Ngay từ đầu thiên niên kỷ, người Ấn Độ đã tìm đến khu vực Đông Nam Á và tác động sâu sắc tới khu vực này ở nhiều lĩnh vực như kinh tế, tôn giáo, kiến trúc, điêu khắc, hội hoạ, diễn xướng, văn chương… “Trong khoảng mười thế kỷ đầu sau công nguyên, làn sóng văn hoá Ấn Độ tràn tới Đông Nam Á hết đợt này đến đợt khác”[1]. Bằng con đường hoà bình và tâm linh, người Ấn đã truyền tải một di sản văn hoá đồ sộ đến khu vực Đông Nam Á. Nhiều hiện tượng tôn giáo, văn hoá và nghệ thuật của Ấn Độ khi lan toả tới Đông Nam Á đã phát triển sâu đậm và tồn tại bền vững đến ngày nay. Điều này phù hợp với lý thuyết của trường phái Truyền bá luận Tây Âu vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trường phái này có một xác tín là “các nền văn hoá đều có nguồn gốc từ một trung tâm văn hoá nào đó (nhất tâm khuếch tán)”[2]. Ngoài ra, các hiện tượng tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật Ấn Độ bén rễ ăn sâu tại Đông Nam Á còn tương thích với lý thuyết “trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu không gian văn hoá” của các nhà nghiên cứu Nga Xô Viết thế kỷ XX. Các nhà nghiên cứu này ví von nền văn hoá trung tâm như một hòn đá được ném xuống nước và lan tỏa ra những vòng tròn. “Nơi hòn đá tiếp xúc với nước thì sóng nước dày hơn, cao hơn, càng ra xa thì càng thưa hơn, sóng thấp hơn, và cuối cùng nó tĩnh lặng trên mặt nước”[3]. Và chính sự kém sôi động của những vòng tròn xa hòn đá đã tạo nên một sự bền vững hay còn gọi là hiện tượng “hoá thạch ngoại biên” của văn hoá.
Về phương diện văn học, quá trình bản địa hoá các tác phẩm văn học Ấn Độ diễn ra hết sức mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á nói chung và Thái Lan nói riêng. Theo nhiều nhà nghiên cứu, có hai con đường truyền bá văn học Ấn Độ sang khu vực Đông Nam Á: con đường cung đình và con đường dân gian. Con đường cung đình giúp cho văn bản văn học bản địa hoá định hình và phát triển hoàn thiện; còn con đường dân gian lại làm cho các tác phẩm Ấn Độ có diện mạo mới mẻ, phong phú, sống động tại Đông Nam Á. Sử thi và truyện cổ Ấn Độ là hai thể loại được cư dân Đông Nam Á ưa chuộng và tiếp nhận mạnh mẽ.
1. Các truyện thơ Thái Lan có nguồn gốc sử thi Ấn Độ
Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều có những tác phẩm bản địa hoá từ các sử thi đồ sộ như Mahabharata, Ramayana… Với dung lượng vừa phải, nội dung cô đọng và phù hợp với tâm lý cư dân Đông Nam Á, Ramayana trở thành tác phẩm được ưa chuộng bậc nhất tại khu vực này. Cho đến nay, Valmiki vẫn được xem là tác giả của Ramayana song lai lịch của vị đạo sĩ này giống một giai thoại hơn là hiện thực. “Những điều ta có được về ông chủ yếu là qua truyền tụng và phần ghi chép trong khúc ca thứ nhất của sử thi – khúc ca Bala”[4]. Thêm vào đó, vương quốc Kosala, kinh đô Ayodhia và truyền thuyết hoàng tử Rama hành quân về phương Nam diệt quỷ Ravana cứu công chúa Sita cũng đã tồn tại từ cuối thời Veda (tức khoảng năm 800 trước công nguyên), trong khi Valmiki viết Ramayana vào khoảng thế kỷ IV trước công nguyên. Như vậy, Ramayana được truyền miệng ở Ấn Độ từ trước khi có văn bản bằng tiếng Sankrit xen lẫn Pali những bốn thế kỷ. Do đó, về cơ bản, Ramayana vẫn là một tác phẩm dân gian. Sau này, khi Ramayana đến Đông Nam Á, người dân ở khu vực này cũng tiếp thu nó với nhiều loại thể khác nhau. Riêng tại Thái Lan, các dạng thức Ramayana vô cùng phong phú: phù điêu, nang (rối), truyện kể dân gian, truyện thơ cung đình, lakhon (vũ kịch), khon (kịch hát sử dụng mặt nạ), bài hát... Kinh đô của Thái Lan mang tên là Ayutthaya, nghĩa là “kinh đô của Rama”, trong suốt bốn thế kỷ (XIV – XVIII). Các vị vua Thái Lan thời kỳ Rattanakosin (từ năm 1782 đến nay) trở đi đều lấy hiệu là Rama và vị vua Thái Lan đương thời là Rama IX.
