20180527 LHP

FY là tên viết tắt của Film and Youth (Điện ảnh và Bạn trẻ) và cũng là tên viết tắt của Forever Young (Mãi mãi tuổi thanh xuân). Do đó, ý nghĩa của Liên hoan phim sẽ hướng tới các bạn trẻ. Thông qua Liên hoan phim ngắn FY, các bạn trẻ sẽ được học làm phim với những đạo diễn, biên kịch, sản xuất, diễn viên có kinh nghiệm. Giáo dục điện ảnh là tinh thần cốt lõi của Liên hoan phim ngắn FY.

Nối tiếp sự thành công của Liên hoan phim ngắn FY mùa 1, năm nay, CLB Sân khấu và Điện ảnh phối hợp với Truyền hình FPT tổ chức Liên hoan phim ngắn FY mùa 2.  Liên hoan phim sẽ kéo dài từ ngày 30 tháng 05 đến hết ngày 10 tháng 10 năm 2018.

Đến với Liên hoan phim lần này các bạn trẻ không chỉ được thỏa sức thực hiện ý tưởng của bản thân mà còn có cơ hội giao lưu, gặp gỡ, học hỏi kinh nghiệm từ các nhà làm phim đi trước, đồng thời tạo bước đệm khởi nghiệp, tự quảng bá thương hiệu bản thân đến những nhà sản xuất tiềm năng.

Song song đó, Liên hoan phim còn có những Workshop về kịch bản, đạo diễn, sản xuất, diễn xuất được giảng dạy bởi các nhà làm phim hàng đầu Việt Nam như Phan Đăng Di, Phan Gia Nhật Linh, Hồng Ánh, Đinh Tiến Dũng để hỗ trợ các nhóm làm phim phát huy tối đa năng lực của mình.

VỀ TÁC PHẨM DỰ THI
Liên hoan phim ngắn FY khuyến khích những tác phẩm mang tính phát hiện những nhân tố mới, thể hiện mọi mặt của đời sống xã hội dưới góc nhìn của những người trẻ khao khát, tự tin vào bản thân, dám dấn thân, thể hiện và khai phá chính mình. Đặc biệt, Liên hoan phim ngắn FY sẽ đánh giá cao những bộ phim có ngôn ngữ điện ảnh tốt, mang đậm chất nghệ thuật, có tính thể nghiệm và có sự sáng tạo độc đáo.
ĐỀ TÀI
Tự do, không giới hạn đề tài, ý nghĩa, truyền cảm hứng đến các bạn trẻ, có chất lượng nghệ thuật cao.
GIẢI THƯỞNG
Giải nhất: 10 triệu đồng + 03 tháng sử dụng Truyền hình FPT
Giải nhì: 8 triệu + 03 tháng sử dụng Truyền hình FPT
Giải ba: 6 triệu đồng + 03 tháng sử dụng Truyền hình FPT
Giải đặc biệt của Ban giám khảo: 4 triệu đồng+ 1 suất tham gia Gặp gỡ Mùa Thu
Giải phim hoạt hình xuất sắc nhất: 1 khóa học quay phim + 1 máy vẽ do viện truyền tranh hoạt hình VN tài trợ.
Giải khán giả bình chọn: 4 triệu đồng
Giải diễn viên nam xuất sắc: 4 triệu đồng
Giải diễn viên nữ xuất sắc: 4 triệu đồng
BAN GIÁM KHẢO
Ông Phan Đăng Di Đạo diễn “Bi! Đừng sợ”, “Cha, con và…”
Ông Phan Gia Nhật Linh Đạo diễn “Em là bà nội của anh”, “Cô gái đến từ hôm qua”
Hồng Ánh Diễn viên, Đạo diễn “Đảo của dân ngụ cư”
Ông Đinh Tiến Dũng Diễn viên, GS Cù Trọng Xoay (Hỏi Xoáy, Đáp Xoay)
THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM
Thời gian 18 giờ 30, thứ 4 ngày 30 tháng 05 năm 2018
Địa điểm Hội trường D, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, số 10-12 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
LIÊN HỆ

Mọi thông tin cần thiết về Liên hoan phim ngắn FY xin anh/chị liên hệ:

Đào Lê Na - Cố vấn Câu lạc bộ Sân khấu và Điện ảnh, Trưởng Ban tổ chức Liên hoan phim ngắn FY (Số điện thoại: 0986742782; Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.)

Website: www.sankhauvadienanh.com

Facebook:  https://www.facebook.com/FYFilmFest/

 

20180514 Chi DauCảnh đình làng Đồng Kỵ trong phim Chị Dậu
 
Điện ảnh có vai trò lưu giữ, khơi dậy trong mỗi con người những ký ức gắn với di sản, mà khi lưu giữ được những ký ức đó, họ sẽ càng yêu, hiểu và trân trọng cũng như bảo vệ di sản tốt hơn. Đó cũng là một cách góp phần bảo tồn di sản.

Những thước phim mờ nhạt về đình làng

Điện ảnh Việt Nam có hai dòng phim chủ lưu là phim đương đại phản ánh cuộc sống xã hội hiện đại và các bộ phim có tính chất lịch sử, cổ trang. Cả hai dòng phim này đều chưa tạo chỗ đứng cho di sản, từ đó góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản. Đơn cử như sự xuất hiện mờ nhạt của hình ảnh mái đình Việt trong các bộ phim. Là người thiết kế bối cảnh cho nhiều phim cổ trang, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức nhận xét: “Hình ảnh đình làng xuất hiện ở trong cả hai loại phim này nói chung chưa nhiều và ở một số tác phẩm có sự xuất hiện di sản thì lại chưa truyền tải được tinh thần của văn hóa đình làng, hay nói cách khác, việc xuất hiện hình ảnh mái đình cũng không mang đúng giá trị truyền thống vốn có của nó”. Ví dụ, các phim Chim vành khuyên, Bao giờ cho đến tháng Mười, Đến hẹn lại lên…ngôi đình chỉ xuất hiện chớp nhoáng, không để lại ấn tượng cho người xem. Những phim như Lều chõng, Chị Dậu, Hạt mưa rơi bao lâu, Thời xa vắng… thì sân đình được chọn làm nơi dân làng tiễn bộ đội hay cảnh ngôi đình đổ được lấy để nói lên tội ác của đế quốc Mỹ đối với văn hóa Việt…

Theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức: “Tất cả các bộ phim đều chưa truyền tải được văn hóa đình làng mà mới chỉ mô tả được sự kiện. Hơn nữa, hình ảnh đình làng trong các bộ phim đó lại thành nơi tra tấn dân nghèo, nơi hách dịch của quan lại… chứ không phải nơi sinh hoạt văn hóa của nông dân Việt Nam trước đây. Do đó, dù ngôi đình xuất hiện nhưng lại tạo cho chúng ta cách hiểu khác về đình làng, biến đình làng giống như một thế lực đè nặng lên người lao động, gieo vào lòng người dân toàn nỗi sợ hãi”.

Tại hội thảo Đình làng Việt, những điều còn - mất, họa sĩ Trần Hậu Yên Thế nêu thực trạng điện ảnh Việt Nam đang “tiếp tay” làm cho di sản, trong đó có những ngôi đình làng, tách biệt khỏi ký ức của cộng đồng: “Trong các bộ phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam, bộ phim Chị Dậu sử dụng đình làng Đồng Kỵ làm bối cảnh, nhưng các khuôn hình về đình đơn điệu, không thấy được nét đặc sắc của nó. Rõ ràng, đình làng là nơi sinh hoạt văn hóa, lễ hội dân gian tập trung và đại diện nhất của văn hóa Việt lại không được thấy trong các tác phẩm điện ảnh từ xưa tới nay”.

Lưu giữ và khơi gợi ký ức về di sản

Không có văn bản pháp lý nào quy định phải đưa di sản vào phim cũng như điện ảnh không thể thay thế Cục Di sản văn hóa để làm công tác bảo tồn di sản. Nhưng rõ ràng, với quyền lực mềm của mình, điện ảnh có sức tác động mạnh vào nhận thức, tâm lý của công chúng trong bảo tồn, phát huy giá trị của di sản. NSND, đạo diễn Đặng Nhật Minh cho rằng, điện ảnh có vai trò lưu giữ, khơi dậy trong mỗi con người những ký ức gắn với di sản, mà khi con người có ký ức, họ sẽ hiểu và trân trọng cũng như bảo vệ di sản tốt nhất. “Điện ảnh tuy không thể tham gia trực tiếp vào quá trình trùng tu, bảo tồn di sản nhưng có lợi thế là lưu giữ được ký ức của con người. Muốn bảo tồn di sản thì những người có trách nhiệm phải có ký ức về di sản đó và ký ức đó cũng như một di sản cần được bảo vệ. Ví dụ như phim Hà Nội mùa Đông năm 46, trong một cảnh quay ở đền Ngọc Sơn, tôi đã yêu cầu phục dựng tàu điện bởi thời đó có tàu điện màu đỏ chạy qua đây. Và khi quay phim vào lúc 5 giờ sáng, chúng tôi kéo tàu điện đó ra thì tất cả người Hà Nội, từ trẻ tuổi đến lớn tuổi đều vây quanh ngắm nhìn một cách ngẩn ngơ. Nhiều người xem bộ phim này gặp tôi đều bảo cảnh phim đã khơi dậy ký ức của họ đúng quá, sống động quá. Điện ảnh chỉ góp sức như thế thôi nhưng cũng đáng quý rồi”.

Thống kê của Cục Điện ảnh những năm qua cho thấy xu hướng làm phim hiện nay thiên về dòng phim hiện đại có tính hài hước hay hành động, kinh dị... Di sản truyền thống hầu như không được đưa vào phim và nếu có cũng chỉ chiếm số lượng khiêm tốn. Phục dựng bối cảnh khó, tốn kém, lợi nhuận không tương xứng là nguyên nhân khiến nhiều nhà làm phim không mặn mà đưa di sản vào tác phẩm. Nhưng rõ ràng, giá trị của việc đưa di sản vào trong các tác phẩm điện ảnh không thể đo đếm bằng tiền. Những thước phim về di sản một khi được truyền tải đầy đủ, mang đúng bản chất, ý nghĩa sẽ có sức lan tỏa văn hóa mạnh mẽ, khơi dậy ở người xem ký ức về lịch sử, về di sản và từ đó, giúp họ yêu, hiểu, có ý thức trách nhiệm bảo tồn di sản hơn.

 “Tôi khâm phục cách làm phim của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… bởi họ đã tận dụng rất tốt di sản văn hóa của mình. Họ đã khai thác triệt để những tích đọng trong cổ vật, tư liệu và mạnh dạn đẩy những hình ảnh đó ra sản phẩm khác để giúp người dân hiểu sâu văn hóa của thời kỳ cũng như giúp quảng bá di sản”.

Họa sĩ  NGUYỄN MẠNH ĐỨC

Nguồn: Báo Điện tử Đại biểu Nhân dân, ngày 10.11.2015.

20180122 san khau

1.    Thực trạng vấn đề tự do sáng tạo trong lĩnh vực Sân khấu

Khác với văn học và một số loại hình nghệ thuật, Sân khấu là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Nó tổng hòa tỏng nghệ thuật của chính mình nhiều các loại hình nghệ thuật khác. Trong mối quan hệ giữa sân khấu và người xem của nghệ thuật đặc thù này, thì sân khấu trước hết gồm sự tổng hòa của ba chủ thể sáng tạo cơ bản: Nhà viết kịch; Nhà đạo diễn; Nhà nghệ sĩ biểu diễn.  Ba chủ thể này và một số chủ thể yểm trợ khác: mỹ thật, âm nhạc, phục trang, ánh sáng, hậu đài… đã hòa hợp thành một tập thể sáng tạo ra tác phẩm cuối cùng là vở diễn để phục vụ công chúng sân khấu, chính là người xem.  Do vậy, tự do sáng tạo trong lĩnh vực sân khấu mang tính đặc thù rất cao, đó là tự do sáng tạo cá nhân, phải “tan hòa: trong một tập thể nghệ sĩ. Bản thân tự do sáng tạo nghệ thuật sân khấu vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính cá thể. Vì vậy, bản chất của tự do sáng tạo trong tính đặc thù của nghệ thuật sân khấu là phải được hiển lộ tổng hòa trên hai phương diện cơ bản: sáng tạo cá nhân và sáng tạo tập thể. Chính vì vậy, nếu nhìn tự do sáng tạo trong nghệ thuật sân khấu ở chính góc nhìn tổng thể căn cơ này thì sẽ luôn nhận thấy có 2 tình thế xảy ra. Nếu tự do sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ được thống nhât và hòa hợp nhất quán với sáng tạo của tập thể nghệ sĩ thì sẽ dẫn đến vở diễn thành công ngoạn mục trên tinh thần cộng đồng và mang tính tổng thể. Đó là sự hài hòa và thống nhất thẩm mỹ, bắt đầu từ  cái hay, cái xuất sắc của nhà viết kịch, mang tính phi vật thể của con chữ trong kịch bản văn học, được chuyển ngữ   đến cái hay mang tính hữu thể  trong ngôn ngữ dàn dựng của đạo diễn, ngôn ngữ thể hiện vai kịch của nghệ sĩ biểu diễn nhân vật kịch trên sân khấu, cùng nhiều ngôn ngữ yểm trợ khác, như ngôn ngữ âm nhạc, mỹ thuật, phục trang, hóa trang, hậu đài sân khấu … Đó là về phía sân khấu, mà chưa kể đến công chúng sân khấu, trong quan hệ lớn nhất của nghệ thuật này, đó là quan hệ giữa SÂN KHẤU và NGƯỜI XEM.

          Tuy nhiên, hiện nay, về phía sân khấu, với những hoạt động sáng tạo đặc thù, với tư cách chủ thể sáng tạo tác phẩm sân khấu trong quan hệ với người xem thì câu chuyện tự do sáng tạo của nghệ thuật sân khấu  hiện đang gặp một số vấn đề bức xúc và nan giải, khiến giới sân khấu phải cùng nhau chung tay giải quyết như sau:

          Có vấn đề mâu thuẫn, hoặc khó dung hòa giữa các chủ thể sáng tạo sân khấu với hội đồng nghệ thuật duyệt vở diễn hay không? Mâu thuẫn ấy được nhận diện  và giải quyết thế nào để thúc đẩy sự phát triển sân khấu Việt Nam hiện đại thế kỷ XXI?

          Mâu thuẫn giữa nhà viết kịch và hội đồng duyệt kịch bản, khi kịch bản không được Hội đồng nghệ thuật thông qua, cho phép dàn dựng hoặc bị sửa với những đòi hỏi và yêu cầu rất ít kích thích sáng tạo trong cái viết kịch bản? Chính vì vậy thường dẫn đến tình trạng: kịch bản viết được rất nhiều, nhưng được dựng không nhiều hoặc được chọn dựng rất ít. Các trại viết được tổ chức rất nhiều, đều kì, hàng năm, phần nhiều được đánh giá thành công, nhưng thường không tỉ lệ thuận với số lượng kịch bản hay. Và  “số lượng sản xuất” từ các trại này thường cao hơn cái gọi là chất lượng. Các nhà quản lý các đơn vị sân khâu và các đạo diễn thường rất khó và rất lúng túng trong việc tìm kiếm kịch bản hay để phục vụ cho nhà hát, cho các đơn vị nghê thuật mà mình chỉ đạo nghệ thuật hoặc được mời dàn dựng. Vậy làm thế nào đây để đạo diễn được tự do tìm kiến và dàn dựng kịch bản hay?

          Song tôi nghĩ: một trong những cuộc khủng hoảng lớn nhất sân khấu hiện đang ở khâu sáng tạo đầu tiên và căn bản nhất chính là ở khâu kịch bản văn học. Sân khấu hiện đại đang thiếu vắng những kịch bản hay. Có thể, chính người viết kịch hôm nay đang né tránh những vấn đề lớn, mang tính xung đột, mâu thuẫn lớn của xã hội Việt Nam hiện đại. Phải chăng, tự bản thân một số nhà viết kịch, nhà văn đã né tránh những vấn đề nhạy cảm trong xã hội, tự biên tập “tự do” kịch bản để có thể dễ bề được duyệt, thay vì cố chờ đợi, để nguyên kịch bản trong ngăn kéo hàng chục năm,  hay dăm năm như “Rừng trúc” của Nguyễn Đình Thi hay “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.

          Trên tinh thần “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, tôi cũng có thể thấy rằng, hiện nay một số nhà viết kịch của Sân khấu Việt thế kỷ XXI đã có thể ngoài ý muốn mà tự hạn chế tự do sáng tác của mình trong việc phát hiện, đặt ra và giải quyết trong kịch bản của mình những vấn đề lớn, những xung đột, mâu thuẫn lớn của xã hội Việt Nam hiện đại trong “bi kịch của sự phát triển” (theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh trong cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về văn hóa Việt Nam: “Việt Nam văn hóa sử cương”- NXB Quan hải tùng thư,1938). Theo Đào Duy Anh, cái bi kịch của xã hội hiện đại thế kỷ XX chính là sự phát triển từ một xã hội nông nghiệp tiểu nông mang nhiều âm tính đến một xã hội theo mô hình phương tây dương tính: “công nghiệp hóa”, “đô thị hóa” và “hiện đại hóa”. Thực chất, bi kịch này nằm trong những mâu thuẫn, xung đột không còn là giữa ta và địch như trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ , mà là những xung đột mâu thuẫn trong thời bình, của thời kỳ bao cấp hôm qua và kinh tế thị trường hôm nay.

Về phương diện tự do sáng tạo của nhà viết kịch việc nhận thực về bản chất bi kịch này, đã kích thích sự tự do của nhà viết kịch, bởi, như một nhà kinh điển nhận định, một nhà viết kịch có tầm cỡ phải phản ánh trong tác phẩm của mình vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng “nếu tự do là sự nhận thức được cái tất yếu” thì nhà viết kịch phải tự mình buộc mình phải nhận thức được bi kịch của sự phát triển của xã hội Việt Nam và viết những kịch bản hay đụng được vào cả trái tim tâm lẫn lý trí người xem và hoàn toàn có thể tránh được sự xét duyệt có thể là ngặt nghèo, phi nghệ thuật của Hội đồng nào đó về kịch bản.

          Các nghệ sĩ rất khó kiếm  hoặc rất hiếm hoi có được vai kịch mà mình tâm đắc. Huống hồ là vai kịch để đời. Vậy làm thế nào để được tự do lựa chọn và kiếm tìm những vai kịch hay?

          Tất nhiện, những nhạc sĩ, họa sĩ, những người phục vụ cho việc sáng tạo một vở diễn cũng thúc thủ trong trường hợp không có kịch bản hay.

          Vấn đề đặt ra:

          Làm thế nào để có bà đỡ có mắt xanh phát hiện, nâng đỡ và cưu mang những kịch bản hay, và những kịch bản hay không bị ngủ yên trong ngăn kéo như những trường hợp đã xảy ra: Rừng Trúc;  Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Nguyễn Trãi ở Đông Quan; như một số vở của Nguyễn Đình Thi, Lưu Quang Vũ chẳng hạn.

          Làm sao cho đạo diễn được tự do lựa chọn kịch bản phù hợp, nhằm xác lập, khẳng định phong cách dàn dựng của cá nhân mình?

          Làm sao cho diễn viên được tự do tìm và được lựa chọn, được đề nghị vai kịch của mình và làm sao vở diễn, vai diễn không bị cấm, bị sửa quá nhiều, đến mức đạo diễn không muốn nhận đó là vở diễn của mình hoặc diễn viên không muốn nhận đó là vai diễn của mình?

          Tiếp theo là làm thế nào  để Hội động duyệt tiếp các khâu: dàn dựng biểu diễn đến tổ chức vở diễn sân khấu cho thông thoáng, xuôi chèo mát mái, trở thành thực sự là bà đỡ mát tay cho những vở diễn hay?

          Thực trạng sân khấu đang diễn ra ở hai khu vực: Sân khấu nhà nước (Quốc doanh);  Sân khấu tư nhân (xã hội hóa), đều cùng đặt ra vấn đề tự do sáng tác trong việc: Sáng tác, dàn dựng và biểu diễn. Có điều hội đồng duyệt cả hai khu vực sân khấu này đều đang có vấn đề cần tháo gỡ.

          Thứ nhất: Với Sân khấu nhà nước (quốc doanh): nếu vở diễn đổ thì còn có chỗ lùi. Vì đó là tiền của nhà nước cấp để dựng vở, diễn viên được hưởng lương từ nhà nước chi trả. Còn với sân khấu xã hội hóa, vở diễn đổ thì trắng tay, mất công sức, việc làm…

          Thứ hai: Vì thế, sân khấu xã hội hóa sẽ bị thua thiệt nhiều, khi vở diễn bị hội đồng cấm, hoặc không duyệt, hoặc sửa chữa rất nhiều thì đồng nghĩa với việc sẽ làm đổ “nồi cơm” của sân khấu xã hội hóa. Có lẽ vì vậy, nên nỗi “sợ hãi” lớn nhất của sân khấu TP HCM là vở diễn bị đổ, hội đồng nghệ thuật không duyệt, nên trắng tay…

          Thứ ba: Không thể không nhận rằng, sân khấu thế kỷ XXI đã đánh mất người xem. Người xem được chủ động và tự do từ chối,từ bỏ sân khấu hay sân khấu đã tự đánh mất người xem? Ở chỗ này,vấn đề đặt ra rất tréo ngoe: Sân khấu Việt đã từng hấp dẫn người xem đến không thể cưỡng lại trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX. Vậy, từ đầu thế kỷ XXI đến giờ, mà người xem vẫn thờ ơ, quay lựng lại với Sân khấu là lỗi tại ai, quyền năng của người xem với sân khấu là gì? Nếu họ bỏ sân khấu thì lỗi có phải tại họ đã nhạt tình với sân khấu không? Quyền tự do của người xem đối với sân khấu là gì, khi họ có quyền “ra về vào lúc giải lao”, vì vở diễn mà họ xem mới chỉ đụng vào ví tiền của họ chứ chưa đụng vào trái tim của họ (ý kiến của nhà văn Phan Thị Vàng Anh trên Thể thao văn hóa với nhan đề bài viết: Ra về vào lúc giải lao, vào đầu thế kỷ XXI).

Chính vì vậy, vấn đề tự do thưởng thức vở diễn của  công chúng sân khấu phải đặt ngang với vấn đề tự do sáng tạo của giới sân khấu. Trong quan hệ sinh tồn giữa sân khấu và người xem, cần phải ý thức rằng, không có người xem thì làm sao có sân khấu. Và sân khấu chỉ có thể phát triển khi sân khấu có cái để xem.  Có cái để nghĩ và có cái để cười, để khóc. Chính vì vậy, phát biểu trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII diễn ra tại Hà Nội ngày 16-17/11/2014 (nhiệm kỳ 2014-2019), Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, NSND Lê Tiến Thọ đã nhấn mạnh bằng văn bản, về vấn đề sáng tác và tự do sáng tác: “Do tính đặc thù của loại hình sân khấu là nghệ thuật tổng hợp, vì vậy vấn đề sáng tác và tự do sáng tác trong lĩnh vực sân khấu cần có một cơ chế cụ thể. BCH cần kiến nghị với các cơ quan kiểm duyệt phải có những quy chế, những quy định để các nghệ sĩ sáng tác, dàn dựng, biểu diễn hước tới chân, thiện, mỹ và thực hiện theo các quy định hướng từ Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Đề nghị với các cơ quan chức năng, có các văn bản hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Đảng để Nghị quyết đi vào đời sống. Đó là định hướng cho sáng tác và tự do sáng tác”. (Tài liệu cùng tên trang 55).

2.    Giải pháp nhằm giải phóng tự do sáng tạo của chủ thể sân khấu gồm:

Người viết kịch bản, người dàn dựng, người biểu diễn. Và tất nhiên, tự do tiếp nhận cho công chúng thưởng thức sân khấu nữa!

2.1.        Giải pháp về sân khấu và giải pháp về hội đồng kiểm duyệt tác phẩm sân khấu:

          Người viết kịch: Cần nhận thức rõ bi kịch của sự phát triển xã hội hiện đại Việt Nam với những xung đột mâu thuẫn của sự phát triển để  tự quyết định những chủ đề của kịch bản, nhất là trong hoặc ngoài “vùng cấm”.

          Người đạo diễn: Mạnh dạn và tự do lựa chọn và dàn dựng những vở kịch có thể đã bị ém rất lâu trong ngăn kéo người viết kịch. Như đạo diễn Đình Quang với một số vở kịch của Xuân Trình, Tất Đạt, Lưu Quang Vũ. Nguyễn Đình Nghi với một số vở kịch của Nguyễn Đình Thi, Lưu Quang Vũ, Xuân Trình …

          Người diễn viên: Tự do biểu lộ cá tính nghệ thuật với tính chuyên nghiệp cao nhất trong sự phối hợp với tác giả và đạo diễn. Tự do đối thoại, giải trình, bảo vệ ý đồ của mình trong vai diễn với tác giả và đạo diễn.

          Rất lưu ý vấn đề: Tự do cá nhân phải nằm trong sự đồng bộ giữa nghệ sĩ và tập thể những người sáng tao vở diễn, trên tinh thần triết học mạnh khỏe: Tự do là sự nhận thức được cái tất yếu. Vậy nên, công chúng được quyền tự do để từ chối, phủ nhận, hoặc tiếp nhận các vở diễn. Đồng thời với sự tự giáo dục để nâng cao thẩm mỹ sân khấu của chính mình. Cho nên sân khấu cần đáp ứng, bằng cách dàn dựng những vở diễn tiên  tiến nhất của Việt Nam và trên thế giới như: Shakespeare, Sê-khốp, Molie, Ipsen…

2.2. Hội đồng: Đề nghị Hội đòng duyệt phải tập hợp được những người am hiểu về mọi loại hình, thể loại và mọi phương diện sân khấu Việt hiện đại; từ Tuồng, Chèo, Rối nước, Cải lương, …. Đến các công đoạn viết kịch bản, dựng vở, biểu diễn và thưởng thức.

-       Am hiểu thể loại kịch trong sân khấu Việt Nam hiện đại, vốn du nhập từ phương Tây đầu thế kỷ XX tại Việt Nam và đã được Việt hóa suốt gần một thế kỷ. Thực chất công cuộc Việt Nam hóa kịch Tây phải được nhận thức như là một quá trình văn hóa. Vì vậy, hội đồng nghệ thuật muốn tránh khỏi trục trặc, sự không tìm được ngôn ngữ chung khi xét duyệt tác phẩm nghệ thuật sân khấu với người sân khấu, cần phải có cơ chế cụ thể, sát sao với tính đặc thù của sân khấu. Theo yêu cầu và cũng là định hướng của NSND Lê Tiến Thọ- Chủ tịch Hội NSSK Việt Nam, thì để có một hội đồng nghệ thuật Sân khấu phù hợp với nhiệm kỳ 2014-2019 thì: “ban Chấp hành (Hội NSSKVN) cần kiến nghị với các cơ quan kiểm duyệt phải có những quy chế, những quy định để các nghệ sĩ sáng tác, dàn dựng, biểu diễn hướng tới chân, thiện, mỹ và thực hiện theo các quy định hướng từ Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Đề nghị với các cơ quan chức năng, có các văn bản hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Đảng để Nghị quyết đi vào đời sống. Đó là định hướng cho sáng tác và tự do sáng tác”.

     Ngoài ra cần phải lưu ý thêm về các công tác cụ thể như sau: “Tổ chức sáng tác; Dàn dựng và phổ biến tác phẩm; Tổ chức đi thực tế sáng tác” (trang 55 tài liệu lưu hành nội bộ).

     Cuối cùng, tự do sáng tác trong mọi lĩnh vực của hoạt động sân khấu phải đi đôi với tự do thưởng thức của công chúng sân khấu. Công chúng sân khấu hiện đại của hôm nay hoàn toàn có quyền tiếp nhận nồng nhiệt hoặc quay lưng khước từ sân khấu và hoàn toàn có thể hiểu tại sao họ đã từng quyết định “ra về vào lúc giải lao” như tên một bài viết của Phan Thị Vàng Anh, cách nay đã hơn chục năm. Vậy, tự do thưởng thức và sáng tạo sân khấu từ phía chủ thể sân khấu còn phụ thuộc rất nhiều vào việc môi giới cái đẹp của nhà phê bình sân khấu. Hiện nay phê bình sân khấu chưa phải là một nghề, và phê bình sân khấu trên báo chí rất nhờ nhạt, mong manh, hầu như không thúc đẩy gì cho sự phát triển của sân khấu hiện đại và người phê bình sân khấu chuyên nghiệp có thể đến trên đầu ngón tay và việc đạo tạo những nhà phê bình sân khấu trong các trường Sân khấu điện ảnh  Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh rất ít được coi trọng. Nếu đối tượng của của nhà phê bình sân khấu là vở diễn, thì nhà phê bình sân khấu lại rất ít có cơ hội được tiếp xúc với tác phẩm sân khấu vì nhiều lý do khách quan trong đó có lý do có những bài phê bình làm đổ vỡ “nồi cơm” của các nhà hát và đoàn hát khi bình luận một vở diễn. Có những nhà đạo diễn và nghệ sĩ giận dỗi nhà phê bình hàng chục năm không nhìn mặt. Đó là những thực tế rất đáng tiếc. Hầu như sân khấu vắng bóng nhà phê bình. Vậy nhà phê bình ở đâu và tự do sáng tạo của nhà phê bình đang bị treo lên hay nhà phê bình đang tự tước mất quyền sáng tạo của mình? Đó cũng là vấn đề đặt ra cần gấp rút giải quyết trong thế kỷ XXI./.

 

PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái

Phó Trưởng Ban Lý luận, Phê bình Hội NSSK Việt Nam

20180502 mua KieuẢnh: Minh Thanh 

Lần đầu tiên, Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được chuyển thể sang loại hình vũ kịch. Đặc biệt hơn, sản phẩm này còn là một sự hợp tác đầy tâm huyết, trân trọng, bền vững và dài lâu giữa nữ biên đạo Hàn Quốc Yoo-oh Chun của Công ty Y.O Saigon Dance Ensemble (YOSDE) và Nhà hát Giao hưởng nhạc vũ kịch TP.HCM (HBSO), cùng các nghệ sĩ Việt Nam.

Sau một năm bắt tay vào dự án, đợt công diễn đầu tiên vũ kịch Múa Kiều đã ra mắt vào tối 10 và 11.3 tại Nhà hát TP.HCM trong niềm hạnh phúc của những người thực hiện và cổ vũ hết sức nhiệt thành của khán giả thành phố. Sự phấn khởi của cả đôi bên không chỉ bởi đã được công diễn hay thưởng thức một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà vì từ đây, thế hệ nghệ sĩ múa mới, đầy tài năng của Việt Nam đã được vào “bệ phóng”.

Từ cái bắt tay đầy bỡ ngỡ...

Múa Kiều không phải là tác phẩm nghệ thuật hợp tác đầu tiên giữa HBSO nói chung hay đoàn múa của HBSO nói riêng. Đây cũng không phải là “mối tình đầu” giữa YOSDE và HBSO.

Từ bốn năm trước, nữ biên đạo Hàn Quốc Yoo-oh Chun khả ái đã tìm đến HBSO để cùng thực hiện những dự án nghệ thuật, vở múa hết sức đặc sắc và đầy sáng tạo Arirang Saigon. Để rồi từ mối lương duyên đó, biên đạo Yoo-oh Chun tiếp tục với những dự án đầy nhiệt huyết khác như: Nỏ thần (câu chuyện về Trọng Thủy - Mỵ Châu), Huyền thoại nữ nhân hay 800 năm ước hẹn với nội dung lịch sử về hoàng tử Lý Long Tường nước Đại Việt lánh nạn ở đất Cao Ly. Dẫu vậy, những lần hợp tác này đều được tính theo từng dự án và các diễn viên múa của Việt Nam được chọn tập luyện để cùng diễn chung với các nghệ sĩ Hàn Quốc, như một sự thử nghiệm. Chưa có một kế hoạch đường dài hay lời hứa hẹn nào được đặt ra cho “mối tình” này.

Nhưng với Múa Kiều, khán giả đã được thưởng thức một diện mạo hoàn toàn khác, một câu chuyện đầy tình cảm và nhân văn hơn của mối quan hệ hợp tác hữu nghị này. Lần đầu tiên, ngoài bà Yoo-oh Chun, toàn bộ diễn viên vở Múa Kiều là của HBSO. Không chỉ làm việc với ê kíp từ biên kịch, biên đạo cho đến kỹ thuật, dàn dựng sân khấu đến từ Hàn Quốc như những dự án trước, bà Yoo-oh Chun chọn biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng của HBSO để cùng bà xây dựng vở diễn. Các diễn viên được chọn cũng được trả lương hàng tháng để tập luyện một tuần bốn buổi sau giờ làm việc với HBSO để đảm bảo mọi sự hóa thân đều không chê vào đâu được, mang đến một vở diễn thật lộng lẫy và cuốn hút. Cũng ít ai biết rằng chính bà Yoo-oh Chun là người đã âm thầm tài trợ toàn bộ chi phí để HBSO cải tạo lại rạp Thanh Vân trên đường Cách Mạng Tháng Tám (nơi tập luyện của dàn nhạc và đoàn múa HBSO) đủ tiêu chuẩn hơn để cho các nghệ sĩ có một chỗ tập tươm tất và ổn định.

Sẽ không dừng lại ở Kiều

Biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng gọi đây là một sự hợp tác trong mơ. Bởi nhà đầu tư là công ty của biên đạo Yoo-oh Chun không chỉ mang đến đây một khoản tiền, những kinh nghiệm hay công nghệ, kỹ thuật hàng đầu tại Hàn Quốc cho nghệ thuật múa mà còn là cả một sự đầu tư đường dài về đào tạo và phát triển. “Những người theo nghề múa luôn lo lắng không có đất dụng võ, cả đời khổ luyện nhưng đôi khi không có sàn diễn để thể hiện tài năng và các sáng tạo của mình mà phải chịu cảnh “làm sô chợ” để kiếm sống thì giờ đây đã có hi vọng được sống và cống hiến cho nghề mà không còn phải quá lo lắng về chỗ tập, cơm áo gạo tiền, các ý tưởng dựng vở hay cơ hội đến với công chúng thông qua các tác phẩm mà mình ấp ủ” - biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng chia sẻ.

Sau thành công của hai đêm diễn vào tháng 3, Múa Kiều đang được sắp xếp để diễn lại vào tháng 10 hay 11 tới. Dẫu vậy, từ đây đến thời điểm đó, YOSDE và HBSO vẫn còn nhiều kế hoạch thú vị khác. Biên đạo Yoo-oh Chun nói: “Là người Hàn Quốc sống ở Việt Nam hơn mười năm nay, tôi luôn tìm hiểu văn hóa Việt thông qua văn học, lịch sử Việt Nam. Bản thân tôi vốn rất yêu văn học nên thấy mình vẫn bị cuốn hút bởi những tác phẩm đó. Đó là lý do vì sao những tác phẩm múa mà tôi đã dàn dựng ở Việt Nam đều là những điển cố văn học, văn hóa Việt Nam. Tâm tính người Việt nằm rất nhiều trong văn học chứ không chỉ ở vẻ bề ngoài. Tôi luôn mong các tác phẩm của mình, không chỉ người Việt mà nhiều người Hàn Quốc và cả người quốc tịch khác sẽ hiểu hơn nữa những nét đẹp tâm hồn của người Việt, thêm yêu nước Việt”.

Dù rằng bà Yoo-oh Chun muốn giữ bí mật về những kế hoạch sắp tới nhưng biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng đã tiết lộ sau Múa Kiều, YOSDE và đoàn múa của HBSO đã lập tức cùng nhau dàn dựng và tập luyện một tiết mục mang tên Nón Huế để mang đến Liên hoan múa quốc tế Busan lần thứ 14 - 2018, diễn ra từ ngày 31.5 đến ngày 5.6 tại thành phố Busan, Hàn Quốc. “Sẽ có 45 đoàn từ 15 nước tham dự festival lần này. Với liên hoan này, cô Yoo-oh Chun đã để cho tất cả diễn viên chúng tôi cùng sáng tạo để có thể giới thiệu đến bạn bè thế giới những gì Việt Nam đương đại nhất qua múa” - nghệ sĩ Phúc Hùng thổ lộ. Về phần mình, biên đạo Yoo-oh Chun chỉ hé lộ bà sẽ tiếp tục đưa các tác phẩm văn học Việt Nam lên sàn múa và tìm kiếm không chỉ cơ hội trình diễn các tác phẩm này tại Việt Nam hay Hàn Quốc. 

MỘT NHÀ TÀI TRỢ NHƯ YOO-OH CHUN CÓ QUÁ KHÓ TÌM Ở VIỆT NAM?                         

