Họ gặp nhau trong những năm tháng sinh viên và hơn nửa thế kỷ kề vai sát cánh bên nhau trong cuộc đời, nhưng trong con mắt những người xung quanh, cuộc hôn nhân này quá kỳ quặc.

20210809 5

Jean-Paul Sartre và Simone de Beauvoir.

Nhà văn đoạt giải Nobel và nhà tư tưởng nữ quyền gắn bó với nhau bằng tình yêu và sự say mê triết học. Mối quan hệ của họ thiếu vắng nhiều đặc điểm của một cuộc hôn nhân thông thường.

 

Bản “Tuyên ngôn tình yêu”

Năm 1929, khi Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre gặp nhau tại khoa Nghệ thuật của Đại học Sorbonne (Pháp), không ai dám nói đây là cặp đôi lý tưởng. Simone thanh lịch và mảnh mai dường như hoàn toàn trái ngược với Jean-Paul cục mịch.

Nhưng điều đó có ý nghĩa gì, nếu như bà cảm thấy ở ông nửa thứ hai của mình, người có những suy nghĩ, sở thích, mong muốn và thậm chí cả cảm xúc trùng hợp với bà.

Tại một cuộc thi triết học lấy kết quả lập bảng xếp hạng quốc gia của sinh viên Pháp, Sartre đứng đầu, còn de Beauvoir - thứ hai. Họ là những đối thủ xứng tầm, trở thành những người cùng chí hướng và là bạn đồng hành bình đẳng của nhau.

Họ tự giác không tuân theo các chuẩn mực được xã hội chấp nhận, và do đó, thay cho việc kết hôn truyền thống, họ đã ký kết bản “Tuyên ngôn tình yêu”, một dạng hợp đồng quy định mối quan hệ của họ.

Theo Tuyên ngôn, họ cam kết chung thủy với nhau về mặt trí tuệ, nhưng không ràng buộc về mặt thể xác. Mỗi người đều có thể tự do lựa chọn bạn trai và bạn gái của mình, nhưng đồng thời phải thẳng thắn với nửa kia của mình trong sáng tạo, suy tư và cuộc sống tình dục.

Có vẻ như cả hai đều cảm thấy những quy định như vậy bảo đảm cho mối quan hệ của họ bền vững hơn là một cuộc hôn nhân tầm thường.

 

Thói quen viết thư


Simone de Beauvoir thời trẻ.

Sau khi nhận bằng tốt nghiệp đại học, Simone đến Rouen, còn Jean-Paul đến Le Havre (thành phố cảng của Pháp thuộc tỉnh Seine – Martime), giảng dạy. Sợi dây kết nối họ là những lá thư, trong đó họ mô tả chi tiết từng ngày, những cảm xúc, suy tư, mong muốn và ước mơ của mình.

Thói quen trao đổi bằng thư từ với người bạn đời vẫn được giữ nguyên kể cả sau này, khi cặp uyên ương sống trong cùng một thành phố.

Sartre thừa nhận, ông sợ mất Simone, nhưng đồng thời ông không tìm cách kiềm chế ham muốn tình dục của mình. Hơn nữa, sự bền vững và “an toàn” của quan hệ với bà khiến con người yêu tự do trong ông sợ hãi.

Ông cho rằng, những mối quan hệ quá bền chắc thường bị kiểm soát thái quá, và vì vậy đánh mất tự do.

 

Liên minh triết học


Jean-Paul Sartre thời sinh viên.

Không đạt được sự hòa hợp hoàn toàn trong đời sống tình dục, Simone de Beauvoir và Jean-Paul Sartre bắt đầu tìm kiếm những cảm giác mới bằng việc mời các nhân vật thứ ba vào phòng ngủ của mình. Họ không những có mặt trên giường mà còn chia sẻ thế giới quan và tình yêu trong quan niệm của hai triết gia.

Một trong những “nhân vật thứ ba” là Olga Kazakevich (cô gái người Ukraine), nữ sinh viên củaSimone de Beauvoir. Tiếp theo, em gái của Olga, Wanda, cũng tham gia nhóm “các thành viên gia đình”, sau đó xuất hiện những cô gái và chàng trai mới.

Từ năm 1938, Sartre và Beauvoir sống ở Paris nhưng không chung một nhà. Cuộc sống trong những phòng khác nhau của khách sạn “Mistral” cho phép họ không vi phạm tự do của nhau. Hơn nữa, phần lớn thời gian họ ngồi ở quán cà phê, nơi họ không chỉ dùng bữa, mà còn làm việc, suy tưởng, tranh luận.

Cặp vợ chồng (nếu có thể gọi họ như vậy) thường xuyên kể cho nhau nghe về cuộc sống hàng ngày của mình, không ngần ngại cả những chi tiết kín đáo nhất. Một mặt, họ là những con người hoàn toàn tự do, mặt khác, họ luôn luôn tuân thủ những điều khoản hợp đồng do chính họ soạn thảo.

Thế chiến thứ Hai bùng nổ, phát xít Đức tấn công Pháp, Sartre bị tổng động viên vào lính và ra mặt trận. Ngày nào ông cũng viết thư cho “vợ” và ông gọi người tình của mình là “con hải ly mê hồn yêu quý”.

Hải ly là biệt hiệu của Beauvoir do một nhóm sinh viên đặt cho bà năm 21 tuổi. Giờ đây Beauvoir trở thành chủ gia đình, bà đã giúp đỡ Olga và Wanda. Sau chiến tranh, các tác phẩm của Sartre và Beauvoir được xuất bản đã mang lại cho cả hai vinh quang quốc tế.

Trong chiến tranh, Sartre bị quân Đức bắt làm tù binh, một năm sau ông được tha (1941). Trở lại Paris, Sartre tham gia phong trào chống phát xít, thường xuyên cùng các đồng chí của mình họp kín tại nhà mẹ Beauvoir.

Các mối quan hệ trong liên minh triết học này không bị coi là phản bội. Mọi thứ diễn ra hoàn toàn trong khuôn khổ hợp đồng họ đã ký kết vào những năm sinh viên. Đối với họ, tự do luôn được đặt lên hàng đầu, sau đó mới đến tình cảm. Simone và JeanPaul yêu nhau say đắm, đau khổ khi phải chia tay với các nhân vật thứ ba.

Họ thích đi du lịch, gặp gỡ những người nổi tiếng, tận hưởng niềm vui cuộc sống. Tiếc rằng, tuổi tác và sức lực có hạn. Lúc về già, Sartre gần như bị mù. Ông tuyên bố từ giã nghiệp văn chương, không thể chinh phục phụ nữ nữa, nhưng lại tìm được một thú vui để giết thời gian - rượu và thuốc an thần.

Trong một bài trả lời phỏng vấn, ông thừa nhận: Rượu và thuốc giúp ông suy nghĩ nhanh hơn. Phát biểu của ông khiến Simone cũng bị sốc.

Jean-Paul Sartre qua đời ngày 15/4/1980. Trong quãng thời gian thiếu ông, Simone hoàn toàn mất hứng thú với cuộc sống. Dường như bà chỉ mơ được đoàn tụ với Sartre và chuyển từ trạng thái vĩnh viễn chia ly sang trạng thái tình yêu vĩnh cửu.

Người ta thường thấy bà ngồi bên cửa sổ nhìn ra nghĩa trang Montparnasse, nơi Jean-Paul yên nghỉ.

Một năm sau khi Sartre qua đời, Beauvoir xuất bản cuốn “Lễ vĩnh biệt” (La Cérémonie des adieux, 1981), kể lại 10 năm cuối cùng của Sartre, khi ông bà chung sống với nhau. Ngày 14/4/1986, Beauvoir trút hơi thở cuối cùng. Mộ của bà được đặt bên cạnh mộ của chồng trong nghĩa trang Montparnasse.

Sau khi mất, Simnone de Beauvoir lại càng nổi tiếng hơn trước. Không chỉ vì bà đã đặt nền móng cho phong trào nữ quyền mà do bà được coi là một trong số những nhà tư tưởng quan trọng nhất của chủ nghĩa hiện sinh ở nước Pháp. Cũng như Jean-Paul Sartre, di sản của Simone de Beauvoir để loại cho nước Pháp và nhân loại rất to lớn.

Jean-Paul Sartre (1905 - 1980) là nhà triết học hiện sinh, nhà soạn kịch, nhà biên kịch, tiểu thuyết gia và là nhà hoạt động chính trị người Pháp. Ông là một trong những nhân vật có ảnh hưởng lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ 20 và chủ nghĩa Marx.

Tác phẩm của ông cũng đã ảnh hưởng đến xã hội học, lý thuyết phê bình, lý thuyết hậu thuộc địa, phê bình văn học. Satre được trao giải Nobel Văn học vào năm 1964 nhưng ông từ chối.
Trần Hậu

(Theo kulturologia.ru)

Nguồn: Giáo dục và Thời đại, ngày 31.7.2021.

Khoe "nghị lực vượt nghịch cảnh", khoe "tủ lạnh đầy ắp ăn làm sao hết?" hoặc khoe "sự thanh thản ngắm chồi non mới nhú ở bancông" nhưng khoe khoang giữa lúc đại dịch là không nên giữa "bể khổ" của những người đang mất mát ngoài kia.

20210804 2

Khoe thường và khoe khéo

Jonathan Berman giảng dạy tại Trường Thương mại London, chuyên nghiên cứu về hành vi của khách hàng, về lý do họ ra quyết định abc trước một nhãn hàng... Ông là tác giả của khái niệm "braggart’s dilemma", tức "thế khó xử của người khoe khoang".

Lấy thí dụ: vừa làm được một cái bánh vô cùng đẹp, bạn có muốn "cõi mạng" biết về việc này không? Bạn tự nhủ: "Muốn chứ! Nhưng mình không muốn họ nghĩ mình khoe khoang!". Chụp ảnh đưa lên, có nguy cơ bạn bị cho là khoe.

Nhưng không đưa lên thì thật bất công, ai mà biết bạn mới làm được một việc mà chính bạn cũng phải khâm phục bạn?

Theo Berman, cân bằng được hai đòi hỏi mâu thuẫn ấy là cả một nghệ thuật, bởi động lực căn bản trong hành vi của con người là muốn được ưa nhìn trong mắt kẻ khác, nhưng quá lên một tí thì lại thành kẻ khó ưa.

Berman thấy ngày nay "nhờ" mạng xã hội mà ta được gặp cảnh khoe khoang nhiều hơn. Cũng con người bình thường ngồi đối diện đây, không nói gì nhiều về bản thân, về sở thích; nhưng trên tài khoản mạng xã hội của họ lại đầy những thứ khoe: nào nhà to, nào hoa đẹp, nào con học giỏi, nào chồng galăng...

Thế rồi đến một lúc, bản thân người khoe cũng thấy "chướng" nên vô tình hay hữu ý mà dùng tới cách "khoe khiêm tốn".

Berman lấy ví dụ một ai đó than thở đêm qua bước trên thảm đỏ mà đạp trúng miếng bã kẹo cao su. Theo ông, người ta thấy kiểu khoe khiêm tốn này đáng ghét vì có kẻ đã đạt được mức độ thành công mà kẻ khác không có, rồi lại (giả vờ) than thở về việc ấy.

Khoe khiêm tốn hay "khoe khéo", theo định nghĩa là "việc khoe khoang được che đậy bằng một lời than thở hoặc sự khiêm tốn".

Trong một bài viết, Jamie Ducharme nói có hai loại rõ rệt. Loại đầu là một lời than, chiếm đến 60% của thể loại khoe khiêm tốn ("Mình ghét mình trông cứ trẻ mãi, đến nỗi thằng 19 tuổi còn xông vào tán!"). Loại thứ hai là một vẻ khiêm tốn ("Không hiểu sao mình kém cỏi mà cứ bị giao làm những tác vụ quan trọng nhất?").

Các nhà nghiên cứu bèn tiến hành các thí nghiệm xem người ta sẽ phản ứng ra sao với người "khoe khéo", có thấy họ đáng yêu và giỏi giang hơn không. Kết quả: khoe theo lối "truyền thống" ăn điểm về cả hai khía cạnh ấy, ít nhất là do nó "thật".

Ovul Sezer, một thành viên của đội nghiên cứu khuyên rằng nếu muốn khoe một điều gì đó thì ta cứ khoe thôi, ít nhất là mình tự khen mình, rồi sau đó còn nhận được phần thưởng của thành thật, còn hơn là dùng đến "khoe khéo" để cuối cùng mất mọi đằng.

Khoe trong đại dịch có gì sai không?

Khi đại dịch COVID-19 mới diễn ra, trên mạng có phong trào thử thách lúc cách ly: số lượng sách đã đọc, các bài thể dục khó đã chinh phục... Iris Casiano là một nhà tư vấn tâm lý, bà nhận thấy đi kèm với phong trào vui vẻ kia là một nhãn dán có phần hằn học: "Khoe khoang lúc cách ly".

Bà cũng nhận thấy một số khách hàng mang tâm lý "có lỗi" và "xấu hổ" khi phát hiện ra những khía cạnh tích cực của cách ly (khi ấy không ai nghĩ đại dịch sẽ đi lâu, đi xa tới tận hôm nay và cứ ngỡ rằng thời gian cách ly ấy chỉ là ngắn ngủi vài tuần).

Họ thấy do cách ly mà thành ra thiết tha hơn với việc kết nối người thân yêu, biết quay lại chăm sóc bản thân như ngủ đúng giờ, tập thể dục chăm chỉ, sắp xếp lại nhà cửa, máy tính... toàn những thứ khiến họ thêm tự tin vào khả năng "dám thay đổi" của chính mình.

Họ không dám thổ lộ điều này với ai, chỉ dám nói với Iris những cảm xúc hân hoan đó. Bà bảo họ rằng rất nên tự hào vì những thay đổi tích cực như vậy, và rằng là con người, chúng ta phải chấp nhận một sự thực: có những thời điểm khó khăn cho tất cả mọi người: có người mất rất nhiều, thậm chí mất hết, nhưng lại có những người biến chính lúc này thành cơ hội để phát hiện ra sự kiên cường đáng kinh ngạc của loài người.

Kiên cường là khả năng đối đầu về cảm xúc và tâm thần trước hoàn cảnh khó khăn. Đứng từ góc độ này, theo Iris, những gì bị gọi là "khoe khoang" nên được coi là "sự phản ánh tính kiên cường và nguồn sống tích cực của cá nhân trước nghịch cảnh".

Điều đó là có lợi, và Hội Tâm lý học Hoa Kỳ đã chỉ ra rằng: tư tưởng lành mạnh, hy vọng và tích cực là yếu tố chủ chốt để xây dựng nên sự kiên cường và hồi phục tốt.

Iris nói giữa một cuộc hỗn độn mà bản thân vẫn làm được việc này việc kia để tự hào thì cứ nên vui.

Bà cho một thí dụ nhỏ là lục trong tủ lạnh chỉ còn vài thứ vớ vẩn sót lại mà vẫn nấu được nồi xúp ngon thì cứ nên chụp ảnh mà chia sẻ trên Instagram, rồi sẽ có những người đón nhận nó như một biểu tượng của sự kiên cường và uyển chuyển, và đến lượt "quỹ kiên cường" của họ cũng được đánh thức mà bắt chước theo.

Chống chọi sự khoe khoang của kẻ khác

Bất kể lý do gì, khoe khoang giữa lúc đại dịch cũng là không nên, dù là khoe "nghị lực vượt nghịch cảnh", khoe "tủ lạnh đầy ắp ăn làm sao hết?" hoặc khoe "sự thanh thản ngắm chồi non mới nhú ở bancông".

Khi số đông đang mất mát vì đại dịch, người ta không nên chia sẻ những thứ mà họ thấy là "lợi ích từ đại dịch", bởi vì cái "lợi ích" ấy với họ có thể là lớn lao, giúp họ tìm lại được con người đích thực của họ, nhưng nó chỉ là hạt cát chìm lỉm giữa "bể khổ" của những người đang mất mát ngoài kia.

"Hạt cát lợi ích" ấy nếu có thì nên giữ trong lòng, hãy nhìn vượt ra khỏi đó nhận lấy bức tranh toàn cảnh.

Trong một bài viết, bác sĩ tâm lý học Amy Morin cho rằng những hình ảnh đáng ghen tị trên Instagram, Facebook... chỉ khiến người ta thêm tiêu cực. "Chỉ cần quẹt màn hình vài phút là đủ đi từ tệ tới tệ hơn. Không cẩn thận, sự khoe khoang của người khác có thể làm hại đến sức khỏe tâm thần bạn".

Đặc biệt là với những người đang sống trong phong tỏa, cách ly, căng thẳng; việc nhìn vào những bức ảnh "an nhiên" trên mạng của những người khoe mình hạnh phúc hơn, mạnh khỏe hơn, giàu có hơn sẽ làm nảy sinh sự so sánh vô lý mà không cưỡng lại được.

Nghiên cứu đã chỉ ra độ ganh tị với người trên mạng là có liên quan tới độ trầm cảm, và càng trầm cảm người ta lại càng ngồi một chỗ, thụ động lướt mạng, tạo thành một cái vòng luẩn quẩn tiêu cực khó phá bỏ.

Phải làm sao? Theo Amy Morin, bạn không thể khiến người khác bớt khoe họ giàu có và bình an ra sao giữa đại dịch, bạn cũng không thể nói họ là đừng có "khoe khéo", "khoe khiêm tốn" nữa, nghe ghét lắm, nhưng bạn có thể tự bảo vệ mình khỏi sự tấn công cùng lúc của cả đại dịch lẫn sự khoe khoang của kẻ khác, nhất là khi sự khoe ấy nhắm tới... bạn.

Theo Morin, bạn chỉ cần:

- Ít vào mạng xã hội lại. Tốt nhất là không theo dõi những ai làm mình nghĩ tiêu cực, xấu xí đi. Chỉ đọc những gì làm mình vui, mình tốt lên. Nhưng nói chung hãy bớt đi thời gian cho mạng xã hội.

- Không so sánh vớ vẩn nữa. Đừng mất năng lượng chỉ để so sánh giữa đời thực của mình với cảnh đời hư ảo mà kẻ khác muốn mình nghĩ là của họ. Nhớ rằng rất nhiều thứ bạn thấy trên mạng xã hội không hề phản ánh chính xác cuộc sống của người khác.

Và cho dù có chính xác đi chăng nữa, tức người ta giàu hơn, bình an hơn bạn giữa đại dịch thì cũng là... việc của người ta. Nếu đã quyết so thì hãy so luôn với những cảnh đời còn khổ hơn bạn.

- Hãy tự yêu mình. Ganh tị là khi ta tự xỉ vả mình vì đã không được như kẻ khác. Giờ là lúc hãy tập thương lấy mình, coi mình là bạn thân mình, cùng nhau lèo lái "có ít dùng ít có nhiều dùng nhiều" qua khó khăn.

Lời khuyên cho kẻ hay khoe

Theo chuyên gia Sezer, nếu không kiềm chế được sự khoe thì xử sự tốt nhất lúc này là chớ có tự khoe, hãy dùng người khác khoe hộ mình. Một người khác khen bạn làm bánh đẹp, một người khác khen nhà bạn sao mà đẹp..., khi đó bạn sẽ thoát khỏi việc bị coi là kẻ khoe khoang.

Nhưng rốt cuộc, nếu phải vất vả thế thì để làm gì? Để làm khổ người khác à? Để trêu tức ai đó à? Hay để như nhà văn Richelle E. Goodrich từng nói: "Một tràng khoe khoang chẳng thu hút được người bạn thật sự nào. Nó chỉ đặt ta lên một bục kê, khiến ta trở thành một mục tiêu dễ nhắm hơn"?

 

Một động cơ khác của khoe khoang

ttct1

Trái với Iris, trong một bài viết trên trang Magdalen, Sebastian Partogi thành thật nhìn nhận bản thân mình có hơi khoe khoang, không phải về vật chất mà về thành tựu trong nghề nghiệp. Lý do: đó chính là thứ khiến anh bất an nhất.

Partogi nhận thấy trong đại dịch, khi cảm giác mình tệ hại hơn vì mất kết nối người thực với người thực, anh lại muốn khoe về kỹ năng viết và dịch của mình hơn bao giờ hết.

Thế rồi đột nhiên anh thấy hình như người đọc đang mất cảm tình vì sự khoe này quá đà. Anh dừng lại, nhận ra bên dưới ham muốn khoe khoang tài giỏi là một cảm thức khốn khổ về cô độc, vô tích sự.

Dịch COVID-19 càng khốc liệt, tài chính cá nhân càng kiệt quệ, công việc càng bất ổn, cảm thức ấy càng tăng khiến anh càng muốn nói to với mọi người rằng tôi còn sống, tôi đọc nhiều sách lắm, tôi không sao, tôi vẫn là người được việc, và hơn tất cả, tôi vẫn đáng yêu.

Partogi nhìn quanh, bạn bè anh cũng nhiều người như thế. Họ khoe nhiều thứ khác nhau nhưng đều là để che đậy cảm giác đang gặp khó, đang thiếu thốn. Partogi kết luận: khoe khoang trên mạng xã hội thực chất là một tiếng kêu cứu của những người đang tuyệt vọng vì buồn chán.

Phạm Phong (tổng hợp và dịch)

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 31.7.2021.

Học giả Đào Duy Anh sinh ngày 25-4-1904 tại Thanh Hóa và mất ngày 1.4.1988 tại Hà Nội. Quê gốc của ông ở làng Khúc Thủy, tổng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông (nay là TP Hà Nội). Sau khi tốt nghiệp Thành chung tại Trường Quốc học Huế (1923), ông không ta làm công chức mà chọn nghề dạy học ở Đồng Hới (Quảng Bình).

20210407 2

Đào Duy Anh (1904-1988).

Năm 1928, ông sáng lập Quan hải tùng thư, với sự cộng tác của những trí thức cấp tiến như Võ Liêm Sơn, Trần Đình Nam, Phan Đăng Lưu… xuất bản những tập sách phổ cập để người đọc làm quen với tư tưởng khoa học. Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi, nhà xuất bản này đã cho ra đời 13 ấn phẩm, trong đó có những trước tác đầu tay của Đào Duy Anh. Tháng 7.1929, ông bị chính quyền thực dân bắt, cho đến đầu năm 1930 mới ra khỏi nhà tù.

Từ đó, ông bắt đầu chuyên tâm vào con đường hoạt động văn hóa và khoa học. Ông đã hoàn thành và xuất bản hai bộ từ điển rất có giá trị là  Hán Việt từ điển (1932) và Pháp Việt từ điển (1936). Đây không những là những sách công cụ cần thiết cho sự tra cứu, đáp ứng yêu cầu phát triển văn hóa, khoa học lúc bấy giờ, mà còn qua các từ, các khái niệm chính trị, tác giả đưa ra những cách giải thích tiến bộ và khoa học theo quan điểm và trào lưu tư tưởng hiện đại.

Về việc biên soạn bộ Hán Việt từ điển, trong tập hồi ký Nhớ nghĩ chiều hôm (NXB Trẻ, 1989) ông cho biết: Vào đầu những năm 30 của thế kỷ trước, tiếng Việt đã được phổ biến trên các sách vở báo chí, hoàn toàn thay thế cho chữ Hán. Một nền văn học mới đang hình thành, thoát dần sự ràng buộc của lối văn từ chương kéo dài cho đến đầu thế kỷ. Nhưng lúc đó, ở các trường bảo hộ, học sinh phải học chữ Pháp là chính, chữ quốc ngữ bị coi là thứ yếu. Do đó, lớp thanh niên được đào tạo ở những trường này hầu hết đều bị cắt rời khỏi nền Hán học. Bên cạnh đó, không ít người được học từ Pháp về đa số đều trở thành “mất gốc”.

