Thông cáo báo chí số 1: Họp báo liên hoan phim ngắn FY lần 2 năm 2018
FY là tên viết tắt của Film and Youth (Điện ảnh và Bạn trẻ) và cũng là tên viết tắt của Forever Young (Mãi mãi tuổi thanh xuân). Do đó, ý nghĩa của Liên hoan phim sẽ hướng tới các bạn trẻ. Thông qua Liên hoan phim ngắn FY, các bạn trẻ sẽ được học làm phim với những đạo diễn, biên kịch, sản xuất, diễn viên có kinh nghiệm. Giáo dục điện ảnh là tinh thần cốt lõi của Liên hoan phim ngắn FY. Nối tiếp sự thành công của Liên hoan phim ngắn FY mùa 1, năm nay, CLB Sân khấu và Điện ảnh phối hợp với Truyền hình FPT tổ chức Liên hoan phim ngắn FY mùa 2. Liên hoan phim sẽ kéo dài từ ngày 30 tháng 05 đến hết ngày 10 tháng 10 năm 2018. Đến với Liên hoan phim lần này các bạn trẻ không chỉ được thỏa sức thực hiện ý tưởng của bản thân mà còn có cơ hội giao lưu, gặp gỡ, học hỏi kinh nghiệm từ các nhà làm phim đi trước, đồng thời tạo bước đệm khởi nghiệp, tự quảng bá thương hiệu bản thân đến những nhà sản xuất tiềm năng. Song song đó, Liên hoan phim còn có những Workshop về kịch bản, đạo diễn, sản xuất, diễn xuất được giảng dạy bởi các nhà làm phim hàng đầu Việt Nam như Phan Đăng Di, Phan Gia Nhật Linh, Hồng Ánh, Đinh Tiến Dũng để hỗ trợ các nhóm làm phim phát huy tối đa năng lực của mình. |
||||
VỀ TÁC PHẨM DỰ THI | ||||
Liên hoan phim ngắn FY khuyến khích những tác phẩm mang tính phát hiện những nhân tố mới, thể hiện mọi mặt của đời sống xã hội dưới góc nhìn của những người trẻ khao khát, tự tin vào bản thân, dám dấn thân, thể hiện và khai phá chính mình. Đặc biệt, Liên hoan phim ngắn FY sẽ đánh giá cao những bộ phim có ngôn ngữ điện ảnh tốt, mang đậm chất nghệ thuật, có tính thể nghiệm và có sự sáng tạo độc đáo. | ||||
ĐỀ TÀI | ||||
Tự do, không giới hạn đề tài, ý nghĩa, truyền cảm hứng đến các bạn trẻ, có chất lượng nghệ thuật cao. | ||||
GIẢI THƯỞNG | ||||
Giải nhất: | 10 triệu đồng + 03 tháng sử dụng Truyền hình FPT | |||
Giải nhì: | 8 triệu + 03 tháng sử dụng Truyền hình FPT | |||
Giải ba: | 6 triệu đồng + 03 tháng sử dụng Truyền hình FPT | |||
Giải đặc biệt của Ban giám khảo: 4 triệu đồng+ 1 suất tham gia Gặp gỡ Mùa Thu | ||||
Giải phim hoạt hình xuất sắc nhất: 1 khóa học quay phim + 1 máy vẽ do viện truyền tranh hoạt hình VN tài trợ. | ||||
Giải khán giả bình chọn: | 4 triệu đồng | |||
Giải diễn viên nam xuất sắc: | 4 triệu đồng | |||
Giải diễn viên nữ xuất sắc: | 4 triệu đồng | |||
BAN GIÁM KHẢO | ||||
Ông Phan Đăng Di | Đạo diễn “Bi! Đừng sợ”, “Cha, con và…” | |||
Ông Phan Gia Nhật Linh | Đạo diễn “Em là bà nội của anh”, “Cô gái đến từ hôm qua” | |||
Bà Hồng Ánh | Diễn viên, Đạo diễn “Đảo của dân ngụ cư” | |||
Ông Đinh Tiến Dũng | Diễn viên, GS Cù Trọng Xoay (Hỏi Xoáy, Đáp Xoay) | |||
THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM | ||||
Thời gian | 18 giờ 30, thứ 4 ngày 30 tháng 05 năm 2018 | |||
Địa điểm | Hội trường D, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, số 10-12 Đinh Tiên Hoàng, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh | |||
LIÊN HỆ | ||||
Mọi thông tin cần thiết về Liên hoan phim ngắn FY xin anh/chị liên hệ: Đào Lê Na - Cố vấn Câu lạc bộ Sân khấu và Điện ảnh, Trưởng Ban tổ chức Liên hoan phim ngắn FY (Số điện thoại: 0986742782; Email: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.) Website: www.sankhauvadienanh.com Facebook: https://www.facebook.com/FYFilmFest/ |
(Ảnh: http://sankhau.com.vn)
Hát bóng rỗi là loại hình nghệ thuật tổng hợp có chức năng thực hành nghi lễ tại cơ sở tín ngưỡng nữ thần ở Nam Bộ. Trong cuốn Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức biên soạn đầu thế kỷ XIX có đề cập tới thói quen: “tin việc đồng bóng, kính trọng nữ thần như bà Chúa Ngọc, bà Chúa Động; quen gọi các phu nhân tôn quý bằng bà: bà Thủy Long, bà Hỏa Tinh, cô Hồng, cô Hạnh…”(1) của người Gia Định. Còn sách Đại Nam nhất thống chí viết: ở tỉnh Định Tường thường “hay dùng cô đồng múa hát, lấy làm vui thích”.(2)
Những ghi chép trên đây cho thấy hai góc nhìn từ một dạng thức văn hóa. Thứ nhất: nhìn từ trục tín lý của các đối tượng thờ tự trong phạm vi tín ngưỡng (Nữ thần). Thứ hai: nhìn từ hình thái diễn xướng nghi lễ được thực hiện bởi các cô đồng. Đáng tiếc là những liên hệ trong khuôn khổ tín ngưỡng, cũng như thói quen văn hóa được thực hiện thông qua các cô đồng không trực tiếp chỉ ra nguồn gốc của loại hình nghệ thuật tồn tại trong môi trường đó. Tín ngưỡng vốn có tính chất bảo thủ truyền thống, còn nghệ thuật lại chịu ảnh hưởng, tác động bởi bối cảnh văn hóa, xã hội, nhu cầu đổi mới về thẩm mỹ. Điều đó càng đẩy nguồn gốc của Hát bóng rỗi lùi sâu hơn vào quá khứ mà hiện tại chưa thể tìm ra căn cứ để xác định về tình trạng sơ khai. Chỉ biết rằng, muộn nhất vào khoảng đầu thế kỷ XIX, loại hình nghệ thuật Hát bóng rỗi đã trở nên phổ biến.
1. Ngôi miễu - trú sở thần linh và nơi trình diễn nghệ thuật Hát bóng rỗi
Tín ngưỡng nữ thần vốn là một hiện tượng văn hóa sơ khai, có nguồn gốc lâu đời, gắn liền với hình thái thờ Mẫu. Rất nhiều dân tộc trên thế giới đều có tín ngưỡng thờ nữ thần, đặc biệt là vị thần sản sinh ra vạn vật “vạn vật chi mẫu”. Theo đó, cội nguồn của sự sống bắt nguồn từ “nữ tính”. Nó như một hiện tượng văn hóa phổ biến trên thế giới. Suốt chiều dài lịch sử, do ảnh hưởng tư tưởng Nho giáo, quan niệm trọng nam khinh nữ, nên tín ngưỡng nữ thần có xu hướng tồn tại trong môi trường văn hóa dân gian, đặc biệt mạnh lên khi người Việt thiên di vào vùng đồng bằng Nam Bộ, cộng hưởng với văn hóa Chăm. Bởi vậy, uy nghi của các nữ thần bao trùm cả một vùng đồng bằng rộng lớn, từ Huế, Đà Nẵng, Quảng Nam vào đến vùng miền Tây Nam Bộ, với những nữ thần, như Thiên Y A Na, Bà Chúa Tiên, Chúa Ngọc, Bà Đen, Bà Chúa Xứ, Cửu Thiên Huyền Nữ, Linh Sơn Thánh Mẫu, Thiên Hậu, Kim Huê, Thánh Anh La Sát, Thất Thánh Nương Nương, Cố Hỷ, Thượng Động, Cô Hồng, Cô Hạnh, Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Thổ… Tất cả những đối tượng trên đều được thờ tự rải rác hay phối tự trong cơ sở tín ngưỡng nữ thần, mà cụ thể là những ngôi miễu.
Xét về mức độ phổ biến, hễ đâu có đình cũng thường có thêm miễu. Số lượng miễu tuy chưa thể thống kê một cách đầy đủ, nhưng theo phán đoán có thể nhiều hơn cả đình. Bởi lẽ: đình có quy mô lớn, nằm lộ thiên giữa nơi công cộng. Trong tiến trình lịch sử, đình đóng nhiều vai trò khác nhau, từ cao nhất là Hành cung(3) của nhà vua cho đến ngôi nhà làng (thiết chế công cộng làng xã) mà hiện tại chỉ bảo lưu công năng thờ tự. Để xây dựng đình đòi hỏi phải huy động nhiều nhân lực, vật lực, tài lực, trong khi miễu xưa nay đều thống nhất trên một chức năng thờ tự. Đình mang trong mình bản thể của xã hội phong kiến với quyền uy thuộc về phái nam, từ uy quyền quan phương cho đến tư tưởng trọng nam. Còn miễu “đại diện” cho phái nữ, có lẽ bởi thế mà không kém phần yếm thế. Miễu mang sắc màu tín ngưỡng rõ rệt, tồn tại tự phát trong dân gian và không đồng nhất về mặt quy mô. Chốn thường trú của thần linh này thường gắn kết với hoạt động diễn xướng thực hành nghi lễ. Và trong khuôn khổ ít nhiều khép kín về không gian, nhỏ hẹp về quy mô, cộng thêm tính chất tư gia cho phép nhiều ngôi miễu mọc lên theo ý chí, nguyện vọng cá nhân, không thống thuộc vào bất cứ đoàn thể nào. Ở nhiều địa phương có những gia đình lập am, miễu ngay trong khuôn viên nhà mình và đương nhiên họ cũng có thể tổ chức “lễ hội tại gia” giống như việc hầu bóng ở các bản điện, đền từ tại gia khu vực miền Bắc. Có lẽ vì những tính chất này khiến cho việc thống kê cơ sở tín ngưỡng miễu (có thể) khó hơn đình, chùa... Vả lại, sự không được quan tâm xét dưới phương diện nào đó khiến cho miễu càng phát triển dễ dàng (so với đình). Những ngôi miếu cô hồn vô chủ trên trục đường quốc lộ là một bằng chứng cho thấy sự phát triển theo khuynh hướng tự phát. Còn việc xây dựng đình thời xưa đòi hỏi chủ sở hữu phải có thân phận, chức sắc hoặc giàu sang mới đủ khả năng thực hiện. Đình không còn tái sinh trong xã hội đương đại, nhưng miếu vẫn tiếp tục hình thành bằng con đường dân gian tự phát.
Trong quá khứ, đình, chùa, miếu, vũ đều thuộc thiết chế văn hóa truyền thống. Chúng không chỉ là cơ sở tín ngưỡng, thờ tự mà còn đóng vai trò của những thiết chế cộng đồng nhằm thỏa mãn nhu cầu về sinh hoạt văn hóa, giống như chức năng của nhà văn hóa, nhà hát, sân khấu… Vì thế, hàng loạt các loại hình nghệ thuật đều gắn kết với cơ sở tín ngưỡng, từ lễ Kỳ yên ở đình, lễ Vu Lan ở chùa cho đến lễ hội vía các nữ thần ở miễu, chưa kể đến những sinh hoạt diễn ra trong gia thất, như lễ Tạ trang, lễ Đội bát nhang, lên đồng…. Giống như nhà hát, sân khấu… trong xã hội đô thị hiện đại, miễu đóng vai trò cung ứng cơ sở vật chất cho hoạt động biểu diễn của loại hình nghệ thuật Hát bóng rỗi. Trong kết cấu xã hội, thể chế và thiết chế văn hóa vốn là hai mặt của một chỉnh thể. Hoạt động nghệ thuật chỉ có thể hay chí ít được bảo đảm bởi một thiết chế tương ứng. Ở Hát bóng rỗi, thiết chế tương ứng ấy chính là ngôi miễu. Ngôi miễu vừa đóng vai trò nhân tố tiền đề, vừa tạo điều kiện tồn tại cho loại hình nghệ thuật.
2. Hát bóng rỗi và một số đặc điểm về âm nhạc
Hát bóng rỗi là một loại hình nghệ thuật tổng hợp, hội tụ cả ca, múa, nhạc, sân khấu, trò diễn…. Trong khuôn khổ tìm hiểu những đặc điểm âm nhạc, bộ phận đáng lưu ý nhất tập trung ở tiết mục Chầu mời thỉnh tổ. Đây là tiết mục do các bà bóng thực hiện, thuộc phần lễ, khác với Múa bóng, Chặp bóng tuồng Địa - Nàng… mang nhiều tính chất hội, thiên về chức năng giải trí. Theo xu hướng giản tiện hóa tiết mục ở một số miễu, rất nhiều tiết mục của Hát bóng rỗi dần dần bị lược bỏ, nhưng Chầu mời thỉnh tổ luôn được bảo lưu. Nó có thể coi thư tiết mục định tính của loại hình diễn xướng nghi lễ này.
Hát chầu mời gồm tập hợp năm chủng loại bài: Chầu ông, Chầu bà, Chầu cô, Chầu cậu và Chầu chiến sĩ. Nội dung năm bài Chầu bao quát tất cả các đối tượng thờ tự trong hệ thống điện thờ của miễu, gồm: Bà Chúa Ngọc, Bà Chúa Tiên, Bà Chúa Động, Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa, Bà Thổ, Cửu Thiên Huyền Nữ…, Cô Hồng, Cô Hạnh, Cậu Chài, Cậu Quý và các chiến sĩ trận vong.
Tiết mục Hát chầu mời chưa có sự gia nhập của nghệ thuật múa, Chặp bóng tuồng hay trò diễn, mà chỉ có hát với nhạc cụ đệm.
Thành phần nhạc cụ tham gia phụ họa cho Hát chầu mời không mang tính chất cố định, có thể xê dịch về số lượng. Trong đó, những nhạc cụ đóng vai trò chủ đạo, có đàn cò, trống lệnh và phách (hay song loan). Nhạc cụ chủ đạo được hiểu là thành phần không thể thiếu trong tiết mục Chầu mời thỉnh tổ, thuộc loại biên chế đã được tinh giản.
Đàn cò làm nhiệm vụ trình bày các khúc rao, gian tấu, chuyển hơi và phụ họa cho giọng hát. Tùy thuộc vào chức năng của từng phần mà nó đảm nhận những vai trò khác nhau, như tạo không khí, xác định giọng (ở phần rao), liên kết các bộ phận và báo hiệu chuyển điệu (chuyển đổi điệu thức)...
Trống lệnh do người hát (bà bóng) đảm nhận nhằm mục đích khai mạc cho cuộc lễ, tô điểm hoặc “đỡ” cho giọng hát. Người hát sử dụng một dùi, gõ lên mặt và tang trống. Tiết tấu thường xuyên xuất hiện đảo phách nhằm tạo sự tương phản với nhịp điệu đồng độ ở phách hay song loan.
Phách hay song lang (loan) do một người sử dụng có chức năng giữ nhịp. Trong suốt bản hát, nó chỉ có một lần thay đổi duy nhất khi chuyển từ nhịp 2 sang nhịp 1, đi kèm với biến chuyển về tốc độ (nhanh dần) ở phần Hát lý.
Ngoài ba nhạc cụ kể trên, nhiều miễu còn sử dụng thêm một số nhạc khí khác như đàn ghi ta phím lõm, trống cơm, kèn thau, đồ đường, thậm chí có cả đàn phím điện tử…. Với cơ cấu này, chúng ta thấy hiện lên một “biên chế” dàn nhạc khá phong phú về chủng loại.
Đình - Miễu vốn có quan hệ mật thiết với nhau. Rất nhiều trường hợp, nhạc công của Hát bóng rỗi cũng chính là nhạc công của dàn Nhạc lễ trong cúng đình. Xuất phát từ chỗ kế thừa cơ cấu dàn Đại nhạc, Minh chinh, Đại cổ giống như “thiết chế” Đại cổ, Đại chung. Trong khi, ở Hát bóng rỗi, trống lệnh, chiếc trống do nhân vật chính cầm chịch lại giao cho bà bóng. Chứng tỏ, địa vị, thân phận của bà bóng trong trường hợp này giữ vai trò chính. Mặt khác, thay vì sử dụng danh phận, chức sắc mang tính chất quyền uy, nghi thức về mặt hành chính vào nghi thức chấp Đại chung, Đại cổ hay Minh chinh, Đại cổ… như Nhạc lễ cung đình hay cúng đình thì ở Hát bóng rỗi, bà bóng chế ngự chiếc trống lệnh bằng thẩm quyền chuyên môn. Trống lệnh trong tay bà bóng có giá trị đặc biệt, thay thế cho quyền uy nghi thức, thể hiện rõ chức năng người chủ lễ. Bên cạnh đó, Hát bóng rỗi chỉ mang tính chất rỗi, thỉnh, cầu, mời, mà không có chức năng trấn yểm, trừ tà, để chiếc trống lệnh có thể chuyển hóa chức năng thành pháp khí.
Giống như nhiều loại hình ca kịch truyền thống, trống đóng vai trò rất quan trọng trong Hát bóng rỗi. Việc học hát ngay từ ban đầu đã liên quan chặt chẽ với trống. Sau khi hành nghề, tiếng trống dẫn dắt người hát vào thế giới tình huống phong phú khác nhau. Trong Triều kịch (loại hình ca kịch của người Triều Châu), Việt kịch (ca kịch Quảng Đông), người đánh trống gọi là Đả cổ trưởng, thường hưởng thù lao cao nhất trong dàn nhạc. Họ được tôn xưng làm Đả sư phụ, ông thầy trống. Đả sư phụ hay nói cách khác, người thầy truyền nghề đều thông qua công cụ trống. Chiếc trống nằm trên tay bà bóng trong Hát bóng rỗi cũng gọi là trống lệnh. Bản thân tên gọi này đã chỉ ra tính chất, vai trò của nó trong việc điều phối giọng hát, đồng thời phân lớp, trình tự các thủ pháp xử lý về mặt kỹ thuật, cũng như nghệ thuật.
Trống lệnh khá giống chiếc trống mảnh (chỉ có một mặt), trống bộc trong dàn Đại nhạc. Song, hai nhạc cụ trên chỉ đóng vai trò giữ nhịp, chỉ huy dàn nhạc, còn trống lệnh thâm nhập sâu vào quá trình diễn tấu, diễn xướng nhằm phối hợp với các nhạc cụ, nâng đỡ giọng hát, thậm chí trở thành thứ công cụ quyền uy trong tay bà bóng để thử thách tài nghệ nhạc công. Trống lệnh cũng giống chiếc trống Shaman trong tay thầy Pháp, trống nhỏ trong hát Chầu văn, tiểu cổ ở nghệ thuật Thuyết xướng dân gian Trung Quốc.… Tiết tấu của trống lệnh biến hóa đa đoan, không duy trì âm hình trì tục như ở phách, mà tùy cơ ứng biến. Những tiếng “nhồi”, “chỏi”, đảo phách liên tục dễ khiến cho các thầy đàn phải gườm, cảnh giác.... Tiếng trống có khi phân biệt “đẳng cấp” của từng bà bóng. Giống như ở nghệ thuật Hát bội, trống “điểm” cho nhân vật ra tuồng, sau đó làm hiệu lệnh cho nhạc và hát. Tính chất này để lại trên thực thể của Hát bóng rỗi - thứ trình thức nguyên thủy - biểu hiện thông qua các biện pháp xử lý nghệ thuật.
3. Kết luận
Xét về hình thái nghệ thuật, nhạc cúng đình và miễu đều thuộc phạm trù nhạc lễ. Song, về mặt cơ cấu, tổ chức, đặc biệt là hình thức nghệ thuật, tính chất nhạc cúng đình có thể coi như dòng trực hệ của âm nhạc cung đình, sau khi chuyển hóa bối cảnh, “xã hội hóa”, nhạc cúng đình đã nhập thân vào môi trường dân gian. Trong khi nhạc cúng miễu đi lên bằng con đường dân gian, nhưng tích hợp nhiều bài bản từ nghệ thuật truyền thống, từ chính thống như nhạc tuồng, cho tới dân gian, như hát Lý, hát Cải lương.... Đứng về mặt tư tưởng, nhạc cúng đình bảo thủ truyền thống thông qua hình thức nghệ thuật. Chúng ta có thể thấy cơ cấu nguyên ủy của nó là dàn Đại nhạc thông qua biên chế nhạc đình, từ minh chinh, đại cổ cho tới trống chiến, trống chầu, kèn bóp, đàn cò (nhị) và đặc biệt là hệ thống bài bản (nhạc lễ). Nhạc cúng miễu đi theo con đường dân gian, tồn tại trong môi trường tín ngưỡng nữ thần, nên thể hiện sự tích hợp đa dạng nhiều dạng thức nghệ thuật tạo nên một chỉnh thể phong phú, từ tín lý, đối tượng thờ tự cho tới hệ thống bài bản. Nhạc lễ đình mang đậm dấu vết của nhạc Cổ xuy, thượng tôn vai trò ban Võ trong dàn nhạc, những nhạc khí mang âm lượng lớn. Ngoài ra, trong nghi lễ đình, như lễ Thỉnh sắc, dàn nhạc trình diễn tuần hành trên đường phố (được điển chế hóa qua chức năng nhạc Cổ xuy, loại nhạc quân đội theo thể chế thời kỳ phong kiến). Còn nhạc lễ miễu thượng tôn vai trò của ban Văn, có ca và nhạc, thậm chí, tiết mục Chầu mời thỉnh tổ chủ yếu tập trung trình diễn nghệ thuật ca hát (diễn xướng). Tiếng đàn, tiếng hát thay vì huy động những nhạc cụ có âm lượng lớn, như trống chiến, trống chầu, kèn bóp như bên Võ của nghi lễ đình, nhạc lễ miếu gần với bộ phận Ty trúc, giống âm nhạc thính phòng, đi vào khai thác khía cạnh giao đãi, tương tác nghệ thuật. Việc đặt ra mối quan hệ so sánh nhằm thiết lập mối quan hệ giữa hai cơ sở tín ngưỡng trên.
Xét về tổng quan, các dạng thức văn hóa cộng tồn trên một vùng đất ít nhiều đều có ảnh hưởng qua lại, đặc biệt dựa trên mối quan hệ hữu cơ của cơ cấu xã hội truyền thống, khi đình và miễu nằm trong cùng tổ hợp thống nhất, không tách rời nhau, thậm chí ngay trong cùng không gian thờ tự. Đối với bất cứ loại hình nghệ thuật nào, tính chất đại đồng có thể loại bỏ cách suy diễn phiến diện nhằm suy tôn vai trò độc tôn, độc nhất vô nhị nhằm hướng tới những tiểu dị làm nên giá trị đơn lẻ. Hát bóng rỗi chính là một trong những tiểu dị làm nên sự khác biệt trong không gian, bối cảnh văn hóa âm nhạc truyền thống chung. Truyền thống ấy không nhất thành bất biến, mà vẫn tiếp tục biến đổi, như chính thực thể nghệ thuật của dạng thức văn hóa này.
Hát bóng rỗi ở Nam Bộ tồn tại trong môi trường dân gian đô thị, sự biến đổi của nó diễn ra vừa nhanh, vừa chậm. Đứng ở góc độ hiện đại hóa phương tiện phục vụ cho nhu cầu trình diễn, như máy khuếch đại âm thanh, nhạc cụ, bài bản mới (thường là ca khúc Việt, Hoa)… sự thay đổi diễn ra khá nhanh chóng. Song, các yếu tố nội tại thuộc phương tiện biểu hiện lại chậm chạp. Theo ý kiến của một số nghệ nhân lớn tuổi, dày dặn kinh nghiệm, càng ngày càng có nhiều người kém về nghề làm bát nháo loại hình nghệ thuật này. Mục đích của sự trình diễn chủ yếu hướng tới không khí ồn ào, xôm tụ… Qua khảo sát nhiều cơ sở tín ngưỡng gắn kết với hoạt động trình diễn nghệ thuật Hát bóng rỗi trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, đại bộ phận nghệ nhân đều tự lặp lại mình một cách “máy móc”, thiếu vắng tinh thần sáng tạo. Vì vậy, trải qua thời gian dài tồn tại, Hát bóng rỗi chủ yếu vận động theo xu hướng tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật khác, thay vì biến đổi tự thân. Hiện tượng “tân cổ giao duyên” đóng vai trò chủ đạo nhằm tạo nên một tổ hợp đa tạp về hình thái biểu hiện. Bên cạnh đó, cũng phải thấy rằng, do tồn tại ở những vùng có đời sống kinh tế trọng thương, thể nghiệm nhiều trào lưu nghệ thuật mới, dù giới hạn trong phạm vi tín ngưỡng, Hát bóng rỗi không ngăn nổi trước sự “tấn công” ồ ạt từ bên ngoài của nhiều dạng thức văn hóa khác. Quá trình này góp phần làm gia tăng liên tục những nhân tố ngoại lai nhằm duy trì sự vận hành của loại hình nghệ thuật tồn tại nương nhờ vào môi trường tín ngưỡng. Trong phạm vi âm nhạc của Hát bóng rỗi, điểm mấu chốt của mọi sự thay đổi dường như luôn đến từ bên ngoài, còn thành tố cần biến đổi tự thân như một phương thức biểu hiện ngược lại rất ít chuyển biến.
Ngôi miễu được dùng làm nơi trình diễn nghệ thuật Hát bóng rỗi, từ một thiết chế văn hóa dân gian tồn tại trong dòng chảy văn hóa của vùng đất mới thường xuyên diễn ra thay đổi, sau này nhập thân vào xã hội thị trường, nó đã làm một cuộc “thay da đổi thịt” biến nghệ thuật nương nhờ vào là Hát bóng rỗi có xu hướng ngả sang màu sắc thương mại. Điều này thể hiện trên nhiều cấp độ, trước hết trên chính bản thân những người hành nghề. Hoạt động nghề nghiệp của bà bóng nói chung khá chuyên nghiệp, được thực hiện một cách có tổ chức, có trưởng nhóm (giống như bầu Show), cùng với nhiều dịch vụ đi kèm, như cung ứng hàng mã, làm mâm vàng, mâm bạc, hương, đăng, trà, quả… nói tắt một lời là bao trọn gói. Xét về phương thức hoạt động, những nghệ nhân bóng rỗi thường gắn kết với nhau theo tổ chức phường hội. Đứng đầu nhóm là ông bầu, người đóng vai trò tổ chức nhân sự, ký hợp đồng với hội miễu, có khi kiêm cả chức năng truyền nghề cho thành viên mới hoặc chưa dày dặn kinh nghiệm.
Mặc dù tồn tại trước sự phát triển của xã hội hiện đại, với nhiều tôn giáo có cộng đồng tín đồ đông đảo, như đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Hồi, đạo Tin Lành, cùng những tôn giáo mang màu sắc bản địa khác, tín ngưỡng thờ nữ thần ở Nam Bộ với loại hình nghệ thuật diễn xướng nghi lễ Hát bóng rỗi mặc nhiên vẫn chảy âm thầm trong tâm thức cộng đồng, tồn tại một cách bền vững giữa nhiều dòng chảy văn hóa. Hát bóng rỗi tuy chưa lọt vào hạng mục cần bảo tồn hay nguy cơ thất truyền, nhưng với đà phát triển theo cấp số nhân về thông tin, cộng thêm “bài toán chưa có lời giải” về cách thức bảo tồn nghệ thuật dân gian, nó tất yếu đi đến chỗ mai một, yếu kém, đặc biệt là sự xuống cấp nhanh chóng về chất lượng nghệ thuật.
L H Đ
CHÚ THÍCH
Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 3 (137), 2017.