Mười năm trước, khi còn làm Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM phụ trách khối nghệ thuật, quan sát cách thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa trong đó có hoạt động nghệ thuật, tôi đã nhiều lúc rơi vào tâm trạng bế tắc. Người có năng lực tài chính và người có năng lực nghệ thuật hình như luôn là hai đường thẳng song song, không bao giờ có thể gặp nhau. Cái mà người có năng lực tài chính muốn khi bỏ tiền tài trợ hoặc đầu tư cho nghệ thuật thường là quyền can thiệp, quyền quyết định tuyệt đối với “món hàng” mà họ đã “mua”.

Năng lực sáng tạo của người làm nghệ thuật chỉ được xem là thứ yếu, là thứ phải phục tùng. Nhiều người làm nghệ thuật (biên kịch, đạo diễn, diễn viên), hoặc bỏ đi làm việc khác vì cảm thấy bị xúc phạm nghề nghiệp, hoặc cam chịu để có chỗ sống và đợi một cơ hội được làm nghệ thuật đúng nghĩa. Đợi lâu quá, không ít người đã chấp nhận luôn cách làm nghệ thuật nửa vời. Vừa chẳng có tác phẩm nào, vai diễn nào để thể hiện và khẳng định bản thân; vừa thui chột dần khả năng sáng tạo nghệ thuật. Nhà quản lý dường như đứng ngoài quá trình bế tắc ấy.

Yoo-oh Chun thì khác. Trước khi trở thành doanh nhân (một cách không tự nguyện), bà thực sự là một nghệ sĩ múa vững vàng ở cả ba khả năng: biểu diễn, biên đạo và nghiên cứu, đào tạo. Trong khi làm nhiệm vụ của người tổng giám đốc doanh nghiệp, Yoo-oh Chun chưa bao giờ từ bỏ đam mê và năng lực lõi của mình là nghiên cứu múa, sáng tạo tác phẩm và... múa khi cần. Bà luôn đấu tranh với bản thân và với người thân, cộng sự để họ phải chấp nhận múa luôn là một phần không thể tách rời của cuộc đời bà. Vì là một nghệ sĩ đích thực nên bà luôn hiểu người nghệ sĩ cần gì và như thế nào là thực sự hỗ trợ phát triển nghệ thuật. Khi có điều kiện tài chính, ưu tiên trước hết và thường trực của Yoo-oh Chun luôn là múa.

Sang Việt Nam từ nhiều năm qua với trách nhiệm chính là kinh doanh, Yoo-oh Chun đã tìm mọi cơ hội để quan sát kỹ hoạt động nghệ thuật cá nhân của các nghệ sĩ Việt Nam, phát hiện cho ra các tài năng đang làm việc trong điều kiện như thế nào và tìm cách kết nối để hỗ trợ họ một cách tốt nhất trong khả năng có thể của bản thân và của đối tác. Điều kiện đổi lại với những người được bà hỗ trợ là hãy làm nghệ thuật tốt nhất như họ muốn và đừng từ bỏ đơn vị nghệ thuật mà họ đang là thành viên.

Một nhà tài trợ, một nhà đầu tư như Yoo-oh Chun có quá khó tìm ở doanh nhân Việt Nam, tại Việt Nam? Hy vọng câu trả lời của tôi là sai: khó.

Nguyễn Thế Thanh

Nguồn: Người đô thị, ngày 30.4.2018.

170115 LongChuong

Nhà viết kịch, nhà văn, đạo diễn Lộng Chương (1918-2003). Ảnh: Internet

Đạo diễn sân khấu là nghề chính thức hình thành, phát triển, trở nên “xương sống”của sân khấu Việt Nam hiện đại, được bắt đầu từ việc học bài bản của sinh viên người Việt, trong các học đường kịch nghệ uy tín tại châu Á, châu Âu, kết hợp sự miệt mài tự học của họ, từ kho tàng sân khấu cổ truyền Việt. Song, việc học và hành nghề đạo diễn đã chỉ diễn ra có ý thức hẳn hoi, mang tính chuyên nghiệp cao từ nửa sau thế kỉ 20, kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là thành tựu xuất sắc nhất trong quá trình hiện đại hóa sân khấu Việt, và từ đây, đã hình thành 3 thế hệ vàng đạo diễn của sân khấu Việt hiện đại và trở thành thực tiễn sân khấu hàng đầu, rất đáng được nghiên cứu.

Nhân hội thảo 100 năm ngày sinh nhà viết kịch Lộng Chương, người tiền phong viết hài kịch ở Việt Nam, và diễn Quẫn của Trần Lực tại Nhà hát Lớn, đêm 7.1.2018, tôi thú vị nghiên cứu trường hợp: Quẫn, hài kịch sáng giá nhất của Lộng Chương, được hai đạọ diễn dựng thành công, dù giữa họ là khoảng cách tuổi tác rất xa. Đạo diễn NSND Trần Hoạt dựng Quẫn thành công cho Nhà hát Kịch VN, năm 1960, công diễn 2000 đêm. Đạo diễn NSUT Trần Lực dựng Quẫn thành công cho sinh viên trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, tham gia Liên hoan sân khấu Hà Nội lần 2, năm 2016. Trần Hoạt và Trần Lực đã cùng thành công trên kịch bản Quẫn của Lộng Chương. Chính sự độc đáo chung nhất giữa hai đạo diễn, là cùng thiết kế bản dựng trên mỹ học sân khấu Chéo truyền thống, đã dẫn đến sự độc đáo riêng về phong cách của họ trong từng vở diễn…

  1. Đạo diễn Trần Hoạt dựng Quẫn theo phong cách Hề Chèo

Tôi về làm phóng viên-biên tập viên Tạp chí Sân khấu năm 1977, chưa được tận mắt xem bản dựng Quẫn cho Nhà hát Kịch VN rất thành công của đạo diễn Trần Hoạt. Cuối 1977, nhà viết kịch Xuân Trình, phụ trách Tạp chí Sân khấu đã tổ chức chuyến hành hương 3 người: ông, tôi và Linh Nga, phóng viên ảnh báo Nhân Dân, về tận nhà cụ Trần Hoạt ở làng Đình Bảng Từ Sơn, Bắc Ninh, cũng quê ngoại tôi, để đối thoại, chụp ảnh, lấy tài liệu từ chính Trần Hoạt, cho tôi dựng bài: Đạo diễn hài kịch Trần Hoạt. (Bài đã đưa vào sách “Sân khấu và tôi” của tôi và đoạt giải Sách Lý luận phê bình xuất sắc của Hội NSSK VN, năm 1995).

Nhân đây, xin nhắc lại câu chuyện lịch sử về đào tạo nghề đạo diễn ở Việt Nam. Năm 1954, Trần Hoạt là một trong số sinh viên đầu tiên được Nhà nước VNDCCH cử đến Học viện Hí kịch Bắc Kinh, Trung Quốc, (với Đình Quang, Ngô Y Linh, Nguyễn Đình Nghi, Dương Ngọc Đức, Ngọc Phương…sau này đều được Nhà nước phong tặng NSND), để học nghề đạo diễn kịch, qua hệ thống lý thuyết của C.Xtanhixlavxki, người Nga. Trước 1954 ấy, người Trung Quốc đã sang học nghề đạo diễn từ các đại học sân khấu của nước Nga xô-viết, truyền giảng cho sinh viên đạo diễn Việt, học tại Học viện Hí kịch Bắc Kinh. (PGS.TS Romanov, người hướng dẫn luận án tiến sĩ của tôi, bảo vệ tại Viện Sân khấu, Điện ảnh, Âm nhạc St-Petersbourg, SNG, năm 1992, đã chuẩn xác đặt tên trường hợp đào tạo đặc biệt này, là“Kitaixki variant”(dịch: “trường hợp Trung Quốc”).

Sau học đạo diễn ở Trung Quốc, với tài năng bẩm sinh, kinh nghiệm sân khấu dày dặn và sự tích lũy đời sống thực tế dồi dào, Trần Hoạt đã ở lại Việt Nam, không du học Đông Âu, để tự mình chiêm nghiệm và khai thác nguồn sân khấu dân gian từ chèo cổ, tuồng cổ, đặng làm giàu cho nghề đạo diễn. Ông tự thấy: mình sinh ra để làm đạo diễn. Từ cách học nghề độc đáo ấy, ông tìm được thành công về một thể loại sân khấu Phương Tây rất hiếm thành công ở Việt Nam, đó là hài kịch. Phương pháp đạo diễn của Trần Hoạt, về căn bản, được chính ông xây cất trên nguyên liệu dân gian tươi rói tính hội hè làng quê của chèo cổ, tuồng cổ, dân ca quan họ Bắc Ninh, lại là nơi ông chôn nhau cắt rốn: làng Đình Bảng, vùng Kinh Bắc, cái nôi của văn minh Đại Việt. Làng có ngôi đình cổ đẹp nhất châu thổ sông Hồng, chính danh Đình Đình Bảng, nơi phát tích vương triều nhà Lý, với Đền Đô uy nghi thờ 8 vị vua nhà Lý. Về nghệ thuật sân khấu truyền thống, ngôi làng hào hoa ấy là một trong ba cạnh của tam giác tuồng ở Bắc Ninh: Đình Bảng - Tam Lư - Đồng Kỵ. Ông thân sinh Trần Hoạt mê tuồng, có riêng một phường tuồng trong nhà. Sinh trưởng ở vùng đất đế đô hào hoa ấy, Trần Hoạt cảm nhiễm sân khấu dân gian Việt từ sớm và nổi máu lãng tử cũng rất sớm. Mê lang bạt kì hồ từ Bắc vào Nam, ông thâu góp cho nghề đạo diễn của mình một vốn sống hiện thực ứ đầy các mảng đời, các loại tính cách Việt, với nhiều nghiệm sinh được thiết lập tự nhiên trên nền dân gian (folklo) Việt cổ. Sẵn tài năng trời phú, Trần Hoạt đã thâu lượm cả vào việc hành nghề đạo diễn thể loại kịch hiện đại và loại hình: tuồng, chèo truyền thống. Song, thành công lớn nhất của ông lại thuộc về thể loại hài kịch.

      Và cuộc hạnh ngộ sân khấu lớn nhất đời ông chính là với nhà viết hài kịch Lộng Chương, để từ đó làm nên những vở hài kịch lớn nhất trong sự nghiệp đạo diễn suốt đời ông. Trần Hoạt và Lộng Chương đều quan niệm: “Việt hóa” thể loại hài kịch - có bản nguyên từ hài kịch Tây, phải/nên mang đậm sắc thái hồn Việt. Bởi vậy, hài kịch Việt, với cả hai ông, là tích hợp văn hóa-nghệ thuật giữa hề chèo Việt và tính hiện đại của nghệ thuật trào lộng trong hài kịch Tây. Thống nhất quan niệm chung ấy, nhà viết Lộng Chương-nhà đạo diễn Trần Hoạt đã xuất hiện như một cặp bài trùng hài kịch làm rạng rỡ sân khấu Việt hiện đại những năm 60,70 thế kỉ 20. (Rất tiếc, kiểu cặp đôi hài kịch tác giả-đạo diễn xuất sắc này chưa từng lặp lại trong sân khấu Việt hiện đại, dù đã hiện diện hơn một cặp đôi nhà viết kịch-đạo diễn chính kịch, bi kịch). Với phong cách đạo diễn kết hợp hề chèo và hài kịch hiện đại nhuần nhị, độc đáo, tân kì, có thể nói, ngoài Trần Hoạt lúc bấy giờ, khó ai dàn dựng xuất sắc đến thế, vở hài kịch sáng giá nhất của Lộng Chương: Quẫn.

Dựng Quẫn cho NH Kịch Việt Nam tung hoành trên sân khấu những năm 60,70 thế kỉ 20 với hàng ngàn buổi diễn, Trần Hoạt đã khẳng định, Quẫn là vở hài kịch đỉnh cao: từ kịch bản hoàn hảo, tạo cơ sở mỹ học về hài kịch cho ông  bay bổng trong dàn dựng và thể hiện rực rỡ tài nghệ sắm vai kịch của dàn nghệ sĩ “gạo cội” của NH Kịch VN: Song Kim, Trần Tiến, Chu Xuân Hoan, Thu Hà…Về nghệ thuật đạo diễn, Quẫn là thành công lớn của Trần Hoạt, thể hiện rất mạnh phẩm chất tư duy đạo diễn mảng miếng, mang phong cách đạo diễn bậc thầy về hài kịch. Với kinh nghiệm sân khấu dân gian đầy mình,Trần Hoạt đã thâu hóa sâu sắc kiến thức kinh điển của sân khấu Nga, qua việc tiếp nhận hệ thống Xtanhixlavxki từ Bắc Kinh, để đạt tới một kiểu lao động đạo diễn theo cách tự nghiệm sinh, mà sau ông, Doãn Hoàng Giang là đạo diễn kế tục xuất sắc. Vì thế, Trần Hoạt là người đầu tiên nhận đường nghệ thuật đạo diễn, với tất cả nét riêng độc đáo, trong cuộc “Việt hóa” một nghề chưa từng có ở sân khấu hiện đại VN - nghề đạo diễn hài kịch, và đã xuất sắc thành công, bằng con đường tu tập độc lập của riêng mình.

  Hai. Trần Lực dựng Quẫn theo phương pháp ước lệ của Chèo

Dựng Quẫn sau thành công vang dội của Trần Hoạt, sau gần 60 năm, Trần Lực biết mình thuộc thế hệ đạo diễn mới, khác, đương nhiên phải đối đầu với thách thức lớn: làm sao dựng Quẫn, mới và khác Trần Hoạt. Cách này buộc phải tân kì với người xem Thủ đô thế kỉ 21, đã chẳng mấy mặn mà với cả hài kịch, chính kịch và bi kịch. Sân khấu hiện đại Việt hôm nay đã trôi qua thời hoàng kim của chính mình, đã để lại thời đó trong quá khứ, từ thập kỉ 80 của thế kỉ trước. Và vẫn còn đó sự khủng hoảng người xem, trong cảnh đứt mạch sân khấu kịch trường vốn phải sáng đèn hàng đêm, nhất là ở những đô thị lớn của Việt Nam.

Dựng Quẫn trong sự ngặt nghèo ấy, quả là thách thức sinh tử về nghề đạo diễn.

Tuy nhiên, Trần Lực có cơ may được học nghề đạo diễn kịch tại đại học sân khấu Bulgaria, và thuộc dạng”con nhà nòi”: cha là đạo diễn NSND Trần Bảng, một trong số đạo diễn xuất sắc của công cuộc bảo tồn, phát huy sân khấu chèo truyền thống. Và như vậy, dường như Trần Lực đã có máu đạo diễn từ trong huyết thống!

Và có thể, từ Bulgaria về Việt Nam, khi chưa có cơ duyên với nghề đạo diễn kịch, Trần Lực đã rẽ sang điện ảnh. Song, chính Trần Lực hiểu rằng, nghề đạo diễn sân khấu đã như một cơ duyên phải được chờ đợi và phải được trùng phùng, khi Trần Lực cả quyết chọn dựng Quẫn, một kịch bản dường như được chuẩn bị sẵn về văn bản, để hiện thực hóa giấc mơ đạo diễn của chính mình, theo phương pháp ước lệ của sân khấu chèo.

Bằng chính phương pháp ấy,Trần Lực tìm được cách dựng độc đáo cho Quẫn của Lộng Chương. Có thể chắc rằng: trong kịch bản Quẫn, Lộng Chương đã viết một giáo đầu mang tính chỉ dẫn đặc biệt đối với đạo diễn nào có phương pháp tư duy tương ứng, tương cầu với nhà viết kịch. Và chính “Giáo đầu” ấy đã mở cửa mời đạo diễn dàn dựng Quẫn của ông, với chỉ dẫn thật gan ruột của nhà viết kịch:

 Làm sao cho kịch nói Việt Nam có sắc thái Việt Nam? Từ lâu, tôi thường suy nghĩ tìm tòi để giải quyết vấn đề đó.

Tôi đã nghĩ và tìm đến Chèo.

Vì Chéo đã hấp dẫn tôi với tinh thần lạc quan đặc biệt, với tính chất châm biếm sâu sắc, với cả tính chất trữ tình hồn hậu nhẹ nhàng.

Viết vở Quẫn, tôi chú ý vận dụng một số đặc điểm của Chéo, đã thể nghiệm trong thực tế: Sự giao lưu thoải mái giữa các vai trò và khán giả, sự dẫn dắt tích truyện, cấu tạo những vai hề, và ngôn ngữ Chèo với tinh thần truyện Tiếu lâm vv…Tôi còn chú ý đặc biệt đến những vai hề - cơ sở châm biếm trào lộng của Chèo – vì đây là một vở hài kịch.

Vậy, một khi Quẫn được chính Lộng Chương thừa nhận là đã viết trong từ trường hấp dẫn lớn lao và sâu sắc của tích chèo dân gian truyền thống, thì đương nhiên, câu hỏi dựng đứng trước Trần Lực, phải là: Tại sao không dùng chính phong cách ước lệ của sân khấu chèo, trong cái dàn dựng kịch bản Quẫn? Bởi, trong cái viết, chính tác giả Quẫn đã muốn thế: vì đây là một vở hài kịch,(…) chú ý đặc biệt đến những vai hề - cơ sở châm biếm trào lộng của Chèo.

Phải nghiệm sinh về đời sống, về sự khác biệt và tương đồng giữa hài kịch phương Tây với Hề chèo Việt Nam, chịu nghĩ suy sâu sắc về những nghiên cứu Chèo của Trần Bảng, người cha uyên bác, từng chứng kiến người cha đạo diễn của mình nghiền ngẫm, suy tư và 3 lần thay đổi mô hình thẩm mĩ trong suốt nửa thế kỉ, mới dựng được vở chèo Quan Âm Thị Kính, được công chúng Việt và châu Âu thán phục, Trần Lực mới đủ quả quyết chọn dựng hài kịch Quẫn của Lộng Chương, trong sự hợp lưu đẹp đẽ giữa dung dáng kinh điển của Chèo Việt Nam, với sự hiện đại của hài kịch Tây, và thành công ngay trên sân khấu Hà Nội thủ đô năm 2016.

Thành công gây ấn tượng mạnh nhất về đạo diễn của Trần Lực, khiến cho khán giả có cái để xem, chính là xử lý không gian sân khấu theo cách tối giản của Chèo.

Sàn diễn của vở diễn hầu như trống rỗng. Từ đầu đến cuối vở diễn, chỉ có chiếc rương giấu đầy vàng đặt ở vị trí trung tâm sàn diễn. Mọi điều đáng cười mang tính hài kịch, đều diễn ra trên/dưới/xung quanh/ chiếc rương mấu chốt đó và không gian/thời gian vở diễn thay đổi/ biến ảo thần kì theo diễn xuất nhân vật của diễn viên, đúng theo cung cách ước lệ của Chèo: các nhân vật đối thoại, nói năng thuận theo theo ngữ điệu trầm bổng như hát và các động tác tả thực của nhân vật hài kịch kiểu Tây đều được nâng thành vũ đạo kiểu Chèo. Những màn trình diễn trên sự thăng hoa hình thể và trau chuốt đài từ sân khấu như hát, trên nền giai điệu tân kì của lời bài hát “Tăng gia sản xuất” cứ lặp đi lặp lại, biến tấu linh hoạt theo kịch tính của từng phân đoạn, đã khiến diễn xuất của diễn viên sắm vai bà cụ Đại Lợi trở nên bay bổng về tạo hình, gây những đợt sóng cười không dứt từ phía khán giả. Vai Đại Cát cũng rất thành công. Diễn viên Mạnh Đạt vững vàng trong cách xử lý nhân vật trên tinh thần biến hóa sinh động của một kép Chèo, nhưng cách cấu tạo vẻ ngoài của nhân vật với những đoạn hát múa lọc lõi tinh vi, đã khiến Mạnh Đạt được đích đáng một huy chương vảng duy nhất của vở diễn cho vai diễn này. Thực ra, xét về huy chương vàng, có thêm một Vàng nữa cho vai cụ bà Đại Lợi, theo tôi là xứng đáng…

Rõ ràng, Quẫn của Trần Lực là cuộc trình làng đích đáng về nghệ thuật đạo diễn.  Phong cách ước lệ chiết xuất từ Chèo truyền thống Việt, kết hợp Hài kịch Tây, đã đủ khiến Trần Lực tạo thành một cấu trúc vở diễn nhất quán, từ xử lý không gian sân khấu, âm nhạc kết hợp nhạc Việt với những bản nhạc hiện đại của nước ngoài,  đến tiếng động (của những bước chân rầm rập), từ vũ điệu hình thể đến tiếng nói sân khấu của diễn viên. Và một vở hài kịch kiểu Việt đã hiện diện, vừa có cái để xem, để nghe-nhìn, để nghĩ suy, khi cánh màn nhung sân khấu đã khép. Dấu ấn đạo diễn Trần Lực mạnh đến mức có thể gọi đây là vở diễn của đạo diễn, dù ở vở diễn thành công kiểu này, có nguy cơ diễn viên trở thành quân cờ trong tay đạo diễn, nhất là diễn viên - sinh viên? Nhưng đêm diễn Quẫn, 7.1.2018, với sự điều hòa nhạy cảm của đạo diễn Trần Lực, sự xuất hiện mới của NSND Lê Khanh trong vai bà Đại Cát, dung dáng Chèo của vở hài kịch Quẫn đã trở nên hoàn hảo...

Vĩ thanh:Những người từng xem 2000 đêm diễn Quẫn của đạo diễn Trần Hoạt, đã nhiều người không còn và Quẫn đã thành dấu ấn của một thời huy hoàng sân khấu. Trần Lực dựng Quẫn với một dàn diễn viên trẻ, là sinh viên, chưa tốt nghiệp đại học. Họ còn ngây thơ và non nớt trong nghề diễn, nhưng chính họ đã và sẽ giúp Trần Lực trưởng thành nghề đạo diễn và họ cũng tự trưởng thành trong nghiệp diễn. Đây cũng là phương pháp tốt nhất hiện nay để sân khấu Việt hiện đại đi tìm người xem trẻ và người xem đã mất, nói chung. Và có lẽ cũng là phương pháp thật tốt về đạo diễn, nhằm vươn tới tính hài kịch của một vở hài kịch tử tế, chứ không phải cái Hề nhảm đang gia tăng trên sân khấu sàn diễn của nhà hát, rạp hát, đặc biệt là trên sân khấu truyền hình hôm nay. Đơn giản, vì cái Hề nhảm ấy không phải cái Hài kịch đúng nghĩa tử tế phải có của sân khấu hiện đại Việt thế kỉ 21!

                                                                    Đầu năm mới 2018, HN-SG

PGS.TS.Nguyễn Thị Minh Thái

20180424 kich  
Cảnh trong vở Quẫn. Ảnh Võ Hồng Thu 

Trong sân khấu nói chung và kịch nói nói riêng, các yếu tố nghệ thuật tạo hình có vai trò quan trọng trong quá trình sáng tạo, xử lý không gian, thời gian của vở diễn. Một vở diễn thành công là vở diễn có các tạo hình sân khấu độc đáo, gây ấn tượng về thị giác, thính giác và cảm xúc thẩm mỹ đối với khán giả.

Nghệ thuật kịch nói xuất hiện muộn nhất ở nước ta so với các kịch chủng khác, tuy nhiên với những đặc trưng ngôn ngữ thể loại riêng biệt, loại hình nghệ thuật này đã có những bước tiến nhanh chóng, bắt nhịp song hành với thời cuộc trong nhu cầu thưởng thức sân khấu của khán giả Việt Nam.

Nghệ thuật tạo hình trong sân khấu kịch nói được xem như một phương thức tạo ra hình hài của tác phẩm về cả mặt nội dung và hình thức. Đây là công việc được hình thành từ ý đồ của đạo diễn, thể hiện bằng nghệ thuật diễn xuất của diễn viên cùng sự hỗ trợ của các hình thức nghệ thuật phụ trợ như: mỹ thuật, âm nhạc, ánh sáng, âm thanh. Không gian, thời gian sân khấu được hình thành từ 3 nhân tố cơ bản: sự kiện kịch, xung đột kịch, hành động kịch. Chúng trở thành nhân tố tổng hợp, là một trong những nền tảng cơ bản và không thể thiếu của nghệ thuật sân khấu.

Nói về không gian sân khấu, một mặt người ta nói đến không gian được quy định trong vở diễn, nơi nhân vật va chạm nhau, va chạm với các sự kiện, sự cố, hoàn cảnh, tạo ra xung đột và giải quyết xung đột kịch; mặt khác, nói tới không gian vật chất, nơi diễn ra vở kịch. Ngày xưa, các vở diễn thường diễn ra trên manh chiếu ngoài sân đình, ngày nay, diễn trong rạp hát hoặc trên mô hình sân khấu được dựng lên ở một địa điểm nào đó.

Còn nói đến thời gian sân khấu là đề cập đến thời gian trong cốt truyện, thời gian diễn tiến của vở diễn. Đồng thời đó cũng là thời gian vật chất, quy định độ dài của vở diễn. Trước đây, một vở diễn có thể kéo dài đến vài đêm, khi ra đời luật tam duy nhất (duy nhất địa điểm, duy nhất thời gian, duy nhất hành động), vở diễn chỉ được diễn ra trong một đêm. Tức, diễn biến cuộc đời nhân vật trong kịch cũng chỉ diễn ra trong một đêm diễn. Hiện nay, mỗi vở diễn thường dài từ     2 - 3 tiếng.

Mizangxen (những cảnh diễn) là hiệu quả của quá trình xử lý nghệ thuật không gian, thời gian trên sân khấu. Mặt khác, nghệ thuật không gian, thời gian sân khấu tạo nên sự vận động của xung đột, hành động kịch thông qua nhân vật.

Quá trình dàn dựng một tác phẩm sân khấu là quá trình ngôn ngữ hóa ngôn ngữ văn học thành ngôn ngữ sân khấu, đồng thời cũng là quá trình tạo hình vở diễn theo quan điểm sống, trình độ, kinh nghiệm, phông văn hóa, thẩm mỹ của đạo diễn. Cùng với những sáng tạo của nghệ thuật diễn xuất, dần dần hình hài của vở diễn được hình thành, ra mắt công chúng với những tạo hình gắn kết, đúc liền.

Nghệ thuật kịch nói với đặc trưng thể loại đã tạo nên những tạo hình sân khấu độc đáo, khác với tạo hình sân khấu khác. Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ vấn đề này ở những khía cạnh sau:

Nghệ thuật tạo hình trong dàn dựng của đạo diễn

Nói đến quá trình xây dựng hình tượng của vở diễn trên sân khấu, người ta thường nhắc đến công việc của đạo diễn với tư cách là người chịu trách nhiệm chính. Đạo diễn được ví như nhạc trưởng trong dàn nhạc.

Dàn cảnh là quá trình sử dụng ngôn ngữ sân khấu để tạo hình vở diễn, là phương tiện để thể hiện ý đồ, nội dung, cảm xúc của đạo diễn. Tác giả Trần Minh Ngọc đã khẳng định: “Người đạo diễn chỉ có thể thực hiện ý đồ của mình thông qua dàn cảnh. Đó là cách nhìn, cách suy nghĩ có tính tạo hình của đạo diễn đối với hành động kịch” (1). Như vậy, đạo diễn phải có óc sáng tạo, trí tưởng tượng, tư duy logic mới có thể dàn dựng được những lớp kịch thể hiện sự xung đột, mâu thuẫn một cách sống động, chân thực. Lúc này, nhân vật của vở diễn không nằm trên trang giấy nữa mà xuất hiện trên sàn diễn với đầy đủ tính cách, quan hệ xã hội, hoạt động của anh ta. Nhân vật di chuyển, trò chuyện, hành động từ lớp kịch này sang lớp kịch khác, thúc đẩy sự vận hành của nội dung câu chuyện từ đầu đến khi kết thúc… Tất cả đều được dàn dựng dưới bàn tay, khối óc của đạo diễn. Mỗi mizangxen như một bức tranh động, không thể thiếu trong nghệ thuật tạo hình về cuộc sống con người trên sân khấu. Mọi hành động diễn của diễn viên đều phục vụ mục đích tạo hình nhân vật...

Để xây dựng hình tượng vở diễn, đạo diễn phải có những ý đồ về hình tượng nhân vật, không gian, thời gian sân khấu, xử lý mizangxen, xử lý các sự kiện kịch, tạo hình vở diễn. O.J. Remez đã nói rằng, hầu như ý đồ tạo hình của đạo diễn thường bắt đầu bằng hình ảnh thị tượng (nhìn thấy được) của sự kiện trung tâm của vở kịch (2). Có thể nói, nghệ thuật tạo hình chính là một phương tiện để người đạo diễn xây dựng hình tượng của vở diễn sân khấu kịch nói.

Nghệ thuật tạo hình trong xây dựng hình tượng nhân vật của diễn viên

Xây dựng hình tượng nhân vật là nhiệm vụ quan trọng nhất của diễn viên trên sân khấu. Diễn viên đứng trên sân khấu thể hiện vai diễn, anh ta không thể đơn thuần minh họa kịch bản, mà phải bằng khối óc, trái tim, tư duy phân tích vai diễn để xây dựng hình tượng nhân vật trên sân khấu. Hình tượng nhân vật là cái mà khán giả nhìn và cảm nhận được khi theo dõi vở diễn. Hình tượng nhân vật làm cho khán giả nhớ đến vở diễn, nhân vật, diễn viên. Xây dựng thành công hình tượng nhân vật là điều mong ước của tất cả diễn viên, thể hiện quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ. Trên sân khấu kịch nói Việt Nam, có nhiều diễn viên mà khi nhắc đến nhân vật khán giả nhớ ngay đến họ. Đó là Nguyệt Ánh với vai diễn Nina (trong Nina, cô gái đánh trống trận), Masa (trong vở kịch cùng tên), Can Trường, Mạnh Linh với vai diễn Lê nin (trong hàng loạt vở kịch nói về cách mạng tháng Mười của Liên xô cũ), Đào Mộng Long với vai người tư sản (trong Chuông đồng hồ điện Kremli)... Mikhoenxo, một diễn viên sân khấu nổi tiếng người Nga nói rằng, muốn sáng tạo hình tượng thì mỗi diễn viên phải: nhìn, nghe, sờ thấy hình tượng. Do đó, muốn làm công việc sáng tạo, xây dựng hình tượng thì diễn viên phải làm chủ bản thân, làm chủ những phẩm chất của mình, trong đó có cơ thể và ngôn ngữ hình thể (3). Như vậy, diễn viên phải thể hiện hình tượng bằng các hệ thống động tác, cử chỉ, hành động tạo hình      sao cho phù hợp với tư tưởng của nhân vật.       Xtanilapski đã cho rằng, một trong những hình thức, phương tiện thể hiện quan trọng nhất của diễn viên là động tác hình thể, cử chỉ, hình dáng, những yếu tố không thể thiếu để sáng tạo hình tượng nhân vật trên sân khấu (4).

Tóm lại, diễn viên phải dùng bản thân mình để diễn xuất, để tạo ra nhân vật hay nói cách khác, chính diễn viên phải tạo hình cho nhân vật, từ tư tưởng đến sự thể hiện ra bên ngoài. Nghệ thuật tạo hình trong xây dựng hình tượng trên sân khấu được nhìn thấy rất rõ và có tầm quan trọng rất lớn trong công tác xây dựng hình tượng nhân vật của diễn viên. Đó là phương tiện sáng tạo của diễn viên trên sân khấu, ngôn ngữ hình thể cũng là công cụ để người đạo diễn xử lý các kỹ thuật dàn dựng. Ngôn ngữ hình thể được biểu hiện bằng cử chỉ, động tác của diễn viên và có thể thấy sự tạo hình của các động tác, của ngôn ngữ hình thể của diễn viên thông qua nhân vật trên sân khấu. Vậy có nghĩa là tạo hình của ngôn ngữ hình thể là điều kiện cần và đủ cho việc sáng tạo ra những sản phẩm nghệ thuật trên sân khấu kịch nói.

Ngôn ngữ hình thể đóng vai trò quan trọng và thú vị bởi khả năng biểu cảm của nó. Nằm trong hệ thống ngôn ngữ của con người nên nó mang đầy đủ các chức năng của ngôn ngữ. Tùy vào từng hoàn cảnh mà nó bộc lộ sự mạnh, yếu của các chức năng: chỉ nghĩa, thông báo, khái quát hóa. Ngôn ngữ hành động với khả năng bộc lộ thông tin, cảm xúc, tính cách, cá tính... là cơ sở để diễn viên vận dụng, khai thác trong tạo hình nghệ thuật.

_____________

1. Trần Minh Ngọc, Cơ sở lý luận và kỹ thuật đạo diễn sân khấu, Trường Nghệ thuật Sân khấu II, 1993.

2. O.J.Remez, Nhập môn nghệ thuật đạo diễn, Hoàng Sự dịch, Nxb Gitis, Moskva, 1987, tr.113.

3. Mikhoenxo, Lao động diễn viên, Nguyễn Nam dịch, Nxb Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, 2015, tr.97.

4. Đào Mạnh Hùng, Nghệ thuật diễn viên kịch - điện ảnh, Nxb Văn học, 2015, Hà Nội, tr.30.

Nguồn : Tạp chí VHNT số 406, tháng 4 - 2018

Phiên bản trực tuyến, ngày 13.4.2018.

PHAN THUẬN THẢO(Qua khảo sát tại Thanh Bình Từ đường ở Huế)Hàng năm, cứ mỗi dịp rằm tháng 7 Âm lịch, con cháu trong ngành Hát Bội (còn gọi là Hát Bộ hay Hát Tuồng) ở vùng Huế tụ họp nhau tại Thanh Bình Từ đường (kiệt 281, Chi Lăng, Huế) để làm lễ tế tổ. Đây là một dịp tốt để người trong nghề cùng gặp gỡ, trao đổi về nghề nghiệp, và tỏ lòng thành kính, biết ơn đến các vị tổ nghề.
Tìm hiểu tổ ngành hát bội
Mặt trước Thanh Bình Từ Đường
 
1. Vài nét về Thanh Bình Từ đường và lễ tế tổ: 
Thanh Bình Từ đường là nhà thờ tổ ngành Hát Bội lớn nhất trên cả nước, được xây dựng trong khuôn viên của Thanh Bình Thự ngày xưa (nay thuộc địa phận phường Phú Hiệp, thành phố Huế). Theo tấm bia đá dựng trước sân của Từ đường, ngôi nhà thờ này được trùng tu vào ngày 9 tháng 3 năm Quí Mùi, tức ngày 19 - 4 - 1823. Hiện vẫn chưa có nguồn tư liệu đáng tin cậy nào đề cập đến thời điểm xây dựng chính thức của Từ đường. 

Sự tồn tại của ngôi nhà thờ này gắn liền với lịch sử phát triển của nghệ thuật Tuồng Huế. Từ thời các chúa Nguyễn, nghệ thuật Tuồng đã được phát triển thành một thứ “quốc kịch” của Đàng Trong. Tại đây, vào thế kỷ XIX, nghệ thuật Tuồng đã được nâng lên vị thế đỉnh cao trong lịch sử phát triển của mình với sự hình thành phong cách Tuồng cung đình. Cũng chính vì thế, ngôi Từ đường dành cho các vị tổ ngành Tuồng lớn nhất cả nước đã được xây dựng tại Huế và còn được gìn giữ cho đến ngày nay.

Trong đợt trùng tu năm 1823, ngôi nhà thờ này vẫn chưa có tên là Thanh Bình Từ đường, bởi tổ chức hoạt động Tuồng cung đình thời bấy giờ vẫn còn mang tên gọi từ thời Gia Long là Việt Tường Đội. Đến năm Minh Mạng thứ 9 (1828), triều đình mới cho “đổi đội Việt Tường làm thự Thanh Bình”(1)Cho nêntấm hoành phi làm năm Tự Đức thứ 6 (1853) được khắc 4 chữ Hán kiểu đại tự: “Thanh Bình Từ đường”. Tấm  hoành  phi này  hiện vẫn  còn treo ở ngay gian giữa của từ đường.
Theo dòng lạc khoản ghi trên tấm hoành phi nói trên, cũng vào năm 1853, người ta xây thêm phần tiền đường và hai nhà cầu hai bên trái phải của từ đường. Sau khi triều Nguyễn chấm dứt, con cháu trong nghề cư trú chung quanh Từ đường vẫn cắt cử người bảo quản và chăm nom hương khói. Vào năm 1958, họ lại cùng nhau đóng góp kinh phí để sửa sang lại Từ đường(2).
Lễ tế tổ ở Thanh Bình Từ đường trước đây được cử hành rất trọng thể. Mỗi khi có đại lễ, người ta tiến hành chuẩn bị trước cả tháng. Các gánh hát ở xa cũng phải lo sắm sửa lễ vật, cử người đại diện về tham dự. Thông thường, lễ diễn ra trong ba ngày. Ngày đầu tiên làm lễ cáo và chuẩn bị. Ngày thứ hai mới là ngày lễ chính, có lễ tế rất trang trọng, tiếp theo là phần hát Thất kích và Chèo lễ Đại đàn. Ngày thứ ba làm lễ tạ và thu dọn. Đây là một trong những cuộc lễ có qui mô hoành tráng nhất trong giới hạn tổ chức của một phường hội, thể hiện các đặc điểm văn hoá rất cần được khảo sát, nghiên cứu dưới các góc độ dân tộc học, văn hoá học, nghệ thuật học. Tiếc thay, kể từ cuộc lễ cuối cùng do Viện Nghiên cứu Sân khấu phối hợp với các cơ quan chức năng ở Huế tổ chức vào năm 1981, phần hát Thất Kích và Chèo lễ đại đàn chưa bao giờ được tái hiện. Các nghi thức này ngày nay khó phục hồi do các nghệ nhân thể hiện đã qua đời mà chưa kịp truyền lại cho các thế hệ kế tiếp. Hiện nay, lễ tế tổ ở Thanh Bình Từ đường đã được đơn giản hoá rất nhiều. Cuộc lễ chính được tổ chức vào ngày rằm tháng bảy Âm lịch và chỉ kéo dài trong vòng nửa ngày.

