũng chưa phải là thói quen xưa nay. Trong điều kiện như vậy, khi nghiên cứu nguồn gốc ca trù nhiều người đã lấy truyền thuyết làm tư liệu tham khảo mặc dù truyền thuyết tổ quê ca trù vốn mù mờ lại có ở nhiều nơi trên đất nước.

Những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật.

Các nhà triết học thời cận đại, từ Hegel đến Heidegger cũng đều công nhận rằng: những ý tưởng về mỹ học chỉ có thể đến sau các tác phẩm nghệ thuật. Tuy nhiên, trên thực tế, những tư tưởng triết học, hay tôn giáo, đã có những ảnh hưởng quyết định lên các nền nghệ thuật, từ những tư tưởng triết học của Platon về cái đẹp tuyệt đối, về những ý tưởng tiên nghiệm của Thượng đế, và những lý thuyết cổ điển của Aristote về nghệ thuật, coi nghệ thuật như là một sự sao chép thiên nhiên, đến những tư tưởng tôn giáo của Saint Augustin về quan hệ gắn bó giữa con người và Chúa sinh ra vạn vật; rồi từ những tư tưởng của Descartes về vai trò của chủ thể, đến luận thuyết của Kant về tính chất chủ quan của cái đẹp, v.v..

1. Từ văn chương đến điện ảnh

 

Trước kia, trong nền nghệ thuật kinh điển, các nhà văn thường sử dụng tiếng Latin và tiếng Hy Lạp để sáng tác và trong giáo dục ở lĩnh vực khoa học nhân văn. Nhưng đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, ngôn ngữ thông tục được đưa vào việc học tập và các nhà văn bắt đầu chuyển sang sử dụng tiếng Pháp, tiếng Anh. Đây cũng là thời kỳ có nhiều chuyển biến đặc biệt trong lĩnh vực công nghiệp. Theo quan điểm lúc bấy giờ, tác phẩm văn chương được viết bằng tiếng mẹ đẻ mới có thể mang đến sự phản ánh sâu sắc và toàn diện về đời sống văn hoá, xã hội của đất nước. Nhà nghiên cứu người Anh Matthew Arnold đã nói rằng:

 

(Bìa sách "Hồn Trương Ba da hàng thịt - Tuyển kịch Lưu Quang Vũ", nguồn: vnexpress.net)
 
Khi Lưu Quang Vũ bắt đầu nổi tiếng trên kịch trường cũng là lúc nhân loại đã chuyển hẳn sang thời kì hậu hiện đại. Lúc này, yếu tố cá nhân vẫn được xem xét nhưng không còn là những nhân vị hoàn hảo, có thể phán xét và trở thành biểu tượng đơn nhất, độc tôn về thân phận con người. Cá nhân bây giờ là những mảnh vỡ. Họ không thể đại diện cho bất kì ai và ngay chính bản thân họ. Loài người vẫn đang mãi loay hoay tìm kiếm trong vô vọng lời đáp cho ba câu hỏi lớn: Ta là ai? Ta đến từ đâu? và Ta sẽ về đâu?

Sự thành công của Vũ Ngọc Đãng trên màn ảnh nhỏ với hai bộ phim truyền hình “Tuyết nhiệt đới” (phát sóng năm 2006) và “Bỗng dưng muốn khóc” (phát sóng năm 2008) đã tạo ra một lực hút mạnh mẽ kéo khán giả đến rạp vào dịp tết Kỷ Sửu để xem “Đẹp từng centimet” ngay từ ngày khởi chiếu (15/1/2009). Mặc dù vẫn mang lại doanh thu đạt ở mức kỷ lục tại Việt Nam trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua (kinh phí làm phim: 4 tỉ đồng, doanh thu: 10,1 tỉ đồng), trong phim có sự xuất hiện của cặp đôi diễn viên ăn khách hiện nay (Lương Mạnh Hải – Tăng Thanh Hà), bộ phim đã thực sự là một thất bại và đạo diễn Vũ Ngọc Đãng đã không thực hiện được “tham vọng” nối tiếp sự thành công của “Bỗng dưng muốn khóc” bằng 108 phút trong “Đẹp từng centimet”.

Có một hôm, tôi đi xem kịch ở sân khấu Phú Nhuận và gặp Việt Linh đi cùng Minh Trang. Có lẽ hai bà chị không để ý có một khán giả ra về cứ lặng lẽ quan sát nét mặt của họ. Vài hôm sau, trên một tờ báo, Minh Trang bày tỏ sự day dứt vì sân khấu kịch: “… sau 30 năm, so với những Hà Mi, Phồn Y… thuở ấy, chẳng những không tiến mà còn bị lùi.” (Nghệ sĩ Minh Trang: “Người hạnh phúc là người biết mình ở đâu”, báo Phụ nữ TP). Tôi chỉ thấy hai bà chị này đáng trách, ai bảo thấy vở kịch có cái tựa Cúc cù cúc cu và một cái tên phụ là Xin anh hãy ngủ với vợ em mà vẫn đi xem! À, tôi cũng thấy, nhưng tôi không phải người ăn cơm nghệ thuật, lại thêm máu ghiền kịch thành ra hay rơi vào trạng thái xem đỡ vã. Còn hai bà chị lâu lâu mới về nước thì phải cân nhắc chớ. Nhưng không hiểu sao trong tôi lúc ấy lại nảy ra một sự chờ đợi, chờ đợi Việt Linh và Minh Trang sẽ làm điều gì đó cho sân khấu kịch.

20240813

1. “Chữa lành” - một xu hướng của văn học thế giới

Xu hướng “chữa lành” trên toàn cầu xuất phát từ sự nhận thức về tầm quan trọng của sức khỏe tinh thần. Theo báo cáo của Viện Đo lường và Đánh giá Y tế trên thế giới, cứ 8 người thì có 1 người mắc chứng rối loạn tâm thần, tương đương với 970 triệu người. Tới năm 2020, chỉ sau một năm đại dịch Covid-19 hoành hành, con số này đã tăng lên đáng kể. Tại Việt Nam, trong khoảng một thập kỉ qua, tình trạng tự tử của thanh thiếu niên đã tăng hơn 40%. Những con số đáng báo động ấy là hồi chuông cảnh báo mỗi cá nhân và xã hội cần quan tâm nhiều hơn tới tình trạng sức khỏe tinh thần. Chính vì lẽ đó, trên thị trường hay các phương tiện truyền thông, rất nhiều sản phẩm, văn hóa phẩm phục vụ nhu cầu xoa dịu tâm hồn con người ngày càng phổ biến rộng rãi, trong đó có văn học.

Với phương tiện ngôn từ vốn là chất liệu tự nhiên của mỗi cá nhân, phương pháp viết trị liệu không đòi hỏi cầu kì trong sáng tác, có thể áp dụng được cho mọi đối tượng, nên được quan tâm và ứng dụng nhiều hơn cả. Viết chữa lành là một phương pháp chữa lành cả người sáng tác lẫn người tiếp nhận. Đối với người sáng tác, việc viết về nỗi đau là một cách đối diện, từ đó sẽ có những biến chuyển, đưa đến những nhận thức khác về các giá trị sống đã từng bị chấn thương bóp méo. Đối với người tiếp nhận, nỗi đau “tiêu hóa” bằng sự sẻ chia và đồng cảm. Đồng thời những kinh nghiệm thoát khỏi sang chấn tâm lí của người viết cũng sẽ ảnh hưởng tới người đọc và đồng hành cùng họ trong quá trình tự chữa lành.

Giữa bối cảnh nhập nhèm của một thị trường viết chữa lành xô bồ, có rất nhiều người quan ngại về khả năng thực sự của phương pháp trị liệu này. Liệu viết có thực sự chữa lành hay không? Nhiều người cho rằng chữa lành vốn là chức năng thường trực của văn chương và bản thân hành động viết đã là sự chữa lành đối với người sáng tác. Nhưng nếu thế, tại sao từ cổ chí kim, biết bao nhiêu nhà thơ, nhà văn lẫy lừng vẫn chọn những cách cực đoan nhất để kết thúc cuộc đời mình? Ắt hẳn để văn học có tác dụng chữa lành thực sự, để văn học chữa lành khác với chức năng chữa lành vốn có của văn chương, phải có giới hạn nhất định. Giới hạn này sẽ gắn liền với tâm lí học trị liệu. Trong bài viết Viết có chữa lành được không?, Khải Đơn cho rằng “chữa lành không có nghĩa là tô vẽ nỗi đau cho đậm nét”. Có những bài viết về chấn thương của những nạn nhân bị lạm dụng tình dục đã mô tả chi tiết cảm giác lúc bị bạo hành, bị cưỡng hiếp như thế nào. Những sáng tác ấy không tài nào chữa lành được mà chỉ đưa nạn nhân trở lại với thời khắc của bạo lực, với sự bất lực của bản thân và nỗi căm thù không thể nào xóa bỏ. Ngoài ra, tuy viết chữa lành không đòi hỏi người sáng tác phải có cảm nhận nghệ thuật tinh tế như một nhà văn, nhà thơ thực thụ nhưng việc sử dụng những hình tượng sống sượng, ngôn từ thô kệch sẽ đơn giản hóa nỗi đau, gợi nên cảm giác đau đớn thông thường chứ không đưa ta đến với rung động thẩm mĩ hay những suy tư sâu sắc. Nhìn chung, biết được giới hạn trong việc “viết chữa lành” là cách để người viết không sa đà vào những cảm xúc tiêu cực quanh quẩn. Đồng thời, người đọc cũng có thể đặt ra một giới hạn tiếp nhận để có thể chọn lọc những tác phẩm đem lại cảm giác đồng cảm, chia sẻ hơn là kích phát kí ức đau đớn sống dậy.

