Ảnh: Tranh sơn dầu “Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc Việt Nam” (tác giả: họa sĩ Lê Anh Tuấn)
Có một điều gì gần như là định mệnh khi chàng thiếu niên Nguyễn Du cầm trên tay cuốn Kim Vân Kiều truyện, tìm thấy nơi thư viện Phúc Giang trong nhà người bác ruột là Nguyễn Huệ ở Tiên Điền, và nảy ra ý định viết lại thành một tác phẩm truyện thơ. Từ đó cho đến khi Đoạn trường tân thanh như một sáng tạo độc đáo hình thành với 3254 câu thơ lục bát, thời gian có lẽ không ngắn, nhưng cuộc gặp gỡ đó là một cú hích cho những chọn lựa tiếp theo làm sáng rực một thiên tài.
Ở đây không có một mặc khải nào như lời nhắc gọi “Tolle et lege” (Hãy cầm lấy và đọc) dành cho Thánh Augustin bên trời Tây 14 thế kỷ trước đó, bởi cuộc gặp gỡ này không phải là ơn thánh sủng, cũng không hề là ngẫu nhiên mà biểu hiện cho cuộc gặp gỡ giữa thiên tài và lịch sử, giữa văn học và thời đại, giữa hai nền văn hóa vừa cộng đồng vận mệnh trong thế giao lưu, vừa tranh chấp nhau để giữ gìn căn cước của chính mình.
Được đào luyện trong một gia đình danh giá, trước mắt chàng thiếu niên Nguyễn Du khi ấy đã có con đường lập thân dọn sẵn. Cha là Nguyễn Nghiễm, từng giữ chức Tham tụng kiêm thượng thư bộ Hộ dưới triều Lê – Trịnh, lại còn lập nhiều công trạng với triều đình khi đem quân chinh phạt nông dân khởi nghĩa. Ba người anh là Nguyễn Khản làm đến chức Thượng thư bộ Lại, Nguyễn Điều - Trấn thủ Sơn Tây. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, Nguyễn Du có một “truyền thống gia đình” để bảo chứng cho con đường hoạn lộ. Mà thật sự thì đâu phải ông thiếu năng lực hành đạo: ông được nhà Nguyễn tin dùng, phong chức tri huyện Phù Dung, tri phủ Thường Tín, cai bạ dinh Quảng Bình, rồi sau đó là Cần chánh điện học sĩ và Hữu tham tri bộ Lễ.
Lịch sử không biết chữ “nếu”, nhưng giả định điều gì sẽ xảy ra nếu Nguyễn Du toàn tâm toàn ý dấn thân theo con đường chính trị? Chắc hẳn rằng trong trường hợp đó, Nguyễn Du vẫn có thể là một nhà thơ, nhưng là nhà thơ chính thống của triều đình. Trước ông và cùng thời với ông, văn học đã chứng kiến tiếng nói nghệ thuật quan phương của các nhà thơ trong Hội Tao Đàn, của Phạm Nguyễn Du, Bùi Huy Bích, Nguyễn Huy Lượng, Ninh Tốn, Vũ Huy Tấn… Một ông quan Nguyễn Du thanh liêm, giữ lương tri trong sạch trong chính trường và thể hiện cảm hứng đạo lý trên văn đàn, có thể đó là hình ảnh Tố Như theo con đường nhập thế thông thường.
Tất nhiên, Nguyễn Du cũng không chọn hẳn con đường đối lập của một thi nhân xuất thế mà những người tiền bối còn để lại tấm gương: tìm nơi ẩn dật, ngợi ca chữ nhàn, khước từ công danh phú quý. Cảm quan tuyệt vời về thiên nhiên và thế thái nhân tình có thể đưa Nguyễn Du đứng bên cạnh Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Hàng, Nguyễn Dữ, Ngô Thì Úc ở phía trước và Phạm Quý Thích, Nguyễn Huy Hổ, Đinh Nhật Thận cùng Nguyễn Hành, người cháu tài năng của ông, ở phía sau.