Những thước phim mờ nhạt về đình làng
Điện ảnh Việt Nam có hai dòng phim chủ lưu là phim đương đại phản ánh cuộc sống xã hội hiện đại và các bộ phim có tính chất lịch sử, cổ trang. Cả hai dòng phim này đều chưa tạo chỗ đứng cho di sản, từ đó góp phần vào việc bảo tồn, phát huy giá trị của di sản. Đơn cử như sự xuất hiện mờ nhạt của hình ảnh mái đình Việt trong các bộ phim. Là người thiết kế bối cảnh cho nhiều phim cổ trang, họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức nhận xét: “Hình ảnh đình làng xuất hiện ở trong cả hai loại phim này nói chung chưa nhiều và ở một số tác phẩm có sự xuất hiện di sản thì lại chưa truyền tải được tinh thần của văn hóa đình làng, hay nói cách khác, việc xuất hiện hình ảnh mái đình cũng không mang đúng giá trị truyền thống vốn có của nó”. Ví dụ, các phim Chim vành khuyên, Bao giờ cho đến tháng Mười, Đến hẹn lại lên…ngôi đình chỉ xuất hiện chớp nhoáng, không để lại ấn tượng cho người xem. Những phim như Lều chõng, Chị Dậu, Hạt mưa rơi bao lâu, Thời xa vắng… thì sân đình được chọn làm nơi dân làng tiễn bộ đội hay cảnh ngôi đình đổ được lấy để nói lên tội ác của đế quốc Mỹ đối với văn hóa Việt…
Theo họa sĩ Nguyễn Mạnh Đức: “Tất cả các bộ phim đều chưa truyền tải được văn hóa đình làng mà mới chỉ mô tả được sự kiện. Hơn nữa, hình ảnh đình làng trong các bộ phim đó lại thành nơi tra tấn dân nghèo, nơi hách dịch của quan lại… chứ không phải nơi sinh hoạt văn hóa của nông dân Việt Nam trước đây. Do đó, dù ngôi đình xuất hiện nhưng lại tạo cho chúng ta cách hiểu khác về đình làng, biến đình làng giống như một thế lực đè nặng lên người lao động, gieo vào lòng người dân toàn nỗi sợ hãi”.
Tại hội thảo Đình làng Việt, những điều còn - mất, họa sĩ Trần Hậu Yên Thế nêu thực trạng điện ảnh Việt Nam đang “tiếp tay” làm cho di sản, trong đó có những ngôi đình làng, tách biệt khỏi ký ức của cộng đồng: “Trong các bộ phim kinh điển của điện ảnh Việt Nam, bộ phim Chị Dậu sử dụng đình làng Đồng Kỵ làm bối cảnh, nhưng các khuôn hình về đình đơn điệu, không thấy được nét đặc sắc của nó. Rõ ràng, đình làng là nơi sinh hoạt văn hóa, lễ hội dân gian tập trung và đại diện nhất của văn hóa Việt lại không được thấy trong các tác phẩm điện ảnh từ xưa tới nay”.
Lưu giữ và khơi gợi ký ức về di sản
Không có văn bản pháp lý nào quy định phải đưa di sản vào phim cũng như điện ảnh không thể thay thế Cục Di sản văn hóa để làm công tác bảo tồn di sản. Nhưng rõ ràng, với quyền lực mềm của mình, điện ảnh có sức tác động mạnh vào nhận thức, tâm lý của công chúng trong bảo tồn, phát huy giá trị của di sản. NSND, đạo diễn Đặng Nhật Minh cho rằng, điện ảnh có vai trò lưu giữ, khơi dậy trong mỗi con người những ký ức gắn với di sản, mà khi con người có ký ức, họ sẽ hiểu và trân trọng cũng như bảo vệ di sản tốt nhất. “Điện ảnh tuy không thể tham gia trực tiếp vào quá trình trùng tu, bảo tồn di sản nhưng có lợi thế là lưu giữ được ký ức của con người. Muốn bảo tồn di sản thì những người có trách nhiệm phải có ký ức về di sản đó và ký ức đó cũng như một di sản cần được bảo vệ. Ví dụ như phim Hà Nội mùa Đông năm 46, trong một cảnh quay ở đền Ngọc Sơn, tôi đã yêu cầu phục dựng tàu điện bởi thời đó có tàu điện màu đỏ chạy qua đây. Và khi quay phim vào lúc 5 giờ sáng, chúng tôi kéo tàu điện đó ra thì tất cả người Hà Nội, từ trẻ tuổi đến lớn tuổi đều vây quanh ngắm nhìn một cách ngẩn ngơ. Nhiều người xem bộ phim này gặp tôi đều bảo cảnh phim đã khơi dậy ký ức của họ đúng quá, sống động quá. Điện ảnh chỉ góp sức như thế thôi nhưng cũng đáng quý rồi”.
Thống kê của Cục Điện ảnh những năm qua cho thấy xu hướng làm phim hiện nay thiên về dòng phim hiện đại có tính hài hước hay hành động, kinh dị... Di sản truyền thống hầu như không được đưa vào phim và nếu có cũng chỉ chiếm số lượng khiêm tốn. Phục dựng bối cảnh khó, tốn kém, lợi nhuận không tương xứng là nguyên nhân khiến nhiều nhà làm phim không mặn mà đưa di sản vào tác phẩm. Nhưng rõ ràng, giá trị của việc đưa di sản vào trong các tác phẩm điện ảnh không thể đo đếm bằng tiền. Những thước phim về di sản một khi được truyền tải đầy đủ, mang đúng bản chất, ý nghĩa sẽ có sức lan tỏa văn hóa mạnh mẽ, khơi dậy ở người xem ký ức về lịch sử, về di sản và từ đó, giúp họ yêu, hiểu, có ý thức trách nhiệm bảo tồn di sản hơn.
“Tôi khâm phục cách làm phim của Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản… bởi họ đã tận dụng rất tốt di sản văn hóa của mình. Họ đã khai thác triệt để những tích đọng trong cổ vật, tư liệu và mạnh dạn đẩy những hình ảnh đó ra sản phẩm khác để giúp người dân hiểu sâu văn hóa của thời kỳ cũng như giúp quảng bá di sản”. Họa sĩ NGUYỄN MẠNH ĐỨC |
Nguồn: Báo Điện tử Đại biểu Nhân dân, ngày 10.11.2015.
1. Thực trạng vấn đề tự do sáng tạo trong lĩnh vực Sân khấu
Khác với văn học và một số loại hình nghệ thuật, Sân khấu là một loại hình nghệ thuật tổng hợp. Nó tổng hòa tỏng nghệ thuật của chính mình nhiều các loại hình nghệ thuật khác. Trong mối quan hệ giữa sân khấu và người xem của nghệ thuật đặc thù này, thì sân khấu trước hết gồm sự tổng hòa của ba chủ thể sáng tạo cơ bản: Nhà viết kịch; Nhà đạo diễn; Nhà nghệ sĩ biểu diễn. Ba chủ thể này và một số chủ thể yểm trợ khác: mỹ thật, âm nhạc, phục trang, ánh sáng, hậu đài… đã hòa hợp thành một tập thể sáng tạo ra tác phẩm cuối cùng là vở diễn để phục vụ công chúng sân khấu, chính là người xem. Do vậy, tự do sáng tạo trong lĩnh vực sân khấu mang tính đặc thù rất cao, đó là tự do sáng tạo cá nhân, phải “tan hòa: trong một tập thể nghệ sĩ. Bản thân tự do sáng tạo nghệ thuật sân khấu vừa mang tính cộng đồng, vừa mang tính cá thể. Vì vậy, bản chất của tự do sáng tạo trong tính đặc thù của nghệ thuật sân khấu là phải được hiển lộ tổng hòa trên hai phương diện cơ bản: sáng tạo cá nhân và sáng tạo tập thể. Chính vì vậy, nếu nhìn tự do sáng tạo trong nghệ thuật sân khấu ở chính góc nhìn tổng thể căn cơ này thì sẽ luôn nhận thấy có 2 tình thế xảy ra. Nếu tự do sáng tạo của cá nhân nghệ sĩ được thống nhât và hòa hợp nhất quán với sáng tạo của tập thể nghệ sĩ thì sẽ dẫn đến vở diễn thành công ngoạn mục trên tinh thần cộng đồng và mang tính tổng thể. Đó là sự hài hòa và thống nhất thẩm mỹ, bắt đầu từ cái hay, cái xuất sắc của nhà viết kịch, mang tính phi vật thể của con chữ trong kịch bản văn học, được chuyển ngữ đến cái hay mang tính hữu thể trong ngôn ngữ dàn dựng của đạo diễn, ngôn ngữ thể hiện vai kịch của nghệ sĩ biểu diễn nhân vật kịch trên sân khấu, cùng nhiều ngôn ngữ yểm trợ khác, như ngôn ngữ âm nhạc, mỹ thuật, phục trang, hóa trang, hậu đài sân khấu … Đó là về phía sân khấu, mà chưa kể đến công chúng sân khấu, trong quan hệ lớn nhất của nghệ thuật này, đó là quan hệ giữa SÂN KHẤU và NGƯỜI XEM.
Tuy nhiên, hiện nay, về phía sân khấu, với những hoạt động sáng tạo đặc thù, với tư cách chủ thể sáng tạo tác phẩm sân khấu trong quan hệ với người xem thì câu chuyện tự do sáng tạo của nghệ thuật sân khấu hiện đang gặp một số vấn đề bức xúc và nan giải, khiến giới sân khấu phải cùng nhau chung tay giải quyết như sau:
Có vấn đề mâu thuẫn, hoặc khó dung hòa giữa các chủ thể sáng tạo sân khấu với hội đồng nghệ thuật duyệt vở diễn hay không? Mâu thuẫn ấy được nhận diện và giải quyết thế nào để thúc đẩy sự phát triển sân khấu Việt Nam hiện đại thế kỷ XXI?
Mâu thuẫn giữa nhà viết kịch và hội đồng duyệt kịch bản, khi kịch bản không được Hội đồng nghệ thuật thông qua, cho phép dàn dựng hoặc bị sửa với những đòi hỏi và yêu cầu rất ít kích thích sáng tạo trong cái viết kịch bản? Chính vì vậy thường dẫn đến tình trạng: kịch bản viết được rất nhiều, nhưng được dựng không nhiều hoặc được chọn dựng rất ít. Các trại viết được tổ chức rất nhiều, đều kì, hàng năm, phần nhiều được đánh giá thành công, nhưng thường không tỉ lệ thuận với số lượng kịch bản hay. Và “số lượng sản xuất” từ các trại này thường cao hơn cái gọi là chất lượng. Các nhà quản lý các đơn vị sân khâu và các đạo diễn thường rất khó và rất lúng túng trong việc tìm kiếm kịch bản hay để phục vụ cho nhà hát, cho các đơn vị nghê thuật mà mình chỉ đạo nghệ thuật hoặc được mời dàn dựng. Vậy làm thế nào đây để đạo diễn được tự do tìm kiến và dàn dựng kịch bản hay?
Song tôi nghĩ: một trong những cuộc khủng hoảng lớn nhất sân khấu hiện đang ở khâu sáng tạo đầu tiên và căn bản nhất chính là ở khâu kịch bản văn học. Sân khấu hiện đại đang thiếu vắng những kịch bản hay. Có thể, chính người viết kịch hôm nay đang né tránh những vấn đề lớn, mang tính xung đột, mâu thuẫn lớn của xã hội Việt Nam hiện đại. Phải chăng, tự bản thân một số nhà viết kịch, nhà văn đã né tránh những vấn đề nhạy cảm trong xã hội, tự biên tập “tự do” kịch bản để có thể dễ bề được duyệt, thay vì cố chờ đợi, để nguyên kịch bản trong ngăn kéo hàng chục năm, hay dăm năm như “Rừng trúc” của Nguyễn Đình Thi hay “ Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ.
Trên tinh thần “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”, tôi cũng có thể thấy rằng, hiện nay một số nhà viết kịch của Sân khấu Việt thế kỷ XXI đã có thể ngoài ý muốn mà tự hạn chế tự do sáng tác của mình trong việc phát hiện, đặt ra và giải quyết trong kịch bản của mình những vấn đề lớn, những xung đột, mâu thuẫn lớn của xã hội Việt Nam hiện đại trong “bi kịch của sự phát triển” (theo nhà nghiên cứu Đào Duy Anh trong cuốn sách đầu tiên nghiên cứu về văn hóa Việt Nam: “Việt Nam văn hóa sử cương”- NXB Quan hải tùng thư,1938). Theo Đào Duy Anh, cái bi kịch của xã hội hiện đại thế kỷ XX chính là sự phát triển từ một xã hội nông nghiệp tiểu nông mang nhiều âm tính đến một xã hội theo mô hình phương tây dương tính: “công nghiệp hóa”, “đô thị hóa” và “hiện đại hóa”. Thực chất, bi kịch này nằm trong những mâu thuẫn, xung đột không còn là giữa ta và địch như trong các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ , mà là những xung đột mâu thuẫn trong thời bình, của thời kỳ bao cấp hôm qua và kinh tế thị trường hôm nay.
Về phương diện tự do sáng tạo của nhà viết kịch việc nhận thực về bản chất bi kịch này, đã kích thích sự tự do của nhà viết kịch, bởi, như một nhà kinh điển nhận định, một nhà viết kịch có tầm cỡ phải phản ánh trong tác phẩm của mình vài ba khía cạnh chủ yếu của cuộc cách mạng “nếu tự do là sự nhận thức được cái tất yếu” thì nhà viết kịch phải tự mình buộc mình phải nhận thức được bi kịch của sự phát triển của xã hội Việt Nam và viết những kịch bản hay đụng được vào cả trái tim tâm lẫn lý trí người xem và hoàn toàn có thể tránh được sự xét duyệt có thể là ngặt nghèo, phi nghệ thuật của Hội đồng nào đó về kịch bản.
Các nghệ sĩ rất khó kiếm hoặc rất hiếm hoi có được vai kịch mà mình tâm đắc. Huống hồ là vai kịch để đời. Vậy làm thế nào để được tự do lựa chọn và kiếm tìm những vai kịch hay?
Tất nhiện, những nhạc sĩ, họa sĩ, những người phục vụ cho việc sáng tạo một vở diễn cũng thúc thủ trong trường hợp không có kịch bản hay.
Vấn đề đặt ra:
Làm thế nào để có bà đỡ có mắt xanh phát hiện, nâng đỡ và cưu mang những kịch bản hay, và những kịch bản hay không bị ngủ yên trong ngăn kéo như những trường hợp đã xảy ra: Rừng Trúc; Hồn Trương Ba, da hàng thịt; Nguyễn Trãi ở Đông Quan; như một số vở của Nguyễn Đình Thi, Lưu Quang Vũ chẳng hạn.
Làm sao cho đạo diễn được tự do lựa chọn kịch bản phù hợp, nhằm xác lập, khẳng định phong cách dàn dựng của cá nhân mình?
Làm sao cho diễn viên được tự do tìm và được lựa chọn, được đề nghị vai kịch của mình và làm sao vở diễn, vai diễn không bị cấm, bị sửa quá nhiều, đến mức đạo diễn không muốn nhận đó là vở diễn của mình hoặc diễn viên không muốn nhận đó là vai diễn của mình?
Tiếp theo là làm thế nào để Hội động duyệt tiếp các khâu: dàn dựng biểu diễn đến tổ chức vở diễn sân khấu cho thông thoáng, xuôi chèo mát mái, trở thành thực sự là bà đỡ mát tay cho những vở diễn hay?
Thực trạng sân khấu đang diễn ra ở hai khu vực: Sân khấu nhà nước (Quốc doanh); Sân khấu tư nhân (xã hội hóa), đều cùng đặt ra vấn đề tự do sáng tác trong việc: Sáng tác, dàn dựng và biểu diễn. Có điều hội đồng duyệt cả hai khu vực sân khấu này đều đang có vấn đề cần tháo gỡ.
Thứ nhất: Với Sân khấu nhà nước (quốc doanh): nếu vở diễn đổ thì còn có chỗ lùi. Vì đó là tiền của nhà nước cấp để dựng vở, diễn viên được hưởng lương từ nhà nước chi trả. Còn với sân khấu xã hội hóa, vở diễn đổ thì trắng tay, mất công sức, việc làm…
Thứ hai: Vì thế, sân khấu xã hội hóa sẽ bị thua thiệt nhiều, khi vở diễn bị hội đồng cấm, hoặc không duyệt, hoặc sửa chữa rất nhiều thì đồng nghĩa với việc sẽ làm đổ “nồi cơm” của sân khấu xã hội hóa. Có lẽ vì vậy, nên nỗi “sợ hãi” lớn nhất của sân khấu TP HCM là vở diễn bị đổ, hội đồng nghệ thuật không duyệt, nên trắng tay…
Thứ ba: Không thể không nhận rằng, sân khấu thế kỷ XXI đã đánh mất người xem. Người xem được chủ động và tự do từ chối,từ bỏ sân khấu hay sân khấu đã tự đánh mất người xem? Ở chỗ này,vấn đề đặt ra rất tréo ngoe: Sân khấu Việt đã từng hấp dẫn người xem đến không thể cưỡng lại trong những thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX. Vậy, từ đầu thế kỷ XXI đến giờ, mà người xem vẫn thờ ơ, quay lựng lại với Sân khấu là lỗi tại ai, quyền năng của người xem với sân khấu là gì? Nếu họ bỏ sân khấu thì lỗi có phải tại họ đã nhạt tình với sân khấu không? Quyền tự do của người xem đối với sân khấu là gì, khi họ có quyền “ra về vào lúc giải lao”, vì vở diễn mà họ xem mới chỉ đụng vào ví tiền của họ chứ chưa đụng vào trái tim của họ (ý kiến của nhà văn Phan Thị Vàng Anh trên Thể thao văn hóa với nhan đề bài viết: Ra về vào lúc giải lao, vào đầu thế kỷ XXI).
Chính vì vậy, vấn đề tự do thưởng thức vở diễn của công chúng sân khấu phải đặt ngang với vấn đề tự do sáng tạo của giới sân khấu. Trong quan hệ sinh tồn giữa sân khấu và người xem, cần phải ý thức rằng, không có người xem thì làm sao có sân khấu. Và sân khấu chỉ có thể phát triển khi sân khấu có cái để xem. Có cái để nghĩ và có cái để cười, để khóc. Chính vì vậy, phát biểu trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII diễn ra tại Hà Nội ngày 16-17/11/2014 (nhiệm kỳ 2014-2019), Chủ tịch Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam, NSND Lê Tiến Thọ đã nhấn mạnh bằng văn bản, về vấn đề sáng tác và tự do sáng tác: “Do tính đặc thù của loại hình sân khấu là nghệ thuật tổng hợp, vì vậy vấn đề sáng tác và tự do sáng tác trong lĩnh vực sân khấu cần có một cơ chế cụ thể. BCH cần kiến nghị với các cơ quan kiểm duyệt phải có những quy chế, những quy định để các nghệ sĩ sáng tác, dàn dựng, biểu diễn hước tới chân, thiện, mỹ và thực hiện theo các quy định hướng từ Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Đề nghị với các cơ quan chức năng, có các văn bản hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Đảng để Nghị quyết đi vào đời sống. Đó là định hướng cho sáng tác và tự do sáng tác”. (Tài liệu cùng tên trang 55).
2. Giải pháp nhằm giải phóng tự do sáng tạo của chủ thể sân khấu gồm:
Người viết kịch bản, người dàn dựng, người biểu diễn. Và tất nhiên, tự do tiếp nhận cho công chúng thưởng thức sân khấu nữa!
2.1. Giải pháp về sân khấu và giải pháp về hội đồng kiểm duyệt tác phẩm sân khấu:
Người viết kịch: Cần nhận thức rõ bi kịch của sự phát triển xã hội hiện đại Việt Nam với những xung đột mâu thuẫn của sự phát triển để tự quyết định những chủ đề của kịch bản, nhất là trong hoặc ngoài “vùng cấm”.
Người đạo diễn: Mạnh dạn và tự do lựa chọn và dàn dựng những vở kịch có thể đã bị ém rất lâu trong ngăn kéo người viết kịch. Như đạo diễn Đình Quang với một số vở kịch của Xuân Trình, Tất Đạt, Lưu Quang Vũ. Nguyễn Đình Nghi với một số vở kịch của Nguyễn Đình Thi, Lưu Quang Vũ, Xuân Trình …
Người diễn viên: Tự do biểu lộ cá tính nghệ thuật với tính chuyên nghiệp cao nhất trong sự phối hợp với tác giả và đạo diễn. Tự do đối thoại, giải trình, bảo vệ ý đồ của mình trong vai diễn với tác giả và đạo diễn.
Rất lưu ý vấn đề: Tự do cá nhân phải nằm trong sự đồng bộ giữa nghệ sĩ và tập thể những người sáng tao vở diễn, trên tinh thần triết học mạnh khỏe: Tự do là sự nhận thức được cái tất yếu. Vậy nên, công chúng được quyền tự do để từ chối, phủ nhận, hoặc tiếp nhận các vở diễn. Đồng thời với sự tự giáo dục để nâng cao thẩm mỹ sân khấu của chính mình. Cho nên sân khấu cần đáp ứng, bằng cách dàn dựng những vở diễn tiên tiến nhất của Việt Nam và trên thế giới như: Shakespeare, Sê-khốp, Molie, Ipsen…
2.2. Hội đồng: Đề nghị Hội đòng duyệt phải tập hợp được những người am hiểu về mọi loại hình, thể loại và mọi phương diện sân khấu Việt hiện đại; từ Tuồng, Chèo, Rối nước, Cải lương, …. Đến các công đoạn viết kịch bản, dựng vở, biểu diễn và thưởng thức.
- Am hiểu thể loại kịch trong sân khấu Việt Nam hiện đại, vốn du nhập từ phương Tây đầu thế kỷ XX tại Việt Nam và đã được Việt hóa suốt gần một thế kỷ. Thực chất công cuộc Việt Nam hóa kịch Tây phải được nhận thức như là một quá trình văn hóa. Vì vậy, hội đồng nghệ thuật muốn tránh khỏi trục trặc, sự không tìm được ngôn ngữ chung khi xét duyệt tác phẩm nghệ thuật sân khấu với người sân khấu, cần phải có cơ chế cụ thể, sát sao với tính đặc thù của sân khấu. Theo yêu cầu và cũng là định hướng của NSND Lê Tiến Thọ- Chủ tịch Hội NSSK Việt Nam, thì để có một hội đồng nghệ thuật Sân khấu phù hợp với nhiệm kỳ 2014-2019 thì: “ban Chấp hành (Hội NSSKVN) cần kiến nghị với các cơ quan kiểm duyệt phải có những quy chế, những quy định để các nghệ sĩ sáng tác, dàn dựng, biểu diễn hướng tới chân, thiện, mỹ và thực hiện theo các quy định hướng từ Nghị quyết của Đảng về văn hóa, văn nghệ. Đề nghị với các cơ quan chức năng, có các văn bản hướng dẫn thực hiện các Nghị quyết của Đảng để Nghị quyết đi vào đời sống. Đó là định hướng cho sáng tác và tự do sáng tác”.
Ngoài ra cần phải lưu ý thêm về các công tác cụ thể như sau: “Tổ chức sáng tác; Dàn dựng và phổ biến tác phẩm; Tổ chức đi thực tế sáng tác” (trang 55 tài liệu lưu hành nội bộ).
Cuối cùng, tự do sáng tác trong mọi lĩnh vực của hoạt động sân khấu phải đi đôi với tự do thưởng thức của công chúng sân khấu. Công chúng sân khấu hiện đại của hôm nay hoàn toàn có quyền tiếp nhận nồng nhiệt hoặc quay lưng khước từ sân khấu và hoàn toàn có thể hiểu tại sao họ đã từng quyết định “ra về vào lúc giải lao” như tên một bài viết của Phan Thị Vàng Anh, cách nay đã hơn chục năm. Vậy, tự do thưởng thức và sáng tạo sân khấu từ phía chủ thể sân khấu còn phụ thuộc rất nhiều vào việc môi giới cái đẹp của nhà phê bình sân khấu. Hiện nay phê bình sân khấu chưa phải là một nghề, và phê bình sân khấu trên báo chí rất nhờ nhạt, mong manh, hầu như không thúc đẩy gì cho sự phát triển của sân khấu hiện đại và người phê bình sân khấu chuyên nghiệp có thể đến trên đầu ngón tay và việc đạo tạo những nhà phê bình sân khấu trong các trường Sân khấu điện ảnh Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh rất ít được coi trọng. Nếu đối tượng của của nhà phê bình sân khấu là vở diễn, thì nhà phê bình sân khấu lại rất ít có cơ hội được tiếp xúc với tác phẩm sân khấu vì nhiều lý do khách quan trong đó có lý do có những bài phê bình làm đổ vỡ “nồi cơm” của các nhà hát và đoàn hát khi bình luận một vở diễn. Có những nhà đạo diễn và nghệ sĩ giận dỗi nhà phê bình hàng chục năm không nhìn mặt. Đó là những thực tế rất đáng tiếc. Hầu như sân khấu vắng bóng nhà phê bình. Vậy nhà phê bình ở đâu và tự do sáng tạo của nhà phê bình đang bị treo lên hay nhà phê bình đang tự tước mất quyền sáng tạo của mình? Đó cũng là vấn đề đặt ra cần gấp rút giải quyết trong thế kỷ XXI./.
PGS. TS Nguyễn Thị Minh Thái
Phó Trưởng Ban Lý luận, Phê bình Hội NSSK Việt Nam
Ảnh: Minh Thanh
Lần đầu tiên, Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được chuyển thể sang loại hình vũ kịch. Đặc biệt hơn, sản phẩm này còn là một sự hợp tác đầy tâm huyết, trân trọng, bền vững và dài lâu giữa nữ biên đạo Hàn Quốc Yoo-oh Chun của Công ty Y.O Saigon Dance Ensemble (YOSDE) và Nhà hát Giao hưởng nhạc vũ kịch TP.HCM (HBSO), cùng các nghệ sĩ Việt Nam.
Sau một năm bắt tay vào dự án, đợt công diễn đầu tiên vũ kịch Múa Kiều đã ra mắt vào tối 10 và 11.3 tại Nhà hát TP.HCM trong niềm hạnh phúc của những người thực hiện và cổ vũ hết sức nhiệt thành của khán giả thành phố. Sự phấn khởi của cả đôi bên không chỉ bởi đã được công diễn hay thưởng thức một sản phẩm nghệ thuật tuyệt vời mà vì từ đây, thế hệ nghệ sĩ múa mới, đầy tài năng của Việt Nam đã được vào “bệ phóng”.
Từ cái bắt tay đầy bỡ ngỡ...
Múa Kiều không phải là tác phẩm nghệ thuật hợp tác đầu tiên giữa HBSO nói chung hay đoàn múa của HBSO nói riêng. Đây cũng không phải là “mối tình đầu” giữa YOSDE và HBSO.
Từ bốn năm trước, nữ biên đạo Hàn Quốc Yoo-oh Chun khả ái đã tìm đến HBSO để cùng thực hiện những dự án nghệ thuật, vở múa hết sức đặc sắc và đầy sáng tạo Arirang Saigon. Để rồi từ mối lương duyên đó, biên đạo Yoo-oh Chun tiếp tục với những dự án đầy nhiệt huyết khác như: Nỏ thần (câu chuyện về Trọng Thủy - Mỵ Châu), Huyền thoại nữ nhân hay 800 năm ước hẹn với nội dung lịch sử về hoàng tử Lý Long Tường nước Đại Việt lánh nạn ở đất Cao Ly. Dẫu vậy, những lần hợp tác này đều được tính theo từng dự án và các diễn viên múa của Việt Nam được chọn tập luyện để cùng diễn chung với các nghệ sĩ Hàn Quốc, như một sự thử nghiệm. Chưa có một kế hoạch đường dài hay lời hứa hẹn nào được đặt ra cho “mối tình” này.
Nhưng với Múa Kiều, khán giả đã được thưởng thức một diện mạo hoàn toàn khác, một câu chuyện đầy tình cảm và nhân văn hơn của mối quan hệ hợp tác hữu nghị này. Lần đầu tiên, ngoài bà Yoo-oh Chun, toàn bộ diễn viên vở Múa Kiều là của HBSO. Không chỉ làm việc với ê kíp từ biên kịch, biên đạo cho đến kỹ thuật, dàn dựng sân khấu đến từ Hàn Quốc như những dự án trước, bà Yoo-oh Chun chọn biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng của HBSO để cùng bà xây dựng vở diễn. Các diễn viên được chọn cũng được trả lương hàng tháng để tập luyện một tuần bốn buổi sau giờ làm việc với HBSO để đảm bảo mọi sự hóa thân đều không chê vào đâu được, mang đến một vở diễn thật lộng lẫy và cuốn hút. Cũng ít ai biết rằng chính bà Yoo-oh Chun là người đã âm thầm tài trợ toàn bộ chi phí để HBSO cải tạo lại rạp Thanh Vân trên đường Cách Mạng Tháng Tám (nơi tập luyện của dàn nhạc và đoàn múa HBSO) đủ tiêu chuẩn hơn để cho các nghệ sĩ có một chỗ tập tươm tất và ổn định.
Sẽ không dừng lại ở Kiều
Biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng gọi đây là một sự hợp tác trong mơ. Bởi nhà đầu tư là công ty của biên đạo Yoo-oh Chun không chỉ mang đến đây một khoản tiền, những kinh nghiệm hay công nghệ, kỹ thuật hàng đầu tại Hàn Quốc cho nghệ thuật múa mà còn là cả một sự đầu tư đường dài về đào tạo và phát triển. “Những người theo nghề múa luôn lo lắng không có đất dụng võ, cả đời khổ luyện nhưng đôi khi không có sàn diễn để thể hiện tài năng và các sáng tạo của mình mà phải chịu cảnh “làm sô chợ” để kiếm sống thì giờ đây đã có hi vọng được sống và cống hiến cho nghề mà không còn phải quá lo lắng về chỗ tập, cơm áo gạo tiền, các ý tưởng dựng vở hay cơ hội đến với công chúng thông qua các tác phẩm mà mình ấp ủ” - biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng chia sẻ.
