Có người đặt ra câu hỏi khá táo bạo, khiêu khích này cho tôi, tương tự như khi người ta tính chuyện bứng một gốc cây cổ thụ ngàn năm, rễ của nó đã lan rộng cả dải đất hình chữ S, tán của nó xòe cả bầu trời vùng biển Đông, toan ngắt cành ngắt lá đem trồng đi chỗ khác, hoặc chừng như muốn xem bói một quẻ nhờ vào lời thần thánh hoặc tìm nhà bác học phán cho một câu điều chỉnh. Điều chỉnh - hai chữ rất thời thượng của thời... hậu cách mạng bứng gốc, nay bớt lại chỉ điều chỉnh thôi nhưng điều chỉnh cái gì, ai điều chỉnh?

20220131 5
Tác phẩm "Lễ hội đầu năm" của Nguyễn Gia Trí. 

Tết cũng giống như cây cổ thụ ấy, nó đã mọc trên đất nước Việt Nam từ nghìn năm nay, khi người nông dân Việt Nam thứ nhất sáng dậy ra đồng xới đất, nhìn trời, tính thời gian bốn mùa xuân hạ thu đông, khởi vụ gieo trồng theo cảm tính giao hòa với trời đất, theo tiết nắng mưa và theo nhu cầu sống còn, lao động chồng cày vợ cấy, gầy dựng gia phong con đàn cháu đống, vun trồng nếp sống tinh thần cho đến ngày hôm nay, chồng đi xe mô tô hay xe hơi xịn chở vợ và hai- ba- bốn con đi... sắm Tết.

Tết hay Tiết là nhịp nghỉ đầu tiên của cuộc vỡ đất nhọc nhằn suốt bốn mùa mưa nắng gió bão trên dải đất phù sa bên biển Đông ấy. Lao động và nghỉ ngơi, làm lụng và vui chơi, có làm có ăn, có làm có chơi là hai yếu tố cần và đủ của đời sống con người. Văn hóa đi theo con người như một nhu cầu thiết yếu, nó tạo nên truyền thống, làm nền tảng cho cuộc sống. Cứ tính một thế hệ là một trăm năm đời người thì Tết đã bao lần trăm năm tiếp diễn như một truyền thống đời này sang đời khác. Tết là ngày lễ đầu tiên - đánh dấu khởi điểm thời gian của một năm cho nên được gọi là Tết Nguyên Đán và là ngày quan trọng nhất trong các lễ hội của người Việt. Truyền thống văn hóa của người Việt tạo nên một nếp lễ hội thuần túy Việt Nam dù chịu ảnh hưởng của Trung Quốc về âm lịch, phép tính thời gian. Không có lễ hội nào hội tụ đa dạng những nét bản sắc văn hóa như ngày lễ Tết: về phương diện xã hội, Tết gắn chặt với cơ cấu gia đình như là nền tảng xã hội: đó là ngày đoàn tụ sum họp gia đình và đại gia đình sâu đậm nhất, ý thức về tổ tiên dòng dõi vào ngày đầu tiên của một năm mới đầy lạc quan và hy vọng, mang tính triết lý tôn giáo nhân sinh, nuôi dưỡng đức tâm tri ân nguồn cội, trong tương quan với vũ trụ (trời đất) và môi sinh. Tết còn quy tụ mọi mặt của văn học nghệ thuật từ thi ca (thơ Tết) hội họa (tranh Tết) cho đến nghệ thuật “chơi”, cây cảnh, cầm ca, những trò chơi nhân gian và nghệ thuật ẩm thực qua những kỹ xảo hào soạn mứt bánh ngày Tết, đó là dịp đễ các bà nội trợ, các thiếu nữ trổ tài, và cuối cùng Tết là dịp... mặc áo mới, diện áo mới, kích thích nghệ thuật thêu may của một thời, ngày nay gọi là thời trang. Có lẽ để Tết thực là Tết - như đã được ghi nhận trong lịch sử từ đời Lý cho đến đời Lê là ngày lễ quan trọng nhất trong năm (theo Lê Quý Đôn), - chính những con người làm nên cái Tết ấy, từ bác nông dân cho đến vua quan, và những nghệ nhân, nghệ sĩ, ngay cả những người ăn Tết, đã trải tấm lòng thành để xây dựng nên tác phẩm nhân gian “đồng lòng vui xuân thưởng Tết”. Nếu không có tâm đạo đi sâu vào từng chi tiết nghệ thuật, sự chăm chút thẩm mỹ của từng tay nghề, mứt gừng mứt khế e đã bị bỏ quên, nếu không trân trọng từng tấm vải dệt làm nên chiếc áo, áo Tết đã tàn phai…, nếu không chí thành trong việc thờ cúng tổ tiên, Tết đã không tồn tại như một phong tục đẹp của người Việt cho đến ngày nay.

Có lẽ trong đời của một con người, kỷ niệm về những ngày Tết là những kỷ niệm sâu đậm nhất về quê hương, nếp gia phong của gia đình, sự ấm cúng của đoàn tụ, nỗi hoan hỉ hợp quần, nói chung là tình người trong những ngày Tết mang đến niềm vui và hy vọng trong tương lai. Tết đã trở nên một phong tục Việt, và chính nó là truyền thống văn hóa của người Việt. Bắt đầu từ 20 tháng Chạp: 20 làm tốt, 21 xỏ tai, 22 đeo bông, 23 đưa về. Với tục cúng ông Táo, Tết Nguyên Đán bắt đầu với nhiều chuẩn bị trong gia đình cho đến Giao thừa và ngày mồng Một Tết, con cháu tề tụ đông đủ, chúc thọ, mừng tuổi, trao quà...

Đã nhiều năm, tôi có dịp thưởng thức Tết Tây ở xứ người, cũng đã từng trải qua những Tết Ta tha hương. So với Tết Ta, Tết Tây chỉ xảy ra mấy tiếng đồng hồ, từ buổi chiều cho đến 12 giờ đêm, thường là bạn bè gặp nhau, ít khi đi cùng với bố mẹ, cụng ly mừng năm mới, chúc túi tiền rỏn rẻng, ca hát, đốt pháo bông và nhảy đầm suốt đêm. Tết Tây chỉ là một điểm giao thời giữa những con số mà con người ghi nhận có tính máy móc, có chút cảm khái về thời gian trôi đi, trong đó không có một ý niệm về sự khai mở sức sống mới của mùa xuân, bởi vì lịch Mặt trời tính ngày 01 của năm vào tháng giêng là tháng lạnh nhất, vẫn còn đông giá. Trong lúc Tiết đầu năm của âm lịch ấm áp đầy sức sống, đầy mầm non tươi mới, lúc trăm hoa đua nở, Tết Ta quả thực gần với nhân sinh và môi sinh kể về ngày tháng, thời tiết, và đượm tình thân ái của con người. Trải qua những Tết Tây, người xa quê càng thấm đượm chiều sâu của Tết quê hương là dường nào.

“Có là bao, ba vạn sáu ngàn ngày, được trăm cái Tết 

Uớc gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa Xuân” (Nguyễn Khuyến)

Tuy nhiên, lễ càng to càng lắm tệ hại. Việc chạy đua mua sắm ba ngày Tết, vay nợ sắm Tết, giữ thể diện bề ngoài ba ngày Tết trong lúc nghèo khó, chuộng hình thức khoe khoang, những con buôn, quảng cáo trục lợi vào dịp Tết, hình như thời nào cũng xảy ra, trong quá khứ đã được nêu ra trong văn học không ít, nhà thơ Trần Tú Xương, các tác phẩm Tự Lực Văn Đoàn đã vạch trần, châm biếm những lối phô trương giả dối:

Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo,

Tiền bạc trong kho, chửa lĩnh tiêu

Rượu cúc nhắn đem, hàng biếng quẩy

Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu

Bánh chưng sắp gói, e nồm chảy

Giò lụa toan làm, sợ nắng thiu

Thôi thế thì thôi đành Tết khác

Anh em đừng nghĩ tết tôi nghèo

(Trần Tú Xương, Cảm Tết)

 

Bài “Năm mới chúc nhau”

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau,

Chúc nhau trăm tuổi bạc đầu râu.

Phen này ông quyết đi buôn cối

Thiên hạ bao nhiêu đứa giã trầu.

Lẳng lặng mà nghe nó chúc sang,

Đứa thời mua tước đứa mua quan.

Phen này ông quyết đi buôn lọng,

Vừa bán vừa la cũng đắt hàng.

Nó lại mừng nhau cái sự giàu,

Trăm nghìn vạn mớ để vào đâu?

Phen này ắt hẳn gà ăn bạc,

Đồng rụng đồng rơi, lọ phải cầu.

Nó lại mừng nhau sự lắm con,

Sinh năm đẻ bảy được vuông tròn.

Phố phường chật hẹp người đông đúc,

Bồng bế nhau lên nó ở non.

Bài thơ trên hình như vẫn còn thời sự cho ngày nay. Ngày nay, vẫn có cuộc chạy đua người Việt ăn Tết kiểu phú quý sinh lễ nghĩa, quà cáp càng to càng sang, xa hoa lộng lẫy bề ngoài thì nhiều. Thời đại kỹ nghệ nên mứt bánh tràn lan mà hình như thiếu phẩm chất. Và căn bệnh thời đại nằm chình ình nơi chữ “ĐẠI”, bánh chưng bánh tét phải đại to chiếm kỷ lục, cây cảnh phải đại quý (mắc tiền), mọi thứ đều hướng về “Đại Tỷ Tỷ“ mới oai. Chạy đua theo xa xỉ và trục lợi, tâm đức thoái hóa vì tham tiền, hưởng lợi, những lễ hội ngày nay mất hết vẻ thanh cao, mà trở nên những nơi quy tụ giành giật, chụp giật các hiện vật dị đoan và nhất là tính kiêu sa ham thích vật lạ, bỏ mất nét tao nhã của sự thưởng ngoạn đồng điệu giữa người và người. Nhưng may thay, có dấu hiệu giới trẻ thích ăn tết theo truyền thống và đang tìm tòi chiều sâu của tất cả những điều gì có dính líu đến Tết, một cảm hứng mới về truyền thống như một hoài vọng cánh én mùa xuân, và hơn thế nữa với tinh thần khoa học trong việc tổ chức Tết.

Với sự thông minh nhạy bén của tuổi trẻ, trong những điều kiện xã hội đang thay đổi, điều kiện kinh tế và cơ cấu gia đình đang biến đổi, thế hệ trẻ sẽ có những sáng kiến mới cho việc thưởng Tết vừa truyền thống vừa hiện đại, bởi chính họ là chủ thể ăn Tết.

Vậy nên nếu điều chỉnh cái gì chung quanh chữ Tết, vụ Tết, cái đó liên quan nhiều nhất đến người ăn Tết, và điều chỉnh làm sao để cái Tết truyền thống Việt Nam lại hiện nguyên hình về cả ba phương diện chân thiện mỹ hợp với môi trường môi sinh và con người trong một Nguyên Đán mới, có đủ trí tuệ và con tim xây dựng một cộng đồng người Việt ăn Tết đậm đà tình người. Vâng, chữ Tình trong Tết Việt cần được tô đậm nét hơn cho dù “Thịt mỡ dưa hành câu đối đỏ - Cây nêu tràng pháo bánh chưng xanh" được điều chỉnh cho sức khỏe con người (ăn ít mỡ!!!) và an lạc xã hội. Trong Tết, sức ấm chính là chữ tình nơi mỗi chiếc bánh chưng, nơi mứt gừng thơm ấm, nơi chén trà thơm hương mộc, nơi đóa hải đường hồn nhiên, nơi chiếc áo mới được nâng niu, nơi câu thơ mộc mạc... mà người xưa để lại với tấm lòng chí tình, xin hãy giữ gìn!. □

Thái Kim Lan

Nguồn: Tia sáng, ngày 29.01.2022.

Vậy là thiền sư Thích Nhất Hạnh đã đi trọn con đường hành hương xuyên qua hai thế kỷ biến động của đất nước và nhân loại.

20220122

Thiền sư Thích Nhất Hạnh (1926 - 2022) - Ảnh: LÀNG MAI

Theo cáo phó của đạo tràng Mai Thôn, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã viên tịch vào lúc 1h30 ngày 22-1-2022 (nhằm ngày 20 tháng chạp năm Tân Sửu) tại tổ đình Từ Hiếu (TP Huế), ngôi chùa mà 80 năm trước ông thọ giới Sa Di và cách đây hơn ba năm ông chọn làm nơi an dưỡng những ngày cuối đời trước khi trở về cõi Phật.

Ông sinh ngày 11-10-1926 tại xã Thành Trung, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, thế danh Nguyễn Xuân Bảo, xuất gia năm 16 tuổi, pháp danh Trừng Quang, pháp tự Phùng Xuân, pháp hiệu Nhất Hạnh, thuộc thế hệ thứ 42 của tông Lâm Tế và thế hệ thứ tám của phái Liễu Quán.

Con đường hành hương của một thiền sư thời hiện đại

Cuộc đời và hành trạng của thiền sư đã khắc họa nên một khuôn mặt trí thức Phật giáo tiêu biểu mà tầm ảnh hưởng có thể sánh với Đức Đạt Lai Lạt Ma, đồng thời là một trong những nhà văn hóa thể hiện tinh hoa của dân tộc Việt Nam.

Sau hai năm theo học tại Phật học đường Báo Quốc (Huế), năm 1949 ông vào Sài Gòn tiếp tục tu học, làm giáo thọ rồi giám học tại Phật học đường Nam Việt (chùa Ấn Quang).

Trong những năm 1950 ông tham gia sáng lập và làm chủ bút các tạp chí Liên Hoa, Phật Giáo Việt Nam, sau đó cùng một số đệ tử xây dựng Phương Bối Am ở Bảo Lộc (Lâm Đồng) làm nơi tu tập.

Việc chưa hoàn thành, do hoàn cảnh, ông sang Hoa Kỳ nghiên cứu tôn giáo học so sánh ở Đại học Princeton (New Jersey) và giảng dạy ở Đại học Columbia (New York). Trên đất Mỹ, ông tích cực vận động dư luận thế giới phản đối chính sách kỳ thị và đàn áp của chính quyền đối với phong trào Phật giáo trong nước.

Sau biến cố ngày 1-11-1963, đáp lời kêu gọi của thượng tọa Thích Trí Quang, thiền sư Nhất Hạnh về nước tiếp tục tham gia hoạt động chấn hưng Phật giáo.

Trong khoảng thời gian chưa đầy ba năm, ông cùng những cộng sự đồng chí hướng xây dựng Viện cao đẳng Phật học, tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh; sáng lập các tuần báo Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, nguyệt san Giữ Thơm Quê Mẹ và Nhà xuất bản Lá Bối; đồng thời khởi tạo Dòng tu Tiếp hiện, làng Tình thương và Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội như một mô hình công tác xã hội dựa trên đức từ bi và vô úy.

Chiến tranh lan rộng và ngày càng khốc liệt, dưới sức ép của nhà cầm quyền, Nhất Hạnh phải lìa xa đất nước một lần nữa, lần này kéo dài 39 năm.

Ở Mỹ và các nước Tây Âu, ông dấn thân vào cuộc vận động hòa bình cho Việt Nam qua các buổi diễn thuyết, cầu nguyện và quyên góp tài chính ủng hộ nạn nhân chiến tranh. Giới trí thức nước ngoài đánh giá cao hoạt động của ông, đặc biệt mục sư Martin Luther King từng đề cử ông cho giải Nobel hòa bình.

Sau năm 1975, ông và đồng đạo tiếp tục làm công tác thiện nguyện giúp đỡ những đồng bào nghèo khó qua chương trình "Máu chảy ruột mềm".

Công tích lớn nhất của ông trong giai đoạn này là kiên trì xây dựng Trung tâm thiền tập Làng Mai ở Loubès-Bernac, vùng tây nam nước Pháp, thu hút sự tham gia của người mộ đạo từ các châu lục.

Trong những năm 2005 - 2008, thiền sư Nhất Hạnh cùng đạo tràng Mai Thôn về Việt Nam ba lần trong lịch trình hoằng pháp từ Nam ra Bắc với các buổi thuyết giảng, hướng dẫn các khóa tu, tổ chức đại trai đàn cầu siêu cho nạn nhân chiến tranh, tham dự Đại lễ Vesak - tất cả mang tinh thần hòa hiếu trong ý hướng hòa giải và hòa hợp dân tộc.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh - biểu tượng của đối thoại và hòa giải - Ảnh 2.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh tại Huế trong chuyến trở về Việt Nam năm 2005 - chuyến đi được thiền sư xem là một cơ hội lớn, một hạnh phúc lớn - Ảnh: KHẢ LINH

Những đóng góp lớn cho văn hóa dân tộc

Sự nghiệp của thiền sư Nhất Hạnh không giới hạn trong những hoạt động phật sự và xã hội. Ông là thi sĩ, nhà văn xuôi nghệ thuật, nhà chính luận, nhà khảo cứu, nhà tư tưởng thiền học và duy thức luận - một tác gia lớn của văn hóa Việt Nam đã hiện diện trong đời sống tinh thần hơn bảy thập niên.

Theo một thư mục chưa đầy đủ, với các bút danh Nhất Hạnh, Dã Thảo, Hoàng Hoa, Tâm Quán, Tuệ Uyển, Thiều Chi, Trần Thạc Đức, Nguyễn Lang, B’su Danglu, ông đã công bố 144 tác phẩm gồm sáng tác văn học, dịch phẩm, công trình biên khảo bằng tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng Pháp.

Một số tác phẩm có giá trị cao của ông được tái bản nhiều lần như Nẻo về của Ý, Việt Nam Phật giáo sử luận, Đường xưa mây trắng... Từng bị quên lãng trên quê hương mình, tác phẩm của Nhất Hạnh nay đã thức dậy và thắp sáng giữa lòng dân tộc.

Tinh thần nhân bản Phật giáo thấm đậm trong toàn bộ sáng tác và trước tác của Nhất Hạnh. Đó là tinh thần đề cao giá trị con người và sự tồn tại hòa hợp của muôn loài trong môi trường sinh thái nhân văn.

Thơ văn ông làm chứng bền bỉ và sâu sắc cho nỗi đau thương của dân tộc và kiếp người, bước đi trầm luân của đất nước qua hình ảnh "hoa sen trong biển lửa", khi chiến tranh và thiên tai ập đến những mái tranh nghèo và những phận người trôi dạt.

Mùa bão lũ gây bao thảm cảnh cho đồng bào miền Trung năm ngoái và trận đại dịch COVID-19 hoành hành trên khắp đất nước ta gợi nhớ bài thơ Ruột đau chín khúc mà tác giả Nhất Hạnh viết bên bờ sông Thu Bồn trong chuyến đi cứu trợ nạn nhân bão lụt mùa đông năm Giáp Thìn (1964), với những câu mở đầu dung dị mà đầy nỗi xót thương:

Tôi đến đây để cùng khóc với các anh và các chị/ xứ sở ta đau thương và cảnh tình ta bi đát/ bàn tay tôi đây xin các anh nắm lấy, xin các em nắm lấy/ tôi muốn được nói cùng các anh và các chị: dù sao thì chúng ta cũng phải can đảm để mà lo lắng cho trẻ thơ, cho ngày mai.

Thật vậy, trọn đời mình, thiền sư Nhất Hạnh đã đứng bên cạnh và nắm tay cùng tuổi trẻ trong tình tự dân tộc trên con đường đi tới ngày mai. Giới trẻ miền Nam trước đây từng quen thuộc với các ca khúc Tôi ước mơ của Phạm Duy, Bông hồng cài áo của Phạm Thế Mỹ lấy cảm hứng từ thi tứ của Nhất Hạnh.

Độc giả trẻ ngày nay đọc Nói với tuổi hai mươi, Đạo Phật của tuổi trẻ, Thả một bè lau mà Nhất Hạnh viết từ nhiều năm trước vẫn có thể tìm thấy sự chia sẻ của ông với nỗi băn khoăn, thao thức trong lòng mình.

Trong hoàn cảnh nghiệt ngã của hận thù và chia rẽ, Thích Nhất Hạnh là một trong những nhà văn hóa sớm nhất kêu gọi đức khoan dung, xiển dương tinh thần đối thoại và hòa giải, như tên một cuốn sách ông in chung với linh mục Nguyễn Ngọc Lan: Đối thoại - cánh cửa hòa bình.

Đó là đối thoại để tìm ra tiếng nói chung giữa các thế hệ, các tôn giáo, các thành phần dân tộc khác nhau. Còn nhớ trong một chuyến về nước, ông và đại diện tăng thân Làng Mai đã đến thăm một xứ đạo Công giáo lâu đời để cùng trao đổi về cách thức tác hợp cho những đôi lứa khác đạo yêu thương nhau và ước nguyện tiến đến hôn nhân.

Một cuộc đời phong phú dù có dài bao nhiêu cũng không thể thực hiện được hết các ý nguyện của mình. Một số dự án văn hóa và giáo dục do thiền sư Nhất Hạnh khởi xướng đang được các đệ tử tiếp nối tạo dựng viên thành.

Sự nghiệp hiện đại hóa đạo Phật, như sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng và hành động của ông, luôn gợi ra những trăn trở và suy tư không chỉ cho tôn giáo mà còn cho văn hóa dân tộc.

Đạo nhập thế để cứu đời, nhưng làm sao để đạo hoàn thành sứ mạng mà luôn giữ được tinh túy của mình, như những làn gió lành xua tan những áng mây mù che khuất vầng trăng.

Thiền sư Nhất Hạnh nay đã về cõi Phật, nhưng di sản văn hóa mà ông để lại có thể giúp chúng ta tìm câu trả lời cho những vấn nạn của thời đại hiện nay trong tâm thế của những người luôn đề cao sự đối thoại và hòa giải - hòa giải với thế giới cũng như với chính mình.

Huỳnh Như Phương

Bướm bay vườn cải hoa vàng (trích)

Mười năm vườn xưa xanh tốt

Hai mươi năm nắng dọi lều tranh

Mẹ tôi gọi tôi về

Bên bếp nước rửa chân

Hơ tay trên bếp lửa hồng

Đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống.

Tôi không bao giờ khôn lớn

Kể gì mười năm, hai mươi năm, ba mươi năm

Mới hôm qua đây, tôi thấy bướm bay từng đàn rộn rã

trong khu vườn cải hoa vàng

Mẹ và em còn đó

Gió chiều như hơi thở

Mơ gì một mảnh tương lai xa xôi?

[...]

Hãy thôi là nguồn khổ đau cho nhau

Tôi tìm em. (Như đêm giông tố loạn cuồng

Rừng sâu đen tối

Những cành cây sờ soạng

Đợi ánh chớp lòe ngắn ngủi

Thấy cần được hiện hữu bên nhau, tìm nhau)

Em hãy là đóa hoa đứng yên bên hàng giậu,

Hãy là nụ cười, là một phần của hiện hữu nhiệm mầu.

Tôi đứng đây. Chúng ta không cần khởi hành

Quê hương chúng tôi đẹp như quê hương của tuổi thơ

Xin đừng ai xâm phạm - tôi vẫn còn hát ca.

[...]

Tóc mẹ tôi còn xanh, và dài chấm gót

Áo em tôi phơi còn phất phơ bay trước giậu

Nắng sớm mùa thu

Tôi ở đây. Chính thực là vườn xưa

Những cây ổi trái chín thơm

Những lá bàng khô thắm

Đẹp

Rụng

Còn chạy chơi la cà trên sân gạch

Tiếng hát vẳng bên sông

Những gánh rơm thơm vàng óng ả

Trăng lên, quây quần trước ngõ

Vườn cải hoa vàng, chính mắt tôi vừa thấy sáng qua.

Tôi không ngủ mơ đâu,

Ngày hôm nay đẹp lắm, thật mà

Em không về chơi trò bắt tìm nơi quá khứ

Chúng mình còn đây, hôm nay, và ngày mai nữa,

Đến đây

Khi khát ta cùng uống ở một giếng nước thơm trong.

[...]

Hiện hữu không kêu gọi tình thương.

Hiện hữu không cần ai phải thương ai

Nhưng em phải là em, là đóa hoa, là bình minh hát ca,

không đắn đo suy tính

Xin ghi vào đây một tân ước nữa của tất cả chúng ta

Và xin vẫn nghe lời tôi như nghe suối reo, như nhìn trăng sáng

Em về, đưa Mẹ về cho tôi thăm

Cho tôi hát em nghe, để tóc em sẽ dài xanh như tóc Mẹ.

NHẤT HẠNH

 

Truyền thông quốc tế: Thiền sư Phật giáo nổi tiếng người Việt Nam đã viên tịch

00thich2-jumbo 1(read-only)

Mục sư Martin Luther King, nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi, chủ nhân Nobel hòa bình 1964, ngồi cạnh thiền sư Thích Nhất Hạnh trong cuộc họp báo ở Chicago năm 1966. Ông King đã đề cử thiền sư Thích Nhất Hạnh ở hạng mục giải Nobel hòa bình năm 1967, nhưng năm đó Nobel hòa bình đã không trao cho ai - Ảnh: AP

Bắt đầu từ khuya 21-1 giờ Việt Nam, các hãng thông tấn báo chí lớn nhất của quốc tế, đặc biệt ở Mỹ và châu Âu, như các hãng tin AP (Mỹ), AFP (Pháp), Reuters (Anh), Agencia EFE (Tây Ban Nha), báo New York Times, Đài CNN... đều đã liên tục đưa tin và cập nhật các bài viết liên quan việc thiền sư Thích Nhất Hạnh của Việt Nam đã qua đời tại chùa Từ Hiếu của TP Huế.

Điểm gặp gỡ chung trong các bản tin này đều khẳng định vị thế và tầm ảnh hưởng rất lớn về tư tưởng Phật pháp mà thiền sư Thích Nhất Hạnh đã lan tỏa trong suốt cuộc đời dài gần một thế kỷ của ông. Hãng tin AP ca ngợi ông là người đã giúp mở đường cho khái niệm thiền chánh niệm ở phương Tây và cho chủ nghĩa Phật giáo nhập thế ở phương Đông.

Báo New York Times ca ngợi ông là "một trong những thiền sư có ảnh hưởng nhất thế giới, đã truyền đi những thông điệp về chánh niệm, lòng trắc ẩn và bất bạo động". Tờ báo lớn hàng đầu của Mỹ không quên nhắc về những đóng góp lớn của ông trong tư cách một nhà văn, nhà thơ với nhiều tác phẩm, một nhà giáo và một nhà hoạt động vì hòa bình.

Truyền thông quốc tế cũng nói về những hành trình thuyết giảng Phật pháp không mệt mỏi trong suốt vài thập niên tại nhiều nơi ở Mỹ và châu Âu của thiền sư Thích Nhất Hạnh - người có thể sử dụng thành thạo hai thứ tiếng Anh và Pháp. Hãng tin Reuters cho biết ông có thể nói 7 thứ tiếng.

"Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã có ảnh hưởng lớn tới việc thực hành đạo Phật ở phương Tây", báo New York Times viết, nhắc tới những thông điệp của ông kêu gọi sự tu tập chánh niệm, một điều mà trang web của ông mô tả là "năng lượng của sự hiểu rõ và thấu suốt từng khoảnh khắc của hiện tại". Trong cuốn An lạc từng bước chân, ông viết "Nếu chúng ta không thực sự là chính mình, thành thực trong phút giây hiện tại, chúng ta sẽ bỏ lỡ mọi thứ".

Hãng tin Reuters nhắc lại chuyện ở giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến tranh kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam những năm 1960, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã gặp mục sư Martin Luther King Jr. và thuyết phục được nhà hoạt động nhân quyền người Mỹ gốc Phi này cùng lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam.

"Cá nhân tôi không còn biết có ai khác nữa xứng đáng với giải Nobel hòa bình hơn nhà sư Phật giáo thiện lành người Việt Nam này" - Reuters dẫn lại một đoạn trong bức thư của mục sư Martin Luther King.

D.KIM THOA tổng hợp

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 23.01.2022.

Đôi khi thấy buồn, tâm trạng sa sút không cách nào vực lên nổi, tôi lại mở sách tranh ra đọc. Có lần tôi được động viên, an ủi, chỉ nhờ một câu văn trong một cuốn sách tranh Rules of Summer - Shaun Tan rằng: “Đừng bao giờ chờ đợi một lời xin lỗi”. Câu chuyện kể về những điều luật mùa hè, do hai anh em tự thỏa thuận với nhau lúc chơi. Điều luật khi giận nhau ấy là không chờ đợi lời xin lỗi. Hai anh em tự tha thứ cho nhau trước, ngay cả khi lời xin lỗi tới rất muộn.

20210702

Một trang sách của Caldecott. Ở đây phần lời không miêu tả lại bức tranh, chỉ là một câu thoại của cô gái. Còn phần tranh kể cho chúng ta những điều còn lại: về bối cảnh, không gian, thái độ cảm xúc của các nhân vật… Chứ phần lời không diễn giải, ví dụ: cô thôn nữ bướng bỉnh nói trước sự ngạc nhiên của ngài công tước.


Vì lý do gì một điều luật “trẻ con” lại khiến tôi thấy lên tinh thần? Tại sao tôi đã lớn rồi vẫn say mê đọc sách tranh?   

Sách tranh là gì và đến từ đâu?

Sách tranh, hay Picture book (trong tiếng Anh), hay Ehon (trong tiếng Nhật) là một thể loại sách thường có khổ lớn, độ dài phổ biến từ 16-32 trang, nhiều hình ảnh, ít chữ.

Sách tranh được coi là nghệ thuật của việc kể chuyện bằng hình ảnh, một dạng thức của nghệ thuật văn chương. Nhiều nghiên cứu cho rằng nó có nguồn gốc sâu xa gắn liền với những hình vẽ trên hang đá của người cổ đại, hay những hình ảnh điêu khắc trên cây cột trụ Trajan của người La Mã. Sự ra đời và phát triển của sách tranh được đánh dấu từ khi công nghệ in ấn ra đời vào thế kỷ 15.

Cuốn Orbis Sensualium Pictus (The Visible Words) của tác giả Comenius xuất bản ở Nuremberg, Đức năm 1658 với phần tranh và chữ được in cạnh nhau được coi là hình thù sơ khai đầu tiên của một cuốn sách tranh dành cho trẻ em trên thế giới. Nó được thiết kế bao gồm tranh và chữ đặt song song cạnh nhau, để giúp trẻ dễ tiếp thu.

Sách tranh là một thể loại còn non trẻ, mới chính thức được công nhận hơn 130 năm trước, kể từ những tác phẩm của tác giả - họa sĩ người Anh Randolph Caldecott (1846-1886). Ông đã nâng tầm phần hình ảnh của câu chuyện, không chỉ còn là minh họa đơn thuần cho câu chữ. Tên của ông cũng được đặt cho một giải thưởng uy tín bậc nhất trong làng sách tranh - Huân chương Caldecott. Tác giả - họa sĩ Maurice Sendak, người đã có rất nhiều tác phẩm sách tranh để đời, trong đó nổi tiếng nhất là Where the wild things are (đã được xuất bản ở Việt Nam với tựa Ở nơi quỷ sứ giặc non), đã từng nói về những đóng góp và thành tựu của Randolph Caldecott như sau:

“Các tác phẩm của Caldecott báo hiệu sự khởi đầu của sách tranh hiện đại. Ông ấy đã tạo ra cách ghép nối khéo léo giữa hình ảnh và từ ngữ, một điều chưa từng có trước kia. Phần tranh nói lên những thứ không được kể bằng con chữ. Và ngược lại. Đó chính là phát minh ra sách tranh”.

Sách tranh với những đặc điểm dễ nhận diện như khổ lớn, nhiều màu sắc, dễ đọc và có tuyến truyện cũng như cấu trúc đơn giản, không quá dài, trở nên phổ biến với các độc giả nhỏ tuổi (đặc biệt là nhóm độc giả nhí mới bắt đầu làm quen với việc đọc và chữ nghĩa). Thậm chí sách tranh còn được coi là đồng nghĩa với Văn học thiếu nhi.

Nhưng liệu rằng sách tranh chỉ có vậy hay bản thân thể loại này đã phát triển và phá vỡ những hình dung sẵn có, quen thuộc, những định kiến về thị trường và diễn ngôn văn chương?

 

Sách tranh - bước khởi đầu dễ chịu

Nội dung sách tranh có thể chia thành hai nhóm lớn, cũng giống như các thể loại sách khác, hư cấu (fiction) và phi hư cấu (non-fiction) với nhiều đề tài phong phú, đa dạng, không giới hạn. Thế giới có gì thì sách tranh có cái đó.

Mảng phi hư cấu thường có nhiều nội dung cơ bản, giúp các bạn nhỏ làm quen với thế giới. Ví dụ như sách tranh về phân biệt màu sắc, số đếm, bảng chữ cái, các đồ vật quen thuộc trong nhà, cách buộc dây giày, cách đánh răng… Cao hơn một chút, có thể có sách tranh khoa học, lý giải về vi khuẩn, vi rút, triết học… theo cách dễ hiểu và thú vị, hài hước, hấp dẫn.

Những nội dung này, không nghi ngờ gì, chủ yếu dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy vậy, khi làm quen với một mảng kiến thức mới, khó nhằn, bắt đầu bằng những cuốn sách vừa đơn giản vừa vui lại nhiều hình ảnh bắt mắt như sách tranh là một cách hiệu quả, ngay cả với người lớn. Người lớn thì hẳn ai cũng biết buộc dây giày và đánh răng rồi, nhưng không phải ai cũng biết về thiên văn học hay triết học, hay cuộc đời của những danh nhân thế giới. Đơn cử như tôi, lúc mới lân la tìm hiểu về triết, khi đó đã học cấp 3, tôi chủ yếu đọc sách tranh triết học thiếu nhi của Pháp. Những cuốn sách đó đã giúp tôi dần quen với những khái niệm trừu tượng trong triết học mà không khiến tôi nhụt chí.

Hay khi tôi học tiếng Nhật (lúc đã ngoài 20), một ngôn ngữ rất phức tạp, tôi cũng thường xuyên đọc Ehon (sách tranh trong tiếng Nhật), xem phim hoạt hình thiếu nhi của Nhật. Những nội dung ngắn gọn, dễ theo dõi, ngôn từ chuẩn chỉnh (thậm chí là tự nhiên, đời thường hơn sách dạy tiếng), lại thấm đẫm văn hóa bản địa cùng với hình ảnh sinh động khiến ngôn ngữ dễ ngấm hơn.

Dù bao nhiêu tuổi, khi bắt đầu tìm hiểu, học một thứ gì đó mới, chúng ta đều chỉ như những đứa trẻ tập tọe đánh vần. Không chỉ riêng với triết học, sách tranh còn có cả thiên văn học, toán học, vật lý, sinh học, công nghệ thông tin, lịch sử, chính trị… Song song với những cuốn sách chuyên môn, chuyên sâu, xen lẫn những cuốn sách tranh nhẹ nhàng, giàu hình ảnh sẽ đem tới cân bằng lành mạnh, không chỉ với độc giả thiếu nhi mà còn với những người muốn biết cái mới ở bất kỳ độ tuổi nào.

 

Sách tranh - một thế giới cô đọng

Còn về mảng hư cấu, sách tranh xuyên suốt những năm tháng phát triển, đã không ngừng mở rộng và tự phá vỡ những ranh giới của thể loại.

Sự ngắn gọn và đơn giản của sách tranh nói chung, không đồng nghĩa với sơ sài, hời hợt. Nhà khoa học nổi tiếng Albert Einstein từng nói: “Nếu bạn không thể giải thích điều gì một cách đơn giản thì bạn chưa đủ hiểu chúng.” Hay Charles Mingus - một nghệ sĩ nhạc Jazz huyền thoại của Mỹ tin rằng: “Ai cũng có thể biến một thứ đơn giản thành phức tạp. Sáng tạo chính là biến thứ phức tạp trở nên đơn giản.” Sự giản đơn trong sách tranh là những trải nghiệm, quan điểm, tri thức đã cô đọng, tinh tuý, được diễn đạt bằng cách dễ hiểu nhất, đến cả trẻ con cũng hiểu.


Cái chết tiễn đưa chú vịt cùng một nhành hoa. Ảnh: brainpicking.com


Vấn đề cốt yếu không phải là thể loại, mà ở chất lượng nội dung, thông điệp lẫn cách thể hiện.