2. Các vị tổ sư, họ là ai?
Muốn tìm hiểu tổ sư ngành Tuồng là ai, chúng ta hãy khảo sát hệ thống thờ tự và các đối tượng thờ cúng ở Thanh Bình Từ đường. Hệ thống thờ tự ở đây có một số thay đổi theo thời gian. Các kết quả nghiên cứu trong bài viết này dựa vào cuộc khảo sát được thực hiện vào tháng 7/2007.

Trước hết, ngay ở gian giữa là bài vị Càn Cương Hầu. Tương truyền, Càn Cương Hầu là người Trung Hoa, được triều đình Minh Mạng mời sang dạy hát cho người Việt Nam để ngành Hát Bội được phát triển(3). Nguồn tư liệu khác thì cho rằng Càn Cương Hầu là người Việt , học được cách hát Khách của người Tàu rồi truyền dạy lại cho người Việt . Ông mất ở Trung Quốc nên ngôi mộ của ông hiện nay tại chân núi Ngự Bình (Huế) không có xương cốt mà chỉ táng một tờ sắc phong và một khúc gỗ kỳ nam(4). Dù cho Càn Cương Hầu là nhân vật có thật hay không, là người Việt hay người Tàu, ông vẫn được tôn xưng là ông Tổ ngành Tuồng và được thờ ở vị trí trang trọng nhất - ngay trên án thờ chính ở gian giữa của Thanh Bình Từ đường.

Cũng trên án thờ chính ở gian giữa, ngay phía sau bài vị Càn Cương Hầu là các tượng thờ “Ông Làng”. Trước đây, diễn viên trong các đoàn Tuồng mỗi khi đi lưu diễn đều mang theo các tượng “Ông Làng” để thờ ở hậu trường. Trước khi ra sân khấu, các diễn viên thắp hương khấn vái để các “Ông Làng” phù hộ cho mình diễn tốt vai diễn. Như thế cũng đủ thấy các diễn viên Tuồng rất coi trọng việc thờ “Ông Làng”. Vậy các “Ông Làng” này là ai?
Ở miền Bắc, người ta cho rằng đó là các ông Đặng Hồng Lân và Đào Văn Só, là những bậc thầy dạy hát và điệu bộ. Theo truyền thuyết, hai ông sinh cùng thời với bà Phạm Thị Trân, tức vào thời nhà Đinh. Hai ông Lân và Só dùng thuyền vượt biển đi học, khi về thì thuyền bị đắm nên bị chết chìm, không vớt được xác nên người trong nghề dùng gỗ thị tạc tượng để làm ma, do đó các gánh hát có tục kiêng quả thị(5).

Ở Huế lại có truyền thuyết khác về hai “Ông Làng”. Tương truyền, xưa có 2 vị hoàng tử trẻ tuổi rất thích xem hát Tuồng. Một đêm nọ, hai hoàng tử trốn vua cha đi xem hát Tuồng, không may bị chết vì tai nạn. Về sau, hương hồn của hai ông hoàng này cứ vương vấn theo các đoàn hát và phù hộ cho các con hát. Chính vì thế, họ được các diễn viên thờ cúng để được phù hộ cho hát hay, diễn khéo mỗi lúc ra sân khấu. Hai ông hoàng dần dần được gọi chệch ra thành hai “Ông Làng”(6). Theo truyền thuyết này, đối tượng thờ cúng là hai “Ông Làng” không còn là các vị tổ sư hay các bậc thầy trong nghề mà lại là đối tượng khán giả. Ở đây, đối tượng khán giả được nâng lên ở một vị thế đáng kể. Sự trọng vọng của diễn viên đối với các đối tượng khán giả có lẽ chỉ có được khi khán giả là tầng lớp cao quý trong xã hội - đó chính là các bậc quý tộc, vua chúa. Điều này cũng giải thích được lý do tại sao truyền thuyết này xuất hiện ở Huế, vùng đất của các ông hoàng bà chúa thuở nào.

Một giả thuyết khác về hình tượng “Ông Làng”, tưởng cũng nên nêu ra ở đây. Theo sách Hát Bội, Théatre Traditionnel du (Hát Bội, Sân khấu Truyền thống Việt ), người Việt đã bắt chước theo các nghệ sĩ Trung Hoa thờ Lão lang thần, tức vua Đường Minh Hoàng hiển thánh(7). Về sau, “Lão lang” dần dần được hoá thân thành "Ông Làng" cũng là điều có thể xảy ra.
Tại Thanh Bình Từ đường hiện nay thờ đến hơn hai mươi tượng “Ông Làng”. Ở Huế trước đây, mỗi khi các gánh hát, rạp hát ngừng hoạt động, người ta lại rước các tượng “Ông Làng” đến thờ ở đây. Và khi một gánh hát hay một rạp hát được thành lập, người ta lại đến Thanh Bình Từ đường “thỉnh” các tượng đó về thờ. 
Cũng ở gian giữa của Thanh Bình Từ đường, ngay sát vách hậu là nơi đặt 3 bài vị thờ Thánh sư, Tổ sư và Thiên sư. Đây được xem là các bậc tổ nghề, dù chỉ là huyền thoại. Thực ra, người ta không thể xác định được tổ nghề là ai, nên đành tôn xưng một cách chung chung là các Thánh sư, Tổ sư, Thiên sư và lấy đó làm đối tượng thờ cúng.

Xem xét các án thờ ở hai bên, chúng ta thấy có các đối tượng thờ cúng như sau:
Gian bên tả của Từ đường đặt các bài vị thờ Quan Thánh Đế Quân, Thái Thượng Lão Quân, Chư Phật Bồ Tát, Tề Thiên Đại Thánh, Thiên Tiên Địa Tiên. 
Gian bên hữu có các bài vị thờ Cửu Thiên Huyền Nữ, Tôn Đức Hầu, Lưu tiên sinh, Chúa Ngọc Tiên Bà. 
Xa hơn, ở chái bên tả đặt một tượng thờ phía trước và hai tượng thờ phía sau. Theo người thủ từ, đây là bàn thờ Ngài Một và hai tuỳ tùng. Người thủ từ giải thích thêm rằng Ngài Một là vị thần cai quản Từ đường, mỗi lần có cúng kiếng hay thăm viếng Từ đường đều phải làm lễ cáo với ngài.
Ở chái bên hữu là bàn thờ Thánh Nương Ngọc Mẫu, Thổ Địa Thánh thần, Đông Trù Tư Mệnh Táo phủ, và Chúa Sơn Lâm. Ở đây còn có đặt thờ một nhánh xương hổ tượng trưng cho Chúa Sơn Lâm.

Sát vách hai đầu hồi bên tả và bên hữu, theo lời của người thủ từ, là nơi thờ ông tổ của 12 ngành nghề thủ công (án bên trái thờ 6 nghề và án bên phải thờ 6 nghề) như nghề may, nghề rèn, nghề mộc, v.v. Tuy vậy, kể từ năm 1997, ngành may mặc thành phố Huế rước linh vị và sắc phong tổ nghề may vào thờ ở án thờ bên hữu. Cho nên hiện nay, linh vị trên án thờ này có các đối tượng thờ cúng như sau:
- Cửu Thiên Huyền Nữ Phạm Thị nương nương.
- Nguyễn Thị tổ sư.
- Tiên hiền, tiên sư liệt vị.
- Hậu hiền, hậu sư liệt vị.
- Tả ban tòng tự liệt vị tôn thần.
- Hữu ban tòng tự liệt vị tôn thần.
Như vậy, án thờ này dành cho bà Cửu Thiên Huyền Nữ họ Phạm, bà tổ sư họ Nguyễn, cùng các bậc tổ sư, tôn thần... Theo truyền thuyết, Cửu Thiên Huyền Nữ là nữ thần được Trời sai xuống hạ giới để dạy cho dân các ngành nghề thủ công, nên được tôn vinh là tổ sư bách nghệ, đặc biệt là các nghề mộc, nề(8). Tuy vậy, ngay trên án thờ này còn có sắc phong thời vua Bảo Đại dành cho Phạm Thị Liên Hoa Công chúa. Vậy tổ nghề may là một Nhân thần họ Phạm, chứ không phải là Cửu Thiên Huyền Nữ trong truyền thuyết kể trên vốn là một Thiên thần. Ngoài ra, chúng tôi tìm cách đọc bài vị của án thờ bên tả, nhưng chữ viết quá mờ, không đọc được.
Ở ngoài hiên, sát vách bên trái và bên phải là 2 án thờ Tả ban và Hữu ban, là nơi thờ các vị nam nữ diễn viên quá cố. Trên các án thờ này chỉ đặt bát hương, không có bài vị. 

Một tài liệu rất quan trọng liên quan đến các đối tượng thờ cúng là tờ “Lưu chiếu” viết năm Thành Thái thứ 3 (1891) hiện còn giữ lại ở Thanh Bình Từ đường. Tờ “Lưu chiếu” này ghi lại vị trí từng án thờ cùng các đối tượng thờ cúng trong đó. Nghiên cứu văn bản cổ này, chúng tôi thấy ngoài các thần thánh được thờ hiện nay, tại Từ đường này trước đây còn có nhiều đối tượng thờ cúng khác như: ở án thờ Trung nhị có Đức Tống Sư vị, Thập nhị Tống nghệ, Đức Hán Sư vị, Đức Tự  Sư vị, Đức Nhân Sư vị, Tiền Thánh Hậu Thánh; án Tả nhị có Thập nhị Đàn nương, Ngũ hành nương nương, Đại Hoàng Tiên nương, Thập nhị Tiên nương, Đại càn Tiên nương. Cũng theo tờ “Lưu chiếu” này, ngoài 3 bài vị tổ sư đặt ở gian Trung nhất, còn có thêm 47 bài vị khác dành cho các thánh thần. Tổng số bài vị được thờ trước đây lên đến con số 50.
Như vậy, đối tượng thờ cúng ở Thanh Bình Từ đường trước hết là các bậc tổ nghề, được thiết án thờ ở gian giữa là vị trí trang trọng nhất của từ đường. Thật ra, người trong nghề không xác định được tổ sư của mình chính xác là ai nên đành tôn xưng bằng những danh hiệu chung chung là Tổ sư, Thánh sư, Tiên sư. Ngay cả với Càn Cương Hầu có vẻ là nhân vật “có thật” nhất, gần gũi nhất với thời đại chúng ta cũng không xác định được danh tính mà chỉ được bao quanh bởi những câu chuyện huyền thoại. Mồ mả của ông cũng chỉ là tượng trưng, không có hài cốt.

Các án thờ phối tự đặt ở hai bên là nơi thờ đủ các đối tượng từ Phật, Thánh, đến Thần, Tiên như: Chư Phật Bồ Tát, Thái Thượng Lão Quân, Quan Thánh Đế Quân, Thiên Tiên Địa Tiên, Thánh Nương Ngọc Mẫu, Thổ Địa, Chúa Sơn Lâm và cả thần bếp là Đông Trù Táo Phủ. Về lý do tại sao lại đưa nhiều đối tượng phối tự như thế, cả những bậc thâm niên trong nghề lẫn người thủ từ đều không giải thích được. Theo chúng tôi, có một số cách giải thích như sau: Các đối tượng thờ cúng trên đây vốn phổ biến trong tín ngưỡng dân gian Huế. Các nghệ nhân Tuồng, dù có một ngành nghề đặc thù, vẫn mang tư tưởng, tâm hồn của những cư dân bình thường ở vùng Huế, vì vậy, họ đưa các vị thánh thần của dân gian vào phối tự trong tổ đình của mình. Một cách giải thích khác là trong khi hành nghề, diễn viên Tuồng thường phải nhập vai thánh thần, tiên phật có trong vở Tuồng. Sợ mang tội phạm thượng với các bậc “cõi trên” đó, họ phải thường xuyên cúng bái để tạ tội. Chúng tôi đặt ra giả thiết này dựa trên ý nghĩa của lễ “vứt bỏ xiêm áo” để tạ tội với thần thánh được tiến hành sau các cuộc đại lễ trước đây ở Thanh Bình Từ đường(9).
Ngoài các vị Tổ sư, các thánh thần, các diễn viên quá cố cũng được thờ ở Thanh Bình Từ đường. Tên tuổi của họ được ghi nhớ mãi mãi trong tờ “Lưu chiếu” của Từ đường. Đây là niềm an ủi cuối cùng của một lớp người từng bị xã hội xem là “xướng ca vô loại”.

3. Kết luận: 
Thanh Bình Từ đường là nhà thờ tổ ngành hát Tuồng lớn nhất trên cả nước, có lịch sử tồn tại khoảng chừng hai thế kỷ. Nó là minh chứng cho truyền thống lâu đời của nghệ thuật Tuồng Việt với đỉnh cao là nghệ thuật Tuồng cung đình ở Kinh đô Huế.

Việc thờ cúng tổ nghề thể hiện truyền thống tôn sư trọng đạo của người Việt . Trải qua bao đổi thay của thời cuộc, dù nghệ thuật Tuồng không còn giữ vị thế độc tôn như dưới thời kỳ nhà Nguyễn, và quan trọng hơn là sự chuyển đổi ý thức hệ của con người, ngôi từ đường và các vị tổ nghề được thờ bên trong nó vẫn tồn tại ở một mức độ nào đó trong tâm thức của con cháu trong nghề. Thanh Bình Từ đường vẫn được xem là nơi linh thiêng, là mái nhà chung, là nơi tụ họp của con cháu trong nghề mỗi dịp tế tổ hàng năm. Và đến khi họ không còn trên cõi đời này nữa, linh hồn họ vẫn được được che chở dưới mái nhà chung này. Niềm tin đối với các vị tổ sư giúp người trong nghề sống tốt hơn cả trong nghệ thuật lẫn cuộc sống. Với nghề, họ phải cố gắng trau dồi kỹ năng nghệ thuật để duy trì và phát triển nghề nghiệp, sao cho xứng đáng với công lao tạo dựng và truyền bá nghề nghiệp của các vị tổ sư. Giữa đời thường, họ phải sống tốt hơn, không được làm điều càn rỡ để tránh bị tổ quở phạt. Ý nghĩa văn hoá và tâm linh của ngôi Từ đường giúp người ta vươn cao trong nghề nghiệp và hướng thiện trong cuộc sống. Điều này thể hiện rõ trong nội dung các câu đối hiện còn ở Thanh Bình Từ đường mà con cháu trong nghề vẫn nhìn thấy mỗi khi về đây tụ hội:
Hành kỳ lễ tấu kỳ nhạc ca tụ ư tư
Đôn hữu điển tự hữu luân cương thường chiêu kính
(Khi hành lễ, lúc tấu nhạc, ca công tụ họp nơi đây
Khi biểu diễn phải có nguyên tắc nền nếp, giữ vững cương thường đạo lý
).


Ngoài ra, cách thức thờ cúng ở Thanh Bình Từ đường còn là một biểu hiện của đời sống tâm linh của những người trong nghề nói riêng và dân gian Việt nói chung. Bên cạnh các vị tổ nghề, người ta còn đưa vào phối tự ở đây các đối tượng thờ cúng vốn phổ biến trong tâm thức của người dân bản địa - một biểu hiện của lối thờ đa thần rất thường gặp trong các đền miếu dân gian Việt . Đặc điểm này cần được đi sâu nghiên cứu dưới góc độ văn hoá học, dân tộc học.
Với những giá trị lịch sử, ý nghĩa văn hoá và nhân văn đặc thù của một ngành nghệ thuật đã từng lừng danh trong cung đình, Thanh Bình Từ đường đáng để chúng ta quan tâm bảo tồn. Và với những người trong nghề, hãy quan tâm chăm sóc tổ đình của mình bởi đây là một chốn đi - về (cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng) của chính chúng ta, những người làm Tuồng Việt.
Tam Toà, tháng 8 - 2007
                                                P.T.T

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 224 - 10 - 2007, bản điện tử ngày 2.10.2008.

-----------------
([1]) Nội Các triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam Hội điển Sự lệ, bản dịch của Viện Sử học, NXB Thuận Hoá, Huế, 1993, tập 9, tr.221.
(2) Theo nội dung tấm bia bên phải trước sân Từ đường.
(3) - Đoàn Nồng, Sự tích và Nghệ thuật Hát Bộ, Mai Lĩnh xuất bản, 1942, tr.26. 
- Nguyễn Đắc Xuân, Vài Tài liệu về Hát Bội triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, số 1/1966, tr. 34 - 35
(4) Theo NSƯT La Cẩm Vân, GĐ Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế, PV ngày 26/6/2007.
(5) Lộng Chương, Tìm hiểu nghệ thuật hát Tuồng qua những bài văn giỗ tổ, Tạp chí Sân khấu số 3/1976, tr.77, dẫn theo Nguyễn Huy Hồng, Truyền thống Sân khấu Huế, tr.14.
(6) Đoàn Nồng, sdd, tr.63.
(7) Tuần lý Huỳnh Khắc Dụng, Hát Bội, Théatre Traditionnel du Vietnam, Kim Lai Ấn quán, Sài Gòn, 1970, tr. 268.
(8) - Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng Dân gian Huế, NXB Thuận Hoá, Huế, 1995, tr. 150 - 152.
- Huỳnh Đình Kết, Tục thờ thần ở Huế, NXB Thuận Hoá, Huế, 1998, tr.38.
(9) Sau khi các y trang bị “vứt bỏ”, ban tổ chức bố trí người nhặt lại rồi dùng một mâm lễ cau trầu rượu chuộc lại những y trang này để nghệ nhân tiếp tục hành nghề.

20180408 Xe Da

Ảnh: Phương Quang và Thanh Vy trong vở Nàng Xê Đa (ảnh: H.K)

Sau năm 1975, cải lương có đôi chút thay đổi, nhưng rồi lại hoạt động sôi nổi. Nhiều vở hay, vai diễn để đời, nhiều nghệ sĩ tiếp tục bật sáng.

Phối hợp các thành phần nghệ sĩ
Giai đoạn sau giải phóng, mô hình cải lương tư nhân không còn nữa, mà các đoàn phải hoạt động theo mô hình tập thể. Bà bầu không còn một mình quản lý đoàn như trước, mà ban lãnh đạo có thêm một vài cán bộ từ Sở Văn hóa - Thông tin đưa xuống. Cách quản lý, cách trả lương, trả cát sê, ký hợp đồng tất nhiên cũng khác. Bên cạnh đó là đoàn nhà nước ra đời, gồm Nhà hát Trần Hữu Trang và đoàn Văn công TP.HCM. Đến năm 1984, có thêm đoàn 284 được thành lập sau chuyến đi biểu diễn ở châu Âu thành công rực rỡ.
NSND Lệ Thủy kể: “Hồi mới giải phóng nghệ sĩ chúng tôi lo lắm. Lo vì sợ mình bị ra rìa, không cho hát. Các đoàn tạm ngưng, nghệ sĩ đóng cửa ngồi nhà mà rầu, không biết mai mốt mình làm gì ăn, vì chỉ biết mỗi nghề hát thôi. Nghe nghe ngóng ngóng rồi tự nhiên một tháng rưỡi sau thì được mời ra, được đi họp, nói là các đoàn cứ hoạt động trở lại bình thường. Mừng quá trời đất!”.
Các đoàn lúc ấy thường gồm ba thành phần nghệ sĩ. Một từ Sài Gòn như Diệp Lang, Thanh Sang, Thanh Nga, Lệ Thủy, Thanh Tuấn, Mỹ Châu… Hai là nghệ sĩ miền Nam, miền Trung đi tập kết, như Lê Thiện, Tấn Đạt, Công Thành, Thanh Xuân…, hoặc hoạt động trong chiến khu như Kim Anh, Thanh Liễu, Như Ngọc, Đoan Phượng… Ba là nghệ sĩ “rặt người bắc” nhưng tham gia cải lương như Thanh Vy, Hà Quang Văn, Mạnh Dung, Thanh Dậu… Lực lượng mạnh nhất vẫn tập trung ở Nhà hát Ca kịch cải lương Trần Hữu Trang (sau đổi lại thành Nhà hát Trần Hữu Trang).
 
Dựng vở mang đề tài chống ngoại xâm
Thực sự nhiều vở diễn hay đã ra đời trong vòng 15 năm đầu sau 1975, nổi lên một loạt vở lịch sử chống xâm lăng hào hùng và cảm động, trong đó Tiếng trống Mê Linh và Thái hậu Dương Vân Nga là ngòi nổ đầu tiên. 1.000 năm chống giặc phương Bắc đã để lại biết bao tấm gương anh hùng cho cải lương khai thác. Sau cú hích của đoàn Thanh Nga, hầu như đoàn nào cũng dựng vở lịch sử, mà dựng rất hay, như Nhụy Kiều tướng quân, Gánh cỏ sông Hàn, Tâm sự Ngọc Hân, Nhiếp chính Ỷ Lan, Nữ tướng cờ đào, Rạng ngọc Côn Sơn, Tô Hiến Thành xử án...
Không chỉ Thanh Nga nổi tiếng lừng lẫy một lần nữa với những vai anh thư, mà các vở lịch sử còn phát hiện ra nhiều ngôi sao tự làm mới mình qua những nhân vật anh hùng. Ngọc Hương và Hoài Thanh bật sáng trong Gánh cỏ sông Hàn. Diệu Hiền thành nữ tướng Triệu Thị Trinh của vở Nhụy Kiều tướng quân và Hoài Thanh lại là anh kép đẹp mới toanh sáng vụt lên trong vai tướng quân Lê Minh dũng lược. Tâm sự Ngọc Hân cũng phát hiện ra một Nguyễn Huệ - Tuấn Thanh trẻ đẹp, ca hay, oai phong lẫm liệt. Từ vai này Tuấn Thanh cứ lọt vào mắt xanh các đạo diễn suốt mấy chục năm trời mỗi khi dựng vở lịch sử. Tô Hiến Thành xử án là câu chuyện đáng khâm phục khi người ta phải công tâm xử cả người thân để giữ gìn kỷ cương phép nước và bảo vệ giang sơn, mà nghệ sĩ Trường Sơn và Thanh Loan của làng Hồ Quảng đã diễn thật xuất sắc.
Loạt vở thứ hai thuộc chủ đề chống Pháp, Mỹ, cũng thành công vang dội. Bình Tây đại nguyên soái, Tiếng hò sông Hậu, Khách sạn hào hoa, Tìm lại cuộc đời, Ánh lửa rừng khuya, Người ven đô, Ánh sáng và bóng tối, Cây sầu riêng trổ bông, Tiếng sóng Rạch Gầm, Nàng Hai Bến Nghé, Trăng lên đỉnh núi... Bên cạnh đó là một số vở tố cáo xã hội cũ như Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu được tái dựng. Các nghệ sĩ cũ của Sài Gòn diễn rất hay, từ Thành Được cho tới Thanh Thanh Hoa, Mỹ Châu, Lệ Thủy, Thanh Tuấn, Thanh Hải, Hồng Nga... đều nhập vai rất xuất sắc.
Một mảng nữa là vở tâm lý, ca ngợi nhân nghĩa ở đời, châm biếm thói hư tật xấu, cũng rất ăn khách. Bên cầu dệt lụa là vở kinh điển nhất, để lại một hình tượng Quỳnh Nga (Thanh Nga đóng), Trần Minh (Thanh Sang), Nhuận Điền (Thanh Tú) đẹp ngời ngời nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Rồi Lục Vân Tiên đã làm mới cho Bạch Tuyết - Thanh Sang, trở thành những mẫu mực sau này các em trẻ dựa vào đó mà biểu diễn... Ngao Sò Ốc Hến đã phát hiện Thanh Kim Huệ, Thanh Điền, Giang Châu có khả năng hài đến bất ngờ. Nàng Xê Đa càng bất ngờ hơn với cô đào đất bắc Thanh Vy quá sang trọng và chuẩn mực trong ca diễn.
Vé chợ đen
Có một điều rất lạ, giai đoạn này dù là thời bao cấp khó khăn, thậm chí phải ăn độn, nhưng khán giả TP.HCM vẫn ùn ùn đi xem cải lương. NSND Diệp Lang kể: “Vé vừa bán một, hai tiếng đồng hồ đã hết sạch. Chợ đen thì giá gấp 3 - 4 lần. Hồi đó nghệ sĩ có tiêu chuẩn 1 cặp vé mời, nhưng anh em tuồn ra ngoài bán chợ đen vì lương thấp lắm, nghèo lắm. Nhưng nghèo thì nghèo, lên sân khấu là phấn khởi, vì có tuồng hát cả trăm suất vẫn còn đông, thậm chí cả ngàn suất như Nàng Xê Đa, Ngao Sò Ốc Hến...”.

Nguồn: Báo Thanh niên, ngày 5.4.2018.

Nghệ thuật khắc họa tính cách và hành động nhân vật qua hai vở tuồng cung đình 'Sơn Hậu' và 'Ngọn lửa Hồng Sơn'

Sân khấu Tuồng cung đình Huế qua Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng sơn là cuộc đấu tranh chính trị, đề cao những vấn đề quốc gia đại sự, những cuộc xung đột giữa chính và tà, trung và nịnh trong triều đình phong kiến. Các nhân vật chính, nhân vật trung tâm luôn phải trải qua một quá trình bị đặt trong tình thế phải lựa chọn. Chính vì vậy, tâm lý của nhân vật luôn xung đột, bởi luân thường đạo lý xoắn quanh tâm trí họ. Do đó, khi xây dựng các kịch bản sân khấu Tuồng cung đình nói chung, hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng, ngoài hệ thống nhân vật trong không gian cung đình được lồng ghép theo kiểu đan xen nhau, thì trong vòng xoáy kìm tỏa của chế độ phong kiến, giới quan lại triều đình nhà Nguyễn cũng đã song song xây dựng bao quát một hệ thống nhân vật thông qua tính cách và hành động của từng nhân vật cụ thể. 

Nghệ thuật khắc họa tính cách 

Nhân vật trong tất cả các kịch bản văn học Tuồng cung đình Huế, luôn được khắc họa tính cách theo kiểu một chiều. Không có nhân vật ban đầu tốt, sau trở thành xấu và ngược lại. Cũng như vậy, đặc trưng tính cách của các nhân vật trong hai vở Tuồng cung đình Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn không có sự biến chuyển, đây là sự khẳng định rất rõ ràng thông qua nội dung của các kịch bản Tuồng.

Phàn Định Công trong Tuồng Sơn Hậu tính khí trung trực, quả cảm và nóng nảy, ông luôn có suy nghĩ khác người, bởi vậy khi nghe Tạ Thiên Lăng cướp ngôi vua ông đã chặt đầu tên sứ quan của triều ngụy đến dụ hàng, lấy máu nó đề cờ phục quốc.

(Chư tướng) Truyền đặt bàn quỳ tế ngũ phương
Lấy huyết sứ đề cờ phục quốc
Truyền khanh đẳng trai minh thịnh phục1
Trước là trả thảo tiên hoàng
Sau đặng tròn niềm thần tử.

Quân vừa kéo đi thì một ngọn gió thổi gãy cờ. Có người cho rằng đó là điềm chẳng lành, khuyên ông hoãn binh. Ông nói, cờ của ông là cờ chính nghĩa, thánh thần phải phù hộ, gió kia là ma quỷ, là tà khí, ta bất chấp nó. Đi một đoạn nữa, ông nhận được mật thư của Lê Tử Trình, nội dung thư bảo ông chưa nên động binh, hãy chờ cứu được mẹ con thứ hậu ra khỏi nơi tử tù đã. Ông giận thư kia đến muộn, nên nếu rút lui lúc này là mất nhuệ khí quân lính. Ông ngã ngựa và hộc máu. Tướng sĩ can gián, ông quát tiến quân, rồi lại hộc máu và ngã ngựa. Lại có người can ông, nhưng ông vẫn nhảy lên lưng ngựa ra lệnh ai can gián sẽ chém đầu. Rồi lần thứ ba ông ngã, hộc máu và chết. Một cái chết đầy hùng khí.

Thiên dĩ táng, thiêng dĩ táng!
Khí lực suy khi lực suy!
(Thương hại) Gắng sức già lên ngựa ba phen
Trời chẳng độ, Tề triều ắt mất
Ngưỡng thiên nhi đoản thán
Phủ địa dĩ trường thanh2
(Diệm nhìn mặt cha cho tường a con)
Ngựa Khương Dung giấu để ngoài thành
Cốt Phàn thị sớm chôn Sơn Hậu.

Cũng như vậy, tính cách bộc trực nhưng khẳng khái của Khương Linh Tá chính là tiền đề cho những thắng lợi của phe trung thần, bởi vì ở con người này mỗi câu nói trong lúc lâm nguy luôn thể hiện tính cách dứt khoát và quyết liệt:

Khuyên yêng đừng thoái chí
Hãy gắng sức anh hùng
Yêng hãy phòng hoàng tử, thứ cung
Mà ra chốn ải quan đặng trước
Ví dù Tạ tặc
Binh mã tiến truy
Đã có chước giải nguy
Mặc tài tôi ngăn trở
Sức này dù xô ngã
Yêng chạy đã xa đường

Khi nhân vật bộc lộ cá tính của mình, ngôn ngữ thường chứa đựng nhiều thông tin, với nội dung chân thực, chính xác nhằm khắc họa sâu sắc tính cách của nhân vật. Để nói thế nước đang trong cơn nguy khốn và sự thiếu vắng những trung thần vì vua vì nước, Đổng Kim Lân than:

Cơ nghiệp tề chẳng khác trứng trồng
Binh quyền Tạ dường như đã gác”
...
“Chim muốn bay hiềm vì thiếu cánh
Rắn muốn chạy ngại nổi không đầu”
...
“Thành nghiêng không kẻ đắp
Lũy mỏng thiếu người bồi

Và Đổng Kim Lân cùng Khương Linh Tá đã thề nguyện:

Phơi gan đắp lũy
Lột da bồi thành”

Triệu Khắc Thường khinh bỉ những kẻ hèn nhát:

“Thế cũng đòi lên ngựa cầm đao
Về mà vận yếm đào cho tiện

Cũng như vậy, trong vở Tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn Tạ Ngọc Lân đã khen tính cách của Triệu Tư Cung:

Biết ngựa hay bởi tại đường dài
Quả cây đắng đã sinh trái ngọt.

Trong mỗi kịch bản sân khấu Tuồng cung đình Huế nói chung, hai Vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng, tính cách nhân vật thường được khắc họa thông qua động tác biểu diễn của nhân vật trên sân khấu. Đây có thể coi là kiểu kích thích tình cảm trong diễn xuất của nhân vật. Trong đoạn Khương Linh Tá quan sát giặc chuẩn bị chiến đấu:

Binh theo đường gió
Tướng đuổi tựa mưa
Đoái trước sau chỉ có mình ta
Tưởng cô thế khôn ngăn ba gã
Luận theo đường hổ
Ra sức tranh long.

Khi diễn viên sử dụng múa để nhằm tô đậm tích cách nhân vật, thường chọn những điểm nhấn của lời văn mang tính hình tượng để biểu hiện, Tạ Ngọc Lân trong lớp sai Phương Cơ về triều đình thám thính đã cất giọng hát:

Thấy nói lòng mừng lật đật
Nghe rằng chân bước xung xăng
(Bây giờ)
Giả điên cuồng con xuống Trường An
Thông tin tức cha lên Trúc Tự.

Điều hạn chế khá quan trọng là các nhân vật chỉ xuất hiện và hoạt động chủ yếu trong mối quan hệ cang thường và biểu hiện những đức tính: Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, còn cuộc sống riêng tư của con người ít khi được đề cập đến. Điều này xuất phát từ mối quan hệ xã hội, họ coi đó là những mẫu mực của xử thế, do đó những người làm nghề Tuồng khi trình diễn hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn thường nói:

+ Thông minh như con Cơ (Tạ Phương Cơ trong vở Ngọn lửa Hồng Sơn).
+ Ngay thẳng như Triệu Khắc Thường (Tuồng Sơn Hậu).
+ Tình bạn như Kim Lân - Linh Tá (Tuồng Sơn Hậu).
+ Đúng đắn như bà Nguyệt (Nguyệt Hạo trong Tuồng Sơn Hậu).

Những tính cách điển hình nói trên, là hình tượng nghệ thuật theo quan niệm của người nghệ sĩ, bởi họ đã biết cảm xúc ở mặt đạo đức xã hội về phẩm chất của con người: trung thực, giàu khí tiết, thông minh, dũng cảm, thủy chung. Từ quan niệm này, vấn đề riêng tư của nhân vật ít được đề cập đến cũng là một lẽ tự nhiên.

Khác với các loại hình sân khấu khác, đối với sân khấu Tuồng cung đình Huế mang chủ đề quân quốc, những người làm nghề Tuồng thường thuộc câu nằm lòng:

Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi.

Từ câu nói trên, người xem có thể nhận thấy tính cách của mỗi nhân vật trong Tuồng được thể hiện rõ ra bên ngoài khuôn mặt được hóa trang của diễn viên. Ở đây, tính cách của nhân vật được thể hiện rõ ở màu sắc với ba tông màu chủ đạo là đen - đỏ - trắng và thêm một số màu phụ trợ như: xanh, xám… Mỗi tông màu gắn với từng mô típ nhân vật cụ thể, như: mặt đen - đại diện cho sự rắn chắc; mặt trắng - vẽ sự bạc bẽo; mặt mốc - dành cho kẻ xu nịnh, phản trắc; mặt rằn - kẻ tướng mạo xấu xí, tính tình nóng nảy; mặt đỏ - tỏ rõ sự trung can nghĩa khí... Đồng thời, hàm chứa sâu sắc cái đẹp trong mỹ học dân tộc. Đối với hai vở Tuồng cung đình Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn, tính cách nhân vật cũng được khắc họa như vậy. Dưới đây là hình ảnh về khuôn mặt được kẻ bằng những họa tiết “mỹ thuật sân khấu” nhằm làm nổi bật tính cách của một số nhân vật trong hai vở Tuồng nói trên:

Trong hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn tính cách nhân vật cũng đã khắc họa thông của sự bộc lộ cá tính độc đáo của nhân vật, dù mỗi nhân vật có một tính cách khác nhau, nhưng nhìn chung tác giả đã xây dựng nhân vật dựa theo cốt truyện nhằm làm nổi bật nội dung để chuyển tải đến người đọc và người xem những lập trường, tư tưởng cũng như lý tưởng của nhân vật thông qua những cảnh, lớp, hồi của kịch bản.

Nghệ thuật khắc họa hành động 

Trong hai kịch bản văn học Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn, mỗi hành động của nhân vật luôn được tác giả khắc họa theo qui chuẩn tâm lý đúng với thể loại sân khấu Tuồng cung đình. Trong đó, mỗi hành động của nhân vật được mô tả theo đúng tuyến tính không gian và thời gian, đó cũng chính là mấu chốt thành công của cốt truyện. Mịch Quang, trong Đặc trưng nghệ thuật Tuồng cho rằng: “...ở tuồng, với tính chất ngâm xướng quán triệt trong phong cách của nó, rất khó gây hứng thú chỉ bằng hát. Do đó, nếu văn học tuồng không chú trọng đến hành động, mà chỉ lao theo viết nhiều làn điệu cho mấy đi nữa cũng không thể tạo đất hoạt động cho diễn viên, không thể gây hứng thú cho nghệ thuật”.

Đối với tất cả các loại hình sân khấu, hành động là điều kiện quyết định cho sự thành công của vở kịch. Tuy nhiên, đối với đặc trưng nghệ thuật sân khấu Tuồng cung đình Huế, kịch bản luôn dồi dào tính hành động, và chính hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn là những vở Tuồng rất giàu hành động và xung đột. Sự việc diễn ra hầu hết là sự đấu tranh không điều hòa giữa hai lực lượng trung và nịnh dẫn đến sự kết thúc một mất một còn. Ở đây, hành động của nhân vật luôn được đẩy đến sự tột cùng của quyết liệt. Do đó, nhân vật nếu đã nổi giận thì giận đến long trời lở đất. Chúng ta thể có nhận thấy giận dữ của Phàn Định Công trong Tuồng Sơn Hậu khi nghe sứ thần của Tạ Thiên Lăng đến dụ hàng:

Vương Sứ:

Vâng lệnh thiên tử
Chiếu truyền dữ lão quan
Hồi bái yết thiên nhan
Đặng gia phong quyền tước

Phàn Định Công:

Nhìn chiếu chỉ quỳ tâm hưởng phúc
Để sắc văn yển thảo xuy phong3
(Chư tướng) Nay có chiếu trào trung
Truyền bài khai hương án.

