Tóm tắt: Trong lĩnh vực sinh thái đô thị, căn tính- địa điểm là một trong những vấn đề cốt lõi thu hút các nhà lí thuyết nhằm nghiên cứu về mối quan hệ giữa con người và môi trường xung quanh. Nói chung, nơi chốn tạo ra cảm giác gắn bó hoặc thuộc về cá nhân; giúp các cá nhân xác định họ là ai; củng cố căn tính và thậm chí thay đổi các cá nhân. Sự hiểu biết về căn tính-địa điểm là cơ sở cho phân tích của tôi về danh tính liên quan đến thiên nhiên và đô thị trong tiểu thuyết Phố vẫn gió của Lê Minh Hà. Đầu tiên tôi sẽ phân tích các không gian kiến ​​trúc ở Hà Nội sau năm 1975, chú ý đến việc mở rộng đô thị tự phát diễn ra trong các khu dân cư. Tôi lập luận rằng, không gian sống là sự tự khẳng định vị trí của cá nhân không chỉ với hàng xóm xung quanh mà còn với môi trường tự nhiên. Việc nghiên cứu không gian đô thị là tiền đề để tôi phân tích hai đại diện của bản sắc trong tác phẩm. Đầu tiên, nó là căn tính của các cá nhân trong việc khẳng định quyền lực của họ đối với những người khác. Thứ hai, bản sắc không chỉ được xem chỉ là ý thức của con người mà còn là “nhận thức về thành phố”. Trong cuộc đấu tranh giữa Hà Nội cũ và Hà Nội mới, Hà Nội mới, nhếch nhác và xô bồ đã thắng thế. Điều này dẫn đến sự thay thế các không gian kiến ​​trúc kiểu Pháp trước đây (thường được coi là kiến trúc truyền thống và quyến rũ) bằng các tòa nhà hào nhoáng hiện tại. Khám phá mối quan hệ giữa thiên nhiên, đô thị và căn tính sẽ mang lại một cái nhìn mới về văn học viết về thiên nhiên trong văn học Việt Nam tại nước ngoài.

Từ khoá:  căn tính-địa điểm, phê bình sinh thái, nghiên cứu di cư, Lê Minh Hà, Phố vẫn gió.

Abstract: In the field of urban ecology, place-identity is one of the core issues which attract theorists to research about the relationship between human beings and their surroundings. Generally, the place is to engender the sense of attachment or belonging for the individual; the place helps individuals to define who they are; the (built and non-built) environment reveals the nature of self, strengthen self-identity and even alter the individuals. This understanding of place-identity is the basis for my analysis of identity in relation to the representation of urban in the novel Phố vẫn gió by Lê Minh Hà. I will first analyze the architectural spaces in Hanoi after 1975, paying particular attention to the spontaneous urban expansion taking place in residential areas. I argue that this kind of living space not only reveals the residents’s desire for a personal space toward their neighbors. It is also the self’s articulation of its position towards the natural environment. With the expansion of urban space, the built environment has shown itself to be a winner with the non-built environment. The study of urban space expansion is the premise for me to come up with the analyses of the two representations of identity in the work. First, it is the self-identity of the individuals in asserting their powers over others. Second, identity is not only viewed exclusively as the human being’s consciousness but also as the “awareness of the city”. In the struggle between the old and the new Hanoi, the new but ugly Hanoi has won. This led to the replacement of French-style architectural spaces in the past (often regarded as traditional and charming architecture) with grotesque buildings in present. Exploring the relationship between nature, urban and identity will bring a new perspective on the literary representation of nature in Vietnamese diaspora literature.

Keywords: place-identity, ecocriticism, diaspora studies, Lê Minh Hà, Phố vẫn gió.

Sự hình thành căn tính-địa điểm

Kể từ khi xuất hiện vào giữa những năm tám mươi của thế kỉ XX, phê bình sinh thái, hay “sinh thái văn học”, đã nhấn mạnh vào các nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn học và môi sinh. Trong khi các học giả dùng nhiều thuật ngữ khác nhau để gọi tên các hiện tượng phê bình sinh thái, họ đều chia sẻ chung mối bận tâm trong việc phân tích sự biểu hiện của tự nhiên, bao gồm đất đai, địa điểm, vùng hoang dã, trong văn học; mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên; vai trò của bối cảnh vật chất trong tiểu thuyết; ảnh hưởng của khủng hoảng môi trường trong văn học và văn hóa [8, tr. xix]. Tuy nhiên, qua ba giai đoạn phát triển của chủ nghĩa phê bình sinh thái, tính chất thành thị, mặc dù được hiểu theo nghĩa rộng của phê bình sinh thái, chưa được nghiên cứu chuyên sâu xét về mặt ứng dụng và lí thuyết.

Trong khi thành phố “gắn liền với các quá trình thay thế thay vì dung chứa tự nhiên và động vật hoang dã” [3, tr.1], phê bình sinh thái học dường như xem xét các nghiên cứu về vùng hoang dã hoặc ý thức về môi trường sinh thái. Tuy nhiên, những phát hiện của Lewis Mumford, Yi-Fu Tuan và Lawrence Buell đã gợi ý rằng sự phân biệt giữa “thành thị và hoang dã, giữa môi trường tự nhiên được con người tạo ra và sinh sống, và môi trường được tạo ra bởi các thế lực tự nhiên và nơi sinh sống của các loài động, thực vật, và các sinh vật sống khác” không phải lúc nào cũng tồn tại [3, tr. 1].

Lewis Mumford trong nghiên cứu mang tính bước ngoặt của ông vào năm 1938 Văn hóa các thành phố đã coi thành phố không chỉ “nảy sinh từ nhu cầu xã hội của con người và nhân lên cả hai phương thức và phương pháp biểu hiện” mà còn là sản phẩm của trái đất và của thời gian [7, tr. 4]. Ông nhận ra vị trí của thành phố trong tự nhiên “giống như một cái hang […] hay một đống kiến” [7, tr. 5], tức là công nhận một vật thể do con người xây dựng như một vật thể tự nhiên; “một tác phẩm nghệ thuật có ý thức” có nghĩa là công nhận một đối tượng cụ thể là tồn tại trừu tượng và tưởng tượng. Tuan cũng mô tả không gian đô thị như một bức tường thành để nhân loại thoát khỏi “sự bạo lực của thiên nhiên” [17, tr. 10]. Theo nghĩa này, không gian đô thị đóng vai trò là nơi trú ẩn cho loài người chống lại sự độc tài của thiên nhiên [14, tr. 4]. Sáu phép ẩn dụ tinh tế do Lawrence Buell đề xuất cho mối quan hệ giữa thiên nhiên / môi trường và không gian đô thị cũng đề cao mối quan hệ giữa thành phố và môi trường tự nhiên. Từ những phép ẩn dụ cổ điển coi thành phố là “nhị phân giữa đô thị-thiên nhiên” hoặc thành phố là “sinh vật vĩ mô toàn diện” đến cách hình dung sáng tạo hơn về thành phố như một tập hợp rời rạc, như một văn bản, như một mạng lưới và như một sự khải huyền, Lawrence ngụ ý sự hiểu biết về thành phố như một phần của hệ sinh thái, mặc dù nó biến đổi theo những thay đổi của môi trường bên ngoài theo thời gian [10, tr. 11].

Cùng với các nghiên cứu xem đô thị được tích hợp vào hệ thống sinh học, các nghiên cứu về mối liên kết giữa con người với nơi chốn đã tập trung vào các địa điểm vật lí không chỉ với môi trường xung quanh mà còn với sự hình thành bản sắc của cư dân. Kể từ những cuộc thảo luận đầu tiên về mối quan hệ giữa nơi chốn và căn tính giữa các nhà địa lí vào những năm 1970 [9, tr. 41], những cách tiếp cận gần đây về mối quan hệ giữa con người và thế giới bên ngoài đã coi căn tính không phải là “vấn đề của sự tự ý thức tuyệt đối mà là nhận thức mang tinh tương tác về vị trí của một người” [6, tr. 406]. Khái niệm về căn tính-địa điểm, do Proshansky đề xuất, đã gợi ý một giả định về sự tự nhận dạng được phát triển và mở rộng đến “chính những không gian và địa điểm mà chúng được tìm thấy” [16, tr. 57] và định nghĩa căn tính-nơi chốn là nhận thức phức tạp của con người về thế giới vật chất mà người đó đang sống: “Nhận thức đại diện cho ký ức, ý tưởng, cảm xúc, thái độ, giá trị, sở thích, ý nghĩa và quan niệm về hành vi và kinh nghiệm liên quan đến sự đa dạng và phức tạp của các bối cảnh vật chất xác định sự tồn tại hàng ngày của mỗi con người ”[16, tr. 59]. Ngoài Harold M. Proshansky (1983), Yi-Fu Tuan Tuan (1980), Edward Relph (1976), Anne Buttimer (1980) và Clare C. Cooper (1974) đều có chung những giả định cơ bản về cảm giác thân thuộc mà một người có về nơi ở và “trạng thái không ý thức” đi kèm với cảm giác thuộc về.

Nói chung, những cơ sở lí thuyết về căn tính-địa điểm cung cấp nền tảng để hiểu mối quan hệ qua lại giữa tâm trí và thế giới bên ngoài thông qua cơ thể. Một nơi tạo ra cảm giác gắn bó hoặc thuộc về đối với cá nhân; một nơi giúp cá nhân xác định họ là ai; (môi trường được xây dựng và không được xây dựng) bộc lộ bản chất của bản thân, củng cố bản sắc của bản thân và thậm chí thay đổi cá nhân. Sự tương tác tinh tế giữa các hệ thống sinh thái, thể hiện qua cả các thành phần tự nhiên và nhân tạo và sự hình thành bản sắc riêng của cư dân, tạo cơ sở lí thuyết cho nghiên cứu của tôi về ý thức nơi chốn và mối quan hệ của nó với căn tính cá nhân trong tiểu thuyết Phố vẫn gió của Lê Minh Hà. Sinh ra tại Hà Nội vào năm 1962 và sang Đức vào năm 1994, Lê Minh Hà chủ đích chọn Hà Nội là ngọn nguồn cảm hứng bất tận cho những sáng tác của mình. Xuyên suốt bốn tuyển tập truyện ngắn Trăng goá (1998), Gió biếc (1999), Những giọt trầm (2005) và Những gặp gỡ không ngờ (2012); hai tiểu thuyết Gió tự thời khuất mặt (2005), Phố vẫn gió (2014); tản văn Thương thế ngày xưa (2002), Hà Nội đọng lại trong sáng tác của Lê Minh Hà không chỉ là mảnh đất sáng tạo và tưởng tượng mà còn là một nơi đầy cảm xúc, chứa đựng “những ý nghĩa xã hội, tâm lý và tình cảm đáng kể đối với cá nhân và tập thể” [13, tr. 135]. Một mặt, mối liên hệ với Hà Nội, một địa điểm được kéo dài hàm nghĩa của nó như một phép ẩn dụ cho Nhà hay Quê nhà trong bài báo này, đã xác nhận một mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ, được cho là điều kiện để xuất hiện một ý thức tha hương bởi chủ thể di động [15, tr. 18]. Mặt khác, sự hiện diện của Hà Nội trong sáng tác của Lê Minh Hà khẳng định ý nghĩa cá nhân của nhà [16, tr. 60] đối với những người tha hương, trong đó sự thống nhất tinh thần được tạo ra giữa những cư dân bị nhổ rễ và một nơi chốn tưởng tượng [12, tr. 71], và cảm giác thuộc về của con người đối với một nơi nhất định được gợi nên từ trí tưởng tượng thuần túy.

Có một số lí do chính để đọc tiểu thuyết Phố vẫn gió qua lăng kính của lí thuyết về căn tính-địa điểm. Cuốn tiểu thuyết này xoay quanh câu chuyện cuộc đời của Ngân, một nhân vật chính trẻ trung và nhạy cảm sống trong một khu tập thể ở Hà Nội vào thời kì Đổi mới. Tác phẩm mô tả một cách sinh động sự tham gia tích cực của nhân vật chính vào những không gian sống, trải dài từ nơi ở của chính cô ấy đến không gian gia đình của bạn bè và hàng xóm. Cuộc gặp gỡ của nhân vật chính với những địa điểm khác nhau được thể hiện một cách sống động thông qua những trải nghiệm và quan sát của cô đối với các di sản kiến trúc của Hà Nội, những trải nghiệm kết hợp giữa nhận thức, cảm xúc, kí ức và trí tưởng tượng.

Các tòa nhà ở Hà Nội mà nhân vật nữ chính quan sát được thể hiện đầy ý nghĩa trong đó không chỉ cảm giác thân thuộc của cư dân về một địa điểm được nhận biết mà hình ảnh và danh tính của các địa điểm cũng được cấu trúc. Hình ảnh về các địa điểm, “hình ảnh tinh thần được tạo ra bởi kinh nghiệm, thái độ, ký ức và cảm giác tức thời của con người đối với một địa điểm” [5, tr. 56], đã tiết lộ một cách tinh vi về cách sự chuyển đổi đô thị tự phát có thể hủy hoại hình ảnh nguyên bản của các địa điểm bằng cách tạo ra một thứ bản sắc tập thể của các địa điểm. Trong lần trở lại Hà Nội, nhân vật chính tiếp xúc với hai bộ mặt đối lập của Hà Nội cũ và mới, nơi cô thất vọng và đau khổ. Đoạn hồi tưởng khắc họa sự đan xen giữa một Hà Nội xưa thanh lịch và quyến rũ với Hà Nội hỗn loạn của hiện tại, qua đó đặt câu hỏi về tính hợp lệ của chiến tranh và vai trò của những nhà quy hoạch kiến trúc.

Những mối quan hệ tương tác giữa thiên nhiên, thành phố và bản sắc được xem xét trên nhiều khía cạnh khác nhau. Các không gian sống đặc trưng trong xã hội bao cấp của Hà Nội, bao gồm không gian biệt thự, không gian phố cổ và không gian khu tập thể được phân tích trước tiên để thể hiện các đặc quyền xã hội mà chủ sở hữu được tiếp cận. Tương ứng với các không gian nhà ở đa dạng là lối sống của cư dân, những minh họa tiêu biểu nhất cho khái niệm “bản sắc của địa điểm” của Relph, trong đó tính cá nhân dai dẳng hoặc sự khác biệt của các địa điểm thực sự được “kế thừa” trong một số không gian nhất định và dùng để phân biệt giữa các không gian khác nhau. Các nghiên cứu về đặc điểm của các địa danh là tiền đề cho việc hoàn thiện tổng thể quá trình cơi nới không gian đô thị diễn ra tại Hà Nội, vốn được cho là hậu quả của các chính sách di cư bất hợp lí. Được ví von như một “tác phẩm nghệ thuật có ý thức”, thành phố Hà Nội đã thể hiện một hình ảnh hoàn toàn mới thông qua phong cách kiến ​​trúc Đổi mới, thông qua việc công dân lấn chiếm không gian công cộng thành không gian riêng và thay thế môi trường tự nhiên bằng không gian ở. Một số “cuộc chiến” đã xảy ra trong quá trình mở rộng không gian-đô thị như vậy, giữa những người hàng xóm với nhau và giữa con người với môi trường, cũng minh họa những mặt hạn chế về mặt xã hội và môi trường trong quá trình chuyển đổi đô thị đối với hệ thống sinh thái.

Nơi cư trú và địa vị xã hội trong Phố vẫn gió

Thông qua lời kể của nhân vật chính Ngân, cuốn tiểu thuyết được bắt đầu với những không gian kiến ​​trúc đặc trưng của Hà Nội: những ngôi nhà mặt phố và những khu tập thể. Những không gian mặt phố này cho thấy địa vị xã hội của hai người bạn thân của Ngân: Béo sống trong một biệt thự kiểu Pháp và Thái Hằng sống trong một khu Phố Cổ. Có mẹ là cán bộ cấp cao, Béo và gia đình cô “sống gần như trọn vẹn tầng hai một biệt thự trong phố” [11, tr. 14]. Nói “gần như” là do họ chia sẻ căn biệt thự với một gia đình khác, điều này sẽ được phân tích ở phần sau. Nhưng đây không phải là vấn đề chính. Điều đáng nói là họ có nhà tắm và nhà vệ sinh riêng. Chính nhà vệ sinh riêng, trong khi mọi hộ gia đình đều sử dụng chung nhà vệ sinh ở Hà Nội, mới xác định chủ sở hữu thuộc tầng lớp trung lưu hoặc bình dân. Do đó, nhà vệ sinh của Béo được miêu tả một cách độc đáo và đáng ngưỡng mộ: “[...] vì trong mắt một cô bé con nhà bình dân, cái nhà xí là minh chứng của ‘một phần của chủ nghĩa xã hội’” nơi mà mọi người “ngồi trong đó đọc Paris sụp đổ dưới ánh nắng chiều rọi qua vòm sấu vào thẳng khung cửa sổ” [11, tr. 14]. Nhóm công dân có đặc quyền cư trú trong không gian nhà mặt phố không chỉ bao gồm những quan chức cấp cao mà còn cả những người tự nhận mình là có học thức và cao quý hơn cư dân tỉnh lẻ nhờ nguồn gốc xuất thân của họ. Gia đình của Thái Hằng, những người sinh ra ở Hà Nội và được xác định là Hà Nội gốc thuộc một tầng lớp như vậy. Những “người Hà Nội” này, được Lê Minh Hà ẩn dụ bằng hình ảnh “cành to rễ dài nhiều đời”, được cho là tượng trưng cho các giá trị và bản sắc văn hóa của thủ đô. Trên tinh thần đó, những di dân tỉnh lẻ có xu hướng gắn bó với Hà Nội với hi vọng thứ nhất là hộ khẩu thường trú, và sau nữa là ngấm ngầm chia sẻ niềm tự hào là công dân thủ đô.

Gia đình bốn thế hệ của Thái Hằng sống trong một ngôi nhà mặt phố xinh đẹp với hai tầng và hai dãy phố ở Phố Cổ. Dãy trước của tầng 1 là nơi ở của bà Thái Hằng và con trai (chú của Thái Hằng) trong khi người cô chưa kết hôn của Thái Hằng sống ở dãy sau. Tầng hai do gia đình Thái Hằng và một người chú khác sinh sống.

Những ngôi nhà mặt phố thuộc sở hữu của những người bạn của người kể chuyện, những “thiểu số" khác, được đặt kề cận những ngôi nhà tập thể do người kể chuyện, thuộc “đa số” cư ngụ. Ngân sống trong một khu tập thể ba dãy nhà, nơi cả gia đình cô được phân vào một căn phòng rộng 14m2, có diện tích giống hệt phòng tắm của Béo. Trong khi Ngân chỉ mua một lạng đậu phộng cho bữa trưa của mình thì gia đình Béo lại trữ trong nhà cả bao đậu phộng. Hoặc hạt tiêu, thứ chỉ được phân phát cho mọi người vào những dịp lễ, được rải trong tủ quần áo của nhà Béo để trừ gián. Tương tự, lối sống sung túc này cũng được duy trì trong ngôi nhà của Thái Hằng. Được người bà con Việt kiều giúp đỡ, gia đình Thái Hằng thay vì tranh nhau mua đồ ăn ở cửa hàng mậu dịch thì có thể mua đồ ở thị trường tự do, nơi đồ ăn đắt và ngon hơn: “Đậu phụ là miếng đậu mỏng thơm lừng chứ không chua chua như cửa hàng mậu dịch, rau muống là rau mầm chứ không phải rau xơ” [11, tr. 166]. Sự giàu có được người kể chuyện cảm nhận thông qua cái mùi đặc biệt trong nhà Béo, một mùi hương thoáng đãng “không ám hơi dầu, hơi nước mắm dây ra chạn bát, hơi quần áo giặt mãi không khô hay hơi người” [11, tr. 188]. Thậm chí, sự thịnh vượng và tinh tế trong lối sống của cô bạn gái còn được người kể chuyện liên tưởng đến vẻ đẹp của người Hà Nội, thứ khiến “bao người Việt Nam đi xa về gần đều phải một lần tìm tới để rồi vì thế mà đâm thất vọng sâu xa về người đang sống ở Hà Nội bây giờ” [11, tr. 166].

Căn tính và xung đột căn tính trong không gian đô thị

Các không gian nhà ở riêng biệt đóng vai trò là nền tảng hoàn hảo để chúng tôi phân tích các bản sắc tương phản, liên kết chặt chẽ với các không gian gia đình, của các cá nhân và nhóm người. Thoạt đầu, căn tính của người ngụ cư dường như chỉ bao gồm các khuôn mẫu nhận dạng đơn giản và đồng nhất được gán cho các không gian nhất định. Tuy nhiên, luôn có những điểm tương đồng và dị biệt giữa các địa điểm, chưa kể đến căn tính của một địa điểm lẫn căn tính của một người hoặc một nhóm hình thành ở địa điểm đó đều đáng được xem xét [5, tr. 45]. Do đó, phân tích của tôi tập trung vào cả những căn tính có thể được hình dung và không được hình dung của các không gian nhà được minh họa thông qua người ngụ cư. Những cuộc cãi vã giữa những người hàng xóm để giành quyền sở hữu không gian nhà được chú ý đặc biệt bởi chúng là minh họa tốt nhất về những đặc điểm tính cách tương đồng được mong đợi từ những người ngụ cư đối với những nơi ở nhất định.

Nhà vệ sinh, thước đo vô hình cho sự sung túc của cư dân, có thể là một nơi thuận tiện để tìm hiểu về hành vi của con người. Trong khi phòng vệ sinh riêng của Béo trông như thể một thư phòng lí tưởng mặc dù bệ xí bị hỏng, những gì đang xảy ra trong hố xí tập thể giải thích cách thức nhà vệ sinh riêng được hình dung như biểu tượng của thiên đường xã hội chủ nghĩa. Nói vắn tắt, những người sống trong nhà tập thể không quan tâm đến việc dọn dẹp sau khi sử dụng nhà vệ sinh. Thay vào đó họ chờ người lao công! Vì vậy, trong trường hợp thiếu nước hay thiếu người lau dọn, nhà xí tràn ngập báo Nhân Dân, Thanh Niên hay Thiếu Niên Tiền Phong! Hành lang chung giữa các căn hộ cũng là một nơi khác phản ánh ý thức vệ sinh kém của những người ngụ cư, họ quét bụi ra khỏi nhà và “rấp lại bên cánh cửa chờ nó lang thang trong hành lang và hy vọng bụi nhà mình dạt được vào cửa nhà khác” [11, tr. 123].

Ngoài ra, cuộc cãi vã giữa các cư dân trong mỗi không gian sống lại cung cấp một ví dụ khác về hành vi của cư dân tương ứng với nơi ở của họ. Sự thiếu thốn hương vị tình thân dường như bao trùm lên những ngôi nhà mặt phố, điều thậm chí còn bộc lộ qua những cuộc cãi vã mỉa mai của những người sống chung như thể họ hoàn toàn xa lạ với nhau. Ngược lại, những người sinh sống trong khu tập thể vẫn trò chuyện sinh hoạt với hàng xóm mặc dù chỉ cách đó vài ngày, hai nhà gần như lôi cả gia đình ra tranh chấp. Hai cách cư xử trái ngược nhau dường như ngụ ý những quy tắc hành vi phổ biến đối với một số nhóm xã hội. Những cư dân “mặt phố” hoặc “biệt thự”, theo đó, cư xử dè dặt và kín đáo hơn trong khi những cư dân sống trong khu tập thể lại hành động ầm ĩ hơn. Tuy nhiên, luôn có những ngoại lệ trong các nguyên tắc hành vi dường như mặc định được đặt ra trong những không gian nhất định, vốn chứa đựng những bản sắc phức tạp và linh hoạt được hình thành một cách tương tác giữa các cá nhân và môi trường văn hóa mà họ thuộc về.

Những người sống ở tầng dưới tại biệt thự Pháp cũng cạnh tranh gay gắt. Ở tầng một là đại gia đình phức hợp của bà Thiều Như, gồm vợ chồng con gái bà trong cuộc hôn nhân trước và người chồng mới của bà, sống trong cùng một hộ gia đình. Xung đột giữa họ lên đến đỉnh điểm vào ngày Thiều Anh, con gái của bà Thiều Như với chồng cũ, xây bức tường ngăn cách chú Khánh, người chồng thứ hai của bà Thiều Như, trong căn biệt thự. Bức tường “xây vòng cung đón ngay chân cầu thang ngăn đôi cái hành lang vừa cao vừa rộng” [11, tr. 109], giống hệt bức tường gạch ở nông thôn nhưng lại mọc lên trong ngôi biệt thự kiểu Pháp ở Hà Nội. Nó như một lời tuyên chiến giữa gia đình Thiều Anh và gia đình cha dượng của họ chỉ vì những người sau không chi trả chi phí sinh hoạt. Mặc dù bức tường hữu hình cuối cùng cũng bị gỡ xuống, một bức tường vô hình khác, bắt nguồn từ lòng ghen tị và lòng tham, được dựng lên: “Bây giờ, giữa gia đình đó là một bức tường có thật và một bầu không khí sục sôi đứng ngoài cũng thấy nhột nhạt” [11, tr. 114]. Cuộc đấu tranh giành không gian không chỉ minh hoạ cho sự khan hiếm không gian ở mà còn làm sáng tỏ hậu quả của nó đối với căn tính của người ngụ cư. Nếu không có quan hệ huyết thống, sự gắn kết gia đình có thể bị thách thức do thiếu hụt lợi ích vật chất, bất kể các thành viên sống bao lâu với nhau dưới một mái nhà.

Tóm lại, tự sự về không gian sống không chỉ kể những câu chuyện đơn thuần về không gian ở và danh tính của chủ sở hữu được chỉ định trong những không gian đó. Chúng minh họa cả hình mẫu và sự biến dạng giữa địa điểm và người ở để phản ánh tính chất phức tạp của các cá nhân trải nghiệm với những địa điểm nhất định. Trọng tâm tiếp theo của tôi chuyển từ đặc điểm nhận dạng của các cư dân sang các đơn vị ở để làm sáng tỏ cách thức bản sắc đại chúng của Hà Nội được tạo ra thông qua việc mở rộng không gian sống một cách tự phát. Hình ảnh mới của thành phố không chỉ phản ánh sự khẳng định của cư dân về bản thân đối với láng giềng của họ mà còn là sự thể hiện rõ ràng của các nơi ở về chiến thắng của chúng đối với môi trường sinh thái xung quanh.

Ý nghĩa của các địa điểm

Khái niệm của Edward Relph về bản sắc của nơi chốn, được cấu thành từ ba thành phần cơ bản bao gồm bối cảnh vật chất, các hoạt động và ý nghĩa [5, tr. 47], được thể hiện xuyên suốt trong phần thứ hai trong tiểu thuyết của Lê Minh Hà. Bắt nguồn từ ý định và kinh nghiệm của con người, ý nghĩa của các địa điểm không chỉ cung cấp tính cá nhân hoặc sự khác biệt của một nơi với những nơi khác [5, tr. 45] mà còn phân biệt một người là kẻ quan sát khách quan hay chủ quan khi tiếp cận một không gian kiến trúc . Những thành phần này được đan xen vào nhau tạo nên bản sắc chung của Hà Nội, đặc trưng bởi sự biến đổi tự phát của nó. Đặc biệt, bản sắc này, hay hình ảnh mới này của Hà Nội, không chỉ là “những trừu tượng có chọn lọc của một thực tại khách quan” mà được giải thích một cách có chủ đích về “những gì đang có hoặc những gì được cho là có” [5, tr. 56]. Theo nghĩa này, Hà Nội được coi là công trình xây dựng dân dụng khổng lồ, trong đó sự suy tàn đô thị đã được cảm nhận, ít nhất là với người kể chuyện, ở hầu hết mọi ngóc ngách của thành phố.

Cái nhìn ảm đạm của người kể chuyện về Hà Nội làm mờ đi sự phân loại về hai dạng người quan sát, trong cuộc và ngoài cuộc, theo gợi ý của các học giả phê bình sinh thái. Sự phân chia rõ ràng giữa trong cuộc và ngoài cuộc về cơ bản nhấn mạnh sự đắm chìm hoặc khoảng cách mà một người trải nghiệm có đối với một địa điểm. Theo đó, “anh nhìn vào một địa điểm như một khách du lịch có thể nhìn vào một thị trấn từ xa” với tư cách là người ngoài cuộc và với tư cách là người trong cuộc, “anh trải nghiệm một địa điểm, đắm chìm vào nó và là một phần của nó” [5, tr. 49]. Người kể chuyện không phải là người trong cuộc cũng không phải là người ngoài cuộc; hoặc cô ấy có thể là cả hai. Là người Hà Nội, dù là người Hà Nội sống trong khu tập thể, nhưng cô lại trải nghiệm cái hồn của Hà Nội qua những ngôi biệt thự kiểu Pháp trên những con phố với ánh đèn dịu nhẹ, tiếng nhạc du dương và sự êm đềm của nó khiến thành phố càng trở nên quyến rũ hơn. Càng gần với những kí ức của thành phố trong quá khứ, người kể chuyện càng xa hơn với thực tế của nó trong hiện tại. Theo nghĩa này, nhân vật nữ chính vừa là người trong cuộc vừa là người ngoài cuộc.

Bộ mặt mới của Hà Nội đô thị hóa không chỉ thể hiện qua sự méo mó của những công trình tập thể mà còn ở những ngôi biệt thự cổ. Tham gia vào “nhóm lợi ích” của những người tranh giành không gian sống là bà Nắng , người cần vụ của bà Thiều Như. Động thái đầu tiên của bà Nắng trong những ngôi nhà mặt phố về cơ bản cũng giống như những người ngấm ngầm lấn chiếm không gian ở những khu tập thể, tức là chuyển đổi đất công thành của riêng. Không gian được minh họa ở đây là một khoảnh sân chung chẳng mấy chốc trở thành căn phòng nhỏ nhưng riêng tư của bà Nắng trong biệt thự. Sau đó bà xin phép xây một căn nhà cấp bốn gần cổng vào biệt thự. Sau đó bà có hẳn một ngôi nhà cho riêng mình!

Không gian đã được nhà địa lí nhân văn Yi-Fu Tuan đề cao trong những quan sát tinh vi của ông về không gian và trải nghiệm như một địa điểm không thể chối cãi cho nhận thức thực sự của con người về các giá trị của cuộc sống. Điều thú vị trong các nghiên cứu tinh vi của Yi-Fu Tuan là việc ông coi nhà là nơi thân thiết nhất mà dù nơi đó có đơn sơ, xấu xí hay nhàm chán đến đâu nó cũng luôn được mong ngóng. Việc va chạm và cảm nhận, thay vì nhìn ngắm và tính toán, tạo nên sức mê hoặc mạnh nhất của người ngụ cư đối với Ngôi nhà của họ, níu giữ họ lại bằng mùi hương, âm thanh và cảnh vật [17, tr.145]. Đó là cảm giác phân biệt người trong cuộc với người ngoài cuộc. Nhưng Hà Nội, theo cách nhìn của người kể chuyện, giờ đầy những nghịch lí. Vào lúc cảm thấy xa lạ với nó, cô biến mình từ người trong cuộc thành người ngoài cuộc. Hà Nội với hình ảnh hiện tại không còn là quê hương của cô, hay cô không còn đồng nhất mình với nó.

Nhưng người kể chuyện không phải là người duy nhất không thể tìm thấy một nơi gọi là Nhà. Phần sau của cuốn tiểu thuyết chứng kiến ​​“thế hệ mất mát” những kẻ đột nhiên bị phơi bày trước sự suy đồi của xã hội đương thời, đồng thời thấy mình thất bại và cô lập. Điều này không có nghĩa là tác giả đã không nhận thấy bất kì tín hiệu tích cực nào trong cuộc sống. Nó chỉ đơn giản là cho chúng ta biết rằng ta nên tập trung vào cả những bản sắc bị xa lánh và suy thoái được thể hiện qua một số người ngụ cư. Và, bằng cách đọc kĩ (hoặc nhìn sâu) này, chúng ta có thể nhận ra sự suy thoái danh tính của cư dân, trên thực tế, bắt đầu quá trình của nó thông qua các không gian sống bị biến dạng.

Kết luận

Tóm lại, các lí thuyết về căn tính- địa điểm cung cấp cho chúng ta một công cụ để xem bản sắc của các địa điểm đã được thử thách như thế nào qua các giai đoạn thăng trầm của lịch sử. Trong tiểu thuyết của Lê Minh Hà, sự đi xuống của bản sắc cư dân được miêu tả song song và thường xuyên với sự suy thoái của môi trường đô thị, điều cho thấy mối liên hệ giữa trải nghiệm của con người với môi trường xung quanh. Những phân tích đa chiều giữa thành phố, thiên nhiên và bản sắc minh họa cách những thiểu số đã được chuyển đổi thành đa số bởi quá trình mở rộng đô thị. Việc mở rộng không gian sống một cách tự phát ở Việt Nam đã thể hiện mối quan hệ của cư dân không chỉ với hàng xóm mà còn với môi trường tự nhiên. Và, thông qua những cuộc chiến tranh giành không gian sống, sự thô ráp và lụp xụp xuất phát những tòa nhà cơi nới đã trở thành những nét đẹp thời thượng và khẳng định mình như một hình ảnh mới của Hà Nội. Nghiên cứu về ý nghĩa của căn tính- địa điểm được thể hiện qua trường hợp tiểu thuyết Lê Minh Hà cũng cho phép chúng ta hiểu sâu sắc về căn tính của chúng ta, với tư cách là những sinh vật sinh học, được định hình một cách tinh vi không chỉ bởi nơi chúng ta sống mà còn cả cách chúng ta sống. Do đó, khám phá tính phức tạp của căn tính liên quan đến các địa điểm giúp làm sáng tỏ các nghiên cứu về căn tính bị ảnh hưởng bởi các tác nhân lịch sử lẫn quyết định của con người. 

TRẦN TỊNH VY

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn học, số tháng 9/2022

Tài liệu tham khảo

 [1] Anne Buttimer (1980) “Home, reach, and the sense of place”, trong Anne Buttimer and David Seamon, The Human Experience of Space and Place, Routledge, Oxford.

[2] Catrin Gerdorf (2016) “Urban Ecologies: An Introduction.” Ecozone, vol. 7, no. 2, pp. 1-9, doi.org/10.37536/ECOZONA.2016.7.2.1151.

[3] Cheryll Glotfelty, and Harold Fromm (1996), The Ecocriticism Reader: Landmarks in Literary Ecology, University of Georgia Press, Georgia.

[4] Clare C. Cooper (1974) “The house as symbol of the self” trong John Lang, Charles Burnette, Walter Moleski, David Vachon, Designing for Human Behavior: Architecture and the Behavioral Sciences, Stroudsburg: Dowden, Hutchinson & Ross, Distributed by Halsted Press.

[5] Edward Relph (1976), Place and Placelessness. Pion, London.

[6] Edward S. Casey (2001), “Body, Self and Landscape: A Geophilosophical Inquiry into the Place-World” trong Paul. C. Adams, Steven D. Hoelscher and Karen E. Till, Textures of Place: Exploring Humanist Geographies, University of Minnesota Press, Chicago.

[7] Harold M. Proshansky, et al (1983), “Place-identity: Physical World Socialization of the Self.” Journal of Environmental Psychology, vol. 3, pp. 57-83, doi.org/10.1016/S0272-4944(83)80021-8.

[8] Hazel Easthope (2004), “A Place Called Home.” Housing, Theory and Society, vol. 21, no. 3, pp. 128-138, doi: 10.1080/14036090410021360.

[9] James S. Duncan and Nancy G. Duncan (2001), “Sense of Place as a Positional Good: Locating Bedford in Place and Time” trong Paul. C. Adams, Steven D. Hoelscher and Karen E. Till, Textures of Place: Exploring Humanist Geographies, University of Minnesota Press, Chicago.

[10] Lawrence Buell (1995), The Environmental Imagination: Thoreau, Nature Writing, and the Formation of American Culture. Belknap Press of Harvard UP, Harvard.

[11] Lê Minh Hà (2014), Phố vẫn gió. Nxb. Lao Động, Hà Nội.

[12] Lewis Mumford (1938). The Culture of Cities. A Harvest/HBJ Book.

[13] Linda McDowell (1999) “Home, Place and Identity” trong Linda McDowell, Gender, Identity and Place: Understanding Feminist Geographies. University of Minnesota Press, Chicago.

[14] Lisa Benton-Short, and John Rennie Short (2008). Cities and Nature. Routledge, Oxford.

[15] Robin Cohen (2018), “Four phases of diaspora studies”, trong Klaus Stierstorfer and Janet Wilson, The Routledge Diaspora Studies Reader, Routledge, Oxford.

[16] Yi-Fu Tuan (1980), “Rootedness versus sense of place.” Landscape, vol. 24, no. 1.

[17] Yi-Fu Tuan (1998), Escapism. Johns Hopkins UP, Baltimore.

Cương vực xứ Đoài -  tỉnh Sơn Tây đến triều Nguyễn nửa đầu thế kỷ 19 còn là một vùng đất rất rộng lớn. Các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý chia đất nước thành các lộ, đạo, gọi là đạo Đà Giang. Đến triều Trần vùng đất ấy là lộ Tam Giang. Đầu đời hậu Lê vẫn gọi như thế. Tiếp đến đời Quang Thuận năm 1466, khi vẽ lại bản đồ, chính thức vào năm 1491 đời Hồng Đức gọi là Sơn Tây. Khoảng từ 1509 đến 1516 bấy giờ mới chuyên gọi là Sơn Tây. Năm 1803 vua Gia Long chỉ dụ trấn Sơn Tây cùng với 11 trấn khác trực thuộc Tổng trấn Bắc Thành. Năm 1831 vua Minh Mệnh chia Bắc Kỳ thành 15 tỉnh, trong đó có tỉnh Sơn Tây. Theo Quốc sử di biên của Phan Thúc Trực, viết bao quát các sự kiện trong khoảng 46 năm từ 1802 đến 1847, sách được in sau năm 1851, tỉnh Sơn Tây bao gồm 5 phủ: Vĩnh Tường, Lâm Thao, Quốc Oai, Quảng Oai, Đoan Hùng. Tức là các tỉnh Sơn Tây, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Vĩnh Yên hồi giữa thế kỷ 20. Nhưng rồi người ta quen nói Xứ Đoài là tỉnh Sơn Tây, nơi đậm đặc nhất cái chất văn vật thuần phác của xứ ấy. Nguyễn Trãi ca ngợi vùng Sơn Tây con người thuần hậu, phong tục chất phác. Danh sỹ Lý Tử Tấn (1378-1452) người đồng khoa với Nguyễn Trãi cũng có nhận xét tương tự như bạn của mình.

Núi Tản Viên, tên Nôm gọi là Ba Vì

Nét đặc sắc nhất về văn hoá vùng sơn địa cũng là hồn cốt của đất xứ Đoài là 3 ngọn núi thiêng làm thành vòng cung huyền thoại ẩn chứa nhiều điều bí ẩn nhất của lịch sử, những băn khoăn và khát vọng của con người về một cuộc sống bình an. Vòng cung ấy chạy từ Đông sang Tây bắt đầu từ núi Tản Viên, tên Nôm gọi là Ba Vì, tiếp đến là núi Câu Lậu chùa Tây Phương và cuối cùng là núi Phật Tích chùa Thày. Ba ngọn núi thiêng làm thành vòng cung nhỏ bé và cổ xưa nhất của cái muôn năm nằm gọn trong lòng địa vực Sơn Tây. Vòng cung huyền thoại của miền văn hoá phía tây thành Thăng Long, nơi thần linh và phật của nền văn minh cổ ngự trên đỉnh tam giác châu thổ sông Hồng. Không ở đâu như ở đây, thế giới các vị thần lại chung sống với con người nhiều như thế. Phật, thần linh với chuyện con người là một. Một thế giới siêu thực lấp lánh ánh sáng trần gian và được mô phỏng theo đời sống của con người.

Tam Quan chùa Tây Phương trên núi Câu Lậu

Lê Quý Đôn (1726-1784) trong sách Kiến văn tiểu lục đã miêu tả vũ điệu của núi từ vùng Tây Bắc nước ta đổ xuống đồng bằng để gặp Tản Viên như sau: Mạch núi từ Mường Thanh xuống tầng tầng lớp lớp kéo đến liên miên chằng chịt, đến đây mọc ngang ra ba ngọn, mặt tả trông về Sông Đà, phong cảnh tốt tươi, khí thế nghiêm chỉnh, có chỗ như là tàn quạt lâu đài là trấn sơn một nước. Ngọn giữa rất cao, phụng thờ thượng đẳng linh thần. Bộ bách khoa Vân đài loại ngữ cũng của Lê Quý Đôn, viết năm 1773, có nêu ý kiến của học giả Khuất Đại Quân, người nước Tàu, ca ngợi Đại Việt: Long mạch chạy qua như muôn vàn đợt sóng, nhảy nhót không ngừng thẳng đến Giao Châu mới kết thành đất nước. Tôi có dịp bay từ Viên Chăn về Hà Nội, từ trên cao nhìn xuống quả đúng như Lê Quý Đôn miêu tả, khi thấy ngọn Tản Viên mờ ảo trong mây, biết mình về đến nhà rồi, sau khi xem những màn khiêu vũ trùng điệp của núi dưới bao nhiêu mây trắng trời xanh. Nguyễn Trãi (1280 – 1442) trong sách Dư địa chí nhận xét: Núi có 3 ngọn cao chót vót như cái tán. Vì thế gọi là Tản Viên. Núi ấy là núi tổ của nước ta đó… Thần núi Tản Viên gọi là trụ quốc đại vương, linh hiển có tiếng. Vua Nhân Tông triều Lý sai thợ làm đền thờ trên ngọn núi thứ nhất có lầu tới 20 tầng. Nếu bên kia sông Hồng là chuyện của con người với 18 đời vua thì bờ bên này lại là chuyện của các vị thần. Tản Viên mang lễ vật voi chín ngà gà chín cựa để hỏi con gái vua Hùng làm vợ. Đến bây giờ, hàng năm, Tản Viên vẫn xuống núi đi lễ Tết bố vợ là vua Hùng theo con đường vượt sông Đà ở bến đò làng Khê Thượng đúng vào lúc trừ tịch đêm giao thừa để sang núi Nghĩa Lĩnh. Dân làng ấy, vốn là quê hương của thi sỹ Tản Đà, vẫn không ngừng nghỉ chuẩn bị đại lễ cho đức thánh Tản cùng đoàn tùy tùng sang sông làm nghĩa vụ trần thế.

Chùa Thầy ở Sài Sơn, dưới chân núi Phật Tích

Phan Huy Chú (1782-1840) viết Lịch triều hiến chương loại chí 10 năm (1809-1819) mô tả núi Tản Viên mọc lên la liệt, núi cao sông lớn hơn cả các nơi. Phong khí và nhân vật gần giống như đời. Thói quen theo tính thật thà. Một khu có hình thế tốt đẹp, là chỗ đất có khí thế hùng hậu.

Lý Tế Xuyên viết, tục biên Việt điện U linh có bài tựa sách ghi năm 1329 đời Trần Hiến Tông: Ở vùng chân núi Tản Viên có châu Đường Lâm của Bố cái đại vương sinh năm 761, người có sức khỏe bắt hổ vật trâu đã đánh đổ phủ đô hộ của giặc phương Bắc, lập nền độc lập đất nước, sách Viêm giao trung cổ ký của Cao Xuân Dục ghi được 11 năm; có người nói 7 năm hồi đầu thế kỷ thứ 8 sau Công nguyên. Ngô Quyền cũng quê ở tại đấy; người đã đánh tan quân xâm lược phương Bắc, chấm dứt 1000 năm Bắc thuộc, vào năm 938. Vùng đất này, còn có bà Man Thiện, đẻ ra 2 chị em sinh đôi Trưng Trắc, Trưng Nhị. Nay vẫn còn miếu thờ gọi là Miếu mèn và mả dạ. Việt sử thông giám cương mục, viết theo chỉ dụ của vua Tự Đức ngày 22-1-1856 chép rằng: Trận chiến đấu của quân Hai Bà Trưng với giặc Hán, xảy ra ở Lãng Bạc, tức là Hồ Tây bây giờ. Quân ta bị thua rút lui. Hai bà nhảy xuống sông Hát Giang tuẫn tiết. Bà Man Thiện đánh nhau với quân Hán ở vùng chân núi Tản viên và Hòa Bình. Cũng thua trận. Nhảy xuống sông Hồng tự vẫn.

Lịch sử của Thần và của người dường như cứ bện chặt vào nhau, bổ sung cho nhau, làm nên những tầng văn hóa vang vang tiếng người. Đại việt sử ký toàn thư, bản in theo Nội các quan, khắc mộc bằng chữ Hán năm chính Hòa thứ 18 (1697), sản phẩm nhiều đời của các nhà sử học danh tiếng. Lê Văn Hưu thế kỷ 13. Phan Phu Tiên, Ngô Sỹ Liên thế kỷ 15. Phạm Công Trứ, Lê Hy thế kỷ 17 đã trang trọng ghi chuyện thần núi Tản Viên kết hôn cùng Mị Nương như là những trang chính sử đẹp nhất của đất nước buổi đầu khai mở nền quốc thống của nước nhà – Thời đại Hùng Vương. Vì vậy, các triều đại phong kiến Việt Nam có truyền thống phong chức tước cho thần. Việt điện U linh cho biết: có 3 đợt phong đầu tiên vào đời Trần. Trùng Hưng thứ nhất 1285. Trùng Hưng thứ 4 - 1288. Hưng Long thứ 21 - 1313. Theo đó Tản Viên được phong đợt đầu với tước Hựu Khánh Khuông quốc hiển ứng đại vương. Truyền thống này được tiếp tục cho đến hết triều Nguyễn đầu thế kỷ 20. Đó là truyền thống đưa các vị thần vào đời sống trần tục của con người. Họ không xa lạ với con người.

Văn chương Việt Nam hiện đại có lẽ Nguyễn Nhược Pháp và Nguyễn Tuân là dấu ấn hơn cả về sự giao hòa thần linh và con người ở đây. Nguyễn Nhược Pháp năm 1935 cho in tập Ngày xưa khi ông mới 21 tuổi. Bài thơ dài Sơn tinh Thủy tinh dựng lại bằng thơ đám cưới của Tản Viên - Mị Nương xinh đẹp tóc xanh viền má hây hây đỏ, miệng thắm san hô, tay trắng nõn nà khiến chàng Sơn Tinh chết mê chết mệt. Trận đánh kinh thiên động giữa hai vị thần chỉ vì cùng yêu người con gái của trần gian. 41 năm sau, vào tháng 9-1976, Huy Cận cũng viết Sơn Tinh Thủy Tinh, nhưng cái phần thần linh dường như đã phai đi khá nhiều.

Thiên tùy bút Trên đỉnh non Tản của Nguyễn Tuân được coi là một trong số ít tác phẩm hay của thể loại đó trong văn chương thế kỉ 20. Truyện kể các vị thần trên núi gặp năm lụt lội lại tìm người ở Chàng Thôn, một làng nghề dưới núi Câu Lậu để sửa chữa nơi ở của thần tại đền Thượng, đền Hạ, đền Trung. Kíp thợ ngõa người trần mắt thịt được phát những hòn cuội đập ra là lúa gạo. Cuội xanh là lúa tẻ, cuội vàng là lúa nếp và cuội trắng đập ra hòa với nước suối uống say như uống rượu... Nguyễn Tuân ơi là Nguyễn Tuân! Trên đỉnh non Tản của ông thời hiện đại, Tản Viên lại một lần nữa sống như người giữa trần thế. Tôi cứ băn khoăn tại sao nói đến nơi này người ta lại ca ngợi xứ Đoài mây trắng như là một biểu hiệu của quê hương. Có lẽ vì nhiều lý do. Nhưng trên đỉnh Tản Viên quanh năm thường thấy lững lờ một vầng mây trắng. Còn ngày trời xanh thì không thấy bóng Ba Vì; bởi lẽ màu xanh của núi và màu xanh của trời mang mác ở khắp nơi. Những ngày đó, phía sau ngọn núi thường lững lờ những dải mây bông lững thững trắng trên mặt nước Đà Giang như trầm ngâm gìn giữ những gì bất tử của quá khứ.

Đi theo những câu chuyện về đức thánh Tản rầm rì khắp nơi mọi chốn ở xứ Đoài từ ngàn năm nay vẫn thế để tới núi Câu Lậu về hướng Đông chếch Nam chừng 3 chục dặm sẽ tới chùa Tây Phương trên đỉnh Câu Lậu. Nhà sư Huyền Quang, đệ tam tổ phái Trúc lâm, thời nhà Trần, có viết bài thơ Thạch Thất bằng chữ Hán như sau:

Bán gian Thạch Thất hòa vân tục

Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn

Tăng tại thiền sàng, kinh tại án,

Lô tàn cốt lục nhật tam can.

Nghĩa là: nửa gian nhà đá mây bao bọc, một tấm áo bông buổi lạnh lùng, sư ngủ giường thiền kinh để án, mặt trời 3 trượng củi lò không. Tiến sĩ Lý Văn Phượng, người Hán sinh 1500, làm quan ở Quảng Tây. Vào năm 1540, ông ấy có viết Việt Kiệu Thư, trong đó nói rằng Núi Câu Lậu ở huyện Thạch thất theo Hán thư có ging Tiềm Thủy ngưu. Cát Hồng đời Tấn muốn luyện đan nên xin làm huyện lệnh Câu Lậu. Thơ Đỗ Phủ đời Đường có câu: Giao Chỉ đan sa trọng. Người Giao, Ái trác việt mưu trí. Người Hoan, Diễn thuần hậu, hiếu học. Người từ vương hầu tr xuống đều đi chân đất không lấy gì làm thẹn… Lê Hoàn, Mạc Đăng Dung khi đã quý hiển rồi vẫn còn chân đất lội xuống nước bắt cá… Thường ngày không đội mũ. Ngồi xếp bằng khoanh hai chân… Con gái vùng ven biển tháng giêng đến tháng 3 cùng nhau nắm tay áo mà hát ngoài nội.