Lấy ví dụ như cái chết - một đề tài ai cũng sẽ phải đối mặt. Trong cuốn sách tranh Duck, Death & the Tulip (chú vịt, cái chết và bông hoa tulip) của tác giả - họa sĩ người Đức Wolf Erlbruch, cái chết đã được diễn giải dịu dàng và đậm chất nhân sinh. Nhân vật cái chết không ghê rợn, đáng sợ, mà chỉ như một người đồng hành yên tĩnh. Cái chết luôn ở bên chú vịt, cùng chú trải nghiệm đủ thăng trầm đời thường. Cho tới một ngày, chú vịt chạm tới cuối con đường, đã sống hết mình một cuộc đời, cái chết mới tiễn đưa chú vịt ra đi thanh thản bằng một nhành hoa, đầy trân trọng như một người bạn tâm giao.

Qua câu chuyện nhỏ rất kiệm lời chỉ mấy chục trang giấy ấy, người đọc hiểu được thông điệp, quan điểm của tác giả về cái chết: cái chết gắn liền và luôn song hành với sự sống. Ông không coi cái chết như kẻ thù tiêu diệt sự sống. Con người học cách chấp nhận và nhìn nhận giá trị của cái chết để sống trọn vẹn hơn.

Một tác giả sách tranh nổi bật khác với những tác phẩm xóa nhòa ranh giới lứa tuổi chính là Shaun Tan. Những câu chuyện của ông thường trĩu nặng hoài niệm, nỗi cô đơn, lạc lõng, cảm giác mất mát, thương nhớ những kỷ niệm tuổi thơ - thứ thường xuất hiện ở người trưởng thành.

Trong tác phẩm The Lost Thing (cuốn sách đã từng được chuyển thể thành phim hoạt hình), nhân vật chính của Shaun Tan là một chàng trai đã lớn và cảm thấy buồn tẻ, mắc kẹt với cuộc sống tấp nập xô bồ, cho tới một ngày anh tìm được “thứ đã mất” của mình. Thứ bị lạc mất ở đây - được tác giả cụ thể hóa thành một sinh vật màu đỏ, to lớn, tùy từng độc giả soi chiếu bản thân mà đó có thể là sự mơ mộng, trí tưởng tượng con trẻ hoặc cảm giác tự do, được sống với bản chất thật mà không phải đeo mặt nạ…

Tác giả - họa sĩ Shaun Tan trong một bài tiểu luận đã có viết rằng ông thường bị hỏi khi sáng tác, ông có nhắm tới đối tượng khán giả cụ thể nào hay không. Ông đáp lại rằng ông tin những tác phẩm sẽ tự tìm được độc giả phù hợp với chúng. Ông không đặt bất kỳ khuôn mẫu hay giới hạn nào cho người đọc. Những định kiến có thể cản trở chúng ta tiếp cận được với những tác phẩm hay ngoài dự đoán của chúng ta.

Bên cạnh đó, phần tranh của sách tranh cũng là yếu tố đáng kể. Mỗi trang sách đều như một bức tranh hội họa hoàn chỉnh, có chất lượng nghệ thuật cao, được vẽ bởi những họa sĩ tài năng, học hành bài bản, chuyên nghiệp. Như Shaun Tan, có những cuốn ông vẽ từng trang trên khung toan, bằng chất liệu sơn dầu. Các họa sĩ sách tranh được yêu thích trên thế giới như Maurice Sendak, Shaun Tan, Oliver Jeffers, Isabelle Arsenault, Chihiro Iwasaki… đều có những triển lãm nghệ thuật đa dạng bên ngoài những cuốn sách tranh (và không ai thắc mắc những thứ này chỉ dành cho trẻ con à?). Bảo tàng nghệ thuật Chihiro Iwasaki là một địa điểm đáng ghé thăm ở Tokyo, Nhật Bản.

Chất lượng nghệ thuật, hình ảnh của sách tranh không còn phải nghi ngờ. Tất nhiên, vẫn sẽ có những cuốn chất lượng kém, tùy trình độ họa sĩ. Nhưng nếu cho rằng sách tranh chỉ xanh xanh đỏ đỏ cho em nhỏ nó mừng là sai lầm mất rồi.

Tuy vậy, ngay cả khi họa sĩ không có kỹ năng siêu việt như hội họa hàn lâm, nhưng câu chuyện đủ mạnh, nét vẽ dù còn non nhưng lại phù hợp và thể hiện được trọn vẹn nội dung thì đó vẫn là một cuốn sách tốt.

 

Sách tranh - nuôi dưỡng những "thiên tài trẻ con"

Ngay cả với những tác phẩm sách tranh không rõ ràng đề tài liên quan tới đời sống trưởng thành thì độc giả người lớn vẫn có thể thưởng thức được. Một người bạn của tôi - một người viết chuyên nghiệp, từng chia sẻ rằng những người lớn mà còn giữ được trí tưởng tượng cũng như khả năng vui như một đứa trẻ là những thiên tài trẻ con.

Nhà văn C.S.Lewis - tác giả của bộ tiểu thuyết kinh điển Biên niên sử Narnia, từng có những phản biện về việc gán nhãn sách chỉ dành cho trẻ con rằng điều đó phản ánh định nghĩa sai lầm về “trưởng thành”. Bỏ đi những niềm say mê cũ để tiếp nhận những điều mới không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc lớn lên.

“Nếu phải bỏ lại những bưu kiện, rời những sân ga là bản chất của sự lớn lên, thì tại sao chúng ta lại ngừng làm vậy khi đã trưởng thành? Tại sao sự già yếu lại không được ca tụng? Tại sao chúng ta không được chúc mừng khi rụng cả răng và hói cả đầu?”

Khi chúng ta lớn lên, chúng ta không cần bỏ đi những thứ đã bồi đắp từ tuổi thơ. Chúng ta thêm vào những thứ mới, làm dày lên trải nghiệm sống của mình. Khi lớn ông say mê Tolstoy và Jane Austen nhưng không có nghĩa phải hết thích truyện cổ tích.

Kết nối với tuổi thơ hay đứa trẻ bên trong bạn không phải là cản trở của sự trưởng thành. Trái lại, những ẩn dụ, tưởng tượng trong những câu chuyện dường như dành cho trẻ con, lại có thể đem lại sự xoa dịu, vỗ về cho những người đã lớn nếu chúng ta không lãng quên mình đều từng là những đứa trẻ.

Trong cuốn Oh, the Places You’ll Go! của Dr.Seuss, có câu: “Cô đơn một mình! Dù em có thích hay không, em sẽ phải cô đơn một mình không ít đâu.” Hẳn bạn sẽ đồng ý với tôi rằng đó là thử thách bắt buộc chúng ta phải trải qua trên con đường làm người lớn. Nhưng những sự thật phũ phàng này lại được kể bằng một giọng đầy bao dung và cảm thông, với một bức tranh đầy ngộ nghĩnh. Khi người lớn mệt, có lẽ chúng ta chỉ cần những cuốn sách nhẹ và êm thôi.

Sách tranh nói riêng hay văn học thiếu nhi nói chung, không dành cho chỉ riêng đối tượng nào, mà dành cho tất cả những ai muốn được nghe kể chuyện, muốn được làm cho thích thú, ngạc nhiên, muốn được tư duy và tưởng tượng.

TÓM LẠI, sau bài viết khá dài này, tôi hi vọng đã thuyết phục được những bạn đọc người lớn một chút, động viên các bạn mở lòng trao cho sách tranh một cơ hội - được làm bạn vui và cùng bạn trải qua đủ cung bậc cảm xúc. Đừng để tuổi tác giới hạn bản thân mình, bạn nhé!□

Thùy Cốm

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 26.6.2021.

TTO - Nguồn tin của Tuổi Trẻ Online cho biết thông tin thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch lúc 1h30 ngày 22-1 tại chùa Từ Hiếu (TP Huế).

20220122

Thiền sư Thích Nhất Hạnh - Ảnh: langmai

Sáng 22-1, một nguồn tin thân cận tại Giáo hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế cho Tuổi Trẻ Online biết thông tin trên.

Theo nguồn tin này, cũng như theo thông báo từ Làng Mai, thiền sư Thích Nhất Hạnh đã "an nhiên thị tịch" tại Thất Lắng Nghe ở Tổ đình Từ Hiếu vào 1h30 sáng 22-1, hưởng thọ 95 tuổi.

Trước đó, vào năm 2018, thiền sư Thích Nhất Hạnh sau quá trình hành đạo ở nước ngoài đã trở về Tổ đình Từ Hiếu để an dưỡng.

Trong quá trình ở đây, sức khỏe của thiền sư luôn là vấn đề được các đệ tử, tín đồ Phật giáo quan tâm.

Cáo phó từ Làng Mai viết: 

"Thiền sư Thích Nhất Hạnh - Sư Ông Làng Mai là bậc thầy hướng dẫn tâm linh có công hạnh hoằng hóa rộng rãi và ảnh hưởng sâu dày trên khắp thế giới. 

Thiền sư đồng thời là một nhà văn hóa, một nhà văn, một nhà thơ, một học giả, một sử gia và một nhà hoạt động hòa bình. 

Thiền sư được biết đến qua những buổi thuyết giảng công cộng cho cả hàng chục ngàn người và hơn 120 tác phẩm xuất bản giá trị. 

Thiền sư đã mở ra hướng đi và phát triển những pháp môn thực tập với nhiều khóa tu dành cho các nhà giáo dục, thanh thiếu niên, nghệ sĩ, doanh nhân, các nhà lãnh đạo, y bác sĩ… 

Bên cạnh sự nghiệp hoằng pháp, Thiền sư cũng đã tổ chức nhiều Đại Giới Đàn và lễ Truyền Đăng, Việt hóa Nghi lễ và tân tu Giới bản để tiếp dẫn hậu lai.

Mục sư Martin Luther King vinh danh Thiền sư như là "một Thánh tông đồ của hòa bình và bất bạo động" khi đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình vào năm 1967. 

Trong gần 40 năm sống xa quê hương, Thiền sư là một trong những người tiên phong mang đạo Bụt, đặc biệt là pháp môn chánh niệm đến xã hội phương Tây và góp phần xây dựng một cộng đồng Phật giáo Dấn thân cho thế kỷ XXI với gần 1.250 đệ tử xuất gia, hàng triệu đệ tử tại gia và hàng trăm triệu độc giả trên khắp năm châu. 

Rất nhiều học trò của Thiền sư đã gặt hái được nhiều hoa trái trong sự thực tập và tiếp nối được sự nghiệp hoằng hóa mà Thiền sư trao truyền suốt những thập kỷ qua".

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch - Ảnh 2.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh trong lần trở về an dưỡng ở Tổ đình Từ Hiếu vào năm 2018 - Ảnh: NHẬT LINH

Thiền sư Thích Nhất Hạnh viên tịch - Ảnh 3.

Đồ họa: VŨ HOÀNG - Nội dung: MINH TỰ

Nguồn: Báo Tuổi trẻ, ngày 22.01.2022.

Thắp hương hay đốt trầm có lẽ là hành vi tín ngưỡng quen thuộc nhất với người Việt. Đến lượt vật thể để cắm những que hương hay đựng những mảnh trầm được đốt cũng thành thứ gắn bó với đời sống: bát hương, đỉnh đồng, lư hương…

Mùa thu năm 1940, chàng trai trẻ Lưu Hữu Phước từ miền quê Cần Thơ ra Hà Nội học Trường Y khoa Đông Dương. Vốn liếng của chàng trai là đôi bài hát viết cho học sinh Trường Petrus Ký mang nỗi hoài vọng quá khứ: “Có những đêm kể cho nhau nghe những thành tích đuổi giặc cứu nước ngày xưa, chúng tôi gục đầu lên vai nhau khóc tủi hờn vì nhục nước ngày nay”. 

Ra đến Hà Nội, như được “về thăm quê cũ” khi tìm tới những di tích lịch sử của các thời đại tự chủ, “mỗi di tích như một quyển sử dân tộc”, các chàng trai Nam bộ nhịn bớt ăn, dạy học tư để lấy tiền, chung nhau thuê một gác nhỏ ở góc phố Bùi Thị Xuân và Tô Hiến Thành hiện nay. “Chúng tôi mua một lư hương con, các tối Chủ nhật, anh em tắt đèn, đốt hương trầm lên, và nhắc lại những cảm xúc trong ngày. Nhiều bạn khác dần dần kéo đến chơi với chúng tôi, có các bạn miền Trung, miền Bắc đến trò chuyện, chan hòa trong một niềm thông cảm rạo rực tình yêu đất nước” (hồi ức của Lưu Hữu Phước). Họ tổ chức những chuyến đạp xe về thăm những đền Lý Bát Đế, Cổ Loa, Phù Đổng. Từ đây, những bài hát yêu nước như Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng… ra đời, trở thành tiếng nói của thế hệ sinh viên học sinh thập niên 1940.

20210621 2

Lưu Hữu Phước và các bạn học Đại học Đông Dương đạp xe về nguồn. Ảnh nhỏ, từ trái: Mai Văn Bộ, Nguyễn Thành Nguyên, Lưu Hữu Phước. Ảnh do Mai Xuân Lộc (con trai nhà ngoại giao Mai Văn Bộ) cung cấp

Cùng khoảng thời gian ấy, cũng ở Hà Nội, Nguyễn Tuân đăng báo dài kỳ truyện vừa Chiếc lư đồng mắt cua. Đây là một tác phẩm đặc trưng cho chủ đề xê dịch của tác giả này. Câu chuyện mượn đề tài đời sống các nhà hát cô đầu làm phông cảnh một chặng dừng chân trong chuyến đi vào Nam của nhân vật Nguyễn (thực ra chính là tác giả), rồi cứ mãi quẩn quanh những tỉnh lẻ buồn bã bên hào nước thành Vinh hay Thanh Hóa. 

Ngược chiều với sự hăm hở đạp xe về dấu tích xưa của Lưu Hữu Phước, nhân vật Nguyễn Tuân uể oải đến chán chường cả những chốn lạc thú như kỹ viện. Ở những chốn mà việc hát chỉ là một phần bên cạnh hút thuốc phiện hay trăng gió tình tự với các cô đầu, Nguyễn thành bạn tâm giao với ông Thông Phu, chủ nhà hát. Ông ta tặng cho Nguyễn một chiếc lư đồng.

Đồng mắt cua. Nhỏ thôi. Đường kính rộng nhất nơi thân lư cũng chỉ bằng cái đường kính chiếc mặt tẩu Vân Nam da đá. Trông xinh lắm. Đến chơi gần bàn viết của tôi, thấy chiếc lư đựng kim găm và dùng luôn làm vật chặn giấy cho gió khỏi lật ngửa những trang chữ ướt, nhiều ông bạn nghiện đã nằn nì đòi lấy đem về bày vào khay đèn nhà.

Vẫn hay lư đỉnh nào mà chẳng dùng vào việc đốt trầm. Lư đỉnh nào mà chẳng được đặt trên những bệ các nơi cao nghiêm tôn thờ. Sân nhà Thế Miếu. Đình chùa. Bàn thờ gia tiên.

Nhưng chiếc lư của tôi suốt hai đời chủ, chỉ được đặt những nơi không đáng gọi là tôn thờ chút nào. Nó đã tuôn nhả những vòng khói thơm giữa những nơi hôi hám ẩm sũng. Nó đã phải đốt nóng trong hoàn cảnh xóm hát ả đào. Cái rất thanh cao ấy đã phải ở giữa một cái rất tục bạo”.

Nguyễn Tuân năm 1937. Ảnh: TL


Kết truyện vẫn là Nguyễn sống một cuộc đời buồn như cái lư chẳng được đốt lên nữa. Người đọc hiện đại có thể rất ngạc nhiên khi chứng kiến cùng một thứ đồ vật, đôi bên đã xử sự khác nhau. Nhà văn cảm thấy sự tồn tại mòn mỏi ẩn chứa nhiều độc tố quanh cái lư đồng đặt nhầm chỗ. Nhạc sĩ ái quốc tìm thấy sự khơi gợi tự tôn dân tộc qua làn hương trầm, phục hồi lại cảm xúc những chuyến về nguồn. Cùng một thời đại, những chiếc lư hương giúp người ta đọc gì ở những cảm xúc đối ngược ấy? Chúng tựa như có chung mục đích giúp người ta suy tưởng về một lối thoát tinh thần.

Ta hãy thử nghĩ về phương diện công năng quen thuộc của cái lư hương, hoặc thứ gần gũi hơn là bát hương.

Thắp hương hay đốt trầm có lẽ là hành vi tín ngưỡng quen thuộc nhất với  người Việt. Đến lượt vật thể để cắm những que hương hay đựng những mảnh trầm được đốt cũng thành thứ gắn bó với đời sống: bát hương, đỉnh đồng, lư hương… Tất nhiên những dụng cụ này còn dùng cho mục đích khác, song cơ bản vị trí của chúng thuộc về những nơi mang tính biểu tượng tinh thần nhất trong ngôi nhà, chẳng hạn bàn thờ. Trong chốn đó, thắp một nén hương, người ta kỳ vọng kết nối với thế giới tâm linh, gồm các thánh thần cho đến những người đã khuất, thậm chí cả những vong hồn xa lạ.

Để hoàn thiện cảm giác tôn quý, lư hay bát hương cũng được tạo tác trang trọng hơn mức một vật thể có chức năng làm khuôn đựng hay nơi cắm vào. Gia cảnh nghèo khó thì cái bát hay cốc đựng gạo cũng có thể làm chỗ cắm chân hương.

Hình lư hương trên áp phích Hội chợ Hà Nội năm 1932. Ảnh: TL


Lưu Hữu Phước hay Nguyễn Tuân còn có lư hương, trong khi cùng thời, hai cô gái điếm trong truyện ngắn Tối ba mươi của Thạch Lam trọ trong một nhà săm trong đêm ba mươi Tết dĩ nhiên không có cả bát hương chứ đừng nói đến lư đồng. Các cô mua gạo về định đổ vào một cái cốc, rồi chợt nhận ra “cái cốc bẩn ở góc tường, mà cả đến những khách làng chơi cũng không thèm dùng đến, nàng định dùng làm bát hương cúng tổ tiên!”.

Họ đành cắm tạm lên tường trong đêm giao thừa. “Khói hương lên thẳng rồi tỏa ra mùi thơm ngát đem lại cho hai nàng kỷ niệm những ngày cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây thơ”. Mùi hương trầm là một liệu pháp của ký ức, thanh tẩy thực tại. Nó giúp các cô gái của Thạch Lam bớt ê chề. Nó giúp Lưu Hữu Phước và bạn đồng tâm thoát ly thực tại để hướng đến thế giới lý tưởng của chủ nghĩa dân tộc. Chiếc lư đồng cũng giúp nhân vật Nguyễn Tuân lưu giữ ký ức phóng dật giữa cảnh đời mòn.

Khi nói đến những bộ đồ thờ bao gồm những lư hương hay đỉnh đồng, người ta nghĩ tới sự hoa mỹ cầu kỳ mang tính trang trí ban đầu nhằm tôn vinh thần linh và thế giới siêu nhiên. Nhưng dưới cái nhìn duy lý mà thế giới hiện đại đem lại, vẻ đẹp của các sản phẩm này có thể đo đếm. Chiếc lư đồng thành món cổ ngoạn, hô ứng với những quan niệm mà người Pháp đem vào thông qua những hoạt động bảo tàng của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Chùa chiền dưới mắt họ không chỉ là chức năng tôn giáo mà còn là di sản kiến trúc. Ở góc độ nào đó, tư duy này đã tạo ra một truyền thống thẩm mỹ mới và giảm đi lớp sương khói của tín ngưỡng.

Nguyễn Tuân thuộc lớp người đã thừa kế cái nhìn hiện đại hóa đó. Thay vì quan tâm đến vầng nhang khói hư ảo và mục tiêu thần thánh trú ngụ trên lư hương, đỉnh đồng hay bát nhang, ông săm soi cái lư đồng một cách kỹ lưỡng với cái nhìn lý tính và trực quan hơn. Trong khi đó, người có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa về sau Mác-xít hóa như Lưu Hữu Phước lại viện dẫn đến quyền năng của hương khói cùng những thư tịch mang tính giáo khoa thư về các dấu tích cội rễ: “Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng” (Tiếng gọi thanh niên, 1941). Trên bìa tờ nhạc bản tiếng Pháp của bài ca này, Marche des Etudiants (“Hành khúc sinh viên”, bài ca của Tổng hội Sinh viên Đại học Đông Dương, xuất bản 1943) in một chiếc lư hương nghi ngút khói.

*

Nhưng đỉnh, lư, hay lò hương, trong vốn văn chương kinh điển Á Đông, lại là thứ tiêu dao gắn với đời sống phù hoa hoặc cõi ẩn lánh trốn đời của kẻ sĩ. Truyện Kiều, danh tác trung đại Việt Nam quen thuộc nhất, đầy ắp những khói hương phi tín ngưỡng. Có thể nói, việc thắp hương hay đốt trầm là một hành vi thường nhật trong đời Kiều, nhiều đến mức có thể trở thành một biểu tượng thẩm mỹ của việc xây dựng nhân vật của Nguyễn Du.

Trong hơn ba ngàn câu thơ, nếu có 13 lần thắp hương thờ cúng với các đồ dùng như “nồi tâm hương”, “hương đèn” hoặc “dầu hương”, thì việc đốt hương trầm gắn với tình tự trai gái nhiều hơn hẳn, 22 lần. Nhiều cụm từ đã thành nhãn tự của tác phẩm này, có thể từ đó luận ra những mốc thăng trầm trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của nhân vật chính: hương nguyền, hương thề, hương sớm trà trưa, hoa thải hương thừa, phấn thừa hương cũ, hương lửa đương nồng, hương lửa ba sinh, trầm bay lạt khói, hương bay dặm phần, đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa, vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa, khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa… Những câu như “đốt lò hương ấy so tơ phím này” hay “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” thành một thứ điển cố, tạo ra một truyền thống trích dẫn suốt hai trăm năm sau.

Lò hương nguyền tỏa khói cùng với những yên hoa, yên ba (khói sóng), phong sương, vân yên, mây khói… chồng lấn nhau về trường ý, tạo ra một màn sương huyền ảo của khung cảnh vẫn còn đủ sức phủ lên ngôn từ dòng văn nghệ lãng mạn thế kỷ XX, thậm chí đến tận thi ca đầu thập niên 1970 ở Sài Gòn. Tập hồi ức văn chương của Đinh Hùng xuất bản sau khi ông mất mang cái tên xuất phát từ biểu tượng này: Đốt lò hương cũ (1971).

Hình lư hương trên những bản nhạc của Lưu Hữu Phước. Ảnh: TL


Khung cảnh hương khói của Truyện Kiều cũng tạo ra những điển mẫu về mô tả. Đầu thế kỷ XIX, lầu xanh của Tú Bà: “Giữa thì hương nến hẳn hoi/ Trên treo một tượng trắng đôi lông mày”, thì hơn một thế kỷ sau, cảnh nhà hát cô đầu ở phố Khâm Thiên được đặc tả nhiều ngụ ý gợi nhớ chốn thanh lâu: “Trên tủ, đỉnh đồng, hoa giấy, lư hương. Hai bên phòng, tràng kỷ, mắc áo tủ gương; lại vẩn vơ vài chiếc đàn lủng lẳng giữa tường vôi xanh lợt. Kể ra bày biện rất sơ sài, nhưng trông sạch mắt, phong lưu lắm. Chị Đốc thực là người lịch duyệt!” (TchyA, Cõi nát bàn của dân bẹp, Hà thành ngọ báo 23.8.1932).

Ở đây, có đến mấy làn hương: hương trầm, hương thơm son phấn và hương khói thuốc phiện. Một người từng là “dân bẹp” cũ, Vũ Bằng, đã gọi những khung cảnh các xóm hát cô đầu này là “cái nôi văn nghệ của Hà Nội ba chục năm về trước”. Sự hoài niệm này cung cấp bằng chứng về sự có mặt ở chốn ca kỹ phấn hương của rất nhiều văn nghệ sĩ làm nên chân dung nghệ thuật Việt Nam thời 1940, nó thấp thoáng ánh xạ của những ca lâu tửu điếm Paris quen mặt các văn nghệ sĩ tìm thú “hội hè miên man” (Hemingway) hay những xóm Bình Khang, nơi lui tới của các tân khoa tấn sĩ thành Trường An.

Sự chuyển hóa câu chuyện hương khói thờ phượng sang hương khói tình tự được kế thừa bằng tính cổ điển tựa như một truyền thống của giới trí thức Tây học kế thừa các nhà nho tài tử, có từ những truyện tài tử giai nhân như Tú Uyên gặp Giáng Kiều ở chốn thiền môn. Người đọc gặp lại môtip này trong bài thơ Chùa Hương (1934) của Nguyễn Nhược Pháp, dưới dạng “thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”. Cô gái tuổi mười lăm đi hội xuân chùa Hương cũng như nàng Kiều tuổi cập kê đi lễ Thanh minh hội ngộ chàng Kim. Mùi hương cầu khấn Trời Phật hay khóc người bạc mệnh Đạm Tiên đều thoắt hóa hương tình. Cùng một tâm thế với phút gặp gỡ “trăm năm có biết duyên gì hay không” của Kiều, sau cuộc hội ngộ với chàng văn nhân, cô thiếu nữ đã động tâm lãng mạn hóa một mùi hương tôn giáo: “Đêm hôm ấy em mừng! Mùi trầm hương bay lừng… Em mơ, em yêu đời!”. Mùi hương đã nhuộm cho ái tình sắc thái hư ảo.

*

Lịch sử đã làm công việc biến thiên của nó khi bối cảnh đất nước đầu thập niên 1940 sôi sục những bài ca ái quốc của Lưu Hữu Phước đẫm hương khói viếng Hồn tử sĩ: “Khói bốc nghi ngút bay quyện lá cờ… Cùng nhau khấn non nước thiêng liêng” hay cầu nguyện Người xưa đâu tá: “Hồn con hương ngát kính cẩn dâng lên Hai Bà”. Trên bìa những tờ nhạc này thời kỳ đầu, hình ảnh minh họa tiếp tục là một lư hương. Những buổi biểu diễn những bài ca ái quốc của nhóm Hoàng Mai Lưu gồm ban đồng ca 10 người, “mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề đứng sau một bộ lư đồng tỏa hương nghi ngút đặt trên bục cao” (Huỳnh Văn Tiểng). Với lời kêu gọi Lên đàng hay Xếp bút nghiên, Lưu Hữu Phước thành người dấn thân vào cuộc cách mạng tự giác trước khi gặp cuộc cách mạng của xã hội.

Ngược lại, chiếc lư đồng tương tự không nhả một làn khói tương tự với Nguyễn Tuân. Ông kể lại, "Nhật đảo chính Pháp, không khí khắp nơi sục sôi chuẩn bị khởi nghĩa, tôi vẫn không hề hay biết gì. Chiều ngày 9.3.1945, tôi còn nằm bẹp tại nhà một cô đầu ở Khâm Thiên. Đêm, Nhật nổ súng đảo chính Pháp, tôi vẫn nằm ở nhà hát bà Chu. Sáng ra, sau khi ngớt tiếng súng, tôi mới khăn đóng áo the ra đường, về nhà ở phố Cầu Mới. Thấy tôi về, cả nhà rất mừng, muốn giữ tôi ở nhà lâu lâu, chờ cho tình hình yên ổn. Nhưng chỉ được mấy hôm, tôi lại lặng lẽ xuống phố, lại vào nhà cô đầu...". (Ngọc Trai, Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân). Dường như Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn của Chiếc lư đồng mắt cua. Dù chào mừng cách mạng, ông vẫn là người “tư tưởng không vững vàng” như chính ông tự kiểm điểm vì đã viết trong một bài báo năm 1946: “Bây giờ, hễ thấy chỗ nào có treo cờ, bất kể là cờ gì, tôi đều sợ”. Tất nhiên, Nguyễn Tuân rốt cục cũng “chung một bóng cờ” với Lưu Hữu Phước, cho dù là trên một con đường “gập ghềnh xa”.

Bìa cuốn Tục lụy (Khái Hưng, 1937) và phiên bản chỉnh sửa sau này có tên Trần duyên của Thế Lữ và Lưu Hữu Phước. Ảnh: TL


Ngay cả với một người ôm mộng làm tráng sĩ như Lưu Hữu Phước, con đường sáng tạo của nghệ sĩ không một chiều. Nó còn có những ngã rẽ lãng mạn. Đón Tết Quý Mùi 1943, các nữ sinh Trường Đồng Khánh Hà Nội muốn dựng kịch thơ Tục lụy của Khái Hưng do nhà thơ Thế Lữ chuyển thể. Trần Văn Khê kể lại: “Theo đề nghị của Thế Lữ, ngại rằng nếu ngâm thơ suốt cả giờ đồng hồ sẽ khiến khán giả nhàm chán, đoàn kịch phái cô Minh Nguyệt đại diện đến tìm Lưu Hữu Phước để nhờ phổ nhạc các bài thơ trong vở kịch”.

Đầu tiên Lưu Hữu Phước từ chối vì chỉ sáng tác nhạc chứ chưa bao giờ phổ thơ, song người đẹp tươi cười khẩn khoản: “Xin ông cố một tí giúp chị em tôi ông nhé!”. Lưu Hữu Phước xiêu lòng và thức ba đêm trắng để phổ nhạc “Khúc Nghê Thường” với những nhân vật Nhã Tiên, Thi Tiên và Diễm Tiên cho kịp biểu diễn ngày 23.1.1943. Ở đây, Thế Lữ và Khái Hưng là những tác giả của nhóm Tự lực Văn đoàn, dường như đối nghịch thẩm mỹ nghệ thuật với Lưu Hữu Phước, song sự kết hợp đã tạo ra thành tựu khai mở cho thể loại ca kịch Việt Nam.

Lưu Hữu Phước còn có một bài hát “tặng cô J. Thu Hương” trên bối cảnh dòng sông Hương: “Làn hương ơi! Làn hương mờ xóa bóng ai yêu kiều trong mơ” (Hương Giang dạ khúc, 1943). Trên bản nhạc do nhóm Hoàng Mai Lưu của chính Lưu Hữu Phước chủ trì xuất bản năm 1946, ghi “nhạc sĩ vô danh” và bài hát cũng không có mặt trong các tuyển tập nhạc khi tác giả còn sống. Sau này ông trở thành tác giả nổi bật của dòng nhạc cách mạng, thậm chí còn là chính khách. Liệu có phải ông đã chối từ những “mảnh hương nguyền” của mình? Phải chăng cảm hứng từ nàng thơ trường Đồng Khánh chỉ đủ tạo ra một góc diễm ảo nhỏ trong đời ông? Những bài hành khúc dường như đã lùi vào đền đài kỷ niệm của các cuộc chiến tranh. Nhưng dù hương khói đã tan, bất kể lý do gì, chiếc lư trầm chàng trai 19 tuổi Lưu Hữu Phước thắp lên ở một gác trọ Hà Nội đã thực sự làm nên một biểu tượng lãng mạn của thời đại ấy.

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 19.6.2021.

Khi bàn về sách nói, không thể bỏ qua các câu hỏi hiện vẫn còn khiến nhiều người lăn tăn: nên nghe hay đọc sách, và nghe audiobook sau đó tuyên bố “tôi đã đọc quyển đó rồi” có phải là… ăn gian?

20211224

 Minh họa

Đọc và nghe một cuốn sách có thể liên quan đến các con đường não bộ khác nhau, nhưng hầu hết các nhà tâm lý học nghiên cứu ngôn ngữ trên các khía cạnh tâm lý và sinh học thần kinh đồng ý rằng “bộ máy tâm trí” liên quan đến việc hiểu ở cấp độ cao hơn các mẩu chuyện, cốt truyện đều giống nhau bất kể bạn “đọc” cuốn sách như thế nào.

Trong một thí nghiệm, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học UC Berkeley đã chụp hình não 9 người tham gia đang đọc và nghe một loạt chuyện, rồi lập bản đồ cách các khu vực khác nhau của não xử lý từng từ. 

Nhìn vào các bản scan não và phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu thấy rằng các câu chuyện kích thích các vùng nhận thức và cảm xúc giống nhau, bất kể phương tiện truyền đạt chúng vào não là gì đi nữa, theo kết quả đăng trên tập san Journal of Neuroscience vào tháng 8-2019. Nói cách khác, ta nghe hay đọc thì đối với não “không thành vấn đề”.

 

 Ảnh chụp não khi nghe sách (trên) và đọc sách cho thấy nhiều nét tương đồng. Nguồn: Fatma Deniz

Điều này lại dẫn đến một câu hỏi khác: giữa nghe và đọc, có cái nào giúp ta dễ hiểu nội dung văn bản hơn cái kia không? Beth Rogowsky, phó giáo sư giáo dục tại Đại học Bloomsburg, đã làm thí nghiệm với 3 nhóm tình nguyện viên là người trưởng thành để tìm câu trả lời. 

Nhóm đầu tiên nghe các đoạn trích của một cuốn sách phi hư cấu về Thế chiến thứ hai; nhóm thứ 2 đọc các đoạn trích từ một máy đọc sách điện tử; nhóm cuối cùng đọc và nghe các đoạn trích đồng thời. 

Các tình nguyện viên sau đó đã làm một bài kiểm tra khả năng hiểu. Rogowsky và các đồng nghiệp không thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm số giữa 3 nhóm.

Nhưng Rogowsky lưu ý rằng nghiên cứu của cô chỉ xem xét khả năng hiểu khi mọi người đọc hoặc nghe tài liệu một lần, chứ không phải khi họ cố gắng nghiên cứu nó ở mức độ sâu. 

Nói cách khác, nghiên cứu của Rogowsky gợi ý rằng ít nhất khi nói đến việc tiếp nhận tài liệu một cách tương đối thụ động, thì việc bạn đọc hay nghe cuốn sách không thực sự quan trọng.

Nhưng còn muốn nạp nội dung chủ động thì sao? Một nghiên cứu so sánh mức độ học tập của sinh viên về một chủ đề khoa học bằng cách cho họ nghe 1 podcast dài 22 phút so với đọc 1 bài viết. Hai ngày sau, họ phải làm bài kiểm tra. Kết quả là số sinh viên đọc đạt 81% số điểm và những người nghe thì được 59%.

Xét trên khía cạnh học tập thì 2 cách nạp văn bản này khiến ta tiếp nhận theo những cách khác nhau. Với văn bản có những phần khó, ta có thể dễ dàng quay lại đoạn đó, đọc lại và suy nghĩ dễ dàng hơn khi nghe nội dung đó. 

Văn bản viết dù khó đến mấy cũng góp phần hỗ trợ người đọc thông qua những dấu hiệu tiêu đề, cách sắp xếp đoạn văn, những quy ước này là thứ mà việc nghe sách không thể so sánh được.

Vì vậy, mặc dù cả việc nghe và đọc sách đều có một quá trình hiểu cốt lõi tương đối giống nhau diễn ra trong não, những văn bản khó đòi hỏi tâm trí chúng ta phải có các chiến lược bổ sung và văn bản giấy có thể đáp ứng tiêu chí này. 

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy khả năng nghe và đọc của mọi người tương tự nhau đối với các câu chuyện kể đơn giản hơn là đối với văn xuôi. Các câu chuyện có xu hướng dễ đoán hơn và sử dụng các ý tưởng quen thuộc, còn các bài luận thuyết trình có nhiều khả năng bao gồm nội dung lạ và yêu cầu đọc có chiến lược hơn.

Thể loại sách cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến chọn lựa nghe hay đọc của chúng ta. Đối với văn bản tường thuật như tiểu thuyết, việc bạn đọc hay nghe cuốn sách có lẽ không quan trọng lắm. Nhưng đối với văn bản kỹ thuật, văn xuôi thì đọc sẽ tốt hơn. 

Việc tìm hiểu tài liệu dày đặc thông tin thường đòi hỏi phải xem lại và việc lật qua lại giữa các trang sẽ dễ dàng hơn nhiều so với lướt qua lướt lại một đoạn âm thanh.

Daniel T. Willingham, giáo sư tâm lý Đại học Virginia, chia sẻ trên The New York Times rằng cách đây vài năm, khi mọi người nghe nói ông là một nhà nghiên cứu về đọc sách, họ có thể hỏi về chứng khó đọc của con cái hoặc làm thế nào để khiến con họ đọc nhiều hơn. 

Nhưng ngày nay câu hỏi mà ông thường xuyên nhận được nhất là “Nếu tôi nghe sách nói khi sinh hoạt trong câu lạc bộ sách thì có bị xem là gian lận không?”. 

Suy cho cùng việc có gian lận trong câu lạc bộ đọc sách không nếu nghe sách có vẻ như không quan trọng bằng chuyện lựa chọn cách thức nào để hiểu nội dung của một cuốn sách một cách tốt nhất và nắm bắt được điều tác giả cố gắng truyền đạt đến chúng ta. ■

Hiếu Thảo

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 20.4.2021.