Theo Đỗ Thu Hà, tác giả của công trình Sử thi Ramayana Ấn Độ ở một số nước Đông Nam Á, Ramayana không di chuyển trực tiếp từ từ Ấn Độ sang Thái Lan mà bằng con đường gián tiếp. “Ramayana tới Inđônêxia, tới Cămpuchia và từ hai nước này, Ramayana đã tiếp biến sang Thái Lan” [5]. Cũng theo khảo sát của Đỗ Thu Hà, tác phẩm này đã có mặt ở Thái Lan từ thế kỷ IX – X với hình thức phù điêu và “trước khi được phác hoạ trên đá thì Ramayana đã tồn tại trong văn hoá tinh thần của người dân để trở thành cảm xúc nghệ thuật”[6].
Truyện thơ được “Thái Lan hoá” từ Ramayana có tên là Ramakien (hoặc Ramakian). Theo Văn học Thái Lan sơ khảo của nhà nghiên cứu Nga Kornev và một số tài liệu khác, Ramakien đã xuất hiện từ thời Ayutthaya (thế kỷ XIV-XVIII). Tác phẩm được xem là “thành tựu của dân tộc Thái”, “là sách thiêng của người Thái, là một bộ phận cơ hữu của tục thờ devaraji và vì thế cấm biểu diễn tác phẩm này ngoài phạm vi hoàng cung. Còn ngay trong cung điện thì nội dung của Ramakien được chuyển biên và kể lại qua các thiên trường ca và kịch nói, kịch câm đeo mặt nạ và kịch múa cổ điển”[7]. Tuy nhiên, cuộc binh biến giữa người Thái và Miến Điện (năm 1767) đã tàn phá hoàng cung và nhiều công trình vĩ đại khác của kinh đô Ayutthaya. Hầu như toàn bộ kinh sách có giá trị của Thái Lan đều bị thiêu rụi hoặc tản mác. Ngay trong những ngày đầu tái thiết đất nước thời kỳ Thonburi, vua Taksin (1767-1782) đã hạ lệnh cho người đi tìm và ghi lại tất cả các dị bản của Ramakien. Ông là người đầu tiên viết lại truyện thơ Ramakien và chuyển thể thành lakhon (vũ kịch) gồm bốn chương. Do mải mê chinh phạt và ban hành những luật lệ hết sức hà khắc, Taksin không được lòng thuộc hạ. Ông bị họ truất ngôi và chém đầu vào năm 1782. Viên tướng của Taskin là Chao Phraya Chakri trở thành vị vua mới, xưng là Rama I, dời đô về Bangkok và xây dựng thủ đô theo hình mẫu của Ayutthaya cũ. Dưới thời Rattanakosin, vua Rama I đã chủ trương xây dựng lại nền văn học. Nhà vua lập hội thi sĩ cung đình, cho người đi khắp nơi sưu tầm, thu thập các tài liệu văn học. Đích thân nhà vua đã soạn thảo văn bản Ramakien gồm 117 tập. “Mục đích chính của ngài rõ ràng là để đưa vào trong câu chuyện những lễ nghi và truyền thống nhà nước thuộc về hoàng cung mà phần lớn những sách vở có ghi chép đã mất đi từ sau cuộc chiến tranh tàn phá với Miến Điện”[8]. Nhà vua còn cho hoạ sĩ vẽ các bức tranh tường với các chủ đề từ Ramakien trong ngôi chùa Phật Ngọc Lục Bảo của hoàng cung. Nối tiếp truyền thống này, vua Rama II cũng đã viết lại Ramakien. Thi phẩm của ông dài 36 tập với nhiều tình tiết mới lạ, ngôn ngữ giàu chất thơ và nhạc điệu, vừa là truyện thơ vừa là kịch bản cho khon, lakhon và “đã trở thành một kiệt tác của nền văn học Thái Lan với những câu thơ tuyệt diệu và phong cách viết giàu hình ảnh, âm điệu”[9].