Trong các lĩnh vực khoa học xã hội, nhiều người chỉ biết diễn đạt những khái niệm mới bằng tiếng Pháp chứ không sử dụng được tiếng mẹ đẻ. Nếu như những năm trước Thế chiến thứ nhất, các sĩ phu yêu nước trong khi truyền bá những tư tưởng mới cho quốc dân, thường phải lấy nguyên các từ chính trị của Trung Quốc để phiên âm Hán Việt, bất kể từ đó có trong Tiếng Việt hay chưa, thì lúc đó họ phải nói chuyện với nhau bằng Tiếng Pháp. Tình trạng đó đã hạn chế một phần việc phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc. Ý định biên soạn sách Hán Việt từ điển của ông nảy sinh từ đó.

Vợ chồng ông Đào Duy Anh và các học trò.

Trong cuốn hồi ký Sống với tình thương (NXB Trẻ, 1992), bà Trần Thị Như Mân (1907-1992); phu nhân của ông đã kể lại sự ra đời của bộ từ điển này khá chi tiết. Bà cho biết thời điểm biên soạn từ điển thì gia đình bà đang ở Huế. Trong việc biên soạn, bà được ông giao cho công việc sắp xếp lại những tài liệu đã có, trong đó có bộ phích ghi chú các danh từ khó mà ông đã làm từ trước. Bà còn có nhiệm vụ đọc Nam Phong toàn tập, các sách và tạp chí bằng quốc văn quan trọng, để lọc ra những từ Hán Việt thường dùng, trong đó bao gồm cả các tác phẩm văn học cổ điển như Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc…

Trong khi đó, ông Đào Duy Anh gửi thư cho bạn bè và các nhà sách quen ở Hà Nội, Sài Gòn nhờ tìm mua các loại từ điển cũ mới để tham khảo. Nhờ đó, ông nhận được các bộ từ điển Từ nguyên, Từ hải, Khang Hy từ điển, Trung Quốc quốc ngữ đại từ điển, Vương Văn Ngữ từ điển, Bạch thoại từ điển…

Các từ Hán Việt được bà trích ra, ghi ra phích, sau đó xếp theo thứ tự ABC, rồi đưa cho ông xem. Sau khi ông bổ sung, bà mới chép ra giấy, mỗi từ cách nhau vài dòng để ông ghi giải nghĩa. Theo bà Như Mân, chữ của ông viết rất khó đọc, chỉ có mình bà đọc được. Khi bà sinh con, bận việc nhà, phải thuê người chép giúp, người này phải chừa nhiều chỗ trống vì không đọc ra, phải chờ bà điền sau. Ban ngày, bà bận buôn bán ở cửa hàng, đến 9 giờ tối đóng cửa mới bắt tay vào công việc ghi chép đến 11 giờ, ngày nào cũng đều đặn như vậy. Chỉ có tối thứ bảy và chủ nhật, bà mới nghỉ ngơi để đi thăm bạn bè và giải trí.

Ông Đào Duy Anh cũng vậy, ngoài thời gian đi dạy ở trường tư thục Phú Xuân, về đến nhà là bắt tay vào làm việc ngay. Ông tự đặt “chỉ tiêu” mỗi ngày phải làm xong mấy chữ mới được nghỉ. Cứ xong được một tập, bà phải chép lại rồi nhờ mấy người em của ông, khi thì ông Đào Duy Kỳ, khi thì ông Đào Duy Dếnh, đạp xe đưa lên nhà cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự để cụ xem lại.

Hán Việt từ điển.

Sau khi xong quyển Thượng (Từ A đến M), bà Như Mân lo việc in để ông tiếp tục làm phần Hạ (từ N đến X). Lúc đó ông bà không có vốn, muốn in phải có tiền mua giấy và đặt trước cho nhà in. Do đó, ông viết lời giới thiệu quyển từ điển sắp ra để kêu gọi người đọc hãy đặt mua trước, mỗi quyển là 1 đồng. Lời giới thiệu được gửi đăng báo và in thành nhiều tờ gửi tới các nhà xuất bản, các hiệu sách và bạn bè để nhờ giúp đỡ. Đồng thời ông nhờ cụ Phan Bội Châu viết lời đề tựa, ký tên là Hãn Mạn Tử, trong đó có đoạn:

“Đau đớn thay! Quốc văn nước ta không thể nào bỏ được Hán văn, mà cớ sao các nhà trước tác chưa ai lưu tâm đến những bộ từ điển, từ nguyên, làm thành ra Hán việt hợp bích, để khiến người ta nhân Quốc văn mà hiểu thêm Hán văn, hiểu Hán văn mà thêm hay Quốc văn?

May mắn thay! Gần đây gặp được người bạn thanh niên là ông Đào Duy Anh vừa biên thành bộ Hán Việt từ điển, toan cống hiến với đồng bào, bỉ nhân được tin mừng khuống gấp, tìm tuyền cảo đọc xem, thấy chú thích tinh tường, phẫu giải minh bạch, tóm lặt hết từ ngữ thuộc về Hán văn, mà Việt văn phải dùng đến, cộng hơn bốn vạn điều.

… Rày mai quyển sách ấy xuất bản lưu hành, chắc ở trên vũ đài quốc văn lại thêm vô số dác sắc mới, há chẳng phải một việc rất đáng mừng cho học giới ta hay sao…?”.

Một trang trong Hán Việt từ điển (1932).

Cũng theo bà Như Mân, trong khi chờ số tiền người đặt mua gửi về, bà viết thư cho bác sĩ Trần Đình Nam; người từng cộng tác với ông Đào Duy Anh tại Quan Hải tùng thư, giúp ông biên soạn một số cuốn sách về khoa học, khi đó ở Đà Lạt để hỏi vay 100 đồng. Bà còn vay của người chị là bà Nguyễn Khoa Tú một đôi xuyến vàng, đem cầm để lấy tiền ứng trước. Với số tiền đó, bà có thể đặt cho nhà in báo Tiếng Dân ở Huế để in quyển Thượng.

Xong quyển Thượng, ông bà thu được một số tiền, có thể lo in quyển Hạ tử tế hơn. Ông chuyển bản thảo sang in tại nhà in Lê Văn Tân ở Hà Nội, vì nhà in này có nhiều chữ Hán, kỹ thuật in cũng đẹp hơn. Bản thảo gửi đi, nhà in sắp chữ in thử, rồi gửi từ Hà Nội vào Huế theo tàu tốc hành cho ông sửa chữa.

Hán Việt từ điển và những lần xuất bản về sau.

Hàng ngày, cứ tàu tốc hành đến, ông bà cho người lên chờ sẵn ở bưu điện Huế, lấy bản dập thử về, tập trung chỉnh sửa cả ngày đêm để hôm sau kịp giờ gửi qua bưu điện theo tàu tốc hành ra Hà Nội. Cứ như thế, quyển Hạ hoàn thành, tính từ khi bắt tay vào công việc đến khi sách in xong trọn bộ chỉ trong vòng hai hăm. “Chúng tôi đã để hết tâm trí vào công việc mà may mắn là kết quả không phụ với công sức của vợ chồng chúng tôi và sự giúp đỡ của bạn bè”, bà Như Mân viết.

Khi bắt đầu biên soạn từ điển, tác giả chỉ mới 26 tuổi, tuy nhiên có thể nói rằng đây là bộ sách đầu tiên về từ điển ở thể loại này, nó rất hữu ích và giá trị mà cho đến nay vẫn được giới nghiên cứu đánh giá cao. Ngoài việc biên soạn hai bộ từ điển Hán -Việt và Pháp -Việt, Đào Duy Anh còn xuất bản nhiều tác phẩm khác trong lĩnh vực văn hóa, văn học như Việt Nam văn hóa sử cương (1938), Khổng giáo phê bình tiểu luật (1938), Trung Hoa sử cương (1942), Khảo luận về Kim Vân Kiều (1943)…; những công trình này đã đặt nền tảng cho sự hình thành nền văn hóa học hiện đại Việt Nam trên tinh thần khoa học và dân tộc.

Hồi ký của Đào Duy Anh (trái) và Hồi ký của bà Như Mân - phu nhân của học giả Đào Duy Anh.

Châu Quân

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 24.3.2021.

Đây là câu chuyện về một trong các vật phẩm văn hóa quan trọng nhất của lịch sử loài người: sách. Câu chuyện kể về sự tiến hóa của chúng trong sự song hành với tiến hóa của lịch sử nhân loại. Trong sự tương tác đó, không chỉ có việc con người tạo ra các loại thư tịch mà bản thân sự tiến hóa của sách cũng tham gia thúc đẩy những đổi thay của xã hội loài người.

20210715 2

Thư viện Alexandria, một trong những thư viện nổi tiếng nhất thời cổ đại, một phần của một viện nghiên cứu ở Alexandria, Ai Cập. Nguồn: britannica.com

Bản thân mỗi cuốn sách là một vật phẩm văn hóa và sự tiến hóa của chúng là lịch sử thu nhỏ của sự giao lưu giữa các nền văn minh. Đi theo mỗi cuốn sách không chỉ là một phả hệ tri thức nó truyền tải, mà còn là lịch sử kỹ thuật, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tư tưởng của một thời đại.

Người kể câu chuyện này là một trong những chuyên gia hàng đầu về lịch sử của sách: James Raven (Giáo sư danh dự tại Đại học Essex). Công trình ngắn nhưng quan trọng này là một nỗ lực của ông nhằm đưa ra góc nhìn mới, mang tính gợi mở về lịch sử của sách từ khung cảnh toàn cầu, trong phổ thời gian kéo dài từ 14.000 năm trở lại đây, thời điểm mà tác giả tin rằng đã xuất hiện những hệ thống ký tự đầu tiên.

Tính chất toàn cầu của sách được phản ánh trong những đại tự sự của lịch sử thế giới hiện đại, nơi sách sẽ vượt qua các khuôn khổ bản địa, tham dự vào các làn sóng quốc tế: hiện đại hóa, đế chế thực dân, chủ nghĩa quốc gia, dân tộc, số hóa… “Sách không biên giới”, như chúng ta sẽ thấy, sẽ mở rộng các mạng lưới tri thức, học thuật, nghệ thuật, khoa học, tham gia vào việc tạo ra các làn sóng thực hành thư tịch toàn cầu.

Chính vì sự tham dự của sách vào những bước chuyển lớn lao của văn minh nhân loại nên đây là thời điểm thích hợp để nhìn lại lịch sử thư tịch, thời điểm mà câu hỏi về tầm ảnh hưởng và tiến hóa hình thức của sách đang đặt ra cấp thiết hơn lúc nào. Những chủ đề này không chỉ phản ánh các diễn ngôn lịch sử xã hội, tìm về nguồn gốc tri thức và sự tiến triển của chúng mà còn soi rọi mối quan hệ giữa tri thức với các dạng thức lưu trữ và truyền bá. Công nghệ số đang thách thức định nghĩa truyền thống (và thực hành truyền thống) về sách. Nhân văn số thức (digital humanities) đang tạo ra một cuộc cách mạng thông tin giống như cách thức mà sự bùng nổ in ấn đã tạo ra thời Khai sáng. Theo sau đó là những thay đổi trong hoạt động sáng tạo tri thức, hoạt động lưu hành và tác động của những ý tưởng lịch sử xã hội đó trên phạm vi toàn cầu.

Sách, với tư cách là một thực hành của loài người, có sức mạnh ảnh hưởng tới sự tiến hóa của các xã hội. Chúng không chỉ phản ánh thay đổi của kênh biểu đạt tri thức mà còn là sự thay đổi trong thế giới quan, góc nhìn chính trị, sự thúc đẩy tinh thần, tôn giáo, ý thức hệ…

Khác với các giống loài tự nhiên khác, xã hội người được dẫn dắt bởi các đại tự sự. Sách là công cụ chủ đạo để khuếch đại các diễn ngôn đó, dù là Kinh Qu’ran hay cuốn sách Mao Tuyển. Mỗi xã hội và mỗi giai đoạn phát triển được định hình bởi khung cảnh thư tịch nhất định, từ Tứ Thư, Ngũ Kinh ở Trung Quốc thời Cổ Trung đại cho tới Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản thời Hiện đại. Cuộc cách mạng in ấn ở châu Âu thế kỷ XV là ví dụ sống động về cách thức tương tác của văn hóa đọc, thư tịch với bước tiến văn minh. Việc sản xuất hàng loạt, giá rẻ và khả năng truyền bá rộng rãi của sách in tạo ra các mạng lưới tri thức mới (xét về tầm mức ảnh hưởng, có thể coi đó là phát minh “facebook” của thế kỷ XV). Thậm chí năm 1545, học giả Thụy Sĩ Conrad Gesner đã cảnh báo về “sự phong phú đến mức hỗn loạn và có hại của sách vở”. Sự gia tăng nhanh chóng số lượng thư tịch (góp phần) tạo ra một loạt thực hành mới của loài người về thư viện, lưu trữ, biên mục, thương mại sách vở, bùng nổ tri thức, văn hóa Phục Hưng, thế kỷ Ánh sáng, bách khoa toàn thư, chiến tranh tôn giáo, sách cấm, máy chém và những giàn hỏa thiêu. Gottfried Wilhelm Leibniz (1646 – 1716), một thủ thư và là học giả đã mô tả về một “khối lượng sách khủng khiếp” ở giai đoạn này. Hệ quả của sự bùng nổ in ấn là một thuật ngữ mới ở thế kỷ XVIII, “chứng cuồng sách” (bibliomania). Theo sau là một loạt các yêu cầu mới đặt ra đối với người thực hành sách, bao gồm nhu cầu về ngành khoa học quản lí sách như thư mục học, vận hành thư viện…

Điều quan trọng là sách không chỉ tạo ra những người cuồng tín thư tịch. Nó đã góp phần tạo ra châu Âu hiện đại. Từ tri thức, ngôn ngữ, tôn giáo, giáo dục, báo chí đó đã ra đời nước Pháp, nước Anh, nước Đức hiện đại. Sự thắng thế của phương Tây ở thế kỷ XIX - XX sẽ xác lập một nền văn hóa đọc mới trên toàn thế giới. Đi cùng với đó là quá trình “hiện đại hóa”, “chuẩn hóa” của thực hành sách được thúc đẩy qua vai trò của thư viện, câu lạc bộ sách, hội sách, chương trình đăng ký đọc, các hội nhóm tranh biện, các cộng đồng tôn giáo, các trường đại học, các trung tâm bổ túc văn hóa cho người lao động, chủ nghĩa thực dân, giáo dục đại chúng và các lớp bình dân học vụ… Sách dần có một bộ mặt toàn cầu.



Nhà toán học, nhà thơ Eratosthenes (c. 276-194 B.C.) – trái, từng được vua Ptolemaios III Euergetes bổ nhiệm làm thủ thư tại Thư viện Alexandria vào năm 236 TCN. Nguồn: Wikipedia.

Lịch sử của sách thời hiện đại sẽ trở nên phức tạp gắn liền với sự tương tác và ảnh hưởng sâu rộng của chúng tới nhiều lĩnh vực. Từ cuối thế kỷ XVIII, văn hóa in ấn không chỉ có sách. Báo, tạp chí, quảng cáo… thậm chí còn bùng nổ hơn cả sách in. Văn hóa in ấn với tất cả các sản phẩm của nó, vì thế được coi là khung cảnh rộng nhất của việc trình bày văn bản, thông tin, bản đồ, biểu đồ, tin tức, quảng cáo, tuyên truyền. Thậm chí có thể coi đó là một lịch sử xã hội và văn hóa truyền thông bằng phương thức in ấn. Chính vì thế tác động của in ấn nằm trong các diễn ngôn lịch sử lớn của thời đại. In ấn in dấu lên nhiều lĩnh vực, tạo ra sự khuếch đại đối với các thực hành ở quy mô chưa từng có trong lịch sử. Không phải ngẫu nhiên đi sau cơn bão in ấn ở châu Âu là cách mạng tư sản, chủ nghĩa dân tộc. Không phải ngẫu nhiên theo sau tân văn, tân thư cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX là các cuộc chuyển dịch xã hội và cách mạng chính trị sâu rộng ở thế giới Đông Á. Hai trong số các ví dụ quan trọng nhất về sách và nền văn hóa in ấn này có thể kể đến sự ra đời của chủ nghĩa dân tộc và xác lập không gian công cộng hiện đại.

Đó là thời đại mà xã hội được dẫn dắt bởi những bản in như Sự thịnh vượng của các quốc gia, Nguồn gốc các loài, Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản… Chúng không chỉ tạo ra “các diễn ngôn về văn minh, đức tin, trí tuệ, khoa học và tiến bộ” của thời đại mà còn tham gia dẫn dắt sự vận hành của xã hội loài người, cách mạng khoa học, kỹ thuật, ý thức hệ, cách mạng văn hóa, tư tưởng, chính trị, xã hội… Từ ý nghĩa này, sách đã góp phần định hình các xã hội và thúc đẩy hay níu giữ sự tiến hóa của chúng. Thư tịch ở Trung Hoa là một ví dụ. Kể cả ở giai đoạn Sơ kỳ Cận đại, số lượng sách phong phú không hề thua kém châu Âu. Lời mở đầu của một bộ sách thời Minh năm 1599 viết: “sách vở bây giờ nhiều vô cùng như biển nước, người ta làm sao mà đọc hết được?” Thư tịch và hoạt động sử dụng thư tịch là một trong các yếu tố góp phần định vị vai trò của tầng lớp “Sĩ”, những người dẫn dắt xã hội. Bên cạnh đó cũng đừng quên những người thợ mộc khắc bản in, các xưởng in, thợ sản xuất mực, giấy, thương nhân buôn bán sách, tiệm sách và quán trà nơi sách được bàn luận.

Ở một góc độ khác, sách mê tín, phù thủy, chiến tranh tôn giáo, tin giả… cũng tham gia định hình xã hội loài người. Đó là những cuốn sách gây hỗn loạn. Nhưng quyền năng của sách chưa dừng lại ở đó. Nó không chỉ tạo ra và lan truyền một thế giới tri thức, xác lập hay hủy hoại trật tự xã hội, đôi khi sách còn là một vật phẩm linh thiêng. Hành động hôn lên cuốn Kinh Thánh ở châu Âu được cho là mang đến một nguồn sức mạnh quyền năng hay sự bảo trợ như một thứ bùa hộ mệnh. Vì thế, các chiến binh Thiên Chúa giáo hay Hồi giáo đã mang theo các cuốn kinh sách khi ra trận. Điều này cũng làm liên tưởng tới các “chiến binh” Nho giáo: tầng lớp “Sĩ”, với sự thiêng liêng của sách vở Thánh hiền mà họ thực hành. Trong sự thực hành đó, thư tịch rõ ràng là một động lực thay đổi lịch sử. Đồng thời, ở chiều hướng ngược lại, mỗi xã hội đều sở hữu một lịch sử phức tạp của quá trình kiểm soát: bản quyền, kiểm duyệt và lưu hành cho tới tác phẩm không chính thống (samizdat literature). Đó là lịch sử xung đột và bạo lực nhìn từ thư tịch.

Chính nhu cầu quản lý sách sẽ tạo ra một loạt các thiết chế và lĩnh vực khoa học mới. Chúng ta đã nói về sự ra đời của các ngành thư mục học ở châu Âu thời Sơ kỳ Cận đại. Các thư viện công được chuẩn hóa sẽ được thành lập trên khắp nước Anh và nước Đức ở thế kỷ XIX. Đó là cơ sở để thế kỷ sau đó, người Thái sẽ cải tổ các thư viện hoàng gia “truyền thống” thành một thư viện quốc gia “hiện đại” thành lập năm 1905; trong khi Việt Nam có Thư viện Trung ương Đông Dương (Bibliothèque centrale de l’Indochine) ra đời năm 1917 với vai trò tổ chức của người Pháp. Một lịch sử so sánh toàn cầu về hệ thống thư viện chắc chắn sẽ làm gia tăng hiểu biết của chúng ta về lịch sử tri thức, chuyển giao tri thức và hoạt động sáng tạo tri thức của các xã hội.

Yếu tố quan trọng tiếp theo của thực hành sách là mối quan hệ giữa sách và độc giả. Điều này phản ánh hoạt động đọc và sự vận động của nó theo sau sự thay đổi thư tịch. Một trong các cách thức “chẩn đoán” một xã hội là “phẫu thuật” nó từ khía cạnh của hoạt động đọc sách. Ai là người đọc? Họ đọc gì? Đọc để làm gì? Đọc trên phương tiện gì và tác động của việc đọc đó? Trả lời cho những câu này sẽ góp phần định vị trình độ phát triển, bản sắc tri thức của mỗi thời đại. Quá trình tiến hóa của lịch sử đã mang lại cuộc cách mạng thực sự cho văn hóa đọc. Đó là sự gia tăng số lượng độc giả, từ một vài phần trăm thời Cổ Trung đại tới gần như toàn bộ dân số trưởng thành có khả năng đọc sách ở thời Hiện đại. Khi đó, sách, qua hoạt động đọc, sẽ đóng vai trò trực tiếp trong những chuyển giao của thời đại.

Codex Cospi, một thủ bản dạng hình vẽ của nền văn minh Trung Mỹ thời tiền Cô-lôm-bô, được cho là có nguồn gốc từ vùng Puebla-Tlaxcala (Mêhicô ngày nay). Nguồn: James Raven, 2021.

Hành vi đọc cũng sẽ được thay đổi với không gian đọc, kỹ thuật đọc, thiết bị đọc, mạng lưới độc giả… Khi lượng sách trở nên phong phú, phát triển nhiều loại hình thì sự phân hóa của độc giả cũng trở nên sâu sắc hơn bao giờ hết. Khái niệm “thị hiếu đọc” sẽ xuất hiện, thống trị và dẫn dắt việc sản xuất sách – giờ đã trở thành một ngành “công nghiệp” chuyên môn hóa cao độ. Khi Khổng Tử biên soạn Kinh Xuân Thu, có lẽ ông không thể tượng tượng rằng 2.500 năm sau, mọi thứ đã tiến xa đến thế. Sự biến đổi của sách giúp thay đổi niềm tin và hành vi của con người đối với hoạt động đọc. Ngược lại, với kỹ thuật hiện đại, chu trình tuần hoàn của các văn bản trở nên nhanh hơn. Quá trình toàn cầu hóa về sách vở, sách dịch, chuẩn hóa về kỹ thuật, bản quyền và mới nhất là sách điện tử đã tạo ra cuộc cách mạng trong cách thức văn bản được thu nhận, truyền tải, lưu hành, đọc, truy vấn, tìm kiếm và lưu trữ. Và đó mới chỉ là một phần nhỏ của câu chuyện tương lai về sách vừa mới chỉ bắt đầu.

Cuối cùng, sách tạo ra các làn sóng văn hóa, văn minh: từ truyền miệng sang văn hóa chép tay, văn hóa in ấn và văn hóa số, mặc dù sự xuất hiện của cái sau không nhất thiết đồng nghĩa với sự triệt tiêu của cái trước. Trên cơ sở đó, việc nghiên cứu lịch sử sách có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phác thảo các mẫu hình tiến hóa của nhân loại. Dù lịch sử sách và sự phát triển của ngành lịch sử của sách là lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ từ những năm 1980, nhưng bản thân hoạt động này đã có từ hàng nghìn năm trước. Thông qua việc mở rộng phạm vi của lịch sử thư tịch từ khung cảnh địa lý, kỹ thuật và lịch đại, Lịch sử của sách gợi mở một góc nhìn mới mẻ, rộng lớn và có tính hệ thống trong lĩnh vực nghiên cứu lịch sử thư tịch trên phạm vi toàn cầu, mở ra những hướng mới cho lĩnh vực nghiên cứu lịch sử xã hội và lịch sử tri thức mà ở đó, sách là một thực hành của loài người.

Sách đã thay đổi lịch sử loài người nhiều hơn chúng ta tưởng, và cuộc hành trình khám phá những thay đổi đó mới chỉ bắt đầu.□

Vũ Đức Liêm

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 02.7.2021.

-----

Tham khảo

Anderson, Benedict R. O’G. Imagined Communities: Reflections on the Origin and Spread of Nationalism. London: Verso, 2006.

———. Những Cộng Đồng Tưởng Tượng: Suy Nghĩ về Nguồn Gốc và Sự Lan Truyền Của Chủ Nghĩa Dân Tộc (Nguyễn Thu Giang, Vũ Đức Liêm, Phạm Văn Thủy, Nguyễn Thanh Tùng Dịch). Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm, 2018.