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là thời kỳ Pháp xâm lược, thống trị Việt Nam nói chung và Nam bộ nói riêng. Theo đó, nhiều vấn đề xã hội mới xuất hiện, mà sự hình thành phát triển công nghệ in mới đóng một vai trò quan trọng vào quá trình hiện đại hóa của văn hóa ở nước ta.

Từ đầu thế kỷ XIX trở về trước, việc phổ biến kiến thức ở Việt Nam rất hạn hẹp, phần vì chữ Hán chữ Nôm khó học, phần quan trọng khác vì kỹ thuật in ấn, sản xuất giấy còn nhiều hạn chế. Đến cuối thế kỷ XIX, nhưng hạn chế về kỹ thuật in ấn và sản xuất giấy được khắc phục đáng kể nhờ vào công nghệ của phương Tây. Theo đó, chữ quốc ngữ mẫu tự latin, sách vở, báo chí được in ấn, lưu hành rộng rãi, giúp cho việc học hành, phổ biến kiến thức rộng rãi, nhanh chóng, dân trí nhờ vậy mà được nâng cao hơn.

Hiện tại, các thư viện lớn ở Việt Nam vẫn còn giữ được khá nhiều ấn phẩm được in từ cuối thế kỷ XIX, có nguồn gốc xuất xứ khác nhau, từ Paris, Hongkong cho đến các nhà in trong nước từ Bắc vào Nam, với nhiều thứ tiếng khác nhau: Pháp, Hán, Nôm, quốc ngữ, cũng không hiếm ấn phẩm song ngữ: Hán – quốc ngữ, Pháp – quốc ngữ. Điều này thể hiện sự phong phú trong tình hình in ấn, đồng thời cũng thể hiện đặc thù chuyển đổi từ nền văn hóa cũ sang nền văn hóa mới của nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Tình hình xuất bản và phát hành cuối thế kỷ XIX

In ấn xuất bản là một hoạt động quan trọng của xã hội, ở nước ta nghề in cũng có từ lâu đời, đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX bắt đầu phát triển mạnh mẽ theo công nghệ mới. Thế nhưng việc tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động in ấn xuất bản của Việt Nam cho đến hiện tại vẫn còn rất hạn chế, chỉ có thể tìm thấy một ít thông tin rải rác trên sách báo. Về hoạt động xuất bản ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX, trên tờ báo quốc ngữ đầu tiên của nước ta là Gia Định Báo, số 24 năm 1890 đưa tin: “Ông Lamache, là tùy biện thơ toán tại dinh hiệp lý, bây giờ bỏ đi làm việc tại nhà in quản hạt, thế cho ông Goursaud về nghỉ”. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, các nhà in chủ yếu ở Nam bộ do người Pháp thành lập và đứng tên. Việc in ấn và phát hành sách báo lúc này có sự tham gia tích cực của tư nhân, “nhà hàng”, nổi tiếng như các “Bản in nhà hàng C. Guilland et Martion” ở Sài Gòn. Một loạt ấn phẩm của Trương Vĩnh Ký đã được in ấn và phát hành tại đây, như: Thơ dạy làm dâu, Bất cượng chớ cượng làm chi, Huấn nữ ca, Trương Lưu hầu phú, Nữ tắc in năm 1882; Học trò khó phú và Grammaire de la langue Annamite (1883), Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca (1884), Phú bần truyện diễn ca và Kiếp phong trần (1885).

20210614

Phần lớn sách báo Trương Vĩnh Ký làm ra đều nhắm đến đối tượng thiếu niên sơ học. Tờ “Thông loại khóa trình” và “Sự loại thông khảo” do Trương Vĩnh Ký chủ trương năm 1888-1889 tuy không phải là “sách giáo khoa” song cũng là loại tài liệu tham khảo hữu ích dành cho việc giáo dục trẻ em. Ở đây, Trương Vĩnh Ký vừa phổ biến Nho học bằng cách diễn Hán văn ra chữ quốc ngữ thông qua hình thức thơ ca và văn vấn đáp, vừa phổ biến Tây học, dạy Pháp văn bằng cách dạy đọc và giải nghĩa từng từ cùng với việc dịch một số mẩu chuyện ngắn từ Pháp văn ra tiếng Việt. Trong số, phần Nho văn chiếm vị trí áp đảo so với Pháp văn. Các ấn phẩm khác đại khái cũng theo chủ trương tinh thần ấy. Việc làm này của Trương Vĩnh Ký sau đó được Trương Minh Ký kế thừa tiếp tục một cách tích cực và hữu hiệu.

Cuối quyển Thi pháp nhập môn của Trương Minh Ký do Impremerie Commerciale Rex ấn hành năm 1898 tại Sài Gòn, có kê một danh sách những ấn phẩm đã in và đang phát hành thời bấy giờ, có giá bán kèm theo. Cụ thể như sau:

  • Fable de Lafontaine: 0$50.
  • Télémaque (traduction): 0.10.
  • De Saigon à Paris (Như Tây nhựt trình): 0.50.
  • Exposition Universelle (Chư quấc thoại hội có hình): 0.50.
  • Ricche et Pauvre (Phú bần truyện): 0.10.
  • Méthode pour apprendre l’Annamite (Tập dạy học tiếng An Nam): 0.20.
  • Cours gradué de langue francaise (Pháp học tân lương): 2.50.
  • Cours de chinois (Ấu học khải mông): 0.20.
  • Emtretions sur la Piété liliale (Hiếu kinh diễn nghĩa): 0.20.
  • Petite Etude (Tiểu học gia ngôn): 0.20.
  • Morceaux choisis de littérature chinoise (Cổ văn chơn bửu): 0.20.
  • Préceptes de morate chinoise (Khuyến hiếu ca): 0.10.
  • Tresor poétique chinois (Ca từ diễn nghĩa): 0.10.
  • Tragédie de Joseph (Tuồng Joseph): 0.10.
  • Tragédie de Bá Ấp Khảo (Tuồng phong thần Bá Ấp Khảo): 0.10.
  • Tragédie de Kim Vân Kiều (Tuồng Kim Vân Kiều, ba thứ): 0.50.
  • Syllabaire quốc ngữ (Vần quốc ngữ có hình): 0.10.
  • Premìeres lectures enfantines (Quốc ngữ sơ giai có hình): 0.10.
  • Traité de versitication Annamite (Thi pháp nhập môn): 0.20.
  • Cours de Chinois (3e partie) (Tiểu học tập sớ): 0.50.

Phần cuối ghi chú thêm: “Các thứ sách kể trên nầy để bán tại nhà Trương Thế Tải ở Sài Gòn. Ai muốn mua thì gửi bạc đến đó, và để tên họ cùng chỗ mình ở cho rõ, thì có người gói sách lại cho chẳng sai”.

“Thế Tải” là “tên tự” của Trương Minh Ký (1855-1900) và toàn bộ sách trên đều do ông soạn, một ít được Guilland et Martinon in và phần lớn do Rey et Curiol in từ năm 1884 đến 1899 tại Sài Gòn.

Từ các thông tin trên, chúng ta có thể đi đến nhận xét một số vấn đề về xuất bản ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX như sau: Thứ nhất, về ngôn ngữ văn tự, bấy giờ có đủ ca ba thứ chữ: Quốc ngữ, Hán, Pháp trong đó chủ yếu là sách quốc ngữ có nhan đề chữ Pháp và chữ Hán kèm theo, nhưng chữ Pháp được in giữa bìa như là nhan đề chính, dù thực ra bên hoàn toàn chỉ là chữ quốc ngữ; Thứ hai, về nội dung, đề tài, gồm có truyện thơ, sách học chữ quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp dành cho những người mới bắt đầu mà đối tượng chính là thiếu niên, ngoài ra còn nhiều loại văn bản tuồng lấy tích từ Truyện Kiều, tuồng lấy tích từ truyện Tàu (tuồng Bá Ấp Khảo lấy tích từ Phong thần diễn nghĩa), tuồng lấy tích từ Kinh Thánh vừa có tinh cách giải trí vừa có tính cách như một phương thức truyền đạo Công giáo (Tuồng Joseph). Đặc biệt, yếu tố “Thái Tây” ở đây thể hiện rõ nhất trong sách dịch từ Pháp văn sang thơ lục bát quốc ngữ truyện phiêu lưu của Télémaque và truyện ngụ ngôn Lafontaine. Tức là yếu tố “lạ”, “ngoại lai” từ văn học phương Tây đã vào Nam bộ cuối thế kỷ XIX thông qua một hình thức gần gũi quen thuộc nhất với người đương thời là truyện thơ lục bát. Đây là bước “trung chuyển” quan trọng để việc truyền bá văn hóa phương Tây vào Việt Nam cũng như quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây của người Việt Nam được diễn ra thuận lợi, ít gặp cản trở nhất.

Phát hành là hoạt động gắn liền với xuất bản, vì thế nó cũng được quảng bá rộng rãi đến công chúng, mà báo chí là một kênh cực kỳ quan trọng mới ra đời cuối thế kỷ XIX, bản thân báo chí cũng là một ấn phẩm phổ biến và thiết yếu trong thời kỳ này vừa với tên gọi “báo” vừa với tên gọi “nhựt trình”, trong đó tên gọi “nhựt trình” phổ biến hơn. Như một mẩu tin được in trên tờ Gia Định Báo qua rất nhiều số trong năm 1890, ví dụ số 40: “Nhựt trình bên sở đề hình trong cõi Đông Dương, nal judiciaire de l’Indo-Chine của quan Chưởng lý đề hình in ra trong ấy đem lý luật tòa kêu án Sài Gòn về việc người Lang Sa, người bổn quấc, cùng về hình phạt làm sao, lại đem những giấy châu tri về việc đại cái bên tòa, bây giờ đương in. Xấp nào làm trước trong tháng janvier 1890 thì mới rồi, còn các xấp trong các tháng trễ thì cũng gần rồi. Giá mua nhựt trình ấy định ra như sau đây: Một năm 6 đồng bạc, sáu tháng 3 đồng rưỡi. Hễ ai mua cho tới ngày mồng 1 septembre năm nay, thì sẽ kể từ ngày mồng 1 janvier mà phát, như để quá ngày ấy thì kể y kỳ sáu thang theo lệ. Ai mua thì phải tới tại phòng tư dinh hiệp lý cho người ta biên tên”.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện nhà in Nouvelle hay Nouvelle Albert Portail với các ấn phẩm tiếng Pháp thấy xuất hiện cả ở “Paris”, Phnom-penh và “Saigon”, tác giả gồm cả người Việt và người Pháp. Ví dụ: Cours gradué de langue francaise: en 100 lecons (Trương Minh Ký, Saigon, 1893), Situation du Christianisme en Cochinchine à la fin du XIXe siècle (Saigon, 1898, nói về tình hình đạo Kitô ở Nam kỳ cuối thế kỷ 19), La FrancMaconnerie du Grand Orient de France (Paris, 1897). Sang đầu thế kỷ XX, Nouvelle xuất bản nhiều ấn phẩm khác.

Việc dịch thuật giữ một vai trò trọng yếu trong sự hình thành các từ ngữ, khái niệm hay thuật ngữ mới. Nhưng cuối thế kỷ XIX do xuất bản còn hạn chế, các ấn phẩm lại chủ yếu phục vụ cho mục đích phổ biến chữ quốc ngữ và giáo dục tiểu học, nên việc du nhập và tạo từ mới vẫn chưa có nhiều đột phá. Tình hình này sẽ thay đổi khi bước sang đầu thế kỷ XX, với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và xuất bản, rồi các phong trào cải cách xã hội diễn ra sôi nổi, rộng khắp.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 1

Tình hình xuất bản và phát hành đầu thế kỷ XX

Đầu thế kỷ XX, báo chí nở rộ ở Nam bộ, theo đó, các thông tin về xuất bản cũng phong phú hơn nhiều so với giai đoạn trước. Trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn số 670 năm 1919 có đăng thông báo Nhắn với bạn đồng bang nội dung như sau: “Chúng tôi đặng vinh hạnh mà hay tin rằng đồng bang ta trong sáu tỉnh nay cũng đã đồng lòng đề xướng tuyệt giao thương mãi với khách trú mà vãn hồi quyền lợi cho bản xứ. Các châu thành lớn nhỏ thảy đều chung vốn lập cuộc mua bán cùng nhau chẳng chịu đến tiệm khách trú nữa; thật là một cơ hội hạnh phúc của dân tộc ta vô cùng. Ấy vậy tôi xin nhắc bạn đồng bang ta trong mấy làng mấy chợ và chỗ nào có trường học nên đến nhà in Imprimerie de l’Union mà mua sỉ các thứ giấy viết mực, đồ dùng về văn phòng tứ bửu nhứt hạng mà bán ra cho đồng bang ta dùng, khỏi đến khách trú mà mua mắc. Vẫn nhà in Union là một nhà in rất lớn tại Sài Gòn, và lại của người An Nam ta làm chủ, giá rẻ hơn các chỗ. Đồng bang ta hãy xem tiệm của M. Bùi Quang Nho mà ngày nay đồ sộ tại hạt Bến Tre đó là sở dĩ trước hết cũng khởi ra mà bán đủ các thứ giấy viết mực và các thứ sổ, sách, thơ, tuồng, truyện chữ quốc ngữ mà nên. Huống ngày nay là ngày của đồng bang ta tuyệt giao với khách trú, binh vực nhau mà làm ăn thì lại càng dễ hơn ông Bùi Quang Nho khi mới sáng tạo. Ấy vậy mấy tiệm An Nam ta đây đang lo lập ra nên gởi thơ mà thương nghị với M. Nguyễn Văn Của, Rue Catinat 155, 157 Sài Gòn, giá rẻ hơn các chỗ là có ý giúp sức cho đồng bang ta buôn bán mau thạnh vượng”.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 4

Tiếp đó, bản thông báo này lại kê ra “các món hàng tại nhà in” Union của Nguyễn Văn Của, toàn bằng Pháp văn. Có thể vì đương thời người ta chưa tìm, chưa Việt hóa được hết các từ ngữ tên gọi đồ đồ dùng văn phòng và dụng cụ học tập mới có xuất xứ từ phương Tây như bút chì, máy tính, gim kẹp… nên mới liệt kê toàn bằng tiếng Pháp như vậy.

Ngoài đầu tư nhà in, Nguyễn Văn Của còn kinh doanh khách sạn, riêng trong hoạt động xuất bản, ông không chỉ ấn hàng sách báo, mà còn nhiều loại ấn phẩm khác, như bản hát, lời rao, giấy hát… Điều này được chứng thực thông qua bài tố cáo Nguyễn Văn Của mượn việc công để tư lợi, nhan đề Xin hãy mở đàng tra xét của tòa soạn Lục Tinh Tân Văn, đăng trên số 610 năm 1919: “M. Nguyễn Văn Của xướng lập nghĩa vụ, trợ giúp quốc gia đâu chưa thấy, đà thấy ngài tư lợi cho nhà – nhà nào? – nhà in cùa ngài, nhà ngủ của ngài; in những bản hát, những lời rao, in giấy hát, in… in… in giống gì nữa đó, tính năm bảy trăm đồng”.

Phát Toán cũng là một nhà in tiếng tăm ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX, Lời kính cáo: “Kính tỏ cùng quới ông, quới bà, đặng rõ: Tôi là Phát Toán, khi trước có hùn với ông Lê Văn Nghi, mà buôn bán làm nhà in; Nay tôi hết hùn. Tôi nghĩ vì đã lâu năm buôn bán, làm nghề nhà in, đặng thạnh lợi là nhờ ơn quới ông quới bà hảo tâm tưởng tình tôi là bạn đồng bang, nên tới lui mua bán nhiều, mới đặng ra bề thế, tôi tuy là thôi làm nghề đó mặc lòng, song ơn còn tạc dạ, nên phải kính đôi lời mà cám tạ ơn chư vị. Bây giờ tôi dọn về ngang chợ mới Sài Gòn, đàng Espane, môn bài số 72, Phát Toán, trong tiệm có bán đủ thứ thơ, tuồng, truyện, sử chữ quốc ngữ; có đủ các kiển tượng ảnh lớn nhỏ, làm bằng thạch cao, lại có các thứ khánh (lầu) đặng để tượng ảnh vào mà thờ, kiển nào cũng có, tượng ảnh thì sơn son, thếp vàng rất tốt, khánh thì vẽ vời bằng nước vàng, có chỉ niền bông hoa rất đẹp; Có hình làm bằng thạch cao để mà gắn vô mấy đầu cột nhà bằng đá gạch, cũng có đủ các kiểu lớn nhỏ; Tiệm tôi có mướn thợ sẵn, như vị nào có tượng ảnh cũ, hoặc, bể, gãy, muốn sửa lại với sơn thiếp cho ra mới thì đặng, còn vị nào muốn chưng diện nhà cửa, dọn salon có huê lệ cây lá, chim chóc, hoặc là lên tượng âm dung ông bà cha mẹ, hoặc là mồ mả có bông hoa rực rỡ thì xin đến tiệm tôi thương nghị giá cả, vì tôi có thợ giỏi và người vẽ hay. Tôi xin chư vị tưởng tình tôi là bạn xưa nay, tới lui mua bán với tôi cũng như mấy năm trước, thật tôi lấy làm cảm ơn lắm; tôi nhứt nguyện ăn nhẹ giá; còn vị nào cần dùng muốn mua vật chi thì xin gởi thơ đến nơi tôi; hễ tôi gặp thơ thì mau mau gởi đồ lại chẳng dám bỏ qua hay là chậm trễ”.

Thông tin này không cho biết cụ thể về tình hình xuất bản của Phát Toán, nhưng cho biết hoạt động của một nhà in bấy giờ không chỉ có in ấn phát hành sách, mà còn bao gồm buôn bán kinh doanh các mặt hàng khác phụ thêm như bán tranh tượng.

Việc phát hành các ấn phẩm không chỉ do các nhà in, mà các tòa báo ngoài ấn hành báo cũng in và phát hành các ấn phẩm khác để tăng doanh thu. Ví dụ, thông báo Những sách của bản xã in ra in bán rồi của Lục Tỉnh Tân Văn số 515 năm 1918, kèm theo đó là danh sách cụ thể: Sơ học luân lý của Trần Trọng Kim (0$30), Thơ La Fontaine diễn nôm của Nguyễn Văn Vĩnh (quyển 1 giá 0.10 và quyển 2 giá 0.05), Chuyện trẻ con của Perrault do Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm (0.10), Sư phạm giáo khoa của Trần Trọng Kim (0.30), Nam sử sơ học của Trần Trọng Kim (0.30), Ấu học tập đọc của Nguyễn Đỗ Mục (0.10), Tiểu học tập đọc của Nguyễn Đỗ Mục (0.10), Văn quốc ngữ của Phạm Văn Hữu (0.25), Ấu học cách trí độc bản của Trần Văn Quang (0.20), Ấu học luân lý tập đọc của Nguyễn Đỗ Mục (0.10).

Như vậy, chúng ta thấy, nếu như cuối thế kỷ XIX các sách phát hành ở Nam bộ chủ yếu là do người miền Nam soạn, thì đến giai đoạn này đã có nhiều sách của người miền Bắc nổi tiếng đương thời như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh soạn được phát hành trong Nam. Điều này chứng tỏ hoạt động xuất bản và phát hành đầu thế kỷ XX ở Nam bộ đã có sự mở rộng và liên thông với các tỉnh thành miền ngoài. Có thể tìm thấy nhiều bằng chứng khác để khẳng định việc giao lưu giao thương rộng rãi Bắc – Nam trong thị trường xuất bản và phát hành, như:

Công Luận Báo số 406 năm 1926 có mẩu quảng cáo hiệu Thanh My (địa chỉ 110 Rue Guynemer, Sài Gòn): “Bổn tiệm bán sách, truyện của ông Phan Bội Châu. Bán các thư sách, truyện và tiểu thuyết mới xuất bản ở ngoài bắc gửi vô. Bán sỉ và lẻ. Đóng các thứ giầy tây, nam đủ kiểu hạp lối kim thời, và có salon hớt tóc. Kính mời”.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 6

Tin Sách rất có ích cho các nhà thương mãi trên Phụ Nữ Tân Văn số 16 năm 1929: “Phép biên chép sổ sách buôn bán của ông Đỗ Văn Y soạn. Sách nầy viết bằng quốc ngữ, chỉ rành rẽ về cách biên chép sổ sách, dễ coi dễ hiểu, các nhà thương mãi nên mua dùng. Giá mỗi cuốn 1$00, có bán tại nhà M. Đỗ Văn Y Cần Thơ”. Cũng trên số báo này có mục Tin mới trong làng văn đăng danh sách các ấn phẩm do “tác giả gởi tặng”, bao gồm nhiều nơi trong cả nước: Thời bịnh luận (Quốc hoa tùng san), Danh nhơn dật sự (115 rue du Coton Hà Nội), Trưng Nữ Vương tân kịch (Trần Quang Hiển, thú y ở Gia Định), Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải (Nguyễn Đỗ Mục), Hoa ngữ chỉ nam dạy tiếng Quảng Đông (Lê Quảng Nhựt ở Hà Nội), Khách không nhà  lịch sử tiểu thuyết (Hoài Sơn), Gan đàn bà  lịch sử tiểu thuyết (Mai Linh), Hoa ngữ vấn đáp (Phan Bội Châu, Duy Tân thơ xã, 43 đường d’Ariès Sài Gòn xuất bản), Sách quốc ngữ dạy trẻ (Hoài Nam Tử), Văn đàn bảo giám (Trần Trung Viên), Bài hát nhà quê (Á Nam Trần Tuấn Khải), Sách chơi năm xuân năm Kỷ Tỵ, Nữ anh hùng (Kim Giang dịch), Ngụ ngôn tập đọc. Trong đó, 5 đầu sách cuối có bán tại Nam Ký thư quán ở Hà Nội (số 17, đường Francis Garnier). Tiếp theo là các sách: La Tasse de Poison tức bản kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long được Georges Cordier dịch ra tiếng Pháp, Tiếu lâm Nhựt Bổn, Bước đời ăn cướp (Nguyễn Thế Sử dịch), Hán Việt thông thoại tự vị (Đỗ Văn Đáp, nhà in Trường Phát Nam Định số 60 rue du Fer).

Tin Giới thiệu sách mới, trên Công Luận Báo số 833 năm 1928 giới thiệu sách xuất bản ở Hà Nội: “Bổn báo có tiếp được một quyển sách nhan đề: Những đều trông thấy của ông Vũ Công Định soạn xuất bản ở Quốc Dân Thư Xã Hà Nội, giá bán 0$12. Sách ấy toàn là bài đoản bình về hiện tình xã hội lời thì ít mà ý tưởng thì nhiều, thật là thứ sách có ảnh hưởng tốt cho quốc dân ta vậy. Bổn báo sẽ rút đăng một hai bài để giới thiệu cùng độc giả, đặng biết sơ cái nội dung sách ấy mà mua”.

Đáng chú ý nhất là tin Tin Đức Thư Xã cáo bạch trên Hà Thành Ngọ Báo số 480 năm 1929, giúp chúng ta hình dung được một phần cụ thể về tình hình xuất bản đương thời của một nhà in lớn trên các mặt: số lượng bản in, giá bán, các đầu sách, thực tế tiêu thụ, nhu cầu của người tiêu dùng, cách thức khai thác bản thảo…: “Gần đây sách Quốc âm xuất hiện biết bao nhiêu, mà tiếc thay sách có ích rất ít, đọc đã không bổ ích mà lại có khi hại cho những óc non, nên ngày nay bổn xã, nhờ ơn đồng bào chiếu cố, đặng thạnh vượng, chấn chỉnh lại việc xuất bản, lựa những sách văn chương, những tiểu thuyết bảo tồn phong hóa của các nhà viết có danh Trung, Nam, Bắc, mà mua bổn quyền dầu giá cao cũng mua. Vậy trong đồng bào, vị nào viết sách đọc rồi không hổ với lương tâm mà không đủ lực hay không tiện bề xuất bản bán muốn nhường bổn quyền xin viết thơ cho bổn xã mà thương lượng”. Những loại bản thảo mà thư xã này hoan nghênh là “những sách ghi chép về sự các nước hay sự tình người xưa. Nay trong nước Nam hay các nước mà đáng làm gương cho người đời soi chung; những sách lược dịch những khoa học các nước văn minh, mà hạp thích cho người An Nam”, “những tiểu thuyết có ảnh hưởng cho sự học vấn và sự bảo tồn nền phong hóa nước nhà”.

Đặc biệt, phần ghi chú của tin quảng cáo này lưu ý đến những sách dịch thuật, đặt để những từ khoa học có nguồn gốc nước ngoài mà trong nước chưa có, rồi lưu ý người sáng tác tiểu thuyết về cách chọn lựa từ ngữ thế nào để người lớn trẻ con, người miền nam người miền bắc đều hiểu được: “Những tên các tiếng trong khoa học mà nước Nam không có, phải đặt tên riêng thế nào cho sau này có thể phổ thông trong nước được”, “Những tiếng dùng trong sách tiểu thuyết cần phải lựa chữ cho trong Nam ngoài Bắc, người đều hiểu được và những chữ thường dùng cho trẻ mới học coi cũng hiểu. Những tên chữ nho cần phải tránh không nên dùng quen, nhưng cũng phải giải nghĩa cho người đời sau dễ hiểu”.

Thư xã này còn là đại lý phát hành những sách của các thư quán thư xã khác, như: Gương kim cổ của Tân Thanh Niên Tùng Thơ; Cường quốc chánh thể, Xã hội luận, Thực dân lịch sử, Chính trị nước Trung Hoa, Văn minh Âu Mỹ, Phụ nữ vận động, Trí khôn, Đông Tây văn hóa, Dân tộc của Quan Hải Tùng Thơ; Vua anh hùng, Vượt biển ra khơi, Khai quốc vĩ nhơn, Ngục trung ký sự, Tân quốc dân, Thần cộng hòa của Cường Học Thơ Xã; Nữ anh tài, Kim tú cầu, Giám hồ nữ hiệp, Gia đình giáo dục của Nữ Lưu Thơ Quán; Cao đẳng quốc dân của Duy Tân Thơ Xã và “lựa các sách Bắc kỳ có giá trị của các thơ xã khác”. Ở đây, Tín Đức Thư Xã cũng giới thiệu một loạt các ấn phẩm mình đang có như sau:

Sách mới và đang in: Giáo phụ tề gia, Cay đắng mùi đời, Nhơn tình ấm lạnh, Tam quốc, Sách giậy nấu ăn theo phép An Nam, Tài mạnh tương đố, Thất hiệp ngũ nghĩa, Kẻ làm người chịu.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 2

Sách đã xuất bản còn lưu lại số lượng lớn, bán rẻ. Về tiểu thuyết: 2.000 quyển Bèo mây tan hiệp, 5.000 quyển Cô ba tranh, 3.000 quyển Cái lụy kim tiền, 1.000 quyển Cô năm nào, 2.000 quyển Gái chính chuyên hai chồng, 3.000 quyển Lã phi hùng, 2.000 quyển Lá thơ rơi, 2.000 quyển Lòng người nham hiểm, 2.000 quyển Một mối tư, 500 quyển Mộng hoa, 2.000 quyển Nghĩa hiệp kỳ duyên, 2.000 quyển Nặng lời non nước, 1.000 quyển Nặng gánh chung tình, 2.000 quyển Người mặt nạ, 10.000 quyển Oan hồn yếu tử, 4.000 quyển Bình vỡ hương tan, 2.000 quyển Thanh niên bửu giám, 2.000 quyển Trương Vĩnh Ký hành trạng, 500 quyển Thùng thơ bí mật, 1.000 quyển Tình là giây oan, 800 Một chữ trinh, 500 cuốn Xã hội chủ nghĩa.

Về truyện Tàu diễn nghĩa: 12.000 quyển Phấn trang lâu, 3.000 quyển Dương Văn Quảng bình Nam.

Về thơ: 800 quyển Tam quốc – Huê Dung đạo diễn ca, 500 quyển Vậy mới phải, 600 quyển Ma y thần tướng.

Về tuồng cải lương: 1.000 quyển Bửu cảnh trùng duyên, 2.000 quyển La Thông tảo Bắc, 1.000 quyển Mai Trần tái ngộ, 1.000 quyển Quả báo kỳ duyên, 1.000 quyển Tây Thi, 8.000 quyển Mạnh Lệ Quân, 1.500 quyển Sĩ long hội ước, 1.500 quyển Xử báo đao Từ Hải Thọ, 2.000 quyển Vương Sồ phối hiệp.

Ngoài ra, còn nhiều sách khác, “ngài nào muốn mua sỉ mua lẻ xin viết thơ hỏi mục lục”.

Có thể nói báo chí đóng một vai trò quan trọng trong việc quảng cáo và phát hành các ấn phẩm từ các nhà in, nhà xuất bản, thư quán… Tin sách là một mục khá thường xuyên của các báo mà chúng ta có thể tìm hiểu và khai thác thông tin để hình dung được hoạt động xuất bản, phát hành ở Sài Gòn. Ví dụ:

Tin Sách hữu ích đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn số 516 năm 1918: “Ông F.H. Schneider, là người đáng cho là tổ việc nhà in bên Đông Dương, mới in ra, theo cuộc phổ thông giáo khoa thơ xã, một bộ sách rõ là hữu ích cho hết thảy những kẻ nào chuyên nghề điển khí hay là có ý thích việc thông hiểu cách dùng điển khí khi làm nguồn cội mầu nhiệm sức mạnh. Người làm sách hiệu Thiệt hành điển học ấy là người đồng quán cùng chúng ta, quí danh Alexix Lân, bác sĩ điển học, cựu học sanh trường kị nghệ và chế tạo. Sách nầy trọn bộ là tám cuốn, giải thích đủ phương điển học chuyên môn. Một cách rất khiêm nhượng, người làm sách lại cắt nghĩa trong bài tựa cùng chúng ta rằng chẳng dám nào có ý muốn những kẻ cố công mà ao ước cải lương tấn bộ trong nghề nghiệp của mình. Chúng tôi cũng một ý kiến với ông Lân, rằng sách Thiệt hành điển học sẽ đắc đại công đức cùng những kẻ cố công bổn quốc trong nghề điển khí; nhưng mà chúng tôi lại tưởng rằng hết thảy mọi người, từ kẻ sang trong thiên hạ mà muốn lịch thiệp những việc tấn hóa trong môn bác học trí tri, cho đến những người trong đạo nghệ cùng kẻ khác vui thích theo công cuộc điển khí, thì cũng đều tim ra đại ích lợi trong pho sách hay nầy. Vả lại sách như vầy là nên phát rải ra cho các trường xứ ta, ai ai cũng đều hiểu đặng, vì người làm sách đã gia công diễn dịch ra hai thứ tiếng Pháp cùng Việt, cũng thấy am tường”.

Lục Tỉnh Tân Văn số 514 năm 1918 giới thiệu sách Đồng âm tự vị của Nguyễn Văn Mai: “Trong sách nầy có đủ những chữ khó viét, hoặc chữ đồng âm cùng chữ không nhằm đồng âm, mà phải viết dấu hỏi hay là dấu ngã, hoặc viết d hay là g ở trước, c hay là t, có g hay là không g ở sau. Nhơn có lời châu thị của quan Đốc học chánh, ngày 31 aout 1916, dạy rằng: Đến các khoa thi tới đây, thì trong những bài hạch về tiếng An Nam quan giám khảo chấm vở hết sức nghiêm. Vậy nên tôi ngụ ý dọn bổn này, ngõ hầu giúp các trò viết chữ quốc ngữ cho rúng theo tự điển Génibrel và Paulus Của. Hễ có nghi ngại chữ nào, lật quyển nầy ra mà coi, thì viết không sai. Bán tại tiệm Quỳnh Mỹ, 20 rue Courbet (chợ Bến Thành mới), và các nhà in và nhà sách An Nam tại Sài Gòn”.

Lời rao trên Công Luận Báo số 508 năm 1922: “Nay tôi diễn dịch Sử ký nầy đặng giúp vui cho bạn sách đèn và cho mấy em còn ở trong trường hiểu biết tích sử ký nước Cao Man từ khai bờ cõi cho đến đương kiêm Quốc vương Sisowat. Để bán tại nhà in M. Joseph Nguyễn Văn Viết 69, Rue d’Ormay Sài Gòn, bán sỉ và bán lẻ giá 0$50”.

Công Luận Báo ra ngày 20.11.1923 cho biết: “Imprimerie du Centre Louis Minh, 76 Boulevard Bonnard, Sài Gòn. Nhà in Imprimerie du Centre có đủ các thứ chữ Tây, Quốc ngữ, An Nam lớn nhỏ đều có, đã in màu mà giá lại rẻ. Tại đây có đóng sách đủ kiểu và bán giấy”.

Tin Sách mới xuất bảnCông Luận Báo số 404 năm 1926 giới thiệu sách Sa Đéc nhơn vật chí do Nguyễn Văn Dần soạn “mới xuất bản, sách dày 232 trương có 64 hình ảnh phong cảnh đẹp đẽ và nhơn vật trong tỉnh Sa Đéc. Nhiều cổ tích, lịch sử quan công thần cựu trào và tân trào; tiểu truyện các cự tộc danh giá. Tích đâu có hình ảnh rõ ràng đó, nên xem cho biết. Giá mỗi cuốn là 1$50, ở xa gởi thêm 2 cắc tiền cước gởi đi. Hỏi mua tại tác giả là M. Nguyễn Văn Dần, 115 rue Verdun, Sài Gòn. Tại tiệm Thái Thạnh, chủ nhơn là M. Nguyễn Văn Cứng, 1 rue Roland Garros, Sài Gòn. Có trữ bán tại Sa Đéc nơi tiệm M. Trương Văn Hanh, ở làng Tân Qui Đông, nhà in M. Hà Phước Tường. Tại Cần Thơ nơi nhà in Imprimerie de l’Ouest”.

Công Luận Báo số 406 năm 1926 đăng mẩu quảng cáo: Tụng từ thể lệ (lai nghi ngày 16 Mars 1910, in lần 2) là sách hướng dẫn “lập thể lệ trong việc tranh tụng về bộ vụ của người An Nam” do người Pháp là ông biện lý Paul Dufilho soạn in và bán tại nhà in L’Imprimerie Moderne (địa chỉ 146, Rue Pellerin, Sài Gòn).

Tin Sách mới xuất bảnCông Luận Báo số 623 năm 1927: “Tuồng hát cải lương Mạnh Lệ Quân giả trai, trong có 15 tấm hình của ban hát Tài Đồng Ban đóng trò, in bằng thứ giấy thiệt trắng láng, xưa nay chưa thấy có cuốn sách nào coi ngộ như vậy. Sách dày 50 trương, trong có 50 bài ca rất hay và dễ ca lắm. Giá mỗi cuốn 0$60. Tiếu thuyết Cảnh đoạn trường, truyện đã hay, văn lại lanh lẹ, dày 94 trương, cỡ 13 x 18, giá mỗi cuốn 0$30. Hai cuốn sách trên nầy, tác giả là M. Trương Quang Tiền đã bán bổn quyền cho bổn xã. Ngài nào muốn mua sỉ hay mua lẻ xin do nơi người xuất bản là Từ Duy Quán, Tín Đức Thư Xã, 37 rue Sabourain, Sài Gòn”.

Năm 1929, báo Phụ Nữ Tân Văn ra đời và trong việc trưng cầu ý kiến về chương trình kế hoạch hoạt động của báo, ông Cao Văn Chánh đã đề xuất một số ý tưởng với bài Thơ trả lời cho bà Nguyễn Đức Nhuận chủ báo P.N.T.V. về vấn đề Phụ nữ. Trong đó có mục 2 và 3 liên quan đến xuất bản và phát hành như sau: “Mở ra những thơ quán lớn lao để phát hành những thứ sách phổ thông cho bọn nữ tử dùng”, “Gầy dựng một tờ báo để mai chiều cổ võ, thức tỉnh tất cả nữ đồng bào, khiến cho họ lưu ý đến công việc của xã hội”.

Phụ Nữ Tân Văn số 11 năm 1929 cho biết: Nhà in và bán sách Joseph Nguyễn Văn Viết et Fils lập nam 1900 tại đường d’Ormay số nhà 85 Sài Gòn. In sách và đóng sách. In đủ các thứ sổ bộ và giấy tờ buôn bán thiệp mời đám cưới, tân gia, thiệp tang, truyện, tiểu thuyết và lãnh khắc con dấu bằng đồng và caoutchone. Bán các thứ thơ, tuồng, truyện, sử, giấy, viết, mực và các thứ sách cho học trò các nhà trường. Ai mua sỉ về bán lại sẽ đặng huê hồng rất nhiều hơn các nhà khác. Xin mua thử một lần thì biết”.