Truyện thơ Ramakien vẫn giữ đầy đủ khung sườn của Ramayana, lưu lại hệ thống nhân vật và các mắc xích quan trọng như: cuộc lưu đày vào rừng, giết quỷ cứu người đẹp, thử lửa… Tuy nhiên, các vị vua Thái và thi sĩ cung đình đã có những thay đổi cơ bản như sau:
Thứ nhất, thay đổi tên nhiều nhân vật, địa danh. Chúng tôi đơn cử một số trường hợp như sau[10]:
Ramayana | Ý nghĩa | Ramakien |
Brahma | Thần sáng tạo | Phra Brom |
Shiva | Thần hủy diệt | Phra Isuan |
Vishnu | Thần bảo vệ, chồng của Lakshmi, hiện thân của Rama | Narai |
Rama | Hoá thân của Vishnu, con trai cả của Dasharatha và Kausalya, chồng của Sita, cha của Kusha và Lava | Ram |
Sita | Hoá thân của Lakshmi, vợ của Rama, mẹ của Kusha và Lava | (Nang) Sida |
Lakshmana | Hoàng tử | Lak |
Ravana | Vua quỷ đảo Lanka, chồng của Mandodari, cha của Indrajit | Thotsakan |
Sugriva | Vua khỉ | Sukhrip |
Tara | Vợ của vua khỉ Sugriva | Nang Kaew Dara |
Hanuman | Tướng khỉ | Wanon |
Garuda | Chim mặt trời, vua của các loài chim, vật cưỡi của Vishnu | Krut |
Naga | Vua rắn | Nak |
Ayodhya | Kinh đô của Dasharatha | Ayutthaya |
Thứ hai, biến đổi một số bối cảnh và tình tiết cho phù hợp với sự tiếp thu của người bản xứ.
Thứ ba, cốt truyện dần có sự chuyển hoá về ý thức tôn giáo. Các tư tưởng Bà la môn dần thay thế bằng tư tưởng Phật giáo.
Thứ tư, sử dụng các thể thơ dân tộc và sáng tác gắn liền với biểu diễn.
Với lòng yêu thích và nỗ lực không ngừng trong việc kiến tạo văn chương, đa số các văn bản Ramakien tại Thái Lan đều được giới nghiên cứu trong và ngoài Thái Lan đánh giá cao.
2. Các truyện thơ Thái Lan có nguồn gốc văn học Phật giáo Ấn Độ
Một nguồn du nhập đáng kể khác của văn học Ấn Độ vào Thái Lan là văn học Phật giáo. Khi hệ thống chữ viết hình thành ở Thái Lan từ thế kỷ XIII, các nhà sư trong chùa đã tiến hành dịch sang tiếng Thái Lan một loạt bài văn tôn giáo từ tiếng Sankrit hoặc Pali. Việc dịch thuật vừa có vai trò giáo huấn, truyền bá Phật giáo cho dân chúng vừa góp phần làm phong phú cho nền thơ văn nước nhà. Bên cạnh đó, các vị vua Thái Lan đều là những tín đồ đạo Phật hoặc đã từng có thời gian đi tu nên rất quan tâm đến mảng văn học có đề tài Phật giáo. Có thể kể đến một số tác phẩm văn học Phật giáo Thái Lan nổi tiếng như: Tray Phum, Mahachat, Vessantara Jataka… Đặc điểm chung của các tác phẩm này là: Nội dung ít nhiều vay mượn từ các văn phẩm Phật giáo Ấn Độ, nhất là Jataka, thường xuyên sử dụng kiểu truyện khung và hình thức ngôn ngữ Pali, về sau mới dùng ngôn ngữ dân tộc. Đặc biệt, các vị vua và hội thi ca cung đình có khuynh hướng chọn những truyện cổ Phật giáo từ Jataka mang nội dung lôi cuốn, sinh động để sáng tạo lại như: tình yêu nam nữ, những chuyến phiêu lưu, sự phản trắc của phụ nữ… Do đó, dù là truyện thơ Phật giáo nhưng đề tài vẫn thu hút sự quan tâm của người đọc, thậm chí có những trường đoạn táo bạo. Một số truyện thơ Phật giáo Thái Lan lấy nguồn đề tài từ Jataka có thể kể đến là: Chanthakhorop, Kaki, Sang Thong, Samuthakhot, Sua Ko…