Phan Huy Chú viết rằng: Núi Câu Lậu có tên là Tây Phương, ở xã Cần Kiệm, huyện Thạch Thất, chân núi có sông Tích. Cảnh thú vắng vẻ. Núi này toàn là núi đất sắc đỏ. Chùa Tây Phương trên đỉnh núi bắt đầu được xây dựng từ thế kỉ thứ 8, một trong hai ngôi cổ tự bậc nhất nước ta và được trùng tu, xây dựng lại nhiều lần. Thời Mạc Phúc Nguyên (1547-1561). Đời vua Lê Thần Tông năm 1632... Từ chân lên đỉnh núi có 238 bậc đá ong. Thụy Nham hầu Phan Huy Ích (1751-1822) làm bài minh khắc trên mặt chuông. Giờ chuông vẫn treo tiếng ngân của Phật trên đỉnh núi linh thiêng này rằng Đạo gửi ở không, cội gốc khôn cùng. Tư tưởng căn bản này đã được các bậc thiền sư, trí giả và quân vương nước ta nam mô niệm phật từ thời nhà Lý đến thời hiện đại. Vua Lý Thái Tông (1028-1054), vua thứ hai triều Lý có bài kệ rằng:

Bát nhã chân vô tông, 

Nhân không ngã diệc không.

Quá, hiện, vị lai Phật,

Pháp tính bản lai đồng.

Nghĩa là: Trí tuệ thật không có tung tích, người không hư ta cũng không hư, các vị Phật quá khứ, hiện tại hay là vị lai, căn nguyên pháp tính xưa nay vẫn giống nhau. Mỗi khi lên chùa Tây Phương tôi thường dùng bài thơ này để tĩnh lặng ngắm nhìn và tự lý giải 18 khuôn mặt khác nhau của các vị la hán trong chùa đại diện cho nỗi buồn, niềm vui, sự băn khoăn, khát vọng, sự chịu đựng… của đủ cả các cung bậc trầm luân mà nhiều hơn cả là nỗi buồn và sự bình tâm của trần thế. Lần nào cũng vậy không thể lý giải được vì mùi hương trầm ở đây lan tỏa khiến ta sa vào cõi trí tuệ không có tung tích. Huy Cận nổi tiếng sau tập Lửa thiêng 1941 đến Vũ trụ ca ngay sau đó thì như tự đánh mất mình. Phải chờ đến ngày 27/12/1960, lên đỉnh núi Câu Lậu gặp các vị La Hán chùa Tây Phương mới tìm lại lửa thiêng theo tinh thần Phật: Một câu hỏi lớn không lời đáp, cho đến bây giờ mặt vẫn chau.

Thế là câu chuyện về sự giao hòa giữa thần linh và con người đến chùa Tây Phương này để hòa đồng giữa Phật với người trong đời sống trần tục khổ đau và hy vọng. Những người thợ ở Chàng thôn đã được Nguyễn Tuân đưa lên đỉnh non Tản trùng tu lại đền cho thần thì ở đây chính những người ấy đã tạc ra các vị La Hán theo khuôn mặt người ở xứ Đoài, thường rất trầm lặng và buồn như một điều không khác được của thập loại chúng sinh. Con người ở dưới chân núi Câu Lậu đã tạo ra Phật theo vóc dáng và suy tư của người vẫn âm thầm sinh sống ở đây từ ngàn đời nay.

Từ chùa Tây Phương, Phật và Người đi bộ qua những cánh đồng bằng phẳng và làng xóm thanh bình miền nam xứ Đoài. Núi Phật tích chùa Thầy ở ngay trước mặt. Dường như bắt gặp một tiến trình ngược lại. Ở đây con người từ con người hoá thân thành thần linh.

Lê Quý Đôn viết trong Vân đài loại ngữ: Cách phía tây quốc đô ta 30 dặm, có một quả núi gọi tên là Bồ Đà Sơn, còn có tên gọi là Sài Sơn. Trên núi ấy có một động nhỏ là nơi thiền sư Từ Đạo Hạnh đời Lý tu đắc đạo rồi hóa ở đây. Phong cảnh núi ấy thanh nhã. Xung quanh đều là ruộng phẳng.

Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí viết: Chùa Phật Tích có tên nữa là chùa Sài Sơn, còn gọi là Cổ Sài. Cảnh núi rất đẹp. Chân núi có hồ. Trên núi có hang là chỗ Từ Đạo Hạnh trút xác ở đây. Ở vách đá có vết đầu và gót chân. Trong núi có viện Bồ Đề, am Hương Hải đều là Từ Đạo Hạnh làm ra.

Vào năm Bính Thân 1776, Phạm Đình Hổ (1768-1839), Nguyễn Áng (1770-1815) cùng đi thăm chùa Thầy có viết bài ký Chơi núi Phật Tích thấy ghi trong sách Tang thương ngẫu lục của hai ông làm năm 1780, được người đời sau khắc in năm 1896 tả rõ chùa Phật Tích do Từ Đạo Hạnh dựng nên. Giữa thờ Phật. Bên tả bên hữu thờ Từ Đạo Hạnh và vua Lý Thần Tông – là người mà Từ Đạo Hạnh đã hóa thành.

Việt điện U linh ( viết khoảng 1329), Lý Tế Xuyên kể rõ. Đạo Hạnh, Minh Không, Giác Hải cùng đi tu thành chính quả. Đạo Hạnh về chùa Thiên phúc Sài Sơn trụ trì. Lúc ấy vua Lý Nhân Tông (1072-1127) không có con trai. Cầu tự mãi không được. Em trai Nhân Tông là Sùng Hiền Hầu cầu tự cho minh. Bấy giờ Sùng phu nhân đang tắm trong phòng. Bỗng thấy Đạo Hạnh hiện hình trong thùng nước tắm. Sùng Hiền Hầu bảo vợ: Thấy hình ở trong bồn nước nghĩa là chân nhân đã nhập thai rồi. Ngày 7/3 năm Đại Khánh thứ 3 (1112) Đạo Hạnh từ cõi niết bàn về cõi đời thác sinh làm con trai họ Sùng. Người ấy sau này là vua Lý Thần Tông. Thế là chuyện tình ở núi Tản Viên giữa Sơn Tinh với Mị Nương đậm đà tính chất thần linh bao nhiêu thì chuyện tình ở núi Phật Tích chùa Thầy lại mang màu sắc dân gian thế tục bấy nhiêu. Một người trút xác trở thành thần để đầu thai vào kiếp người trần tục gợi lên bao nhiêu lẽ đời đằng sau câu chuyện ấy. Văn hóa đã chỉ cho chúng ta thấy sự thiêng liêng của việc sinh nở đầy tục lụy làm cho cuộc sống cực nhọc này nhân bản hơn. Cao đẹp hơn. Thanh thản hơn.

Nhưng thôi, phải trở về với cuộc đời trần tục này để xem các thi sỹ nói gì về chùa Thầy. Cao Bá Quát (1808-1855) đã viết 4 bài thơ chữ Hán cùng một đầu đề Buổi chiều đi chơi Sài Sơn với cảm hứng chung: Tìm về thanh thản, từ cõi tục đến với tĩnh lặng thiền. Tiếng chuông vắng bỗng ngân lên từ phía trên lầu dưới bóng tà dương. Đời người trăm năm đã qua mấy cuộc hưng vong. Tay cầm bông hoa sen mỉm cười. Tự mình hiểu mình, dửng dưng với chuyện làm quan. Rắp tâm dựng căn nhà đọc sách ở núi này. Nguyễn Văn Siêu (1799 -1872) có bài thơ Phật Tích Sơn hoài cổ. Ngọn tháp cô đơn sắp đổ nát vẫn còn chống chọi với gió mưa. Tấm bia tàn nghiêng muốn khụy đã minh chứng cho nhiều dâu bể. Hai bậc thần Siêu thánh Quát nhìn núi Phật Tích đầy hoài niệm mà đau đớn về việc đổ nát của thế cuộc, làm ta bận tâm không thể nào nguôi. Nhưng Phùng Khắc Khoan (1528-1636) danh sĩ nổi tiếng nhất xứ Đoài và Phan Huy Ích lại thổi vào thơ và thời cuộc sự bay bổng yên bình khi bước đến núi Sài Sơn. Phùng Khắc Khoan, người được Lê Quý Đôn nhận xét là bậc túc nho, ý tứ cách điệu, nhàn nhã bởi lên núi Thầy, Khắc Khoan thấy chân vượt ra khỏi trần thế lên 3 ngàn thế giới. Còn Phan Huy Ích lại vẽ ra phong cảnh yên bình nơi làng quê xứ Đoài dưới ngọn núi này. Người nông dân đội nón lá, mặc áo tơi, lưng mang bừa vào lúc gặp tiết xuân. Ngỡ là cảnh Phật đâu phải trốn trần gian.

Hồi cố giao nguyên xuân ý túc

Tiền thôn thoa lạp bội nhân sừ.

Từ buổi thiếu thời đến bây giờ đã ngoài bảy mươi, tôi lang thang không biết bao lần mà tưởng như chưa đi qua hết, chưa đến được cõi thanh tịnh của vòng cung Thần Phật ở ba ngọn núi thiêng. Chưa cảm thấy hết sự thanh tịnh vô cùng của ý phật mà có lần Lê Quý Đôn đã chép: Chim nhạn bay trên không, bóng nhạn in dưới nước. Nhạn không có ý để dấu vết lại. Nước không có ý giữ bóng nhạn lại làm gì. Vâng, đó là sự bất tử mà thần linh mang lại cho con người – sự bất tử của thanh thản bao bọc lấy thân phận con người để con người sống đẹp hơn, tốt hơn, có ý nghĩa hơn trên đường đời đầy giông bão và cát bụi. Cho nên văn hóa là sự giao thoa và kết nối giữa thần linh; hiện hình như là những giấc mơ của con người với con người – cái làm nên một trong những cốt cách văn hóa Việt Nam. Và thanh thản luôn luôn là một giá trị sống cho tất cả mọi người.

Hà Nội, Mùa thu

8/10/2022

Nguồn: Tuần báo Văn nghệ ngày 5/11/2022

Chủ đề này quả là làm cho người ta giật mình. Lẽ đương nhiên tôi chỉ muốn “mượn gió bẻ măng”. Kỳ thực điều muốn nói ở đây chẳng qua chỉ là những gì liên quan đến một vài điều tâm đắc về một quyển sách mà thôi.

20220331 3

Quyển sách ấy chính là tiểu thuyết Cuốn sổ vàng (The golden notebook) (1962) của Doris Lessing.

Cuốn sổ vàng không phải là một tác phẩm đọc tiêu khiển. Nếu như bảo rằng đọc sách như một chuyến đi, thì e rằng chúng ta buộc phải chăm chỉ quan sát vào những người trong vấn đề được Doris Lessing nhắc đến, thì mới có thể kiên nhẫn đi hết hành trình trong Cuốn sổ vàng một cách không câu nệ. Đây là một tác phẩm tương đối phức tạp từ nội dung đến hình thức, mang trong mình một kết cấu đa tầng và đa chủ đề – từ việc phản tỉnh với văn học chủ nghĩa hiện thực đến sự tan vỡ hão vọng mà những phần tử trí thức cánh tả phương Tây vào khoảng thập niên 50 (thế kỷ XX) đã trải qua; từ xung đột ồ ạt của thế giới lúc bấy giờ đến cái gọi là “cuộc chiến về giới”; từ việc phân tích tinh thần khai thác vô thức tập thể cho đến những dự ngôn có liên quan nhân loại trong tương lai, có thể nói rằng nó bao la vô vàn. Trong đó, về sự “huyền bí”, không những tôi không thể nói rõ từng cái một, mà tác giả cũng chưa chắc nghĩ được rõ ràng.

Đối với tôi, cũng giống như những gì mà nhà văn Anh nổi tiếng tên là Christian Burgess đã nói: “Điểm mạnh trong tiểu thuyết của Doris Lessing chính là ở chỗ phẫn nộ và hi vọng do nó chứa đựng.” Kết cấu phức tạp của tiểu thuyết cũng giống như là một mê cung. Nhưng mà, một khi chúng ta đã thâm nhập vào bên trong ấy, thì hẳn sẽ nhận thấy cái thế giới tương đối quen thuộc và thân thiết này. Nhân vật nữ chính trong những trang sách và tác giả ở bên ngoài trang sách, hầu như cũng là một người nhiệt huyết tìm tòi nhân sinh một cách mơ hồ giống như chúng ta vậy, chứ không phải là một vị thần nào đó đang thờ ơ ngồi hớt móng tay bên rìa thiên đàng. Trong tiểu thuyết phương Tây vào thế kỷ XX, khó mà kiếm được một quyển tiểu thuyết nào đánh thẳng được vào trái tim của độc giả như vậy.

Có lẽ vì tôi là một độc giả nữ.

Cũng có thể vì chúng ta ngày nay cũng đang vượt qua một vũng lầy thất vọng.

Bước Gian Nan Của “Phụ Nữ Tự Do”

“Quyển sổ vàng là một tác phẩm quan trọng của Doris Lessing, nó đã để lại một nếp gấp đậm nét về tư tưởng và tình cảm của cả một thời đại phụ nữ” – trên bìa sách dẫn lời của một nhà phê bình như vậy để tuyên dương. Đương nhiên là nhà xuất bản cốt ý muốn giới thiệu sách ra thị trường, nhưng lời bình ấy quả không phải là lời sáo rỗng.

Nhân vật trung tâm trong tiểu thuyết là Anna và cô bạn của mình là Molly bị đặt vào trong tiêu đề về “tự do nữ giới”. Họ là những người mẹ đơn thân sau khi ly hôn, tự mình phấn đấu, nuôi dưỡng con cái; ai cũng có công việc (Anna là nhà văn, Molly là diễn viên), về mặt kinh tế thì không cần phải dựa dẫm vào người khác, về mặt tư tưởng, chính trị cũng rất cầu tiến, không chịu bị xỏ mũi dắt đi. Với vai trò là một hình tượng nữ giới kiểu mới độc lập tự do, họ đã kích động được một thế hệ phụ nữ phương Tây vào thập niên 60 khi tiểu thuyết vừa mới ra đời. Nhưng hai mươi mấy năm sau đó, những người theo chủ nghĩa nữ quyền cấp tiến trẻ trung ngày nay – và cả những người không trẻ trung – quay trở lại xem Anna, khó tránh được việc tỏ thái độ bất mãn về sự bảo thủ và yếu đuối của cô: các cô Anna vẫn có lòng quyến luyến dựa dẫm rất nặng nề vào đờn ông; họ bị độc hại bởi những tư tưởng coi thường phụ nữ được truyền từ đời này sang đời khác, bất giác tỏ thái độ nào đó chán ghét bản thân; một điều hết sức quan trọng nữa là, họ còn đại diện cho một khuynh hướng tiêu cực thụt lùi từ vị trí đấu tranh chính trị, v.v… Những nghị luận kiểu như vậy, chả trách có chút gì đó giống như phương pháp phê bình “chủ nghĩa vị lợi” một cách “có ý đồ chính trị”, “cực đoan hóa”. Nhưng mà, từ xưa đến nay, việc này luôn là một phần để chúng ta đánh giá văn học, vả lại thường có liên quan đến trào lưu tư tưởng xã hội của giới trẻ tràn đầy sự năng động và tính tranh đấu. Về sau, có lẽ cũng vẫn tiếp tục tồn tại. Chỉ có điều những nhà theo chủ nghĩa nữ quyền nhiệt huyết này có lẽ sẽ đọc sót cái tính trào phúng trong tiểu thuyết. Thậm chí sau này, tác giả buộc phải ra mặt thanh minh: “Phụ nữ tự do” quả thực là “một tiêu đề có ý trào phúng”.

Anna từng nói với một phụ nữ đã kết hôn có thái độ hết sức ngưỡng mộ mình rằng: “Tôi không hề tự do”. “Không hề tự do” có nhiều nguyên do và nhiều hàm ý. Trong lời nói trước sau của Anna, ý nghĩa trực tiếp nhất chính là việc cô cũng dựa dẫm vào đờn ông như người vợ ấy vậy – ít nhất là về mặt tâm lý như vậy. Cô cũng khát vọng một tình yêu ổn định tuyệt đối, nhưng lại ôm đầy lòng hoài nghi, bất cứ lúc nào cũng chuẩn bị vào vai một người vợ bị lừa dối, bị vứt bỏ. Khi người bạn trai tên là Michael đã sống cùng với mình trong mấy năm rời bỏ cô, Anna đã duy trì thái độ lạc quan kiểu “phụ nữ tự do” một cách miễn cưỡng, nhưng thực chất lại giống như một người vợ “bị tổn thương” kiểu cũ, lòng đầy thê lương và bàng hoàng. Sau đó cô đã quen được Saul Green trong trạng thái mất khống chế nửa điên loạn, cử chỉ càng cho thấy như một người đờn bà ghen. Mỗi lần Saul Green ra ngoài, cô thường nổi một trận tam bành.

Lòng đố kỵ và cảm giác bất an là sinh vật sống bám tất nhiên của tâm lý dựa dẫm. Và ẩn nấp đằng sau sự quyến luyến, là một cảm giác lo sợ và nguy cơ sâu sắc. Đẩy tình yêu và nỗi lo sợ giữa nam và nữ đến mức có hơi khó hiểu. Kỳ thực, nhiều cuộc tình đều có một cái bóng của sự khủng hoảng (hãy cứ liên tưởng đến Lâm Đại Ngọc xem!). Nếu không phải lo việc đờn bà lớn tuổi không gả được cho một người chồng lý tưởng, sau này chuyện ăn chuyện mực không ai lo, thì tại sao bà gia nhân vật Elizabeth Bennet trong tác phẩm Kiêu hãnh và định kiến lại lo lắng cho hôn sự của bọn con gái trong nhà mình với vẻ luống cuống đến như vậy? Đương nhiên, trải qua nhiều sự lo lắng, giằng xé và phấn đấu của nhiều thế hệ đờn bà, đến bây giờ thì Anna đã không cần đến một người đờn ông lo lắng cái ăn, cái mặc, cái ở của mình cho ngày mai. Những vấn đề mà cô gặp phải, không phải là sự gian nan trong việc kiếm chồng trong phiên chợ hôn nhân, cũng chẳng phải là sự thức tỉnh kiểu Nora của những người vợ thảo mẹ hiền, mà là mê cung sau khi các Nora bước ra. Sự khủng hoảng và lo lắng của Anna rõ ràng càng to lớn, càng sâu đậm. Nữ nhà văn lớn lên ở châu Phi Nam phần và đầy lòng chính nghĩa này đã xuất phát từ sự phẫn nộ với chủ nghĩa chủng tộc và sự phản kháng với chính sách chiến tranh lạnh của nước Mỹ đầu thập niên 50, từng tích cực tham gia vào hoạt động chính trị cánh tả và có một thời gian tham gia vào đảng Cộng sản Anh. Theo sau đó là những sự hoài nghi và niềm thất vọng – bất mãn với Liên Xô, về đảng Cộng sản của nước này, đồng thời có cảm giác rối bời bất an về những vấn đề quan hệ giữa cá nhân và tập thể. Cũng giống như những phần tử trí thức cánh tả phương Tây trưởng thành vào thập niên 30 “đỏ”, Anna đã bàng hoàng lo lắng trong một thời gian dài với cảm giác hoang tưởng sụp đổ bởi thương tổn sâu sắc. Cảm giác lưu li kép giày vò cô. Một mặt cô đã cảm thấy thất vọng với đảng Cộng sản Anh và thực tiễn chủ nghĩa xã hội lúc bấy giờ; mặt khác lại không thể bình thản quay về thể chế chủ nghĩa tư bản cũ mà chính mình đã phê phán và phủ quyết, để ăn một chiếc bánh mì bơ của giai cấp trung sản. Chủ nghĩa nhân đạo truyền thống mà cô hằng quyến luyến cơ hồ như đã không còn bù đắp được cho đạo lý của thế gian này; công việc bán chữ cụ thể mà cô ấy đang theo lại không thể hiện được ý nghĩa gì để cho người ta cổ vũ; thậm chí là nhiệt huyết và lòng tin của cô đối với việc sáng tác văn học cơ hồ cũng đã mất hết sạch. Cả thế giới như thể bị một sự ác ý và bạo lực mù quáng thống trị. Trong bút ký, cô ấy đã ghi lại từng cuộc chiến, từng sự giết chóc và bạo hành. Sự “hỗn loạn” giữa nội tại và ngoại tại khiến cho Anna hoảng loạn suốt cả ngày. Trạng thái “phá sản” về tinh thần này càng khiến cho những người đờn ông dễ dàng thao túng cuộc sống “phụ nữ tự do” của cô.

Những cuộc yêu đương nam nữ mà Cuốn sổ vàng đề cập đến cũng như những võ sĩ giác đấu trong một thời gian dài (sau khi so sánh, Anna và Molly đều thuộc về kiểu người có cảm giác tin tưởng “kiên cố”, đối xử với nhau một cách thân mật tự nhiên). Trong đó, mối quan hệ giữa Anna và Saul Green được chỉ rõ ràng đích xác như là “chúa ngục” với “tù nhân”. Đại khái là vì duyên cớ này, một số nhà phê bình cho rằng quyển tiểu thuyết này đã thể hiện cái gọi là “đấu tranh về giới”. Đối với Doris Lessing mà nói thì bà không đồng tình với kiến giải ấy. Trên thực tế, cho dù là mối quan hệ đối lập giữa hai giới phải chăng có dựa trên cơ sở sinh lý khách quan vĩnh hằng nào (một nhân vật trong tiểu thuyết quả quyết rằng có), dưới ngòi bút của Doris Lessing, thì sự xung đột giữa hai giới trước tiên là một sản vật của văn hóa xã hội, vả lại còn có liên hệ giao nhau bởi mâu thuẫn thời đại rộng rãi. Mặc dù Anna đã giành được sự độc lập về kinh tế hay tự do hành động nào đó, nhưng vẫn chưa thể thoát khỏi vận mệnh bị coi là một “món hàng có giá”. Một số người đờn ông “thể diện” có đầy đủ vợ con coi kiểu phụ nữ độc thân như Anna là một món điểm tâm lai-sét giải buồn, vào những lúc vợ vắng nhà bèn nhấc điện thoại lên và gọi đến. Còn có kiểu đờn ông coi tình nhân như là một trong ba yếu tố của “thành công” (sự nghiệp phát đạt, gia đình mỹ mãn và bạn gái xinh đẹp). Chả trách những cô Anna lại cảm thấy bị sỉ nhục và phẫn nộ sâu sắc. Cho dù một người tự do như Saul Green đây cảm nhận thấu đáo về sự phản đối cực đoan và xung đột của xã hội phương Tây hiện đại, cũng không thể thực sự thoát ly khỏi ảnh hưởng về quan niệm truyền thống. Nếu như nói rằng một trong những hình thức biểu hiện qua những cô Anna lòng đầy bất mãn và lo sợ đối với hiện trạng xã hội tức là bất giác mong muốn lui về vị trí “đờn bà yếu đuối” cần được bảo vệ kiểu cũ; vậy thì bản thân những chàng Saul Green lại là biểu hiện của vai “nam tử hán” truyền thống trốn tránh kiểu biểu hiện của bệnh thần kinh. Mối quan hệ cần thiết lẫn nhau và thù địch lẫn nhau giữa họ vừa thể hiện vết tích tâm lý bệnh thái được lưu lại bởi chế độ phụ quyền, vừa xâm nhập vào cảm giác nguy cơ của người hiện đại.

Thậm chí còn đem cả từ “tự do” để kêu gọi sự theo đuổi của phụ nữ cũng thể hiện sự thúc chế của kết cấu văn hóa hiện có đối với con người. Giống như những khái niệm kiểu “nhân quyền”, “bình đẳng” có liên quan, “tự do” cũng chỉ là một trong những ngọn cờ mà giai cấp tư sản hồi đầu mượn để mưu đồ cải cách trật tự phong kiến, không những có nội dung lịch sử và nội dung giai cấp cụ thể, mà còn có cả hàm ý phân biệt giới tính một cách âm thầm lặng lẽ. Về mặt chữ nghĩa mà nói, thì “nhân quyền” tức là “quyền lợi của người đờn ông”. Và đương nhiên “tự do” cũng chính là tự do của những nhà tư sản nam giới. Chả trách Anna nói rằng, “tự do” có nghĩa là “cuộc sống giống như những người đờn ông”. Nhưng mà, những người đờn ông theo đuổi tiền tài, theo đuổi “thành công” ấy nào đã được “tự do” đâu! Đến Saul là một người tự do đi lại như thiên mã ở trên trời kia cũng khó tránh việc làm nô lệ cho xã hội. Hễ mở miệng ra, là Saul thường bắn liên thanh chữ “tôi” như súng máy: “Tôi là”, “Tôi phải”, “Tôi không”, “Tôi sẽ”, “Tôi muốn”… trong khoảnh khắc mà chủ nghĩa cái tôi làm trung tâm của chàng nổi dậy, Anna nhận thấy bản thân mình qua bản thân chàng, và đông đúc mọi người ở chung quanh. Cô nhận thức được tất cả tiếng “tôi” làm chủ thể này có thể là chiếc lồng giam hãm tinh thần như thế nào. Khi những cô gái dũng cảm như Anna vậy, bước đầu giành được quyền lợi về công việc, tham gia chính trị, kết bạn như đờn ông, thì họ nhìn thấy được biên giới của “tự do” này.

Doris Lessing không viết những cô Anna theo kiểu xông vào lưới, hay kiểu người hùng hiên ngang bất khuất, mà miêu tả họ như là những người cản tay ngán chân, bẹo hình bẹo dạng. Điều này không phải là sự khiếp nhược của bà, mà là ấn tượng sâu sắc của bà. Bà có ý muốn chỉ ra tính giới hạn của mục tiêu “phụ nữ tự do” này. Mưu cầu giải phóng thực sự cho phụ nữ, không phải chỉ dựa vào việc hô hào kêu gọi dục vọng cá nhân của những người từng gặp phải những áp bức vô lý hoặc tranh giành một vài quyền lợi nào đó mà đờn ông vốn có, mà cần phải thay đổi toàn bộ những quan hệ xã hội và cả một thế giới. Chính xác là sự gian nan và mơ hồ của nhiệm vụ đằng sau, khiến cho những cô Anna cảm thấy tuyệt vọng trên bước đường theo đuổi hi vọng, có ý muốn mở ra một tương lai nhưng lại rơi vào trọng trách của “quá khứ”.

20220331 4

“Câu Chuyện” Rời Rạc

Sự xếp đặt về kết cấu của quyển Cuốn sổ vàng từng gây ra nhiều chú ý. Quyển tiểu thuyết này không chia thành chương, sử dụng câu chuyện trung thiên bằng ngôi tự sự thứ ba truyền thống với danh nghĩa là “phụ nữ tự do” làm khung sườn chủ đạo, kể về cuộc sống và sự nghiệp của Anna và Molly. “Phụ nữ tự do” được chia làm năm tiết, giữa mỗi hai tiết được xen vào một đoạn lớn gọi là “tập bút ký”, nội dung của nó lần lượt được rút ra theo thứ tự từ bốn quyển sổ tay của Anna (tức là bốn quyển màu đen, màu đỏ, màu vàng và màu xanh nước biển). Ở trước tiết cuối cùng về “phụ nữ tự do” lại xen vào một tiết độc lập, tức là “cuốn sổ vàng”. Cuốn sổ màu đen chép về những gì mà Anna đã trải qua ở châu Phi, quyển tiểu thuyết đầu tay Tình yêu phạm cấm chính là sản vật của bà về quãng đời này. Quyển sổ màu đỏ chép về những chuyện có liên quan đến hoạt động chính trị. Quyển sổ màu vàng chính là một bản thảo tiểu thuyết chưa thành hình, miêu tả về sự rắc rối tình cảm của một cô gái tên là Ella. Quyển màu xanh dương là nhật ký của Anna.

Kết cấu này tạo nên một sự trái ngược rõ nét với tiểu thuyết thời kỳ đầu của Doris Lessing. Nhiều bộ trường thiên như Những cô gái bạo lực của bà noi theo truyền thống “tiểu thuyết trưởng thành” (Bildungsroman), miêu tả sự trải nghiệm của một cô gái trẻ bằng bút pháp tả thực, phơi bày lòng nhiệt huyết lo lắng cho thế giới của tiểu thuyết Nga, cũng khó tránh được sự miêu tả luộm thuộm của chủ nghĩa tự nhiên. Do đó, những “hỗn loạn” như kính vạn hoa mà quyển Cuốn sổ vàng đã tỉ mỉ sắp đặt đã gây chú ý cho không ít nhà phê bình, họ cho rằng quyển sách này là tiêu chí để Doris Lessing rời xa chủ nghĩa hiện thực, là một quyển tiểu thuyết có liên quan về vấn đề tiểu thuyết.

Điều này ít nhất cũng nói trúng được một nửa. Vì quả thực Cuốn sổ vàng là một tái thiết chế của văn học và tiểu thuyết. Có ý nhấn mạnh mâu thuẫn sai lệch giữa lý tính hóa ngôn ngữ và tồn tại khách quan. Nói chung, lúc nào ngôn ngữ cũng ra sức mong muốn đến gần với một loại trật tự, một kiểu giải thích (ngôn ngữ tái “tạo” qua khoa học và công nghiệp hiện đại thì càng nặng về phân tích lý giải); còn về bản chất thì cuộc sống tồn tại thực tế lại là một chỉnh thể hỗn độn không thể nói rõ được, cũng như cái này như cái kia, cũng có nhân cũng có quả. Sở dĩ Anna cùng lúc sử dụng bốn quyển sổ, tức là có ý muốn phân biệt rõ ra về quá khứ và hiện tại, chân thực và hư cấu, cuộc sống cá nhân và sự vụ chính trị… hòng duy trì một trật tự nào đó trong sự hỗn loạn của tư tưởng. Nhưng, nội dung thực tế của bút ký lại trở thành sự chế giễu với ý đồ nguyên thủy của Anna. Nội dung có liên quan đến chính trị không thể bị “nhốt” vào trong quyển sổ màu đỏ; và có lẽ quyển sổ nhật ký cá nhân thuần túy nhiều khi lại trở thành một quyển sổ cắt dán tin tức báo chí.

Giới hạn và quan hệ của hoang tưởng và “thân thực” cũng khó mà xác định được. Nếu như nói rằng tiểu thuyết chủ nghĩa hiện thực truyền thống ra sức khiến cho độc giả tin vào cái “chân” mà mình kể, thì Cuốn sổ vàng lại không ngừng nhắc nhở rằng giữa thế giới ngôn ngữ và cuộc sống tồn tại thực tế của chúng ta có mối quan hệ vô cùng phức tạp và khiến cho người ta mơ hồ nghi hoặc. Ella trong quyển sổ màu vàng là một nhân vật hư cấu. Nhưng nếu như chúng ta đặt những mảnh rời rạc linh tinh ấy lại với nhau, thì có thể thấy được rằng hư cấu gần gũi với hiện thức đến mức nào! Chả trách rằng bản thân Anna cũng nói ở một chỗ khác rằng: Ella chính là Anna. Mặt khác, ngôn ngữ cố gắng tả thực lại nhắm vào việc xa lìa “chân thực”. Anna luôn cảm thấy xấu hổ với tác phẩm đầu tay Tình yêu phạm cấm bán chạy của mình. Vì nó đã chuyển sự tàn khốc của ngăn cách về vấn đề chủng tộc cùng với sự áp bức chủng tộc, và rồi hiện thực cuộc sống bình đạm thành một bộ tiểu thuyết bi thương, lãng mạn kiểu cũ. Anna những muốn thành thực với chính mình. Sau đó, cô kinh hoảng phát hiện rằng nhật ký cá nhân vốn “chân thực” nhất kỳ thực cũng giả tạo như vậy. Trong quyển sổ màu xanh nước biển và màu vàng kim, người bạn trai của Anna lại chính là một người Mỹ tên Saul. Nhưng trong “phụ nữ tự do” ở tiết cuối cùng, chúng ta lại phát hiện rằng anh chàng vốn không phải tên là Saul, cũng chẳng hề điên loạn như vậy. “Phụ nữ tự do” bằng ngôi tự sự thứ ba có một ngữ điệu quyền lực khiến cho người ta chịu nghe và tin. Nhưng, phần khác của tiểu thuyết lại cho thấy rằng “phụ nữ tự do” là một chủ đề trong tác phẩm hư cấu của Anna. Quyển Cuốn sổ vàng thường dung chứa nhiều lối kể giao thoa trùng lặp có khi chứng minh cho nhau, có khi va chạm nhau như vậy, nhưng cơ hồ lại không có nội dung nào được khẳng định hoặc phủ định tuyệt đối. Nhiều đoạn chuyện ghi chép thì lại được Anna lướt qua cái soạch. Có khi, trong nhật ký cô ấy chép những hoạt động trong một ngày và sự dao động về tâm lý, bao gồm cả những chi tiết nhỏ nhặt như kinh nguyệt và đi vệ sinh. Nhưng trong mỗi câu chữ như vậy cô lại cảm thấy bất ổn sâu sắc. Cô chất vấn chính mình, chẳng lẽ việc chép lại từng cái từng cái một những chuyện ăn uống ngủ nghỉ vào trong đó thì được xem là “chân thực” sao? Đương nhiên câu trả lời là phủ định. Nhưng, nếu như những gì cô ấy làm sau này, cứ lướt qua hết thảy mọi chuyện, chuyển thành “một ngày tầm thường”, mọi chuyện “như cũ”, thì lại gần với “chân thực” hơn sao? Rốt cuộc thì điều gì là sự chân thực trong cuộc sống của cô? Phải chăng ngôn ngữ có thể nắm bắt được nó? Hiển nhiên là, điều mà Anna tìm thấy được không phải là một câu trả lời, mà là một câu hỏi.

Phương pháp tự sự cơ bản theo trật tự thời gian và kiểu mẫu tình tiết cũ mà người ta hằng quen thuộc cũng không thể hiện được cuộc sống hiện đại nữa. Trong Cuốn sổ vàng, câu chuyện rời rạc, hóa thành nhiều mảnh vụn: câu chuyện “phụ nữ tự do” bị “giải phẫu”, và những dòng suy nghĩ rời rạc nằm rải rác trong bốn quyển sổ tay, hoang tưởng vụn vặt, nhân sinh linh tinh. Nhân vật chính cũng rời rã. Anna bị những ghi chép rời rạc ấy chia cắt. Và bộ dạng Anna xuất hiện trong mỗi một mảnh vụn ấy cũng không giống nhau. Là một nhân vật chính, cô không thể nắm bắt được tư tưởng và vận mệnh của chính mình nữa. “Con đường thiên đàng” của cô không có điểm bắt đầu và cũng không có điểm kết thúc. Các loại tình tiết phức tạp đều có vị trí bình đẳng, sự phân chia nặng nhẹ truyền thống, sự phân chia nhân quả hình như cũng mất đi. Trong tình trạng này, bất cứ một sự khái quát hay quy nạp nào của nhân vật này chắc chắn cũng là một dạng “méo mó”. Ví dụ như, sự rối rắm trong tình yêu của Anna mà tôi đã nhắc ở phần trước, nhưng chưa kể về những sự khó khăn của cô và Molly gặp phải trong khi dạy dỗ con cái; tôi cố ý chỉ ra nguy cơ chính trị và nguy cơ tư tưởng của cô, lại bỏ qua những nội dung đánh mất tinh thần tự giác và tìm đến sự chữa trị ở bác sĩ tâm lý của cô. Bất cứ sự khái quát nào cũng bao gồm một kiểu phán đoán giá trị, một kiểu lựa chọn. Và sự sắp xếp kết cấu tiểu thuyết này lại ám chỉ một loại “bình đẳng” hỗn loạn, đồng thời không chịu thừa nhận mặt nào đó là chủ đạo hơn, bản chất hơn.

Những câu chuyện rời rạc, ngàn vạn đầu mối kể về một cuộc đời rời rạc và ngàn vạn đầu mối. Doris Lessing từng nói: kể từ khi bom nguyên tử được ném xuống Hiroshima, thì thế giới đã vỡ vụn; bà và kể cả những người khác đều bị nổ tung cùng với bom nguyên tử. “Bom nguyên tử” ở đây đương nhiên là hóa thân của vô vàn nguy cơ trong xã hội hiện đại.

Xuyên suốt tiểu thuyết là nói về câu chuyện của nhân vật chính. Freud(*) nói, tiểu thuyết luôn luôn xoay quanh một nhân vật trung tâm, tác giả tìm mọi cách để kêu gọi sự đồng tình của chúng ta đối với họ và đặt họ vào sự bảo hộ mang tính ý trời đặc thù, còn tất cả những giấc mơ ban ngày và nhân vật chính của tiểu thuyết, nói cho cùng đều là một đức vua “tự ngã” (Ego). Lời này của Freud, hết sức rõ ràng là đang nhắc nhở chúng ta về mối quan hệ nội tại sâu sắc giữa hình thức nghệ thuật tiểu thuyết này với hình thái ý thức của chủ nghĩa cá nhân lấy bản thân làm trung tâm. Bước sang thế kỷ XX trở đi, từ “trào lưu ý thức” vào thập niên 20 cho đến “tiểu thuyết mới” ở nước Pháp vào thập niên 50-60, truyền thống tiểu thuyết cũ gặp phải sự thử thách chưa từng có. Còn sự thử nghiệm mới như hoa trong hình thức và thủ pháp của những nhà nghệ thuật, hẳn là có liên quan đến nhãn quang mới nào đó về người quan sát và cuộc sống. Về điểm này, Cuốn sổ vàng không hề khác với Ulysses. Chỉ có điều là Doris Lessing càng tự giác nhấn mạnh về nguy cơ tư tưởng đằng sau việc tìm tòi hình thức. Cũng có nghĩa là, bà cố gắng phơi bày, nguy cơ của tiểu thuyết, cũng như là nguy cơ của phụ nữ, thực chất cũng là nguy cơ của “con người”.

Về nguy cơ lý tưởng của “con người”, e là hiện tượng văn hóa khiến cho người ta suy nghĩ sâu sắc trong xã hội phương Tây hiện đại. Những nhà theo chủ nghĩa hậu kết cấu Pháp rất nổi vào thập niên 60 đã phát hiện ra ngôn luận của chủ nghĩa phản nhân bản. Điều này cho thấy rõ rằng nguy cơ này vẫn còn đang tiếp tục, thâm nhập, như sự khổ não bàng hoàng của những cô Anna, vẫn không thấy được một kết cục sáng sủa.

Xoay Quanh Cuốn Sổ Vàng

Nhưng Cuốn sổ vàng không phải là một áng mây mù tuyệt vọng không xuyên thấu ánh sáng. Cách tổ hợp cuối cùng của tiểu thuyết có ý muốn nêu ra một dạng thử nghiệm, một sự theo đuổi đối với việc sắp xếp ngôn ngữ và phương thức sinh tồn mới. Huống hồ nó còn bao hàm cả một điều “cốt lõi” bùng cháy – tức là phần “cuốn sổ vàng” (kim). Trong “cuốn sổ vàng” nhỏ, như trong Cuốn sổ vàng lớn, tất cả bị đập tan tành, trải qua sự thay đổi hình dạng, rồi sau đó tất cả được gom lại. Anna phát hiện ra mình bị rơi vào trong sự điên loạn của Saul. Trong thế giới của quá khứ, hiện tại và tương lai, trách nhiệm xã hội và xung động cá nhân, phân tích tâm lý và tư tưởng nữ quyền, thảo luận chính trị và “chiến tranh về giới”, hoang tưởng của ngôn ngữ và tồn tại hiện thực, vô vàn kinh nghiệm và tư tưởng đều được co rút lại với nhau, tất cả mọi chủ đề to lớn hay nhỏ mẻ đều được tái hiện và dung hợp.

Trong sách, một bác sĩ phân tích tâm lý từng thử muốn khiến cho Anna nhìn thấu mối quan hệ cộng sinh giữa hủy diệt và sáng tạo. Sự sụp đổ về tinh thần của Anna chính là một trải nghiệm hủy diệt rồi tái sinh. Đoạn này không hề là miêu tả chân thực của người có thần trí thất thường, mà là một dạng suy nghĩ của cuộc sống mới, một chuyến du hành qua địa ngục có tính tượng trưng, một cuộc “thám hiểm” trong vùng đất chết và kiếp sau.

Trong sự điên loạn, Anna và Saul đã yêu, hận, cãi, nổi khùng một cách không tiết chế. Đến một khi mà họ đã nổi lên trở lại từ vực sâu tinh thần thất thường, ít nhiều thì họ cũng đã tìm được niềm tin đối với lý tưởng – tức là niềm tin đối với “bản rập khuôn” tốt đẹp có thể hi vọng nhưng không thể với tới. Một lần nữa Anna kể về câu chuyện ngụ ngôn “người đẩy đá”. Lần đầu tiên câu chuyện nhỏ này xuất hiện, cơ hồ như nó hoàn toàn là bản sao chép từ thần thoại Sisyphus dưới ngòi bút của Albert Camus: những người đẩy đá không ngừng đẩy đá lên núi. Mỗi lần họ có được một chút tiến triển, thì hòn đá lại lăn xuống, làm cho sự nỗ lực của họ trở nên công cốc. Nhưng, mỗi lần qua một người kể lại, thì câu chuyện lại biến ra một dạng mới nào đó. Cuối cùng qua miệng Anna, nó đã chuyển hóa thành câu chuyện ngụ ngôn có liên quan đến tiến bộ lịch sử: “Hòn đá lăn xuống. Nhưng không lăn thẳng xuống chân núi. Mỗi một lần như vậy, nó đều rơi tới vị trí cao hơn khởi điểm vài tấc. Thế là những người đẩy đá này lại dùng vai của mình để ngăn chặn hòn đá, một lần nữa ra sức đẩy nó lên”. Khi Anna và Saul chia tay, cũng như những người bạn thân hay đồng chí hợp tác làm việc chia tay từ biệt. Họ lần lượt có được linh cảm để viết một tác phẩm từ đối phương. Và cuối cùng thì Saul đã đổi tiếng “tôi” liên thanh được phát ra từ miệng mình thành “chúng ta”: “Chúng ta không chịu thua. Chúng ta sẽ tiếp tục đấu tranh”.

Nhưng mà, tiểu thuyết không lấy suy nghĩ điên cuồng “cuốn sổ vàng” (kim) này để làm kết thúc, mà ngược lại đưa chúng ta quay trở về căn bếp của Molly (thứ năm trong “phụ nữ tự do”). Anna và Molly vẫn gặp mặt nhau ở đấy như thường lệ, tán gẫu. Trong thế giới vừa hiện thực và cũng hiện thực ấy, sự thay đổi và phát triển của sự vật lúc nào cũng đáng thương tội nghiệp, khiến cho người ta tụt hứng. Molly sắp kết hôn với một nhà buôn “tiến bộ”. Cuối cùng thì đứa con trai Tommy luôn luôn ganh ghét cuộc đời của cô cũng quyết định kế thừa sự nghiệp gia đình cha mình là một nhà tư sản. Anna cũng chuẩn bị gia nhập vào đảng lao động và mỗi tuần hai lần đến trường ban đêm dạy cho những thiếu niên phạm tội. Sau cơn bão lớn về tư tưởng với sấm chớp ngụt trời trong “cuốn sổ vàng” (kim), sự thỏa hiệp toàn diện của những cô Anna và trật tự tồn tại chắc chắn chính là sự châm biếm cay đắng. Hai “cô gái tự do” biết rõ mùi vị khổ ải mà mình đã lựa chọn trong tính khả năng của hiện thực. “Nói như vậy,” Molly nói bằng cách tự chế giễu, “tôi và cô đều hợp thành một thể từ căn bản với cuộc sống nước Anh rồi”.

Những cô Anna mà bản thân số mạng đã có trọng cách của “người đẩy đá”, và những cô Anna cùng tồn tại một cách thỏa hiệp với “cuộc sống nước Anh” theo chủ nghĩa tư bản kiểu cũ. Mơ ước của cuốn sổ vàng (kim). Tự cười nhạo một cách thờ ơ cay đắng. Ôm thất vọng, và cũng ôm hi vọng. Tràn đầy sự châm chích, và đong đầy sự đồng tình.

Cuốn sổ vàng đã kết thúc bằng những ký hiệu âm thanh kép không hề thỏa hiệp như vậy đấy.

(Hoàng Mai, Nguy cơ của đờn bà & Nguy cơ của tiểu thuyết, trích trong quyển Đờn bà & Tiểu thuyết, Nxb. Chiết Giang – Văn Nghệ, 1997)

Hoàng Mai
TS. Nguyễn Phúc An (dịch)
Tạp Chí Văn Nghệ TP.HCM số 04 và 05

———
(*) Sigmund Freud (1856-1939) là một bác sĩ về bệnh thần kinh, nhà tâm lý học và là người đặt nền móng cho thuyết phân tâm học.

Sự cân bằng sinh thái của nền văn minh miệt vườn đang bị phá vỡ. Mang tư duy của người đồng bằng Bắc bộ vào cải tạo đồng bằng sông Cửu Long là một sai lầm.

Tây Nam bộ - vùng đất mới

Người Việt vào Tây Nam bộ đối diện với một “địa văn hóa” hoàn toàn khác với Bắc bộ và Trung bộ. Môi trường sông nước ở đây đã quy định phương thức sản xuất, cư trú, tín ngưỡng… Hơn nữa, người Việt, lần đầu tiên, còn phải làm ăn sinh sống theo thế cài răng lược với các tộc người khác như Khmer, Chăm, Hoa… Những hành trang truyền thống, cả vật chất lẫn tinh thần, mang vào đây có cái không dùng được, có cái phải biến cải mới dùng được.

Trước hết, họ phải tồn tại, thích nghi để mà tồn tại. Muốn có đất để cư trú và trồng lúa, người Việt phải đào kênh cho nước đồng liên thông với nước sông Tiền, sông Hậu, thoát lũ vào mùa mưa, cấp nước vào mùa khô. Hoặc những kênh rạch đưa nước ra vịnh Thái Lan nhằm thau chua rửa mặn. Trong đó nổi tiếng nhất là kênh Vĩnh Tế từ An Giang đến Hà Tiên, vừa là kênh thủy lợi, vừa là đường giao thông kinh tế, quân sự.

Từ nghề trồng lúa cổ truyền, người Việt bắt đầu trồng cây trái. Những hàng cây trồng theo luống, khi thủy triều lên, đẩy nước sông, kênh, rạch vào vườn tưới cây, thì nước rút để lại một lớp phù sa màu mỡ thay phân bón. Vườn Tây Nam bộ ngoài trồng những cây bản địa, còn du nhập nhiều cây trái mới, đặc biệt là vùng Cái [kẻ] Mơn, quê Trương Vĩnh Ký. Kinh tế vườn cao hơn ruộng nhiều lần, lại đỡ vất vả hơn. Nhà cửa xây dựng khang trang. Con cái được học hành tử tế. Từ đây xuất hiện từ vườn, miệt vườn, và một văn hóa phù hợp với nó gọi là văn minh miệt vườn.

Người Việt từ chỗ thích nghi để tồn tại đã đến chỗ thích nghi để phát triển. Ở đây, sự biến đổi ngoại cảnh cũng chính là biến đổi tâm cảnh, tức bản thân mình. Cũng là người Việt, nhưng đã phát sinh những thuộc tính mới, được gọi là cá tính Nam bộ, “tính anh Hai”. Đó là tính rộng rãi, phóng khoáng, bộc trực, trọng nghĩa, đặc biệt là trung nghĩa (sản phẩm của Nho giáo Nam bộ, vừa chính thống vừa dân gian, nhà nho vừa dạy học vừa đi buôn), cuối cùng là khả năng dung hợp, tiếp biến văn hóa, đa ngữ, đa tín ngưỡng, quần áo bà ba, khăn rằn, canh chua…

Như vậy, người Việt Tây Nam bộ đã đạt đến sự cân bằng sinh thái, cả sinh thái tự nhiên lẫn sinh thái nhân văn.

Đất mới của đất mới

Tây Nam bộ hết thẩy đều thuộc về văn minh miệt vườn. Riêng Cà Mau, Rạch Giá là một ngoại lệ. Đất vùng này chủ yếu là đất phèn ngập mặn, nên không trồng cấy được. Cây rừng phần lớn là tràm ngập nước, cây đước, cây bụi, dây leo kết thành nhiều tầng che phủ ánh mặt trời. Bởi thế, đây còn gọi là U Minh (Thượng, Hạ). Một thiên nhiên còn hoang dã. Cư dân sống bằng săn bắt, hái lượm là chính: chài lưới, ăn sáp ong, bẫy chim thú và làm rẫy. Đây là miệt dưới, miệt rừng, đối lập với miệt trên là miệt vườn. Cuộc sống cực khổ, man dã, hiểm nguy như vậy mà người Việt vẫn đến đây sinh sống, trước hết vì lý do chính trị, kinh tế. Họ là những nghĩa quân bại trận, những nông dân bị mất đất khi thực dân Pháp đánh chiếm lần lượt ba tỉnh Đông, rồi Tây Nam bộ. Rồi cả những dân nghèo trốn nợ điền chủ, nợ Hoa kiều cũng đến đây sinh sống.

Như vậy, nếu miền Tây Nam bộ, với người Việt, là đất mới, thì Cà Mau - Rạch Giá là đất mới của đất mới. Vùng đất ngập nước này còn chứa đựng rất nhiều lớp trầm tích, không chỉ của cây cối, động vật, mà cả lối sống của con người. Vì thế, có thể nói, vùng đất còn sót lại này của Tây Nam bộ là một phòng thí nghiệm tự nhiên dành cho các nhà xã hội học, nhà nghiên cứu sinh thái học cả tự nhiên lẫn nhân văn.

Một nhân viên của phòng thí nghiệm tự nhiên đó là nhà văn Sơn Nam. Một công trình về phòng thí nghiệm đó là Hương rừng Cà Mau. Sơn Nam (1926 - 2008) là một nhà văn bản thổ, quê An Biên, Rạch Giá. Hương rừng Cà Mau là tập truyện ngắn nổi tiếng nhất của ông, tác phẩm “làm cho Sơn Nam trở thành Sơn Nam”. Ngoài ra, ông còn là một nhà khảo cứu nổi danh về đất đai, văn hóa, lịch sử của Nam bộ. Hương rừng Cà Mau là một tác phẩm văn học, nhưng cũng xứng đáng được dùng như một tài liệu khoa học để nghiên cứu những vấn đề sinh thái của vùng Cà Mau nói riêng và cả Tây Nam bộ nói chung. 