Sau thành công của hai đêm diễn vào tháng 3, Múa Kiều đang được sắp xếp để diễn lại vào tháng 10 hay 11 tới. Dẫu vậy, từ đây đến thời điểm đó, YOSDE và HBSO vẫn còn nhiều kế hoạch thú vị khác. Biên đạo Yoo-oh Chun nói: “Là người Hàn Quốc sống ở Việt Nam hơn mười năm nay, tôi luôn tìm hiểu văn hóa Việt thông qua văn học, lịch sử Việt Nam. Bản thân tôi vốn rất yêu văn học nên thấy mình vẫn bị cuốn hút bởi những tác phẩm đó. Đó là lý do vì sao những tác phẩm múa mà tôi đã dàn dựng ở Việt Nam đều là những điển cố văn học, văn hóa Việt Nam. Tâm tính người Việt nằm rất nhiều trong văn học chứ không chỉ ở vẻ bề ngoài. Tôi luôn mong các tác phẩm của mình, không chỉ người Việt mà nhiều người Hàn Quốc và cả người quốc tịch khác sẽ hiểu hơn nữa những nét đẹp tâm hồn của người Việt, thêm yêu nước Việt”.
Dù rằng bà Yoo-oh Chun muốn giữ bí mật về những kế hoạch sắp tới nhưng biên đạo múa Nguyễn Phúc Hùng đã tiết lộ sau Múa Kiều, YOSDE và đoàn múa của HBSO đã lập tức cùng nhau dàn dựng và tập luyện một tiết mục mang tên Nón Huế để mang đến Liên hoan múa quốc tế Busan lần thứ 14 - 2018, diễn ra từ ngày 31.5 đến ngày 5.6 tại thành phố Busan, Hàn Quốc. “Sẽ có 45 đoàn từ 15 nước tham dự festival lần này. Với liên hoan này, cô Yoo-oh Chun đã để cho tất cả diễn viên chúng tôi cùng sáng tạo để có thể giới thiệu đến bạn bè thế giới những gì Việt Nam đương đại nhất qua múa” - nghệ sĩ Phúc Hùng thổ lộ. Về phần mình, biên đạo Yoo-oh Chun chỉ hé lộ bà sẽ tiếp tục đưa các tác phẩm văn học Việt Nam lên sàn múa và tìm kiếm không chỉ cơ hội trình diễn các tác phẩm này tại Việt Nam hay Hàn Quốc.
MỘT NHÀ TÀI TRỢ NHƯ YOO-OH CHUN CÓ QUÁ KHÓ TÌM Ở VIỆT NAM? Mười năm trước, khi còn làm Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch TP.HCM phụ trách khối nghệ thuật, quan sát cách thực hiện chủ trương xã hội hóa các hoạt động văn hóa trong đó có hoạt động nghệ thuật, tôi đã nhiều lúc rơi vào tâm trạng bế tắc. Người có năng lực tài chính và người có năng lực nghệ thuật hình như luôn là hai đường thẳng song song, không bao giờ có thể gặp nhau. Cái mà người có năng lực tài chính muốn khi bỏ tiền tài trợ hoặc đầu tư cho nghệ thuật thường là quyền can thiệp, quyền quyết định tuyệt đối với “món hàng” mà họ đã “mua”. Năng lực sáng tạo của người làm nghệ thuật chỉ được xem là thứ yếu, là thứ phải phục tùng. Nhiều người làm nghệ thuật (biên kịch, đạo diễn, diễn viên), hoặc bỏ đi làm việc khác vì cảm thấy bị xúc phạm nghề nghiệp, hoặc cam chịu để có chỗ sống và đợi một cơ hội được làm nghệ thuật đúng nghĩa. Đợi lâu quá, không ít người đã chấp nhận luôn cách làm nghệ thuật nửa vời. Vừa chẳng có tác phẩm nào, vai diễn nào để thể hiện và khẳng định bản thân; vừa thui chột dần khả năng sáng tạo nghệ thuật. Nhà quản lý dường như đứng ngoài quá trình bế tắc ấy. Yoo-oh Chun thì khác. Trước khi trở thành doanh nhân (một cách không tự nguyện), bà thực sự là một nghệ sĩ múa vững vàng ở cả ba khả năng: biểu diễn, biên đạo và nghiên cứu, đào tạo. Trong khi làm nhiệm vụ của người tổng giám đốc doanh nghiệp, Yoo-oh Chun chưa bao giờ từ bỏ đam mê và năng lực lõi của mình là nghiên cứu múa, sáng tạo tác phẩm và... múa khi cần. Bà luôn đấu tranh với bản thân và với người thân, cộng sự để họ phải chấp nhận múa luôn là một phần không thể tách rời của cuộc đời bà. Vì là một nghệ sĩ đích thực nên bà luôn hiểu người nghệ sĩ cần gì và như thế nào là thực sự hỗ trợ phát triển nghệ thuật. Khi có điều kiện tài chính, ưu tiên trước hết và thường trực của Yoo-oh Chun luôn là múa. Sang Việt Nam từ nhiều năm qua với trách nhiệm chính là kinh doanh, Yoo-oh Chun đã tìm mọi cơ hội để quan sát kỹ hoạt động nghệ thuật cá nhân của các nghệ sĩ Việt Nam, phát hiện cho ra các tài năng đang làm việc trong điều kiện như thế nào và tìm cách kết nối để hỗ trợ họ một cách tốt nhất trong khả năng có thể của bản thân và của đối tác. Điều kiện đổi lại với những người được bà hỗ trợ là hãy làm nghệ thuật tốt nhất như họ muốn và đừng từ bỏ đơn vị nghệ thuật mà họ đang là thành viên. Một nhà tài trợ, một nhà đầu tư như Yoo-oh Chun có quá khó tìm ở doanh nhân Việt Nam, tại Việt Nam? Hy vọng câu trả lời của tôi là sai: khó. Nguyễn Thế Thanh |
Nguồn: Người đô thị, ngày 30.4.2018.
Nhà viết kịch, nhà văn, đạo diễn Lộng Chương (1918-2003). Ảnh: Internet
Đạo diễn sân khấu là nghề chính thức hình thành, phát triển, trở nên “xương sống”của sân khấu Việt Nam hiện đại, được bắt đầu từ việc học bài bản của sinh viên người Việt, trong các học đường kịch nghệ uy tín tại châu Á, châu Âu, kết hợp sự miệt mài tự học của họ, từ kho tàng sân khấu cổ truyền Việt. Song, việc học và hành nghề đạo diễn đã chỉ diễn ra có ý thức hẳn hoi, mang tính chuyên nghiệp cao từ nửa sau thế kỉ 20, kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Đây là thành tựu xuất sắc nhất trong quá trình hiện đại hóa sân khấu Việt, và từ đây, đã hình thành 3 thế hệ vàng đạo diễn của sân khấu Việt hiện đại và trở thành thực tiễn sân khấu hàng đầu, rất đáng được nghiên cứu.
Nhân hội thảo 100 năm ngày sinh nhà viết kịch Lộng Chương, người tiền phong viết hài kịch ở Việt Nam, và diễn Quẫn của Trần Lực tại Nhà hát Lớn, đêm 7.1.2018, tôi thú vị nghiên cứu trường hợp: Quẫn, hài kịch sáng giá nhất của Lộng Chương, được hai đạọ diễn dựng thành công, dù giữa họ là khoảng cách tuổi tác rất xa. Đạo diễn NSND Trần Hoạt dựng Quẫn thành công cho Nhà hát Kịch VN, năm 1960, công diễn 2000 đêm. Đạo diễn NSUT Trần Lực dựng Quẫn thành công cho sinh viên trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh Hà Nội, tham gia Liên hoan sân khấu Hà Nội lần 2, năm 2016. Trần Hoạt và Trần Lực đã cùng thành công trên kịch bản Quẫn của Lộng Chương. Chính sự độc đáo chung nhất giữa hai đạo diễn, là cùng thiết kế bản dựng trên mỹ học sân khấu Chéo truyền thống, đã dẫn đến sự độc đáo riêng về phong cách của họ trong từng vở diễn…
Tôi về làm phóng viên-biên tập viên Tạp chí Sân khấu năm 1977, chưa được tận mắt xem bản dựng Quẫn cho Nhà hát Kịch VN rất thành công của đạo diễn Trần Hoạt. Cuối 1977, nhà viết kịch Xuân Trình, phụ trách Tạp chí Sân khấu đã tổ chức chuyến hành hương 3 người: ông, tôi và Linh Nga, phóng viên ảnh báo Nhân Dân, về tận nhà cụ Trần Hoạt ở làng Đình Bảng Từ Sơn, Bắc Ninh, cũng quê ngoại tôi, để đối thoại, chụp ảnh, lấy tài liệu từ chính Trần Hoạt, cho tôi dựng bài: Đạo diễn hài kịch Trần Hoạt. (Bài đã đưa vào sách “Sân khấu và tôi” của tôi và đoạt giải Sách Lý luận phê bình xuất sắc của Hội NSSK VN, năm 1995).
Nhân đây, xin nhắc lại câu chuyện lịch sử về đào tạo nghề đạo diễn ở Việt Nam. Năm 1954, Trần Hoạt là một trong số sinh viên đầu tiên được Nhà nước VNDCCH cử đến Học viện Hí kịch Bắc Kinh, Trung Quốc, (với Đình Quang, Ngô Y Linh, Nguyễn Đình Nghi, Dương Ngọc Đức, Ngọc Phương…sau này đều được Nhà nước phong tặng NSND), để học nghề đạo diễn kịch, qua hệ thống lý thuyết của C.Xtanhixlavxki, người Nga. Trước 1954 ấy, người Trung Quốc đã sang học nghề đạo diễn từ các đại học sân khấu của nước Nga xô-viết, truyền giảng cho sinh viên đạo diễn Việt, học tại Học viện Hí kịch Bắc Kinh. (PGS.TS Romanov, người hướng dẫn luận án tiến sĩ của tôi, bảo vệ tại Viện Sân khấu, Điện ảnh, Âm nhạc St-Petersbourg, SNG, năm 1992, đã chuẩn xác đặt tên trường hợp đào tạo đặc biệt này, là“Kitaixki variant”(dịch: “trường hợp Trung Quốc”).
Sau học đạo diễn ở Trung Quốc, với tài năng bẩm sinh, kinh nghiệm sân khấu dày dặn và sự tích lũy đời sống thực tế dồi dào, Trần Hoạt đã ở lại Việt Nam, không du học Đông Âu, để tự mình chiêm nghiệm và khai thác nguồn sân khấu dân gian từ chèo cổ, tuồng cổ, đặng làm giàu cho nghề đạo diễn. Ông tự thấy: mình sinh ra để làm đạo diễn. Từ cách học nghề độc đáo ấy, ông tìm được thành công về một thể loại sân khấu Phương Tây rất hiếm thành công ở Việt Nam, đó là hài kịch. Phương pháp đạo diễn của Trần Hoạt, về căn bản, được chính ông xây cất trên nguyên liệu dân gian tươi rói tính hội hè làng quê của chèo cổ, tuồng cổ, dân ca quan họ Bắc Ninh, lại là nơi ông chôn nhau cắt rốn: làng Đình Bảng, vùng Kinh Bắc, cái nôi của văn minh Đại Việt. Làng có ngôi đình cổ đẹp nhất châu thổ sông Hồng, chính danh Đình Đình Bảng, nơi phát tích vương triều nhà Lý, với Đền Đô uy nghi thờ 8 vị vua nhà Lý. Về nghệ thuật sân khấu truyền thống, ngôi làng hào hoa ấy là một trong ba cạnh của tam giác tuồng ở Bắc Ninh: Đình Bảng - Tam Lư - Đồng Kỵ. Ông thân sinh Trần Hoạt mê tuồng, có riêng một phường tuồng trong nhà. Sinh trưởng ở vùng đất đế đô hào hoa ấy, Trần Hoạt cảm nhiễm sân khấu dân gian Việt từ sớm và nổi máu lãng tử cũng rất sớm. Mê lang bạt kì hồ từ Bắc vào Nam, ông thâu góp cho nghề đạo diễn của mình một vốn sống hiện thực ứ đầy các mảng đời, các loại tính cách Việt, với nhiều nghiệm sinh được thiết lập tự nhiên trên nền dân gian (folklo) Việt cổ. Sẵn tài năng trời phú, Trần Hoạt đã thâu lượm cả vào việc hành nghề đạo diễn thể loại kịch hiện đại và loại hình: tuồng, chèo truyền thống. Song, thành công lớn nhất của ông lại thuộc về thể loại hài kịch.
Và cuộc hạnh ngộ sân khấu lớn nhất đời ông chính là với nhà viết hài kịch Lộng Chương, để từ đó làm nên những vở hài kịch lớn nhất trong sự nghiệp đạo diễn suốt đời ông. Trần Hoạt và Lộng Chương đều quan niệm: “Việt hóa” thể loại hài kịch - có bản nguyên từ hài kịch Tây, phải/nên mang đậm sắc thái hồn Việt. Bởi vậy, hài kịch Việt, với cả hai ông, là tích hợp văn hóa-nghệ thuật giữa hề chèo Việt và tính hiện đại của nghệ thuật trào lộng trong hài kịch Tây. Thống nhất quan niệm chung ấy, nhà viết Lộng Chương-nhà đạo diễn Trần Hoạt đã xuất hiện như một cặp bài trùng hài kịch làm rạng rỡ sân khấu Việt hiện đại những năm 60,70 thế kỉ 20. (Rất tiếc, kiểu cặp đôi hài kịch tác giả-đạo diễn xuất sắc này chưa từng lặp lại trong sân khấu Việt hiện đại, dù đã hiện diện hơn một cặp đôi nhà viết kịch-đạo diễn chính kịch, bi kịch). Với phong cách đạo diễn kết hợp hề chèo và hài kịch hiện đại nhuần nhị, độc đáo, tân kì, có thể nói, ngoài Trần Hoạt lúc bấy giờ, khó ai dàn dựng xuất sắc đến thế, vở hài kịch sáng giá nhất của Lộng Chương: Quẫn.
Dựng Quẫn cho NH Kịch Việt Nam tung hoành trên sân khấu những năm 60,70 thế kỉ 20 với hàng ngàn buổi diễn, Trần Hoạt đã khẳng định, Quẫn là vở hài kịch đỉnh cao: từ kịch bản hoàn hảo, tạo cơ sở mỹ học về hài kịch cho ông bay bổng trong dàn dựng và thể hiện rực rỡ tài nghệ sắm vai kịch của dàn nghệ sĩ “gạo cội” của NH Kịch VN: Song Kim, Trần Tiến, Chu Xuân Hoan, Thu Hà…Về nghệ thuật đạo diễn, Quẫn là thành công lớn của Trần Hoạt, thể hiện rất mạnh phẩm chất tư duy đạo diễn mảng miếng, mang phong cách đạo diễn bậc thầy về hài kịch. Với kinh nghiệm sân khấu dân gian đầy mình,Trần Hoạt đã thâu hóa sâu sắc kiến thức kinh điển của sân khấu Nga, qua việc tiếp nhận hệ thống Xtanhixlavxki từ Bắc Kinh, để đạt tới một kiểu lao động đạo diễn theo cách tự nghiệm sinh, mà sau ông, Doãn Hoàng Giang là đạo diễn kế tục xuất sắc. Vì thế, Trần Hoạt là người đầu tiên nhận đường nghệ thuật đạo diễn, với tất cả nét riêng độc đáo, trong cuộc “Việt hóa” một nghề chưa từng có ở sân khấu hiện đại VN - nghề đạo diễn hài kịch, và đã xuất sắc thành công, bằng con đường tu tập độc lập của riêng mình.
Hai. Trần Lực dựng Quẫn theo phương pháp ước lệ của Chèo
Dựng Quẫn sau thành công vang dội của Trần Hoạt, sau gần 60 năm, Trần Lực biết mình thuộc thế hệ đạo diễn mới, khác, đương nhiên phải đối đầu với thách thức lớn: làm sao dựng Quẫn, mới và khác Trần Hoạt. Cách này buộc phải tân kì với người xem Thủ đô thế kỉ 21, đã chẳng mấy mặn mà với cả hài kịch, chính kịch và bi kịch. Sân khấu hiện đại Việt hôm nay đã trôi qua thời hoàng kim của chính mình, đã để lại thời đó trong quá khứ, từ thập kỉ 80 của thế kỉ trước. Và vẫn còn đó sự khủng hoảng người xem, trong cảnh đứt mạch sân khấu kịch trường vốn phải sáng đèn hàng đêm, nhất là ở những đô thị lớn của Việt Nam.
Dựng Quẫn trong sự ngặt nghèo ấy, quả là thách thức sinh tử về nghề đạo diễn.
Tuy nhiên, Trần Lực có cơ may được học nghề đạo diễn kịch tại đại học sân khấu Bulgaria, và thuộc dạng”con nhà nòi”: cha là đạo diễn NSND Trần Bảng, một trong số đạo diễn xuất sắc của công cuộc bảo tồn, phát huy sân khấu chèo truyền thống. Và như vậy, dường như Trần Lực đã có máu đạo diễn từ trong huyết thống!
Và có thể, từ Bulgaria về Việt Nam, khi chưa có cơ duyên với nghề đạo diễn kịch, Trần Lực đã rẽ sang điện ảnh. Song, chính Trần Lực hiểu rằng, nghề đạo diễn sân khấu đã như một cơ duyên phải được chờ đợi và phải được trùng phùng, khi Trần Lực cả quyết chọn dựng Quẫn, một kịch bản dường như được chuẩn bị sẵn về văn bản, để hiện thực hóa giấc mơ đạo diễn của chính mình, theo phương pháp ước lệ của sân khấu chèo.
Bằng chính phương pháp ấy,Trần Lực tìm được cách dựng độc đáo cho Quẫn của Lộng Chương. Có thể chắc rằng: trong kịch bản Quẫn, Lộng Chương đã viết một giáo đầu mang tính chỉ dẫn đặc biệt đối với đạo diễn nào có phương pháp tư duy tương ứng, tương cầu với nhà viết kịch. Và chính “Giáo đầu” ấy đã mở cửa mời đạo diễn dàn dựng Quẫn của ông, với chỉ dẫn thật gan ruột của nhà viết kịch:
Làm sao cho kịch nói Việt Nam có sắc thái Việt Nam? Từ lâu, tôi thường suy nghĩ tìm tòi để giải quyết vấn đề đó.
Tôi đã nghĩ và tìm đến Chèo.
Vì Chéo đã hấp dẫn tôi với tinh thần lạc quan đặc biệt, với tính chất châm biếm sâu sắc, với cả tính chất trữ tình hồn hậu nhẹ nhàng.
Viết vở Quẫn, tôi chú ý vận dụng một số đặc điểm của Chéo, đã thể nghiệm trong thực tế: Sự giao lưu thoải mái giữa các vai trò và khán giả, sự dẫn dắt tích truyện, cấu tạo những vai hề, và ngôn ngữ Chèo với tinh thần truyện Tiếu lâm vv…Tôi còn chú ý đặc biệt đến những vai hề - cơ sở châm biếm trào lộng của Chèo – vì đây là một vở hài kịch.
Vậy, một khi Quẫn được chính Lộng Chương thừa nhận là đã viết trong từ trường hấp dẫn lớn lao và sâu sắc của tích chèo dân gian truyền thống, thì đương nhiên, câu hỏi dựng đứng trước Trần Lực, phải là: Tại sao không dùng chính phong cách ước lệ của sân khấu chèo, trong cái dàn dựng kịch bản Quẫn? Bởi, trong cái viết, chính tác giả Quẫn đã muốn thế: vì đây là một vở hài kịch,(…) chú ý đặc biệt đến những vai hề - cơ sở châm biếm trào lộng của Chèo.
Phải nghiệm sinh về đời sống, về sự khác biệt và tương đồng giữa hài kịch phương Tây với Hề chèo Việt Nam, chịu nghĩ suy sâu sắc về những nghiên cứu Chèo của Trần Bảng, người cha uyên bác, từng chứng kiến người cha đạo diễn của mình nghiền ngẫm, suy tư và 3 lần thay đổi mô hình thẩm mĩ trong suốt nửa thế kỉ, mới dựng được vở chèo Quan Âm Thị Kính, được công chúng Việt và châu Âu thán phục, Trần Lực mới đủ quả quyết chọn dựng hài kịch Quẫn của Lộng Chương, trong sự hợp lưu đẹp đẽ giữa dung dáng kinh điển của Chèo Việt Nam, với sự hiện đại của hài kịch Tây, và thành công ngay trên sân khấu Hà Nội thủ đô năm 2016.
Thành công gây ấn tượng mạnh nhất về đạo diễn của Trần Lực, khiến cho khán giả có cái để xem, chính là xử lý không gian sân khấu theo cách tối giản của Chèo.
Sàn diễn của vở diễn hầu như trống rỗng. Từ đầu đến cuối vở diễn, chỉ có chiếc rương giấu đầy vàng đặt ở vị trí trung tâm sàn diễn. Mọi điều đáng cười mang tính hài kịch, đều diễn ra trên/dưới/xung quanh/ chiếc rương mấu chốt đó và không gian/thời gian vở diễn thay đổi/ biến ảo thần kì theo diễn xuất nhân vật của diễn viên, đúng theo cung cách ước lệ của Chèo: các nhân vật đối thoại, nói năng thuận theo theo ngữ điệu trầm bổng như hát và các động tác tả thực của nhân vật hài kịch kiểu Tây đều được nâng thành vũ đạo kiểu Chèo. Những màn trình diễn trên sự thăng hoa hình thể và trau chuốt đài từ sân khấu như hát, trên nền giai điệu tân kì của lời bài hát “Tăng gia sản xuất” cứ lặp đi lặp lại, biến tấu linh hoạt theo kịch tính của từng phân đoạn, đã khiến diễn xuất của diễn viên sắm vai bà cụ Đại Lợi trở nên bay bổng về tạo hình, gây những đợt sóng cười không dứt từ phía khán giả. Vai Đại Cát cũng rất thành công. Diễn viên Mạnh Đạt vững vàng trong cách xử lý nhân vật trên tinh thần biến hóa sinh động của một kép Chèo, nhưng cách cấu tạo vẻ ngoài của nhân vật với những đoạn hát múa lọc lõi tinh vi, đã khiến Mạnh Đạt được đích đáng một huy chương vảng duy nhất của vở diễn cho vai diễn này. Thực ra, xét về huy chương vàng, có thêm một Vàng nữa cho vai cụ bà Đại Lợi, theo tôi là xứng đáng…
Rõ ràng, Quẫn của Trần Lực là cuộc trình làng đích đáng về nghệ thuật đạo diễn. Phong cách ước lệ chiết xuất từ Chèo truyền thống Việt, kết hợp Hài kịch Tây, đã đủ khiến Trần Lực tạo thành một cấu trúc vở diễn nhất quán, từ xử lý không gian sân khấu, âm nhạc kết hợp nhạc Việt với những bản nhạc hiện đại của nước ngoài, đến tiếng động (của những bước chân rầm rập), từ vũ điệu hình thể đến tiếng nói sân khấu của diễn viên. Và một vở hài kịch kiểu Việt đã hiện diện, vừa có cái để xem, để nghe-nhìn, để nghĩ suy, khi cánh màn nhung sân khấu đã khép. Dấu ấn đạo diễn Trần Lực mạnh đến mức có thể gọi đây là vở diễn của đạo diễn, dù ở vở diễn thành công kiểu này, có nguy cơ diễn viên trở thành quân cờ trong tay đạo diễn, nhất là diễn viên - sinh viên? Nhưng đêm diễn Quẫn, 7.1.2018, với sự điều hòa nhạy cảm của đạo diễn Trần Lực, sự xuất hiện mới của NSND Lê Khanh trong vai bà Đại Cát, dung dáng Chèo của vở hài kịch Quẫn đã trở nên hoàn hảo...
Vĩ thanh:Những người từng xem 2000 đêm diễn Quẫn của đạo diễn Trần Hoạt, đã nhiều người không còn và Quẫn đã thành dấu ấn của một thời huy hoàng sân khấu. Trần Lực dựng Quẫn với một dàn diễn viên trẻ, là sinh viên, chưa tốt nghiệp đại học. Họ còn ngây thơ và non nớt trong nghề diễn, nhưng chính họ đã và sẽ giúp Trần Lực trưởng thành nghề đạo diễn và họ cũng tự trưởng thành trong nghiệp diễn. Đây cũng là phương pháp tốt nhất hiện nay để sân khấu Việt hiện đại đi tìm người xem trẻ và người xem đã mất, nói chung. Và có lẽ cũng là phương pháp thật tốt về đạo diễn, nhằm vươn tới tính hài kịch của một vở hài kịch tử tế, chứ không phải cái Hề nhảm đang gia tăng trên sân khấu sàn diễn của nhà hát, rạp hát, đặc biệt là trên sân khấu truyền hình hôm nay. Đơn giản, vì cái Hề nhảm ấy không phải cái Hài kịch đúng nghĩa tử tế phải có của sân khấu hiện đại Việt thế kỉ 21!
Đầu năm mới 2018, HN-SG
PGS.TS.Nguyễn Thị Minh Thái
Trong sân khấu nói chung và kịch nói nói riêng, các yếu tố nghệ thuật tạo hình có vai trò quan trọng trong quá trình sáng tạo, xử lý không gian, thời gian của vở diễn. Một vở diễn thành công là vở diễn có các tạo hình sân khấu độc đáo, gây ấn tượng về thị giác, thính giác và cảm xúc thẩm mỹ đối với khán giả.
Nghệ thuật kịch nói xuất hiện muộn nhất ở nước ta so với các kịch chủng khác, tuy nhiên với những đặc trưng ngôn ngữ thể loại riêng biệt, loại hình nghệ thuật này đã có những bước tiến nhanh chóng, bắt nhịp song hành với thời cuộc trong nhu cầu thưởng thức sân khấu của khán giả Việt Nam.
Nghệ thuật tạo hình trong sân khấu kịch nói được xem như một phương thức tạo ra hình hài của tác phẩm về cả mặt nội dung và hình thức. Đây là công việc được hình thành từ ý đồ của đạo diễn, thể hiện bằng nghệ thuật diễn xuất của diễn viên cùng sự hỗ trợ của các hình thức nghệ thuật phụ trợ như: mỹ thuật, âm nhạc, ánh sáng, âm thanh. Không gian, thời gian sân khấu được hình thành từ 3 nhân tố cơ bản: sự kiện kịch, xung đột kịch, hành động kịch. Chúng trở thành nhân tố tổng hợp, là một trong những nền tảng cơ bản và không thể thiếu của nghệ thuật sân khấu.
Nói về không gian sân khấu, một mặt người ta nói đến không gian được quy định trong vở diễn, nơi nhân vật va chạm nhau, va chạm với các sự kiện, sự cố, hoàn cảnh, tạo ra xung đột và giải quyết xung đột kịch; mặt khác, nói tới không gian vật chất, nơi diễn ra vở kịch. Ngày xưa, các vở diễn thường diễn ra trên manh chiếu ngoài sân đình, ngày nay, diễn trong rạp hát hoặc trên mô hình sân khấu được dựng lên ở một địa điểm nào đó.
Còn nói đến thời gian sân khấu là đề cập đến thời gian trong cốt truyện, thời gian diễn tiến của vở diễn. Đồng thời đó cũng là thời gian vật chất, quy định độ dài của vở diễn. Trước đây, một vở diễn có thể kéo dài đến vài đêm, khi ra đời luật tam duy nhất (duy nhất địa điểm, duy nhất thời gian, duy nhất hành động), vở diễn chỉ được diễn ra trong một đêm. Tức, diễn biến cuộc đời nhân vật trong kịch cũng chỉ diễn ra trong một đêm diễn. Hiện nay, mỗi vở diễn thường dài từ 2 - 3 tiếng.
Mizangxen (những cảnh diễn) là hiệu quả của quá trình xử lý nghệ thuật không gian, thời gian trên sân khấu. Mặt khác, nghệ thuật không gian, thời gian sân khấu tạo nên sự vận động của xung đột, hành động kịch thông qua nhân vật.
Quá trình dàn dựng một tác phẩm sân khấu là quá trình ngôn ngữ hóa ngôn ngữ văn học thành ngôn ngữ sân khấu, đồng thời cũng là quá trình tạo hình vở diễn theo quan điểm sống, trình độ, kinh nghiệm, phông văn hóa, thẩm mỹ của đạo diễn. Cùng với những sáng tạo của nghệ thuật diễn xuất, dần dần hình hài của vở diễn được hình thành, ra mắt công chúng với những tạo hình gắn kết, đúc liền.
Nghệ thuật kịch nói với đặc trưng thể loại đã tạo nên những tạo hình sân khấu độc đáo, khác với tạo hình sân khấu khác. Chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ vấn đề này ở những khía cạnh sau:
Nghệ thuật tạo hình trong dàn dựng của đạo diễn
Nói đến quá trình xây dựng hình tượng của vở diễn trên sân khấu, người ta thường nhắc đến công việc của đạo diễn với tư cách là người chịu trách nhiệm chính. Đạo diễn được ví như nhạc trưởng trong dàn nhạc.