Sangthong hay Hoàng tử Ốc Vàng được truyền miệng rộng rãi ở Thái trước khi được vua Rama II viết lại và cho dựng thành vũ kịch. Sau này, tác phẩm còn được giảng dạy ở bậc phổ thông trong nhà trường Thái Lan. Sangthong là con của vua Yosavimal và hoàng hậu Chantra. Không may, khi vừa ra đời, Sangthong đã ở trong hình hài của một con ốc. Hai mẹ con chàng bị cho là điềm xấu, bị trục xuất khỏi hoàng cung và trôi dạt tới một túp lều của đôi vợ chồng già tận rừng sâu. Ngày nọ, trong khi hoàng tử đang giúp mẹ bắt một con gà mái, hoàng hậu đột nhiên đập vỡ vỏ ốc khiến cậu bé Sangthong trơ trụi bị chìm xuống nước. Ai cũng nghĩ là chàng chết đuối. May mắn sao, chàng được thần Rắn (Naga) cứu và gửi đến ở với một mụ khổng lồ tên là Nang Panturat. Mụ khổng lồ trìu mến nhận Sangthong làm con nuôi. Khi lớn lên, Sangthong biết được mẹ nuôi là yêu tinh bèn bỏ trốn sau khi đã tắm ở một cái giếng nhuộm vàng. Chàng có một cây gậy phép thuật và một chiếc áo choàng có thể giúp cơ thể bay lượn trong không trung. Bị Nang Panturat đuổi tới bờ sông, Sangthong túng thế, phải dùng phép thuật khiến mẹ nuôi chết vì vỡ tim. Bà lìa đời, để lại cho chàng một bài hát thần kỳ viết trên cát. Khi nghe bài hát này, tất cả các loài cá và thú rừng sẽ tụ tập đông đủ. Sangthong không nguôi ân hận về hành vi của mình đối với mẹ nuôi. Sau đó, chàng cải trang thành một người xấu xí và xin vào ở với người làm vườn của vua Thao Samonta. Vua có bảy cô con gái. Cô gái út tên là Rojana, tốt bụng nhất trong bảy chị em. Khi nhà vua bàn đến chuyện gả các con gái cho các hoàng tử xứ khác, Rojana không bằng lòng lời cầu hôn của bất kì ai. Nhà vua nổi giận, cho gọi Sangthong xấu xí đến và gả Rojana cho chàng. Các vị thần để cho Rojana thấy vẻ xấu xí của chàng nhưng công chúa vẫn chấp nhận làm lễ cưới. Công chúa phải đi theo Sangthong ra một túp lều ở cuối khu vườn của nhà vua. Nhà vua ghét người con rể nghèo khổ nên cố gắng tống khứ chàng đi bằng cách tổ chức một cuộc thi tài dành cho cả bảy người con rể với những nhiệm vụ hết sức khó khăn, ai không làm được sẽ bị trừng phạt. Nhiệm vụ đầu tiên là bắt cá. Với bài hát thần của mẹ nuôi để lại, Sangthong ngồi trên một cây to gần bờ sông và cất tiếng hát. Cá nghe lời hát bơi đến ngay chỗ chàng. Sáu phò mã còn lại, có cố gắng cũng không bắt được con cá nào, phải nài nỉ xin Sangthong cho họ một ít. Chàng đồng ý với điều kiện là họ phải trả cho chàng một miếng da mũi. Nhà vua thấy Sangthong bắt được nhiều cá bèn ra thêm điều kiện khác: ai bắt được nhiều hươu nai nhất sẽ chiến thắng. Một lần nữa, Sangthong gọi hết hươu nai tới. Sáu phò mã của vua lại xin chàng vài con hươu và nai. Sangthong đòi họ những cái tai. Vua không thể trừng phạt Sangthong. Thần Indra quyết định giúp Sangthong bằng cách cải trang và yết kiến nhà vua cùng một toán đàn ông. Ngài thách nhà vua thi cưỡi ngựa, nếu thua phải mất vương quốc. Nhà vua cùng sáu phò mã bại trận, đành cầu cứu Sangthong. Sangthong hiện nguyên hình là một hoàng tử đẹp đẽ thi cưỡi ngựa cùng thần Indra. Chàng bay như tên bắn trong không trung và chẳng mấy chốc đã đến xứ sở của thần Indra. Một trận đấu dữ dội diễn ra, thần Indra thua cuộc. Nơi nơi ăn mừng chiến thắng của Sangthong. Sau đó, cha ruột của Sangthong nhận ra chàng trai đẹp đẽ tài ba đó chính là con trai của mình. Ngài hối hận và mời chàng cùng hoàng hậu trở về cung.