Baldanza, Kathlene. “Books without Borders: Phạm Thận Duật (1825–1885) and the Culture of Knowledge in Mid-Nineteenth-Century Vietnam.” The Journal of Asian Studies 77, no. 03 (August 29, 2018): 713–40. https://doi.org/10.1017/S0021911818000499.

Carpenter, Kenneth E., ed. Books and Society in History. New York: R.R. Bowker, 1983.

Connery, Christopher L. The Empire of the Text: Writing and Authority in Early Imperial China. Boulder: Rowman & Littlefield Publishers, 1998.

Darnton, Robert. “What Is the History of Books?” Daedalus 111, no. 3 (1982): 65–83.

Habermas, Jürgen. The Structural Transformation of the Public Sphere: An Inquiry Into a Category of Bourgeois Society. Cambridge: Polity Press, 2015.

Harari, Yuval N. Sapiens: A Brief History of Humankind. London: Harvill Secker, 2014.

Howsam, Leslie, and James Raven, eds. Books between Europe and the Americas: Connections and Communities, 1620–1860. London: Palgrave Macmillan UK, 2011.

Lewis, Mark Edward. Writing and Authority in Early China. NY: SUNY Series in Chinese Philosophy and Culture, State University of New York Press, 1999.

McHale, Shawn. Print and Power: Confucianism, Communism, and Buddhism in the Making of Modern Vietnam. Honolulu: University of Hawai’i Press, 2008.

———. “Vietnamese Print Culture under French Colonial Rule: The Emergence of a Public Sphere.” In Books in Numbers, edited by Idema Wilt, 377–415. Hong Kong: Hong Kong University Press, 2007.

Nguyên, Trần Ích. Thư Tịch Trung Quốc và Thơ Văn Đi Sứ Trung Hoa Thời Nguyễn 越南阮朝所藏中國漢籍與使華詩文 (Chinese Books and Envoy Literature of the Nguyen Dynasty). Hà Nội: Nxb Đại học Sư phạm, 2018.

Raven, James. Lost Libraries: The Destruction of Great Book Collections Since Antiquity. London: Palgrave Macmillan, 2004.

———. The Oxford Illustrated History of the Book. Oxford: Oxford University Press, 2020.

Scott, James C. The Art of Not Being Governed : An Anarchist History of Upland Southeast Asia. Yale University Press, 2009.

Từ xa xưa, đối với mỗi người đọc sách, thư viện là thánh đường, nơi ấy mỗi khi họ bước vào đều cảm nhận sâu sắc phúc phận được tiếp cận với tri thức của bản thân.

Thư viện thuở ấy là nơi không dễ để bước vào, bởi để bước chân vào thư viện, một người cần phải là một học giả được công nhận, hoặc là môn đệ của một trường phái được chấp thuận, hoặc thuộc tầng lớp tu sĩ và quý tộc… Thời đại đổi thay, dần dần, chúng ta không còn cảm giác linh thiêng, tự hào khi được bước chân vào thư viện nữa.

Vào thư viện không phải để tìm tri thức

Một buổi sáng ngày thường trong Thư viện Quốc gia Hà Nội, ta có thể thấy nhiều người không phân biệt già trẻ, trai gái ngồi kín chỗ tại thư viện. Nhiều người trong số ấy chọn cho mình các cuốn sách trên kệ, và một số thì chỉ đơn giản là mở máy tính và làm công việc riêng. Thư viện với không gian rộng rãi, yên tĩnh, không chỉ là nơi mượn sách nữa, mà đã trở thành một không gian công cộng phục vụ nhu cầu học tập và làm việc cá nhân với chi phí rẻ. Tương tự như vậy, khi các quán cà phê thư viện mọc lên, thì hoạt động đọc sách tại thư viện chung không phải là thiết yếu, mà các vị khách có nhu cầu tìm một góc yên tĩnh cho mình. Thư viện đối với người hiện đại trở thành một góc yên tĩnh, trốn khỏi không khí xô bồ và ồn ào.

Nhưng thói quen này có khiến chúng ta ngày càng xa rời với ý nghĩa ban đầu của thư viện hay không? Có lẽ, chúng ta có cơ hội tiếp cận với một khối lượng khổng lồ những tri thức, nhưng lại mất dần đi sự kết nối với tri thức ấy. Áp lực cuộc sống, sự phân mảnh trong tư duy, sự lười biếng thiếu động lực…tất cả những điều này đang ảnh hưởng đến thói quen bước vào thư viện của chúng ta, nhưng không chỉ có vậy, có lẽ thư viện quá khó để kết nối, ngay cả khi đã bước chân vào.

Trong thư viện công, vẫn chiếc máy tính cũ kỹ là công cụ giúp người đọc tra danh mục sách (ở một số nơi hẻo lánh, có lẽ còn không có). Và càng bất khả thi để tiếp cận các tư liệu đã được số hóa nhưng có lẽ sẽ còn lâu nữa mới được công bố vì những hạn chế về kỹ thuật và sự không rõ ràng của pháp lý liên quan đến bản quyền. Cùng lúc ấy, chỉ một dòng gõ ngắn hay một đường vuốt nhẹ trên màn hình điện thoại để một người có thể đọc một mẩu tin hay xem một đoạn video giải trí trên Internet. Tới đây, ta buộc phải suy nghĩ nghiêm túc về vấn đề liệu có thực tri thức quá khó để xã hội tiếp cận hay đơn giản vì tri thức mà cụ thể ở đây là những cuốn sách đang "chạy chậm" trong cuộc đua đến với bạn đọc trên phương tiện số.

Sự yêu thích cảm giác mân mê trang sách giấy không nên là cái cớ để là chậm lại quá trình số hóa sách và tư liệu. Hoạt động số hóa sách và tư liệu về bản chất là để tiết kiệm chi phí lưu trữ, khắc phục hư hỏng… đồng thời để tăng cơ hội tiếp cận của đại đa số xã hội. Và một khi sách và tư liệu điện tử được các thư viện công bố rộng rãi, thì có lẽ sẽ tồn tại một nghịch lý: bước vào thư viện không có nghĩa là kết nối với tri thức. Bởi vì, người bước vào thư viện có thể không vì mục đích kết nối với tri thức và người tìm kiếm tri thức không nhất thiết phải bước vào thư viện.

20210322 10

Các học giả tại Thư viện Abbasid, được vẽ vào năm 1273 bởi họa sĩ Yahyá al-Wasiti.

Cần nhiều hơn những cú nhấp chuột

Với những độc giả Việt có khả năng đọc tiếng Anh, không khó để tiếp cận tri thức. Có rất nhiều phương án để kết nối với các thư viện trực tuyến phục vụ cộng đồng: Thư viện số của MIT, Dự án Gutenberg, Google Books, Thư viện số Internet Archieve… Những thư viện số này đều được phân loại theo danh mục rõ ràng, dễ tìm kiếm, thao tác đơn giản… Các thư viện công cộng trực tuyến này đã mở ra một thế giới tri thức mới mẻ cho rất nhiều độc giả trẻ trên khắp toàn cầu, trong đó có các độc giả Việt Nam. Đọc và tra cứu sách tiếng Anh thay vì sách tiếng Việt đã trở thành thói quen không thể thiếu đối với nhiều độc giả trẻ có trình độ học vấn cao, thông thạo tiếng Anh vốn đang ngày càng gia tăng. Dần dần, sẽ dẫn đến một tình trạng: độc giả trẻ yêu thích sử dụng tiếng Anh hơn tiếng Việt và mất dần đi sự thân thuộc với ngôn ngữ Việt. Mặc dù thị trường sách Việt Nam sôi động với rất nhiều đầu sách chất lượng mới được xuất bản bằng nhưng hạn chế trong tốc độ và khả năng tiếp cận vẫn là cản trở trong cuộc đua ngôn ngữ và văn hóa, đặc biệt khi những cuốn sách ấy chỉ được phân phối về các thư viện công hay các thư viện chuyên ngành.

Lượng thư viện số hóa tiếng Việt hoạt động tích cực trên Internet hiện nay chỉ đếm trên đầu ngón tay và chủ yếu là các thư viện chuyên ngành. Nổi tiếng nhất có lẽ là Thi Viện - thư viện các tác phẩm thơ và Thư Viện Pháp Luật - thư viện về các văn bản pháp luật tại Việt Nam. Hai thư viện số này đều được xây dựng dựa trên cấu trúc phân loại chi tiết và tối ưu công cụ tìm kiếm - mô hình quản lý rất ít thấy tại các thư viện số tiếng Việt hiện nay vốn chỉ manh mún, phát triển chưa toàn diện, thậm chí không được đảm bảo về pháp lý. Hai thư viện chuyên ngành này đã tạo ra một kho dữ liệu khổng lồ mà bất cứ độc giả trực tuyến nào chỉ cần quan tâm đến đều có thể tiếp cân, không giới hạn và không đòi hỏi các yêu cầu phức tạp như bằng cấp hay giấy giới thiệu từ cơ quan chủ quản.

Từ những mô hình thư viện trực tuyến thành công trên thế giới và tại Việt Nam và sự hạn chế của các không gian thư viện, một loạt các câu hỏi liên quan đến triết lý xây dựng thư viện được đặt ra: Nhiệm vụ thực sự của thư viện là gì, tiếp cận tri thức hay không gian tri thức? Thư viện bất kể là thư viện công hay thư viện chuyên ngành liệu có nên là một địa chỉ dễ tiếp cận với tất cả mọi người hay không? Và thư viện cho mọi người dân có nằm trong thứ tự ưu tiên hàng đầu so với các hoạt động văn hóa giáo dục khác?... Trả lời những câu hỏi này sẽ quyết định đến tốc độ triển khai việc số hóa toàn bộ hệ thống thư viện sách tiếng Việt hiện nay.

Những băn khoăn về sự phức tạp về vấn đề luật bản quyền hay những khó khăn về kỹ thuật chỉ là bề nổi của sự chậm trễ trong tiến trình số hóa hệ thống thư viện hiện nay. Thúc đẩy khả năng và tốc độ tiếp cận tri thức của người dân chưa bao giờ nằm ở vị trí ưu tiên trong cách chính sách phát triển văn hóa giáo dục. Đây là hậu quả của quá trình chuyển đổi nhanh chóng từ xã hội công nghiệp sang xã hội thông tin mà không ý thức được tầm quan trọng của tri thức. Vậy là chúng ta có một xã hội mà thị trường sách dễ dàng mua bán trực tuyến nhưng lại không có thư viện trực tuyến, báo chí điện tử thì mọc lên như nấm sau mưa mà tư liệu và sách điện tử thì khan hiếm, số lượng giáo sư tiến sĩ tăng chóng mặt trong khi thiếu đi những người dân có dân trí cao với nền tảng vững chắc có thể liên kết văn hóa Việt Nam với tri thức thế giới…

Phòng đọc sách tích hợp kho sách giấy và sách điện tử tại Viện Bảo tàng Anh.

Không gian để giao lưu; tri thức để chia sẻ

Không phải vô cớ khi các nền văn minh lớn trên thế giới thời xa xưa như Sumer, Hy Lạp cổ đại, La Mã cổ đại, Hồi giáo, Trung Quốc, Châu Âu thời Trung cổ… lại đầu tư khoản chi phí khổng lồ để xây dựng những thư viện công lưu trữ các trước tác vĩ đại và các văn thư quan trọng. Thư viện, với ý nghĩa xa xưa nhất, vẫn luôn luôn là nơi cất giữ, bảo quản tư liệu và sách, cũng như tạo cơ hội tiếp cận cho những độc giả muốn truy cầu tri thức, từ đó hình thành nên nền tảng vững chắc, góp phần cùng giáo dục để tạo ra những công dân thông minh và giỏi giang. Tính đến năm 2016, trên 90% thư viện công cộng có hệ thống sách điện tử và trên 25% trong số đó được sử dụng trên máy đọc sách điện tử hoặc máy tính bảng. Đáng tiếc rằng Việt Nam không nằm trong danh sách đại đa số ấy mà vẫn nằm trong thiểu số thiếu thốn thư viện điện tử.

Một tương lai mới cho nền tảng thư viện cần sớm được hiện thực hóa theo đúng xu hướng của thế giới: Một mặt, tri thức cần được chia sẻ rộng rãi hơn qua Internet thông qua hệ thống các thư viện trực tuyến - nơi không bị hủy hoại bởi thiên tai, không bị giới hạn bởi khoảng cách địa lý hay bị cản trở bởi dịch bệnh. Một mặt, không gian thư viện sẽ không chỉ là một không gian "đi trốn" của những người cần một địa điểm yên tĩnh, mà sẽ trở thành nơi giao lưu và học hỏi tri thức một cách năng động - bầu không khí mà có lẽ đã rất lâu rồi nhân loại không được chứng kiến kể từ thời Hy Lạp cổ đại và Ngôi nhà Tri Thức của Hồi giáo đến nay.

Hà Thủy Nguyên

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 08.2.2021.

Bạn không đọc nhầm đâu. Thật đấy, rừng cây cũng có thể di cư như chim chóc hay cá voi, một khi môi trường sống bản địa không còn thuận lợi. 

20210705 4

 Cây sồi đỏ. Ảnh: 123RF

Ngày nay, phần lớn cây cối đang di cư không đủ nhanh để kịp ứng phó với biến đổi khí hậu. Và điều đó buộc loài người chúng ta phải đưa ra những quyết định khó khăn.

“Săn bắn” lá để điều tra

Dưới tán rừng Black Rock ở phía bắc thành phố New York của Mỹ, Angie Patterson đã dành hàng năm trời để nhắm súng săn vào những cây sồi đỏ. Đây không phải một trò tiêu khiển. Là một nhà sinh thái - sinh lý học thực vật, Patterson đang nghiên cứu về phản ứng của mỗi loài cây khác nhau trước biến động thất thường của khí hậu.

“Đùng”, một nhánh cây rơi xuống đất. Những chiếc lá tốt nhất để nghiên cứu phải nằm tít trên cao, ở phía trên cùng của tán cây - nơi chúng nhận được lượng ánh sáng mặt trời đồng đều và ổn định. Lúc này, khẩu súng săn trở thành một công cụ hỗ trợ nghiên cứu rẻ tiền và hiệu quả.

Qua các thí nghiệm, Patterson phát hiện ra rằng cây sồi đỏ, cùng một số loài bản địa khác, đang thực sự gặp nhiều bất lợi so với những giống cây “đến” sau. Điều này có nghĩa là những cây sồi đỏ, vốn làm chủ 70% diện tích khu rừng, có thể bị chiếm chỗ trong tương lai.

 Nhà khoa học săn lá. Ảnh trên trang của Angelica Patterson

“Loài sồi đỏ phương bắc có tầm quan trọng đối với khu vực này. Chúng ảnh hưởng đến sức sống của đất đai, chất lượng nước, chất dinh dưỡng. Khi những quần thể cây cối lớn bắt đầu biến mất, hệ sinh thái rừng phức tạp này có thể bị phá vỡ” - Patterson nói với báo The Guardian.

Trong 90 năm qua, thành phần “thụ khẩu” trong khu rừng này đã có nhiều thay đổi. Theo Patterson, 3 loài cây đã “bỏ nhà ra đi” hoặc tuyệt chủng ở cấp độ khu vực, và 11 loài khác đã “chuyển đến” bằng cách di cư tự nhiên từ phía nam hoặc được con người du nhập.

Những cánh rừng ở miền đông bắc Hoa Kỳ, bao gồm Black Rock, là những “kho” nhốt carbon trên đất liền quan trọng của thế giới. Vì vậy, những thay đổi này có thể tác động mạnh mẽ đến khả năng lưu trữ carbon của toàn khu vực.

Trong viễn cảnh đẹp nhất, cây cối ở phía nam sẽ di cư đến Black Rock và lấp vào chỗ trống, giúp duy trì sự rậm rạp và trù phú của khu rừng - giả sử như chúng đến kịp lúc.

Mới đây, tạp chí Nature công bố một nghiên cứu của Anh nói rằng các đô thị có thể trở thành “bước đệm” trong hành trình di cư của cây cối, bằng cách đưa các giống cây từ rừng vào trong thành phố. Một quần thể cây rừng sinh trưởng giữa đô thị có thể giúp đẩy nhanh tốc độ di cư của rừng, thay vì để cây cối chậm rãi chuyển đến nơi mát hơn.

 

Rừng di cư như thế nào?

Nhìn những cây sồi đỏ to lớn thế kia, thật khó để tin rằng chúng có thể di chuyển. Cây cối từ điểm A không thể đi bộ, theo nghĩa đen, đến điểm B được. Sự thật là chúng di cư với danh nghĩa một loài, bằng cách phát tán hạt giống. Động vật, gió và nước có thể giúp mang hạt giống đến những vùng đất mới. Một số loài cây còn có thể “bắn” hạt giống ra môi trường xung quanh khi làm vỏ quả nổ tung.

Sau khi hạt giống hạ cánh xuống mảnh đất mới, nếu gặp được môi trường thích hợp thì chúng sẽ bắt đầu đâm rễ, mở ra tương lai cho một quần thể cây mới. Vì khu vực cũ đã không còn thuận lợi, những cây thế hệ ông, bà, cha, mẹ sẽ dần chết đi. Như vậy, loài cây đó sẽ từ từ biến mất ở vùng này và xuất hiện ở một vùng khác. Cây cối đã di cư bằng cách này, ít nhất là kể từ kỷ băng hà cuối cùng, với vận tốc siêu chậm, ước tính chỉ khoảng 100 - 200m mỗi năm.

Ngày nay, những cánh rừng vẫn đang dịch chuyển, một phần là do biến đổi khí hậu. Nhưng đi đâu? Mỗi loài cây có một lối đi riêng. Thật ngạc nhiên khi không phải tất cả cây cối đều dịch chuyển về phía 2 cực, nơi có khí hậu mát mẻ hơn.

Chẳng hạn như ở miền đông nước Mỹ, những loài cây thường xanh đang hướng về các vùng cực để tránh nóng. Trong khi đó, một số loài sồi và phong thì di cư về hướng tây, nơi môi trường đang trở nên ẩm ướt hơn, theo một nghiên cứu trên tạp chí khoa học Science Advances vào năm 2017. Dữ liệu về thực vật thu thập trong 35 năm liền của Cục Kiểm lâm Hoa Kỳ cho thấy rằng “lượng mưa có tác động ngắn hạn đến sự dịch chuyển của các loài mạnh mẽ hơn so với nhiệt độ”.

Tính đến năm 2020, Sách đỏ của IUCN đã phân loại hơn 21.700 loài thực vật nằm trong tình trạng “bị đe dọa”, chiếm 40% tổng số loài thực vật được đánh giá. Và khi nói đến các mối đe dọa bởi biến đổi khí hậu, di cư chính là một trong những cơ hội hiếm hoi để cây cối thoát khỏi nguy cơ tuyệt chủng.

Thế nhưng, trước tốc độ biến đổi nhanh chóng của các điều kiện sống hiện hay, cây cối sẽ phải tăng tốc gấp 10 lần để kịp di cư đến những miền đất hứa. Đó là chưa kể hành trình di cư đầy gian khổ và rủi ro của cây cối như bất kỳ sinh vật sống nào.

Những hạt giống có thể bay trong không trung đến những vùng đất mới, nhưng không phải lúc nào chúng cũng nảy mầm, phát triển và sinh sôi thành công. Vậy con người có nên giúp cây cối di cư?

 

 Các cây thông longleaf con bắt đầu một cuộc sống mới ở Plum Creek. Ảnh: The Guardian

 

Bài toán “thay trời hành đạo”

Khu bảo tồn Plum Creek ở bang Maryland (Mỹ) là một bộ sưu tập ấn tượng về các loài thông. Đứng bên cạnh những “đại gia đình” thông loblolly, shortleaf hay Virginia là nhà thông longleaf, đặc trưng với kiểu lá kim dài và tỏa tròn trông như những chùm bông tua xanh ngắt.

Nhưng thông longleaf không phải là loài bản địa của Maryland - chúng chỉ mới được trồng ở đây từ năm 2013. Đây là một ví dụ về chiến lược “hỗ trợ di cư”, nhằm giải cứu các loài cây khỏi điều kiện sống khắc nghiệt. Theo The Guardian, loài thông longleaf từng ngự trị hơn 36 triệu hecta đất ở miền đông nam nước Mỹ, nhưng ngày nay chúng chỉ còn sinh trưởng trên 3% lãnh thổ ban đầu.

Tuy nhiên, một bộ phận của giới học thuật xem “hỗ trợ di cư” là một giải pháp tốn kém và đầy rủi ro. Trồng cây bên ngoài môi trường sống vốn dĩ của chúng đòi hỏi nhiều công sức. Và dù bỏ ra thời gian hay tiền bạc đến cỡ nào cũng khó thể cam đoan chúng sẽ sinh trưởng tốt ở môi trường mới.

Trong thực tế, một nửa số cây thông longleaf con tại Plum Creek đã chết. Nhiều chuyên gia cũng lo ngại rằng các loài cây mới có thể trở thành loài ngoại lai xâm hại, hoặc một số loài sâu bệnh có thể vô tình được “quá giang”.

Một thành viên trong dự án hỗ trợ thông longleaf di cư, nhà sinh thái học Deborah Landau, chia sẻ trên Facebook rằng dự án này đã bị cáo buộc là “một tay thay trời hành đạo”. Bác bỏ những lời chỉ trích đó, cô cho rằng: “Chẳng còn mấy thứ trong thiên nhiên mà chúng ta chưa nhúng tay vào đâu”.

Landau không tự tin loài thông longleaf có thể tự nó di cư đủ nhanh. May mắn là cho đến nay, những cây thông longleaf đầu tiên ở Maryland dường như đang có tác động tích cực đến hệ sinh vật bản địa, The Guardian cho biết.

Một phản biện khác là con người không nên can thiệp, thay vào đó hãy cố gắng bảo tồn thiên nhiên, đưa thiên nhiên quay lại trạng thái ban đầu. Nhưng Jessica Hellmann, giáo sư sinh thái học thuộc ĐH Minnesota (Mỹ), thì không nghĩ như vậy, bởi tác động của chúng ta lên hành tinh này vốn không thể xóa bỏ - cứ nhìn biến đổi khí hậu thì biết.

Trao đổi với trang Verge Science, Hellmann cho rằng thay vì hỏi “có nên giúp cây cối di cư hay không”, chúng ta phải hỏi “nên cứu loài nào và bỏ lại loài nào phía sau”. Tất nhiên, “hỗ trợ di cư” không thể giải quyết vấn đề từ gốc rễ. Chúng ta không thể di chuyển các loài từ nơi này sang nơi khác mãi được. Về lâu dài, cách tối ưu để bảo vệ đa dạng sinh học chính là ngừng phát thải và ngừng gây ô nhiễm, trước hết là để làm chậm quá trình biến đổi khí hậu.■

Tương lai của những cánh rừng đang “cuốn theo chiều gió”, do lẽ các luồng gió khổng lồ trên Trái đất giữ vai trò quan trọng trong việc phát tán hạt giống và phấn hoa, theo kết quả một nghiên cứu mới đây trên tạp chí của Viện hàn lâm Khoa học quốc gia Hoa Kỳ (PNAS). Tất nhiên, động vật (như chim ăn quả hay linh trưởng) cũng tham gia vào quá trình này, nhưng “tính định hướng” mạnh mẽ của gió khiến nó “nắm quyền sinh sát”.

Trên báo The Independent¸ giáo sư David Ackerly thuộc ĐH California-Berkeley (Mỹ) và là tác giả chính của nghiên cứu trên, giải thích gió có thể tác động khiến quá trình di cư của cây cối đi đúng hướng đến môi trường sống phù hợp hơn, hoặc là theo hướng ngược lại. Giả sử loài phong lá đỏ đang mong đến vùng phía tây ẩm ướt lý tưởng, nhưng trớ trêu là những cơn gió cứ đưa hạt giống của chúng bay về hướng đông, nam hay bắc!