Vương Sứ, (đọc chiếu):

Nhất gia nhân, nhất quốc hướng nhân
Nhất gia nhượng, nhất quốc hướng nhượng4
Tạ triều đình chiếu chỉ
Trẫm hiệu Thiên vương

Phàn Định Công:

(Sứ, Tạ vương là Tạ vương mô hè?)

Vương Sứ:

(Thưa, Tạ Thiên Lăng).

Phàn Đinh Công:

(Ải, ải) Thấy nói dầu sôi sùng sục
Nghe thôi lửa cháy bừng bừng
(Ấy vậy) Ngỡ Tề triều chiếu chỉ thì lão vâng
Nay Tạ tặc dụ ngô dường ấy?!
Kíp xé tan chiếu chỉ,

(Đao phủ quân)
Đao phủ nã xứ nhân
(Chư tướng!)
Truyền đặt bàn quý tế ngũ phương
Lấy huyết sứ đề cờ phục quốc.

Và cũng như vậy, những nhân vật trong các kịch bản Tuồng nếu đã khóc thì khóc đến xé lòng, đến chảy máu mắt; nếu là tiếng cười thì tiếng cười đến lộn ruột, nghĩa là những hành động tương phản cực độ. Ở đây, trong các kịch bản Tuồng, tiếng cười thường được xây dựng xung quanh hành động của các nhân vật như: quan xòi5, lính canh... điều này được thể hiện lúc Tạ Phương Cơ muốn vượt qua cổng thành về báo lại tình hình với cha mình, rằng Triệu Văn Hoán đã tiếm ngôi vua và cử Tạ Kim Hùng làm đốc tướng.

Hai lính canh:

(Con kia, đi đâu...?)

Phương Cơ:

(Dạ, em đi, em đi tìm chồng em... a ha hahaaaaa).

Hai lính canh:

“Ê, hắn đi tìm chồng mi ơi, con nhà ai mà xinh thế không biết, mà hình như hắn bị điên..., em ơi, chồng đây này, hiiiiiiiiiiiiii).
Con cu bay bổng qua sông
Hỏi thăm em bậu có chồng mà hay chưa.

Phương Cơ:

Có chồng năm ngoái (mà) năm xưa
Năm nay chồng chết nên chưa có chồng.
(A ha haaaaaaaaa, cho em qua bên nớ nghe anh, a haaaaaa).

Hai lính canh:

Có chồng không nói qua hay
Qua cho thúng bún, qua giùm quả xôi”

Phương Cơ:

“Có gì mà bún mà xôi
Hộp trầu chén rượu đã rồi hôm qua
Chạy qua ải 

Hai lính canh:

Con này đã dại
Ta lại không khôn
Theo con này chặt lấy bàn chơn
Bỏ xuống ruộng cho cua nó kẹp.”

Có thể nói, dù chỉ là một cảnh, một lớp đi đường diễn ra ở cổng thành hay rừng núi, nhưng hành động của nhân vật chính là điểm ráp nối cho các kiểu xung đột trong nghệ thuật Tuồng nói chung và hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng.

Theo Mịch Quang, trong Đặc trưng nghệ thuật Tuồng: “Tính hành động là cái không thể thiếu được của các vở tuồng được truyền tụng, nhưng “tính hành động quyết liệt” lại chỉ là đặc tính trong một thời kỳ lịch sử nhất định của kịch bản tuồng, phản ánh thế giới quan của các nhà hoạt động tuồng đương thời và hoàn cảnh xã hội (thời cuối Lê đầu Nguyễn) vào khoảng thế kỷ từ XVI đến XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, sang đầu thế kỷ XIX (nhất là tuồng của Đào Tấn) tính hành động tuy vẫn là một đặc trưng cơ bản, nhưng không còn gay gắt quyết liệt, mà lại lắng vào chiều sâu, thiếu về hành động tâm trạng”.

Với sự nhận định trên, hành động của các nhân vật trong Tuồng cung đình tương ứng với lịch sử ra đời của kịch bản Tuồng. Ở hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn hành động tâm trạng của các nhân vật vẫn được đẩy đến tột độ, đó là những suy nghĩ của: Lê Tử Trình, của Đổng Kim Lân, của Tạ Ngọc Lân, của Triệu Tư Cung, của Lý Khắc Minh... tìm “phương cứu giải” khôi phục giang sơn đất nước trong tiếng thở dài độc thoại của bản thân cùng bóng đêm cô tịch.

Kịch tính và hành động của nhân vật luôn căng thẳng từ đầu đến cuối vở diễn. Then chốt của kịch tính là nằm ở những xung đột nội tâm hết sức quyết liệt của nhân vật. Trong Tuồng Sơn Hậu chúng ta có thể thấy hành động của nhân vật được khắc họa thông qua sự đấu tranh nội tâm một cách quyết liệt như: Khi Đổng Kim Lân đem binh đến đánh Tạ Thiên Lăng, nhưng thấy thế họ Tạ quá lớn đành phải quy thuận; Khương Linh Tá đem quân tới giúp Đổng Kim Lân, nhưng thấy Kim Lân đã trá hàng về với Tạ Thiên Lăng, cũng đành trá hàng theo; Thái giám Lê Tử Trình tuy trong lòng muốn bảo tồn dòng giống của vua tề, nhưng phải dâng ấn ngọc cho Tạ Thiên Lăng, để tranh thủ lòng tin của tên thái sư này; Kim Lân và Linh Tá lo lắng không biết Tử Trình có trung thành với vua cũ không nên phải thử lòng Tử Trình; Mẹ Kim Lân bị Tạ Ôn Đình bắt trói yêu cầu Đổng Kim Lân phải đầu hàng, mẹ Kim Lân không cho con đầu hàng, Kim Lân hẹn ba ngày xin bãi binh, hay tên Tạ Kim Hùng không đồng ý với cuộc sống cơ hàn, ngày ngày chăn trâu cắt cỏ cùng cha, cùng em gái, nên hành động bắt đầu cho những tội lỗi của hắn là đã bỏ nhà theo Triệu Văn Hoán khi tên này cướp ngôi vua và cho hắn làm đến chức đốc tướng. Khi Tạ Ngọc Lân giả đến xin ở với nó, nó đã hỏi cha nó có còn đủ sức để làm mấy việc vặt trong nhà không, nếu đủ sức thì múa vài đường quyền để nó xem gân cốt đã. Chỉ một hành động nhỏ bằng lời nói, nhưng ở đây kịch bản đã cho chúng ta thấy được sự bất nhân, bất nghĩa của Tạ Kim Hùng đối với cha mình.

Như vậy, đối với những vở Tuồng cung đình mang chủ đề quân quốc nói chung và hai vở Sơn Hậu vàNgọn lửa Hồng Sơn nói riêng, đặc trưng kịch bản sân khấu của nó là tác giả đã sáng tạo những hành động độc đáo của nhân vật khi đưa nhân vật đến những tình huống “ngã ba đường” như một biện pháp thường dùng để xây dựng nhân vật. Ngoài ra, các tác giả cũng có những biện pháp tạo nên những hành động độc đáo của nhân vật để khắc họa tính cách. Nói hành động độc đáo, tức là hành động của nhân vật ở đây khá đặc biệt với những người khác trong tình huống tương tự: đó là hành động của Phàn Định Công (trong Tuồng Sơn Hậu chém xứ thần, rồi ba lần ngã ngựa nhưng vẫn muốn về kinh thành hỏi tội Tạ Thiên Lăng khiến ông hộc máu và chết; hay hành động của Bích Hà tỳ nữ của Xuân Hương (trong TuồngNgọn lửa Hồng Sơn) tự nguyện hy sinh thay chủ mình để thế thân cho chánh cung; và còn nữa, Tạ Ngọc Lân (trong Tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn) đã phải giết con trai mình vì cơ nghiệp của dòng vua cũ;... những biện pháp ấy, thường được tác giả sử dụng một cách thành thạo như một phương cách nhằm tạo ra hành động độc đáo cho nhân vật của mình trong các kịch bản Tuồng cung đình Huế nói chung, hai vở Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng.

T.T.B
(SH321/11-15)


----------------
1. Truyền tất cả ăn chay mặc tang phục 
2. Ngửa mặt lên trời than vắn, cúi xuống đất kêu dài 
3. Một lòng hướng phục chiếu chỉ, thấy sắc văn như cỏ cúi xuống khi gió thổi. Ý nói tôn trọng chiếu chỉ nhà vua.
4. Một nhà có nhân, cả nước hướng theo điều nhận/ Một nhà nhượng, cả nước đều nhượng.
5. Một chức quan nhỏ trong triều, không có lập trường nhưng thường chỉ biết a dua theo những lời nói của người khác.

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, ngày 27.11.2015.

20180404 cai luongNghệ sĩ Kim Cương (trái) và Phùng Há trong vở 'Mộng hoa vương'
ẢNH: GIA ĐÌNH NGHỆ SĨ KIM CƯƠNG CUNG CẤP
Cải lương được ghi nhận khởi đầu vào năm 1918, như vậy tính đến nay đã tròn 100 năm.
Một thế kỷ phát triển rực rỡ và thăng trầm xen lẫn, để rồi cải lương đã trở thành một di sản quý giá trong kho tàng văn hóa dân tộc.
 
Đâu là vở cải lương đầu tiên ?
Gần đây có vài tư liệu dẫn theo hồi ký 50 năm mê hát của học giả Vương Hồng Sển, cho rằng vở cải lương đầu tiên là vở Gia Long tẩu quốc diễn tại “nhà hát Tây” Sài Gòn vào ngày 16.11.1918, tuy nhiên không có thêm nhiều chi tiết về vở diễn này.
Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng vở cải lương đầu tiên là vở Kim Vân Kiều do gánh hát thầy Năm Tú trình diễn tại Mỹ Tho vào năm 1918. Đạo diễn Hồng Dung, con gái của NSND Năm Châu, Phó chủ tịch thường trực Hội Sân khấu TP.HCM, giảng viên Trường cao đẳng Văn hóa nghệ thuật TP.HCM, cũng khẳng định: “Riêng tôi biết thì Kim Vân Kiều của ông Trương Duy Toản mới là vở cải lương đầu tiên. Lúc đó đang thịnh hành ca ra bộ, ông Trương Duy Toản viết nhiều lớp riêng lẻ cho nghệ sĩ ca, rồi sau ông ghép các lớp lại với nhau, bố cục lại chặt chẽ, thành ra một tuồng”. Thầy Năm Tú vốn dân du học ở Pháp nên thích lối diễn kịch của Pháp, vì vậy thầy ủng hộ ông Trương Duy Toản, thậm chí còn đứng ra dàn dựng bố cục. Và Mỹ Tho mới là cái nôi hình thành nên đờn ca tài tử, ca ra bộ, lẫn cải lương.
Dù chưa có sự thống nhất đâu là vở đầu tiên, song có thể thấy thời điểm cả 2 vở diễn xuất hiện đều là năm 1918. Như thế cả 2 vở đều đã tròn 100 tuổi.
Đến năm 1920, cách gọi những vở diễn canh tân hát bội và ca ra bộ là “cải lương” đã xuất hiện, với câu đối được lưu truyền đến ngày nay: “Cải cách hát ca theo tiến bộ/Lương truyền tuồng tích sánh văn minh”.
 
Những nghệ sĩ và gánh hát lừng danh
Trong giai đoạn mở đầu của cải lương, nổi lên một tên tuổi lớn, tài hoa. Đó là NSND Nguyễn Thành Châu (Năm Châu). Ông vừa là kép hát đẹp trai, vừa là soạn giả, đạo diễn, kiêm luôn bầu gánh và thầy dạy cho thế hệ nghệ sĩ thập niên 1950, 1960, 1970. Nói 5 trong 1 cũng không ngoa.
Năm Châu là người Mỹ Tho, tham gia gánh hát thầy Năm Tú từ năm 1922, đến 1925 ông sang gánh Tái Đồng Ban, 1929 sang gánh Huỳnh Kỳ của Bạch công tử Lê Công Phước, 1936 về gánh Trần Đắc và 1948 thành lập gánh Việt kịch Năm Châu của riêng mình. Trong mấy chục năm đó, ông đã sánh vai với NSND Phùng Há, cô đào tài sắc tuyệt vời, làm nên những trang rất đẹp cho cải lương.
Gánh Trần Đắc là nơi Năm Châu đã thăng hoa nhiều nhất với hàng loạt vở cải lương phóng tác từ tiểu thuyết Pháp như Giá trị và danh dự (từ Le Cid của Corneille), Bằng hữu binh nhung(Ba người lính ngự lâm của Alexandre Dumas), Túy Hoa Vương Nữ (Marie Tudor của Victor Hugo)... khác hẳn với các tuồng từ truyện Nôm VN hoặc từ tích truyện Tàu mà đa số gánh lúc bấy giờ hay diễn. Loạt tuồng này làm nền cho xu hướng “cải lương xã hội” sau này phát triển mạnh mẽ, và làm nền cho gánh Việt kịch Năm Châu của ông ra đời với phương châm “Thật và Đẹp”. Cải lương của Năm Châu rất hiện đại, tiết tấu nhanh, ít bài ca lê thê, bố cục chặt chẽ. Ông để lại 50 vở dài và vô số vở ngắn, mà Men rượu hương tình, Sân khấu về khuya là hai tác phẩm hay nhất. Ông còn kêu thầy giáo về dạy chữ cho nghệ sĩ trong gánh.
Gánh Trần Đắc và gánh Năm Phỉ còn có một tài năng khác là soạn giả Trần Hữu Trang. Ông để lại những tuyệt tác như Tô Ánh Nguyệt, Đời cô Lựu. Cây viết của ông xoáy vào những hiện thực xã hội cay đắng, đến bây giờ vẫn còn ăn khách.
Cũng không thể không nhắc tới gánh Phước Cương. Ông Nguyễn Ngọc Cương (cha của NSND Kim Cương) du học ở Pháp và mê kịch Pháp. Bên đó, ông quen với Bạch công tử Lê Công Phước, con của đại điền chủ miền Tây, cũng mê kịch như ông. Thế là khi về nước hai người hùn nhau lập gánh cải lương Phước Cương vào năm 1926. NSND Kim Cương nhớ lại: “Hồi đó lúc đầu ba tôi kêu mấy ông thợ hớt tóc ráp vô đờn ca chơi mỗi ngày, rồi soạn lời, soạn động tác cho cô Năm Phỉ, cô Năm Xoàn… ra bộ. Thợ hớt tóc nhưng là tay đờn thứ dữ chứ không phải nghiệp dư đâu. Bà nội tôi thấy vậy bèn chọn ngày chúa nhựt cho các nhóm lên biểu diễn tại bộ ván gõ trong nhà, ai tới coi thì chồng 10 đồng xu trả cho bà”. Từ đó thúc đẩy ông Lê Ngọc Cương lập luôn gánh hát. Gánh thu hút những tên tuổi ăn khách như Phùng Há, Ba Vân, Tám Danh, Năm Phỉ… Sau này khi Bạch công tử tách ra lập gánh riêng là Huỳnh Kỳ và cưới bà Phùng Há, thì ông Lê Ngọc Cương một mình quản lý Phước Cương. Lúc ấy dân gian có câu “Nam Cương, Bắc Ứng”, nghĩa là trong Nam nổi tiếng bầu Cương, ngoài Bắc nổi tiếng bầu Ứng, đều thuộc hàng đại bang. Ông Nguyễn Ngọc Cương còn có công đào tạo rất nhiều nghệ sĩ trẻ như Ái Liên, Bạch Mai, Mỹ Tiên, Năm Nghĩa, Năm Phồi, Bảy Bửu… NSND Bảy Nam, mẹ của Kim Cương, đã phụ với chồng lèo lái gánh Phước Cương, và khi ông mất thì bà một mình chèo chống, vừa làm bầu, vừa là nghệ sĩ biểu diễn, vừa viết tuồng, vừa nuôi con.
Nguồn: Báo Thanh niên, ngày 02.4.2018.

truyen kieu

Chúng ta đang sống trong thời đại của chuyển thể, cải biên. Hãy tưởng tượng rằng gần như mọi tác phẩm đều có thể được tái diễn giải, làm lại, chuyển dạng sang một hình thức khác. Người nghệ sĩ có thể cải biên tác phẩm văn học, vở opera, ballad, bài hát, vở diễn, bộ phim, video, game, truyện tranh… sang các hình thức nghệ thuật khác nhau. Trong mối quan hệ chằng chịt của mạng lưới cải biên, văn học, sân khấu và điện ảnh đã trở thành những kênh dữ liệu dồi dào và sống động nhất bởi quá trình tái lặp cải biên diễn ra không ngừng giữa các hình thức nghệ thuật và trong từng phiên bản tạo sinh. Với bối cảnh nghệ thuật đương đại, quyền năng của cải biên được minh chứng ở đặc tính: Một hệ thống kí hiệu của văn bản này không ngừng đi xuyên qua các thể loại, các phương tiện để xác lập nên những văn bản mới.


Trong bối cảnh nghệ thuật Việt Nam, để chỉ ra một tác phẩm cải biên thành công, theo chúng tôi, không dẫn chứng nào có thể sánh với Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. So sánh giữa Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều(Nguyễn Du) vốn là thao tác thường thấy khi nghiên cứu cải biên. Với hơn 200 năm nghiên cứu Truyện Kiều, vấn đề này đã được rất nhiều học giả bàn luận, đặc biệt là luận điểm phủ nhận thân phận dịch phẩm của Truyện Kiều. Theo đúng tinh thần của dịch, tức là đề cao tính trung thành của văn bản dịch với văn bản gốc, Truyện Kiều không phải là một dịch phẩm - đơn thuần chuyển ngữ. Có thể thấy, đây là tác phẩm cải biên xuất sắc của Nguyễn Du bởi tính sáng tạo độc đáo thấm đẫm tinh thần dân tộc đã đưa danh tác này lên vị thế cao hơn nguyên tác. Cuộc “hôn phối” này còn đem lại vinh dự lớn cho “tác phẩm gốc” Kim Vân Kiều truyện bởi từ một sáng tác “thường thường bậc trung”, từ một thân phận không được đoái hoài, bị “quên lãng”, nó đã “nhảy vọt” lên thành danh tác thế giới. Mặt khác, thú vị hơn nữa, Truyện Kiều không chỉ được dân gian hóa bằng các hình thức: đề Kiều, vịnh Kiều, hát Kiều, đố Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều… mà danh tác này còn được soạn/ viết lại, phiên chuyển, cải biên thành nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Truyện Kiều được xem như một văn bản nguồn bởi khả năng cung cấp chất liệu dồi dào cho các sáng tác cải biên. Chỉ tính riêng thực hành cải biên từ Truyện Kiều sang hình thức trình diễn (performing)/ trình chiếu (showing) - sân khấu/ điện ảnh - truyền hình, mỗi lần công diễn là một lần văn bản cũ được “tái sinh” (regenerate), “viết lại” (rewriting), văn bản mới hình thành. Bởi vậy, hiện nay tồn tại rất nhiều văn bản tái sinh bên cạnh văn bản nguồn - Truyện Kiều.

Những dự án đưa Kiều lên phim ảnh, chuyển thể Truyện Kiều sang các loại hình sân khấu hiện đại vẫn không ngừng nhận được sự quan tâm lớn của công chúng nghệ thuật. Có nên chuyển thể Truyện Kiều không khi các tác giả chuyển thể (sân khấu, điện ảnh) phải đứng trước tình huống không thể khác bởi việc cắt gọt một số lượng lớn tình tiết truyện đồng thời văn bản chuyển thể sẽ vắng bóng gần như toàn bộ hệ thống thơ lục bát? Và bất chấp những “kì vọng tan vỡ” nơi công chúng đối với các phiên bản chuyển thể thất bại, tại sao số lượng các phiên bản chuyển thểTruyện Kiều vẫn không ngừng gia tăng ở mọi loại hình nghệ thuật? Vì sao các dự án chuyển thể Truyện Kiều vẫn đang khởi động, luôn tạo ra những háo hức, mong chờ nơi công chúng? Theo chúng tôi: thứ nhất, Truyện Kiều có cốt truyện kịch tính với những nút thắt mở liên tục, nhiều tình huống éo le đan cài. Một câu chuyện như vậy sẽ hứa hẹn những kịch bản độc đáo. Đây chính là lí do vì sao số lượng các kịch bản văn học (điện ảnh, tuồng, chèo, đặc biệt là cải lương…) chiếm số lượng rất lớn trong đời sống cải biên, chuyển thể. Thứ hai, hình tượng nhân vật chính (Thúy Kiều) tài sắc vẹn toàn, có cuộc đời nhiều thăng trầm trong suốt quãng thời gian mười lăm năm, trải dài trên các vùng không gian lưu lạc “chân trời góc bể bơ vơ”… Đặc biệt hơn, phần lớn hoạt động của nhân vật chính diễn ra trong một không gian “nhạy cảm” vốn rất ít được phản ánh trên sân khấu, màn bạc: chốn lầu xanh. Một số nhân vật phụ như Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Từ Hải... có tính cách độc đáo, khiến câu chuyện thêm phong phú, hấp dẫn. Thêm nữa, phim về đề tài kĩ nữ, lầu xanh vẫn chưa có nhiều tác phẩm ấn tượng. Thứ ba, thân phận nàng Kiều, những hình tượng nhân vật trong Truyện Kiều như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Từ Hải… đã “ăn sâu bén rễ” trong tâm thức cộng đồng… nên vô hình trung, công chúng luôn trong tâm thế mong đợi được thưởng thức cuộc trình diễn/ trình chiếu Truyện Kiều ở các hình thức nghệ thuật khác. Thứ tư, lí do để cải biên Truyện Kiều, còn phải kể đến những ý kiến, quan điểm của một số biên kịch và đạo diễn. Ngay từ đầu thế kỉ XX, trong kịch bản tuồng - cải lương Kim Vân Kiều soạn giả Lê Công Kiền đã trình bày lí do cải biên danh tác này: “… kể từ ngày có truyện Kim-Vân-Kiều của cụ Nguyễn Du ra đời đến nay, văn nhân nhân lãm ai cũng khen ngợi là một quyển truyện thực hay, nhời nhẽ chuốt ngót, nhiều ý sâu xa, tả rõ ràng, toàn nhời thanh lịch”(1). Với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo, chuyển thể Truyện Kiều thành vở opera ballet Định mệnh bất chợt là “sự sáng tạo của những con người đương đại trong một tác phẩm cũng rất đương đại” bằng các hình thức chuyển tải đương đại - kết hợp giữa opera, ballet, ngâm thơ truyền thống và kịch thoại. Theo nhạc sĩ, đó sẽ là một tác phẩm nhằm tôn vinh kiệt tác văn học của Việt Nam(2).

Số lượng các phiên bản cải biên Truyện Kiều gia tăng không ngừng theo thời gian, tồn tại dưới nhiều hình thức nghệ thuật từ truyền thống đến hiện đại (chèo, tuồng, cải lương, kịch bản văn học, cải lương video, cải lương truyền thanh, điện ảnh, ballet, nhạc kịch, kịch hình thể…). Bức tranh cải biên Truyện Kiều là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt, khả năng tái sinh, thâm nhập mạnh mẽ của kiệt tác này. Có thể thấy, nỗ lực quảng bá, giới thiệu Truyện Kiều ra thế giới (phim Kim Vân Kiều - đạo diễn Pháp Famechon; phim Một câu chuyện tình - đạo diễn Trịnh Thị Minh Hà; nhạc kịch Truyện Kiều - đạo diễn Mĩ Burton Wolfe…) và tham vọng tái sinh, làm sống lại Truyện Kiều dưới mọi hình thức nghệ thuật luôn không ngừng thách thức mỗi người nghệ sĩ. Diễn trình cải biên Truyện Kiều khẳng định thêm khả năng điển hình hóa sâu rộng trong ý thức cộng đồng, thậm chí là liên cộng đồng của danh tác này. Ở thời đại thông tin truyền thông, một trong những cách thức điển hình hóa, huyền thoại hóa mạnh mẽ, đó chính là hướng cải biênTruyện Kiều sang các loại hình nghệ thuật trình diễn/ trình chiếu hiện đại. Một mặt, hình thức này phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của công chúng đương đại, mặt khác, nó cung cấp những kĩ thuật biểu hiện mới so với các hình thức nghệ thuật truyền thống.

Truyện Kiều đã trở thành chất liệu sáng tác dồi dào, vừa tham dự như một chất liệu cải biên vừa tồn tại dưới các dạng thức kịch bản văn học: chèo, tuồng, cải lương... Hiện nay, các phiên bản chuyển thể Truyện Kiều sang cải lương ở cả kịch bản và vở diễn chiếm số lượng áp đảo. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay có khoảng hơn mười ba kịch bản cải lương cải biên từ Truyện Kiều. Tùy theo từng cách thức cải biên cũng như thái độ ứng xử với chất liệu Truyện Kiều mà các kịch bản đều có những điểm khác biệt. Việc cải biên mang đậm tính cá nhân, chủ quan của tác giả cải biên. Vì thế mà, mỗi kịch bản cải lương lại chọn lựa và xử lí hoặc là chỉ một trường đoạn, hoặc là toàn bộ cốt truyện Truyện Kiều. Ví dụ, các soạn giả Trương Quang Tiền, Phạm Minh Kiên, Quy Sắc, Nguyễn Thúc Khiêm đã cải biên gần như toàn bộ cốt truyện Truyện Kiều và tuân thủ theo mạch tự sự của tác phẩm gốc. Tuy nhiên, ở một số kịch bản, các soạn giả đã chọn lựa chỉ một trường đoạn ấn tượng, mấu chốt, giàu kịch tính, có ý nghĩa bước ngoặt để cải biên, như:Kiều du thanh minh, Hoạn Thư tróc Kiều, Kiều ngộ Từ Hải (Trương Quang Tiền); Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Kiều Từ li hận (Quy Sắc)… Ví dụ, kịch bản Kiều du thanh minh diễn từ đoạn Kiều đi thanh minh cho đến đoạn Kiều theo Mã Giám Sinh đến lầu xanh của mụ Tú Bà. Kịch bản Hoạn Thư tróc Kiều diễn từ đoạn Sở Khanh lừa gạt Kiều trốn khỏi lầu xanh cho đến đoạn sưGiác Duyên gửi Kiều đến nhà họ Bạc.

Từ những “khai mở” thành công nhờ chuyển thể kiệt tác nghệ thuật kinh điển như Truyện Kiều mà sân khấu cải lương đã hình thành. Truyện Kiều mang đến vinh dự lớn lao cho sân khấu cải lương bởi vở diễn Kim Vân Kiều (1918) của Trương Duy Toản được nhận định là một trong những tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự khai sinh loại hình sân khấu mới mẻ này(3). Có thể thấy, vở cải lương này thuộc hình thức cải biên cơ bản nhất bởi soạn giả đã đưa toàn bộ Truyện Kiều lên sân khấu, chỉ ghép nhạc và lời ca theo từng phân cảnh, phân màn và kết hợp lối diễn “ca ra bộ” (ca nhạc có nguồn gốc từ đờn ca tài tử kèm theo động tác, điệu bộ). Xuyên suốt giai đoạn gần 100 năm (từ 1918) của sân khấu cải lương, Truyện Kiều đã được chuyển thể, tái diễn giải/ sáng tạo nhiều lần từ sân khấu truyền thống đến hiện đại. Mỗi vở diễn là một văn bản, mỗi lần công diễn là một văn bản mới được tái tạo dù vẫn là những đào, kép cũ. Bởi tính chất đặc trưng của loại hình sân khấu nên chắc chắn không thể có một thống kê đầy đủ về những vở diễn chuyển thể Truyện Kiều thời gian dài qua.

Triển diễn sôi động của cải biên Truyện Kiều được minh chứng qua các vở diễn chất lượng như:Kim Vân Kiều (1971); Trăng thề vườn thúy (1973); Kim Vân Kiều (1989); Vương Thúy Kiều(1989), Ai giết nàng Kiều? (1991)… Một điều thú vị là các vở cải lương lấy tên ba nhân vật Kim, Vân, Kiều để đặt tên cho tác phẩm đều chưa xử lí trọn vẹn, hài hòa mối quan hệ giữa ba nhân vật này. Ví dụ, ở một số vở như Kim Vân Kiều (đạo diễn Nguyễn Bạch Tuyết); Kim Vân Kiều (đạo diễn Hoa Hạ) hình tượng Kim Trọng và Thúy Vân hết sức mờ nhạt. Một số đạo diễn ý thức rõ chủ đề của Truyện Kiều nên tác phẩm chuyển thể tập trung phản ánh số phận, bi kịch của nàng Kiều, như: Thúy Kiều; Vương Thúy Kiều; Ai giết nàng Kiều?…

Chuyển thể Truyện Kiều sang kịch bản cải lương là thao tác chuyển dịch và chuyển hóa thơ - truyện, chất trữ tình - tự sự sang hình thức mới: kịch bản và vở diễn. Do được cải biên từ truyện thơ nên ngôn ngữ cải lương thường thấm đẫm chất thơ, chất tình, lời lẽ ngọt ngào, sâu lắng dễ đi vào lòng người như tác phẩm gốc. Ở dạng thức chuyển thể từ kịch bản văn học sang sân khấu, các vở diễn đóng vai trò như một “chuyển thể kép”: kịch bản cải lương được cải biên từ Truyện Kiều, vở diễn được chuyển thể từ kịch bản cải lương. Nhìn chung, cách thức ứng xử với thơ trong Truyện Kiều thường là: sử dụng ý thơ của Truyện Kiều rồi sáng tạo nên lời ca mới, ghép nhạc phù hợp với từng tâm trạng, hoàn cảnh của nhân vật. Cách thức này thể hiện rõ nhất năng lực chuyển thể, khả năng sáng tạo của soạn giả/ đạo diễn. Đây chính là yếu tố quan trọng khẳng định phong cách nghệ thuật của người cải biên. Nhờ đó, tác phẩm chuyển thể có màu sắc riêng, giúp nó vượt thoát khỏi cái nhìn mang tính định kiến vốn vẫn gắn với tác phẩm chuyển thể: “phái sinh”, “thứ cấp”, “phụ thuộc”.

Với sân khấu hiện đại, tham vọng chuyển thể Truyện Kiều sang các loại hình sân khấu cao cấp, sang trọng đã được thử nghiệm, mang đến cảm xúc mới lạ cho người xem: âm nhạc (Hợp xướng Truyện Kiều - Vũ Đình Ân, Truyện Kiều: Thơ và Nhạc - Quách Vĩnh Thiện); nhạc kịch (Nhạc kịch Kiều - Trần Quảng Nam, Truyện Kiều - Burton Wolfe); opera - ballet (Định mệnh bất chợt - Nguyễn Thiện Đạo), kịch hình thể (Nguyễn Du với Kiều, - Nguyễn Lan Hương)… Bên cạnh những phiên bản chuyển thể trung thành/ thông diễn tái nhận (faithful adaptation/ recognitive interpretation) chúng tôi muốn xem xét những phiên bản chuyển thể sáng tạo/ thông diễn tái sinh (creative adaptation/ reproductive interpretation) vốn bộc lộ mạnh mẽ quan điểm, diễn ngôn của tác giả. Thông diễn tái sinh được thể hiện ở sự pha trộn nhuần nhuyễn, đa dạng những hình thức nghệ thuật mới. Năm 2012, vở kịch thơ kết hợp kịch hình thể Nguyễn Du với Kiều của đạo diễn Nguyễn Lan Hương dù chỉ mang tính chất là một cải biên thể nghiệm nhưng đã nhận được những hồi ứng tiếp nhận đa chiều. Vở diễn hư cấu thêm hai nhân vật Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương đóng vai trò là người dẫn chuyện chuyển cảnh, đồng thời vở diễn nêu bật “mối lương duyên đau đáu giữa cuộc đời Nguyễn Du với những nhân vật trong tác phẩm của ông”(4). Khác với sân khấu kịch truyền thống (Cải lương…), vở diễn đã giữ lại và trình diễn những đoạn thơ đặc sắc nhất của Truyện Kiều bằng sự kết hợp đa dạng của ngâm thơ, hát chèo Bắc Bộ, hò Huế miền Trung, ca vọng cổ miền Nam… cùng ngôn ngữ hình thể của diễn viên nhằm thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật trong suốt hành trình lưu lạc. Mặt khác, sự mới mẻ của phiên bản chuyển thể này còn thể hiện ở quan niệm của đạo diễn, khi gắn vở diễn với tư tưởng của đạo Phật. Kết thúc vở diễn, Kiều về nơi cửa Phật. Nguyễn Du với Kiều là sự giao thoa giữa sân khấu truyền thống và hiện đại, thể hiện những dấn thân táo bạo của đạo diễn. Tác phẩm đã tái sinhTruyện Kiều bằng hình thức trình diễn mới mẻ.

Ở lĩnh vực điện ảnh, phim Kim Vân Kiều (1924) là thể nghiệm văn hóa táo bạo bởi cuộc hội ngộ độc đáo giữa văn hóa tư tưởng phương Đông và kĩ thuật điện ảnh phương Tây. Chúng tôi suy đoán việc chuyển thể Truyện Kiều sang hình thức điện ảnh là sự tiếp nối, thừa hưởng những thành công rực rỡ của sân khấu cải lương thời hoàng kim giai đoạn 1920-1930. Bởi thời gian này, những vở diễn cải biên từ Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Nhị độ mai, Phụng Nghi Đình… được tái diễn liên tục trên khắp sân khấu trong Nam ngoài Bắc. Nhờ vậy, cải lương đã nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí chủ đạo, trở thành “thể loại chính” của sân khấu nước nhà. Theo một số phản hồi trên các tạp chí Tương lai Bắc Kỳ, Bắc Kỳ độc lập, Dư luận, Trung Bắc tân văn… có lẽ đạo diễn người Pháp chỉ thực hành quay lại buổi diễn tuồng - cải lương của gánh hát Quảng Lạc bằng hình thức điện ảnh có phần mới lạ, độc đáo lúc bấy giờ. Tại sao đạo diễn người Pháp và cộng sự Nguyễn Văn Vĩnh lại chọn lựa Truyện Kiều để chuyển thể mà không phải là một tác phẩm nào khác? Rõ ràng, bộ phim tuy nhận được những ý kiến đánh giá trái chiều nhưng không thể phủ nhận thái độ ứng xử đề cao kiệt tác thấm đẫm tinh thần, bản sắc dân tộc. Tham vọng tái diễn giải/ sáng tạoTruyện Kiều lên phim ảnh không dừng lại ở đó. Có thể liệt kê một số phiên bản phóng tác, cải biên khác như: Kim Vân Kiều (đạo diễn Dương Quý Bình), Một câu chuyện tình (đạo diễn Trịnh Thị Minh Hà); Sài Gòn nhật thực (đạo diễn Othello Khanh). Căn cứ vào phản hồi của giới phê bình và báo chí, bộ phim Sài Gòn nhật thực là phiên bản chuyển thể thất bại thê thảm(5). Có thể thấy, công chúng điện ảnh vẫn đang mong đợi một tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình chuyển thể từ Truyện Kiều. Tham vọng này rất cần những dấn thân, thể nghiệm mới mẻ của biên kịch và đạo diễn.

Có thể thấy, các phiên bản chuyển thể nêu trên, một mặt chúng vừa tồn tại như những văn bản độc lập (dĩ nhiên, quá trình tiếp nhận luôn có sự hồi nhớ, so sánh triền miên, dai dẳng đến nguồn gốc của nó: Truyện Kiều - Nguyễn Du), mặt khác, nếu xếp các văn bản này thành hệ thống, ta sẽ thấy rõ quan hệ xuyên văn bản rộng lớn về mặt chủ đề, đề tài, nhân vật, cốt truyện... Bằng cách nào đó, những yếu tố, kí hiệu của một/ nhiều văn bản không ngừng xâm nhập, tương tác, chuyển hóa vào các văn bản/ thể loại khác. Truyện Kiều chính là một liên văn bản giàu tính năng sản. Một cách dễ hình dung, các văn bản chuyển thể đã không ngừng xuyên thấm qua mọi thể loại, phương tiện nghệ thuật ở những thời đại khác nhau để nỗ lực tái/ sáng tạo nên tác phẩm mới. Trong cơ chế ấy, có thể thấy, nghiên cứu sự thích nghi thể loại, bối cảnh, văn hóa… của những sản phẩm cải biên vẫn còn là vấn đề đang bỏ ngỏ của ngành cải biên học.
L.Q.H
______

1. Lê Công Kiền (1926), Kim Vân Kiều, Nhà in Trần Ngọc Thọ, Hải Phòng, tr.4.
2. Lam Khuê, “Tôn vinh tác phẩm văn học sáng giá của Việt Nam”, http://thethaovanhoa.vn.
3. Xem thêm: Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương, Sỹ Tiến, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1984;Sân khấu cải lương Nam Bộ 1918-2000, Đỗ Dũng, Nxb Trẻ, 2002; Nghệ thuật cải lương, Tuấn Giang, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
4. Thụy Du, Nguyễn Du với Kiều: Cuộc giao thoa của kịch thơ và kịch hình thể”, http://hanoimoi.com.vn.
5. Xem thêm: “Sài Gòn nhật thực: Một phiên bản Kiều bất thường”, http://tuoitre.vn/; “Sài Gòn nhật thực: Một phim... khó xem!”, http://www.sggp.org.vn; “Sài Gòn nhật thực: Một phim cẩu thả, xúc phạm!”, http://nld.com.vn...