Kaki và Chanthakhorop là hai tác phẩm có những nhân vật nữ chính mang tính cách khác thường, phi truyền thống.
Truyện Chanthakhorop xuất hiện từ rất lâu đời ở vùng Đông Bắc Thái Lan dưới dạng thức truyền miệng, được viết thành truyện thơ dưới thời Rama II. Truyện kể về một hoàng tử tên Chanthakhorop, là con trai của vua Prommathat, vào rừng học cách trị quốc an dân. Sau khi hoàn tất việc học, chàng trở về vương quốc và được sư phụ trao cho một chiếc tráp nhỏ với lời dặn dò rằng chỉ được mở ra sau khi về đến kinh thành, bằng không sẽ gặp nguy hiểm. Vị hoàng tử trẻ tuổi do quá tò mò đã mở chiếc hộp ngay trong rừng thẳm. Một cô gái xinh đẹp bước ra và tự xưng là Mora. Hoàng tử say đắm người đẹp và xin hỏi cưới nàng. Mora thuận tình và theo Chanthakhorop về cung. Dọc đường đi, Mora khát nước mà xung quanh không có một dòng suối nào. Chanthakhorop bèn cắt ngón tay lấy máu mình cho người yêu uống. Thình lình, một tên cướp xuất hiện và tấn công Chanthakhorop. Nhờ đã học võ thuật nên hoàng tử đánh tên cướp ngã lăn ra đất. Tuy nhiên, do trước đó mất một lượng máu cho người yêu uống nên chàng cũng bị ngã và nhờ Mora lấy hộ mình con dao để đâm tên cướp. Nhưng vì bất ngờ phải lòng tên cướp mà Mora đã đưa cho hắn lưỡi dao để giết Chanthakhorop. Hoàng tử chết, tên cướp ân ái với Mora xong mới nghĩ rằng một người đàn bà phản trắc như Mora sẽ có lúc hãm hại mình. Mora bị người tình mới bỏ rơi trong rừng. Quá đói khát, nàng rên khóc thảm thiết. Thần Indra biết mọi chuyện bèn hoá thành con ó cắp trong miệng một miếng thịt bay đến chỗ Mora. Nàng bèn xin con ó cho mình thức ăn, bù lại sẽ lấy ó làm chồng. Thần Indra tức giận hiện nguyên hình và biến Mora thành một con vượn, suốt đời giấu mặt sau các lùm cây và kêu những tiếng não nuột ai oán. Chanthakhorop được thần Indra hồi sinh và se duyên cho chàng với con gái của Naga. Truyện thơ dân gian này sau đó đã được nhà thơ Sunthorn Phu viết lại với tên Mora theo thể thơ klon. Trong tác phẩm, nhà thơ nhấn mạnh những đoạn miêu tả cảm xúc của Mora khi đưa dao cho tên cướp giết Chanthakhorop. Tác phẩm còn có nhiều lời trách móc sự thiếu thủy chung của đàn bà.