Tin Sách mới xuất bản của Tín Đức Thư Xã, trên Phụ Nữ Tân Văn số 11 năm 1929: “Hoa ngữ chỉ nam (sách dạy tiếng Quảng Đông dịch theo tiếng Bắc kỳ) 0$70; An Quảng tân biên (dịch theo tiếng Nam kỳ) 1$80; Nguyễn Công Trứ: bản sao tập các thứ thơ của ông và có chú thích 0$95; Bạch mẫu đơn, truyện Tàu 1$40; Tam quốc trọn bộ 8$00; Một chữ trinh 0$25; Tích tà qui chánh 0$50; Lòng người nham hiểm 0&20; Nghĩa hiệp kỳ duyên 0$20. Ít ngày nữa sẽ có: Kẻ làm người chịu, tác giả Hồ Biểu Chánh; Thất hiệp ngũ nghĩa cuốn thứ 4; Cao đẳng thanh niên đang in”.

Bài Phương danh của các nhà công thương kỹ nghệ cho hội chợ đồ trên Phụ Nữ Tân Văn số 134 năm 1932 thấy có kể tên một số nhà in và nhà sách ở Sài Gòn đáng lưu ý. Phần quà tặng của các cơ sở này cũng giúp chúng ta có thêm thông tin về hoạt động của chúng:

  • Nhà in Joseph Viết tặng: 1 cái hộp bằng bạc để đựng đồ thêu, may; 1 bộ Tam quốc; 1 bộ Tái sanh duyên.
  • Tín Đức thư xã (37 – 38 đường Sabourain) tặng: 5 bộ truyện Hết hoạn nạn tới đoàn viên, 10 cuốn Có vay có trả, 10 cuốn Ông thầy tuồng.
  • Nhà in C. Ardin tặng: 2 đĩa đựng tàn thuốc.
  • Nhà in và nhà bán sách A. Portail tặng: 2 cái đĩa gạt tàn thuốc.
  • Bà Đoàn Trung Còn tặng: 3 quyển Phật đời xưa, 3 quyển Truyện Phật Thích Ca, 3 quyển Du lịch xứ Phật, 3 quyển Triết lý nhà Phật, 3 quyển Lịch sử nhà Phật.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 5

Tuy khá tự do, nhưng hoạt động xuất bản và báo chí thời kỳ này vẫn chịu sự kiểm duyệt chặt chẽ của chính quyền cai trị. Vì thế nhiều tờ báo bị đóng cửa, nhiều bài báo bị cắt chữ, nhiều ấn phẩm bị cấm xuất bản, cấm lưu hành hay bị tịch thu vì ảnh hưởng đến chính trị hoặc luân lý đạo đức. Ví dụ tin Sách bị cấm đăng trên Hà Thành Ngọ Báo số 107 nam 1927: “Quyển Dân tộc chủ nghĩa (Nationalisme) của M. Nhượng Tống dịch thì nay có lệnh cấm phát hành tại địa hạt xứ Bắc kỳ”. Tin Sách bị cấm trên Hà Thành Ngọ Báo số 435 năm 1928 liên quan đến tác giả và nhà in ở miền Nam: “Quan Thống sứ Bắc kỳ vừa ký nghị định cấm không cho lưu hành ở xứ Bắc kỳ hai quyền sách này: 1. Hai Bà Trưng của M. Nguyễn An Ninh soạn in ở nhà in Bảo Tồn, 2. Luân lý vấn đáp của cụ Phan Bội Châu soạn do Duy Tân Thư Xã xuất bản cũng in ờ nhà in Bảo Tồn”. Năm 1929, trên Hà Thành Ngọ Báo số 488 đăng tin Sách bị cấm: “Có nghị định quan Thống sứ cấm không được mang vào, phát, bán và oa trữ trong địa hạt xứ Bắc kỳ cuốn sách Trung đông chiến sử, tác giả Bồi Khâm Chi, MM Vân Hạc và Song Đồng dịch, Nam Ký Thư Quán 17 phố Bờ Hồ xuất bản và nhà in Mạc Đình Tích 57 phố Hàng Nón đứng in”. Hay tin Các báo sách bị cấm lưu hành ở Đông Dương trên Tràng An báo số 72 năm 1935: “Chánh phủ đdịnh ra lệnh cấm những báo và sách này lưu hành ở Đông Dương: Kiou Koue Pao viết bằng chữ nho (Le auvetage de la Patrie) xuất bản ở Paris; Che Miai Tche Pao (Lumière du monde, viết bằng chữ nho xuất bản ở Thượng Hải; sách Destin d’empier cuốn thứ nhất”. Hoặc nhiều trường hợp khác ở Nam bộ như các tiểu thuyết của Nguyễn Văn Vinh, sách chính trị của Trần Hữu Độ, “dâm thư” của Lê Hoằng Mưu…

Trên đây là một vài hoạt động cụ thể của việc xuất bản và phát hành ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX dựa vào những thông tin mà chúng tôi tìm kiếm được trên các tờ báo. Chắc hẳn còn rất ít ỏi, sơ sài so với sự đa dạng phong phú của thực tế xuất bản ở Nam bộ đương thời, hy vọng vấn đề này sẽ được nhiều người quan tâm khác tiếp tục tìm hiểu, giới thiệu để chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về lịch sử xuất bản ở Nam bộ nói riêng cũng như ở Việt Nam nói chung.

Cổ Mộ

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 02.6.2021.

Câu chuyện giữa tôi và nhà văn Nguyễn Đắc Xuân về nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị bắt đầu từ bài thơ “Một đêm đông” của cố thi sĩ Lưu Trọng Lư.

Giọng Huế ấm áp và truyền cảm của nhà văn bắt đầu bằng câu thơ: “Đôi mắt em lặng buồn/ Nhìn thôi mà chẳng nói/ Tình đôi ta vời vợi/ Có nói cũng không cùng”. Bài thơ là một thiên tình sử dở dang giữa chàng thi sĩ lãng mạn với người đẹp xứ Huế mộng mơ này.

Cõi mê trong hầm đất

Theo như lời kể của nhà văn Nguyễn Đắc Xuân, người đẹp Phùng Thị Cúc (tên khai sinh của nhà điêu khắc Điềm Phùng Thị) là một hoa khôi của trường Đồng Khánh. Cô là con nhà một quan lại triều Nguyễn và đã sống với cha 9 năm ở Tây Nguyên. Có lẽ cô Cúc đã phần nào ngấm cái chất hồn hoang của xứ sở đất đỏ Bazan. Những pho tượng nhà mồ đã ám ảnh tâm hồn trẻ thơ. Vẻ đẹp man dại của những bức tượng gỗ và ngôi nhà Rông đã làm mê hoặc trái tim cô. Đồng thời khi lớn lên cô Cúc một thuở có quan hệ thân thiết với họa sĩ nổi tiếng Mai Trung Thứ (1906-1980).

Có những ảnh hưởng về màu sắc, đường nét giữa hai người như vô thức vậy. Trong tâm hồn của cô Cúc đã ấp ủ những góc độ biểu cảm của hình họa trong cả công việc làm đẹp cho bệnh nhân (Hàm răng mái tóc là góc con người). Điều này giải thích vì sao khi sống ở Pháp cho dù đã lớn tuổi Điềm Phùng Thị lại bất ngờ bị mê dụ bởi một hầm đất trong xưởng gốm. Mặc cho công việc ngập đầu trong một ngày với phòng khám nha khoa bà lại chui xuống bếp nặn đất khắc tượng suốt đêm.

Chuyện này đã làm ông Bửu Điềm sốc một thời gian nhưng sự đắm đuối với đất cát của vợ đã làm ông dần hiểu ra ý nghĩa của thần linh mách bảo trên con đường nghệ thuật. Và ông cũng đã thấm được vì sao người bạn đời đã khơi gợi đề tài “Tục ăn trầu” của người Việt để bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa học. Câu chuyện Điềm Phùng Thị làm điêu khắc bắt đầu từ đây khi đã ở tuổi 40 (năm 1960).

Theo ký ức đọng lại ông Bửu Điềm luôn thấy vợ mình giàn giụa nước mắt mỗi khi xem ti vi gặp những cảnh chiến tranh chết chóc ở quê nhà vào những năm đầu thập niên 60. Rời quê hương sau khi tham gia kháng chiến (1946-1948) bà Điềm đã sang Pháp chữa bệnh và ở lại học tập. Trong lòng bà luôn hướng về Huế với tấm lòng yêu thương mong nhớ. Những thân phận khổ đau bắt đầu hiện hình trong hầm đất.

20211124

Điêu khắc gia Điềm Phùng Thị.

Thời kỳ này tượng của Điềm Phùng Thị gây cảm xúc dâng trào trong lòng người ở những số phận trong chiến tranh và những bố cục tượng khác lạ về mẹ con và trẻ thơ. Đặc biệt trong triển lãm đầu tiên (năm 1966) của bà đã được chính phủ Pháp đặt mua ngay tác phẩm “Trái đất” và loạt tượng “Mẹ con” để bày đặt tại các công viên nhà trường. Những bố cục tượng đàn bà đã làm xôn xao giới mỹ thuật Pháp. Đó là những tác phẩm “Trái đất”, “Mơ mộng”, “Chổng mông”, “Vệ nữ” hay như “Người đàn bà nằm”, “Khỏa thân”, “Cau trầu”…

Nhưng có lẽ những bức tượng về chiến tranh mới làm chấn động lòng người. Ai cũng sững sờ với câu chuyện hiện lên trong “Người không trở về”, “Một cuộc đời” và sau này là “Người lính giải phóng” làm bằng vật liệu từ xác máy bay B52. Còn đó là những bức tượng đất nung: “Cầu nguyện”, “Thắp nến tưởng niệm”, “Van xin”… Một tâm nguyện hướng tới hòa bình và cuộc sống yên vui cho quê hương của bà. Triển lãm được dư luận phương Tây đánh giá cao với ý tưởng “Hãy cứu lấy loài người” và “Trái đất” cần được bảo vệ.

Có nhà bình luận nổi tiếng ở Pháp đã nhận định: “Tác phẩm điêu khắc của Điềm Phùng Thị ám ảnh với vẻ đẹp của sự tĩnh lặng. Chúng khơi dòng cảm xúc tĩnh tâm và mặc tưởng. Đó là vẻ đẹp Á Đông huyền bí”. Trong giai đoạn đầu này tượng của Điềm Phùng Thị đã xuất hiện nhưng sắp đặt hay lắp ghép những “modul” (ký hiệu mẫu) bí ẩn mà sau này là tiền đề cho một ngôn ngữ đặc sắc của Điềm Phùng Thị được phát triển rực rỡ hàng chục năm sau.

Nụ cười vầng trăng

Nhà thơ Lưu Trọng Lư còn có những câu thơ như ám vào cuộc đời sáng tạo của Điềm Phùng Thị. Đó là sự hồn nhiên và thảng thốt của Điềm Phùng Thị mỗi khi trong giấc mơ đã vẽ được bức tranh  “Thuyền lơ lửng”. Một con thuyền trôi trong bầu trời với mây bay. Hay như “Nét cười đen nhánh sau tay áo/ Trong nắng trưa hè trước dậu thưa” (Nắng mới) trong luận án “Tục ăn trầu” của vợ chồng bà. Thơ đã gợi lên những cảm xúc về cuộc sống sinh động và tràn đầy mơ mộng.

Bộ “modul” tạo hình và những bản điêu khắc của Điềm Phùng Thị cũng hình thành trong những đêm vật vã trong hầm đất như vậy. Có lẽ đó là những giấc mơ trong đêm cô đơn nhất hành tinh. Bà đã miệt mài gọt giũa từng viên đá rơi để sắp xếp lại chúng trong tưởng tượng cùng làn gió tuyết phủ trắng không gian.

Những giai điệu của đá đã tạo nên hơi thở và nhịp đập của trái tim con người. Vẫn tượng phật đất nung mà bà đã làm trước đó nay đã khác. Nó bớt đi nét thâm trầm u ám mà trở nên ghồ ghề linh hoạt và mơ mộng hơn. Những thỏi đá mang hình nụ cười đã xuất hiện. Bộ hình của trái tim và đòn gánh của Huế đã xôn xao lên tiếng. Hàng chục đêm như thế xuất hiện những âm thanh của đá vang ngân và đã hát lên bài ca của nó trong mười ngón tay thần tiên. Em bé đã xuất hiện. Bà mẹ hiện hình qua những trò chơi của thượng đế. Chỉ bảy “modul” với những góc cạnh đột biến đã tạo nên muôn hình vạn trạng của vũ trụ. Điêu khắc của Điềm Phùng Thị như có cánh bay khác lạ. Đài các và huyền ảo.

Thật ngoạn mục và âu yếm làm sao khi ta ngắm không biết chán chú “Chim đại bàng” được sắp đặt bằng những “modul” mang tên Điềm Phùng Thị.  Chính từ 7 ký hiệu này mà bà đã tạo nên những cây tháp đá ở quảng trường và công viên giải trí với các tác phẩm “Cây đá”, “Ký hiệu”, “Đền”, “Không gian ba góc”…. Còn kia là những chùm “Hoa tulip” kiều diễm trong “Vườn Lisy” hoặc thảm “Hoa sen” cùng với những đứa trẻ nô đùa trong ảo ảnh thần tiên với “Trò chơi nhào lộn”. Và từ cánh cổng “Hư vô” Điềm Phùng Thị đã mở rộng khi mô tả chân dung người. Tất cả đều xuất phát từ cái gốc nụ cười mang hình trái tim của bộ ký hiệu bí ẩn kia.

Ta có thể ngây ngất khi đứng bên cạnh bức tượng “A di đà Phật”, “Cha tôi” cùng với “Bánh xe thời gian” để chiêm nghiệm mọi nghi lễ trên cửa thiền. Nhiều nhà phê bình mỹ thuật quốc tế đã theo dõi hàng chục triển lãm của Điềm Phùng Thị khắp châu Âu. Không ít người đã coi bà là đại sứ mỹ thuật phương Đông làm khuấy đảo những dòng mỹ thuật phương Tây. Hầu hết những tác phẩm của Điềm Phùng Thị đều gây bất ngờ bởi sự đơn giản với những sắp đặt có sự truyền cảm khôn lường.

Chính thế họ gọi 7 “modul” của Điềm Phùng Thị là 7 bước của Phật pháp hay đó là những bước chân của thần linh vang dội. Trong kinh Hoa Nghiêm con số 7 là đặc trưng sự bao hàm của vũ trụ. Trong triết học phương Đông số 7 biểu trưng cho sự hoàn hảo nhiệm mầu của thế giới loài người. Đó chính là sự bí ẩn của bảng ký hiệu mang tên Điềm Phùng Thị trong giới hâm mộ điêu khắc.

Sự thành công kỳ diệu của bà kéo dài trong vòng hai mươi năm. Bà đã vinh dự được đưa tên vào “Tự điển Larousse Nghệ thuật Thế kỷ XX” (1991). Và chỉ năm sau Điềm Phùng Thị trở thành Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học, Văn học, Nghệ thuật Châu Âu (năm 1992). Điêu khắc gia Điềm Phùng Thị là trường hợp duy nhất của nước ta có được vinh dự này.

Món quà để lại

Vợ chồng bà Điềm Phùng Thị đã trở về Huế với tình cảm sâu nặng không thể rời bỏ. Từ năm 1992 bà đã cùng Hội những người bạn Điềm Phùng Thị tổ chức một bảo tàng ngay tại nơi mình ở (Số 1 Phan Bội Châu). Bà là người duy nhất có “Hội hâm mộ” điêu khắc ra đời năm 1984. Họ sinh hoạt cho đến sau này và luôn trở về bên bà mỗi khi cần thiết. Bà đã mở lớp dạy hội họa và làm tượng cho trẻ em khuyết tật tại nhà. Những bức tượng của bà luôn hát bên sông quê với sắc màu đỏ thắm trên môi trong câu chuyện “Trầu cau” mà bà đã mang theo suốt cuộc đời.

Tình em như tuyết giăng đầu núi -0
Bảo tàng Trung tâm nghệ thuật Điềm Phùng Thị.

Đặc biệt chúng tôi đã được đến chiêm ngưỡng tác phẩm đài tưởng niệm anh hùng liệt sĩ tại công viên nghĩa trang ở huyện Hương Thủy (Huế). Hình tượng chiến sĩ đã được “modul” hóa với cảm xúc mãnh liệt và sâu sắc. Tượng đài cao hơn ba chục mét tạo nên bản giao hưởng ngân vang trong nhịp điệu hành quân. Trước khi mất (2002) chừng vài tháng, Điềm Phùng Thị đã hiến tặng toàn bộ Bảo tàng nghệ thuật gồm gần hai trăm tác phẩm cho thành phố Huế.

Từ năm 2018 Bảo tàng Điềm Phùng Thị đã được chuyển ra số 17 đường Lê Lợi bên sông Hương. Tại nơi đây bà thanh thản thiền trong cõi hư vô. Cuộc đời bà đậm đặc chất Huế với hình ảnh mà thi sĩ Lưu Trong Lư đã viết tặng khi chia tay: “Em chỉ là người em gái thôi/ Người em sầu muộn của muôn đời/ Tình em như tuyết giăng đầu núi/ Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời”.

Vương Tâm

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 16.11.2021.

 Trong bài Ngọa bệnh cảm tác, Huỳnh Ngọc Chiến viết: “Trong thời gian điều trị, gần như tôi dùng thơ để chống chọi lại những cơn đau. Bạn bè gọi đùa thơ tôi làm lúc này là thơ… chữa bệnh”. Ở tuổi 67, nhà nghiên cứu - dịch giả gốc Quảng Nam này vừa qua đời vào tối 1/6 tại thành phố Tam Kỳ.

Sáng 23/10 năm ngoái, tại Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM), ngay trong đợt hóa trị lần thứ 3 bệnh K thực quản, Huỳnh Ngọc Chiến làm bài thơ khá dài, trong đó có đoạn: “… Ta nhàn du cõi trần gian/ Rong chơi cùng với cây đàn guitar/ Dịch kinh, viết sách gọi là/ Lưu chút tặng vật làm quà thế gian/ Bận tâm chi chuyện hợp tan/ Sinh là nắng gió, tử ngàn hoa bay/ Đến như hoa thắm bên này/ Đi thành hương ngát tháng ngày bên kia/ Một làn sương mỏng cách chia”.

Hiểu lẽ sinh tử thường nhiên

Huỳnh Ngọc Chiến không chỉ có kiến thức uyên bác về đạo Phật, mà dường như anh cũng đã bước chân vào con đường an nhiên. Trong bài Lời cuối gởi cho người thân, bằng hữu trước lúc chia tay, không hề thấy tâm hồn anh dao động, hoang mang, hoặc sợ hãi. Anh xem sự ra đi của mình là một việc tất nhiên như sáng mai mặt trời vẫn mọc, nắng vẫn lên, gió vẫn rì rào trong cành lá.

20210604

Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Chiến

Huỳnh Ngọc Chiến viết: “Trải qua 3 lần hóa trị, một trận đại phẫu, rồi sự cố hậu phẫu…, nói chung là nếm đủ mùi khổ não của cơn bệnh nan y. Bệnh tình đến nay vẫn không có dấu hiệu gì khả quan, cơ thể dần suy kiệt và bắt đầu những cơn đau nhức ngày càng tăng dần, bác sĩ tiên lượng có thể kéo dài một vài tháng nữa, nên tôi muốn ghi vội lời cuối này như một lời từ giã, phòng khi những cơn đau nhức hành hạ khiến tôi không còn đủ sức lực và tỉnh táo để có thể ghi lại đúng như ý muốn, trước khi bước qua làn sương mỏng cách chia”.

Anh bình tĩnh sắp xếp chu đáo cho mình trong ngày cuối cùng còn “cư ngụ” ở trần gian đầy những đau thương và nghiệt ngã.

Chú thích ảnh

Một số đầu sách công phu của Huỳnh Ngọc Chiến

Anh viết: “Ai rồi cũng phải bước xuống một bến ga nào đó trong chuyến xe đời. Tôi cũng sắp từ giã mọi người để xuống một bến ga”. Anh cũng bình thản đưa ra một sáng kiến “vô tiền khoáng hậu”: “Thân hữu đến viếng tang lễ sẽ tự tay gõ 3 tiếng chuông thay cho nhang đốt. Nhang bây giờ chứa nhiều hóa chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường, sao ta không thể thay thế bằng tiếng chuông cho thanh tịnh?”.

Chú thích ảnh

“Bạn bè, người thân cứ lo tôi sẽ bị suy sụp tinh thần, sẽ bị quỵ ngã. Nhưng tôi nhận tin mình bị ung thư rất thanh thản, vì hiểu lẽ sinh tử thường nhiên. Mọi chuyện trong đời xem như đã tạm tròn bổn phận, nên tôi giờ rất xem nhẹ lẽ tử sinh. Chỉ mong sao sinh thuận tử an. Để tiếp tục chu kỳ sinh hóa khác trong vũ trụ. Vậy thôi. Ngày mai hay năm, mười năm nữa cũng như nhau. Chẳng có gì khác biệt. Thân bệnh là chuyện thường tình và tất yếu của con người, giữ tâm không bệnh mới là điều quan trọng” – Huỳnh Ngọc Chiến viết.

“Trong những cơn đau quặn thắt vì hóa trị, tôi vẫn hoàn tất được bộ kinh Lăng Già đối chiếu. Và thấy lòng thanh thản vô cùng. Tôi mang ơn kinh Phật đã đem lại cho tôi những huyền lực để giúp tôi tìm được thanh thản giữa những cơn đau khủng khiếp đến kiệt sức”.

Chú thích ảnh

Tài hoa và tự học

Ngoài nghiên cứu, dịch thuật, làm máy tính, Huỳnh Ngọc Chiến còn viết tiểu luận, tùy bút, ca khúc, thơ, truyện ngắn… Sách viết và sách dịch đã xuất bản khoảng 20 quyển; anh còn cuốn Hán Việt tự điển gần 3.000 trang và tập tiểu luận dày về Bùi Giáng, chưa xuất bản. Anh căn bản là tự học, đa tài trong nhiều lĩnh vực, thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Hoa và tiếng Phạn.

Trong số những tác phẩm đã xuất của Huỳnh Ngọc Chiến, độc giả và bạn bè ưa thích nhất là cuốn Lai rai chén rượu giang hồ. Đây là tập tiểu luận về Kim Dung, một thiên tài lừng lẫy dòng truyện kiếm hiệp.

Chú thích ảnh

Tập tiểu luận “Lai rai chén rượu giang hồ” rất được độc giả yêu thích

Tôi nhớ một sáng năm 2016, Huỳnh Ngọc Chiến tổ chức buổi “gặp mặt bỏ túi” tại quán cà phê Đông Hồ ở cuối đường Cao Thắng nối dài (TP.HCM), chỉ có 5 người, nhân dịp phát hành cuốn Tinh hoa triết học Vedànta. Nhà văn Đỗ Hồng Ngọc là khách mời, ngồi gần hồ nước, với những đám cỏ xanh mượt và yên tĩnh. Huỳnh Ngọc Chiến thân tình và gần gũi, khi nhận sách tác giả ký tặng, tôi thấy ai cũng có, riêng anh Ngọc không có cuốn nào, nên rất ngạc nhiên, bèn hỏi: “Ủa, sách anh đâu?”. Anh Ngọc cười: “Tuần trước Chiến biếu anh rồi”. Tôi lại hỏi: “Dễ đọc không vậy anh?”. “Anh mới đọc được mười mấy trang”. Tôi nghĩ, anh Đỗ Hồng Ngọc với “nội công thâm hậu” về Phật pháp như vậy mà đọc cẩn trọng như thế, chắc mình phải đọc mấy tháng mới hết cuốn sách gần 800 trang này.

Sách của Huỳnh Ngọc Chiến biên khảo, dịch thuật, cuốn nào cũng công phu và giá trị. Tôi còn thích các cuốn như Chu dịch thiền giải, Tánh không cốt tủy triết học Phật giáo¸ Diệu nghĩa kinh Lăng Già, Phản triết học nhập môn dịch… Dòng sách này rất kén chọn người đọc, nhưng thiết yếu, vì nó căn bản cho nhận thức.
Nếu nhìn Huỳnh Ngọc Chiến qua các ca khúc, thấy anh đầy chất tài hoa và lãng tử. Những ai đã dự khán hoặc nghe lại đêm nhạc Cung trầm của anh, tổ chức gần đây tại quê nhà, sẽ thấy rõ.

Chú thích ảnh

Tập nhạc "Cung trầm" của Huỳnh Ngọc Chiến

Huỳnh Ngọc Chiến đã sống một cuộc đời tuy không thật dài, nhưng không hoài phí hoặc vô vị. Giờ anh nằm xuống, thanh thản, hết đau đớn, không muộn phiền, không vướng bận gì nữa. Anh đã sống như hai câu thơ của chính anh: “Để khi vào cõi sa mù/ Sẽ bay như hạt mưa Thu nhẹ nhàng”.

Ai trong chúng ta ở đây rồi cũng phải bước xuống sân ga cuối của chuyến tàu đời. Cầu mong anh bước vào cuộc hành trình khác trong một chuyến tàu êm ái hơn, tràn ngập niềm vui và sự an lành. “Mai mốt bước qua bờ sinh tử/ Vén màn sương vào cõi hư vô/ Cũng chờ ngày trùng du cố quận/ Để lai rai chén rượu giang hồ” – thơ Huỳnh Ngọc Chiến.

Nguồn: Thể thao và Văn hóa, ngày 03.6.2021.

Phạm Thanh Chương

20211017

Sáng ngày 28 tháng 1 năm 2013 tôi nhận được bức thư email của anh Nguyễn Đắc Xuân với vẻn vẹn mấy chữ: Vĩnh biệt nhạc sĩ Phạm Duy cùng tấm hình anh đang cúi xuống hôn lên trán nhạc sĩ đang nằm xuôi tay trên giường trong bộ áo cánh mầu đỏ gụ. Gương mặt ông thanh thản như gương mặt của người nông phu trong giấc ngủ dài sau khi cầy xong một thửa ruộng. Bức ảnh chụp và gửi đi từ máy Ipad vào lúc 3 giờ 45 phút sáng ngày 27 tháng 1.Tôi  đã biết tin buồn này ngay sau khi ông qua đời trên các báo mạng, nhưng khi nhìn thấy hình ông nằm đó lòng bỗng trào dâng một cảm xúc bồi hồi tiếc thương khó tả. Tôi ngồi vào bàn phím, viết vội vài giòng reply lại cho anh Xuân như sau:

Anh Nguyễn Đắc Xuân thân mến

Tôi đọc báo mạng, biết tin buồn từ tối hôm qua. Đành rằng ai rồi cũng phải ra đi, và sự ra đi của Nhạc sĩ Phạm Duy cũng không nằm ngoài quy luật chung của tạo hóa. Nhưng phải chia tay với một con người khổng lồ của âm nhạc Việt Nam làm chúng ta không khỏi bồi hồi luyến tiếc. Tôi được gặp ông không nhiều. Lần đầu tiên là ở Paris trong dịp ông sang Pháp giới thiệu đĩa CD Kiều ca, sau đó vài lần ở Việt Nam. Nhưng từ năm 11 tuổi rời Huế theo gia đình lên Việt Bắc tôi đã thuộc lòng tất cả những bài hát của ông sáng tác trong Kháng chiến chống Pháp. Những ca khúc đó đã nuôi dưỡng trong tôi tình yêu quê hương, đất nước, nơi có những bà mẹ Gio Linh, những cô thôn nữ nghèo và những người thương binh trong ngày trở về Bản thân tôi và cả thế hệ tôi biết ơn ông nhiều lắm!

Nhờ anh thắp hộ tôi một nén nhang vĩnh biệt trước linh cữu của ông và chuyển đến những người thân của nhạc sĩ lời chia buồn sâu sắc nhất của tôi.
Đặng Nhật Minh

Hồi còn nhỏ học ở trường Thiếu nhi Việt Nam sơ tán sang bên Quế Lâm Trung Quốc, học sinh chúng tôi học giảng văn theo giáo trình do các thầy cô người Việt Nam (đều thuộc tầng lớp tiểu tư sản đi theo kháng chiến) tự biên soạn lấy. Đó là những áng văn thơ cho đến nay vẫn còn rung động trái tim tôi mỗi khi nhắc đến. Trước tiên phải kể đến những câu thơ bất hủ của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước: “Trời xanh đây là của chúng ta / Núi rừng đây là của chúng ta / Những cánh đồng thơm ngát / Những ngả đường bát ngát / Những dòng sông đỏ nặng phù sa / Nước chúng ta / Nước những người không bao giờ khuất / Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất / Những buổi ngày xưa vọng nói về”. Rồi “Bao giờ về bên kia sông Đuống / Ta lại tìm em / Em mặc áo trắng, em thắt lụa hồng / Em đi trẩy hội non sông / Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” của Hoàng Cầm, hay “Đôi mắt người Sơn Tây / U uẩn chiều luân lạc / Buồn viễn xứ khôn khuây” của Quang Dũng cùng những tuỳ bút hào sảng trữ tình của Thép Mới và cả của nhà văn Nga Ilya Erenbourg viết trong chiến tranh vệ quốc ở Liên Xô do Thép Mới dịch sang tiếng Việt: “Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất: yêu cái cây trồng ở trước nhà, yêu cái phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của trái lê mùa hè hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh”.        

Những áng văn thơ ấy, đã thấm vào máu vào thịt chúng tôi để rồi lắng lại như một chất keo gắn bó chúng tôi với số phận của đất nước.

Dĩ nhiên chất keo đó còn được tạo nên từ nhiều ca khúc sáng tác trong Kháng chiến. Đầu tiên phải kể đến những ca khúc của Văn Cao như Trường ca Sông Lô, Du kích sông Thao của Đỗ Nhuận và các ca khúc của nhạc sĩ Phạm Duy mà tôi được biết từ khi còn là đứa trẻ. Có lần tôi nói với ông điều đó, ông chỉ  khiêm nhường đáp  “Cám ơn anh” (trong khi người tôi phải cám ơn là ông chứ không phải ngược lại).

Lần đầu tiên tôi dược gặp ông là tại giảng đường trường Đại học Paris 7 khi ông sang đó cùng con trai Duy Cường trình bầy bản Kiều ca mà ông mới sáng tác được một vài chương đầu. Cái ấn tượng của bản nhạc đối với tôi không mạnh mẽ bắng cái ấn tương được nhìn thấy ông bằng xương bằng thịt ngay trước mắt mình. Phải nói ông có vẻ đẹp của một ông già phong độ đầy quyến rũ và lãng mạn. Phần giới thiệu âm nhạc xong, cha con ông thu xếp máy móc , đồ nghề như một gánh hát rong hoàn thành xong phần trình diễn. Rồi rất tự nhiên ông yêu cầu mọi người mua giúp vài đĩa CD Kiều ca mà ông vừa giới thiệu. Ông bầy luôn chồng đĩa trên mặt bàn rồi ngả chiếc mũ phớt ra để bên cạnh. Hầu như tất cả cử tọa hôm ấy ai cũng đều hưởng ứng. Cái mũ phớt của ông đầy ắp tiền. Tôi thấy ông hào hứng ra mặt như một đứa trẻ nhận tiền lì xì ngày Tết. Tôi biết những năm tháng ly hương nơi đất khách quê người đời sống của ông không dễ dàng gì hơn nữa lại một nách gà sống nuôi con (mà ông có đến 8 người con). Nhưng ở đâu và lúc nào ông cũng rất ga lăng, ăn mặc đúng mốt Parisien như những nghệ sĩ sành điệu nhất ở khu Montmartre. Cái hồn nhiên ở con người ông làm tôi lại thấy gần ông hơn bởi tôi hiểu ra rằng: ông cũng là người trần mắt thịt như ai. Ông chỉ khác mọi người ở chỗ ông là người có tài, có quá nhiều tài. Hay nói cách khác: ông là người tài sống giữa đời thường với những tính cách của con người bình thường như chúng ta. Do đó âm nhạc của ông cao sang nhưng không xa lạ, nó bình dị như hơi thở, như cơm ăn nước uống hàng ngày. Có lần chị Thụy Khuê làm ở đài Phát thanh RFI nhắn tin cho biết nhạc sĩ Phạm Duy vừa qua Pháp có nhờ chị tìm cho băng video cuốn phim Bao gi cho đến tháng 10 của tôi. Không biết ai giới thiệu nó với ông. Hồi đó chưa có đĩa DVD và trong tay tôi lúc đó cũng không có băng video nào. Mãi sau này khi ông về nước tôi mới có dịp gửi tặng ông đĩa DVD cuốn phim đó. Tôi biết ông ấp ủ ý định trở về Việt Nam sinh sống từ lâu. Ông tâm sự điều đó với rất nhiều người, những người bạn của ông và cả những người có trọng trách trong nước. Thoạt đầu ông được trở về với tư cách như Việt kiều về thăm quê. Sau vài lần về như vậy ông có ý định về sống hẳn ở quê hương. Câu chuyện trở về của ông tốn không biết bao nhiêu giấy mực trên báo chí trong và ngoài nước. Tôi chỉ có một kỷ niệm nho nhỏ với ông liên quan đến sự kiện này như sau. Lần ấy, tôi được mời sang Mỹ giới thiệu phim của mình tại một số trường Đại học. Một hôm, một anh bạn Việt kiều nói với tôi hôm nay là ngày sinh nhật của nhạc sĩ Phạm Duy, anh có muốn gọi điện chúc mừng ông không? Vậy là từ San Fransisco tôi đã được nói chuyện với ông ở Los Angeles. Ông than phiền với tôi rằng đã gửi đơn xin về Việt Nam đã lâu mà không hề có hồi âm. Ông buồn lắm. Tôi hỏi ông gửi đi đâu? Ông bảo ông gửi cho Bộ Công An. Tôi cắt nghĩa cho ông rằng họ không hồi âm là phải vì  đó không phải là trách nhiệm của họ. Ông phải gửi về đúng nơi xem xét giải quyết những việc như thế này: đó là Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài. Địa chỉ 32  Bà Triệu, Hà Nội. Gửi đúng tên ông Chủ nhiệm của Ủy ban là ông Nguyễn Phú Bình. Sau đó trở về Việt Nam tôi gặp ông Bình, thuật lại câu chuyên trên. Ông Bình cười nói: Anh bảo ông gửi về chỗ tôi là đúng địa chỉ. Tôi sẽ xin ý kiến trên để ông ấy trở về. Không lâu sau đọc báo tôi biết tin nhạc sĩ Phạm Duy được mời ra Hà Nội để chính thức nhận quốc tịch Việt Nam do ông Nguyễn Phú Bình trao tại trụ sở Ủy ban về người Việt Nam ở nước ngoài.

Từ khi ông trở về nước , sống tại Thành phố Hồ chí Minh tôi có cơ hội gặp ông nhiều hơn. Cái lần gặp mà tôi nhớ mãi cho đến tận giờ là lần gặp ông ở Huế trong dịp Festival lần thứ  4 năm 2006. Lần ấy tôi được mời làm thành viên Ban chỉ đạo nghệ thuật của Festival. Chương trình đêm khai mạc đã hoàn tất, các tiết mục đã được lãnh đạo tỉnh duyệt lần cuối. Tôi vui mừng vô cùng vì trong chương trình có ca khúc Tình ca của nhạc sĩ Phạm Duy do nữ nghệ sĩ Ánh Tuyết biểu diễn. Tôi nghĩ đây sẽ là một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt ghi dấu cuộc trở về của nhạc sĩ Phạm Duy. Ông được ban tổ chức Festival mời từ TP Hồ Chí Minh ra Huế dự đêm khai mạc như một khách mời đặc biệt. Ông được bố trí ở tại khách sạn Pilgrimage Village ngay cạnh phòng tôi. Tôi thấy ông rất vui và tôi cũng vui không kém.

Nhưng bỗng nhiên chiều trước đêm khai mạc ban tổ chức cho biết hai ca khúc Con đường cái quanTình ca sẽ không có trong chương trình khai mạc nữa. Hỏi những người có trách nhiệm thì chỉ biết đó là do phản ứng gay gắt từ một số người ở Hà Nội. Tôi đi tìm nhạc sĩ Phạm Duy, định sẽ nói với ông vài lời an ủi , bởi tôi biết đây không phải là chủ trương của Ban tổ chức Festival hay của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế. Nhưng không thấy ông ở trong phòng bên nữa. Ông đã trả phòng. Anh Hoa trưởng ban tổ chức Festival cho biết ông đã khóc khi nghe tin này và rời Huế ngay chiều hôm đó.