Dàn cảnh là quá trình sử dụng ngôn ngữ sân khấu để tạo hình vở diễn, là phương tiện để thể hiện ý đồ, nội dung, cảm xúc của đạo diễn. Tác giả Trần Minh Ngọc đã khẳng định: “Người đạo diễn chỉ có thể thực hiện ý đồ của mình thông qua dàn cảnh. Đó là cách nhìn, cách suy nghĩ có tính tạo hình của đạo diễn đối với hành động kịch” (1). Như vậy, đạo diễn phải có óc sáng tạo, trí tưởng tượng, tư duy logic mới có thể dàn dựng được những lớp kịch thể hiện sự xung đột, mâu thuẫn một cách sống động, chân thực. Lúc này, nhân vật của vở diễn không nằm trên trang giấy nữa mà xuất hiện trên sàn diễn với đầy đủ tính cách, quan hệ xã hội, hoạt động của anh ta. Nhân vật di chuyển, trò chuyện, hành động từ lớp kịch này sang lớp kịch khác, thúc đẩy sự vận hành của nội dung câu chuyện từ đầu đến khi kết thúc… Tất cả đều được dàn dựng dưới bàn tay, khối óc của đạo diễn. Mỗi mizangxen như một bức tranh động, không thể thiếu trong nghệ thuật tạo hình về cuộc sống con người trên sân khấu. Mọi hành động diễn của diễn viên đều phục vụ mục đích tạo hình nhân vật...
Để xây dựng hình tượng vở diễn, đạo diễn phải có những ý đồ về hình tượng nhân vật, không gian, thời gian sân khấu, xử lý mizangxen, xử lý các sự kiện kịch, tạo hình vở diễn. O.J. Remez đã nói rằng, hầu như ý đồ tạo hình của đạo diễn thường bắt đầu bằng hình ảnh thị tượng (nhìn thấy được) của sự kiện trung tâm của vở kịch (2). Có thể nói, nghệ thuật tạo hình chính là một phương tiện để người đạo diễn xây dựng hình tượng của vở diễn sân khấu kịch nói.
Nghệ thuật tạo hình trong xây dựng hình tượng nhân vật của diễn viên
Xây dựng hình tượng nhân vật là nhiệm vụ quan trọng nhất của diễn viên trên sân khấu. Diễn viên đứng trên sân khấu thể hiện vai diễn, anh ta không thể đơn thuần minh họa kịch bản, mà phải bằng khối óc, trái tim, tư duy phân tích vai diễn để xây dựng hình tượng nhân vật trên sân khấu. Hình tượng nhân vật là cái mà khán giả nhìn và cảm nhận được khi theo dõi vở diễn. Hình tượng nhân vật làm cho khán giả nhớ đến vở diễn, nhân vật, diễn viên. Xây dựng thành công hình tượng nhân vật là điều mong ước của tất cả diễn viên, thể hiện quá trình phấn đấu lâu dài, gian khổ. Trên sân khấu kịch nói Việt Nam, có nhiều diễn viên mà khi nhắc đến nhân vật khán giả nhớ ngay đến họ. Đó là Nguyệt Ánh với vai diễn Nina (trong Nina, cô gái đánh trống trận), Masa (trong vở kịch cùng tên), Can Trường, Mạnh Linh với vai diễn Lê nin (trong hàng loạt vở kịch nói về cách mạng tháng Mười của Liên xô cũ), Đào Mộng Long với vai người tư sản (trong Chuông đồng hồ điện Kremli)... Mikhoenxo, một diễn viên sân khấu nổi tiếng người Nga nói rằng, muốn sáng tạo hình tượng thì mỗi diễn viên phải: nhìn, nghe, sờ thấy hình tượng. Do đó, muốn làm công việc sáng tạo, xây dựng hình tượng thì diễn viên phải làm chủ bản thân, làm chủ những phẩm chất của mình, trong đó có cơ thể và ngôn ngữ hình thể (3). Như vậy, diễn viên phải thể hiện hình tượng bằng các hệ thống động tác, cử chỉ, hành động tạo hình sao cho phù hợp với tư tưởng của nhân vật. Xtanilapski đã cho rằng, một trong những hình thức, phương tiện thể hiện quan trọng nhất của diễn viên là động tác hình thể, cử chỉ, hình dáng, những yếu tố không thể thiếu để sáng tạo hình tượng nhân vật trên sân khấu (4).
Tóm lại, diễn viên phải dùng bản thân mình để diễn xuất, để tạo ra nhân vật hay nói cách khác, chính diễn viên phải tạo hình cho nhân vật, từ tư tưởng đến sự thể hiện ra bên ngoài. Nghệ thuật tạo hình trong xây dựng hình tượng trên sân khấu được nhìn thấy rất rõ và có tầm quan trọng rất lớn trong công tác xây dựng hình tượng nhân vật của diễn viên. Đó là phương tiện sáng tạo của diễn viên trên sân khấu, ngôn ngữ hình thể cũng là công cụ để người đạo diễn xử lý các kỹ thuật dàn dựng. Ngôn ngữ hình thể được biểu hiện bằng cử chỉ, động tác của diễn viên và có thể thấy sự tạo hình của các động tác, của ngôn ngữ hình thể của diễn viên thông qua nhân vật trên sân khấu. Vậy có nghĩa là tạo hình của ngôn ngữ hình thể là điều kiện cần và đủ cho việc sáng tạo ra những sản phẩm nghệ thuật trên sân khấu kịch nói.
Ngôn ngữ hình thể đóng vai trò quan trọng và thú vị bởi khả năng biểu cảm của nó. Nằm trong hệ thống ngôn ngữ của con người nên nó mang đầy đủ các chức năng của ngôn ngữ. Tùy vào từng hoàn cảnh mà nó bộc lộ sự mạnh, yếu của các chức năng: chỉ nghĩa, thông báo, khái quát hóa. Ngôn ngữ hành động với khả năng bộc lộ thông tin, cảm xúc, tính cách, cá tính... là cơ sở để diễn viên vận dụng, khai thác trong tạo hình nghệ thuật.
_____________
1. Trần Minh Ngọc, Cơ sở lý luận và kỹ thuật đạo diễn sân khấu, Trường Nghệ thuật Sân khấu II, 1993.
2. O.J.Remez, Nhập môn nghệ thuật đạo diễn, Hoàng Sự dịch, Nxb Gitis, Moskva, 1987, tr.113.
3. Mikhoenxo, Lao động diễn viên, Nguyễn Nam dịch, Nxb Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, 2015, tr.97.
4. Đào Mạnh Hùng, Nghệ thuật diễn viên kịch - điện ảnh, Nxb Văn học, 2015, Hà Nội, tr.30.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 406, tháng 4 - 2018
Phiên bản trực tuyến, ngày 13.4.2018.
-----------------
([1]) Nội Các triều Nguyễn, Khâm Định Đại Nam Hội điển Sự lệ, bản dịch của Viện Sử học, NXB Thuận Hoá, Huế, 1993, tập 9, tr.221.
(2) Theo nội dung tấm bia bên phải trước sân Từ đường.
(3) - Đoàn Nồng, Sự tích và Nghệ thuật Hát Bộ, Mai Lĩnh xuất bản, 1942, tr.26.
- Nguyễn Đắc Xuân, Vài Tài liệu về Hát Bội triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu Việt Nam, số 1/1966, tr. 34 - 35
(4) Theo NSƯT La Cẩm Vân, GĐ Nhà hát Nghệ thuật Truyền thống Cung đình Huế, PV ngày 26/6/2007.
(5) Lộng Chương, Tìm hiểu nghệ thuật hát Tuồng qua những bài văn giỗ tổ, Tạp chí Sân khấu số 3/1976, tr.77, dẫn theo Nguyễn Huy Hồng, Truyền thống Sân khấu Huế, tr.14.
(6) Đoàn Nồng, sdd, tr.63.
(7) Tuần lý Huỳnh Khắc Dụng, Hát Bội, Théatre Traditionnel du Vietnam, Kim Lai Ấn quán, Sài Gòn, 1970, tr. 268.
(8) - Trần Đại Vinh, Tín ngưỡng Dân gian Huế, NXB Thuận Hoá, Huế, 1995, tr. 150 - 152.
- Huỳnh Đình Kết, Tục thờ thần ở Huế, NXB Thuận Hoá, Huế, 1998, tr.38.
(9) Sau khi các y trang bị “vứt bỏ”, ban tổ chức bố trí người nhặt lại rồi dùng một mâm lễ cau trầu rượu chuộc lại những y trang này để nghệ nhân tiếp tục hành nghề.
Ảnh: Phương Quang và Thanh Vy trong vở Nàng Xê Đa (ảnh: H.K)
Sau năm 1975, cải lương có đôi chút thay đổi, nhưng rồi lại hoạt động sôi nổi. Nhiều vở hay, vai diễn để đời, nhiều nghệ sĩ tiếp tục bật sáng.
Vé chợ đen
Có một điều rất lạ, giai đoạn này dù là thời bao cấp khó khăn, thậm chí phải ăn độn, nhưng khán giả TP.HCM vẫn ùn ùn đi xem cải lương. NSND Diệp Lang kể: “Vé vừa bán một, hai tiếng đồng hồ đã hết sạch. Chợ đen thì giá gấp 3 - 4 lần. Hồi đó nghệ sĩ có tiêu chuẩn 1 cặp vé mời, nhưng anh em tuồn ra ngoài bán chợ đen vì lương thấp lắm, nghèo lắm. Nhưng nghèo thì nghèo, lên sân khấu là phấn khởi, vì có tuồng hát cả trăm suất vẫn còn đông, thậm chí cả ngàn suất như Nàng Xê Đa, Ngao Sò Ốc Hến...”.
|
Nguồn: Báo Thanh niên, ngày 5.4.2018.
Sân khấu Tuồng cung đình Huế qua Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng sơn là cuộc đấu tranh chính trị, đề cao những vấn đề quốc gia đại sự, những cuộc xung đột giữa chính và tà, trung và nịnh trong triều đình phong kiến. Các nhân vật chính, nhân vật trung tâm luôn phải trải qua một quá trình bị đặt trong tình thế phải lựa chọn. Chính vì vậy, tâm lý của nhân vật luôn xung đột, bởi luân thường đạo lý xoắn quanh tâm trí họ. Do đó, khi xây dựng các kịch bản sân khấu Tuồng cung đình nói chung, hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng, ngoài hệ thống nhân vật trong không gian cung đình được lồng ghép theo kiểu đan xen nhau, thì trong vòng xoáy kìm tỏa của chế độ phong kiến, giới quan lại triều đình nhà Nguyễn cũng đã song song xây dựng bao quát một hệ thống nhân vật thông qua tính cách và hành động của từng nhân vật cụ thể.
Nghệ thuật khắc họa tính cách
Nhân vật trong tất cả các kịch bản văn học Tuồng cung đình Huế, luôn được khắc họa tính cách theo kiểu một chiều. Không có nhân vật ban đầu tốt, sau trở thành xấu và ngược lại. Cũng như vậy, đặc trưng tính cách của các nhân vật trong hai vở Tuồng cung đình Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn không có sự biến chuyển, đây là sự khẳng định rất rõ ràng thông qua nội dung của các kịch bản Tuồng.
Phàn Định Công trong Tuồng Sơn Hậu tính khí trung trực, quả cảm và nóng nảy, ông luôn có suy nghĩ khác người, bởi vậy khi nghe Tạ Thiên Lăng cướp ngôi vua ông đã chặt đầu tên sứ quan của triều ngụy đến dụ hàng, lấy máu nó đề cờ phục quốc.
(Chư tướng) Truyền đặt bàn quỳ tế ngũ phương
Lấy huyết sứ đề cờ phục quốc
Truyền khanh đẳng trai minh thịnh phục1
Trước là trả thảo tiên hoàng
Sau đặng tròn niềm thần tử.
Quân vừa kéo đi thì một ngọn gió thổi gãy cờ. Có người cho rằng đó là điềm chẳng lành, khuyên ông hoãn binh. Ông nói, cờ của ông là cờ chính nghĩa, thánh thần phải phù hộ, gió kia là ma quỷ, là tà khí, ta bất chấp nó. Đi một đoạn nữa, ông nhận được mật thư của Lê Tử Trình, nội dung thư bảo ông chưa nên động binh, hãy chờ cứu được mẹ con thứ hậu ra khỏi nơi tử tù đã. Ông giận thư kia đến muộn, nên nếu rút lui lúc này là mất nhuệ khí quân lính. Ông ngã ngựa và hộc máu. Tướng sĩ can gián, ông quát tiến quân, rồi lại hộc máu và ngã ngựa. Lại có người can ông, nhưng ông vẫn nhảy lên lưng ngựa ra lệnh ai can gián sẽ chém đầu. Rồi lần thứ ba ông ngã, hộc máu và chết. Một cái chết đầy hùng khí.
Thiên dĩ táng, thiêng dĩ táng!
Khí lực suy khi lực suy!
(Thương hại) Gắng sức già lên ngựa ba phen
Trời chẳng độ, Tề triều ắt mất
Ngưỡng thiên nhi đoản thán
Phủ địa dĩ trường thanh2
(Diệm nhìn mặt cha cho tường a con)
Ngựa Khương Dung giấu để ngoài thành
Cốt Phàn thị sớm chôn Sơn Hậu.
Cũng như vậy, tính cách bộc trực nhưng khẳng khái của Khương Linh Tá chính là tiền đề cho những thắng lợi của phe trung thần, bởi vì ở con người này mỗi câu nói trong lúc lâm nguy luôn thể hiện tính cách dứt khoát và quyết liệt:
Khuyên yêng đừng thoái chí
Hãy gắng sức anh hùng
Yêng hãy phòng hoàng tử, thứ cung
Mà ra chốn ải quan đặng trước
Ví dù Tạ tặc
Binh mã tiến truy
Đã có chước giải nguy
Mặc tài tôi ngăn trở
Sức này dù xô ngã
Yêng chạy đã xa đường
Khi nhân vật bộc lộ cá tính của mình, ngôn ngữ thường chứa đựng nhiều thông tin, với nội dung chân thực, chính xác nhằm khắc họa sâu sắc tính cách của nhân vật. Để nói thế nước đang trong cơn nguy khốn và sự thiếu vắng những trung thần vì vua vì nước, Đổng Kim Lân than:
Cơ nghiệp tề chẳng khác trứng trồng
Binh quyền Tạ dường như đã gác”
...
“Chim muốn bay hiềm vì thiếu cánh
Rắn muốn chạy ngại nổi không đầu”
...
“Thành nghiêng không kẻ đắp
Lũy mỏng thiếu người bồi
Và Đổng Kim Lân cùng Khương Linh Tá đã thề nguyện:
Phơi gan đắp lũy
Lột da bồi thành”
Triệu Khắc Thường khinh bỉ những kẻ hèn nhát:
“Thế cũng đòi lên ngựa cầm đao
Về mà vận yếm đào cho tiện
Cũng như vậy, trong vở Tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn Tạ Ngọc Lân đã khen tính cách của Triệu Tư Cung:
Biết ngựa hay bởi tại đường dài
Quả cây đắng đã sinh trái ngọt.
Trong mỗi kịch bản sân khấu Tuồng cung đình Huế nói chung, hai Vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng, tính cách nhân vật thường được khắc họa thông qua động tác biểu diễn của nhân vật trên sân khấu. Đây có thể coi là kiểu kích thích tình cảm trong diễn xuất của nhân vật. Trong đoạn Khương Linh Tá quan sát giặc chuẩn bị chiến đấu:
Binh theo đường gió
Tướng đuổi tựa mưa
Đoái trước sau chỉ có mình ta
Tưởng cô thế khôn ngăn ba gã
Luận theo đường hổ
Ra sức tranh long.
Khi diễn viên sử dụng múa để nhằm tô đậm tích cách nhân vật, thường chọn những điểm nhấn của lời văn mang tính hình tượng để biểu hiện, Tạ Ngọc Lân trong lớp sai Phương Cơ về triều đình thám thính đã cất giọng hát:
Thấy nói lòng mừng lật đật
Nghe rằng chân bước xung xăng
(Bây giờ)
Giả điên cuồng con xuống Trường An
Thông tin tức cha lên Trúc Tự.
Điều hạn chế khá quan trọng là các nhân vật chỉ xuất hiện và hoạt động chủ yếu trong mối quan hệ cang thường và biểu hiện những đức tính: Trung, Hiếu, Tiết, Nghĩa, còn cuộc sống riêng tư của con người ít khi được đề cập đến. Điều này xuất phát từ mối quan hệ xã hội, họ coi đó là những mẫu mực của xử thế, do đó những người làm nghề Tuồng khi trình diễn hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn thường nói:
+ Thông minh như con Cơ (Tạ Phương Cơ trong vở Ngọn lửa Hồng Sơn).
+ Ngay thẳng như Triệu Khắc Thường (Tuồng Sơn Hậu).
+ Tình bạn như Kim Lân - Linh Tá (Tuồng Sơn Hậu).
+ Đúng đắn như bà Nguyệt (Nguyệt Hạo trong Tuồng Sơn Hậu).
Những tính cách điển hình nói trên, là hình tượng nghệ thuật theo quan niệm của người nghệ sĩ, bởi họ đã biết cảm xúc ở mặt đạo đức xã hội về phẩm chất của con người: trung thực, giàu khí tiết, thông minh, dũng cảm, thủy chung. Từ quan niệm này, vấn đề riêng tư của nhân vật ít được đề cập đến cũng là một lẽ tự nhiên.
Khác với các loại hình sân khấu khác, đối với sân khấu Tuồng cung đình Huế mang chủ đề quân quốc, những người làm nghề Tuồng thường thuộc câu nằm lòng:
Người trung mặt đỏ đôi tròng bạc
Đứa nịnh râu đen mấy sợi còi.
Từ câu nói trên, người xem có thể nhận thấy tính cách của mỗi nhân vật trong Tuồng được thể hiện rõ ra bên ngoài khuôn mặt được hóa trang của diễn viên. Ở đây, tính cách của nhân vật được thể hiện rõ ở màu sắc với ba tông màu chủ đạo là đen - đỏ - trắng và thêm một số màu phụ trợ như: xanh, xám… Mỗi tông màu gắn với từng mô típ nhân vật cụ thể, như: mặt đen - đại diện cho sự rắn chắc; mặt trắng - vẽ sự bạc bẽo; mặt mốc - dành cho kẻ xu nịnh, phản trắc; mặt rằn - kẻ tướng mạo xấu xí, tính tình nóng nảy; mặt đỏ - tỏ rõ sự trung can nghĩa khí... Đồng thời, hàm chứa sâu sắc cái đẹp trong mỹ học dân tộc. Đối với hai vở Tuồng cung đình Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn, tính cách nhân vật cũng được khắc họa như vậy. Dưới đây là hình ảnh về khuôn mặt được kẻ bằng những họa tiết “mỹ thuật sân khấu” nhằm làm nổi bật tính cách của một số nhân vật trong hai vở Tuồng nói trên:
Trong hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn tính cách nhân vật cũng đã khắc họa thông của sự bộc lộ cá tính độc đáo của nhân vật, dù mỗi nhân vật có một tính cách khác nhau, nhưng nhìn chung tác giả đã xây dựng nhân vật dựa theo cốt truyện nhằm làm nổi bật nội dung để chuyển tải đến người đọc và người xem những lập trường, tư tưởng cũng như lý tưởng của nhân vật thông qua những cảnh, lớp, hồi của kịch bản.
Nghệ thuật khắc họa hành động
Trong hai kịch bản văn học Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn, mỗi hành động của nhân vật luôn được tác giả khắc họa theo qui chuẩn tâm lý đúng với thể loại sân khấu Tuồng cung đình. Trong đó, mỗi hành động của nhân vật được mô tả theo đúng tuyến tính không gian và thời gian, đó cũng chính là mấu chốt thành công của cốt truyện. Mịch Quang, trong Đặc trưng nghệ thuật Tuồng cho rằng: “...ở tuồng, với tính chất ngâm xướng quán triệt trong phong cách của nó, rất khó gây hứng thú chỉ bằng hát. Do đó, nếu văn học tuồng không chú trọng đến hành động, mà chỉ lao theo viết nhiều làn điệu cho mấy đi nữa cũng không thể tạo đất hoạt động cho diễn viên, không thể gây hứng thú cho nghệ thuật”.
Đối với tất cả các loại hình sân khấu, hành động là điều kiện quyết định cho sự thành công của vở kịch. Tuy nhiên, đối với đặc trưng nghệ thuật sân khấu Tuồng cung đình Huế, kịch bản luôn dồi dào tính hành động, và chính hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn là những vở Tuồng rất giàu hành động và xung đột. Sự việc diễn ra hầu hết là sự đấu tranh không điều hòa giữa hai lực lượng trung và nịnh dẫn đến sự kết thúc một mất một còn. Ở đây, hành động của nhân vật luôn được đẩy đến sự tột cùng của quyết liệt. Do đó, nhân vật nếu đã nổi giận thì giận đến long trời lở đất. Chúng ta thể có nhận thấy giận dữ của Phàn Định Công trong Tuồng Sơn Hậu khi nghe sứ thần của Tạ Thiên Lăng đến dụ hàng:
Vương Sứ:
Vâng lệnh thiên tử
Chiếu truyền dữ lão quan
Hồi bái yết thiên nhan
Đặng gia phong quyền tước
Phàn Định Công:
Nhìn chiếu chỉ quỳ tâm hưởng phúc
Để sắc văn yển thảo xuy phong3
(Chư tướng) Nay có chiếu trào trung
Truyền bài khai hương án.
Vương Sứ, (đọc chiếu):
Nhất gia nhân, nhất quốc hướng nhân
Nhất gia nhượng, nhất quốc hướng nhượng4
Tạ triều đình chiếu chỉ
Trẫm hiệu Thiên vương
Phàn Định Công:
(Sứ, Tạ vương là Tạ vương mô hè?)
Vương Sứ:
(Thưa, Tạ Thiên Lăng).
Phàn Đinh Công:
(Ải, ải) Thấy nói dầu sôi sùng sục
Nghe thôi lửa cháy bừng bừng
(Ấy vậy) Ngỡ Tề triều chiếu chỉ thì lão vâng
Nay Tạ tặc dụ ngô dường ấy?!
Kíp xé tan chiếu chỉ,
(Đao phủ quân)
Đao phủ nã xứ nhân
(Chư tướng!)
Truyền đặt bàn quý tế ngũ phương
Lấy huyết sứ đề cờ phục quốc.
Và cũng như vậy, những nhân vật trong các kịch bản Tuồng nếu đã khóc thì khóc đến xé lòng, đến chảy máu mắt; nếu là tiếng cười thì tiếng cười đến lộn ruột, nghĩa là những hành động tương phản cực độ. Ở đây, trong các kịch bản Tuồng, tiếng cười thường được xây dựng xung quanh hành động của các nhân vật như: quan xòi5, lính canh... điều này được thể hiện lúc Tạ Phương Cơ muốn vượt qua cổng thành về báo lại tình hình với cha mình, rằng Triệu Văn Hoán đã tiếm ngôi vua và cử Tạ Kim Hùng làm đốc tướng.
Hai lính canh:
(Con kia, đi đâu...?)
Phương Cơ:
(Dạ, em đi, em đi tìm chồng em... a ha hahaaaaa).
Hai lính canh:
“Ê, hắn đi tìm chồng mi ơi, con nhà ai mà xinh thế không biết, mà hình như hắn bị điên..., em ơi, chồng đây này, hiiiiiiiiiiiiii).
Con cu bay bổng qua sông
Hỏi thăm em bậu có chồng mà hay chưa.
Phương Cơ:
Có chồng năm ngoái (mà) năm xưa
Năm nay chồng chết nên chưa có chồng.
(A ha haaaaaaaaa, cho em qua bên nớ nghe anh, a haaaaaa).
Hai lính canh:
Có chồng không nói qua hay
Qua cho thúng bún, qua giùm quả xôi”
Phương Cơ:
“Có gì mà bún mà xôi
Hộp trầu chén rượu đã rồi hôm qua
Chạy qua ải
Hai lính canh:
Con này đã dại
Ta lại không khôn
Theo con này chặt lấy bàn chơn
Bỏ xuống ruộng cho cua nó kẹp.”
Có thể nói, dù chỉ là một cảnh, một lớp đi đường diễn ra ở cổng thành hay rừng núi, nhưng hành động của nhân vật chính là điểm ráp nối cho các kiểu xung đột trong nghệ thuật Tuồng nói chung và hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng.
Theo Mịch Quang, trong Đặc trưng nghệ thuật Tuồng: “Tính hành động là cái không thể thiếu được của các vở tuồng được truyền tụng, nhưng “tính hành động quyết liệt” lại chỉ là đặc tính trong một thời kỳ lịch sử nhất định của kịch bản tuồng, phản ánh thế giới quan của các nhà hoạt động tuồng đương thời và hoàn cảnh xã hội (thời cuối Lê đầu Nguyễn) vào khoảng thế kỷ từ XVI đến XVIII. Đến cuối thế kỷ XVIII, sang đầu thế kỷ XIX (nhất là tuồng của Đào Tấn) tính hành động tuy vẫn là một đặc trưng cơ bản, nhưng không còn gay gắt quyết liệt, mà lại lắng vào chiều sâu, thiếu về hành động tâm trạng”.
Với sự nhận định trên, hành động của các nhân vật trong Tuồng cung đình tương ứng với lịch sử ra đời của kịch bản Tuồng. Ở hai vở Tuồng Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn hành động tâm trạng của các nhân vật vẫn được đẩy đến tột độ, đó là những suy nghĩ của: Lê Tử Trình, của Đổng Kim Lân, của Tạ Ngọc Lân, của Triệu Tư Cung, của Lý Khắc Minh... tìm “phương cứu giải” khôi phục giang sơn đất nước trong tiếng thở dài độc thoại của bản thân cùng bóng đêm cô tịch.
Kịch tính và hành động của nhân vật luôn căng thẳng từ đầu đến cuối vở diễn. Then chốt của kịch tính là nằm ở những xung đột nội tâm hết sức quyết liệt của nhân vật. Trong Tuồng Sơn Hậu chúng ta có thể thấy hành động của nhân vật được khắc họa thông qua sự đấu tranh nội tâm một cách quyết liệt như: Khi Đổng Kim Lân đem binh đến đánh Tạ Thiên Lăng, nhưng thấy thế họ Tạ quá lớn đành phải quy thuận; Khương Linh Tá đem quân tới giúp Đổng Kim Lân, nhưng thấy Kim Lân đã trá hàng về với Tạ Thiên Lăng, cũng đành trá hàng theo; Thái giám Lê Tử Trình tuy trong lòng muốn bảo tồn dòng giống của vua tề, nhưng phải dâng ấn ngọc cho Tạ Thiên Lăng, để tranh thủ lòng tin của tên thái sư này; Kim Lân và Linh Tá lo lắng không biết Tử Trình có trung thành với vua cũ không nên phải thử lòng Tử Trình; Mẹ Kim Lân bị Tạ Ôn Đình bắt trói yêu cầu Đổng Kim Lân phải đầu hàng, mẹ Kim Lân không cho con đầu hàng, Kim Lân hẹn ba ngày xin bãi binh, hay tên Tạ Kim Hùng không đồng ý với cuộc sống cơ hàn, ngày ngày chăn trâu cắt cỏ cùng cha, cùng em gái, nên hành động bắt đầu cho những tội lỗi của hắn là đã bỏ nhà theo Triệu Văn Hoán khi tên này cướp ngôi vua và cho hắn làm đến chức đốc tướng. Khi Tạ Ngọc Lân giả đến xin ở với nó, nó đã hỏi cha nó có còn đủ sức để làm mấy việc vặt trong nhà không, nếu đủ sức thì múa vài đường quyền để nó xem gân cốt đã. Chỉ một hành động nhỏ bằng lời nói, nhưng ở đây kịch bản đã cho chúng ta thấy được sự bất nhân, bất nghĩa của Tạ Kim Hùng đối với cha mình.
Như vậy, đối với những vở Tuồng cung đình mang chủ đề quân quốc nói chung và hai vở Sơn Hậu vàNgọn lửa Hồng Sơn nói riêng, đặc trưng kịch bản sân khấu của nó là tác giả đã sáng tạo những hành động độc đáo của nhân vật khi đưa nhân vật đến những tình huống “ngã ba đường” như một biện pháp thường dùng để xây dựng nhân vật. Ngoài ra, các tác giả cũng có những biện pháp tạo nên những hành động độc đáo của nhân vật để khắc họa tính cách. Nói hành động độc đáo, tức là hành động của nhân vật ở đây khá đặc biệt với những người khác trong tình huống tương tự: đó là hành động của Phàn Định Công (trong Tuồng Sơn Hậu chém xứ thần, rồi ba lần ngã ngựa nhưng vẫn muốn về kinh thành hỏi tội Tạ Thiên Lăng khiến ông hộc máu và chết; hay hành động của Bích Hà tỳ nữ của Xuân Hương (trong TuồngNgọn lửa Hồng Sơn) tự nguyện hy sinh thay chủ mình để thế thân cho chánh cung; và còn nữa, Tạ Ngọc Lân (trong Tuồng Ngọn lửa Hồng Sơn) đã phải giết con trai mình vì cơ nghiệp của dòng vua cũ;... những biện pháp ấy, thường được tác giả sử dụng một cách thành thạo như một phương cách nhằm tạo ra hành động độc đáo cho nhân vật của mình trong các kịch bản Tuồng cung đình Huế nói chung, hai vở Sơn Hậu và Ngọn lửa Hồng Sơn nói riêng.