Tương tự nàng Mora, trong Kaki, nàng Kaki đã là vợ của vua Bromatat nhưng lại mê đắm người bạn thường chơi cờ với chồng nàng là hoàng tử núi Sin Pli. Hoàng tử hoá thành chim Garuda, giấu nàng vào đôi cánh và đưa về cung điện ở Sin Pli. Hai người ái ân với nhau suốt cả tuần lễ. Vua Bromatat sai quân sư đi tìm hoàng hậu Kaki. Vị quân sư khôn ngoan biến thành côn trùng, nấp vào cánh Garuda và đến được Sin Pli. Đợi khi Garuda đi khỏi, vị quân sư biến thành người và tán tỉnh Kaki. Nàng Kaki chấp thuận tình cảm của quân sư và giấu hắn trong cung điện suốt tuần. Khi hoàng tử bay đến cung vua Bromatat để chơi cờ như thường lệ, vị quân sư lại nấp vào cánh Garuda. Hắn về đến hoàng cung và thuật lại sự thân mật của Kaki và hoàng tử cho nhà vua nghe. Trong lần chơi cờ tiếp đó giữa vua và hoàng tử, vị quân sư vừa đánh đàn vừa hát lại câu chuyện của Kaki ở Sin Pli. Hoàng tử xấu hổ vội đem nàng Kaki trả lại cho vua Bromatat. Kaki bị đặt lên một chiếc mảng thả trôi ra biển. Chiếc mảng trôi ngang thuyền của một thương gia giàu có. Kaki được cứu thoát và trở thành vợ của nhà buôn. Thuyền gặp sóng lớn vỡ tan. Đôi vợ chồng thoát nạn lên bờ lại gặp một toán cướp. Kaki bị buộc lấy tên tướng cướp. Nàng trốn vào rừng và gặp hoàng tử Totsavong, được chàng đưa về vương quốc và trở thành vợ hoàng tử. Trong khi đó, vua Bromata buồn rầu qua đời và để lại vương quốc cho vị quân sư. Hắn lên ngôi và lấy hiệu là Prom Bromata. Được tin nàng Kaki vẫn còn sống, Prom Bromata dẫn quân đến vương quốc của Totsavong đòi lại người đẹp. Hoàng tử Totsavong thua trận, buộc phải trả lại nàng Kaki. Từ đó, Prom Bromata và Kaki sống hạnh phúc bên nhau.
Truyện Kaki là một hiện tượng lạ vì đã không dừng lại ở cái kết nàng Kaki bị thả trôi ra biển như trong Jataka. Rõ ràng, yếu tố giáo huấn không được chú trọng ở truyện này; trái lại, truyện nhấn mạnh yếu tố dục vọng, tự do bộc lộ bản năng. Về điểm này, truyện Kaki có vẻ tự nhiên chủ nghĩa hơn hẳn các truyện thơ khác của Thái Lan. Bởi lẽ, trong Chanthakhorop, nàng Mora xinh đẹp nhưng vô ơn và phản trắc đã bị trừng phạt bằng cách biến nàng thành vượn; hay như nàng Wanthong trong Khun Chang Khun Phaen cũng đã bị nhà vua khép vào tội chết vì sự thiếu quyết đoán của nàng trong việc chọn lựa một trong hai người đàn ông.
Khi tìm hiểu văn học các nước lân cận Thái Lan như Campuchia, Lào, Mã Lai, chúng tôi nhận thấy nhiều thi phẩm ở các nước này trùng tên và nội dung với các truyện thơ Thái Lan như: Kaki, Sang Thong… Có thể lý giải điều này bằng hai lý do: các tác phẩm này đều bắt nguồn từ Jataka; hoặc có sự lan truyền, ảnh hưởng qua lại giữa các quốc gia này vì biên giới địa lý rất gần gũi và ngôn ngữ có nhiều nét tương đồng. Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là Jataka đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo văn học ở nhiều quốc gia như Lào, Campuchia, Thái… Với những đất nước theo Phật giáo, những câu chuyện mang tính chất luân hồi nhân quả, giáo dục con người lánh dữ làm lành luôn có vị trí quan trọng và tạo sự thích thú trong lòng người tiếp nhận. Thêm vào đó, người dân ở các nước này dù ở giai đoạn nào của cuộc đời hoặc đang làm gì thì cũng luôn gắn bó cuộc đời mình với ngôi chùa, vì vậy mà luôn quan tâm đến các truyện tích Phật giáo. Phya Anuman Rajadhon nhận xét: “Ngay cả những chuyện tình lãng mạn mà nhân vật chủ yếu là quân vương và ái hậu, người khổng lồ và các bậc thần nhân đều hấp thụ dưỡng khí từ các huyền thoại Phật giáo và Hindu giáo”[11].