Một trầm tích sinh thái

Sơn Nam không lạ gì vùng đất quê hương ông, nhưng Hương rừng Cà Mau lại là một thứ hương xa, hấp dẫn óc hiếu kỳ, thói chuộng lạ của người ngoài. Hẳn ai cũng muốn được “du lịch qua những trang sách nhỏ” của Sơn Nam để được tận mắt chứng kiến cảnh bắt cá sấu, trói hai chân trước lại, đầu con nọ ghếch vào đuôi con kia, rồi lùa cả đàn từ rừng về nhà như lùa vịt. Điều này gợi nhắc đến Ba Phi, người thông minh, tài trí, có sức khỏe phi thường, bắt sấu dưới sông, đánh cọp trên rừng, những phẩm chất của kẻ chinh phục, làm nức lòng người sau đi khai phá. Hoặc truyện “ngủ mùng nước”, “ngủ mùng gió” của những người đi nhổ bàng ở những cánh đồng hoang đầy muỗi…

Những câu chuyện ly kỳ như vậy, Sơn Nam không miêu tả trực tiếp, mà thông qua người kể chuyện để tạo một khoảng cách giữa người nghe và đối tượng được kể. Người kể chuyện của ông thường không phải là người địa phương mà từ nơi khác đến, hoặc nếu ở địa phương thì cũng đi học xa từ nhỏ, nay trở về trở thành thầy Hai, cậu Hai. Đó là những thanh niên ở Sài Gòn, Mỹ Tho đến, hoặc chủ tiệm tạp hóa, chủ nhà máy xay xát gạo trên thị trấn. Họ đã chứng kiến, trải nghiệm, hoặc chỉ nghe chuyện rồi đem kể lại. Đi theo người kể chuyện đứng ngoài như vậy, bạn đọc thâm nhập dần vào vùng đất lạ kỳ như nhà nhân học với phương pháp quan sát - tham dự.

Đổ vỡ sinh thái qua Hương rừng Cà Mau

Hương rừng Cà Mau không chỉ đáp ứng nhu cầu chuộng lạ, mà còn hấp dẫn bởi những vấn đề sinh thái. Vùng rừng Cà Mau với tính chất nguyên sinh của nó, con người Cà Mau với tính chất nguyên thủy của nó, đã đạt được sự cân bằng, dù là cân bằng động. Người dân ở đây khai thác tự nhiên để/đủ sống, một cuộc sống vừa phải, tùng tiệm. Họ tri túc, chứ không tận thụ, tận diệt. Đơn cử, cá sấu là kẻ thù của con người, nhưng cũng là con vật, như chim kền kền, ăn xác thối, giúp con người dọn vệ sinh môi trường, nên họ không bắt khi sấu sắp đẻ trứng hay đang trong thời kỳ trông đàn con nhỏ... 

20220314 2

Bức đá chạm thủ bút Sơn Nam chép bài thơ “Hương rừng Cà Mau” tại Nhà lưu niệm Sơn Nam. Ảnh: thamhiemmekong.com


Nhưng sự cân bằng mỏng manh này bắt đầu nghiêng lệch khi xuất hiện những yếu tố mới. Trước hết, đó là những chủ hiệu tạp hóa, chủ nhà máy xay xát, những người thu mua lâm thổ sản, những quan chức thuộc địa… Trong Hương rừng Cà Mau, chiếc tàu từ đảo Hải Nam của người Hoa nhiều lần cập cảng Rạch Giá, hay lởn vởn ngoài khơi vùng đất mũi để mua hàng. Từ đó, thiên nhiên bắt đầu được/bị coi như là hàng hóa để khai thác. Cây đước bị chặt để đốt lấy than. Những đầm sấu cạn nước, cá sấu hết dần. Rừng bị đốt phá, chim thú cạn, cọp chạy về vùng Bảy Núi, rồi chạy sang Campuchia.

Vùng Rạch Giá, Hà Tiên nổi tiếng có nhiều sân chim, đặc biệt là chim bồ nông. Đến mùa chim đẻ trứng, chủ trại thuê người quây lại thành “sân”. Đến khi chim non nở, chim mẹ phải đi bắt cá từ Biển Hồ về mớm cho con. Rồi chim non mọc lông ống, xập xòe bay liệng. Bỗng một hôm, khi chim mẹ đi vắng, vào ban đêm, hàng chục “bạn giết” đốt đuốc xông vào “sân” giết chim con. Họ vặn cổ từng con. Những người “bạn nhổ” tức khắc nhổ lông ống. Sáng hôm sau bầy chim mẹ bay về chỉ thấy đống xác bồ nông con to như đống lúa ba bốn trăm giạ. Chim mẹ gào thét, bay tới bay lui trên sân ba bốn ngày rồi quay về Biển Hồ, không trở lại nữa. Lông chim bán cho tàu Hải Nam để kết quạt…

Hương rừng Cà Mau cho thấy cụ thể và sống động vùng đất này đang mất dần sự cân bằng sinh thái cũ, để có thể tiến tới một cân bằng sinh thái mới. Nhưng đó không phải là nền văn minh miệt vườn. Bởi lẽ, xét về mặt thổ nhưỡng, vùng miệt dưới khác hẳn miệt trên. Cà Mau trước đây là “ngón chân cái chưa khô bùn vạn dặm” thì nay cả bàn chân ấy đã bê bết bê tông rồi. Hơn nữa, bây giờ sự cân bằng sinh thái của nền văn minh miệt vườn cũng đang bị phá vỡ.

Mang tư duy của người đồng bằng Bắc bộ vào cải tạo đồng bằng sông Cửu Long là một sai lầm. Việc đắp đê khoanh vùng để cấy lúa đã làm thay đổi chế độ thủy văn sông Tiền, sông Hậu, khiến nước biển ăn sâu vào đất liền, mùa mưa thì lũ lớn, mùa khô thì không đủ nước để thau chua rửa mặn. Lúa không cấy được phải trồng dứa. Thậm chí dân không có nước ngọt để dùng. Tình trạng này càng tồi tệ thêm khi mực nước sông Mekong xuống thấp vì bị chặn nguồn.

Về một sinh thái học tư duy

Sinh thái học vốn là một bộ môn của sinh học, chuyên nghiên cứu mối quan hệ giữa các quần thể sinh vật và giữa chúng với môi trường tự nhiên. Sau đó nó chuyển sang nghiên cứu mối quan hệ người - người và con người với môi trường xã hội: sinh thái học nhân văn. Cuối cùng là sinh thái học tinh thần hay sinh thái học văn hóa. Nhưng, xét cho cùng, cả ba loại, hay ba giai đoạn phát triển này, của sinh thái học đều bị quy định bởi tư duy. Bởi “mọi hoạt động của con người đều được thực hiện thông qua tư duy” (F. Engels).

Từ đó, đổi mới tư duy trước hết là tư duy lại chính tư duy. Trước đây người ta hiểu lầm rằng tư duy chỉ thụ động phản ánh hiện thực khách quan, mà quên mất rằng tư duy còn là sáng tạo. Chính tư duy sáng tạo đã đẻ ra quan niệm mới, lý thuyết mới, khám phá mới, từ đó thực tại mới. Vì “tư duy là phương thức cao nhất của hoạt động tổ chức của tinh thần, mà bằng và qua ngôn ngữ, nó thiết lập quan niệm về thực tại và cách nhìn thế giới” (Edgar Morin). 

Khu tưởng niệm nhà văn Sơn Nam ở Tiền Giang. Ảnh: TL


Vào thời homo érectus (người đứng thẳng), tức người trở thành người, tư duy xuất hiện đột sinh và, do đó, có tính tự trị. Cái nhìn thế giới theo kiểu hòa đồng nguyên thủy đã tạo ra tư duy tổng thể nhất nguyên. Sau đó, sự xuất hiện của tư duy phân tích/tách theo nguyên lý loại trừ đã khiến con người phải lựa chọn/loại bỏ: nếu lấy ví dụ sinh thái học thì hoặc con người là trung tâm, là thước đo của vạn vật, hoặc động/thực vật là trung tâm… Rồi tiếp đến tư duy theo nguyên lý bao hàm, một bước tiệm cận hơn với thực tại: con người vừa là trung tâm, cũng vừa là bộ phận trong tổng thể sinh thái học. Nguyên lý bao hàm đã đánh dấu sự từ bỏ lối tư duy đơn giản, để chuyển sang lối tư duy phức hợp (pensée complexe). Đây là sự chuyển đổi hệ hình tư duy: từ hệ hình của cái đơn giản (paradigme de simplicité) sang hệ hình của cái phức hợp (paradigme de complicité). 

Tư duy phức hợp, một mặt, không loại bỏ tính đơn giản hóa, mà tích hợp nó vào mình. Tư duy phức hợp chấp nhận nguyên lý bất toàn và bất định của tri thức, mong muốn đạt đến một tri thức đa chiều, chú trọng liên kết cái một với cái nhiều, tạo ra sự thống nhất trong đa dạng. 

Cùng với sự phát triển của vật lý thiên văn và vật lý hạ nguyên tử, lý thuyết hệ thống, lý thuyết thông tin, đặc biệt là lý thuyết tự - tổ - chức đã đưa lại “cuộc cách mạng Copernic” về tri thức luận, hình thành tri thức luận phức hợp. Theo Morin, tri thức luận phức hợp vừa hàm định thế giới vừa công nhận chủ thể. Nó đặt cái này vào cái kia trong thế tương hỗ. Thế giới của tự tính sự vật chỉ có được khi có một chủ thể tư duy, mà chủ thể tư duy lại chỉ có thể xuất hiện trong một quá trình vật lý trong đó có cả hiện tượng tự tổ chức.

Như vậy, chủ thể và đối tượng biểu lộ như hai sự xuất hiện cực hạn không tách rời nhau của mối quan hệ giữa hệ tự tổ chức và/là hệ sinh thái. Từ đó, có thể rút ra kết luận: hệ sinh thái cũng là một hệ tự tổ chức, đồng thời nghĩ đến một sinh thái học tư duy.  

Đỗ Lai Thúy

Nguồn: Người đô thị, ngày 12.3.2022.

Nhận xét về Gustave Flaubert, Xavier Darcos trong Lịch sử văn học Pháp (Phan Quang Định dịch, NXB. Văn hóa thông tin, 1997) đại ý cho rằng ngay từ thiếu thời, nhà văn này đã là con người của “nỗi bứt rứt tồn sinh”, của những giằng xé không dứt “giữa nỗi ưu sầu và lý tưởng”. Các sáng tác của Flaubert, theo Darcos, vì vậy cũng mang đậm tính “lưỡng đối”, vừa “không ngừng thăm dò thực tại”, lại “vừa phơi trần tính phù phiếm xuẩn ngốc của nó” (tr.427). Tính chất này, theo tôi, phủ rộng trên nhiều phương diện của văn chương Flaubert. Song trong bài viết này, tôi muốn nói riêng đến Giáo dục tình cảm, mà cụ thể hơn là về Frédéric Moreau, nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết này.

Không khác mấy so với các nhân vật của Balzac, Stendhal hay nhiều nhà văn hiện thực chủ nghĩa cùng thời, Frédéric của Flaubert cũng có những mục đích sống rất cụ thể rõ ràng, và những mục đích của anh, nhìn chung, cũng xoay quanh những vấn đề rất quen thuộc như tiền tài, tình yêu, danh vọng,… Nhưng vấn đề là, khác với lão Goriot của Balzac suốt đời, thậm chí cho đến lúc nhắm mắt xuôi tay vẫn luôn sống chết với khao khát thượng lưu, khác với chàng Julien Sorel trong Đỏ và đen của Stendhal tìm mọi cách, làm mọi thứ để vươn đến một địa vị cao hơn trong xã hội, thậm chí dám cầm súng bắn trọng thương người đàn bà đã làm mình vuột mất cơ hội thăng tiến, Frédéric của Flaubert không đi đến cùng những mục đích của đời mình.

Anh liên tục dao động giữa những đối tượng yêu: một lần đi tàu từ Paris về quê nhà Nogent, Frédéric vô tình gặp phu nhân Marie Arnoux, vợ một chủ tòa báo lớn về nghệ thuật ở thủ đô, và ngay lập tức yêu đơn phương bà; tuy nhiên, khi phải rời Paris về quê vì cạn tiền, rất nhanh, anh dần quên bà Arnoux để tiếp cận một thiếu nữ nông thôn, nàng Louise Roque, và bắt đầu nảy sinh tình cảm; nhưng rồi khi hay tin mình được hưởng thừa kế từ người cậu ruột, anh bỏ quê trở lại thủ đô, lao đi khắp phố xá Paris để tìm Marie Arnoux; sau, có một khoảng thời gian dài anh lại là tình nhân của nàng Rosanette;… Có lúc anh muốn về quê cưới Louise Roque; có lúc anh tìm cách đến thăm phu nhân Arnoux, bất chấp hôn bà say đắm; nhưng rồi có lúc anh lại ước mong trở thành người tình của bà Dambreuse.

Con đường học hành sự nghiệp của Frédéric cũng đầy những khúc rẽ bất ngờ: anh theo học trường Luật, tham vọng gia nhập chính giới và có được địa vị cao trong xã hội, nhưng rồi với ham mê nghệ thuật, đôi khi anh dành mọi sự quan tâm của mình cho âm nhạc, mỹ thuật, cũng có lúc lại muốn thử viết kịch, viết tiểu thuyết, thậm chí là một công trình lịch sử mỹ học; có khi anh trở thành một người nổi tiếng với những bài diễn thuyết, những luận bàn chính trị sâu sắc, song rồi có lúc anh chỉ mải miết loay hoay với những người đàn bà đi qua đời mình. Nói khác đi, cuộc đời Frédéric Moreau là một chuỗi dài những ngày vần xoay trong lưỡng lự và những rối rắm trong chọn lựa.

Pierre Bourdieu, trong Quy tắc của nghệ thuật (Phùng Ngọc Kiên, Nguyễn Phương Ngọc dịch, NXB. Tri thức, 2018), cũng có nhận xét tương tự khi cho rằng Frédéric “thiếu cái mà giới tư sản gọi là ‘tính nghiêm túc’, có nghĩa là khả năng xử thế theo khuôn mẫu” (tr.36), hay nói rõ hơn, anh liên tục “dao động giữa các chiến lược loại trừ nhau” (tr.47). Thậm chí, theo Bourdieu, những người đàn bà đi qua đời Frédéric có thể được xem như là những biểu trưng cho các trường lực trong xã hội (như chính trị, kinh tế, nghệ thuật,…), và con đường tình ái phức tạp, đổi thay một cách chóng mặt của anh, vì thế, thực ra cũng là một biểu hiện rõ nét của việc anh không có một chiến lược xã hội cụ thể, rõ ràng và vững vàng.

Lý giải điều này từ góc nhìn xã hội học văn học, Bourdieu cho rằng chính vì Giáo dục tình cảm về thực chất là một cuốn tiểu thuyết tự truyện, nên hình tượng Frédéric Moreau phần nhiều có mối liên hệ mật thiết với cuộc đời Flaubert. Nói cách khác, Flaubert đã tái hiện con người do dự, lưỡng lự của mình qua nhân vật Frédéric. Tuy vậy, theo Bourdieu, Flaubert hơn nhân vật Frédéric của mình ở chỗ ông đã nghệ thuật hóa, tiểu thuyết hóa chính sự do dự đó: hành động viết này là minh chứng cho thấy thay vì lưỡng lự một cách thụ động và tự phát như nhân vật Frédéric của mình, Flaubert xiển dương một thái độ lưỡng lự “chủ động” trước cuộc đời, hướng đến “sự phá hủy những sự quyết định, những sự cưỡng bức và những giới hạn, những thứ cấu thành nên sự tồn tại xã hội”, nghĩa là chống lại tình thế “phụ thuộc, nắm giữ và bị nắm giữ, tóm lại thuộc về các nhóm” (tr.61). Để chứng minh, Bourdieu dẫn lại chính lời Flaubert viết trong thư gửi cho Louise Colet, rằng nhờ có nghệ thuật mà với ông, “ít ra mọi thứ đều tự do, trong thế giới các hư cấu. Người ta thỏa mãn với mọi thứ, làm mọi thứ, người ta vừa là vua vừa là dân, vừa chủ động vừa thụ động, vừa là nạn nhân vừa là cha cố” (tr.60). Nói gọn, theo Bourdieu, vì nhận thấy con người của xã hội thực tế chỉ biết lao theo những kiểu mẫu công thức, những tham vọng, mục tiêu, lựa chọn hoàn toàn cố định và khô cứng, Flaubert đã sáng tạo nên các nhân vật kiểu Frédéric, đã trình hiện trong các tác phẩm của mình hình tượng những con người đầy do dự, dềnh dàng, không kiên quyết như một phản ứng, một nỗ lực đi ngược lại thực tế ấy.

Tuy nhiên, hãy thử nhìn đặc điểm này của tiểu thuyết Flaubert từ một góc độ khác, mà cụ thể là từ mục đích sáng tạo của chính nhà văn. Trong bức thư gửi nữ văn sĩ George Sand vào tháng 12 năm 1875, Flaubert cho rằng mình không viết tiểu thuyết để phê bình hay châm biếm một cái gì, và rằng trong khi sáng tác, ông khước từ cả những nhân vật anh hùng, những nhân vật được ngợi ca, lấy làm hình mẫu luân lý, lẫn những “con quái vật”, những kẻ xấu xa bị chế giễu và lên án. Thay vào đó, ông chỉ muốn “đi vào tâm hồn sự vật” (aller dans l'âme des choses), khao khát vươn đến những sự thật thẳm sâu, hay nói theo đúng lời ông, những “khái quát hóa vĩ đại nhất” (généralités les plus grandes) về nhân sinh và thế giới. Việc Flaubert thường xuyên khắc họa hình tượng những con người dềnh dàng, bất quyết giữa những lựa chọn, từ Emma Bovary đến Frédéric Moreau, theo tôi, có thể được xem như một nỗ lực hiện thực hóa tham vọng ấy: bằng tiểu thuyết, Flaubert thực sự đã đi rất sâu vào tâm hồn nhân loại để bắt gặp và khắc họa hết sức thành công một trong những đặc tính căn cốt nhất của sinh loài phức tạp này – lưỡng lự.

 

Khó có thể phủ nhận rằng ai trong số chúng ta cũng có lúc phải đối diện với những tình thế phân vân, do dự, khó xử vì chỉ có thể chọn một trong vô vàn lựa chọn, mà lựa chọn nào cũng có phần hợp lý và đáng cân nhắc.

Có người mắc kẹt trong những giằng xé khủng khiếp giữa luân lý, lòng thương và niềm kính tín tôn giáo như nhân vật tổ phụ Abraham trong Kinh Thánh, người rơi vào tình huống phải lựa chọn hoặc hiến tế đứa con trai Isaac để thể hiện lòng tuân phục vô điều kiện đối với Chúa trời, hoặc thương con, giữ lại mạng sống cho con nhưng phải chống đối lời Chúa, chấp nhận từ bỏ tư cách một tín hữu trung thành tuyệt đối.

Có người – như anh chàng sinh viên mà Sartre từng nhắc đến trong Thuyết hiện sinh là một thuyết nhân bản – hoang mang không biết nên lựa chọn nhập cuộc, bất chấp mọi chết chóc, lên đường ra trận để hoàn thành trách nhiệm của một công dân đối với quốc gia, hay bỏ qua những hô hào nghĩa vụ, lựa chọn ở lại quê nhà, chăm sóc người mẹ già yếu đã sống hơn nửa đời trong đau khổ, chỉ còn anh là nguồn an ủi.

Có người vừa muốn dấn mình vào hoạn lộ để ra tài giúp nước, không đành ẩn dật an thân chốn núi rừng, song vừa muốn thoát khỏi con đường danh lợi ấy vì nhìn thấy trước mắt bao nhiêu nhiễu nhương, tai ách, khổ nạn, cho nên thấy đời mình không khác gì đang đi trên một bãi cát dài, mà đi một bước lại như lùi một bước (“nhất bộ nhất hồi khước”), như Cao Bá Quát từng diễn tả về thảm trạng của chính ông trong Sa hành đoản ca.

Cũng có người, như anh chàng bán khung tranh trong Có một người nằm trên mái nhà của Phan Triều Hải, lại rơi vào cuộc giằng co giữa một bên là niềm vui thích (có vẻ rất viển vông) được nhìn ngắm bầu trời đêm và những vì sao, niềm khao khát được thấy mình thấu nhập vào bản hòa điệu kỳ vĩ và bất tận của vũ trụ, với một bên là những vụn vặt thường ngày (thường được cho là “thực tế” hơn), những tính toán so đo, những cục cằn vô minh của một thế giới người phần lớn chỉ biết chui rúc bên dưới những nóc nhà chật.

Thậm chí, nếu quan sát một cách kỹ lưỡng hơn, sẽ thấy không chỉ những chuyện trọng đại to tát trong đời, những thứ có liên quan đến đạo nghĩa, đức tin, trách vụ,… mới khiến ta lưỡng lự. Trên thực tế, có những việc rất nhỏ, diễn ra lặp đi lặp lại hàng ngày như chuyện ăn gì, mặc gì, dậy sớm hay muộn,… đôi khi cũng có thể khiến ta rơi vào trạng thái do dự phân vân dù nhiều dù ít. Và cũng giống như chàng Frédéric Moreau của Flaubert, tôi tin hẳn ai trong số chúng ta, dù là người quyết đoán kiên định nhất, cũng sẽ có lúc do dự, dùng dằng cân nhắc về việc nên chọn học trường gì, làm nghề gì, chọn đi theo tiếng gọi của sở thích cá nhân, khuôn mình vào các chuẩn tắc xã hội hay chạy theo những hào nhoáng của vật chất; ta sẽ chọn yêu ai, thân thiết với ai; ta sẽ chọn xuất hiện trước xã hội và trên các diễn đàn công cộng thế nào;…

Sartre từng có một tuyên ngôn nổi danh: “Con người bị kết án phải tự do”. Tự do ở đây, như tôi hiểu, không phải là có thể mặc sức làm mọi thứ một cách thỏa thích không cần suy nghĩ, mà là luôn luôn được lựa chọn và luôn phải tự chịu trách nhiệm cho lựa chọn của mình. Nhưng chính bởi điều này mà theo Sartre, con người đã “bị kết án” phải tự do, “bị kết án” vì người ta không tự tạo ra chính mình, không tự đưa mình vào thế giới này, một thế giới mà ở đó họ luôn phải lựa chọn và âu lo trước việc lựa chọn gần như đã trở thành bản mệnh. Nhiều người có thể sẽ phản biện ngay rằng, thật ra thì có lắm lúc ta đâu có quyền chọn lựa: thời cuộc, đạo đức, quy tắc xã hội,… luôn buộc lấy ta, lấy mất sự tự do chọn lựa của ta. Thuyết hiện sinh của Sartre cực lực phủ nhận điều ấy, và những lập luận của ông, theo tôi, không phải là không có lý.

Con người sống trên đời, theo Sartre, thực ra chưa bao giờ phải rơi vào tình thế chỉ có một lựa chọn duy nhất. Đối diện với bất kỳ một tình huống nào, người ta sẽ luôn thấy có những hướng giải quyết khác nhau bày ra trước mắt. Chính vì vậy, khi cho rằng cái này cái kia ngăn trở mình không được chọn con đường a, lối đi b, họ thực ra đang nguỵ tín (mauvaise foi): chính họ, chứ không phải ai khác, đã chủ động chọn xem những thứ ấy là trở lực, ràng buộc, đã tự mình ưu tiên cho một lựa chọn nào đó, sau biết bao lần cân nhắc đắn đo. Nói tóm lại, theo Sartre, con người từ thẳm sâu, nhại lời Aristotle, đã là một sinh vật lựa chọn, không bao giờ thoát khỏi việc phải đối mặt với những lựa chọn. Mà rõ ràng, đã lựa chọn là không tránh khỏi do dự phân vân, thậm chí giằng xé: trong cách nhìn này, Sartre theo tôi đã gián tiếp công nhận sự lưỡng lự như một đặc điểm người mang tính phổ quát.

Cái dùng dằng phức tạp rất bản chất này của con người, theo quan sát của tôi, trở thành một đề tài lớn và xuyên suốt trong rất nhiều kinh điển của văn chương thế giới, dù hình như không được nhiều người nhắc đến và bàn luận. Thử kiểm kê lại những tác phẩm được liệt vào hàng văn chương lớn của nhân loại, dễ thấy sự lưỡng lự không chỉ được khắc họa, mổ xẻ, phân tích trong Giáo dục tình cảm của Flaubert như đã kể, mà còn hiện diện trong những Medea của Euripides, Genji Monogatari của phu nhân Murasaki, Hamlet của Shakespeare, Le Cid của Corneille, Andromaque của Racine, Julie hay nàng Héloïse mới của Jean-Jacques Rousseau, Tội ác và hình phạt của Dostoievsky, Con đường không đi của Robert Frost,… Truyện Kiều của Nguyễn Du, theo tôi, cũng có thể được xem như một kiệt tác về sự lưỡng lự.

Không khó nhận thấy ở Thúy Kiều, nhân vật chính của truyện thơ này, nhiều chi tiết cho thấy những nghịch biện, dùng dằng, phân vân rất đáng chú ý trong lựa chọn, tâm lý và tính cách của nàng. Tôi thử đưa ra một vài thí dụ.

Trước hết, hãy bàn về mối quan hệ giữa Kiều với Thúc Sinh. Kiều có yêu Thúc Sinh không? Đúng như Bùi Giáng từng nhận xét, nói Kiều có yêu cũng đúng, mà không yêu cũng đúng. Nàng có yêu, thậm chí là yêu say đắm (“ngày xuân càng gió càng nồng”, “trước còn trăng gió sau ra đá vàng”). Điều này cũng dễ hiểu: Kiều không yêu Thúc Sinh làm sao được khi đang nhục nhằn chốn thanh lâu, vừa trải qua bao nhiêu sóng gió thì lại được một chàng khách du thuộc “nòi thư hương” chăm sóc, yêu thương, trân trọng, thậm chí có ý lấy nàng làm thiếp, cứu nàng khỏi cảnh khổ? Nhưng nói nàng vì ân nghĩa ấy mà yêu Thúc Sinh đến mức dám hy sinh mọi thứ thì cũng không đúng. Mà bằng chứng là, khi nghe Thúc Sinh có ý muốn thành hôn, nàng bày tỏ không biết bao nhiêu lưỡng lự: nào là nghi ngờ sự tồn tại của tình yêu vĩnh cửu (“Bình khang nấn ná bấy lâu/ Yêu hoa yêu được một màu điểm trang/ Rồi ra lạt phấn phai hương/ Lòng kia giữ được thường thường mãi chăng?”), lo sợ người vợ cả “giấm chua lại tội bằng ba lửa nồng”, rồi lại cũng băn khoăn không biết cha mẹ Thúc Sinh “lượng trên trông xuống biết lòng có thương?”.

Ở một đoạn khác, khi người của Hồ Tôn Hiến đến khuyên Kiều dụ hàng Từ Hải, nàng lại nhanh chóng rơi vào lưỡng lự. Từ Hải – người đã có công cứu chuộc nàng, giúp nàng báo ân báo oán – có ý không chịu thần phục triều đình vì “hàng thần lơ láo phận mình ra đâu”, vì lâu nay đã quen “dọc ngang nào biết trên đầu có ai”. Và Kiều không phải là người không hiểu ý phu quân: nàng từng rất ủng hộ chàng, từng ước mong “Tấn Dương được thấy mây rồng có phen”, thậm chí được Từ xem là “tri kỷ”. Tuy vậy, trước lời dụ hàng, nàng lại cân nhắc rất nhiều, nhất là vì Hồ Tôn Hiến đã sai người mua chuộc nàng bằng “hai tên thể nữ ngọc vàng nghìn cân”, mà nàng thì “thật dạ tin người”, “lễ nhiều nói ngọt nghe lời dễ xiêu”. Thứ nữa, hãy xem dòng suy nghĩ của Kiều: “Nghĩ mình mặt nước cánh bèo/ Đã nhiều lưu lạc lại nhiều gian truân/ Bằng nay chịu tiếng vương thần/ Thênh thênh đường cái thanh vân hẹp gì!/ Công tư vẹn cả hai bề/ Dần dà rồi sẽ liệu về cố hương/ Cũng ngôi mệnh phụ đường đường/ Nở nang mày mặt rỡ ràng mẹ cha/ Trên vì nước dưới vì nhà/ Một là đắc hiếu hai là đắc trung/ Chẳng hơn chiếc bách giữa dòng/ E dè sóng vỗ hãi hùng nước sa”. Dễ thấy, Kiều có yêu kính Từ Hải và rất thấu hiểu chí tang bồng muôn hướng của chồng, nhưng nàng cũng vị kỷ, nàng cũng nghĩ cho mình, cũng khao khát cho riêng mình một tương lai yên ả, nàng cũng nghĩ về địa vị, danh vọng, nghĩ về những điều mà theo nàng là có lợi cả đôi đàng, dù những suy tư ấy rõ ràng là đầy ảo tưởng và ngụy biện.

Chưa kể, Kiều liên tục dao động trong cách đối diện với số mệnh. Có nhiều khi nàng thấy mình là một nạn nhân bất lực trước ý trời: “Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn/ Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay?”, hay “Biết thân chạy chẳng khỏi trời/ Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh”. Tuy nhiên, có lúc nàng lại cho thấy mình vô cùng chủ động, thậm chí có thể cầm cương số mệnh. Đúng như Nguyên Sa từng phân tích trong tiểu luận nổi tiếng Nguyễn Du, trên những nẻo đường tự do[1], Kiều dù được Đạm Tiên báo mộng về số kiếp đoạn trường, song nàng đã phớt lờ mọi thứ, thậm chí là sự can ngăn quyết liệt từ phía gia đình hay nguy cơ đánh mất tình yêu với chàng Kim, để quyết chí bán mình chuộc cha, mạnh dạn cho rằng: “Thà rằng tiếc một thân con/ Hoa dù rã cánh, lá còn xanh cây”. Bên cạnh đó, cũng theo Nguyên Sa, chính vì đã suy tư một cách chủ động và toàn diện về mọi hệ quả có thể có từ quyết định bán mình, nên Kiều đã không chịu nên duyên cầm sắt với Kim Trọng trong ngày tái hợp, bởi xem đó là hành động của kẻ “công nhận làm một quân cờ của định mệnh, một lá bài của cuốn sổ đoạn trường” (tr.52).

Dễ thấy, hiện lên từ những thí dụ trên đây là hình ảnh một nàng Kiều đầy phức tạp và khó hiểu. Ta có thể kết luận gì về Kiều? Một kỹ nữ dù sống chốn thanh lâu vẫn giữ tròn phẩm hạnh? Một tài hoa đau khổ luôn bị số mệnh dập vùi? Hay một con người hiện sinh bất chấp mọi ràng buộc để giành đoạt hạnh phúc cho mình? Theo tôi, rất khó để có một kết luận nào thật sự rốt ráo và thỏa đáng. Bởi rõ ràng nàng Kiều mà ta thấy vừa rất thanh cao, tài hoa, hiểu biết, trọng tình nghĩa, nhưng cũng lại vừa ích kỷ, thực dụng, thậm chí tham lam, nhỏ nhen. Nàng không ngừng giằng xé âu lo trước những lựa chọn giữa tình yêu, đạo đức, danh vọng, địa vị, quyền lợi. Nàng có những lúc vô cùng yếu đuối, chỉ biết trách đất than trời, nhưng cũng có lúc hiên ngang chối từ số mệnh.

Nàng Kiều của Nguyễn Du, vì lẽ ấy, theo tôi, không truyền giảng, xiển dương, không phải là đại diện hay kiểu mẫu cho bất kỳ một cái nhìn, một lý thuyết, một lẽ sống cụ thể rõ ràng nào. Nàng cứ là nàng, một con người bình thường, giản dị mà cũng thẳm sâu, phức tạp, khó đoán như tất cả chúng ta, với những dùng dằng do dự, những băn khoăn bất quyết, những nghịch kiến mâu thuẫn hiện diện thường trực trong từng giây phút.

Nhưng cũng chính vì là một con người, thực thụ là một con người với sự lưỡng lự như một căn bản mà Kiều luôn là một bí mật thi vị và đầy hấp lực đối với tất cả chúng ta, thậm chí là với bản thân nàng, và với cả Nguyễn Du – người đã xây đắp nên nàng. Văn chương lớn, theo tôi, chính là như thế: nó không phải là thế giới của những con rối.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 991, tháng 6/2022

 


[1] Đăng lần đầu trên tạp chí Sáng tạo (Sài Gòn), số 15, tháng 12/1957

Tháng giêng. Năm 2011. Còn ngót nghét một tháng thì tết Tân Mão. Anh Hai Nghĩa cho người gọi tôi lên trụ sở cơ quan ở phố Nguyễn Cảnh Chân. Anh là nhà chính trị chuyên nghiệp am hiểu sâu sắc lẽ đời chìm nổi với văn chương. Anh bảo: "Tặng em 3 quả bưởi da xanh anh mang từ vườn nhà trong Nam ra để thờ tết. Chúc mừng em được vào Hội nhà Văn. Bước chân vào đấy như vào nhà đỏ văn chương rồi. Người ta nói đã đốt lửa lên phải thắp sáng một cái gì đấy. Người viết văn phải xem trọng ngòi bút. Bây giờ thời buổi kinh tế thị trường, nhiều người cho là vàng lấn át tất cả. Nhưng em xem, bao nhiêu người cho cô Long Thành cầm giả ca vàng bạc châu báu, chỉ Nguyễn Du cho cô ấy sự im lặng và giọt lệ. Hơn 200 qua rồi. Bao nhiêu vàng bạc không còn nữa. Chỉ còn sự im lặng và giọt lệ ấy thôi. Em cố gắng. Giữ gìn". Tôi mang bưởi về thờ tết và luôn nhớ lời anh dặn.

Nhà thơ Trần Vàng Sao

Một năm sau. Vượt 600 cây số đường bộ vào Huế thăm Trần Vàng Sao. Trời rải mùa đông mưa rét suốt dọc đường đi. Trần Vàng Sao bảo. Mưa bên bờ này sông chưa kịp sang đến bờ bên kia đã tạnh. Tôi qua sông rồi, mưa vẫn đầy trời xứ Huế.  Buổi chiều tôi đến 38 đường Nguyên Khoa Vi thì trời lại ngớt mưa. Trần Vàng Sao dí dỏm nói "Cách đây mấy hôm nhà mới được đeo số. Không chừng nó và mưa đón anh vào cũng nên?" Ngày hôm sau, tôi mang Khoảng vẳng mùa thu ngủ trên cỏ may Tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen của Trần Vàng Sao về Hà Nội. Ngay đêm viết liền một mạch bài Giọt nước trong lá sen gửi đăng số tết báo Văn nghệ Nhâm Thìn. Rồi sau đó gửi gấp báo vào Huế. Không ngờ Trần Vàng Sao vui đến thế. Anh reo to trong máy: "Tui nhận được báo rồi anh ơi!". Như thể vinh dự lắm khi được đứng chân trong tờ báo tết của Hội. Tháng 5-2020 Tuyển thơ Trần Vàng Sao mang tên Bài thơ của một người yêu nước mình trang trọng được phát hành trên toàn quốc; Lập tức trở thành một trong số ít tập thơ đặc sắc từ năm 2000 trở lại đây. Lần trước đọc thơ anh hầu hết qua văn học mạng, tôi bảo anh: Thơ Trần Vàng Sao có 3 vòng sáng Đất nước - mẹ và em lồng vào nhau trong nỗi xót xa, trong sáng mà ngậm ngùi. Lần này đọc ấn phẩm giữa thanh thiên bạch nhật, cũng những bài ấy thôi mà tôi như sống lại trong thơ tự do đã không vần lại rất dài, đặc sắc chất tự sự kể về đời thi sỹ tài năng mà bất hạnh này. Bắt đầu từ tuổi thơ đến với đời giữa đồng bắt gió nhốt vào trong áo mà không hay biết sau lưng có con mắt đang nhìn. Cả cuộc đời qua cầu Tràng Tiền mà không đội được nón vì gió lớn. Nắng nửa dòng sông Hương bên kia thả những ngọn lá tre để đi ra biển. Đầu hôm, nghe súng nổ ở cầu Ông Thượng, Cha bị Tây bắn chết ở An Hòa. Mưa tháng 7 ngoài sân bong bóng nổi bong bóng chìm nên mạ không đi lấy chồng. Cơm cục chấm cơm rời cực như ngọn lá xanh trôi ngược dòng nước, giọt mưa không chìm biết có ai hay? Cậu bé mồ côi Trần Vàng Sao thả diều trên đồng và nhặt những bát cơm cúng trên mả mới ăn cho đỡ đói. Giống như Văn tế thập loại chúng sinh, nhà thơ vào loại đặc sắc nhất của xứ Huế nửa sau thế kỷ 20 nhập hồn mình vào Chử Đồng Tử, Từ Thức, Trương Chi, Người mất trí, Người ngậm ngải tìm trầm, Người gọi tìm xác đồng đội, Người kéo xe tay, Người chèo đò, Lão ăn mày v.v... để bày tỏ sự cảm thông và đồng điệu với một thế giới chúng sinh khổ đau mà chưa hết niềm hy vọng. Bút pháp trữ tình giàu tính tự sự chân thực và sử dụng thế giới những ảo giác trong một ngôn ngữ thơ tự nhiên như lời người đời vẫn nói, đặc biệt là những ảo giác về mặt trời Tôi chạy đuổi bắt tôi suốt cả ngày trên đồng trống. Mặt trời trước mặt mặt trời sau lưng. Nàng như ngọn gió thổi qua sông tôi không thể nào lấy tay che mặt được... Trần Vàng Sao làm đúng cái điều mà Chế Lan Viên nói về thơ thế kỷ 21: Lột trần áo bào và mũ triều thiên, thơ cầm bị gậy đi ăn xin bên đường nhân loại trẩy. Tất cả thân phận đau thương của người cùng khổ quy tụ lại chính là tâm hồn thơ đầy sức biểu cảm của Trần Vàng Sao. Anh làm tất cả những điều đó để được làm một nhà thơ của thời đại mình. Với Trần Vàng Sao, trước khi trở thành nhà văn phải là người yêu nước mình, đồng cảm sâu sắc với những khổ đau, hy sinh, mất mát của nhân dân. Những bài thơ không vần kể chuyện như kể văn xuôi, trầm luân dài một kiếp người đau đớn xót xa. Đọc thơ anh, ta như đọc Kinh Cựu Ước, thấy được tư cách một nhà văn yêu nhân dân mình không phải ở lầu son gác tía mà ở bên ngọn đèn dầu nhỏ bé tha thiết với đời ta. Anh kêu lên: Thơ tôi là đời tôi là tôi đây. Hai cánh tay tôi bơ vơ suốt cuộc đời hãy lấy thơ tôi đắp mặt cho tôi, dưới một vòng sáng kỳ lạ - vòng sáng nhỏ bé, linh thiêng của ngọn đèn dầu chẳng bao giờ tắt trên khám thờ thi ca. Tuyển chỉ 32 bài thơ đã thấy 12 lần Trần Vàng Sao khêu ngọn đèn dầu trên trang viết như nhắc nhở thầm tư cách một nhà văn.

Tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một ngọn đèn để lên bàn thờ. Đèn hết dầu,Tôi lấy chai ra đường đứng kêu cửa mua chịu. Ngọn đèn chai tắt đỏ dưới sông. Cây đèn dầu hỏa không có bỏng ngọn cứ chớp chớp lòa lòa. Người đàn bà mở cửa giữa đưa tay che ngọn đèn thắp hương lên bàn thờ. Đêm khuya thắp đĩa dầu đầy, đĩa dầu khô nước mắt này không khô. Tôi vặn đèn sáng lên. Cây đèn trên bàn thờ vẫn đỏ. Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai...

Không ai rõ ràng như Trần Vàng Sao. Đọc thơ thấy người. Trần trụi một kiếp người. Qua kiếp người ấy ta thấy người khác. Thấy đồng loại. Thấy nhân cách một nhà văn. Đã 3 lần Hội nhà văn mời anh vào Hội. Tháng 5-2018 Trần Vàng Sao mất ở Huế. Đến lúc đó, anh vẫn là nhà văn không ở Hội nhà văn.

 Trên đất nước của chúng ta, có bao nhiêu người giống như Trần Vàng Sao, suốt đời dâng hiến cho văn học nhưng họ đâu có nghĩ một ngày nào đó được bước vào ngôi nhà đỏ của văn chương? Đơn cử các nhà văn làm lý luận phê bình văn học. Hàng trăm giáo sư tên tuổi ở các trường đại học và học viện khắp Bắc Trung Nam. Họ âm thầm lấy nghiên cứu văn chương làm lẽ sống. Tôi xin đơn cử hai người của khoa Văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội - Theo cách gọi trước đây. Giáo sư Trần Nho Thìn và Phó giáo sư Nguyễn Bá Thành.

Bảo vệ Phó tiến sỹ văn học năm 1989 tại Viện Đông phương học, Viện hàn lâm khoa học Liên Xô với đề tài: Quan niệm của nho giáo về nhân cách và sáng tác của Nguyễn Du, được Nhà xuất bản của Viện hàn lâm ấy in thành sách. Năm 2004 Trần Nho Thìn được phong Phó giáo sư. Năm 2016 được phong Giáo sư. Hiện là thành viên Hội đồng Giáo sư chuyên ngành văn học. Trong sách của anh bắt gặp nhiều trích dẫn khoa học có sức nặng tham khảo từ các nguồn tài liệu tiếng Nga, Anh, Trung. Là một chuyên gia hàng đầu về văn học Trung đại Việt Nam có sự hiểu biết sâu sắc và nghiêm cẩn của nhà nghiên cứu văn học. Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa. In các lần 2003 - 2008 – 2009.  Văn học Việt Nam từ thế kỷ thứ X đến hết thế kỷ XIX, in năm 2012 với 700 trang như bách khoa về văn học trung đại. Gần đây nhất là Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu văn học... in 12/2017. Tôi ngạc nhiên về sự hiểu biết, về tầm nhìn sâu rộng cũng như đức tính cẩn trọng và thái độ trung thực của một nhà văn. Năm 2007, Thìn chủ biên Truyện Kiều - Khảo dị - Chú thích và bình luận. Anh dày công nhìn lại 200 năm hành trình của Truyện Kiều từ chỗ bản thảo viết tay đến khi được khắc bản in rồi phổ biến bằng chữ quốc ngữ. Đời sống Truyện Kiều như được dựng lên từ 5 bản kiểu chữ nôm của Liễu Văn Đường khắc in năm 1866 đến bản của Kiều Oánh Mậu khắc in 1902 với 9 bản quốc ngữ từ bản của Trương Vĩnh Ký in 1875 đến 8 bản khác do các nhà nho uyên thâm và đức độ cùng các học giả danh tiếng thực hiện suốt thế kỷ 20. Từng câu, từng chữ được dọi chiếu bằng ánh sáng của học vấn và tình yêu văn chương, nối lại gần nhau những khoảng cách văn hóa của nhiều thời đại. Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy văn học như là một công trình đi trước phục vụ Hội nghị văn hóa toàn quốc 11/2021. Trần Nho Thìn nhất quán chọn hướng tiếp cận văn hóa, lấy con người làm đối tượng trung tâm cho sự nghiệp nghiên cứu văn học là một lựa chọn rất có ý nghĩa, góp phần làm cân bằng môi trường nghiên cứu phê bình ở nước ta, khi thì nghiêng về tính giai cấp, lúc lại nghiêng về tính hình thức xem nhẹ môi trường văn hóa xã hội. Anh đã thuyết phục người đọc luận điểm nói đến văn hóa là nói đến con người. Chạm vào không gian văn học là chạm vào thân phận con người. Anh tổng kết những quan niệm về văn hóa trên nền tảng con người với nhiều giác độ chính trị, văn hóa ứng xử với thiên nhiên; Con người cộng đồng và con người cá nhân v.v… suốt chiều dài của lịch sử văn học từ trung đại đến thời hiện đại từ đó lý giải những vấn đề thi pháp như tinh lược chủ ngữ trong thơ, bút pháp ước lệ tượng trưng v.v. Đặc biệt lý thú việc thơ cổ Phương Đông thiếu vắng đại từ nhân xưng làm chủ ngữ của câu thơ, coi đó là đặc điểm mà không phải là hạn chế trước khi văn hóa phương Tây mang theo chủ ngữ câu thơ ào ạt đổ bộ lên bờ biển phương Đông theo những chuyến tàu chạy bằng máy hơi nước chở theo đại bác và súng trường có khương tuyến...

Nguyễn Bá Thành một đời gắn bó với thi ca hiện đại Việt Nam. Anh cũng như bao người gửi phận mình vào cõi văn chương. Lúc về già, khi chiếu văn ở quán cuộc đời còn chưa gấp lại, nào nguôi được chuyện ân tình với chữ nghĩa. Cao Bá Quát viết. Chỉ kỳ tập thủ mãn gia thư, tàng nhật danh sơn tam bách quyển. Nghĩa là chỉ mong gom sách cho đầy nhà, cất 300 quyển vào ngọn danh sơn.

Vốn người quê Hà Tĩnh chân thành và cương trực. Anh mang đức tính rất cần thiết đó vào tư cách một nhà  nghiên cứu lý luận phê bình. 5/1972 đang là sinh viên văn khoa tổng hợp Hà Nội, Thành đi tòng quân. Ở trong quân ngũ đến 1976 trở về trường học tiếp. Rồi được khoa Văn giữ lại làm giáo viên. 1989 bảo vệ luận án tiến sỹ văn chương. 1995 trở thành Chủ nhiệm Khoa Văn tổng hợp Hà Nội. 2006 nhận chức Tổng biên tập Nhà xuất bản Đại học quốc gia. Anh có điều kiện tiếp xúc với văn hóa nước ngoài khi 1987 – 1989 và 2001 – 2002 Thành dạy tiếng Việt và văn hóa Việt Nam cho Đại học Pnomphenh Campuchia và ChungWoon Hàn Quốc. Cuộc đời bảy nổi ba chìm không ngăn nổi anh hành xử như là một nhà văn chính hiệu. Tin cậy, ân tình và quả cảm. Văn học Việt Nam (1965-1975). 1990. Tư duy thơ hiện đại Việt Nam. 1996. Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng. 2009. Toàn cảnh thơ Việt Nam. 2015. Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn  học. 2016. Bình và luận thơ và đời. 2019lần lượt đưa Bá Thành đến tên gọi người của thi ca.

Tư duy thơ hiện đại Việt Nam, Toàn cảnh thơ Việt Nam, Bình và luận thơ và đời có tiếng nói riêng nhờ tầm nhìn bao quát khía cạnh lịch đại và đồng đại của cả một nền thơ bằng hệ thống luận điểm tin cậy từ những vấn đề vĩ mô như văn học Việt Nam 1945 – 1975 là một chỉnh thể… kết hợp với những vấn đề học thuật cụ thể, như sự phân định giữa thơ tự do và thơ mới…Với vốn trải nghiệm sâu sắc văn học Việt Nam và khả năng hiểu biết tiếng Anh, tiếng Hán… Bá Thành có điều kiện làm rõ nét sự giao lưu văn học qua lý giải Walt Whitman, Nguyễn Du, Nhật ký trong tù… Thẳng thắn và trung thực khi đề cập đến thơ dưới chính thể Việt Nam dân chủ cộng hòa và thơ dưới chính thể quốc gia Việt Nam và Việt Nam Cộng hòa, không ngần ngại nêu lên những thành tựu cũng như những bất cập của thi ca miền Nam trước năm 1975. Bá Thành thật có lý khi nhận xét: Nam Bộ là cái nôi của văn học chữ quốc ngữ. Anh chỉ ra sự vận động của thi ca miền Nam từ 1955 đến 1975 với 462 tác giả cùng những nhận xét sắc sảo về từng khuynh hướng. Ví như: nhận xét về nhóm tác giả tiếp theo thơ mới lãng mạn. Nguyên Sa. Bùi Giáng. Du Tử Lê…

Trần Nho Thìn, Nguyễn Bá Thành như những nhà văn không ở Hội nhà văn. Họ sống hết mình với văn chương. Biết kế thừa sáng tạo thành tựu nghiên cứu văn học thế kỷ 20. Hiểu sâu sắc văn hóa Việt Nam để chỉ ra sự giao lưu của văn học Việt Nam ẩn sâu những duyên nợ lịch sử với văn học phương Đông, nhất là với văn học Trung Hoa cũng như với văn học phương Tây mà điển hình là văn học Pháp, Nga... Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học của Nguyễn Bá Thành và Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu giảng dạy văn học của Trần Nho Thìn là hai bộ sách làm sáng tỏ nhiều vấn đề về hệ giá trị của con người Việt Nam và bản sắc văn hóa Việt Nam. Tôi nắc nỏm chờ họ viết đơn xin vào Hội mà chưa thấy.

Trong Tam bất hủ người xưa nói văn chương là việc cuối cùng. Lập đức, lập công rồi mới đến lập ngôn. Nhưng lại nói Thơ là nguyên âm của trời đất. Và dùng chữ bác tập để chỉ thơ phải bắt rễ từ học vấn. Ở đây có vấn đề tài năng bẩm sinh và trình độ tri thức của nghề viết văn. Nhà văn trong và ngoài hội, già cũng như trẻ đều cần những phẩm chất ấy. Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi v.v... cho chúng ta cách hiểu đầy đủ nhất: ở Việt Nam thế nào là một nhà văn. Tài năng và trình độ của không ít người trong Hội không thua kém gì nhà văn nước ngoài. Nguyễn Đình Thi có lần nói đùa rằng: Lớp nhà văn Nga sau quê. ít biết về phương Tây. So với chúng tôi các ông ấy sợ bỏ mẹ... Bao nhiêu cái ngẫu nhiên của cuộc đời xô đẩy người ta vào nghiệp văn chương. Cái ngẫu nhiên không làm nên một nhà văn. Mà nó là tài năng, tri thức và phẩm hạnh. Nhưng một đời văn vật vã dễ gì đã trả hết nợ với cái ngẫu nhiên vô hình ấy. Chế Lan Viên viết. Nghìn trang thơ không nói hết một cuộc đời đã vỡ. Giọt lệ nhỏ bên mồ đâu phải giọt văn chương.

