Tiếp cận Thiền uyển tập anh như một pho kinh sách sáng tạo hay như một tác phẩm văn học cổ uyên bác là điều không độc giả nào ngày nay băn khoăn. Từ nhiều thế kỷ trước, tác phẩm lấp lánh cảm hứng và triết luận thiền giáo này đã thu phục sự tôn kính của các thế hệ cao tăng cho đến tầng lớp đại trí thức Nho học (như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú…). Vào một thời kỳ khi mà văn học Trung đại Việt Nam thành tựu chưa được dày dặn với 3 thế kỷ ra đời, phát triển (tính đến đầu thế kỷ XIV), thì sự xuất hiện của tập truyện ký với ngót 70 tiểu phẩm này đã thực sự tạo nên một cái mốc đi lên thận trọng mà vững chắc. Đương nhiên, công trình này trước hết là sự tổng kết nghiêm túc mà thi vị chặng đường 7 thế kỷ vẻ vang của thiền giáo Đại Việt. Cảm hứng chủ đạo và thấm đẫm trong từng tiểu truyện của Thiền uyển tập anh là cảm hứng thiền. Đây thực sự là áng thiền ca đẹp đẽ, có sức thu hút đặc biệt.

Nói đến thơ văn thời thịnh Lê, dễ có cảm tưởng chúng mang đậm tính chính thống, quan phương, và kinh đô khi được tái hiện lại trong nhóm tác phẩm ấy cũng khó xa rời mục đích chính trị - yếu tố dễ khiến sáng tác nghệ thuật trở nên khuôn sáo. Nhưng nếu quan sát kỹ hơn, có thể thấy bên cạnh tính quy phạm không thể phủ nhận, vẫn còn đó trong thơ ca thời thịnh Lê nét đẹp thi vị dễ quyến lòng người của cảnh sắc và con người trên đất kinh kỳ. Công bằng mà xét, phải đâu tính chất cung đình, tụng ca của văn học giai đoạn này chỉ mang đến bất lợi cho văn học, mà nhìn từ góc độ khác, đã tạo nên những vần thơ giàu mỹ cảm, là “lời ca chân thành và say sưa của các thi sĩ trước cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống thanh bình”(1). Rõ ràng là dưới triều vua Lê Thánh Tông, khi lực lượng sáng tác chuyển sang quy tụ hoàn toàn ở phía nhà nho thì kinh đô, mảnh đất gắn liền với cuộc đời của nhiều nho sĩ, đã dần trở thành không gian quen thuộc gợi nên biết bao xúc cảm. Chính vì thế, ít nhiều bức tranh Thăng Long trong văn học thời thịnh Lê vẫn có sức hấp dẫn riêng, phần nào thể hiện được cảm nhận tinh tế của các tác giả trước vẻ đẹp quê hương buổi thịnh triều.  

 1. Muốn tìm hiểu hình ảnh Thăng Long trong thơ Nguyễn Du được biểu hiện dưới các cấp độ đậm nhạt như thế nào thì trước hết phải xác định được mối quan hệ gắn bó giữa Nguyễn Du với Thăng Long sâu nặng đến mức độ nào. Ai cũng biết quê quán của Nguyễn Du là làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, trấn Nghệ An, nay thuộc Hà Tĩnh. Nhưng ông lại sinh ra giữa kinh đô Thăng Long vào thời quyền uy Lê – Trịnh đang nghiêng ngửa.

Nhiều người đều nghĩ rằng hiếm thấy nơi đâu trên đất nước Việt Nam lại có vị thế đẹp và thuận lợi như đất Thăng Long - Hà Nội. Đây là nơi truyền thuyết kể rằng có rồng bay lên, là nơi tụ thủy, tụ nhân. Các bậc tiền nhân xây dựng kinh đô nơi đây với mong ước muôn đời non nước phồn vinh phát triển theo thế rồng bay lên. Và quả thật trời đất đã ban tặng cho vùng đất này bao nhiều là tiềm năng phát triển về mọi mặt, điều này đã được chứng minh qua 10 thế kỷ trung đại, cả cho đến ngày nay. Dù có thể không sinh ra trên vùng đất đế kinh này nhưng đã là người Việt Nam ai cũng cảm nhận được một huyền thoại lung linh về Hồ Gươm - Tháp Rùa, về nơi thanh tịnh trang nghiêm của Chùa Một Cột, về chốn lưu giữ tri thức thời đại đầy tự hào của Văn miếu - Quốc Tử Giám, về đài Nghiên, tháp Bút mạnh mẽ vươn mình lên tận trời xanh … Và một điều gì đó hết sức gần gụi thân quen, đó có thể là hình ảnh dòng sông Hồng đỏ nặng phù sa, là con đường nồng nàn mùi hoa sữa, là những dòng sóng lan nhẹ trên mặt hồ, là mùa thu chìm khuất trên những táng cây già buông nhè nhẹ từng chiếc lá, là mùa đông trên đôi má ửng hồng của các cô gái thị thành…nói chung là những gì rất thủ đô, của thủ đô.

               Tính đến năm 2015, chữ quốc ngữ - thứ chữ viết ghi âm mà chúng ta dùng hiện nay đã tròn 400 năm. Từ khi hình thành cho đến nay, dù trải qua nhiều biến đổi, thăng trầm cùng lịch sử dân tộc, sự tồn tại và hoàn thiện của chữ quốc ngữ là điều đáng ghi nhận và trân trọng.

Tuy có hình thức văn tự khác nhau, chữ Nôm và chữ Quốc ngữ latinh đều là "chữ Quốc ngữ" với nghĩa là hệ thống chữ viết ghi lại tiếng nói dân tộc; do vậy, chúng có mối tương quan nhất định về ngữ âm và ngữ nghĩa. Xét về phương diện ngữ âm, chữ quốc ngữ trong Từ điển Việt-Bồ-La­ thể hiện rất rõ mối tương quan với cấu tạo chữ Nôm vào thời điểm bộ từ điển trên ra đời. Bài viết chủ yếu quan tâm các mảng từ tiếng Việt cổ có tổ hợp phụ âm đầu, có phụ âm đầu nay đã biến mất, hoặc có phụ âm đầu nay đã đổi khác, với các hình thức ghi âm tương ứng của chữ Nôm. Nghiên cứu các mảng từ này trong Từ điển Việt - Bồ - La­ sẽ giúp ích nhiều cho việc lý giải và đọc chữ Nôm nói chung, chữ Nôm giữa thế kỷ 17 về trước nói riêng, một cách có cơ sở.

 

1. Dẫn nhập

Chữ Quốc ngữ thế kỉ XVII - đầu thế kỉ XIX cho thấy rất rõ sự tồn tại của các tổ hợp phụ âm đầu tiếng Việt /bl/, /ml/, /mɲ/, /tl/ (ghi bằng chữ viết: bl, ml, mnh, tl). Bốn tổ hợp phụ âm này được ghi đầy đủ trong Dictionarivm Annamiticvm Lvsitanvm, et Latinvm ope (Từ điển Annam - Lusitan - Latinh; Cũng gọi Từ điển Việt - Bồ Đào Nha - Latinh) của A. de Rhodes [1] [3].

Thông tin truy cập

63656256
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
17569
25210
63656256

Thành viên trực tuyến

Đang có 413 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website