Ngoài Ramayana và Jataka, các tác phẩm quan trọng khác của Ấn Độ cũng đã du nhập vào Thái Lan như Panchatantra, Hai mươi đêm hỏi đáp, 25 truyện Vetala… và được sáng tạo lại với các thể thơ hoặc dạng văn vần. Bên cạnh dấu ấn của Ấn Độ, một vài truyện thơ của Thái Lan có nguồn gốc từ Java. Tiêu biểu là Inao, tác phẩm phỏng theo câu chuyện nổi tiếng về các cuộc phiêu lưu của vị vua Java là Pandji vào thế kỷ XIII. Tương truyền, hai nữ tỳ gốc Mã Lai kể lại cho hai chị em công chúa Thái Lan thời Ayutthaya nghe. Hai công chúa viết lại câu chuyện nhưng bằng hai bản độc lập, một bản tên là Dalang còn bản kia là Inao. Sau này, vua Rama I gộp hai tác phẩm này thành truyện thơ Inao. Dù có mối giao lưu, ảnh hưởng với các nguồn văn học láng giềng nhưng tác động của văn học Ấn Độ vào truyện thơ Thái vẫn sâu đậm hơn cả. Các truyện thơ Thái Lan chịu ảnh hưởng Ấn Độ chủ yếu là cốt truyện, cách viết (sử dụng các biện pháp miêu tả nhân vật, phong cảnh kiểu Ấn Độ). Thời gian đầu, khi mới tiếp nhận và làm mới các tác phẩm Ấn Độ, nhiều truyện thơ Thái Lan còn chịu ảnh hưởng ngôn ngữ và thậm chí cả thể thơ. Chẳng hạn như Samuthakhot được viết theo thể thơ chanda của Ấn Độ.
Tóm lại, có thể nói, văn học Ấn Độ là “bà đỡ” cho nhiều tác phẩm truyện thơ của Thái Lan. Để có được thành tựu truyện thơ xuyên suốt và dày dặn như thế, ngoài tài năng, ý thức đối với văn chương của tầng lớp tri thức Thái, cần phải kể đến sự đóng góp to lớn của nguồn đề tài đến từ văn học Ấn Độ. Những tác phẩm kinh điển của Ấn Độ như Ramayana, Jataka, Panchatantra… đã lan tỏa và biến hoá một cách nhuần nhị tại đất nước Thái Lan. Điều đó cũng tự nhiên và dịu êm như cách mà người Ấn Độ chinh phục vùng Viễn Đông từ đầu thiên niên kỉ.
ĐTDT.
[1] Đức Ninh (2004), Nghiên cứu văn học Đông Nam Á, Nxb KHXH, Hà Nội, tr.33.
[2] Robert Winthrop (1991), Dictionary of Concepts in Cultural Anthropology, N. Greenwood, New York, tr.83.
[3] Ngô Đức Thịnh (2007), “Lý thuyết “trung tâm và ngoại vi” trong nghiên cứu không gian văn hoá”, Tạp chí Văn hoá dân gian, Hà Nội.
[4] Lê Nguyên Cẩn (2006), Vanmiki, Nxb Đại học Sư phạm, TP.HCM.
[5] Đỗ Thu Hà (2002), Sử thi Ramayana Ấn Độ ở một số nước Đông Nam Á, Nxb Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, tr.176.
[6] Đỗ Thu Hà, Sđd, tr.177.
[7] Kornev (1971), Văn học Thái Lan sơ khảo, Nxb Nauka, Moskva, tr.92.
[8] Phya Anuman Rajadhon, Essay on Thai folklore, tr.73.
[9] Đỗ Thu Hà, Sđd, tr.185.
[10] Theo The story of Ramakian
[11] Phya Anuman Rajadhon, Sđd, tr. 66
Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013