Đầu tháng 11 năm nay, Ban công tác hội viên gửi danh sách nhà văn có đơn xin vào Hội thuộc tiểu ban lý luận phê bình. Chừng 35 người, đơn dồn lại từ năm trước chưa kết nạp và 9 người mới nộp đơn năm nay. Lòng tôi bỗng buồn thương vô hạn. Có tới 10 nhà văn đã 80 tuổi hoặc hơn thế. Vài người trong số họ đã chết rồi. Một người ngồi xe lăn nghe nói vừa được 2 năm... Chắc là Ban công tác Hội có thiện ý muốn xem xét truy phong cho trọn nghĩa vẹn tình với bạn làng văn. Tôi nghe chủ tịch Nguyễn Quang Thiều nói tâm niệm của anh sẽ chủ động mời một số nhà văn vào Hội. Nghĩ nên những vấn đề lịch sử để lại thì xem xét kết nạp được ai thì kết nạp cho người ta. Còn không thì từ sang năm nên cân nhắc để hay không đưa vào xét những trường hợp quá lâu rồi. Người ta đã sang đò rồi. Hoặc nguội lạnh với công việc bút nghiên. Là người vinh dự đã bước chân vào nhà đỏ văn chương, tôi  bày tỏ với các anh, các chị nhà văn không ở Hội nhà văn lòng ngưỡng mộ và tin yêu mọi người đã tự nguyện suốt đời dùng chữ nghĩa để ngợi ca bản tính Việt Nam, sức mạnh tinh thần Việt Nam như Nguyễn Đình Thi đã nói: Văn học muốn có hồn lớn, tình cảm lớn phải gắn vào cuộc sống của dân tộc và chúng ta cần có những nhà văn dẫn dắt cho loài người sống giống như cây đàn kia đánh lui quân xâm lược 18 nước. Nồi cơm nhỏ bé kia ân tình nuôi đủ đội quân đông đảo ăn để rút lui...

Nhà văn ở trong hay ngoài Hội nào có phân biệt gì khi chúng ta được bình đẳng yêu nước mình, sống cùng nhịp với nhân dân dù hy sinh khổ đau cay đắng chẳng bao giờ tắt niềm hy vọng. Dù văn chương bình dân hay văn chương bác học, dù cách nhau hàng vạn dặm thời gian, chúng ta đều bình đẳng nhìn lên bầu trời, nhìn lên vầng trăng muôn thuở chẳng bao giờ cũ, cũng như chẳng bao giờ giành riêng ưu ái cho một ai trong sáng tạo văn chương. Chỉ có sự bình đẳng cho mọi tài năng. Tất cả họ làm nên nền văn học. Suy đến cùng, chỗ đứng của nhà văn là tác phẩm của họ sống trong lòng công chúng.

Cuộc đời Trần Vàng Sao đã trả lời câu hỏi vì sao chưa vào Hội nhà văn và gửi tâm sự ấy vào bài thơ Khoảng trống ngoài sân khấu.

Tôi dốc cây kèn lên trời

tôi thổi cho hết hơi tôi cho tắt nghỉn đứt đoạn,

Tiếng kèn thở dốc ra...

Tôi xin cất mặt nạ cúi chào mọi người thân mật,

Không có ai ở trong và ở ngoài sân khấu này

Đêm có mùi cỏ khô và rơm ướt ...

Mùa xuân 2022

Nguồn: Báo Văn nghệ số ngày 12/2/2022

Tôi đã gặp nhà văn Việt Thanh Nguyễn vài lần trong chuyến công tác tại Mỹ nhưng lần nào anh cũng bận rộn với các buổi nói chuyện và các sự kiện văn học nên chúng tôi chưa thể trò chuyện nhiều hơn. Trong các buổi nói chuyện của anh mà tôi có dịp tham gia, tôi biết anh rất quan tâm hỗ trợ các nhà văn người Mỹ gốc Việt và các nhà văn Việt Nam xuất bản sách bằng tiếng Anh tại Mỹ. Do đó, để hiểu rõ hơn tình hình văn học Việt Nam tại Mỹ, tôi đã hẹn anh một buổi trò chuyện trực tuyến với những trao đổi thẳng thắn, cởi mở về các vấn đề liên quan đến văn học và Việt Nam.     

  1.      Việt Nam quan trọng với anh như thế nào?

Tôi sinh ra ở Việt Nam và rời đi lúc 4 tuổi. Tôi lớn lên trong cộng đồng người Việt tị nạn. Tôi nghĩ rằng việc sinh ra ở Việt Nam giúp cho tôi có sự gắn bó với đất nước này. Và bởi vì tôi lớn lên giữa cộng đồng người Việt nên tôi đã hấp thụ cảm xúc và thái độ của người Việt Nam. Tôi có rất nhiều sự đồng cảm với người Việt Nam, cả ở Việt Nam, ở Mỹ và cộng đồng người Việt hải ngoại. Tôi nghĩ rằng văn hóa và lịch sử Việt Nam là một phần của tôi. Và tôi cảm thấy mình có nghĩa vụ phải viết về điều đó. Tuy nhiên, điều rất quan trọng mà tôi cần nhấn mạnh là tôi thấy người Việt Nam có xu hướng nghĩ văn hóa Việt Nam bằng một thuật ngữ thể hiện tính xác thực (authenticity). Họ có quan niệm rất cứng nhắc về những gì tạo nên người Việt Nam, cho dù ở Việt Nam, hay trong cộng đồng người tị nạn. Tôi hoàn toàn không đồng ý với định nghĩa của họ, tôi nằm ngoài định nghĩa đó. Mặc dù tôi nói rằng tôi rất kết nối với Việt Nam, và Việt Nam rất quan trọng đối với tôi, văn hóa rất quan trọng đối với tôi nhưng tôi không phải là nhà văn Việt Nam. Tôi là nhà văn Mỹ. Tôi không biết có bao nhiêu người Việt Nam hiểu được điều đó. Khi họ thấy ai đó là người Việt Nam, họ sẽ hỏi anh là người Việt phải không? Tôi nói đúng vậy. Nhưng tôi là một nhà văn Mỹ. Và cách tôi nói về Việt Nam, văn hóa Việt Nam và lịch sử Việt Nam là thông qua lịch sử và quan điểm của tôi về Hoa Kỳ. Và tôi cảm thấy rằng sự tranh đấu của tôi với tư cách là một nhà văn diễn ra trước hết là ở Mỹ, và sau đó là ở thế giới phương Tây. Nhưng tôi rất hy vọng người Việt Nam sẽ đọc tác phẩm của tôi. Thách thức ở đây là nhà nước Việt Nam có những cảm xúc khá lẫn lộn về tác phẩm của tôi. Điều đó cũng làm tăng thêm khó khăn khi được coi là một nhà văn Việt Nam. Bởi vì tôi không biết liệu người Việt Nam có coi tôi là một nhà văn Việt Nam hay không. Nếu có thì thật tuyệt còn nếu không cũng không sao cả. Nhưng dù nhà nước Việt Nam và những người Việt Nam có thích tôi hay không, tôi vẫn coi mình là người Việt Nam. Và tôi vẫn coi tất cả những điều này rất quan trọng đối với tôi.

2.      Anh xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay khi đã 44 tuổi và có rất nhiều thành tựu trong công việc nghiên cứu, giảng dạy văn chương, do đó không tránh khỏi sự chú ý của rất nhiều nhà phê bình. Anh có cảm thấy áp lực khi cuốn sách được xuất bản không?

Tôi nghĩ có lẽ tất cả các nhà văn đều cảm thấy lo sợ mọi người sẽ đánh giá tác phẩm của họ. Trong trường hợp của tôi, cuốn The Sympathizer (tạm dịch: Cảm tình viên) dù là tiểu thuyết đầu tay nhưng đã là cuốn sách thứ ba của tôi được xuất bản. Cuốn sách đầu tiên là sách học thuật. Cuốn sách thứ hai của tôi là Người tị nạn đã được dịch sang tiếng Việt. Tôi viết cuốn Người tị nạn cách đây hơn 17 năm rồi và khi viết cuốn sách đó, tôi rất lo lắng không biết mọi người sẽ nghĩ gì về nó. Đến lúc viết tiểu thuyết, tôi không còn quan tâm người khác nghĩ gì về công việc của mình, cả người Mỹ lẫn người Việt. Vì vậy, tiểu thuyết của tôi được viết từ một nơi tôi gần như hoàn toàn tự do, tự do khỏi sợ hãi, tự do khỏi lo lắng, tự do khỏi những bận tâm về kỳ vọng của người khác, đó là lý do tại sao tôi nghĩ đây là một cuốn sách rất chân thực đối với tôi. Tôi nghĩ rằng nó chân thực vì không phải được viết ra từ không gian của nỗi sợ hãi nên đã tác động đến nhiều người ở cả khía cạnh tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng, điều đó không sao cả. Tôi nghĩ điều quan trọng cần nhấn mạnh, đó là một cuốn sách rất trung thực, một cuốn sách đầy sự tức giận. Và sẽ có những đánh giá và phản ứng của riêng độc giả trước sự trung thực và sự tức giận đó.

3.      Khi đọc các tác phẩm của anh, tôi luôn nhận thấy có sự lưỡng phân giữa rất nhiều vấn đề: chẳng hạn như nhân tính và phi nhân tính, giọng điệu riêng và giọng điệu tập thể, nhân vật đứng ở điểm nhìn bên này và bên kia…và điều đó dẫn đến việc có rất nhiều người cực kỳ thích tác phẩm của anh nhưng cũng có những người không thích. Đây có phải là phong cách mà anh theo đuổi trong các tác phẩm tiểu thuyết của mình?

Tôi không nghĩ rằng tất cả các cuốn sách đều dành cho tất cả mọi người. Khi cầm một cuốn sách lên, tôi đọc trang đầu tiên trước và nếu tôi không thích trang đầu tiên, tôi không dành thời gian để tiếp tục đọc cuốn sách đó. Và nếu có người nào đó không thích sách của tôi, có lẽ họ đã đưa ra quyết định đúng đắn. Tôi nghĩ rằng bất kỳ cuốn sách nào mà tác giả thực sự chân thực và cam kết với một phong cách rất riêng, sẽ tìm thấy những người yêu và ghét tác phẩm của họ. Tôi thà để mọi người yêu và ghét tác phẩm của tôi hơn là chỉ thích nó. Tập truyện ngắn Người tị nạn có lẽ dễ tiếp cận hơn với nhiều người vì lối viết của nó. Còn The Sympathizer là tác phẩm mang phong cách đặc biệt hơn nhiều, và phần tiếp theo của nó là The Committed (tạm dịch: Kẻ tận tụy) cũng vậy. Tôi đã viết những cuốn tiểu thuyết theo cách đó, bởi vì văn phong không thể tách rời khỏi nhân vật, người kể chuyện, vấn đề chính trị và thẩm mỹ. Tôi viết những cuốn tiểu thuyết này bởi vì tôi muốn đọc những cuốn tiểu thuyết như vậy. Tôi đã bị ảnh hưởng sâu sắc bởi những nhà văn, những người có phong cách rất đặc biệt. Và khi tôi đọc những tác phẩm đó, chúng để lại dấu ấn lớn trong tôi, không phải chỉ vì câu chuyện, mà còn là văn phong. Tôi cũng muốn độc giả của tôi tiếp cận ở những cấp độ như thế này. Nếu tôi mất độc giả trên đường thì cũng dễ hiểu thôi.

4.      Vậy độc giả của anh thường ở những độ tuổi nào? Anh có thấy các tác phẩm của mình rất khó để độc giả trẻ tiếp cận không?

Tuổi tác có liên quan gì không nhỉ? Ý tôi là, tôi có những độc giả ở độ tuổi 70 và 80, những người đủ lớn để nhớ về cuộc chiến ở Việt Nam và những người đã ở Việt Nam, với tư cách là người Việt Nam hoặc người Mỹ. Và tôi đã có những độc giả trẻ chỉ mới 13 tuổi. Điều vui mừng đối với tôi là được nhìn thấy những độc giả nhỏ tuổi, những độc giả ở trường trung học. So với những độc giả lớn tuổi, những độc giả ở trường trung học và đại học thực sự phản hồi tiểu thuyết của tôi khá tốt. Tôi thấy điều đó đáng khích lệ khi những độc giả trẻ tuổi có tư duy cởi mở hơn. Và điều tôi muốn nhấn mạnh là dù bạn viết một cuốn sách thách thức đến đâu, bạn cũng sẽ tìm được nhiều độc giả. Tôi muốn nâng tầm bằng tiểu thuyết của mình và chứng minh rằng độc giả có thể đi cùng mình nếu bản thân cuốn tiểu thuyết hấp dẫn. Và điều này đúng với The Sympathizer nhưng đúng một phần vì nó đã nhận được một cú hích lớn từ giải thưởng Pulitzer nên có nhiều độc giả đến với nó hơn. Nhưng tất cả những gì tôi muốn nói là luôn có độc giả cho những cuốn tiểu thuyết nghiêm túc và đầy thú vị.

5.    Nhân đề cập đến giải Pulitzer, tôi được biết anh hiện là thành viên hội đồng Pulitzer người Mỹ gốc châu Á đầu tiên, là giám khảo giải thưởng văn học The Dayton Literary Peace Prize… Vậy tiêu chí để tuyển chọn một tác phẩm văn học hay của các giải thưởng này nói chung và của bản thân anh nói riêng là gì?

Tôi đã giành được những giải thưởng này và hiện tôi cũng làm việc trong hội đồng và ban giám khảo để trao giải. Vì vậy, tất cả những gì tôi có thể nói là các tiêu chí rất linh hoạt. Và việc xác định ai đoạt giải thưởng văn học chỉ đơn giản là nhóm người nào sẽ đánh giá giải thưởng đó? Tôi đã từng tham gia các giải thưởng, các ủy ban giải thưởng, nơi tôi cho rằng mọi cuốn sách được giải thưởng đều xứng đáng. Nhưng điều đó không có nghĩa là không có những cuốn sách xứng đáng khác cùng thể loại đó trong cùng năm đó. Tôi không thể cung cấp bất kỳ tiêu chí nào, bởi vì không có khuôn mẫu để xác định cuốn sách nào sẽ được trao giải.

Còn riêng tôi thì tôi không quan tâm lắm thế nào là một tác phẩm hay (good book). Tôi nói điều này ở Mỹ chứ không phải ở Việt Nam vì ở Mỹ chúng tôi có các chương trình viết sáng tạo có thể dạy mọi người viết. Vậy nên tiêu chí cho những cuốn sách hay nằm ở đó. Những cuốn sách hay nên có những nhân vật tốt, cốt truyện tốt, chủ đề thú vị, lối viết tinh tế. Tất cả những điều này có thể được dạy. Nhưng chẳng có gì trong số các điều đó tạo ra được một cuốn sách vĩ đại (great book). Tôi chỉ quan tâm đến những cuốn sách vĩ đại. Chẳng ai có thể dạy làm thế nào để đọc được những cuốn sách vĩ đại và viết được những cuốn sách vĩ đại cả. Và đó là lý do tại sao tôi rất ngưỡng mộ những tác phẩm đó. Bởi vì thông thường, những cuốn sách vĩ đại là những cuốn sách chứa đựng tham vọng. Còn một cuốn sách hay thì bạn có thể không mắc bất kỳ sai lầm nào nhưng cũng có thể bị lãng quên hoàn toàn. Có rất nhiều sách hay ngoài kia. Còn những cuốn sách vĩ đại đôi khi mắc lỗi, đôi khi khiến mọi người thấy yêu và thấy ghét. Những cuốn sách vĩ đại thường khó hiểu. Những cuốn sách vĩ đại sẽ có nhiều tham vọng, những cuốn sách vĩ đại có thể mắc sai lầm nhưng những cuốn sách vĩ đại khiến tôi tập trung chú ý cao độ và có thể ghi nhớ trong quá trình đọc. Đó là điều tôi quan tâm.

6.      Được biết anh đã thực hiện nhiều chương trình, dự án ủng hộ các nhà văn Việt Nam và các nhà văn người Mỹ gốc Việt. Vậy vị trí của văn học Việt Nam trên thế giới hiện nay ra sao?

Việt Nam vẫn là một nước nhỏ. Và khi bạn là một đất nước nhỏ, thông thường văn học của bạn có phạm vi tiếp cận nhỏ. Tôi không phán xét Việt Nam. Tôi chỉ đơn giản nói những gì tôi nghĩ về việc mô tả vị trí của Việt Nam trên thế giới, so với một quốc gia như Mỹ. Mọi người trên khắp thế giới đọc văn học Mỹ, không phải vì văn học Mỹ nhất thiết phải tuyệt vời nhưng vì Mỹ hùng mạnh về mặt chính trị và kinh tế. Đó là một đất nước rộng lớn, và nó có thể xuất khẩu văn học của mình ra khắp thế giới giống như cách nó xuất khẩu vũ khí. Vì vậy, đối với tôi, sự nuôi dưỡng không thể tách rời văn học. Văn học là nghệ thuật, nhưng văn học không chỉ là nghệ thuật mà còn là một bộ phận của xã hội mà nó hình thành. Vì vậy trong trường hợp của Việt Nam, vấn đề của văn học Việt Nam không thể tách rời thực trạng đất nước, xã hội và vị thế của Việt Nam trên thế giới.

Riêng tôi, tôi không chọn trở thành một nhà văn Mỹ, tôi không chọn viết tiếng Anh, đơn giản là tôi không có sự lựa chọn. Nhưng có một thực tế, khi tôi là một nhà văn Mỹ viết bằng tiếng Anh, khi Cảm tình viên thành công thì cuốn sách đó đã được tiếp cận rộng rãi trên toàn thế giới hơn nhiều tác phẩm văn học Việt Nam đã làm. Không hẳn vì bất cứ điều gì vốn có trong tôi hay cuốn sách, mà bởi vì nó là một cuốn tiểu thuyết Mỹ, được giải thưởng của Mỹ. Sức mạnh của Mỹ khiến cho mọi người trên toàn thế giới quan tâm đến nó. Vì vậy, khi bạn hỏi tôi điều gì đang xảy ra với văn học Việt Nam, tôi đưa ra lập luận này. Tôi đang nói rằng văn học Việt Nam phải được xem xét trong mối quan hệ với tất cả các động lực mạnh mẽ này, đó là lý do vì sao việc quảng bá cho các nhà văn Việt Nam quan trọng đối với tôi vì chúng ta cần làm mọi thứ có thể để giúp đỡ lẫn nhau. Và bạn biết đấy, trong bối cảnh của Hoa Kỳ, những nhà văn Mỹ gốc Việt là thiểu số (minority). Do đó chúng tôi không phải là một phần của cơ chế của văn học Mỹ. Bạn phải làm điều gì đó như giành được giải thưởng Pulitzer, trước khi bạn trở thành một nhà văn, một công việc mà mọi người cạnh tranh với bạn ở Mỹ vì là một nhà văn người Mỹ gốc Việt, bạn thuộc bộ phận thiểu số.

Bây giờ, trong trường hợp của Việt Nam, nếu bạn là một nhà văn Việt Nam, bạn không phải là một thành phần thiểu số. Nếu tôi ở Việt Nam, và tôi là một nhà văn Việt Nam, tôi sẽ là đa số (majority), phải không? Vì tôi là người Kinh. Nhưng tôi sẽ là một nhà văn đa số của một đất nước nhỏ, và do đó, tác phẩm của tôi vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn để vươn ra thế giới. Vì vậy, nếu tôi có thể giúp các nhà văn Việt Nam ở Việt Nam, tôi cũng sẽ làm. Đúng, bởi vì chúng ta đang phải đối mặt với một thách thức khi trở thành một phần của một quốc gia nhỏ, hoặc là một bộ phận thiểu số ở một quốc gia hùng mạnh. Như tôi sẽ được gọi là bộ phận thiểu số. Tôi nhận ra rằng ở Mỹ, giá trị của văn học được hiểu là một giá trị cá nhân. Nói cách khác, ở Mỹ, các nhà văn viết cho chính họ, điều đó cũng tốt thôi nếu bạn là người da trắng. Nhưng nếu bạn là một thành phần được cho là thiểu số, như là người Việt Nam hay người châu Á, và nếu bạn chỉ tham gia công việc viết lách này cho chính mình thì chúng ta sẽ không giúp đỡ được ai cả.

Vì vậy các bạn của tôi và tôi đã thành lập Mạng lưới văn nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại (the Diasporic Vietnamese Artists Network), bởi vì chúng tôi bác bỏ quan niệm chủ nghĩa cá nhân trong văn học. Chúng tôi tin rằng chúng ta phải đoàn kết với nhau để hỗ trợ lẫn nhau. Trước hết, chúng tôi cam kết hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam hải ngoại, nhưng chúng tôi cũng quan tâm đến Việt Nam vì chúng tôi có sự kết nối ở đó và chúng tôi đến từ đó. Chúng tôi cũng cố gắng hết sức để quảng bá văn học Việt Nam. Chúng tôi đang cố gắng để xây dựng mối quan hệ với văn học Việt Nam, đọc nhiều tác phẩm văn học Việt Nam vì chúng tôi có thể dịch nó sang tiếng Anh.

7.      Mọi người thường nói rằng: Việt Nam là một đất nước chứ không phải một cuộc chiến vì đã có quá nhiều tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam rồi. Anh có nghĩ rằng, thực tế các tác phẩm viết về chiến tranh Việt Nam vẫn chưa đầy đủ và chúng ta nên có thêm các tác phẩm viết về đề tài này hay chúng ta nên khai thác nhiều chủ đề khác?

Cả hai. Bởi vì, chúng ta nên để các nhà văn cho dù họ ở Việt Nam, ở Hoa Kỳ hay ở bất cứ đâu được tự do viết về bất cứ điều gì họ muốn. Tôi thấy những nhà văn Mỹ gốc Việt trẻ viết tiểu thuyết khoa học viễn tưởng, kỳ ảo, lãng mạn… không liên quan gì đến Việt Nam và cũng không liên quan gì đến chiến tranh. Cùng lúc đó, khi người đại diện của tôi gửi The Sympathizer đi thì một bộ phận của ngành xuất bản New York nói là chúng tôi không muốn có thêm tiểu thuyết Chiến tranh Việt Nam nữa, chúng tôi đã có nhiều lắm rồi. Không ai muốn đọc tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam nữa. Và cảm giác của tôi là không ai muốn đọc đi đọc lại những cuốn tiểu thuyết về Chiến tranh Việt Nam của những người đàn ông da trắng kể về cùng một câu chuyện. Điều đó không có nghĩa là câu chuyện về Chiến tranh Việt Nam đã cạn kiệt, nó chỉ có nghĩa là một loại câu chuyện kiểu như vậy đã cạn kiệt. Vì vậy The Sympathizer theo quan điểm của tôi, là một cuộc tấn công trực tiếp vào Hoa Kỳ và vào tiêu chuẩn của văn học Mỹ về chiến tranh Việt Nam, giữa những thứ khác. Trong trường hợp của văn học Việt Nam, tôi nghĩ rằng có rất nhiều tài liệu về chiến tranh ở Việt Nam, chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam, điều đó không có nghĩa là không có chỗ cho nhiều hơn, bởi vì có thể còn rất nhiều điều để nói, cho dù mọi người có thể nói những câu chuyện này hay không, họ nghĩ ra những câu chuyện khác hoặc xuất bản chúng như một vấn đề khác.

Nhưng nếu xem The Sympathizer là tiểu thuyết Việt Nam theo nghĩa rộng viết về chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam, tôi nghĩ nó thực sự nói lên điều gì đó khác với những gì đã thấy trong văn học Việt Nam. Vì vậy, chỉ vì chiến tranh là một chủ đề cạn kiệt ở cả Việt Nam và Hoa Kỳ không có nghĩa là những câu chuyện mới không thể được kể và những câu chuyện mới không nên được kể. Nó có nghĩa là chúng ta phải suy nghĩ về những gì chưa được kể với những gì chưa được phép kể. Ở Hoa Kỳ, chúng tôi có sự thuyết phục thụ động (passive persuation). Nói cách khác, tại sao The Sympathizer lại là một cuốn tiểu thuyết độc đáo (original novel)? Không phải vì người Mỹ gốc Việt không được phép viết mà là chúng tôi bị thuyết phục không viết về những thứ nhất định, như chiến tranh, với tư cách là người Mỹ gốc Việt. Chúng tôi được phép viết về những người tị nạn, viết về những người thiểu số nhưng chúng tôi không được trông đợi sẽ viết về chiến tranh theo cách của những người lính Mỹ da trắng. Và đó là một kiểu thuyết phục thụ động mà chúng tôi không chấp thuận. Chúng tôi là người Mỹ gốc Việt không chấp thuận. Từ việc viết về đất nước nói chung, The Sympathizer là một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam nhưng tôi nghĩ nó cũng nói rất nhiều về Mỹ, và có thể nói rộng ra là về Việt Nam. Tôi thực sự không biết những độc giả Việt Nam nghĩ gì về cách miêu tả Việt Nam trong cuốn tiểu thuyết này, nhưng tôi rất tự tin khi nói về những gì cuốn tiểu thuyết viết về nước Mỹ.

8.      Là một người rất bận rộn với nhiều vai trò như giáo sư, nhà nghiên cứu, diễn giả, tác giả báo chí và các dự án cá nhân, làm sao anh sắp xếp được thời gian để sáng tác?

 Tôi có bốn trợ lý, họ đã giúp tôi quản lý tất cả các khía cạnh khác trong cuộc sống của mình, và như thế tôi mới có thời gian để viết nhiều thứ. Tôi đã mất hai năm để viết tiểu thuyết đầu tay và mất bốn năm để viết phần tiếp theo. Và sau đó tôi cũng mất vài năm để hoàn thành bản thảo đầu tiên của một cuốn sách phi hư cấu. Khi viết tiểu thuyết đầu tay, tôi đã viết mỗi ngày, vì lúc đó không ai biết tôi là ai nên không ai làm phiền tôi. Bây giờ, tôi bị làm phiền rất nhiều, có rất nhiều thứ khiến tôi mất tập trung nên tôi đọc bất cứ khi nào có thể. Và tôi nghĩ bài học quan trọng cho các nhà văn là nếu bạn có thể viết mỗi ngày thì thật tuyệt, còn nếu bạn không thể viết mỗi ngày, đừng trừng phạt bản thân, điều quan trọng là bạn phải tiếp tục viết.

Tôi đã nói với mọi người rằng tôi đã mất 10.000 giờ viết lách để trở thành một nhà văn. Nếu viết bốn tiếng mỗi ngày, tôi sẽ trở thành một nhà văn nhanh hơn nhiều. Nhưng tôi đã mất 20 năm. Vấn đề là tôi đã dành 10.000 giờ cho viết lách. Vì vậy, để trở thành nhà văn, hãy dành 10.000 giờ cho công việc đó. Bạn có thể làm điều đó trong 4 năm, 10 năm, 20 năm hay thậm chí là 40 năm. Nhưng nếu bạn không thể dành ra 10.000 giờ, bạn không thể trở thành nhà văn. Tương tự như vậy, sau khi tôi đã hoàn thành 10.000 giờ của mình, tôi tiếp tục làm thêm nhiều giờ nữa. Điều duy nhất để trở thành một nhà văn là tiếp tục quay trở lại công việc viết lách cho dù bạn làm điều đó hàng ngày hay bất kỳ thời gian nào. Với một cuốn sách phi hư cấu, tôi viết hai hoặc ba tháng một lần. Và sau đó tôi phải nghỉ ngơi, giảng dạy, đi nói chuyện và tất cả những thứ khác. Vì vậy, nó chán đấy, nhưng, hầu hết các tác phẩm viết lách là về sự chán nản.

9.      Tôi đã gặp nhiều bạn trẻ người Mỹ gốc Việt chia sẻ rằng họ cảm thấy khó khăn khi kết nối với Việt Nam vì những rào cản về ngôn ngữ và văn hoá. Theo anh có cách nào để kết nối hoặc tìm kiếm những vấn đề chung để chia sẻ với nhau không? Văn học có phải là cách tốt nhất để kết nối với Việt Nam hay có những cách nào khác?

Tôi không thích những câu hỏi về căn tính (identity) vì chúng buộc mọi người phải chọn căn tính. Tôi có nhiều căn tính. Vì vậy, tôi ổn khi là một nhà văn Mỹ gốc Việt, một nhà văn Mỹ, một nhà văn quốc tế, và một nhà văn. Tôi không gọi mình là nhà văn Việt Nam vì nếu tôi nói vậy sẽ có ngàn người Việt Nam nói rằng ông ấy không phải là nhà văn Việt Nam. Khi bạn bắt đầu hỏi mọi người về căn tính của họ, sẽ rất phức tạp vì mọi người áp đặt căn tính của họ lên những người khác. Tôi yêu người Việt Nam nhưng người Việt Nam rất hay phán xét (judgmental). Và họ rất hay phán xét khi nói đến văn hóa và căn tính. Rất nhanh chóng để họ nói rằng: anh chị là người Việt Nam hay không phải người Việt Nam.

Người Mỹ lúc nào cũng gọi tôi là nhà văn Mỹ gốc Việt. Tôi không có vấn đề với điều đó. Họ nói nhà văn người Mỹ gốc Việt – Việt Thanh Nguyễn nhưng khi nói về người khác, họ chỉ nói tên của nhà văn. Rất nhiều người như vậy. Khi được hỏi câu hỏi về căn tính, mọi người nói rằng họ gặp nhiều trở ngại để trở thành người Việt Nam, họ không biết cái này, họ không biết cái kia, họ tự nhận lỗi, giống như họ là người có lỗi. Điều này là sai. Nếu là ở Mỹ, cách thể hiện của người Mỹ sẽ kiểu như là: Ôi, tội nghiệp cho anh quá! Anh đang bị giằng xé giữa Đông và Tây, anh bị giằng xé giữa người Việt Nam và người Mỹ. Còn người Việt Nam sẽ nói: Ồ, anh bị lạc đường rồi! Tệ quá, anh không phải là người Việt Nam, anh đã bị tẩy trắng ở phương Tây rồi. Điều đó là đổ lỗi cho cá nhân nhưng lỗi không phải ở cá nhân, lỗi là ở chủ nghĩa thực dân, là sự phân biệt chủng tộc, là những người hay phán xét, dù họ là người Mỹ hay người Việt Nam đưa ra những nhận định này.

Và rồi những người trẻ hoặc các cá nhân tội nghiệp cảm thấy như họ có lỗi, vì họ không biết đủ tiếng Việt hay bất cứ điều gì. Tôi cố gắng nói với mọi người rằng: Đừng như vậy. Đừng tự trách mình. Thay vào đó, hãy hiểu lịch sử. Hãy hiểu rằng lý do tại sao người Mỹ gốc Việt ở Mỹ không phải ngẫu nhiên. Chúng tôi không bị khủng hoảng căn tính đơn giản chỉ vì chúng tôi là người Việt Nam sống ở Mỹ. Nếu chúng tôi có những cuộc khủng hoảng về căn tính, thì đó là do chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc và chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra các cuộc chiến tranh, tạo ra những người tị nạn, tạo ra chúng tôi. Hãy đổ lỗi cho các tiến trình lịch sử đó. Và nếu bạn làm thế, thì bạn không nên cảm thấy bối rối nữa. Bạn nên cảm thấy tức giận. Những gì tôi nói với mọi người là hãy tức giận chứ đừng bối rối. Nếu bạn bối rối, bạn sẽ tự trách mình, vì sự thiếu sót bên trong bạn. Bạn nên giận dữ trước những thế lực lịch sử đã giết hàng triệu người và sản sinh ra bạn. Tôi đổ lỗi cho người Mỹ, chắc chắn rồi bởi vì tôi biết lịch sử nước Mỹ rất sâu sắc. Nhưng người Việt Nam cũng phải chịu trách nhiệm. Đó là những gì The Sympathizer đã viết. The Sympathizer đổ lỗi cho người Mỹ và người Pháp vì đã đô hộ chúng ta. Mọi người đều phải chịu trách nhiệm. Đó là câu trả lời của tôi, một câu trả lời phức tạp. Tôi từ chối những thuật ngữ về khủng hoảng căn tính, tôi từ chối cảm thấy buồn, tôi từ chối cảm thấy bối rối. Thay vào đó phản ứng của tôi là tức giận, là nhận thức lịch sử, là ý thức về mặt chính trị.

Nhà văn Việt Thanh Nguyễn sinh năm 1971, tại Buôn Mê Thuột. Ông đến Mỹ cùng gia đình vào năm 1975 và sinh sống tại Pennsylvania, sau đó chuyển đến California. Hiện tại, ông đang là Giáo sư tại Đại học Nam California, đồng thời là học giả, nhà văn, diễn giả và tác giả của nhiều tờ báo nổi tiếng tại Mỹ như: Time, The Guardian, The Atlantic, the Los Angeles Times, The New York Times. Ông cũng sáng lập và đồng điều hành the Diasporic Vietnamese Artists Network (Mạng lưới nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại). Ngoài ra, ông cũng là thành viên hội đồng giải thưởng Pulitzer và là giám khảo của các giải thưởng văn học quan trọng khác tại Mỹ.

Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay The Sympathizer (2015) của ông đã trở thành tiểu thuyết bán chạy của New York Times, thắng giải Pulitzer cho hạng mục tác phẩm hư cấu xuất sắc nhất năm 2016 cùng nhiều giải thưởng khác như: Dayton Literary Peace Prize, Edgar Award cho Tiểu thuyết đầu tay, Giải thưởng Tiểu thuyết đầu tay của Center for Fiction…Ngoài ra, ông còn là tác giả của các công trình học thuật, tác phẩm hư cấu và phi hư cấu quan trọng khác như: Race and Resistance: Literature and Politics in Asian America (2002, Nxb Đại học Oxford), Nothing Ever Dies: Vietnam and the Memory of War (2016, Nxb Đại học Harvard), The Refugees (2017, Nxb Grove) (bản dịch tiếng Việt là Người tị nạn),  The Committed (2021, phần tiếp theo của The Sympathizer). 

Thực hiện phỏng vấn: Đào Lê Na (Bản đăng trên web Khoa Văn học do TS. Đào Lê Na gửi)

Nguồn ảnh: Việt Thanh Nguyễn tại Library of Congress National Book Festival 2015

Photo/Courtesy của the John D. and Catherine T. MacArthur Foundation

BeBe Jacobs

 

 

Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm được đặc biệt yêu thích ở Nam Bộ. Tác phẩm này đi vào tục ngữ, ca dao dân ca, trở thành một loại hình diễn xướng đặc biệt “Nói thơ Vân Tiên”.

Từ đó đã được tái sinh trong nhiều loại hình văn nghệ khác: Thơ hậu Vân Tiên, Thơ nhại Vân Tiên, tranh Vân Tiên, vọng cổ, cải lương, tuồng, điện ảnh… tạo thành một “trường văn hóa” Lục Vân Tiên. Bài viết này giới thiệu vài nét nổi bật về việc ấy.

Lục Vân Tiên là một trong không nhiều tác phẩm mà các nhân vật của nó được lưu truyền trong văn học dân gian. Trong Nguyễn Đình Chiểu trong cuộc đời (Ty Văn hóa và Thông tin Bến Tre xuất bản, 1982) các nhà nghiên cứu đã thu thập được gần 100 câu có nhắc đến tác phẩm hoặc nhân vật trong Lục Vân Tiên.

20220210 3

Tranh khắc gỗ về đề tài “Lục Vân Tiên”

Lục Vân Tiên trong ca dao dân ca

Không chỉ ca dao dân ca Nam Bộ, mà cả Nam Trung Bộ và Thừa Thiên - Huế cũng có. Đây là câu ca ở Nam Trung Bộ:

Anh đừng than ngắn thở dài

Nào ai đã nỡ bỏ ai nên phiền

Nói ra về lúc Vân Tiên

Chàng mà xa thiếp, thiếp chịu phiền sáu năm.

Đây là câu hò mái nhì trong dân ca Bình Trị Thiên:

Bớ em ơi, em đừng suy nghĩ thiệt hơn

Hãy ở như Nguyệt Nga ngày trước, lòng dạ keo sơn chẳng dời.

Trong ca dao dân ca, các nhân vật được nhắc đến là: Bùi Kiệm “máu dê”:

Anh đây cũng muốn kết ngãi giao du

Anh không phải thằng Bùi Kiệm sao chín mười phần bạn nghi.

Chú thích ảnh

Thể Loan bội nghĩa, Trịnh Hâm vô nghì, Tử Trực hiền lương…. Nhưng nhiều nhất là Vân Tiên và Nguyệt Nga. Vân Tiên là hiện thân của tình thần nghĩa hiệp, của những gian nguy trong đời và tình yêu hết lòng:

Kể từ ngày thiếp cách xa chàng

Như Vân Tiên lâm bệnh, Nguyệt Nga đi cống Hồ

Thiếp xa chàng ruột héo gan khô

Hang Thương Tòng chàng dựa, chốn biển hồ thiếp thương.

Hay:

Nhớ tích xưa Vân Tiên võ giỏi văn hay

Một tay bẻ gậy đánh rày Phong Lai…

Còn Nguyệt Nga là hiện thân của tình yêu chung thủy, sắt son:

Lòng lại dặn lòng dù non mòn biển cạn

Dạ lại dặn dạ đá nát vàng nhòa

Em đây quyết noi gương chị Nguyệt Nga

Mặc ai phỉnh dỗ em chẳng sa lời nguyền.

Hay:

Đáng thương chị Nguyệt Nga ngồi biển canh trường

Ai mang bức tượng Vân Tiên

Thấy em là gái thuyền quyên

Muốn gá tình chồng vợ biết nợ duyên thế nào?

Chú thích ảnh

Lục Vân Tiên trong sáng tác văn học Nam Bộ

Hát dặm (giặm) Vân Tiên: là một loại diễn tấu theo tích truyện Vân Tiên, kết hợp giữa những đoạn kể chuyện, đối đáp của người sáng tác xen dặm vào với những đoạn lấy nguyên văn, hay lấy một số từ trong Lục Vân Tiên. Hiện nay ở Thư viện Quốc gia Pháp còn lưu Thơ Bùi Kiệm dặm của Nguyễn Văn Tròn (Nhà in Bảo Tồn của Diệp Văn Kỳ, Sài Gòn, năm 1928). Đây là đoạn mở đầu:

“Thốt thôi anh Bùi Kiệm bước vào nhà, thấy nàng Nguyệt Nga, lỗ tai chỉ đeo đôi bông, nhận hột, cổ đeo cây kiền vàng chạm, bận cái áo lưỡng đoạn, đội cái khăn lục soạn, bận quần lãnh lưng rút á khiến tâm bào anh Bùi Kiệm chết tê.(…)

Ăn chung để cho con bạn nó làm riêng, chớ bậu thờ làm chi bức tượng của Vân Tiên, đồ ma đồ quỷ ba mươi ngày, bảy mươi bữa mà có linh thiêng điều gì.

Nga rằng phận thiếp mà nữ nhi, tôi làm thân con gái mà chữ trinh, chữ tiết, chữ liệt là tôi phải có ghi vào lòng.”

Thơ hậu Vân Tiên: là viết tiếp truyện Lục Vân Tiên với những sự việc và thế hệ con của các nhân vật trong Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Loại “hậu” thế này ta thường thấy ở những danh tác Trung Hoa như: Hậu Tam Quốc, Hậu Thủy hử, Hậu Hồng lâu mộngTruyện Kiều cũng có “hậu” là Đào hoa mộng ký tục Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Đăng Tuyển. Hiện nay còn đến 3 tác phẩm Hậu Vân Tiên, đó là:

Hậu Vân Tiên diễn ca của Trần Phong Sắc, Nhà in J.Nguyễn Văn Viết, in lần thứ nhất 1925. Tái bản 1928.

Hậu Vân Tiên của Nguyễn Bá Thời, Nhà in Xưa Nay (Nguyễn Háo Vĩnh), in lần thứ nhất, 1932. Tái bản 1933.

Hậu Vân Tiên của Cử Hoành Sơn, Nhà in Xưa Nay (Nguyễn Háo Vĩnh), in lần thứ nhất, 1933. In lần thứ ba 1937, thứ tư 1939.

Chú thích ảnh

Hậu Vân Tiên của Trần Phong Sắc nói Lục Vân Tiên có 6 hồi, ông viết tiếp 6 hồi nữa:

Tây Minh truyện cũ trước bày

Sáu hồi đã diễn xưa nay lưu truyền

Cuốn này là Hậu Vân Tiên

Tiếp theo sáu thứ cho tuyền thỉ chung (…)

6 hồi ấy viết về con cái của “thế hệ Lục Vân Tiên”, đó là: Lục Tường Quang, sau làm vua là Sở Trung Tông (con của Vân Tiên tức Sở Cao Tông), Tử Trung (trai), Trinh Khiết (gái) (con Tử Trực), Hớn Dõng (trai), Huệ Tâm (gái) (con Hớn Minh)… đấu tranh với phe gian tà là: Tạ Tượng, Tạ Hầu (con viên Thái sư Tạ Mãng), Phong Lôi, Phong Điền (con Phong Lai), Cốt Tiết (con Cốt Đột)…Bùi Kiệm vẫn còn sống, nhờ có bằng cử nhân và có tiếng là bạn Tử Trực nên được mời làm quân sư cho Phong Lôi, Phong Điền. Hai tên tướng cướp này lại cưới hai con gái của Thái sư để có thêm vây cánh. Cuộc đấu tranh giữa hai phe chính tà rất gay go, cuối cùng vua Sở diệt được phe tà do viên Thái sư Tạ Mãng đứng đầu, hòa hiếu với Tây Phiên.

Hậu Vân Tiên của Nguyễn Bá Thời cũng kể về thế hệ sau của “thế hệ Vân Tiên”. Về cốt truyện, truyện của Nguyễn Bá Thời chịu ảnh hưởng sâu sắc truyện của Trần Phong Sắc, nhưng gọn gàng, chặt chẽ hơn.

Hậu Vân Tiên của Cử Hoành Sơn gần như đã thoát ra khỏi ảnh hưởng của Trần Phong Sắc, để tạo ra một sáng tác mới hoàn toàn. Không những tên nhân vật, mà tình huống truyện cũng khác. Truyện không chỉ là sân khấu cho thế hệ “hậu Vân Tiên” mà “thế hệ Vân Tiên” vẫn tiếp tục hoạt động.

Tích xưa chép rõ khúc nôi

Gương nay lưu thế góp lời ngâm nga

Vân Tiên chuyện nọ đã qua

Quyển này nối “hậu” kể ra đuôi đầu. (…)

“Thơ nhại Vân Tiên”: Là nhại theo nhân vật Vân Tiên, thay vì tốt, thì là các thói hư tật xấu. “Thơ nhại Vân Tiên” là loại bài ca khôi hài, tếu táo, chọc cười, nhưng cũng có ý nghĩa châm biếm các thói hư tật xấu trong xã hội như cờ bạc, hút xách... Hiện còn hai bản:

Thơ Vân Tiên cờ bạc, người soạn Nguyễn Văn Khỏe, nhà in Xưa Nay (Nguyễn Háo Vĩnh), Sài Gòn, in lần thứ nhất, 1932.

Thơ Vân Tiên ghiền, chủ bút: Đ.T.B et C.M, nhà in Xưa Nay (Nguyễn Háo Vĩnh), Sài Gòn, in lần thứ ba, 1929.

Chú thích ảnh

Tác phẩm “nhại” “Lục Vân Tiên”

Lục Vân Tiên trong các loại hình nghệ thuật

Lục Vân Tiên trong tranh dân gian ở Bắc và Huế

Hiện nay còn một số tranh khắc gỗ về Lục Vân Tiên lưu truyền ở miền Bắc theo phong cách tranh Đông Hồ như tranh Vân Tiên - Tiểu đồng tái ngộ, Vân Tiên - Nguyệt Nga đoàn viên.

Ở Huế thì có bản truyện tranh màu Vân Tiên cổ tích truyện do Lê Đức Trạch, một họa sĩ của triều đình Huế thực hiện trong khoảng thời gian 1895 -1897 dựa trên bản dịch tiếng Pháp của Abel de Michel năm 1883.

Nói thơ Vân Tiên: Ở Nam Bộ việc kể chuyện Lục Vân Tiên trong dân gian rất phổ biến. Truyện thơ Nôm chủ yếu được kể, đọc to theo giọng nói cho nhiều người nghe, chứ không phải để đọc, ngâm một mình hay cho người tri kỷ như với Truyện Kiều. Vì thế mới có tên gọi là “Nói thơ”, mà trong Nói thơ thì chủ yếu là Nói thơ Vân Tiên. Về nguồn gốc, Nói thơ xuất phát từ hát sắc bùa, hô bài chòi từ miền Trung vào. Có những nghệ sĩ lang thang làm nghề Nói thơ Vân Tiên. Họ đến đầu chợ, bến đò, hè phố Nói thơ Vân Tiên, đôi khi kết hợp với đàn bầu, hay điệu bộ, làm mê mẩn tâm hồn bao người. Nói thơ Vân Tiên thường thì được đọc ngẫu hứng vào buổi tối, bên ngọn đèn dầu, có khi vừa nói thơ vừa làm việc như đan lưới, lột dừa, chèo ghe. G.Aubaret (Ô-ba-rê) khi giới thiệu Lục Vân Tiên cho công chúng Pháp, ông viết: “Truyện thơ Lục Vân Tiên phổ biến trong dân gian đến mức là ở Nam kỳ không có một người đánh cá hay một người lái đò nào không hát một vài câu thơ ấy khi họ chèo thuyền.”

Chú thích ảnh

Bài ca, Vọng cổ Lục Vân Tiên:

Lục Vân Tiên được viết lại thành các bài ca vọng cổ. Hiện nay còn 4 tập tư liệu cổ về loại này:

Bài ca Lục Vân Tiên (mới đặt), sáu thứ, Đặng Thanh Kim, Imprimerie-Librairie Huỳnh Kim Danh, in lần thứ nhứt, Sài Gòn, 1913.

Tây Minh

Tích xưa truyện đặt rõ ràng

Vân Tiên họ Lục tên chàng

Quán Đông Thành vốn dòng trâm anh

Mấy thu mang niếp theo thầy

Đạo truyền bày đủ nghề võ văn.

Chú thích ảnh

“Vọng cổ Bạc Liêu: Nguyệt Nga-Bùi Kiệm vấn đáp”,

tác giả: Nguyễn Thành Long, Cần Thơ, Phạm Văn Cường (Chợ Lớn) xuất bản, in lần thứ nhất, 1933

Bài ca Lục Vân Tiên (theo điệu cải lương), tác giả: Lâm Hoài Nghĩa, Imprimerie Nguyễn Văn Viết, Sài Gòn, 1924. Lâm Hoài Nghĩa dựa theo truyện Lục Vân Tiên tác giả đặt các bài ca “theo điệu cải lương” như: Vọng cổ hoài lang (Vân Tiên nhớ nhà), Hành vân (Vân Tiên tạ thầy), Khổng Minh tọa lầu (Vân Tiên hỏi người cõng con), Lưu thủy tẩu mã (Vân Tiên hỏi Kim Liên), Tứ đại (Nguyệt Nga cùng Vân Tiên nói chuyện)…

Vọng cổ Bạc Liêu: Vân Tiên gặp Nguyệt Nga, tác giả: Nguyễn Thành Long, Cần Thơ, Phạm Đình Khương xuất bản, in lần thứ nhất, 1933.

Vọng cổ Bạc Liêu: Nguyệt Nga-Bùi Kiệm vấn đáp, tác giả: Nguyễn Thành Long, Cần Thơ, Phạm Văn Cường (Chợ Lớn) xuất bản, in lần thứ nhất, 1933.

Tuồng Lục Vân Tiên:

Lục Vân Tiên được chuyển thể thành tuồng, cải lương không ít. Hiện nay còn hai tư liệu cổ là tuồng Lục Vân Tiên ở Nam Bộ từ 1915 và tuồng ở Bắc Bộ năm 1922.

Tuồng Lục Vân Tiên, Huỳnh Văn Ngà tự Long Ẩn, Sài Gòn, F.H.Schneider Imprimeur-Editeur, 1915, 38 trang. Cuốn thứ nhứt: Từ đầu đến đoạn Trịnh Hâm xô Vân Tiên xuống biển. Tuồng cổ, nhưng lời mới, ít dùng từ Hán Việt.

- Tuồng Bắc bộ: Lục Vân Tiên tuồng, soạn dả V.C, Sửa lại và giữ bản quyền Phú Văn Librairie, Hà Nội, Rue du Chanvre 16, 1922, 60 trang (chuyển thể toàn bộ truyện Lục Vân Tiên).

Chú thích ảnh

Tuồng cổ về Lục Vân Tiên

Non sông mở mặt, hoa cỏ đậm mầu, đứng nam-nhi trung hiếu làm đầu, đạo phụ-nữ phải dữ câu trinh thục, Đông-Thành-quận có Vân-Tiên họ Lục, nền trâm anh túc phúc lâu dài, nhà thung huyên hai khóm tốt tươi, chàng đôi tám thực người chí-sĩ, du viễn phương rạo tìm sơn thủy, theo Tiên-ông dốc chí học hành, lúc chàng về Kinh-thành ứng cử, bỗng dữa dường gập gỡ Nguyệt-Nga (…)

Vân-Tiên nói: Rừng nho rong ruổi, cửa Thánh dựa kề, tôi Lục-vân-Tiên quê ngụ Đông-Thành, theo Sư-trưởng sôi kinh nấu sử, nghe nhà vua có khai khoa thủ sĩ, vào trình thầy để về ứng thí.

Sức sống mạnh mẽ

Lục Vân Tiên sau này còn được chuyển thể thành phim cổ trang do Hãng phim truyền hình TP.HCM (TFS) sản xuất, dài 14 tập (mỗi tập 60 phút), do bộ ba đạo diễn Đỗ Phú Hải - Nguyễn Phương Điền - Lê Bảo Trung thực hiện. Năm 2017 Lục Vân Tiên được viết lại thành nhạc kịch Tiên Nga do NSND Năm Châu, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Nguyễn Hồng Nhung viết lời; đạo diễn: Thành Lộc. Tác phẩm được UBND TP.HCM trao giải nhất hạng mục sân khấu của giải Văn học - Nghệ thuật 2019.

Lục Vân Tiên được xuất bản từ sớm với số lượng rất lớn, được đưa vào sách giáo khoa liên tục trong nhiều thời gian khác nhau, được dịch thuật xuất bản ở nước ngoài và nghiên cứu phê bình rất lâu dài. Đây là vấn đề lớn, là đề tài của bài viết khác.

Có thể nói ngoài Truyện Kiều của Nguyễn Du ra, không có tác phẩm văn học cổ điển Việt Nam nào được yêu thích, truyền tụng, được phóng tác, chuyển thể rộng rãi, tạo thành một “trường văn hóa” như Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu. Điều ấy cho thấy sức sống mạnh mẽ của tác phẩm trong lòng người hâm mộ.