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 14.3.2018.

20171212 Vinh cuu

“Eternity” là một bộ phim đặc biệt không chỉ bởi ngôn ngữ điện ảnh mà còn vì cảm xúc về dòng chảy luân hồi của sự sống được thể hiện trong đó.

Trần Anh Hùng là đạo diễn gốc Việt đã đưa những câu chuyện của Việt Nam ra màn ảnh thế giới. Mùi đu đủ xanh từng tạo nên một cú sốc với giới làm phim bởi cách kể chuyện độc đáo. Tiếp sau đó là những Xích lôMùa hè chiều thẳng đứng định hình nên phong cách rất riêng của Trần Anh Hùng.

Tuy sinh sống và hoạt động chủ yếu ở Pháp, những bộ phim của anh vẫn luôn được khán giả nước nhà quan tâm. Sáu năm kể từ Rừng Na Uy (2010), đạo diễn từng có phim được đề cử Oscar, thắng Sư Tử Vàng ở LHP Venice, mới có tiếp một tác phẩm mới. Eternity được chuyển thể từ tiểu thuyết L’Élégance des veuves (sách tại Việt Nam được dịch là Nét duyên góa phụ) của nữ nhà văn Alice Ferney, quy tụ ba minh tinh hàng đầu của điện ảnh Pháp – Audrey Tautou, Bérénice Bejo và Mélanie Laurent.

Phim bắt đầu với lời dẫn chuyện do chính vợ của đạo diễn kiêm giám đốc thiết kế mỹ thuật – Trần Nữ Yên Khê - thể hiện. “Ông Arthur và bà Julie Bourgeois có năm người con gái. Hai người trong số đó chết trẻ. Ba người kia, Hélène, Henriette và Valentine, đều cưới hỏi đàng hoàng. Từ ba người con gái này đã sinh ra mười tám người cháu, bốn mươi ba người chắt, một trăm năm mươi tư người thuộc thế hệ thứ ba kể từ đời cháu và cho đến hiện giờ đã có tám mươi người thuộc thế hệ thứ tư kể từ đời cháu…”. Những câu đầu tiên trong tác phẩm văn học của nữ nhà văn Alice Ferney đã được đưa nguyên vẹn lên màn ảnh rộng trong tiếng nhạc độc tấu Piano.

Cứ như vậy, bộ phim đưa người xem trở về nước Pháp cuối thế kỷ 19, thời mà những nàng quý tộc nông thôn quanh năm chỉ biết đàn hát, vui đùa và sinh con. Đó cũng là thời mà chỉ một trận ốm hay một căn bệnh bình thường cũng có thể tước đi sinh mạng của một con người do nhân loại chưa tìm ra vắc-xin. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của ba người phụ nữ thuộc thế hệ khác nhau. Valentine vừa tròn đôi mươi, kết hôn với Jules. Henry – một trong những người con của Valentine – yêu và lấy Mathilde, cô bạn thanh mai trúc mã từ nhỏ. Mathilde lại rất thân với Gabrielle – người kết hôn với Charles trong một cuộc hôn nhân sắp đặt.

Ba người phụ nữ đón nhận những hạnh phúc đến trong cuộc đời – tình yêu, những đứa trẻ thiên thần – và cả những khổ đau. Người trở thành góa phụ, người mất đi những đứa con vì lý do này hay lý do khác, người cô đơn hàng chục năm chỉ bởi cái chết chưa tìm đến… Thời gian cứ thế trôi, họ già đi, những đứa trẻ lớn lên, bi kịch xảy đến nhưng sau đó hạnh phúc đến khỏa lấp cho nỗi đau. Bộ phim giống như một cuốn album gia đình mà trong đó, mỗi tấm ảnh là một kỷ niệm để rồi những trang giấy được dán kín ký ức - đó là lúc câu chuyện khép lại.

Eternity là một bộ phim đặc biệt bởi nó đánh dấu sự chuyển mình trong ngôn ngữ điện ảnh của Trần Anh Hùng. Vẫn là phong cách chầm chậm, duy mỹ nhưng cách sử dụng giọng dẫn truyện thậm chí nhiều hơn cả các phim tài liệu, lối dựng chuyển cảnh tương phản, sự xáo trộn về mốc thời gian hay dùng độc tấu Piano phần lớn chiều dài phim là những thứ không thể tìm thấy ở các tác phẩm trước của Trần Anh Hùng. Anh chia sẻ khi ghi hình Eternity, các diễn viên không biết trước ngày mai mình sẽ quay gì. Mỗi buổi sáng thức dậy, đạo diễn sẽ vào nhìn bối cảnh và quyết định diễn viên phải làm gì. Các minh tinh, tài tử và dàn diễn viên nhí chỉ thực hiện một chuỗi hành động và không thể biết câu chuyện, cái thế giới mà họ đang sống trong đó sẽ ra sao. 

Tuy nhiên, chính cách kể đặc biệt mà Trần Anh Hùng đang theo đuổi khiến Eternity trở thành bộ phim khó tiếp cận nhất của anh, kể cả với khán giả thông thường hay giới làm phim. Người xem được phân khúc rõ rệt. Có những người  cảm thấy chán, lê thê hay thậm chí phần lớn là ngủ một giấc ngon trong rạp trước khi bị đánh thức bởi tiếng khóc vang dội của một trong các minh tinh. Cũng có những người chỉ cảm thấy nội dung câu chuyện quá buồn cười và thơ ca hóa khi để các nhân vật nữ ngày ngày ở nhà vui chơi, nảy mầm xác thịt rồi đẻ hết đứa con này đến đứa con khác, đứa trẻ này qua đời thì sinh tiếp đứa bé khác mà mỗi khi sinh nở vẫn hạnh phúc đong đầy như lần đầu.

Thế nhưng cũng sẽ có những người bước vào thế giới của Eternity và thổn thức trong đó khi lật giở từng tấm ảnh trong cuốn album của “sự vĩnh cửu” rồi ra khỏi phòng chiếu với đôi mắt đỏ hoe. Ngay cả giới làm phim chuyên nghiệp, có không ít người xem xong chỉ nhận xét “hình ảnh đẹp” mà không biết nói gì hơn. Nhưng điện ảnh, đặc biệt là các tác phẩm nặng về phong cách riêng của tác giả, lại thú vị ở chỗ đó, khi mỗi người xem đều có thể tự chọn cho mình một màu cảm xúc – dù là nông hay mãnh liệt.

Về hình ảnh, khó có thể chê Eternity bởi mỗi khuôn hình đều như một bức tranh cổ điển, mang đậm phong cách Pháp với màu sắc quyến rũ. Trong các phim trước, khán giả mới biết đến Trần Nữ Yên Khê – vợ Trần Anh Hùng – với vai trò là diễn viên, thiết kế phục trang. Ở bộ phim này, chị cho thấy sự đa tài khi là giám đốc thiết kế mỹ thuật và đảm nhận vai trò dẫn truyện với chất giọng Pháp êm đềm, mượt mà. Từ cách phối màu trang phục với nội thất đến đánh sáng trong phòng ngủ đều cho thấy con mắt nghệ thuật tinh tế của Trần Nữ Yên Khê, thậm chí đôi chỗ còn có phần lấn át phong cách của người chồng đạo diễn.

Ba minh tinh Audrey Tautou, Bérénice Bejo và Mélanie Laurent vẫn đẹp kiêu sa, thu hút người xem bởi lối diễn xuất duyên dáng như họ đã được công nhận trong sự nghiệp. Bất ngờ nằm ở dàn diễn viên nhí. Chính những đứa trẻ mà đạo diễn Trần Anh Hùng tuyển chọn đã mang tới sức sống cho tác phẩm và khiến các minh tinh tỏa sáng. Họ phải lần theo từng nụ cười, từng tiếng khóc hay bất kỳ phản ứng nào của các đứa bé sơ sinh để từ đó đánh thức những khoảnh khắc thể hiện bản năng người phụ nữ.

Lấy bối cảnh ở Pháp, chuyện về phụ nữ Pháp nhưng Eternity vẫn có những nét tương đồng với phụ nữ Á Đông. Thời hiện đại có thể khác, nhiều người không còn quá tâm tới chuyện sinh đẻ nối dõi nhưng trong quá khứ, thiên chức làm mẹ luôn là điều mà tất cả phụ nữ hướng tới. Họ kết hôn, sinh con đàn cháu đống và quá trình ấy không có hồi kết.  

Trong phim, tấm gương được sử dụng như một ẩn dụ về thời gian. Cuộc đời luôn tiếp diễn theo vòng quay luân hồi, thời gian cứ trôi đi theo lẽ tự nhiên, chỉ có con người sẽ trải qua những thăng trầm, xáo động rồi trưởng thành. Tấm gương là nơi ta cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt nhất – trần trụi, không tô vẽ dù chỉ một nếp nhăn hay sợi tóc bạc.

Thay vì giữ tên gốc từ tiểu thuyết, Eternity là cái tên phù hợp nhất với câu chuyện mà Trần Anh Hùng đã kể. Sự sống – cái chết vẫn luôn song hành. Tiếng khóc mang ý nghĩa hạnh phúc khi một sinh linh chào đời nhưng lại là sự u ám, đau thương trong một đám tang. Dù thế nào đi nữa, thời gian không bao giờ đứng lại, con người sẽ luôn bị đẩy đi tiếp trên chặng đường phía trước. Mọi niềm vui, nỗi buồn ập đến rồi cũng thành quá khứ. Chỉ còn đó tình yêu, những kỷ niệm được lưu lại thành ký ức. Tình yêu chưa bao giờ là thứ có sẵn nhưng một khi được tạo nên, nó trở thành vĩnh cửu.

Nguồn: VnExpress, ngày 06.9.2016.

Trong suốt Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du nhiều lần không giấu được nỗi xót xa cho bước đường trầm luân của Kiều, đến mức tự hỏi “Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?”. Thì đây, hậu thế đã đền và sẽ còn đền cho Kiều. Có những nghệ sĩ vì yêu Kiều (và các nhi nữ nước Nam như Mị Châu, Hồ Xuân Hương) mà lặn lội từ Hàn Quốc đến Việt Nam, ròng rã lao động hơn năm trời để có thể trình bày cô đúc, tinh tế nhất câu chuyện đời Kiều bằng ngôn ngữ hình thể và âm nhạc. Múa Kiều kéo dài 60 phút trên sân khấu Nhà hát Thành phố (chỉ trong hai đêm 10/3 và 11/3), là tác phẩm múa đương đại của Yoo-Oh Chun (biên đạo), Sun-Goo Jung (kịch bản và đạo diễn) cùng rất nhiều nhạc sĩ, vũ công, ca sĩ, họa sĩ, nhà thiết kế (phục trang, ánh sáng, sân khấu) Hàn Quốc và Việt Nam. Hầu hết vai diễn đều do các nghệ sĩ múa Việt Nam như Phan Tiểu Ly, Nguyễn Thu Trang, Trần Hoàng Yến, Hồ Phi Điệp, Phan Thái Bình, Sùng A Lùng… đảm nhiệm. Riêng vai Giác Duyên do chính Yoo-Oh Chun thủ diễn. “Cũng giống như thơ, điệu múa ngoài việc thể hiện vui, buồn, đau khổ còn thể hiện sự cảm tạ và còn là căn nguyên của niềm hạnh phúc”. Trung thành với ý niệm đó, biên đạo múa Yoo-Oh Chun đã cảm tạ người sáng tạo Truyện Kiều bằng một vở múa chắc gọn, thể hiện sự am hiểu đáng nể về tinh thần nguyên tác cũng như văn hóa nghệ thuật Việt Nam. 3254 câu Kiều đã được nhóm nghệ sĩ nghiền ngẫm và chắt lọc thành 6 chương múa: Mơ, báo mệnh; Mối tình đầu; Trâm gãy. Hi sinh; Bước đường phong trần; Cứu rỗi; Đoàn tụ. Với các chủ điểm như vậy, vở tập trung vào bốn chữ Duyên, Mệnh, Tâm, Tài. Phần múa cũng như các câu thơ được chọn lựa kỹ lưỡng chứng tỏ năng lực tiếp nhận Truyện Kiều đạt mức tinh nhạy. Thành công này một phần cũng vì người Hàn Quốc có Chun Hyang Jeon (Xuân Hương truyện) – một tác phẩm có nhiều nét tương đồng với kết cấu và nội dung Truyện Kiều. Sự lan tỏa mạnh mẽ của Nho giáo và Phật giáo tại xứ sở Cao Ly cũng là cơ sở để nhóm tác giả thấu hiểu lòng Nguyễn Du đến vậy. Trung thành với quy tắc múa đương đại, vở diễn là sự tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật và các quan niệm thẩm mỹ khác nhau, chủ ý kết hợp các giá trị truyền thống và hiện đại. Ở phần múa, các diễn viên khước từ giày vải, để chân trần chạm trực tiếp vào sàn gỗ. Các chuyển động nương theo đường nét tự nhiên của cơ thể, chú trọng sức bật và treo lửng người tạo ra hàng loạt tượng đài mang tính quy ước, khơi gợi tưởng tượng nơi người xem. Chẳng hạn, nàng Kiều với đôi tay giơ cao và động tác chồm quá đà về phía trước hoặc uốn dẻo về phía sau biểu trưng cho sự ngả nghiêng, mỏng mảnh cũng như đức hiếu hạnh, đoan trinh. Trong nhiều lớp múa, các diễn viên thực hành quan điểm múa đương đại của Graham, đặt thân mình gần chạm sàn, tập trung cao độ vào chuyển động bụng và xương chậu. “Hành vi múa” mang đầy tính đối kháng với ballet cổ điển này khá phù hợp để nói lên cảnh tình “sự đâu sóng gió” và “ầm ầm tiếng sóng” của Kiều. Shakespeare đã nói: “Nếu âm nhạc là thực phẩm của ái tình, hãy trỗi nó lên” (If music be the food of love, play on). Dĩ nhiên, trong câu chuyện “mắc điều tình ái” này, âm nhạc là phần sống còn bên cạnh vũ đạo. Vở sử dụng các giai điệu thính phòng mang âm hưởng phương Tây với tiếng piano đặc trưng, bè phối với dàn nhạc dân tộc Việt Nam (chơi sống) bao gồm đàn T’rưng (Hồ Nga), sáo trúc (Trần Khánh Tường), đàn tỳ bà (Nghiêm Thu) và đàn đá (Lê Hoài Phương). Tiếng chuông chùa và âm thanh sóng biển điểm xuyết rất đúng hồn vía “nhẹ như bấc, nặng như chì” của Truyện Kiều. NSND Thanh Hoài thể hiện các bài ca trù với phần lời dựa hoàn toàn trên văn bản truyện thơ. Một sự hòa trộn dễ chịu, thể hiện hiểu biết về nghệ thuật dân tộc Việt Nam rất đáng trân trọng ở những người bạn Hàn Quốc. Và chắc chắn, Yoo-Oh Chun sẽ không hạnh phúc nếu không có cơ hội tri ân quê hương đã cho bà những thành quả hôm nay. Nữ biên đạo múa mạnh dạn lồng ghép bản sắc Hàn vào một câu chuyện Việt chừng mực và ý nhị. Vai Giác Duyên của bà… đậm đặc chất Hàn, từ tạo hình cho đến vũ điệu. Giác Duyên mặc hanbok cách điệu màu trắng có in hoa tím chìm ở phần chân váy, phần tay áo mỏng dài thậm thượt được tung tẩy bởi đôi dùi gỗ trên tay. Đó là phục sức của các nghệ sĩ biểu diễn Jeju obbang gaksichum. Nối tiếp giọng ca trù sắc từng chữ một của NSND Thanh Hoài ở phần giữa vở, nữ ca sĩ Kwon-Soon Kang bước ra trong trang phục hanbok và cất cao giọng hát đầy nội lực như nói hộ những cơn giông bão trong lòng Kiều. Một số vũ điệu của vở cũng mang đậm phong cách múa Hàn Quốc có nguồn gốc hàng ngàn hoặc hàng trăm năm như: Salpuri (điệu múa nghi lễ của pháp sư), Buchaechum (điệu múa quạt do nữ vũ công thực hiện với các vũ điệu lượn vòng), Seung Mu (điệu múa của nhà sư)... Bên cạnh vũ điệu và giai điệu, trong một khoảnh khắc, vở còn gom vào mình tiếng hét phẫn thiết của nhân vật và không ngại dung nạp cả sân khấu mặt nạ. Có thể hiểu chiếc mặt nạ hahoe xuất hiện duy nhất ở phân đoạn Kiều bắt đầu chặng đường lưu lạc là thần Bạch Mi – khắc tinh của đời Kiều – và cũng có thể là các thế lực đen tối vây quanh nàng. Không màng đong đếm chính xác thời điểm, bối cảnh mà câu chuyện ra đời, Kim Trọng và Kiều có thể dùng nón lá đội đầu hay che chở lấy nhau. Phông nền Múa Kiều là mặt trời, mặt trăng và con thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt phận Kiều. Trang phục của vở là sự kết hợp giữa áo tứ thân mớ bảy mớ ba, áo dài tha thướt nhưng lại phá cách với tay sát vai cho cả nam và nữ. Gam màu pastel thời thượng như cam, hồng, xanh, kem chiếm phần chủ đạo, tạo vẻ mềm mại và tươi sáng cho vở diễn. Đó là một tín hiệu để thấy rằng vở không tô đậm phần tăm tối, bi ai trong đời Kiều mà hướng đến niềm hy vọng. Phần ánh sáng lung linh, rực rỡ tuyệt diệu trong vở diễn cũng góp phần khẳng định thông điệp đó. Nam nữ vũ công thường mỉm cười trong lúc múa. Điều đó không có nghĩa là nỗi buồn không tồn tại. Nụ cười là một cách chế ngự nỗi buồn hoặc cho thấy vẻ đẹp sâu thẳm của nó. Cách đan xen, cài cắm các kiểu thức như vậy, nếu không khéo léo sẽ dẫn đến sự lợn cợn cho người thưởng ngoạn. Nhưng rất may, Múa Kiều dù dung nạp các hình thái nghệ thuật đa dạng mà vẫn mượt mà. Những tràng pháo tay vang dội, những giọt nước mắt và thái độ nấn ná của khán giả khi màn nhung khép lại bảo chứng cho điều đó. Quan trọng hơn cả, vở diễn có lẽ đã chạm sâu vào trái tim người xem. Tuyệt phẩm này đã lần dò và biểu hiện một đường dây tinh thần bền chặt của đời Kiều bằng ngôn ngữ múa. Một hồn ma và một sư nữ xuất hiện suốt vở diễn, song hành với Kiều, nâng đỡ tâm hồn Kiều những lúc nàng tuyệt vọng, bi thương nhất. Tri âm mà Kiều khao khát tìm kiếm là Đạm Tiên và Giác Duyên chứ không phải Kim Trọng, Thúc Sinh hay Từ Hải – những người đàn ông thoắt đến thoắt đi trong chuỗi cay đắng đời nàng. Nguyễn Du, nhân những lần sang đất Trung Hoa, trót “mang vào thân” Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà phải viết Đoạn trường tân thanh. Yoo-Oh Chun dựng Múa Kiều bởi “vào một ngày kia, có một niềm tin mãnh liệt như ánh sáng soi chiếu vào để thôi thúc tôi tạo nên tác phẩm”. Trong tác phẩm về Kiều mới nhất Việt Nam này, ta có thể thấy sự nỗ lực kết nối hai nền văn học, văn hóa cũng như lòng tự tôn về kỹ thuật múa đương đại của người Hàn Quốc. Trong quá khứ, nghệ thuật múa Hàn Quốc có lúc khuất lấp dưới cái bóng quá lớn của các điệu nhảy Nhật Bản. Vượt thoát khỏi sự kềm tỏa đó, những tâm hồn đòi hỏi được yêu hiểu đã có một chuyến hành trình vòng quanh Đông Á, đặt các giá trị cổ điển và hiện đại lại thật gần để xúc cảm cũng như khát vọng sáng tạo được thăng hoa. Sẽ có khán giả ngỡ ngàng vì sự tinh gọn quá mức của Múa Kiều. Các tình tiết tưởng chừng quan trọng như Kiều bị Hoạn Thư đánh ghen, Kiều báo ân báo oán, Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến… đã được cắt xén để thay vào đó là những trường đoạn “rụng rời lắm phen” của tâm hồn. Tin rằng hôm nay Nguyễn Du đã “vén mây giữa trời” để rơi nước mắt hạnh phúc với một hình hài Kiều vừa quen vừa lạ nhưng vẫn là Kiều “khổ tận cam lai” khiến ông “Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn”. “Madam” Oh và những đồng sự đã băng về ngày cũ, vượt khỏi biên giới ngôn ngữ để cùng Nguyễn Du cảm Kiều, đau với Kiều và mơ ước thay Kiều. “Tương tri dường ấy mới là tương tri”!

Nguồn: Saigon Times số 11/2018

Ành: Cảnh trong vở "Múa Kiều" (Trần Hoàng Sơn)

Nửa thế kỷ ăn cơm nghệ thuật, NSƯT Thành Lộc đã mang đến cho khán giả nhiều vai diễn đúng nghĩa rút ruột nhả tơ. “Phù thủy”, “bậc thầy sân khấu” đóng xuất sắc nhiều vai, từ trẻ con, thằng khùng, thanh niên ưu tú, trung niên bá vơ, giám đốc, phạm nhân, nông dân, thương nhân, công tử, phú ông, quan văn, quan võ đến... chó cưng. Nhưng hai dạng nhân vật khiến khán giả ấn tượng về anh nhất vẫn là ông già và phụ nữ. Ai đã “bồ kết” những vai diễn ông già Nam bộ xéo xắt, lém lỉnh mà cùng cực khổ đau của Thành Lộc trong Dạ cổ hoài lang, Tía ơi má về, Bông hồng cài áo... thì cũng rung rinh trước những màn hóa thân thành nữ giới duyên dáng, điệu đà của anh trong Tấm Cám, Hợp đồng mãnh thú và gần đây nhất là dì Ba trong Ngôi nhà không có đàn ông (soạn giả: Ngọc Linh, đạo diễn: Vũ Minh) trên sân khấu Idecaf.

Dù vậy, “dì Ba” lần này không được lòng tất cả khán giả. Đó đây trên báo chí, mạng xã hội, một số khán giả bày tỏ sự phiền lòng khi một nghệ sĩ lớn như Thành Lộc lại cất công giả gái chỉ để thủ “một vai hài đơn giản”.

Với tôi, dì Ba không phải là một vai hài, càng không phải là một vai đơn giản.

Hãy điểm qua “lý lịch” của “dì Ba phiên bản Thành Lộc”: 49 tuổi (ai mà nói dì Ba 50 tuổi là bị giận ngay), cô giáo dạy văn, chưa chồng, sống chung với người chị ruột và ba đứa cháu gái (mà sao có một luật bất thành văn là nhân vật cô giáo trên sân khấu, phim ảnh cứ phải dạy văn mà không phải là lý, hóa, địa, giáo dục công dân hay thể dục, cứ phải đeo mục kỉnh dày cộp, cứ phải hâm hấp, thuộc thơ như cháo và nhất là phải... ế!!!). Hàng ngày, nếu không đi dạy thì dì Ba phụ trông nom tiệm áo cưới Hạnh Phúc của chị gái (trớ trêu làm sao, dì mặc áo cưới cho bao nhiêu cô dâu mà chưa có dịp mặc cho mình). Vì ngôi nhà không có đàn ông, dì Ba gồng lên làm đàn ông, rành mạch chuyện đóng bàn sửa ghế, sẵn sàng cầm búa rượt đứa đàn ông nào dám làm khổ cháu mình. Dì Ba rất thời trang và... thời sự. Dì Ba mặc áo dài cách tân, áo tay phồng loe vai trễ với quần legging, điệu đà diện cả áo corset bên trong. Dì Ba giễu cợt “thời trang áo dài 12 mét” làm vệ sinh sân bay miễn phí của một quý bà mà ai cũng biết. Dì Ba vừa livestream cảnh vợ chồng sắp cưới đánh nhau vừa đe nẹt học trò không được “say hi” hay “like” mà phải đi học bài lập tức. Tất cả những điều đó tạo nên một dì Ba thời nay, hoạt náo, đủ giảm bớt không khí nặng nề, trầm uất của một bi kịch gia đình và tạo ra những tràng cười nghiêng ngả cho khán giả. Cứ thử để dì Ba làm “trung niên nghiêm túc” đi, vở sẽ bán vé được vài suất rồi... nghỉ khỏe. Sân khấu Sài Gòn muốn sáng đèn đều đặn ít nhiều phải có yếu tố hài.

Nhưng giá như dì Ba chỉ xuất hiện để gây cười thôi thì Thành Lộc có lẽ không đến mức lao tâm khổ tứ. Đằng này, dì Ba phải gồng gánh thêm nhiều trọng trách trong đường dây kịch bản. Có thể nói, dì Ba là nhân vật “chằng chịt” nhất về vai trò, thân phận và tâm lý trong vở diễn.

Trong gia đình, dì Ba là gạch nối giữa hai phe: một bên là người chị gái “bất tín đàn ông” và bên kia là ba đứa cháu - những “sản phẩm bị lỗi” từ lối giáo dục “một bề” của mẹ. Dì thương chị ruột đến mù quáng, kiểu “má tụi con hận đàn ông một thì dì Ba tự nguyện hận đàn ông mười”. Dì trở thành một công cụ thừa hành mẫn cán đến nỗi cuộc đời bị đánh cắp lúc nào không biết. Bênh vực và răm rắp tuân theo các “chỉ thị” của chị nhưng dì không phải là đao phủ trong mắt các cháu. Dì thương yêu, gần gũi chúng hơn cả mẹ ruột, dù có khi sự quan tâm của dì gần giống thói rình rập của loài cú đêm.

Còn ngoài xã hội, dì Ba là một người đơn độc. Không tri âm cũng chẳng bạn bè. Dì Ba dạy văn nhưng môn văn chẳng biến dì thành “hot teacher” được, nếu không muốn nói là làm đầy đặn thêm một dì Ba ngay ngắn, lỗi thời. Chính dì cũng chua chát nhận ra nét lạc điệu của mình trong lớp học. Đã là con người, ai mà chẳng có lúc tức giận, ta thán. Nhưng chữ “nhà giáo” to tướng trên đầu khiến dì phải cố định hình ảnh nền nã, nhã nhặn. Chỉ khi ở trong nhà, dì mới có vài phút được là chính mình, được ăn nói bỗ bã mà không sợ người đời bẻ bai, dè bỉu.

Hiện diện thường trực trong chuỗi ngày đằng đẵng nhọc nhằn của gia đình, điều mà dì Ba làm nhiều nhất là theo sát, an ủi các thành viên trong nhà. Thay vì phải oán người chị đã gieo vào đầu mình tư tưởng “đàn ông chỉ là heo nọc”, dì cho đi tình yêu thương của mình vô điều kiện. Cảnh dì Ba ôm người chị khắc nghiệt đầy thương xót, cảm thông rồi hai chị em khóc ngon lành là hình ảnh đẹp và sâu lắng nhất vở.

Cuối vở kịch, trong khi ai cũng tìm được hạnh phúc hay ít ra nhẹ nhõm hơn thì dì Ba vẫn “vô sản”. Dì lấy hạnh phúc của các thành viên trong nhà làm hạnh phúc của mình. Quai quái mà sâu sắc, cứng cỏi mà mềm mại, đè nén mà bùng nổ, dì Ba buộc người xem phải rơi nước mắt vì thương quá đỗi một tấm lòng chân thành, hào hiệp và nhiều giằng xé. Để có thể tải hết tất cả các đặc tính đối lập và phức tạp đó của dì Ba, Thành Lộc dĩ nhiên không thể chỉ dụng tài năng thiên phú. Ngoài việc nghiên cứu rất công phu nhân vật và đổ mồ hôi sôi nước mắt trên sàn diễn, anh đầu tư cho dì Ba những bộ đồ chỉn chu và phù hợp với lứa tuổi. Tôi chỉ ao ước sao Thành Lộc có nhiều bộ tóc giả đẹp và tự nhiên hơn để bề ngoài của dì Ba thêm hoàn hảo.

Bàn một chút về chuyện nam diễn viên giả nữ.

Ở góc độ khán giả, tôi thấy điều lý tưởng nhất là nam cứ đóng vai nam, nữ cứ đóng vai nữ. Nhưng ở một nhà hát, một ban kịch, nhóm kịch, bảng phân vai phải tùy thuộc vào số lượng và tạng, chất của các thành viên. Đó là chưa kể vì nhiều lý do, người ta hoán đổi giới tính của diễn viên và nhân vật một cách cố ý. Trong trường hợp của sân khấu Idecaf, vai dì Ba được đo ni đóng giày cho Thành Lộc. Và có lẽ, ngoài anh ra, sân khấu này khó có người thứ hai đảm đương nổi vai diễn.

Quay ngược thời gian, chúng ta hãy nhớ rằng thuở xưa, phụ nữ không được hoặc cực kì bị hạn chế bước lên sân khấu (cứ thử liệt kê, ta sẽ được một danh sách dằng dặc những điều phụ nữ không được làm từ xưa đến nay). Thế là, diễn viên nam đảm nhiệm hầu hết các loại vai trong kịch Hy Lạp cổ đại, kịch Phục hưng, kịch kabuki, kịch múa khon... và cả opera. Khái niệm “diễn xuyên giới tính” (cross-gender acting) có lẽ hình thành từ đó. Giới biểu diễn còn có một thuật ngữ là “travesti” để chỉ những vai được ca, diễn bởi người có giới tính trái dấu với nhân vật (chủ yếu chỉ nữ đóng vai nam). Ở nước ta, kép đóng vai đào chủ yếu vì lý do lễ giáo, còn đào phải đóng vai kép bởi đoàn hát thiếu nam diễn viên. Chúng ta có một “travesti” tài năng là NSND Phùng Há. Khán giả thích mê vai An Lộc Sơn, Lữ Bố... của cô Bảy. Thậm chí, diễn viên nam chưa chắc có khí chất kép võ như bà. Như vậy, không nên lên án việc Thành Lộc hay bất kỳ diễn viên nào “cross-gender acting”. Điều quan trọng là người diễn viên ấy có đủ duyên dáng, có trân trọng và dốc hết tâm lực để hóa thân trọn vẹn vào vai diễn hay không.

Còn nhớ, năm 1999, Tiếng chim trong vườn ngọc lan ra mắt khán giả ở sân khấu 5B. Bên cạnh những mỹ từ “sang trọng”, “diễn như xi-nê” mà báo giới tưởng thưởng cho nhân vật đồng tính Lữ Đạo Kinh thì cũng có bài viết bảo rằng Thành Lộc “mang khát vọng đời thường lên sàn diễn”. Thay vì đôi co, anh chọn giải pháp im lặng. Theo thời gian, tên tuổi Thành Lộc không chỉ tiếp tục bảo chứng cho doanh thu phòng vé mà những nhân vật được anh “cover” lại cũng hết sức thuyết phục và có nét riêng. So với dì Ba “nữ tính một chiều” do nghệ sĩ Nguyễn Thị Minh Ngọc thủ diễn, “dì Ba Thành Lộc” không hề kém cạnh, rất đa sắc và mới mẻ. Dì Ba hôm nay khác dì Ba của hơn 20 năm trước cũng là hợp lẽ, dù bi kịch không hề vơi giảm.

Trong nghệ thuật, một trong những điều thú vị nhất mà một tác phẩm vĩ đại hay một nghệ sĩ lớn có thể tạo ra là thổi bùng lên những cuộc tranh luận. Ít ỏi trong số các nghệ sĩ Việt Nam làm được điều đó là NSƯT Thành Lộc. 

Ảnh: Dì Ba Thành Lộc (bìa trái) trong vở Ngôi nhà không có đàn ông.

Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/264933/Di-Ba-phai-khac.html

Đầu thế kỉ XIX, khi truyện thơ Đông Nam Á đã đi qua giai đoạn đỉnh cao thì tại một mảnh đất phương Nam của Việt Nam, Lục Vân Tiên xuất hiện, sáng ngời tư tưởng giáo hóa. Bên cạnh văn bản thơ phổ biến đến mức “không một người đánh cá hay người lái đò nào không hát một vài câu thơ ấy” (G. Aubaret), truyện thơ Nôm này nhiều lần được chuyển thể thành cải lương, phim điện ảnh, phim truyền hình trong suốt trăm năm qua... Kỉ niệm tuổi 20 bằng Tiên Nga – một phiên bản mới của Lục Vân Tiên – sân khấu Idecaf cống hiến cho khán giả những gì?

1. Vấn đề trọng yếu của tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu đương nhiên là “chở đạo, đâm gian”. Đạo của Đồ Chiểu không chỉ là các giá trị cốt lõi của Nho giáo như nhân, trí, tín, trực, dũng, cương mà còn là sự mềm mại ở lí và tình giữa con người với con người trong cuộc đời rộng lớn. Ý thức rõ điều đó, ở Tiên Nga, nhóm biên kịch truyền tải tinh thần “chở đạo” bằng việc giữ nguyên tính cách nhất quán của hệ thống nhân vật trong truyện thơ gốc. Mạch kịch được trần thuật theo trình tự thời gian truyền thống, chú ý làm rõ các trục đối lập: chánh – tà, trung – nịnh, thiện – ác, tốt – xấu. Mỗi nhân vật trong Tiên Nga đại diện cho một kiểu người trong xã hội, góp phần khẳng định chân và thiện sẽ mãi trường tồn dù đời sống vẫn “đùng đùng sóng xao”. Cái đạo ở Tiên Nga còn nằm ở sự xâu chuỗi tư tưởng và xúc cảm của Nguyễn Đình Chiểu qua hệ thống tác phẩm của ông, đặc biệt tỏa sáng ở việc kết hợp Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với Lục Vân Tiên. Bằng cách đó, Tiên Nga thẳng thắn chỉ ra vấn đề “đất bằng dậy sóng” biết bao đời nay; nghiêm khắc phê phán những mưu đồ chính trị đê hèn, khơi gợi những rung động về truyền thống dân tộc cũng như đánh động ý thức con người về vận nước và nhân tâm hôm nay. Một điểm nhấn không thể không nhắc đến trong vở kịch này là phần âm nhạc và dàn dựng sân khấu. Dàn nhạc sống nghe sung sướng đến tê người. Nó làm tôi nhớ cái thuở đi xem cải lương ở rạp Ca Đồng Hưng, tay cầm quạt giấy, hạt dưa mua trước cửa rạp, mắt tròn mắt dẹt ngắm những nhạc công chỉn chu ngồi trước dàn trống, đờn chờ biểu diễn. Vẫn là Đức Trí – người dám đặt Nắng có còn xuân lên môi Lý Thường Kiệt trong Ngàn năm tình sử, nhưng lần này, anh tiết chế hơn, không đưa bất kì bài tân nhạc nào vào Tiên Nga mà chỉ tận dụng sức sống của các nhạc cụ phương Tây để làm nên sự hùng tráng “đã đời” và nét sang trọng cho vở diễn. Các nghệ sĩ gạo cội lùi lại làm bệ đỡ để dàn diễn viên trẻ trung tha hồ xông pha, “rút ruột”. Vở không quá đông diễn viên nhưng dàn trải thông minh, đủ cao trào hoặc êm ái. Tre, trúc, cúc, mai, sen và mẫu đơn trở thành cảm hứng chủ đạo của phông màn, trang phục, đạo cụ, thanh thoát và giàu ẩn dụ. Tương tác với ánh sáng, chúng trở nên lả lướt và toàn bích. Đạo diễn Thành Lộc quá may mắn khi có nhiều cộng sự tài năng và hiểu anh như Đức Trí, Sĩ Hoàng, Vũ Minh… Qua Tiên Nga, những nghệ sĩ yêu ngôn ngữ và tâm hồn Nam Bộ đã chứng tỏ họ xứng đáng thuộc về mảnh đất đã nuôi dưỡng và cho mình nhiều hoa trái ngọt lành.

Tươi tắn, rõ ràng, sâu lắng về chủ đề, thông điệp và cách truyền tải, Tiên Nga tặng khán giả những giây phút tri lí, những ân tình sâu nặng. Một đêm thưởng thức nghệ thuật thỏa mãn thị giác lẫn thính giác.