T.T.B
(SH321/11-15)
----------------
1. Truyền tất cả ăn chay mặc tang phục
2. Ngửa mặt lên trời than vắn, cúi xuống đất kêu dài
3. Một lòng hướng phục chiếu chỉ, thấy sắc văn như cỏ cúi xuống khi gió thổi. Ý nói tôn trọng chiếu chỉ nhà vua.
4. Một nhà có nhân, cả nước hướng theo điều nhận/ Một nhà nhượng, cả nước đều nhượng.
5. Một chức quan nhỏ trong triều, không có lập trường nhưng thường chỉ biết a dua theo những lời nói của người khác.
Nguồn: Tạp chí Sông Hương, ngày 27.11.2015.
18 giờ 30 tối ngày 23 tháng 12 năm 2017, Vở kịch “Chim hải âu” của đại văn hào nước Nga, Anton Chekhov sẽ có buổi trình diễn thứ hai trên Sân khấu của Trường ĐHKHXH&NV, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Kịch “Chim hải âu” là Dự án phi lợi nhuận đầu tiên của Sân khấu kịch Văn Khoa, Trường ĐHKHXH&NV nhằm đưa những tác phẩm kịch kinh điển của Việt Nam và Thế giới lên sân khấu.
Khởi đi từ ý tưởng: “Đại học là thành trì cuối cùng để bảo vệ những tác phẩm tinh hoa của nhân loại”, CLB Sân khấu và Điện ảnh đã thống nhất cho rằng: cách duy nhất để bảo vệ những sản phẩm tinh hoa chính là cùng nhau chia sẻ, dù trên phương diện nghiên cứu hay trình diễn. Từ đó, Dự án Sân khấu kịch Văn Khoa được khởi động.
Sân khấu kịch Văn Khoa thành lập và điều hành bởi TS. Đào Lê Na, giảng viên Khoa Văn học, cố vấn CLB Sân khấu và Điện ảnh cùng hai bạn cựu sinh viên Khoa Văn học có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực sân khấu là Bùi Thiên Huân và Nguyễn Tiến Phát. Mục đích của Sân khấu kịch Văn khoa là đưa những tác phẩm kịch kinh điển Việt Nam và thế giới lên sân khấu, đồng thời theo đuổi con đường sân khấu hàn lâm. Thông qua dự án này, CLB Sân khấu và Điện ảnh tin rằng không chỉ khán giả mà bản thân những người thực hành nghệ thuật cũng sẽ học được rất nhiều từ những tác phẩm kinh điển ấy. Đưa tác phẩm kinh điển lên sân khấu là cả một quá trình tiếp nhận đầy thách thức để rồi những người thực hiện sẽ đồng sáng tạo và tái sáng tạo. Mục đích lớn nhất của Sân khấu kịch Văn khoa là truyền cảm hứng đến người xem, khiến họ sẽ tìm đọc lại những tác phẩm kịch kinh điển của Chekhov, Gorky, Shakespeare, Molière, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Tưởng…và có những giây phút thưởng thức nghệ thuật đầy ý nghĩa.
Sân khấu kịch Văn Khoa lựa chọn tác phẩm Chim hải âu của Chekhov làm vở kịch ra mắt vì Chekhov được xem là đại diện tiêu biểu của kịch thế giới hiện đại và Chim hải âu là một tác phẩm thể hiện rất rõ tuyên ngôn nghệ thuật của Chekhov về sân khấu lẫn văn học. Đây cũng chính là thông điệp mà Sân khấu kịch Văn khoa hướng tới.
Nhận xét về buổi công diễn đầu tiên, TS Lê Hồng Phước, Phó Trưởng khoa Ngữ văn Pháp, Trường ĐHKHXH&NV đã phát biểu: “Diễn viên trên sân khấu là người học văn học, bởi thế các bạn diễn kịch không chỉ bằng sự đam mê nghệ thuật sân khấu, mà cái rất riêng ở các bạn đó là các bạn diễn kịch còn với tư cách những người văn học đang muốn truyền cảm hứng văn học đến cho công chúng. Ngồi bên dưới xem, chúng tôi cảm nhận rất rõ rằng: các bạn diễn với tâm thế tự tin vì làm chủ rất rõ nét nội dung văn học của từng chi tiết, các bạn vừa diễn với tư cách diễn viên vừa diễn với tư cách của người văn học muốn lột tả bằng được một cách rất văn học thông điệp của tác giả vở kịch gửi gắm. Nói một cách đơn giản thì người diễn viên ở đây vừa diễn với tư cách diễn viên, vừa với tư cách người làm văn học đang muốn thị phạm những tác phẩm văn học. Nét riêng này đúng chất NÉT VĂN KHOA. Trong thời buổi môn văn học đang trở nên khô cứng với giới trẻ, thì rõ ràng cách đưa những tác phẩm văn học lên sân khấu là một giải pháp để đưa người trẻ trở về đúng với bản chất của văn học: mềm mại, lãng mạn và rất tình.”
Thông tin buổi diễn thứ hai
18g30 23/12/2017 (Thứ 7)
ĐỊA ĐIỂM: HỘI TRƯỜNG D, trường ĐHKHXH&NV, số 10-12, Đinh Tiên Hoàng, Quận 1, TP. Hồ Chí Minh
Liên hệ đặt vé :
Cách 1:
Điện thoại: 0946780580 (Huỳnh Thơ)
Cách 2:
- Gửi tin nhắn về cho BTC tại fanpage https://www.facebook.com/skdavhnn/
![]() |
Chúng ta đang sống trong thời đại của chuyển thể, cải biên. Hãy tưởng tượng rằng gần như mọi tác phẩm đều có thể được tái diễn giải, làm lại, chuyển dạng sang một hình thức khác. Người nghệ sĩ có thể cải biên tác phẩm văn học, vở opera, ballad, bài hát, vở diễn, bộ phim, video, game, truyện tranh… sang các hình thức nghệ thuật khác nhau. Trong mối quan hệ chằng chịt của mạng lưới cải biên, văn học, sân khấu và điện ảnh đã trở thành những kênh dữ liệu dồi dào và sống động nhất bởi quá trình tái lặp cải biên diễn ra không ngừng giữa các hình thức nghệ thuật và trong từng phiên bản tạo sinh. Với bối cảnh nghệ thuật đương đại, quyền năng của cải biên được minh chứng ở đặc tính: Một hệ thống kí hiệu của văn bản này không ngừng đi xuyên qua các thể loại, các phương tiện để xác lập nên những văn bản mới.
Trong bối cảnh nghệ thuật Việt Nam, để chỉ ra một tác phẩm cải biên thành công, theo chúng tôi, không dẫn chứng nào có thể sánh với Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du. So sánh giữa Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều(Nguyễn Du) vốn là thao tác thường thấy khi nghiên cứu cải biên. Với hơn 200 năm nghiên cứu Truyện Kiều, vấn đề này đã được rất nhiều học giả bàn luận, đặc biệt là luận điểm phủ nhận thân phận dịch phẩm của Truyện Kiều. Theo đúng tinh thần của dịch, tức là đề cao tính trung thành của văn bản dịch với văn bản gốc, Truyện Kiều không phải là một dịch phẩm - đơn thuần chuyển ngữ. Có thể thấy, đây là tác phẩm cải biên xuất sắc của Nguyễn Du bởi tính sáng tạo độc đáo thấm đẫm tinh thần dân tộc đã đưa danh tác này lên vị thế cao hơn nguyên tác. Cuộc “hôn phối” này còn đem lại vinh dự lớn cho “tác phẩm gốc” Kim Vân Kiều truyện bởi từ một sáng tác “thường thường bậc trung”, từ một thân phận không được đoái hoài, bị “quên lãng”, nó đã “nhảy vọt” lên thành danh tác thế giới. Mặt khác, thú vị hơn nữa, Truyện Kiều không chỉ được dân gian hóa bằng các hình thức: đề Kiều, vịnh Kiều, hát Kiều, đố Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều… mà danh tác này còn được soạn/ viết lại, phiên chuyển, cải biên thành nhiều loại hình nghệ thuật khác nhau. Truyện Kiều được xem như một văn bản nguồn bởi khả năng cung cấp chất liệu dồi dào cho các sáng tác cải biên. Chỉ tính riêng thực hành cải biên từ Truyện Kiều sang hình thức trình diễn (performing)/ trình chiếu (showing) - sân khấu/ điện ảnh - truyền hình, mỗi lần công diễn là một lần văn bản cũ được “tái sinh” (regenerate), “viết lại” (rewriting), văn bản mới hình thành. Bởi vậy, hiện nay tồn tại rất nhiều văn bản tái sinh bên cạnh văn bản nguồn - Truyện Kiều.
Những dự án đưa Kiều lên phim ảnh, chuyển thể Truyện Kiều sang các loại hình sân khấu hiện đại vẫn không ngừng nhận được sự quan tâm lớn của công chúng nghệ thuật. Có nên chuyển thể Truyện Kiều không khi các tác giả chuyển thể (sân khấu, điện ảnh) phải đứng trước tình huống không thể khác bởi việc cắt gọt một số lượng lớn tình tiết truyện đồng thời văn bản chuyển thể sẽ vắng bóng gần như toàn bộ hệ thống thơ lục bát? Và bất chấp những “kì vọng tan vỡ” nơi công chúng đối với các phiên bản chuyển thể thất bại, tại sao số lượng các phiên bản chuyển thểTruyện Kiều vẫn không ngừng gia tăng ở mọi loại hình nghệ thuật? Vì sao các dự án chuyển thể Truyện Kiều vẫn đang khởi động, luôn tạo ra những háo hức, mong chờ nơi công chúng? Theo chúng tôi: thứ nhất, Truyện Kiều có cốt truyện kịch tính với những nút thắt mở liên tục, nhiều tình huống éo le đan cài. Một câu chuyện như vậy sẽ hứa hẹn những kịch bản độc đáo. Đây chính là lí do vì sao số lượng các kịch bản văn học (điện ảnh, tuồng, chèo, đặc biệt là cải lương…) chiếm số lượng rất lớn trong đời sống cải biên, chuyển thể. Thứ hai, hình tượng nhân vật chính (Thúy Kiều) tài sắc vẹn toàn, có cuộc đời nhiều thăng trầm trong suốt quãng thời gian mười lăm năm, trải dài trên các vùng không gian lưu lạc “chân trời góc bể bơ vơ”… Đặc biệt hơn, phần lớn hoạt động của nhân vật chính diễn ra trong một không gian “nhạy cảm” vốn rất ít được phản ánh trên sân khấu, màn bạc: chốn lầu xanh. Một số nhân vật phụ như Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám Sinh, Từ Hải... có tính cách độc đáo, khiến câu chuyện thêm phong phú, hấp dẫn. Thêm nữa, phim về đề tài kĩ nữ, lầu xanh vẫn chưa có nhiều tác phẩm ấn tượng. Thứ ba, thân phận nàng Kiều, những hình tượng nhân vật trong Truyện Kiều như Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Từ Hải… đã “ăn sâu bén rễ” trong tâm thức cộng đồng… nên vô hình trung, công chúng luôn trong tâm thế mong đợi được thưởng thức cuộc trình diễn/ trình chiếu Truyện Kiều ở các hình thức nghệ thuật khác. Thứ tư, lí do để cải biên Truyện Kiều, còn phải kể đến những ý kiến, quan điểm của một số biên kịch và đạo diễn. Ngay từ đầu thế kỉ XX, trong kịch bản tuồng - cải lương Kim Vân Kiều soạn giả Lê Công Kiền đã trình bày lí do cải biên danh tác này: “… kể từ ngày có truyện Kim-Vân-Kiều của cụ Nguyễn Du ra đời đến nay, văn nhân nhân lãm ai cũng khen ngợi là một quyển truyện thực hay, nhời nhẽ chuốt ngót, nhiều ý sâu xa, tả rõ ràng, toàn nhời thanh lịch”(1). Với nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo, chuyển thể Truyện Kiều thành vở opera ballet Định mệnh bất chợt là “sự sáng tạo của những con người đương đại trong một tác phẩm cũng rất đương đại” bằng các hình thức chuyển tải đương đại - kết hợp giữa opera, ballet, ngâm thơ truyền thống và kịch thoại. Theo nhạc sĩ, đó sẽ là một tác phẩm nhằm tôn vinh kiệt tác văn học của Việt Nam(2).
Số lượng các phiên bản cải biên Truyện Kiều gia tăng không ngừng theo thời gian, tồn tại dưới nhiều hình thức nghệ thuật từ truyền thống đến hiện đại (chèo, tuồng, cải lương, kịch bản văn học, cải lương video, cải lương truyền thanh, điện ảnh, ballet, nhạc kịch, kịch hình thể…). Bức tranh cải biên Truyện Kiều là minh chứng sống động cho sức sống mãnh liệt, khả năng tái sinh, thâm nhập mạnh mẽ của kiệt tác này. Có thể thấy, nỗ lực quảng bá, giới thiệu Truyện Kiều ra thế giới (phim Kim Vân Kiều - đạo diễn Pháp Famechon; phim Một câu chuyện tình - đạo diễn Trịnh Thị Minh Hà; nhạc kịch Truyện Kiều - đạo diễn Mĩ Burton Wolfe…) và tham vọng tái sinh, làm sống lại Truyện Kiều dưới mọi hình thức nghệ thuật luôn không ngừng thách thức mỗi người nghệ sĩ. Diễn trình cải biên Truyện Kiều khẳng định thêm khả năng điển hình hóa sâu rộng trong ý thức cộng đồng, thậm chí là liên cộng đồng của danh tác này. Ở thời đại thông tin truyền thông, một trong những cách thức điển hình hóa, huyền thoại hóa mạnh mẽ, đó chính là hướng cải biênTruyện Kiều sang các loại hình nghệ thuật trình diễn/ trình chiếu hiện đại. Một mặt, hình thức này phù hợp với thị hiếu thẩm mĩ của công chúng đương đại, mặt khác, nó cung cấp những kĩ thuật biểu hiện mới so với các hình thức nghệ thuật truyền thống.
Truyện Kiều đã trở thành chất liệu sáng tác dồi dào, vừa tham dự như một chất liệu cải biên vừa tồn tại dưới các dạng thức kịch bản văn học: chèo, tuồng, cải lương... Hiện nay, các phiên bản chuyển thể Truyện Kiều sang cải lương ở cả kịch bản và vở diễn chiếm số lượng áp đảo. Theo khảo sát của chúng tôi, hiện nay có khoảng hơn mười ba kịch bản cải lương cải biên từ Truyện Kiều. Tùy theo từng cách thức cải biên cũng như thái độ ứng xử với chất liệu Truyện Kiều mà các kịch bản đều có những điểm khác biệt. Việc cải biên mang đậm tính cá nhân, chủ quan của tác giả cải biên. Vì thế mà, mỗi kịch bản cải lương lại chọn lựa và xử lí hoặc là chỉ một trường đoạn, hoặc là toàn bộ cốt truyện Truyện Kiều. Ví dụ, các soạn giả Trương Quang Tiền, Phạm Minh Kiên, Quy Sắc, Nguyễn Thúc Khiêm đã cải biên gần như toàn bộ cốt truyện Truyện Kiều và tuân thủ theo mạch tự sự của tác phẩm gốc. Tuy nhiên, ở một số kịch bản, các soạn giả đã chọn lựa chỉ một trường đoạn ấn tượng, mấu chốt, giàu kịch tính, có ý nghĩa bước ngoặt để cải biên, như:Kiều du thanh minh, Hoạn Thư tróc Kiều, Kiều ngộ Từ Hải (Trương Quang Tiền); Trăng thề vườn thúy, Má hồng phận bạc, Kiều Từ li hận (Quy Sắc)… Ví dụ, kịch bản Kiều du thanh minh diễn từ đoạn Kiều đi thanh minh cho đến đoạn Kiều theo Mã Giám Sinh đến lầu xanh của mụ Tú Bà. Kịch bản Hoạn Thư tróc Kiều diễn từ đoạn Sở Khanh lừa gạt Kiều trốn khỏi lầu xanh cho đến đoạn sưGiác Duyên gửi Kiều đến nhà họ Bạc.
Từ những “khai mở” thành công nhờ chuyển thể kiệt tác nghệ thuật kinh điển như Truyện Kiều mà sân khấu cải lương đã hình thành. Truyện Kiều mang đến vinh dự lớn lao cho sân khấu cải lương bởi vở diễn Kim Vân Kiều (1918) của Trương Duy Toản được nhận định là một trong những tác phẩm đầu tiên đánh dấu sự khai sinh loại hình sân khấu mới mẻ này(3). Có thể thấy, vở cải lương này thuộc hình thức cải biên cơ bản nhất bởi soạn giả đã đưa toàn bộ Truyện Kiều lên sân khấu, chỉ ghép nhạc và lời ca theo từng phân cảnh, phân màn và kết hợp lối diễn “ca ra bộ” (ca nhạc có nguồn gốc từ đờn ca tài tử kèm theo động tác, điệu bộ). Xuyên suốt giai đoạn gần 100 năm (từ 1918) của sân khấu cải lương, Truyện Kiều đã được chuyển thể, tái diễn giải/ sáng tạo nhiều lần từ sân khấu truyền thống đến hiện đại. Mỗi vở diễn là một văn bản, mỗi lần công diễn là một văn bản mới được tái tạo dù vẫn là những đào, kép cũ. Bởi tính chất đặc trưng của loại hình sân khấu nên chắc chắn không thể có một thống kê đầy đủ về những vở diễn chuyển thể Truyện Kiều thời gian dài qua.
Triển diễn sôi động của cải biên Truyện Kiều được minh chứng qua các vở diễn chất lượng như:Kim Vân Kiều (1971); Trăng thề vườn thúy (1973); Kim Vân Kiều (1989); Vương Thúy Kiều(1989), Ai giết nàng Kiều? (1991)… Một điều thú vị là các vở cải lương lấy tên ba nhân vật Kim, Vân, Kiều để đặt tên cho tác phẩm đều chưa xử lí trọn vẹn, hài hòa mối quan hệ giữa ba nhân vật này. Ví dụ, ở một số vở như Kim Vân Kiều (đạo diễn Nguyễn Bạch Tuyết); Kim Vân Kiều (đạo diễn Hoa Hạ) hình tượng Kim Trọng và Thúy Vân hết sức mờ nhạt. Một số đạo diễn ý thức rõ chủ đề của Truyện Kiều nên tác phẩm chuyển thể tập trung phản ánh số phận, bi kịch của nàng Kiều, như: Thúy Kiều; Vương Thúy Kiều; Ai giết nàng Kiều?…
Chuyển thể Truyện Kiều sang kịch bản cải lương là thao tác chuyển dịch và chuyển hóa thơ - truyện, chất trữ tình - tự sự sang hình thức mới: kịch bản và vở diễn. Do được cải biên từ truyện thơ nên ngôn ngữ cải lương thường thấm đẫm chất thơ, chất tình, lời lẽ ngọt ngào, sâu lắng dễ đi vào lòng người như tác phẩm gốc. Ở dạng thức chuyển thể từ kịch bản văn học sang sân khấu, các vở diễn đóng vai trò như một “chuyển thể kép”: kịch bản cải lương được cải biên từ Truyện Kiều, vở diễn được chuyển thể từ kịch bản cải lương. Nhìn chung, cách thức ứng xử với thơ trong Truyện Kiều thường là: sử dụng ý thơ của Truyện Kiều rồi sáng tạo nên lời ca mới, ghép nhạc phù hợp với từng tâm trạng, hoàn cảnh của nhân vật. Cách thức này thể hiện rõ nhất năng lực chuyển thể, khả năng sáng tạo của soạn giả/ đạo diễn. Đây chính là yếu tố quan trọng khẳng định phong cách nghệ thuật của người cải biên. Nhờ đó, tác phẩm chuyển thể có màu sắc riêng, giúp nó vượt thoát khỏi cái nhìn mang tính định kiến vốn vẫn gắn với tác phẩm chuyển thể: “phái sinh”, “thứ cấp”, “phụ thuộc”.
Với sân khấu hiện đại, tham vọng chuyển thể Truyện Kiều sang các loại hình sân khấu cao cấp, sang trọng đã được thử nghiệm, mang đến cảm xúc mới lạ cho người xem: âm nhạc (Hợp xướng Truyện Kiều - Vũ Đình Ân, Truyện Kiều: Thơ và Nhạc - Quách Vĩnh Thiện); nhạc kịch (Nhạc kịch Kiều - Trần Quảng Nam, Truyện Kiều - Burton Wolfe); opera - ballet (Định mệnh bất chợt - Nguyễn Thiện Đạo), kịch hình thể (Nguyễn Du với Kiều, - Nguyễn Lan Hương)… Bên cạnh những phiên bản chuyển thể trung thành/ thông diễn tái nhận (faithful adaptation/ recognitive interpretation) chúng tôi muốn xem xét những phiên bản chuyển thể sáng tạo/ thông diễn tái sinh (creative adaptation/ reproductive interpretation) vốn bộc lộ mạnh mẽ quan điểm, diễn ngôn của tác giả. Thông diễn tái sinh được thể hiện ở sự pha trộn nhuần nhuyễn, đa dạng những hình thức nghệ thuật mới. Năm 2012, vở kịch thơ kết hợp kịch hình thể Nguyễn Du với Kiều của đạo diễn Nguyễn Lan Hương dù chỉ mang tính chất là một cải biên thể nghiệm nhưng đã nhận được những hồi ứng tiếp nhận đa chiều. Vở diễn hư cấu thêm hai nhân vật Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương đóng vai trò là người dẫn chuyện chuyển cảnh, đồng thời vở diễn nêu bật “mối lương duyên đau đáu giữa cuộc đời Nguyễn Du với những nhân vật trong tác phẩm của ông”(4). Khác với sân khấu kịch truyền thống (Cải lương…), vở diễn đã giữ lại và trình diễn những đoạn thơ đặc sắc nhất của Truyện Kiều bằng sự kết hợp đa dạng của ngâm thơ, hát chèo Bắc Bộ, hò Huế miền Trung, ca vọng cổ miền Nam… cùng ngôn ngữ hình thể của diễn viên nhằm thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật trong suốt hành trình lưu lạc. Mặt khác, sự mới mẻ của phiên bản chuyển thể này còn thể hiện ở quan niệm của đạo diễn, khi gắn vở diễn với tư tưởng của đạo Phật. Kết thúc vở diễn, Kiều về nơi cửa Phật. Nguyễn Du với Kiều là sự giao thoa giữa sân khấu truyền thống và hiện đại, thể hiện những dấn thân táo bạo của đạo diễn. Tác phẩm đã tái sinhTruyện Kiều bằng hình thức trình diễn mới mẻ.
Ở lĩnh vực điện ảnh, phim Kim Vân Kiều (1924) là thể nghiệm văn hóa táo bạo bởi cuộc hội ngộ độc đáo giữa văn hóa tư tưởng phương Đông và kĩ thuật điện ảnh phương Tây. Chúng tôi suy đoán việc chuyển thể Truyện Kiều sang hình thức điện ảnh là sự tiếp nối, thừa hưởng những thành công rực rỡ của sân khấu cải lương thời hoàng kim giai đoạn 1920-1930. Bởi thời gian này, những vở diễn cải biên từ Truyện Kiều, Lục Vân Tiên, Nhị độ mai, Phụng Nghi Đình… được tái diễn liên tục trên khắp sân khấu trong Nam ngoài Bắc. Nhờ vậy, cải lương đã nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí chủ đạo, trở thành “thể loại chính” của sân khấu nước nhà. Theo một số phản hồi trên các tạp chí Tương lai Bắc Kỳ, Bắc Kỳ độc lập, Dư luận, Trung Bắc tân văn… có lẽ đạo diễn người Pháp chỉ thực hành quay lại buổi diễn tuồng - cải lương của gánh hát Quảng Lạc bằng hình thức điện ảnh có phần mới lạ, độc đáo lúc bấy giờ. Tại sao đạo diễn người Pháp và cộng sự Nguyễn Văn Vĩnh lại chọn lựa Truyện Kiều để chuyển thể mà không phải là một tác phẩm nào khác? Rõ ràng, bộ phim tuy nhận được những ý kiến đánh giá trái chiều nhưng không thể phủ nhận thái độ ứng xử đề cao kiệt tác thấm đẫm tinh thần, bản sắc dân tộc. Tham vọng tái diễn giải/ sáng tạoTruyện Kiều lên phim ảnh không dừng lại ở đó. Có thể liệt kê một số phiên bản phóng tác, cải biên khác như: Kim Vân Kiều (đạo diễn Dương Quý Bình), Một câu chuyện tình (đạo diễn Trịnh Thị Minh Hà); Sài Gòn nhật thực (đạo diễn Othello Khanh). Căn cứ vào phản hồi của giới phê bình và báo chí, bộ phim Sài Gòn nhật thực là phiên bản chuyển thể thất bại thê thảm(5). Có thể thấy, công chúng điện ảnh vẫn đang mong đợi một tác phẩm điện ảnh, phim truyền hình chuyển thể từ Truyện Kiều. Tham vọng này rất cần những dấn thân, thể nghiệm mới mẻ của biên kịch và đạo diễn.
Có thể thấy, các phiên bản chuyển thể nêu trên, một mặt chúng vừa tồn tại như những văn bản độc lập (dĩ nhiên, quá trình tiếp nhận luôn có sự hồi nhớ, so sánh triền miên, dai dẳng đến nguồn gốc của nó: Truyện Kiều - Nguyễn Du), mặt khác, nếu xếp các văn bản này thành hệ thống, ta sẽ thấy rõ quan hệ xuyên văn bản rộng lớn về mặt chủ đề, đề tài, nhân vật, cốt truyện... Bằng cách nào đó, những yếu tố, kí hiệu của một/ nhiều văn bản không ngừng xâm nhập, tương tác, chuyển hóa vào các văn bản/ thể loại khác. Truyện Kiều chính là một liên văn bản giàu tính năng sản. Một cách dễ hình dung, các văn bản chuyển thể đã không ngừng xuyên thấm qua mọi thể loại, phương tiện nghệ thuật ở những thời đại khác nhau để nỗ lực tái/ sáng tạo nên tác phẩm mới. Trong cơ chế ấy, có thể thấy, nghiên cứu sự thích nghi thể loại, bối cảnh, văn hóa… của những sản phẩm cải biên vẫn còn là vấn đề đang bỏ ngỏ của ngành cải biên học.
L.Q.H
______
1. Lê Công Kiền (1926), Kim Vân Kiều, Nhà in Trần Ngọc Thọ, Hải Phòng, tr.4.
2. Lam Khuê, “Tôn vinh tác phẩm văn học sáng giá của Việt Nam”, http://thethaovanhoa.vn.
3. Xem thêm: Bước đầu tìm hiểu sân khấu cải lương, Sỹ Tiến, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1984;Sân khấu cải lương Nam Bộ 1918-2000, Đỗ Dũng, Nxb Trẻ, 2002; Nghệ thuật cải lương, Tuấn Giang, Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2006.
4. Thụy Du, Nguyễn Du với Kiều: Cuộc giao thoa của kịch thơ và kịch hình thể”, http://hanoimoi.com.vn.
5. Xem thêm: “Sài Gòn nhật thực: Một phiên bản Kiều bất thường”, http://tuoitre.vn/; “Sài Gòn nhật thực: Một phim... khó xem!”, http://www.sggp.org.vn; “Sài Gòn nhật thực: Một phim cẩu thả, xúc phạm!”, http://nld.com.vn...
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 14.3.2018.
“Eternity” là một bộ phim đặc biệt không chỉ bởi ngôn ngữ điện ảnh mà còn vì cảm xúc về dòng chảy luân hồi của sự sống được thể hiện trong đó.
Trần Anh Hùng là đạo diễn gốc Việt đã đưa những câu chuyện của Việt Nam ra màn ảnh thế giới. Mùi đu đủ xanh từng tạo nên một cú sốc với giới làm phim bởi cách kể chuyện độc đáo. Tiếp sau đó là những Xích lô, Mùa hè chiều thẳng đứng định hình nên phong cách rất riêng của Trần Anh Hùng.
Tuy sinh sống và hoạt động chủ yếu ở Pháp, những bộ phim của anh vẫn luôn được khán giả nước nhà quan tâm. Sáu năm kể từ Rừng Na Uy (2010), đạo diễn từng có phim được đề cử Oscar, thắng Sư Tử Vàng ở LHP Venice, mới có tiếp một tác phẩm mới. Eternity được chuyển thể từ tiểu thuyết L’Élégance des veuves (sách tại Việt Nam được dịch là Nét duyên góa phụ) của nữ nhà văn Alice Ferney, quy tụ ba minh tinh hàng đầu của điện ảnh Pháp – Audrey Tautou, Bérénice Bejo và Mélanie Laurent.