PGS-TS Đoàn Lê Giang
(Trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG TP.HCM)
Thể thao & Văn hóa Xuân Nhâm Dần

Từ xưa đến nay, trong các loại hình dân gian, cổ điển và hiện đại, Mẹ luôn là chủ đề vĩnh cửu, là nguồn cảm hứng của văn nghệ.

Những thiên truyện cảm động nhất của Tô Hoài, Thạch Lam, Hồ Dzếnh, Thanh Tịnh, Võ Hồng, Nhật Tiến… đều viết về tình mẫu tử. Những ca khúc truyền cảm nhất của Phạm Duy, Nguyễn Văn Tý, Trịnh Công Sơn, Phạm Thế Mỹ, Y Vân, Trần Tiến… đều dành để ngợi ca lòng mẹ.

Mỗi nghệ sĩ chỉ có một bà mẹ, vậy mà không ai nghĩ rằng tác phẩm của mình viết về mẹ chỉ một lần là đủ. Cũng không ai nghĩ rằng chỉ cần đọc một bài thơ, một truyện ngắn hay nghe một bản nhạc về mẹ là đủ. Hình như trong mỗi tác phẩm ta lại cảm nhận một khía cạnh của tình mẫu tử, một trắc diện của chân dung người mẹ.

Phạm Duy miêu tả người mẹ Việt Nam như một điển mẫu nghệ thuật: Mẹ Việt Nam không son không phấn/ Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn/ Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm/ Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng. (Trường ca Mẹ Việt Nam).

Trịnh Công Sơn cảm xúc về thân phận con người qua lời ru của mẹ: Mẹ ngồi ru con đong đưa võng buồn năm qua tuổi mòn/ Mẹ nhin quê hương nghe con mình buồn giọt lệ ăn năn/ Giọt lệ ăn năn đưa con về trần tủi nhục chung thân/ Một dòng sông trôi cuốn mãi về trời bấp bênh phận người. (Ca dao mẹ).

Phạm Thế Mỹ tái hiện hình tượng mẹ và con hòa nhập giữa thực và mộng: Đêm qua mơ thấy con về con ơi/ Trông con như lúc con còn thơ ngây/ Con đi qua đồng lúa khi trăng lên đầu làng/ Chân không lo đạn mìn chân vui niềm thơ ấu/ Xa xa đồn bót vắng hội làng pháo nổ ran/ Mẹ ôm con vào lòng đầu hè dế hát vang. (Giấc mơ của mẹ).

Hình ảnh mẹ nhập thân vào hình ảnh tuổi thơ, hình ảnh quê hương đất nước như vậy đó.

Năm ngoái, giữa mùa đại dịch, nhà báo Nguyễn Đình Xê xuất bản một tập tản văn viết về kỷ niệm thời niên thiếu, trong đó nổi bật hình ảnh người mẹ của tác giả. Không phải ngẫu nhiên mà tác giả đặt tên sách là Rửa chén cùng mẹ. Tác giả nhớ đến những tờ bạc lẻ mẹ dành dụm cho con, những chùm nhãn hái trong vườn quê ngoại đem về cho mẹ, nhất là nhớ cảm giác êm đềm khi cùng mẹ vào bếp rửa chén, không còn ngượng ngùng hay bối rối khi bị bạn gái bắt gặp như thuở thiếu niên.

Đọc Nguyễn Đình Xê, tôi nhớ một đoạn văn trong Bông hồng cài áo của Thiền sư Nhất Hạnh mà hồi nhỏ tôi rất thích: “Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng: ‘Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?’. Tôi trả lời: ‘Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng mẹ lúc về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi’. Bây giờ thì tôi biết rằng con thương mẹ thì không phải ‘làm thế nào’ gì hết. Cứ thương mẹ thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi ‘làm thế nào’ nữa!”. Ý tác giả nói rằng yêu thương là một cái gì tự nhiên, mà đã yêu thương thì sẽ dẫn đến hành động.

Biết vậy, nhưng tôi nghĩ Thầy Nhất Hạnh là bậc tu hành, phẩm hạnh của thầy đủ làm đẹp lòng mẹ; còn chúng ta là người bình thường phải biết cách yêu thương mẹ và làm mẹ vui lòng bằng cả những việc nhỏ: quét nhà, đi chợ, lặt rau, nấu cơm, rửa chén. Có những người con lớn lên, làm những việc trọng đại, nhưng hẹn lần hẹn lữa không về thăm mẹ, cả năm không viết được cho mẹ một lá thư. Đâu có thể nói tình thương không cần bày tỏ.

Trong một bài viết nhân ngày 30 - 4 năm nay, một nhà văn có đề cập đến tình huống những người con đi kháng chiến hay tập kết ra miền Bắc, hoà bình về gặp lại gia đình ở miền Nam đã khiến mẹ cha thất vọng vì không giúp đỡ được gì về kinh tế. Tôi nghĩ trong cuộc sống có thể cũng có trường hợp như vậy. Nhưng nếu từ đó mà khái quát lên thì có lẽ không hiểu gì về người miền Nam. Nếu những bà mẹ miền Nam chờ kháng chiến thành công để được đền đáp thì có lẽ họ đã không đủ sức chờ đợi.

Chính vì vậy mà tôi tâm đắc với ý của nhà văn Vu Gia trong một cuốn sách vừa xuất bản: Một thoáng tuổi thanh xuân. Đây là tập hợp những tiểu luận và tản văn tác giả viết về văn hoá Phật giáo chan hoà trong văn hoá Việt Nam. Ông dành bốn bài viết để bàn về lễ Vu Lan, về chữ Hiếu và sự đền đáp công cha nghĩa mẹ. Trong bài “Chữ Hiếu đơn giản lắm”, Vu Gia cho rằng ta nên thực hành chữ Hiếu bằng những việc làm đơn giản. Đứa bé tự chăm sóc bản thân, không phiền đến mẹ cha là hiếu. Lớn lên, cố gắng học tập, mỗi năm lên một lớp, thi đậu cho cha mẹ vui lòng là làm tròn chữ hiếu. Những người con đi học, đi làm xa chỉ cần mỗi buổi tối nhắn tin: “Hôm nay mẹ khỏe không, con ổn nhé” là có thể giúp mẹ ngủ yên giấc.

Thời trước ở miền Nam, trong chương trình phổ thông có dạy tác phẩm Nhị thập tứ hiếu, kể về 24 tấm gương hiếu thảo nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, được Lý Văn Phức diễn nôm bằng thơ song thất lục bát dễ thuộc. Nhưng các bạn học và cả tôi hồi đó đều bảo rằng có những tấm gương khó noi theo quá, mà cũng không nên noi theo. Có lẽ không bậc cha mẹ nào muốn con đào hố chôn cháu để dành phần cơm nuôi mình hay để con nếm phân để chẩn đoán bệnh của mình. Hiếu đễ phải trở thành sinh hoạt bình thường của con người bình thường thì mới trở thành đạo đức phổ quát của đời sống.

Hai tháng qua công chúng văn nghệ xôn xao bàn tán về phim Em và Trịnh của đạo diễn Phan Gia Nhật Linh. Người khen nhân vật, diễn viên này; người chê nhân vật, diễn viên kia. Nhưng có một nhân vật mà ít người chú ý, đó là bà mẹ của nhạc sĩ. Một người phụ nữ goá chồng khi còn trẻ, một mình chèo chống gia đình qua bao thử thách, nuôi dạy những người con thành đạt. Bà vun đắp cho hạnh phúc các con, nhưng không can thiệp vào quyết định hướng đi cuộc đời của họ. Chắc hẳn bà là người gợi cảm hứng và chăm chút cho sự nghiệp của Trịnh Công Sơn, người nhạc sĩ tài hoa đã viết những ca khúc tuyệt vời liên quan đến hình ảnh người mẹ: Gia tài của mẹ, Ca dao mẹ, Huyền thoại mẹ, Lời mẹ ru, Người mẹ Ô Lý, Lời ru đêm, Ngủ đi con, Sao mắt mẹ chưa vui, Đường xa vạn dặm… Nhân chuyến lưu diễn của Khánh Ly, chợt nghĩ một nhà tổ chức biểu diễn nào đó thử dựng một chương trình ca nhạc chỉ gồm những bài hát về mẹ và về lời ru của Trịnh Công Sơn. Đó sẽ là một chương trình độc đáo, có sức chữa lành những vết thương và hàn gắn những chia rẽ vẫn còn âm ỉ trong cộng đồng dân tộc.

Nghĩ đến bà mẹ của Trịnh Công Sơn, tôi nhớ đến nhạc mẫu của tôi vừa từ trần ở Đà Nẵng cách đây đúng 49 ngày. Cụ bà cũng là người phụ nữ đã trải qua những biến cố đau thương trong cuộc đời. 40 tuổi mất chồng và con trai lớn trong một tai nạn, bà ở vậy làm nghề hộ sinh, nuôi dạy bảy người con ăn học nên người, dựng vợ gả chồng cho các con. Nhà vườn ở ngã tư Thanh Khê bị giải tỏa trắng, đền bù bất công, bà vẫn âm thầm chịu đựng, không một lời than vãn, tìm cách tạo điều kiện cho các con ổn định nhà cửa trước khi bà nhắm mắt. Những buồn khổ bà giãi bày trên các trang nhật ký cho riêng mình, bên ngoài thì luôn giữ niềm vui cho con cháu dưới bóng mát gia đình.

Nhạc mẫu tôi là Phật tử thuần thành, quy y với pháp danh Nguyên Chứng. Gần nửa thế kỷ bà đi lễ, dự các khóa tu và tham gia hoạt động Phật sự ở chùa Xuân Hoà, quận Thanh Khê. Trong tang lễ bà, quý sư cô và đạo hữu nhà chùa đã đến tụng một thời kinh đưa tiễn, rồi sắp xếp để dành chỗ trí linh ảnh và bài vị cụ bà ở chùa. Hôm đưa bà lên Đài hoá thân An Phước Viên rồi nhận về một hũ tro nhẹ bỗng, cả căn nhà trống vắng, im lìm sau tang lễ. Những vòng hoa đã dọn dẹp. Bà con láng giềng đều đã ra về. Tôi ngồi với mấy đứa cháu trên bậc thềm nhà gần bàn thờ nhạc mẫu. Bỗng từ ngoài đường vọng vào tiếng rao: “Ai đậu hũ hông?” Một đứa cháu thốt lên: “Ôi, nhớ nội quá, nếu nội còn nội sẽ gọi gánh đậu hũ vào mua cho các cháu, tuổi thơ của cháu đó”.

Chúng tôi gọi gánh đậu hũ vào, mua một chén đặt lên bàn thờ cụ bà. Rồi mỗi người bưng cái chén của mình lặng lẽ ăn, nghe tiếng gió thổi qua những cành lá ngoài vườn trong một buổi chiều hè buồn bã.

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ 317, số đặc biệt Lễ Vu Lan, tháng 8 - 2022

Sự nghiêm ngặt của thể loại là sản phẩm của trí thông minh loài người trong hành trình sáng tạo. Nhưng sự lỏng lẻo của nó mới là chất xúc tác cho trí tưởng tượng to lớn của người làm nghệ thuật. Đặt mình trong những nguyên lí, thi pháp, chuẩn mực của thơ về câu từ, vần điệu, cấu tứ, đặc biệt là phẩm chất “dễ đi vào lòng người, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ ngâm nga”, các nhà thơ hiện đại Việt Nam nói chung thường có xu hướng ổn định trong những cảm giác về thơ. Nhưng những nhà cách tân không thể chịu được sự ổn định ấy. Thơ đối với họ như bộ trang phục mặc mãi không vừa, thêm đôi cánh thì mong muốn bầu trời, thêm đôi hia thì thèm khát vạn dặm, bớt thứ trang sức này thì tiếc những điểm tô. Cuộc chơi lớn nhất của các nhà thơ đương đại Việt Nam có sức ảnh hưởng nhiều nhất chính là cuộc chơi xô đẩy các biên giới ảo của thể loại.

20220129 4

Thơ thị giác

Thơ thị giác vốn đã được biết đến trên thế giới từ những năm đầu thế kỉ XX với tên tuổi của Guillaume Apollinaire (1880 - 1918), người có công gắn thơ ca vào đường biên của nghệ thuật thị giác, dùng chính ngôn ngữ để tạo hình nội dung. Như vậy, thơ thị giác không mới nhưng thật sự chưa bao giờ trở thành một thể loại với tư cách đầy đủ “hệ hình” thẩm mĩ. Thơ thị giác là cách gọi tắt cho rất nhiều loại thơ nương vào yếu tố thị giác để sáng tạo một kênh thưởng thức khác biệt cho công chúng.

Sự giao thoa của thơ và nghệ thuật thị giác trước hết là cuộc đối thoại đặc biệt của các loại chất liệu. Thơ thuộc về nghệ thuật thời gian (temporal art), trong khi nghệ thuật thị giác thuộc về nghệ thuật không gian (spacial art). Chất liệu của thơ là ngôn ngữ, chất liệu của nghệ thuật thị giác nói chung tập trung vào tất cả những gì mà đôi mắt con người có thể nắm bắt: hình khối, màu sắc, đường nét, chuyển động tạo hình trong không gian… Vậy, ngôn ngữ cũng có thể tạo hình thay vì xuất hiện tuyến tính theo thời gian không? Có. Bản chất ngôn ngữ có thể thoả hiệp, tương ứng với những gì nó ám thị bằng cách tận dụng không gian trên trang giấy để tạo ra đường nét của tư tưởng mà nó biểu thị.

Tư duy sơ khai của thơ thị giác là biểu trưng đến cùng nội dung bài thơ (viết về sương rơi thì sẽ thiết kế chuỗi thơ hai âm tiết kéo dài như trường hợp Nguyễn Vỹ, viết về “chú bồ câu bị dao đâm và vòi phun nước” thì sắp xếp không gian các từ ngữ theo đúng chủ đề ấy...) Tuy nhiên, thơ thị giác đang hiện ra trong đời sống thơ ca đương đại Việt Nam với nhu cầu khác về thị giác. Các từ đơn và cụm từ ghép được xếp cho rơi dần xuống của Trần Dần trong bài thơ dưới đây không hề biểu lộ nội dung như là một thứ được “đồ hình hoá”:

Đi đâu?

Đi

đâu

ra

khỏi

TRẦN GIAN - BA CHIỀU

(Trần Dần - thơ, Nxb Đà Nẵng, 2008)

Những con chữ rơi dần xuống đã mở một cánh cửa mới cho sự cảm thụ. Bản chất câu thơ là câu hỏi “Đi đâu? Đi đâu ra khỏi trần gian ba chiều?”, nhưng cách sắp đặt của nó không thể hiện “trần gian ba chiều”. Toàn bộ bài thơ có hình chữ Z trên mặt phẳng - biểu trưng cho sự kết thúc. Song, hàm nghĩa của bài thơ rất rõ là “không thể kết thúc” (đi đâu ra khỏi). Do vậy, bài thơ là một bi kịch. Yếu tố thị giác trở thành “cái bẫy” của thưởng thức.

Haikâu

Thơ haikâu là một thể thơ độc đạo (con đường duy nhất), do nhà thơ Lê Đạt sáng tạo từ khoảng những năm đầu thế kỉ XXI và đến nay vẫn chưa có người “nối dõi”. Về tên gọi, haikâu là một sự lai ghép thể loại thơ “quốc bảo” của Nhật Bản và có yếu tố chơi chữ: haiku + haicâu = haikâu. Trong bài luận ngắn Quanh thơ haikâu, nhà thơ “phu chữ” bộc bạch con đường “chiết xuất” ra thể loại tí hon dị biệt này: “Tôi rất yêu thơ Basho. Nhưng tôi cảm giác đọc haiku đòi hỏi một tâm thế đặc biệt, một trạng thái thiền lặng được chuẩn bị”; “Thơ haikâu không phải hai câu viết lập dị. Nó không đơn thuần số lượng câu chữ”; “Những bài haikâu đời đầu nguyên là những thư tình”; “Thơ haikâu có ước vọng tham gia công cuộc cứu hộ này” (Lê Đạt, Đường chữ, Nxb Hội Nhà văn, 2009, tr.587-588). Cốt lõi sự tâm đắc haiku của Lê Đạt là tính chất cô đúc đặc biệt như một thể loại “cứu vớt khoảnh khắc” và sâu xa hơn, ông muốn lai ghép motif “hai câu” vốn rất quen thuộc với tư duy ngôn ngữ và nhạc tính của người Việt (tựa như hai câu lục bát, hai câu đầu của thể song thất lục bát…), gần gũi với “câu đối” Đông Á với một loại thơ ngoại nhập nhưng đã trở thành một phần tâm thức làm thơ của người Việt: haiku. Không chỉ Việt hoá haiku Nhật Bản, ông còn muốn tạo cho thể haikâu một “huyền sử”, một lai lịch và cái lí để nó tồn tại.

Thơ haikâu Lê Đạt có hơn 200 bài, đa phần đều không dễ hiểu. Haikâu là sân chơi độc đạo của ông, mặc dù ông khát khao nó trở thành thể loại được sống dài lâu, được phổ biến. Cuộc thể nghiệm này được tiến hành một cách hồn nhiên và mê mải vào những năm cuối đời của nhà thơ, cho thấy rất nhiều câu chuyện đằng sau một thể loại đa lai ghép: lai ghép thơ Nhật Bản và thơ Việt Nam; lai ghép truyền thống và hiện đại (câu đối và cách tân); lai ghép thú chơi chữ của người Việt và nguyên lí thơ haiku; lai ghép tư duy hai câu thơ và tư duy ba câu thơ; lai ghép tư duy căn bản theo nguyên tắc âm tiết cô đọng và tư duy căn bản theo nguyên tắc chơi âm, chơi chữ, đăng đối: Thức chợt mới hay mơ rằng thực/ Hoa đền tên nở nức hương đêm (Thức). Nếu đảo thức chợt thành chợt thức, nở nức thành nức nở, ta sẽ có: Chợt thức mới hay mơ rằng thực/ Hoa đền tên nức nở hương đêm. Nhưng haikâu đâu có yêu cầu đảo ngữ. Vậy, nếu giữ nguyên thì sẽ vỡ ra nhiều lớp nghĩa như đôi mắt ta nhìn vào kính vạn hoa: chữ “thức” ở đầu câu là sự đánh thức mọi thứ của toàn bộ câu thơ. Đó không chỉ là thức dậy mà là ý thức, tiềm thức, vô thức. Một chữ “thức” đa nghĩa. Hãy ngắt âm điệu ở chữ “nở”, sẽ có “hoa đền tên nở” và “nức hương đêm”. Hoa nở đến nức cả đêm. Mùi hương nức cả đêm. Còn “đền tên” là một ẩn ngữ. Nhưng đó là con tem dán lại một câu haikâu của Lê Đạt. Trong sự xao xuyến lạ lùng nào đó, dường như haikâu có cái gì rất gần với thơ của nhóm Xuân thu nhã tập. Đó là sự sang trọng của câu chữ, sự trinh trắng của hồn thơ, và sự đắn đo kiêng khem đến kì lạ của ngôn ngữ.

Thơ đôi

Hẳn các khái niệm được trình bày ở đây không thường xuyên xuất hiện trong những giáo trình lí luận hoặc các cuốn sách công cụ nghiên cứu ngữ văn. Nhưng thuật ngữ không sinh ra từ các hội đường thuyết lí mà nó thường được ấp ủ trong đời sống dài của văn học, học thuật, tri thức. Thơ đôi lần đầu tiên được nói đến bởi chính tác giả của nó - Nhật Chiêu. Đến nay chưa có cuốn sách nào chính thức xuất bản với tên gọi là “thơ đôi”. Toàn bộ hơn 150 bài thơ đôi của Nhật Chiêu xuất hiện trên mạng xã hội (facebook), trở thành hiện tượng từ nhiều năm nay. Bài viết Duyên tình thơ đôi đồng phương, một haiku một lục bát của Nhật Chiêu của Nguyễn Thị Tính được xem là một “phán xét” chính thức đầu tiên của công chúng đương đại đối với một thể thơ trước đó chưa từng có. Trong lời “phán xét” tiên phong này, tác giả bài viết đã dành sự ưu ái, mẫn cảm và nồng nhiệt cho một “người trẻ bạc tóc” - người đã sản sinh ra cuộc “chơi thơ tài hoa” với mô thức “đan xen, ảnh hưởng, kết nối, giao thoa, hỗn dung” không giống bất kì nhà thơ nào đương thời.

Thơ đôi là gì? Đôi là sóng đôi, gồm hai thể loại (hay thể tính): haiku (của người Nhật) và lục bát (của người Việt). Trong thế giới đoản thi phương Đông, đây là hai thể loại tương ứng về khả năng đại diện cho tư duy thơ ca, thi học, mĩ học của mỗi dân tộc. Người Việt đã tiếp nhận và học tập, sáng tác thơ haiku từ nhiều thập kỉ nay với niềm yêu thích đặc biệt, bởi phẩm chất ngắn gọn, đơn sơ mà gói trọn sức mạnh cảm xúc, nội tâm, tinh thần của người làm thơ. Nhưng Nhật Chiêu không muốn chỉ là một người Việt làm thơ haiku. Đáng nói hơn, ông cũng không phải là người chuyên làm thơ lục bát. Câu chuyện trở nên thú vị khi ông đứng giữa hai thể loại này và làm cuộc hôn phối đặc biệt cho chúng. Câu hỏi cốt tử của cuộc giao cảm này là: Làm sao kết nối được dư âm của haiku vào quỹ đạo cảm xúc của lục bát?

Haiku không nói bằng tư tưởng, không nói bằng nhạc điệu. Nó nói bằng sự sắp đặt các khoảng trống trong ngôn từ và âm tiết, là sự tiết lộ ý nghĩa thông qua một mĩ cảm thâm trầm, nhã đạm. Lục bát cũng không nói bằng tư tưởng, mà nói bằng sự hô ứng nhạc điệu. Chỗ mà haiku tránh thì lục bát lại dư thừa. Lục bát cũng không nói bằng sự sắp đặt các khoảng trống trong ngôn từ, âm tiết, mà nói bằng sự tràn trề của âm tiết, ngôn từ và sự nồng nàn của cái chủ quan luôn dính líu. Hai thể loại trái ngược nhau chỉ gặp nhau ở sự nhỏ bé, ngắn ngủi (xét ở một bài haiku và một cặp lục bát). “Thoa này bắt được hư không” (Nguyễn Du). Người sinh ra thơ đôi đã “bắt được” cái gì đó giữa hư không, và tạo ra một mối tình kì lạ của hai thể thơ, hai hồn cốt.

Sữa

(Tặng H. thai phụ)

Mưa đêm nay

bé nào trong mẹ

nằm nghe sữa đầy

*

Em ơi mưa bắt đầu bay

thánh ca giọt nước ơn đầy

thinh không

Chữ “em” rất đặc biệt: là em bé, là mẹ, là vũ trụ đa cảm, là đất mẹ vang vọng, là một khát khao riết ráo, là một tình nhân âm thầm trong cõi mộng. Lục bát chắp cánh cho haiku. Haiku đóng lại thì lục bát trào ra. Nguyên tắc cẩn mật đầy chắt lọc của haiku là kị lộ. Lục bát thì tuôn tràn nhưng vẫn gói ghém ý tứ riêng một cách tự nhiên. Giờ đây, dòng sữa mẹ trở thành lời thánh, ngôi lời đã hoá bé thơ và hoá tình yêu. Bài thơ đôi này thực chất là lục bát hoá haiku và haiku hoá lục bát - một sự nhu hoà thể loại vốn thuộc về tâm thức khoan hoà của tư duy Đông Á.

Một bài thơ đôi nữa của Nhật Chiêu có đường nét một thể thơ mới hoàn hảo:

Vô hình

Tôi thường rơi

như chiếc lá nào đó

vào hoang vắng tôi

*

Ta là tặng vật ta ơi

mà ai gởi tặng về nơi vô hình

Bài haiku ba dòng cắt nửa bài thơ tưởng chừng khép lại một “niệm” trong satna đời sống: quan sát một niềm cô đơn tĩnh lặng và chết chóc. Chuyến mất tích của con người vào chính bản thân mình là một chủ đề lớn của văn chương thế giới. Bài haiku của Nhật Chiêu làm gợi nhớ đến bài thơ nổi tiếng của Joso (1661 - 1704):

Mizu soko no

Đáy nước sâu

Iwa ni ochitsuku

im lìm trên đá

Kono ha kana

chiếc lá nào

(Đoàn Lê Giang dịch)

Hai câu lục bát tiếp theo đã đẩy bài haiku đầy màu sắc thiền Nhật (sabi: cô tịch) sang một chân trời khác của niềm biết ơn. Cấu trúc lục bát cho phép cách nói lặp mà vẫn không bao giờ bị thừa. Câu lục và câu bát đều có chữ “tặng” nhưng thay vì như thể mắc lỗi, nó lại tô đậm một ý tưởng sâu sắc: cuộc hiện sinh này là một thứ hiến tế. Chữ “ai” trong câu bát là mật ngữ. “Ai” - một nhân cách, một đại ngã, một sự sống vô tận, một linh hồn tuyệt đối? “Ai” có thể biến mọi tồn tại này trở thành ân sủng? Đó là một tinh thần siêu nghiệm, là “nhân cách hoá” quan hệ giữa con người với chân dung bao la của tạo hoá.

Lời mời mọc tinh tế của bài thơ đôi này được hiển hiện qua những tầng ý nghĩa giàu sức gợi: cách ứng xử với nỗi cô đơn là tự biến mình thành quà tặng vĩnh cửu!

Thơ đôi là một hiện tượng đang sống và có mặt trong dòng chảy văn chương đương đại Việt Nam. Nó mới được sáng tạo bởi một người. Nó gợi nhớ con đường của những kết nối kinh điển như: song thất lục bát, Đường luật xen lục ngôn, hát nói… Nó cần môn đệ hay chỉ là ngọn cô phong, điều đó có lẽ chưa cần đặt ra, vì bản thân sự ra đời của nó đã là một thành tựu.

Từ chiêm nghiệm, suy nghiệm đến thể nghiệm, từ thể nghiệm đến những ấn tượng trước công chúng văn chương rộng rãi, thơ đương đại Việt Nam dường như có bóng dáng một di sản tinh thần của tương lai. Dĩ nhiên, con đường thể nghiệm ấy đã được tiên khởi, dự đoán, ám gợi, phôi thai trong ngòi bút và tâm hồn những người đi trước (Chế Lan Viên, Nguyễn Đình Thi, Tô Thuỳ Yên, Trần Dần, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Văn Cao…) Nó được sinh ra không chỉ từ bối cảnh văn hoá, xã hội quanh nó mà còn vì những khoảnh khắc bùng nổ của nội tâm nhà thơ, những khát khao tất yếu của một nền thơ ca trưởng thành. Phát biểu của Hoài Thanh về Thơ mới “Người thanh niên Việt Nam ngày nay đương bơ vơ đi tìm người thi nhân của mình như người con đi tìm mẹ” đã nói rất hay sự khắc khoải của người làm thơ trong công cuộc tìm lấy và tìm lại “người thi nhân của mình”. Lời ấy đúng với mọi thời!

Tự do tìm kiếm các cách biểu đạt là cốt lõi của nguồn cảm hứng lớn đối với các nhà thơ đương đại. Sự tự do ấy trước hết là sự sáng tạo ra các bờ cõi khác, nới rộng các biên giới về quan niệm nghệ thuật, phá huỷ các thành trì vốn sinh ra để bảo vệ các giá trị bất biến về tiêu chuẩn cảm nhận, khơi dậy những niềm vui sáng tạo mới. Một nhà văn sớm kia chẳng ngại ngùng để trở thành thi nhân, và một nhà thơ bao năm bất chợt xa cách và không thể hiểu được tiếng nói của thơ nữa. Đó là nghịch lí của một thời đại có tên là “đương đại”, nơi mọi sự tìm kiếm đều được trao tặng đích đến, và mọi đích đến đều hoá thân vào con đường tìm kiếm. “Ở trong còn lắm điều hay” (Nguyễn Du). Thơ đương đại Việt Nam vẫn đang trên hành trình tạo dựng tính di sản cho tương lai của chính nó. Bởi lẽ, nghệ thuật và tư tưởng, suy cho cùng, trong logic vận hành và trong “khát vọng thành thực” của nó, luôn vươn tới sự tạo tác kì quan cho mọi cách nhìn.

Lê Thị Thanh Tâm

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 22.01.2022.

Trọn một đời văn, Chinh Ba chỉ viết khoảng 50 truyện ngắn. Nhưng với một sự nghiệp văn học ngắn ngủi, dở dang vì thời cuộc, ông đã góp phần tái hiện những trầm luân của một xã hội nhiễu nhương và bi đát, với bút pháp cô đọng dồn chứa nhiều ẩn nghĩa, khiến cho thông điệp của tác phẩm có sức vang vọng và lan tỏa.

Bìa tập truyện ngắn "Bài thơ trên xương cụt" của nhà văn Chinh Ba

Mộ huyệt và cơn khát nắng

Chinh Ba dành phần lớn tác phẩm của mình cho những suy ngẫm về sự sống và cái chết, những cảm nghiệm về thân phận khốn cùng của con người. Đọc Chinh Ba, gây ấn tượng nhất có lẽ là những hình thù kỳ quái, những số phận dị thường, những cái chết đáng sợ nơi tối tăm, ẩm thấp. Một vài truyện ngắn nghe vọng tiếng kinh cầu hồn, tuy thiếu những bóng ma.

Không gian trong truyện ngắn Chinh Ba, nếu không là căn nhà ngột ngạt, nơi cái chết đang rình rập (Tiếng đàn khuya, Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng), thì cũng chìm trong một căn hầm, một ngục đá hay nấm mồ (Đóa sen vàng, Khát nắng, Mồ sống). Nó xuất hiện như định đề về con người bị chối bỏ sự tồn tại, hoặc tồn tại trong cô độc và tuyệt vọng.

Khát nắng vẽ ra một ngục đá lạnh lẽo và tăm tối. Ánh sáng trong truyện chỉ là ánh sáng ngập ngừng của một thỏi nắng vàng, một vầng trăng. Truyện không ít những câu văn đẹp đầy chất thơ, nhưng cái lạ nằm ở chi tiết nhiều ẩn nghĩa: một người tù bị chôn vùi đời mình trong ngục tối và ước nguyện sau cùng của lão là có một tia nắng rọi thẳng vào mặt mình từ trên vách đá cao, “để sự sống của lão có trong không gian tới ngày này được nhận thực”. Bao ngày qua, lão nằm đó bất động trên hai tấm ván ghép, làm mồi cho bầy muỗi và những con rệp đói, chờ đến ngày chết rục, thúi ình ra như “con chuột già trụi lông nằm phơi bụng trong kẹt xó”. Trên đời này không ai chờ lão và lão cũng chẳng có gì để mà chờ đợi, ngoài một tia nắng vô tâm. “Lão chỉ biết rằng một phần đời người sau cùng của lão đã không có nắng rọi vào. Nên trước khi chết, lão thèm một tia nắng chiếu vào mặt, chiếu vào đôi mắt ngập bóng tối của lão; để da mặt lão nóng dậy lên, để mắt lão nhìn thẳng được mặt trời”. Điều ước tưởng chừng tầm thường và nhỏ mọn ấy đã được đánh đổi bằng chính cái chết của lão. Nắng trở thành ẩn dụ thể hiện nỗi khao khát ánh sáng của một cuộc đời giữa đêm đen.

 Như thế, truyện ngắn của Chinh Ba phủ đầy bóng tối, sự ẩm thấp và nhầy nhụa. Bóng tối đồng nghĩa với sự hốt hoảng, nỗi hiểm nguy và niềm tuyệt vọng. Mồ sống cũng là truyện ngắn gây ám ảnh với cốt truyện kỳ lạ: một thanh niên bị đạn bom tàn phá cơ thể, gần như tự chôn sống chính mình để cách ly với xã hội. Cô độc với hình hài ghê tởm đó, Vàng đã vùi mình trong một cái huyệt tối tăm, lạnh lẽo mà thế gian không hay biết. Người cha lang thang tìm đứa con trai khắp nơi và cơ duyên đã đẩy đứa con dâu của ông lạc đến đó, “nàng đã thở cái hơi hám đó trong lòng huyệt, nàng đã chung đụng với người đàn ông ở chỗ chật hẹp đó để sinh ra đứa con thơm tho này”. Một đứa bé đã ra đời nơi lòng huyệt âm u đầy tử khí. Chinh Ba miêu tả thật dữ dội và trần trụi cái giây phút khuôn mặt biến dạng kinh khiếp của Vàng hiện ra trước mắt Chót ngay lúc nàng lên cơn đau đẻ. “Tiếng nấc trong cổ họng gã và bước chân khấp khiễng của gã đến gần, gã ngồi xuống bên nàng. Hình như gã khóc, tiếng khóc nghe ì ọt, rền rĩ, đôi lúc phì phọt như tiếng kêu thoát ra từ vết máu ở cổ của một con vật bị cắt tiết. Nước mắt gã và hình như có cả nước dãi, nhỏ giọt xuống người nàng. Sau hết gã đã cởi chiếc áo độc nhất của gã đắp lên cái bụng tròn đầy của nàng rồi thất thểu bước đi…”. Cái nghịch dị ở đây không phải là thủ pháp nghệ thuật mà chính là sản phẩm của chiến tranh, chiến tranh như một thứ định mệnh bao trùm lên hiện hữu của con người, làm biến dạng nhân hình trong một hoàn cảnh mà nhân tính vẫn tìm cách chống chọi để duy trì.

Cái chết và cuộc trở dạ

Ngòi bút Chinh Ba bộc lộ rõ sở trường khi tái hiện những mảnh đời, những số phận bị cuộc chiến tàn phá. Điều gây ám ảnh không phải là khói lửa trực tiếp của chiến trường mà là những hệ lụy, những vết thương chiến tranh và sự đền bù của tình nhân loại. Nhiều nhân vật của ông là con người kỳ dị và bị khiếm khuyết: một gã khấp khiễng với cái chân tàn tật và cánh tay độc nhất; một đứa bé với hai cục môi dày bệu, đỏ hếu như chằn tinh; một người đàn ông có gương mặt bị sứt mất hàm dưới, lưỡi dài và nước chảy lòng thòng như quái vật… Dữ dội và kinh khiếp, nhân vật của Chinh Ba là hiện thân của cái kỳ dị khiến người đọc khó quên.

Viết về cuộc chiến tranh khốc liệt qua khoảng cách thời gian và sự  chiêm nghiệm, Chinh Ba cho thấy hận thù được hóa giải bằng tình yêu, những tổn thương được bù đắp bằng lòng tha thứ và sự tàn bạo được xoa dịu bằng đức khoan dung. Qua đó, nhà văn nhìn thấy sự sống nối dài sau cái chết.

Hầu hết truyện ngắn của ông đều có những cái chết không bình an. Nhưng ẩn đằng sau đó là những cuộc trở dạ. Đứa trẻ ra đời chứng kiến cái chết của đấng sinh thành ra nó. Sự sống nở ra nơi hoang dã, thâm u lại là dấu hiệu cho cuộc phục sinh. Những đứa bé như Lụa, như thằng Chằng, như đứa con của Chót tuy chào đời trong mất mát, vẫn nuôi niềm tin về “một đóa sen vàng”: rằng ai nắm giữ đóa sen vàng, người đó sẽ có cơ may vượt qua nỗi đau thương. Đoá sen vàng là biểu tượng cho tự tánh của con người biết thương yêu. Đó là đoá sen trong lòng thằng Hoà (Tóc), là đoá sen Tơ muốn trao truyền cho Lụa (Đoá sen vàng), là đoá sen của tình người bao la vây bọc lấy thằng bé lai (Thằng Chằng). Chủ đề về số phận đứa con lai, sau Chinh Ba, sẽ còn nhiều nhà văn khai thác:  Nguyễn Thị Mỹ Thanh với Thằng Chà, Nguyễn Minh Châu với Mảnh đất tình yêu, Tô Đức Chiêu với Đứa con lai… Nhưng có lẽ Chinh Ba là người tiên cảm sớm hơn hết những vết thương rỉ máu từ mối quan hệ dị chủng ép buộc này và tìm phương thuốc cứu chữa cho những nạn nhân.

Mở đầu truyện Đoá sen vàng, Chinh Ba viết: “Vào một ngày nào đó, trong một xứ sở nào đó – xứ sở của mấy nghìn năm nghèo đói và chiến tranh – có một người đàn bà bị bom lửa phủ lên người. Toàn thân bốc lửa, người đàn bà chạy như một con trâu điên, chạy đi tìm một cái ao, một cái giếng, một vũng nước”. Dụ ngôn về sự huỷ diệt đó đâu phải là sản phẩm của văn chương kỳ ảo: mấy năm sau nó sẽ được xác nhận bằng tấm ảnh Nick Út chụp Kim Phúc và những nạn nhân chiến cuộc trên đường làng Tây Ninh. Trong văn bản nghệ thuật của Chinh Ba, dụ ngôn đó gợi lên hoá thân của cái chết khi nó gắn liền với hình ảnh của sự sống: “Giữa hố bom một đoá sen hồng vươn mình khỏi mặt nước rêu xanh, khiêm tốn phô cái vẻ tinh khiết và thanh thản, nhưng rất hùng hồn chứng tỏ sự hiện hữu của mình ở chính giữa dấu tích của chiến tranh”. Từ đóa sen hồng giữa hố bom, mà sau này nhiều lần thơ ca viết về chiến tranh sẽ mượn hình ảnh để gợi lên viễn cảnh, đến đoá sen vàng trong lời kể chuyện huyền thoại của Tơ cho bé Lụa, tất cả đã trở thành biểu tượng của sự phục sinh, hơn nữa, như một giải pháp tâm linh để vượt lên tấn thảm kịch của chiến tranh.

Mộ huyệt và cơn khát nắng, cái chết và sự trở dạ, Chinh Ba đã kết hợp những đối cực của cuộc nhân sinh đầy nghịch lý nhằm tạo ra những “cảm xúc đối nghịch” nơi người đọc; khi những dữ dội, bạo liệt, gớm ghiếc và tàn nhẫn được hoá giải, cứu chuộc bằng con đường của tình yêu cuộc sống, cũng là con đường của nghệ thuật.

Điệu ru tình và bài thơ trên xương cụt

Ngoài những câu chuyện ám ảnh về chiến tranh, Chinh Ba còn viết mấy truyện ngắn mang âm sắc của tình yêu lãng mạn: Hai vì sao lạc, Kẽ hở bàn tay, Tháp tình của đá… Truyện tình của Chinh Ba hầu như không có sự phản bội. Nhà văn tin ở lòng thủy chung, ân nghĩa. Trước cái chết, tình yêu vẫn là vĩnh hằng. Có lẽ vì niềm tin không tiết chế này mà những truyện tình của ông thường đi gần về “cổ tích”. Cái nhìn lạc quan về tình yêu làm dịu đi tính chất bi đát và trắc trở thường thấy của những cuộc tình trong chiến tranh.

Đọc Chinh Ba, đôi khi ta bắt gặp những câu văn mang hơi hướng lãng mạn chịu ảnh hưởng của Tự Lực Văn đoàn, thậm chí còn mang phong vị đăng đối và hoài cổ: “Từ đó họ yêu nhau. Suối ngập hương yêu, rừng ngát ý thơ và gió reo hồn nhạc. Mối tình kia trôi qua nhiều mùa thu, đẹp như thơ chàng, thắm như mắt nàng và êm như dòng suối chảy”. Những câu chuyện tình yêu này chưa phát huy thế mạnh của ngòi bút Chinh Ba, cấu trúc tác phẩm còn để lộ sự sắp đặt, kết thúc có phần dễ dãi. Tuy vậy, tinh thần nhân bản, khát vọng hạnh phúc và hoà hợp tạo nên cái hồn và không khí của những thiên truyện. Tháp tình của đá vĩnh cửu hoá pho tượng Linh Mai như biểu tượng của tình yêu hiến dâng. Hai vì sao lạc tượng trưng cho vẻ đẹp và vẻ sáng của tình yêu nhân giới mà ánh sao của thần giới không bì kịp.

  Là người tin vào sứ mệnh cao cả của nghệ thuật, Chinh Ba muốn đánh thức lương tri của người cầm bút giữa một xã hội mà vi trùng ô nhiễm đã lây lan đến cả môi trường văn học (Một lứa cá mè). Ý thức phản kháng trở thành lẽ sống của những người như Trần Lý, rút tinh huyết từ hình hài tàn tạ để sáng tạo những trang văn xốc dậy con người (Hoa bút).

  Nếu mỗi nhà văn chỉ cần một truyện ngắn sâu sắc, hấp dẫn để người đời ghi nhớ, thì với Chinh Ba, truyện ngắn đó là Bài thơ trên xương cụt. Dù là người dè dặt, tôi cũng phải đồng ý với nhà thơ Nguyễn Đức Tùng, rằng đây là một trong những truyện ngắn hay nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Truyện là điệu ru buồn của cô đào hát đi tìm người du tử của đời mình: “Điệu hành vân áo não u trầm, mang cái buồn cổ kính của dĩ vãng, rỉ ngấm qua vách lá, làm ẩm ướt những dòng cảm nghĩ… Hình như nàng sống để hát, và sống bằng tiếng hát của mình”. Đuổi bắt, nhầm lẫn và rồi “đem gửi hương cho gió phũ phàng”, Út Lệ cuối cùng đã tìm thấy những câu hát tự do, dẫu người đời dèm pha, người tình phụ bạc hay lão chồng hết sức thô lậu, tục tĩu. Sâu xa hơn, truyện ngắn này là dụ ngôn về thực trạng và nỗi đau của văn hóa ở cái thời mà những Ba Lò Heo nắm quyền chỉ đạo và bình phẩm văn nghệ: “Mấy tuần lễ sau, qua nhiều lần bình giảng thi văn bằng dao, bằng búa và bằng hơi men sặc sụa, lão kết luận rằng câu hát nào của Út Lệ cũng có ý than duyên trách phận, cũng có chút tình kín đáo nhắn gửi người chồng cũ. Cứ mỗi lần “bình giảng” như vậy, lão “bỏ” một câu hát của Út Lệ. Vì vậy mà cái vốn liếng văn nghệ của gia đình Út Lệ ngày càng sa sút nghèo nàn dần”. Trong “vòng phấn trắng” mà Ba Lò Heo quy định với những câu hát ngô nghê, lạt lẽo và vô nghĩa, người nghệ sĩ chân chính Út Lệ phải dùng giọng hát để biểu thị thái độ của mình: “Cũng từ đó, tiếng hát của chị có giọng oán hờn thống trách, dần dà về sau lại đượm ý chán nản, liều lĩnh, khinh thị. Mỗi tiếng hát như một vết dao băm vào vết đau khổ trong lòng mình, và xỉa xói vào tâm can người nghe”.

Nhưng bạo lực làm sao chấp nhận để nghệ thuật được phép lên án chính nó! Ba Lò Heo phải tìm “một giải pháp cho tình trạng bế tắc của nền văn nghệ gia đình”. Vì “định nghĩa văn nghệ là sự tẩm quất dục vọng hoặc là sự làm đã ngứa chỗ xương cụt, nên lão đã đặt cơ sở nền văn nghệ trên chiếc xương cụt của lão”. Tình thế đó buộc Út Lệ, để giành lấy quyền tự do được hát những bài hát mà mình yêu thích, phải dũng cảm ly khai với cái nền-văn-nghệ-xương-cụt đó. Thay vào chỗ của chị trong lãnh địa của Ba Lò Heo là một người đàn bà câm từ lúc lọt lòng mẹ, tượng trưng cho cái công chúng ngoan ngoãn của đường lối văn nghệ lấy xương cụt làm chỗ dựa.

Có thể nói Chinh Ba sắc sảo và sâu cay nhất là ở truyện ngắn này. Cái hay của cốt truyện đa chiều; cái lạ của phép nghịch đảo và sự trào lộng đã làm nên giá trị nghệ thuật của Bài thơ trên xương cụt.

oOo

Chinh Ba viết ít nhưng vẫn khiến những người cùng thời và bạn đọc hôm nay hỏi nhau rằng ông là ai.

Chinh Ba tên thật là Phan Tân Nhựt sinh năm 1934, quê ở làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, cùng dòng họ và chi phái với Phan Khôi. Vào Sài Gòn cuối những năm 50 thế kỷ trước, ông viết văn, làm báo, đã cộng tác với các báo Mã thượng, Nhân loại, Lẽ sống, Ngày mới, Bông lúa, Nghị lực, Giữ thơm quê mẹ dưới nhiều bút danh: Thông Mai, Hạ Thảo, Thảo Nguyên, Cước Nguyên, Trọng Cưu, Phan Phong Chinh, Kiều Mỹ Vân, Hà Thời Đán. Bị chính quyền Việt Nam Cộng hoà theo dõi và bắt giam ba năm vì hoạt động báo chí khuynh tả, ông trốn sang Cambodge rồi qua Pháp từ năm 1967, hiện định cư ở Montpellier.

   Những truyện ngắn trên đây được tác giả viết và gửi đăng trên các báo ở Sài Gòn vào cuối những năm 50 – nửa đầu những năm 60. Riêng truyện Bài thơ trên xương cụt viết trong nhà lao Chí Hoà rồi bí mật chuyển ra ngoài và được nhà thơ Hoài Khanh chọn đăng trên tập san Giữ thơm quê mẹ số 4, tháng 10-1965, sau đó nhà xuất bản Lá Bối in lại trong tập truyện Ảo tượng (in lần đầu 1966, tái bản 1971) cùng với tác phẩm của Sơn Nam, Hồ Hữu Tường, Thiều Chi, Nhất Hạnh, Võ Phiến, Tuệ Uyển. 44 năm sau, truyện ngắn này được nhà văn Trần Hoài Thư đưa vào tuyển tập Văn  miền Nam, theo gợi ý của  nhà văn Nguyên Minh. Ngoài ra, Chinh Ba còn có một số tản văn và kịch bản ngắn in trên các báo thời kỳ đó.

Sau hơn một phần ba thế kỷ sống trên xứ người, Chinh Ba trở về quê hương nhiều lần để tìm lại những dấu tích của quá khứ - mồ mã tổ tiên, khu vườn tuổi nhỏ; nhưng ông không nghĩ đến việc tìm lại những dấu tích văn học của chính mình. Được người em là nhà thơ Chinh Văn Phan Tân Minh động viên và giúp đỡ, trong lần về quê vào dịp Tết Tân Mão, Chinh Ba đã sưu tầm những tác phẩm nằm rải rác trong sách báo cũ để tập hợp thành cuốn sách này. Có thể nói đây là những đoá sen hồng bé nhỏ của văn học miền Nam mọc lên giữa phong ba bão táp của thời cuộc, thiếu chút nữa thì bị bỏ quên bên dòng trôi đi vô tình của lịch sử, đang tìm cách tái sinh dưới trời xanh thẳm.

Nguồn: Lời bạt trong sách Bài thơ trên xương cụt, tập truyện ngắn của Chinh Ba, NXB Trẻ, TP. HCM, 2011.

In lại trong sách Huỳnh Như Phương: Giấc mơ, cảnh tượng và cái nhìn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2019.

Có hai con đường song đôi mà tới được hai miền ánh sáng khác nhau để Hàn Mặc Tử dẫn lối cho ta vào cõi thi ca. Đường Trăng và Đường Xuân.

Vào trước năm 1940, khi chưa đến 37 tuổi, có một lần thi sỹ lang thang di tìm mộng tầm xuân. Đi, đi, đi mãi nơi vô định, tìm cái phi thường, cái ước mơ. Lần ấy đi đến tận đỉnh trời cao mây trắng. Bỗng nhiên gặp vua nhà Nguyễn. Họ cùng nhau uống rượu nắng đến say sưa. Đó là ngày thi sỹ ăn vận theo phong vị nhà nghèo.

Áo ta rách rưới trời không vá

Suốt bốn mùa trăng mặc vải trăng

Vì vậy mà, theo cách xưng hô của Chế Lan Viên hồi năm 1987, Tử đã được gọi là Người trăng ăn vận toàn trăng cả. Một đời Tử uống trăng cho bớt cái sầu vạn cổ để không ngớt gọi Trăng, trăng, trăng là trăng, trăng. Bởi lẽ, chàng sớm nhận ra rằng mới lớn lên trăng đã thẹn thò, thơm như tình ái của ni cô. Thuở ban đầu là hình ảnh thực trăng nằm sõng soài trên cành liễu, đợi gió đông về để lả lơi. Cũng là lúc người em gái hổn hển cùng nhịp với trăng vì đêm nay trăng đúng tuổi, năm nay em dậy thì. Tử bắt đầu say trăng đến mức chỉ biết chắp tay bái lạy cả miền không gian. Nhìn trăng lỏn lẹn đậu ngành cao, chợt tỉnh trong phút chốc giữa cô liêu vô định một mảnh đời còn thực Gió lùa ánh sáng vô trong bãi, trăng ngậm đầy sông chảy láng lai. Rồi không tỉnh được lại nữa vùi hồn thơ vào say trăng, rượt trăng, nằm trong vũng trăng, quay cuồng vì trăng ghen, trăng ngã. Thi sỹ hoảng hồn nhảy xuống giếng vớt trăng lên. Cuối cùng là chơi giữa mùa trăng chìm ngập trong đêm siêu hình, vô lượng, tượng trưng. Sắc cũng như không, gần cũng như xa, hư cũng như thực. Đường trăng đi lên đỉnh siêu hình.

Thế nhưng. Thi ca Hàn Mặc Tử còn dẫn ta đi một con đường khác đến mùa xuân. Điều rất đặc biệt là, nếu đường trăng đưa ta đến cõi siêu thực huyền ảo thì đường xuân dẫn ta đi ngược lại để trở về với cuộc đời, với con người trong cuộc kiếm tìm hạnh phúc. Giữa bao nhiêu vô thường và mong manh, đường xuân đã giúp Hàn Mặc Tử tìm thấy hơi ấm của hạnh phúc trong niềm vui bất tận và nỗi lo âu đến kỳ lạ của sự gặp gỡ con người với mùa xuân. Những khát vọng mùa xuân tươi sáng làm nên âm hưởng của bi kịch lạc quan trong thơ Hàn Mặc Tử nói riêng giữa phong trào Thơ Mới 1930 – 1945. Từ Gái quê, Thương đau, Xuân như ý, Thượng thanh khí đến Cẩm châu duyên … hồn thơ Hàn Mặc Tử như được trang trải với mùa xuân, với con người yêu thương và nhân ái.