Đêm khai mạc Festival tôi không còn lòng dạ nào mà thưởng thức những tiết mục biếu diễn nghệ thuật. Tôi hình dung hình ảnh người nhạc sĩ già tóc bạc trắng như cước đang ngồi trên máy bay rời Huế mà lòng thấy quặn đau. Bây giờ thì khác rồi, Chương trình nào của nhạc sĩ Phạm Duy đều không thể thiếu bài Tình ca. Lần gần đây nhất nghe ca khúc này trong chương trình Điều còn mãi tại Nhà hát lớn Hà Nội chiều 02 tháng 9 năm 2012 do ca sĩ Nguyên Thảo hát mà nước mắt tôi cứ chực trào ra: “Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời người ơi! Mẹ hiền ru những câu xa vời. À à ơi! Tiếng ru muôn đời”.

Những ngày sau khi ông về nước không lâu, một hôm tôi nhận được một cú điện thoại từ Thành phố Hồ Chí Minh của chị Phan Thị Lệ. Chị cho biết Công ty Văn hóa Phương Nam của chị đang soạn thảo bản hợp đồng mua bản quyền toàn bộ các sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy kể cả bản quyền làm phim về cuộc đời của ông. Chị cho biết nhạc sĩ yêu cầu ghi rõ trong hợp đồng tên người sẽ làm bộ phim đó là tôi. Bởi vậy mới có cú điện thoại của chị Lệ. Tôi cảm động vô cùng trước sự tin cậy của ông nhưng lúc này đây, khi ông đã đi xa thì đó lại là niềm ân hận vô cùng của tôi. Tôi chưa thực hiện được bộ phim đó và bây giờ thì không còn cơ hội nào nữa.      

Nhạc sĩ Phạm Duy đã để lại cho đời một gia tài vô giá. Một nghìn ca khúc của ông mỗi bài một vẻ, giai điệu không bài nào lặp lại bài nào, nhưng có một bài để lại ấn tượng nhất cho tôi đó là một bài hát tôi chưa bao giơ được xem biểu diễn trên sân khấu mà chỉ được xem trên Youtube qua màn hình máy vi tính. Đó là ca khúc Việt Nam Việt Nam được phối khí dầy dặn như nhạc giao hưởng cùng một dàn đồng ca hết sức hoành tráng. Ca khúc đó có những lời như sau :

“Việt Nam Việt Nam nghe từ vào đời

Việt Nam hai câu nói trên vành môi

Việt Nam nước tôi…

Việt Nam Việt Nam tên gọi là người

Việt Nam hai câu nói sau cùng khi lìa đời

Việt Nam đây miền xanh tươi

Việt Nam đem vào sông núi

Tự do công bình bác ái muôn đời

Việt Nam không đòi xương máu

Việt Nam kêu gọi thương nhau

Việt Nam đi xây đắp yên vui dài lâu


Việt Nam trên đường tương lai,

Lửa thiêng soi toàn thế giới

Việt Nam ta nguyện tranh đấu cho đời

Tình yêu đây là khí giới,

Tình thương đem về muôn nơi

Việt Nam đây tiếng nói đi xây tình người”

Phải chăng đó chính là khát vọng của tất cả người Việt Nam chúng ta mà nhạc sĩ Phạm Duy đã nói lên một cách tha thiết bằng âm nhạc của mình?

Đạo diễn - NSND Đặng Nhật Minh

Nguồn: Nguyễn Đắc Xuân (biên soạn) (2021), Nhạc sĩ Phạm Duy biết ái tình ở dòng sông Hương, Nxb Thuận Hóa. Đăng lại từ http://www.lethieunhon.vn/2021/10/pham-duy-nguoi-yeu-at-nuoc-minh.html

Khi bàn về sách nói, không thể bỏ qua các câu hỏi hiện vẫn còn khiến nhiều người lăn tăn: nên nghe hay đọc sách, và nghe audiobook sau đó tuyên bố “tôi đã đọc quyển đó rồi” có phải là… ăn gian?

20210515 2

Minh họa

Đọc và nghe một cuốn sách có thể liên quan đến các con đường não bộ khác nhau, nhưng hầu hết các nhà tâm lý học nghiên cứu ngôn ngữ trên các khía cạnh tâm lý và sinh học thần kinh đồng ý rằng “bộ máy tâm trí” liên quan đến việc hiểu ở cấp độ cao hơn các mẩu chuyện, cốt truyện đều giống nhau bất kể bạn “đọc” cuốn sách như thế nào.

Trong một thí nghiệm, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học UC Berkeley đã chụp hình não 9 người tham gia đang đọc và nghe một loạt chuyện, rồi lập bản đồ cách các khu vực khác nhau của não xử lý từng từ. 

Nhìn vào các bản scan não và phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu thấy rằng các câu chuyện kích thích các vùng nhận thức và cảm xúc giống nhau, bất kể phương tiện truyền đạt chúng vào não là gì đi nữa, theo kết quả đăng trên tập san Journal of Neuroscience vào tháng 8-2019. Nói cách khác, ta nghe hay đọc thì đối với não “không thành vấn đề”.

Ảnh chụp não khi nghe sách (trên) và đọc sách cho thấy nhiều nét tương đồng. Nguồn: Fatma Deniz

Điều này lại dẫn đến một câu hỏi khác: giữa nghe và đọc, có cái nào giúp ta dễ hiểu nội dung văn bản hơn cái kia không? Beth Rogowsky, phó giáo sư giáo dục tại Đại học Bloomsburg, đã làm thí nghiệm với 3 nhóm tình nguyện viên là người trưởng thành để tìm câu trả lời. 

Nhóm đầu tiên nghe các đoạn trích của một cuốn sách phi hư cấu về Thế chiến thứ hai; nhóm thứ 2 đọc các đoạn trích từ một máy đọc sách điện tử; nhóm cuối cùng đọc và nghe các đoạn trích đồng thời. 

Các tình nguyện viên sau đó đã làm một bài kiểm tra khả năng hiểu. Rogowsky và các đồng nghiệp không thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm số giữa 3 nhóm.

Nhưng Rogowsky lưu ý rằng nghiên cứu của cô chỉ xem xét khả năng hiểu khi mọi người đọc hoặc nghe tài liệu một lần, chứ không phải khi họ cố gắng nghiên cứu nó ở mức độ sâu. 

Nói cách khác, nghiên cứu của Rogowsky gợi ý rằng ít nhất khi nói đến việc tiếp nhận tài liệu một cách tương đối thụ động, thì việc bạn đọc hay nghe cuốn sách không thực sự quan trọng.

Nhưng còn muốn nạp nội dung chủ động thì sao? Một nghiên cứu so sánh mức độ học tập của sinh viên về một chủ đề khoa học bằng cách cho họ nghe 1 podcast dài 22 phút so với đọc 1 bài viết. Hai ngày sau, họ phải làm bài kiểm tra. Kết quả là số sinh viên đọc đạt 81% số điểm và những người nghe thì được 59%.

Xét trên khía cạnh học tập thì 2 cách nạp văn bản này khiến ta tiếp nhận theo những cách khác nhau. Với văn bản có những phần khó, ta có thể dễ dàng quay lại đoạn đó, đọc lại và suy nghĩ dễ dàng hơn khi nghe nội dung đó. 

Văn bản viết dù khó đến mấy cũng góp phần hỗ trợ người đọc thông qua những dấu hiệu tiêu đề, cách sắp xếp đoạn văn, những quy ước này là thứ mà việc nghe sách không thể so sánh được.

Vì vậy, mặc dù cả việc nghe và đọc sách đều có một quá trình hiểu cốt lõi tương đối giống nhau diễn ra trong não, những văn bản khó đòi hỏi tâm trí chúng ta phải có các chiến lược bổ sung và văn bản giấy có thể đáp ứng tiêu chí này. 

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy khả năng nghe và đọc của mọi người tương tự nhau đối với các câu chuyện kể đơn giản hơn là đối với văn xuôi. Các câu chuyện có xu hướng dễ đoán hơn và sử dụng các ý tưởng quen thuộc, còn các bài luận thuyết trình có nhiều khả năng bao gồm nội dung lạ và yêu cầu đọc có chiến lược hơn.

Thể loại sách cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến chọn lựa nghe hay đọc của chúng ta. Đối với văn bản tường thuật như tiểu thuyết, việc bạn đọc hay nghe cuốn sách có lẽ không quan trọng lắm. Nhưng đối với văn bản kỹ thuật, văn xuôi thì đọc sẽ tốt hơn. 

Việc tìm hiểu tài liệu dày đặc thông tin thường đòi hỏi phải xem lại và việc lật qua lại giữa các trang sẽ dễ dàng hơn nhiều so với lướt qua lướt lại một đoạn âm thanh.

Daniel T. Willingham, giáo sư tâm lý Đại học Virginia, chia sẻ trên The New York Times rằng cách đây vài năm, khi mọi người nghe nói ông là một nhà nghiên cứu về đọc sách, họ có thể hỏi về chứng khó đọc của con cái hoặc làm thế nào để khiến con họ đọc nhiều hơn. 

Nhưng ngày nay câu hỏi mà ông thường xuyên nhận được nhất là “Nếu tôi nghe sách nói khi sinh hoạt trong câu lạc bộ sách thì có bị xem là gian lận không?”. 

Suy cho cùng việc có gian lận trong câu lạc bộ đọc sách không nếu nghe sách có vẻ như không quan trọng bằng chuyện lựa chọn cách thức nào để hiểu nội dung của một cuốn sách một cách tốt nhất và nắm bắt được điều tác giả cố gắng truyền đạt đến chúng ta. ■

Hiếu Thảo

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 20.4.2021.

“Những thềm cống trong thành phố đều được người ta chú ý đến mà rắc vôi cho. Các hàng quà rong được nghỉ như các viên chức gặp tuần lễ Anh. Những người tỉnh khác đến đều được tiếp đón như quý khách, để xem thử đã được cấp chứng nhận rằng “có tiêm thuốc trừ dịch rồi” hay chưa.

Nếu chưa thì đừng có mong bước chân vào tỉnh – dù là có để thăm người anh em đang mắc … bệnh dịch tả” – Đó là ghi nhận của một ký giả trong thời điểm bùng phát dịch bệnh truyền nhiễm cách đây gần trăm năm.

Không khí tiêm chủng tấp nập!

Đầu thế kỷ XX, do điều kiện thời tiết khắc nghiệt, đời sống sinh hoạt của người dân còn lạc hậu nên nước ta phải đối mặt với nhiều loại dịch bệnh truyền nhiễm nguy hiểm. Qua kho sách, báo chí còn lưu trữ được, có thể thấy một số bệnh truyền nhiễm phổ biến được ghi chép lại, như: Bệnh đậu mùa, thổ tả, dịch hạch, ho lao,… Đặc biệt là bệnh thổ tả, đã trở thành nỗi kinh hoàng với nhiều quốc gia, dân tộc, trong đó có Việt Nam.

“Ngoài Bắc đang bị dịch tả. Người ta chết đông chết tây như là tiếng pháo nổ trong đêm ba mươi”. Ký giả của Tràng An báo đã ví von như thế! (Cứu giúp đồng bào, Tràng An báo, 12-10-1937).

Lúc bấy giờ, tiêm vaccine phòng dịch là phương cách hữu hiệu nhất để ngăn chặn sự bùng nổ khủng khiếp của bệnh dịch.

Theo các biểu thống kê của Nha Y tế năm 1933, số người được tiêm chủng phòng các bệnh truyền nhiễm lần lượt như sau: Người đã tiêm phòng bệnh đậu mùa: 1.757.181 người; người đã tiêm phòng bệnh dịch tả: 93.664 người; người đã tiêm phòng bệnh lao: 10.080 người. (Số người được tiêm chủng phòng các bệnh truyền nhiễm, Hà Thành ngọ báo, 18-11-1933).

Trong khi đó, theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 1931, dân số nước ta có hơn 17 triệu người. So sánh đối chiếu, có thể thấy, đầu những năm 30 của thế kỷ trước, số người được tiêm phòng bệnh dịch tả ở nước ta chỉ xấp xỉ 1/17 tổng dân số. Một con số khá là khiêm tốn!

Tuy vậy, khi đọc các trang báo thời bấy giờ, ta thấy dày đặc các thông báo, khuyến cáo tiêm chủng tại khắp các địa phương trong cả nước như: Hà Nội, Hải Dương, Huế,…

“Thành phố sẽ tiêm trừ bệnh tả không mất tiền cho dân. Tiêm trừ bệnh tả thì không bắt buộc, song ta cũng nên tiêm, vì tiêm một lần thì suốt năm không sợ bệnh tả. Vả lại nếu đợi bệnh tả đã phát ra mới tiêm thì còn nguy hiểm, vì tiêm xong thì 15 hôm sau thuốc tiêm mới có công hiệu, còn trong vòng 15 hôm ấy dẫu tiêm rồi vẫn có thể mắc bệnh tả được”. Đó là thông báo của Sở Vệ sinh thành phố Hà Nội được đăng tải trên Hà Thành Ngọ Báo năm 1934, khuyến cáo người dân nên đi tiêm chủng. (Việc trồng đậu và tiêm thuốc trừ bệnh tả cho dân thành phố, Hà Thành ngọ báo, 21-2-1934).

Tại Hải Dương không khí tiêm chủng cũng vô cùng nhộn nhịp, đủ các loại thành phần trong xã hội: “Đã hai hôm nay tại nhà Thương tỉnh, tấp nập những người ở 13 phủ, huyện, già trẻ, lớn bé, trai gái kéo nhau đến xin tiêm thuốc phòng bệnh đậu mùa và bệnh dịch tả” (Việc gần xa, Hà Thành ngọ báo, 7-5-1932).

Đầu năm 1937, ở Huế, bệnh dịch tả cũng lan rộng khắp tỉnh. Các ký giả của Tràng An báo đã phải cảnh báo người dân kinh thành: “Muốn tránh cái thảm họa của năm 1927, nhà nước đã cho nhân dân tiêm thuốc để đề phòng. Hiện nay tại nhà thương Brieux, chiều nào cũng có tiêm thuốc cho những người trong thành phố. Một bệnh nguy hiểm, ngặt nghèo như thế, mong bà con xa gần hãy đến nhà thương tiêm thuốc cho đông để trừ tai họa” (Tiêm thuốc trừ bệnh tả, Tràng An báo, 7-12-1937).

Tuy nhiên cũng có một số địa phương như ở Ninh Bình, bộ máy chức dịch làm ăn tắc trách, xem thường tính mạng của người dân: “Mấy hôm nay, trong làng Phúc Am đã thấy nhiều người mắc phải bệnh dịch tả. Hiện đã 2 người chết về bệnh ấy, còn mọi người mắc phải may đều chữa được cả. Thế mà các chức dịch trong làng không chịu đi trình quan trên, xin thầy thuốc về tiêm cho dân”. (Dịch tả đã phát tại làng Phúc Am, Hà Thành ngọ báo, 24-4-1931)

Trên nhiều tờ báo, các ký giả đương thời còn cổ vũ người dân đi tiêm vaccine phòng dịch, bằng những lập luận thuyết phục, mang đầy tính khoa học: “Cách đề phòng cho không mắc phải bệnh thổ tả thì có lối tiêm thuốc. Ngay từ năm 1885, Ferran rồi đến 1894 Haffkin đã dùng thuốc tiêm rồi… Lối tiêm công hiệu lắm và có thể đề phòng được trong 4 đến 6 tháng”. (Bệnh thổ tả, báo Khoa Học, 1-6-1934).

Hoặc chỉ rõ cho người dân hệ quả của việc tiêm chủng bằng những minh chứng cụ thể, khi họ có thái độ ngần ngại, sợ sệt:

“Tin ở cách đề phòng bệnh tả, bằng cách tiêm vi trùng tả vào mình có hiệu quả, tôi muốn có nhiều chứng cứ về kết quả việc tiêm ấy. Thì gì: các người Tây tiêm chưa chết một người nào, các người cu ly đám ma, các người đổ thùng cũng vậy. Về phần riêng tôi, cứ sáu tháng tôi lại đi tiêm một lần, vì ngoài 6 tháng, phát tiêm hết công hiệu; lúc tiêm chẳng đau đớn gì, nhất là chẳng mất xu nào, vì nhà nước cho thuốc tiêm, cho người tiêm giúp”. (Dịch tả, Khoa Học, Số 189, 1 Tháng Năm 1938).

20210827 3

Chuyện tiêm vaccine phòng dịch gần 100 năm trước -0

Một số thông báo, bài viết về tiêm chủng vaccine trên báo xưa.

 

Muốn vào tỉnh phải có chứng nhận… “Có tiêm thuốc trừ dịch”

Cổ vũ, khích lệ tiêm chủng là tinh thần khi dịch bệnh chưa ở mức độ căng thẳng. Nhưng khi dịch bùng phát mạnh mẽ, công việc ấy lại trở nên khẩn trương, cấp thiết hơn bao giờ hết.

Báo chí xưa đã ghi lại vào năm 1937, ở tỉnh Thái Bình, dịch tả bùng phát mạnh, các nhà chức trách phải tìm hết cách đề phòng: “Những thềm cống trong thành phố đều được người ta chú ý đến mà rắc vôi cho. Các hàng quà rong được nghỉ như các viên chức gặp tuần lễ Anh. Những người tỉnh khác đến đều được tiếp đón như quý khách, để xem thử đã được cấp chứng nhận rằng “có tiêm thuốc trừ dịch rồi” hay chưa. Nếu chưa thì đừng có mong bước chân vào tỉnh – dù là có để thăm người anh em đang mắc … bệnh dịch tả”.

Thái độ của dân chúng lúc bấy giờ đối với việc tiêm chủng phòng bệnh cũng được nhà báo mô tả lại: “Quan Công sứ ở tỉnh vì thương dân, ra lệnh cho tất cả người ta trong hạt phải đi tiêm thuốc đề phòng. Nhưng mà vẫn còn có nhiều người quyết không chịu tiêm. Chẳng biết vì họ muốn đùa với cái chết hay là vì họ không có thì giờ - thì giờ riêng để tặng cho việc chạy gạo.”

Chính vì vậy, Công sứ tỉnh Thái Bình đã phải ra lệnh phạt. Người nào soát trong hầu bao mà không có giấy khai tiêm thì phải nộp một số bạc là 6 đồng, gần bằng hai năm thuế. Số tiền ấy sẽ sung vào quỹ cứu tế.

Ký giả đương thời cũng mượn câu chuyện đó để “cảnh tỉnh” nhiều người dân bằng những lời châm biếm sâu sắc, chỉ rõ rằng bệnh dịch không chừa một ai:

“Vậy thì ở tỉnh Thái Bình ai là người hảo tâm, ai là người thương đồng bào đang lâm cơn hoạn nạn, muốn cúng vào quỹ cứu tế để giúp họ, chỉ còn cách là đừng đi tiêm thuốc trừ dịch. Mà những người hảo tâm ấy hẳn chỉ là những người giàu có. Không đi tiêm thuốc trừ bệnh dịch tả để được bỏ vào quỹ cứu tế một số bạc là 6 đồng, ừ thì được rồi, nhưng còn phải giữ gìn thế nào kia đấy! Chứ mà bệnh dịch thì chẳng nể cái mặt ai thương nòi thương giống đâu!”(Cứu giúp đồng bào, Tràng An báo, Số 263, 12 Tháng Mười 1937).

Cũng trong năm 1937, một bài báo khác lại so sánh công cuộc phòng bệnh dịch tả ở Thừa Thiên (Huế) như một cuộc chiến tranh, “cũng có người, có vật dụng, có tiền, thầy thuốc, khán hộ, lính khố xanh,… Sở Y tế thi hành phương sách chống giữ và bảo vệ rất riết vì ở tỉnh này bệnh mới lan ra trong một vài làng lân cận. Để dập dịch, Sở Y Tế đã đem theo thầy đem thuốc xuống tiêm trừ và đem lính khố xanh để ngăn cấm ở các nẻo đường và con sông qua lại không cho một người nào trong làng ấy ra khỏi và người vào cũng không được.

Phiên chợ trong làng cũng không được họp. Sự cần dùng về lương thực thì dân làng phải tự kiếm lấy ở trong làng mà ăn. Các thầy khán hộ đi tiêm trừ cho mấy làng ấy kể lại rằng suốt ba bốn ngày đấy, dân làng cũng như họ chỉ ăn cơm với muối rau”. (Cách đề phòng bệnh tả ở đây rất nghiêm ngặt – quả là một cuộc chiến tranh, Tràng An báo, 24-12-1937).

Cùng chung nhiệm vụ với các thầy khán hộ trên, một thầy khán hộ khác cũng chia sẻ về công việc đáng tự hào của mình: “Một đêm có đến 1, 2 chục người bệnh tả vào, nào phải tiêm đủ thứ, nào cho thuốc cầm… Tôi dám nói: xông xáo trong bầu không khí vi trùng ấy, dẫu tự ví mình với một bậc chiến sĩ trong chỗ đạn lửa cũng không có gì là quá đáng. Tuy vậy, người ở chỗ rừng tên núi đạn, còn biết chỗ tiến thoái giữ thân chứ không như “gã cừu địch tí hon” kia, con mắt ai mà nhìn thấy”. (Một người trong ngạch khán hộ phàn nàn về những sự thiệt thòi của nghề, Hà Thành ngọ báo, 10-9-1932).

“Ôn cố nhi tri tân” - nhắc chuyện xưa để nói chuyện nay. Khi cả nước đang triển khai chiến dịch toàn quốc tiêm chủng vắc-xin phòng COVID-19, chúng ta cần nhấn mạnh thêm một lần nữa tầm quan trọng của chiến dịch này trước bối cảnh dịch bệnh bùng phát với nhiều diễn biến phức tạp. Mong rằng chính tinh thần, khí thế của người xưa sẽ là động lực, cổ vũ ý chí, tinh thần của người dân nước Việt trong chiến dịch tiêm chủng lớn nhất lịch sử.

Trần Đức Anh

Nguồn: An ninh thế giới cuối tuần, ngày 26.8.2021.

 

Một vận động viên Marathon nữ dùng “thế thân” chạy hộ để có huy chương đem khoe trên mạng xã hội. Một “fashionista” nổi tiếng ăn cắp những món đồ hiệu đắt đỏ để khoe cuộc sống giàu có trên Instagram. Những người phụ nữ chung tiền thuê xe hơi xịn để đóng vai “rich kid” (con nhà giàu). Ngày nào ta cũng có thể thấy những chuyện “sống ảo” được vạch trần trên mạng xã hội.

Nhưng, có ai trong chúng ta không “sống ảo”? Có ai trước khi đăng tấm ảnh chân dung lại không đưa nó qua một lớp “filter” kỳ diệu? Có ai không ba hoa về những phần tốt đẹp nhất của cuộc sống để vờ như mình đang rất ổn? Nên nhớ rằng, từ “ảo” trong sống ảo không bắt nguồn từ “ảo ảnh” (illusion), mà từ thế giới mạng Internet ảo (virtual).

Giờ thử tưởng tượng vài trăm năm nữa, con người có một phiên tòa xử án Internet, liệu bị cáo có phải chịu kết án là thủ phạm của “sống ảo”, hay nó chẳng là gì hơn, ngoài một tấm gương cầu lồi phóng to những thứ vốn đã có sẵn trong bản chất của con người?

Năm 1891, chắc chắn khi đó Internet còn chưa ra đời, Oscar Wilde đã viết cuốn tiểu thuyết duy nhất của đời mình, một tác phẩm đưa ông lên đỉnh văn chương nhưng cũng ném ông xuống đáy cuộc đời, Chân dung của Dorian Gray, trong đó kể về một chàng trai trẻ đẹp sa ngã vào đầm lầy tội ác chỉ để giữ cho mình tuổi thanh xuân bất diệt nhưng trong khi chàng mãi trẻ đẹp thì bức chân dung mà chàng giấu kín nơi căn gác ngày một xấu xí, lão hóa, biến dạng sau mỗi lần chàng phạm tội.

20210512 2

Chúng ta đều đeo mặt nạ.

Nhưng, đến lúc mò lên gác xép và đối diện bức chân dung tượng trưng cho cái bên trong của mình, chàng ta chỉ thấy một thứ tàn tạ héo hon, dường như câu chuyện ấy có rất nhiều nét tương đồng với những phiên bản con người trong và ngoài mạng xã hội.Đó là cuốn tiểu thuyết đa nghĩa và bạn có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, nói cho cùng nó bất tử là bởi qua mỗi thời đại nó lại gợi ý thêm những suy tư mới. Trong thời đại của mạng xã hội, cái cách mà Dorian Gray khao khát được xuất hiện trước công chúng với vẻ ngoài đẹp như một mùa xuân, không từ cách nào để luôn mơn mởn trước mắt mọi người.

Như vậy, con người, dù có mạng Internet hay không, hình như luôn có xu hướng tách cái tôi thật và cái tôi xã hội. Từ “person” (một con người) có gốc gác từ từ “persona” trong tiếng Latin, mà persona có nghĩa là mặt nạ sân khấu. Hiểu theo cách nào đó, làm người tức là đeo mặt nạ, đã là con người thì đều đeo mặt nạ. “Mặt nạ [...] được thiết kế một mặt để gây ấn tượng nhất định với người khác và một mặt khác để che giấu bản chất thực sự của một cá nhân” - nhà phân tâm học nổi tiếng người Thụy Sĩ Carl Jung, người với lý thuyết về bản đồ tâm hồn có ảnh hưởng sâu sắc tới tâm lý học hiện đại, đã viết. Carl Jung là người đầu tiên khởi xướng khái niệm “mặt nạ” khi nghiên cứu về hành vi của con người.

“Mặt nạ” mà Jung đề cập thực chất có phổ rộng hơn rất nhiều so với những gì ta đang nói ở đây. Nó là tất cả những vỏ ngoài đóng gói cái tôi đích thực, những thứ định danh ta nhưng không đích thực là ta, kể cả tên tuổi cha mẹ đặt cho, nghề nghiêp ta làm, chức vụ xã hội giao cho ta - những thứ này không phải là giả, một người tên là A không hề nói dối khi anh ta bảo mình tên A, một vị tổng thống đương nhiên là người điều hành đất nước, nhưng nói như Jung, chúng chỉ là “hiện thực thứ hai” hay “một thỏa hiệp giữa con người và xã hội”.

Và nếu như ngay từ những thứ có tính thiết thân như thế đều có thể chỉ là một tấm mặt nạ ta chường ra cho thế giới ngắm nhìn, vậy thì có gì lạ nếu như khi được trang bị công cụ phù hợp (như mạng xã hội), con người tiếp tục đeo thêm những lớp mặt nạ khác để tự vẽ ra cho mình một cuộc sống khác với cuộc sống ta đang sống?

Jung không phản đối mặt nạ. Theo Jung, đeo mặt nạ là một hành vi cực kỳ bình thường và tự nhiên. Chúng ta đều đeo mặt nạ. “Thật không may rằng không nghi ngờ gì cả, con người, về toàn thể, không tốt đẹp như những gì anh ta tự tưởng tượng về mình và những gì anh ta muốn trở thành”. Nên ao ước thấy một phiên bản tốt hơn của bản thân, dù chỉ là trong một ảo tưởng, là rất mực tự nhiên. Nhưng, rắc rối sẽ xảy ra nếu như một người đồng nhất mình với mặt nạ, đánh mất hết ý thức về bản thân và để mặt nạ nuốt chửng bản ngã thật của mình.

Trong bộ phim “Fanny and Alexander”, một trong những phim hay nhất của Ingmar Bergman (và Ingmar Bergman thì là một trong những đạo diễn hay nhất thế giới), có cảnh phim về một vị cha đạo nằm mơ. Trong giấc mơ, ông cố gắng tháo tung chiếc mặt nạ đang đeo trên gương mặt nhưng ông ta làm cách nào cũng không thể tháo được nó. Cuối cùng thì ông ta kéo luôn cả gương mặt mình ra cùng mặt nạ. Ta đeo mặt nạ để che giấu gương mặt thật của mình nhưng khi đã đeo quá lâu, cái mặt nạ ấy sẽ dính chặt vào gương mặt thật của ta, đến mức ta không còn cách nào nhấc lớp phủ lên mà không làm bị thương đến lớp bị che phủ.

Trong khi đó, một nhà phân tâm học khác là Donald Winnicott sống cùng thời với Jung cũng phát triển độc lập một lý thuyết về cái tôi thật và cái tôi giả (hay cái tôi lý tưởng hóa), trùng hợp thay, lại có nhiều điểm tương giao với bản đồ tâm hồn của Jung. Ta có thể hiểu cái tôi giả (false self) là một thứ tương tự như mặt nạ.

Theo Winnicott, cái tôi giả ra đời khi một đứa trẻ bắt đầu biết phân biệt cái gì là được và cái gì là không được theo sở thích chung của xã hội, kiểu như tuổi trẻ là tốt, quyền lực là tốt, giàu có là tốt, thông minh là tốt, dũng cảm là tốt. Những cái không được, không tốt thì ta đem giấu đi. Nói chung, cái tôi giả không hề xấu. Nó là một phần của cái tôi thật và nó có nhiệm vụ bảo vệ cái tôi thật. Cái tôi giả rất vất vả vì hằng ngày nó phải đối phó với thế giới và thích ứng với thế giới thay cái tôi thật, nhờ đó, cái tôi thật có thể tiếp tục tồn tại trọn vẹn.

Dorian Gray trẻ đẹp và bức chân dung biến dạng.

Song, chính vì cái tôi thật không được ngó ngàng thường xuyên, nó chẳng có việc gì để làm, nó được bảo vệ quá kỹ càng đến mức không được thở, nên đâm ra, nó sẽ cảm thấy bị ngộp, cảm thấy không được công nhận, cảm thấy không được yêu. Từ quan điểm của Winnicott, ta có thể suy luận nguyên do vì sao khi một người “sống ảo” quá lâu, người đó cuối cùng lại trở nên mệt mỏi và buồn khổ. Nỗi buồn ấy chính là nỗi buồn của cái tôi thật bị bỏ quên.

Tóm lại, nếu chiếu theo lý thuyết của cả Jung và Winniecott, sống ảo tuyệt đối không phải là lỗi của mạng xã hội. Sự ra đời của mạng xã hội, thậm chí, chỉ phản ánh bản năng đeo mặt nạ của con người. Ta cần một nơi nào đó để làm cho cuộc sống của mình có vẻ tốt đẹp hơn so với thực tế và để không bị xã hội gạt ra lề và mạng xã hội là một sản phẩm tất yếu. Nhưng, thế thì chẳng lẽ ta chịu thua, ta chấp nhận để những chiếc mặt nạ dính cứng vào gương mặt thật của ta không cách nào gỡ ra? Những nhà phân tâm học chẳng lẽ không có một gợi ý gì hết?

Trên thực tế, thì có. Carl Jung không nói rằng chúng ta phải chối bỏ mặt nạ, xã hội này vận hành trơn tru là vì mọi người đều đeo mặt nạ và diễn cảnh với nhau. Nhưng, theo bản đồ tâm hồn của Jung, con người không chỉ có mặt nạ, họ còn có bóng tối (shadow), bao gồm tất cả những gì ta cố gắng tự phủ nhận ở chính mình. Và, Jung khuyên ta hãy nhìn thẳng vào bóng tối, để chúng ta biết rằng mặt nạ không phải là toàn bộ con người ta, bởi cách duy nhất để không bị điều khiển bởi mặt nạ là nhận thức được rằng bản thể của ta lớn hơn mặt nạ. Mặt nạ chỉ là một phần của bản thể mà thôi. Và, chỉ trong sự tỉnh thức hoàn toàn về mọi góc độ tâm hồn, con người mới có thể giữ vững cá tính và không bị trượt đi theo vô thức tập thể.

“Đặc ân của cuộc đời là trở thành con người bạn thực sự là”, Jung viết. Jung không viết “làm một con người bạn thực sự là”, mà ông viết “trở thành con người bạn thực sự là”. Động từ “trở thành” như muốn nói rằng, hành trình đi tìm cái tôi nguyên bản là một hành trình thăng tiến, một hành trình hóa thân, chứ không phải một hành trình quay trở về điểm xuất phát gốc hay một sự giảm trừ và vứt bỏ bất cứ điều gì. Ta không vứt bỏ mặt nạ của mình nhưng ta phải biết nó không là tất cả.

Hiền Trang

Nguồn: An ninh thế giới giữa và cuối tháng, ngày 30.4.2021.

Họ gặp nhau trong những năm tháng sinh viên và hơn nửa thế kỷ kề vai sát cánh bên nhau trong cuộc đời, nhưng trong con mắt những người xung quanh, cuộc hôn nhân này quá kỳ quặc.

20210809 5

Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir.

Nhà văn đoạt giải Nobel và nhà tư tưởng nữ quyền gắn bó với nhau bằng tình yêu và sự say mê triết học. Mối quan hệ của họ thiếu vắng nhiều đặc điểm của một cuộc hôn nhân thông thường.

 

Bản “Tuyên ngôn tình yêu”

Năm 1929, khi Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre gặp nhau tại khoa Nghệ thuật của Đại học Sorbonne (Pháp), không ai dám nói đây là cặp đôi lý tưởng. Simone thanh lịch và mảnh mai dường như hoàn toàn trái ngược với Jean-Paul cục mịch.

Nhưng điều đó có ý nghĩa gì, nếu như bà cảm thấy ở ông nửa thứ hai của mình, người có những suy nghĩ, sở thích, mong muốn và thậm chí cả cảm xúc trùng hợp với bà.

Tại một cuộc thi triết học lấy kết quả lập bảng xếp hạng quốc gia của sinh viên Pháp, Sartre đứng đầu, còn de Beauvoir - thứ hai. Họ là những đối thủ xứng tầm, trở thành những người cùng chí hướng và là bạn đồng hành bình đẳng của nhau.

Họ tự giác không tuân theo các chuẩn mực được xã hội chấp nhận, và do đó, thay cho việc kết hôn truyền thống, họ đã ký kết bản “Tuyên ngôn tình yêu”, một dạng hợp đồng quy định mối quan hệ của họ.

Theo Tuyên ngôn, họ cam kết chung thủy với nhau về mặt trí tuệ, nhưng không ràng buộc về mặt thể xác. Mỗi người đều có thể tự do lựa chọn bạn trai và bạn gái của mình, nhưng đồng thời phải thẳng thắn với nửa kia của mình trong sáng tạo, suy tư và cuộc sống tình dục.

Có vẻ như cả hai đều cảm thấy những quy định như vậy bảo đảm cho mối quan hệ của họ bền vững hơn là một cuộc hôn nhân tầm thường.

 

Thói quen viết thư


Simone de Beauvoir thời trẻ.

Sau khi nhận bằng tốt nghiệp đại học, Simone đến Rouen, còn Jean-Paul đến Le Havre (thành phố cảng của Pháp thuộc tỉnh Seine – Martime), giảng dạy. Sợi dây kết nối họ là những lá thư, trong đó họ mô tả chi tiết từng ngày, những cảm xúc, suy tư, mong muốn và ước mơ của mình.

Thói quen trao đổi bằng thư từ với người bạn đời vẫn được giữ nguyên kể cả sau này, khi cặp uyên ương sống trong cùng một thành phố.

Sartre thừa nhận, ông sợ mất Simone, nhưng đồng thời ông không tìm cách kiềm chế ham muốn tình dục của mình. Hơn nữa, sự bền vững và “an toàn” của quan hệ với bà khiến con người yêu tự do trong ông sợ hãi.

Ông cho rằng, những mối quan hệ quá bền chắc thường bị kiểm soát thái quá, và vì vậy đánh mất tự do.

 

Liên minh triết học


Jean-Paul Sartre thời sinh viên.

Không đạt được sự hòa hợp hoàn toàn trong đời sống tình dục, Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre bắt đầu tìm kiếm những cảm giác mới bằng việc mời các nhân vật thứ ba vào phòng ngủ của mình. Họ không những có mặt trên giường mà còn chia sẻ thế giới quan và tình yêu trong quan niệm của hai triết gia.

Một trong những “nhân vật thứ ba” là Olga Kazakevich (cô gái người Ukraine), nữ sinh viên củaSimone de Beauvoir. Tiếp theo, em gái của Olga, Wanda, cũng tham gia nhóm “các thành viên gia đình”, sau đó xuất hiện những cô gái và chàng trai mới.