2.Tiên Nga, các biên kịch đã thể hiện sự đối thoại dũng cảm với tiền nhân và tô đậm thêm những chân dung vốn mờ nhạt trong truyện thơ. Nếu như Lê Duy Hạnh – Hoàng Song Việt cho Chiếc áo thiên nga hai điểm mới: Trọng Thủy đã có vợ con quê nhà nhưng phải lòng Mị Châu, nỏ thần không có thật mà sự hợp nhất giữa ý vua, lòng tướng mới thực là vũ khí khiến quân thù bạt vía; Nguyễn Thị Minh Ngọc – Hoàng Thái Thanh muốn Lan (Lan và Điệp) phải sống thì nhóm tác giả Nguyễn Thành Châu – Nguyễn Thị Minh Ngọc – Nguyễn Hồng Dung cũng đẩy nhân vật Kim Liên lên tuyến đầu của vở bằng hình tượng một thiếu nữ mong manh như cọng sen, thà thác mà đặng câu địch khái.

Cốt kịch xoay quanh ba lựa chọn. Nguyệt Nga chọn câu chuyện tình yêu. Kim Liên chọn câu chuyện nước non. Thể Loan chọn câu chuyện chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao. Giữa ba lựa chọn đó, câu chuyện của nàng tì tất nhỏ nhoi dĩ nhiên “nghìn năm tiết rỡ”. Vở mang tên hai nhân vật chính nhưng Kim Liên lại trở thành hình tượng trung tâm, để lại ấn tượng sâu đậm về một liệt nữ trung trinh đến mức hóa thành hồn thiêng sông núi. Từ vị trí người hầu, nàng trở thành người thân và người được thờ phụng – ngang hàng với Vân Tiên – trong lòng Nguyệt Nga. Nàng làm ta nhớ đến các anh thư của non nước này, từ Huyền Trân, Ỷ Lan, Dương Vân Nga, Vũ Thị Thiết cho đến Ngọc Hân. Kim Liên sinh ra đâu chỉ để Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê hay an phận làm hoàng hậu nước Phiên! Nàng tự viết riêng trang sử đời mình.

Cách nâng cao hình tượng Kim Liên mạnh dạn như vậy có phần hợp lí. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có khát vọng “an dân, trừ bạo” như Nguyễn Trãi mà còn đặc biệt tin vào thái độ, khả năng của những con người ngoài cật có một manh áo vải. Nếu thế sự bình yên, họ có lẽ cả đời chỉ biết “cun cút, toan lo”; nhưng trước nợ nước tình nhà, họ bừng lên nhiệt huyết Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình/ Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ. Sức mạnh ấy, tinh thần ấy bắt nguồn từ ý thức đúng đắn Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta/ Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó? Việc chuyển hóa nữ nhân Kim Liên trong Lục Vân Tiên thành một tượng đài nghĩa sĩ sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc là một sáng tạo đầy tinh anh và đáng trân trọng của nhóm biên kịch Tiên Nga. Và vì bà mẹ biên kịch mắc chăm bẵm đứa con Kim Liên nên các nhân vật khác chỉ dừng ở mức tròn trịa hoặc nhàn nhạt minh họa. Nguyệt Nga là nhân vật tròn trịa. May thay, tác giả kịch bản đã tặng nàng một màn độc diễn trên chiếc thuyền có con mắt son đậm hồn vía sông nước Nam Bộ. Về phương diện kể chuyện một mình trên con thuyền cống Phiên thì có lẽ, Lê Phương chưa thể vượt qua được tấm tình giằng xé, bơ vơ, ngả nghiêng mà các Nguyệt Nga - Bạch Tuyết,  Nguyệt Nga - Thoại Mỹ từng thể hiện. Nhưng Lê Phương có tố chất của một đào thương, trong sáng và ngọt ngào. Giá như Phương bớt “cứng” trong động tác, uyển chuyển và lắng đọng thêm chút nữa thì Nguyệt Nga sẽ tròn vẹn hơn. Hoài Thanh cho rằng thái độ Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay của Nguyệt Nga quá “vận động viên” so với cảm thức Trông vời con nước mênh mông/ Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang của Thúy Kiều. Tôi nghĩ, người diễn viên cũng nên tham khảo ý này của nhà phê bình tài hoa. Và tôi tiếc khi Nguyệt Nga - Lê Phương đội chiếc mũ ni như Lan và Điệp trong phần gặp lại Lục Vân Tiên. Cụ Đồ Chiểu không để nhân vật đi tu và không cần thiết phải “sáng tạo” như vậy. Vân Tiên là một nhân vật minh họa. Dương Cường không có nhiều đất diễn. Vở cũng không nói rõ vì sao chàng Vân Tiên thoát nạn tai mà chỉ “thông báo” qua vài câu hát. Vân Tiên cao lớn, sáng sân khấu, đài từ ấm, múa gậy đẹp và có một màn khóc mẹ. Nghĩ đến Vân Tiên của Tiên Nga, ta nhớ nhất đạo nghĩa làm con. Cuộc tình giữa chàng và Nguyệt Nga được nhìn nhận ở khía cạnh tình nghĩa hơn tình ái. Âu cũng phù hợp với tinh thần nguyên tác.
 

 
Cảnh trong vở Tiên Nga của sân khấu Idecaf - Ảnh: TL


Một số nhân vật của Lục Vân Tiên bị “triệt tiêu” hoàn toàn ở Tiên Nga, đáng kể là: Hớn Minh, Cốt Đột, tiên ông, ông ngư, ông tiều, lão bà... Điều này chấp nhận được vì mỗi kịch bản sẽ chọn một cách thức tiếp cận với nguyên tác chứ không đều đặn minh họa tất cả những tình tiết. Rất sáng suốt khi kịch bản giữ lại nhân vật ông quán. Ông xuất hiện vài phút ngắn ngủi nhưng cực kì quan trọng vì nhân vật này chính xác là người phát ngôn “lẽ ghét thương” trong tư tưởng Đồ Chiểu. Một số vai khác có xuất hiện trong Tiên Nga nhưng “hi sinh” từ phút đầu tiên vì chỉ dừng lại ở mức độ nhân vật chức năng. Ví dụ, Trịnh Hâm chỉ hậm hực ông quán vài câu và bao thêm một nhiệm vụ nữa là đẩy Vân Tiên xuống nước. Võ bà Quỳnh Trang “có da thịt” một chút trong việc can ngăn cha con Võ Thể Loan và nhận thức nghiệp báo nhãn tiền. Duy chỉ nhân vật Bùi Kiệm là thoát ra được cái bóng tỏa quá rộng của Kim Liên, tạo được nét duyên dáng và tiếng cười hài hước. Đình Toàn không khó khăn gì để làm việc này. Anh chỉ cần pha trộn vẻ lí lắc đáng yêu của những nhân vật kịch dân gian từng thủ diễn trên sân khấu Idecaf với vẻ trí trá, bất tài bất xứng của Lê Long Đĩnh trong phim Thiên mệnh anh hùng là đủ ổn.

3. Lục Vân Tiên là một truyện thơ đúng cấu trúc: gặp gỡ – tai biến và lưu lạc – đoàn viên. Cốt truyện như vậy chắc chắn là nền móng vững chãi cho một kịch bản truyền thống giàu kịch tính. Kịch bản đầy đặn, giàu ý tứ của Tiên Nga là thành quả của việc bám sát lời thơ đẹp đẽ của nguyên tác Lục Vân Tiên, kết hợp với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và kho tàng lời ăn tiếng nói nhuần nhị của dân gian một cách bài bản, thông minh, chừng mực. Nhiều khúc đoạn trong lời ca và thoại kịch đạt đến mẫu mực kịch thơ, càng nghe càng ngấm càng ngẫm. Nó đòi hỏi người xem phải có vốn kiến thức phong phú về điển tích, điển cố văn học và từ vựng tiếng Việt, nhất là từ cổ. Nó đập tan thành kiến Lục Vân Tiên chỉ là một truyện Nôm bình dân nặng về luân lí.

Ẩn sau cách kể chuyện tươi sáng, rõ ràng và giàu chất thơ, Tiên Nga sở hữu phương thức trần thuật sử thi và những kĩ thuật của sân khấu kịch cổ điển phương Tây lẫn phương Đông. Chất sử thi của Tiên Nga trước hết nằm ở sự xuất hiện của Nguyễn Đình Chiểu. Rõ là có nét tương đồng với người hát rong mù Homère. Nhưng ở đây, Homère phương Đông của chúng ta không phải là người kể chuyện thuần túy (narrator) mà là nhân vật Đồ Chiểu. Thủ pháp đồng hiện đã giúp nhân vật này “xen vào” giữa các phân đoạn một cách hợp lí nhất, để thực hành “thi dĩ ngôn chí”, để xiển dương hoặc nâng đỡ những nhân vật chính nghĩa khác. Sự đa nghĩa của nhân vật Đồ Chiểu lật lại vấn đề về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể sáng tạo. Đồ Chiểu thiết lập ra thế giới nhân vật rồi lại “sa ngã”, dự phần vào thế giới đó. Đừng quên Lục Vân Tiên là giấc mộng đẹp của Đồ Chiểu. Tiên Nga còn mang dáng dấp sử thi khi khai thác các khía cạnh anh hùng, chiến tranh, hòa bình và một “cuộc tình hạt nhân” đẹp đẽ. Nó cũng không giấu giếm ý định xây dựng hình mẫu người nam và người nữ lí tưởng trong xã hội: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Từ “trung hiếu” và “tiết hạnh”, hiểu theo nghĩa tường minh và nâng niu nhất, thì có bao giờ là cũ?

Màu sắc của bi kịch Hi Lạp phảng phất trong Tiên Nga ở dàn đồng ca - người nghe - người hát. Thủ pháp mộng và huyễn - một trong những đặc thù của kịch cổ điển phương Tây lẫn phương Đông (đặc biệt điêu luyện ở kịch Nô) cũng được áp dụng trong vở. Mộng khiến Nguyệt Nga cảm biết Vân Tiên gặp tai ương. Huyễn khiến hồn người con gái Kim Liên xuôi về cố quốc dẫn đường cho Nguyệt Nga thoát khỏi những cánh cửa cài then sập chốt nhà Bùi Kiệm, đưa lối Vân Tiên vào đúng ngôi nhà tranh tịch mịch giữa rừng. Huyễn cũng tạo cơ sở cho người xem “chấp nhận” cụ Đồ Chiểu xuất hiện thình lình ở những khúc đoạn cao trào của số phận và tâm lí các nhân vật.

Nếu những vở nhạc kịch trước đây ở Idecaf (và cả ở sân khấu 5B) ít nhiều sa đà vào kiểu thức kịch Tây lời Việt, lạm dụng tân nhạc thì Tiên Nga đã tìm được lối ra cho mô thức nhạc kịch dựa trên sở trường, sở đoản của “sân nhà”. Tiên Nga không phải là một vở opera đúng nghĩa và chắc chắn Idecaf không đặt ra sứ mệnh đó. Điều mà Tiên Nga đạt được là phô diễn thế mạnh của một kịch bản chắc tay chuyển thể từ văn học, những diễn viên “hát được”, ứng dụng âm hưởng đờn ca tài tử, các thang âm ngũ cung, các điệu Ai, Xuân... và dàn nhạc Tây phương nhưng bè phối kiểu Việt Nam. Truyền thống của một gia đình mấy đời theo nghệ thuật tuồng cổ giúp Thành Lộc và các cộng sự của anh có đủ bản lĩnh quyện hòa tất cả những điều đó. Nếu Tiên Nga sử dụng thêm một vài làn điệu dân ca Nam Bộ thì e rằng khán giả lịm ngất! Cậy dựa vào âm nhạc truyền thống và sự tân thời của dàn nhạc thính phòng, biểu hiện bằng một hình thức chỉn chu và mềm mại, Tiên Nga chính thức xác lập bản sắc nhạc kịch Nam Bộ.

Làm sống lại mĩ mãn các giá trị truyền thống, giương cao nhuệ khí và tâm hồn cao nhã của cha ông, lồng ghép nhịp nhàng những thông điệp thời sự, Tiên Nga - đẹp đẽ, thướt tha và lấp lánh như cái tên của nó - đáng được tán thưởng và nô nức đón xem.

Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/tien-nga-xac-lap-ban-sac-nhac-kich-nam-bo-11712.html

20101023 MolireHồi 2, cảnh 6: Cảnh Beline tố cáo thái độ hỗn láo của Angelique. Ông Vượng (trong vai Thomas Diafoirus); Ông Vĩnh (trong vai Diafoirus); Ông Duyệt (trong vai Argen); Cô Tửu (trong vai Toinette); Bà Kao (trong vai Angelique); Bà Tuất (trong vai Beline)

Hà Nội, tháng 5, 1920. Đây là lần đầu tiên một sự kiện trọng đại, vở kịch “Người bệnh tưởng” được trình diễn tại nhà hát thành phố Hà Nội ngày 25/4/1920. Làm sao mà người An Nam dám mơ dịch tác phẩm này ra tiếng Việt và tự dàn dựng, trình diễn vở kịch này?!

Vở kịch của Molière được dịch ra tiếng Việt là điều mới lạ vô cùng! Thần khí nhà hài kịch vĩ đại Pháp đã nhập được vào hồn người dân Bắc Kỳ, và đã chinh phục một dân tộc khác chúng ta rất xa về cách suy nghĩ, chắc chắn đây là một sự kiện đầy bất ngờ mà trước đó chẳng ai dám nghĩ đến, và nảy sinh các ý kiến rất trái ngược nhau, bán tín bán nghi về một sự thành công.

Tuy nhiên, những người cách tân đã không lầm, và họ đã thành công, nhất là khi người ta muốn đưa ra một tác phẩm đầy tính nhân văn sâu sắc với sinh lực mạnh mẽ của Molière, nó đã hấp dẫn được những khán giả An Nam. Người ta có thể nghi ngại về chất hài hước của vở kịch bị biến đổi, có khi tức bực vì sự nghịch nghĩa do mô phỏng tính hài. Nhưng tài dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh đã tránh được những sai sót này. Nếu tác giả không thể chuyển tải tuyệt đối được cách nghĩ của người Pháp, - từ vựng trong tiếng An Nam còn khá giới hạn, và chữ Quốc ngữ chưa sẵn sàng để diễn đạt được sự uyển chuyển của văn chương Pháp. Song, chí ít tác giả đã lột tả được giá trị cốt lõi của chất hài trong vở kịch “Người bệnh tưởng”.

Mặt khác, Nguyễn Văn Vĩnh cũng không phải là lần đầu tiên thực hiện việc mô phỏng một tác phẩm văn học Pháp. Ông đang điều khiển tờ báo “Trung Bắc Tân Văn” (La Gazette de l’Annam - Tonkin). Từ 1913, ông đã cố gắng tặng cho độc giả rất nhiều (có thể đến hàng nghìn) trích đoạn từ các tác phẩm văn học cổ điển Pháp. Ông đã dịch “Trưởng giả học làm sang, Lão Hà tiện, Tartuffe, Ngụ ngôn La Fontaine (dịch theo thơ vần), chuyện cổ tích của Perrault, và Gil Blas (tác phẩm đặc biệt thu hút được người dân bản địa). Nhờ vào sự lựa chọn rất thận trọng của Nguyễn Văn Vĩnh, độc giả An Nam đã biết đến những tác phẩm chính của Balzac, và A. Dumas. Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã dám tấn công vào việc dịch Anatole France tinh tế của chúng ta. Gần đây nhất, người ta có thể đọc “Vườn Epicure” trên tờ Trung Bắc Tân Văn.
Do đó, chẳng ai vượt được Nguyễn Văn Vĩnh trong việc truyền bá các tác phẩm văn học cổ điển của chúng ta và thu hút được quần chúng với vở kịch “Người Bệnh tưởng”.


Hồi 3, cảnh 14: Argan (Do ông Duyệt thủ vai) đang làm cho Angelique (Do bà Kao thủ vai) yên lòng, người tưởng là đã chết. Ảnh: tư liệu từ tờ báo bản gốc

Việc lựa chọn vở kịch này lại càng thích hợp hơn vào thời buổi này, vì trong những năm qua nền giáo dục khoa học đã hoàn toàn đổi mới ở Đông Dương. Những người với lối suy nghĩ cổ hủ theo kiểu nhân vật Diafoirus trong bản kịch được thay thế bởi cả một thế hệ các y sĩ trẻ đầy nhiệt huyết. Biết bao nhiêu điểm tương đồng trong cuộc sống đương thời mà người dân An Nam nhận thấy trong ba màn kịch này của Molière, nó chỉ tô điểm thêm cho tính châm biếm sâu sắc của kịch bản. Tất cả những người nổi tiếng ở bản địa đã chen nhau đến dự buổi trình diễn ngày 25/4 ở Nhà hát Lớn Hà Nội. Nhiều vị quan chức quần áo chỉnh tề, sang trọng, dẫn đầu là Tổng đốc Hà Đông cùng gia quyến đến xem (Hoàng Trọng Phu - con trai Kinh lược đại thần Hoàng Cao Khải - người dịch). Các doanh nghiệp danh tiếng, sinh viên và dân chúng đến chật kín nhà hát từ sớm. Nhiều phụ nữ An Nam kiều diễm trang điểm như đi lễ hội kích thích sự tò mò của đám đông. Tất nhiên, ngài phụ trách hội Khai Trí Tiến Đức An Nam (Phạm Quỳnh - Chủ bút báo Nam Phong và Tổng thư ký hội Khai Trí Tiến Đức - người dịch) đã đứng ra trình bày về ý tưởng và mục đích dàn dựng vở kịch “Người bệnh tưởng” khi vở kịch đã được dịch ra Quốc ngữ. Hội có hai mục đích: đầu tiên là cách tân sân khấu An Nam, sau là góp quỹ cho những người lính thợ Đông Dương hy sinh vì nước Pháp trong đại chiến Thế giới.

Tiếp đó, chính ngài đã trình bày một cách uyên bác sự khác biệt giữa sân khấu châu Âu và An Nam. Cuối cùng, theo ngài sự khác biệt này chính là việc hát đi kèm với dáng vẻ, điệu bộ và âm nhạc trên sân khấu, nó có thể làm cho sướng mắt và vui tai, mà điều này tuyệt nhiên không hề ảnh hưởng chút nào đến thần cảm (tinh thần và cảm xúc - người dịch)”.

Sau khi chỉ ra một cách chính xác rằng, nền sân khấu châu Âu luôn nhắm đến trí tuệ và cảm xúc, và đó cũng là cách giáo dục xã hội tuyệt vời, đúng như lời kết của ngài Phạm Quỳnh “Chúng tôi xin giải thích trước để tránh cho mọi người vốn quen với sân khấu truyền thống, không bị lối nhận định theo cách nhìn cũ khi xem cách trình diễn vở kịch sắp tới của chúng tôi, tránh khỏi những nhận định không đúng. Nếu vở hài kịch sắp diễn được các quý vị yêu thích, nếu các quý vị thể hiện việc muốn thưởng thức, hơn là vẫn nghe những tiếng kêu than, rên rỉ trên sân khấu quen thuộc của chúng ta, vậy thì việc thử nghiệm của chúng tôi đã thành công. Nếu không đạt được điều đó, chúng tôi cũng xứng đáng vì đã dám làm một việc chưa từng có trước đây. Chúng tôi cũng mong có sự độ lượng của các quý vị, tránh không đánh giá nhầm theo lối cũ, dù thế nào đi nữa, mong các vị đừng gay gắt phê phán chúng tôi!”.

Mở màn, 16 nghệ sỹ Thái Hâp (tạm phiên âm từ tiếng Pháp - hiện chưa tra cứu được - người dịch), áo dài hồng, đầu chít dải khăn xanh mềm mại đi vòng tròn, như khúc dạo đầu, các cô múa quạt với thân hình mềm mại uốn lượn một cách kiều diễm. Sau màn dạo đầu, các cô biến vào trong sân khấu, ba hồi trống nổi lên, các nghệ sỹ người An Nam bắt đầu trình diễn vở kịch của Molière.

Cả nhà hát im lặng chăm chú theo dõi. Tất cả khán giả đều tỏ ra căng thẳng, họ cố gắng lắng nghe sao cho chính xác các lời thoại của các nhân vật. Rồi đột ngột, sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng cười qua mỗi cảnh diễn. Người xem cảm thấy mỗi từ ngữ nghe như rõ hơn, dường như mọi người ngày càng bị cuốn hút, vở diễn càng ngày càng trở nên sống động, Molière cứ thế thấm dần với những khán giả mới, với những “đệ tử” mới.

Khi vở diễn kết thúc, tất cả các diễn viên đã trở lại sân khấu, họ trình diễn một màn trang phục dân tộc thật ấn tượng. Đây là một tạp chí sân khấu gồm các nhân vật trong các truyền thuyết kỳ quái kiểu Tàu, như: mặt nạ tuồng, màu sắc sặc sỡ, áo quần trang trí rực rỡ và lạ mắt, kèm theo là những tiếng hét nạt nộ, cùng với những tiếng kêu thất thanh theo lối tưởng tượng của các dân tộc châu Á. Và một lần nữa, lại xuất hiện trên sân khấu rực rỡ sắc màu vàng đỏ, chính là các nữ nghệ sỹ với áo dài hồng và khăn xanh nhạt đã xuất hiện ngay từ đầu của buổi trình diễn. Các nghệ sỹ đã gửi lời chào mừng từ đất nước An Nam tới ông Tổng phụ trách hội Khai trí Tiến Đức, người đã trịnh trọng đến dự buổi ra mắt đầu tiên vở hài kịch của nhà đại văn hào thiên tài Pháp Molière.

Tài dịch và công lao của Nguyễn Văn Vĩnh 

Nguyễn Văn Vĩnh (1882 - 1936) nhà báo, nhà văn, dịch giả nổi tiếng, người đã góp phần xây cầu nối giữa hai nền văn hóa Pháp - Việt được nhiều người biết đến. Nhưng không nhiều người biết ông là một trong những người đầu tiên tham gia cách tân sân khấu kịch Việt Nam (thời đó vẫn mang tên An Nam). Ông biết chọn dịch những tác phẩm, tác giả Pháp nổi tiếng hợp với hoàn cảnh Đông Dương thời đó để nói lên tiếng nói ngầm phản ứng cuộc sống đang bị giằng co giữa cái mới và cái cũ. Ông đã chọn Molière với vở “Người bệnh tưởng” để dịch và chính ông cùng với các nghệ sỹ thời đó dàn dựng lần đầu tiên một vở hài kịch phương Tây trên sân khấu VN. Chất hài vốn có trong sân khấu cổ truyền VN (chèo, tuồng, cải lương...), được sử dụng đan xen vào nội dung kịch Pháp qua làn điệu nhạc và điệu bộ. Hài kịch của Molière khi đó hoàn toàn xa lạ với công chúng VN. Toàn bộ vở kịch mang tính hài hước châm biếm công khai thói xấu của xã hội.

Bài viết dưới đây của F. de Tessan đã nói lên tài dịch và công lao của Nguyễn Văn Vĩnh đối với nền sân khấu VN. Bài được đăng trên tờ “L’Illustration” (Minh họa) số 4038 (24/07/1920). Đây là một tư liệu quý đối với những nhà nghiên cứu nguồn gốc sân khấu VN hiện đại. Ông Nguyễn Lân Bình - cháu nội cụ Nguyễn Văn Vĩnh đã có tài liệu này do một thủ thư bên Pháp đã tặng. Ông Bình đã nhờ tôi (Trần Thu Dung) dịch và tham gia hiệu đính. 

F. de Tessan (1883-1944) là nhà chính trị nổi tiếng thời đó. 
Dịch một tác phẩm văn xuôi đã khó, dịch một vở hài kịch càng khó. Molière là nhà hài kịch nổi tiếng với lối chơi chữ. Tháng 5/1920, Nguyễn Văn Vĩnh và các nghệ sỹ đã thành công cách tân sân khấu VN khi buổi biểu diễn đầu tiên tổ chức ở Nhà hát Lớn Hà Nội chật ních khán giả và những tràng vỗ tay cổ vũ. 

(Lời giới thiệu của TS Trần Thu Dung)


Trần Thu Dung dịch
Nguồn: Francois de Tessan - TP

Nguồn: Tạp chí sông Hương, ngày 26/01/2015

Mấy năm gần đây, chị phát hiện mình thường buồn rất lâu khi... xem phim khoa học giả tưởng. Tự thấy kỳ lạ nhưng chị không khiến mình hân hoan được. Có hôm “không thấy sao”, chị mừng thầm. Ngờ đâu, mấy tuần sau, xem phim mới, chị nhớ phim cũ rồi “buồn sỉ”.

Chị còn nhớ rõ bộ phim khiến chị bắt đầu nghĩ ngợi là Interstellar (tựa Việt: Hố đen vũ trụ, 2014). Cooper - cựu phi công của NASA - tạm biệt bố vợ Donald và con trai Tom, con gái Murphy để bước vào cuộc đi tìm một hành tinh mới cho loài người. Mỗi lần Cooper gọi về nhà là một lần khán giả chứng kiến sự thay đổi của hai đứa con anh. Tom và Murphy già đi theo năm tháng rồi Tom từ giã cõi đời, trong khi cha của chúng vẫn trẻ măng và ở trong một chiều nào đó của vũ trụ. Trong nhiều năm tháng, bao nhiêu tin nhắn con gửi cha trôi theo bóng tối. Ánh nến trên chiếc bánh kem sinh nhật của Murphy dần nhạt nhòa theo lời hứa: “Bao giờ con bằng tuổi ba thì ba sẽ về bên con”.

Chị ngậm ngùi không chỉ vì nỗi cô đơn cùng cực của kẻ du hành, vì tình cha con không trọn vẹn mà còn vì nhớ... Từ Thức. Câu chuyện ngày nhỏ luôn khiến chị bâng khuâng sao người đi một lần thôi là quê nhà xa ngái không về được nữa. Hóa ra, Từ Thức là nhà du hành vũ trụ đầu tiên mà “hoa tiêu” là nàng tiên Giáng Hương. Thật ngưỡng phục chất minh triết và lãng mạn, mượt mà trong cách ông cha hình dung, lý giải sự co giãn của thời gian giữa các hành tinh trong vũ trụ. Chị cũng nhận ra cỗ máy du hành của các nhà làm phim Hollywood có sự trùng khít mãnh liệt với “cái hạc” của Tản Đà:

Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.

Vậy đó, rồi ngẩn ngơ thương những cuộc biệt ly đậm tinh thần vạn triệu thiên hà.

Giáng sinh 2016, chị đi xem Passengers (tựa Việt: Người du hành) vì lời quảng bá ngồ ngộ là phim thuộc thể loại ngôn tình vũ trụ. Bối cảnh phim diễn ra trong chiếc phi thuyền hiện đại Avalon đang chở 5.000 hành khách từ trái đất đến hành tinh Homestead 2. Thời gian dự kiến đổ bộ xuống hành tinh mới là 120 năm. Toàn bộ hành khách lẫn phi hành đoàn đều được cài đặt trạng thái ngủ đông trong những chiếc kén sinh học nhằm giữ nguyên sức khỏe và tuổi thọ. Không may, chiếc kén của Jim Preston bị hỏng. Anh thức dậy sớm đến 90 năm. Hết hoảng hốt đến thụ hưởng chán chê các tiện nghi trên tàu, Jim không chịu nổi cảm giác cô độc và liều mở chiếc kén của hành khách nữ Aurora (ở trái đất, Jim là thợ máy). Chuyện phim ngọt ngào lẫn đắng cay (ngôn tình cơ mà). Nhưng man mác đọng lại nơi chị lại là dự cảm về khoảng cách giàu nghèo trong tương lai. Siêu xe, du thuyền, phi cơ, căn hộ cao cấp, biệt thự, các chuyến du lịch, cổ phiếu... không còn to tát nữa mà những tấm vé định cư ở “Elysium” - chốn trú thân thượng hạng trong vũ trụ, những bất động sản thuộc hành tinh khác, những toa hạng sang cùng những chiếc kén tiện nghi để dịch chuyển suốt không gian mới là thời thượng.

Đà phát triển vũ bão của công nghệ chính là một lực hích để con người nhìn nhận rõ hơn và tận dụng các giá trị cao quý của giống loài, từ đó thiết lập những “rào chắn” hữu hiệu, hợp lý. Đó còn là cơ hội để con người hôm nay kịp giật mình, kịp sống trọn vẹn trước khi bước vào phòng tiệc vĩnh hằng rất xa trần thế.
Nhưng phải đến Ghost In The Shell (tựa Việt: Vỏ bọc ma, 2017) và gần nhất là Blade Runner 2049 (tựa Việt: Tội phạm nhân bản, 2017) thì chị mới thực sự... tê tái. Một ngày không xa, ta sẽ không biết kẻ đang ngồi chờ xe buýt, kẻ đang ăn uống đối diện ta hay gương mặt nghệ sĩ đẫm lệ dưới ánh đèn sân khấu kia là người hay là máy, là xương thịt hay là ảnh ảo. Các biển hiệu đèn led vào bảo tàng nằm chơi vì người ta đã tạo được vô số robot quảng cáo đa chiều, to tướng, hoặc vắt vẻo hoặc múa may trên các cao ốc. Khi đó, con người có thể tậu cho mình “người yêu công nghệ”, bật lên hay tắt đi chỉ bằng một cái nút trên remote chứ không cần chiếm diện tích và dễ bị dòm ngó như búp bê tình dục. Khủng khiếp hơn, robot sẽ được “cấy” ký ức giả để cạnh tranh với hoài niệm, nhớ nhung của loài người. Những xúc cảm đầy tao nhã, nhiều giằng xé mà thi ca nhạc họa da diết tôn thờ không còn là độc quyền của nhân loại. Và, khi đã có thể tự sinh nở, robot sẽ nói lời đoạn tuyệt với chủ-người để chính thức khẳng định quyền công dân trên toàn cầu, bình đẳng và kiêu hãnh.

Đâu chỉ có vậy, mấy bộ phim dồi dào công nghệ còn đưa chị vào những chơi vơi khác. Rồi đây, con người sẽ không còn chút riêng tư nào. Chủ nghĩa khủng bố và các bãi thử hạt nhân đáng sợ của thế giới hiện đại chưa phải là thứ ghê gớm nhất mà chính các loại chip theo dõi tinh vi mới đẩy con người vào thảm kịch mất tự do tuyệt đối. Xã hội trở thành “nhà ngục” rộng lớn và ai trong chúng ta cũng có thể là “tù nhân”.

Mà chắc gì chỉ cõi lòng loài người mới lâm li? Xem Transformers, Baymax, Chappie... mới thấy con người cũng tệ tình với robot. Họ tra tấn, uy hiếp, tận diệt những dòng robot lỗi thời hoặc có vẻ “người” quá. Những con robot trốn chạy, tủi phận mà vẫn trung thành, “từ tâm” với người tạo ra mình. Nếu chúng lưu lạc đến xứ này, chị sẽ đọc chúng nghe bài ca dao:

Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ
Má ơi đừng đánh con hoài
Để con hát bội làm đào má coi...

Sẽ có người thốt lên rằng những câu chuyện trong phim khoa học giả tưởng là kiểu “time after time”, “somewhere in time”, hà cớ gì phải tin tưởng hay bận lòng! Nhưng đừng quên rằng văn chương nghệ thuật vốn dồi dào chức năng dự báo. Tấm thảm bay, chiếc gương thần giúp nhìn thấy người ở xa lơ xa lắc, bánh mì chuyển ngữ... chẳng phải đã được hiện thực hóa hết rồi sao? Vậy thì, có xa xôi gì đâu, những thứ được mặc định là giả tưởng rồi sẽ nhanh chóng trở thành sự thật. Thế nên, những viễn cảnh ngốn lắm tiền nhiều của trên màn ảnh rộng kia thực chất là “tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao” (1) của những nghệ sĩ vô cùng mẫn cảm trước cuộc đời.

* * *

Vậy ra là, con người đã không ngừng tưởng tượng và hành động bằng công nghệ nhằm thay đổi thế giới, để rồi lại bị chính “tác phẩm” của mình soán ngôi đổi vị? Biết vậy sao không dừng lại? Bất khả. Vì lịch sử là một con đường tịnh tiến, bao gồm lịch sử công nghệ. Đó là chưa kể đến sự cuồng tín lớn lao của triệu tỉ con người trên thế giới dành cho những đột phá trong kỹ thuật số, sinh học và vật lý hôm nay. Một buổi trưa ở Tokyo, chị tròn xoe mắt khi thấy rất nhiều thanh niên mặc veston chỉn chu “cày bừa” trong tiệm game online. Chừng hiểu ra, chị bỗng xót xa cho những nhân viên văn phòng vốn đã dán vào màn hình máy tính hơn mười tiếng mỗi ngày mà vẫn tiếp tục hành hạ đôi mắt và bộ não trong giờ nghỉ. Mà nói đâu xa, ngay cả chị - một người lơ ngơ với công nghệ - cũng kịp nhận ra khí quyển của mình đầy công nghệ. Một lũ lít nhít thường trực trên giường ngủ chị: điện thoại, máy tính bảng, máy đọc sách, máy tính xách tay..., nghễnh ngạo, bất chấp những khuyến cáo về sức khỏe. Sóng Wifi cả ở nơi làm việc và nhà chị luôn phát 24/24 giờ. Chị, những người Nhật trẻ tuổi kia hay hằng hà sa số tín đồ công nghệ khác đều đang trong cơn “vô thức tập thể”, bị lệ thuộc máy móc và xa rời yếu tính tự nhiên hồi nào không biết. Như cái cây bị bứng khỏi đất, bị đặt vào chậu kiểng mà còn sung sướng mãn nguyện rằng mình ở ngay trong lòng văn minh thứ thiệt.

Chị vẫn còn nhớ, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, tại thành phố lớn nhất Việt Nam, cả xóm dùng chung một chiếc điện thoại bàn. Mỗi khi có ai gọi, người nghe được ba bốn người đấm cửa, réo tên. Vội vàng chạy sang cầm ống nghe thì đầu dây bên kia đã cúp máy. Thế mà vẫn phải trả phí cho chủ cái điện thoại. Vài năm sau, bắt chước phim Hồng Kông, người người trang bị phonelink. Tiếp đó, họ vẻ vang tậu cho mình những “cục gạch” mà mỗi lần muốn nhắn tin chữ c thì phải ấn cả chữ a lẫn chữ b. Rồi tự bao giờ, điện thoại thông minh với hàng loạt ứng dụng Facebook, Zalo, Viber, Instagram, Wechat... cùng vô số trang mạng trở thành hiền hữu của tất thảy nam phụ lão ấu ở một đất nước còn nghèo về kinh tế, tri thức và thề quyết sẵn sàng ngốn ngấu bất kỳ thông tin nào. “Nhớ gì như nhớ người yêu” (2) là cảm giác để quên điện thoại thông minh đâu đó, với nhiều người hôm nay.

Thời đại số không chỉ biến hóa bao người thành “chuyên viên” tra cứu, đối thoại mẫn cán, tình nguyện, thậm chí hư huyễn trước màn hình mà còn đảo lộn nếp sinh hoạt truyền thống của họ, từ mua bán, học hành, lao động, ăn uống, nội tế, ngoại giao cho đến... gọi cuốc xe ôm. Tinh hoa công nghệ giúp cuộc sống thuận lợi, đa sắc hơn nhưng cũng đẩy con người vào nạn thất nghiệp, ỷ lại, chây lì, vô cảm, hùng hổ, bung bét chữ nghĩa và trượt dài trong nỗi “cô đơn trên mạng”. Dù nhiều nhà khoa học đã chứng minh tuyên bố “sẽ hủy diệt nhân loại” của Sophia - robot được cấp quyền công dân đầu tiên trên thế giới - chỉ là trò con nít nhưng nếu nhạy cảm, ta sẽ thấy vị thế “duy ngã độc tôn” của loài người đang lung lay một cách đáng báo động. Chị sợ hãi nghĩ đến lúc muốn ngắm đôi mắt trong veo của đứa trẻ cũng khó, vì hàng triệu ánh nhìn đã được đúc rập như nhau.

Vậy thì, trong lúc chờ những AI, IoT, robot, 3D, Big data... trỗi dậy, thậm chí thắng thế, chúng ta nên làm gì? Tự nhiên chị thấy mình ngớ ngẩn siêu phàm khi đặt ra một câu hỏi đầy “thái độ hiện sinh” về nhân loại. Chị nào phải Nietzsche mà ràng mình vào sứ mệnh lý giải thể tính nơi con người thực tại đồng thời dõi theo thân phận của họ trong nhiên giới. Nhưng ai cấm chị “nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh” (3)? Thì thôi, tùy theo sức của mình. Thay vì buồn tênh “chờ nghe thế kỷ tàn phai” (4), chị sẽ tranh thủ yêu thương, hít thở và sờ ngắm thế gian. Chị nhất định phải tận hưởng cảm giác “Đường về hái nụ mù sa/ Đưa theo dài một nương cà tím thôi”(5) mà thi ca đã dệt nên, mộc mạc và ngọt lịm. Và nếu có phải nếm trải sự phũ phàng của đời sống, chị thà “leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng” (6) cho đã đời chứ không muốn được vô trùng trong một chiếc kén an toàn. Cảm giác được đụng vào tim, được chạm mút cùng cõi thế hẳn nhiên diễm phúc hơn tọa thiền trong địa đàng ba, bốn chiều siêu thực.