Nhập thế hay xuất thế, trước ngã ba đường đó, Nguyễn Du chỉ có thể là ông: không dấn sâu trong hành động mà vẫn là nhập thế trong tư tưởng, văn chương; không rút chân ra khỏi chính trường mà vẫn là xuất thế trong thái độ làm người để không a tòng với bả vinh hoa phú quý và danh lợi. Người đời sau có thể xem ông là người mâu thuẫn, “đành phận”, thậm chí là “ba phải” để dung hòa những đối cực. Nhưng xét cho cùng, trên đời này có thiên tài thực sự nào mà “nhất quán một đường”, không mâu thuẫn: Balzac là mâu thuẫn, Tolstoi là mâu thuẫn, Dostoevski càng đầy mâu thuẫn…
Chọn lựa giữa nhập thế và xuất thế hay con đường thứ ba của Nguyễn Du không phải là một chọn lựa phi lịch sử. Đó là một chọn lựa gay cấn, sinh tử trong bối cảnh một dân tộc đang hoang mang trước những biến động của một thời tao loạn. Nguyễn Du không phải chỉ giằng xé giữa tư tưởng hành đạo của Nho gia và tư tưởng ẩn dật của Đạo gia, như nhiều danh sĩ thời phong kiến thịnh trị. Tâm hồn ông bị đốt cháy trong nỗi giằng xé trước những câu hỏi của thế sự: chọn triều đình đang mất dần tính chính danh hay nhân dân đau khổ, chọn “sự ổn định” để hoài niệm quá khứ hay “sự nổi loạn” để thay đổi hướng về tương lai, chọn Nguyễn Huệ hay Nguyễn Ánh?
Trên nước ta, bước chuyển đổi từ cuối thế kỷ 18 sang đầu thế kỷ 19 và từ cuối thế kỷ 19 sang đầu thế kỷ 20 đều đánh dấu bằng những cuộc khủng hoảng về chính trị và văn hóa. Nhưng ở thời điểm trước, mầm mống khủng hoảng chủ yếu xuất hiện bên trong nội bộ dân tộc làm cơ hội cho sự tái can thiệp từ phương Bắc; còn ở thời điểm sau mầm mống gây hấn đến từ thế lực bên ngoài tận trời Tây làm tác nhân thúc đẩy sự rệu rã ở bên trong. Trải qua những quá trình dài ngắn khác nhau, với những tổn thất nặng nề không kể xiết, dân tộc đã biết huy động tiềm lực xã hội và văn hóa để giải quyết khủng hoảng, giành lấy tự chủ và độc lập. Những người nghệ sĩ nhiều nhạy cảm như Nguyễn Du hẳn không khỏi phân vân, lưỡng lự trước những cơn sóng triều của lịch sử. Nhưng bằng con đường nghệ thuật, chính họ đã chuẩn bị cho thế kỷ 19 và cả thế kỷ 20 diễn ra như sự đáp ứng những đòi hỏi tinh thần của dân tộc, dù là những đáp ứng dở dang, không trọn vẹn.
“Ngẩn ngơ trông ngọn cờ đào” (Tố Hữu), khi Quang Trung ra đến Thăng Long lần thứ hai, Nguyễn Du tìm đường lên Kinh Bắc rồi về quê vợ ở Sơn Nam hạ (Thái Bình). Như sử sách và gia phả Nguyễn Du còn ghi lại, không cộng tác với Tây Sơn, ông còn nuôi ý định trốn vào Nam theo Nguyễn Ánh. Vì việc này, Nguyễn Du bị Quận công Nguyễn Thận, bạn thân của người anh ruột là Nguyễn Đề, bắt giam ba tháng và chỉ trả tự do khi nhận ra người “tù nhân lương tâm” này không chống Tây Sơn một cách quyết liệt như Nguyễn Quýnh, Hoàng Quang, Trần Danh Án, Lê Duy Đản… mà chẳng qua đó là cách bày tỏ một thái độ đạo đức, thể hiện qua hai câu thơ:
Hán mạt nhất thời vô nghĩa sĩ,
Chu sơ tam kỷ hữu ngoan dân.
(Cuối Hán tạm thời không nghĩa sĩ,
Đầu Chu ba thập kỷ vẫn có dân trung thành.)