Lê My

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 26.6.2021.

Người ta lần đầu biết tường tận về những “kho tàng bảo vật của các vua Chàm” ở trên miền sơn nguyên Dran và tỏ tường về hành trình nổi trôi của một dân tộc qua câu chuyện có màu sắc huyền bí và có sức hấp dẫn đặc biệt đối với giới nghiên cứu văn hóa Chăm. Đây là kết quả cuộc khảo cổ ngắn ngày do GS. Nghiêm Thẩm thực hiện đầu năm 1958 ở vùng Dran (tỉnh Đồng Nai Thượng cũ; nay là huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng).

Từ những công trình của người Pháp

GS. Nghiêm Thẩm lúc bấy giờ (1957) đang phụ trách Chánh sự vụ của Viện Khảo cổ học Sài Gòn sau khi tốt nghiệp ngành Bảo tàng học ở École du Louvre - Pháp. Tuy còn rất trẻ – 37 tuổi – nhưng ông được học giới miền Nam nể trọng về chuyên môn lẫn phẩm cách học giả.

Với GS. Nghiêm Thẩm, là một người được đào tạo nghiên cứu cổ học tại Pháp, những ghi chép khảo cổ năm 1902 do linh mục Durand và nhà nghiên cứu H. Parmentier công bố và những hồ sơ khảo cổ năm 1929-1930 của GS. M. Ner về những ngôi đền chứa bảo vật Chăm trên vùng cao nguyên Lâm Viên trong các tập báo cáo khảo cứu của Viện Viễn Đông Bác Cổ (Bulletin de l’Ecole d’Extrême-Orient các năm 1905, 1930) đã khơi gợi một nguồn cảm hứng đặc biệt, hơn thế, là một trách nhiệm thừa kế trong nghiên cứu khoa học. Những ngày ở Pháp, GS. Thẩm cũng từng được đọc cuốn En suivant la piste des hommes sur les Hauts Plateaux du Việt-Nam (Tạm dịch: Theo dấu những tộc Thượng vùng cao nguyên Việt Nam) của Jacques Dournes in tại Paris (1955). Tập sách này, tuy khái lược, nhưng cũng có đề cập đến các bảo vật Chăm ở vùng sơn nguyên Dran. Có lẽ câu hỏi lớn bật ra từ các tài liệu trên đó là: những bảo vật tìm thấy đã thật sự đầy đủ và soi chiếu điều gì trong lịch sử di dân của cộng đồng Chăm  vào thuở mãn kỳ của vương triều Champa?

Ngày 16-12-1957, ông dẫn đầu đoàn khảo cổ gồm các thành viên: Nguyễn Bá Lăng (chuyên viên kiến trúc) và Nguyễn Danh Nhượng (nhiếp ảnh viên) đến tỉnh Đồng Nai Thượng chuẩn bị cho chuyến khảo sát các bảo vật Chăm tại hai ngôi đền Sop Madronhay và Kreyo thuộc quận Dran (lúc bấy giờ thuộc tỉnh Đồng Nai Thượng). 

Công việc khảo cứu chính diễn ra vào các ngày từ 21 và 22 tháng 12-1957. 

Trước khi đi, đoàn khảo sát hiểu rằng, việc tiếp cận các bảo vật không phải dễ dàng. Chuyện kể rằng, năm 1902, nhà nghiên cứu Pháp H. Parmentier khi muốn khảo sát hai kho tàng này cũng đã phải mời ông Hat Vinh - Nguyên Tri huyện người Chăm và vợ ông ta là một bà Công chúa dòng dõi các vua Chàm đi cùng. Có tiếng nói và sự hiện diện của bà Công chúa Chăm thì các kho tàng mới được người Churu mở cửa cho người lạ tiếp cận. Sau một ngày làm việc với cơ quan công quyền địa phương, đoàn của GS. Thẩm thì được ông Cru Bjoum Biêng - Chủ tịch Hội đồng Hành chánh Thượng quận Dran và ông Drong Dôn - Cán sự Hợp tác xã người Thượng cùng nhóm công an quận đi theo để thuyết phục người Churu mở cửa đền.

Mùa đông năm 1957, khung cảnh Dran còn hoang sơ. Con đường vào làng Churu Sop Madronhay và Kreyo chạy xuyên nhiều cánh rừng, đoàn phải đi bằng xe Jeep, nhiều đoạn phải đi bộ băng qua các đồi cỏ. 

20210301
Ngôi đền Sop Madronhay ngày 21-12-1957. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Bảo vật hoàng gia Chăm trong ngôi làng Churu

Ngôi đền Sop Madronhay được xác định nằm trên một vuông đất 14x12,7m, có cửa vào hướng Tây, chung quanh có hàng rào kết bằng cây khô nhỏ. Gọi là đền, thực ra là một gian nhà sàn làm bằng tường tre nứa đan rất sơ sài. Đền chia hai gian, có gác ở, có bàn thờ. Phần cuối sân phía Đông là nơi thờ tự, chứa các bảo vật và một bếp lửa ở góc phía Tây-Nam. Một buổi lễ cúng đã diễn ra theo nghi thức truyền thống Chăm do người coi đền Churu thực hiện trước khi đoàn khảo cổ tiếp cận, thống kê các bảo vật. 

Tại đây, khi mở cửa ngôi đền đi vào không gian chứa các cổ vật, GS. Nghiêm Thẩm bất ngờ chứng kiến một kiểu bảo tồn lạ lùng: trong gian nhà sàn nhỏ có chỗ thờ những cổ vật thuộc vương triều được đặt để trong hai gian khác nhau: một gian là vật dụng phụ nữ và một của nam giới. Những bảo vật gồm binh khí, tự khí, dụng cụ giao thông, y phục phủ lớp bụi thời gian bỗng bừng sáng khi ánh nắng lạnh lẽo của buổi sáng mùa đông chiếu xuyên qua những liếp che.

Trong số các binh khí, đáng chú ý là có hai súng hỏa mai kiểu Ả-Rập, 50 đoản đao, long đao, gươm, giá, thương, mác, đinh ba và câu liêm. Nhóm tự khí gần 90 món, gồm các bộ đồ trà, chậu, bát, lọ, hộp sơn, bình vôi bằng gốm, sứ, thủy tinh quý giá, trong đó có một số món mang phong cách mỹ thuật Việt Nam với trình độ khảm sơn mài tinh tế và nhiều chén, chậu bạc chạm hình hoa sen nổi đặc thù phong cách trang trí của Chăm. 



Binh khí tìm thấy trong ngôi đền Sop Madronhay ngày 21-12-1957. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Đặc biệt, trong số này, có các klon (klaung: hộp) đựng xương cốt bằng bạc. Điều này có thể cần giải mã bằng chính phong tục người Chăm Ahier (theo Bàlamôn) ở vùng Ninh Thuận, Bình Thuận: người qua đời được gia đình và thầy cúng làm lễ hỏa thiêu, cắt 9 miếng xương trán cho vào một klon, sau đó được làm lễ nhập kut vào các tháng 3, 6, 8, 10 và 11, theo lịch Chăm. Lễ nhập kut là một hình thức quy tập các klon về khu mộ phần của dòng họ mẹ, theo truyền thống mẫu hệ Chăm. 

Như vậy, trong các cuộc binh biến, người nữ có vai trò thừa tự thuộc dòng dõi hoàng tộc Chăm đã di tản, mang theo di cốt các vua để thờ phụng.

Trong nhóm các dụng cụ giao thông, có yên ngựa nạm đồng được chạm trổ tinh vi theo mỹ thuật Việt Nam, nhạc ngựa, nhạc voi, cần kiệu. Nhóm tài liệu rời rạc còn có các hòm ấn triện làm bằng gỗ và ngà, cân tiểu ly, tập giấy chữ Chăm và chữ Hán. Đặc biệt, y phục là phần gợi nhiều ấn tượng nhất: gồm mũ trận bằng gấm, khoảng 10 triều phục nam và nữ, hơn 30 tấm vải thổ cẩm Chăm truyền thống, ba rương đựng khăn vành đàn bà bằng gấm, khăn là và viền kim tuyến. 

Nhiều vải vóc thổ cẩm được dệt theo kỹ nghệ truyền thống Chăm còn tốt, nhưng cũng có những thứ đã cũ và nát qua thời gian.



Lễ đường ngôi đền Kreyo ngày 22-12-1957. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Ngôi đền Kreyo gần đó được đoàn khảo cổ học của GS. Nghiêm Thẩm thực hiện khảo sát vào ngày hôm sau (22-12-1957). Họ tìm thấy ngoài các binh khí (1 lưỡi đoản kiếm bằng thép, 1 khiên mây phủ sơn mài, 21 nòng súng nhỏ, 3 nòng súng lớn bằng gang và 1 nòng súng lớn bằng đồng), thì còn nhiều món đồ thờ để trong 6 giỏ đan bằng mây. Trong 6 giỏ mây, có tất thảy gần 50 klon bằng bạc, chì và bằng vàng đựng những mảnh xương trán người. Nhiều klon vàng y, vàng trơn, chạm khắc theo phong cách hoa văn Chăm, chạm kiểu rồng phượng, hoa sen, tùng liễu, diệp hóa (lá cách điệu) tinh xảo.

Trong ngôi đền Kreyo, giáo sư Thẩm còn ghi nhận những tự khí khác: một mảnh vàng lá chạm thủng đậy trên mặt hài, hai mảnh vàng chữ nhật chạm kiểu Chàm nạm hạt xoàn, một mảnh vàng cây hình hoa và lá kiểu Chàm nạm hạt xoàn. Ngoài ra, còn có 28 chậu, cơi, siêu, mâm, chuông bạc, đồng có chạm trổ tinh vi theo các hoa văn Chàm truyền thống. 

Trong ngôi đền này, có chứa ba rương quần áo, xiêm, khăn trong tình trạng “hầu hết đã rách nát”.


Những tấm thổ cẩm Chăm. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Hé lộ một góc khuất lịch sử

Sau đó, tờ trình ngày 13-1-1958 của GS. Nghiêm Thẩm đã đem đến một cái nhìn có tính giải mật đối với hai kho tàng này. Ông đặc biệt chú ý đến những con dấu triện chữ Hán được tìm thấy, phân làm hai loại: những con dấu thuộc hành chánh thường dùng cuối thời Lê và đầu thời Nguyễn như vi chấp bằng, dấu ghi chức tước, ấn tín nhà Nguyễn cấp cho một Phiên vương Chăm có tên Môn Lai Phụ Tử, có quyền lực ở vùng duyên hải từ Phan Thiết, Phan Rí, Phan Rang. 

GS. Nghiêm Thẩm cũng lý giải về sự xuất hiện của một hộp bạc hình ống chạm cành cây hóa rồng, viền cánh sen, thân chạm sơn thủy, dưới đáy có chữ “Quý Dậu niên chế” và một hộp bạc nắp chạm sơn thủy, chân chạm sơn thủy, nhân vật thông và liễu, dưới đáy có chữ “Tân Dậu niên chế”. Các hộp bạc đó nằm ở đền Krayo. 

Ông giải thích: “Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt đến Phan Thiết vào hồi 1697, sau khi chiếm đất Chiêm Thành, Triều đình Việt Nam vẫn coi các dòng dõi vua Chiêm Thành là phiên vương và cho đến năm Quý Sửu 1793 thì chúa Nguyễn Ánh chiếm lại tỉnh Thuận Thành (Bình Thuận) và làm tội các dòng dõi vua Chàm đã theo nhà Nguyễn Tây Sơn và từ đấy không phong tước cho các phiên vương Chàm ở Thuận Thành nữa. Vì vậy phiên vương Chàm cuối cùng là Po Con Can (1799-1823) phải sang náu mình bên Cambodge.

Đoạn trên ta đã biết là trong những năm từ 1831 đến 1834 Lê Văn Khôi chiếm cứ ba tỉnh Phan Rang, Phan Thiết và Phan Rí. Khi quân của Lê Văn Khôi chiếm vùng đó cũng phá hại người Chàm thân với triều đình Minh Mạng. Và quân của triều đình chiếm lại được vùng đó, nhiều người Chàm bị nghi là có hợp tác với Lê Văn Khôi bị khủng bố. Vì vậy những người Chàm phải tản cư sang Cambodge và lên các miền núi mang theo những hộp klon để xương cốt của vua Chàm lên gửi ở các làng người Thượng.



Những klon đựng hài cốt bằng vàng. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.
Những klon lồng trong nhau. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Theo phong tục Chàm thì những hộp klon đựng 5 mảnh (?) xương trán còn lại sau khi thiêu xác các vị vua đã chết. Các hộp klon sẽ chôn ở dưới chân tượng các vị vua đó ở trong các tháp Chàm, như đã đào được ở tháp Po Klong Garai (Phan Rang).

Khi các dòng dõi vua Chàm phải di cư lên miền Thượng họ phải mang theo cả những hộp klon đựng xương các vị vua đã chết mà chưa xây được tháp để thờ.

Nếu năm Quý Dậu (1693, 1753, 1813) ghi trong hộp bạc ở giỏ thứ hai được làm sau khi một vị vua Chàm chết thì có thể là đựng xương cốt của vua Po Thop (1660-1692). Trong giỏ thứ năm có một hộp bạc ghi Tân Dậu niên chế. Vậy năm Tân Dậu là một trong những năm 1681, 1741, 1801, 1861. Nhưng không có vị vua Chàm nào đã qua đời trong các năm đó. Như vậy, nếu tôi không nhầm, thì hộp đựng xương đó là của một bà hoàng hậu Chàm. Nhưng nay vì thiếu tài liệu về lịch sử nên tôi chưa dám quyết định chắc chắn.”1

Một mặt, đối chiếu với Đại Nam chính biên liệt truyện, năm Canh Tuất (1790) con vua Chăm ở Thuận Thành là Môn Lai Phụ Tử kêu gọi dân chúng theo Gia Long đánh quân Tây Sơn, sau được phong chưởng cơ, đổi tên Nguyễn Văn Chiêu. Sau đó, Nguyễn Văn Chiêu được cho là phạm tội với triều đình, bị đánh đuổi, nên dòng dõi phiên vương này đã kéo theo những người thân thuộc lên miền núi vùng làng Sop Madronhay ở với đồng bào Churu với ý định gầy dựng lực lượng để quay về dành lại vùng duyên hải.

Đúng như Đại Nam chính biên liệt truyện đã viết, lý do mà cộng đồng người Chăm bỏ vùng duyên hải đi lánh nạn trên vùng cao nguyên hiểm trở trong quá khứ, một cách chi tiết, được đoàn khảo cổ làm rõ: 

“Các bảo vật Chàm từ xưa vẫn do các con cháu các vua Chàm giữ. Nhưng khi con nuôi tả quân Lê Văn Duyệt là Lê Văn Khôi dùng dư đảng nổi lên chống lại triều đình Nguyễn vào năm 1831 có chiếm cứ Phan Rang, Phan Rí và Phan Thiết. Một số đông con cháu các vua Chàm đã cộng tác với Lê Văn Khôi. Khi quân nhà Nguyễn dẹp loạn Lê Văn Khôi đã thẳng tay tàn sát dân Chàm, vì vậy một phần người Chàm phải di cư sang Cambodge (Campuchia) và đã sinh sống bên đó cho đến ngày nay (1957), một phần dân Chàm đã lẩn lên núi sống với các đồng bào Thượng và đem các bảo vật vua Chàm, tổ tiên của họ. Đến năm 1840, vua Minh Mạng mới ra chiếu và truy phong cho một giòng dõi Vua Chàm là Po Klon Gahul.

Tuy vậy, con cháu các vua Chàm vẫn gửi các đồng bào Thượng những hộp klon đựng xương cốt các vị vua hay hoàng hậu đã chết cất giữ.” - GS. Nghiêm Thẩm lý giải trong một tờ trình gửi Phủ Tổng thống Đệ nhất Cộng hòa. 

Dặm đường thiên di đó ít nhiều cũng đổ bóng xuống kho tàng văn hóa dân gian Chăm. Sự kiện đau buồn trên cũng trùng khớp với một bản trường ca [ariya] của người Chăm mà nhà nghiên cứu Inrasara cung cấp cho người viết bài này. Đó là tác phẩm Damnưy Ppo Pan, kể về bối cảnh thế kỷ 18, người Chăm loạn lạc, chạy lên vùng núi Nam Cao nguyên sống chung với bà con dân tộc thiểu số, trong đó có vài thủ lĩnh [mưlih] được giao quy tụ lực lượng trở về “phục quốc”. Thủ lĩnh Damnưy Ppo Pan trong bản trường ca là người ham vui, chỉ lo hưởng lạc và trượt dài, quên mục đích hệ trọng mà dân tộc, cộng đồng đặt vào mình. 

Bản trường ca Damnưy Ppo Pan có tính phê phán và ai oán, cho đến nay vẫn được hát lên trong các dịp lễ để răn con cháu đừng mải mê vô độ mà bỏ quên nguồn gốc.


Xiêm y được tìm thấy trong hai ngôi đền. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.
Khay, hũ đựng bằng bạc có hoa văn Chăm. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Về từ thăm thẳm thời gian

Về khoa học khảo cổ, những tài liệu thu thập được của GS. Nghiêm Thẩm đã cụ thể hóa và liệt kê đầy đủ hơn các cuộc khảo cổ mà những nhà nghiên cứu Pháp tiến hành trước đó ở hai ngôi đền này. Tuy nhiên ông cũng xác định thêm một số cổ vật “có lẽ đã bị mất trong những năm chiến tranh vừa qua, hay đồng bào Thượng đã mang đi các nơi khác rồi”. 

Trong bài viết Sơ lược về các kho tàng chứa bảo vật của các vua Chăm (đăng trên tập san Việt Nam khảo cổ, số 1, 1960), GS. Nghiêm Thẩm đã nhận định rằng, việc bảo tồn các tấm vải quý trong hai ngôi đền là cần thiết vì chúng cho thấy văn minh nghề dệt của người Chăm đã ở mức điêu luyện, có tính thẩm mỹ cao. Bên cạnh đó, ông cho rằng, những bảo vật bằng vàng, bạc được chạm trổ tinh vi cũng nên bảo tồn để giới sử học và mỹ thuật có thể nghiên cứu cách trang hoàng trong nền mỹ thuật nhỏ (arts nineurs) của người Chăm, đặc biệt, các đồ khảm xà cừ với kỹ thuật khác lối khảm của người Việt, gần như đã thất truyền thì rất cần được giữ gìn... 



Hài mạ vàng được tìm thấy. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

GS. Thẩm kết luận rằng: “Những bảo vật của vua Chàm mà tôi đã được xem là những tài liệu sử ký và mỹ thuật rất quý giá cho lịch sử Chàm, lịch sử Việt Nam, lịch sử mỹ thuật của nhân loại”. Ông cũng khảo sát để nhìn thấy vấn đề này: Người Churu tin rằng, nếu ai đó đánh cắp các cổ vật trong hai ngôi đền này thì sẽ bị hổ vồ. Và vị giáo sư với tư duy khoa học đã chỉ ra rằng: “Họ tin không ai dám đến lấy (các bảo vật) và nếu lấy sẽ bị hổ ăn thịt. Nhưng dị đoan này không cản nổi những người có lòng tham. Bằng chứng là trong các bảo vật ở làng Sop Madronhay đã mất hết các đồ bằng vàng”. Và cũng có một mối lo ngại khác: chính người Churu cũng di chuyển chỗ ở sau mỗi lần cộng đồng có biến động, và mỗi lần như vậy, bảo vật Chàm trong hai ngồi đền lại thất thoát...2

Đề xuất chuyển các bảo vật Chăm từ hai ngôi đền Sop Madronhay và Kreyo về Sài Gòn, Huế hay Đà Nẵng để bảo tồn trong một bảo tàng viện tránh tình trạng ngôi đền bị hỏa hoạn thiêu rụi hay nạn ăn cắp, “chảy máu cổ vật” được GS. Nghiêm Thẩm nhiều lần đề xuất lên Phủ Tổng thống (thời Đệ Nhất Cộng hòa). Nhưng điều đáng tiếc, về phía địa phương, một buổi họp có ý nghĩa “điều đình” được tổ chức lúc 9 giờ ngày 18-9-1958, tại Quận Hành chánh Dran có mặt 15 vị gồm các trưởng ấp và dân ấp Kreyo, đại diện Quận hội viên Tòa án Phong tục đã không đi đến kết quả bởi “lệ làng” vẫn vượt trên ý kiến nhà khoa học. Buổi họp xác định: “Những người đã giữ từ xưa đến con cháu nay vẫn săn sóc cùng thờ luôn, nên không thể chấp thuận để đem cất các vật ấy tại Viện Bảo tàng. Một trong những lý do mà người dân Churu ở Dran đưa ra đó là nếu không bảo vệ được các cổ vật hoàng gia Chăm “thì dân làng sẽ đau ốm”. (Theo báo cáo số 6802-HC/6 ngày 13-10-1958 của ông Trần Văn Phước - Thị trưởng Đà Lạt gửi trình các Bộ trưởng tại Phủ Tổng thống). 

Vậy là thiện chí của nhà nghiên cứu đã không cứu được bảo vật Chăm trong các ngôi làng Churu.

Và điều mà GS. Nghiêm Thẩm lo lắng nhất đã xảy ra sau đó: Trong những năm chiến tranh ác liệt 1968-1969, cả hai ngôi đền trên đã phải di dời nhiều lần, bị trúng bom bốc cháy và cổ vật đã bị lấy mất. Theo nguồn tin từ Bảo tàng Lâm Đồng, tháng 4 năm 1992 các cán bộ bảo tàng này có phối hợp với huyện Đức Trọng tiến hành khảo sát, kiểm kê hai ngôi đền Sop Madronhay và Kreyo thuộc xã Tà Hine, Đức Trọng. Theo mô tả của chuyên viên bảo tàng Đoàn Bích Ngọ trong các bài báo sau đó, các cổ vật còn lại không còn nhiều giá trị. “Những báu vật của các vua Chàm tuy không còn, nhưng đền Kreyo và Sop Madronhay vẫn được bà con dân tộc Churu coi sóc và cúng lễ hàng năm. Đền được tổ chức cúng lớn vào 15 tháng 5 dương lịch. Vào những ngày này dân làng tụ tập đông đủ, thầy cúng đều bận y phục tế lễ theo phong tục của người Chàm”.3

Câu chuyện những cổ vật Chăm từ hai ngôi đền ở Dran thuộc Tuyên Đức xưa từng là vấn đề hệ trọng của khoa học khảo cổ, duy trì mối quan tâm hơn nửa thế kỷ từ các nhà khoa học khảo cổ Pháp cho đến giới khoa học miền Nam, nhưng cho đến nay vẫn còn vây phủ bởi những sương mù khi thi thoảng trong giới chơi cổ vật cao nguyên truyền lan những tin đồn có màu sắc huyền bí về sự báo ứng đi cùng các món cổ vật Chăm trôi nổi trong dân gian. 

Có một điều có thể chứng thực và lý giải được: văn hóa Churu đã chịu ảnh hưởng sâu đậm bởi văn hóa Chăm từ một cuộc trôi dạt đặc biệt trong lịch sử, từ kỹ thuật làm gốm nung không bàn xoay cho đến các nghi thức thờ cúng hướng đến những vị vua, hoàng hậu mà người Chăm tôn thờ.

Vùng sơn nguyên Dran xưa đã mang vào mình những bước lưu dân của một cộng đồng bị mắc kẹt giữa những giao tranh chính trị trong lịch sử Việt Nam cận đại.□
Người Churu đến xem đoàn khảo cổ học của GS. Nghiêm Thẩm khảo cứu các bảo vật. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.
Một mặt hia và hai mặt đai vàng được tìm thấy. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

Những khay bạc, đồng. Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM.

---

Ảnh trong bài: Ảnh: Tài liệu TTLTQG II, TP.HCM. 