Xu hướng chữa lành đang hiện diện trong dòng chảy văn học thế giới. Ở khu vực các nước sử dụng tiếng Anh, có rất nhiều tác phẩm chữa lành đa dạng về thể loại được công bố và được công chúng tiếp nhận. Về tiểu thuyết có We are the light (Chúng ta là ánh sáng) của Matthew Quick, Time of the locust (Thời đại châu chấu) của Morowa Yejide, của Marjorie Celona, The why of things (Tại sao mọi sự xảy đến) của Elizabeth Hartley Winthrop, A quiet life (Một đời bình lặng) của Ethan Joella, The life list of Adrian Mandrick (Danh sách cuộc đời của Adrian Mandrick) của Chris White, The map of salt and stars (Bản đồ của muối và sao) của Zeyn Joukhadar... Đa phần các tác phẩm này được dẫn dắt theo hành trình chữa lành, đi từ thời điểm khó khăn nhất của nhân vật, phải vật lộn để sống với sang chấn tâm lí, đến khi nhận thức lại chấn thương và các giá trị sống rồi dịu lòng trở lại. Còn về thơ, đây là một địa hạt màu mỡ sản sinh rất nhiều tác giả - tác phẩm. Nổi bật trong số các cây bút thơ chữa lành phải kể đến Rupi Kaur. Nữ nhà thơ Canada gốc Ấn này không chỉ sở hữu tập thơ đầu tay Milk and Honey (Sữa và mật) nằm trong danh sách bán chạy nhất của The New York Times, được dịch ra nhiều thứ tiếng và tiêu thụ 3,5 triệu bản trên toàn cầu, mà cô còn được các nhà nghiên cứu văn học quan tâm. Masini đã thực hiện luận án tiến sĩ có tên Rupi Kaur’s Poetry: Trauma and Healing (Thơ ca của Rupi Kaur: Chấn thương và chữa lành) để mổ xẻ về chấn thương, ẩn ức trong thơ của Rupi Kaur, đồng thời cũng làm rõ quá trình chữa lành bằng cách sáng tác của nữ thi sĩ này. Không dừng lại ở một cái tên lừng danh, thơ chữa lành còn hiện diện đầy rẫy trên mạng xã hội, với những cây bút không chuyên. Có một số cá nhân, tổ chức đã tập hợp những bài thơ hay lại để đưa vào một chuyên mục trên website (chẳng hạn như chuyên mục Poems of Sickness, Illness, and Recovery của Poetry Foundation), hoặc blog. Thậm chí, hệ thống chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần của Liên hợp quốc cũng phát động sáng tác thơ chữa lành rồi biên tập lại thành một tác phẩm mang tên Sauti. Có thể thấy, văn học chữa lành đang là mối quan tâm trên toàn cầu.

Ở châu Á, tình hình có một chút khác biệt. Tại Trung Quốc, các sáng tác văn chương chữa lành dường như không quá phát triển. Theo khảo sát từ mạng xã hội zhihu, có thể thấy những tác phẩm chữa lành đúng nghĩa thường là văn học dịch từ tiếng Anh. Điểm đặc biệt nhất của tình hình “chữa lành” tại nước này là sự hình thành một ngách mới trong thể loại tiểu thuyết ngôn tình - chữa lành cứu rỗi. Đa phần các tác phẩm thuộc thể loại này đề cập đến chấn thương tâm lí của nam hoặc nữ chính và quá trình tình yêu chữa lành những tổn thương ấy. Tuy nhiên, thị trường tản văn chữa lành tại đất nước tỉ dân lại khá sôi động. Các tác phẩm như 999 lá thư gửi cho chính mình của Miêu Công Tử, Đợi đi... vết thương nào rồi cũng lành của Lư Tư Hạo, Ngoảnh lại đã một đời của Bạch Lạc Mai... không chỉ được đón nhận tại Trung Quốc mà còn được phổ biến tại các thị trường khác, trong đó có Việt Nam. Tại Hàn Quốc, tiểu thuyết chữa lành được dự đoán sẽ trở thành một thể loại thịnh hành. Những tác phẩm này thường mang lại cảm giác thư thái, giúp an ủi và tiếp thêm sinh lực cho người đọc. Vì mục tiêu cốt yếu là cảm giác thư giãn nên các tác phẩm tiểu thuyết chữa lành của Hàn Quốc thường không có cốt truyện phức tạp mà tập trung vào các vấn đề như sự đồng cảm, chữa lành, an ủi... Dòng chảy văn học chữa lành Hàn Quốc cũng tràn vào Việt Nam, tiêu biểu có Cửa hàng tiện lợi bất tiện của Kim Ho Yeon.

Dẫu Hàn và Trung có những bước chạy hòa vào xu thế chữa lành chung thế nào, cũng không bì kịp với thị trường chữa lành tại Nhật Bản. Ở xứ sở hoa anh đào, chữa lành có một từ riêng, gọi là “iyashi”. Người Nhật không đợi đến mấy năm gần đây mới nói về chữa lành mà họ đã phổ biến khái niệm này trên truyền thông đại chúng từ những năm 1980. Bởi vì có lịch sử hình thành lâu đời nên văn học Nhật Bản nhanh chóng hình thành một thứ thi pháp chữa lành riêng, tập trung vào việc gợi không gian đầy cảm giác với những đoạn văn miêu tả miên man, không phục vụ cho việc phát triển tình tiết truyện. Những nhà văn nổi tiếng gắn với tiểu thuyết chữa lành Nhật Bản có Murakami Haruki, Yoshimoto Banana, Kurita Yuki, Seo Maiko, Oshima Masumi...

2. Thơ “chữa lành” ở Việt Nam trên mạng xã hội

Khi xu hướng văn học chữa lành tiến vào Việt Nam, các thể nghiệm xuất hiện ở các thể loại có dung lượng ngắn như thơ, tản văn hoặc truyện ngắn. Tại thị trường Việt Nam chưa xuất hiện các tiểu thuyết chữa lành nổi trội.

Thơ chữa lành tại Việt Nam đa phần sinh ra, bước ra từ không gian mạng xã hội. Với những đặc trưng như tính nhanh chóng, tiện lợi, xác suất tiếp cận với đối tượng người đọc mục tiêu cao, mạng xã hội nhanh chóng trở thành mảnh đất màu mỡ để các cây bút trải lòng. Không những thế, mạng xã hội còn tạo được một cộng đồng mà ở đó người ta sáng tác và tiếp nhận lẫn nhau, mang tới sự sẻ chia, đồng cảm, thứ mà tâm lí học trị liệu gọi là liệu pháp trị liệu liên cá nhân. Có nhiều nhà nghiên cứu đề cao liệu pháp này cho rằng, chấn thương tâm lí của một người đa phần đến từ sự gãy đổ liên kết giữa cá nhân với tha nhân. Thế nên việc khôi phục lại sự gắn kết này bằng những lời khuyến khích, khen ngợi, động viên, thông cảm sẽ giúp ích rất nhiều trong quá trình lành thương.

Với đối tượng sử dụng mạng xã hội chủ yếu là Gen Y và Gen Z, đồng thời với đặc trưng của từng loại mạng xã hội mà ở Việt Nam, thơ chữa lành được sáng tác và tiếp nhận sôi nổi nhất trên facebook và instagram. Một số tài khoản được quan tâm nhiều: @apoembeforeyougo, @giakypoem, @alistenerneedsalistenertoo, @poem.from.a.virgin.mind... trên instagram; Châu sa đáy mắt, Linh Pham, Xanh Lam... trên facebook. Trong xu hướng văn học mới này, có những cái tên khá uy tín trên thi đàn và có số lượng tuyển tập tác phẩm được xuất bản, tái bản nhiều lần - Nhược Lạc và Lu.

Nhìn chung, thơ chữa lành là những bài thơ được sáng tác nhằm mục đích chữa lành các vấn đề tâm lí cho người viết thông qua quá trình viết trị liệu, cũng như chữa lành cho người đọc thông qua quá trình đọc trị liệu, kể cả khi người viết lẫn người đọc có chủ đích thực hiện các phương pháp trị liệu này một cách bài bản hay không. Bản thân thơ chữa lành được sáng tác khi người viết có ý thức viết để chữa lành vết thương tâm hồn của cá nhân cũng như người đọc đọc một bài thơ trong sự đồng cảm và khao khát chữa lành chính mình. Việc sáng tác thơ chữa lành có thể đưa người viết tới một nhận thức mới về chấn thương, đồng thời cũng sẽ có cách tiếp nhận khác để chấn thương ấy không còn giày vò tinh thần, tâm trí họ. Nội dung thơ chữa lành xoay quanh nhiều vấn đề trong cuộc sống nhưng luôn bám sát hai giai đoạn cơ bản của quá trình vượt qua sang chấn: (1) đối diện với chấn thương, (2) nhận thức lại và kết nối lại với cuộc sống.