Phim bắt đầu với lời dẫn chuyện do chính vợ của đạo diễn kiêm giám đốc thiết kế mỹ thuật – Trần Nữ Yên Khê - thể hiện. “Ông Arthur và bà Julie Bourgeois có năm người con gái. Hai người trong số đó chết trẻ. Ba người kia, Hélène, Henriette và Valentine, đều cưới hỏi đàng hoàng. Từ ba người con gái này đã sinh ra mười tám người cháu, bốn mươi ba người chắt, một trăm năm mươi tư người thuộc thế hệ thứ ba kể từ đời cháu và cho đến hiện giờ đã có tám mươi người thuộc thế hệ thứ tư kể từ đời cháu…”. Những câu đầu tiên trong tác phẩm văn học của nữ nhà văn Alice Ferney đã được đưa nguyên vẹn lên màn ảnh rộng trong tiếng nhạc độc tấu Piano.
Cứ như vậy, bộ phim đưa người xem trở về nước Pháp cuối thế kỷ 19, thời mà những nàng quý tộc nông thôn quanh năm chỉ biết đàn hát, vui đùa và sinh con. Đó cũng là thời mà chỉ một trận ốm hay một căn bệnh bình thường cũng có thể tước đi sinh mạng của một con người do nhân loại chưa tìm ra vắc-xin. Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của ba người phụ nữ thuộc thế hệ khác nhau. Valentine vừa tròn đôi mươi, kết hôn với Jules. Henry – một trong những người con của Valentine – yêu và lấy Mathilde, cô bạn thanh mai trúc mã từ nhỏ. Mathilde lại rất thân với Gabrielle – người kết hôn với Charles trong một cuộc hôn nhân sắp đặt.
Ba người phụ nữ đón nhận những hạnh phúc đến trong cuộc đời – tình yêu, những đứa trẻ thiên thần – và cả những khổ đau. Người trở thành góa phụ, người mất đi những đứa con vì lý do này hay lý do khác, người cô đơn hàng chục năm chỉ bởi cái chết chưa tìm đến… Thời gian cứ thế trôi, họ già đi, những đứa trẻ lớn lên, bi kịch xảy đến nhưng sau đó hạnh phúc đến khỏa lấp cho nỗi đau. Bộ phim giống như một cuốn album gia đình mà trong đó, mỗi tấm ảnh là một kỷ niệm để rồi những trang giấy được dán kín ký ức - đó là lúc câu chuyện khép lại.
Eternity là một bộ phim đặc biệt bởi nó đánh dấu sự chuyển mình trong ngôn ngữ điện ảnh của Trần Anh Hùng. Vẫn là phong cách chầm chậm, duy mỹ nhưng cách sử dụng giọng dẫn truyện thậm chí nhiều hơn cả các phim tài liệu, lối dựng chuyển cảnh tương phản, sự xáo trộn về mốc thời gian hay dùng độc tấu Piano phần lớn chiều dài phim là những thứ không thể tìm thấy ở các tác phẩm trước của Trần Anh Hùng. Anh chia sẻ khi ghi hình Eternity, các diễn viên không biết trước ngày mai mình sẽ quay gì. Mỗi buổi sáng thức dậy, đạo diễn sẽ vào nhìn bối cảnh và quyết định diễn viên phải làm gì. Các minh tinh, tài tử và dàn diễn viên nhí chỉ thực hiện một chuỗi hành động và không thể biết câu chuyện, cái thế giới mà họ đang sống trong đó sẽ ra sao.
Tuy nhiên, chính cách kể đặc biệt mà Trần Anh Hùng đang theo đuổi khiến Eternity trở thành bộ phim khó tiếp cận nhất của anh, kể cả với khán giả thông thường hay giới làm phim. Người xem được phân khúc rõ rệt. Có những người cảm thấy chán, lê thê hay thậm chí phần lớn là ngủ một giấc ngon trong rạp trước khi bị đánh thức bởi tiếng khóc vang dội của một trong các minh tinh. Cũng có những người chỉ cảm thấy nội dung câu chuyện quá buồn cười và thơ ca hóa khi để các nhân vật nữ ngày ngày ở nhà vui chơi, nảy mầm xác thịt rồi đẻ hết đứa con này đến đứa con khác, đứa trẻ này qua đời thì sinh tiếp đứa bé khác mà mỗi khi sinh nở vẫn hạnh phúc đong đầy như lần đầu.
Thế nhưng cũng sẽ có những người bước vào thế giới của Eternity và thổn thức trong đó khi lật giở từng tấm ảnh trong cuốn album của “sự vĩnh cửu” rồi ra khỏi phòng chiếu với đôi mắt đỏ hoe. Ngay cả giới làm phim chuyên nghiệp, có không ít người xem xong chỉ nhận xét “hình ảnh đẹp” mà không biết nói gì hơn. Nhưng điện ảnh, đặc biệt là các tác phẩm nặng về phong cách riêng của tác giả, lại thú vị ở chỗ đó, khi mỗi người xem đều có thể tự chọn cho mình một màu cảm xúc – dù là nông hay mãnh liệt.
Về hình ảnh, khó có thể chê Eternity bởi mỗi khuôn hình đều như một bức tranh cổ điển, mang đậm phong cách Pháp với màu sắc quyến rũ. Trong các phim trước, khán giả mới biết đến Trần Nữ Yên Khê – vợ Trần Anh Hùng – với vai trò là diễn viên, thiết kế phục trang. Ở bộ phim này, chị cho thấy sự đa tài khi là giám đốc thiết kế mỹ thuật và đảm nhận vai trò dẫn truyện với chất giọng Pháp êm đềm, mượt mà. Từ cách phối màu trang phục với nội thất đến đánh sáng trong phòng ngủ đều cho thấy con mắt nghệ thuật tinh tế của Trần Nữ Yên Khê, thậm chí đôi chỗ còn có phần lấn át phong cách của người chồng đạo diễn.
Ba minh tinh Audrey Tautou, Bérénice Bejo và Mélanie Laurent vẫn đẹp kiêu sa, thu hút người xem bởi lối diễn xuất duyên dáng như họ đã được công nhận trong sự nghiệp. Bất ngờ nằm ở dàn diễn viên nhí. Chính những đứa trẻ mà đạo diễn Trần Anh Hùng tuyển chọn đã mang tới sức sống cho tác phẩm và khiến các minh tinh tỏa sáng. Họ phải lần theo từng nụ cười, từng tiếng khóc hay bất kỳ phản ứng nào của các đứa bé sơ sinh để từ đó đánh thức những khoảnh khắc thể hiện bản năng người phụ nữ.
Lấy bối cảnh ở Pháp, chuyện về phụ nữ Pháp nhưng Eternity vẫn có những nét tương đồng với phụ nữ Á Đông. Thời hiện đại có thể khác, nhiều người không còn quá tâm tới chuyện sinh đẻ nối dõi nhưng trong quá khứ, thiên chức làm mẹ luôn là điều mà tất cả phụ nữ hướng tới. Họ kết hôn, sinh con đàn cháu đống và quá trình ấy không có hồi kết.
Trong phim, tấm gương được sử dụng như một ẩn dụ về thời gian. Cuộc đời luôn tiếp diễn theo vòng quay luân hồi, thời gian cứ trôi đi theo lẽ tự nhiên, chỉ có con người sẽ trải qua những thăng trầm, xáo động rồi trưởng thành. Tấm gương là nơi ta cảm nhận được sự thay đổi rõ rệt nhất – trần trụi, không tô vẽ dù chỉ một nếp nhăn hay sợi tóc bạc.
Thay vì giữ tên gốc từ tiểu thuyết, Eternity là cái tên phù hợp nhất với câu chuyện mà Trần Anh Hùng đã kể. Sự sống – cái chết vẫn luôn song hành. Tiếng khóc mang ý nghĩa hạnh phúc khi một sinh linh chào đời nhưng lại là sự u ám, đau thương trong một đám tang. Dù thế nào đi nữa, thời gian không bao giờ đứng lại, con người sẽ luôn bị đẩy đi tiếp trên chặng đường phía trước. Mọi niềm vui, nỗi buồn ập đến rồi cũng thành quá khứ. Chỉ còn đó tình yêu, những kỷ niệm được lưu lại thành ký ức. Tình yêu chưa bao giờ là thứ có sẵn nhưng một khi được tạo nên, nó trở thành vĩnh cửu.
Nguồn: VnExpress, ngày 06.9.2016.
Trong suốt Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du nhiều lần không giấu được nỗi xót xa cho bước đường trầm luân của Kiều, đến mức tự hỏi “Tình kia hiếu nọ ai đền cho đây?”. Thì đây, hậu thế đã đền và sẽ còn đền cho Kiều. Có những nghệ sĩ vì yêu Kiều (và các nhi nữ nước Nam như Mị Châu, Hồ Xuân Hương) mà lặn lội từ Hàn Quốc đến Việt Nam, ròng rã lao động hơn năm trời để có thể trình bày cô đúc, tinh tế nhất câu chuyện đời Kiều bằng ngôn ngữ hình thể và âm nhạc. Múa Kiều kéo dài 60 phút trên sân khấu Nhà hát Thành phố (chỉ trong hai đêm 10/3 và 11/3), là tác phẩm múa đương đại của Yoo-Oh Chun (biên đạo), Sun-Goo Jung (kịch bản và đạo diễn) cùng rất nhiều nhạc sĩ, vũ công, ca sĩ, họa sĩ, nhà thiết kế (phục trang, ánh sáng, sân khấu) Hàn Quốc và Việt Nam. Hầu hết vai diễn đều do các nghệ sĩ múa Việt Nam như Phan Tiểu Ly, Nguyễn Thu Trang, Trần Hoàng Yến, Hồ Phi Điệp, Phan Thái Bình, Sùng A Lùng… đảm nhiệm. Riêng vai Giác Duyên do chính Yoo-Oh Chun thủ diễn. “Cũng giống như thơ, điệu múa ngoài việc thể hiện vui, buồn, đau khổ còn thể hiện sự cảm tạ và còn là căn nguyên của niềm hạnh phúc”. Trung thành với ý niệm đó, biên đạo múa Yoo-Oh Chun đã cảm tạ người sáng tạo Truyện Kiều bằng một vở múa chắc gọn, thể hiện sự am hiểu đáng nể về tinh thần nguyên tác cũng như văn hóa nghệ thuật Việt Nam. 3254 câu Kiều đã được nhóm nghệ sĩ nghiền ngẫm và chắt lọc thành 6 chương múa: Mơ, báo mệnh; Mối tình đầu; Trâm gãy. Hi sinh; Bước đường phong trần; Cứu rỗi; Đoàn tụ. Với các chủ điểm như vậy, vở tập trung vào bốn chữ Duyên, Mệnh, Tâm, Tài. Phần múa cũng như các câu thơ được chọn lựa kỹ lưỡng chứng tỏ năng lực tiếp nhận Truyện Kiều đạt mức tinh nhạy. Thành công này một phần cũng vì người Hàn Quốc có Chun Hyang Jeon (Xuân Hương truyện) – một tác phẩm có nhiều nét tương đồng với kết cấu và nội dung Truyện Kiều. Sự lan tỏa mạnh mẽ của Nho giáo và Phật giáo tại xứ sở Cao Ly cũng là cơ sở để nhóm tác giả thấu hiểu lòng Nguyễn Du đến vậy. Trung thành với quy tắc múa đương đại, vở diễn là sự tích hợp nhiều loại hình nghệ thuật và các quan niệm thẩm mỹ khác nhau, chủ ý kết hợp các giá trị truyền thống và hiện đại. Ở phần múa, các diễn viên khước từ giày vải, để chân trần chạm trực tiếp vào sàn gỗ. Các chuyển động nương theo đường nét tự nhiên của cơ thể, chú trọng sức bật và treo lửng người tạo ra hàng loạt tượng đài mang tính quy ước, khơi gợi tưởng tượng nơi người xem. Chẳng hạn, nàng Kiều với đôi tay giơ cao và động tác chồm quá đà về phía trước hoặc uốn dẻo về phía sau biểu trưng cho sự ngả nghiêng, mỏng mảnh cũng như đức hiếu hạnh, đoan trinh. Trong nhiều lớp múa, các diễn viên thực hành quan điểm múa đương đại của Graham, đặt thân mình gần chạm sàn, tập trung cao độ vào chuyển động bụng và xương chậu. “Hành vi múa” mang đầy tính đối kháng với ballet cổ điển này khá phù hợp để nói lên cảnh tình “sự đâu sóng gió” và “ầm ầm tiếng sóng” của Kiều. Shakespeare đã nói: “Nếu âm nhạc là thực phẩm của ái tình, hãy trỗi nó lên” (If music be the food of love, play on). Dĩ nhiên, trong câu chuyện “mắc điều tình ái” này, âm nhạc là phần sống còn bên cạnh vũ đạo. Vở sử dụng các giai điệu thính phòng mang âm hưởng phương Tây với tiếng piano đặc trưng, bè phối với dàn nhạc dân tộc Việt Nam (chơi sống) bao gồm đàn T’rưng (Hồ Nga), sáo trúc (Trần Khánh Tường), đàn tỳ bà (Nghiêm Thu) và đàn đá (Lê Hoài Phương). Tiếng chuông chùa và âm thanh sóng biển điểm xuyết rất đúng hồn vía “nhẹ như bấc, nặng như chì” của Truyện Kiều. NSND Thanh Hoài thể hiện các bài ca trù với phần lời dựa hoàn toàn trên văn bản truyện thơ. Một sự hòa trộn dễ chịu, thể hiện hiểu biết về nghệ thuật dân tộc Việt Nam rất đáng trân trọng ở những người bạn Hàn Quốc. Và chắc chắn, Yoo-Oh Chun sẽ không hạnh phúc nếu không có cơ hội tri ân quê hương đã cho bà những thành quả hôm nay. Nữ biên đạo múa mạnh dạn lồng ghép bản sắc Hàn vào một câu chuyện Việt chừng mực và ý nhị. Vai Giác Duyên của bà… đậm đặc chất Hàn, từ tạo hình cho đến vũ điệu. Giác Duyên mặc hanbok cách điệu màu trắng có in hoa tím chìm ở phần chân váy, phần tay áo mỏng dài thậm thượt được tung tẩy bởi đôi dùi gỗ trên tay. Đó là phục sức của các nghệ sĩ biểu diễn Jeju obbang gaksichum. Nối tiếp giọng ca trù sắc từng chữ một của NSND Thanh Hoài ở phần giữa vở, nữ ca sĩ Kwon-Soon Kang bước ra trong trang phục hanbok và cất cao giọng hát đầy nội lực như nói hộ những cơn giông bão trong lòng Kiều. Một số vũ điệu của vở cũng mang đậm phong cách múa Hàn Quốc có nguồn gốc hàng ngàn hoặc hàng trăm năm như: Salpuri (điệu múa nghi lễ của pháp sư), Buchaechum (điệu múa quạt do nữ vũ công thực hiện với các vũ điệu lượn vòng), Seung Mu (điệu múa của nhà sư)... Bên cạnh vũ điệu và giai điệu, trong một khoảnh khắc, vở còn gom vào mình tiếng hét phẫn thiết của nhân vật và không ngại dung nạp cả sân khấu mặt nạ. Có thể hiểu chiếc mặt nạ hahoe xuất hiện duy nhất ở phân đoạn Kiều bắt đầu chặng đường lưu lạc là thần Bạch Mi – khắc tinh của đời Kiều – và cũng có thể là các thế lực đen tối vây quanh nàng. Không màng đong đếm chính xác thời điểm, bối cảnh mà câu chuyện ra đời, Kim Trọng và Kiều có thể dùng nón lá đội đầu hay che chở lấy nhau. Phông nền Múa Kiều là mặt trời, mặt trăng và con thuyền tượng trưng cho sự cứu vớt phận Kiều. Trang phục của vở là sự kết hợp giữa áo tứ thân mớ bảy mớ ba, áo dài tha thướt nhưng lại phá cách với tay sát vai cho cả nam và nữ. Gam màu pastel thời thượng như cam, hồng, xanh, kem chiếm phần chủ đạo, tạo vẻ mềm mại và tươi sáng cho vở diễn. Đó là một tín hiệu để thấy rằng vở không tô đậm phần tăm tối, bi ai trong đời Kiều mà hướng đến niềm hy vọng. Phần ánh sáng lung linh, rực rỡ tuyệt diệu trong vở diễn cũng góp phần khẳng định thông điệp đó. Nam nữ vũ công thường mỉm cười trong lúc múa. Điều đó không có nghĩa là nỗi buồn không tồn tại. Nụ cười là một cách chế ngự nỗi buồn hoặc cho thấy vẻ đẹp sâu thẳm của nó. Cách đan xen, cài cắm các kiểu thức như vậy, nếu không khéo léo sẽ dẫn đến sự lợn cợn cho người thưởng ngoạn. Nhưng rất may, Múa Kiều dù dung nạp các hình thái nghệ thuật đa dạng mà vẫn mượt mà. Những tràng pháo tay vang dội, những giọt nước mắt và thái độ nấn ná của khán giả khi màn nhung khép lại bảo chứng cho điều đó. Quan trọng hơn cả, vở diễn có lẽ đã chạm sâu vào trái tim người xem. Tuyệt phẩm này đã lần dò và biểu hiện một đường dây tinh thần bền chặt của đời Kiều bằng ngôn ngữ múa. Một hồn ma và một sư nữ xuất hiện suốt vở diễn, song hành với Kiều, nâng đỡ tâm hồn Kiều những lúc nàng tuyệt vọng, bi thương nhất. Tri âm mà Kiều khao khát tìm kiếm là Đạm Tiên và Giác Duyên chứ không phải Kim Trọng, Thúc Sinh hay Từ Hải – những người đàn ông thoắt đến thoắt đi trong chuỗi cay đắng đời nàng. Nguyễn Du, nhân những lần sang đất Trung Hoa, trót “mang vào thân” Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà phải viết Đoạn trường tân thanh. Yoo-Oh Chun dựng Múa Kiều bởi “vào một ngày kia, có một niềm tin mãnh liệt như ánh sáng soi chiếu vào để thôi thúc tôi tạo nên tác phẩm”. Trong tác phẩm về Kiều mới nhất Việt Nam này, ta có thể thấy sự nỗ lực kết nối hai nền văn học, văn hóa cũng như lòng tự tôn về kỹ thuật múa đương đại của người Hàn Quốc. Trong quá khứ, nghệ thuật múa Hàn Quốc có lúc khuất lấp dưới cái bóng quá lớn của các điệu nhảy Nhật Bản. Vượt thoát khỏi sự kềm tỏa đó, những tâm hồn đòi hỏi được yêu hiểu đã có một chuyến hành trình vòng quanh Đông Á, đặt các giá trị cổ điển và hiện đại lại thật gần để xúc cảm cũng như khát vọng sáng tạo được thăng hoa. Sẽ có khán giả ngỡ ngàng vì sự tinh gọn quá mức của Múa Kiều. Các tình tiết tưởng chừng quan trọng như Kiều bị Hoạn Thư đánh ghen, Kiều báo ân báo oán, Kiều mắc lừa Hồ Tôn Hiến… đã được cắt xén để thay vào đó là những trường đoạn “rụng rời lắm phen” của tâm hồn. Tin rằng hôm nay Nguyễn Du đã “vén mây giữa trời” để rơi nước mắt hạnh phúc với một hình hài Kiều vừa quen vừa lạ nhưng vẫn là Kiều “khổ tận cam lai” khiến ông “Nghĩ đòi cơn lại sụt sùi đòi cơn”. “Madam” Oh và những đồng sự đã băng về ngày cũ, vượt khỏi biên giới ngôn ngữ để cùng Nguyễn Du cảm Kiều, đau với Kiều và mơ ước thay Kiều. “Tương tri dường ấy mới là tương tri”!
Nguồn: Saigon Times số 11/2018
Ành: Cảnh trong vở "Múa Kiều" (Trần Hoàng Sơn)
Nửa thế kỷ ăn cơm nghệ thuật, NSƯT Thành Lộc đã mang đến cho khán giả nhiều vai diễn đúng nghĩa rút ruột nhả tơ. “Phù thủy”, “bậc thầy sân khấu” đóng xuất sắc nhiều vai, từ trẻ con, thằng khùng, thanh niên ưu tú, trung niên bá vơ, giám đốc, phạm nhân, nông dân, thương nhân, công tử, phú ông, quan văn, quan võ đến... chó cưng. Nhưng hai dạng nhân vật khiến khán giả ấn tượng về anh nhất vẫn là ông già và phụ nữ. Ai đã “bồ kết” những vai diễn ông già Nam bộ xéo xắt, lém lỉnh mà cùng cực khổ đau của Thành Lộc trong Dạ cổ hoài lang, Tía ơi má về, Bông hồng cài áo... thì cũng rung rinh trước những màn hóa thân thành nữ giới duyên dáng, điệu đà của anh trong Tấm Cám, Hợp đồng mãnh thú và gần đây nhất là dì Ba trong Ngôi nhà không có đàn ông (soạn giả: Ngọc Linh, đạo diễn: Vũ Minh) trên sân khấu Idecaf.
Dù vậy, “dì Ba” lần này không được lòng tất cả khán giả. Đó đây trên báo chí, mạng xã hội, một số khán giả bày tỏ sự phiền lòng khi một nghệ sĩ lớn như Thành Lộc lại cất công giả gái chỉ để thủ “một vai hài đơn giản”.
Với tôi, dì Ba không phải là một vai hài, càng không phải là một vai đơn giản.
Hãy điểm qua “lý lịch” của “dì Ba phiên bản Thành Lộc”: 49 tuổi (ai mà nói dì Ba 50 tuổi là bị giận ngay), cô giáo dạy văn, chưa chồng, sống chung với người chị ruột và ba đứa cháu gái (mà sao có một luật bất thành văn là nhân vật cô giáo trên sân khấu, phim ảnh cứ phải dạy văn mà không phải là lý, hóa, địa, giáo dục công dân hay thể dục, cứ phải đeo mục kỉnh dày cộp, cứ phải hâm hấp, thuộc thơ như cháo và nhất là phải... ế!!!). Hàng ngày, nếu không đi dạy thì dì Ba phụ trông nom tiệm áo cưới Hạnh Phúc của chị gái (trớ trêu làm sao, dì mặc áo cưới cho bao nhiêu cô dâu mà chưa có dịp mặc cho mình). Vì ngôi nhà không có đàn ông, dì Ba gồng lên làm đàn ông, rành mạch chuyện đóng bàn sửa ghế, sẵn sàng cầm búa rượt đứa đàn ông nào dám làm khổ cháu mình. Dì Ba rất thời trang và... thời sự. Dì Ba mặc áo dài cách tân, áo tay phồng loe vai trễ với quần legging, điệu đà diện cả áo corset bên trong. Dì Ba giễu cợt “thời trang áo dài 12 mét” làm vệ sinh sân bay miễn phí của một quý bà mà ai cũng biết. Dì Ba vừa livestream cảnh vợ chồng sắp cưới đánh nhau vừa đe nẹt học trò không được “say hi” hay “like” mà phải đi học bài lập tức. Tất cả những điều đó tạo nên một dì Ba thời nay, hoạt náo, đủ giảm bớt không khí nặng nề, trầm uất của một bi kịch gia đình và tạo ra những tràng cười nghiêng ngả cho khán giả. Cứ thử để dì Ba làm “trung niên nghiêm túc” đi, vở sẽ bán vé được vài suất rồi... nghỉ khỏe. Sân khấu Sài Gòn muốn sáng đèn đều đặn ít nhiều phải có yếu tố hài.
Nhưng giá như dì Ba chỉ xuất hiện để gây cười thôi thì Thành Lộc có lẽ không đến mức lao tâm khổ tứ. Đằng này, dì Ba phải gồng gánh thêm nhiều trọng trách trong đường dây kịch bản. Có thể nói, dì Ba là nhân vật “chằng chịt” nhất về vai trò, thân phận và tâm lý trong vở diễn.
Trong gia đình, dì Ba là gạch nối giữa hai phe: một bên là người chị gái “bất tín đàn ông” và bên kia là ba đứa cháu - những “sản phẩm bị lỗi” từ lối giáo dục “một bề” của mẹ. Dì thương chị ruột đến mù quáng, kiểu “má tụi con hận đàn ông một thì dì Ba tự nguyện hận đàn ông mười”. Dì trở thành một công cụ thừa hành mẫn cán đến nỗi cuộc đời bị đánh cắp lúc nào không biết. Bênh vực và răm rắp tuân theo các “chỉ thị” của chị nhưng dì không phải là đao phủ trong mắt các cháu. Dì thương yêu, gần gũi chúng hơn cả mẹ ruột, dù có khi sự quan tâm của dì gần giống thói rình rập của loài cú đêm.
Còn ngoài xã hội, dì Ba là một người đơn độc. Không tri âm cũng chẳng bạn bè. Dì Ba dạy văn nhưng môn văn chẳng biến dì thành “hot teacher” được, nếu không muốn nói là làm đầy đặn thêm một dì Ba ngay ngắn, lỗi thời. Chính dì cũng chua chát nhận ra nét lạc điệu của mình trong lớp học. Đã là con người, ai mà chẳng có lúc tức giận, ta thán. Nhưng chữ “nhà giáo” to tướng trên đầu khiến dì phải cố định hình ảnh nền nã, nhã nhặn. Chỉ khi ở trong nhà, dì mới có vài phút được là chính mình, được ăn nói bỗ bã mà không sợ người đời bẻ bai, dè bỉu.
Hiện diện thường trực trong chuỗi ngày đằng đẵng nhọc nhằn của gia đình, điều mà dì Ba làm nhiều nhất là theo sát, an ủi các thành viên trong nhà. Thay vì phải oán người chị đã gieo vào đầu mình tư tưởng “đàn ông chỉ là heo nọc”, dì cho đi tình yêu thương của mình vô điều kiện. Cảnh dì Ba ôm người chị khắc nghiệt đầy thương xót, cảm thông rồi hai chị em khóc ngon lành là hình ảnh đẹp và sâu lắng nhất vở.
Cuối vở kịch, trong khi ai cũng tìm được hạnh phúc hay ít ra nhẹ nhõm hơn thì dì Ba vẫn “vô sản”. Dì lấy hạnh phúc của các thành viên trong nhà làm hạnh phúc của mình. Quai quái mà sâu sắc, cứng cỏi mà mềm mại, đè nén mà bùng nổ, dì Ba buộc người xem phải rơi nước mắt vì thương quá đỗi một tấm lòng chân thành, hào hiệp và nhiều giằng xé. Để có thể tải hết tất cả các đặc tính đối lập và phức tạp đó của dì Ba, Thành Lộc dĩ nhiên không thể chỉ dụng tài năng thiên phú. Ngoài việc nghiên cứu rất công phu nhân vật và đổ mồ hôi sôi nước mắt trên sàn diễn, anh đầu tư cho dì Ba những bộ đồ chỉn chu và phù hợp với lứa tuổi. Tôi chỉ ao ước sao Thành Lộc có nhiều bộ tóc giả đẹp và tự nhiên hơn để bề ngoài của dì Ba thêm hoàn hảo.
Bàn một chút về chuyện nam diễn viên giả nữ.
Ở góc độ khán giả, tôi thấy điều lý tưởng nhất là nam cứ đóng vai nam, nữ cứ đóng vai nữ. Nhưng ở một nhà hát, một ban kịch, nhóm kịch, bảng phân vai phải tùy thuộc vào số lượng và tạng, chất của các thành viên. Đó là chưa kể vì nhiều lý do, người ta hoán đổi giới tính của diễn viên và nhân vật một cách cố ý. Trong trường hợp của sân khấu Idecaf, vai dì Ba được đo ni đóng giày cho Thành Lộc. Và có lẽ, ngoài anh ra, sân khấu này khó có người thứ hai đảm đương nổi vai diễn.
Quay ngược thời gian, chúng ta hãy nhớ rằng thuở xưa, phụ nữ không được hoặc cực kì bị hạn chế bước lên sân khấu (cứ thử liệt kê, ta sẽ được một danh sách dằng dặc những điều phụ nữ không được làm từ xưa đến nay). Thế là, diễn viên nam đảm nhiệm hầu hết các loại vai trong kịch Hy Lạp cổ đại, kịch Phục hưng, kịch kabuki, kịch múa khon... và cả opera. Khái niệm “diễn xuyên giới tính” (cross-gender acting) có lẽ hình thành từ đó. Giới biểu diễn còn có một thuật ngữ là “travesti” để chỉ những vai được ca, diễn bởi người có giới tính trái dấu với nhân vật (chủ yếu chỉ nữ đóng vai nam). Ở nước ta, kép đóng vai đào chủ yếu vì lý do lễ giáo, còn đào phải đóng vai kép bởi đoàn hát thiếu nam diễn viên. Chúng ta có một “travesti” tài năng là NSND Phùng Há. Khán giả thích mê vai An Lộc Sơn, Lữ Bố... của cô Bảy. Thậm chí, diễn viên nam chưa chắc có khí chất kép võ như bà. Như vậy, không nên lên án việc Thành Lộc hay bất kỳ diễn viên nào “cross-gender acting”. Điều quan trọng là người diễn viên ấy có đủ duyên dáng, có trân trọng và dốc hết tâm lực để hóa thân trọn vẹn vào vai diễn hay không.