Từ năm 1938, Sartre và Beauvoir sống ở Paris nhưng không chung một nhà. Cuộc sống trong những phòng khác nhau của khách sạn “Mistral” cho phép họ không vi phạm tự do của nhau. Hơn nữa, phần lớn thời gian họ ngồi ở quán cà phê, nơi họ không chỉ dùng bữa, mà còn làm việc, suy tưởng, tranh luận.

Cặp vợ chồng (nếu có thể gọi họ như vậy) thường xuyên kể cho nhau nghe về cuộc sống hàng ngày của mình, không ngần ngại cả những chi tiết kín đáo nhất. Một mặt, họ là những con người hoàn toàn tự do, mặt khác, họ luôn luôn tuân thủ những điều khoản hợp đồng do chính họ soạn thảo.

Thế chiến thứ Hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công Pháp, Sartre bị tổng động viên vào lính và ra mặt trận. Ngày nào ông cũng viết thư cho “vợ” và ông gọi người tình của mình là “con hải ly mê hồn yêu quý”.

Hải ly là biệt hiệu của Beauvoir do một nhóm sinh viên đặt cho bà năm 21 tuổi. Giờ đây Beauvoir trở thành chủ gia đình, bà đã giúp đỡ Olga và Wanda. Sau chiến tranh, các tác phẩm của Sartre và Beauvoir được xuất bản đã mang lại cho cả hai vinh quang quốc tế.

Trong chiến tranh, Sartre bị quân Đức bắt làm tù binh, một năm sau ông được tha (1941). Trở lại Paris, Sartre tham gia phong trào chống phát xít, thường xuyên cùng các đồng chí của mình họp kín tại nhà mẹ Beauvoir.

Các mối quan hệ trong liên minh triết học này không bị coi là phản bội. Mọi thứ diễn ra hoàn toàn trong khuôn khổ hợp đồng họ đã ký kết vào những năm sinh viên. Đối với họ, tự do luôn được đặt lên hàng đầu, sau đó mới đến tình cảm. Simone và JeanPaul yêu nhau say đắm, đau khổ khi phải chia tay với các nhân vật thứ ba.

Họ thích đi du lịch, gặp gỡ những người nổi tiếng, tận hưởng niềm vui cuộc sống. Tiếc rằng, tuổi tác và sức lực có hạn. Lúc về già, Sartre gần như bị mù. Ông tuyên bố từ giã nghiệp văn chương, không thể chinh phục phụ nữ nữa, nhưng lại tìm được một thú vui để giết thời gian - rượu và thuốc an thần.

Trong một bài trả lời phỏng vấn, ông thừa nhận: Rượu và thuốc giúp ông suy nghĩ nhanh hơn. Phát biểu của ông khiến Simone cũng bị sốc.

Jean-Paul Sartre qua đời ngày 15/4/1980. Trong quãng thời gian thiếu ông, Simone hoàn toàn mất hứng thú với cuộc sống. Dường như bà chỉ mơ được đoàn tụ với Sartre và chuyển từ trạng thái vĩnh viễn chia ly sang trạng thái tình yêu vĩnh cửu.

Người ta thường thấy bà ngồi bên cửa sổ nhìn ra nghĩa trang Montparnasse, nơi Jean-Paul yên nghỉ.

Một năm sau khi Sartre qua đời, Beauvoir xuất bản cuốn “Lễ vĩnh biệt” (La Cérémonie des adieux, 1981), kể lại 10 năm cuối cùng của Sartre, khi ông bà chung sống với nhau. Ngày 14/4/1986, Beauvoir trút hơi thở cuối cùng. Mộ của bà được đặt bên cạnh mộ của chồng trong nghĩa trang Montparnasse.

Sau khi mất, Simnone de Beauvoir lại càng nổi tiếng hơn trước. Không chỉ vì bà đã đặt nền móng cho phong trào nữ quyền mà do bà được coi là một trong số những nhà tư tưởng quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện sinh ở nước Pháp. Cũng như Jean-Paul Sartre, di sản của Simone de Beauvoir để loại cho nước Pháp và nhân loại rất to lớn.

Jean-Paul Sartre (1905 - 1980) là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ông là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ 20 và chủ nghĩa Marx.

Tác phẩm của ông cũng đã ảnh hưởng đến xã hội học, lý thuyết phê bình, lý thuyết hậu thuộc địa, phê bình văn học. Satre được trao giải Nobel Văn học vào năm 1964 nhưng ông từ chối.
Trần Hậu

(Theo kulturologia.ru)

Nguồn: Giáo dục và Thời đại, ngày 31.7.2021.

Bạn có biết ngày xưa ở vườn Tao Đàn có xóm Lụa? Đầu đường Đồng Khởi từng có xóm Hàng Đinh? Ngay Bến Bạch Đằng có bãi tắm riêng của vua? Chợ Lớn nguyên thủy nằm ở Chợ Rẫy? Sài Gòn đầu thế kỷ XIX là thành phố sông nước đông vui?...

Vào một chiều cuối đông, tiết trời tươi đẹp, chúng tôi được tham dự một “tour” đặc biệt trở lại Sài Gòn hơn 200 năm trước. Nghe nói đoàn có “tour guide” U.70, vốn là nhà giáo và nhà báo, tinh thông nhiều chuyện Đông Tây. Nào đi thôi, Ông Cụ đang đợi chúng ta ở công viên phía trước Sở Ngoại vụ kìa!

Hoàng thành uy nghiêm và kỳ thú

Đây, Ông Cụ mặc áo dài khăn đóng kiểu xưa, rất mộc mạc. Ông cười, nét mặt hiền hậu, khoan thai chỉ về bồn hoa ở giữa giao lộ, phía sau Nhà thờ Đức Bà và nói: “Chỗ ấy thời nhà Nguyễn là vị trí Cột cờ thành Gia Định”. 

Ông cho biết đại lộ Lê Duẩn ngày nay chính là đường Thần đạo chia đôi tòa thành, theo thuật phong thủy phương Đông. Năm 1789, Sài Gòn bắt đầu được thiết kế và xây dựng với quy mô lớn để làm kinh đô của chính quyền chúa Nguyễn sau khi Phú Xuân (Huế) mất về Tây Sơn. Từ ấy, Sài Gòn chính thức mang tên Gia Định Kinh bao gồm một tòa thành lớn và hơn 40 xóm làng bao quanh. Trung tâm Gia Định là Hoàng thành (còn gọi là thành Bát Quái hay thành Quy) có 8 cổng lớn(1). Sau bao phen binh lửa, tiếc thay Hoàng thành Gia Định không còn nữa nhưng vẫn còn nhiều dấu tích để khám phá.

Nằm không xa cột cờ là Cung Vua. Chỉ về hướng cao ốc German House và khách sạn Intercontinental, Ông Cụ cho biết năm 1802, vua Gia Long chuyển kinh đô ra Huế nhưng Cung Vua vẫn được giữ lại, trở thành hành cung cho vua “ngự” khi kinh lý. Đây còn là nơi các quan tề tựu bái vọng vua vào ngày mồng một Tết hàng năm. Riêng vị trí Sở Ngoại vụ và Thành Đoàn vốn là Dinh Tổng trấn của Quan Thượng Lê Văn Duyệt.  

20210429 3

Nhà cửa ven sông Sài Gòn giáp rạch Bến Nghé, trích tranh vẽ trên báo Pháp Le Monde Illustration 4.1859 (ảnh tác giả sưu tầm)


Song song với Dinh Tổng trấn là Trường Thi và Nhà Quốc học nay là Nhà Văn hóa Thanh niên. Đi bộ một đoạn ra ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Thị Minh Khai, sẽ gặp Đàn Xã Tắc - khu vực thiêng liêng để vua và các quan tế Thần Đất cùng Thần Nông. Khu vực này, phải chăng chính là gò đất cao, bên trên có ngôi nhà nhỏ hình bát giác trong khuôn viên góc phải Dinh Độc Lập, đối diện trường Lê Quý Đôn? 

Trên đất của trường này, ngày xưa Quan Thượng cho mở rạp hát bội và sân chọi gà, là hai thú vui của ngài và dân Gia Định. Phía sau trường Lê Quý Đôn, thuở đó có ngôi chùa lớn là chùa Khải Tường - nơi hoàng tử Đảm được hạ sinh, sau này trở thành vua Minh Mạng. Khi Pháp vào, họ chiếm chùa làm đồn binh, có sĩ quan đứng đầu là Barbé. Người dân kể lại, nàng Hai Bến Nghé đã liều mình dẫn dụ Barbé vào ổ phục kích của nghĩa quân. Từ chùa Khải Tường trở lên vùng Cầu Kiệu là đất của làng Mỹ Hội, nay thuộc quận 3. 

Ban nhạc người Sài Gòn trước ngôi nhà bình dân những năm 1860. Ảnh: Emile Gsell


Dấu tích Hoàng thành còn rất nhiều ở bờ rạch Thị Nghè và bờ sông Sài Gòn. Chúng tôi đi thẳng đại lộ Lê Duẩn, rồi rẽ qua đường Tôn Đức Thắng đến khu Ba Son. Nơi đây thời nhà Nguyễn là Thủy xưởng, chuyên đóng thuyền chiến và là bến tàu hải quân. Đến bến tàu khách Bạch Đằng và bến phà Thủ Thiêm cũ, Ông Cụ cho biết đây chính là Thủy các (nhà sàn cho vua hóng mát) và Lương tạ (bến tắm của vua).

Đi tiếp đến Cột cờ Thủ Ngữ, đầu đường Hàm Nghi, là nền của trạm Gia Tân, một trong 4 trạm giao liên của triều Nguyễn tại Gia Định. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có ngựa tốt và kỵ sĩ giỏi túc trực để chuyển và nhận công văn hỏa tốc đi Huế và khắp Nam kỳ. Đối diện trạm Gia Tân là Công quán - nơi các quan từ tỉnh khác đến trú chân. Tại đây, có đồn binh và từng là đồn thu thuế (hải quan) của Chúa Nguyễn, có từ thế kỷ XVII. Hiện ở đây đã mọc lên cao ốc chọc trời Saigon One Tower.

Xóm làng sung túc

Xe chạy dọc đại lộ Hàm Nghi ra chợ Bến Thành và công viên 23 Tháng 9. Theo Ông Cụ, đường Hàm Nghi xưa là con rạch lớn mang tên Cầu Sấu vì có đầm cá sấu và là nơi bán thịt cá sấu! Đầu rạch, nhìn sang trạm Gia Tân, có ngôi chợ mang tên chợ Sỏi. Đất chợ Sỏi và rạch Cầu Sấu đều thuộc làng Tân Khai (Hoàng thành Gia Định nằm trên gò Tân Khai). Còn khu chợ Bến Thành và công viên 23 Tháng 9 (trước là ga Sài Gòn) là vùng ao hồ, Pháp gọi là đầm Boresse. Song, trước khi Pháp vào, đã có xóm Vườn Mít và xóm Cầu Quan. Tên Cầu Quan là do xóm có nhiều nhà quan lại. 

Dãy phố Tàu Khậu ở Chợ Lớn, khoảng 1866. Ảnh của Emille Gsell


Cái tên Cầu Quan nay vẫn còn, cũng là tên một ngôi đình, còn gọi là đình Thái Hưng ở góc Yersin - Phạm Ngũ Lão. Cả hai xóm trải dài đến đường Trần Đình Xu (tên cũ là đường Cầu Kho). Khu Cầu Kho chính là làng Tân Triêm, nơi đặt kho Cẩm Thảo - kho lương thực của triều đình. Làng này cũng là quê ngoại của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Quanh Cầu Kho có chợ chuyên bán gạo là Cầu Gạo. Gần chợ này lại có một xóm của người Khmer chuyên dệt chiếu. Thêm nữa, ở khu vực đường Calmette, từng có một dãy nhà lụp xụp của dân nô lệ Lào được triều đình phóng thích. Dân Lào tại đó làm nghề đóng “thùng xách nước bằng lá dừa nước”. 

Xe đi tiếp ra vòng xoay ngã sáu Sài Gòn, dừng ở đầu đường Nguyễn Thị Nghĩa, hướng ra cầu Muối. Ông Cụ bảo cầu Muối và cầu Ông Lãnh là hai chợ cổ buôn bán nông sản từ đó đến giờ. Còn ở đầu đường Nguyễn Trãi, thời ấy có xóm Buồm Đệm. Thuở xưa, từ Sài Gòn qua Chợ Lớn chỉ có hai con đường đất. Con đường khởi đầu từ xóm Buồm Đệm, gọi là đường Trên, dân gọi là đường Nước Nhĩ (vì có mạch nước ngầm rỉ nước ra), hay là đường Cây Mai vì chạy thẳng đến chùa Cây Mai - Phú Lâm. Còn đường Dưới chạy dọc rạch Bến Nghé, giờ là đường Võ Văn Kiệt. Ông Cụ bảo theo đường Dưới vào chơi Chợ Lớn sẽ gặp dấu tích nhiều xóm làng - trên bến dưới thuyền nhộn nhịp. 

Thì đây, lần lượt là làng Tân Kiểng (còn gọi là xóm Lò Rèn Thợ Vắp), làng Nhơn Giang, làng Bình Yên, làng Phú Hội, rồi xóm Bột và xóm Cối Xay…  Các xóm làng này nằm quanh nhà thương Chợ Quán hiện tại. Trong đó, làng Nhơn Giang từng có nhiều thợ đúc sinh sống. Đi nữa sẽ thấy xóm Lá, xóm Cốm, xóm Câu, xóm Dầu (làng An Bình), xóm Lò Gốm và  xóm Lò Vôi… Theo Ông Cụ, Chợ Lớn nguyên thủy là vùng đất từ nhà thương Chợ Rẫy kéo thẳng sang bờ rạch Bến Nghé. Con đường Châu Văn Liêm hiện tại nguyên là con rạch thông với rạch Bến Nghé. Thời nhà Nguyễn, hai bên rạch đều có dãy phố lớn gọi là Tàu Khậu, làm kho hàng và cửa hàng của dân buôn từ Trung Quốc đến bằng tàu. Trên con rạch, có ba cây cầu là cầu Đường (bán nhiều loại đường), cầu Khâm Sai và cầu Phố. 

Đồn Cây Mai trên nền chùa Cây Mai, khoảng 1866. Ảnh của Emille Gsell


Ông Cụ nói đi về hướng Chợ Vải Đèn Năm Ngọn (Soái Kình Lâm bây giờ), sẽ gặp xóm Thợ Rèn và Thợ Kéo Dây Sắt, gọi là Quân Mậu Tài. Từ đây, chúng tôi quay về quận 1 bằng đường Trên, tức đường Nguyễn Trãi. Khi xe qua giao lộ Cống Quỳnh, Ông Cụ kể vùng này khi xưa là chợ Điều Khiển. Các doanh trại từ đường Nguyễn Trãi ra đến Nguyễn Văn Cừ, vào thế kỷ XVII từng là nơi đồn trú của quân chúa Nguyễn, dưới quyền vị tướng có tước hàm là Điều Khiển. Sát chợ Điều Khiển có chợ Cây Da Thằng Mọi, nơi có một cây đa to, chuyên bán cau, bán “thuốc xiêm” và đặc biệt là đèn dầu mang hình “Thằng mọi”. 

Trở lại ngã sáu Sài Gòn, Ông Cụ chỉ về hướng vườn Tao Đàn, cho biết thời nhà Nguyễn có  xóm Lụa trong đấy. Gần đó là xóm Chợ Đũi (bán lụa), xóm Buồm Đệm (làm chiếu) và xóm Lá Buông. Đi thêm một đoạn sẽ gặp xóm Thuẩn và xóm Củ Cải ở gần bệnh viện Từ Dũ ngày nay. Xe đi tiếp đường Lý Tự Trọng, ngang Tòa án và Thư viện Tổng hợp (thời Pháp là Khám Lớn), Ông Cụ bảo nơi đây xưa là chợ Da Còm. Gọi thế vì chợ có “một cây đa cổ thụ mà thân thì còng”. Chợ bán trống, lọng, yên cương và mũ ông Nghè, ông Cử. Gần chợ còn có xóm Thầy Bói và xóm Thợ Tiện. Hai nghề này đồng hành với nhau, khá “ngộ”!

Từ đường Lý Tự Trọng ra đường Đồng Khởi, xe đi qua tòa nhà Dinh Thượng thơ (59-61 Lý Tự Trọng), Ông Cụ thoáng trầm ngâm rồi bảo thời trẻ mình từng làm báo tại đây (2). Ông kể từ công viên Chi Lăng đổ xuống khách sạn Continental xa xưa là xóm Hàng Đinh, còn tại trụ sở UBND thành phố có một cống lớn là cống Cầu Dầu. Đường Lê Thánh Tôn ngày trước là rạch Cây Cám, chạy sát đường thành phía Nam của thành Quy, giao với kinh Chợ Vải (là đường Nguyễn Huệ bây giờ). Chợ Vải là chợ to nhất gần cổng thành Càn Nguyên (Đồng Khởi - Lý Tự Trọng) cho nên dân còn gọi là chợ Bến Thành(3). 

Nam giới và phụ nữ Sài Gòn trung lưu những năm 1860, ảnh của Emille Gsell


Dân tình tứ xứ và cởi mở

Chúng tôi dừng chân, ngồi ngắm sông Sài Gòn khi hoàng hôn xuống. Nhìn qua bán đảo Thủ Thiêm mênh mông, Ông Cụ bảo bên ấy thời nhà Nguyễn có xóm Tàu Ô (thuyền sơn đen), là xóm của người Hoa được quan ta thu phục, cho làm lính chuyên tuần tra sông biển và sửa thuyền. Sở chỉ huy của họ là Tuần hải Đô Dinh. Như vậy, cách đây hơn 200 năm, Sài Gòn là nơi hội tụ người tứ xứ, từ người đi khai phá đất đai đến dân thương hồ và giang hồ hảo hán! Ông Cụ bỗng cao hứng đọc mấy đoạn thơ Nôm vần điệu rất hùng tráng:  

Phủ Gia Định! Phủ Gia Định! Nhà đủ người no chốn chốn
Xứ Sài Gòn! Xứ Sài Gòn! Ăn ở vui thú nơi nơi 

Hóa ra đó là đoạn mở đầu bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh mà Ông Cụ sưu tầm và chú giải. Ông đưa chúng tôi xem bài thơ dài, in trên giấy khoảng một trang. Mọi người đọc thấy áng văn khuyết danh này giống như một phim phóng sự đầy hình ảnh và âm thanh, miêu tả toàn cảnh Sài Gòn trước khi Pháp vào. Thời ấy, Sài Gòn đã là phố thị phồn hoa, không chỉ là nơi giao thương Trung-Nam-Bắc mà còn là nơi giao lưu với nhiều nước xa gần.

Ông Cụ nói, thú vị lắm, ghe đò qua lại trên sông nước thường xuyên có lời ca tiếng hát đối đáp. Trai gái ra đường ai nấy thong dong, bài thơ ghi là “gái nha nhuốc tay vòng tay niểng, trai xênh xang chơn hớn chơn hài”. Thành phố có nhiều đền chùa, miếu mạo, đời sống tâm linh hướng tới việc thiện và điều lành. Ông Cụ nhận xét thời ấy “trọng trung ngải” (trung nghĩa), “không quên chữ ngọn rau tấc đất” (không quên nguồn gốc dân tộc). Ông Cụ còn sưu tầm được hai áng văn dân gian khác là Gia Định thất thủ vịnh và Kim Gia Định phong cảnh vịnh. Cả hai tác phẩm đều cho thấy nỗi tiếc thương Sài Gòn xưa. Song không vì thế, người đời nay quên đi những cảnh sống và phương tiện mới của một Sài Gòn tân tiến. 

***

Xe chở đoàn về lại địa điểm xuất phát. Khi chia tay, Ông Cụ ôn tồn dặn dò: Dầu cuộc đổi đời - cồn có hóa nên vực - vực có hóa nên cồn đi nữa thì cũng còn tích xưa mà nhắc lại. Và Ông Cụ nhắn nhủ: “Thời tôi nhiều người đã tâm niệm làm sao giữ Sài Gòn sạch đẹp để trở thành một trong những đô thị đẹp nhất miền Viễn Đông đó!” (4)

Petrus Trương Vĩnh Ký 1883 (ảnh tư liệu)


Một bạn trẻ thay mặt đoàn cảm ơn Ông Cụ và thưa rằng chúng cháu cũng mong Đàn Xã Tắc và các cổng thành, cùng nhiều vị trí khác mà Ông Cụ đã chỉ dẫn, nay mai sẽ được gắn bảng lưu niệm. Để qua đó, người Sài Gòn, và cả du khách, biết rõ thêm lịch sử địa linh nhơn kiệt của Gia Định. Ông Cụ mỉm cười và bỗng tan biến vào bầu trời cao xanh…

Chao ôi, tôi nhận ra rồi. Người “tour guide” đặc biệt ấy chính là cụ Petrus Trương Vĩnh Ký!

Cụ là người đầu tiên góp nhặt nhiều tư liệu, viết nhiều sách báo về lịch sử Sài Gòn và Việt Nam. Ngay chỗ chúng tôi gặp và chia tay cụ, từ năm 1937 là nơi đặt tượng Petrus Ký, do người dân Nam kỳ góp tiền xây dựng. Sau tháng 5.1975, tượng bị dời đi, hiện đang lưu tại sân sau Bảo tàng Mỹ thuật. 
Giờ đây, hình dung Sài Gòn cổ xưa như thế nào, không thể không rưng rưng nhớ đến Ông Cụ. Có người mách nhà Ông Cụ còn đó, có cái cổng kiểu dáng Văn miếu ở số 520 Trần Hưng Đạo, góc Trần Bình Trọng. Thử đến đó thăm Ông Cụ nhé! 

Phúc Tiến

Bài viết đã đăng trên Giai phẩm Người Đô Thị Tết 2021

___________

Chú thích:

Bài viết sử dụng tài liệu về Sài Gòn của Petrus Trương Vĩnh Ký biên soạn qua bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, bao gồm: Tiểu giáo trình địa lý Nam kỳ - xuất bản 1875, Cổ Gia Định phong cảnh vịnh - 1882, Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận - 1885. Ngoài ra, còn có bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học, bản đồ Sài Gòn 1820 của John White và một số tư liệu khác

(1) Thành Bát quái tồn tại 1790 - 1838, có 8 cổng:
- Phía Đông là Hoài Lai Môn (Thảo Cầm Viên trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm) và Phục Viễn Môn (góc Tôn Đức Thắng - Nguyễn Hữu Cảnh, đối diện xưởng  Ba Son)
- Phía Tây là Tuyên Hóa Môn (ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Thị Minh Khai) và Tĩnh Biên Môn (Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Du)
- Phía Nam là Càn Nguyên Môn (Lý Tự Trọng - Đồng Khởi) và Lý Minh Môn  (Lý Tự Trọng - Thái Văn Lung)
- Phía Bắc là Vọng Khuyết Môn (Nguyễn Đình Chiểu - Phạm Ngọc Thạch), Cọng Thìn Môn (Nguyễn Đình Chiểu - Mạc Đĩnh Chi)
(2) 
Gia Định Báo ra đời năm 1865, đặt trụ sở tại Dinh Thượng thơ
(3) Chợ Bến Thành nguyên thủy ở vị trí Kho Bạc. Sau năm 1914, chợ được dời ra vị trí hiện tại, dân còn gọi là chợ Mới để phân biệt với chợ xưa, được gọi chợ Cũ
(4) Trích dẫn câu của Petrus Ký viết trong lời tựa giới thiệu bài 
Cổ Gia Định phong cảnh vịnh và bài Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận

Khoe "nghị lực vượt nghịch cảnh", khoe "tủ lạnh đầy ắp ăn làm sao hết?" hoặc khoe "sự thanh thản ngắm chồi non mới nhú ở bancông" nhưng khoe khoang giữa lúc đại dịch là không nên giữa "bể khổ" của những người đang mất mát ngoài kia.

20210804 2

Khoe thường và khoe khéo

Jonathan Berman giảng dạy tại Trường Thương mại London, chuyên nghiên cứu về hành vi của khách hàng, về lý do họ ra quyết định abc trước một nhãn hàng... Ông là tác giả của khái niệm "braggart’s dilemma", tức "thế khó xử của người khoe khoang".

Lấy thí dụ: vừa làm được một cái bánh vô cùng đẹp, bạn có muốn "cõi mạng" biết về việc này không? Bạn tự nhủ: "Muốn chứ! Nhưng mình không muốn họ nghĩ mình khoe khoang!". Chụp ảnh đưa lên, có nguy cơ bạn bị cho là khoe.

Nhưng không đưa lên thì thật bất công, ai mà biết bạn mới làm được một việc mà chính bạn cũng phải khâm phục bạn?

Theo Berman, cân bằng được hai đòi hỏi mâu thuẫn ấy là cả một nghệ thuật, bởi động lực căn bản trong hành vi của con người là muốn được ưa nhìn trong mắt kẻ khác, nhưng quá lên một tí thì lại thành kẻ khó ưa.

Berman thấy ngày nay "nhờ" mạng xã hội mà ta được gặp cảnh khoe khoang nhiều hơn. Cũng con người bình thường ngồi đối diện đây, không nói gì nhiều về bản thân, về sở thích; nhưng trên tài khoản mạng xã hội của họ lại đầy những thứ khoe: nào nhà to, nào hoa đẹp, nào con học giỏi, nào chồng galăng...

Thế rồi đến một lúc, bản thân người khoe cũng thấy "chướng" nên vô tình hay hữu ý mà dùng tới cách "khoe khiêm tốn".

Berman lấy ví dụ một ai đó than thở đêm qua bước trên thảm đỏ mà đạp trúng miếng bã kẹo cao su. Theo ông, người ta thấy kiểu khoe khiêm tốn này đáng ghét vì có kẻ đã đạt được mức độ thành công mà kẻ khác không có, rồi lại (giả vờ) than thở về việc ấy.

Khoe khiêm tốn hay "khoe khéo", theo định nghĩa là "việc khoe khoang được che đậy bằng một lời than thở hoặc sự khiêm tốn".

Trong một bài viết, Jamie Ducharme nói có hai loại rõ rệt. Loại đầu là một lời than, chiếm đến 60% của thể loại khoe khiêm tốn ("Mình ghét mình trông cứ trẻ mãi, đến nỗi thằng 19 tuổi còn xông vào tán!"). Loại thứ hai là một vẻ khiêm tốn ("Không hiểu sao mình kém cỏi mà cứ bị giao làm những tác vụ quan trọng nhất?").

Các nhà nghiên cứu bèn tiến hành các thí nghiệm xem người ta sẽ phản ứng ra sao với người "khoe khéo", có thấy họ đáng yêu và giỏi giang hơn không. Kết quả: khoe theo lối "truyền thống" ăn điểm về cả hai khía cạnh ấy, ít nhất là do nó "thật".

Ovul Sezer, một thành viên của đội nghiên cứu khuyên rằng nếu muốn khoe một điều gì đó thì ta cứ khoe thôi, ít nhất là mình tự khen mình, rồi sau đó còn nhận được phần thưởng của thành thật, còn hơn là dùng đến "khoe khéo" để cuối cùng mất mọi đằng.

Khoe trong đại dịch có gì sai không?

Khi đại dịch COVID-19 mới diễn ra, trên mạng có phong trào thử thách lúc cách ly: số lượng sách đã đọc, các bài thể dục khó đã chinh phục... Iris Casiano là một nhà tư vấn tâm lý, bà nhận thấy đi kèm với phong trào vui vẻ kia là một nhãn dán có phần hằn học: "Khoe khoang lúc cách ly".

Bà cũng nhận thấy một số khách hàng mang tâm lý "có lỗi" và "xấu hổ" khi phát hiện ra những khía cạnh tích cực của cách ly (khi ấy không ai nghĩ đại dịch sẽ đi lâu, đi xa tới tận hôm nay và cứ ngỡ rằng thời gian cách ly ấy chỉ là ngắn ngủi vài tuần).

Họ thấy do cách ly mà thành ra thiết tha hơn với việc kết nối người thân yêu, biết quay lại chăm sóc bản thân như ngủ đúng giờ, tập thể dục chăm chỉ, sắp xếp lại nhà cửa, máy tính... toàn những thứ khiến họ thêm tự tin vào khả năng "dám thay đổi" của chính mình.

Họ không dám thổ lộ điều này với ai, chỉ dám nói với Iris những cảm xúc hân hoan đó. Bà bảo họ rằng rất nên tự hào vì những thay đổi tích cực như vậy, và rằng là con người, chúng ta phải chấp nhận một sự thực: có những thời điểm khó khăn cho tất cả mọi người: có người mất rất nhiều, thậm chí mất hết, nhưng lại có những người biến chính lúc này thành cơ hội để phát hiện ra sự kiên cường đáng kinh ngạc của loài người.

Kiên cường là khả năng đối đầu về cảm xúc và tâm thần trước hoàn cảnh khó khăn. Đứng từ góc độ này, theo Iris, những gì bị gọi là "khoe khoang" nên được coi là "sự phản ánh tính kiên cường và nguồn sống tích cực của cá nhân trước nghịch cảnh".

Điều đó là có lợi, và Hội Tâm lý học Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng: tư tưởng lành mạnh, hy vọng và tích cực là yếu tố chủ chốt để xây dựng nên sự kiên cường và hồi phục tốt.

Iris nói giữa một cuộc hỗn độn mà bản thân vẫn làm được việc này việc kia để tự hào thì cứ nên vui.

Bà cho một thí dụ nhỏ là lục trong tủ lạnh chỉ còn vài thứ vớ vẩn sót lại mà vẫn nấu được nồi xúp ngon thì cứ nên chụp ảnh mà chia sẻ trên Instagram, rồi sẽ có những người đón nhận nó như một biểu tượng của sự kiên cường và uyển chuyển, và đến lượt "quỹ kiên cường" của họ cũng được đánh thức mà bắt chước theo.

Chống chọi sự khoe khoang của kẻ khác

Bất kể lý do gì, khoe khoang giữa lúc đại dịch cũng là không nên, dù là khoe "nghị lực vượt nghịch cảnh", khoe "tủ lạnh đầy ắp ăn làm sao hết?" hoặc khoe "sự thanh thản ngắm chồi non mới nhú ở bancông".

Khi số đông đang mất mát vì đại dịch, người ta không nên chia sẻ những thứ mà họ thấy là "lợi ích từ đại dịch", bởi vì cái "lợi ích" ấy với họ có thể là lớn lao, giúp họ tìm lại được con người đích thực của họ, nhưng nó chỉ là hạt cát chìm lỉm giữa "bể khổ" của những người đang mất mát ngoài kia.

"Hạt cát lợi ích" ấy nếu có thì nên giữ trong lòng, hãy nhìn vượt ra khỏi đó nhận lấy bức tranh toàn cảnh.

Trong một bài viết, bác sĩ tâm lý học Amy Morin cho rằng những hình ảnh đáng ghen tị trên Instagram, Facebook... chỉ khiến người ta thêm tiêu cực. "Chỉ cần quẹt màn hình vài phút là đủ đi từ tệ tới tệ hơn. Không cẩn thận, sự khoe khoang của người khác có thể làm hại đến sức khỏe tâm thần bạn".

Đặc biệt là với những người đang sống trong phong tỏa, cách ly, căng thẳng; việc nhìn vào những bức ảnh "an nhiên" trên mạng của những người khoe mình hạnh phúc hơn, mạnh khỏe hơn, giàu có hơn sẽ làm nảy sinh sự so sánh vô lý mà không cưỡng lại được.

Nghiên cứu đã chỉ ra độ ganh tị với người trên mạng là có liên quan tới độ trầm cảm, và càng trầm cảm người ta lại càng ngồi một chỗ, thụ động lướt mạng, tạo thành một cái vòng luẩn quẩn tiêu cực khó phá bỏ.

Phải làm sao? Theo Amy Morin, bạn không thể khiến người khác bớt khoe họ giàu có và bình an ra sao giữa đại dịch, bạn cũng không thể nói họ là đừng có "khoe khéo", "khoe khiêm tốn" nữa, nghe ghét lắm, nhưng bạn có thể tự bảo vệ mình khỏi sự tấn công cùng lúc của cả đại dịch lẫn sự khoe khoang của kẻ khác, nhất là khi sự khoe ấy nhắm tới... bạn.

Theo Morin, bạn chỉ cần:

- Ít vào mạng xã hội lại. Tốt nhất là không theo dõi những ai làm mình nghĩ tiêu cực, xấu xí đi. Chỉ đọc những gì làm mình vui, mình tốt lên. Nhưng nói chung hãy bớt đi thời gian cho mạng xã hội.

- Không so sánh vớ vẩn nữa. Đừng mất năng lượng chỉ để so sánh giữa đời thực của mình với cảnh đời hư ảo mà kẻ khác muốn mình nghĩ là của họ. Nhớ rằng rất nhiều thứ bạn thấy trên mạng xã hội không hề phản ánh chính xác cuộc sống của người khác.

Và cho dù có chính xác đi chăng nữa, tức người ta giàu hơn, bình an hơn bạn giữa đại dịch thì cũng là... việc của người ta. Nếu đã quyết so thì hãy so luôn với những cảnh đời còn khổ hơn bạn.

- Hãy tự yêu mình. Ganh tị là khi ta tự xỉ vả mình vì đã không được như kẻ khác. Giờ là lúc hãy tập thương lấy mình, coi mình là bạn thân mình, cùng nhau lèo lái "có ít dùng ít có nhiều dùng nhiều" qua khó khăn.

Lời khuyên cho kẻ hay khoe

Theo chuyên gia Sezer, nếu không kiềm chế được sự khoe thì xử sự tốt nhất lúc này là chớ có tự khoe, hãy dùng người khác khoe hộ mình. Một người khác khen bạn làm bánh đẹp, một người khác khen nhà bạn sao mà đẹp..., khi đó bạn sẽ thoát khỏi việc bị coi là kẻ khoe khoang.

Nhưng rốt cuộc, nếu phải vất vả thế thì để làm gì? Để làm khổ người khác à? Để trêu tức ai đó à? Hay để như nhà văn Richelle E. Goodrich từng nói: "Một tràng khoe khoang chẳng thu hút được người bạn thật sự nào. Nó chỉ đặt ta lên một bục kê, khiến ta trở thành một mục tiêu dễ nhắm hơn"?

 

Một động cơ khác của khoe khoang

ttct1

Trái với Iris, trong một bài viết trên trang Magdalen, Sebastian Partogi thành thật nhìn nhận bản thân mình có hơi khoe khoang, không phải về vật chất mà về thành tựu trong nghề nghiệp. Lý do: đó chính là thứ khiến anh bất an nhất.

Partogi nhận thấy trong đại dịch, khi cảm giác mình tệ hại hơn vì mất kết nối người thực với người thực, anh lại muốn khoe về kỹ năng viết và dịch của mình hơn bao giờ hết.

Thế rồi đột nhiên anh thấy hình như người đọc đang mất cảm tình vì sự khoe này quá đà. Anh dừng lại, nhận ra bên dưới ham muốn khoe khoang tài giỏi là một cảm thức khốn khổ về cô độc, vô tích sự.

Dịch COVID-19 càng khốc liệt, tài chính cá nhân càng kiệt quệ, công việc càng bất ổn, cảm thức ấy càng tăng khiến anh càng muốn nói to với mọi người rằng tôi còn sống, tôi đọc nhiều sách lắm, tôi không sao, tôi vẫn là người được việc, và hơn tất cả, tôi vẫn đáng yêu.

Partogi nhìn quanh, bạn bè anh cũng nhiều người như thế. Họ khoe nhiều thứ khác nhau nhưng đều là để che đậy cảm giác đang gặp khó, đang thiếu thốn. Partogi kết luận: khoe khoang trên mạng xã hội thực chất là một tiếng kêu cứu của những người đang tuyệt vọng vì buồn chán.

Phạm Phong (tổng hợp và dịch)

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 31.7.2021.

Học giả Đào Duy Anh sinh ngày 25-4-1904 tại Thanh Hóa và mất ngày 1.4.1988 tại Hà Nội. Quê gốc của ông ở làng Khúc Thủy, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là TP Hà Nội). Sau khi tốt nghiệp Thành chung tại Trường Quốc học Huế (1923), ông không ta làm công chức mà chọn nghề dạy học ở Đồng Hới (Quảng Bình).

20210407 2

Đào Duy Anh (1904-1988).

Năm 1928, ông sáng lập Quan hải tùng thư, với sự cộng tác của những trí thức cấp tiến như Võ Liêm Sơn, Trần Đình Nam, Phan Đăng Lưu… xuất bản những tập sách phổ cập để người đọc làm quen với tư tưởng khoa học. Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi, nhà xuất bản này đã cho ra đời 13 ấn phẩm, trong đó có những trước tác đầu tay của Đào Duy Anh. Tháng 7.1929, ông bị chính quyền thực dân bắt, cho đến đầu năm 1930 mới ra khỏi nhà tù.