Ở giai đoạn (1) người viết phải đối diện với những chấn thương tâm lí của mình, phơi bày những kí ức khiến họ đau khổ. Điều đầu tiên mà người bệnh cần làm được để khởi động quá trình chữa lành đó chính là đối diện với chấn thương của mình bằng cách thừa nhận rằng bản thân đang đau đớn, đang cảm thấy kiệt quệ với cuộc đời này, ví như mày vẫn sống, nhưng sống còn thua chết/ nay và mai đời mày vẫn giống hệt hôm qua/ từng tế bào trong mày đang thảm thiết xin tha/ mày cứ sống như thế thì thà mày đã chết/ không phải tao không biết/ giá mà tao được quyền giết chính tao/ được biến mất mà không đả động đến kẻ nào/ chứ giờ tao chết sao/ thì họ cũng có cớ để xôn xao bàn tán (thơ Châu sa đáy mắt, đăng facebook ngày 24/11/2023).

Trong thực tế, việc có thể phát ngôn và thừa nhận về tình trạng của mình là một bước tiến lớn trong quá trình trị liệu bởi phần lớn những người bị sang chấn gặp rất nhiều trở ngại để có thể nói lên vấn đề của mình. Đối diện với chấn thương không có nghĩa là bắt người bệnh đứng dưới một sự thật trần trụi hay lôi tuột họ quay lại và sống với những thời khắc gian nan trong quá khứ. Quá trình này chỉ nên nhìn nhận cảm xúc thật sự của mình, nhìn xem những tháng năm qua mình đã đau đớn, chật vật như thế nào và dừng việc cố gắng nói với thế gian rằng mình vẫn đang tốt đẹp. Để viết về những vấn đề kinh khủng nhưng không tạo ra cảm xúc tiêu cực quá nặng nề, người viết có thể sử dụng ẩn dụ, các cách diễn đạt mơ hồ hóa sự kiện để li kiến với nỗi đau, tránh đối diện trực tiếp với chấn thương trần trụi. Những bài thơ này hầu hết tập trung nhìn nhận, đối diện với cảm xúc của chính mình hơn là mô tả nguồn gốc chấn thương.

Kết nối lại với cuộc sống và sự tái hòa nhập với các mối quan hệ xung quanh là một vấn đề quan trọng của quá trình chữa lành. Ở giai đoạn (2) để có thể đạt được mục tiêu nhận thức lại và kết nối lại với cuộc sống, thơ chữa lành phải đơn giản như cuộc sống đời thường. Người viết có thể sử dụng những từ ngữ phổ biến để nói về những vấn đề đơn giản, dung dị của cuộc sống. Bên cạnh đó, lời thơ thường mạch lạc, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, tránh những diễn đạt phức tạp. Trong giai đoạn này, những cảm xúc và biến chuyển thường thấy ở người sáng tác là bắt đầu xuất hiện cảm giác thèm sống sau những đêm dài chán nản vật lộn giữa ranh giới sống - chết. Họ dần chấp nhận tổn thương là một điều đã xảy ra, là một lịch sử trong kiếp người này. Có những người dần khỏe lại và cảm giác dạt dào tình yêu với cuộc sống lại bắt đầu chan chứa. Có người lại thấy bình yên trong những củi gạo mắm muối đời thường kiểu như: đi về rửa bát quét nhà/ tưới cây vo gạo luộc gà nhặt rau/ không ngồi đợi những mai sau/ cũng không nằm nhớ cuộc đau năm nào/ nếu đời là giấc chiêm bao/ cảm ơn đã để em vào ru tôi (thơ Lu, đăng trên instagram ngày 13/6/2022).

Ngoài hai giai đoạn trên, thơ chữa lành tại Việt Nam còn có một nhánh nội dung khá nổi trội là đối thoại với người đọc. Nhìn chung, trong nhóm thơ này, tác giả thường tự xưng là “mình” và thương mến gọi nhóm độc giả mục tiêu của mình là “em”. Điều này sẽ tạo ra sự vỗ về, bảo bọc, che chở do nghĩa của từ “em” thường để dành cho một người nhỏ tuổi hơn hay kém vai vế hơn trong một mối quan hệ. Không những thế, từ “em” còn mang sắc thái nhỏ bé, cần được chăm sóc, quan tâm. Tác giả có xu hướng hướng tới những người đọc nhỏ tuổi, ít kinh nghiệm với những chấn thương, va vấp hơn mình. Đa phần những bài thơ đối thoại với người đọc thường xoay quanh hai vấn đề chính: thứ nhất, người viết thấu hiểu sự đau khổ, khó khăn của người đọc từ đó công nhận nỗ lực sống của họ; thứ hai, người viết khuyên và mong muốn người đọc vượt qua chấn thương, ở lại với cuộc đời lâu hơn. Thông qua những bút pháp riêng, thơ chữa lành mang tính đối thoại tiếp cận tới độc giả, tạo nên sự chia sẻ, thông cảm, giúp người viết kết nối với người đọc. Có thể nói, người viết tạo ra thơ chữa lành với mục đích chữa lành bản thân nhưng đồng thời thông qua quá trình tiếp nhận, những tác phẩm cũng có thể tiếp cận và chữa lành người đọc. Người đọc đồng cảm với vấn đề của người viết. Trong quá trình tương tác đó, người viết và người đọc gắn kết với nhau, hoàn thành mục tiêu cuối cùng trong quá trình chữa lành - kết nối xã hội.

Thơ chữa lành coi trọng việc xây dựng lại mối quan hệ giữa người với người nên đặc điểm hình thức cũng xoay quanh mục tiêu này. Đa phần thơ chữa lành đều có hình thức đơn giản, dễ đọc, dễ hiểu, dễ tiếp cận. Thơ chữa lành thường được sáng tác bằng các thể quen thuộc như thơ tự do, thơ năm chữ, lục bát... Ngoài ra, ngôn ngữ thơ không triết lí, bác học mà đời thường, đôi khi có thêm phần hồn nhiên, tươi trẻ. Kết hợp với thể thơ đơn giản, ngôn từ bình dị ấy là giọng điệu nhẹ nhàng. Thơ chữa lành luôn nhẹ nhàng, không lên gân gay gắt kể cả khi đề cập đến những vấn đề bi quan, tiêu cực nhất. Chính sự đơn giản, nhẹ nhàng, dịu êm đã tạo nên đặc điểm hình thức rất đỗi đặc trưng cho loại thơ này.

Có thể nói, thơ chữa lành không chỉ là một hiện tượng văn học mới tại Việt Nam mà còn là một nhu cầu bức thiết của hoàn cảnh lịch sử xã hội. Ở thời điểm hiện tại, chấn thương có mặt ở khắp mọi nơi từ gia đình tới nhà trường, từ thế giới thực cho tới mạng xã hội ảo. Chính vì thế, văn học chữa lành xuất hiện để dùng sự ấm áp vỗ về những tâm hồn rạn vỡ. Có thể nói, nếu đặt văn học chữa lành nói chung, thơ chữa lành nói riêng trên mạng xã hội tiếng Việt bên những trào lưu văn học khác, các tác phẩm chữa lành sẽ yếu thế hơn nhiều. Văn học chữa lành có thể chỉ là một xu hướng, hiện tượng lướt ngang đời sống văn học của thế kỉ XXI nhưng cũng có thể sẽ ghi dấu ấn trong lòng người viết lẫn người đọc nhờ những giá trị thiết thực và do đó xứng đáng được quan tâm nhiều hơn.

Nguyễn Tiểu Linh

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 21.6.2024.

Bài hát nổi tiếng “Trở về mái nhà xưa” (Torna a Surriento) của Ernesto de Curtis (Ý) được Phạm Duy viết lời Việt đã ngân vang từ nhiều năm nay và thường được hiểu như một bài ca về về tình hoài hương hay nói về tình yêu nhưng sự thực không phải thế. 

(Đọc Đêm của Elie Wiesel, Nxb Hội Nhà văn & Tao Đàn, 2019)

“Ngày hôm nay, tôi không cầu nguyện nữa. Tôi không đủ khả năng rên rỉ mãi. Trái lại, tôi cảm thấy rất mạnh mẽ. Tôi là người tố cáo. Và bị cáo: Đức Chúa. Đôi mắt tôi mở ra và tôi đơn độc, vô cùng đơn độc trong thế giới, không có Chúa, không có loài người. Không tình yêu cũng không thương xót. Tôi chẳng là gì ngoài tro bụi, nhưng tôi lại thấy mình mạnh mẽ hơn Đấng Toàn Năng đã bó buộc cuộc đời tôi bấy lâu nay.”