Còn nhớ, năm 1999, Tiếng chim trong vườn ngọc lan ra mắt khán giả ở sân khấu 5B. Bên cạnh những mỹ từ “sang trọng”, “diễn như xi-nê” mà báo giới tưởng thưởng cho nhân vật đồng tính Lữ Đạo Kinh thì cũng có bài viết bảo rằng Thành Lộc “mang khát vọng đời thường lên sàn diễn”. Thay vì đôi co, anh chọn giải pháp im lặng. Theo thời gian, tên tuổi Thành Lộc không chỉ tiếp tục bảo chứng cho doanh thu phòng vé mà những nhân vật được anh “cover” lại cũng hết sức thuyết phục và có nét riêng. So với dì Ba “nữ tính một chiều” do nghệ sĩ Nguyễn Thị Minh Ngọc thủ diễn, “dì Ba Thành Lộc” không hề kém cạnh, rất đa sắc và mới mẻ. Dì Ba hôm nay khác dì Ba của hơn 20 năm trước cũng là hợp lẽ, dù bi kịch không hề vơi giảm.
Trong nghệ thuật, một trong những điều thú vị nhất mà một tác phẩm vĩ đại hay một nghệ sĩ lớn có thể tạo ra là thổi bùng lên những cuộc tranh luận. Ít ỏi trong số các nghệ sĩ Việt Nam làm được điều đó là NSƯT Thành Lộc.
Ảnh: Dì Ba Thành Lộc (bìa trái) trong vở Ngôi nhà không có đàn ông.
Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/264933/Di-Ba-phai-khac.html
Đầu thế kỉ XIX, khi truyện thơ Đông Nam Á đã đi qua giai đoạn đỉnh cao thì tại một mảnh đất phương Nam của Việt Nam, Lục Vân Tiên xuất hiện, sáng ngời tư tưởng giáo hóa. Bên cạnh văn bản thơ phổ biến đến mức “không một người đánh cá hay người lái đò nào không hát một vài câu thơ ấy” (G. Aubaret), truyện thơ Nôm này nhiều lần được chuyển thể thành cải lương, phim điện ảnh, phim truyền hình trong suốt trăm năm qua... Kỉ niệm tuổi 20 bằng Tiên Nga – một phiên bản mới của Lục Vân Tiên – sân khấu Idecaf cống hiến cho khán giả những gì?
1. Vấn đề trọng yếu của tư tưởng Nguyễn Đình Chiểu đương nhiên là “chở đạo, đâm gian”. Đạo của Đồ Chiểu không chỉ là các giá trị cốt lõi của Nho giáo như nhân, trí, tín, trực, dũng, cương mà còn là sự mềm mại ở lí và tình giữa con người với con người trong cuộc đời rộng lớn. Ý thức rõ điều đó, ở Tiên Nga, nhóm biên kịch truyền tải tinh thần “chở đạo” bằng việc giữ nguyên tính cách nhất quán của hệ thống nhân vật trong truyện thơ gốc. Mạch kịch được trần thuật theo trình tự thời gian truyền thống, chú ý làm rõ các trục đối lập: chánh – tà, trung – nịnh, thiện – ác, tốt – xấu. Mỗi nhân vật trong Tiên Nga đại diện cho một kiểu người trong xã hội, góp phần khẳng định chân và thiện sẽ mãi trường tồn dù đời sống vẫn “đùng đùng sóng xao”. Cái đạo ở Tiên Nga còn nằm ở sự xâu chuỗi tư tưởng và xúc cảm của Nguyễn Đình Chiểu qua hệ thống tác phẩm của ông, đặc biệt tỏa sáng ở việc kết hợp Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với Lục Vân Tiên. Bằng cách đó, Tiên Nga thẳng thắn chỉ ra vấn đề “đất bằng dậy sóng” biết bao đời nay; nghiêm khắc phê phán những mưu đồ chính trị đê hèn, khơi gợi những rung động về truyền thống dân tộc cũng như đánh động ý thức con người về vận nước và nhân tâm hôm nay. Một điểm nhấn không thể không nhắc đến trong vở kịch này là phần âm nhạc và dàn dựng sân khấu. Dàn nhạc sống nghe sung sướng đến tê người. Nó làm tôi nhớ cái thuở đi xem cải lương ở rạp Ca Đồng Hưng, tay cầm quạt giấy, hạt dưa mua trước cửa rạp, mắt tròn mắt dẹt ngắm những nhạc công chỉn chu ngồi trước dàn trống, đờn chờ biểu diễn. Vẫn là Đức Trí – người dám đặt Nắng có còn xuân lên môi Lý Thường Kiệt trong Ngàn năm tình sử, nhưng lần này, anh tiết chế hơn, không đưa bất kì bài tân nhạc nào vào Tiên Nga mà chỉ tận dụng sức sống của các nhạc cụ phương Tây để làm nên sự hùng tráng “đã đời” và nét sang trọng cho vở diễn. Các nghệ sĩ gạo cội lùi lại làm bệ đỡ để dàn diễn viên trẻ trung tha hồ xông pha, “rút ruột”. Vở không quá đông diễn viên nhưng dàn trải thông minh, đủ cao trào hoặc êm ái. Tre, trúc, cúc, mai, sen và mẫu đơn trở thành cảm hứng chủ đạo của phông màn, trang phục, đạo cụ, thanh thoát và giàu ẩn dụ. Tương tác với ánh sáng, chúng trở nên lả lướt và toàn bích. Đạo diễn Thành Lộc quá may mắn khi có nhiều cộng sự tài năng và hiểu anh như Đức Trí, Sĩ Hoàng, Vũ Minh… Qua Tiên Nga, những nghệ sĩ yêu ngôn ngữ và tâm hồn Nam Bộ đã chứng tỏ họ xứng đáng thuộc về mảnh đất đã nuôi dưỡng và cho mình nhiều hoa trái ngọt lành.
Tươi tắn, rõ ràng, sâu lắng về chủ đề, thông điệp và cách truyền tải, Tiên Nga tặng khán giả những giây phút tri lí, những ân tình sâu nặng. Một đêm thưởng thức nghệ thuật thỏa mãn thị giác lẫn thính giác.
2. Ở Tiên Nga, các biên kịch đã thể hiện sự đối thoại dũng cảm với tiền nhân và tô đậm thêm những chân dung vốn mờ nhạt trong truyện thơ. Nếu như Lê Duy Hạnh – Hoàng Song Việt cho Chiếc áo thiên nga hai điểm mới: Trọng Thủy đã có vợ con quê nhà nhưng phải lòng Mị Châu, nỏ thần không có thật mà sự hợp nhất giữa ý vua, lòng tướng mới thực là vũ khí khiến quân thù bạt vía; Nguyễn Thị Minh Ngọc – Hoàng Thái Thanh muốn Lan (Lan và Điệp) phải sống thì nhóm tác giả Nguyễn Thành Châu – Nguyễn Thị Minh Ngọc – Nguyễn Hồng Dung cũng đẩy nhân vật Kim Liên lên tuyến đầu của vở bằng hình tượng một thiếu nữ mong manh như cọng sen, thà thác mà đặng câu địch khái.
Cốt kịch xoay quanh ba lựa chọn. Nguyệt Nga chọn câu chuyện tình yêu. Kim Liên chọn câu chuyện nước non. Thể Loan chọn câu chuyện chữ duyên tráo chác chữ tình lãng xao. Giữa ba lựa chọn đó, câu chuyện của nàng tì tất nhỏ nhoi dĩ nhiên “nghìn năm tiết rỡ”. Vở mang tên hai nhân vật chính nhưng Kim Liên lại trở thành hình tượng trung tâm, để lại ấn tượng sâu đậm về một liệt nữ trung trinh đến mức hóa thành hồn thiêng sông núi. Từ vị trí người hầu, nàng trở thành người thân và người được thờ phụng – ngang hàng với Vân Tiên – trong lòng Nguyệt Nga. Nàng làm ta nhớ đến các anh thư của non nước này, từ Huyền Trân, Ỷ Lan, Dương Vân Nga, Vũ Thị Thiết cho đến Ngọc Hân. Kim Liên sinh ra đâu chỉ để Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê hay an phận làm hoàng hậu nước Phiên! Nàng tự viết riêng trang sử đời mình.
Cách nâng cao hình tượng Kim Liên mạnh dạn như vậy có phần hợp lí. Bởi lẽ, như chúng ta đã biết, Nguyễn Đình Chiểu không chỉ có khát vọng “an dân, trừ bạo” như Nguyễn Trãi mà còn đặc biệt tin vào thái độ, khả năng của những con người ngoài cật có một manh áo vải. Nếu thế sự bình yên, họ có lẽ cả đời chỉ biết “cun cút, toan lo”; nhưng trước nợ nước tình nhà, họ bừng lên nhiệt huyết Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình/ Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ. Sức mạnh ấy, tinh thần ấy bắt nguồn từ ý thức đúng đắn Tấc đất ngọn rau ơn chúa, tài bồi cho nước nhà ta/ Bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi ông cha nó? Việc chuyển hóa nữ nhân Kim Liên trong Lục Vân Tiên thành một tượng đài nghĩa sĩ sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc là một sáng tạo đầy tinh anh và đáng trân trọng của nhóm biên kịch Tiên Nga. Và vì bà mẹ biên kịch mắc chăm bẵm đứa con Kim Liên nên các nhân vật khác chỉ dừng ở mức tròn trịa hoặc nhàn nhạt minh họa. Nguyệt Nga là nhân vật tròn trịa. May thay, tác giả kịch bản đã tặng nàng một màn độc diễn trên chiếc thuyền có con mắt son đậm hồn vía sông nước Nam Bộ. Về phương diện kể chuyện một mình trên con thuyền cống Phiên thì có lẽ, Lê Phương chưa thể vượt qua được tấm tình giằng xé, bơ vơ, ngả nghiêng mà các Nguyệt Nga - Bạch Tuyết, Nguyệt Nga - Thoại Mỹ từng thể hiện. Nhưng Lê Phương có tố chất của một đào thương, trong sáng và ngọt ngào. Giá như Phương bớt “cứng” trong động tác, uyển chuyển và lắng đọng thêm chút nữa thì Nguyệt Nga sẽ tròn vẹn hơn. Hoài Thanh cho rằng thái độ Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay của Nguyệt Nga quá “vận động viên” so với cảm thức Trông vời con nước mênh mông/ Đem mình gieo xuống giữa dòng trường giang của Thúy Kiều. Tôi nghĩ, người diễn viên cũng nên tham khảo ý này của nhà phê bình tài hoa. Và tôi tiếc khi Nguyệt Nga - Lê Phương đội chiếc mũ ni như Lan và Điệp trong phần gặp lại Lục Vân Tiên. Cụ Đồ Chiểu không để nhân vật đi tu và không cần thiết phải “sáng tạo” như vậy. Vân Tiên là một nhân vật minh họa. Dương Cường không có nhiều đất diễn. Vở cũng không nói rõ vì sao chàng Vân Tiên thoát nạn tai mà chỉ “thông báo” qua vài câu hát. Vân Tiên cao lớn, sáng sân khấu, đài từ ấm, múa gậy đẹp và có một màn khóc mẹ. Nghĩ đến Vân Tiên của Tiên Nga, ta nhớ nhất đạo nghĩa làm con. Cuộc tình giữa chàng và Nguyệt Nga được nhìn nhận ở khía cạnh tình nghĩa hơn tình ái. Âu cũng phù hợp với tinh thần nguyên tác.
![]() |
Cảnh trong vở Tiên Nga của sân khấu Idecaf - Ảnh: TL |
Một số nhân vật của Lục Vân Tiên bị “triệt tiêu” hoàn toàn ở Tiên Nga, đáng kể là: Hớn Minh, Cốt Đột, tiên ông, ông ngư, ông tiều, lão bà... Điều này chấp nhận được vì mỗi kịch bản sẽ chọn một cách thức tiếp cận với nguyên tác chứ không đều đặn minh họa tất cả những tình tiết. Rất sáng suốt khi kịch bản giữ lại nhân vật ông quán. Ông xuất hiện vài phút ngắn ngủi nhưng cực kì quan trọng vì nhân vật này chính xác là người phát ngôn “lẽ ghét thương” trong tư tưởng Đồ Chiểu. Một số vai khác có xuất hiện trong Tiên Nga nhưng “hi sinh” từ phút đầu tiên vì chỉ dừng lại ở mức độ nhân vật chức năng. Ví dụ, Trịnh Hâm chỉ hậm hực ông quán vài câu và bao thêm một nhiệm vụ nữa là đẩy Vân Tiên xuống nước. Võ bà Quỳnh Trang “có da thịt” một chút trong việc can ngăn cha con Võ Thể Loan và nhận thức nghiệp báo nhãn tiền. Duy chỉ nhân vật Bùi Kiệm là thoát ra được cái bóng tỏa quá rộng của Kim Liên, tạo được nét duyên dáng và tiếng cười hài hước. Đình Toàn không khó khăn gì để làm việc này. Anh chỉ cần pha trộn vẻ lí lắc đáng yêu của những nhân vật kịch dân gian từng thủ diễn trên sân khấu Idecaf với vẻ trí trá, bất tài bất xứng của Lê Long Đĩnh trong phim Thiên mệnh anh hùng là đủ ổn.
3. Lục Vân Tiên là một truyện thơ đúng cấu trúc: gặp gỡ – tai biến và lưu lạc – đoàn viên. Cốt truyện như vậy chắc chắn là nền móng vững chãi cho một kịch bản truyền thống giàu kịch tính. Kịch bản đầy đặn, giàu ý tứ của Tiên Nga là thành quả của việc bám sát lời thơ đẹp đẽ của nguyên tác Lục Vân Tiên, kết hợp với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc và kho tàng lời ăn tiếng nói nhuần nhị của dân gian một cách bài bản, thông minh, chừng mực. Nhiều khúc đoạn trong lời ca và thoại kịch đạt đến mẫu mực kịch thơ, càng nghe càng ngấm càng ngẫm. Nó đòi hỏi người xem phải có vốn kiến thức phong phú về điển tích, điển cố văn học và từ vựng tiếng Việt, nhất là từ cổ. Nó đập tan thành kiến Lục Vân Tiên chỉ là một truyện Nôm bình dân nặng về luân lí.
Ẩn sau cách kể chuyện tươi sáng, rõ ràng và giàu chất thơ, Tiên Nga sở hữu phương thức trần thuật sử thi và những kĩ thuật của sân khấu kịch cổ điển phương Tây lẫn phương Đông. Chất sử thi của Tiên Nga trước hết nằm ở sự xuất hiện của Nguyễn Đình Chiểu. Rõ là có nét tương đồng với người hát rong mù Homère. Nhưng ở đây, Homère phương Đông của chúng ta không phải là người kể chuyện thuần túy (narrator) mà là nhân vật Đồ Chiểu. Thủ pháp đồng hiện đã giúp nhân vật này “xen vào” giữa các phân đoạn một cách hợp lí nhất, để thực hành “thi dĩ ngôn chí”, để xiển dương hoặc nâng đỡ những nhân vật chính nghĩa khác. Sự đa nghĩa của nhân vật Đồ Chiểu lật lại vấn đề về mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể sáng tạo. Đồ Chiểu thiết lập ra thế giới nhân vật rồi lại “sa ngã”, dự phần vào thế giới đó. Đừng quên Lục Vân Tiên là giấc mộng đẹp của Đồ Chiểu. Tiên Nga còn mang dáng dấp sử thi khi khai thác các khía cạnh anh hùng, chiến tranh, hòa bình và một “cuộc tình hạt nhân” đẹp đẽ. Nó cũng không giấu giếm ý định xây dựng hình mẫu người nam và người nữ lí tưởng trong xã hội: Trai thời trung hiếu làm đầu/ Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình. Từ “trung hiếu” và “tiết hạnh”, hiểu theo nghĩa tường minh và nâng niu nhất, thì có bao giờ là cũ?
Màu sắc của bi kịch Hi Lạp phảng phất trong Tiên Nga ở dàn đồng ca - người nghe - người hát. Thủ pháp mộng và huyễn - một trong những đặc thù của kịch cổ điển phương Tây lẫn phương Đông (đặc biệt điêu luyện ở kịch Nô) cũng được áp dụng trong vở. Mộng khiến Nguyệt Nga cảm biết Vân Tiên gặp tai ương. Huyễn khiến hồn người con gái Kim Liên xuôi về cố quốc dẫn đường cho Nguyệt Nga thoát khỏi những cánh cửa cài then sập chốt nhà Bùi Kiệm, đưa lối Vân Tiên vào đúng ngôi nhà tranh tịch mịch giữa rừng. Huyễn cũng tạo cơ sở cho người xem “chấp nhận” cụ Đồ Chiểu xuất hiện thình lình ở những khúc đoạn cao trào của số phận và tâm lí các nhân vật.
Nếu những vở nhạc kịch trước đây ở Idecaf (và cả ở sân khấu 5B) ít nhiều sa đà vào kiểu thức kịch Tây lời Việt, lạm dụng tân nhạc thì Tiên Nga đã tìm được lối ra cho mô thức nhạc kịch dựa trên sở trường, sở đoản của “sân nhà”. Tiên Nga không phải là một vở opera đúng nghĩa và chắc chắn Idecaf không đặt ra sứ mệnh đó. Điều mà Tiên Nga đạt được là phô diễn thế mạnh của một kịch bản chắc tay chuyển thể từ văn học, những diễn viên “hát được”, ứng dụng âm hưởng đờn ca tài tử, các thang âm ngũ cung, các điệu Ai, Xuân... và dàn nhạc Tây phương nhưng bè phối kiểu Việt Nam. Truyền thống của một gia đình mấy đời theo nghệ thuật tuồng cổ giúp Thành Lộc và các cộng sự của anh có đủ bản lĩnh quyện hòa tất cả những điều đó. Nếu Tiên Nga sử dụng thêm một vài làn điệu dân ca Nam Bộ thì e rằng khán giả lịm ngất! Cậy dựa vào âm nhạc truyền thống và sự tân thời của dàn nhạc thính phòng, biểu hiện bằng một hình thức chỉn chu và mềm mại, Tiên Nga chính thức xác lập bản sắc nhạc kịch Nam Bộ.
Làm sống lại mĩ mãn các giá trị truyền thống, giương cao nhuệ khí và tâm hồn cao nhã của cha ông, lồng ghép nhịp nhàng những thông điệp thời sự, Tiên Nga - đẹp đẽ, thướt tha và lấp lánh như cái tên của nó - đáng được tán thưởng và nô nức đón xem.
Nguồn: http://vannghequandoi.com.vn/Binh-luan-van-nghe/tien-nga-xac-lap-ban-sac-nhac-kich-nam-bo-11712.html
Hồi 2, cảnh 6: Cảnh Beline tố cáo thái độ hỗn láo của Angelique. Ông Vượng (trong vai Thomas Diafoirus); Ông Vĩnh (trong vai Diafoirus); Ông Duyệt (trong vai Argen); Cô Tửu (trong vai Toinette); Bà Kao (trong vai Angelique); Bà Tuất (trong vai Beline)
Hà Nội, tháng 5, 1920. Đây là lần đầu tiên một sự kiện trọng đại, vở kịch “Người bệnh tưởng” được trình diễn tại nhà hát thành phố Hà Nội ngày 25/4/1920. Làm sao mà người An Nam dám mơ dịch tác phẩm này ra tiếng Việt và tự dàn dựng, trình diễn vở kịch này?!
Vở kịch của Molière được dịch ra tiếng Việt là điều mới lạ vô cùng! Thần khí nhà hài kịch vĩ đại Pháp đã nhập được vào hồn người dân Bắc Kỳ, và đã chinh phục một dân tộc khác chúng ta rất xa về cách suy nghĩ, chắc chắn đây là một sự kiện đầy bất ngờ mà trước đó chẳng ai dám nghĩ đến, và nảy sinh các ý kiến rất trái ngược nhau, bán tín bán nghi về một sự thành công.
Tuy nhiên, những người cách tân đã không lầm, và họ đã thành công, nhất là khi người ta muốn đưa ra một tác phẩm đầy tính nhân văn sâu sắc với sinh lực mạnh mẽ của Molière, nó đã hấp dẫn được những khán giả An Nam. Người ta có thể nghi ngại về chất hài hước của vở kịch bị biến đổi, có khi tức bực vì sự nghịch nghĩa do mô phỏng tính hài. Nhưng tài dịch thuật của Nguyễn Văn Vĩnh đã tránh được những sai sót này. Nếu tác giả không thể chuyển tải tuyệt đối được cách nghĩ của người Pháp, - từ vựng trong tiếng An Nam còn khá giới hạn, và chữ Quốc ngữ chưa sẵn sàng để diễn đạt được sự uyển chuyển của văn chương Pháp. Song, chí ít tác giả đã lột tả được giá trị cốt lõi của chất hài trong vở kịch “Người bệnh tưởng”.
Mặt khác, Nguyễn Văn Vĩnh cũng không phải là lần đầu tiên thực hiện việc mô phỏng một tác phẩm văn học Pháp. Ông đang điều khiển tờ báo “Trung Bắc Tân Văn” (La Gazette de l’Annam - Tonkin). Từ 1913, ông đã cố gắng tặng cho độc giả rất nhiều (có thể đến hàng nghìn) trích đoạn từ các tác phẩm văn học cổ điển Pháp. Ông đã dịch “Trưởng giả học làm sang, Lão Hà tiện, Tartuffe, Ngụ ngôn La Fontaine (dịch theo thơ vần), chuyện cổ tích của Perrault, và Gil Blas (tác phẩm đặc biệt thu hút được người dân bản địa). Nhờ vào sự lựa chọn rất thận trọng của Nguyễn Văn Vĩnh, độc giả An Nam đã biết đến những tác phẩm chính của Balzac, và A. Dumas. Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã dám tấn công vào việc dịch Anatole France tinh tế của chúng ta. Gần đây nhất, người ta có thể đọc “Vườn Epicure” trên tờ Trung Bắc Tân Văn.
Do đó, chẳng ai vượt được Nguyễn Văn Vĩnh trong việc truyền bá các tác phẩm văn học cổ điển của chúng ta và thu hút được quần chúng với vở kịch “Người Bệnh tưởng”.
Việc lựa chọn vở kịch này lại càng thích hợp hơn vào thời buổi này, vì trong những năm qua nền giáo dục khoa học đã hoàn toàn đổi mới ở Đông Dương. Những người với lối suy nghĩ cổ hủ theo kiểu nhân vật Diafoirus trong bản kịch được thay thế bởi cả một thế hệ các y sĩ trẻ đầy nhiệt huyết. Biết bao nhiêu điểm tương đồng trong cuộc sống đương thời mà người dân An Nam nhận thấy trong ba màn kịch này của Molière, nó chỉ tô điểm thêm cho tính châm biếm sâu sắc của kịch bản. Tất cả những người nổi tiếng ở bản địa đã chen nhau đến dự buổi trình diễn ngày 25/4 ở Nhà hát Lớn Hà Nội. Nhiều vị quan chức quần áo chỉnh tề, sang trọng, dẫn đầu là Tổng đốc Hà Đông cùng gia quyến đến xem (Hoàng Trọng Phu - con trai Kinh lược đại thần Hoàng Cao Khải - người dịch). Các doanh nghiệp danh tiếng, sinh viên và dân chúng đến chật kín nhà hát từ sớm. Nhiều phụ nữ An Nam kiều diễm trang điểm như đi lễ hội kích thích sự tò mò của đám đông. Tất nhiên, ngài phụ trách hội Khai Trí Tiến Đức An Nam (Phạm Quỳnh - Chủ bút báo Nam Phong và Tổng thư ký hội Khai Trí Tiến Đức - người dịch) đã đứng ra trình bày về ý tưởng và mục đích dàn dựng vở kịch “Người bệnh tưởng” khi vở kịch đã được dịch ra Quốc ngữ. Hội có hai mục đích: đầu tiên là cách tân sân khấu An Nam, sau là góp quỹ cho những người lính thợ Đông Dương hy sinh vì nước Pháp trong đại chiến Thế giới.
Tiếp đó, chính ngài đã trình bày một cách uyên bác sự khác biệt giữa sân khấu châu Âu và An Nam. Cuối cùng, theo ngài sự khác biệt này chính là việc hát đi kèm với dáng vẻ, điệu bộ và âm nhạc trên sân khấu, nó có thể làm cho sướng mắt và vui tai, mà điều này tuyệt nhiên không hề ảnh hưởng chút nào đến thần cảm (tinh thần và cảm xúc - người dịch)”.
Sau khi chỉ ra một cách chính xác rằng, nền sân khấu châu Âu luôn nhắm đến trí tuệ và cảm xúc, và đó cũng là cách giáo dục xã hội tuyệt vời, đúng như lời kết của ngài Phạm Quỳnh “Chúng tôi xin giải thích trước để tránh cho mọi người vốn quen với sân khấu truyền thống, không bị lối nhận định theo cách nhìn cũ khi xem cách trình diễn vở kịch sắp tới của chúng tôi, tránh khỏi những nhận định không đúng. Nếu vở hài kịch sắp diễn được các quý vị yêu thích, nếu các quý vị thể hiện việc muốn thưởng thức, hơn là vẫn nghe những tiếng kêu than, rên rỉ trên sân khấu quen thuộc của chúng ta, vậy thì việc thử nghiệm của chúng tôi đã thành công. Nếu không đạt được điều đó, chúng tôi cũng xứng đáng vì đã dám làm một việc chưa từng có trước đây. Chúng tôi cũng mong có sự độ lượng của các quý vị, tránh không đánh giá nhầm theo lối cũ, dù thế nào đi nữa, mong các vị đừng gay gắt phê phán chúng tôi!”.
Mở màn, 16 nghệ sỹ Thái Hâp (tạm phiên âm từ tiếng Pháp - hiện chưa tra cứu được - người dịch), áo dài hồng, đầu chít dải khăn xanh mềm mại đi vòng tròn, như khúc dạo đầu, các cô múa quạt với thân hình mềm mại uốn lượn một cách kiều diễm. Sau màn dạo đầu, các cô biến vào trong sân khấu, ba hồi trống nổi lên, các nghệ sỹ người An Nam bắt đầu trình diễn vở kịch của Molière.
Cả nhà hát im lặng chăm chú theo dõi. Tất cả khán giả đều tỏ ra căng thẳng, họ cố gắng lắng nghe sao cho chính xác các lời thoại của các nhân vật. Rồi đột ngột, sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng cười qua mỗi cảnh diễn. Người xem cảm thấy mỗi từ ngữ nghe như rõ hơn, dường như mọi người ngày càng bị cuốn hút, vở diễn càng ngày càng trở nên sống động, Molière cứ thế thấm dần với những khán giả mới, với những “đệ tử” mới.
Khi vở diễn kết thúc, tất cả các diễn viên đã trở lại sân khấu, họ trình diễn một màn trang phục dân tộc thật ấn tượng. Đây là một tạp chí sân khấu gồm các nhân vật trong các truyền thuyết kỳ quái kiểu Tàu, như: mặt nạ tuồng, màu sắc sặc sỡ, áo quần trang trí rực rỡ và lạ mắt, kèm theo là những tiếng hét nạt nộ, cùng với những tiếng kêu thất thanh theo lối tưởng tượng của các dân tộc châu Á. Và một lần nữa, lại xuất hiện trên sân khấu rực rỡ sắc màu vàng đỏ, chính là các nữ nghệ sỹ với áo dài hồng và khăn xanh nhạt đã xuất hiện ngay từ đầu của buổi trình diễn. Các nghệ sỹ đã gửi lời chào mừng từ đất nước An Nam tới ông Tổng phụ trách hội Khai trí Tiến Đức, người đã trịnh trọng đến dự buổi ra mắt đầu tiên vở hài kịch của nhà đại văn hào thiên tài Pháp Molière.
|
Trần Thu Dung dịch
Nguồn: Francois de Tessan - TP
Nguồn: Tạp chí sông Hương, ngày 26/01/2015
Mấy năm gần đây, chị phát hiện mình thường buồn rất lâu khi... xem phim khoa học giả tưởng. Tự thấy kỳ lạ nhưng chị không khiến mình hân hoan được. Có hôm “không thấy sao”, chị mừng thầm. Ngờ đâu, mấy tuần sau, xem phim mới, chị nhớ phim cũ rồi “buồn sỉ”.