Khi Nguyễn Ánh thu lấy giang sơn về một mối, Nguyễn Du buộc phải cộng tác với nhà Nguyễn, nhưng lòng ông luôn tỏ ra lạnh nhạt với quyền lực. Những bài thơ trong phần sau của Thanh Hiên thi tập cho thấy ông không mấy thiết tha với đời sống chính trị. Xét cho cùng, Nguyễn Du không phải là nghệ sĩ của một triều đại nào. Ông luyến tiếc nhà Lê nhưng rồi cũng nhận ra rằng “Cổ lai vị kiến thiên niên quốc” (Xưa nay chưa từng thấy triều đại nào nghìn năm). Dửng dưng và nghi ngại với phong trào Tây Sơn, nhưng khi cơ nghiệp Quang Trung tiêu vong, ông lại cất lời cảm thương tiếng đàn tài hoa từng làm say mê một cuộc dạ yến mừng chiến công 20 trước, như hình ảnh trong bài thơ Long Thành cầm giả ca. Ông đành phải nhận bổng lộc của Nguyễn Ánh, nhưng không có một lời thơ nào ca tụng nhà Nguyễn. Với chất men bất phục tùng của người nghệ sĩ, Nguyễn Du thất vọng với mọi thiết chế quyền lực đã đành lòng đánh đổi tự do và hạnh phúc con người để xây dựng trật tự phong kiến.
Dù vậy, tự thâm sâu, Nguyễn Du không phải là một người nghệ sĩ phi chính trị. Chính trị của ông đo bằng thước đo của nhân tâm và thú vị thay, chính trị đó lại tìm thấy ngay trong nghệ thuật ngôn từ của ông. Ngã ba đường lịch sử mà con người xã hội Nguyễn Du đối diện được ánh xạ ngay trong ngã ba đường văn học mà con người nghệ sĩ Nguyễn Du phải chọn lựa.
Một nhân vật hư cấu trong Vàng lửa của Nguyễn Huy Thiệp có nêu một ẩn dụ sắc sảo nhưng cũng đầy bất công với Nguyễn Du: đó là đứa con hoang của “một cô gái đồng trinh bị nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp”. Nhìn từ thời đại toàn cầu hóa và hội nhập văn hóa ngày nay, thật khó nói rằng chỉ những sáng tạo “thuần chủng” mới là giá trị của văn học một dân tộc. Nguyễn Du không phải là người nghệ sĩ phong bế trong bốn bức tường của định kiến nghệ thuật, ngay cả trước khi ông có điều kiện bước chân ra khỏi biên giới, tiếp xúc trực tiếp với nền văn hóa Trung Hoa phong phú, đa dạng và hoành tráng.
Cuối thế kỷ 18 – đầu thế kỷ 19, khi xã hội Việt Nam bước đầu chứng kiến sự hình thành của yếu tố hàng hóa và tấng lớp thị dân, tiểu thuyết Minh Thanh được du nhập vào nước ta bằng con đường thương mại, được bày bán trong các hiệu sách ở Thăng Long, Hưng Nguyên (Nghệ An), Thanh Hà (Phú Xuân), Hội An, Gia Định, Hà Tiên. Loại tiểu thuyết này thu hút độc giả miền Nam nhiều hơn độc giả miền Bắc vốn ưa chuộng văn học đời Đường Tống. Nguyễn Du đã chọn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chủ yếu không nhằm bảo tồn văn hóa cổ, xiển dương đạo lý truyền thống, đề cao những tấm gương anh hùng nghĩa hiệp như một số trí thức, văn nghệ sĩ Nam Bộ sau này. Ông chọn Kim Vân Kiều truyện, một tác phẩm “văn học thị trường” của Trung Quốc, nếu không phải vì nhận ra Thúy Kiều là người “cùng một hội một thuyền” với mình như Trần Trọng Kim ức đoán, thì cũng vì thấy câu chuyện đau lòng ở xứ sở láng giềng này hô ứng với tiếng nói nghệ thuật mới mà ông muốn cất lên trong văn cảnh dân tộc mình.