20210522 2

Trong số những bản thảo còn sót lại của Franz Kafka, Vụ án là một trong những văn án được đánh giá cao nhất. Có người xem đó như một sự tái hiện huyền thoại của Adam và Eva khi ăn phải trái cấm rồi bị đuổi khỏi Vườn Địa đàng. Thế nhưng, Vụ án khi được nhìn lại sau 100 năm phải chăng còn là một lời tiên tri, lời tiên tri dành cho vụ án kinh hoàng nhất lịch sử nhân loại - án oan của những con người Do Thái dưới sự cai trị tàn bạo của Adolf Hitler?

Mở đầu Vụ án là sự việc nhân vật Joseph K đối diện với cáo buộc về một tội danh anh không hề hay biết. Xuyên suốt câu chuyện là hành trình Joseph K miệt mài tìm cách giải oan cho mình ngay cả khi không biết tội trạng của bản thân là gì và thậm chí, mù tịt luôn cả việc ai là người đưa ra cáo buộc dành cho anh. Tương tự với Joseph K, người dân Do Thái trong suốt bốn năm Chiến tranh Thế giới thứ hai xảy ra đã trở thành bị cáo không tội trạng, bị bắt bớ, giam cầm và tàn sát trong những trại tập trung được bày bố rộng khắp châu Âu dưới sự cai quản của Phát xít Đức. Là một người Do Thái, đồng thời là một trong những nạn nhân nhỏ tuổi nhất của nạn diệt chủng, Elie Wiesel đã bất chấp những đau đớn, dày vò khi lục tìm trong ngăn hòm kí ức từng trải nghiệm đau thương thời gian bị nhốt trong những trại tập trung từ thuở thiếu thời để viết nên Đêm - câu chuyện mà “nếu trong cuộc đời tôi chỉ được viết một cuốn sách duy nhất, thì có lẽ sẽ là cuốn sách này” (Elie Wiesel).

Đêm không phải là một thiên sử thi đồ sộ viết về chiến tranh nhưng lại càng không phải là gói gọn của một buổi đêm đầy biến động. Trái lại, câu chuyện sự nối dài của những màn đêm tăm tối, vô vọng đến không lối thoát - màn đêm của tự nhiên, của thời cuộc và của số phận những con người Do Thái. Từ năm 1941, những trại tập trung được dựng nên, trở thành mức hành hình cao nhất đối với người Do Thái. Nó là nỗi ám ảnh kinh hoàng, là cơn ác mộng của đời thực. Trại tập trung: nơi người ta chứng kiến linh hồn của mình, gia đình, bạn bè từng ngày một dần mòn chết đi. Bước vào đó, mỗi người đều phải thực hiện nghi thức “gột rửa”. Giống như bước sang một trang mới của cuộc đời, nghi thức này như tẩy sạch đi con người của quá khứ, cuốn trôi đi những tháng ngày tươi đẹp và để lại duy nhất sự hoang mang, trống rỗng cùng nỗi sợ hãi tột cùng. Từ thời khắc đó, mỗi một người Do Thái với thân thể kiệt quệ, rỗng tuếch phải vật vã từng ngày, chạy đua từng ngày để tranh giành từng hơi thở, níu kéo từ giờ phút được sống mà chẳng biết rằng trên chính đường đua đó, người ta từng bước một lún sâu vào địa ngục, từng bước một đến gần với cái chết. Bởi lẽ, bước chân vào trại tập trung, thứ đầu tiên người ta bị tước đoạt chính là nhân hình: họ bị đánh đập bởi đòn roi tàn nhẫn, bị vắt kiệt bởi những căn bệnh không được chạy chữa, bởi cái đói từ những bữa ăn cầm hơi và cái giá lạnh trước sự thiếu vắng tình người.

Trại tập trung không chỉ phá nát vỏ bọc thân xác của con người mà lấy đi cả phần cốt cách của con người, lấy đi thứ phân biệt con người ta với những loài súc sinh vô tình - nhân tính. “Ở đây, mỗi người phải đấu tranh cho chính mình và đừng nghĩ đến những người khác. Thậm chí không nghĩ đến cha mình. Ở đây, cha không có nghĩa lý nữa, không anh em, không bạn bè. Mỗi người sống và chết cho chính mình, một mình.” Nhân tính còn đâu khi người ta bỏ mặc tất cả bao gồm cha mẹ, gia đình mình chỉ vì sự sống của bản thân? Nhân tính còn đâu khi người ta như trở về làm những loài động vật chỉ biết đến sự sống và cái chết của mình, chỉ biết sống bằng cái chết của những kẻ khác? Không còn nhân tính thì sự sống của con người có còn nghĩa lý ngoại trừ những vỏ bọc rủng roảng cùng một linh hồn chết ngấm?

Trong Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ, Svetlana Alexievich có viết: “Chiến tranh kết thúc... phải học lại lòng trắc ẩn. Nhưng chúng ta có thể tìm lại lòng trắc ẩn từ đâu?” Đúng thế, chúng ta có thể tìm lại lòng trắc ẩn, tìm lại linh hồn, nhân tính của mình từ đâu khi mà cuộc chiến kia đã đánh cắp của ta tất cả? Người ta thường nghĩ máu và xác người nuôi lớn những cuộc chiến nhưng họ lại quên rằng thứ mà hết thảy chúng ta đánh đổi cho mọi cuộc chiến chính là lòng trắc ẩn, sự nhân từ. Để rồi, chiến tranh qua đi, người ta chẳng thể làm gì ngoài ân hận, hối lỗi và dằn vặt chính mình: Tôi sẽ không bao giờ tha thứ bản thân vì chuyện đó. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho thế giới đã dồn tôi vào bước đường cùng ấy, đã biến tôi thành một con người khác, đã đánh thức trong tôi một con quỷ dữ, tâm trí thấp hèn nhất, bản năng hoang dã nhất”. Chúng ta đã tiêu tốn hàng triệu năm để tiến hoá thành loài người, tự hào vì là loài động vật cao cấp nhất để rồi chỉ bằng việc chọn lựa chiến tranh, chúng ta phủi bỏ hàng triệu năm đã qua mà quay về làm những loài vật vô tri, hung bạo và tàn nhẫn!

Nhà văn Elie Wiesel

Là những đứa con của Chúa, người Do Thái xem đức tin dành cho Ngài là chỗ dựa vững chãi nhất trên đời. Suốt những ngày tháng bị giam cầm trong màn đêm, họ tìm đến Chúa trời, cầu nguyện và van xin. Niềm tin vào Chúa cho họ nghị lực để sống, lí do để tồn tại. Thế nhưng, khi từng đợt tuyển chọn qua đi, từng lần một chứng kiến đồng loại bất lực trong việc giành giật sự sống, liệu niềm tin đó có còn bất di bất dịch và những lời cầu nguyện có còn là lẽ sống? Khi họ cấu xé nhau vì những mẩu bánh mì, tranh giành nhau cơ hội được chữa dứt căn bệnh kiết lị, phỉnh phờ nhau để thoát khỏi sợi dây thừng trực chờ siết chặt cổ mình - Thượng Đế đã làm ngơ! Làm ngơ mặc kệ những con chiên đang oằn mình đón nhận cái chết, làm ngơ trước lời khẩn cầu để được nhìn thấy ngày mai đầy tuyệt vọng. Và rồi Thượng Đế đã chết, chết trong ý niệm của những tín đồ, chết cùng cái chết dần mòn xâm lấn những đứa con của dân tộc Do Thái. Thượng Đế đã chết và con người ta thì buông bỏ khát khao được sống, thất vọng trước Đấng Toàn năng đã bỏ rơi sinh mạng bé nhỏ của mình đến mức phải bán rẻ cả linh hồn để bám trụ từng hơi thở mong manh!

Đêm khép lại khi ánh sáng đã trở về với nhân loại, khi những trại tập trung chỉ còn là trang sử đen tối không ai muốn gợi nhắc. Nhưng liệu ánh sáng của hôm nay có che mờ được vết thương của quá khứ? Người chết không thể sống lại, nhân tính đã đánh đổi không sao đòi về. Con người ta liệu sẽ đi qua quá khứ rồi tiến về tương lai hay chỉ là có thể nỗ lực không ngừng để trốn chạy bóng đêm hồi ức, trốn chạy khỏi con thú dữ có thể sống dậy bất cứ lúc nào bên trong con người mình?

Lam Thảo

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 12.5.2021.