Mùa xuân được thi ca nhìn ngắm và yêu thương như là sự vĩnh cửu từ cổ xưa đến thời hiện đại và ở khắp địa cầu. Bởi thế để thơ Xuân có khuôn mặt riêng đâu phải là chuyện dễ dàng. Xuân là mùa của thời gian. Là vẻ đẹp của con người. Là chính con người yêu kiều với tên gọi nàng Xuân, chúa Xuân trong thi ca dân gian và thi ca bác học. Là sắc thái tinh thần tuyệt vời của con người với tư cách toàn nhân loại và cá nhân mỗi con người. Xuân trong thơ Hàn Mặc Tử là người thiếu nữ có tên gọi Gái quê mà nhiều lần thi sỹ gọi là Xuân em. Thật là dị thường. Người siêu thực trong số những người siêu thực nhất của phong trào Thơ Mới 1930-1945 lại âu yếm gọi Xuân em là Gái quê mà Tử đã giành hẳn một tập thơ mang tên gọi như thế vào năm 1936. Thật không ngờ được, trong số thi nhân theo trường thơ Loạn cùng thời ở Bình Định hồi 1933 – 1939, Hàn Mặc Tử lại là người chân chất nhất, nhân bản và trong sáng nhất khi viết thơ về mùa xuân. Chế Lan Viên là thi sỹ của Chiêm nương bóng tháp nhẹ nhàng quay lại những cô thôn vàng nắng, nói đến mùa xuân mà lại muốn trở về với mùa thu trước để nhặt lá vàng chắn bước nẻo xuân sang. Bích Khê hiếm khi tỉnh mộng để nhận ra nàng lai khách vẫn buồn mơ ở Thu xà đã tàn tạ cho đến tận bây giờ chẳng thấy một ai. Chỉ còn làm nô lệ với lõa thể nữ thần đêm mùa xuân thuần túy và tượng trưng không có thật ngoài đời. Quách Tấn nhuốm màu cổ điển buồn thương hoài cổ khi thuyền con chở nguyệt đến cô thôn, người xưa biệt mù tăm nơi bến xũ, cảm thương hoài chiếc lá bay theo gió mà chẳng thấy con người. Thế là Bích Khê chỉ ôm trong mộng nữ thần xuân thuần túy tượng trưng. Chế Lan Viên cùng vua Chiêm say đắm thịt da ngà từ chối không gặp mùa xuân nữa. Quách Tấn hoài vọng người xưa không hiện bóng. Chỉ mùa xuân của Hàn Mặc Tử có thật qua dung mạo con người. Với Hàn Mặc Tử, cô gái quê là sự hiện hình của mùa xuân trẻ trung, sinh lực.

Xuân trẻ, xuân non, xuân lịch sự

Tôi đều nhận thấy trên môi em.

Gái quê chín ửng như mùa xuân mới.

Xuân em hơ hớ như đào non

Chàng đã thương thương muốn kết hôn

Từ ấy xuân em càng chín ửng

Ngày ngày giặt lụa bến sông con.

Xuân đang độ chín mà thi sỹ Hàn Mặc Tử có lẽ nhìn từ thế giới siêu hình của mình lúc nào cũng nhận ra cái vô thường trong đó về sự lỡ làng của duyên phận với tên gọi mất duyên hay là duyên muộn. Tập Gái quê là bản song tấu về mùa xuân và người con gái làng quê. Hễ cái gì của mùa xuân chợt hiện, Hàn Mặc Tử liền gửi tâm hồn của người con gái ấy với những yêu thương đằm thắm của thi nhân vào bóng dáng mùa xuân.

Một lần nắng tươi chợt đến:

Lá Xuân sột soạt trong làn nắng

Ta ngỡ em ơi vạt áo hường

Thứ áo ngày xuân em mới mặc

Lòng ta rộn rã nỗi yêu thương.

Một nỗi nhớ nhung đượm phần lo lắng khi ngày ra đi không có gió ngoài song cửa, hoa đào chẳng có mùi hương sao vẳng được lòng người?

Từ ấy anh ra đi

Ngoài song không gió thoảng

Hoa đào vẳng mùi hương

Lòng em Xuân hờ hững.

Tập Gái quê có hai bài thơ 5 chữ nhịp điệu và âm hưởng nhẹ nhàng như cùng trang trải nỗi buồn đê mê của không gian sống người nữ ở làng quê – Tình quê Lòng quê. Tình quê miêu tả chiều quê ngàn lau không tiếng nói, trời thu bàng bạc khắp núi đồi, có một người vì nỗi buồn duyên phận nên ngày xuân hờ hững cố quên đi tình phu thê khi lòng xuân đã não nề. Lòng quê kể chuyện một nhà cách mạng bị giặc bắt, một đêm gió lạnh thổi, viên cai ngục đưa cho phong thư của người tình ở quê nhà gửi vào. Hàn Mặc Tử nhân danh nhà cách mạng ấy để viết bài thơ này nhắn nhủ gái quê rằng hồn anh về thôn quê, theo em trong giấc ngủ.

Điều kỳ lạ nhất là bài thơ hay nhất viết cho mùa xuân của Hàn Mặc Tử và có lẽ của cả phong trào Thơ mới lại nằm trong tập thơ Đau Thương – bài Mùa Xuân chín. Đó là bức tranh tuyệt vời về mùa xuân đang độ rực rỡ nhất ở làng quê. Hoa lá cỏ cây đều bừng sáng. Nhưng có cái gì thoảng qua của sự không bền vững của thân phận con người. Cô gái quê không còn hát nữa để rời bỏ cuộc chơi giữa lúc mùa xuân đang độ chín khi làn nắng ửng khói mơ tan và gió vô tình sột soạt như không hay biết.

Sóng cỏ xanh tươi rợn tới trời

Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi.

Tiếng hát của họ vắt vẻo lưng chừng núi tưởng xa xôi mà hổn hển tiếng người, tiếng của ai đang thầm thĩ ngồi dưới trúc. Mùa xuân chín cả thảy có 16 câu thì có tới 12 câu đầu tả mùa xuân và thôn nữ trong khung cảnh nơi làng quê với mái tranh, giàn thiên lý và tiếng hát của những cô gái chưa chồng. Những cũng có thể hiểu đấy là cảnh của ngày xưa, bởi vì có một người khách xa xuất hiện, bâng khuâng nhớ đến người năm cũ đã ca hát thuở nào khi quê hương đang độ chín mùa xuân. Một hình ảnh đẹp mà tươi sáng lạ lùng của thi ca lãng mạn 1930- 1945.

Khách xa gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang.

Đó là bức tranh đẹp tuyệt với của nghìn năm làng quê Việt Nam. Hàn Mặc Tử vốn là một người siêu thực đã đi đến gặp người gánh thóc của mọi thời đại giữa mùa xuân chang chang nắng chín.

Sau Đau Thương, tập thơ Xuân như ý như muốn nhìn nhận lại vẻ đẹp của mùa xuân đầu tiên, của phút đầu tiên xiêm áo mùa xuân xuất hiện. Mùa xuân đầu tiên ấy như người thiếu nữ thi sỹ được biết đến khi trời đất nổi lên muôn điệu nhạc để xuân bước ra đời cất tiếng gọi thật thiết tha.

Chàng ơi! Chàng ơi! Sự lạ đêm qua

Mùa xuân tới mà không ai biết cả.

Hàn Mặc Tử gọi là Xuân gấm đầu tiên giữa cõi đời. Càn khôn như vừa được vực dậy. Ở đây đôi lòng cũng ấm như xuân ấm, để người thơ phong vận như thơ. Mùa xuân đầu tiên giúp Hàn Mặc Tử thoát khỏi bể siêu thực tìm về với truyền thống thi ca cổ điển Việt Nam. Cung oán ngâm khúc. Chinh phụ ngâm. Bài thơ Nhớ thương của Tử là câu chuyện gắn với người cung nữ bất hạnh bao thế kỷ trước dồn làm một của mùa xuân cung nữ trong lãnh cung. Xuân thơm bối rối ngọt vô cùng lại chịu cảnh thánh thượng vô tâm.

Ngoài kia xuân đã thắm duyên chưa

Trời ở trong đây chẳng có mùa

Không có niềm trăng và ý nhạc

Có người cung nữ nhớ thương vua.

Cùng trong cảm hứng ấy là bí mật của Cô gái đồng trinh khi xác cô thơm quá thơm hơn ngọc, như cả mùa xuân đã hiện hình. Chỉ đến lúc hồn phách thi nhân nhập vào xác thơm mới ngỡ ra điều kỳ diệu rằng người ấy sắp sửa yêu chàng chỉ chực mùa xuân về, để thổ lộ ra. Lại một đứt đoạn của giấc mơ xuân.

Thượng thanh khí là tập thơ được viết khi bệnh tình đã dày vò Tử khủng khiếp. Cũng như tập Cẩm châu duyên viết ra bởi một tình yêu giả tưởng với cô bé Thương Thương 16 tuổi, cháu gọi Trần Thanh Địch bằng chú mà Địch vì thương bạn đã bày ra như một gái quê có thực để Tử lúc đầu chẳng hề hay biết. Chàng vẫn tiếp tục giấc mơ xuân lúc này đã đời thường biết mấy. Đời thường đến mức thơ cũng đời thường. Rằng chàng muốn cưới xuân, cưới vợ khi mùa xuân cứ đi vô đi ra bao nhiêu lần và pháo nhân duyên nở đã hơi nhiều. Thi nhân muốn cầu hôn không cần chi bay bướm, lời thơ phàm tục tưởng như quên mất chàng là một thi nhân.

Người ta cưới cả xuân cả vợ

Nên ân tình nổi máu trên môi

Còn em sao chưa biết hổ ngươi

Để mai mốt anh đi lễ hỏi

Liền sau lễ cầu hôn là giấc mơ Trường Thọ. Thật nhân bản nhưng cũng thật xót xa vì chẳng bao giờ có được. Bởi thế có lần duy nhất đường trăng siêu thực trùng với đường xuân cho ấm áp hơi người.

Nên đường trăng sáng láng tự bao giờ

Ta sống mãi với muôn xuân đầm ấm

Tháng 10 năm 2008, tôi trở lại Quy Nhơn thăm bãi biển sóng thẫm chiều hôm Quy Hòa như ở nơi nước chúa. Rồi về ghềnh Ráng viếng mộ Tử. Ai đó gửi tôi Mùa xuân chín viết bằng bút lửa trên mặt gỗ xà nu – để ghi nhận thi sỹ trên đường xuân trở về với con người. Chiều miền Trung buông dần chiếc khăn voan màu ngọc bích phần phật gió biển trên trời Quy Nhơn. Bài thơ Mùa xuân chín giờ vẫn treo trước cửa thư phòng của tôi ở Hà Nội như lưu giữ lại một thông điệp thiêng liêng của Hàn Mặc Tử viết trong cơn đau đớn khủng khiếp vẫn tin yêu ở con người. Đó phải chăng là một khía cạnh của hệ giá trị của người Việt Nam ở sự nhẫn nại, sức chịu đựng phi thường để truyền cảm hứng yêu thương. Triết lý đường xuân của Hàn Mặc Tử đã vượt qua nét tư duy triết học tầm thường rằng cái gì sung mãn đã ẩn chứa sự lụi tàn để ca vang đức tin dù xuân em chín từ năm ngoái nhưng mùa xuân vẫn chín tràn đầy sinh lực và khát vọng mùa xuân.

Mùa xuân 2022

Nguồn: báo Văn nghệ số Tết năm Nhâm Dần 2022

Với 60 đầu sách và 14 tập thơ, lúc sinh thời Bùi Giáng (1926-1998) trong xiêm áo thảm thương của người hành khất bước vào thi ca mà làm nên chuyện phụng hiến cho đời. Không phải một lần tự nhận trước là thi sĩ sau là đười ươi và ngạo mạn gọi Nguyễn Du là con ngỗng trời. Hơn thế nữa, người đời đã không tiếc lời ban tặng nhiều danh hiệu cho ông. Một trong những thi sĩ kỳ dị nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Bùi Giáng nguồn Xuân.

Người thi sĩ chối bỏ thi ca. Hồn thơ bị vây khốn. Bùi Giáng cuộc hòa giải vô tận. Người lữ khách cuồng điên và khôn cùng kỷ niệm. Hiện tượng Bùi Giáng. Trường phái Bùi Giáng. Bùi Giáng rong chơi phố thị. Nhà thơ của ngày tháng ngao du. Một nhà thơ độc đáo. Phóng túng hình hài ngang tàng tính cách. Thiên tài hủy diệt v.v… Tưởng như còn chưa dứt. Nhưng có lẽ, người ta tốn nhiều giấy mực hơn cả khi bảo rằng ông là một nhà thơ điên. Người điên và thơ điên như chính lời ông nhận. Chữ điên chưa ai đếm rõ xuất hiện bao nhiêu lần trong thơ ông. Đặc biệt giai đoạn từ 1969-1970 trở đi. Vừa điên dại vừa thê lương. Vừa vui trời đất vừa buồn nắng mưa. Điên với Bùi Giáng là sự tĩnh tâm giản đơn và thường nhật của đời người. Nắng trưa, nắng xế đầy trời, bóng cây râm mát cho đời ta điên. Bùi Giáng điên thật sự khi nhắn gửi Cô Kim Cương ơi! bằng lời tỏ tình tội nghiệp rằng khi thi sĩ chết đi, nếu không rỏ được giọt lệ thì cũng rỏ một giọt... nước tiểu lên chính mộ cho ông để ngậm cười nơi chín suối vẫn còn thấy thơm lây? Nhưng điên không phải cái làm nên thi sỹ Bùi Giáng mà hơn nữa cũng không phải là điều gì mới mẻ trong thơ. Trước Bùi Giáng đến hơn ba chục năm, Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đã điên một cách cao ngạo và sang trọng rồi. Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Chế Lan Viên thêm: Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là người. Nó là người điên. Hàn Mặc Tử có cả một tập Thơ điên. Còn gọi là Đau thương. Nhưng chưa bao giờ hai người ấy điên thật như Bùi Giáng cả. Hàn Mặc Tử viết 2 bài thơ Anh điên, Em điên nhưng rất tỉnh khi kể rõ ngọn ngành chuyện đường tơ đã đứt mà không đứt được. Tập Thơ điên lại có những bài thơ trong sáng nhất của Tử. Mùa xuân chín. Đây thôn Vĩ Dạ... Chế Lan Viên chỉ để một lần Trăng diên mà thôi và thốt ra một câu thật tỉnh: Mảnh trăng cũng điên rồi em ạ.

Bởi thế cái để lại cho đời của Bùi Giáng không phải người điên, thơ điên mà ở chỗ sự xuất hiện của ông vào năm 1962 ở Sài Gòn, khi tập thơ đầu tiên của ông - tập Mưa nguồn được xuất bản như là sự tiếp nối đầy sức sống của chủ nghĩa lãng mạn trong phong trào thơ Mới 1930-1945, làm nên một phong cách thơ trữ tình, lãng mạn với nhiều vần thơ hay và tạo nên căn cốt thơ Bùi Giáng. Sự tiếp nối ấy là minh chứng cho sức sống của thi ca Việt Nam như là một dòng chảy liên tục của thơ, bất chấp những ghềnh thác đổi thay của xã hội và lịch sử mỗi thân phận con người. Nét chủ đạo của phong cách Bùi Giáng ở phương diện này là cảm thức giao hòa giữa thời gian, thiên nhiên và tình người trong những vần thơ đẹp nhất, trữ tình, lãng mạn và tinh tế giữa tiếng reo vang của trần gian chiều bên lá lung lay vàng cửa khép.

Đó là bức chân dung người con gái ở trên rừng giữa một buổi trưa đầy gió ngẫu nhiên của lúc sang mùa tao ngộ.

Em ở trong rừng một buổi trưa

Ngẫu nhiên tao ngộ gió sang mùa

Hai bờ lãnh địa đau lòng gọi

Sầu suốt giang san vọng tiếng thừa.

Đó chỉ là tà áo xanh thôi mà ẩn chứa cuộc bể dâu trời đất còn chưa nguôi giấc mộng buổi ban đầu.

Biển dâu sực tỉnh giang hà

Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.

Đó là dòng sông thời gian đi về bến đợi ngu ngơ mây khói chung niềm cảm hứng bơ vơ với phận con người.

Mây đứng lại chân trời phủ khói

Dòng sông đi bến đợi ngu ngơ

Trời chiều đẹp tâm tình em không nói

Đất với trời chung nghĩa bơ vơ.

Đó là buổi trưa tìm về nơi sách cũ. Cuốn cổ lục vốn không còn thơm nữa ở bên đèn đêm trước để nay sáng sớm hay chiều buông liễu rủ mà chẳng hề biết lạ hay quen, như thấp thoáng một bóng người ở đó.

Về cổ lục cũ rồi câu chuyện cũ

Và cảo thơm không mới nữa bên đèn

Và sương sớm hay chiếu buông liễu rủ

Biết thế nào mà nói lạ hay quen.

Đó là một Bùi Giáng chẳng bao giờ điên khi cảm thức đầy nhân hậu và đau đáu về một trần gian thi sĩ đang chung sống mà có lần ông gọi to lên: Trần gian hỡi tôi đã về đây sống, tôi đã tìm đâu ý nghĩa của trần gian. Cũng có lúc tuyệt vọng phải rời xa nó: Tôi bỏ trần gian năm tháng lạ, khóc rất nhiều em ạ, em ơi. Nhưng cao hơn tất cả, điệp khúc trần gian được nhắc đi nhắc lại như sự hài hòa giữa thiên nhiên, thời gian và thân phận con người.

Nước ở trần gian thương nhớ gió

Nằm sông buồn ngủ nhớ không lời

Tiếng nhỏ ngậm ngùi nhà em rộng

Đi bốn phương trời chỉ gặp mây.

Dù biết chắc ngày sẽ hết nhà thơ không ở lại và sẽ đi mà chưa biết đi đâu, vẫn tiếc thương trần gian mãi mãi vì ở nơi đây người sống đủ vui buồn. Cái cuối cùng còn lại Bùi Giáng muốn mách bảo con người trong sự xoay vần của thiên nhiên và thời gian chỉ còn hai điều quan yếu nhất. Đó là mùa xuân chan hòa cả quá khứ, hiện tại và tương lai.

Xin chào nhau giữa con đường

Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.

Bùi Giáng thường hình dung chiều dài vô tận của mùa xuân lúc thì nước chảy mãi bởi vì xuân trở lại khi thì dòng bất tuyệt xanh ngần xuân thơ dại. Mùa xuân ấy rộng dài đến mức siêu hình Ngàn xuân rộng vô ngần trong bóng nguyệt. Không hiểu vài thế kỷ sau người em gái nhìn trăng có còn thấy nguyên màu xuân ấy hay không, làm cho mùa xuân hữu hình mà lại vô hình trong vòng tay đẹp thơ dại của cành xuân. Mùa xuân ấy được làm nên bởi tình thương và lòng vị tha của con người với con người giữa bao nhiêu thử thách.

Bỏ trăng gió lại cho đời

Bỏ ngang ngửa sóng, giữa lời hẹn hoa

… Bây giờ riêng đối diện tôi

Còn hai con mắt khóc người một con.

Không thi sĩ nào đau đáu chữ trần gian như Bùi Giáng. Nhưng Bùi Giáng lại lánh xa thế sự. Thơ ông nhập cuộc lúc Việt Nam đang ngập chìm khói lửa chiến tranh. Vậy mà trong Bùi Giáng - Đười ươi chân kinh - NXB Hội nhà văn in 2011 với 245 bài thơ, 88 câu lục bát lẻ và nhiều tiểu luận, chỉ một lần Bùi Giáng dùng từ chiến tranh và một lần bôm (bom). Khuynh hướng chung của không ít nhà thơ miền Nam thời kỳ 1954-1975 nghiêng về bày tỏ thân phận con người. Khác với khuynh hướng sử thi gắn Thơ với cuộc chiến đấu giành độc lập dân tộc và phẩm chất anh hùng của người Việt Nam trong thi ca miền Bắc. Giờ đây, thi ca Việt Nam như là một chỉnh thể thống nhất đã hợp lưu hai dòng chảy ấy để tiếp tục câu chuyện sử thi hùng tráng của đất nước với khát vọng và niềm trắc ẩn của thân phận con người, làm nên diện mạo mới của thi ca hiện đại trước thách thức và cơ hội của thời cuộc trên nền tảng của chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân văn.

Nhân vật thường gặp trong thi ca lãng mạn Bùi Giáng là người mà ông gọi ngắn gọn là gái - nghe lúc đầu thấy không quen tai và trang trọng gì nhưng thật ra là những điều từ gan ruột của ông.

Hồng nhan không lệ mà hai mắt sầu

Chở lang thang nối chân cầu

Rẽ chia ngàn nước tại màu gái tơ.

Đôi khi là những tên gọi mơ hồ. Dòng thiên thu rộng là em bây giờ. Lại có lúc mang đậm màu lụy tục Trời ơi có nhớ hẻm nhà hồng nhan. Có lúc lại trọng vọng quá đáng gái Quảng Nam đội lên trên ông trời. Không có ai như Bùi Giáng công khai mê mẩn với những thiên hương quốc sắc Nam Phương Hoàng hậu, Marilyn Monroe, Bricitte... và dành 7 bài thơ gọi cô Phùng Khánh là mẫu thân. Họ ngang hàng với những người bình dân khác mà ông gọi là Nàng ve chai, Nàng tiên lao động, Em mọi... Ít ai kỳ dị như Bùi Giáng khi nói chuyện tình cảm với nửa bên kia của loài người. Ở đây, lẫn trong bao nhiêu câu thơ ngu ngơ, quê mùa, dân dã... bỗng sáng lên vần thơ đẹp rỡ ràng. Bùi Giáng gửi phận làm thi sĩ với thôn nữ Vĩnh Trinh.

Làm thơ như ngỗng lạc bầy

Bay cô đơn gió một ngày cuối thu.

Trong bài thơ dài Trang phượng vĩ, Bùi Giáng mô tả người con gái Việt ở miền lục tỉnh u sầu hay đang ngủ giấc buồn hải ngoại. Buổi xuân xanh hớt hải về thăm cho mùa thu mộng triền miên bởi vẻ đẹp chải chuốt như tóc người của thời gian.

Em có thấy thời gian đi óng ả

Suốt càn khôn châu thổ nguyệt sương đồng.

Nhiều lúc theo bóng mây chiều như không thể tìm thấy ai là người tri kỷ ở thế giới siêu thực này.

Buông xuôi nửa tiếng thở dài

Những ai hình nhạt những ai bóng nhòa.

Trong lúc nhiều thi sĩ miền Nam 1954-1975 mà điển hình là Thanh Tâm Tuyền đi tìm một hướng mới hiện đại cho thơ dưới sự dẫn đường của chủ nghĩa hiện sinh; Cũng có nhà văn coi thơ Bùi Giáng hiện sinh trong đoạn trường và định mệnh. Thân phận dâu bể của con người, nỗi hoài nghi về số kiếp, ta từ đâu lại? ta là ai? Những trầm luân, biến đổi làm sao đo, đếm, đặt tên được? Đến bản thân ta, ta còn không biết nữa là…nếu hiện sinh của J.Sartre bác bỏ định mệnh thì ở Bùi Giáng định mệnh và hiện sinh giao hưởng với nhau1. Nhưng cần lưu ý một điều tưởng như mâu thuẫn là Bùi Giáng sống cuộc đời hiện sinh hơn ai hết với sự tự hủy diệt và hành xác ghê gớm thì trong thơ dường như lại chọn cho mình một hướng đi ngược lại. Tưởng Bùi Giáng chìm đắm vào chủ nghĩa hiện sinh lúc viết bài thơ Hư vô và Vĩnh viễn, thì tiếng gọi của chủ nghĩa lãng mạn đã kéo ông trở về.. Bờ bến cũng ngậm ngùi sông nước dạo, Đêm tàn canh khắc vợi nguyệt sương ngàn. Ông là một học giả biên dịch những công trình tư tưởng, triết học Đông Tây và không lạ gì với triết học hiện sinh. Bùi Giáng bày tỏ: Có lẽ muốn diễn tả một bài thơ, người ta chỉ có thể phát động một trận mưa rào hoặc một cơn gió thu. Ông đề cao quan niệm về thơ cốt ở tự nhiên, hồn nhiên. Các ngươi hãy gột rửa bớt thói học đòi bác học đi. Các ngươi hãy mù lòa đi và các ngươi sẽ không còn tội lỗi. Và lấy Xuân Diệu làm ví dụ: Y trẻ dại, y lăng nhăng. Y nói tới nỗi đời rồi y xóa đa đoan dâu biển. Y hồn nhiên rũ áo nắm lấy cung cầm đánh lên tiếng hát giữa mùa xuân2 Bùi Giáng chọn con đường bình dân, lãng mạn và mơ hồ một cách hồn nhiên, đặc biệt sử dụng triệt để thể thơ lục bát truyền thống được ông coi là hoằng viễn kỳ ảo nhất bốn biển năm châu làm phương thức biểu đạt đầy ngẫu hứng cho thi ca. Tuy nhiên, Bùi Giáng đôi khi dễ dàng quá khiến không ít câu thơ sơ lược, giản đơn, thậm chí đôi khi buông tuồng dễ dãi. Lại có lúc khó hiểu nữa. Thủ thuật ngôn ngữ nói lái khiến người ta thấy ổng muốn làm em của nữ sỹ Hồ Xuân Hương. Tuy vậy do lặp đi lặp lại lối nói lái này, đặc biệt liên quan đến bộ phận sinh đẻ của loài người khiến phong nhụy thơ đôi phần nhàm chán. Có bài nhằm vào cái đó tới 5, 7 lần làm cho không còn ý vị thơ như Hoàng hậu, Đố nọ kia v.v..

Bởi là một thi sĩ, đoản văn và nghị luận của Bùi Giáng phong lưu, tinh tế mà giàu chất thơ. Có lẽ nhành cây của Bùi Giáng hay hơn là cụm hoa của Phạm Duy trong khi hai người cùng dịch câu sau đây của Apollinair: Ta đã hái nhành cây thạch thảo, em nhớ cho mùa thu đã chết rồi. Nhà thơ Huy Tường không phải là một trường hợp đặc biệt nhưng Bùi Giáng chọn được tứ thơ của ông ấy liên quan đến sư nữ trong chùa mà tôi thấy một số nhà thơ trẻ đương đại đã vận dụng để làm sống lại một chút mơ màng nơi cửa Phật.

Giọng chuông rơi thấm cỏ vàng

Nghe kìa sư nữ vừa choàng áo tu

Tôi nằm ấp lá đêm thu

Mai sau nở trái sa mù pháp không.

Từ cảm thụ tinh tế đó, ít ai trong hội làm thơ thế kỷ 20 lại tự hào về thi ca Việt Nam và nhiệt thành cổ vũ như Bùi Giáng. Nguyên Sa được cho là có một sức quyến rũ khác hẳn mọi lối thơ xưa nay. Thơ Thơ của Xuân Diệu dường như toàn thể tuổi xuân bỗng sống dậy kêu gào. Câu thơ của Hồ Dzếnh như thể mang toàn khối Như lai trong mấy trăm bộ kinh Phật. Áo nâu phai nhạt màu cây cỏ, lá rụng hoa rơi đất nước chàm. Mê hồn ca của Đinh Hùng là nguồn thơ lạ nhất trong Thi nhân Việt Nam. Thiên tài Hoài Thanh viết Thi nhân Việt Nam có những lời bất hủ. Thơ Hàn Mặc Tử là tiếng thét đầy máu, tiếng than tràn ngập hư vô. Huy Cận là cõi huyền bí nhất của tinh thể phương Đông v.v. Đôi khi Bùi Giáng có quá lời cũng đáng để cho ta suy nghĩ về vị thế của văn học Việt Nam trong nền văn học thế giới. Bùi Giáng viết: Thơ Xuân Diệu thường có chất bát ngát hồn nhiên. Tây phương Đông phương cổ kim không có một nguồn thơ nào sánh kịp. Có người nói nước Nga sẽ không còn nguyên nghĩa nữa nếu thiếu nền văn học Nga. Người Việt Nam có thể nói được điều đó chưa và khi nào nói được? Bùi Giáng dù có lúc quá lời, nhưng đó là điều cần thiết và là ước vọng của người cầm bút.

Trong thiên tiểu luận Ngày thật điên Bùi Giáng đã làm khó và giao trách nhiệm cho hậu thế bằng những lời cay đắng sau đây Tôi xin vĩnh viễn gào thét thật to rằng tôi xin im lặng mãi mãi. Người nào đọc thơ tôi, nảy sinh cái ý gì, người đó hoàn toàn chịu trách nhiệm về cái ý nảy ra trong đầu họ hoặc nảy ra trong tứ chi họ .v.v. Tôi là thằng chăn trâu, tôi ăn nói theo ngôn ngữ chăn trâu. Kẻ nào muốn nhảy vào cuộc đối thoại với tôi, kẻ đó phải học tập làm chăn trâu trước đã. Đúng là Bùi Giáng đã im lặng mãi mãi kể từ năm 1998 khi với khăn áo lòe xòe của một kẻ hành khất không cửa không nhà để rời khỏi thế giới này. Những điều tôi viết ra trong bài này có thể từ đầu tôi và có thể từ tứ chi nữa; bởi vì có những dòng thơ đầy cát bụi của ông tôi như sờ thấy được. Và bởi vì tôi trân trọng một người đã dám làm thi sĩ để ca ngợi vẻ đẹp của con người giữa khi ông rách rưới, rét mướt và hành khất trên những nẻo đường ồn ào phố thị ở Sài Gòn hay ở những lối đi đầy nắng gió miền lục tỉnh. Không hiểu tôi đã đáp ứng đủ yêu cầu của ông hay chưa theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng rằng tôi đã là trẻ chăn trâu nghèo túng và thơ dại ở xứ Đoài suốt buổi thiếu thời gian khổ. Xin chịu trách nhiệm trước ông. Tiếng thơ Bùi Giáng là tiếng hát nghẹn ngào mà tha thiết lẫn trong tiếng cười bối rối mà mê hoặc của mùa xuân không tuổi, của Chào Xuân Nguyên từ thuở Mưa nguồn. Cả đời người thi sỹ ấy đi góp nhặt phôi pha để dựng mùa bến nước giao hòa Màu con mắt bên màu xuân siêu đổ. Quá trình đó là hiện sinh quá khứ hiện tại và tương lai của xứ sở này như ông từng mong ước: Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.

______

1. Bùi Giáng trong cõi người ta – NXB Lao Động – 2008, Tr.496, 497, 498

2. Bùi Giáng – Đười ươi chân kinh – NXB Hội nhà văn – 2012, Tr.346, 347

Nguồn Văn nghệ số 25+26/2022

Phải có một động cơ cao cả thúc đẩy người lính. Động cơ này là tình cảm bẽn lẽn, ít biểu lộ của người Nga. Nhưng nằm sâu trong đáy bản tính mỗi người. Đó là lòng yêu nước

N. LEV TOLSTOY

Một ngày nọ, khi thời gian đã rong rêu trên muôn dặm nẻo đường chiến tranh của thế kỷ 20. Bỗng đâu tôi đọc được những đoạn văn trang nghiêm mà trầm mặc phủ lên sự ngầu tươi máu lửa và dồn nén nghẹn ngào cảm xúc của người lính trận.

Năm 1972. Một trung đoàn đánh vào thị trấn Kontum nhưng bắt buộc phải rút lui ... dưới trời mưa tháng 7 tầm tã. B52 dội liên tục xuống vị trí đứng chân. Trung đoàn trưởng bị thương. Hao hụt mất già nửa quân số... Hầu hết vũ khí phải chôn giấu lại. Thương binh khiêng lẫn trong đội hình hành quân. Cứ 3 người đảm nhiệm một cáng. 222.

Những năm tháng cơ cực, khắc nghiệt nhất của chiến trường Quảng Đà. Nhiều lần hành quân trong rừng, gặp những chiếc võng mắc im lìm trên đường. Lại gần mở bọc võng ra nhìn, người nằm trong võng đã chết khô, đen sạm lại. Dưới đất là những chiếc ba lô lép xẹp, ghi rõ địa chỉ những thôn xã miền Bắc. Những người chiến sỹ này phần đông chết vì đói, vì đi lạc hoặc gặp một cơn sốt rét ác tính bất chợt. 77.

Một trận đánh vùng Bình Định, Phú Yên, Phan Rang tháng 3-1975.

Ở đường hào, mấy chiến sỹ đang đỡ một thương binh lên cáng. Anh bị vào sọ não. Máu chảy ra ướt đẫm lưng áo đông đặc lại. Anh thở khò khè. Một chiếc bong bóng đỏ ngầu cứ phồng lên xẹp xuống theo nhịp thở trên mũi... Đường hào chật chội xác ngụy. Một thằng trở mình rên lên khe khẽ. Máu vẫn đổ ra chầm chậm trên mặt nó. 185.

Một đoạn hồi ức. Cuộc gặp mặt giữa hai anh em trong ngôi nhà xưa vốn là nơi đã sinh ra họ. Người anh. Sỹ quan pháo binh. Theo cha ra Bắc tập kết trở về. Người em ở lại miền Nam với mẹ. Sỹ quan pháo binh của Việt Nam Cộng hòa.

Nhớ lại ngày xưa vườn nhà mọc chen chúc những thân dừa cao và thẳng. Đêm đêm những trái dừa khô thỉnh thoảng lại rơi xuống mặt vườn làm hai anh em choàng tỉnh dậy trong ánh sáng mờ ảo của ngọn đèn dầu đặt trên bàn thờ.... Mùa hè 1972 người anh trở về gặp lại người em trong đêm ở chính căn nhà ấy. Nó xô ghế đứng dậy, rút súng với một vẻ hăm dọa. Mũi súng không rời ngực anh. “Ông có con đường của ông. Tôi có đường của tôi. Ông đi ngay khỏi đây, nếu không tôi sẽ kêu dân vệ tới”. 82-83.

Một nữ du kích giải phóng bị bắt.

Cai ngục ra lệnh hai thằng lính xông tới túm lấy cẳng chân chị dốc ngược. Chị nghẹt thở giẫy đạp quằn quại... Trên đầu chị là tấm lưới sắt... Lính gác đi lại trên đó. Thỉnh thoảng lấy chân tạt đống vôi bột xuống, chị ho sùng sục. Nước mắt, nước mũi và bọt mép sùi ra. 213-214.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân

Người viết những đoạn văn trên đây đã nghiền ngẫm vào ngay năm 1975, khi chiến cuộc lâu dài và ác liệt vừa kết thúc, ngay trước cửa của ngôi nhà hòa bình bị tàn phá hoang tàn. Người ấy là một người lính - Đại tá, nhà văn quân đội Nguyễn Trí Huân, người đi khắp nẻo đường 10 năm chiến tranh ở Bắc, Trung, Nam và trên bán đảo Đông Dương cũng như trên bao nhiêu nhọc nhằn của trường văn trận bút. Bây giờ ông nghỉ hưu làm một người thường lặng lẽ. Có thời giờ trông đứa cháu nội bé bỏng tập lật trên giường khi chưa ngóc đầu dậy được cho đến lúc bấu vào thành giường đi những bước đầu tiên. Trong một con ngõ hẹp đường Lý Nam Đế. Hà Nội. Giữa mùa dịch giã bao vây. Con ngõ dài chừng 200m muốn đi trở ra phải quay trở lại ấy nắng mưa có tới 3 người lính làm nên văn nghiệp. Tất cả họ đã đi hàng vạn km trường chinh để về được đến đây. Mặt tiền của ngõ gia binh chen chúc này nhìn ra đường tàu hỏa năm 1926 đã từ Nam ra đất cố đô đến bây giờ ngày đêm vật vã nhắc nhở rằng cuộc đời này vẫn còn xuôi ngược biết mấy gian nan. Tiếng súng của những cuộc chiến tranh tưởng lùi vào dĩ vãng mà vẫn khoét vào vách nhớ của ký ức con người. Mỗi một số phận người lính trên đất nước nhỏ bé này để về được cái ngõ gia binh xoàng xĩnh ấy phải trải qua bao nhiêu thử thách. Cuốn sách viết bằng ba thứ tiếng Anh, Pháp, Việt có tiêu đề The War 1858 - 1975 in Vietnam nhìn toàn cảnh về cuộc chiến giành và giữ nền độc lập của dân tộc ta trong thế kỷ hiện đại ác liệt và đau thương như thế nào để đến ngày chiến thắng. Thông điệp của dân tộc ấy khảng khái nói với nhân loại điều gì về phẩm giá của người Việt Nam sau những năm dài chiến trận? Hồi kỳ Nhìn lại quá khứ của R. MacNamara kể về trận giao chiến giáp lá cà đầu tiên ngày 14 đến 19/11/1965 ở thung lũng Iđrăng B3. giữa 2 trung đoàn chủ lực với những sư đoàn thiện chiến nhất của Mỹ. Một trận đánh dữ dội giữa vùng cỏ voi và những ụ kiến cao bằng đầu người... 300 lính Mỹ đã bị giết... Quân Bắc Việt Nam đã lựa chọn địa điểm, thời gian và thời lượng tham chiến… suốt cuộc chiến tranh. Có một cái nhìn khác viên Bộ trưởng chiến tranh Mỹ. Tiểu thuyết của một nhà văn Việt Nam mô tả trận đánh ở B3. Các đại đội của ta tan tác. Không lính không quan gì nữa rùng rùng lao chạy... Trên đầu trực thăng Mỹ rà rạp các ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy những người lính Việt Nam mà bắn... Máu tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét... Tiểu đoàn trưởng (Việt Nam) gào to, như điên, mặt tái dại: thà chết, không hàng... rồi rút súng lục tự đọp vào đầu... Mưa ập xuống. Bãi chiến trường ngập nước lềnh bềnh xác người sấp ngửa .v.v...

Cùng một cuộc chiến tranh, có hai cách nhìn thật khác nhau. Cho dù trận đánh ấy của nhà văn là 100% sự thật, thậm chí còn cay đắng hơn nữa, nhưng tôi băn khoăn liệu có phải là tiêu biểu cho người lính Việt Nam ở cuộc chiến mà họ là chính nghĩa hay không? Lương tri người Mỹ nghĩ gì? Liệu họ có hả hê chăng khi binh lính của họ như bầy thú săn người man rợ? Phải chăng nhà văn muốn gửi thông điệp đó tới Bộ trưởng chiến tranh Hoa Kỳ và vạch trần tính man rợ của cuộc chiến?

Bởi thế, khi đọc những dòng trích dẫn trong Năm 1975 họ đã sống như thế Chim én bay, tôi nóng lòng muốn biết người lính nằm lại trên võng im lìm giữa núi rừng Trường Sơn năm ấy. Những người chôn súng lại rút lui khi già nửa quân số vùi trong bom đạn giặc. Những người lính trào máu trên chiến hào bề bộn xác giặc. Những người lính anh em ruột thịt đứng ở hai trận tuyến chia đôi ngay trên mái nhà của họ. Những người du kích bị giặc tra tấn hành hạ khủng khiếp, Họ sẽ kết thúc cuộc chiến tranh ấy như thế nào? Họ nghĩ gì? Ước vọng của họ ra sao? Khi đất nước rải thảm cỏ hòa bình trở lại trên mảnh đất đầy máu và nước mắt?

Có người nói: Thể loại tiểu thuyết như là xương sống của nền văn học. Kể từ năm 1960 trở đi trên văn đàn Việt Nam đã xuất hiện những bộ tiểu thuyết tầm vóc, tỏ rõ sự trưởng thành vượt bậc của văn xuôi kể từ đầu thế kỷ 20. Chưa bao giờ nguôi ngoai chủ đề chiến tranh và hình tượng người lính Việt Nam, nền tiểu thuyết hiện đại không bao giờ ca ngợi chiến tranh mà kiêu hãnh làm sáng tỏ những phẩm giá tuyệt vời của người lính thông qua thân phận và tâm trạng của số phận con người. Có hai khuynh hướng của tiến trình ấy. Tiểu thuyết như là khúc ca bi tráng và tình yêu tuyệt vời của họ. Dấu chân người lính, Mẫn và tôi v.v... là sách gối đầu giường cho nhiều thế hệ ra tiền tuyến. Một khuynh hướng khác xuất hiện muộn hơn, tái hiện những đau thương mất mát, sự tàn độc và man rợ của chiến tranh, những hậu quả đau lòng kéo dài sau khi chiến tranh kết thúc. Nỗi buồn chiến tranh. Bến không chồng.v.v.

Năm 1975 họ đã sống như thế (viết từ 1975 đến 1978, in năm 1979). Chim én bay (viết xong tháng 10-1987 in năm 1988), là hai bộ tiểu thuyết đáng kể hơn cả trong gia tài văn chương Nguyễn Trí Huân. Bằng hai tác phẩm này, ông đã được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Năm 2007. Chim én bay được Nhật Bản dịch ra tiếng Nhật. Điều đáng lưu ý cả hai tiểu thuyết thống nhất cách tiếp cận cuộc chiến tranh và chung một thông điệp rất nhân bản về số phận con người sau khi cuộc chiến kết thúc. Năm 1975 họ đã sống như thế được viết ngay năm 1975 khi cuộc chiến đã dừng mà tưởng như chưa nguội lửa, kịp thời lý giải suy tư và ước vọng của người lính vừa bước ra khỏi chiến trường. Tính hấp dẫn của tiểu thuyết và bản lĩnh của nhà văn trong tư tưởng và nghệ thuật  văn chương là ở đó.

Năm 1975 họ đã sống như thế kể về cuộc chiến đấu của một sư đoàn quân giải phóng ở hướng thứ yếu của chiến dịch từ chiến trường Bắc Bình Định qua Phú Yên, Phan Rang rồi đến Vũng Tàu, Côn Đảo. Tuyến phát triển của truyện chủ yếu theo chiều thời gian với diễn biến tâm trạng và số phận những nhân vật của tiểu đoàn bộ binh và tiểu đoàn pháo binh trong một trung đoàn. Nhìn vào tiêu đề tiểu  thuyết, có thể có ý nghĩ rằng thể tài phóng sự dễ bị các sự kiện lôi cuốn sẽ đưa chất tiểu thuyết lùi xuống hàng thứ 2. Nhưng Nguyễn Trí Huân đã tỏ ra một cây bút có bản lĩnh, làm chủ được tư duy nghệ thuật của ông khiến cho tiểu thuyết phóng sự này đã mở ra một không gian tiểu thuyết hấp dẫn mà chân thực qua tâm trạng và số phận của người lính trận ở cả hai phía. Họ ở đây bao gồm cả người lính giải phóng (đương nhiên là ở hướng chính diện và chủ yếu) cũng như người lính Việt Nam Cộng hòa. Bởi thế cho nên Năm 1975 họ đã sống như thế mở đầu bằng nhật ký của viên thiếu úy ngụy chết trận để lại với một sự trân trọng của những người hiệp sỹ với nhau. Nhật ký đó là của một người có học bị bắt đi lính, anh bộc lộ tâm trạng về sự phi lý và phi nghĩa của chiến tranh. Căm ghét sự giả dối, thối nát và tham nhũng... của các sỹ quan cao cấp. Thái độ của nhà văn trân trọng với người của phía bên kia đã ngã xuống. Cách mở đầu này cho thấy hướng tiếp cận cuộc chiến tranh với dụng ý của tư tưởng nghệ thuật. Vào thời điểm 1975, chưa xuất hiện những nhật ký chiến trường của Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc và nhiều người khác... là cách nhìn mới mẻ của Nguyễn Trí Huân đáng được ghi nhận.

Năm 1975 họ đã sống như thế trong một sư đoàn có tới 8, 9 cặp đôi của một gia đình. Người ở bên này; Người ở bên kia. Tiêu biểu cho cặp đôi nhân vật đó là hai anh em Phác và Phán mà chúng ta đã gặp ở phía trước. Họ gặp nhau tại căn nhà của mình trước khi bước vào những trận đánh sinh tử. Khi sư đoàn của Phác đuổi giặc từ Bình Định đến Vũng Tàu, bắt sống cả tướng hoàng tộc Nguyễn Vĩnh Nghi. Nhưng cứ sau mỗi trận đánh ác liệt, Phác vẫn thấp thỏm đi tìm liệu có xác người em của mình hay không? nó đang ở đâu trong khói lửa chiến tranh này? Nguyễn Trí Huân đã lý giải mong muốn sự đoàn viên xuất phát từ phía viên trung tá pháo binh khi đã leo lên tàu Mỹ trốn chạy, anh tự nguyện nhảy xuống biển bơi vào bờ. Cuộc gặp giữa hai người thật cảm động. Người em khô héo cúi xuống nói: Tôi không thích đi Mỹ. Tôi đã chán hết trơn trọi. Còn người anh thấy nhói lên một niềm thương không sao cắt nghĩa được. Rằng đất nước, nhà cửa, anh em sẽ vẫn là của nó. Sự đoàn viên của gia đình Việt Nam là không thể khác được. Ở một khía cạnh, khi người lính giải phóng trở về nhà. Mạc chính trị viên tiểu đoàn bộ binh. Người vợ trẻ đẹp của anh ở hậu phương ngoại tình có con với người khác; lý do mà Mạc từ đi B ngắn xin đi B dài. Ở đây, khi gần kết thúc tiểu thuyết, chúng ta lại có một nhật ký khác. Nhật ký của Mạc sau trận đánh cuối cùng khoảng ngày 26, 27/4/1975 đã hy sinh. Mạc bộc trực. Chưa hết lòng tin ở vợ. Rằng khi hòa bình sẽ đưa vợ về nông thôn hay một công trường xây dựng. Mạc viết. Mình là người lính, phải có trách nhiệm với lỗi lầm của người khác. Nhưng anh không kịp làm được nữa rồi. Một cuộc đoàn viên dang dở nhưng sáng ngời phẩm chất của người lính Việt Nam. Quả cảm, giàu lòng yêu thương và tha thứ. Hai người lính ở hai phía. Hai cuốn nhật ký để lại đều rất đáng được trân trọng. Năm 1975 họ đã sống như thế còn dự báo hoặc cho thấy sự đoàn viên của tình yêu lứa đôi giữa Thức chính ủy trung đoàn với Thư y tế trạm phẫu; giữa Thoại tham mưu trưởng tiểu đoàn pháo và Phúc, vốn là du kích bị cụt cả 2 chân vì tra tấn của địch, giữa Thiết, chiến sỹ giải phóng với người con gái lưu lạc bởi 20 năm chiến tranh của sư đoàn trưởng v.v... Bất chấp chiến tranh, người Việt Nam vẫn yêu thương tha thiết và tìm về sự đoàn viên hạnh phúc theo cách của mỗi người.

Năm 1988. Tiểu thuyết Chim én bay được xuất bản. Chim én bay kể về sự tích người nữ du kích anh hùng tên Quy ở Bình Định. Anh và chị ruột Quy bị tên giám Tuân hạ sát bằng cách đánh bộc phá làm sập hầm trên lưng chừng bờ giếng khơi và dùng xe GMC kéo lê xác rách nát trên đường. Cha bị giám Tuân đe dọa khủng bố cho đến chết. Nợ nước thù nhà, Quy tham gia đội chim én 3 lần đi xử tội tên Tuân. Lần thứ nhất Quy không nỡ bắn vì hắn ẵm đứa con trai nhỏ trên tay. Lần thứ 2 bắn bị thương. Lần thứ 3, một mình Quy vào thẳng căn cứ địch xử tử hắn. Chị bị bắt và bị đày đi nhiều nhà tù. Rồi chị được Mặt trận đưa ra Bắc chữa trị. Được đi nước ngoài học tập. Được bầu vào quốc hội. Được tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang. Người phụ nữ ấy nghĩ gì sau chiến tranh? Ngay ở 5 dòng đầu tiên của Chim én bay, Nguyễn Trí Huân đã bộc lộ một tư tưởng về không gian nghệ thuật rất nhân bản của ông là trao cho người du kích ấy cái ý định tìm lại nhà của những tên ác ôn xem vợ con họ sống ra sao để mà giúp đỡ họ. Người nữ du kích ấy không phải là kẻ tu hành đi ra từ mái chùa của Phật hay thánh đường của chúa Jesu. Chị đi ra từ cuộc chiến tranh ác liệt mà chị gánh nhiều hậu quả nhất. Quy đã mất chức năng làm mẹ và nhiều bệnh tật giày vò hành hạ. Tình yêu của Quy với người đội trưởng du kích tên Cường đã không thành vì chị tự nguyện không muốn Cường gánh chịu hậu quả không sinh nở. Cả mối tình qua thư với anh trung đoàn trưởng sư đoàn Sao Vàng cũng không kịp thực hiện khi Quy chết vật vã trên giường bệnh. Không chờ kịp đến tháng giêng mùa xuân người yêu hẹn trở về cho cuộc đoàn viên chồng vợ. Nhưng chủ nghĩa nhân văn và tính nhân bản của tiểu thuyết bắt đầu khi hòa bình trở lại, người nữ du kích không may mắn ấy đã trở lại con đường xưa ngập bóng râm của những vườn dừa đang chỗ lứa quả đầu tiên để đến những gia đình vợ con người có nợ máu với cách mạng tìm cách cưu mang - Một thông điệp đoàn viên khác cho xứ sở đau thương và giàu lòng nhân ái này. Con đường đoàn viên ấy thật khó khăn khi phải vượt qua sự kỳ thị của cả xã hội và của ngay những người ở phía bên kia... Điều an ủi cho tất cả những người trải qua thù hận, khổ đau và cay đắng đến cùng cực đã tìm về được mái nhà chung của yêu thương, tha thứ và đùm bọc. Số tiền ít ỏi của một nữ chiến sỹ du kích như Quy đã được chuyển đến cho đứa con của kẻ ác, đứa con được chính hắn bế trên tay 10 năm trước đã kìm lại phát súng của lòng căm thù.

Thông điệp của một đời người lính - nhà văn Nguyễn Trí Huân qua những dòng giản dị, chân thực và xúc động thật rõ ràng. Tôi nghĩ đó cũng là một trong những thông điệp mà dân tộc ta muốn nói với nhân loại rằng chúng ta là những người hiểu hơn ai hết cái giá của chiến tranh, cái giá của hòa bình. Sau những gì đau thương mất mát là đoàn viên, hòa hợp dân tộc. Đó là tiếng nói khẽ khàng về lòng cao thượng, đức hy sinh và sự khiêm nhường vô bờ bến của người lính Việt Nam - Một giá trị sống rất nhân bản của lịch sử hiện đại.