Chú thích:

1. Tờ trình ngày 18-7-1958 của GS. Nghiêm Thẩm – Chánh sự vụ Viện Khảo cổ, Phụ trách Bảo tồn Cổ tích, gửi Phủ Tổng thống (thời Việt Nam Cộng hòa). Phông Phủ Tổng thống Đệ Nhất Cộng hòa, Hồ sơ 16516. TTLTQG II, TP.HCM.

2. Theo tờ trình ngày 18-7-1958. Nguồn đã dẫn.

3. Những ngôi đền cổ và báu vật của vua Chàm trên đất Lâm Đồng, Đoàn Bích Ngọ, Báo Lâm Đồng, 10-6-2012

Tài liệu tham khảo:

- Tập san Việt Nam khảo cổ, Số 1-1960.

- Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất cộng hòa. Hồ sơ số: 16516. TTLTQG II, TP.HCM.

- Phông Phủ Tổng thống Đệ nhất cộng hòa. Hồ sơ số:16848. TTLTQG II, TP.HCM.

- Báo Lâm Đồng, Báo Tuổi trẻ... 

Nguyễn Vĩnh Nguyên

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 21.02.2021.

Đôi khi thấy buồn, tâm trạng sa sút không cách nào vực lên nổi, tôi lại mở sách tranh ra đọc. Có lần tôi được động viên, an ủi, chỉ nhờ một câu văn trong một cuốn sách tranh Rules of Summer - Shaun Tan rằng: “Đừng bao giờ chờ đợi một lời xin lỗi”. Câu chuyện kể về những điều luật mùa hè, do hai anh em tự thỏa thuận với nhau lúc chơi. Điều luật khi giận nhau ấy là không chờ đợi lời xin lỗi. Hai anh em tự tha thứ cho nhau trước, ngay cả khi lời xin lỗi tới rất muộn.

20210702

Một trang sách của Caldecott. Ở đây phần lời không miêu tả lại bức tranh, chỉ là một câu thoại của cô gái. Còn phần tranh kể cho chúng ta những điều còn lại: về bối cảnh, không gian, thái độ cảm xúc của các nhân vật… Chứ phần lời không diễn giải, ví dụ: cô thôn nữ bướng bỉnh nói trước sự ngạc nhiên của ngài công tước.


Vì lý do gì một điều luật “trẻ con” lại khiến tôi thấy lên tinh thần? Tại sao tôi đã lớn rồi vẫn say mê đọc sách tranh?   

Sách tranh là gì và đến từ đâu?

Sách tranh, hay Picture book (trong tiếng Anh), hay Ehon (trong tiếng Nhật) là một thể loại sách thường có khổ lớn, độ dài phổ biến từ 16-32 trang, nhiều hình ảnh, ít chữ.

Sách tranh được coi là nghệ thuật của việc kể chuyện bằng hình ảnh, một dạng thức của nghệ thuật văn chương. Nhiều nghiên cứu cho rằng nó có nguồn gốc sâu xa gắn liền với những hình vẽ trên hang đá của người cổ đại, hay những hình ảnh điêu khắc trên cây cột trụ Trajan của người La Mã. Sự ra đời và phát triển của sách tranh được đánh dấu từ khi công nghệ in ấn ra đời vào thế kỷ 15.

Cuốn Orbis Sensualium Pictus (The Visible Words) của tác giả Comenius xuất bản ở Nuremberg, Đức năm 1658 với phần tranh và chữ được in cạnh nhau được coi là hình thù sơ khai đầu tiên của một cuốn sách tranh dành cho trẻ em trên thế giới. Nó được thiết kế bao gồm tranh và chữ đặt song song cạnh nhau, để giúp trẻ dễ tiếp thu.

Sách tranh là một thể loại còn non trẻ, mới chính thức được công nhận hơn 130 năm trước, kể từ những tác phẩm của tác giả - họa sĩ người Anh Randolph Caldecott (1846-1886). Ông đã nâng tầm phần hình ảnh của câu chuyện, không chỉ còn là minh họa đơn thuần cho câu chữ. Tên của ông cũng được đặt cho một giải thưởng uy tín bậc nhất trong làng sách tranh - Huân chương Caldecott. Tác giả - họa sĩ Maurice Sendak, người đã có rất nhiều tác phẩm sách tranh để đời, trong đó nổi tiếng nhất là Where the wild things are (đã được xuất bản ở Việt Nam với tựa Ở nơi quỷ sứ giặc non), đã từng nói về những đóng góp và thành tựu của Randolph Caldecott như sau:

“Các tác phẩm của Caldecott báo hiệu sự khởi đầu của sách tranh hiện đại. Ông ấy đã tạo ra cách ghép nối khéo léo giữa hình ảnh và từ ngữ, một điều chưa từng có trước kia. Phần tranh nói lên những thứ không được kể bằng con chữ. Và ngược lại. Đó chính là phát minh ra sách tranh”.

Sách tranh với những đặc điểm dễ nhận diện như khổ lớn, nhiều màu sắc, dễ đọc và có tuyến truyện cũng như cấu trúc đơn giản, không quá dài, trở nên phổ biến với các độc giả nhỏ tuổi (đặc biệt là nhóm độc giả nhí mới bắt đầu làm quen với việc đọc và chữ nghĩa). Thậm chí sách tranh còn được coi là đồng nghĩa với Văn học thiếu nhi.

Nhưng liệu rằng sách tranh chỉ có vậy hay bản thân thể loại này đã phát triển và phá vỡ những hình dung sẵn có, quen thuộc, những định kiến về thị trường và diễn ngôn văn chương?

 

Sách tranh - bước khởi đầu dễ chịu

Nội dung sách tranh có thể chia thành hai nhóm lớn, cũng giống như các thể loại sách khác, hư cấu (fiction) và phi hư cấu (non-fiction) với nhiều đề tài phong phú, đa dạng, không giới hạn. Thế giới có gì thì sách tranh có cái đó.

Mảng phi hư cấu thường có nhiều nội dung cơ bản, giúp các bạn nhỏ làm quen với thế giới. Ví dụ như sách tranh về phân biệt màu sắc, số đếm, bảng chữ cái, các đồ vật quen thuộc trong nhà, cách buộc dây giày, cách đánh răng… Cao hơn một chút, có thể có sách tranh khoa học, lý giải về vi khuẩn, vi rút, triết học… theo cách dễ hiểu và thú vị, hài hước, hấp dẫn.

Những nội dung này, không nghi ngờ gì, chủ yếu dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy vậy, khi làm quen với một mảng kiến thức mới, khó nhằn, bắt đầu bằng những cuốn sách vừa đơn giản vừa vui lại nhiều hình ảnh bắt mắt như sách tranh là một cách hiệu quả, ngay cả với người lớn. Người lớn thì hẳn ai cũng biết buộc dây giày và đánh răng rồi, nhưng không phải ai cũng biết về thiên văn học hay triết học, hay cuộc đời của những danh nhân thế giới. Đơn cử như tôi, lúc mới lân la tìm hiểu về triết, khi đó đã học cấp 3, tôi chủ yếu đọc sách tranh triết học thiếu nhi của Pháp. Những cuốn sách đó đã giúp tôi dần quen với những khái niệm trừu tượng trong triết học mà không khiến tôi nhụt chí.

Hay khi tôi học tiếng Nhật (lúc đã ngoài 20), một ngôn ngữ rất phức tạp, tôi cũng thường xuyên đọc Ehon (sách tranh trong tiếng Nhật), xem phim hoạt hình thiếu nhi của Nhật. Những nội dung ngắn gọn, dễ theo dõi, ngôn từ chuẩn chỉnh (thậm chí là tự nhiên, đời thường hơn sách dạy tiếng), lại thấm đẫm văn hóa bản địa cùng với hình ảnh sinh động khiến ngôn ngữ dễ ngấm hơn.

Dù bao nhiêu tuổi, khi bắt đầu tìm hiểu, học một thứ gì đó mới, chúng ta đều chỉ như những đứa trẻ tập tọe đánh vần. Không chỉ riêng với triết học, sách tranh còn có cả thiên văn học, toán học, vật lý, sinh học, công nghệ thông tin, lịch sử, chính trị… Song song với những cuốn sách chuyên môn, chuyên sâu, xen lẫn những cuốn sách tranh nhẹ nhàng, giàu hình ảnh sẽ đem tới cân bằng lành mạnh, không chỉ với độc giả thiếu nhi mà còn với những người muốn biết cái mới ở bất kỳ độ tuổi nào.

 

Sách tranh - một thế giới cô đọng

Còn về mảng hư cấu, sách tranh xuyên suốt những năm tháng phát triển, đã không ngừng mở rộng và tự phá vỡ những ranh giới của thể loại.

Sự ngắn gọn và đơn giản của sách tranh nói chung, không đồng nghĩa với sơ sài, hời hợt. Nhà khoa học nổi tiếng Albert Einstein từng nói: “Nếu bạn không thể giải thích điều gì một cách đơn giản thì bạn chưa đủ hiểu chúng.” Hay Charles Mingus - một nghệ sĩ nhạc Jazz huyền thoại của Mỹ tin rằng: “Ai cũng có thể biến một thứ đơn giản thành phức tạp. Sáng tạo chính là biến thứ phức tạp trở nên đơn giản.” Sự giản đơn trong sách tranh là những trải nghiệm, quan điểm, tri thức đã cô đọng, tinh tuý, được diễn đạt bằng cách dễ hiểu nhất, đến cả trẻ con cũng hiểu.


Cái chết tiễn đưa chú vịt cùng một nhành hoa. Ảnh: brainpicking.com


Vấn đề cốt yếu không phải là thể loại, mà ở chất lượng nội dung, thông điệp lẫn cách thể hiện.

Lấy ví dụ như cái chết - một đề tài ai cũng sẽ phải đối mặt. Trong cuốn sách tranh Duck, Death & the Tulip (chú vịt, cái chết và bông hoa tulip) của tác giả - họa sĩ người Đức Wolf Erlbruch, cái chết đã được diễn giải dịu dàng và đậm chất nhân sinh. Nhân vật cái chết không ghê rợn, đáng sợ, mà chỉ như một người đồng hành yên tĩnh. Cái chết luôn ở bên chú vịt, cùng chú trải nghiệm đủ thăng trầm đời thường. Cho tới một ngày, chú vịt chạm tới cuối con đường, đã sống hết mình một cuộc đời, cái chết mới tiễn đưa chú vịt ra đi thanh thản bằng một nhành hoa, đầy trân trọng như một người bạn tâm giao.

Qua câu chuyện nhỏ rất kiệm lời chỉ mấy chục trang giấy ấy, người đọc hiểu được thông điệp, quan điểm của tác giả về cái chết: cái chết gắn liền và luôn song hành với sự sống. Ông không coi cái chết như kẻ thù tiêu diệt sự sống. Con người học cách chấp nhận và nhìn nhận giá trị của cái chết để sống trọn vẹn hơn.

Một tác giả sách tranh nổi bật khác với những tác phẩm xóa nhòa ranh giới lứa tuổi chính là Shaun Tan. Những câu chuyện của ông thường trĩu nặng hoài niệm, nỗi cô đơn, lạc lõng, cảm giác mất mát, thương nhớ những kỷ niệm tuổi thơ - thứ thường xuất hiện ở người trưởng thành.

Trong tác phẩm The Lost Thing (cuốn sách đã từng được chuyển thể thành phim hoạt hình), nhân vật chính của Shaun Tan là một chàng trai đã lớn và cảm thấy buồn tẻ, mắc kẹt với cuộc sống tấp nập xô bồ, cho tới một ngày anh tìm được “thứ đã mất” của mình. Thứ bị lạc mất ở đây - được tác giả cụ thể hóa thành một sinh vật màu đỏ, to lớn, tùy từng độc giả soi chiếu bản thân mà đó có thể là sự mơ mộng, trí tưởng tượng con trẻ hoặc cảm giác tự do, được sống với bản chất thật mà không phải đeo mặt nạ…

Tác giả - họa sĩ Shaun Tan trong một bài tiểu luận đã có viết rằng ông thường bị hỏi khi sáng tác, ông có nhắm tới đối tượng khán giả cụ thể nào hay không. Ông đáp lại rằng ông tin những tác phẩm sẽ tự tìm được độc giả phù hợp với chúng. Ông không đặt bất kỳ khuôn mẫu hay giới hạn nào cho người đọc. Những định kiến có thể cản trở chúng ta tiếp cận được với những tác phẩm hay ngoài dự đoán của chúng ta.

Bên cạnh đó, phần tranh của sách tranh cũng là yếu tố đáng kể. Mỗi trang sách đều như một bức tranh hội họa hoàn chỉnh, có chất lượng nghệ thuật cao, được vẽ bởi những họa sĩ tài năng, học hành bài bản, chuyên nghiệp. Như Shaun Tan, có những cuốn ông vẽ từng trang trên khung toan, bằng chất liệu sơn dầu. Các họa sĩ sách tranh được yêu thích trên thế giới như Maurice Sendak, Shaun Tan, Oliver Jeffers, Isabelle Arsenault, Chihiro Iwasaki… đều có những triển lãm nghệ thuật đa dạng bên ngoài những cuốn sách tranh (và không ai thắc mắc những thứ này chỉ dành cho trẻ con à?). Bảo tàng nghệ thuật Chihiro Iwasaki là một địa điểm đáng ghé thăm ở Tokyo, Nhật Bản.

Chất lượng nghệ thuật, hình ảnh của sách tranh không còn phải nghi ngờ. Tất nhiên, vẫn sẽ có những cuốn chất lượng kém, tùy trình độ họa sĩ. Nhưng nếu cho rằng sách tranh chỉ xanh xanh đỏ đỏ cho em nhỏ nó mừng là sai lầm mất rồi.

Tuy vậy, ngay cả khi họa sĩ không có kỹ năng siêu việt như hội họa hàn lâm, nhưng câu chuyện đủ mạnh, nét vẽ dù còn non nhưng lại phù hợp và thể hiện được trọn vẹn nội dung thì đó vẫn là một cuốn sách tốt.

 

Sách tranh - nuôi dưỡng những "thiên tài trẻ con"

Ngay cả với những tác phẩm sách tranh không rõ ràng đề tài liên quan tới đời sống trưởng thành thì độc giả người lớn vẫn có thể thưởng thức được. Một người bạn của tôi - một người viết chuyên nghiệp, từng chia sẻ rằng những người lớn mà còn giữ được trí tưởng tượng cũng như khả năng vui như một đứa trẻ là những thiên tài trẻ con.

Nhà văn C.S.Lewis - tác giả của bộ tiểu thuyết kinh điển Biên niên sử Narnia, từng có những phản biện về việc gán nhãn sách chỉ dành cho trẻ con rằng điều đó phản ánh định nghĩa sai lầm về “trưởng thành”. Bỏ đi những niềm say mê cũ để tiếp nhận những điều mới không phải lúc nào cũng đồng nghĩa với việc lớn lên.

“Nếu phải bỏ lại những bưu kiện, rời những sân ga là bản chất của sự lớn lên, thì tại sao chúng ta lại ngừng làm vậy khi đã trưởng thành? Tại sao sự già yếu lại không được ca tụng? Tại sao chúng ta không được chúc mừng khi rụng cả răng và hói cả đầu?”

Khi chúng ta lớn lên, chúng ta không cần bỏ đi những thứ đã bồi đắp từ tuổi thơ. Chúng ta thêm vào những thứ mới, làm dày lên trải nghiệm sống của mình. Khi lớn ông say mê Tolstoy và Jane Austen nhưng không có nghĩa phải hết thích truyện cổ tích.

Kết nối với tuổi thơ hay đứa trẻ bên trong bạn không phải là cản trở của sự trưởng thành. Trái lại, những ẩn dụ, tưởng tượng trong những câu chuyện dường như dành cho trẻ con, lại có thể đem lại sự xoa dịu, vỗ về cho những người đã lớn nếu chúng ta không lãng quên mình đều từng là những đứa trẻ.

Trong cuốn Oh, the Places You’ll Go! của Dr.Seuss, có câu: “Cô đơn một mình! Dù em có thích hay không, em sẽ phải cô đơn một mình không ít đâu.” Hẳn bạn sẽ đồng ý với tôi rằng đó là thử thách bắt buộc chúng ta phải trải qua trên con đường làm người lớn. Nhưng những sự thật phũ phàng này lại được kể bằng một giọng đầy bao dung và cảm thông, với một bức tranh đầy ngộ nghĩnh. Khi người lớn mệt, có lẽ chúng ta chỉ cần những cuốn sách nhẹ và êm thôi.

Sách tranh nói riêng hay văn học thiếu nhi nói chung, không dành cho chỉ riêng đối tượng nào, mà dành cho tất cả những ai muốn được nghe kể chuyện, muốn được làm cho thích thú, ngạc nhiên, muốn được tư duy và tưởng tượng.

TÓM LẠI, sau bài viết khá dài này, tôi hi vọng đã thuyết phục được những bạn đọc người lớn một chút, động viên các bạn mở lòng trao cho sách tranh một cơ hội - được làm bạn vui và cùng bạn trải qua đủ cung bậc cảm xúc. Đừng để tuổi tác giới hạn bản thân mình, bạn nhé!□

Thùy Cốm

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 26.6.2021.

Vào những ngày cuối năm, một vài tờ báo lớn trên thế giới thường bình chọn nhân vật của năm (Person of the Year) 

Đó có thể là một nhân vật hoạt động chính trị - xã hội nổi bật trong năm, người có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển tiến bộ của một đất nước. Đó cũng có thể là một tập thể gây ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa thế giới trong năm.

20210224

Nhân vật năm 2020 - Ảnh 2.

Trong đời sống văn chương, khái niệm "nhân vật" không chỉ áp dụng cho con người mà cả cho đồ vật và thú vật, chẳng hạn nhân vật chiếc giường trong truyện ngắn Xuân Diệu, những cái ghế trong kịch E. Ionesco, con chó sói trong tiểu thuyết Tch. Aitmatov… Các nhà văn có thể dựng nên những "nhân vật" có tính cách, tâm hồn từ những sự vật của thế giới hằng ngày có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống con người.

Hiểu theo nghĩa rộng, một trong những nhân vật - đồ vật xuất hiện xuyên suốt trong đời sống nhân loại năm 2020 chính là chiếc khẩu trang. Vốn chỉ thông dụng ở những xứ sở ô nhiễm môi trường hay trong những nơi làm việc độc hại, từ khi coronavirus khởi phát ở Vũ Hán - Trung Quốc rồi trở thành đại dịch, chiếc khẩu trang đồng hành với đời sống con người. Vượt qua những e ngại và thành kiến ban đầu, nay chiếc khẩu trang đã chinh phục tuyệt đại đa số nhân loại như là một "vị cứu tinh" trong đại dịch Covid-19, ít nhất là cho đến khi vắc-xin chủng ngừa căn bệnh này được sử dụng phổ biến trên toàn cầu.

Chiếc khẩu trang trước hết là một sản phẩm y tế nhằm bảo vệ sức khỏe con người. Đeo khẩu trang cũng là cách góp phần giảm gánh nặng của y, bác sĩ và nhân viên y tế trong tình trạng quá tải của các bệnh viện. Ở một số điểm du lịch nước ngoài, người ta còn đeo khẩu trang cho các pho tượng danh nhân để khuyến khích du khách làm theo.

Từ một sản phẩm y tế, chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng giao tiếp xã hội. Đeo khẩu trang là một cách thể hiện thái độ ứng xử với tha nhân, với không gian công cộng. Cũng là "mask" như cái mặt nạ trong hội hóa trang nhưng khẩu trang chỉ che miệng và mũi, vẫn còn để hở đôi mắt, vầng trán, mái tóc để nhận diện. Người ta vẫn có thể nhận ra nhau qua ánh mắt lấp lánh niềm vui để động viên nhau hay buồn rầu ứa lệ trước cảnh người thân bị cách ly, thậm chí lìa đời mà không thể tiễn đưa. Giao tiếp qua trung gian chiếc khẩu trang đòi hỏi những thay đổi nhất định: giọng nói tăng âm, ánh mắt biểu cảm, khoảng cách cần thiết, cử chỉ linh hoạt để thu hút người đối thoại… Cách đeo khẩu trang nói lên tính kỷ luật và ý thức cộng đồng của con người. Người cẩn trọng đeo khẩu trang chỉ chạm vào sợi dây, không chạm vào mặt vải và thay mới hằng ngày; người cẩu thả đeo cho lấy có, dùng một khẩu trang nhiều ngày liền mà không giặt sạch. Năm qua, nước ta thành công trong chống dịch, ngoài những biện pháp quyết liệt như giãn cách xã hội, cách ly tập trung, có phần nhờ nâng cao ý thức cá nhân trong việc sử dụng khẩu trang.

Chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng văn hóa, thể hiện tình đồng bào, tình nhân loại trong hoạn nạn. Nghe thành phố khan hiếm khẩu trang, một người cha từ quê đem vào thành phố cho con cháu một hộp khẩu trang mà vợ chồng ông mua để dành lâu nay. Bạn bè gặp nhau quanh bàn cà phê, khi về tặng nhau một hộp khẩu trang, thật là thương mến. Công đoàn cơ quan tìm cách liên hệ công ty may mặc mua khẩu trang giá chính thức để phân phối cho nhân viên. Người Việt định cư ở nước ngoài dành thì giờ may khẩu trang tặng người dân sở tại như một cách chia sẻ khó khăn. Khi một địa phương trở thành tâm dịch, ngành y tế các nơi khác sẵn lòng giúp đỡ bằng cách chi viện đội ngũ y bác sĩ, thuốc men, dụng cụ xét nghiệm và cả khẩu trang. Nước ta là nước đang phát triển, khó khăn đủ bề, nhưng trong đại dịch cũng cố gắng gửi sang các nước láng giềng, các đối tác - cường quốc những kiện khẩu trang như món quà thiết thực để bày tỏ tình nghĩa.

Năm qua, sản xuất khẩu trang đạt tiêu chuẩn quốc tế giúp tạo công ăn việc làm cho công nhân giữa lúc ngành may mặc lao đao vì xuất khẩu hạn chế. Chiếc khẩu trang trở thành tiêu điểm trong thương mại và kinh tế: những phi vụ xuất khẩu thành công, những cú "lật kèo" hợp đồng để kiếm lời, những tranh chấp hàng hóa giữa các công ty, thậm chí giữa các quốc gia. Sản xuất và tiêu thụ khẩu trang trở thành một lĩnh vực chứng tỏ mua ngay bán thật hay làm hàng giả, hàng dối trong tình cảnh khó khăn chung. Mấy tháng đầu năm, biết bao gia đình phải chạy đôn chạy đáo tìm mua khẩu trang, trong khi có những lô hàng khẩu trang đầu cơ tích trữ để nâng giá, những xe hàng khẩu trang phi mậu dịch lặng lẽ chuyển qua biên giới.

Điều thú vị nữa là chiếc khẩu trang trở thành một tác nhân của đời sống chính trị thế giới. Hơn một năm trước, không ai hình dung trong các hội nghị quốc tế long trọng, các nguyên thủ quốc gia phải phát biểu và che giấu nụ cười sau chiếc khẩu trang, ngay cả trước ống kính của hàng trăm nhà báo. Nước nào có chính sách đúng đắn, phù hợp trong việc sử dụng khẩu trang thì góp phần giảm thiểu số ca tử vong vì dịch bệnh và tăng thêm uy tín cho người lãnh đạo. Ở Mỹ, thời gian qua, khẩu trang trở thành phương tiện vận động bầu cử, khi trên mặt người đeo có hình lá cờ hay tên ứng cử viên.

Chiếc khẩu trang cho thấy sự đa dạng của xã hội loài người. Tùy khả năng tài chính và sở thích, người ta sử dụng khẩu trang y tế, khẩu trang một lớp hay nhiều lớp, khẩu trang dùng một lần hay nhiều lần. Để giảm nhẹ sự căng thẳng khi đeo khẩu trang, người ta có sáng kiến may vải bằng nhiều loại chất liệu và nhiều màu sắc khác nhau, lại trang trí bằng những bông hoa, những hình vẽ đẹp mắt. Mỹ học ứng dụng phát huy thế mạnh trong trường hợp sáng chế ra những "khẩu trang nghệ thuật" này.