Hơn một năm ròng đi sứ giúp Nguyễn Du nhận thức sâu sắc hơn những mâu thuẫn và nghịch lý của xã hội và văn hóa Trung Hoa. Nhãn quan xã hội và nghệ thuật hình thành trong “mười năm gió bụi” khi thế sự suy tàn, gia đình ly tán, càng được bồi đắp bởi “những điều trông thấy”. Cái thấy, cái nghĩ của Nguyễn Du thời gian này, được ghi lại trong Bắc hành tạp lục, chứng tỏ ông không choáng ngợp trước tầm vóc về địa lý và văn hóa của nước láng giềng Trung Hoa. Thậm chí ông còn tỏ ra thất vọng về con đường Trung Hoa – con đường không bằng phẳng, không khoáng đạt như ông từng nghe ca ngợi. Phải chăng điều ấy cũng thể hiện sự hoang mang về chính giới Trung Hoa và mô hình Trung Hoa:
Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình,
Trung Hoa đạo trung phù như thị!
Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm.
(Mọi người đều nói đường Trung Hoa bằng phẳng,
Đường Trung Hoa lại như thế này ư!
Sâu hiểm quanh co như lòng người.)
(Ninh Minh Giang chu hành)
Nguyễn Du nhìn xã hội, con người Trung Hoa cũng điềm tĩnh và gan ruột như nhìn xã hội, con người Việt Nam, không một chút mặc cảm tự ti. Ông chứng kiến sự phân hóa trong lịch sử và xã hội Trung Hoa: có Trung Hoa của những kẻ thống trị sâu hiểm, trí trá, hám lợi, hám lập đại công bên cạnh Trung Hoa của những người lương thiện, những trí thức tài năng bị phỉ báng, đọa đày; có Trung Hoa của những kẻ giàu có, thừa mứa tiền của bên cạnh Trung Hoa của những người tha phương cầu thực, gầy gò, rách rưới, chết đói. Và ông lựa chọn chỗ đứng của người nghệ sĩ trước hiện thực ấy: đứng về phía những Tỷ Can, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Văn Thiên Tường, những ông già hát rong ở thành Thái Bình, những người chết đói bên vệ đường trong cuộc chạy loạn, bốn mẹ con ăn xin mà ông thấy dọc đường, người đẩy xe trên đường nắng rát ở Hồ Nam… Vượt lên trên những định kiến hẹp hòi của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, ông tìm thấy mối đồng cảm với những kiếp người lao khổ bất hạnh:
Ngô văn nội cố tần niên khổ hoang hạn,
Chỉ hữu xuân tác vô thu thành.
Hồ Nam, Hà Nam cửu vô vũ,
Tự xuân tồ thu điền bất canh.
Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc
Khang tì vi thực, lê vi canh
Nhãn kiến cơ biểu tử đương đạo.
Hoài trung táo tử thân biên khuynh.
(Ta nghe năm nào ở đây dân cũng khổ vì hạn hán, mất mùa
Mùa xuân cày cấy như mùa thu không gặt hái
Từ lâu Hồ Nam, Hà Nam không có mưa
Từ xuân đến thu ruộng không canh tác
Trai gái lớn nhỏ đều đói kém
Cơm ăn là tấm cám, canh là rau lê
Mắt thấy người chết đói giữa đường
Hạt táo trong túi rơi ra bên cạnh.)
(Trở binh hành)
Một người được hấp thụ môi trường văn hóa phong kiến như Nguyễn Du không thể không nể trọng những lề lối làm khuôn thước cho văn chương Trung Hoa. Nhưng ông không thấy mình bị phân đôi giữa ảnh hưởng của văn học Trung Hoa và văn học Việt Nam, giữa văn chương bác học và văn chương dân gian, giữa chữ Hán và chữ Nôm. Những bài thơ mang phong vị cổ điển tìm thấy hình thức thơ chữ Hán; còn Truyện Kiều với thể thơ lục bát, Văn chiêu hồn với thể thơ song thất lục bát thì được chuyển tải bằng chữ Nôm. Là người nghệ sĩ có chủ đích tìm đường đi đến trái tim của nhân dân, tác phẩm của ông dung hợp những điển cố uyên bác trong thi liệu Trung Hoa với lời ăn tiếng nói uyển chuyển, dung dị của người dân Việt bình thường trong những vần ca dao, những câu tục ngữ, để sáng tạo ra một tiếng Việt văn hóa, tiếng Việt nghệ thuật đạt đến trình độ sâu sắc, tinh tế hiếm có:
Sầu đong càng lắc càng đầy,
Ba thu dồn lại một ngày dài ghê!