Lịch sử các khóa học sáng tác ở bậc đại học tại Hồng Kông tương đối ngắn. Tuy nhiên, khóa tập huấn sáng tác không chính thức đã tồn tại ở Hồng Kông ít nhất là từ năm 1969. Trong một cuộc phỏng vấn, một nhà thơ nổi tiếng của Hồng Kông , Quan Mộng Nam (关 梦 南), nói rằng ông đã tham dự một khóa tập huấn thơ ca được giảng dạy bởi các nhà văn Hồng Kông là Đái Thiên (戴 天) và Cổ Thương Ngô (古 苍梧) năm 1969, và ông ấy khẳng định rằng kinh nghiệm này giúp ông trở thành một nhà văn, mặc dù ông chưa bao giờ có cơ hội được đào tạo về văn chương ở cấp bậc đại học. Một phần nhờ vào nhà văn Trung Quốc Nhiếp Hóa Linh (聂华), người đồng sáng lập Chương trình Viết quốc tế tại Đại học Iowa, Mỹ, nhiều nhà văn sử dụng tiếng Trung đã được mời học chương trình sáng tác của Đại học Iowa. Ví dụ nhà thơ Đái Thiên, là một trong số họ. Ông ấy nhận bằng Thạc sĩ sáng tác tại Đại học Iowa cuối những năm 1960, và bắt đầu mở các khóa tập huấn viết văn tư ở Hồng Kông ngay sau đó.

Những cơ duyên lịch sử cho việc dịch văn học Việt Nam ra tiếng Anh

Tuy không phải là một nền văn học lớn trên thế giới, nhưng văn học Việt Nam đã đến với người đọc nước ngoài từ lâu bởi một số hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Văn học Việt Nam đến với thế giới đầu tiên qua con đường Pháp ngữ. Nền giáo dục Pháp ngữ đầu thế kỷ 20 đã tạo nên một thế hệ trí thức người Việt giỏi tiếng Pháp, không chỉ tích cực dịch thuật hai chiều Pháp-Việt mà còn hình thành cả bộ phận văn học Việt Nam Pháp ngữ. Nhiều truyện thơ Nôm Việt Nam đã đến với độc giả phương Tây qua con đường Pháp ngữ từ rất sớm, chẳng hạn Truyện Kiều (1884), Lục Vân Tiên (1889), Ngọc Kiều Lê (1862), Bình Sơn lãnh yến (1927), Lục súc tranh công (1944)... tiếp theo đó là hàng loạt sáng tác của những tác giả hiện đại. Thế nhưng hiện nay, ngôn ngữ chủ yếu mà văn học Việt đang dựa vào để tiếp cận độc giả quốc tế lại là tiếng Anh, và phổ biến nhất lại là các tác phẩm văn học hiện đại. Đây cũng là một điều dễ hiểu vì sự thống trị của ngôn ngữ này trên thế giới và ở cả Việt Nam.

Hoạt động dịch thuật văn học Việt Nam sang tiếng Anh có sự góp sức từ nhiều lực lượng ở cả trong và ngoài nước, hoạt động qua sự se duyên của các tổ chức hoặc thuần tuý dựa trên mối quan hệ và động lực cá nhân. Họ đã làm nên một bức tranh phiên bản tiếng Anh của văn học Việt Nam đa dạng sắc màu và mang nhiều hứa hẹn.

Vai trò của giới xuất bản trong nước

Ngay từ thập niên 60, 70 của thế kỷ trước, giới xuất bản ở miền Bắc đã ý thức rất rõ trách nhiệm của mình trong hoạt động quảng bá văn hóa – văn nghệ dân tộc ra thế giới. Họ tự mình tìm kiếm dịch giả, tuyển chọn một số tác phẩm tiêu biểu của văn học đương thời và dịch chúng sang tiếng Anh. Nhà xuất bản Ngoại văn (Foreign Languages Publishing House, tiền thân của Nhà Xuất bản Thế giới hiện nay) đã đặt những viên gạch đầu tiên cho hành trình quảng bá văn chương Việt Nam ra nước ngoài. Không chỉ chuyển ngữ các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh, nhà xuất bản Ngoại văn còn dịch sang cả tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Nhật và còn cả tiếng Bồ Đào Nha. Điều đó cho thấy khả năng làm việc vô cùng nghiêm túc và tinh thần quảng bá văn chương cực kỳ mạnh mẽ của nhà xuất bản này.

Cuốn sách đầu tiên mà chúng tôi ghi nhận được của Nhà Xuất bản Ngoại văn dịch sang tiếng Anh chính là tuyển tập truyện ngắn của Nam Cao – Chi Pheo and Other Stories (1961) – do Nguyễn Đình Thi dịch. Sau này, vào năm 1983, tuyển tập này lại được phát hành lần nữa trên thị trường. Đến năm 1963, tác phẩm Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan được nhà xuất bản này dịch sang tiếng Anh với nhan đề Impasse. Vào năm 1978, nhà xuất bản Ngoại văn phát hành tuyển tập thơ của Tố Hữu với phiên bản tiếng Anh – Blood and Flowers: The Path of the Poet To Huu (Selected Poems of To Huu) – do hai dịch giả Elizabeth Hodgkin, Mary Jameson chuyển ngữ. Hoạt động dịch thuật các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh của Nhà Xuất bản Ngoại văn sau đó vẫn tiếp tục được duy trì với sự ra đời của hai bản dịch Dairy of a Cricket (1991) – phiên bản tiếng Anh của Dế Mèn phiêu lưu ký (Tô Hoài) – và tuyển tập thơ song ngữ Ký ước mắt đen (Memory of Black Eyes) (2009) của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo.

20201012

Tiếp nối những bước đi đầu tiên ấy, nhà xuất bản Hội Nhà văn cũng tích cực tuyển dịch các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh. Tuy nhiên, các tác phẩm chuyển ngữ của nhà xuất bản Hội Nhà văn chỉ nở rộ kể từ sau sự kiện Hội nghị Quốc tế Văn học Việt Nam diễn ra vào tháng 01 năm 2010. Lúc này, nhà xuất bản Hội Nhà văn kết hợp cùng với Hội Nhà văn Việt Nam và các đại biểu tham dự Hội nghị đến từ nước ngoài để cho ra đời những bản dịch tiếng Anh của các tác giả đã được trao giải thưởng Hội Nhà văn trước đó, trong đó nhà thơ Mai Văn Phấn có đến tận 5 tập thơ được dịch: Bầu trời không mái che: Firmament Without Roof Cover (Collected Poems) (2012), Out of the Dark (Collected Poems): Buông tay cho trời rạng (2013), Seeds of Night and Day (Collected Poems): Những hạt giống của đêm và ngày (2013), The Selected Poems of Mai Văn Phấn (Tuyển tập thơ tiếng Anh) (2015) và Thời tái chế: Era of Junk (Collected Poems) (2019). Thực ra, Mai Văn Phấn được dịch sang tiếng Anh nhiều thế này cũng là một hiện tượng hiếm hoi của thơ ca Việt Nam hiện đại. Các thi phẩm của ông đều rất kén độc giả đại chúng bởi tinh thần cách tân quá mạnh mẽ nhưng thơ Mai Văn Phấn rất được lòng giới hàn lâm ở Việt Nam. Có lẽ, chính tư tưởng phóng khoáng, cảm quan nghệ thuật hiện đại và lối viết cách tân của mình mà Mai Văn Phấn rất được lòng dịch giả, bởi tư duy nghệ thuật của ông đã thoát khỏi khuôn khổ mòn sáo của giới văn nghệ sĩ trong nước mà hòa vào dòng chảy chung của thơ ca thế giới đương đại. Bên cạnh đó, Hội Nhà văn Việt Nam khoảng 10 năm trở lại đây cũng có khuynh hướng tuyển chọn một số tác phẩm đoạt giải thưởng Hội Nhà văn và dịch chúng sang tiếng Anh để đưa đi dự thi các giải thưởng trong khu vực, từ đó, nâng tầm vị thế văn học Việt như trường hợp của tuyển tập thơ song ngữ Lễ tẩy trần tháng Tư – The Purification Festival in April (2005) của Inrasara.

Khi đời sống kinh tế thay đổi, hoạt động dịch thuật các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh cũng sẽ gặp không ít những thách thức bởi quy luật cung-cầu của nền kinh tế thị trường. Nếu trước kia, giới xuất bản trong nước chỉ tập trung quảng bá văn chương Việt Nam mà không cần lo lắng quá nhiều về vấn đề tiêu thụ bởi đã có sự bảo trợ của nhà nước thì ngày nay, các nhà xuất bản nội địa khi tiến hành tuyển dịch một tác phẩm văn chương Việt Nam phải cân nhắc rất nhiều đến tính thương mại của nó. Có lẽ, chính vì để phục vụ cho thị trường độc giả trong nước trước tiên nên họ chọn những đầu sách best-seller hấp dẫn công chúng hoặc các sáng tác văn học thiếu nhi, với lối dịch đơn giản, cú pháp được sử dụng không quá cồng kềnh, ngôn từ trong sáng, dễ hiểu. Các dịch phẩm này được phát hành trong nước đã phần nào đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của độc giả bản địa, tạo nên một môi trường phù hợp để luyện tập và trau dồi ngoại ngữ. Với những bạn trẻ, họ có thể tìm đọc bản tiếng Anh các truyện dài lãng mạn của Dương Thụy như Beloved Oxford (Oxford thương yêu), Paris Through Closed Eyes (Nhắm mắt thấy Paris) hay In the Golden Sun (Cung đường vàng nắng) để luyện tập kỹ năng đọc bằng tiếng Anh của mình. Với các em thiếu nhi, các bậc phụ huynh có thể cho con họ tiếp cận với Dairy of a Cricket (Dế Mèn phiêu lưu ký, Tô Hoài) hay Open the Window, Eyes Closed (Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ, Nguyễn Ngọc Thuần) nhằm tạo niềm hứng thú cho các bé khi học tiếng Anh. Thêm vào đó, trải nghiệm mà độc giả có được từ một phiên bản khác sẽ mới mẻ và thú vị hơn rất nhiều so với việc chỉ tiếp cận văn bản gốc. Với những độc giả có sự nhạy bén về ngôn từ và có vốn từ vựng phong phú ở cả tiếng Anh và tiếng Việt, họ có thể đối chiếu và so sánh về khả năng biểu đạt của ngôn ngữ giữa bản dịch và bản gốc, hiệu quả thẩm mỹ mà văn bản mang lại, chất lượng bản dịch, v.v. Đó đều là những trải nghiệm rất quý báu mà chỉ có người đọc tự trải qua mới có thể đúc kết được. 