Năm 2000 trở đi. Sự đoàn tụ gia đình, sự hòa hợp dân tộc sau chiến tranh dường như đã trở thành lẽ đương nhiên của cuộc sống. Năm 2004, Nguyễn Cao Kỳ về quê Sơn Tây ăn tết. Ông ấy cũng nói chuyện đoàn viên. Nhưng lịch sử đi đến được điều đó đâu phải dễ dàng. Vì vậy trân trọng những tư tưởng nghệ thuật trong tiểu thuyết Nguyễn Trí Huân. Bởi vì ông đã sớm suy ngẫm và khẳng định điều này. Không phải bằng những quyền trượng giáo lý khô khan mà bằng cả một thế giới nghệ thuật do ông xây dựng nên. Ngay từ giữa năm 1975 khi các mặt trận vừa im tiếng súng và những người lính hối hả lên những chuyến tàu trở về với hòa bình. Rất nhiều trong số triệu người lính ấy vội về nhà để đi lấy vợ và cày nốt thửa ruộng còn bỏ giở 20 mươi năm trước. Nguyễn Trí Huân đã ở lại với chiến trường trên những trang văn còn nóng hổi sự kiện và giao thoa với muôn ngàn ký ức của người lính trận, kịp thời lý giải suy tư và ước vọng cho hàng triệu con người thông điệp về sự đoàn viên và hòa hợp giữa những người anh em ly tán trong niềm vui của độc lập, thống nhất, tự do, hòa bình và hạnh phúc.

Giữa mùa dịch giã đầy lo âu của đất nước, như một cách để bình tâm, tôi mang Nguyễn Trí Huân ra đọc lại. Đọc cái thế giới tinh thần của ông - Cái không gian nghệ thuật do ông tưởng tượng ra và tìm thấy sự đồng điệu của bản thân mình và của bao người bạn khác. Làm bạn một nhà văn, nếu không đọc tác phẩm của họ, sao có thể hiểu được bản thân họ. Bởi vì ở đấy nhiều khi họ sống nhiều hơn cuộc sống đời thường của họ. Tự dưng tôi nghĩ: Nguyễn Trí Huân không thể không là một nhà văn có trách nhiệm thì sao có thể viết chân thực mà mê hoặc được người ta đến thế? Đôi khi tôi tự hỏi, với dáng vẻ khiêm nhường và hiền lành kia, sao ông lại có thể viết nên những đoạn văn tình nóng bỏng yêu thương của những con người khắc khổ một thời xa đằng đẵng đằng sau cánh cửa mơ hồ của thế kỷ 20 đã khép lại rồi? Những đoạn tình chắt chiu lửa ấm mà đôi khi lặng lẽ trong đời văn gian khổ của một người trận mạc? Có lẽ cái nghề tư pháp khô khan đã nhuốm tư duy của tôi vào những hòn gạch lục ngăn nắp nhưng mà cứng nhắc đã không thể viết được những đoạn văn tình sâu bốc lửa trong Năm 1975 họ đã sống như thếChim én bay?

Ông có thể nghe hàng giờ và khuyến khích tôi kể chuyện những lần du thuyết ở Nhật, Đức, Mý, Úc, Trung Quốc v.v... về cải cách tư pháp và khuyên tôi nên viết chân dung các nhà văn. Nguyễn Huy Thiệp. Hữu Thỉnh. Nguyễn Đức Mậu. Ngô Thế Oanh. Nguyễn Hoa. Nguyễn Quang Thiều. Trần Đăng Khoa v.v... như là tìm về sự đoàn viên của những người cầm bút dưới mái nhà chung số 9 Nguyễn Đình Chiểu. Nơi tụ nghĩa của những con người suốt cả đời chỉ mong muốn bằng ngọn bút của mình làm nên những thông điệp đầy tự hào về bản tính Việt Nam.

Chỉ có điều đáng tiếc tôi chưa học được ở ông kỹ nghệ zít điếu cày thuốc lào dòn dã, thỏa thuê và lịch lãm - một đặc sản tĩnh tâm của người đàn ông xứ Đoài xưa, sau những gì quyết liệt và ít nhiều phiêu lãng. Vậy mà khi nói về núi Tản sông Đà, tất cả họ đều bẽn lẽn và trở nên ít nói đến lạ thường.

Hà Nội mùa đông 2021

20220523 2

TÓM TẮT

Soi chiếu từ cái nhìn phê bình xã hội học, kiểu nhân vật nổi loạn trong tác phẩm của Linda Lê đã giúp người đọc thấu hiểu kinh nghiệm tha nhân sâu sắc: Sự nổi loạn có căn nguyên từ những điều phi lí; là phương cách tìm lại niềm tin bị đổ vỡ; là sự  chống đối, hạ  bệ và khát khao đổi mới; là cuộc hành trình truy tìm bản thể; là cách đoạn tuyệt cuộc sống  vô nghĩa và tìm đến sự giải thoát bằng mọi giá.

Toàn văn bài báo.

Trần Thị Thơm

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP.HCM, số 52 năm 2013, trang 105-111.

 

 

Bên cạnh sự thiêng liêng, cao cả, tình mẫu tử cũng biểu hiện đa dạng, phức tạp. Trong văn xuôi đương đại, nơi một số tác phẩm, hình tượng người mẹ được đưa về những khuôn tấc của đời thường. Lặn ngụp sâu vào chính mình trong những hoàn cảnh sống cụ thể, cộng với sự quan sát những trải nghiệm của người cùng giới, hơn ai hết, các nhà văn nữ đã thể hiện tài tình những sắc thái này trên trang viết.

20211220 2

Không nhìn tình mẫu tử như là sự yêu thương mặc nhiên, một chiều, Nguyễn Thị Thu Huệ phơi trải đề tài này ở nhiều chiều kích, nhiều cung bậc cảm giác. Đó là nhân vật nữ đam mê lầm lạc, bị phản bội và phải sinh ra đứa con hoang. Nỗi đau uất càng sâu khi đứa con ấy mang gương mặt của người cha như sự hiện thân của quá khứ vĩnh viễn không thể xóa bỏ. Nhân vật người mẹ trong Hậu thiên đường đã đi qua những năm tháng dài bên cạnh đứa con gái bằng sự lạnh nhạt, hờ hững, đôi khi ghét bỏ và nhìn đứa con như một “chướng ngại vật cản trở trên đường đời”: “Tôi nuôi nó đầy đủ bằng vật chất nhưng không mấy khi chăm sóc bằng tình cảm. (…) Tôi và nó ít khi gặp nhau. Tôi đi làm. Nó đi học. Buổi chiều. Thỉnh thoảng tôi ăn cơm với nó. Buổi tối. Tôi thường vắng nhà. Nó có một khuôn mặt đợi chờ. Nó hay nhìn tôi bằng cái vẻ đợi chờ đó. Nếu tôi lạnh lùng thì nó lảng đi. Tôi vui và tỏ ý muốn gần vẻ mặt ấy thoắt biến mất, thay vào bằng khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.”

Mười lăm trang của truyện ngắn Hậu thiên đường khắc họa bức chân dung tâm lí của người mẹ khá xa lạ với ý niệm mang tính kí hiệu về sự thiêng liêng và cao cả vốn trở thành một ước lệ khi chạm đến hình tượng nhân vật này. Một phức cảm không dễ thể hiện và bộc lộ của nhân vật xưng “tôi” chứa đựng sự hoà quyện giữa những sắc thái cảm xúc khác nhau, vừa yêu thương vừa ghẻ lạnh, vừa ích kỉ vừa vị tha, vừa kiêu hãnh lại đớn đau ân hận, giày vò và nuối tiếc, vừa giãi bày, bộc bạch lại vừa tự tra vấn, vừa thuộc về quá khứ lại nối dài, lan toả và chuyển biến trong hiện tại… Người mẹ đứng trên lằn ranh của những cảm xúc ấy, trong sự đồng hiện của mọi cung bậc, mọi không gian, mọi thời gian, đồng thời, cảm xúc và ý thức lại bắt buộc phá vỡ những lằn ranh ấy để cứu vãn hiện tại giữa ân hận muộn màng. Đứa con gái sinh ra từ cuộc tình lỡ lầm thơ dại mang gương mặt của người bố đã khiến cho người đàn bà trót làm mẹ suốt đời ám ảnh một nỗi căm hận không dứt với quá khứ và hiệu ứng của cảm giác ấy phóng chiếu lên thân phận đứa con: “Ngày ấy. Khi sung sướng. Chúng tôi chỉ nghĩ đến mình. Nhưng khi đau khổ. Tôi lại hay mang nó ra mà soi mà ngắm, rồi nhìn nó như chướng ngại vật cản trở tôi trên bước đường đời. Nó chẳng có tội gì. Nó là sản phẩm của nỗi đam mê. Ai sướng. Ai hạnh phúc. Nó không biết. Chỉ được biết và được hưởng nỗi cô đơn, nỗi dằn vặt mà thôi.”

Để diễn tả phức thể hoà trộn của cảm giác ấy, người viết phải có sự thẩm thấu tâm hồn với nhân vật cao độ, để nhân vật hiện ra nơi nội tại của chính nó và khiến người đọc thấu hiểu, cảm thông, hơn nữa, nhận ra một góc hiện thực trong đời sống con người, trong tình mẫu tử. Một người mẹ ích kỉ mà vẫn độ lượng yêu thương, lạnh lùng mà vẫn nồng nàn đến khắc khoải. Ngòi bút nhà văn phải lách sâu vào tận cội nguồn gốc rễ của phức cảm ấy, căng trải nó ra ở mọi góc độ, mọi khía cạnh để miêu tả hình tượng người mẹ hiện thực, không thánh hoá cũng không thú hoá mà thuộc về đúng nghĩa con người với bản năng xúc cảm và bản năng thương yêu cao cả.

Những cảm giác gần như “phản truyền thống” này của người mẹ lại rất thực trong đời sống. Nhà văn khám phá người mẹ trước hết ở góc độ một con người, một người phụ nữ với những bản năng yêu ghét tự nhiên chứ không phải là một người mẹ bị đóng khung bằng các chuẩn mực. Hoàn cảnh trớ trêu, khắc nghiệt của đời sống đã chi phối và tác động đến họ. Chính bản thân họ không có quyền được lựa chọn và buộc phải ứng xử theo bản tính con người: đau đớn và thù hận. Vì vậy, Nguyễn Ngọc Tư đã tái hiện bức chân dung hiện thực nghiệt ngã ở những vùng đất còn hoang dại và nghèo khó: người phụ nữ từng bị những gã đàn ông đầy dục vọng cưỡng bức, rất có thể sẽ tạo ra những “đứa trẻ tên Hận, tên Thù mang khuôn mặt rắp tâm” của đấng sinh thành trên cánh đồng bất tận của kiếp người (Cánh đồng bất tận).

Cùng điểm nhìn, Phan Thị Vàng Anh đã tinh tế khắc họa lại cả một tiến trình tâm lí của cô gái trẻ trong những ngày chờ đợi kết quả thực hư của cái thai sau một lần giao hoan. Bằng thiên tính làm mẹ vốn ngụ ẩn thường trực trong bản thể, Tuyền đã tưởng tượng ra cảnh tự tay nuôi nấng, chăm sóc đứa con. Thế nhưng, khi trí tưởng tượng chạm phải những khó khăn, trở ngại của cuộc sống, Tuyền rơi vào e dè, lo lắng, sợ hãi và bế tắc, nhất là lúc đối diện với tình huống bị người yêu bỏ rơi. Những xúc cảm trong cô gái không phải là một đường thẳng tịnh tiến giản đơn mà đi trên đường biên mong manh giữa các trạng thái đối lập theo hình xoắn ốc, pha lẫn vào nhau với sự biến động liên tục. Ý thức về trách nhiệm, tình thương yêu, nỗi sợ hãi mất tự do, những toan tính không lối thoát cho cuộc sống phía trước… khiến tình mẫu tử bắt đầu hình thành, nảy nở bỗng tan biến, rồi lại hiện hữu, trào dâng và trồi sụt liên tục: “Tuyền không chắc đã có đứa bé trong bụng chưa nhưng tình cảm dành cho nó đã bắt đầu phai nhạt. Bây giờ thì Tuyền không chắc mình có còn yêu đứa bé không nếu không có bố nó bên cạnh và chỉ còn nó như một cục nợ” (Có con).

Những va chạm trong cuộc sống tạo ra nhiều chân lí khác với chân lí về sự cao cả, thiêng liêng của tình mẫu tử. Các nhà văn nữ là người lắng nghe sự va chạm ấy, đi đến tận cùng những tra vấn và tự tra vấn, những trăn trở sâu thẳm trong con người. Lý Lan đã đặt ra song đề cho sự hi sinh khi đẩy nhân vật Quyên và người mẹ vào những xung đột không lối thoát. Có những va chạm tưởng chừng vặt vãnh, tủn mủn trong cuộc sống thường ngày nhưng hóa ra, khi nó lặp đi lặp lại và không thay đổi được thì bỗng phình to, khiến mọi thứ đứng trước nguy cơ đổ vỡ, mất mát. Thói quen ngăn nắp của người mẹ làm xáo trộn và gây hỏng hóc cho đời sống của người con khiến cô bức bối, ngột ngạt. Rơi vào tình huống ấy, nhân vật bắt đầu nảy sinh những nghi ngờ đối với các chân lí đã định sẵn: “Thật sự Quyên có yêu mẹ không? (…) Vậy thì tại sao hai mẹ con cứ làm khổ nhau?” (Mẹ và con). Tình cảm mẹ con của Quyên vẫn luôn được mọi người ca tụng vì mẹ Quyên, khi bị người tình bỏ rơi, đã sống đời cô độc để nuôi con, còn Quyên “vì không nỡ bỏ lại mẹ một mình” nên vẫn còn là cô gái lỡ thì chưa chồng. Trong con mắt của thế gian, họ đã hi sinh cuộc đời cho nhau. Thế nhưng, Quyên tự phản tỉnh cái chân lí cao đẹp ấy bằng sự thực rằng cô chưa lấy chồng vì “tình duyên lỡ dở”, “vì chưa thực sự yêu ai, yêu mãnh liệt để lấy làm chồng”. Và có thể người mẹ, trong quá khứ, cũng rơi vào tình huống tương tự. Một song đề hình thành khiến con người phải ngẫm nghĩ về các giá trị chuẩn và giá trị thực của đời sống: “Hồi trẻ Quyên nghĩ là sự hi sinh của mẹ là cao cả. Khi bước qua tuổi ba mươi, có lúc Quyên nghĩ mẹ có cần thiết phải hi sinh như vậy không. Người ta cần trung thực sống cuộc đời mình, hay cứ huyễn hoặc mình bằng cuộc sống cho người khác? Quyên đã nhận ra rằng khi một người biến người khác thành lẽ sống của mình thì đã chất một gánh nặng tồi tệ nhất lên vai người đó. Quyên càng ngày càng mệt mỏi với cái gánh nặng đó.”

Song đề của Quyên lại gần như trở thành phản đề tuôn chảy hối hả và không ngừng ám ảnh với nhân vật xưng “tôi” trong truyện ngắn Thành phố không mùa đông của Nguyễn Thị Thu Huệ khi nhận được lá thư chỉ mươi dòng của người mẹ. Một lá thư thông báo đầy đủ thông tin sự kiện và thông tin tình cảm khi quyết định chia tay của đôi vợ chồng khoác vẻ ngoài hạnh phúc sau bao năm “sống vì con”. Bao câu hỏi day dứt, lật ngược mọi chân lí, mọi giá trị về tình yêu, hạnh phúc và sự hi sinh được đặt ra đầy trăn trở: “Bố mẹ bây giờ đang tự sống cho mình! Thế nào là sống cho mình và sống cho mình thì khác sống cho người nhỉ? Bao năm nay, cứ cho là bố mẹ sống cho tôi, bố mẹ cũng có mất gì đâu? Tại sao lại sinh ra tôi trên đời, rồi lại phải sống vì tôi cơ chứ? Hay bố mẹ vin vào tôi như một thứ an ủi, một cứu cánh là họ cũng ghê lắm, giỏi giang lắm, họ phải như vậy là vì tôi?”

Như vậy, con người đã tự tạo ra các chuẩn mực giá trị hay bị những chuẩn mực giá trị đóng khuôn và cuốn xoáy vào? Đặt trong sự phức tạp, chằng chéo của hiện thực, mối quan hệ giữa người mẹ và đứa con đã bộc phát ra toàn bộ bản chất với sự đan xen, chuyển hóa của nhiều cung bậc, tính chất, trạng thái bên ngoài tính “ước lệ hóa” vốn được loài người định dạng sẵn. Trong phức thể phong phú ấy, tình mẫu tử không chỉ khuôn vào chính nó, không chỉ lấy nó làm cái đích duy nhất để miêu tả. Ở mức độ sâu hơn và khái quát hơn, từ mối quan hệ mẹ - con, các tác giả đã tái hiện cả mối quan hệ của con người nói chung. Đó là con người trong tính cá nhân, cá thể; con người của những tính cách, suy nghĩ và cảm xúc hiện thực; con người lựa chọn giữa bản thân và tha nhân…

Việc xây dựng người mẹ nhỏ bé, yếu đuối và bất lực cũng là sự co giãn thước tấc của hình tượng trong khuôn khổ hiện thực của chính nó. Người mẹ bao giờ cũng được xác định khi đặt trong quan hệ với đứa con. Điểm nhìn từ cảm hứng của cái thiêng luôn đặt người mẹ trong vị thế của sự sinh thành và dưỡng dục, nuôi nấng và che chở, một vị thế toàn năng: “Mẹ bao giờ cũng tìm ra được một cái gì trong những hoàn cảnh khắc nghiệt” (Tâm hồn mẹ - Nguyễn Huy Thiệp).

Thế nhưng, theo quy luật tất yếu của vận động, sự lớn dậy, vững vàng và độc lập của đứa con luôn tỉ lệ thuận với sự già cỗi, yếu ớt dần của người mẹ. Đến một lúc, họ hoán vị cho nhau và đứa con trở thành người chi phối, bảo bọc, còn người mẹ lại biến thành kẻ bị phụ thuộc, kiệt quệ.

Cảm hứng thương cảm gắn liền với cái bi khi tiếp cận hiện thực đời thường đã đưa ngòi bút của nhiều nhà văn đến chân dung người mẹ ở những ngày tháng cuối cuộc đời. Nguồn năng lượng thể xác cạn kiệt khiến họ trở thành chiếc bóng thầm lặng, xa hơn nữa là thành kẻ thừa thãi, và đau đớn hơn, thành chướng ngại vật trong cuộc sống đang rào rạt, tràn trề sinh lực của đứa con. Bà mẹ trở nên yếm thế, dồn ép mọi chuyển động của mình ngay cả lúc ăn, lúc ngủ, lúc thở về trạng thái tĩnh, khép nép và rúm ró để tránh va chạm gây nên đổ vỡ với những đứa con: “Nhưng cái lí ấy chỉ đủ sức bắt bà mẹ ngồi yên chớ không thuyết phục được tâm tư bà phải yên tĩnh. Bà nghĩ, không biết từ hồi nào cái bọn dưới quê cũng cùng một giọng với bọn ở thành, cái ngữ coi thường mọi cố gắng của bà mẹ chung quy cũng chỉ vì cuộc sống của chúng nó. (…) Nhưng nghĩ cho cùng chúng nó đều đã thành ông chủ bà chủ cả rồi, chúng cần được phán thế này thế nọ trong ngôi nhà của chúng” (Người của mỗi người - Dạ Ngân).

So sánh tác phẩm Người của mỗi người (Dạ Ngân) với Mẹ và con (Lý Lan), có thể thấy sự tương đồng khi tái hiện hiện thực. Ở điểm nhìn trần thuật hai chiều, cả khi tiêu điểm trần thuật là người mẹ (Người của mỗi người) hay là đứa con (Mẹ và con), những người mẹ già cỗi, yếu ớt đều tồn tại trong tình trạng cô độc, lạc lõng, rời rạc đến tận cùng và thậm chí, đối lập với đứa con của mình. Họ thu dần vào thái độ nhẫn nhục, cam chịu: “Bà lẳng lặng ngồi xuống chiếc ghế đặt cạnh kệ sách, đôi mắt cam chịu nhìn bức tường trống” (Mẹ và con); “Bà mẹ thấy mình bị xúc phạm nhưng bà chưa lần nào để lộ tâm trạng đó, bởi bà biết phận mình bây giờ là kẻ ăn theo trong nhà” (Người của mỗi người).

Một quy trình tâm lí diễn ra theo trình tự tất yếu. Ban đầu, những người mẹ gắng gượng kháng cự lại hoàn cảnh bằng đức hi sinh được gán cho họ từ quá khứ vàng son với đứa con. Họ giữ lại cho mình chút hào quang cuối của địa vị cao cả ngày xưa: “Bà không thèm chấp, ai lại đi chấp nhặt con cái mình” (Người của mỗi người); “Luôn luôn bà tự nhủ rằng nó là con gái của mình. (…) Bà nhủ là mình sẽ chịu đựng được, mình ráng chịu đựng đi, nó là con gái của mình” (Mẹ và con). Họ hoạt động bằng bộ máy cơ thể rệu rã với năng lượng của nguyên lí tình mẫu tử để trông chờ và khao khát bình yên, hạnh phúc cho mình, cho đứa con, để không trở thành kẻ thừa thãi: “Cái lí tình thương đang chỉ cho bà nhìn thấy bao nhiêu công việc mà bà phải thu xếp cho tinh tươm trong ngày tai họa này, cốt để làm hài lòng chúng nó” (Người của mỗi người); “Bà thường cố gắng tự suy diễn và nghĩ ra cái gì đó bà có thể làm để san sẻ hay để vui lòng con gái” (Mẹ và con). Rồi họ hành xử theo bản năng, rất thực, rất con người với ý nghĩ về sự trả thù bằng việc bỏ đi, bằng cái chết. Thế nhưng, cách hành xử nào cũng thất bại, một phần vì không có nơi nương tựa, một phần vì giằng xé lương tâm, sợ làm tổn thương đứa con. Mọi nỗ lực đều bị nén ép vào thế tuyệt vọng, những mâu thuẫn không thể hòa giải. Hình tượng người mẹ trở nên bất lực như “một chiến sĩ không vũ khí, không yên cương, không áo giáp”, và bị rút gọn lại, “bước đi lựng chựng như một đứa trẻ”, để rồi cuối cùng, bi kịch hóa trong diện mạo đầy chua xót: “Bà mẹ lò dò bước xuống, khật khừ không khác gì một bà lão ăn mày vì đói khát, nhọc mệt và đau nhức” (Người của mỗi người).

Hình tượng người mẹ trong văn học hôm nay đang dần bị lột bỏ những lớp áo thiêng liêng và hiện ra trong dáng vẻ hiện thực. Các nhà văn nữ để cho những người mẹ lầm lạc được cất lên tiếng nói giãi bày tâm tư sâu kín của mình, bộc bạch những ẩn ức mà họ phải nén chịu. Người mẹ luôn tồn tại với hai tư thế: tư thế con người cá nhân trong quan hệ với chính mình và tư thế người mẹ trong quan hệ với đứa con. Khi hai tư thế này đối nghịch nhau, họ rơi vào bi kịch của sự lựa chọn, sự được mất. Họ bị phán xét từ xã hội, từ chính đứa con và khát khao được minh giải. Trong những trang viết của mình, Dạ Ngân, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư và các nhà văn nữ khác hướng đến những hiện thực trong cuộc sống đời thường. Những ý nghĩa nhiều khi rải rác, âm thầm, mờ nhạt giữa cuộc sống bộn bề mà con người có lúc quên lãng hoặc không nhận ra, nhưng nhà văn lại nhận thấy và đánh thức nó bằng nghệ thuật ngôn từ.

Hồ Khánh Vân

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 25.6.2021.

Con người tự nhiên sống với thời gian một chiều.

Thi ca, nhất là thi ca lãng mạn, sống đồng thời với thời gian ba chiều quá khứ hiện tại tương lai

và coi đó là vũ điệu đi tới chân lý thẩm mĩ.

Vào tháng 3 năm 1932, không phải người của phái tân học, ông Phan Khôi - một trong những nhà văn xuất sắc nhất của phái cựu học dõng dạc tuyên bố thơ cũ không chơn và cổ súy mạnh mẽ một lối thơ mới ra đời bằng bài Tình già của chính ông; chẳng ai ngờ được, 10 năm sau, lời nói đó lại mở đầu cho một thời đại thi ca mang tên gọi Phong trào Thơ  Mới, thì cũng vào đúng tháng đó, năm đó, ở phía Bắc thành Hà Nội, cậu bé Trần Bích Lan, vốn dòng dõi con quan cháu chúa triều Nguyễn, gốc quê ở Thừa Thiên Huế đã khóc tiếng chào đời. Hơn 20 năm sau. Vào năm 1958; ở Sài Gòn, xuất hiện tập thơ Nguyên Sa, bút danh của Trần Bích Lan, tự nhận và được đánh giá là người kế tục chủ nghĩa lãng mạn của Phong trào Thơ Mới 30-45. Trong khi vào thời điểm đó, nhiều thi sỹ trẻ mà rõ rệt nhất là Thanh Tâm Tuyền đã thành công bằng đi con đường khác, náo nức tìm cách khoác bộ cánh mới của chủ nghĩa hiện sinh, một triết lý ảnh hưởng sâu sắc tới văn chương miền Nam 1954-1975. Điều đáng ngạc nhiên là Nguyên Sa rất quen thuộc với triết học ấy từ khi học ở Pháp 1948-1955 để lấy bằng Tú tài và sau đó là Cử nhân ở đại học Sorbone Paris. Hơn thế nữa, khi trở về Sài Gòn 1956, Nguyên Sa lại là giáo sư triết học. Thi sỹ có lần nói không cảm thấy gắn bó sâu xa với triết học hiện sinh, mặc dù hồi ký Nguyên Sa có lần viết Thiên tài là hiện sinh, là những hiện sinh không tận tuyệt. Cũng vì vậy đời thơ ông một vài lần cũng vương vấn những buồn nôn, phi lý mà trước sau chẳng bao giờ theo đuổi triết lý dấn thân.

Theo đuổi chủ nghĩa lãng mạn, tự nguyện làm người viết thơ tình yêu xúc động trước tình cảm lứa đôi và những khổ đau của quê hương xứ sở mình; Bước vào địa hạt thi ca từ 1953 bằng những sáng tác đầu tiên đến tháng 4/1998, khi qua đời ở Hoa Kỳ, Nguyên Sa tự buộc phận mình vào cõi thơ. Năm 2000, Thơ Nguyên Sa toàn tập được xuất bản ở hải ngoại với bốn tập và một số bài thơ cuối cùng. Bốn tập thơ. Một đời thơ. Cả thảy 194 bài, kể cả những bài chuyển sang Anh ngữ. Dường như đó là bản nhạc màu của thời gian trong ký ức cuộc đời. Lúc khởi đầu man mác buồn nhớ lại Tuổi mười ba khi không biết trời hôm nay mưa nhiều hay rất nắng, để tôi không về bong bóng vỡ trên tay. Nhớ tuổi nàng chỉ tuổi 13 má vẫn đỏ đỏ một màu con gái. Tuổi của áo vàng như màu hoa cúc và áo xanh màu lá sân trường. Khi Tương Tư không biết gặp tự khi nào cũng là lúc rừng không biết nói nên tiếng lau cao lay động cánh tay già. Cho đến lúc cuộc đời dần như khép lại đêm tối của dĩ vãng thì Nguyên Sa Đi chơi cuối tuần cũng dắt ký ức đi theo trong nỗi băn khoăn không biết có còn tiếng vạc lạc loài đêm xưa bay qua nữa hay không? Có lúc như mê sảng ký ức mà xin người xưa một chút áo lụa vàng và gửi cho nàng tiếng thở dài đêm cũ. Cơn mê sảng mới phủ lên bầu trời. Cơn mê sảng có tiếng cười trẻ nhỏ. Nếu tình yêu ngày xưa gửi vào trong màu Áo lụa Hà Đông cũng là lúc hát bài về sông Cửu Long cầm trên tay bát gạo Hậu Giang mà mắt nghẹn ngào sáng tỏ nắng Phương Nam thì giờ đây, trong Trái tim, trí nhớ và dòng sông lại là sông Hồng tuổi nhỏ ngầu phù sa, là thành phố mà tuổi thơ Nguyên Sa thả hồn mình ở đó, nơi ông sinh ra gần vườn hoa Hàng Đậu. Nơi mùa thu vô thủy vô chung trên mái già cổ kính đất Thăng Long, nơi nỗi nhớ da diết bùng lên khi Tiễn bạn trong cơn đau sắp đi về miền cực lạc. Bức tranh ký ức về thành phố tuổi thơ lung linh trong huyền diệu.

Ngọn đèn chiếu xuống bức tranh

Cầm lên Hà Nội thấy đình miếu xưa

Tiễn nhau nhớ tháng giêng mưa

Sông Hồng nước động bóng chưa nhập hình

Nguyên Sa viết mấy câu này vào năm 1998 ở Hoa Kỳ, khi ông đã rời xa Hà Nội trước đó 50 năm chưa một lần trở lại. Bởi thế thơ Nguyên Sa là bức tranh của ký ức được tình cảm, tưởng tượng và liên tưởng vốn là vũ khí đầy hiệu lực của chủ nghĩa lãng mạn bồi đắp nên; Điều mà Nguyên Sa gọi tưởng tượng là người đàn bà đẹp kiêu sa. Liên tưởng là cô bạn láng giềng làm cho ở đuôi con mắt có ngày tháng xưa là như vậy đấy.

Thơ Nguyên Sa tập 1, viết từ 1953 đến 1958 là bằng chứng rõ rệt nhất tác giả của nó là người kế tục chủ nghĩa lãng mạn của Thơ Mới 30-45 và đó cũng là tập thơ hay nhất của ông. Hồi ký Nguyên Sa xuất bản tại Hoa Kỳ 1998, đã giành nhiều ưu ái cho Phong trào Thơ Mới. Nguyên Sa bày tỏ việc học tập Đoàn Phú Tứ về Luật phản thanh theo đó coi thơ là sự phối âm chặt chẽ trên một nền âm nhạc hiện đại. Hay nói như F.Rabelais (1): thi ca là vũ điệu. Sự phối hợp âm thanh theo luật phản thanh được thực hiện bởi những chữ, những câu đứng bên nhau trở thành êm ái chứ không phải chỉ có vần của những chữ ở cuối câu mới làm được công việc này. Việc học tập sử dụng hình ảnh bậc 2 của Lưu Trọng Lư cũng được trang trọng nhắc đến. Nguyên Sa đưa ví dụ: Mắt em là một dòng sông Hồn anh bơi lội trong dòng mắt em. Hình ảnh bậc 1 mắt em đưa tới hình ảnh bậc 2 dòng sông, theo cách nói của Nguyên Sa không chỉ còn là sản phẩm của tưởng tượng. Nguyên Sa ca ngợi Xuân Diệu cũng như và giống như René của F.Chateaubriand (2), người tiên phong từ bỏ chân trời của chủ nghĩa cổ điển để làm rạng danh chủ nghĩa lãng mạn trong thi ca. Điều đó thật có ý nghĩa. Bởi vì thế hệ của Nguyên Sa khi bước vào thơ giữa thập niên 1950 ở Sài Gòn đã buồn cái buồn của phi lý, như ngọn đèn của thời gian leo lét sáng từ vô cực nhỏ đến vô cực lớn hư vô, là giáo điều của chủ nghĩa hiện sinh. Nguyên Sa không làm theo lý thuyết dấn thân của chủ nghĩa ấy và bày tỏ không thích loại thơ thời cuộc. Ngay từ 1966, Vũ Bằng đã gọi Nguyên Sa là thi sỹ của tình yêu lãng mạn. Toàn bộ thơ Nguyên Sa, ngoại trừ thơ văn xuôi đều là những vũ điệu của tình yêu và là một phần lý do ông có tới 19 bài thơ được phổ nhạc, đặc sắc hơn cả bởi nhạc sỹ tài danh Ngô Thùy Miên. Áo lụa Hà Đông, Tuổi 13, Tháng 6 trời mưa, Tương Tư. Paris có gì lạ không em... Các bài thơ tình yêu được viết theo thể 7, 8 chữ hoặc thơ tự do như phục sinh lại những điều Thơ Mới đã mang đến cho thi ca Việt Nam hiện đại. Đặc biệt, nguồn cảm hứng về Mùa thu và về Mưa như là nét chủ đạo của một hồn thơ lãng mạn đã có sức lôi kéo kỳ lạ đối với người đọc. Đến nỗi Nguyên Sa tập 1 được tái bản tới 7 lần. Điển hình nhất và được nhắc đến nhiều nhất là Áo lụa Hà Đông. Mùa thu ở đây là một ký ức bởi vì lúc ấy đang là nắng Sài Gòn và bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông chợt đến chợt đi như trời chợt mưa chợt nắng chẳng vì đâu. Hình ảnh bậc 2 kiểu Lưu Trọng Lư hiện lên mới lạ.

Anh vẫn nhớ em ngồi đây tóc ngắn

Mà mùa thu dài lắm ở chung quanh

Mùa thu tóc ngắn trở thành thương hiệu mang tên Nguyên Sa. Giống như Mùa xuân chín của Hàn Mạc Tử vậy.

Em ở đâu bởi mùa thu tóc ngắn

Giữ hộ anh màu áo lụa Hà Đông

Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng

Giữ hộ anh bài thơ tình lụa trắng.

Nhà văn Thụy Khuê có lẽ đã chính trị hóa quá xa khi cho rằng Áo lụa Hà Đông mô tả em gái Bắc Kỳ di cư. Nguyên Sa không có ẩn ý đó, chỉ có điều rõ ràng mùa thu và mưa ám ảnh cả đời thơ Nguyên Sa. Thơ Mới lãng mạn 30-45 và thơ Miền Nam 1954-1975 cũng coi mùa thu và mưa là chủ đề quen thuộc. Vậy mà Nguyên Sa vẫn tìm ra tiếng nói độc đáo của riêng mình.

Đó là tháng 6 trời mưa với lời mở đầu mộc mạc không ai nghĩ sẽ kể một chuyện tình. Tháng 6 trời mưa, trời mưa không ngớt. Đó là Tương tư được diễn tả bằng trăng sáng trời khuya, cánh nhạn thưa thốt lúc thu về. Đó là Paris mùa thu lộng lẫy vàng lối đi xưa níu người ở lại. Đặc biệt là hình tượng liễu vốn rất quen thuộc và xưa cũ được Nguyên Sa phổ vào bản tình mang đến dưới những dòng thơ nhiều tầng ý nghĩ.

Anh đi giữa một ngàn thu cũ

Nhớ mãi mùa thu bẽn lẽn chào

... Em gầy như liễu trong thơ cổ

Anh bỏ trường thi lúc thịnh Đường.

Có một lần, đi ngang cửa A Tì, cửa ngục tối theo kinh nhà Phật, Nguyên Sa dường như nhặt lại được câu thơ của Phong trào Thơ Mới lưu lạc ở một bến đò ngang mà thời 30-45 người ta đã bỏ quên.

Cứ tưởng mưa xong có nắng vàng

Tới sông tìm mãi chuyến đò ngang

Bỗng nhìn thấy ở trong lưu lạc

Có ngọn lưu đầy chỗ cuối đêm.

Ký ức về mùa thu và mưa ám ảnh Nguyên Sa cho đến lúc ông sắp lìa khỏi cõi đời. Bốn bài lục bát cuối cùng viết hồi tháng 3, 4-1998 vẫn là thu và mưa.

Nếu khi từ Pháp trở về hồi 1955, 1956 thơ Nguyên Sa có một số câu, số chữ người ta bảo viết theo lối phương Tây; Nhưng từ năm 1966 và đặc biệt sau năm 1975, sống ở hải ngoại, dường như Nguyên Sa muốn tìm lại chủ nghĩa lãng mạn cho thơ mình dưới dạng dân dã của thơ lục bát. Có đến 80 bài lục bát, chiếm gần một nửa tổng số thơ 194 bài. Phần nhiều là những bài thơ ngắn. Khoảng dưới 10 câu. Giản dị, dễ hiểu nhưng chỉ có một vài câu đậm đà hương sắc và ý vị riêng.

Ba phần dỗ, một phần xin

Hôn dâu bãi tạm tìm thêm đất bồi.

Thơ viết ở hải ngoại 1976-1998, Nguyên Sa tiếp tục thể thơ văn xuôi, đã được thử nghiệm từ hồi đầu mới bước vào làng thơ. Thơ văn xuôi không bị câu thúc về vần điệu và dường như thơ không còn là vũ điệu, vốn là thế mạnh của Nguyên Sa nữa. Muốn hay phải có ý tưởng sâu sắc và hình tượng thơ độc đáo. Thơ văn xuôi Nguyên Sa thường động chạm tới những vấn đề thế sự, thời cuộc - vốn không phải là địa hạt ông yêu thích và đằm thắm với nó nên thường nhàn nhạt, dàn trải và ít có đột khởi, hạn chế tầm vóc Nguyên Sa trên thi đàn. Các bài thơ văn xuôi viết từ 1988 đến 1995 in trong tập 3 và từ tháng 10 năm 1995 đến tháng 4 năm 1998 in trong tập 4 nhiều lúc rơi vào trạng thái mê sảng, đôi khi là những mê sảng triết học được cảm nhận ở trạng thái phổ thông ít tạo được những đột phá sáng tạo thơ, mặc dù triết học vốn là địa hạt thuần thục của ông ngay từ khi còn học ở trường đại học. Có quan điểm cho rằng: chặt đứt liên hệ âm thanh và ngữ nghĩa, đưa ra những bức họa, những đoản âm khác nhau là chất mới của thơ văn xuôi Nguyên Sa. Thực chất của điều này là việc sử dụng thủ pháp một câu thơ không đồng nhất với một dòng thơ mà được cắt ra thành nhiều dòng và từng dòng ấy nhiều khi không có nghĩa. Thủ pháp đã được Nguyên Sa sử dụng từ hồi 1956-1957 trong các bài như Cái chết, Gọi em, Ngỏ ý, Ngoài tầm v.v.. không đem lại hiệu lực và giá trị thẩm mỹ của câu thơ và dường như phá hỏng vũ điệu của thơ. Điều mà Nguyên Sa tâm đắc. Chẳng hạn.

Một buổi sáng tỉnh dậy thấy em tới

Chay ra mở cửa sổ gọi tên em rất to. Những tiếng kêu

Thất thanh vang trên hè phố.

Thơ văn xuôi dường như là một nghiệp chướng. Nhiều tác giả ở trong nước viết thơ văn xuôi chừng 30 năm gần đây cùng với thủ pháp chặt đứt liên hệ âm thanh và ngữ nghĩa cũng ít có bài đặc sắc lôi kéo được công chúng bạn đọc về thể loại này. Trong khoảng thời gian đó, từ thơ văn xuôi, thường là rất dài, các nhà thơ đương đại Việt Nam lại muốn viết thơ rất ngắn, trong đó có thơ Hai Kâu mà thi sỹ Lê Đạt có câu tựa đề khi viết về nó là ... Em đùi thắng cảnh mắt danh lam. Lê Đạt còn bảo Hình như độc giả thơ hiện đại có thói quen Fast Food (3). Câu này chắc không nhằm vào thơ Hai Kâu, thể thơ mà Lê Đạt rất nể trọng. Nhưng có lẽ Hai Kâu ngắn ngủi cũng chưa có được thành tựu mạnh mẽ thuyết phục số đông người đọc thơ Việt Nam.

Đọc hồi ký Nguyên Sa, trong tâm trạng đồng cảm sẻ chia của những người bạn văn chương, ngẫu nhiên nhận thấy căn nguyên của sự không thành công thể thơ văn xuôi trong thi ca Nguyên Sa. Càng đọc hồi ký khi viết về thế sự trường đời càng thấy Nguyên Sa Trần Bích Lan càng tỏ ra là người chứng kiến ngờ nghệch của xã hội miền Nam Việt Nam thời đó đầy bất trắc, lo âu và trôi nổi phi lý của số phận con người. Những đoạn hồi ký khá dài về Bác sỹ Trần Kim Tuyến, về nhà văn Chu Tử... đều minh chứng cho Nguyên Sa đứng ngoài chính trị; là người ngoài cuộc với những nhân vật mà bản thân một nhà giáo, một nhà thơ không hiểu hết và làm sao biết được chuyện ma ăn cỗ của giới chính trị nham hiểm thời đó. Nhận xét về tổng thống Ngô Đình Diệm và ông cậu Ngô Đình Cẩn... cùng giống nhau ở đôi mắt như mắt cọp ngủ, mu khép xuống phủ kín; khi hai mu mắt kéo lên để lộ tròng mắt lớn trồi ra dữ dội đã cho Nguyên Sa một cảm giác mơ hồ về sự bất trắc của nền chính trị đương thời. Cả việc hồi đầu năm 1948 bị Việt Minh bắt nhầm ở Vân Đình, khi mà ông lại được người đi bắt cõng đi suốt trong đêm hay món súp rồng để chống lại bệnh sốt rét thời ấy không phải là câu chuyện của một riêng ai; le lói lên ánh sáng của lương tri và lẽ phải. Thân phận Nguyên Sa trước sau chỉ là một thi sỹ ngợi ca tình yêu lứa đôi với quê hương xứ sở. Do đó, hễ khi nào bước vào thơ thế sự, mà rõ nhất là thơ văn xuôi, Nguyên Sa trở nên giản đơn và bằng phẳng. Mặc dù là một giáo sư triết học, nhưng ông chỉ tư duy bằng những mệnh đề lý thuyết ở giai đoạn cuối đời chưa giúp ông chạm đến ngọn nguồn thẩm mỹ của thi ca. Đôi khi nhận thấy những nhầm lẫn của ông về thời cuộc. Điều đó tránh làm sao được trong sự khốc liệt của giai đoạn lịch sử ấy. Bác sỹ Zhivago của Boris Pasternak có lần nói rằng: Mọi sự vận động trên thế gian nếu xem xét riêng, đều được tính toán một cách tỉnh táo; nhưng nhìn toàn diện, gộp lại thì chúng đều là vô thức (4). Hồi ký của Nguyên Sa như một ví dụ cho luận điểm đó chăng? Ít nhất, ở những đoạn nói về thế sự.

Lúc sinh thời Nguyên Sa tâm sự muốn suốt đời vĩnh viễn làm thơ cho những người con gái đi lấy chồng mang theo làm vốn liếng. Nhưng ông cũng nói sẽ bỏ làm thơ khi lòng người cũng yêu đương mà mở toang cửa ngõ bởi khi đó làm thơ chỉ như thầy kiện già biện hộ cho tình yêu. Có lúc lại sợ bỏ làm thơ như sợ người đời bổ nhiệm làm phu lục lộ đi đo sự già nua của tâm hồn mình. Chỉ tiếc một điều cho đến ngày thở hơi cuối cùng ở Hoa Kỳ năm 1998, ông vẫn chưa kịp trở về đất nước để chứng kiến sự đổi thay nơi quê hương ông đã nặng lòng với nó. Mấy chục năm nay, sau cuộc chiến tranh oanh liệt và tàn khốc mà mỗi gia đình Việt Nam khắp Bắc Trung Nam sau cuộc chiến hầu như đều chít khăn tang trắng trên đầu. Bởi thế cứ đến ngày 30 tháng 4 hàng năm lại vang lên tha thiết tiếng gọi đoàn viên khắp núi sông bờ cõi. Sự đoàn viên phải trả giá bằng bao nhiêu khốc liệt của con đường từ chiến tranh về với hòa bình. Hàng triệu người lính có tên và không tên ngã xuống trên bãi chiến trường, không mang theo gươm súng và cờ hiệu lại theo hương khói trở về và đang tiếp tục trở về. Họ kêu gọi khẩn thiết những người sống đoàn tụ trong hòa bình, Ở đuôi con mắt có ngày tháng xưa với bây giờ chỉ là yêu thương, đùm bọc, khoan dung và độ lượng cùng nhau xây dựng mái nhà xum họp của quê hương. Ngày tháng xưa của Nguyên Sa là mùa thu tóc ngắn khao khát yêu thương trong hòa bình. Nguyên Sa viết.

Chỉ miệng cười gặp lạ thành quen

Góp những giọng hò làm trống ngũ liên

Góp những bàn tay dựng thành đại hội.

Con người tự nhiên sống với thời gian một chiều. Thi ca, nhất là thi ca lãng mạn sống đồng thời với thời gian ba chiều quá khứ hiện tại tương lai và coi đó là vũ điệu đi tới chân lý thẩm mỹ. Đã đến lúc Nguyên Sa trở về vào năm nay, năm kỷ niệm 90 năm phong trào Thơ mới 1932 – 2022 và 65 năm đại hội nhà văn lần thứ nhất 1957. Về để gặp lại Xuân Diệu, Đoàn Phú Tứ, Lưu Trọng Lư … những thi sỹ mà ông thầm tôn kính và noi theo tại một nơi đình miếu xưa nào đó của đất Thăng Long linh thiêng mà bình dị. Rồi Nguyên Sa gặp lại được ở đời thường Áo lụa Hà Đông trong trang phục mùa thu tóc ngắn vốn chỉ là ký ức gần một thế kỷ xa cách nay vẫn còn đó và chỉ cần đi một cung đường thật ngắn thảnh thơi, khép lại đoạn đường dài của ngày trở về.

Hà Nội giữa xuân

3-2022.

  1. Francois Rabelais – (1494 – 1533). Nhà văn Pháp nổi tiếng. Tiểu thuyết Gargantua và Pantagruel của ông được mệnh danh là tượng đài bách khoa của thời đại phục hưng ở Pháp. Rabelais đồng thời là linh mục và bác sỹ.
  2. Francois Chateaubriand (1768 – 1848). Nhà chính trị, nhà ngoại giao và nhà văn Pháp. Từng làm đại sứ ở Berlin, London, Rome và Bộ trưởng Bộ ngoại giao Pháp. Người đi tiên phong của chủ nghĩa lãng mạn Pháp.
  3. Lê Đạt – Đường chữ - NXB Hội nhà văn 2019. Trang 395 và 577.
  4. Bác sỹ Zhivago – Boris Pasternak – NXB văn học 2016 – Trang 19.

Nguồn: Báo Văn nghệ số ra ngày 30.4.2022

 

"Khi soi ngắm một người phụ nữ trong quá khứ, chúng ta có thể ngẫm nghĩ nhiều điều về nữ giới, từ những điều thuộc về hôm qua, đến những điều thuộc về hôm nay và trong tương lai" -  TS. Hồ Khánh Vân. 

Nhìn lại quá khứ, có lẽ, chúng ta chỉ thấy một chuỗi gương mặt nam giới đứng trên những cột mốc lịch sử. Phụ nữ hầu như vắng bóng hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua với đôi ba đường nét phác hoạ sơ sài. Những định kiến giới và quan niệm trọng nam khinh nữ trong xã hội mang đậm tính nam trị đã khiến người nữ chỉ tồn tại bằng những cái tên, bằng vài mảnh truyện kể dã sử tản mác trong trí nhớ dân gian, chứ hiếm khi được lưu dấu ấn trong chính sử.

20211207 2

Từ Dụ thái hậu: Đời người phụ nữ và góc khuất vương triều.

Với khát vọng bổ khuyết nữ giới vào bức tranh lịch sử, thời gian gần đây, nhiều nhà văn đã kết hợp trí tưởng tượng đầy sáng tạo của mình với truyền thuyết để tạo ra chân dung của những người đàn bà đã tan thành cát bụi. Từ Dụ thái hậu của Trần Thuỳ Mai là một bộ tiểu thuyết lịch sử đầy công phu. Hai tập truyện vừa lôi cuốn người đọc bằng cách khơi gợi sự tò mò về những tình tiết đầy gay cấn trong cung đình nhà Nguyễn, từ chốn hậu cung đến trước ngai vàng, vừa dẫn dắt trái tim và trí tưởng người đọc qua các cung bậc xúc cảm đa dạng về thân phận phụ nữ.

Chuyện chốn hậu cung: hấp dẫn vì cung đấu và ngôn tình

Những năm gần đây, trào lưu tiểu thuyết và phim truyện cung đấu, ngôn tình nổi lên như một hiện tượng trong đời sống văn hoá Việt Nam và các nước châu Á. Bộ truyện Từ Dụ thái hậu cũng lôi cuốn người đọc với những mưu đồ tàn nhẫn đến nghẹt thở; những cuộc giằng co tranh chấp quyền lực, tình yêu và sự gần gũi của đức vua; những toan tính của các phi tần nhằm đưa đứa con trai mình sinh ra lên ngai vàng,…

Hành trình của một kiếp đàn bà chốn cung đình vừa thể hiện một thân phận cá nhân người nữ giữa sóng gió vương triều, vừa tái hiện bức tranh lịch sử thời Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức – những triều đại nhà Nguyễn vừa rất gần với chúng ta, nhưng cũng khá mơ hồ, xa xôi bởi nhiều câu chuyện của 200 năm trước chưa được kể lại. Tên tuổi của Từ Dụ gắn liền với bệnh viện phụ sản trung ương lớn nhất miền Nam, nhưng chẳng biết có mấy người đến sinh con mà hiểu rõ ngọn ngành công đức lẫn tấm lòng nhân hậu của bà?

Thế giới chốn hậu cung tưởng “êm đềm trướng rủ màn che” (Truyện Kiều – Nguyễn Du) nhưng thực ra, lại đầy những đớn đau, uẩn khúc, oan tình có thể dội ngược ra tiền sảnh triều đình. Trong cái chết của vua Gia Long có thể chất chứa nỗi đau đớn khi liên tiếp mất đi người vợ đầu từng cùng mình trải bao sóng gió thuở chinh chiến lập nghiệp và người phi mình sủng ái, đầu ấp tay gối cận kề suốt bao năm, dẫu cho nàng từng là hoàng hậu nhà Tây Sơn – kẻ thù của nhà Nguyễn.

Nhà văn Trần Thùy Mai - tác giả quyển sách.

Miên Tông bị phế truất ngôi thái tử cũng chỉ vì yêu mến tình nhi nữ, say mê và quyến luyến ái phi. Hằng bị khép tội phản nghịch, gian dâm, chịu nhục hình đau đớn cũng vì những nước cờ đầy toan tính của thái hậu trong việc sắp đặt ngai vua. Cái bánh gai xứ Bình Định cũng có thể mang tội phản loạn, thang rượu Minh Mạng cũng có thể thay đổi bước đi lịch sử của một vương triều.