Mây Tần khóa kín song the,
Bụi hồng lẽo đẽo đi về chiêm bao
Tuần trăng khuyết đĩa dầu hao
Mặt mơ tưởng mặt, lòng ngao ngán lòng.
(Truyện Kiều)
Nỗi sợ chính thống từng ám ảnh tầng lớp trí thức phong kiến trước đây cũng đã không chừa Nguyễn Du. Con người có tính cách rụt rè khi giao tiếp đó phải chăng là kẻ tự kiêu ngầm như Đại Nam chính biên liệt truyện nhận xét hay là người chỉ bộc lộ dũng khí khi đối diện với trang văn? Dù chưa nghe tận tai những lời đả kích thô bạo như sau này, Nguyễn Du cũng hình dung phần nào những phản ứng bất lợi của dư luận chính thống về tác phẩm của ông, khi ông nghĩ đến sự đồng cảm muộn màng sau ba thế kỷ. Biết lách đi giữa cái thế kẹt của lịch sử, Nguyễn Du cũng biết hóa giải những ràng buộc của triết lý, mỹ học và thị hiếu chính thống đương thời. Khi cần thiết, Nguyễn Du dừng chân lại trong giới hạn của truyền thống để chờ đợi độc giả của mình chuẩn bị kỹ càng rồi mới cùng đi xa về phía tương lai.
Hơn 200 năm qua, Nguyễn Du và cách riêng, Truyện Kiều của ông đã hiến mình cho những khám phá học thuật, cho cả những cuộc tranh luận lắm khi quyết liệt, không khoan nhượng. Tác giả im lặng, còn tác phẩm thì dâng sẵn đón chờ, gợi mở những lời tường giải. Như một thỏa thuận ngầm, Nguyễn Du và Truyện Kiều không cho phép người ta phán quyết một lần cho tất cả. Đó là tâm sự hoài Lê hay tiếng kêu trầm thống trước quyền sống con người? Trung, hiếu, tiết nghĩa là bộ xương khô hay căn cốt đạo đức của tác phẩm? Giải pháp chữ Tâm chỉ là giá trị biểu kiến hay chính là thực chất tư tưởng của nó? Thiền học, văn hóa học, phong cách học, thi pháp học, phân tâm học… liệu có thẩm quyền đến mức nào khi can thiệp vào việc lý giải thế giới nghệ thuật của tác phẩm? Truyện Kiều không hề đóng sập cửa trước những viễn cảnh khoa học ấy. So với cuộc du hành của Nguyễn Du, Truyện Kiều đã đi xa hơn người sinh ra nó biết bao nhiêu cả về không gian địa lý lẫn không gian văn học.
Không ai chọn sẵn cho ta con đường trong cuộc đời và trong nghệ thuật. Cũng không có con đường nào giống nhau trong thế giới của sáng tạo. Đó là bài học lớn mà Nguyễn Du để lại cho hậu thế. Trước những ngã ba đường, Nguyễn Du đã lựa chọn trong hoàn cảnh của ông. Bạn đọc của ông cũng lựa chọn trong hoàn cảnh của họ. Nhưng từ sự lựa chọn của mình, ông gợi ý cho họ một thái độ, một cách trả lời trước những khúc quanh lịch sử, trước những ngã ba đường. Hôm qua và hôm nay, ông vẫn hiện diện cùng các thế hệ hậu sinh trong cuộc đấu tranh với những phường “bạc ác tinh ma”, “đầu trâu mặt ngựa”; trong những giao tiếp văn hóa và chính trị với thế giới chưa bao giờ gần gũi như bây giờ; trong nỗ lực cứu vớt và khôi phục những gương mặt người bị chìm khuất sau màn đêm của vô minh và trong niềm hy vọng không bao giờ nguôi về tự do, hạnh phúc.
GS.TS. Huỳnh Như Phương, PGS.TS. Đoàn Lê Giang
– giảng viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường Đại học KHXH & NV – ĐHQG TP.HCM
Nguồn: Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du (Kỷ yếu HTKH Kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du), NXB.ĐHQG TP.HCM, 2015