Sứ mệnh hữu nghị của Viện William Joiner

Bên cạnh chủ trương, chiến lược của các nhà xuất bản trong nước, văn học Việt Nam hiện đại còn được chuyển ngữ sang tiếng Anh qua ngòi bút của các dịch giả quốc tế, mà phần đông trong số họ đến với văn học Việt Nam thông qua viện William Joiner, một cầu nối văn chương bền bỉ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ suốt mấy mươi năm hậu chiến.

Viện William Joiner là tên gọi tắt của Viện William Joiner Nghiên cứu Chiến tranh và Hậu quả xã hội (The William Joiner Institute for the Study of War and Social Consequences), thuộc Đại học Massachusetts (Boston, Hoa Kỳ) hoạt động với chủ trương đẩy mạnh các nghiên cứu học thuật, các chương trình giao lưu về các vấn đề văn hóa, giáo dục và khoa học xã hội và nhân văn nhằm xoa dịu những vết thương của chiến tranh và hóa giải hận thù giữa các dân tộc. Tiền thân của nó là Trung tâm William Joiner, thành lập vào tháng 10 năm 1982, được đặt theo tên của một cựu binh người Mỹ gốc Phi từng tham chiến ở Việt Nam. Viện William Joiner đã tiến hành dịch các tác phẩm văn học Việt Nam sang tiếng Anh nhằm “nối nhịp cây cầu văn chương giữa hai đất nước từng đối diện với nhau bằng súng đạn” (Nguyệt Hà, 2017). Vào thập niên 80 của thế kỷ XX, trong khi giới nghiên cứu ở Hoa Kỳ vẫn còn ngần ngại đề cập đến cuộc chiến mà quân đội của họ đã lún sâu ở Việt Nam suốt 20 năm ròng rã thì Viện William Joiner “đã tiên phong và xông xáo mở ra những cánh cửa ẩn chứa nhiều rủi ro: tổ chức một hội nghị quốc tế về chất độc da cam nhằm vạch trần những tác hại khủng khiếp của chất độc da cam lên sức khỏe của con người” (Nguyễn Phan Quế Mai, 2018). Sau một số cuộc gặp gỡ ngập ngừng bước đầu, Viện William Joiner đã bắc được nhịp cầu văn chương Việt-Mỹ. Đã có gần 100 nhà văn, nhà thơ hiện đại Việt Nam, chủ yếu là các nhà văn cựu binh như Lê Lựu, Bảo Ninh, Lê Minh Khuê, Nguyễn Quang Sáng, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Duy, v.v, được đến Mỹ để tham gia những buổi hội thảo văn học do Viện William Joiner đứng ra tổ chức. Bên cạnh đó, Viện William Joiner còn tuyển dịch những tác phẩm thơ ca và văn xuôi Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh với hy vọng những nội dung sâu sắc mà văn học phản ánh sẽ giúp cộng đồng độc giả Hoa Kỳ thấu hiểu hơn những vết thương sâu hoắm mà chiến tranh đã gây ra cho dân tộc của dải đất hình chữ S.

Theo thống kê của Nguyệt Hà (2017), tính đến 2017, Viện William Joiner đã xuất bản ít nhất 14 lượt tác phẩm thơ dịch Việt Nam, trong đó nhiều tác phẩm của những gương mặt nổi bật trên văn đàn Việt Nam đương đại đã đến với Mỹ qua các thành viên, cộng tác viên của William Joiner. Các tác phẩm này cũng xuất hiện ở 40 tạp chí văn chương trên khắp nước Mỹ và đã có những tập sách được in riêng, in chung của tác giả Việt Nam – Mỹ được bạn đọc hai nước đón nhận. Trong đó, công trình thơ đầu tiên được tuyển dịch chính là Poems from Captured Documents (1994) do dịch giả Bruce Weigl và tiến sĩ Thanh Nguyễn cùng nhau chuyển ngữ. Ngay từ lúc ra đời, Poems from Captured Documents thực sự đã tạo nên một cơn chấn động bởi cái nhìn của người Mỹ về dân tộc Việt Nam vẫn còn hết sức hà khắc, thậm chí còn ẩn chứa sự “miệt thị và căm giận” (Nguyễn Phan Quế Mai, 2018). Tuyển tập thơ này đã mang đến cho độc giả Hoa Kỳ những góc nhìn sâu sắc về tâm hồn những người lính Việt: Ẩn sau vẻ ngoài gai góc, anh dũng kia là niềm khắc khoải khôn nguôi về mái ấm gia đình. Đây có lẽ “quyển sách đầu tiên cho người Mỹ thấy rằng những người lính cộng sản cũng là những con người bình thường: họ yêu thơ ca, gia đình, cuộc sống. Họ đau đáu mong đợi hòa bình tung cánh trên dải đất Việt Nam” (Nguyễn Phan Quế Mai, 2018). Sau sự thành công của Poems from Captured Documents (1994), Viện William Joiner tiếp tục giới thiệu những tuyển tập thơ khác của văn học Việt Nam như The Women Carry in River Water (1997), Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars, 1948-1993 (1998), Distant Road: Selected Poems of Nguyen Duy (1999), 6 Vietnamese Poets (2002), The Time Tree: Selected Poems of Hữu Thỉnh (2003), Green Rice: Poems by Lam Thi My Da (2005), From a Corner of My Yard (2006), v.v. Trong tổng số 33 tập thơ của văn học Việt Nam hiện đại được dịch sang tiếng Anh mà chúng tôi tìm được, có đến 8 tuyển tập là do đội ngũ dịch giả của Viện William Joiner đảm trách phần dịch thuật và biên tập. Trong đó, tuyển tập Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars, 1948-1993 (1998) của bộ ba dịch giả Kevin Bowen, Nguyễn Bá Chung và Bruce Weigl đã giới thiệu được hầu hết những nhà thơ của văn học Việt Nam hiện đại như Hồ Chí Minh, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Tiến Duật, Lâm Thị Mỹ Dạ, Nguyễn Khoa Điềm, Trần Đăng Khoa, Tạ Hữu Yên, Phan Thị Thanh Nhàn, Ý Nhi, Nguyễn Quang Thiều, v.v. Những thi phẩm trong Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars, 1948-1993 phản ánh được toàn vẹn bức tranh đời sống xã hội và thế giới tinh thần của người Việt trong suốt những năm tháng đau đớn chống Pháp (1945-1954) và Mỹ (1954-1975).