Hai mặt khẩu trang là hai mặt của cuộc đời này: bề ngoài là nguy cơ, có thể bám đầy vi khuẩn; bề trong phải giữ cho sạch sẽ, an toàn. Nhưng cũng có thể ngược lại: bên trong là một ổ vi trùng phải cần có lá chắn để bảo vệ người tiếp xúc ở bên ngoài. Có một chuyện kỳ thú là một cộng đồng người ở Hasnon, miền bắc nước Pháp, đã treo khẩu trang hằng ngày như phơi áo quần lên các "cây chữa bệnh" để xua đuổi mầm bệnh như xua đuổi tà ma.

Sự lên ngôi của chiếc khẩu trang cũng có mặt tiêu cực, kéo theo những hệ lụy cho cuộc sống con người. Người có thu nhập thấp nay phải thêm một khoản chi phí trong ngân sách gia đình vì mua sắm khẩu trang. Chiếc khẩu trang tự nhiên làm lộ thêm ra sự phân hóa giàu nghèo. Rồi việc vất bỏ khẩu trang qua sử dụng phải tính thế nào, thu gom hay tiêu hủy như rác thải y tế, chai ni-lông, túi nhựa để không làm hủy hoại môi trường. Nghĩ vậy nên Hiệp hội Art of Change 21 kêu gọi đeo khẩu trang Maskbook làm từ vật liệu tái chế.

Ai cũng mong vắc-xin ngừa coronavirus sớm được phân phối cho tất cả mọi người để cái thời mà chiếc khẩu trang là nhân vật chính sẽ qua đi. Con người càng chung tay bảo vệ môi trường, cương quyết đóng cửa những chợ động vật hoang dã như ở Vũ Hán thì nguy cơ đại dịch sẽ giảm bớt. Chiếc khẩu trang trở lại vai nhân vật phụ, chỉ để tránh khói bụi ngoài đường. Hãy cho nó vào túi áo trong không gian trong lành nơi công viên, trường học, giáo đường, tự viện để "thở vào, tâm tĩnh lặng/ thở ra, miệng mỉm cười".

Biết đến bao giờ câu chuyện cái khẩu trang mới trở thành đề tài của thời xưa cũ, chỉ còn gặp trong bệnh viện hay trong phòng triển lãm "cổ vật" như bây giờ người ta triển lãm sổ gạo, phiếu thực phẩm của thời bao cấp?

GS -TS Huỳnh Như Phương; ảnh: Hoàng Triều

Nguồn: Người lao động, ngày 17.02.2021.

Thắp hương hay đốt trầm có lẽ là hành vi tín ngưỡng quen thuộc nhất với người Việt. Đến lượt vật thể để cắm những que hương hay đựng những mảnh trầm được đốt cũng thành thứ gắn bó với đời sống: bát hương, đỉnh đồng, lư hương…

Mùa thu năm 1940, chàng trai trẻ Lưu Hữu Phước từ miền quê Cần Thơ ra Hà Nội học Trường Y khoa Đông Dương. Vốn liếng của chàng trai là đôi bài hát viết cho học sinh Trường Petrus Ký mang nỗi hoài vọng quá khứ: “Có những đêm kể cho nhau nghe những thành tích đuổi giặc cứu nước ngày xưa, chúng tôi gục đầu lên vai nhau khóc tủi hờn vì nhục nước ngày nay”. 

Ra đến Hà Nội, như được “về thăm quê cũ” khi tìm tới những di tích lịch sử của các thời đại tự chủ, “mỗi di tích như một quyển sử dân tộc”, các chàng trai Nam bộ nhịn bớt ăn, dạy học tư để lấy tiền, chung nhau thuê một gác nhỏ ở góc phố Bùi Thị Xuân và Tô Hiến Thành hiện nay. “Chúng tôi mua một lư hương con, các tối Chủ nhật, anh em tắt đèn, đốt hương trầm lên, và nhắc lại những cảm xúc trong ngày. Nhiều bạn khác dần dần kéo đến chơi với chúng tôi, có các bạn miền Trung, miền Bắc đến trò chuyện, chan hòa trong một niềm thông cảm rạo rực tình yêu đất nước” (hồi ức của Lưu Hữu Phước). Họ tổ chức những chuyến đạp xe về thăm những đền Lý Bát Đế, Cổ Loa, Phù Đổng. Từ đây, những bài hát yêu nước như Ải Chi Lăng, Bạch Đằng Giang, Hội nghị Diên Hồng… ra đời, trở thành tiếng nói của thế hệ sinh viên học sinh thập niên 1940.

20210621 2

Lưu Hữu Phước và các bạn học Đại học Đông Dương đạp xe về nguồn. Ảnh nhỏ, từ trái: Mai Văn Bộ, Nguyễn Thành Nguyên, Lưu Hữu Phước. Ảnh do Mai Xuân Lộc (con trai nhà ngoại giao Mai Văn Bộ) cung cấp

Cùng khoảng thời gian ấy, cũng ở Hà Nội, Nguyễn Tuân đăng báo dài kỳ truyện vừa Chiếc lư đồng mắt cua. Đây là một tác phẩm đặc trưng cho chủ đề xê dịch của tác giả này. Câu chuyện mượn đề tài đời sống các nhà hát cô đầu làm phông cảnh một chặng dừng chân trong chuyến đi vào Nam của nhân vật Nguyễn (thực ra chính là tác giả), rồi cứ mãi quẩn quanh những tỉnh lẻ buồn bã bên hào nước thành Vinh hay Thanh Hóa. 

Ngược chiều với sự hăm hở đạp xe về dấu tích xưa của Lưu Hữu Phước, nhân vật Nguyễn Tuân uể oải đến chán chường cả những chốn lạc thú như kỹ viện. Ở những chốn mà việc hát chỉ là một phần bên cạnh hút thuốc phiện hay trăng gió tình tự với các cô đầu, Nguyễn thành bạn tâm giao với ông Thông Phu, chủ nhà hát. Ông ta tặng cho Nguyễn một chiếc lư đồng.

Đồng mắt cua. Nhỏ thôi. Đường kính rộng nhất nơi thân lư cũng chỉ bằng cái đường kính chiếc mặt tẩu Vân Nam da đá. Trông xinh lắm. Đến chơi gần bàn viết của tôi, thấy chiếc lư đựng kim găm và dùng luôn làm vật chặn giấy cho gió khỏi lật ngửa những trang chữ ướt, nhiều ông bạn nghiện đã nằn nì đòi lấy đem về bày vào khay đèn nhà.

Vẫn hay lư đỉnh nào mà chẳng dùng vào việc đốt trầm. Lư đỉnh nào mà chẳng được đặt trên những bệ các nơi cao nghiêm tôn thờ. Sân nhà Thế Miếu. Đình chùa. Bàn thờ gia tiên.

Nhưng chiếc lư của tôi suốt hai đời chủ, chỉ được đặt những nơi không đáng gọi là tôn thờ chút nào. Nó đã tuôn nhả những vòng khói thơm giữa những nơi hôi hám ẩm sũng. Nó đã phải đốt nóng trong hoàn cảnh xóm hát ả đào. Cái rất thanh cao ấy đã phải ở giữa một cái rất tục bạo”.

Nguyễn Tuân năm 1937. Ảnh: TL


Kết truyện vẫn là Nguyễn sống một cuộc đời buồn như cái lư chẳng được đốt lên nữa. Người đọc hiện đại có thể rất ngạc nhiên khi chứng kiến cùng một thứ đồ vật, đôi bên đã xử sự khác nhau. Nhà văn cảm thấy sự tồn tại mòn mỏi ẩn chứa nhiều độc tố quanh cái lư đồng đặt nhầm chỗ. Nhạc sĩ ái quốc tìm thấy sự khơi gợi tự tôn dân tộc qua làn hương trầm, phục hồi lại cảm xúc những chuyến về nguồn. Cùng một thời đại, những chiếc lư hương giúp người ta đọc gì ở những cảm xúc đối ngược ấy? Chúng tựa như có chung mục đích giúp người ta suy tưởng về một lối thoát tinh thần.

Ta hãy thử nghĩ về phương diện công năng quen thuộc của cái lư hương, hoặc thứ gần gũi hơn là bát hương.

Thắp hương hay đốt trầm có lẽ là hành vi tín ngưỡng quen thuộc nhất với  người Việt. Đến lượt vật thể để cắm những que hương hay đựng những mảnh trầm được đốt cũng thành thứ gắn bó với đời sống: bát hương, đỉnh đồng, lư hương… Tất nhiên những dụng cụ này còn dùng cho mục đích khác, song cơ bản vị trí của chúng thuộc về những nơi mang tính biểu tượng tinh thần nhất trong ngôi nhà, chẳng hạn bàn thờ. Trong chốn đó, thắp một nén hương, người ta kỳ vọng kết nối với thế giới tâm linh, gồm các thánh thần cho đến những người đã khuất, thậm chí cả những vong hồn xa lạ.

Để hoàn thiện cảm giác tôn quý, lư hay bát hương cũng được tạo tác trang trọng hơn mức một vật thể có chức năng làm khuôn đựng hay nơi cắm vào. Gia cảnh nghèo khó thì cái bát hay cốc đựng gạo cũng có thể làm chỗ cắm chân hương.

Hình lư hương trên áp phích Hội chợ Hà Nội năm 1932. Ảnh: TL


Lưu Hữu Phước hay Nguyễn Tuân còn có lư hương, trong khi cùng thời, hai cô gái điếm trong truyện ngắn Tối ba mươi của Thạch Lam trọ trong một nhà săm trong đêm ba mươi Tết dĩ nhiên không có cả bát hương chứ đừng nói đến lư đồng. Các cô mua gạo về định đổ vào một cái cốc, rồi chợt nhận ra “cái cốc bẩn ở góc tường, mà cả đến những khách làng chơi cũng không thèm dùng đến, nàng định dùng làm bát hương cúng tổ tiên!”.

Họ đành cắm tạm lên tường trong đêm giao thừa. “Khói hương lên thẳng rồi tỏa ra mùi thơm ngát đem lại cho hai nàng kỷ niệm những ngày cúng giỗ ở nhà, khi hai chị em còn là những cô gái trong sạch và ngây thơ”. Mùi hương trầm là một liệu pháp của ký ức, thanh tẩy thực tại. Nó giúp các cô gái của Thạch Lam bớt ê chề. Nó giúp Lưu Hữu Phước và bạn đồng tâm thoát ly thực tại để hướng đến thế giới lý tưởng của chủ nghĩa dân tộc. Chiếc lư đồng cũng giúp nhân vật Nguyễn Tuân lưu giữ ký ức phóng dật giữa cảnh đời mòn.

Khi nói đến những bộ đồ thờ bao gồm những lư hương hay đỉnh đồng, người ta nghĩ tới sự hoa mỹ cầu kỳ mang tính trang trí ban đầu nhằm tôn vinh thần linh và thế giới siêu nhiên. Nhưng dưới cái nhìn duy lý mà thế giới hiện đại đem lại, vẻ đẹp của các sản phẩm này có thể đo đếm. Chiếc lư đồng thành món cổ ngoạn, hô ứng với những quan niệm mà người Pháp đem vào thông qua những hoạt động bảo tàng của Trường Viễn Đông Bác Cổ. Chùa chiền dưới mắt họ không chỉ là chức năng tôn giáo mà còn là di sản kiến trúc. Ở góc độ nào đó, tư duy này đã tạo ra một truyền thống thẩm mỹ mới và giảm đi lớp sương khói của tín ngưỡng.

Nguyễn Tuân thuộc lớp người đã thừa kế cái nhìn hiện đại hóa đó. Thay vì quan tâm đến vầng nhang khói hư ảo và mục tiêu thần thánh trú ngụ trên lư hương, đỉnh đồng hay bát nhang, ông săm soi cái lư đồng một cách kỹ lưỡng với cái nhìn lý tính và trực quan hơn. Trong khi đó, người có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa về sau Mác-xít hóa như Lưu Hữu Phước lại viện dẫn đến quyền năng của hương khói cùng những thư tịch mang tính giáo khoa thư về các dấu tích cội rễ: “Chớ quên rằng ta là giống Lạc Hồng” (Tiếng gọi thanh niên, 1941). Trên bìa tờ nhạc bản tiếng Pháp của bài ca này, Marche des Etudiants (“Hành khúc sinh viên”, bài ca của Tổng hội Sinh viên Đại học Đông Dương, xuất bản 1943) in một chiếc lư hương nghi ngút khói.

*

Nhưng đỉnh, lư, hay lò hương, trong vốn văn chương kinh điển Á Đông, lại là thứ tiêu dao gắn với đời sống phù hoa hoặc cõi ẩn lánh trốn đời của kẻ sĩ. Truyện Kiều, danh tác trung đại Việt Nam quen thuộc nhất, đầy ắp những khói hương phi tín ngưỡng. Có thể nói, việc thắp hương hay đốt trầm là một hành vi thường nhật trong đời Kiều, nhiều đến mức có thể trở thành một biểu tượng thẩm mỹ của việc xây dựng nhân vật của Nguyễn Du.

Trong hơn ba ngàn câu thơ, nếu có 13 lần thắp hương thờ cúng với các đồ dùng như “nồi tâm hương”, “hương đèn” hoặc “dầu hương”, thì việc đốt hương trầm gắn với tình tự trai gái nhiều hơn hẳn, 22 lần. Nhiều cụm từ đã thành nhãn tự của tác phẩm này, có thể từ đó luận ra những mốc thăng trầm trong cuộc đời mười lăm năm lưu lạc của nhân vật chính: hương nguyền, hương thề, hương sớm trà trưa, hoa thải hương thừa, phấn thừa hương cũ, hương lửa đương nồng, hương lửa ba sinh, trầm bay lạt khói, hương bay dặm phần, đốt lò hương giở phím đồng ngày xưa, vớt hương dưới đất bẻ hoa cuối mùa, khói trầm cao thấp tiếng huyền gần xa… Những câu như “đốt lò hương ấy so tơ phím này” hay “phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa” thành một thứ điển cố, tạo ra một truyền thống trích dẫn suốt hai trăm năm sau.

Lò hương nguyền tỏa khói cùng với những yên hoa, yên ba (khói sóng), phong sương, vân yên, mây khói… chồng lấn nhau về trường ý, tạo ra một màn sương huyền ảo của khung cảnh vẫn còn đủ sức phủ lên ngôn từ dòng văn nghệ lãng mạn thế kỷ XX, thậm chí đến tận thi ca đầu thập niên 1970 ở Sài Gòn. Tập hồi ức văn chương của Đinh Hùng xuất bản sau khi ông mất mang cái tên xuất phát từ biểu tượng này: Đốt lò hương cũ (1971).

Hình lư hương trên những bản nhạc của Lưu Hữu Phước. Ảnh: TL


Khung cảnh hương khói của Truyện Kiều cũng tạo ra những điển mẫu về mô tả. Đầu thế kỷ XIX, lầu xanh của Tú Bà: “Giữa thì hương nến hẳn hoi/ Trên treo một tượng trắng đôi lông mày”, thì hơn một thế kỷ sau, cảnh nhà hát cô đầu ở phố Khâm Thiên được đặc tả nhiều ngụ ý gợi nhớ chốn thanh lâu: “Trên tủ, đỉnh đồng, hoa giấy, lư hương. Hai bên phòng, tràng kỷ, mắc áo tủ gương; lại vẩn vơ vài chiếc đàn lủng lẳng giữa tường vôi xanh lợt. Kể ra bày biện rất sơ sài, nhưng trông sạch mắt, phong lưu lắm. Chị Đốc thực là người lịch duyệt!” (TchyA, Cõi nát bàn của dân bẹp, Hà thành ngọ báo 23.8.1932).

Ở đây, có đến mấy làn hương: hương trầm, hương thơm son phấn và hương khói thuốc phiện. Một người từng là “dân bẹp” cũ, Vũ Bằng, đã gọi những khung cảnh các xóm hát cô đầu này là “cái nôi văn nghệ của Hà Nội ba chục năm về trước”. Sự hoài niệm này cung cấp bằng chứng về sự có mặt ở chốn ca kỹ phấn hương của rất nhiều văn nghệ sĩ làm nên chân dung nghệ thuật Việt Nam thời 1940, nó thấp thoáng ánh xạ của những ca lâu tửu điếm Paris quen mặt các văn nghệ sĩ tìm thú “hội hè miên man” (Hemingway) hay những xóm Bình Khang, nơi lui tới của các tân khoa tấn sĩ thành Trường An.

Sự chuyển hóa câu chuyện hương khói thờ phượng sang hương khói tình tự được kế thừa bằng tính cổ điển tựa như một truyền thống của giới trí thức Tây học kế thừa các nhà nho tài tử, có từ những truyện tài tử giai nhân như Tú Uyên gặp Giáng Kiều ở chốn thiền môn. Người đọc gặp lại môtip này trong bài thơ Chùa Hương (1934) của Nguyễn Nhược Pháp, dưới dạng “thiên ký sự của một cô bé ngày xưa”. Cô gái tuổi mười lăm đi hội xuân chùa Hương cũng như nàng Kiều tuổi cập kê đi lễ Thanh minh hội ngộ chàng Kim. Mùi hương cầu khấn Trời Phật hay khóc người bạc mệnh Đạm Tiên đều thoắt hóa hương tình. Cùng một tâm thế với phút gặp gỡ “trăm năm có biết duyên gì hay không” của Kiều, sau cuộc hội ngộ với chàng văn nhân, cô thiếu nữ đã động tâm lãng mạn hóa một mùi hương tôn giáo: “Đêm hôm ấy em mừng! Mùi trầm hương bay lừng… Em mơ, em yêu đời!”. Mùi hương đã nhuộm cho ái tình sắc thái hư ảo.

*

Lịch sử đã làm công việc biến thiên của nó khi bối cảnh đất nước đầu thập niên 1940 sôi sục những bài ca ái quốc của Lưu Hữu Phước đẫm hương khói viếng Hồn tử sĩ: “Khói bốc nghi ngút bay quyện lá cờ… Cùng nhau khấn non nước thiêng liêng” hay cầu nguyện Người xưa đâu tá: “Hồn con hương ngát kính cẩn dâng lên Hai Bà”. Trên bìa những tờ nhạc này thời kỳ đầu, hình ảnh minh họa tiếp tục là một lư hương. Những buổi biểu diễn những bài ca ái quốc của nhóm Hoàng Mai Lưu gồm ban đồng ca 10 người, “mặc áo dài khăn đóng chỉnh tề đứng sau một bộ lư đồng tỏa hương nghi ngút đặt trên bục cao” (Huỳnh Văn Tiểng). Với lời kêu gọi Lên đàng hay Xếp bút nghiên, Lưu Hữu Phước thành người dấn thân vào cuộc cách mạng tự giác trước khi gặp cuộc cách mạng của xã hội.

Ngược lại, chiếc lư đồng tương tự không nhả một làn khói tương tự với Nguyễn Tuân. Ông kể lại, "Nhật đảo chính Pháp, không khí khắp nơi sục sôi chuẩn bị khởi nghĩa, tôi vẫn không hề hay biết gì. Chiều ngày 9.3.1945, tôi còn nằm bẹp tại nhà một cô đầu ở Khâm Thiên. Đêm, Nhật nổ súng đảo chính Pháp, tôi vẫn nằm ở nhà hát bà Chu. Sáng ra, sau khi ngớt tiếng súng, tôi mới khăn đóng áo the ra đường, về nhà ở phố Cầu Mới. Thấy tôi về, cả nhà rất mừng, muốn giữ tôi ở nhà lâu lâu, chờ cho tình hình yên ổn. Nhưng chỉ được mấy hôm, tôi lại lặng lẽ xuống phố, lại vào nhà cô đầu...". (Ngọc Trai, Trò chuyện với nhà văn Nguyễn Tuân). Dường như Nguyễn Tuân vẫn là Nguyễn của Chiếc lư đồng mắt cua. Dù chào mừng cách mạng, ông vẫn là người “tư tưởng không vững vàng” như chính ông tự kiểm điểm vì đã viết trong một bài báo năm 1946: “Bây giờ, hễ thấy chỗ nào có treo cờ, bất kể là cờ gì, tôi đều sợ”. Tất nhiên, Nguyễn Tuân rốt cục cũng “chung một bóng cờ” với Lưu Hữu Phước, cho dù là trên một con đường “gập ghềnh xa”.

Bìa cuốn Tục lụy (Khái Hưng, 1937) và phiên bản chỉnh sửa sau này có tên Trần duyên của Thế Lữ và Lưu Hữu Phước. Ảnh: TL


Ngay cả với một người ôm mộng làm tráng sĩ như Lưu Hữu Phước, con đường sáng tạo của nghệ sĩ không một chiều. Nó còn có những ngã rẽ lãng mạn. Đón Tết Quý Mùi 1943, các nữ sinh Trường Đồng Khánh Hà Nội muốn dựng kịch thơ Tục lụy của Khái Hưng do nhà thơ Thế Lữ chuyển thể. Trần Văn Khê kể lại: “Theo đề nghị của Thế Lữ, ngại rằng nếu ngâm thơ suốt cả giờ đồng hồ sẽ khiến khán giả nhàm chán, đoàn kịch phái cô Minh Nguyệt đại diện đến tìm Lưu Hữu Phước để nhờ phổ nhạc các bài thơ trong vở kịch”.

Đầu tiên Lưu Hữu Phước từ chối vì chỉ sáng tác nhạc chứ chưa bao giờ phổ thơ, song người đẹp tươi cười khẩn khoản: “Xin ông cố một tí giúp chị em tôi ông nhé!”. Lưu Hữu Phước xiêu lòng và thức ba đêm trắng để phổ nhạc “Khúc Nghê Thường” với những nhân vật Nhã Tiên, Thi Tiên và Diễm Tiên cho kịp biểu diễn ngày 23.1.1943. Ở đây, Thế Lữ và Khái Hưng là những tác giả của nhóm Tự lực Văn đoàn, dường như đối nghịch thẩm mỹ nghệ thuật với Lưu Hữu Phước, song sự kết hợp đã tạo ra thành tựu khai mở cho thể loại ca kịch Việt Nam.

Lưu Hữu Phước còn có một bài hát “tặng cô J. Thu Hương” trên bối cảnh dòng sông Hương: “Làn hương ơi! Làn hương mờ xóa bóng ai yêu kiều trong mơ” (Hương Giang dạ khúc, 1943). Trên bản nhạc do nhóm Hoàng Mai Lưu của chính Lưu Hữu Phước chủ trì xuất bản năm 1946, ghi “nhạc sĩ vô danh” và bài hát cũng không có mặt trong các tuyển tập nhạc khi tác giả còn sống. Sau này ông trở thành tác giả nổi bật của dòng nhạc cách mạng, thậm chí còn là chính khách. Liệu có phải ông đã chối từ những “mảnh hương nguyền” của mình? Phải chăng cảm hứng từ nàng thơ trường Đồng Khánh chỉ đủ tạo ra một góc diễm ảo nhỏ trong đời ông? Những bài hành khúc dường như đã lùi vào đền đài kỷ niệm của các cuộc chiến tranh. Nhưng dù hương khói đã tan, bất kể lý do gì, chiếc lư trầm chàng trai 19 tuổi Lưu Hữu Phước thắp lên ở một gác trọ Hà Nội đã thực sự làm nên một biểu tượng lãng mạn của thời đại ấy.

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 19.6.2021.

Những năm 1930, khi người dân Việt chỉ biết thư pháp viết bằng chữ Hán, các trí thức nặng lòng với tiếng Việt đã âm thầm nghiên cứu cách viết thư pháp bằng chữ quốc ngữ.

20210220 2

Bút tích của nhà thơ Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

Theo PGS.TS Võ Văn Nhơn, nguyên phó trưởng khoa văn học và ngôn ngữ, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM), nhiều văn nhân thời trước xem nhà thơ Đông Hồ (1906-1969) là người đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng cách viết thư pháp bằng chữ Việt, theo bảng chữ cái Latin.