Từ đó, ông bắt đầu chuyên tâm vào con đường hoạt động văn hóa và khoa học. Ông đã hoàn thành và xuất bản hai bộ từ điển rất có giá trị là  Hán Việt từ điển (1932) và Pháp Việt từ điển (1936). Đây không những là những sách công cụ cần thiết cho sự tra cứu, đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, khoa học lúc bấy giờ, mà còn qua các từ, các khái niệm chính trị, tác giả đưa ra những cách giải thích tiến bộ và khoa học theo quan điểm và trào lưu tư tưởng hiện đại.

Về việc biên soạn bộ Hán Việt từ điển, trong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (NXB Trẻ, 1989) ông cho biết: Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, tiếng Việt đã được phổ biến trên các sách vở báo chí, hoàn toàn thay thế cho chữ Hán. Một nền văn học mới đang hình thành, thoát dần sự ràng buộc của lối văn từ chương kéo dài cho đến đầu thế kỷ. Nhưng lúc đó, ở các trường bảo hộ, học sinh phải học chữ Pháp là chính, chữ quốc ngữ bị coi là thứ yếu. Do đó, lớp thanh niên được đào tạo ở những trường này hầu hết đều bị cắt rời khỏi nền Hán học. Bên cạnh đó, không ít người được học từ Pháp về đa số đều trở thành “mất gốc”.

Trong các lĩnh vực khoa học xã hội, nhiều người chỉ biết diễn đạt những khái niệm mới bằng tiếng Pháp chứ không sử dụng được tiếng mẹ đẻ. Nếu như những năm trước Thế chiến thứ nhất, các sĩ phu yêu nước trong khi truyền bá những tư tưởng mới cho quốc dân, thường phải lấy nguyên các từ chính trị của Trung Quốc để phiên âm Hán Việt, bất kể từ đó có trong Tiếng Việt hay chưa, thì lúc đó họ phải nói chuyện với nhau bằng Tiếng Pháp. Tình trạng đó đã hạn chế một phần việc phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc. Ý định biên soạn sách Hán Việt từ điển của ông nảy sinh từ đó.

Vợ chồng ông Đào Duy Anh và các học trò.

Trong cuốn hồi ký Sống với tình thương (NXB Trẻ, 1992), bà Trần Thị Như Mân (1907-1992); phu nhân của ông đã kể lại sự ra đời của bộ từ điển này khá chi tiết. Bà cho biết thời điểm biên soạn từ điển thì gia đình bà đang ở Huế. Trong việc biên soạn, bà được ông giao cho công việc sắp xếp lại những tài liệu đã có, trong đó có bộ phích ghi chú các danh từ khó mà ông đã làm từ trước. Bà còn có nhiệm vụ đọc Nam Phong toàn tập, các sách và tạp chí bằng quốc văn quan trọng, để lọc ra những từ Hán Việt thường dùng, trong đó bao gồm cả các tác phẩm văn học cổ điển như Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc…

Trong khi đó, ông Đào Duy Anh gửi thư cho bạn bè và các nhà sách quen ở Hà Nội, Sài Gòn nhờ tìm mua các loại từ điển cũ mới để tham khảo. Nhờ đó, ông nhận được các bộ từ điển Từ nguyên, Từ hải, Khang Hy từ điển, Trung Quốc quốc ngữ đại từ điển, Vương Văn Ngữ từ điển, Bạch thoại từ điển…

Các từ Hán Việt được bà trích ra, ghi ra phích, sau đó xếp theo thứ tự ABC, rồi đưa cho ông xem. Sau khi ông bổ sung, bà mới chép ra giấy, mỗi từ cách nhau vài dòng để ông ghi giải nghĩa. Theo bà Như Mân, chữ của ông viết rất khó đọc, chỉ có mình bà đọc được. Khi bà sinh con, bận việc nhà, phải thuê người chép giúp, người này phải chừa nhiều chỗ trống vì không đọc ra, phải chờ bà điền sau. Ban ngày, bà bận buôn bán ở cửa hàng, đến 9 giờ tối đóng cửa mới bắt tay vào công việc ghi chép đến 11 giờ, ngày nào cũng đều đặn như vậy. Chỉ có tối thứ bảy và chủ nhật, bà mới nghỉ ngơi để đi thăm bạn bè và giải trí.

Ông Đào Duy Anh cũng vậy, ngoài thời gian đi dạy ở trường tư thục Phú Xuân, về đến nhà là bắt tay vào làm việc ngay. Ông tự đặt “chỉ tiêu” mỗi ngày phải làm xong mấy chữ mới được nghỉ. Cứ xong được một tập, bà phải chép lại rồi nhờ mấy người em của ông, khi thì ông Đào Duy Kỳ, khi thì ông Đào Duy Dếnh, đạp xe đưa lên nhà cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự để cụ xem lại.

Hán Việt từ điển.

Sau khi xong quyển Thượng (Từ A đến M), bà Như Mân lo việc in để ông tiếp tục làm phần Hạ (từ N đến X). Lúc đó ông bà không có vốn, muốn in phải có tiền mua giấy và đặt trước cho nhà in. Do đó, ông viết lời giới thiệu quyển từ điển sắp ra để kêu gọi người đọc hãy đặt mua trước, mỗi quyển là 1 đồng. Lời giới thiệu được gửi đăng báo và in thành nhiều tờ gửi tới các nhà xuất bản, các hiệu sách và bạn bè để nhờ giúp đỡ. Đồng thời ông nhờ cụ Phan Bội Châu viết lời đề tựa, ký tên là Hãn Mạn Tử, trong đó có đoạn:

“Đau đớn thay! Quốc văn nước ta không thể nào bỏ được Hán văn, mà cớ sao các nhà trước tác chưa ai lưu tâm đến những bộ từ điển, từ nguyên, làm thành ra Hán việt hợp bích, để khiến người ta nhân Quốc văn mà hiểu thêm Hán văn, hiểu Hán văn mà thêm hay Quốc văn?

May mắn thay! Gần đây gặp được người bạn thanh niên là ông Đào Duy Anh vừa biên thành bộ Hán Việt từ điển, toan cống hiến với đồng bào, bỉ nhân được tin mừng khuống gấp, tìm tuyền cảo đọc xem, thấy chú thích tinh tường, phẫu giải minh bạch, tóm lặt hết từ ngữ thuộc về Hán văn, mà Việt văn phải dùng đến, cộng hơn bốn vạn điều.

… Rày mai quyển sách ấy xuất bản lưu hành, chắc ở trên vũ đài quốc văn lại thêm vô số dác sắc mới, há chẳng phải một việc rất đáng mừng cho học giới ta hay sao…?”.

Một trang trong Hán Việt từ điển (1932).

Cũng theo bà Như Mân, trong khi chờ số tiền người đặt mua gửi về, bà viết thư cho bác sĩ Trần Đình Nam; người từng cộng tác với ông Đào Duy Anh tại Quan Hải tùng thư, giúp ông biên soạn một số cuốn sách về khoa học, khi đó ở Đà Lạt để hỏi vay 100 đồng. Bà còn vay của người chị là bà Nguyễn Khoa Tú một đôi xuyến vàng, đem cầm để lấy tiền ứng trước. Với số tiền đó, bà có thể đặt cho nhà in báo Tiếng Dân ở Huế để in quyển Thượng.

Xong quyển Thượng, ông bà thu được một số tiền, có thể lo in quyển Hạ tử tế hơn. Ông chuyển bản thảo sang in tại nhà in Lê Văn Tân ở Hà Nội, vì nhà in này có nhiều chữ Hán, kỹ thuật in cũng đẹp hơn. Bản thảo gửi đi, nhà in sắp chữ in thử, rồi gửi từ Hà Nội vào Huế theo tàu tốc hành cho ông sửa chữa.

Hán Việt từ điển và những lần xuất bản về sau.

Hàng ngày, cứ tàu tốc hành đến, ông bà cho người lên chờ sẵn ở bưu điện Huế, lấy bản dập thử về, tập trung chỉnh sửa cả ngày đêm để hôm sau kịp giờ gửi qua bưu điện theo tàu tốc hành ra Hà Nội. Cứ như thế, quyển Hạ hoàn thành, tính từ khi bắt tay vào công việc đến khi sách in xong trọn bộ chỉ trong vòng hai hăm. “Chúng tôi đã để hết tâm trí vào công việc mà may mắn là kết quả không phụ với công sức của vợ chồng chúng tôi và sự giúp đỡ của bạn bè”, bà Như Mân viết.

Khi bắt đầu biên soạn từ điển, tác giả chỉ mới 26 tuổi, tuy nhiên có thể nói rằng đây là bộ sách đầu tiên về từ điển ở thể loại này, nó rất hữu ích và giá trị mà cho đến nay vẫn được giới nghiên cứu đánh giá cao. Ngoài việc biên soạn hai bộ từ điển Hán -Việt và Pháp -Việt, Đào Duy Anh còn xuất bản nhiều tác phẩm khác trong lĩnh vực văn hóa, văn học như Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Khổng giáo phê bình tiểu luật (1938), Trung Hoa sử cương (1942), Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943)…; những công trình này đã đặt nền tảng cho sự hình thành nền văn hóa học hiện đại Việt Nam trên tinh thần khoa học và dân tộc.

Hồi ký của Đào Duy Anh (trái) và Hồi ký của bà Như Mân - phu nhân của học giả Đào Duy Anh.

Châu Quân

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 24.3.2021.

Đây là câu chuyện về một trong các vật phẩm văn hóa quan trọng nhất của lịch sử loài người: sách. Câu chuyện kể về sự tiến hóa của chúng trong sự song hành với tiến hóa của lịch sử nhân loại. Trong sự tương tác đó, không chỉ có việc con người tạo ra các loại thư tịch mà bản thân sự tiến hóa của sách cũng tham gia thúc đẩy những đổi thay của xã hội loài người.

20210715 2

Thư viện Alexandria, một trong những thư viện nổi tiếng nhất thời cổ đại, một phần của một viện nghiên cứu ở Alexandria, Ai Cập. Nguồn: britannica.com

Bản thân mỗi cuốn sách là một vật phẩm văn hóa và sự tiến hóa của chúng là lịch sử thu nhỏ của sự giao lưu giữa các nền văn minh. Đi theo mỗi cuốn sách không chỉ là một phả hệ tri thức nó truyền tải, mà còn là lịch sử kỹ thuật, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng của một thời đại.

Người kể câu chuyện này là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử của sách: James Raven (Giáo sư danh dự tại Đại học Essex). Công trình ngắn nhưng quan trọng này là một nỗ lực của ông nhằm đưa ra góc nhìn mới, mang tính gợi mở về lịch sử của sách từ khung cảnh toàn cầu, trong phổ thời gian kéo dài từ 14.000 năm trở lại đây, thời điểm mà tác giả tin rằng đã xuất hiện những hệ thống ký tự đầu tiên.

Tính chất toàn cầu của sách được phản ánh trong những đại tự sự của lịch sử thế giới hiện đại, nơi sách sẽ vượt qua các khuôn khổ bản địa, tham dự vào các làn sóng quốc tế: hiện đại hóa, đế chế thực dân, chủ nghĩa quốc gia, dân tộc, số hóa… “Sách không biên giới”, như chúng ta sẽ thấy, sẽ mở rộng các mạng lưới tri thức, học thuật, nghệ thuật, khoa học, tham gia vào việc tạo ra các làn sóng thực hành thư tịch toàn cầu.

Chính vì sự tham dự của sách vào những bước chuyển lớn lao của văn minh nhân loại nên đây là thời điểm thích hợp để nhìn lại lịch sử thư tịch, thời điểm mà câu hỏi về tầm ảnh hưởng và tiến hóa hình thức của sách đang đặt ra cấp thiết hơn lúc nào. Những chủ đề này không chỉ phản ánh các diễn ngôn lịch sử xã hội, tìm về nguồn gốc tri thức và sự tiến triển của chúng mà còn soi rọi mối quan hệ giữa tri thức với các dạng thức lưu trữ và truyền bá. Công nghệ số đang thách thức định nghĩa truyền thống (và thực hành truyền thống) về sách. Nhân văn số thức (digital humanities) đang tạo ra một cuộc cách mạng thông tin giống như cách thức mà sự bùng nổ in ấn đã tạo ra thời Khai sáng. Theo sau đó là những thay đổi trong hoạt động sáng tạo tri thức, hoạt động lưu hành và tác động của những ý tưởng lịch sử xã hội đó trên phạm vi toàn cầu.

Sách, với tư cách là một thực hành của loài người, có sức mạnh ảnh hưởng tới sự tiến hóa của các xã hội. Chúng không chỉ phản ánh thay đổi của kênh biểu đạt tri thức mà còn là sự thay đổi trong thế giới quan, góc nhìn chính trị, sự thúc đẩy tinh thần, tôn giáo, ý thức hệ…

Khác với các giống loài tự nhiên khác, xã hội người được dẫn dắt bởi các đại tự sự. Sách là công cụ chủ đạo để khuếch đại các diễn ngôn đó, dù là Kinh Qu’ran hay cuốn sách Mao Tuyển. Mỗi xã hội và mỗi giai đoạn phát triển được định hình bởi khung cảnh thư tịch nhất định, từ Tứ Thư, Ngũ Kinh ở Trung Quốc thời Cổ Trung đại cho tới Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản thời Hiện đại. Cuộc cách mạng in ấn ở châu Âu thế kỷ XV là ví dụ sống động về cách thức tương tác của văn hóa đọc, thư tịch với bước tiến văn minh. Việc sản xuất hàng loạt, giá rẻ và khả năng truyền bá rộng rãi của sách in tạo ra các mạng lưới tri thức mới (xét về tầm mức ảnh hưởng, có thể coi đó là phát minh “facebook” của thế kỷ XV). Thậm chí năm 1545, học giả Thụy Sĩ Conrad Gesner đã cảnh báo về “sự phong phú đến mức hỗn loạn và có hại của sách vở”. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng thư tịch (góp phần) tạo ra một loạt thực hành mới của loài người về thư viện, lưu trữ, biên mục, thương mại sách vở, bùng nổ tri thức, văn hóa Phục Hưng, thế kỷ Ánh sáng, bách khoa toàn thư, chiến tranh tôn giáo, sách cấm, máy chém và những giàn hỏa thiêu. Gottfried Wilhelm Leibniz (1646 – 1716), một thủ thư và là học giả đã mô tả về một “khối lượng sách khủng khiếp” ở giai đoạn này. Hệ quả của sự bùng nổ in ấn là một thuật ngữ mới ở thế kỷ XVIII, “chứng cuồng sách” (bibliomania). Theo sau là một loạt các yêu cầu mới đặt ra đối với người thực hành sách, bao gồm nhu cầu về ngành khoa học quản lí sách như thư mục học, vận hành thư viện…

Điều quan trọng là sách không chỉ tạo ra những người cuồng tín thư tịch. Nó đã góp phần tạo ra châu Âu hiện đại. Từ tri thức, ngôn ngữ, tôn giáo, giáo dục, báo chí đó đã ra đời nước Pháp, nước Anh, nước Đức hiện đại. Sự thắng thế của phương Tây ở thế kỷ XIX - XX sẽ xác lập một nền văn hóa đọc mới trên toàn thế giới. Đi cùng với đó là quá trình “hiện đại hóa”, “chuẩn hóa” của thực hành sách được thúc đẩy qua vai trò của thư viện, câu lạc bộ sách, hội sách, chương trình đăng ký đọc, các hội nhóm tranh biện, các cộng đồng tôn giáo, các trường đại học, các trung tâm bổ túc văn hóa cho người lao động, chủ nghĩa thực dân, giáo dục đại chúng và các lớp bình dân học vụ… Sách dần có một bộ mặt toàn cầu.



Nhà toán học, nhà thơ Eratosthenes (c. 276-194 B.C.) – trái, từng được vua Ptolemaios III Euergetes bổ nhiệm làm thủ thư tại Thư viện Alexandria vào năm 236 TCN. Nguồn: Wikipedia.

Lịch sử của sách thời hiện đại sẽ trở nên phức tạp gắn liền với sự tương tác và ảnh hưởng sâu rộng của chúng tới nhiều lĩnh vực. Từ cuối thế kỷ XVIII, văn hóa in ấn không chỉ có sách. Báo, tạp chí, quảng cáo… thậm chí còn bùng nổ hơn cả sách in. Văn hóa in ấn với tất cả các sản phẩm của nó, vì thế được coi là khung cảnh rộng nhất của việc trình bày văn bản, thông tin, bản đồ, biểu đồ, tin tức, quảng cáo, tuyên truyền. Thậm chí có thể coi đó là một lịch sử xã hội và văn hóa truyền thông bằng phương thức in ấn. Chính vì thế tác động của in ấn nằm trong các diễn ngôn lịch sử lớn của thời đại. In ấn in dấu lên nhiều lĩnh vực, tạo ra sự khuếch đại đối với các thực hành ở quy mô chưa từng có trong lịch sử. Không phải ngẫu nhiên đi sau cơn bão in ấn ở châu Âu là cách mạng tư sản, chủ nghĩa dân tộc. Không phải ngẫu nhiên theo sau tân văn, tân thư cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là các cuộc chuyển dịch xã hội và cách mạng chính trị sâu rộng ở thế giới Đông Á. Hai trong số các ví dụ quan trọng nhất về sách và nền văn hóa in ấn này có thể kể đến sự ra đời của chủ nghĩa dân tộc và xác lập không gian công cộng hiện đại.

Đó là thời đại mà xã hội được dẫn dắt bởi những bản in như Sự thịnh vượng của các quốc gia, Nguồn gốc các loài, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản… Chúng không chỉ tạo ra “các diễn ngôn về văn minh, đức tin, trí tuệ, khoa học và tiến bộ” của thời đại mà còn tham gia dẫn dắt sự vận hành của xã hội loài người, cách mạng khoa học, kỹ thuật, ý thức hệ, cách mạng văn hóa, tư tưởng, chính trị, xã hội… Từ ý nghĩa này, sách đã góp phần định hình các xã hội và thúc đẩy hay níu giữ sự tiến hóa của chúng. Thư tịch ở Trung Hoa là một ví dụ. Kể cả ở giai đoạn Sơ kỳ Cận đại, số lượng sách phong phú không hề thua kém châu Âu. Lời mở đầu của một bộ sách thời Minh năm 1599 viết: “sách vở bây giờ nhiều vô cùng như biển nước, người ta làm sao mà đọc hết được?” Thư tịch và hoạt động sử dụng thư tịch là một trong các yếu tố góp phần định vị vai trò của tầng lớp “Sĩ”, những người dẫn dắt xã hội. Bên cạnh đó cũng đừng quên những người thợ mộc khắc bản in, các xưởng in, thợ sản xuất mực, giấy, thương nhân buôn bán sách, tiệm sách và quán trà nơi sách được bàn luận.

Ở một góc độ khác, sách mê tín, phù thủy, chiến tranh tôn giáo, tin giả… cũng tham gia định hình xã hội loài người. Đó là những cuốn sách gây hỗn loạn. Nhưng quyền năng của sách chưa dừng lại ở đó. Nó không chỉ tạo ra và lan truyền một thế giới tri thức, xác lập hay hủy hoại trật tự xã hội, đôi khi sách còn là một vật phẩm linh thiêng. Hành động hôn lên cuốn Kinh Thánh ở châu Âu được cho là mang đến một nguồn sức mạnh quyền năng hay sự bảo trợ như một thứ bùa hộ mệnh. Vì thế, các chiến binh Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo đã mang theo các cuốn kinh sách khi ra trận. Điều này cũng làm liên tưởng tới các “chiến binh” Nho giáo: tầng lớp “Sĩ”, với sự thiêng liêng của sách vở Thánh hiền mà họ thực hành. Trong sự thực hành đó, thư tịch rõ ràng là một động lực thay đổi lịch sử. Đồng thời, ở chiều hướng ngược lại, mỗi xã hội đều sở hữu một lịch sử phức tạp của quá trình kiểm soát: bản quyền, kiểm duyệt và lưu hành cho tới tác phẩm không chính thống (samizdat literature). Đó là lịch sử xung đột và bạo lực nhìn từ thư tịch.

Chính nhu cầu quản lý sách sẽ tạo ra một loạt các thiết chế và lĩnh vực khoa học mới. Chúng ta đã nói về sự ra đời của các ngành thư mục học ở châu Âu thời Sơ kỳ Cận đại. Các thư viện công được chuẩn hóa sẽ được thành lập trên khắp nước Anh và nước Đức ở thế kỷ XIX. Đó là cơ sở để thế kỷ sau đó, người Thái sẽ cải tổ các thư viện hoàng gia “truyền thống” thành một thư viện quốc gia “hiện đại” thành lập năm 1905; trong khi Việt Nam có Thư viện Trung ương Đông Dương (Bibliothèque centrale de l’Indochine) ra đời năm 1917 với vai trò tổ chức của người Pháp. Một lịch sử so sánh toàn cầu về hệ thống thư viện chắc chắn sẽ làm gia tăng hiểu biết của chúng ta về lịch sử tri thức, chuyển giao tri thức và hoạt động sáng tạo tri thức của các xã hội.

Yếu tố quan trọng tiếp theo của thực hành sách là mối quan hệ giữa sách và độc giả. Điều này phản ánh hoạt động đọc và sự vận động của nó theo sau sự thay đổi thư tịch. Một trong các cách thức “chẩn đoán” một xã hội là “phẫu thuật” nó từ khía cạnh của hoạt động đọc sách. Ai là người đọc? Họ đọc gì? Đọc để làm gì? Đọc trên phương tiện gì và tác động của việc đọc đó? Trả lời cho những câu này sẽ góp phần định vị trình độ phát triển, bản sắc tri thức của mỗi thời đại. Quá trình tiến hóa của lịch sử đã mang lại cuộc cách mạng thực sự cho văn hóa đọc. Đó là sự gia tăng số lượng độc giả, từ một vài phần trăm thời Cổ Trung đại tới gần như toàn bộ dân số trưởng thành có khả năng đọc sách ở thời Hiện đại. Khi đó, sách, qua hoạt động đọc, sẽ đóng vai trò trực tiếp trong những chuyển giao của thời đại.

Codex Cospi, một thủ bản dạng hình vẽ của nền văn minh Trung Mỹ thời tiền Cô-lôm-bô, được cho là có nguồn gốc từ vùng Puebla-Tlaxcala (Mêhicô ngày nay). Nguồn: James Raven, 2021.

Hành vi đọc cũng sẽ được thay đổi với không gian đọc, kỹ thuật đọc, thiết bị đọc, mạng lưới độc giả… Khi lượng sách trở nên phong phú, phát triển nhiều loại hình thì sự phân hóa của độc giả cũng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Khái niệm “thị hiếu đọc” sẽ xuất hiện, thống trị và dẫn dắt việc sản xuất sách – giờ đã trở thành một ngành “công nghiệp” chuyên môn hóa cao độ. Khi Khổng Tử biên soạn Kinh Xuân Thu, có lẽ ông không thể tượng tượng rằng 2.500 năm sau, mọi thứ đã tiến xa đến thế. Sự biến đổi của sách giúp thay đổi niềm tin và hành vi của con người đối với hoạt động đọc. Ngược lại, với kỹ thuật hiện đại, chu trình tuần hoàn của các văn bản trở nên nhanh hơn. Quá trình toàn cầu hóa về sách vở, sách dịch, chuẩn hóa về kỹ thuật, bản quyền và mới nhất là sách điện tử đã tạo ra cuộc cách mạng trong cách thức văn bản được thu nhận, truyền tải, lưu hành, đọc, truy vấn, tìm kiếm và lưu trữ. Và đó mới chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện tương lai về sách vừa mới chỉ bắt đầu.

Cuối cùng, sách tạo ra các làn sóng văn hóa, văn minh: từ truyền miệng sang văn hóa chép tay, văn hóa in ấn và văn hóa số, mặc dù sự xuất hiện của cái sau không nhất thiết đồng nghĩa với sự triệt tiêu của cái trước. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu lịch sử sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phác thảo các mẫu hình tiến hóa của nhân loại. Dù lịch sử sách và sự phát triển của ngành lịch sử của sách là lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ từ những năm 1980, nhưng bản thân hoạt động này đã có từ hàng nghìn năm trước. Thông qua việc mở rộng phạm vi của lịch sử thư tịch từ khung cảnh địa lý, kỹ thuật và lịch đại, Lịch sử của sách gợi mở một góc nhìn mới mẻ, rộng lớn và có tính hệ thống trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử thư tịch trên phạm vi toàn cầu, mở ra những hướng mới cho lĩnh vực nghiên cứu lịch sử xã hội và lịch sử tri thức mà ở đó, sách là một thực hành của loài người.

Sách đã thay đổi lịch sử loài người nhiều hơn chúng ta tưởng, và cuộc hành trình khám phá những thay đổi đó mới chỉ bắt đầu.□

Vũ Đức Liêm

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 02.7.2021.

-----

Tham khảo

Anderson, Benedict R. O’G. Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism. London: Verso, 2006.

———. Những Cộng Đồng Tưởng Tượng: Suy Nghĩ về Nguồn Gốc và Sự Lan Truyền Của Chủ Nghĩa Dân Tộc (Nguyễn Thu Giang, Vũ Đức Liêm, Phạm Văn Thủy, Nguyễn Thanh Tùng Dịch). Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm, 2018.

Baldanza, Kathlene. “Books without Borders: Phạm Thận Duật (1825–1885) and the Culture of Knowledge in Mid-Nineteenth-Century Vietnam.” The Journal of Asian Studies 77, no. 03 (August 29, 2018): 713–40. https://doi.org/10.1017/S0021911818000499.

Carpenter, Kenneth E., ed. Books and Society in History. New York: R.R. Bowker, 1983.

Connery, Christopher L. The Empire of the Text: Writing and Authority in Early Imperial China. Boulder: Rowman & Littlefield Publishers, 1998.

Darnton, Robert. “What Is the History of Books?” Daedalus 111, no. 3 (1982): 65–83.

Habermas, Jürgen. The Structural Transformation of the Public Sphere: An Inquiry Into a Category of Bourgeois Society. Cambridge: Polity Press, 2015.

Harari, Yuval N. Sapiens: A Brief History of Humankind. London: Harvill Secker, 2014.

Howsam, Leslie, and James Raven, eds. Books between Europe and the Americas: Connections and Communities, 1620–1860. London: Palgrave Macmillan UK, 2011.

Lewis, Mark Edward. Writing and Authority in Early China. NY: SUNY Series in Chinese Philosophy and Culture, State University of New York Press, 1999.

McHale, Shawn. Print and Power: Confucianism, Communism, and Buddhism in the Making of Modern Vietnam. Honolulu: University of Hawai’i Press, 2008.

———. “Vietnamese Print Culture under French Colonial Rule: The Emergence of a Public Sphere.” In Books in Numbers, edited by Idema Wilt, 377–415. Hong Kong: Hong Kong University Press, 2007.

Nguyên, Trần Ích. Thư Tịch Trung Quốc và Thơ Văn Đi Sứ Trung Hoa Thời Nguyễn 越南阮朝所藏中國漢籍與使華詩文 (Chinese Books and Envoy Literature of the Nguyen Dynasty). Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm, 2018.

Raven, James. Lost Libraries: The Destruction of Great Book Collections Since Antiquity. London: Palgrave Macmillan, 2004.

———. The Oxford Illustrated History of the Book. Oxford: Oxford University Press, 2020.

Scott, James C. The Art of Not Being Governed : An Anarchist History of Upland Southeast Asia. Yale University Press, 2009.

Từ xa xưa, đối với mỗi người đọc sách, thư viện là thánh đường, nơi ấy mỗi khi họ bước vào đều cảm nhận sâu sắc phúc phận được tiếp cận với tri thức của bản thân.

Thư viện thuở ấy là nơi không dễ để bước vào, bởi để bước chân vào thư viện, một người cần phải là một học giả được công nhận, hoặc là môn đệ của một trường phái được chấp thuận, hoặc thuộc tầng lớp tu sĩ và quý tộc… Thời đại đổi thay, dần dần, chúng ta không còn cảm giác linh thiêng, tự hào khi được bước chân vào thư viện nữa.

Vào thư viện không phải để tìm tri thức

Một buổi sáng ngày thường trong Thư viện Quốc gia Hà Nội, ta có thể thấy nhiều người không phân biệt già trẻ, trai gái ngồi kín chỗ tại thư viện. Nhiều người trong số ấy chọn cho mình các cuốn sách trên kệ, và một số thì chỉ đơn giản là mở máy tính và làm công việc riêng. Thư viện với không gian rộng rãi, yên tĩnh, không chỉ là nơi mượn sách nữa, mà đã trở thành một không gian công cộng phục vụ nhu cầu học tập và làm việc cá nhân với chi phí rẻ. Tương tự như vậy, khi các quán cà phê thư viện mọc lên, thì hoạt động đọc sách tại thư viện chung không phải là thiết yếu, mà các vị khách có nhu cầu tìm một góc yên tĩnh cho mình. Thư viện đối với người hiện đại trở thành một góc yên tĩnh, trốn khỏi không khí xô bồ và ồn ào.

Nhưng thói quen này có khiến chúng ta ngày càng xa rời với ý nghĩa ban đầu của thư viện hay không? Có lẽ, chúng ta có cơ hội tiếp cận với một khối lượng khổng lồ những tri thức, nhưng lại mất dần đi sự kết nối với tri thức ấy. Áp lực cuộc sống, sự phân mảnh trong tư duy, sự lười biếng thiếu động lực…tất cả những điều này đang ảnh hưởng đến thói quen bước vào thư viện của chúng ta, nhưng không chỉ có vậy, có lẽ thư viện quá khó để kết nối, ngay cả khi đã bước chân vào.

Trong thư viện công, vẫn chiếc máy tính cũ kỹ là công cụ giúp người đọc tra danh mục sách (ở một số nơi hẻo lánh, có lẽ còn không có). Và càng bất khả thi để tiếp cận các tư liệu đã được số hóa nhưng có lẽ sẽ còn lâu nữa mới được công bố vì những hạn chế về kỹ thuật và sự không rõ ràng của pháp lý liên quan đến bản quyền. Cùng lúc ấy, chỉ một dòng gõ ngắn hay một đường vuốt nhẹ trên màn hình điện thoại để một người có thể đọc một mẩu tin hay xem một đoạn video giải trí trên Internet. Tới đây, ta buộc phải suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề liệu có thực tri thức quá khó để xã hội tiếp cận hay đơn giản vì tri thức mà cụ thể ở đây là những cuốn sách đang "chạy chậm" trong cuộc đua đến với bạn đọc trên phương tiện số.

Sự yêu thích cảm giác mân mê trang sách giấy không nên là cái cớ để là chậm lại quá trình số hóa sách và tư liệu. Hoạt động số hóa sách và tư liệu về bản chất là để tiết kiệm chi phí lưu trữ, khắc phục hư hỏng… đồng thời để tăng cơ hội tiếp cận của đại đa số xã hội. Và một khi sách và tư liệu điện tử được các thư viện công bố rộng rãi, thì có lẽ sẽ tồn tại một nghịch lý: bước vào thư viện không có nghĩa là kết nối với tri thức. Bởi vì, người bước vào thư viện có thể không vì mục đích kết nối với tri thức và người tìm kiếm tri thức không nhất thiết phải bước vào thư viện.

20210322 10

Các học giả tại Thư viện Abbasid, được vẽ vào năm 1273 bởi họa sĩ Yahyá al-Wasiti.

Cần nhiều hơn những cú nhấp chuột

Với những độc giả Việt có khả năng đọc tiếng Anh, không khó để tiếp cận tri thức. Có rất nhiều phương án để kết nối với các thư viện trực tuyến phục vụ cộng đồng: Thư viện số của MIT, Dự án Gutenberg, Google Books, Thư viện số Internet Archieve… Những thư viện số này đều được phân loại theo danh mục rõ ràng, dễ tìm kiếm, thao tác đơn giản… Các thư viện công cộng trực tuyến này đã mở ra một thế giới tri thức mới mẻ cho rất nhiều độc giả trẻ trên khắp toàn cầu, trong đó có các độc giả Việt Nam. Đọc và tra cứu sách tiếng Anh thay vì sách tiếng Việt đã trở thành thói quen không thể thiếu đối với nhiều độc giả trẻ có trình độ học vấn cao, thông thạo tiếng Anh vốn đang ngày càng gia tăng. Dần dần, sẽ dẫn đến một tình trạng: độc giả trẻ yêu thích sử dụng tiếng Anh hơn tiếng Việt và mất dần đi sự thân thuộc với ngôn ngữ Việt. Mặc dù thị trường sách Việt Nam sôi động với rất nhiều đầu sách chất lượng mới được xuất bản bằng nhưng hạn chế trong tốc độ và khả năng tiếp cận vẫn là cản trở trong cuộc đua ngôn ngữ và văn hóa, đặc biệt khi những cuốn sách ấy chỉ được phân phối về các thư viện công hay các thư viện chuyên ngành.

Lượng thư viện số hóa tiếng Việt hoạt động tích cực trên Internet hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu là các thư viện chuyên ngành. Nổi tiếng nhất có lẽ là Thi Viện - thư viện các tác phẩm thơ và Thư Viện Pháp Luật - thư viện về các văn bản pháp luật tại Việt Nam. Hai thư viện số này đều được xây dựng dựa trên cấu trúc phân loại chi tiết và tối ưu công cụ tìm kiếm - mô hình quản lý rất ít thấy tại các thư viện số tiếng Việt hiện nay vốn chỉ manh mún, phát triển chưa toàn diện, thậm chí không được đảm bảo về pháp lý. Hai thư viện chuyên ngành này đã tạo ra một kho dữ liệu khổng lồ mà bất cứ độc giả trực tuyến nào chỉ cần quan tâm đến đều có thể tiếp cân, không giới hạn và không đòi hỏi các yêu cầu phức tạp như bằng cấp hay giấy giới thiệu từ cơ quan chủ quản.

Từ những mô hình thư viện trực tuyến thành công trên thế giới và tại Việt Nam và sự hạn chế của các không gian thư viện, một loạt các câu hỏi liên quan đến triết lý xây dựng thư viện được đặt ra: Nhiệm vụ thực sự của thư viện là gì, tiếp cận tri thức hay không gian tri thức? Thư viện bất kể là thư viện công hay thư viện chuyên ngành liệu có nên là một địa chỉ dễ tiếp cận với tất cả mọi người hay không? Và thư viện cho mọi người dân có nằm trong thứ tự ưu tiên hàng đầu so với các hoạt động văn hóa giáo dục khác?... Trả lời những câu hỏi này sẽ quyết định đến tốc độ triển khai việc số hóa toàn bộ hệ thống thư viện sách tiếng Việt hiện nay.

Những băn khoăn về sự phức tạp về vấn đề luật bản quyền hay những khó khăn về kỹ thuật chỉ là bề nổi của sự chậm trễ trong tiến trình số hóa hệ thống thư viện hiện nay. Thúc đẩy khả năng và tốc độ tiếp cận tri thức của người dân chưa bao giờ nằm ở vị trí ưu tiên trong cách chính sách phát triển văn hóa giáo dục. Đây là hậu quả của quá trình chuyển đổi nhanh chóng từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin mà không ý thức được tầm quan trọng của tri thức. Vậy là chúng ta có một xã hội mà thị trường sách dễ dàng mua bán trực tuyến nhưng lại không có thư viện trực tuyến, báo chí điện tử thì mọc lên như nấm sau mưa mà tư liệu và sách điện tử thì khan hiếm, số lượng giáo sư tiến sĩ tăng chóng mặt trong khi thiếu đi những người dân có dân trí cao với nền tảng vững chắc có thể liên kết văn hóa Việt Nam với tri thức thế giới…

Phòng đọc sách tích hợp kho sách giấy và sách điện tử tại Viện Bảo tàng Anh.

Không gian để giao lưu; tri thức để chia sẻ

Không phải vô cớ khi các nền văn minh lớn trên thế giới thời xa xưa như Sumer, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Hồi giáo, Trung Quốc, Châu Âu thời Trung cổ… lại đầu tư khoản chi phí khổng lồ để xây dựng những thư viện công lưu trữ các trước tác vĩ đại và các văn thư quan trọng. Thư viện, với ý nghĩa xa xưa nhất, vẫn luôn luôn là nơi cất giữ, bảo quản tư liệu và sách, cũng như tạo cơ hội tiếp cận cho những độc giả muốn truy cầu tri thức, từ đó hình thành nên nền tảng vững chắc, góp phần cùng giáo dục để tạo ra những công dân thông minh và giỏi giang. Tính đến năm 2016, trên 90% thư viện công cộng có hệ thống sách điện tử và trên 25% trong số đó được sử dụng trên máy đọc sách điện tử hoặc máy tính bảng. Đáng tiếc rằng Việt Nam không nằm trong danh sách đại đa số ấy mà vẫn nằm trong thiểu số thiếu thốn thư viện điện tử.