Ở mảng văn xuôi, tiểu thuyết Thời xa vắng (A Time Far Past) của Lê Lựu do bộ ba Ngô Vĩnh Hải, Nguyễn Bá Chung và Kevin Bowen dịch là tác phẩm gây chú ý đầu tiên. Ngay từ khi mới xuất bản, A Time Far Past đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình của độc giả ở nước ngoài. Theo Nguyễn Phan Quế Mai (2018), tạp chí phê bình Kirkus Review đã đánh giá tiểu thuyết này đã “miêu tả chân thực về cuộc sống ở Bắc Việt từ những năm 1950 đến những năm 1980, cung cấp những chi tiết hấp dẫn về văn hóa làng xã”, cùng với đó, “bản dịch tiếng Anh đầu tiên của cuốn tiểu thuyết chi tiết sống động này là tác phẩm hay nhất và hấp dẫn nhất mà chúng ta đã thấy từ phía Bắc Việt Nam.” Một nhân vật đáng chú ý khác liên quan đến William Joiner là biên tập viên Wayne Karlin – một cựu thủy binh lục chiến Hoa Kỳ đã từng tham gia chiến đấu ở Việt Nam. Tuy rằng các công trình dịch thuật của Wayne Karlin không phải do Viện William Joiner cấp kinh phí thực hiện nhưng vai trò cầu nối của Viện trong trường hợp này là rất quan trọng. Bởi nếu không có những buổi hội thảo và giao lưu, gặp gỡ giữa các cựu chiến binh Việt Nam và Hoa Kỳ mà Viện William Joiner đứng ra tổ chức, Wayne Karlin chưa hẳn đã tiếp cận được những tác phẩm văn học Việt Nam tiểu biểu trong giai đoạn văn học Đổi Mới và đặc biệt, mối thâm tình giữa cựu binh này với nhà văn Lê Minh Khuê và Hồ Anh Thái cũng chưa có cơ duyên được xây dựng. Cuốn sách đầu tiên mà Wayne Karlin biên tập và giới thiệu đến công chúng Hoa Kỳ là tuyển tập truyện ngắn Free Fire Zone: Short Stories by Vietnam Veterans (“Vùng bắn phá tự do: Những truyện ngắn của cựu chiến binh Việt Nam”) (1973) tuy nhiên lại không gây được nhiều tiếng vang lớn trong cộng đồng độc giả Hoa Kỳ. Phải đến khi ông cùng Lê Minh Khuê, Trương Vũ biên tập quyển sách The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers (tạm dịch: “Phía bên kia góc trời: Văn xuôi hư cấu hậu chiến của những nhà văn Việt Nam và Hoa Kỳ”) (1995) thì cái tên Wayne Karlin mới được biết đến rộng rãi trong giới xuất bản bởi tấm lòng nhiệt huyết với văn chương Việt Nam. Tuyển tập này đã mang đến uy tín cho Wayne Karlin khi đạt giải thưởng Paterson 1998, sau đó không lâu, cựu chiến binh Hoa Kỳ này trở thành một biên tập viên chủ chốt cho series sách “Voices from Vietnam” (Những tiếng nói từ Việt Nam) của nhà xuất bản Curbstone. Mỗi năm, Wayne Karlin lại trở thành nhân vật nối kết – giới thiệu những tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại – cho đội ngũ dịch giả của Curbstone để họ tiến hành chuyển ngữ sang tiếng Anh. Cho đến nay, đã có 8 công trình dịch thuật thuộc series “Voices from Vietnam” do Wayne Karlin biên tập và giới thiệu được xuất bản, bao gồm tiểu thuyết The Stars, the Earth, the River (1997) được dịch từ nguyên tác Những Ngôi sao, Trái đất, Dòng sông (Lê Minh Khuê), Behind the Red Mist (1998) dịch từ nguyên tác Trong sương hồng hiện ra (Hồ Anh Thái), tiểu thuyết Against the Flood (2000) dịch từ Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng), tiểu thuyết Past Continuous (2001) dịch từ Thời gian của người (Nguyễn Khải), tuyển tập truyện ngắn Love after War (2003), tuyển tập truyện ngắn The Cemetery of Chua Village and Other Stories (2005) dịch từ tập truyện Nghĩa địa xóm Chùa (Đoàn Lê), tiểu thuyết An Insignificant Family (2009) dịch từ Gia đình bé mọn (Dạ Ngân). Tất cả đều được công chúng Hoa Kỳ đón nhận và có những phản hồi rất tích cực về chất lượng bản dịch.

Vai trò của các dịch giả tự do

Khi quan sát hoạt động dịch và xuất bản văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh, chúng tôi nhận thấy bên cạnh nhóm dịch giả liên quan đến hệ thống xuất bản nhà nước với chủ trương quảng bá văn học, văn hóa, và nhóm liên quan đến Viện William Joiner mang tinh thần hữu nghị Việt-Mỹ, vẫn còn có những dịch giả khác không liên quan đến hai nhóm này. Họ có thể là người Việt sống ở trong nước hoặc hải ngoại, hoặc có thể là người nước ngoài chọn dịch tác phẩm vì lý do cá nhân hoặc lý do thuần văn học chứ ít chịu ảnh hưởng bởi các đường lối chính trị, ngoại giao của tập thể hay chiến lược thương mại của một nhà xuất bản. Chúng tôi tạm gọi họ là các dịch giả tự do.

Sau năm 1975, có một lượng lớn người Việt rời khỏi đất nước, sống lưu vong và hình thành, phát triển nên những cộng đồng người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là các nước nói tiếng Anh. Thời gian đầu, họ phải lo bám trụ lại xứ người nên chưa đủ sức để quan tâm nhiều đến các vấn đề văn học nghệ thuật, lại càng ít quan tâm đến việc quảng bá văn học. Đến thập niên 80, 90 của thế kỷ XX, đời sống văn học Việt Nam hải ngoại khởi sắc hơn nhưng đó cũng là lúc người Việt tha hương thế hệ đầu sau 1975 bắt đầu chứng kiến sự đứt gãy các kết nối văn hóa với thế hệ kế tiếp. Bên cạnh nỗ lực gìn giữ tiếng Việt, những dịch giả Việt Nam ở nước ngoài dần dần lưu tâm đến những tác phẩm xuất sắc của văn chương Việt thời hiện đại, và tìm cách dịch chúng sang tiếng Anh với hy vọng để cho những thế hệ thứ hai, thứ ba của lớp người Việt di dân kể từ sau năm 1975 có thể tìm đọc và lưu giữ những bản sắc văn hóa của tổ tiên. Do đó, việc chuyển ngữ các văn bản văn học Việt Nam sang tiếng Anh không chỉ là một cách giới thiệu văn chương Việt đến bạn đọc quốc tế mà trước hết, nó xuất phát từ nhu cầu nội tại của chính các dịch giả người Việt nước ngoài. Hoạt động dịch thuật ấy như một cách để những thế hệ người Việt sau này – những thế hệ sinh ra ở nước ngoài và hít thở bầu khí quyển của văn hóa phương Tây, sử dụng tiếng Anh như là ngôn ngữ mẹ đẻ – có thể tìm thấy linh hồn mình đâu đó ở những phiên bản tiếng Anh của văn chương Việt. Vì vậy, dịch các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh không còn đơn thuần là tinh thần quảng bá văn chương nữa mà nó đã mở rộng sang ở tinh thần tự tôn dân tộc, giữ lấy những bản sắc riêng của văn hóa quê hương mình. Để rồi từ những bản dịch tiếng Anh ấy, đội ngũ dịch giả người Việt ở nước ngoài mới bắt đầu hướng đến mục đích để cho bạn đọc trong cộng đồng mình đang sinh sống, rồi cả bạn bè quốc tế lắng nghe thanh âm của tâm hồn người Việt trong những năm tháng biến động của lịch sử đất nước.

Có một điều đáng chú ý là hầu hết các dịch giả người Việt định cư ở nước ngoài mà đảm trách phần dịch thuật văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh đều là những người có chuyên môn trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Cụ thể hơn, họ đều là những giáo sư văn chương ưu tú ở giới học thuật Hoa Kỳ. Chẳng hạn dịch giả Huỳnh Sanh Thông là giáo sư giảng dạy tiếng Việt và văn học Việt Nam cho người nước ngoài ở Đại học Yale. Dịch giả Nguyễn Nguyệt Cầm, vốn là giảng viên giảng dạy ở Trường Viết văn Nguyễn Du, sau này sang Hoa Kỳ định cư và trở thành giảng viên dạy tiếng Việt ở Đại học California, Berkeley. Dịch giả Thúy Tranviet cũng là một giảng viên cao cấp của Khoa Châu Á học của Đại học Cornell. Với tri thức sâu rộng, khả năng ngôn ngữ Việt – Anh đạt đến kỹ năng điêu luyện cùng những trải nghiệm văn hóa sâu sắc ở cả hai quốc gia Việt Nam và Hoa Kỳ, đội ngũ dịch giả này đã mang đến cho độc giả nước ngoài những bản dịch có chất lượng rất tốt, nhận được những phản hồi tích cực từ bạn đọc. Những công trình dịch thuật của họ hầu hết đều được đánh giá rất cao và trở thành những bản dịch chuẩn mực, thậm chí còn được đưa vào giáo trình giảng dạy cho các môn học về Việt Nam của nhiều trường đại học trên thế giới. Ví như tuyển tập thơ ca An Anthology of Vietnamese Poems: From Eleventh through the Twentieth Centuries (2001) của Huỳnh Sanh Thông là một trong những công trình nghiên cứu tiêu biểu về văn học Việt Nam ở lĩnh vực thơ ca bởi đã giới thiệu được gần như toàn vẹn bức tranh thơ ca Việt Nam hiện đại trải dài trong suốt thế kỷ XX. Hay như Dumb Luck (2002), phiên bản tiếng Anh của tiểu thuyết Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng, do hai vợ chồng dịch giả Nguyễn Nguyệt Cầm và Peter Zinoman dịch thuật đã tạo nên thành công vang dội cho văn chương Việt Nam ở văn đàn quốc tế. Bản dịch của Số đỏ, vào năm 2003, đã được tạp chí Los Angeles Times đưa vào danh sách một trong những tiểu thuyết nước ngoài hay nhất trong thị trường sách ở Mỹ năm đó. Hay như bản dịch tiếng Anh của phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng) – The Industry of Marrying European (2003) – do Thúy Tranviet dịch cũng được giới chuyên môn ở Hoa Kỳ đánh giá cao bởi chất lượng dịch thuật. Bản dịch này là một trong những công trình nghiên cứu về văn hóa khu vực Đông Á do Đại học Cornell tài trợ và đã trở thành tác phẩm tiêu biểu cho giới chuyên môn quốc tế khi nghiên cứu về dòng văn học hiện thực phê phán ở Việt Nam những năm 40 của thế kỷ XX.