Quyển truyện cổ giấy đen bám bụi nhà chị có câu chuyện Bốn người Bà la môn và con sư tử. Bốn người đều tầm sư học phép thuật. Sau khi thành tài, trên đường trở về nhà, họ gặp một bộ xương sư tử. Ba người giỏi giang trong nhóm tìm cách “phục hưng” vị chúa tể sơn lâm. Riêng anh học dở hơn leo lên cây trốn sau khi khuyên nhủ các bạn bất thành. Dĩ nhiên, chỉ mình anh ta còn sống. Câu chuyện của cổ nhân đã khẳng định chính trí tuệ xúc cảm (EQ) quyết định sự sống còn của con người. Cha ông đã vạch sẵn con đường hiền anh như vậy, sao không an nhiên cứ thế mà đi? Đà phát triển vũ bão của công nghệ chính là một lực hích để con người nhìn nhận rõ hơn và tận dụng các giá trị cao quý của giống loài, từ đó thiết lập những “rào chắn” hữu hiệu, hợp lý. Đó còn là cơ hội để con người hôm nay kịp giật mình, kịp sống trọn vẹn trước khi bước vào phòng tiệc vĩnh hằng rất xa trần thế. Nhân loại cần sản sinh thêm ước mơ, lòng dũng cảm, tri thức và những giá trị đẹp đẽ khác trong thân tâm để cân bằng công nghệ chứ đâu phải khiếp đảm, co cụm và bạc nhược. Rumi - nhà thơ uyên bác xứ Ba Tư - chẳng phải đã nói rằng “Bạn không phải giọt nước/Giữa mênh mông đại dương/Mà là đại dương lớn/Trong giọt nước bình thường” đó sao?

Bất chợt, chị nhận ra rằng, nhờ ý thức sẽ có ngày mọi thứ được quyết định bằng một nút bấm, nhờ ngộ ra mình vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm trong việc để công nghệ thân thiết quá mức mà chị bớt hờ hững với thời cuộc. Chị vừa mon men tìm cách nhìn thẳng vào “vấn nạn văn minh” đó thay. Ơn trời, lẽ nào cách mạng 4.0 khiến thái độ sống của chị trở nên ít nhiều tích cực? Vậy là phải biết ơn cách mạng. Bỗng sung sướng muốn hét lên: Ôi, nhân loại ơi! Ngày nào mi còn nhức mắt vì nữ diễn viên không mặc nội y trong phim thời hậu chiến, còn phàn nàn phim mặc trang phục quốc hồn quốc túy mà nói chuyện xuyên không, còn chăm chỉ ghép ảnh hoa hậu với cá cảnh, còn đùng đùng uất giận ai manh nha đổi thay chữ viết, còn bài bác kẻ nhập nhằng xã hội học với văn học... thì ngày đó, mi hãy còn đáng yêu lắm lắm! Bởi, còn xích mích, còn dằn dỗi thế kia nghĩa là còn muốn với lấy đời nhau. Và quan trọng là nên mừng húm vì... chưa thành robot.

Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần, rốt cuộc, “cơi đựng trầu” chị tự nhủ: biết mình có thói sầu lo ẩm ương vậy, hay là thôi, đừng xem phim khoa học giả tưởng nữa!

Nhưng chắc vẫn phải xem thôi. Đặng tận hưởng suối nguồn dịu dàng và rung động sâu xa của cảm giác... thất tình nhân loại. 

(1) Thơ Phạm Thiên Thư
(2) Thơ Tố Hữu
(3) Thơ Phạm Công Thiện
(4) Nhạc Trịnh Công Sơn
(5) Thơ Phạm Thiên Thư
(6) Thơ Phạm Thiên Thư

Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/268639/Ai-doi-thay-ai.html

20171011 Vincent

Hơn 100 họa sĩ chuyên nghiệp được tuyển chọn từ khắp nơi trên thế giới đã thực hiện 65.000 bức tranh sơn dầu tuân thủ chặt chẽ thủ pháp của Van Gogh. Từ đây các nhà làm phim đã dựng lại cuộc đời một con người vốn dĩ chỉ còn lại 800 manh mối là tranh và khoảng vài chục lá thư gửi cho người em trai. Trong ảnh: Anna Kluza, một trong những họa sĩ đầu tiên được mời tham gia dự án. Nguồn: cartoonbrew.com

125 họa sĩ sơn dầu chuyên nghiệp từ khắp nơi trên thế giới đổ về hai studio ở Ba Lan và Hy Lạp để cùng nhau biến một dự án lãng mạn, điên rồ trên giấy thành phim truyện dài - hoạt hình sơn dầu hoàn toàn đầu tiên trên thế giới, Loving Vincent (Vincent thương mến), bất chấp kinh phí làm phim hạn hẹp.

 Chuyện về cuộc đời và cái chết của Van Gogh, vừa quá quen nhưng cũng lạ lùng với công chúng số đông và ngay cả với các nghệ sĩ trong giới mỹ thuật. Bắt đầu vẽ từ năm 28 tuổi khi chưa hề qua trường lớp nào, Van Gogh trong giai đoạn cuối đời đang tĩnh dưỡng để chữa trị chứng bệnh tâm lí nặng nề đã một lần cắt tai, một lần tự bắn vào bụng mình rồi chết sau đó ít ngày, để lại 799 bức tranh hoàn toàn không bán được, trừ một bức.

Phim không hẳn đã tuyệt vời vì nhiều điều còn có thể khác đi nhưng như bức tranh độc bản - một lần và vĩnh viễn không bao giờ lặp lại, ngay cả những nét chưa tròn cũng là một lựa chọn làm nên tuyệt tác riêng tư. Thủ pháp kể chuyện cổ điển, dễ xem, dễ hiểu, rất từ tốn, xây dựng lại các manh mối về cuộc đời nhân vật thông qua cái nhìn (điều tra) của một nhân vật khác (mà ở đây là Armand Roulin, một nhân vật có thật trong tranh của ông). Bằng cách ấy, các nhân vật xung quanh (một dạng “nhân chứng”) sẽ cung cấp các dữ kiện - góc nhìn - kiến giải - phỏng đoán… Người xem ban đầu cảm thấy hơi tẻ, nhưng sau khoảng 10-15 phút thì bắt đầu bị cuốn. Nói cách khác, ban đầu chúng ta cũng như anh dẫn chuyện kia, có sự thờ ơ vì mọi sự rõ như ban ngày, nhưng rồi, bồi đắp từ từ, bóng dáng của Vincent Van Gogh hiện lên rõ dần, một khối cảm xúc lớn lên theo đó, và chúng ta bị cuốn vào phim lúc nào không hay. Đến tầm 1/3 phim trở về sau, nhịp kể đã đạt ngưỡng hấp dẫn nhưng vẫn giữ cho phim ở một ranh giới hoàn hảo (dẫu rất mảnh) của cảm giác “thương mến”! Người xem bắt đầu hồi hộp, bắt đầu hoài nghi, bắt đầu chất vấn ngược những giả thiết mà mình đã đọc từ rất lâu ở khắp mọi nơi.

Lựa chọn kể một phiên bản Van Gogh có phần kịch tính và hồi hộp như một phim điều tra theo kiểu trinh thám Agathe Christie, là lựa chọn quá thông minh của hai đạo diễn Dorota Kobiela và Hugh Welchman. Nhưng có lẽ với một phim “hoạt hình” tinh xảo hoàn toàn từ tranh sơn dầu mang phong cách chuẩn Van Gogh, “câu chuyện diễn ra” không phải yếu tố quan trọng nhất mà người xem đã biết trước là phim về cuộc đời Van Gogh - đặc biệt quãng trước khi ông chết. Cái cuốn hút hơn chính là từng khuôn hình làm theo lối 12 hình trên giây bám theo những kiến giải tinh vi về bút pháp trong tranh danh họa - nét đi, nét lại, nét đậm, nét mờ… - tất cả tạo ra một sự gián cách với việc “Phim kể về cái gì? Phim đang diễn tiến ra sao? Đã đến tình huống nào rồi?” Tôi tin, cảm giác này đến với hầu hết khán giả trên toàn thế giới, những người cuồng Van Gogh!

Sự phấn khích khi được xem cuộc đại - tiểu - vi phẫu bút pháp của Van Gogh kéo dài đến tận giữa phim, cách mà các họa sĩ hiểu từng đường đi, từng mạnh nhẹ của nét bút, cũng là cách mà họ sáng tạo nên - phục chế từng khung hình, mà mỗi khung đơn lẻ đều xứng là một bức tranh độc lập - duyên dáng - đáng giá, tất nhiên mang nặng phong cách của Van Gogh, với đầy sự nể vì, ngưỡng mộ và yêu thương!

Loving Vincent là một kho tàng đồ sộ và cực kỳ sáng tạo cho bất cứ ai ngưỡng mộ Van Gogh, bởi vì có lẽ lần đầu tiên, các nhân vật trong tranh - bác sĩ Gachet, thiếu nữ đánh dương cầm, thằng quỷ tóc đỏ, gã Rene, bác sĩ Mazuline, ông bưu tá, cô gái con ông chủ quán rượu, những người ở bến thuyền, thậm chí cả bọn quạ đen trên cánh đồng lúa, đám hoa diên vĩ, hay nhà thờ ngày chủ nhật… tất cả đột nhiên hiện ra, ngời ngời và rõ nét, kẻ u sầu, kẻ phớt đời, kẻ thô lỗ, gã say sưa… Họ ở đó, đúng như từ tranh của Van Gogh bước ra, nói chuyện, cử động, hành xử, phán quyết…, với sức sống do Van Gogh ban cho còn hơn cả nét chấm của Mã Lương trong thần thoại. Họ từng là những người có thật, nhờ đi vào tranh Van Gogh mà trở nên bất tử, và hôm nay, họ lên phim, không phải như một nhân vật trong tranh, mà như những nhân vật độc lập được lí giải qua cái nhìn - trí tưởng tượng của hơn 100 họa sĩ khác. Đó là sự kết nối kì diệu tạo nên màn trình diễn đương đại khổng lồ trong Loving Vincent…




Các diễn viên được chọn lựa sao cho giống nguyên mẫu nhất có thể và từ đó đạo diễn dàn cảnh để họ diễn trong trường quay, trên phông xanh lá, đưa vào máy tính thay đổi thành phông nền vẽ dựa trên các dữ liệu mà tranh Van Gogh cung cấp. Trong ảnh: Hai diễn viên Chris O’Dowd và Douglas Booth trong một cảnh phim. Nguồn: cartoonbrew.com


Tôi vẫn nhớ cả rạp đã ồ lên khi lần đầu tiên cận cảnh bác sĩ Gachet, người đàn ông sầu muộn tóc đỏ bị những ước vọng bủa vây. Vẫn chính là bức tranh đã thôi miên hàng triệu triệu lứa người yêu hội họa, giờ xuất hiện trên phim, chân xác và căng đầy biểu cảm. Trong phim, ông đã rời khỏi dáng nghiêng nghiêng buồn thảm, bắt đầu nói chuyện, sửa cổ áo, bắt đầu cãi vã, bắt đầu rưng rưng… Và khán giả thì rung động tận đáy lòng; lúc ấy cảm giác chẳng khác nào họ đang tham gia vào màn trình diễn bất tận dành cho Vincent Van Gogh - người mà qua bộ phim này, hình như cô độc nhất thế gian!

Yêu thương như tựa phim đã nói: Loving Vincent! Phải rồi, không mến thương không có bộ phim này - bộ phim này là kết quả và bằng chứng của tình yêu thương - bộ phim này nhân danh tình yêu, thứ tình yêu trong trẻo như những giọt lệ rớm trên mi mắt của nàng Margaret Gachet - người thiếu nữ đánh dương cầm đã sống độc thân 44 năm sau khi Van Gogh ra đi. Bức họa thiếu nữ chơi dương cầm mà Van Gogh họa bà luôn được treo trân trọng trong phòng ngủ suốt những năm tháng sau này, có khi cũng là một lời thì thầm Vincent thương mến!

Cầu kỳ nhất, khó tin nhất và lãng mạn nhất

Để tạo ra Loving Vincent, Dorota Kobiela và Hugh Welchman đã lựa chọn phương án cầu kì nhất, khó tin nhất nhưng cũng lãng mạn nhất thế gian. Nghĩa là một dạng sản xuất phim hoạt hình nhưng dựa trên ba nguồn dữ kiện: một là phần hình ảnh đóng diễn của diễn viên người thật; hai là nhân dạng và bối cảnh, màu sắc, không khí đã được quy ước trong 800 bức tranh của Van Gogh; ba là… sự sáng tạo cá nhân dựa trên niêm luật và bút pháp quy chuẩn của Van Gogh!

Các diễn viên được chọn lựa sao cho giống nguyên mẫu nhất có thể và từ đó đạo diễn dàn cảnh để họ diễn trong trường quay, trên phông xanh lá, đưa vào máy tính thay đổi thành phông nền vẽ dựa trên các dữ liệu mà tranh Van Gogh cung cấp, ghi hình lại bình thường, thực hiện cắt dựng rồi các họa sĩ sẽ vẽ từng khung hình sao cho đúng với yêu cầu của kịch bản và đạo diễn. Nhưng như thế chưa đủ, các khung hình này còn là những bức họa rất đặc sắc, hoàn toàn thủ công và cực kì tinh xảo cũng như sáng tạo, được thực hiện bởi hơn 100 họa sĩ chuyên nghiệp. Họ tham gia dự án bằng tình yêu và lòng ngưỡng mộ sâu sắc với Vincent Van Gogh. Chất liệu sơn dầu đã tạo nên một phim hoạt hình độc đáo và không thể lặp lại - hoàn toàn tương xứng với câu chuyện về số phận độc đáo của người nghệ sĩ chưa từng lặp lại: Vincent Van Gogh. Đạo diễn nữ của phim - Dorota Kobiela - vốn là một họa sĩ sơn dầu, nói rằng, chỉ tính riêng phần thời gian thôi, một họa sĩ làm việc liên tục không ăn ngủ cũng phải mất 80 năm để thực hiện xong chừng đó bức sơn dầu!




Loving Vincent do Dorota Kobiela (Ba Lan) và Hugh Welchman (Anh) đạo diễn, dài 94 phút, được chiếu ra mắt tại LHP Hoạt hình quốc tế Annecy, Pháp, hồi tháng Sáu mới đây và được cả khán phòng đứng dậy vỗ tay hoan nghênh 10 phút liền (sau đó, phim đã nhận giải do khán giả bình chọn). Phim được chiếu rộng rãi ở nhiều nước từ tháng Chín, và ở Việt Nam từ đầu tháng 10 này. Nguồn: hollywoodreporter.com

Kinh phí làm phim hết sức hạn hẹp, nếu bạn nhìn thẳng vào quy mô và hiệu quả của dự án này: Năm triệu đô không đủ để có từng đó tài hoa tham gia vào dự án, không đủ để tiến hành một bộ phim theo cách quá nhiều mơ mộng như Loving Vincent. Nhưng cũng chính sự mơ mộng của những nghệ sĩ đã kéo theo sự mơ mộng của những nghệ sĩ khác… Loving Vincent không còn là dự án lãng mạn điên rồ trên giấy. Những họa sĩ tuyệt vời từ khắp nơi trên thế giới đổ về hai studio ở Ba Lan và Hy Lạp, chỉ cần được vẽ, chỉ cần được tái hiện những rung động, những chắt chiu mà Van Gogh đã trải. Bốn năm ròng cho những bức vẽ mà cứ 12 bức mới tạo nên một giây hình. Bốn năm ròng những diễn viên có thật, giọng nói, cơ thể, biểu cảm, thần thái có thật được họa lại trên tranh. Các nhân vật trong tranh bước đi trong khung cảnh mà Van Gogh ghi lại theo cách của riêng ông, giờ đây đã thành thế giới được chia sẻ với tất thảy khán giả.

Bộ phim có lẽ là một minh chứng sống động và… lộ liễu nhất nhưng cũng nhuần nhụy nhất về sự tương hợp giữa kĩ thuật truyền thống và công nghệ hiện đại. Nếu có ở đâu ta nhìn rõ sự giao thoa (đến sờ cầm nắm chạm được) của các ngành nghệ thuật khác với điện ảnh thì chính là ở đây: Loving Vincent, phim truyện dài - hoạt hình sơn dầu hoàn toàn đầu tiên trên thế giới.

Và nhiều khả năng là… duy nhất!

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 6.10.2017

20180219 mua bong roi

(Ảnh: http://sankhau.com.vn)

Hát bóng rỗi là loại hình nghệ thuật tổng hợp có chức năng thực hành nghi lễ tại cơ sở tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ. Trong cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức biên soạn đầu thế kỷ XIX có đề cập tới thói quen: “tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần như bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động; quen gọi các phu nhân tôn quý bằng bà: bà Thủy Long, bà Hỏa Tinh, cô Hồng, cô Hạnh…”(1) của người Gia Định. Còn sách Đại Nam nhất thống chí viết: ở tỉnh Định Tường thường “hay dùng cô đồng múa hát, lấy làm vui thích”.(2)

Những ghi chép trên đây cho thấy hai góc nhìn từ một dạng thức văn hóa. Thứ nhất: nhìn từ trục tín lý của các đối tượng thờ tự trong phạm vi tín ngưỡng (Nữ thần). Thứ hai: nhìn từ hình thái diễn xướng nghi lễ được thực hiện bởi các cô đồng. Đáng tiếc là những liên hệ trong khuôn khổ tín ngưỡng, cũng như thói quen văn hóa được thực hiện thông qua các cô đồng không trực tiếp chỉ ra nguồn gốc của loại hình nghệ thuật tồn tại trong môi trường đó. Tín ngưỡng vốn có tính chất bảo thủ truyền thống, còn nghệ thuật lại chịu ảnh hưởng, tác động bởi bối cảnh văn hóa, xã hội, nhu cầu đổi mới về thẩm mỹ. Điều đó càng đẩy nguồn gốc của Hát bóng rỗi lùi sâu hơn vào quá khứ mà hiện tại chưa thể tìm ra căn cứ để xác định về tình trạng sơ khai. Chỉ biết rằng, muộn nhất vào khoảng đầu thế kỷ XIX, loại hình nghệ thuật Hát bóng rỗi đã trở nên phổ biến.

1. Ngôi miễu - trú sở thần linh và nơi trình diễn nghệ thuật Hát bóng rỗi

Tín ngưỡng nữ thần vốn là một hiện tượng văn hóa sơ khai, có nguồn gốc lâu đời, gắn liền với hình thái thờ Mẫu. Rất nhiều dân tộc trên thế giới đều có tín ngưỡng thờ nữ thần, đặc biệt là vị thần sản sinh ra vạn vật “vạn vật chi mẫu”. Theo đó, cội nguồn của sự sống bắt nguồn từ “nữ tính”. Nó như một hiện tượng văn hóa phổ biến trên thế giới. Suốt chiều dài lịch sử, do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, quan niệm trọng nam khinh nữ, nên tín ngưỡng nữ thần có xu hướng tồn tại trong môi trường văn hóa dân gian, đặc biệt mạnh lên khi người Việt thiên di vào vùng đồng bằng Nam Bộ, cộng hưởng với văn hóa Chăm. Bởi vậy, uy nghi của các nữ thần bao trùm cả một vùng đồng bằng rộng lớn, từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam vào đến vùng miền Tây Nam Bộ, với những nữ thần, như Thiên Y A Na, Bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Bà Đen, Bà Chúa Xứ, Cửu Thiên Huyền Nữ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu, Kim Huê, Thánh Anh La Sát, Thất Thánh Nương Nương, Cố Hỷ, Thượng Động, Cô Hồng, Cô Hạnh, Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Thổ… Tất cả những đối tượng trên đều được thờ tự rải rác hay phối tự trong cơ sở tín ngưỡng nữ thần, mà cụ thể là những ngôi miễu.

Xét về mức độ phổ biến, hễ đâu có đình cũng thường có thêm miễu. Số lượng miễu tuy chưa thể thống kê một cách đầy đủ, nhưng theo phán đoán có thể nhiều hơn cả đình. Bởi lẽ: đình có quy mô lớn, nằm lộ thiên giữa nơi công cộng. Trong tiến trình lịch sử, đình đóng nhiều vai trò khác nhau, từ cao nhất là Hành cung(3) của nhà vua cho đến ngôi nhà làng (thiết chế công cộng làng xã) mà hiện tại chỉ bảo lưu công năng thờ tự. Để xây dựng đình đòi hỏi phải huy động nhiều nhân lực, vật lực, tài lực, trong khi miễu xưa nay đều thống nhất trên một chức năng thờ tự. Đình mang trong mình bản thể của xã hội phong kiến với quyền uy thuộc về phái nam, từ uy quyền quan phương cho đến tư tưởng trọng nam. Còn miễu “đại diện” cho phái nữ, có lẽ bởi thế mà không kém phần yếm thế. Miễu mang sắc màu tín ngưỡng rõ rệt, tồn tại tự phát trong dân gian và không đồng nhất về mặt quy mô. Chốn thường trú của thần linh này thường gắn kết với hoạt động diễn xướng thực hành nghi lễ. Và trong khuôn khổ ít nhiều khép kín về không gian, nhỏ hẹp về quy mô, cộng thêm tính chất tư gia cho phép nhiều ngôi miễu mọc lên theo ý chí, nguyện vọng cá nhân, không thống thuộc vào bất cứ đoàn thể nào. Ở nhiều địa phương có những gia đình lập am, miễu ngay trong khuôn viên nhà mình và đương nhiên họ cũng có thể tổ chức “lễ hội tại gia” giống như việc hầu bóng ở các bản điện, đền từ tại gia khu vực miền Bắc. Có lẽ vì những tính chất này khiến cho việc thống kê cơ sở tín ngưỡng miễu (có thể) khó hơn đình, chùa... Vả lại, sự không được quan tâm xét dưới phương diện nào đó khiến cho miễu càng phát triển dễ dàng (so với đình). Những ngôi miếu cô hồn vô chủ trên trục đường quốc lộ là một bằng chứng cho thấy sự phát triển theo khuynh hướng tự phát. Còn việc xây dựng đình thời xưa đòi hỏi chủ sở hữu phải có thân phận, chức sắc hoặc giàu sang mới đủ khả năng thực hiện. Đình không còn tái sinh trong xã hội đương đại, nhưng miếu vẫn tiếp tục hình thành bằng con đường dân gian tự phát.

Trong quá khứ, đình, chùa, miếu, vũ đều thuộc thiết chế văn hóa truyền thống. Chúng không chỉ là cơ sở tín ngưỡng, thờ tự mà còn đóng vai trò của những thiết chế cộng đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu về sinh hoạt văn hóa, giống như chức năng của nhà văn hóa, nhà hát, sân khấu… Vì thế, hàng loạt các loại hình nghệ thuật đều gắn kết với cơ sở tín ngưỡng, từ lễ Kỳ yên ở đình, lễ Vu Lan ở chùa cho đến lễ hội vía các nữ thần ở miễu, chưa kể đến những sinh hoạt diễn ra trong gia thất, như lễ Tạ trang, lễ Đội bát nhang, lên đồng…. Giống như nhà hát, sân khấu… trong xã hội đô thị hiện đại, miễu đóng vai trò cung ứng cơ sở vật chất cho hoạt động biểu diễn của loại hình nghệ thuật Hát bóng rỗi. Trong kết cấu xã hội, thể chế và thiết chế văn hóa vốn là hai mặt của một chỉnh thể. Hoạt động nghệ thuật chỉ có thể hay chí ít được bảo đảm bởi một thiết chế tương ứng. Ở Hát bóng rỗi, thiết chế tương ứng ấy chính là ngôi miễu. Ngôi miễu vừa đóng vai trò nhân tố tiền đề, vừa tạo điều kiện tồn tại cho loại hình nghệ thuật.

2. Hát bóng rỗi và một số đặc điểm về âm nhạc

Hát bóng rỗi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, hội tụ cả ca, múa, nhạc, sân khấu, trò diễn…. Trong khuôn khổ tìm hiểu những đặc điểm âm nhạc, bộ phận đáng lưu ý nhất tập trung ở tiết mục Chầu mời thỉnh tổ. Đây là tiết mục do các bà bóng thực hiện, thuộc phần lễ, khác với Múa bóng, Chặp bóng tuồng Địa - Nàng… mang nhiều tính chất hội, thiên về chức năng giải trí. Theo xu hướng giản tiện hóa tiết mục ở một số miễu, rất nhiều tiết mục của Hát bóng rỗi dần dần bị lược bỏ, nhưng Chầu mời thỉnh tổ luôn được bảo lưu. Nó có thể coi thư tiết mục định tính của loại hình diễn xướng nghi lễ này.

Hát chầu mời gồm tập hợp năm chủng loại bài: Chầu ông, Chầu bà, Chầu cô, Chầu cậu và Chầu chiến sĩ. Nội dung năm bài Chầu bao quát tất cả các đối tượng thờ tự trong hệ thống điện thờ của miễu, gồm: Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Động, Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Thổ, Cửu Thiên Huyền Nữ…, Cô Hồng, Cô Hạnh, Cậu Chài, Cậu Quý và các chiến sĩ trận vong.

Tiết mục Hát chầu mời chưa có sự gia nhập của nghệ thuật múa, Chặp bóng tuồng hay trò diễn, mà chỉ có hát với nhạc cụ đệm.

Thành phần nhạc cụ tham gia phụ họa cho Hát chầu mời không mang tính chất cố định, có thể xê dịch về số lượng. Trong đó, những nhạc cụ đóng vai trò chủ đạo, có đàn cò, trống lệnh và phách (hay song loan). Nhạc cụ chủ đạo được hiểu là thành phần không thể thiếu trong tiết mục Chầu mời thỉnh tổ, thuộc loại biên chế đã được tinh giản.

Đàn cò làm nhiệm vụ trình bày các khúc rao, gian tấu, chuyển hơi và phụ họa cho giọng hát. Tùy thuộc vào chức năng của từng phần mà nó đảm nhận những vai trò khác nhau, như tạo không khí, xác định giọng (ở phần rao), liên kết các bộ phận và báo hiệu chuyển điệu (chuyển đổi điệu thức)...

Trống lệnh do người hát (bà bóng) đảm nhận nhằm mục đích khai mạc cho cuộc lễ, tô điểm hoặc “đỡ” cho giọng hát. Người hát sử dụng một dùi, gõ lên mặt và tang trống. Tiết tấu thường xuyên xuất hiện đảo phách nhằm tạo sự tương phản với nhịp điệu đồng độ ở phách hay song loan.

Phách hay song lang (loan) do một người sử dụng có chức năng giữ nhịp. Trong suốt bản hát, nó chỉ có một lần thay đổi duy nhất khi chuyển từ nhịp 2 sang nhịp 1, đi kèm với biến chuyển về tốc độ (nhanh dần) ở phần Hát lý.

Ngoài ba nhạc cụ kể trên, nhiều miễu còn sử dụng thêm một số nhạc khí khác như đàn ghi ta phím lõm, trống cơm, kèn thau, đồ đường, thậm chí có cả đàn phím điện tử…. Với cơ cấu này, chúng ta thấy hiện lên một “biên chế” dàn nhạc khá phong phú về chủng loại.

Đình - Miễu vốn có quan hệ mật thiết với nhau. Rất nhiều trường hợp, nhạc công của Hát bóng rỗi cũng chính là nhạc công của dàn Nhạc lễ trong cúng đình. Xuất phát từ chỗ kế thừa cơ cấu dàn Đại nhạc, Minh chinh, Đại cổ giống như “thiết chế” Đại cổ, Đại chung. Trong khi, ở Hát bóng rỗi, trống lệnh, chiếc trống do nhân vật chính cầm chịch lại giao cho bà bóng. Chứng tỏ, địa vị, thân phận của bà bóng trong trường hợp này giữ vai trò chính. Mặt khác, thay vì sử dụng danh phận, chức sắc mang tính chất quyền uy, nghi thức về mặt hành chính vào nghi thức chấp Đại chung, Đại cổ hay Minh chinh, Đại cổ… như Nhạc lễ cung đình hay cúng đình thì ở Hát bóng rỗi, bà bóng chế ngự chiếc trống lệnh bằng thẩm quyền chuyên môn. Trống lệnh trong tay bà bóng có giá trị đặc biệt, thay thế cho quyền uy nghi thức, thể hiện rõ chức năng người chủ lễ. Bên cạnh đó, Hát bóng rỗi chỉ mang tính chất rỗi, thỉnh, cầu, mời, mà không có chức năng trấn yểm, trừ tà, để chiếc trống lệnh có thể chuyển hóa chức năng thành pháp khí.

Giống như nhiều loại hình ca kịch truyền thống, trống đóng vai trò rất quan trọng trong Hát bóng rỗi. Việc học hát ngay từ ban đầu đã liên quan chặt chẽ với trống. Sau khi hành nghề, tiếng trống dẫn dắt người hát vào thế giới tình huống phong phú khác nhau. Trong Triều kịch (loại hình ca kịch của người Triều Châu), Việt kịch (ca kịch Quảng Đông), người đánh trống gọi là Đả cổ trưởng, thường hưởng thù lao cao nhất trong dàn nhạc. Họ được tôn xưng làm Đả sư phụ, ông thầy trống. Đả sư phụ hay nói cách khác, người thầy truyền nghề đều thông qua công cụ trống. Chiếc trống nằm trên tay bà bóng trong Hát bóng rỗi cũng gọi là trống lệnh. Bản thân tên gọi này đã chỉ ra tính chất, vai trò của nó trong việc điều phối giọng hát, đồng thời phân lớp, trình tự các thủ pháp xử lý về mặt kỹ thuật, cũng như nghệ thuật.

Trống lệnh khá giống chiếc trống mảnh (chỉ có một mặt), trống bộc trong dàn Đại nhạc. Song, hai nhạc cụ trên chỉ đóng vai trò giữ nhịp, chỉ huy dàn nhạc, còn trống lệnh thâm nhập sâu vào quá trình diễn tấu, diễn xướng nhằm phối hợp với các nhạc cụ, nâng đỡ giọng hát, thậm chí trở thành thứ công cụ quyền uy trong tay bà bóng để thử thách tài nghệ nhạc công. Trống lệnh cũng giống chiếc trống Shaman trong tay thầy Pháp, trống nhỏ trong hát Chầu văn, tiểu cổ ở nghệ thuật Thuyết xướng dân gian Trung Quốc.… Tiết tấu của trống lệnh biến hóa đa đoan, không duy trì âm hình trì tục như ở phách, mà tùy cơ ứng biến. Những tiếng “nhồi”, “chỏi”, đảo phách liên tục dễ khiến cho các thầy đàn phải gườm, cảnh giác.... Tiếng trống có khi phân biệt “đẳng cấp” của từng bà bóng. Giống như ở nghệ thuật Hát bội, trống “điểm” cho nhân vật ra tuồng, sau đó làm hiệu lệnh cho nhạc và hát. Tính chất này để lại trên thực thể của Hát bóng rỗi - thứ trình thức nguyên thủy - biểu hiện thông qua các biện pháp xử lý nghệ thuật.

3. Kết luận

Xét về hình thái nghệ thuật, nhạc cúng đình và miễu đều thuộc phạm trù nhạc lễ. Song, về mặt cơ cấu, tổ chức, đặc biệt là hình thức nghệ thuật, tính chất nhạc cúng đình có thể coi như dòng trực hệ của âm nhạc cung đình, sau khi chuyển hóa bối cảnh, “xã hội hóa”, nhạc cúng đình đã nhập thân vào môi trường dân gian. Trong khi nhạc cúng miễu đi lên bằng con đường dân gian, nhưng tích hợp nhiều bài bản từ nghệ thuật truyền thống, từ chính thống như nhạc tuồng, cho tới dân gian, như hát Lý, hát Cải lương.... Đứng về mặt tư tưởng, nhạc cúng đình bảo thủ truyền thống thông qua hình thức nghệ thuật. Chúng ta có thể thấy cơ cấu nguyên ủy của nó là dàn Đại nhạc thông qua biên chế nhạc đình, từ minh chinh, đại cổ cho tới trống chiến, trống chầu, kèn bóp, đàn cò (nhị) và đặc biệt là hệ thống bài bản (nhạc lễ). Nhạc cúng miễu đi theo con đường dân gian, tồn tại trong môi trường tín ngưỡng nữ thần, nên thể hiện sự tích hợp đa dạng nhiều dạng thức nghệ thuật tạo nên một chỉnh thể phong phú, từ tín lý, đối tượng thờ tự cho tới hệ thống bài bản. Nhạc lễ đình mang đậm dấu vết của nhạc Cổ xuy, thượng tôn vai trò ban Võ trong dàn nhạc, những nhạc khí mang âm lượng lớn. Ngoài ra, trong nghi lễ đình, như lễ Thỉnh sắc, dàn nhạc trình diễn tuần hành trên đường phố (được điển chế hóa qua chức năng nhạc Cổ xuy, loại nhạc quân đội theo thể chế thời kỳ phong kiến). Còn nhạc lễ miễu thượng tôn vai trò của ban Văn, có ca và nhạc, thậm chí, tiết mục Chầu mời thỉnh tổ chủ yếu tập trung trình diễn nghệ thuật ca hát (diễn xướng). Tiếng đàn, tiếng hát thay vì huy động những nhạc cụ có âm lượng lớn, như trống chiến, trống chầu, kèn bóp như bên Võ của nghi lễ đình, nhạc lễ miếu gần với bộ phận Ty trúc, giống âm nhạc thính phòng, đi vào khai thác khía cạnh giao đãi, tương tác nghệ thuật. Việc đặt ra mối quan hệ so sánh nhằm thiết lập mối quan hệ giữa hai cơ sở tín ngưỡng trên.

Xét về tổng quan, các dạng thức văn hóa cộng tồn trên một vùng đất ít nhiều đều có ảnh hưởng qua lại, đặc biệt dựa trên mối quan hệ hữu cơ của cơ cấu xã hội truyền thống, khi đình và miễu nằm trong cùng tổ hợp thống nhất, không tách rời nhau, thậm chí ngay trong cùng không gian thờ tự. Đối với bất cứ loại hình nghệ thuật nào, tính chất đại đồng có thể loại bỏ cách suy diễn phiến diện nhằm suy tôn vai trò độc tôn, độc nhất vô nhị nhằm hướng tới những tiểu dị làm nên giá trị đơn lẻ. Hát bóng rỗi chính là một trong những tiểu dị làm nên sự khác biệt trong không gian, bối cảnh văn hóa âm nhạc truyền thống chung. Truyền thống ấy không nhất thành bất biến, mà vẫn tiếp tục biến đổi, như chính thực thể nghệ thuật của dạng thức văn hóa này.

Hát bóng rỗi ở Nam Bộ tồn tại trong môi trường dân gian đô thị, sự biến đổi của nó diễn ra vừa nhanh, vừa chậm. Đứng ở góc độ hiện đại hóa phương tiện phục vụ cho nhu cầu trình diễn, như máy khuếch đại âm thanh, nhạc cụ, bài bản mới (thường là ca khúc Việt, Hoa)… sự thay đổi diễn ra khá nhanh chóng. Song, các yếu tố nội tại thuộc phương tiện biểu hiện lại chậm chạp. Theo ý kiến của một số nghệ nhân lớn tuổi, dày dặn kinh nghiệm, càng ngày càng có nhiều người kém về nghề làm bát nháo loại hình nghệ thuật này. Mục đích của sự trình diễn chủ yếu hướng tới không khí ồn ào, xôm tụ… Qua khảo sát nhiều cơ sở tín ngưỡng gắn kết với hoạt động trình diễn nghệ thuật Hát bóng rỗi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đại bộ phận nghệ nhân đều tự lặp lại mình một cách “máy móc”, thiếu vắng tinh thần sáng tạo. Vì vậy, trải qua thời gian dài tồn tại, Hát bóng rỗi chủ yếu vận động theo xu hướng tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật khác, thay vì biến đổi tự thân. Hiện tượng “tân cổ giao duyên” đóng vai trò chủ đạo nhằm tạo nên một tổ hợp đa tạp về hình thái biểu hiện. Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, do tồn tại ở những vùng có đời sống kinh tế trọng thương, thể nghiệm nhiều trào lưu nghệ thuật mới, dù giới hạn trong phạm vi tín ngưỡng, Hát bóng rỗi không ngăn nổi trước sự “tấn công” ồ ạt từ bên ngoài của nhiều dạng thức văn hóa khác. Quá trình này góp phần làm gia tăng liên tục những nhân tố ngoại lai nhằm duy trì sự vận hành của loại hình nghệ thuật tồn tại nương nhờ vào môi trường tín ngưỡng. Trong phạm vi âm nhạc của Hát bóng rỗi, điểm mấu chốt của mọi sự thay đổi dường như luôn đến từ bên ngoài, còn thành tố cần biến đổi tự thân như một phương thức biểu hiện ngược lại rất ít chuyển biến.