Một tương lai mới cho nền tảng thư viện cần sớm được hiện thực hóa theo đúng xu hướng của thế giới: Một mặt, tri thức cần được chia sẻ rộng rãi hơn qua Internet thông qua hệ thống các thư viện trực tuyến - nơi không bị hủy hoại bởi thiên tai, không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý hay bị cản trở bởi dịch bệnh. Một mặt, không gian thư viện sẽ không chỉ là một không gian "đi trốn" của những người cần một địa điểm yên tĩnh, mà sẽ trở thành nơi giao lưu và học hỏi tri thức một cách năng động - bầu không khí mà có lẽ đã rất lâu rồi nhân loại không được chứng kiến kể từ thời Hy Lạp cổ đại và Ngôi nhà Tri Thức của Hồi giáo đến nay.

Hà Thủy Nguyên

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 08.2.2021.

Bạn không đọc nhầm đâu. Thật đấy, rừng cây cũng có thể di cư như chim chóc hay cá voi, một khi môi trường sống bản địa không còn thuận lợi. 

20210705 4

 Cây sồi đỏ. Ảnh: 123RF

Ngày nay, phần lớn cây cối đang di cư không đủ nhanh để kịp ứng phó với biến đổi khí hậu. Và điều đó buộc loài người chúng ta phải đưa ra những quyết định khó khăn.

“Săn bắn” lá để điều tra

Dưới tán rừng Black Rock ở phía bắc thành phố New York của Mỹ, Angie Patterson đã dành hàng năm trời để nhắm súng săn vào những cây sồi đỏ. Đây không phải một trò tiêu khiển. Là một nhà sinh thái - sinh lý học thực vật, Patterson đang nghiên cứu về phản ứng của mỗi loài cây khác nhau trước biến động thất thường của khí hậu.

“Đùng”, một nhánh cây rơi xuống đất. Những chiếc lá tốt nhất để nghiên cứu phải nằm tít trên cao, ở phía trên cùng của tán cây - nơi chúng nhận được lượng ánh sáng mặt trời đồng đều và ổn định. Lúc này, khẩu súng săn trở thành một công cụ hỗ trợ nghiên cứu rẻ tiền và hiệu quả.

Qua các thí nghiệm, Patterson phát hiện ra rằng cây sồi đỏ, cùng một số loài bản địa khác, đang thực sự gặp nhiều bất lợi so với những giống cây “đến” sau. Điều này có nghĩa là những cây sồi đỏ, vốn làm chủ 70% diện tích khu rừng, có thể bị chiếm chỗ trong tương lai.

 Nhà khoa học săn lá. Ảnh trên trang của Angelica Patterson

“Loài sồi đỏ phương bắc có tầm quan trọng đối với khu vực này. Chúng ảnh hưởng đến sức sống của đất đai, chất lượng nước, chất dinh dưỡng. Khi những quần thể cây cối lớn bắt đầu biến mất, hệ sinh thái rừng phức tạp này có thể bị phá vỡ” - Patterson nói với báo The Guardian.

Trong 90 năm qua, thành phần “thụ khẩu” trong khu rừng này đã có nhiều thay đổi. Theo Patterson, 3 loài cây đã “bỏ nhà ra đi” hoặc tuyệt chủng ở cấp độ khu vực, và 11 loài khác đã “chuyển đến” bằng cách di cư tự nhiên từ phía nam hoặc được con người du nhập.

Những cánh rừng ở miền đông bắc Hoa Kỳ, bao gồm Black Rock, là những “kho” nhốt carbon trên đất liền quan trọng của thế giới. Vì vậy, những thay đổi này có thể tác động mạnh mẽ đến khả năng lưu trữ carbon của toàn khu vực.

Trong viễn cảnh đẹp nhất, cây cối ở phía nam sẽ di cư đến Black Rock và lấp vào chỗ trống, giúp duy trì sự rậm rạp và trù phú của khu rừng - giả sử như chúng đến kịp lúc.

Mới đây, tạp chí Nature công bố một nghiên cứu của Anh nói rằng các đô thị có thể trở thành “bước đệm” trong hành trình di cư của cây cối, bằng cách đưa các giống cây từ rừng vào trong thành phố. Một quần thể cây rừng sinh trưởng giữa đô thị có thể giúp đẩy nhanh tốc độ di cư của rừng, thay vì để cây cối chậm rãi chuyển đến nơi mát hơn.

 

Rừng di cư như thế nào?

Nhìn những cây sồi đỏ to lớn thế kia, thật khó để tin rằng chúng có thể di chuyển. Cây cối từ điểm A không thể đi bộ, theo nghĩa đen, đến điểm B được. Sự thật là chúng di cư với danh nghĩa một loài, bằng cách phát tán hạt giống. Động vật, gió và nước có thể giúp mang hạt giống đến những vùng đất mới. Một số loài cây còn có thể “bắn” hạt giống ra môi trường xung quanh khi làm vỏ quả nổ tung.

Sau khi hạt giống hạ cánh xuống mảnh đất mới, nếu gặp được môi trường thích hợp thì chúng sẽ bắt đầu đâm rễ, mở ra tương lai cho một quần thể cây mới. Vì khu vực cũ đã không còn thuận lợi, những cây thế hệ ông, bà, cha, mẹ sẽ dần chết đi. Như vậy, loài cây đó sẽ từ từ biến mất ở vùng này và xuất hiện ở một vùng khác. Cây cối đã di cư bằng cách này, ít nhất là kể từ kỷ băng hà cuối cùng, với vận tốc siêu chậm, ước tính chỉ khoảng 100 - 200m mỗi năm.

Ngày nay, những cánh rừng vẫn đang dịch chuyển, một phần là do biến đổi khí hậu. Nhưng đi đâu? Mỗi loài cây có một lối đi riêng. Thật ngạc nhiên khi không phải tất cả cây cối đều dịch chuyển về phía 2 cực, nơi có khí hậu mát mẻ hơn.

Chẳng hạn như ở miền đông nước Mỹ, những loài cây thường xanh đang hướng về các vùng cực để tránh nóng. Trong khi đó, một số loài sồi và phong thì di cư về hướng tây, nơi môi trường đang trở nên ẩm ướt hơn, theo một nghiên cứu trên tạp chí khoa học Science Advances vào năm 2017. Dữ liệu về thực vật thu thập trong 35 năm liền của Cục Kiểm lâm Hoa Kỳ cho thấy rằng “lượng mưa có tác động ngắn hạn đến sự dịch chuyển của các loài mạnh mẽ hơn so với nhiệt độ”.

Tính đến năm 2020, Sách đỏ của IUCN đã phân loại hơn 21.700 loài thực vật nằm trong tình trạng “bị đe dọa”, chiếm 40% tổng số loài thực vật được đánh giá. Và khi nói đến các mối đe dọa bởi biến đổi khí hậu, di cư chính là một trong những cơ hội hiếm hoi để cây cối thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng.

Thế nhưng, trước tốc độ biến đổi nhanh chóng của các điều kiện sống hiện hay, cây cối sẽ phải tăng tốc gấp 10 lần để kịp di cư đến những miền đất hứa. Đó là chưa kể hành trình di cư đầy gian khổ và rủi ro của cây cối như bất kỳ sinh vật sống nào.

Những hạt giống có thể bay trong không trung đến những vùng đất mới, nhưng không phải lúc nào chúng cũng nảy mầm, phát triển và sinh sôi thành công. Vậy con người có nên giúp cây cối di cư?

 

 Các cây thông longleaf con bắt đầu một cuộc sống mới ở Plum Creek. Ảnh: The Guardian

 

Bài toán “thay trời hành đạo”

Khu bảo tồn Plum Creek ở bang Maryland (Mỹ) là một bộ sưu tập ấn tượng về các loài thông. Đứng bên cạnh những “đại gia đình” thông loblolly, shortleaf hay Virginia là nhà thông longleaf, đặc trưng với kiểu lá kim dài và tỏa tròn trông như những chùm bông tua xanh ngắt.

Nhưng thông longleaf không phải là loài bản địa của Maryland - chúng chỉ mới được trồng ở đây từ năm 2013. Đây là một ví dụ về chiến lược “hỗ trợ di cư”, nhằm giải cứu các loài cây khỏi điều kiện sống khắc nghiệt. Theo The Guardian, loài thông longleaf từng ngự trị hơn 36 triệu hecta đất ở miền đông nam nước Mỹ, nhưng ngày nay chúng chỉ còn sinh trưởng trên 3% lãnh thổ ban đầu.

Tuy nhiên, một bộ phận của giới học thuật xem “hỗ trợ di cư” là một giải pháp tốn kém và đầy rủi ro. Trồng cây bên ngoài môi trường sống vốn dĩ của chúng đòi hỏi nhiều công sức. Và dù bỏ ra thời gian hay tiền bạc đến cỡ nào cũng khó thể cam đoan chúng sẽ sinh trưởng tốt ở môi trường mới.

Trong thực tế, một nửa số cây thông longleaf con tại Plum Creek đã chết. Nhiều chuyên gia cũng lo ngại rằng các loài cây mới có thể trở thành loài ngoại lai xâm hại, hoặc một số loài sâu bệnh có thể vô tình được “quá giang”.

Một thành viên trong dự án hỗ trợ thông longleaf di cư, nhà sinh thái học Deborah Landau, chia sẻ trên Facebook rằng dự án này đã bị cáo buộc là “một tay thay trời hành đạo”. Bác bỏ những lời chỉ trích đó, cô cho rằng: “Chẳng còn mấy thứ trong thiên nhiên mà chúng ta chưa nhúng tay vào đâu”.

Landau không tự tin loài thông longleaf có thể tự nó di cư đủ nhanh. May mắn là cho đến nay, những cây thông longleaf đầu tiên ở Maryland dường như đang có tác động tích cực đến hệ sinh vật bản địa, The Guardian cho biết.

Một phản biện khác là con người không nên can thiệp, thay vào đó hãy cố gắng bảo tồn thiên nhiên, đưa thiên nhiên quay lại trạng thái ban đầu. Nhưng Jessica Hellmann, giáo sư sinh thái học thuộc ĐH Minnesota (Mỹ), thì không nghĩ như vậy, bởi tác động của chúng ta lên hành tinh này vốn không thể xóa bỏ - cứ nhìn biến đổi khí hậu thì biết.

Trao đổi với trang Verge Science, Hellmann cho rằng thay vì hỏi “có nên giúp cây cối di cư hay không”, chúng ta phải hỏi “nên cứu loài nào và bỏ lại loài nào phía sau”. Tất nhiên, “hỗ trợ di cư” không thể giải quyết vấn đề từ gốc rễ. Chúng ta không thể di chuyển các loài từ nơi này sang nơi khác mãi được. Về lâu dài, cách tối ưu để bảo vệ đa dạng sinh học chính là ngừng phát thải và ngừng gây ô nhiễm, trước hết là để làm chậm quá trình biến đổi khí hậu.■

Tương lai của những cánh rừng đang “cuốn theo chiều gió”, do lẽ các luồng gió khổng lồ trên Trái đất giữ vai trò quan trọng trong việc phát tán hạt giống và phấn hoa, theo kết quả một nghiên cứu mới đây trên tạp chí của Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ (PNAS). Tất nhiên, động vật (như chim ăn quả hay linh trưởng) cũng tham gia vào quá trình này, nhưng “tính định hướng” mạnh mẽ của gió khiến nó “nắm quyền sinh sát”.

Trên báo The Independent¸ giáo sư David Ackerly thuộc ĐH California-Berkeley (Mỹ) và là tác giả chính của nghiên cứu trên, giải thích gió có thể tác động khiến quá trình di cư của cây cối đi đúng hướng đến môi trường sống phù hợp hơn, hoặc là theo hướng ngược lại. Giả sử loài phong lá đỏ đang mong đến vùng phía tây ẩm ướt lý tưởng, nhưng trớ trêu là những cơn gió cứ đưa hạt giống của chúng bay về hướng đông, nam hay bắc!

Lê My

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 26.6.2021.

Người ta lần đầu biết tường tận về những “kho tàng bảo vật của các vua Chàm” ở trên miền sơn nguyên Dran và tỏ tường về hành trình nổi trôi của một dân tộc qua câu chuyện có màu sắc huyền bí và có sức hấp dẫn đặc biệt đối với giới nghiên cứu văn hóa Chăm. Đây là kết quả cuộc khảo cổ ngắn ngày do GS. Nghiêm Thẩm thực hiện đầu năm 1958 ở vùng Dran (tỉnh Đồng Nai Thượng cũ; nay là huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng).

Từ những công trình của người Pháp

GS. Nghiêm Thẩm lúc bấy giờ (1957) đang phụ trách Chánh sự vụ của Viện Khảo cổ học Sài Gòn sau khi tốt nghiệp ngành Bảo tàng học ở École du Louvre - Pháp. Tuy còn rất trẻ – 37 tuổi – nhưng ông được học giới miền Nam nể trọng về chuyên môn lẫn phẩm cách học giả.

Với GS. Nghiêm Thẩm, là một người được đào tạo nghiên cứu cổ học tại Pháp, những ghi chép khảo cổ năm 1902 do linh mục Durand và nhà nghiên cứu H. Parmentier công bố và những hồ sơ khảo cổ năm 1929-1930 của GS. M. Ner về những ngôi đền chứa bảo vật Chăm trên vùng cao nguyên Lâm Viên trong các tập báo cáo khảo cứu của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l’Ecole d’Extrême-Orient các năm 1905, 1930) đã khơi gợi một nguồn cảm hứng đặc biệt, hơn thế, là một trách nhiệm thừa kế trong nghiên cứu khoa học. Những ngày ở Pháp, GS. Thẩm cũng từng được đọc cuốn En suivant la piste des hommes sur les Hauts Plateaux du Việt-Nam (Tạm dịch: Theo dấu những tộc Thượng vùng cao nguyên Việt Nam) của Jacques Dournes in tại Paris (1955). Tập sách này, tuy khái lược, nhưng cũng có đề cập đến các bảo vật Chăm ở vùng sơn nguyên Dran. Có lẽ câu hỏi lớn bật ra từ các tài liệu trên đó là: những bảo vật tìm thấy đã thật sự đầy đủ và soi chiếu điều gì trong lịch sử di dân của cộng đồng Chăm  vào thuở mãn kỳ của vương triều Champa?

Ngày 16-12-1957, ông dẫn đầu đoàn khảo cổ gồm các thành viên: Nguyễn Bá Lăng (chuyên viên kiến trúc) và Nguyễn Danh Nhượng (nhiếp ảnh viên) đến tỉnh Đồng Nai Thượng chuẩn bị cho chuyến khảo sát các bảo vật Chăm tại hai ngôi đền Sop Madronhay và Kreyo thuộc quận Dran (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Đồng Nai Thượng). 

Công việc khảo cứu chính diễn ra vào các ngày từ 21 và 22 tháng 12-1957. 

Trước khi đi, đoàn khảo sát hiểu rằng, việc tiếp cận các bảo vật không phải dễ dàng. Chuyện kể rằng, năm 1902, nhà nghiên cứu Pháp H. Parmentier khi muốn khảo sát hai kho tàng này cũng đã phải mời ông Hat Vinh - Nguyên Tri huyện người Chăm và vợ ông ta là một bà Công chúa dòng dõi các vua Chàm đi cùng. Có tiếng nói và sự hiện diện của bà Công chúa Chăm thì các kho tàng mới được người Churu mở cửa cho người lạ tiếp cận. Sau một ngày làm việc với cơ quan công quyền địa phương, đoàn của GS. Thẩm thì được ông Cru Bjoum Biêng - Chủ tịch Hội đồng Hành chánh Thượng quận Dran và ông Drong Dôn - Cán sự Hợp tác xã người Thượng cùng nhóm công an quận đi theo để thuyết phục người Churu mở cửa đền.

Mùa đông năm 1957, khung cảnh Dran còn hoang sơ. Con đường vào làng Churu Sop Madronhay và Kreyo chạy xuyên nhiều cánh rừng, đoàn phải đi bằng xe Jeep, nhiều đoạn phải đi bộ băng qua các đồi cỏ. 

20210301
Ngôi đền Sop Madronhay ngày 21-12-1957. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Bảo vật hoàng gia Chăm trong ngôi làng Churu

Ngôi đền Sop Madronhay được xác định nằm trên một vuông đất 14x12,7m, có cửa vào hướng Tây, chung quanh có hàng rào kết bằng cây khô nhỏ. Gọi là đền, thực ra là một gian nhà sàn làm bằng tường tre nứa đan rất sơ sài. Đền chia hai gian, có gác ở, có bàn thờ. Phần cuối sân phía Đông là nơi thờ tự, chứa các bảo vật và một bếp lửa ở góc phía Tây-Nam. Một buổi lễ cúng đã diễn ra theo nghi thức truyền thống Chăm do người coi đền Churu thực hiện trước khi đoàn khảo cổ tiếp cận, thống kê các bảo vật. 

Tại đây, khi mở cửa ngôi đền đi vào không gian chứa các cổ vật, GS. Nghiêm Thẩm bất ngờ chứng kiến một kiểu bảo tồn lạ lùng: trong gian nhà sàn nhỏ có chỗ thờ những cổ vật thuộc vương triều được đặt để trong hai gian khác nhau: một gian là vật dụng phụ nữ và một của nam giới. Những bảo vật gồm binh khí, tự khí, dụng cụ giao thông, y phục phủ lớp bụi thời gian bỗng bừng sáng khi ánh nắng lạnh lẽo của buổi sáng mùa đông chiếu xuyên qua những liếp che.

Trong số các binh khí, đáng chú ý là có hai súng hỏa mai kiểu Ả-Rập, 50 đoản đao, long đao, gươm, giá, thương, mác, đinh ba và câu liêm. Nhóm tự khí gần 90 món, gồm các bộ đồ trà, chậu, bát, lọ, hộp sơn, bình vôi bằng gốm, sứ, thủy tinh quý giá, trong đó có một số món mang phong cách mỹ thuật Việt Nam với trình độ khảm sơn mài tinh tế và nhiều chén, chậu bạc chạm hình hoa sen nổi đặc thù phong cách trang trí của Chăm. 



Binh khí tìm thấy trong ngôi đền Sop Madronhay ngày 21-12-1957. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Đặc biệt, trong số này, có các klon (klaung: hộp) đựng xương cốt bằng bạc. Điều này có thể cần giải mã bằng chính phong tục người Chăm Ahier (theo Bàlamôn) ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận: người qua đời được gia đình và thầy cúng làm lễ hỏa thiêu, cắt 9 miếng xương trán cho vào một klon, sau đó được làm lễ nhập kut vào các tháng 3, 6, 8, 10 và 11, theo lịch Chăm. Lễ nhập kut là một hình thức quy tập các klon về khu mộ phần của dòng họ mẹ, theo truyền thống mẫu hệ Chăm. 

Như vậy, trong các cuộc binh biến, người nữ có vai trò thừa tự thuộc dòng dõi hoàng tộc Chăm đã di tản, mang theo di cốt các vua để thờ phụng.

Trong nhóm các dụng cụ giao thông, có yên ngựa nạm đồng được chạm trổ tinh vi theo mỹ thuật Việt Nam, nhạc ngựa, nhạc voi, cần kiệu. Nhóm tài liệu rời rạc còn có các hòm ấn triện làm bằng gỗ và ngà, cân tiểu ly, tập giấy chữ Chăm và chữ Hán. Đặc biệt, y phục là phần gợi nhiều ấn tượng nhất: gồm mũ trận bằng gấm, khoảng 10 triều phục nam và nữ, hơn 30 tấm vải thổ cẩm Chăm truyền thống, ba rương đựng khăn vành đàn bà bằng gấm, khăn là và viền kim tuyến. 

Nhiều vải vóc thổ cẩm được dệt theo kỹ nghệ truyền thống Chăm còn tốt, nhưng cũng có những thứ đã cũ và nát qua thời gian.



Lễ đường ngôi đền Kreyo ngày 22-12-1957. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Ngôi đền Kreyo gần đó được đoàn khảo cổ học của GS. Nghiêm Thẩm thực hiện khảo sát vào ngày hôm sau (22-12-1957). Họ tìm thấy ngoài các binh khí (1 lưỡi đoản kiếm bằng thép, 1 khiên mây phủ sơn mài, 21 nòng súng nhỏ, 3 nòng súng lớn bằng gang và 1 nòng súng lớn bằng đồng), thì còn nhiều món đồ thờ để trong 6 giỏ đan bằng mây. Trong 6 giỏ mây, có tất thảy gần 50 klon bằng bạc, chì và bằng vàng đựng những mảnh xương trán người. Nhiều klon vàng y, vàng trơn, chạm khắc theo phong cách hoa văn Chăm, chạm kiểu rồng phượng, hoa sen, tùng liễu, diệp hóa (lá cách điệu) tinh xảo.

Trong ngôi đền Kreyo, giáo sư Thẩm còn ghi nhận những tự khí khác: một mảnh vàng lá chạm thủng đậy trên mặt hài, hai mảnh vàng chữ nhật chạm kiểu Chàm nạm hạt xoàn, một mảnh vàng cây hình hoa và lá kiểu Chàm nạm hạt xoàn. Ngoài ra, còn có 28 chậu, cơi, siêu, mâm, chuông bạc, đồng có chạm trổ tinh vi theo các hoa văn Chàm truyền thống. 

Trong ngôi đền này, có chứa ba rương quần áo, xiêm, khăn trong tình trạng “hầu hết đã rách nát”.


Những tấm thổ cẩm Chăm. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Hé lộ một góc khuất lịch sử

Sau đó, tờ trình ngày 13-1-1958 của GS. Nghiêm Thẩm đã đem đến một cái nhìn có tính giải mật đối với hai kho tàng này. Ông đặc biệt chú ý đến những con dấu triện chữ Hán được tìm thấy, phân làm hai loại: những con dấu thuộc hành chánh thường dùng cuối thời Lê và đầu thời Nguyễn như vi chấp bằng, dấu ghi chức tước, ấn tín nhà Nguyễn cấp cho một Phiên vương Chăm có tên Môn Lai Phụ Tử, có quyền lực ở vùng duyên hải từ Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang. 

GS. Nghiêm Thẩm cũng lý giải về sự xuất hiện của một hộp bạc hình ống chạm cành cây hóa rồng, viền cánh sen, thân chạm sơn thủy, dưới đáy có chữ “Quý Dậu niên chế” và một hộp bạc nắp chạm sơn thủy, chân chạm sơn thủy, nhân vật thông và liễu, dưới đáy có chữ “Tân Dậu niên chế”. Các hộp bạc đó nằm ở đền Krayo. 

Ông giải thích: “Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt đến Phan Thiết vào hồi 1697, sau khi chiếm đất Chiêm Thành, Triều đình Việt Nam vẫn coi các dòng dõi vua Chiêm Thành là phiên vương và cho đến năm Quý Sửu 1793 thì chúa Nguyễn Ánh chiếm lại tỉnh Thuận Thành (Bình Thuận) và làm tội các dòng dõi vua Chàm đã theo nhà Nguyễn Tây Sơn và từ đấy không phong tước cho các phiên vương Chàm ở Thuận Thành nữa. Vì vậy phiên vương Chàm cuối cùng là Po Con Can (1799-1823) phải sang náu mình bên Cambodge.

Đoạn trên ta đã biết là trong những năm từ 1831 đến 1834 Lê Văn Khôi chiếm cứ ba tỉnh Phan Rang, Phan Thiết và Phan Rí. Khi quân của Lê Văn Khôi chiếm vùng đó cũng phá hại người Chàm thân với triều đình Minh Mạng. Và quân của triều đình chiếm lại được vùng đó, nhiều người Chàm bị nghi là có hợp tác với Lê Văn Khôi bị khủng bố. Vì vậy những người Chàm phải tản cư sang Cambodge và lên các miền núi mang theo những hộp klon để xương cốt của vua Chàm lên gửi ở các làng người Thượng.



Những klon đựng hài cốt bằng vàng. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.
Những klon lồng trong nhau. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Theo phong tục Chàm thì những hộp klon đựng 5 mảnh (?) xương trán còn lại sau khi thiêu xác các vị vua đã chết. Các hộp klon sẽ chôn ở dưới chân tượng các vị vua đó ở trong các tháp Chàm, như đã đào được ở tháp Po Klong Garai (Phan Rang).

Khi các dòng dõi vua Chàm phải di cư lên miền Thượng họ phải mang theo cả những hộp klon đựng xương các vị vua đã chết mà chưa xây được tháp để thờ.

Nếu năm Quý Dậu (1693, 1753, 1813) ghi trong hộp bạc ở giỏ thứ hai được làm sau khi một vị vua Chàm chết thì có thể là đựng xương cốt của vua Po Thop (1660-1692). Trong giỏ thứ năm có một hộp bạc ghi Tân Dậu niên chế. Vậy năm Tân Dậu là một trong những năm 1681, 1741, 1801, 1861. Nhưng không có vị vua Chàm nào đã qua đời trong các năm đó. Như vậy, nếu tôi không nhầm, thì hộp đựng xương đó là của một bà hoàng hậu Chàm. Nhưng nay vì thiếu tài liệu về lịch sử nên tôi chưa dám quyết định chắc chắn.”1

Một mặt, đối chiếu với Đại Nam chính biên liệt truyện, năm Canh Tuất (1790) con vua Chăm ở Thuận Thành là Môn Lai Phụ Tử kêu gọi dân chúng theo Gia Long đánh quân Tây Sơn, sau được phong chưởng cơ, đổi tên Nguyễn Văn Chiêu. Sau đó, Nguyễn Văn Chiêu được cho là phạm tội với triều đình, bị đánh đuổi, nên dòng dõi phiên vương này đã kéo theo những người thân thuộc lên miền núi vùng làng Sop Madronhay ở với đồng bào Churu với ý định gầy dựng lực lượng để quay về dành lại vùng duyên hải.

Đúng như Đại Nam chính biên liệt truyện đã viết, lý do mà cộng đồng người Chăm bỏ vùng duyên hải đi lánh nạn trên vùng cao nguyên hiểm trở trong quá khứ, một cách chi tiết, được đoàn khảo cổ làm rõ: 

“Các bảo vật Chàm từ xưa vẫn do các con cháu các vua Chàm giữ. Nhưng khi con nuôi tả quân Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi dùng dư đảng nổi lên chống lại triều đình Nguyễn vào năm 1831 có chiếm cứ Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Một số đông con cháu các vua Chàm đã cộng tác với Lê Văn Khôi. Khi quân nhà Nguyễn dẹp loạn Lê Văn Khôi đã thẳng tay tàn sát dân Chàm, vì vậy một phần người Chàm phải di cư sang Cambodge (Campuchia) và đã sinh sống bên đó cho đến ngày nay (1957), một phần dân Chàm đã lẩn lên núi sống với các đồng bào Thượng và đem các bảo vật vua Chàm, tổ tiên của họ. Đến năm 1840, vua Minh Mạng mới ra chiếu và truy phong cho một giòng dõi Vua Chàm là Po Klon Gahul.

Tuy vậy, con cháu các vua Chàm vẫn gửi các đồng bào Thượng những hộp klon đựng xương cốt các vị vua hay hoàng hậu đã chết cất giữ.” - GS. Nghiêm Thẩm lý giải trong một tờ trình gửi Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa. 

Dặm đường thiên di đó ít nhiều cũng đổ bóng xuống kho tàng văn hóa dân gian Chăm. Sự kiện đau buồn trên cũng trùng khớp với một bản trường ca [ariya] của người Chăm mà nhà nghiên cứu Inrasara cung cấp cho người viết bài này. Đó là tác phẩm Damnưy Ppo Pan, kể về bối cảnh thế kỷ 18, người Chăm loạn lạc, chạy lên vùng núi Nam Cao nguyên sống chung với bà con dân tộc thiểu số, trong đó có vài thủ lĩnh [mưlih] được giao quy tụ lực lượng trở về “phục quốc”. Thủ lĩnh Damnưy Ppo Pan trong bản trường ca là người ham vui, chỉ lo hưởng lạc và trượt dài, quên mục đích hệ trọng mà dân tộc, cộng đồng đặt vào mình. 

Bản trường ca Damnưy Ppo Pan có tính phê phán và ai oán, cho đến nay vẫn được hát lên trong các dịp lễ để răn con cháu đừng mải mê vô độ mà bỏ quên nguồn gốc.


Xiêm y được tìm thấy trong hai ngôi đền. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.
Khay, hũ đựng bằng bạc có hoa văn Chăm. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Về từ thăm thẳm thời gian

Về khoa học khảo cổ, những tài liệu thu thập được của GS. Nghiêm Thẩm đã cụ thể hóa và liệt kê đầy đủ hơn các cuộc khảo cổ mà những nhà nghiên cứu Pháp tiến hành trước đó ở hai ngôi đền này. Tuy nhiên ông cũng xác định thêm một số cổ vật “có lẽ đã bị mất trong những năm chiến tranh vừa qua, hay đồng bào Thượng đã mang đi các nơi khác rồi”. 

Trong bài viết Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chăm (đăng trên tập san Việt Nam khảo cổ, số 1, 1960), GS. Nghiêm Thẩm đã nhận định rằng, việc bảo tồn các tấm vải quý trong hai ngôi đền là cần thiết vì chúng cho thấy văn minh nghề dệt của người Chăm đã ở mức điêu luyện, có tính thẩm mỹ cao. Bên cạnh đó, ông cho rằng, những bảo vật bằng vàng, bạc được chạm trổ tinh vi cũng nên bảo tồn để giới sử học và mỹ thuật có thể nghiên cứu cách trang hoàng trong nền mỹ thuật nhỏ (arts nineurs) của người Chăm, đặc biệt, các đồ khảm xà cừ với kỹ thuật khác lối khảm của người Việt, gần như đã thất truyền thì rất cần được giữ gìn... 



Hài mạ vàng được tìm thấy. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

GS. Thẩm kết luận rằng: “Những bảo vật của vua Chàm mà tôi đã được xem là những tài liệu sử ký và mỹ thuật rất quý giá cho lịch sử Chàm, lịch sử Việt Nam, lịch sử mỹ thuật của nhân loại”. Ông cũng khảo sát để nhìn thấy vấn đề này: Người Churu tin rằng, nếu ai đó đánh cắp các cổ vật trong hai ngôi đền này thì sẽ bị hổ vồ. Và vị giáo sư với tư duy khoa học đã chỉ ra rằng: “Họ tin không ai dám đến lấy (các bảo vật) và nếu lấy sẽ bị hổ ăn thịt. Nhưng dị đoan này không cản nổi những người có lòng tham. Bằng chứng là trong các bảo vật ở làng Sop Madronhay đã mất hết các đồ bằng vàng”. Và cũng có một mối lo ngại khác: chính người Churu cũng di chuyển chỗ ở sau mỗi lần cộng đồng có biến động, và mỗi lần như vậy, bảo vật Chàm trong hai ngồi đền lại thất thoát...2

Đề xuất chuyển các bảo vật Chăm từ hai ngôi đền Sop Madronhay và Kreyo về Sài Gòn, Huế hay Đà Nẵng để bảo tồn trong một bảo tàng viện tránh tình trạng ngôi đền bị hỏa hoạn thiêu rụi hay nạn ăn cắp, “chảy máu cổ vật” được GS. Nghiêm Thẩm nhiều lần đề xuất lên Phủ Tổng thống (thời Đệ Nhất Cộng hòa). Nhưng điều đáng tiếc, về phía địa phương, một buổi họp có ý nghĩa “điều đình” được tổ chức lúc 9 giờ ngày 18-9-1958, tại Quận Hành chánh Dran có mặt 15 vị gồm các trưởng ấp và dân ấp Kreyo, đại diện Quận hội viên Tòa án Phong tục đã không đi đến kết quả bởi “lệ làng” vẫn vượt trên ý kiến nhà khoa học. Buổi họp xác định: “Những người đã giữ từ xưa đến con cháu nay vẫn săn sóc cùng thờ luôn, nên không thể chấp thuận để đem cất các vật ấy tại Viện Bảo tàng. Một trong những lý do mà người dân Churu ở Dran đưa ra đó là nếu không bảo vệ được các cổ vật hoàng gia Chăm “thì dân làng sẽ đau ốm”. (Theo báo cáo số 6802-HC/6 ngày 13-10-1958 của ông Trần Văn Phước - Thị trưởng Đà Lạt gửi trình các Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống). 

Vậy là thiện chí của nhà nghiên cứu đã không cứu được bảo vật Chăm trong các ngôi làng Churu.

Và điều mà GS. Nghiêm Thẩm lo lắng nhất đã xảy ra sau đó: Trong những năm chiến tranh ác liệt 1968-1969, cả hai ngôi đền trên đã phải di dời nhiều lần, bị trúng bom bốc cháy và cổ vật đã bị lấy mất. Theo nguồn tin từ Bảo tàng Lâm Đồng, tháng 4 năm 1992 các cán bộ bảo tàng này có phối hợp với huyện Đức Trọng tiến hành khảo sát, kiểm kê hai ngôi đền Sop Madronhay và Kreyo thuộc xã Tà Hine, Đức Trọng. Theo mô tả của chuyên viên bảo tàng Đoàn Bích Ngọ trong các bài báo sau đó, các cổ vật còn lại không còn nhiều giá trị. “Những báu vật của các vua Chàm tuy không còn, nhưng đền Kreyo và Sop Madronhay vẫn được bà con dân tộc Churu coi sóc và cúng lễ hàng năm. Đền được tổ chức cúng lớn vào 15 tháng 5 dương lịch. Vào những ngày này dân làng tụ tập đông đủ, thầy cúng đều bận y phục tế lễ theo phong tục của người Chàm”.3

Câu chuyện những cổ vật Chăm từ hai ngôi đền ở Dran thuộc Tuyên Đức xưa từng là vấn đề hệ trọng của khoa học khảo cổ, duy trì mối quan tâm hơn nửa thế kỷ từ các nhà khoa học khảo cổ Pháp cho đến giới khoa học miền Nam, nhưng cho đến nay vẫn còn vây phủ bởi những sương mù khi thi thoảng trong giới chơi cổ vật cao nguyên truyền lan những tin đồn có màu sắc huyền bí về sự báo ứng đi cùng các món cổ vật Chăm trôi nổi trong dân gian. 

Có một điều có thể chứng thực và lý giải được: văn hóa Churu đã chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi văn hóa Chăm từ một cuộc trôi dạt đặc biệt trong lịch sử, từ kỹ thuật làm gốm nung không bàn xoay cho đến các nghi thức thờ cúng hướng đến những vị vua, hoàng hậu mà người Chăm tôn thờ.

Vùng sơn nguyên Dran xưa đã mang vào mình những bước lưu dân của một cộng đồng bị mắc kẹt giữa những giao tranh chính trị trong lịch sử Việt Nam cận đại.□
Người Churu đến xem đoàn khảo cổ học của GS. Nghiêm Thẩm khảo cứu các bảo vật. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.
Một mặt hia và hai mặt đai vàng được tìm thấy. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Những khay bạc, đồng. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

---

Ảnh trong bài: Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM. 

Chú thích:

1. Tờ trình ngày 18-7-1958 của GS. Nghiêm Thẩm – Chánh sự vụ Viện Khảo cổ, Phụ trách Bảo tồn Cổ tích, gửi Phủ Tổng thống (thời Việt Nam Cộng hòa). Phông Phủ Tổng thống Đệ Nhất Cộng hòa, Hồ sơ 16516. TTLTQG II, TP.HCM.

2. Theo tờ trình ngày 18-7-1958. Nguồn đã dẫn.

3. Những ngôi đền cổ và báu vật của vua Chàm trên đất Lâm Đồng, Đoàn Bích Ngọ, Báo Lâm Đồng, 10-6-2012

Tài liệu tham khảo:

- Tập san Việt Nam khảo cổ, Số 1-1960.

- Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất cộng hòa. Hồ sơ số: 16516. TTLTQG II, TP.HCM.

- Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất cộng hòa. Hồ sơ số:16848. TTLTQG II, TP.HCM.

- Báo Lâm Đồng, Báo Tuổi trẻ... 

Nguyễn Vĩnh Nguyên

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 21.02.2021.

Thông tin truy cập

63704511
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2605
22198
63704511

Thành viên trực tuyến

Đang có 355 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website