Từng dành nhiều năm nghiên cứu về nhà thơ Đông Hồ, cũng là tác giả cuốn sách Đông Hồ - Mộng Tuyết (NXB Hội nhà văn, 1992), ông Nhơn cho biết bạn cùng thời thường đến nhờ nhà thơ viết chữ. Thi sĩ Quách Tấn (1910-1992) từng "xin" chữ của Đông Hồ cho bức trướng treo trong nhà. 

Nhà văn Lê Văn Siêu (1911-1995) cũng có nhắc: "Mỗi lần Tết, Đông Hồ đều gửi cho anh em một tấm thiệp, có bài thơ mừng xuân". Tất cả đều là chữ quốc ngữ nhưng được viết bằng bút lông, mực tàu theo phong cách thư pháp Hán tự trước đây. 

Thời gian đầu, nhiều người thấy lạ mắt nhưng về sau khá thích thú khi nhận được chữ từ Đông Hồ. 

"Thêm nữa, bác lại có ý muốn gây một phong trào chơi câu đối viết bằng chữ quốc ngữ", nhà văn Lê Văn Siêu viết.

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 2.

Nhà thơ Đông Hồ - Ảnh tư liệu

ThS Nguyễn Hiếu Tín - hiện nay là Trưởng bộ môn du lịch, Trường ĐH Tôn Đức Thắng - cho biết bút tích của Đông Hồ hiện còn rất nhiều trong sách vở hay chùa chiền. 

Qua những cứ liệu, bút tích còn lại, thêm chuyện Đông Hồ là người cả đời tâm huyết vì sự phát triển của tiếng mẹ đẻ… nhiều người xem Đông Hồ như "ông tổ" trong giới thư pháp chữ Việt.

Chữ Việt vươn ra thế giới

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 3.

Kiến trúc sư Nguyễn Thanh Sơn trong chuyến đưa thư pháp chữ Việt ra thế giới - Ảnh: NVCC

Ngày nay, thư pháp chữ Việt ngày càng được nhiều người biết đến và yêu thích. Kiến trúc sư Nguyễn Thanh Sơn - một trong những người gầy dựng phong trào chơi thư pháp chữ Việt ở TP.HCM - cho biết ưu điểm của thư pháp chữ Việt là tính quốc tế hóa, tinh thần hội nhập.

Từ cách viết thư pháp chữ Việt, người viết có thể vận dụng sáng tạo cho những ngôn ngữ khác dùng chữ Latin như tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha… Đây là điều mà thư pháp chữ Hán rất khó tiếp cận.

Kiến trúc sư Thanh Sơn chia sẻ, muốn viết, trước hết phải thật sự tĩnh tâm, có lúc phải ngồi thiền mới bắt đầu cầm bút được. Bản thân ông, có những chữ ông viết đi viết lại nhiều lần, có khi mất một tháng mới ưng ý.

"Thư pháp chữ Việt là môn nghệ thuật công phu, đòi hỏi người viết phải khổ công luyện tập về nhiều phương diện mới có thể ít nhất viết được một chữ trọn vẹn", ông nói.

Tại TP.HCM hiện có câu lạc bộ những người yêu thích thư pháp (hoạt động ở Nhà văn hóa quận 1) do ông Sơn thành lập, hướng dẫn các anh em đam mê tập viết. Ông cũng nhiều lần được một số nước như Thụy Sĩ, Mỹ… mời xuất ngoại để triển lãm thư pháp chữ Việt.

Nhà thơ Đông Hồ tên thật là Lâm Tấn Phác, sinh ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên). Vì tổ tiên nhiều đời sống ở ven Đông Hồ Ấn Nguyệt - một trong mười cảnh đẹp của đất Hà Tiên (Hà Tiên thập cảnh) - nên khi mới bắt đầu biết làm thơ, ông chọn bút danh Đông Hồ.

Giai đoạn 1926-1934, ông mở nhà nghĩa học bên bờ Đông Hồ Ấn Nguyệt, lấy tên là Trí Đức Học Xá. Ông tự mình đứng lớp dạy chữ quốc ngữ, lúc này vẫn còn ít phổ so với chữ Pháp hay chữ Hán. Đông Hồ từng thổ lộ, ông học theo lời dạy của nhà thơ Tagore (Ấn Độ): "Có học tiếng mẹ đẻ thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra được".

Từ năm 1964 đến 1969, ông được mời dạy môn Văn học miền Nam tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Là người rất lịch thiệp và cầu kỳ, những khi tiếp khách, những lúc ngâm thơ, Đông Hồ đều ăn mặc trang trọng và đốt trầm hương...

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 6.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hoa, cháu họ của nhà thơ Mộng Tuyết, và những hình ảnh, di bút của vợ chồng thi sĩ Đông Hồ được trưng bày tại nhà lưu niệm ở Kiên Giang - Ảnh: NGUYỄN TRIỀU

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 7.

Những nét chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 8.

Những nét chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 9.

Những nét chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

Hoàng Thi

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 13.02.2021.

Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX là thời kỳ Pháp xâm lược, thống trị Việt Nam nói chung và Nam bộ nói riêng. Theo đó, nhiều vấn đề xã hội mới xuất hiện, mà sự hình thành phát triển công nghệ in mới đóng một vai trò quan trọng vào quá trình hiện đại hóa của văn hóa ở nước ta.

Từ đầu thế kỷ XIX trở về trước, việc phổ biến kiến thức ở Việt Nam rất hạn hẹp, phần vì chữ Hán chữ Nôm khó học, phần quan trọng khác vì kỹ thuật in ấn, sản xuất giấy còn nhiều hạn chế. Đến cuối thế kỷ XIX, nhưng hạn chế về kỹ thuật in ấn và sản xuất giấy được khắc phục đáng kể nhờ vào công nghệ của phương Tây. Theo đó, chữ quốc ngữ mẫu tự latin, sách vở, báo chí được in ấn, lưu hành rộng rãi, giúp cho việc học hành, phổ biến kiến thức rộng rãi, nhanh chóng, dân trí nhờ vậy mà được nâng cao hơn.

Hiện tại, các thư viện lớn ở Việt Nam vẫn còn giữ được khá nhiều ấn phẩm được in từ cuối thế kỷ XIX, có nguồn gốc xuất xứ khác nhau, từ Paris, Hongkong cho đến các nhà in trong nước từ Bắc vào Nam, với nhiều thứ tiếng khác nhau: Pháp, Hán, Nôm, quốc ngữ, cũng không hiếm ấn phẩm song ngữ: Hán – quốc ngữ, Pháp – quốc ngữ. Điều này thể hiện sự phong phú trong tình hình in ấn, đồng thời cũng thể hiện đặc thù chuyển đổi từ nền văn hóa cũ sang nền văn hóa mới của nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX.

Tình hình xuất bản và phát hành cuối thế kỷ XIX

In ấn xuất bản là một hoạt động quan trọng của xã hội, ở nước ta nghề in cũng có từ lâu đời, đến cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX bắt đầu phát triển mạnh mẽ theo công nghệ mới. Thế nhưng việc tìm hiểu, nghiên cứu về hoạt động in ấn xuất bản của Việt Nam cho đến hiện tại vẫn còn rất hạn chế, chỉ có thể tìm thấy một ít thông tin rải rác trên sách báo. Về hoạt động xuất bản ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX, trên tờ báo quốc ngữ đầu tiên của nước ta là Gia Định Báo, số 24 năm 1890 đưa tin: “Ông Lamache, là tùy biện thơ toán tại dinh hiệp lý, bây giờ bỏ đi làm việc tại nhà in quản hạt, thế cho ông Goursaud về nghỉ”. Giai đoạn cuối thế kỷ XIX, các nhà in chủ yếu ở Nam bộ do người Pháp thành lập và đứng tên. Việc in ấn và phát hành sách báo lúc này có sự tham gia tích cực của tư nhân, “nhà hàng”, nổi tiếng như các “Bản in nhà hàng C. Guilland et Martion” ở Sài Gòn. Một loạt ấn phẩm của Trương Vĩnh Ký đã được in ấn và phát hành tại đây, như: Thơ dạy làm dâu, Bất cượng chớ cượng làm chi, Huấn nữ ca, Trương Lưu hầu phú, Nữ tắc in năm 1882; Học trò khó phú và Grammaire de la langue Annamite (1883), Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca (1884), Phú bần truyện diễn ca và Kiếp phong trần (1885).

20210614

Phần lớn sách báo Trương Vĩnh Ký làm ra đều nhắm đến đối tượng thiếu niên sơ học. Tờ “Thông loại khóa trình” và “Sự loại thông khảo” do Trương Vĩnh Ký chủ trương năm 1888-1889 tuy không phải là “sách giáo khoa” song cũng là loại tài liệu tham khảo hữu ích dành cho việc giáo dục trẻ em. Ở đây, Trương Vĩnh Ký vừa phổ biến Nho học bằng cách diễn Hán văn ra chữ quốc ngữ thông qua hình thức thơ ca và văn vấn đáp, vừa phổ biến Tây học, dạy Pháp văn bằng cách dạy đọc và giải nghĩa từng từ cùng với việc dịch một số mẩu chuyện ngắn từ Pháp văn ra tiếng Việt. Trong số, phần Nho văn chiếm vị trí áp đảo so với Pháp văn. Các ấn phẩm khác đại khái cũng theo chủ trương tinh thần ấy. Việc làm này của Trương Vĩnh Ký sau đó được Trương Minh Ký kế thừa tiếp tục một cách tích cực và hữu hiệu.

Cuối quyển Thi pháp nhập môn của Trương Minh Ký do Impremerie Commerciale Rex ấn hành năm 1898 tại Sài Gòn, có kê một danh sách những ấn phẩm đã in và đang phát hành thời bấy giờ, có giá bán kèm theo. Cụ thể như sau:

  • Fable de Lafontaine: 0$50.
  • Télémaque (traduction): 0.10.
  • De Saigon à Paris (Như Tây nhựt trình): 0.50.
  • Exposition Universelle (Chư quấc thoại hội có hình): 0.50.
  • Ricche et Pauvre (Phú bần truyện): 0.10.
  • Méthode pour apprendre l’Annamite (Tập dạy học tiếng An Nam): 0.20.
  • Cours gradué de langue francaise (Pháp học tân lương): 2.50.
  • Cours de chinois (Ấu học khải mông): 0.20.
  • Emtretions sur la Piété liliale (Hiếu kinh diễn nghĩa): 0.20.
  • Petite Etude (Tiểu học gia ngôn): 0.20.
  • Morceaux choisis de littérature chinoise (Cổ văn chơn bửu): 0.20.
  • Préceptes de morate chinoise (Khuyến hiếu ca): 0.10.
  • Tresor poétique chinois (Ca từ diễn nghĩa): 0.10.
  • Tragédie de Joseph (Tuồng Joseph): 0.10.
  • Tragédie de Bá Ấp Khảo (Tuồng phong thần Bá Ấp Khảo): 0.10.
  • Tragédie de Kim Vân Kiều (Tuồng Kim Vân Kiều, ba thứ): 0.50.
  • Syllabaire quốc ngữ (Vần quốc ngữ có hình): 0.10.
  • Premìeres lectures enfantines (Quốc ngữ sơ giai có hình): 0.10.
  • Traité de versitication Annamite (Thi pháp nhập môn): 0.20.
  • Cours de Chinois (3e partie) (Tiểu học tập sớ): 0.50.

Phần cuối ghi chú thêm: “Các thứ sách kể trên nầy để bán tại nhà Trương Thế Tải ở Sài Gòn. Ai muốn mua thì gửi bạc đến đó, và để tên họ cùng chỗ mình ở cho rõ, thì có người gói sách lại cho chẳng sai”.

“Thế Tải” là “tên tự” của Trương Minh Ký (1855-1900) và toàn bộ sách trên đều do ông soạn, một ít được Guilland et Martinon in và phần lớn do Rey et Curiol in từ năm 1884 đến 1899 tại Sài Gòn.

Từ các thông tin trên, chúng ta có thể đi đến nhận xét một số vấn đề về xuất bản ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX như sau: Thứ nhất, về ngôn ngữ văn tự, bấy giờ có đủ ca ba thứ chữ: Quốc ngữ, Hán, Pháp trong đó chủ yếu là sách quốc ngữ có nhan đề chữ Pháp và chữ Hán kèm theo, nhưng chữ Pháp được in giữa bìa như là nhan đề chính, dù thực ra bên hoàn toàn chỉ là chữ quốc ngữ; Thứ hai, về nội dung, đề tài, gồm có truyện thơ, sách học chữ quốc ngữ, chữ Hán, chữ Pháp dành cho những người mới bắt đầu mà đối tượng chính là thiếu niên, ngoài ra còn nhiều loại văn bản tuồng lấy tích từ Truyện Kiều, tuồng lấy tích từ truyện Tàu (tuồng Bá Ấp Khảo lấy tích từ Phong thần diễn nghĩa), tuồng lấy tích từ Kinh Thánh vừa có tinh cách giải trí vừa có tính cách như một phương thức truyền đạo Công giáo (Tuồng Joseph). Đặc biệt, yếu tố “Thái Tây” ở đây thể hiện rõ nhất trong sách dịch từ Pháp văn sang thơ lục bát quốc ngữ truyện phiêu lưu của Télémaque và truyện ngụ ngôn Lafontaine. Tức là yếu tố “lạ”, “ngoại lai” từ văn học phương Tây đã vào Nam bộ cuối thế kỷ XIX thông qua một hình thức gần gũi quen thuộc nhất với người đương thời là truyện thơ lục bát. Đây là bước “trung chuyển” quan trọng để việc truyền bá văn hóa phương Tây vào Việt Nam cũng như quá trình tiếp nhận văn hóa phương Tây của người Việt Nam được diễn ra thuận lợi, ít gặp cản trở nhất.

Phát hành là hoạt động gắn liền với xuất bản, vì thế nó cũng được quảng bá rộng rãi đến công chúng, mà báo chí là một kênh cực kỳ quan trọng mới ra đời cuối thế kỷ XIX, bản thân báo chí cũng là một ấn phẩm phổ biến và thiết yếu trong thời kỳ này vừa với tên gọi “báo” vừa với tên gọi “nhựt trình”, trong đó tên gọi “nhựt trình” phổ biến hơn. Như một mẩu tin được in trên tờ Gia Định Báo qua rất nhiều số trong năm 1890, ví dụ số 40: “Nhựt trình bên sở đề hình trong cõi Đông Dương, nal judiciaire de l’Indo-Chine của quan Chưởng lý đề hình in ra trong ấy đem lý luật tòa kêu án Sài Gòn về việc người Lang Sa, người bổn quấc, cùng về hình phạt làm sao, lại đem những giấy châu tri về việc đại cái bên tòa, bây giờ đương in. Xấp nào làm trước trong tháng janvier 1890 thì mới rồi, còn các xấp trong các tháng trễ thì cũng gần rồi. Giá mua nhựt trình ấy định ra như sau đây: Một năm 6 đồng bạc, sáu tháng 3 đồng rưỡi. Hễ ai mua cho tới ngày mồng 1 septembre năm nay, thì sẽ kể từ ngày mồng 1 janvier mà phát, như để quá ngày ấy thì kể y kỳ sáu thang theo lệ. Ai mua thì phải tới tại phòng tư dinh hiệp lý cho người ta biên tên”.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX xuất hiện nhà in Nouvelle hay Nouvelle Albert Portail với các ấn phẩm tiếng Pháp thấy xuất hiện cả ở “Paris”, Phnom-penh và “Saigon”, tác giả gồm cả người Việt và người Pháp. Ví dụ: Cours gradué de langue francaise: en 100 lecons (Trương Minh Ký, Saigon, 1893), Situation du Christianisme en Cochinchine à la fin du XIXe siècle (Saigon, 1898, nói về tình hình đạo Kitô ở Nam kỳ cuối thế kỷ 19), La FrancMaconnerie du Grand Orient de France (Paris, 1897). Sang đầu thế kỷ XX, Nouvelle xuất bản nhiều ấn phẩm khác.

Việc dịch thuật giữ một vai trò trọng yếu trong sự hình thành các từ ngữ, khái niệm hay thuật ngữ mới. Nhưng cuối thế kỷ XIX do xuất bản còn hạn chế, các ấn phẩm lại chủ yếu phục vụ cho mục đích phổ biến chữ quốc ngữ và giáo dục tiểu học, nên việc du nhập và tạo từ mới vẫn chưa có nhiều đột phá. Tình hình này sẽ thay đổi khi bước sang đầu thế kỷ XX, với sự phát triển mạnh mẽ của báo chí và xuất bản, rồi các phong trào cải cách xã hội diễn ra sôi nổi, rộng khắp.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 1

Tình hình xuất bản và phát hành đầu thế kỷ XX

Đầu thế kỷ XX, báo chí nở rộ ở Nam bộ, theo đó, các thông tin về xuất bản cũng phong phú hơn nhiều so với giai đoạn trước. Trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn số 670 năm 1919 có đăng thông báo Nhắn với bạn đồng bang nội dung như sau: “Chúng tôi đặng vinh hạnh mà hay tin rằng đồng bang ta trong sáu tỉnh nay cũng đã đồng lòng đề xướng tuyệt giao thương mãi với khách trú mà vãn hồi quyền lợi cho bản xứ. Các châu thành lớn nhỏ thảy đều chung vốn lập cuộc mua bán cùng nhau chẳng chịu đến tiệm khách trú nữa; thật là một cơ hội hạnh phúc của dân tộc ta vô cùng. Ấy vậy tôi xin nhắc bạn đồng bang ta trong mấy làng mấy chợ và chỗ nào có trường học nên đến nhà in Imprimerie de l’Union mà mua sỉ các thứ giấy viết mực, đồ dùng về văn phòng tứ bửu nhứt hạng mà bán ra cho đồng bang ta dùng, khỏi đến khách trú mà mua mắc. Vẫn nhà in Union là một nhà in rất lớn tại Sài Gòn, và lại của người An Nam ta làm chủ, giá rẻ hơn các chỗ. Đồng bang ta hãy xem tiệm của M. Bùi Quang Nho mà ngày nay đồ sộ tại hạt Bến Tre đó là sở dĩ trước hết cũng khởi ra mà bán đủ các thứ giấy viết mực và các thứ sổ, sách, thơ, tuồng, truyện chữ quốc ngữ mà nên. Huống ngày nay là ngày của đồng bang ta tuyệt giao với khách trú, binh vực nhau mà làm ăn thì lại càng dễ hơn ông Bùi Quang Nho khi mới sáng tạo. Ấy vậy mấy tiệm An Nam ta đây đang lo lập ra nên gởi thơ mà thương nghị với M. Nguyễn Văn Của, Rue Catinat 155, 157 Sài Gòn, giá rẻ hơn các chỗ là có ý giúp sức cho đồng bang ta buôn bán mau thạnh vượng”.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 4

Tiếp đó, bản thông báo này lại kê ra “các món hàng tại nhà in” Union của Nguyễn Văn Của, toàn bằng Pháp văn. Có thể vì đương thời người ta chưa tìm, chưa Việt hóa được hết các từ ngữ tên gọi đồ đồ dùng văn phòng và dụng cụ học tập mới có xuất xứ từ phương Tây như bút chì, máy tính, gim kẹp… nên mới liệt kê toàn bằng tiếng Pháp như vậy.

Ngoài đầu tư nhà in, Nguyễn Văn Của còn kinh doanh khách sạn, riêng trong hoạt động xuất bản, ông không chỉ ấn hàng sách báo, mà còn nhiều loại ấn phẩm khác, như bản hát, lời rao, giấy hát… Điều này được chứng thực thông qua bài tố cáo Nguyễn Văn Của mượn việc công để tư lợi, nhan đề Xin hãy mở đàng tra xét của tòa soạn Lục Tinh Tân Văn, đăng trên số 610 năm 1919: “M. Nguyễn Văn Của xướng lập nghĩa vụ, trợ giúp quốc gia đâu chưa thấy, đà thấy ngài tư lợi cho nhà – nhà nào? – nhà in cùa ngài, nhà ngủ của ngài; in những bản hát, những lời rao, in giấy hát, in… in… in giống gì nữa đó, tính năm bảy trăm đồng”.

Phát Toán cũng là một nhà in tiếng tăm ở Sài Gòn đầu thế kỷ XX, Lời kính cáo: “Kính tỏ cùng quới ông, quới bà, đặng rõ: Tôi là Phát Toán, khi trước có hùn với ông Lê Văn Nghi, mà buôn bán làm nhà in; Nay tôi hết hùn. Tôi nghĩ vì đã lâu năm buôn bán, làm nghề nhà in, đặng thạnh lợi là nhờ ơn quới ông quới bà hảo tâm tưởng tình tôi là bạn đồng bang, nên tới lui mua bán nhiều, mới đặng ra bề thế, tôi tuy là thôi làm nghề đó mặc lòng, song ơn còn tạc dạ, nên phải kính đôi lời mà cám tạ ơn chư vị. Bây giờ tôi dọn về ngang chợ mới Sài Gòn, đàng Espane, môn bài số 72, Phát Toán, trong tiệm có bán đủ thứ thơ, tuồng, truyện, sử chữ quốc ngữ; có đủ các kiển tượng ảnh lớn nhỏ, làm bằng thạch cao, lại có các thứ khánh (lầu) đặng để tượng ảnh vào mà thờ, kiển nào cũng có, tượng ảnh thì sơn son, thếp vàng rất tốt, khánh thì vẽ vời bằng nước vàng, có chỉ niền bông hoa rất đẹp; Có hình làm bằng thạch cao để mà gắn vô mấy đầu cột nhà bằng đá gạch, cũng có đủ các kiểu lớn nhỏ; Tiệm tôi có mướn thợ sẵn, như vị nào có tượng ảnh cũ, hoặc, bể, gãy, muốn sửa lại với sơn thiếp cho ra mới thì đặng, còn vị nào muốn chưng diện nhà cửa, dọn salon có huê lệ cây lá, chim chóc, hoặc là lên tượng âm dung ông bà cha mẹ, hoặc là mồ mả có bông hoa rực rỡ thì xin đến tiệm tôi thương nghị giá cả, vì tôi có thợ giỏi và người vẽ hay. Tôi xin chư vị tưởng tình tôi là bạn xưa nay, tới lui mua bán với tôi cũng như mấy năm trước, thật tôi lấy làm cảm ơn lắm; tôi nhứt nguyện ăn nhẹ giá; còn vị nào cần dùng muốn mua vật chi thì xin gởi thơ đến nơi tôi; hễ tôi gặp thơ thì mau mau gởi đồ lại chẳng dám bỏ qua hay là chậm trễ”.

Thông tin này không cho biết cụ thể về tình hình xuất bản của Phát Toán, nhưng cho biết hoạt động của một nhà in bấy giờ không chỉ có in ấn phát hành sách, mà còn bao gồm buôn bán kinh doanh các mặt hàng khác phụ thêm như bán tranh tượng.

Việc phát hành các ấn phẩm không chỉ do các nhà in, mà các tòa báo ngoài ấn hành báo cũng in và phát hành các ấn phẩm khác để tăng doanh thu. Ví dụ, thông báo Những sách của bản xã in ra in bán rồi của Lục Tỉnh Tân Văn số 515 năm 1918, kèm theo đó là danh sách cụ thể: Sơ học luân lý của Trần Trọng Kim (0$30), Thơ La Fontaine diễn nôm của Nguyễn Văn Vĩnh (quyển 1 giá 0.10 và quyển 2 giá 0.05), Chuyện trẻ con của Perrault do Nguyễn Văn Vĩnh diễn nôm (0.10), Sư phạm giáo khoa của Trần Trọng Kim (0.30), Nam sử sơ học của Trần Trọng Kim (0.30), Ấu học tập đọc của Nguyễn Đỗ Mục (0.10), Tiểu học tập đọc của Nguyễn Đỗ Mục (0.10), Văn quốc ngữ của Phạm Văn Hữu (0.25), Ấu học cách trí độc bản của Trần Văn Quang (0.20), Ấu học luân lý tập đọc của Nguyễn Đỗ Mục (0.10).