Bản dịch Other Moons: Vietnamese Short Stories of the American War and Its Aftermath (2020) mà dịch giả Hà Mạnh Quân hợp tác cùng giáo sư Joseph Babcock (Đại học San Diego) cũng là một tuyển tập truyện ngắn rất đáng đọc khi đã mang đến 20 tác phẩm sâu sắc về ký ức chiến tranh và dư chấn tinh thần sau cuộc chiến. Dịch giả Hà Mạnh Quân là giáo sư ở Đại học Montana và đang đảm nhận vị trí Phó Trưởng khoa Ngữ văn Anh tại đại học này. Hà Mạnh Quân có thời gian dài sống ở Việt Nam và tốt nghiệp thủ khoa ngành Ngôn ngữ Anh tại Đại học Đà Lạt vào năm 2000. Sau đó, ông đạt được học bổng du học ở Hoa Kỳ. Sau thời gian học tại Mỹ, Hà Mạnh Quân định cư tại đây. Chính vì vậy, khác với những dịch giả ở trên di cư sang nước ngoài từ thập niên 70 chủ yếu tuyển dịch các tác phẩm văn học Việt Nam trước năm 1945, Hà Mạnh Quân lại chủ trương dịch các sáng tác của văn học chiến tranh cách mạng. Ngay từ khi mới có thông tin xuất bản, quyển sách của Hà Mạnh Quân và Joseph Babcock đã được giới thiệu ở tủ sách đáng mong chờ trong năm 2020 của tạp chí The New York Times

The Sorrow of War (Nỗi buồn chiến tranh) của Frank Palmos và Phan Thanh Hảo là bản dịch xuất hiện rất sớm và mang dấu ấn cầu nối trong và ngoài nước rất rõ rệt. Ở Hà Nội, Phan Thanh Hảo đã dịch Nỗi buồn chiến tranh không lâu sau khi nó ra đời và gây dư luận ở Việt Nam. Sau khi bản dịch của Phan Thanh Hảo được chuyển đến nhà xuất bản Martin Secker & Warburg, người biên tập mảng sách văn chương của nhà xuất bản lúc đó – Geoffrey Mulligan – đã chuyển cho Frank Palmos với hy vọng bằng những trải nghiệm của một phóng viên chiến trường từng có thời gian làm việc tại Việt Nam, ông có thể hiệu đính bản dịch một cách xác tín nhất dựa trên bản dịch thô của Phan Thanh Hảo. Bằng sự tận tình và tình yêu mến với tác phẩm, Frank Palmos đã lặn lội đến Hà Nội, cùng gặp gỡ Bảo Ninh và Phan Thanh Hảo, kết hợp cùng những trang báo viết về chiến tranh Việt Nam, để đối chiếu từng chi tiết trong bản dịch với nguyên tác. Sau 7 tháng miệt mài, The Sorrow of War được nhà xuất bản Martin Secker & Warburg (Anh) cho ra mắt độc giả, nhanh chóng gây tiếng vang trên văn đàn quốc tế, lọt vào danh sách Sách ngoại văn hay nhất năm 1994 do tờ The Independent bình chọn, và danh sách 50 bản dịch hay nhất của thế kỷ XX do Hiệp hội các tác giả của Vương quốc Anh bình chọn năm 2010.

Greg Lockhart cũng là người dành rất nhiều tình cảm với văn chương Việt Nam hiện đại với các dịch phẩm The General Retires and Other Stories (1992) từ nguyên tác Tướng về hưu và các truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, và là đồng dịch giả với Monique Lockhart trong công trình The Light of the Capital: Three Modern Vietnamese Classics (1996). Vốn là một cựu binh từng chinh chiến ở chiến trường Việt Nam, sau khi giải ngũ, Greg Lockhart trở thành một nhà sử học và đồng thời là một tác giả cho ra đời những tiểu luận nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam và bi kịch của những quân nhân Australia khi tham chiến ở vùng đất này. Ký ức về Việt Nam trong những tháng ngày chiến đầu cứ đeo bám Greg Lockhart. Chính vì vậy, đến một lúc, Greg Lockhart cũng muốn làm một điều gì đó cho đất nước và con người Việt Nam. Và thế là ông đã tự mình chuyển ngữ các tác phẩm văn chương Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh như một cách để thể hiện tình yêu mến của mình với quốc gia này. Ngay sau khi phát hành, phiên bản tiếng Anh của Tướng về hưu do Greg Lockhart đảm trách dịch thuật đã khiến cộng đồng độc giả quốc tế hết sức bất ngờ bởi một Nguyễn Huy Thiệp rất sâu sắc, hiện đại và ngay thẳng của nền văn học Việt Nam sau Đổi Mới. Chính nhờ Greg Lockhart, kể từ sau năm 1992, thế giới biết đến một Nguyễn Huy Thiệp. Chính nhờ Greg Lockhart và Monique Lockhart, thế giới cũng biết đến những Tam Lang, Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng với những trang phóng sự và hồi ký đầy chân thực của những nhà văn Việt Nam trong khoảng 30 năm đầu của thế kỷ XX.

Ngoài ra, văn học Việt Nam hiện đại cũng rất ghi nhận sự đóng góp của các dịch giả nước ngoài thuộc lĩnh vực nghiên cứu hàn lâm. Ví như Paul Hoover – một giáo sư của chuyên ngành sáng tác của Đại học bang San Francisco. Bên cạnh công việc giảng dạy, Paul Hoover còn là một nhà thơ có tiếng của Hoa Kỳ. Với những ưu thế của một nhà thơ bản ngữ, Paul Hoover sau này đã trở thành một dịch giả rất có tài khi phần lớn công trình dịch thuật của ông đều liên quan đến lĩnh vực thơ ca. Những tuyển tập thơ dịch nổi tiếng nhất của Paul Hoover chính là Black Dog, Black Night: Contemporary Vietnamese Poetry (2008) mà ông cùng Nguyen Do chuyển ngữ từ tiếng Việt sang tiếng Anh hay một tuyển tập khác được dịch từ các thi phẩm của Nguyễn Trãi, Beyond the Court Gate: Selected Poems of Nguyen Trai (tạm dịch: “Bên ngoài hoàng cung: Một số thi phẩm tuyển chọn của Nguyễn Trãi”) (Counterpath Press, 2010). Hay đó là một Aileen Y. Palmer – một nhà thơ, một chính trị gia và một dịch giả. Từng có thời gian tham gia Đảng Cộng sản Australia, Aileen Palmer có một cảm tình đặc biệt với những nhà thơ cộng sản và đã chuyển ngữ những thi phẩm của Hồ Chí Minh và Tố Hữu ngay từ những thập niên 1960, chẳng hạn như tuyển tập The Prison Dairy of Ho Chi Minh (Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, Bantam Books, 1967). Tuy nhiên, do không có điều kiện tiếp xúc trực tiếp với nguyên tác tiếng Việt, hầu hết các bản dịch về Tố Hữu của Aileen Palmer đều được chuyển ngữ từ bản dịch tiếng Pháp trước đó. Riêng trong bản dịch The Prison Dairy of Ho Chi Minh (1967), Aileen Palmer trình bày bằng cả ba ngôn ngữ Anh – Việt – Hoa để độc giả có thể đối chiếu và so sánh. Hay một dịch giả khác là Steve Bradbury, một giáo sư của trường Đại học Quốc lập Trung ương ở Đài Loan (National Central Unversity in Taiwan). Tuyển tập Poems from the Prison Diary of Ho Chi Minh (2004) mà Steve Bradbury là dịch giả đã tuyển dịch 49 bài thơ từ nguyên tác Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh) để giới thiệu đến độc giả quốc tế. Công trình này được dịch từ nguyên tác tiếng Hoa, có sự tham khảo với bản dịch tiếng Pháp, nên được người đọc đánh giá cao ở sự công phu và tỉ mỉ trong dịch thuật.

Có thể thấy, nhờ những nỗ lực bền bỉ của đội ngũ dịch giả trong nước và nước ngoài, nhiều tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại đã được giới thiệu ra quốc tế, giúp thế giới hiểu thêm về một nền văn học có truyền thống, có bề dày, và trên hết là có thành tựu, thậm chí là những đỉnh cao. Đó là công lao rất lớn của các dịch giả đối với văn học nước nhà.

Nguyễn Bảo Châu và Trương Công Bảo Thư (SV khóa 2017, chuyên ngành Văn học)

TS. Nguyễn Thị Phương Thuý (GVHD)

Bài viết thực hiện trong khuôn khổ đề tài "Khảo sát tình hình dịch văn học Việt Nam hiện đại sang tiếng Anh" - NCKH SV cấp trường năm 2019-2020

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội số 947, tr. 90-97.

Thông tin truy cập

66813721
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
12281
17991
66813721

Thành viên trực tuyến

Đang có 329 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website