Chị còn nhớ rõ bộ phim khiến chị bắt đầu nghĩ ngợi là Interstellar (tựa Việt: Hố đen vũ trụ, 2014). Cooper - cựu phi công của NASA - tạm biệt bố vợ Donald và con trai Tom, con gái Murphy để bước vào cuộc đi tìm một hành tinh mới cho loài người. Mỗi lần Cooper gọi về nhà là một lần khán giả chứng kiến sự thay đổi của hai đứa con anh. Tom và Murphy già đi theo năm tháng rồi Tom từ giã cõi đời, trong khi cha của chúng vẫn trẻ măng và ở trong một chiều nào đó của vũ trụ. Trong nhiều năm tháng, bao nhiêu tin nhắn con gửi cha trôi theo bóng tối. Ánh nến trên chiếc bánh kem sinh nhật của Murphy dần nhạt nhòa theo lời hứa: “Bao giờ con bằng tuổi ba thì ba sẽ về bên con”.
Chị ngậm ngùi không chỉ vì nỗi cô đơn cùng cực của kẻ du hành, vì tình cha con không trọn vẹn mà còn vì nhớ... Từ Thức. Câu chuyện ngày nhỏ luôn khiến chị bâng khuâng sao người đi một lần thôi là quê nhà xa ngái không về được nữa. Hóa ra, Từ Thức là nhà du hành vũ trụ đầu tiên mà “hoa tiêu” là nàng tiên Giáng Hương. Thật ngưỡng phục chất minh triết và lãng mạn, mượt mà trong cách ông cha hình dung, lý giải sự co giãn của thời gian giữa các hành tinh trong vũ trụ. Chị cũng nhận ra cỗ máy du hành của các nhà làm phim Hollywood có sự trùng khít mãnh liệt với “cái hạc” của Tản Đà:
Cái hạc bay lên vút tận trời!
Trời đất từ đây xa cách mãi.
Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ,
Ngàn năm thơ thẩn bóng trăng chơi.
Vậy đó, rồi ngẩn ngơ thương những cuộc biệt ly đậm tinh thần vạn triệu thiên hà.
Giáng sinh 2016, chị đi xem Passengers (tựa Việt: Người du hành) vì lời quảng bá ngồ ngộ là phim thuộc thể loại ngôn tình vũ trụ. Bối cảnh phim diễn ra trong chiếc phi thuyền hiện đại Avalon đang chở 5.000 hành khách từ trái đất đến hành tinh Homestead 2. Thời gian dự kiến đổ bộ xuống hành tinh mới là 120 năm. Toàn bộ hành khách lẫn phi hành đoàn đều được cài đặt trạng thái ngủ đông trong những chiếc kén sinh học nhằm giữ nguyên sức khỏe và tuổi thọ. Không may, chiếc kén của Jim Preston bị hỏng. Anh thức dậy sớm đến 90 năm. Hết hoảng hốt đến thụ hưởng chán chê các tiện nghi trên tàu, Jim không chịu nổi cảm giác cô độc và liều mở chiếc kén của hành khách nữ Aurora (ở trái đất, Jim là thợ máy). Chuyện phim ngọt ngào lẫn đắng cay (ngôn tình cơ mà). Nhưng man mác đọng lại nơi chị lại là dự cảm về khoảng cách giàu nghèo trong tương lai. Siêu xe, du thuyền, phi cơ, căn hộ cao cấp, biệt thự, các chuyến du lịch, cổ phiếu... không còn to tát nữa mà những tấm vé định cư ở “Elysium” - chốn trú thân thượng hạng trong vũ trụ, những bất động sản thuộc hành tinh khác, những toa hạng sang cùng những chiếc kén tiện nghi để dịch chuyển suốt không gian mới là thời thượng.
Đà phát triển vũ bão của công nghệ chính là một lực hích để con người nhìn nhận rõ hơn và tận dụng các giá trị cao quý của giống loài, từ đó thiết lập những “rào chắn” hữu hiệu, hợp lý. Đó còn là cơ hội để con người hôm nay kịp giật mình, kịp sống trọn vẹn trước khi bước vào phòng tiệc vĩnh hằng rất xa trần thế. |
Nhưng phải đến Ghost In The Shell (tựa Việt: Vỏ bọc ma, 2017) và gần nhất là Blade Runner 2049 (tựa Việt: Tội phạm nhân bản, 2017) thì chị mới thực sự... tê tái. Một ngày không xa, ta sẽ không biết kẻ đang ngồi chờ xe buýt, kẻ đang ăn uống đối diện ta hay gương mặt nghệ sĩ đẫm lệ dưới ánh đèn sân khấu kia là người hay là máy, là xương thịt hay là ảnh ảo. Các biển hiệu đèn led vào bảo tàng nằm chơi vì người ta đã tạo được vô số robot quảng cáo đa chiều, to tướng, hoặc vắt vẻo hoặc múa may trên các cao ốc. Khi đó, con người có thể tậu cho mình “người yêu công nghệ”, bật lên hay tắt đi chỉ bằng một cái nút trên remote chứ không cần chiếm diện tích và dễ bị dòm ngó như búp bê tình dục. Khủng khiếp hơn, robot sẽ được “cấy” ký ức giả để cạnh tranh với hoài niệm, nhớ nhung của loài người. Những xúc cảm đầy tao nhã, nhiều giằng xé mà thi ca nhạc họa da diết tôn thờ không còn là độc quyền của nhân loại. Và, khi đã có thể tự sinh nở, robot sẽ nói lời đoạn tuyệt với chủ-người để chính thức khẳng định quyền công dân trên toàn cầu, bình đẳng và kiêu hãnh. |
Đâu chỉ có vậy, mấy bộ phim dồi dào công nghệ còn đưa chị vào những chơi vơi khác. Rồi đây, con người sẽ không còn chút riêng tư nào. Chủ nghĩa khủng bố và các bãi thử hạt nhân đáng sợ của thế giới hiện đại chưa phải là thứ ghê gớm nhất mà chính các loại chip theo dõi tinh vi mới đẩy con người vào thảm kịch mất tự do tuyệt đối. Xã hội trở thành “nhà ngục” rộng lớn và ai trong chúng ta cũng có thể là “tù nhân”.
Mà chắc gì chỉ cõi lòng loài người mới lâm li? Xem Transformers, Baymax, Chappie... mới thấy con người cũng tệ tình với robot. Họ tra tấn, uy hiếp, tận diệt những dòng robot lỗi thời hoặc có vẻ “người” quá. Những con robot trốn chạy, tủi phận mà vẫn trung thành, “từ tâm” với người tạo ra mình. Nếu chúng lưu lạc đến xứ này, chị sẽ đọc chúng nghe bài ca dao:
Má ơi đừng đánh con đau
Để con bắt ốc hái rau má nhờ
Má ơi đừng đánh con hoài
Để con hát bội làm đào má coi...
Sẽ có người thốt lên rằng những câu chuyện trong phim khoa học giả tưởng là kiểu “time after time”, “somewhere in time”, hà cớ gì phải tin tưởng hay bận lòng! Nhưng đừng quên rằng văn chương nghệ thuật vốn dồi dào chức năng dự báo. Tấm thảm bay, chiếc gương thần giúp nhìn thấy người ở xa lơ xa lắc, bánh mì chuyển ngữ... chẳng phải đã được hiện thực hóa hết rồi sao? Vậy thì, có xa xôi gì đâu, những thứ được mặc định là giả tưởng rồi sẽ nhanh chóng trở thành sự thật. Thế nên, những viễn cảnh ngốn lắm tiền nhiều của trên màn ảnh rộng kia thực chất là “tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao” (1) của những nghệ sĩ vô cùng mẫn cảm trước cuộc đời.
* * *
Vậy ra là, con người đã không ngừng tưởng tượng và hành động bằng công nghệ nhằm thay đổi thế giới, để rồi lại bị chính “tác phẩm” của mình soán ngôi đổi vị? Biết vậy sao không dừng lại? Bất khả. Vì lịch sử là một con đường tịnh tiến, bao gồm lịch sử công nghệ. Đó là chưa kể đến sự cuồng tín lớn lao của triệu tỉ con người trên thế giới dành cho những đột phá trong kỹ thuật số, sinh học và vật lý hôm nay. Một buổi trưa ở Tokyo, chị tròn xoe mắt khi thấy rất nhiều thanh niên mặc veston chỉn chu “cày bừa” trong tiệm game online. Chừng hiểu ra, chị bỗng xót xa cho những nhân viên văn phòng vốn đã dán vào màn hình máy tính hơn mười tiếng mỗi ngày mà vẫn tiếp tục hành hạ đôi mắt và bộ não trong giờ nghỉ. Mà nói đâu xa, ngay cả chị - một người lơ ngơ với công nghệ - cũng kịp nhận ra khí quyển của mình đầy công nghệ. Một lũ lít nhít thường trực trên giường ngủ chị: điện thoại, máy tính bảng, máy đọc sách, máy tính xách tay..., nghễnh ngạo, bất chấp những khuyến cáo về sức khỏe. Sóng Wifi cả ở nơi làm việc và nhà chị luôn phát 24/24 giờ. Chị, những người Nhật trẻ tuổi kia hay hằng hà sa số tín đồ công nghệ khác đều đang trong cơn “vô thức tập thể”, bị lệ thuộc máy móc và xa rời yếu tính tự nhiên hồi nào không biết. Như cái cây bị bứng khỏi đất, bị đặt vào chậu kiểng mà còn sung sướng mãn nguyện rằng mình ở ngay trong lòng văn minh thứ thiệt.
Chị vẫn còn nhớ, đầu thập niên 90 của thế kỷ trước, tại thành phố lớn nhất Việt Nam, cả xóm dùng chung một chiếc điện thoại bàn. Mỗi khi có ai gọi, người nghe được ba bốn người đấm cửa, réo tên. Vội vàng chạy sang cầm ống nghe thì đầu dây bên kia đã cúp máy. Thế mà vẫn phải trả phí cho chủ cái điện thoại. Vài năm sau, bắt chước phim Hồng Kông, người người trang bị phonelink. Tiếp đó, họ vẻ vang tậu cho mình những “cục gạch” mà mỗi lần muốn nhắn tin chữ c thì phải ấn cả chữ a lẫn chữ b. Rồi tự bao giờ, điện thoại thông minh với hàng loạt ứng dụng Facebook, Zalo, Viber, Instagram, Wechat... cùng vô số trang mạng trở thành hiền hữu của tất thảy nam phụ lão ấu ở một đất nước còn nghèo về kinh tế, tri thức và thề quyết sẵn sàng ngốn ngấu bất kỳ thông tin nào. “Nhớ gì như nhớ người yêu” (2) là cảm giác để quên điện thoại thông minh đâu đó, với nhiều người hôm nay.
Thời đại số không chỉ biến hóa bao người thành “chuyên viên” tra cứu, đối thoại mẫn cán, tình nguyện, thậm chí hư huyễn trước màn hình mà còn đảo lộn nếp sinh hoạt truyền thống của họ, từ mua bán, học hành, lao động, ăn uống, nội tế, ngoại giao cho đến... gọi cuốc xe ôm. Tinh hoa công nghệ giúp cuộc sống thuận lợi, đa sắc hơn nhưng cũng đẩy con người vào nạn thất nghiệp, ỷ lại, chây lì, vô cảm, hùng hổ, bung bét chữ nghĩa và trượt dài trong nỗi “cô đơn trên mạng”. Dù nhiều nhà khoa học đã chứng minh tuyên bố “sẽ hủy diệt nhân loại” của Sophia - robot được cấp quyền công dân đầu tiên trên thế giới - chỉ là trò con nít nhưng nếu nhạy cảm, ta sẽ thấy vị thế “duy ngã độc tôn” của loài người đang lung lay một cách đáng báo động. Chị sợ hãi nghĩ đến lúc muốn ngắm đôi mắt trong veo của đứa trẻ cũng khó, vì hàng triệu ánh nhìn đã được đúc rập như nhau.
Vậy thì, trong lúc chờ những AI, IoT, robot, 3D, Big data... trỗi dậy, thậm chí thắng thế, chúng ta nên làm gì? Tự nhiên chị thấy mình ngớ ngẩn siêu phàm khi đặt ra một câu hỏi đầy “thái độ hiện sinh” về nhân loại. Chị nào phải Nietzsche mà ràng mình vào sứ mệnh lý giải thể tính nơi con người thực tại đồng thời dõi theo thân phận của họ trong nhiên giới. Nhưng ai cấm chị “nuôi con sông nhỏ mơ màng biển xanh” (3)? Thì thôi, tùy theo sức của mình. Thay vì buồn tênh “chờ nghe thế kỷ tàn phai” (4), chị sẽ tranh thủ yêu thương, hít thở và sờ ngắm thế gian. Chị nhất định phải tận hưởng cảm giác “Đường về hái nụ mù sa/ Đưa theo dài một nương cà tím thôi”(5) mà thi ca đã dệt nên, mộc mạc và ngọt lịm. Và nếu có phải nếm trải sự phũ phàng của đời sống, chị thà “leo lên cành bưởi nhớ người rưng rưng” (6) cho đã đời chứ không muốn được vô trùng trong một chiếc kén an toàn. Cảm giác được đụng vào tim, được chạm mút cùng cõi thế hẳn nhiên diễm phúc hơn tọa thiền trong địa đàng ba, bốn chiều siêu thực.
Quyển truyện cổ giấy đen bám bụi nhà chị có câu chuyện Bốn người Bà la môn và con sư tử. Bốn người đều tầm sư học phép thuật. Sau khi thành tài, trên đường trở về nhà, họ gặp một bộ xương sư tử. Ba người giỏi giang trong nhóm tìm cách “phục hưng” vị chúa tể sơn lâm. Riêng anh học dở hơn leo lên cây trốn sau khi khuyên nhủ các bạn bất thành. Dĩ nhiên, chỉ mình anh ta còn sống. Câu chuyện của cổ nhân đã khẳng định chính trí tuệ xúc cảm (EQ) quyết định sự sống còn của con người. Cha ông đã vạch sẵn con đường hiền anh như vậy, sao không an nhiên cứ thế mà đi? Đà phát triển vũ bão của công nghệ chính là một lực hích để con người nhìn nhận rõ hơn và tận dụng các giá trị cao quý của giống loài, từ đó thiết lập những “rào chắn” hữu hiệu, hợp lý. Đó còn là cơ hội để con người hôm nay kịp giật mình, kịp sống trọn vẹn trước khi bước vào phòng tiệc vĩnh hằng rất xa trần thế. Nhân loại cần sản sinh thêm ước mơ, lòng dũng cảm, tri thức và những giá trị đẹp đẽ khác trong thân tâm để cân bằng công nghệ chứ đâu phải khiếp đảm, co cụm và bạc nhược. Rumi - nhà thơ uyên bác xứ Ba Tư - chẳng phải đã nói rằng “Bạn không phải giọt nước/Giữa mênh mông đại dương/Mà là đại dương lớn/Trong giọt nước bình thường” đó sao?
Bất chợt, chị nhận ra rằng, nhờ ý thức sẽ có ngày mọi thứ được quyết định bằng một nút bấm, nhờ ngộ ra mình vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm trong việc để công nghệ thân thiết quá mức mà chị bớt hờ hững với thời cuộc. Chị vừa mon men tìm cách nhìn thẳng vào “vấn nạn văn minh” đó thay. Ơn trời, lẽ nào cách mạng 4.0 khiến thái độ sống của chị trở nên ít nhiều tích cực? Vậy là phải biết ơn cách mạng. Bỗng sung sướng muốn hét lên: Ôi, nhân loại ơi! Ngày nào mi còn nhức mắt vì nữ diễn viên không mặc nội y trong phim thời hậu chiến, còn phàn nàn phim mặc trang phục quốc hồn quốc túy mà nói chuyện xuyên không, còn chăm chỉ ghép ảnh hoa hậu với cá cảnh, còn đùng đùng uất giận ai manh nha đổi thay chữ viết, còn bài bác kẻ nhập nhằng xã hội học với văn học... thì ngày đó, mi hãy còn đáng yêu lắm lắm! Bởi, còn xích mích, còn dằn dỗi thế kia nghĩa là còn muốn với lấy đời nhau. Và quan trọng là nên mừng húm vì... chưa thành robot.
Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần, rốt cuộc, “cơi đựng trầu” chị tự nhủ: biết mình có thói sầu lo ẩm ương vậy, hay là thôi, đừng xem phim khoa học giả tưởng nữa!
Nhưng chắc vẫn phải xem thôi. Đặng tận hưởng suối nguồn dịu dàng và rung động sâu xa của cảm giác... thất tình nhân loại.
(1) Thơ Phạm Thiên Thư
(2) Thơ Tố Hữu
(3) Thơ Phạm Công Thiện
(4) Nhạc Trịnh Công Sơn
(5) Thơ Phạm Thiên Thư
(6) Thơ Phạm Thiên Thư
Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/268639/Ai-doi-thay-ai.html
Hơn 100 họa sĩ chuyên nghiệp được tuyển chọn từ khắp nơi trên thế giới đã thực hiện 65.000 bức tranh sơn dầu tuân thủ chặt chẽ thủ pháp của Van Gogh. Từ đây các nhà làm phim đã dựng lại cuộc đời một con người vốn dĩ chỉ còn lại 800 manh mối là tranh và khoảng vài chục lá thư gửi cho người em trai. Trong ảnh: Anna Kluza, một trong những họa sĩ đầu tiên được mời tham gia dự án. Nguồn: cartoonbrew.com
125 họa sĩ sơn dầu chuyên nghiệp từ khắp nơi trên thế giới đổ về hai studio ở Ba Lan và Hy Lạp để cùng nhau biến một dự án lãng mạn, điên rồ trên giấy thành phim truyện dài - hoạt hình sơn dầu hoàn toàn đầu tiên trên thế giới, Loving Vincent (Vincent thương mến), bất chấp kinh phí làm phim hạn hẹp.
Chuyện về cuộc đời và cái chết của Van Gogh, vừa quá quen nhưng cũng lạ lùng với công chúng số đông và ngay cả với các nghệ sĩ trong giới mỹ thuật. Bắt đầu vẽ từ năm 28 tuổi khi chưa hề qua trường lớp nào, Van Gogh trong giai đoạn cuối đời đang tĩnh dưỡng để chữa trị chứng bệnh tâm lí nặng nề đã một lần cắt tai, một lần tự bắn vào bụng mình rồi chết sau đó ít ngày, để lại 799 bức tranh hoàn toàn không bán được, trừ một bức.
Phim không hẳn đã tuyệt vời vì nhiều điều còn có thể khác đi nhưng như bức tranh độc bản - một lần và vĩnh viễn không bao giờ lặp lại, ngay cả những nét chưa tròn cũng là một lựa chọn làm nên tuyệt tác riêng tư. Thủ pháp kể chuyện cổ điển, dễ xem, dễ hiểu, rất từ tốn, xây dựng lại các manh mối về cuộc đời nhân vật thông qua cái nhìn (điều tra) của một nhân vật khác (mà ở đây là Armand Roulin, một nhân vật có thật trong tranh của ông). Bằng cách ấy, các nhân vật xung quanh (một dạng “nhân chứng”) sẽ cung cấp các dữ kiện - góc nhìn - kiến giải - phỏng đoán… Người xem ban đầu cảm thấy hơi tẻ, nhưng sau khoảng 10-15 phút thì bắt đầu bị cuốn. Nói cách khác, ban đầu chúng ta cũng như anh dẫn chuyện kia, có sự thờ ơ vì mọi sự rõ như ban ngày, nhưng rồi, bồi đắp từ từ, bóng dáng của Vincent Van Gogh hiện lên rõ dần, một khối cảm xúc lớn lên theo đó, và chúng ta bị cuốn vào phim lúc nào không hay. Đến tầm 1/3 phim trở về sau, nhịp kể đã đạt ngưỡng hấp dẫn nhưng vẫn giữ cho phim ở một ranh giới hoàn hảo (dẫu rất mảnh) của cảm giác “thương mến”! Người xem bắt đầu hồi hộp, bắt đầu hoài nghi, bắt đầu chất vấn ngược những giả thiết mà mình đã đọc từ rất lâu ở khắp mọi nơi.
Lựa chọn kể một phiên bản Van Gogh có phần kịch tính và hồi hộp như một phim điều tra theo kiểu trinh thám Agathe Christie, là lựa chọn quá thông minh của hai đạo diễn Dorota Kobiela và Hugh Welchman. Nhưng có lẽ với một phim “hoạt hình” tinh xảo hoàn toàn từ tranh sơn dầu mang phong cách chuẩn Van Gogh, “câu chuyện diễn ra” không phải yếu tố quan trọng nhất mà người xem đã biết trước là phim về cuộc đời Van Gogh - đặc biệt quãng trước khi ông chết. Cái cuốn hút hơn chính là từng khuôn hình làm theo lối 12 hình trên giây bám theo những kiến giải tinh vi về bút pháp trong tranh danh họa - nét đi, nét lại, nét đậm, nét mờ… - tất cả tạo ra một sự gián cách với việc “Phim kể về cái gì? Phim đang diễn tiến ra sao? Đã đến tình huống nào rồi?” Tôi tin, cảm giác này đến với hầu hết khán giả trên toàn thế giới, những người cuồng Van Gogh!
Sự phấn khích khi được xem cuộc đại - tiểu - vi phẫu bút pháp của Van Gogh kéo dài đến tận giữa phim, cách mà các họa sĩ hiểu từng đường đi, từng mạnh nhẹ của nét bút, cũng là cách mà họ sáng tạo nên - phục chế từng khung hình, mà mỗi khung đơn lẻ đều xứng là một bức tranh độc lập - duyên dáng - đáng giá, tất nhiên mang nặng phong cách của Van Gogh, với đầy sự nể vì, ngưỡng mộ và yêu thương!
Loving Vincent là một kho tàng đồ sộ và cực kỳ sáng tạo cho bất cứ ai ngưỡng mộ Van Gogh, bởi vì có lẽ lần đầu tiên, các nhân vật trong tranh - bác sĩ Gachet, thiếu nữ đánh dương cầm, thằng quỷ tóc đỏ, gã Rene, bác sĩ Mazuline, ông bưu tá, cô gái con ông chủ quán rượu, những người ở bến thuyền, thậm chí cả bọn quạ đen trên cánh đồng lúa, đám hoa diên vĩ, hay nhà thờ ngày chủ nhật… tất cả đột nhiên hiện ra, ngời ngời và rõ nét, kẻ u sầu, kẻ phớt đời, kẻ thô lỗ, gã say sưa… Họ ở đó, đúng như từ tranh của Van Gogh bước ra, nói chuyện, cử động, hành xử, phán quyết…, với sức sống do Van Gogh ban cho còn hơn cả nét chấm của Mã Lương trong thần thoại. Họ từng là những người có thật, nhờ đi vào tranh Van Gogh mà trở nên bất tử, và hôm nay, họ lên phim, không phải như một nhân vật trong tranh, mà như những nhân vật độc lập được lí giải qua cái nhìn - trí tưởng tượng của hơn 100 họa sĩ khác. Đó là sự kết nối kì diệu tạo nên màn trình diễn đương đại khổng lồ trong Loving Vincent…
Các diễn viên được chọn lựa sao cho giống nguyên mẫu nhất có thể và từ đó đạo diễn dàn cảnh để họ diễn trong trường quay, trên phông xanh lá, đưa vào máy tính thay đổi thành phông nền vẽ dựa trên các dữ liệu mà tranh Van Gogh cung cấp. Trong ảnh: Hai diễn viên Chris O’Dowd và Douglas Booth trong một cảnh phim. Nguồn: cartoonbrew.com
Tôi vẫn nhớ cả rạp đã ồ lên khi lần đầu tiên cận cảnh bác sĩ Gachet, người đàn ông sầu muộn tóc đỏ bị những ước vọng bủa vây. Vẫn chính là bức tranh đã thôi miên hàng triệu triệu lứa người yêu hội họa, giờ xuất hiện trên phim, chân xác và căng đầy biểu cảm. Trong phim, ông đã rời khỏi dáng nghiêng nghiêng buồn thảm, bắt đầu nói chuyện, sửa cổ áo, bắt đầu cãi vã, bắt đầu rưng rưng… Và khán giả thì rung động tận đáy lòng; lúc ấy cảm giác chẳng khác nào họ đang tham gia vào màn trình diễn bất tận dành cho Vincent Van Gogh - người mà qua bộ phim này, hình như cô độc nhất thế gian!
Yêu thương như tựa phim đã nói: Loving Vincent! Phải rồi, không mến thương không có bộ phim này - bộ phim này là kết quả và bằng chứng của tình yêu thương - bộ phim này nhân danh tình yêu, thứ tình yêu trong trẻo như những giọt lệ rớm trên mi mắt của nàng Margaret Gachet - người thiếu nữ đánh dương cầm đã sống độc thân 44 năm sau khi Van Gogh ra đi. Bức họa thiếu nữ chơi dương cầm mà Van Gogh họa bà luôn được treo trân trọng trong phòng ngủ suốt những năm tháng sau này, có khi cũng là một lời thì thầm Vincent thương mến!
Cầu kỳ nhất, khó tin nhất và lãng mạn nhất
Để tạo ra Loving Vincent, Dorota Kobiela và Hugh Welchman đã lựa chọn phương án cầu kì nhất, khó tin nhất nhưng cũng lãng mạn nhất thế gian. Nghĩa là một dạng sản xuất phim hoạt hình nhưng dựa trên ba nguồn dữ kiện: một là phần hình ảnh đóng diễn của diễn viên người thật; hai là nhân dạng và bối cảnh, màu sắc, không khí đã được quy ước trong 800 bức tranh của Van Gogh; ba là… sự sáng tạo cá nhân dựa trên niêm luật và bút pháp quy chuẩn của Van Gogh!
Các diễn viên được chọn lựa sao cho giống nguyên mẫu nhất có thể và từ đó đạo diễn dàn cảnh để họ diễn trong trường quay, trên phông xanh lá, đưa vào máy tính thay đổi thành phông nền vẽ dựa trên các dữ liệu mà tranh Van Gogh cung cấp, ghi hình lại bình thường, thực hiện cắt dựng rồi các họa sĩ sẽ vẽ từng khung hình sao cho đúng với yêu cầu của kịch bản và đạo diễn. Nhưng như thế chưa đủ, các khung hình này còn là những bức họa rất đặc sắc, hoàn toàn thủ công và cực kì tinh xảo cũng như sáng tạo, được thực hiện bởi hơn 100 họa sĩ chuyên nghiệp. Họ tham gia dự án bằng tình yêu và lòng ngưỡng mộ sâu sắc với Vincent Van Gogh. Chất liệu sơn dầu đã tạo nên một phim hoạt hình độc đáo và không thể lặp lại - hoàn toàn tương xứng với câu chuyện về số phận độc đáo của người nghệ sĩ chưa từng lặp lại: Vincent Van Gogh. Đạo diễn nữ của phim - Dorota Kobiela - vốn là một họa sĩ sơn dầu, nói rằng, chỉ tính riêng phần thời gian thôi, một họa sĩ làm việc liên tục không ăn ngủ cũng phải mất 80 năm để thực hiện xong chừng đó bức sơn dầu!
Loving Vincent do Dorota Kobiela (Ba Lan) và Hugh Welchman (Anh) đạo diễn, dài 94 phút, được chiếu ra mắt tại LHP Hoạt hình quốc tế Annecy, Pháp, hồi tháng Sáu mới đây và được cả khán phòng đứng dậy vỗ tay hoan nghênh 10 phút liền (sau đó, phim đã nhận giải do khán giả bình chọn). Phim được chiếu rộng rãi ở nhiều nước từ tháng Chín, và ở Việt Nam từ đầu tháng 10 này. Nguồn: hollywoodreporter.com
Kinh phí làm phim hết sức hạn hẹp, nếu bạn nhìn thẳng vào quy mô và hiệu quả của dự án này: Năm triệu đô không đủ để có từng đó tài hoa tham gia vào dự án, không đủ để tiến hành một bộ phim theo cách quá nhiều mơ mộng như Loving Vincent. Nhưng cũng chính sự mơ mộng của những nghệ sĩ đã kéo theo sự mơ mộng của những nghệ sĩ khác… Loving Vincent không còn là dự án lãng mạn điên rồ trên giấy. Những họa sĩ tuyệt vời từ khắp nơi trên thế giới đổ về hai studio ở Ba Lan và Hy Lạp, chỉ cần được vẽ, chỉ cần được tái hiện những rung động, những chắt chiu mà Van Gogh đã trải. Bốn năm ròng cho những bức vẽ mà cứ 12 bức mới tạo nên một giây hình. Bốn năm ròng những diễn viên có thật, giọng nói, cơ thể, biểu cảm, thần thái có thật được họa lại trên tranh. Các nhân vật trong tranh bước đi trong khung cảnh mà Van Gogh ghi lại theo cách của riêng ông, giờ đây đã thành thế giới được chia sẻ với tất thảy khán giả.
Bộ phim có lẽ là một minh chứng sống động và… lộ liễu nhất nhưng cũng nhuần nhụy nhất về sự tương hợp giữa kĩ thuật truyền thống và công nghệ hiện đại. Nếu có ở đâu ta nhìn rõ sự giao thoa (đến sờ cầm nắm chạm được) của các ngành nghệ thuật khác với điện ảnh thì chính là ở đây: Loving Vincent, phim truyện dài - hoạt hình sơn dầu hoàn toàn đầu tiên trên thế giới.
Và nhiều khả năng là… duy nhất!
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 6.10.2017
Đang có 254 khách và không thành viên đang online
Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929