Ngôi miễu được dùng làm nơi trình diễn nghệ thuật Hát bóng rỗi, từ một thiết chế văn hóa dân gian tồn tại trong dòng chảy văn hóa của vùng đất mới thường xuyên diễn ra thay đổi, sau này nhập thân vào xã hội thị trường, nó đã làm một cuộc “thay da đổi thịt” biến nghệ thuật nương nhờ vào là Hát bóng rỗi có xu hướng ngả sang màu sắc thương mại. Điều này thể hiện trên nhiều cấp độ, trước hết trên chính bản thân những người hành nghề. Hoạt động nghề nghiệp của bà bóng nói chung khá chuyên nghiệp, được thực hiện một cách có tổ chức, có trưởng nhóm (giống như bầu Show), cùng với nhiều dịch vụ đi kèm, như cung ứng hàng mã, làm mâm vàng, mâm bạc, hương, đăng, trà, quả… nói tắt một lời là bao trọn gói. Xét về phương thức hoạt động, những nghệ nhân bóng rỗi thường gắn kết với nhau theo tổ chức phường hội. Đứng đầu nhóm là ông bầu, người đóng vai trò tổ chức nhân sự, ký hợp đồng với hội miễu, có khi kiêm cả chức năng truyền nghề cho thành viên mới hoặc chưa dày dặn kinh nghiệm.

Mặc dù tồn tại trước sự phát triển của xã hội hiện đại, với nhiều tôn giáo có cộng đồng tín đồ đông đảo, như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Tin Lành, cùng những tôn giáo mang màu sắc bản địa khác, tín ngưỡng thờ nữ thần ở Nam Bộ với loại hình nghệ thuật diễn xướng nghi lễ Hát bóng rỗi mặc nhiên vẫn chảy âm thầm trong tâm thức cộng đồng, tồn tại một cách bền vững giữa nhiều dòng chảy văn hóa. Hát bóng rỗi tuy chưa lọt vào hạng mục cần bảo tồn hay nguy cơ thất truyền, nhưng với đà phát triển theo cấp số nhân về thông tin, cộng thêm “bài toán chưa có lời giải” về cách thức bảo tồn nghệ thuật dân gian, nó tất yếu đi đến chỗ mai một, yếu kém, đặc biệt là sự xuống cấp nhanh chóng về chất lượng nghệ thuật.

L H Đ

CHÚ THÍCH

  1. Gia Định thành thông chí (1972), bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Tập hạ, tr.4.
  2. Đại Nam nhất thống chí (1959), bản dịch của Tu Trai Nguyễn Tạo, Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa xuất bản, Tập hạ, tr.103.
  3. Tạ Chí Đại Trường (2009), Những bài dã sử Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137), 2017.

20171002 Le Tai Khi

Nhạc sư Lê Tài Khị (Nguồn: Internet)

 

Năm 2012 tác giả Trần Phước Thuận cho xuất bản cuốn Bước đầu tìm hiểu tác giả và tác phẩm cổ nhạc Bạc Liêu gồm những bài ông đã viết từng được đăng rải rác trên các báo và các trang mạng trên 10 năm trước đó. Cuốn sách này giới thiệu 15 tác giả tiêu biểu ở Bạc Liêu có ảnh hưởng tới nền cổ nhạc miền Nam. Tuy được Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đánh giá là một tác phẩm thuộc loại nghiên cứu, sưu tầm, nhưng theo chúng tôi thì các bài viết của Trần Phước Thuận không dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học mà chỉ dựa trên cảm tính chủ quan, không có chứng cớ và đa phần thuộc loại giai thoại, huyền thoại với chủ đích đề cao địa phương Bạc Liêu trong lãnh vực cổ nhạc.

Theo Trần Phước Thuận, Nhạc Khị là người đã canh tân, hiệu đính và hệ thống hóa 20 bản Tổ của nền cổ nhạc miền Nam. Mở đầu cho bài viết thứ nhất có tựa đề là “Nhạc Khị”, Trần Phước Thuận viết: “Nhạc Khị người khai sinh ra trường phái cổ nhạc Bạc Liêu, đã được anh em nghệ nhân, nghệ sĩ ở đây tôn xưng là Hậu Tổ…” và ông đã chú thích ý nghĩa của chữ “nhạc” này là: “Trong những thập niên trước, người Bạc Liêu ít khi gọi những thầy đờn cổ nhạc là nhạc sư hay nhạc sĩ, mà chỉ gọi vắn tắt là “nhạc” cộng thêm cái tên của người đó. Từ “nhạc” vừa để chỉ nghề nghiệp vừa để chỉ tính chất chuyên nghiệp, lâu dần trở thành một thành tố của tên người”. Chỉ riêng với lời giải thích ngay trong dòng đầu tiên của cuốn sách cũng đã đủ để cho độc giả đánh giá về sự chính xác của tác phẩm này.

Trở lại đầu thế kỷ 20 ở miền Nam, tên của người ta thường được ghép với nghề nghiệp hoặc chức vụ của họ, thí dụ như trong nhạc giới, các vị sau đây thường được người miền Nam nhắc tới như Phó Mười Hai (phó tổng Mười Hai - Tống Hữu Định), Ký Quờn (thầy ký Quờn - Trần Quang Quờn), Đốc phủ Bảy (Đốc phủ sứ Lê Quang Liêm), Sư Nguyệt Chiếu, Bầu Ninh (ông bầu gánh hát bội tên Lương Khắc Ninh), Giáo Thinh (thầy giáo tên Thinh - Nguyễn Văn Thinh),… những người thuộc giới nhạc lễ thì được gọi là “nhạc” (nhạc-sanh tức là người đứng đầu ban cổ nhạc(1)) ghép với tên của mình như Nhạc Láo, Nhạc Thời ở vùng Cần Giuộc, Cần Đước. Như vậy, khi đề cập tới tên “Nhạc Khị” thì ta biết ngay là ông Khị chuyên về nhạc lễ chứ không phải là chỉ dùng để gọi một ông thầy đờn cổ nhạc đơn thuần. Riêng các vị nhạc sư, nhạc sĩ thời trước được dân miền Nam gọi là “thầy” hoặc “cậu” (chữ “cậu” sau này vẫn được giới cải lương dùng để gọi các ông bầu hoặc các nghệ sĩ đàn anh được trọng vọng trong nghề). Ngoài ra, các nhạc sĩ, ca sĩ thời đó được gọi với cái tên rất đặc thù của người miền Nam là lấy thứ bậc trong gia đình ghép với cái tên của mình như Ba Đợi, cô Hai Cúc, Tư Triều, Sáu Lầu…

Nếu như Trần Phước Thuận chỉ đề cao Nhạc Khị là “Hậu tổ cổ nhạc Bạc Liêu” thì đó là chuyện riêng của địa phương Bạc Liêu, không có gì đáng bàn, nhưng ông lại viết: “Nhạc Khị là người Bạc Liêu đầu tiên có công canh tân, hiệu đính, hệ thống hóa và phổ biến rộng rãi 20 bản Tổ để làm cơ sở cho đờn ca tài tử và cải lương Nam Bộ”(2) và để chứng minh Nhạc Khị là người đã hệ thống hóa 20 bản Tổ, Trần Phước Thuận đem Cao Văn Lầu ra làm nhân chứng: “Tôi (nhạc sĩ Cao Văn Lầu) được thầy (Nhạc Khị) dạy đủ 20 bản Tổ và bốn bài tứ bửu từ năm 1906. Chính thầy là người có công trong việc canh tân, hiệu đính, đặt tên và hệ thống 20 bản nhạc có giai điệu độc lập thành 20 bản Tổ (ba nam, sáu bắc, tứ oán và bảy bài nhạc lễ)”.(3)

Lời của Cao Văn Lầu có đáng tin cậy hay không thì chúng ta hãy tìm đọc bài viết của nhà báo Thanh Cao đăng trên báo Dân mới ngày 20/12/1953 với tựa đề “Một cuộc phỏng vấn bất ngờ”, lúc đó Cao Văn Lầu còn không nhớ rõ năm sáng tác bài Dạ cổ hoài lang và năm sanh của mình(4) thì làm sao mà ta có thể tin được sự chính xác khi ông kể về ngày tháng của những việc làm của thầy ông! Ngoài ra, từ buổi hội thảo đầu tiên về bài Dạ cổ hoài lang vào năm 1989 cho tới nay, đã có nhiều bài viết và nhiều cuộc hội thảo của các nhà nghiên cứu về đề tài Dạ cổ hoài lang nhưng kết quả cũng chỉ là những sự phỏng đoán về năm tháng cùng nguyên nhân ra đời của bài Dạ cổ hoài lang, trong đó có cả những cuộc phỏng vấn Cao Văn Lầu khi ông còn sanh tiền, vì vậy, lời khẳng định của Cao Văn Lầu về việc ông học đủ 20 bài Tổ và bộ Tứ bửu vào năm 1906 cần phải kiểm chứng lại.

Về tài nghệ của Nhạc Khị, Vương Hồng Sển kể rằng Nhạc Khị có thể một mình chơi được nhiều loại nhạc khí cùng một lúc: “Ông Hai Khị đau cổ xạ, ngón tay co rút và ngo ngoe rất khó. Thế mà ông có tài riêng, không ai bắt chước được. Ai muốn thử tài cứ đến nhà, ban đầu ông dở mùng cho xem, chỉ thấy trống, kèn, chụp chõa trơ trơ ở trong ấy, thế rồi khách ra ngồi salon, ông Khị chun vô mùng, một “mình ên” rồi bỗng nghe trọn bộ cổ nhạc khua động có tiết tấu nhịp nhàng y như có cả bốn năm người hòa tấu: trống xổ, kèn thổi, đờn kéo ò e, chụp chõa lùng tùng xòa, các việc đều do một mình ông Nhạc Khị (Nhạc sanh Khị) điều khiển”(5) và theo Huỳnh Minh trong cuốn Bạc Liêu xưa và nay thì “Nhạc Khị sử dụng bốn món nhạc khí: Đẩu, bạt, kèn, phách tấu lên cùng một lúc, rất mực điêu luyện, ai cũng khen phục”,(6) đó là những nhạc khí dùng cho bộ môn nhạc lễ chứ không phải là nhạc Tài tử. Theo Trần Phước Thuận, “Năm 30 tuổi, Nhạc Khị đã thành lập ban nhạc cổ, bề ngoài là một ban nhạc phục vụ các buổi ma chay, tiệc tùng, lễ lạc... để kiếm sống, nhưng thực chất đây là một “lò” đào luyện ca nhạc sĩ Bạc Liêu, cũng vừa làm phương tiện để tuyên truyền những bài ca yêu nước”, như vậy là năm 1900 Nhạc Khị mới thành lập ban nhạc lễ và đào tạo học trò nhưng ông Thuận không nói rõ là tới năm nào Nhạc Khị mới chuyển qua nhạc Tài tử vì hai bộ môn này khác nhau, dàn nhạc lễ chủ yếu là bộ gõ (trống, đẩu, thanh la, bạt, bồng…) cùng với bộ hơi (kèn) và trong bộ đờn cây thì dùng đờn cò, gáo là chánh, trong khi nhạc Tài tử chỉ có bộ đờn cây và tiêu, sáo mà thôi. Khi Nhạc Khị mới thành lập ban nhạc lễ thì vào năm 1900 đã có nhóm nhạc Tài tử miền Đông của Tư Triều ở Mỹ Tho sang Pháp biểu diễn rồi, tức là lúc đó phong trào nhạc Tài tử đã phát triển rộng rãi ở miền Nam và đã có nhiều người đờn ca tài giỏi nên mới dám “đem chuông đi đánh xứ người” để giới thiệu một bộ môn nghệ thuật về văn hóa như vậy và Phụng Hoàng Sang ở Sài Gòn cũng đã cho xuất bản một cuốn sách về bản đờn và bài ca cho nhạc Tài tử từ năm 1903.

Thêm một điều quan trọng nữa mà chúng ta cần phải nhấn mạnh là vào năm 1906 chưa có hệ thống 20 bản Tổ như Cao Văn Lầu đã nói cho Trần Phước Thuận “nghe được trực tiếp” để viết lại sau này.

Trở lại quá trình của bộ môn nhạc Tài tử là do các bộ môn ca Huế, nhạc lễ, hát bội và Nhã nhạc cung đình theo bước chân khẩn hoang của những người dân miền Trung vào Nam, qua mỗi vùng đất nước, thâu nhận thêm những bài dân ca, câu hò, điệu lý của từng vùng mà tạo thành một loại ca nhạc “sa lông”, tức là loại để đờn ca giải trí vui chơi trong lúc nhàn hạ chứ không có trình diễn trên sân khấu gọi là nhạc Tài tử. Sau cuộc binh biến kinh thành Huế vào năm 1885, một số nhạc quan và nhạc công của triều đình lánh nạn vào miền Nam sinh sống đã làm cho bộ môn nhạc Tài tử phong phú thêm và đến cuối thế kỷ 19 thì đã có nhiều nhóm sinh hoạt về nhạc Tài tử ở các nơi như Sài Gòn, Long An, Mỹ Tho, Long Xuyên, Vĩnh Long, Cần Thơ... Ta cũng phải nhắc thêm các vị khoa bảng của miền Nam đã từng ra Huế học nên biết về ca Huế và đã có công đóng góp cho bộ môn nhạc Tài tử như Phan Hiển Đạo (Vĩnh Kim, Mỹ Tho), Tôn Thọ Tường (Sài Gòn)…

Đến đầu thế kỷ 20 thì mỗi miền, mỗi vùng ở Nam Bộ đều có những người ca hay đờn giỏi, nhưng tựu trung thì ta có thể chia ra làm hai nhóm là nhạc Tài tử miền Đông (gồm các tỉnh Gia Định, Chợ Lớn, Tân An (bây giờ là Long An), Tây Ninh, Gò Công, Biên Hòa, Bà Rịa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho) và miền Tây (gồm các tỉnh Vĩnh Long, Bến Tre, Trà Vinh, Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Sóc Trăng, Cần Thơ, Hà Tiên, Rạch Giá, Bạc Liêu). Tuy không có sự bầu bán nhưng nhạc sư Ba Đợi (Nguyễn Quang Đại) ở miền Đông và Ký Quờn (Trần Quang Quờn) ở miền Tây được coi như là chủ soái của hai nhóm này. Về nhạc sĩ của mỗi vùng thì Sài Gòn có Nguyễn Liên Phong, Nguyễn Tùng Bá, Cao Quỳnh Diêu, Cao Quỳnh Cư; miền Đông (Long An, Chợ Lớn, Bình Dương) có Nguyễn Quang Đại (Ba Đợi); Mỹ Tho có Tư Triều (Nguyễn Tống Triều), Bảy Triều, Năm Khương (Vĩnh Kim); Vĩnh Long có Phạm Đăng Đàn, Kinh Lịch Quờn (Trần Quang Quờn), Tống Hữu Định (Phó Mười Hai).... Về soạn giả thì có các ông Trương Duy Toản (Vĩnh Long), Nguyễn Trọng Quyền (Long Xuyên), Phụng Hoàng Sang, Nguyễn Liên Phong, Nguyễn Tùng Bá (Sài Gòn), Trần Phong Sắc (Tân An, Long An)... Đó là tên tuổi các vị thầy đờn, soạn giả của bộ môn nhạc Tài tử đã được nhạc giới biết tiếng trong những năm 1900-1920.

Khi bộ môn cải lương thành hình và được phổ biến rộng rãi vào đầu thập niên 1920 thì nhạc Tài tử được đưa vào trong các vở tuồng cải lương, nhưng bài bản của nhạc Tài tử ở mỗi vùng lại có nhiều dị biệt nên qua sự trung gian hòa giải của các thầy đờn Nguyễn Liên Phong, Nguyễn Tùng Bá, Phạm Đăng Đàn và dưới sự chủ trì của Ba Đợi, hai nhóm nhạc miền Đông và miền Tây đã họp tại Nhà Dài thuộc xã Tân Lân, Cần Đước, Long An để thống nhất bài bản và phong cách trình tấu Đờn ca tài tử Nam Bộ.(7) Một điều quan trọng mà nhà nghiên cứu Nhị Tấn đã nhấn mạnh về phong cách trình tấu của Đờn ca tài tử Nam Bộ là: “Từ cuộc họp nầy, 20 bài bản Tổ mới ra đời, những bài bản được lựa chọn, tiêu biểu cho 4 điệu nhạc của Đờn ca tài tử Nam Bộ, có cấu trúc âm thanh khác nhau, 6 bản điệu Bắc, 7 bài điệu Hạ (nhạc lễ), 3 bản điệu Nam, 4 bản điệu Oán và 4 hơi Xuân, Ai, Đảo, Ngự. Ngoài các cấu trúc âm thanh của 4 điệu 4 hơi nầy ra, các hơi điệu Quảng Đông, Triều Châu, Khờ Me, ký âm theo nhạc Tây phương, không đậm đà bản sắc văn hóa Việt Nam, giới chơi Đờn ca tài tử Nam Bộ chính thống, không chấp nhận”.(8) Trong khi đó, theo sách Ca nhạc cổ điển của Trịnh Thiên Tư thì ta thấy đa số bài bản do các nhạc sĩ, soạn giả ở Bạc Liêu sáng tác mang hơi Tiều được dùng nhiều trong bộ môn cải lương.

Thêm một điều nữa mà chúng ta có thể kiểm chứng dễ dàng là theo dõi diễn tiến tên gọi của bài Tứ đại oán, một bài ca rất phổ thông vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Trước thập niên 1920 khi chưa có hệ thống 20 bản Tổ thì bài này được báo giới cùng nhạc giới thời đó gọi là “Tứ đại” mà thôi, sau này khi bản Tứ đại được đưa vào thể điệu Oán của hệ thống 20 bản Tổ thì từ đó cái tên “Tứ đại oán” mới được dùng cho tới bây giờ. Tên gọi “Tứ đại oán” đầu tiên được tìm thấy trong những vở tuồng cải lương “Bội phu quả báo” của Nguyễn Trọng Quyền in vào tháng 6 năm 1923, sau đó là các vở “Nguyệt Hà tầm phu”, “Sát thê cầu tướng”, “Nguyệt Kiểu xuất gia”, của Trần Phong Sắc in năm 1925, kế tiếp là các tuồng cải lương “Kim Vân Kiều” của Lê Công Kiền, “Giọt lệ chung tình”(9) của Nguyễn Tri Khương soạn năm 1926… Cũng trong năm 1926 Trần Phong Sắc cho xuất bản cuốn “Cầm ca tân điệu”(10) có in đủ 20 bản Tổ gồm 4 thể điệu Bắc, Hạ, Nam, Oán như hiện nay cùng với một số bài bản tài tử cả vắn lẫn dài, trong đó có một số bài Ngự và sau hết là các bài lý cùng một số bài thông dụng của sân khấu cải lương, đây là cuốn sách đầu tiên ở Việt Nam phổ biến đầy đủ 20 bản Tổ của bộ môn nhạc Tài tử Nam Bộ gồm có cả bản đờn và bài ca.

20171002 A1

Ảnh 1: Tên “Tứ đại” được dùng trong cuốn Bản đờn tranh và bài ca của Phụng Hoàng Sang (1905).

Ảnh 2: Tên “Tứ đại oán” được dùng trong tuồng Nguyệt Hà tầm phu của Trần Phong Sắc, Imprimerie Xưa & Nay, Sài Gòn (1925).

 

Như vậy ta có thể phỏng đoán khá chính xác là hệ thống 20 bản Tổ ra đời trong cuộc họp thống nhất bài bản vào năm 1922 hoặc trễ lắm là trước tháng 6 năm 1923 tại xã Tân Lân, Cần Đước, Long An do Ba Đợi chủ tọa với sự đóng góp của hai nhóm nhạc Tài tử miền Đông và miền Tây, có thể cũng có sự tham dự của các soạn giả Nguyễn Trọng Quyền và Trần Phong Sắc nên các ông đã là những người tiên phong hưởng ứng và phổ biến tên của 20 bài bản Tổ trong các vở tuồng cải

lương cũng như đã tập hợp các bài bản của bộ môn nhạc Tài tử và cải lương để in thành sách theo hệ thống mới này. Cũng cần nói thêm là Trần Phong Sắc (1873-1928) cùng với Nguyễn Trọng Quyền (1876-1953) và Trương Duy Toản (1885-

1957) là ba vị Thầy Tuồng (vừa là soạn giả vừa đạo diễn) nổi tiếng nhất trong ba thập niên đầu của thế kỷ 20. Điều này cũng chứng minh thêm là vào năm 1906 chưa có hệ thống 20 bản Tổ gồm 3 Nam, 6 Bắc, 4 Oán, 7 bài Lễ (7 bài Cò hoặc 7 bài Bắc Lễ) theo những tên bài bản đã được thống nhất mà nhạc giới miền Nam đã và đang dùng hiện nay để cho Cao Văn Lầu có thể học đầy đủ 20 bản từ Nhạc Khị.

Việc Cao Văn Lầu học đủ 20 bản Tổ và bộ Tứ bửu từ năm 1906 là do Trần Phước Thuận thuật lại với nhà báo Nguyễn Thiện được đăng trên Phụ nữ online ngày 28/4/2014 với tựa đề “Trần Phước Thuận - từ điển sống về đờn ca tài tử Nam Bộ”, nhưng “từ điển sống” này lại quên một điều là ông đã từng viết về bước đầu học nhạc của Cao Văn Lầu: “Cao Văn Lầu nhiều lần nghe ông [Nhạc Khị] tấu đờn đã sinh lòng mến thích, nên đã xin cha cho học đờn. Ông Chín Giỏi cũng là một người biết đờn, mặc dù đờn không giỏi lắm, nhưng lại mang nặng nghiệp cầm ca, nên khi nghe con xin học đờn mà vị thầy lại là một người có tiếng tăm lừng lẫy, nên ông liền đồng ý. Thế là vài ngày sau, ông Chín Giỏi dắt con đến nhà Nhạc Khị để xin thụ nghiệp (1908), Nhạc Khị lúc đó cũng vừa thành lập ban cổ nhạc được vài năm rất cần những tài năng trẻ nên vui lòng chấp nhận”.(11) Năm 1908 mới được đi học nhạc mà năm 1906 đã biết đờn đủ 20 bản Tổ và bộ Tứ bửu thì quả thật Cao Văn Lầu là... thiên tài có một không hai trên đời, đó là chưa kể tới việc những người muốn học đờn đủ 20 bản Tổ phải mất một thời gian dài.

Khi viết cuốn Bản đờn tranh và bài ca vào năm 1903, trong phần Tiểu tự, Phụng Hoàng Sang có nhắc tới tên của các nhân vật thuộc bộ môn nhạc Tài tử đương thời như sau: “Còn những người nào muốn rõ biết cách thức cao xa nữa thì xin nhờ mấy người danh sư, như là: Cậu Ba Đại, thầy Phạm Đăng Đàn, cậu Tám Cang, thầy Giáo Nghĩa, cậu Tư Chấn, cùng là thầy Liên Phong, mấy thầy ấy rõ biết cách thức nhiều, và cũng vui lòng mà chỉ thêm cho những người mộ điệu tài tử”.(12) Đến năm 1918 thì báo giới có nhắc tới ban nhạc của Ký Quờn khi nhóm này tham gia chung với Hội Nhựt báo Nam Kỳ đi Lục tỉnh diễn tuồng “Pháp Việt nhứt gia”. Đó là những tên tuổi của các vị đã có tiếng tăm trong bộ môn nhạc Tài tử hồi đầu thế kỷ 20, trong đó ta phải kể thêm Nguyễn Tùng Bá là người đã hợp tác với Phụng Hoàng Sang viết cuốn Bản đờn tranh và bài ca. Đến năm 1913 Nguyễn Tùng Bá còn viết thêm cuốn “Bản đờn kiềm (kìm)” gồm những bản đờn của bộ môn nhạc Tài tử và cũng có xuống miền Lục tỉnh dạy nhạc Tài tử một thời gian. Rất có thể là trong dịp này Nhạc Khị, một người chuyên về nhạc lễ gặp Nguyễn Tùng Bá nên mới có cơ hội tiếp xúc với nhạc Tài tử để sau này khi Bảy Kiên qua học Đờn ca tài tử với Nhạc Khị đã chép được bản “Bát Man tấn cống” mà Trần Phước Thuận cho là Bảy Kiên sáng tác, nhưng ông Thuận cũng đặt nghi vấn là miền Đông cũng có một bản nên không rõ là bản nào có trước! Thật ra thì bản “Bát Man tấn cống” trong bộ Bát Ngự do Ba Đợi sáng tác vào năm 1898-1899 và đã được Phụng Hoàng Sang in trong cuốn Bản đờn tranh và bài ca từ năm 1903, Nguyễn Tùng Bá cũng cho in lại vào năm 1913 trong cuốn Bản đờn kiềm (kìm) nên ta có thể đoán Nguyễn Tùng Bá chính là người đã phổ biến bản này cho nhóm cổ nhạc tại Bạc Liêu.

Tóm lại, trước khi bài Dạ cổ hoài lang ra đời, ta chưa thấy báo giới hoặc nhạc giới đề cập tới tên của Nhạc Khị hoặc về địa phương Bạc Liêu trong những đề tài về ca nhạc. Theo Huỳnh Minh trong Bạc Liêu xưa và nay thì “Nhưng tiếc cho tài hoa bạc mạng, vì vướng bịnh cùi mà Nhạc Khị phải lui dần vào bóng tối” “Nếu Nhạc Khị đã vì bịnh phong đơn mà phải sớm lui, để ngậm ngùi cho khách mộ điệu không ít, thì Bảy Kiên cũng khiến giới cầm ca cảm mộ vô cùng vì đoạn đời khá ly kỳ của ông”,(13) nhưng tác giả Huỳnh Minh không cho biết là Nhạc Khị “lui dần vào bóng tối” vào năm nào.

Học giả Vương Hồng Sển cho ta biết rõ thêm một chi tiết nữa về nghề riêng của Nhạc Khị: “Ở Bạc Liêu, có ông nhạc sanh Hai Khị, thiện nghệ nhiều cây đờn và ông là người Minh Hương, từng thọ giáo đờn Tiều (Triều Châu) tươi mướt đẹp như cô gái “đầu gà đít vịt”. Nhờ pha điệu Tiều nên chế ra điệu Vọng cổ Bạc Liêu sau nầy”(14) và ông Sển cho Nhạc Khị là “đáng làm hậu tổ cải lương” cũng như ông đã nhấn mạnh ghi công hai nhân vật khác đáng làm hậu tổ cải lương nữa là André Lê Văn Thận và Trương Duy Toản(15) chứ không phải chỉ riêng Nhạc Khị và ông cũng không đề cập tới việc Nhạc Khị là hậu tổ của Đờn ca tài tử vì nhạc Tài tử không có hơi điệu Tiều trong câu ca tiếng đờn. Soạn giả Nguyễn Phương cũng nhắc lại lời cô Phùng Há thường nói là: “Nếu nói đến hậu tổ cải lương thì bên nhạc đúng là ông Nhạc Khị, bên cải lương là ông Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền”.(16) Ngoài ra, Vương Hồng Sển cũng giải thích thêm về sinh hoạt của các nhóm nhạc lễ thời đó: “Trước đó nữa, tại các tỉnh Nam Kỳ không có giàn đờn cổ nhạc Việt, chỉ có giàn nhạc lễ (tỷ dụ ở Bạc Liêu có Nhạc Khị), thường dùng vào các cuộc đám ma nhà héo. Mỗi khi có đám tang, vào lúc canh khuya, sau buổi tế buổi tụng kinh, thường các thầy nhạc và thầy chùa bày ra đòi chủ nhà nấu cháo trắng để thức sáng đêm, và nhơn dịp ấy, họ cũng hòa đờn, tập dượt ca cho đúng nhịp, để đánh con buồn ngủ. Sau thành thói tục, mỗi dịp quan-hôn-tang-tế, thậm chí lễ mừng tân quan, tân gia, khai bằng, khánh hạ, đám giỗ, đám cưới đều có mời họ luôn cho rôm đám”.(17) Do đó, ta có thể khẳng định Nhạc Khị là người giỏi về nhạc lễ, biết đờn nhiều nhạc khí, có học nhạc Tiều, nhạc Tài tử và sáng tác một số bài bản được dùng trong bộ môn nhạc Tài tử, đã có công gầy dựng phong trào Đờn ca tài tử ở Bạc Liêu mà sau này các truyền nhân của ông đã đóng góp nhiều cho sự lớn mạnh của bộ môn cải lương.

Riêng về việc Nhạc Khị có thể sử dụng được bốn, năm món nhạc khí cùng một lúc mà Trần Phước Thuận cho là “nhân vật huyền thoại” (trong sách in năm 2007 ông viết là “nhân vật thần thoại”) thì Vương Hồng Sển hoài nghi về tài nghệ đó: “Không ai biết ông làm cách nào mà được như vậy, có người làm tàng nói rằng ông Khị đánh trống bằng ngón chơn kẹp lại, nhưng còn tay nào đờn, miệng nào thổi kèn, rồi phèng la, chụp chõa không phải tự nhiên nó khua một lượt được? Quả là diệu thuật, và dốt biết ngồi nghe lại ít ai cười hơn”.(18)

Khi hai nhà báo Quốc Thắng và Trọng Duy phỏng vấn ông Võ Văn Dũng, Ủy viên T.Ư Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh, đồng Trưởng ban chỉ đạo Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ nhất năm 2014 tại Bạc Liêu vào lúc tỉnh đang chuẩn bị tổ chức buổi lễ hội này, ông Chủ tịch tỉnh cho biết: “Nhạc Khị là người Bạc Liêu đầu tiên có công trong việc canh tân, hiệu đính và hệ thống 20 bản Tổ”(19) với những chi tiết giống như trong bài viết của Trần Phước Thuận. Cũng trong dịp này, Viện Âm nhạc Việt Nam cho thực hiện dự án đầu tiên trong “Chương trình hành động quốc gia bảo vệ nghệ thuật Đờn ca tài tử” “Dự án thống nhất 20 bản Tổ”, viện cho thu âm 20 bài bản Tổ do các danh cầm, danh ca được chọn từ 21 tỉnh thành của miền Nam, hai miền Đông, Tây mỗi miền đảm nhận 10 bài để thu âm. Việc thu âm được thực hiện ở 2 địa điểm là Bạc Liêu và TP Hồ Chí Minh, điểm ở Bạc Liêu do nghệ sĩ ưu tú Thiện Vũ (tỉnh An Giang) phụ trách thực hiện.(20) “Trăm nghe không bằng mắt thấy”, sau hơn 1 năm rưỡi thực hiện, bộ CD 20 bản Tổ hoàn tất vào khoảng tháng 11 năm 2015, 10 bài bản của miền Tây do Thiện Vũ phụ trách tại địa điểm Bạc Liêu với sự trợ giúp của thạc sĩ Huỳnh Khải (Long An) và một số ca, nhạc sĩ miền Đông vẫn chưa đạt tiêu chuẩn để nhà nghiên cứu Nhị Tấn, một thành viên trong Hội đồng Nghệ thuật của dự án này phải bức xúc lên tiếng phê bình trong bài “Nhận xét về bộ CD ‘20 bài bản Tổ Đờn ca tài tử Nam Bộ Việt Nam’ của Viện Âm nhạc Việt Nam - 2014”.(21) Nếu quả thật Nhạc Khị là người đã hiệu đính và thống nhất 20 bài bản Tổ như người lãnh đạo của tỉnh Bạc Liêu và Trần Phước Thuận đã khẳng định thì điều tối thiểu là truyền nhân của Nhạc Khị tại Bạc Liêu cũng phải biết đờn, ca ít nhất là 10 bài bản Tổ nhưng điều này cũng chưa thực hiện được.

Hai mươi bản Tổ là kết tinh của nhiều bài bản do tiền nhân đã sáng tác từ trước để tạo nên một bộ môn nghệ thuật âm nhạc đặc thù của miền Nam và sự hệ thống hóa cùng thống nhất 20 bài bản Tổ không thể do một cá nhân làm được mà đây là sự kết hợp của nhạc giới cả hai miền Đông, Tây Nam Bộ để lưu lại cho hậu thế bộ môn nghệ thuật độc đáo này và đó là sự đóng góp của tập thể, một truyền thống tốt đẹp của người miền Nam. Trên phương diện khảo cứu, những sự tìm tòi và phát hiện mới đều làm giàu cho nền văn hóa nước nhà. Chi tiết về Nhạc Khị là người đầu tiên canh tân, hiệu đính và hệ thống hóa 20 bản Tổ của nhạc Tài tử do Trần Phước Thuận đưa ra cần phải chứng minh một cách khoa học và cụ thể hơn, nhất là bài viết của một ông Tổng thư ký của Hội Khoa học Lịch sử của một tỉnh được gọi là “cái nôi của Nhạc Tài tử Nam Bộ”(22) khi viết về đề tài lịch sử này.

San Jose, ngày 15 tháng 5 năm 2016

N T K

CHÚ THÍCH

  1. Nguyễn Ngọc Bạch, “Quá trình hình thành nghệ thuật sân khấu Cải lương”, http://newvietart. com/index4.173.html.
  2. Trần Phước Thuận, Bước đầu tìm hiểu tác giả và tác phẩm cổ nhạc Bạc Liêu, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2012, tr. 22.
  3. Nguyễn Thiện, “Trần Phước Thuận - từ điển sống về đờn ca tài tử Nam Bộ”, báo Phụ nữ online, http://phunuonline.com.vn/giai-tri/tran-phuoc-thuan--tu-dien-song-ve-don-ca-tai-tu-nam-bo-27377/
  4. Khi được phỏng vấn, Cao Văn Lầu nói ông ta 63 tuổi vào năm 1953, tức là sinh vào năm 1890, nhưng trên mộ bia thì ghi là 1892.
  5. Vương Hồng Sển, Hồi ký 50 năm mê hát, Cơ sở xuất bản Phạm Quang Khai, Sài Gòn, 1968, tr. 37.
  6. Huỳnh Minh, Bac-Liêu xưa va nay, Bach Việt, 1994, tr. 191.
  7. Theo lời thuật của nghệ nhơn Năm Ơn là đệ tử đời thứ nhì của nhạc sư Ba Đợi.
  8. Nhị Tấn, “Nhận xét về bộ CD ‘20 bài bản Tổ Đờn ca tài tử Nam Bộ Việt Nam’ của Viện Âm nhạc Việt Nam - 2014”, 2016, https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/n/nhi-tan/nhan-xet-ve-bo-cd-20-bai-ban-to-dhon-ca-tai-tu-nam-bo-viet-nam-cua-vien-am-nhac-viet-nam-2014
  9. Nguyễn Tri Khương, Giọt lệ chung tình, bản chép tay của tác giả, 1926.
  10. Lê Văn Tiếng và Trần Phong Sắc, Cầm ca tân điệu, Imprimerie de J. Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn, 1926.
  11. Trần Phước Thuận, Tác giả cổ nhạc Bạc Liêu - Cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 2007, tr. 39.
  12. Phụng Hoàng Sang, Bản đờn tranh và bài ca, F.H. Schneider, Sài Gòn, 1905, tr. 5.
  13. Huỳnh Minh, Sđd, tr. 191.
  14. Vương Hồng Sển, Sđd, tr. 43.
  15. Vương Hồng Sển, Sđd, tr. 42.
  16. Nguyễn Phương, “Soạn giả Mộc Quán Nguyễn Trọng Quyền, Hậu tổ cải lương”, http:// www.rfa.org/vietnamese/in_depth/ScreenWriterMocQuanNguyenTrongQuyenPostAnces-torCailuong_NPhuong-20070915.html, 15/9/2007.
  17. Vương Hồng Sển, Sđd, tr. 19.
  18. Vương Hồng Sển, Sđd, tr. 37.
  19. Quốc Thắng, Trọng Duy, “Festival Đờn ca tài tử quốc gia lần thứ nhất - Bạc Liêu 2014 - Góp phần giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa dân tộc,” http://festivaldoncataituquocgia. baclieu.gov.vn/hoatdong/Lists/Posts/Post.aspx?List=a6680cba-54d1-4d15-b2ca-b56de0522476&ID=22
  20. Cẩm Thúy, “Thống nhất 20 bản Tổ Đờn ca tài tử: Dự án đầu tiên của chương trình hành động quốc gia về Đờn ca tài tử”, 28/3/2014. http://baobaclieu.vn/newsdetails/1D3FE182565/ THONG_NHAT_20_BAN_TO_DON_CA_TAI_TU_Du_an_dau_tien_cua_chuong_trinh_ hanh_dong_quoc_gia_ve_don_ca_tai_tu.aspx
  21. Nhị Tấn, “Nhận xét về bộ CD ‘20 bài bản Tổ Đờn ca tài tử Nam Bộ Việt Nam’ của Viện Âm nhạc Việt Nam - 2014”, https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/n/ nhi-tan/nhan-xet-ve-bo-cd-20-bai-ban-to-dhon-ca-tai-tu-nam-bo-viet-nam-cua-vien-am-nhac-viet-nam-2014
  22. Đỗ Dũng, “Cần Đước - Long An - “Nên tôn vinh là cái nôi…”, tạp chí Sân khấu TP HCM, http://sankhau.com.vn/news/can-duoc--long-an--nen-ton-vinh-la-cai-noi.aspx

 

Nguyễn Tuấn Khanh San Jose, CA, Hoa Kỳ

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (129), 2016

Thông tin truy cập

60894137
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
17993
18331
60894137

Thành viên trực tuyến

Đang có 531 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website