Từng trang sách lôi cuốn người đọc không phải bằng binh đao chiến trường, bằng tranh chấp triều chính mà bằng một thế giới đời thường, rất gần gũi trong cuộc sống sinh hoạt của những người đàn bà: mâm cơm, bát rượu, chiếc bánh, mang thai, sinh nở, nuôi dạy con cái, ái tình… Nhờ vậy, chúng ta thấy lịch sử hiện lên chân thật, mềm mại, sống động và người Việt có thể hiểu hơn, yêu mến hơn một cung đường quá khứ của dân tộc mình.

Phụ nữ đứng ở đâu trong lịch sử?

Sức hấp dẫn của ngòi bút Trần Thuỳ Mai còn nằm ở chỗ vượt lên những motif thông thường của cung đấu và ngôn tình để tái hiện cho chúng ta những hơi thở lịch sử phong phú, đậm phong vị văn hoá Việt Nam. Giữa kịch tính chốn vương triều, các nhân vật không bị đẩy lên thái quá, chỉ biết hận thù và giằng xé nhau, biến thành những con rối trong cuộc tranh giành.

Từ Dụ thái hậu từ khi vào cung đến lúc ngự trên đỉnh cao quyền lực vẫn giữ nếp sống thanh đạm, bình dị với tâm hồn trong trẻo, nhân từ, không bị những đau thương giày xéo làm cho vẩn đục. Thêm nữa, trước bức lụa mềm của lịch sử này, chúng ta sẽ rung động vì tấm chung tình của Thiệu Trị, vị vua không mong cầu thê thiếp mà chỉ muốn sống với người con gái mình yêu từ thuở thiếu thời. Chúng ta sẽ tủm tỉm cười vì mối quyến luyến mẹ của Tự Đức, như mọi đứa con yêu dấu người mẹ quá đỗi anh minh và nhân hậu.

Không như tưởng tượng của chúng ta về các motif cung đấu và ngôn tình vốn bắt đầu trở nên quen thuộc và nhàm chán, lối kể của Trần Thuỳ Mai mang đến một đời sống chân thực, đa thanh, đa sắc, giúp mỗi người hình dung rõ rệt và cũng xúc động một cách rõ rệt trước sự sống đủ đầy vui, buồn, hạnh phúc, đau thương của hoàng tộc triều Nguyễn thời kỳ đầu. Từ Dụ thái hậu khiến lịch sử sống lại, và cũng khiến chúng ta như được sống trong lịch sử, cùng người xưa trải qua bao biến động thời cuộc.

Từ chuyện thái hậu năm xưa đến chuyện nữ giới bây giờ

Gần 900 trang sách đã tạo nên một mảnh ghép thú vị, giàu ý nghĩa trong bức tranh lịch sử Việt Nam. Ngắm nhìn lại câu chuyện của một tiểu thư, một ái phi, một thái hậu cách đây 200 năm, độc giả sẽ càng thấm thía trong những suy tư về phận đàn bà.

'Từ Dụ thái hậu': Ngẫm về thân phận phụ nữ xưa và nay'Từ Dụ thái hậu': Ngẫm về thân phận phụ nữ xưa và nay

Hình tượng Từ Dụ Thái hậu từng được tái hiện qua âm nhạc, phim ảnh. Ca sĩ Như Quỳnh hát 'Cung sầu Gia Thọ' và nghệ sĩ Hồng Đào diễn xuất trong 'Phượng khấu'. 

Dẫu là một người nữ vô danh, sống bình dị chốn quê mùa hay là một bà hoàng, ngự trên đỉnh cao quyền lực, người phụ nữ muôn đời vẫn có những ước ao, khao khát thường tình về một hạnh phúc giản dị, yên lành bên chồng con, dưới mái nhà và người phụ nữ muôn đời vẫn phải trải qua những buồn tủi, khổ luỵ của kiếp nữ.

Định kiến của xã hội về vai trò, địa vị của nữ giới; những quan niệm mang tính bất bình đẳng giới vẫn còn kéo dài dai dẳng từ xã hội thời xưa cho đến tận ngày nay. Sự tranh chấp, giằng co, thậm chí gây ra cái chết bi thương của các phi tần để đoạt lấy tình yêu mến, những đêm gần gũi từ đấng quân vương có thể chiếu rọi cho ta thấy sự nối dài tâm thức đa thê của nam giới và các “cuộc chiến” giữa những người đàn bà trên đường phố, trong nhà nghỉ, giữa quán xá để tranh giành người tình ngày nay.

Nỗi đau của những người vợ, của các “tiểu tam”, “trà xanh” (như cách gọi phổ biến trên mạng xã hội) đã được khơi nguồn từ hậu cung các vương triều phong kiến xa xưa. Đến bao giờ, xã hội còn dung túng cho niềm khao khát đa thê của nam giới thì những cuộc “cung đấu” giữa nữ giới vẫn còn tiếp diễn và gây ra bao tổn thương dưới những mái nhà.

Hơn nữa, từ chuyện của thái hậu, ta có thể giật mình nghĩ đến muôn vàn người phụ nữ Việt Nam đã từng tham gia vào triều chính, từng có những tác động đến đời sống của dân tộc và tạo ra ảnh hưởng đến lịch sử nhưng chưa được biết đến một cách cụ thể, tỉ mỉ mà chỉ lướt qua trí nhớ dân gian bằng những cái tên như thái hậu Dương Vân Nga, nguyên phi Ỷ Lan, Từ Thục phu nhân, công chúa Lý Chiêu Hoàng, Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, Huyền Trân công chúa, Ngọc Vạn công chúa,…

Chúng đa đang nhìn người phụ nữ như thế nào? Sự ghi nhận của chúng ta đã thực sự xứng đáng với những gì họ đóng góp cho lịch sử của dân tộc hay chưa? Và với những người phụ nữ hiện nay, xã hội đã thực sự công bằng với họ? Những định kiến, những rào cản với nữ giới đã được xoá mờ hay chưa? Khi soi ngắm một người phụ nữ trong quá khứ, chúng ta có thể ngẫm nghĩ nhiều điều về nữ giới, từ những điều thuộc về hôm qua, đến những điều thuộc về hôm nay và trong tương lai.

TS. Hồ Khánh Vân

Nguồn: Vietnamnet, ngày 20.10.2021.

Lực lượng chủ công trong đội ngũ viết hôm nay, theo tôi nghĩ và mong đợi, đó phải là thế hệ viết sinh ra trước sau thời điểm 1990. Sớm hơn một ít, đó là năm 1986 - năm khởi động công cuộc Đổi mới. Muộn hơn một chút, đó là năm 1995 - năm Việt Nam thoát khỏi thế cấm vận và gia nhập ASEAN.

20220508 5

Có thể tìm thấy khát vọng đi tìm cái riêng là ráo riết nhất ở lớp người này. Lớp người đến nay nhìn chung ở vào tuổi ngoài 20 cho đến trên 30 dưới 40, là lứa tuổi có tiềm năng và hoàn cảnh tốt nhất cho việc thực hiện các khát vọng; và nhìn vào lịch sử, thì chính đó là lứa tuổi đã làm nên các mùa màng lớn, như mùa văn học 1930 - 1945 trước yêu cầu hiện đại hóa văn học, trong tư cách là các kiện tướng của phong trào Thơ mới, của văn xuôi lãng mạn và văn xuôi hiện thực...; hoặc mùa 1960 - 1975 trước yêu cầu giải phóng và thống nhất Tổ quốc, trong tư cách nhà văn - chiến sĩ...

Việc thực hiện được cái riêng của thế hệ, và của cá nhân từng người viết là yêu cầu chính đáng và cần thiết để đưa lại một diện mạo mới cho văn học qua các thời kỳ.

Rõ ràng cái vốn căn bản đầu tiên để chúng ta hy vọng và trông đợi ở một thế hệ viết - đó là sức trẻ, là tuổi trẻ. Không có một cuộc cách mạng nào trong lịch sử, kể cả cách mạng văn học mà không được thực hiện bởi một lực lượng trẻ. Ở cuộc chuyển động lần thứ nhất, thời 1930 - 1945, người nhiều tuổi nhất là Ngô Tất Tố (sinh 1893), viết Tắt đèn ở tuổi 45, và Khái Hưng (sinh 1896) viết Hồn bướm mơ tiên ở tuổi 37; cả hai rất hiếm hoi đã vượt được áp lực tuổi tác để đứng ở hàng đầu hai trào lưu hiện thực và lãng mạn; còn tất cả, hoặc hầu hết những người viết khác đều thực hiện được khát vọng văn chương của mình ở tuổi 20 đến 30; trong đó những tên tuổi sáng giá như Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Hàn Mặc Tử, Xuân Diệu, Huy Cận, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính... đều ở tuổi ngoài 20 hoặc ngót 30.

Mấy thế hệ viết sau 1945, cũng đã đến được hoặc đạt đỉnh cao sáng tạo của mình ở tuổi 20 đến 30, như Trần Đăng, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Nguyễn Đình Thi, Hoàng Trung Thông, Chính Hữu..., trong mở đầu và kết thúc văn học chống Pháp, rồi gối sang thời chống Mỹ như Hữu Mai, Nguyễn Khải, Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc, Hồ Phương, Nguyễn Sáng, Phan Tứ, Anh Đức...; tiếp đến là lứa 20 văn học chống Mỹ gối sang thời Đổi mới như Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Lưu Quang Vũ, Bằng Việt, Đỗ Chu, Lê Lựu, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Quần Phương, Nguyễn Khoa Điềm, Lê Anh Xuân, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo, Trần Nhuận Minh, Nguyễn Duy, Dương Hướng, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều, Trần Đăng Khoa, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh...

Trở lại hơn 30 năm qua, tính từ sau 1990, đời sống văn học chúng ta vẫn có sự xuất hiện đều, và càng về sau càng nhiều những tên tuổi mới. Nhưng dường như tất cả họ vẫn chưa hội được thành một đội ngũ, trong một cuộc hành trình không lẫn vào nhau, nhưng cũng không quay lưng với nhau; với cái gọi là “cá tính sáng tạo” thật sự, được xác định bằng chính nội lực bản thân, mà không cần gây “sốc”; được chấp nhận không phải chỉ ở một vài cây bút phê bình hoặc nhà văn cấp tiến mà là số đông người đọc, tôi tin không phải tất cả đều bảo thủ…

Xét theo lịch sử thì 30 năm qua, đó là một thay đổi hiếm có, hoặc chưa từng có. Để từ chiến tranh (những hơn 30 năm) chuyển sang hòa bình (hơn 45 năm). Từ đất nước bị chia cắt (hơn 20 năm) đến đất nước thống nhất (hơn 45 năm). Từ giao lưu hẹp đến giao lưu rộng... Những chuyển động như thế phải nói là rất lớn. Lớn và cũng có tầm một cuộc chuyển giao tựa như chuyển giao từ thế kỷ XIX sang thế kỷ XX, đưa đất nước từ trạng thái phong bế, lạc hậu vào một cuộc Canh tân. Lớn như Cách mạng tháng Tám 1945 làm thay đổi chế độ. Tiếp tục thành quả của Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến, Đổi mới, rồi Hội nhập - đó là một cuộc lên đường mới của dân tộc để rút ngắn những so le lịch sử giữa dân tộc và thời đại.

Để có đủ tiềm lực và hành trang cho một chuyển đổi mang tính cách mạng như thế, văn học, cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, kể cả kinh tế, chính trị, cần đến những lực lượng trẻ; mà nói trẻ là nói đến những thế hệ trên dưới tuổi 30, thậm chí là trong ngoài 20. Chứ không thể là 60 - hoặc hơn, thậm chí 50, hoặc 40.

35 năm trong sự nghiệp Đổi mới, 45 năm sau khi kết thúc chiến tranh, tính đến thời điểm 2022 lịch sử này - đó là một thời gian không ngắn, nếu so với các chu kỳ biến động của đời sống và sinh hoạt văn học Việt Nam thế kỷ XX… 35 năm và 45 năm - đó là sự đồng hành của bốn (hoặc năm) thế hệ viết; và thế hệ tiếp nối, thế hệ có trách nhiệm nhận sự chuyển giao, trong mở đầu thế kỷ XXI này, có khác với tất cả các thế hệ trước, gần như không phải chịu một sức ép nào của truyền thống, của lịch sử, mà chỉ chịu một sức ép lớn nhất và duy nhất là sức ép của thời đại, trong một cuộc hội nhập mà dân tộc gần như không thể tránh, nếu không nói là phải dũng cảm đón nhận trong tư thế chủ động, để khỏi bị đẩy ra khỏi “đường ray của con tàu phát triển”.

Cần một cách nhìn như thế để chúng ta có đòi hỏi cao đối với một thế hệ viết mới - thế hệ tuổi 20 đến 30; và để không ngạc nhiên trước những gì rồi sẽ diễn ra - tôi hy vọng thế, như đã diễn ra trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, nếu lấy con mắt Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh mà nhìn Nguyễn Ái Quốc; nếu lấy con mắt Nguyễn Khuyến, Tú Xương mà nhìn Hồ Biểu Chánh, Tản Đà; nếu lấy con mắt Tản Đà và Hoàng Ngọc Phách mà nhìn Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Tuân, Nam Cao... Còn hơn một sự thay thế, đó còn là một đứt gẫy tự nguyện, không hề gây tiếc nuối hoặc đau đớn. Bởi phải một thế hệ trẻ, hoặc rất trẻ, vừa là sản phẩm của hoàn cảnh, lại vừa là chủ thể của hoàn cảnh, với bản lĩnh cá nhânsức mạnh của đội ngũ, mới mong đưa đời sống văn học vào một bước ngoặt, mang tính cách mạng, như đã từng diễn ra trong 15 năm - từ 1930 đến 1945; và đang tiếp tục được đón đợi, với quy mô và tầm vóc chắc chắn là còn lớn hơn gấp nhiều lần vào đầu thế kỷ XXI, sau 35 năm đất nước trong Đổi mới và Hội nhập.

*

Nhận diện đặc trưng về nội dung và nghệ thuật trong sáng tạo của các thế hệ viết ở lứa tuổi từ ngoài 20 đến trước sau 30, trên những thông tin ít ỏi mà tôi được biết tôi thấy có những dấu hiệu chung như sau:

1. Nổi lên vai trò cá nhân thay cho cộng đồng, do sự ráo riết đi tìm những khác biệt thay cho tương đồng. Dị ứng với cái chung, cái giống nhau. Mối quan tâm này chi phối mọi cách thức tìm kiếm trong nội dung và nghệ thuật thể hiện.

2. Xuất hiện những nhân vật mới thay cho hệ thống nhân vật cũ đã quá quen thuộc trong nhiều chục năm chiến tranh và xây dựng chủ nghĩa xã hội như Công Nông Binh; Con người mới - Cuộc sống mới; những tấm gương tiên tiến thuộc Người thực Việc thực (để ca ngợi, xưng tụng, nêu gương)…; và những nhân vật tiêu cực trong bộ phận lãnh đạo thoái hóa, cao nhất chỉ đến cấp huyện (để phê phán). Còn bây giờ nhân vật mới, đó là các thế hệ trẻ trước những băn khoăn về tình yêu và tình dục, lẽ sống, khát vọng cá nhân, con đường lập nghiệp, và các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, hoặc siêu nhiên và… vũ trụ…

Họ kể chuyện về chính mình, đi sâu vào bản thân mình, và tìm được sự hưởng ứng của thế hệ. Sách của họ được in ra với “con số đáng mơ” và được tiêu thụ rất nhanh, qua những cái tên gần đây nhất như Anh Khang, Phan Ý Yên, Jun Phạm, Minh Đức, Diệu Ái, Nguyễn Duy Quyền, Hạnh Nguyên, Nguyễn Phong Việt… Con số do Công ty văn hóa Phương Nam cung cấp: Tổng lượng phát hành 5 cuốn của Anh Khang đến nay là 540.000 bản, 3 cuốn của Phan Ý Yên là 200.000 bản, 3 cuốn của Jun Phạm là 250.000 bản ([1])…

Hạnh Nguyên, sinh 1995, trong Say - quyển sách được Giải Phát hiện mới của Giải Sách hay 2016, có thế giới nhân vật “là những người trẻ cô đơn, khép kín và vô định, lọt thỏm giữa vụ trụ rộng lớn của cõi người”. Hạnh Nguyên viết từ tuổi 17 - cái tuổi mọi điều buồn vui đều có thể trở thành một “vấn đề”. “Nguyên viết cho cô, nhưng cũng là cho tuổi 17 đầy hoang hoải của bất kỳ cô cậu nhóc nào”… Điều cần lưu ý là tất cả những tên tuổi đã nêu trên trong số rất, rất nhiều tên tuổi viết trẻ khác, có dễ đến hàng trăm, xuất hiện từ nhiều năm trước đây, số lớn ở phía Nam, đều không có gì liên quan đến Hội Nhà văn Việt Nam, một tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng và Nhà nước đã có thâm niên trên 60 năm, với trên dưới 1000 hội viên, không kể những người đã mất, tính cho đến nay; và với tuổi thọ bình quân có lẽ phải trên 60, hoặc gần 70! ([2]) . Tôi nghĩ vậy, bởi người được phân công phụ trách đội ngũ viết văn trẻ trong Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam nhiệm kỳ này là nhà thơ Hữu Việt đến nay cũng đã gần tuổi 60 rồi.

3. Chức năng giải trí trội lên, đứng ở hàng đầu thay cho nhận thức, và giáo dục; cả hai giờ đây rất ít có vai trò vì đã có các phương tiện khác thay thế.

Nhận thức: Các phương tiện thông tin, truyền thông giải quyết ngay tại chỗ và bất cứ lúc nào.

Giáo dục: Trả về cho gia đình, nhà trường cùng bộ máy công quyền phải sao cho trong sạch gương mẫu gắn với việc thực thi hiến pháp, pháp luật.

Đáng tiếc là cả ba khu vực này còn rất nhiều khiếm khuyết, bất cập, thậm chí còn chưa ra khỏi những suy thoái cục bộ.

4. Thay vì các thứ tính như tính Đảng, tính giai cấp, tính Nhân dân (với cách hiểu nhiều thiên lệch và bất cập trước đây), bây giờ là sự nổi lên cá tính trong đối ứng với tính dân tộctính nhân loại.

5. Ít quan tâm, và do vậy mà khó nhận ra những vấn đề nóng bỏng gây nhức nhối cho xã hội, cũng là dấu hiệu đáng lưu ý khi chức năng nhận thức xã hội được khoán trắng cho báo chí, truyền thông.

*

Là người viết và cũng là người đọc thuộc thế hệ sống trọn vẹn trong 3 cuộc chiến chống xâm lược, và chống đói nghèo suốt hơn nửa thế kỷ, tính từ sau 1945 cho đến hết thập niên 1990, tôi rất mong mỏi có những đổi thay lớn trong tương lai văn học nghệ thuật nước nhà đang chuyển sang vai các thế hệ trẻ - là sản phẩm và là chủ thể của hiện thực mới hôm nay, của chính cái thời chúng ta đang sống hôm nay. Được đồng hành với họ, được chứng kiến sự xuất hiện và thay thế của họ cũng đã là hạnh phúc lớn!

Là người đọc và người viết của thế kỷ XX, tôi ít có cơ hội để tiếp xúc với các thế hệ viết hôm nay, nên chỉ có thể nêu một số nhận xét sơ bộ về mấy dấu hiệu chung làm nên đặc trưng của đội ngũ mà chưa thể và cũng không nên có ý kiến gì đánh giá để khen chê. Chỉ có cảm tưởng qua 5 dấu hiệu đã nêu mà làm nên một thay đổi, hoặc thay thế, hoặc đứt gẫy tự nhiên với các thế hệ làm nên gương mặt thế kỷ XX - qua 3 mùa màng lớn, trong đó ở mùa đầu (1930 - 1945) có một chuyển ngôi hoặc đứt gẫy ở thập niên 1920; và hai mùa sau (1945 - 1975 và 1980 - 1995) là một đồng hành và tiếp nối.

Gần đây, may mắn được đọc bài viết Người viết trẻ tự vẽ những đường bay của nhà phê bình - nhà thơ Hoàng Đăng Khoa, sinh năm 1977, hiện công tác ở Tạp chí Văn nghệ Quân đội, đăng trên Tạp chí Sông Hương số Đặc biệt 43, tháng 12/2021. Bài viết giúp tôi được biết một Danh sách các tác giả trẻ ở tuổi trên dưới 30, đúng như mong mỏi của tôi.

Danh sách 1 gồm 13 người, với năm sinhtác phẩm:

Minh Mooh (sinh năm 1986) viết Hạt hòa bình; Đinh Phương (sinh năm 1989) viết Nhụy khúc, Chuyến tàu nhật thựcNắng Thổ Tang; Nguyễn Dương Quỳnh (sinh năm 1990) viết Thăm thẳm mùa hè; Nhật Phi (sinh năm 1991) viết Người ngủ thuê; Phạm Bá Diệp (sinh năm 1991) viết Urem người đang mơ; Thành Châu (sinh năm 1991) viết Hỏa Dực; Đức Anh (sinh năm 1993) viết Tường lửa, Thiên thần mù sươngĐảo bạo bệnh; Hoàng Yến (sinh năm 1993) viết Săn mộ, Thông thiên la thànhThượng Dương; Huỳnh Trọng Khang (sinh năm 1994) viết Mộ phần tuổi trẻ, Những vọng âm nằm ngủ; Đặng Hằng (sinh năm 1995) viết Nhân gian nằm nghiêng; Phạm Giai Quỳnh (sinh năm 1997) viết Trăng trong cõi; Nguyễn Bình (sinh năm 2001) viết Cuộc chiến với hành tinh Fantom; Cao Việt Quỳnh (sinh năm 2008) viết Người Sao Chổi: cuộc chiến vòng quanh thế giới

ùng với lời bình của Hoàng Đăng Khoa, đặt ở đầu: “... Đành rằng văn chương không thể đóng cửa trước những vang động của đời, nhưng nhà văn nếu cần ăng ten đủ thích nhạy thì không nhất thiết phải thực hành những chuyến “thực tế sáng tác” cưỡi ngựa xem hoa hời hợt vô bổ”… Và ở cuối, sau khi điểm 19 tên sách của 13 tác giả đã nêu, để thấy “họ biết đi thực tế sáng tác” ở đâu, khi mà cái gọi là “hiện thực” trong các truyện dài, tiểu thuyết của họ đều hoặc là “hiện thực ngoài hiện thực” hoặc là hiện thực ở thì tương lai, hoặc là “hiện thực” thuộc về thời đại đã lùi xa - thời đại mà họ chưa được sinh ra?”

Danh sách 2 gồm 15 người “với trữ lượng chữ vạm vỡ”, những tay bút “đa năng” “nhiều trong một”:

Văn Thành Lê (sinh năm 1986): nhà văn, nhà phê bình; Đào Lê Na (sinh năm 1986): nhà phê bình, nhà văn; Nguyễn Thị Thúy Hạnh (sinh năm 1987): nhà thơ, dịch giả, nhà phê bình; Hà Hương Sơn (sinh năm 1986): nhà thơ, nhà văn; Lữ Mai (sinh năm 1988): nhà thơ, nhà văn; Nguyễn Thị Kim Nhung (sinh năm 1990): nhà thơ, nhà văn; Nguyễn Thị Thùy Linh (sinh năm 1991): nhà thơ, dịch giả, nhà văn; Meggie Phạm/ Phạm Phú Uyên Châu (sinh năm 1991): nhà văn, nhà phê bình; Hiền Trang (sinh năm 1993): nhà văn, nhà phê bình, dịch giả; Phan Đức Lộc (sinh năm 1995): nhà văn, nhà thơ; Phạm Thu Hà (sinh năm 1996): nhà văn, dịch giả; Nguyễn Đình Minh Khuê (sinh năm 1996): nhà phê bình, nhà văn; Lê Quang Trạng (sinh năm 1996): nhà văn, nhà thơ; Vĩnh Thông (sinh năm 1996): nhà văn, nhà thơ; Hương Giang (sinh năm 1997): nhà thơ - nhà phê bình.

Cuối bài, có thêm 2 tác giả là Nhung Nhung (sinh năm 1991) và Hoàng Thúy (sinh năm 1992).

Chắc chắn là còn nhiều chục tên tuổi khác chưa được dẫn ở đây. Nhưng chỉ với 30 tác giả, cùng với 8 tác giả tôi đã dẫn ở phần trên sẽ là 38 người. 38 tác giả nếu thực sự là những tài năng, có được số bạn đọc lớn, không chỉ gây được sự chú ý mà còn tạo được ấn tượng khiến người đọc không thể bỏ qua thì đó là cả một đội ngũ đáng tin cậy. Một đội ngũ xứng đáng đóng vai trò chủ công để thay thế cho các thế hệ làm nên gương mặt văn chương thế kỷ XX, qua ba mùa gặt lớn - 1930 - 1945, 1945 - 1975 và 1980 - 1995 như tôi đã nói trên.

Tôi đặt hy vọng nhiều vào sự thay thế, hoặc chuyển ngôi này - như một biểu tượng của sự phát triển, thuận theo quy luật. Và như vậy là có sự gặp nhau giữa hai thập niên đầu thế kỷ XX và XXI, khi thời cuộc chuyển sang một quỹ đạo mới, một bước ngoặt mới, như một thay thế, thậm chí là đứt gẫy mà không gây nên xáo trộn hoặc xúc động gì lớn trong tất cả mọi lực lượng còn viết hoặc đã ngừng viết.

Được đồng hành với nhau là niềm vui. Thay thế nhau, hoặc đứt gẫy cũng là niềm vui, có khi còn vui hơn cho sự đổi thay, sự vượt lên, sự trưởng thành của một nền văn học, qua các bước ngoặt lịch sử - ít nhất là hai bước ngoặt như chúng ta được biết, được chứng kiến, được sống ở hai đầu thế kỷ XX và XXI, sau 1000 năm văn học viết trung đại gần như đứng yên một chỗ mà vẫn có hai đỉnh cao vòi vọi là Bình Ngô đại cáoTruyện Kiều bất hủ.

Phong Lê

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 398/04-2022, phiên bản điện tử ngày 30.4.2022.

---

Chú thích

[1] Tuổi trẻ; số 16/2/2017.

[2] Theo sách Nhà văn Việt Nam hiện đại; Nxb. Hội Nhà văn, 2020, có danh sách 1586 người, trong đó hơn 600 người đã qua đời.

Buồn chảy qua rêu giọt nước thầm. Câu thơ này Thâm Tâm viết vào năm 1940. Trong bài Không đề. Ám ảnh tôi không biết tự bao giờ. Có nhẽ từ nửa sau năm 1988. Khi tập Thơ Thâm Tâm được Nhà xuất bản Văn học in lần đầu tiên gồm 18 bài thơ và hai phụ lục. Cũng có thể khi bộ phim tài liệu Nhớ Thâm Tâm được công chiếu trên truyền hình vào dịp kỷ niệm 50 năm ngày mất của ông dạo năm 2000. Cuộc đời ngắn ngủi và sự nghiệp thơ đang dang dở núi vơi sông đầy còn ngắn hơn chưa hẳn đã là yếu tố thứ nhất gây cho người ta cảm giác được đốt một lư hương trầm tưởng niệm lặng lẽ mà cái chính yếu là vỏn vẹn chưa đầy hai chục bài thơ ấy đã gây mê cho người đời, làm họ lạc giữa những thời đại thi ca từ cổ điển đến một quá khứ gần và hiện tại lại xa. Thơ Thâm Tâm như giọt nước thầm nhỏ bé không ồn ào mà long lanh đến thế giữa đêm tháng Chạp sương giăng tan vào ánh trăng nghe các thời đại thi ca rủ nhau đi trong trời những tám hướng sương mà người thi sỹ đã ròng đêm đứng thắp mẩu tầm hương không hồng được nữa hồi năm 40 của thế kỷ 20.

Thâm Tâm sinh ngày 12 tháng 5 năm 1917 và mất ngày 18 tháng 8 năm 1950. Dưới chân đèo Mã Phục, bản Pò Noa huyện Quảng Uyên – Cao Bằng, nơi mà từ ngày 29 đến 30 tháng 7 năm 1950, Nguyễn Huy Tưởng cũng đi qua và ghi lại là: đèo cao ngất, lởm chởm đá để ngày 8 tháng 8 năm 1950 cũng dừng lại Pò Noa, nơi bản xa Thâm Tâm đã nằm xuống vĩnh viễn sau đấy 10 ngày. Ông quê gốc ở Hải Dương. Năm 1938, khi Thâm Tâm 21 tuổi, đã cùng cha mẹ, các em gái và vợ lên Hà Nội. Ở lại Nhà Diêm. Nay không còn tên địa danh này nữa. Có người bảo ở khu vực Ô Cầu Dền. Trong bài thơ Tráng Ca viết 1944 theo kiểu tập Kiều, Thâm Tâm kể lại vận hạn thời cuộc cũng là vận hạn nhà mình. Sinh ta cha ném bút rồi. Rừng nho tàn rụng cho đời sang xuântừng nơi cơm trấu, áo rơm. Mưa xuân nhuộm tái mấy cơn mặt vàng. Kìa kìa lũ trước dòng sau… Họ nương tựa vào nhau trong cảnh bần hàn. Mấy em gái sống về nghề đóng sách mướn cho các nhà xuất bản. Kiếm ăn chật vật. Thâm Tâm vừa viết báo, viết văn kiêm luôn thợ đóng sách. Vũ Bằng kể: Được đồng nào Thâm Tâm chỉ mang về cho gia đình một ít, còn lại phải thù tiếp trả lại anh em. Trong nhà ít khi đủ tiền tiêu. Nhưng không bao giờ than thở với ai. Một lần bí tiền quá, Thâm Tâm buộc phải đánh tiếng vay Vũ Đình Long, chủ bút báo Tiểu thuyết thứ bảy – là tờ báo Thâm Tâm đang viết giúp. Long chẳng những từ chối mà còn bảo: Không nên vay thì hơn. Thâm Tâm đứng phắt dậy. Móc túi còn bao nhiêu mời anh em đi uống rượu hết. Bữa đó Thâm Tâm uống thật say. Tô Hoài bảo: Nhóm áo bào gốc liễu chỉ 5 người nhưng có tới 3 hũ rượu: Nguyễn Bính, Thâm Tâm, Đinh Hùng. Một bữa, nhóm này làm thơ xướng họa theo kiểu liên ngâm Ngô sơn vọng nguyệt ở làng Canh. Hồi đó thuộc tỉnh Hà Đông. Thâm Tâm góp 2 câu đều về rượu cả: Rượu say còn lắng trăng mờ. Tiệc sau e bóng người thơ lạc loàiTiệc tàn đến chén con con. Năm năm vẫn nhớ trăng tròn đêm nay. Nghĩ lại thời đó, thi sỹ ai cũng có lúc như thế và không phải lúc nào cũng bí tiền. Quan thanh tra Sở hỏa xa Đông Dương cung đường Vinh – Na Sầm – tên nhà ga cuối cùng của đường sắt ở miền biên ải Lạng Sơn, thi sỹ đời vắng em rồi say với ai Vũ Hoàng Chương hồi năm 1940 bán tập Thơ Say được 1000 đồng bạc Đông Dương. Có thể mua nổi một ngôi nhà nhỏ ở vùng chợ Hôm. Có cửa hàng hẳn hoi. Lúc này Thâm Tâm mới bắt đầu tả xung hữu đột trong làng báo làng văn. Còn Nguyên Hồng, cũng chừng đận ấy 2 năm phải ôm lậu muối từ Phòng về Hà Nội kiếm được một chuyến bằng tiền nhuận bút 4, 5 truyện ngắn được đăng. Vậy mà, theo lời thi sỹ Đinh Hùng: Thâm Tâm cùng với Phạm Hầu, Vũ Hoàng Chương, J.Leiba và một số thi sỹ khác đương thời đã nói được phần nào cái bâng khuâng lớn của thời đại. Vũ Bằng bảo: Thâm Tâm là người đa bất mãn hoài. Lì lì không nói. Bao nhiêu oán hận, tủi hờn đều gói ghém vào trong các bài thơ tuyệt diệu.

Cách mạng tháng 8 bùng nổ, Thâm Tâm bước ra khỏi cuộc đời sương giăng tám hướng thuở trước để hòa mình vào cách mạng.

Tạp chí Tiên Phong, cơ quan của Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam do Trần Huy Liệu làm chủ bút, số đặc biệt 15-16-17 ra ngày 19 tháng 8 năm 1946, Thâm Tâm cho đăng bài thơ Mùa Thu mới cùng dịp với Tình khoai sắn của Tố Hữu v.v.. Tiếp theo Tạp chí Tiên Phong số 18 đưa tin Hội Văn hóa cứu quốc đã xuất bản sách thơ của Thâm Tân. Ngày 12, 13, 14 tháng 10 năm 1946 Văn hóa cứu quốc đại hội toàn quốc lần thứ 2 (sau khi thành lập năm 1943 và đại hội lần 1 vào tháng 9/1945) tại Hà Nội trong tình thế đất nước đang ngàn cân treo sợi tóc bởi giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Thâm Tâm tham gia hội nghị này đã cùng nhiều văn nghệ sỹ khác ký vào Tuyên ngôn 13/10/1946 kêu gọi văn hóa thống nhất phụng sự tổ quốc, phụng sự nhân loại.

Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng ngày 3 tháng 11 năm 1946 ghi Nguyên Hồng bảo Tưởng và Thâm Tâm là hai con mõ già của văn hóa cứu quốc. Thời gian trôi đi thật gấp gáp. Vào đầu tháng 4 năm 1949, hội nghị đầu tiên về văn nghệ bộ đội được khai mở. Chính trị Cục trưởng quân đội Văn Tiến Dũng chủ tọa. Thâm Tâm cùng với Trần Độ và Chính Hữu được ngồi ghế chủ tịch Đoàn. Tỏ rõ thi sỹ của chúng ta trưởng thành như thế nào. Ngày 12 tháng 9 năm 1949, Thâm Tâm phát biểu về văn thơ bộ đội. Ông vạch ra một cách thuyết phục và dũng cảm đúng như bản chất con người ông, Thâm Tâm cho là loại thơ anh hùng của cán bộ, hình ảnh tưởng tượng, lời văn mĩ miều không được bộ đội hoan nghênh. Trái lại họ thích những bài thơ hợp với đời sống, ở bộ đội mà ra vì bộ đội mà có. Ảnh hưởng đến bộ đội rất mạnh. Dường như Thâm Tâm đang ở vai trò từ thực tiễn của đời sống kháng chiến đang còn vô cùng khó khăn giữa vòng vây địch, nói lên điều thật cần thiết. Đó cũng là bản lĩnh của một người trong cuộc tự nói về mình. Tiếc thay chỉ sau hội nghị này 11 tháng, khi mà Thâm Tâm chưa kịp làm được những điều tâm huyết đã nói ở trên, ông đã ngã xuống như một người lính trên đường đi Chiến dịch biên giới 1950 mà lúc đầu trận đánh mở màn định ở N5 – Thị xã Cao Bằng. Người ta nói rằng đến bây giờ phần mộ của ông vẫn chưa được tìm thấy sau khi đã quy tập về nghĩa trang liệt sỹ huyện Quảng Uyên. Chiến tranh biên giới sau đấy 30 năm – 1979 đã phá nát nốt những gì ghi lại được về mộ chí của người thi sỹ. Cuộc đời ông như giọt nước thầm rơi xuống giữa bạt ngàn rừng già im tiếng miền biên viễn phía Bắc. 71 năm nay chẳng ai còn gặp được ông nữa. Những người cùng thời vàng son một thuở - Vũ Bằng, Đinh Hùng, Nguyên Hồng, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Huy Tưởng … cũng không còn bóng dáng một ai nói gì đến giọt nước thầm kia đã rơi trong bao nhiêu sương gió của đời người. Đỗ Phủ khi Mộng Lý Bạch đã viết Thiên thu vạn tuế danh. Tịch mịch thân hậu sự. Nghĩa là Danh tiếng để lại muôn đời. Nhưng đó chỉ là việc lặng lẽ khi đã chết mà thôi.

Đời thơ Thâm Tâm có 18 bài. 9 bài viết năm 1940. 1 bài viết năm 1943. 4 bài viết năm 1944. 2 bài viết năm 1948. Có hai bài không ghi năm sáng tác. Có lẽ làm trước 1945. Dù thế. Như là sự giao thoa các thể loại thi ca của nhiều thời đại cộng lại. Ba bài lục bát và 1 bài pha một chút song thất lục bát. Gợi đến truyền thống thơ dân gian đã in mái đình bến nước lên rơm rạ lều tranh Việt Nam. Lại có 3 bài hành vốn là thể thơ từ thơ ca cổ điển phương Đông truyền lại. Một thể thơ phóng khoáng về lời thơ, câu chữ, độ dài hơn rất nhiều thơ niêm luật đời Đường. Đã có đỉnh cao Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị. Trường can hành của Lý Bạch và đặc biệt là Bất tiến hành, Trở binh hành, Sở kiến hành của Nguyễn Du. Trong khoảng 10 năm làm thơ của Thâm Tâm gọi là ngắn mà thực không phải ngắn. Năm 1940 đã là một nửa đời thơ. Thơ Thâm Tâm không ít chút nào. Hoài Thanh làm quyển Thi nhân Việt Nam 1941 đã kịp thời đưa Thâm Tâm vào hàng ngũ 44 nhà thơ của một thời đại mới trong thơ với một bài thơ duy nhất – Tống biệt hành đã nghiêng ngửa một trời thơ, sánh ngang với nhiều nhà thơ tài danh khác xuất hiện trước đó những mấy năm, khi mà 1936 đã là năm Thơ Mới thắng cách biệt thơ cũ. Sau này, sang đến thế kỷ 21, người ta còn xếp Tống biệt hành là một trong số 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20. Hoài Thanh trang trọng viết năm 1941: Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác với thơ thất ngôn cổ phong. Tống biệt hành lại thấy sống lại cái không khí riêng của bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc… đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại.

Đọc thơ Thâm Tâm tôi như đi giữa những thời đại thi ca. Cảm giác này lại không có khi đọc Mùa cổ điển của Quách Tấn năm 1941. Mặc dù Mùa cổ điển phần lớn viết theo thể thơ niêm luật nghiêm ngặt đời Đường. Quách Tấn đêm thu nghe quạ kêu khiến tôi những tưởng là Trương Kế trong Phong kiều dạ bạc. Cũng nghe thấy tiếng quạ kêu giữa đêm trăng thu sương thấp thoáng nguyệt mơ màng ở bến Phong Kiều. Đâu là Trương Kế và Quách Tấn đây?

Thơ Thâm Tâm hay và thành công nhất có thể kể đến 5 bài. Tống biệt hành 1940, Vạn lý trường thành 1940, Can trường hành 1944, Vọng nhân hành 1944, và Chiều mưa đường số năm 1948. Trong đó, Tống biệt hành trang trọng xếp Thâm Tâm vào đội ngũ thi sỹ Phong trào Thơ Mới  (1930 – 1945). Với Chiều mưa đường số 5 ông vững tin bước vào thi đài thi ca kháng chiến chống Pháp.

Cảm hứng chủ đạo thơ Thâm Tâm trước năm 1945 là nỗi day dứt và ưu tư thời cuộc. Một hiện thực đầy bức bách khi thấy hoa gạo hôm nay rụng với chiều mà cành khô xác nứt như kêu cứu. Rừng đời lạc lối ra. Cảnh bán hoa đào đến nỗi phố đỏ trưng một thời vang bóng mà ngậm ngùi lệ thấm nỗi đau trinh bán một giờ. Mẹ bán con thơ. Trai cùng đường bán thân cao trọng – Một xã hội vạn linh hồn đang dạm bán mua. Hiện tại đẩy người ta vào hoài niệm cõi xưa như bị vây bọc vạn lý trường thành mấy tầng đổ nát mấy tầng hoang. Đây nơi cửa ải xa cửa ải gần chỉ thấy bóng nhàn nhạt đám tàn dân với bao nhiêu huyết hận. Ta tưởng yên tĩnh sống trong khung cổ. Nào ngờ vụt tiếng kêu vang nhắc nhở của hiện thời. Cái hiện tại bảo người phải đi mà chẳng biết đi đâu? Chỉ biết đã đi là phải đi Ngược gió. Dường như toàn bộ cảm hứng thi ca của Thâm Tâm đều dồn đến chỗ phải Tống biệt hành? Lý giải từ trong vận động nội tại của cảm xúc thi ca vì sao phải đến được Tống biệt hành một cách đầy trắc ẩn bâng khuâng đến thế, một khát vọng bị dồn nén mà chưa có đường ra. Dù biết phải lên đường.

Bởi thế, thi ca Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 xuất hiện dòng thơ trượng phu tráng sỹ như một thể hiện của tâm thế thời đại. Có 5 thi sỹ để ý đến người trượng phu và họ mang đến diện mạo mới cho nhân vật này với cảm hứng thơ đậm chất yêng hùng, hứng khởi và kiêu bạc. Nếu Huy Thông trong Tiếng địch sông Ô 1935 đã cầu cứu lịch sử để nói về tâm trạng của mình, nói như Hoài Thanh phác họa Hạng Tịch theo hình ảnh của người thiếu niên khao khát yêu đương và rất lễ phép với đàn bà mà làm nên người hùng trong mộng tưởng thì tình yêu của chàng trai lãng mạn thời hiện đại đâu có buồn giống với cái buồn cách mấy nghìn năm của cổ sử nước Tàu? Nhưng sau ngày 22 tháng 12 năm 1944 đã có hình mẫu mới cho người tráng sỹ thời hiện đại? Vì thế năm 1947 khi Huỳnh Văn Nghệ viết Nhớ Bắc, người tráng sỹ rõ ràng là của thời nay – những người lính Vệ quốc đoàn Nam tiến mang hùng khí của chiến binh Đại Việt Từ buổi mang gươm đi mở cõi. Trời Nam thương nhớ đất Thăng Long. Cùng được hưởng cái may của thời cuộc mới, năm 1948, Quang Dũng và Chính Hữu mô tả anh Vệ quốc đoàn Tây Tiến và hẹn Ngày về khi phía sau cả đô thành bốc lửa thì dù có tả Áo bào thay chiếu anh về đất, Sông Mã gầm lên khúc độc hành hay những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng, hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm, rách tả tơi rồi đôi hài vạn dặm vẫn nhận ra anh Vệ quốc đoàn áo trấn thủ ngang tàng trong những vần thơ mang dấu ấn cổ thi. Thâm Tâm không có cái may mắn đó. Với 3 bài hành đều viết trước 22/12/1944, Tống biệt hành 1940, Can trường hành và Vọng nhân hành khoảng giữa 1944 Thâm Tâm cho ta thấy một mẫu người trượng phu tráng sỹ của thời hiện tại đang khao khát vùng dậy mà chưa vùng lên được. Nếu Lý Bạch viết bài hành về một địa danh là đất Trường Can thì Can trường hành ở Thâm Tâm mô tả tâm trạng, dũng khí gan góc không sợ hiểm nguy, can trường của người trượng phu thời hiện đại nhưng là một sự phiếm du của thao thao Hồng Hà vạn thuở chảy. Nước mạnh như thác, Một con thuyền. Ta lênh đênh hoài sầu biết mấy. Vọng nhân hành kể về một lứa giang hồ mắt xanh, mày gươm nét mác, chí tung hoành ở đất lớn Thăng Long. Nhưng ở đây đã có một bước tiến so với Huy Thông. Đã có sự rạch ròi giữa hiện tại và quá khứ khi Thâm Tâm một lần nữa nhắc lại sông Hồng:

Sông Hồng chẳng phải xưa sông Dịch

Ta ghét hoài câu “nhất khứ hồi”.

Tống biệt hành tiêu biểu nhất cho đời thơ Thâm Tâm. Tống biệt hành dùng thể thơ hành và sử dụng triệt để bút pháp rất đặc trưng của mỹ học phương Đông trong thi họa là các cặp đối xứng làm nên sự công phá mạnh mẽ của thơ, tạo nên sự chân hòa và cân đối giữa chân và ảo, dựa trên nền tảng cảm hứng chủ đạo về vẻ đẹp kiêu bạc của người tráng sỹ ở buổi lên đường coi thường hiểm nguy bởi khát vọng tang bồng – Sự đối lập giữa không có sông mà có sóng. Không bóng chiều mà đầy hoàng hôn. Con đường nhỏ mà chí lớn. Người với người ấy là một hay là hai. Một gia đình và một dửng dưng. Chiều hôm trước – giờ mùa hạ sen nở nốt…

Lúc đầu người ta cứ tưởng có 5 nhân vật: Người đi thực (tráng sỹ), người tiễn, mẹ, chị gái và em. Nhưng thực ra chỉ có 4 người thôi. Người đi tiễn là Thâm Tâm, mẹ, chị và em nhỏ. Không có ai là người đi cả. Thâm Tâm tống biệt chính mình. Ông dựa vào người trượng phu giả tưởng để nói về chính mình, về tâm trạng của chính ông, khao khát lên đường của tráng sỹ đi tìm lý tưởng của đời mình mà thực tế chưa lên đường được. Cái đặc sắc của bài thơ ở trạng thái có mà không có. Bâng khuâng mà bức bách. Sự tống biệt trong tâm trạng ấy tạo được âm hưởng lạ lùng vừa dồn nén đến cùng vừa khao khát khôn nguôi làm nên cái mở đầu chống chếnh Đưa người ta không đưa qua sông. Sao có tiếng sóng ở trong lòng. Để kết thúc là những câu hỏi, là sự ngỡ ngàng tưởng như buông xuôi của những thà như:

Người đi, ừ nhỉ, người đi thực

Mẹ thà coi như chiếc lá bay

Chị thà coi như là hạt bụi

Em thà coi như hơi rượu say.

Một nhà hình pháp học hỏi tôi: Em ở đây là trai hay là gái? Tôi thì nghĩ có lẽ là gái vì đôi mắt biếc, vì gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay, phù hợp với cảnh và người. Đọc Tống biệt hành, người ta như lạc vào những thời đại thi ca cả trong lối nói, nhịp điệu đến sự trúc trắc của những đoạn thơ muốn ra mà không được. Mãi đến đầu những năm 1970, Thanh Thảo mới để người ta yên tâm tạm biệt người tráng sỹ đầy day dứt ấy bởi Bài ca ống Coóng giờ vẫn chưa chưa phải là lúc cũ mèm.

Chiều mưa đường số 5 là bài thơ thành công nhất sau 1945. Trước đó Thâm Tâm đã viết lục bát Mùa thu mới. 1946, Căm thù. 1948 và diễn ca về cuộc kháng chiến miền Nam. Đã thấy không khí tươi vui Trái hồng trĩu xuống cây rơm. Sáng nay mùa cốm dậy thơm đầy làng. Chàng tráng sỹ trong Tống biệt hành hình như đã vào Vệ quốc đoàn. Đêm nay ta gối đầu lên súng. Trằn trọc nằm nghe máu nóng căng đầy. Và có cái gì rậm rịch của nơi xưa không có sông mà có sóng. Cái gì đấy – xóm làng ơi. Đội quân biệt động xa xôi mới về. Trượng phu tráng sỹ hồi 1940 còn bức bối can trường không biết lối ra thì sau 3 năm kháng chiến đã bước trong reo cười của mẹ, của chị, của em thuở trước.

Đâu rồi “nhình” với “a”

Tiếng cười reo khúc khích

Đón chiến sỹ quay về

Sau trận đi phục kích

Chiều mưa giã gạo mau

Chầy tập đoàn thình thịch

Mẹ già không còn cam phận thà như chiếc lá bay nữa mà nước mắt rân rân ngày bộ đội hành quân. Chiều mưa đường số 5 là một trong số ít bài xúc động về tình quân dân nơi núi rừng chiến khu Việt Bắc. Bếp nhà sàn gây ngọn lửa trong mưa rét. Lời thơ giản dị mà tình ý thiết tha vây bọc bởi chiều mưa nơi đất tề sông quạnh vắng … Một thời đại thi ca bắt đầu như thế đấy. Không phải ngẫu nhiên nhiều hợp tuyển thi ca Việt Nam hiện đại có lúc chọn Tống biệt hành. Có khi chọn Chiều mưa đường số 5. Hai bài thơ như là điểm ngời sáng cho 2 thời đại thi ca ở Thâm Tâm.

Thơ Thâm Tâm như giọt nước thầm rơi xuống giữa dòng chảy bất tận của những thời đại thi ca. Ông là gạch nối làm nên ví dụ về sự liên tục của phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) và Thơ kháng chiến chống Pháp. Ở Thâm Tâm có sự kết hợp kỳ lạ giữa thi pháp của thi ca cổ điển phương Đông từ trong cảm xúc, hình tượng và các thể thơ với thơ của thời hiện đại, trong một phong cách riêng man mát hoài cổ của người hiện đại một mai cũng đã thấy xa rồi.

Vườn hoa Hàng Đậu ở về phía cửa Bắc thành Hà Nội. Bốn mặt phố chạy quanh. Rìa phía đông nơi gặp nhau của 6 con đường tự dưng thấy một tháp nước tròn bằng đá giông giống những pháo đài ở châu Âu cổ xưa đã bị bỏ quên. Nó được xây dựng từ 1894. Một trong số nhiều hiện hữu của Hà Nội thầm lặng giao thoa quá khứ, hiện tại và tương lai. Ước gì, một ngày nào đó, giữa vườn hoa ấy, các tráng sỹ của Tống biệt hành trở về. Thâm Tâm, Trần Đăng, Nam Cao, Thôi Hữu, Trần Mai Ninh, Lê Anh Xuân, Nguyễn Trọng Định… Tất cả đều hóa đá cẩm thạch trắng viền vàng đứng bá vai nhau. Nhìn vào đường Lý Nam Đế - ngay phía trái tọa lạc trụ sở báo Quân đội nhân dân – hậu duệ của báo Vệ quốc đoàn, nơi Thâm Tâm làm thư ký tòa soạn, đã ngã xuống giữa mùa chiến dịch. Dưới chân họ, ai đó viết vội một dòng chữ nhỏ màu nâu nằm nghiêng trên mặt cỏ vốn rất nhiều vô thường và mong manh. Thi ca không có quá khứ. Không có hiện tại. Và cũng không có tương lai. Người ta gọi đó là thơ không tuổi. Nó hòa tan ba cái không có ấy vào một đơn vị thời gian.

Cuối Thu 2021

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ ngày 13/11/2021

Thông tin truy cập

63697009
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
17301
23426
63697009

Thành viên trực tuyến

Đang có 211 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website