Như vậy, chúng ta thấy, nếu như cuối thế kỷ XIX các sách phát hành ở Nam bộ chủ yếu là do người miền Nam soạn, thì đến giai đoạn này đã có nhiều sách của người miền Bắc nổi tiếng đương thời như Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Vĩnh soạn được phát hành trong Nam. Điều này chứng tỏ hoạt động xuất bản và phát hành đầu thế kỷ XX ở Nam bộ đã có sự mở rộng và liên thông với các tỉnh thành miền ngoài. Có thể tìm thấy nhiều bằng chứng khác để khẳng định việc giao lưu giao thương rộng rãi Bắc – Nam trong thị trường xuất bản và phát hành, như:

Công Luận Báo số 406 năm 1926 có mẩu quảng cáo hiệu Thanh My (địa chỉ 110 Rue Guynemer, Sài Gòn): “Bổn tiệm bán sách, truyện của ông Phan Bội Châu. Bán các thư sách, truyện và tiểu thuyết mới xuất bản ở ngoài bắc gửi vô. Bán sỉ và lẻ. Đóng các thứ giầy tây, nam đủ kiểu hạp lối kim thời, và có salon hớt tóc. Kính mời”.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 6

Tin Sách rất có ích cho các nhà thương mãi trên Phụ Nữ Tân Văn số 16 năm 1929: “Phép biên chép sổ sách buôn bán của ông Đỗ Văn Y soạn. Sách nầy viết bằng quốc ngữ, chỉ rành rẽ về cách biên chép sổ sách, dễ coi dễ hiểu, các nhà thương mãi nên mua dùng. Giá mỗi cuốn 1$00, có bán tại nhà M. Đỗ Văn Y Cần Thơ”. Cũng trên số báo này có mục Tin mới trong làng văn đăng danh sách các ấn phẩm do “tác giả gởi tặng”, bao gồm nhiều nơi trong cả nước: Thời bịnh luận (Quốc hoa tùng san), Danh nhơn dật sự (115 rue du Coton Hà Nội), Trưng Nữ Vương tân kịch (Trần Quang Hiển, thú y ở Gia Định), Chinh phụ ngâm khúc dẫn giải (Nguyễn Đỗ Mục), Hoa ngữ chỉ nam dạy tiếng Quảng Đông (Lê Quảng Nhựt ở Hà Nội), Khách không nhà  lịch sử tiểu thuyết (Hoài Sơn), Gan đàn bà  lịch sử tiểu thuyết (Mai Linh), Hoa ngữ vấn đáp (Phan Bội Châu, Duy Tân thơ xã, 43 đường d’Ariès Sài Gòn xuất bản), Sách quốc ngữ dạy trẻ (Hoài Nam Tử), Văn đàn bảo giám (Trần Trung Viên), Bài hát nhà quê (Á Nam Trần Tuấn Khải), Sách chơi năm xuân năm Kỷ Tỵ, Nữ anh hùng (Kim Giang dịch), Ngụ ngôn tập đọc. Trong đó, 5 đầu sách cuối có bán tại Nam Ký thư quán ở Hà Nội (số 17, đường Francis Garnier). Tiếp theo là các sách: La Tasse de Poison tức bản kịch Chén thuốc độc của Vũ Đình Long được Georges Cordier dịch ra tiếng Pháp, Tiếu lâm Nhựt Bổn, Bước đời ăn cướp (Nguyễn Thế Sử dịch), Hán Việt thông thoại tự vị (Đỗ Văn Đáp, nhà in Trường Phát Nam Định số 60 rue du Fer).

Tin Giới thiệu sách mới, trên Công Luận Báo số 833 năm 1928 giới thiệu sách xuất bản ở Hà Nội: “Bổn báo có tiếp được một quyển sách nhan đề: Những đều trông thấy của ông Vũ Công Định soạn xuất bản ở Quốc Dân Thư Xã Hà Nội, giá bán 0$12. Sách ấy toàn là bài đoản bình về hiện tình xã hội lời thì ít mà ý tưởng thì nhiều, thật là thứ sách có ảnh hưởng tốt cho quốc dân ta vậy. Bổn báo sẽ rút đăng một hai bài để giới thiệu cùng độc giả, đặng biết sơ cái nội dung sách ấy mà mua”.

Đáng chú ý nhất là tin Tin Đức Thư Xã cáo bạch trên Hà Thành Ngọ Báo số 480 năm 1929, giúp chúng ta hình dung được một phần cụ thể về tình hình xuất bản đương thời của một nhà in lớn trên các mặt: số lượng bản in, giá bán, các đầu sách, thực tế tiêu thụ, nhu cầu của người tiêu dùng, cách thức khai thác bản thảo…: “Gần đây sách Quốc âm xuất hiện biết bao nhiêu, mà tiếc thay sách có ích rất ít, đọc đã không bổ ích mà lại có khi hại cho những óc non, nên ngày nay bổn xã, nhờ ơn đồng bào chiếu cố, đặng thạnh vượng, chấn chỉnh lại việc xuất bản, lựa những sách văn chương, những tiểu thuyết bảo tồn phong hóa của các nhà viết có danh Trung, Nam, Bắc, mà mua bổn quyền dầu giá cao cũng mua. Vậy trong đồng bào, vị nào viết sách đọc rồi không hổ với lương tâm mà không đủ lực hay không tiện bề xuất bản bán muốn nhường bổn quyền xin viết thơ cho bổn xã mà thương lượng”. Những loại bản thảo mà thư xã này hoan nghênh là “những sách ghi chép về sự các nước hay sự tình người xưa. Nay trong nước Nam hay các nước mà đáng làm gương cho người đời soi chung; những sách lược dịch những khoa học các nước văn minh, mà hạp thích cho người An Nam”, “những tiểu thuyết có ảnh hưởng cho sự học vấn và sự bảo tồn nền phong hóa nước nhà”.

Đặc biệt, phần ghi chú của tin quảng cáo này lưu ý đến những sách dịch thuật, đặt để những từ khoa học có nguồn gốc nước ngoài mà trong nước chưa có, rồi lưu ý người sáng tác tiểu thuyết về cách chọn lựa từ ngữ thế nào để người lớn trẻ con, người miền nam người miền bắc đều hiểu được: “Những tên các tiếng trong khoa học mà nước Nam không có, phải đặt tên riêng thế nào cho sau này có thể phổ thông trong nước được”, “Những tiếng dùng trong sách tiểu thuyết cần phải lựa chữ cho trong Nam ngoài Bắc, người đều hiểu được và những chữ thường dùng cho trẻ mới học coi cũng hiểu. Những tên chữ nho cần phải tránh không nên dùng quen, nhưng cũng phải giải nghĩa cho người đời sau dễ hiểu”.

Thư xã này còn là đại lý phát hành những sách của các thư quán thư xã khác, như: Gương kim cổ của Tân Thanh Niên Tùng Thơ; Cường quốc chánh thể, Xã hội luận, Thực dân lịch sử, Chính trị nước Trung Hoa, Văn minh Âu Mỹ, Phụ nữ vận động, Trí khôn, Đông Tây văn hóa, Dân tộc của Quan Hải Tùng Thơ; Vua anh hùng, Vượt biển ra khơi, Khai quốc vĩ nhơn, Ngục trung ký sự, Tân quốc dân, Thần cộng hòa của Cường Học Thơ Xã; Nữ anh tài, Kim tú cầu, Giám hồ nữ hiệp, Gia đình giáo dục của Nữ Lưu Thơ Quán; Cao đẳng quốc dân của Duy Tân Thơ Xã và “lựa các sách Bắc kỳ có giá trị của các thơ xã khác”. Ở đây, Tín Đức Thư Xã cũng giới thiệu một loạt các ấn phẩm mình đang có như sau:

Sách mới và đang in: Giáo phụ tề gia, Cay đắng mùi đời, Nhơn tình ấm lạnh, Tam quốc, Sách giậy nấu ăn theo phép An Nam, Tài mạnh tương đố, Thất hiệp ngũ nghĩa, Kẻ làm người chịu.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 2

Sách đã xuất bản còn lưu lại số lượng lớn, bán rẻ. Về tiểu thuyết: 2.000 quyển Bèo mây tan hiệp, 5.000 quyển Cô ba tranh, 3.000 quyển Cái lụy kim tiền, 1.000 quyển Cô năm nào, 2.000 quyển Gái chính chuyên hai chồng, 3.000 quyển Lã phi hùng, 2.000 quyển Lá thơ rơi, 2.000 quyển Lòng người nham hiểm, 2.000 quyển Một mối tư, 500 quyển Mộng hoa, 2.000 quyển Nghĩa hiệp kỳ duyên, 2.000 quyển Nặng lời non nước, 1.000 quyển Nặng gánh chung tình, 2.000 quyển Người mặt nạ, 10.000 quyển Oan hồn yếu tử, 4.000 quyển Bình vỡ hương tan, 2.000 quyển Thanh niên bửu giám, 2.000 quyển Trương Vĩnh Ký hành trạng, 500 quyển Thùng thơ bí mật, 1.000 quyển Tình là giây oan, 800 Một chữ trinh, 500 cuốn Xã hội chủ nghĩa.

Về truyện Tàu diễn nghĩa: 12.000 quyển Phấn trang lâu, 3.000 quyển Dương Văn Quảng bình Nam.

Về thơ: 800 quyển Tam quốc – Huê Dung đạo diễn ca, 500 quyển Vậy mới phải, 600 quyển Ma y thần tướng.

Về tuồng cải lương: 1.000 quyển Bửu cảnh trùng duyên, 2.000 quyển La Thông tảo Bắc, 1.000 quyển Mai Trần tái ngộ, 1.000 quyển Quả báo kỳ duyên, 1.000 quyển Tây Thi, 8.000 quyển Mạnh Lệ Quân, 1.500 quyển Sĩ long hội ước, 1.500 quyển Xử báo đao Từ Hải Thọ, 2.000 quyển Vương Sồ phối hiệp.

Ngoài ra, còn nhiều sách khác, “ngài nào muốn mua sỉ mua lẻ xin viết thơ hỏi mục lục”.

Có thể nói báo chí đóng một vai trò quan trọng trong việc quảng cáo và phát hành các ấn phẩm từ các nhà in, nhà xuất bản, thư quán… Tin sách là một mục khá thường xuyên của các báo mà chúng ta có thể tìm hiểu và khai thác thông tin để hình dung được hoạt động xuất bản, phát hành ở Sài Gòn. Ví dụ:

Tin Sách hữu ích đăng trên Lục Tỉnh Tân Văn số 516 năm 1918: “Ông F.H. Schneider, là người đáng cho là tổ việc nhà in bên Đông Dương, mới in ra, theo cuộc phổ thông giáo khoa thơ xã, một bộ sách rõ là hữu ích cho hết thảy những kẻ nào chuyên nghề điển khí hay là có ý thích việc thông hiểu cách dùng điển khí khi làm nguồn cội mầu nhiệm sức mạnh. Người làm sách hiệu Thiệt hành điển học ấy là người đồng quán cùng chúng ta, quí danh Alexix Lân, bác sĩ điển học, cựu học sanh trường kị nghệ và chế tạo. Sách nầy trọn bộ là tám cuốn, giải thích đủ phương điển học chuyên môn. Một cách rất khiêm nhượng, người làm sách lại cắt nghĩa trong bài tựa cùng chúng ta rằng chẳng dám nào có ý muốn những kẻ cố công mà ao ước cải lương tấn bộ trong nghề nghiệp của mình. Chúng tôi cũng một ý kiến với ông Lân, rằng sách Thiệt hành điển học sẽ đắc đại công đức cùng những kẻ cố công bổn quốc trong nghề điển khí; nhưng mà chúng tôi lại tưởng rằng hết thảy mọi người, từ kẻ sang trong thiên hạ mà muốn lịch thiệp những việc tấn hóa trong môn bác học trí tri, cho đến những người trong đạo nghệ cùng kẻ khác vui thích theo công cuộc điển khí, thì cũng đều tim ra đại ích lợi trong pho sách hay nầy. Vả lại sách như vầy là nên phát rải ra cho các trường xứ ta, ai ai cũng đều hiểu đặng, vì người làm sách đã gia công diễn dịch ra hai thứ tiếng Pháp cùng Việt, cũng thấy am tường”.

Lục Tỉnh Tân Văn số 514 năm 1918 giới thiệu sách Đồng âm tự vị của Nguyễn Văn Mai: “Trong sách nầy có đủ những chữ khó viét, hoặc chữ đồng âm cùng chữ không nhằm đồng âm, mà phải viết dấu hỏi hay là dấu ngã, hoặc viết d hay là g ở trước, c hay là t, có g hay là không g ở sau. Nhơn có lời châu thị của quan Đốc học chánh, ngày 31 aout 1916, dạy rằng: Đến các khoa thi tới đây, thì trong những bài hạch về tiếng An Nam quan giám khảo chấm vở hết sức nghiêm. Vậy nên tôi ngụ ý dọn bổn này, ngõ hầu giúp các trò viết chữ quốc ngữ cho rúng theo tự điển Génibrel và Paulus Của. Hễ có nghi ngại chữ nào, lật quyển nầy ra mà coi, thì viết không sai. Bán tại tiệm Quỳnh Mỹ, 20 rue Courbet (chợ Bến Thành mới), và các nhà in và nhà sách An Nam tại Sài Gòn”.

Lời rao trên Công Luận Báo số 508 năm 1922: “Nay tôi diễn dịch Sử ký nầy đặng giúp vui cho bạn sách đèn và cho mấy em còn ở trong trường hiểu biết tích sử ký nước Cao Man từ khai bờ cõi cho đến đương kiêm Quốc vương Sisowat. Để bán tại nhà in M. Joseph Nguyễn Văn Viết 69, Rue d’Ormay Sài Gòn, bán sỉ và bán lẻ giá 0$50”.

Công Luận Báo ra ngày 20.11.1923 cho biết: “Imprimerie du Centre Louis Minh, 76 Boulevard Bonnard, Sài Gòn. Nhà in Imprimerie du Centre có đủ các thứ chữ Tây, Quốc ngữ, An Nam lớn nhỏ đều có, đã in màu mà giá lại rẻ. Tại đây có đóng sách đủ kiểu và bán giấy”.

Tin Sách mới xuất bảnCông Luận Báo số 404 năm 1926 giới thiệu sách Sa Đéc nhơn vật chí do Nguyễn Văn Dần soạn “mới xuất bản, sách dày 232 trương có 64 hình ảnh phong cảnh đẹp đẽ và nhơn vật trong tỉnh Sa Đéc. Nhiều cổ tích, lịch sử quan công thần cựu trào và tân trào; tiểu truyện các cự tộc danh giá. Tích đâu có hình ảnh rõ ràng đó, nên xem cho biết. Giá mỗi cuốn là 1$50, ở xa gởi thêm 2 cắc tiền cước gởi đi. Hỏi mua tại tác giả là M. Nguyễn Văn Dần, 115 rue Verdun, Sài Gòn. Tại tiệm Thái Thạnh, chủ nhơn là M. Nguyễn Văn Cứng, 1 rue Roland Garros, Sài Gòn. Có trữ bán tại Sa Đéc nơi tiệm M. Trương Văn Hanh, ở làng Tân Qui Đông, nhà in M. Hà Phước Tường. Tại Cần Thơ nơi nhà in Imprimerie de l’Ouest”.

Công Luận Báo số 406 năm 1926 đăng mẩu quảng cáo: Tụng từ thể lệ (lai nghi ngày 16 Mars 1910, in lần 2) là sách hướng dẫn “lập thể lệ trong việc tranh tụng về bộ vụ của người An Nam” do người Pháp là ông biện lý Paul Dufilho soạn in và bán tại nhà in L’Imprimerie Moderne (địa chỉ 146, Rue Pellerin, Sài Gòn).

Tin Sách mới xuất bảnCông Luận Báo số 623 năm 1927: “Tuồng hát cải lương Mạnh Lệ Quân giả trai, trong có 15 tấm hình của ban hát Tài Đồng Ban đóng trò, in bằng thứ giấy thiệt trắng láng, xưa nay chưa thấy có cuốn sách nào coi ngộ như vậy. Sách dày 50 trương, trong có 50 bài ca rất hay và dễ ca lắm. Giá mỗi cuốn 0$60. Tiếu thuyết Cảnh đoạn trường, truyện đã hay, văn lại lanh lẹ, dày 94 trương, cỡ 13 x 18, giá mỗi cuốn 0$30. Hai cuốn sách trên nầy, tác giả là M. Trương Quang Tiền đã bán bổn quyền cho bổn xã. Ngài nào muốn mua sỉ hay mua lẻ xin do nơi người xuất bản là Từ Duy Quán, Tín Đức Thư Xã, 37 rue Sabourain, Sài Gòn”.

Năm 1929, báo Phụ Nữ Tân Văn ra đời và trong việc trưng cầu ý kiến về chương trình kế hoạch hoạt động của báo, ông Cao Văn Chánh đã đề xuất một số ý tưởng với bài Thơ trả lời cho bà Nguyễn Đức Nhuận chủ báo P.N.T.V. về vấn đề Phụ nữ. Trong đó có mục 2 và 3 liên quan đến xuất bản và phát hành như sau: “Mở ra những thơ quán lớn lao để phát hành những thứ sách phổ thông cho bọn nữ tử dùng”, “Gầy dựng một tờ báo để mai chiều cổ võ, thức tỉnh tất cả nữ đồng bào, khiến cho họ lưu ý đến công việc của xã hội”.

Phụ Nữ Tân Văn số 11 năm 1929 cho biết: Nhà in và bán sách Joseph Nguyễn Văn Viết et Fils lập nam 1900 tại đường d’Ormay số nhà 85 Sài Gòn. In sách và đóng sách. In đủ các thứ sổ bộ và giấy tờ buôn bán thiệp mời đám cưới, tân gia, thiệp tang, truyện, tiểu thuyết và lãnh khắc con dấu bằng đồng và caoutchone. Bán các thứ thơ, tuồng, truyện, sử, giấy, viết, mực và các thứ sách cho học trò các nhà trường. Ai mua sỉ về bán lại sẽ đặng huê hồng rất nhiều hơn các nhà khác. Xin mua thử một lần thì biết”.

Tin Sách mới xuất bản của Tín Đức Thư Xã, trên Phụ Nữ Tân Văn số 11 năm 1929: “Hoa ngữ chỉ nam (sách dạy tiếng Quảng Đông dịch theo tiếng Bắc kỳ) 0$70; An Quảng tân biên (dịch theo tiếng Nam kỳ) 1$80; Nguyễn Công Trứ: bản sao tập các thứ thơ của ông và có chú thích 0$95; Bạch mẫu đơn, truyện Tàu 1$40; Tam quốc trọn bộ 8$00; Một chữ trinh 0$25; Tích tà qui chánh 0$50; Lòng người nham hiểm 0&20; Nghĩa hiệp kỳ duyên 0$20. Ít ngày nữa sẽ có: Kẻ làm người chịu, tác giả Hồ Biểu Chánh; Thất hiệp ngũ nghĩa cuốn thứ 4; Cao đẳng thanh niên đang in”.

Bài Phương danh của các nhà công thương kỹ nghệ cho hội chợ đồ trên Phụ Nữ Tân Văn số 134 năm 1932 thấy có kể tên một số nhà in và nhà sách ở Sài Gòn đáng lưu ý. Phần quà tặng của các cơ sở này cũng giúp chúng ta có thêm thông tin về hoạt động của chúng:

  • Nhà in Joseph Viết tặng: 1 cái hộp bằng bạc để đựng đồ thêu, may; 1 bộ Tam quốc; 1 bộ Tái sanh duyên.
  • Tín Đức thư xã (37 – 38 đường Sabourain) tặng: 5 bộ truyện Hết hoạn nạn tới đoàn viên, 10 cuốn Có vay có trả, 10 cuốn Ông thầy tuồng.
  • Nhà in C. Ardin tặng: 2 đĩa đựng tàn thuốc.
  • Nhà in và nhà bán sách A. Portail tặng: 2 cái đĩa gạt tàn thuốc.
  • Bà Đoàn Trung Còn tặng: 3 quyển Phật đời xưa, 3 quyển Truyện Phật Thích Ca, 3 quyển Du lịch xứ Phật, 3 quyển Triết lý nhà Phật, 3 quyển Lịch sử nhà Phật.

Xuất bản ở Nam bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX - 5

Tuy khá tự do, nhưng hoạt động xuất bản và báo chí thời kỳ này vẫn chịu sự kiểm duyệt chặt chẽ của chính quyền cai trị. Vì thế nhiều tờ báo bị đóng cửa, nhiều bài báo bị cắt chữ, nhiều ấn phẩm bị cấm xuất bản, cấm lưu hành hay bị tịch thu vì ảnh hưởng đến chính trị hoặc luân lý đạo đức. Ví dụ tin Sách bị cấm đăng trên Hà Thành Ngọ Báo số 107 nam 1927: “Quyển Dân tộc chủ nghĩa (Nationalisme) của M. Nhượng Tống dịch thì nay có lệnh cấm phát hành tại địa hạt xứ Bắc kỳ”. Tin Sách bị cấm trên Hà Thành Ngọ Báo số 435 năm 1928 liên quan đến tác giả và nhà in ở miền Nam: “Quan Thống sứ Bắc kỳ vừa ký nghị định cấm không cho lưu hành ở xứ Bắc kỳ hai quyền sách này: 1. Hai Bà Trưng của M. Nguyễn An Ninh soạn in ở nhà in Bảo Tồn, 2. Luân lý vấn đáp của cụ Phan Bội Châu soạn do Duy Tân Thư Xã xuất bản cũng in ờ nhà in Bảo Tồn”. Năm 1929, trên Hà Thành Ngọ Báo số 488 đăng tin Sách bị cấm: “Có nghị định quan Thống sứ cấm không được mang vào, phát, bán và oa trữ trong địa hạt xứ Bắc kỳ cuốn sách Trung đông chiến sử, tác giả Bồi Khâm Chi, MM Vân Hạc và Song Đồng dịch, Nam Ký Thư Quán 17 phố Bờ Hồ xuất bản và nhà in Mạc Đình Tích 57 phố Hàng Nón đứng in”. Hay tin Các báo sách bị cấm lưu hành ở Đông Dương trên Tràng An báo số 72 năm 1935: “Chánh phủ đdịnh ra lệnh cấm những báo và sách này lưu hành ở Đông Dương: Kiou Koue Pao viết bằng chữ nho (Le auvetage de la Patrie) xuất bản ở Paris; Che Miai Tche Pao (Lumière du monde, viết bằng chữ nho xuất bản ở Thượng Hải; sách Destin d’empier cuốn thứ nhất”. Hoặc nhiều trường hợp khác ở Nam bộ như các tiểu thuyết của Nguyễn Văn Vinh, sách chính trị của Trần Hữu Độ, “dâm thư” của Lê Hoằng Mưu…

Trên đây là một vài hoạt động cụ thể của việc xuất bản và phát hành ở Nam bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX dựa vào những thông tin mà chúng tôi tìm kiếm được trên các tờ báo. Chắc hẳn còn rất ít ỏi, sơ sài so với sự đa dạng phong phú của thực tế xuất bản ở Nam bộ đương thời, hy vọng vấn đề này sẽ được nhiều người quan tâm khác tiếp tục tìm hiểu, giới thiệu để chúng ta có cái nhìn đầy đủ hơn về lịch sử xuất bản ở Nam bộ nói riêng cũng như ở Việt Nam nói chung.

Cổ Mộ

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 02.6.2021.

20210215

Thầy giáo N. K. Ghei và học trò năm 1990

Những bông tuyết đầu mùa rơi nhẹ trên sân bay Sheremetievo-2 ngày đầu tiên tôi đến Moskva. Từ sân bay về trung tâm thành phố, tuyết vẫn bay lửng lơ trên bầu trời ban mai mù xám, bám vào cửa kính xe buýt và những mái nhà trầm lặng hai bên đường trước khi tan chảy.

Sau một ngày tạm trú ở trạm đón tiếp, chúng tôi được chuyển về ký túc xá của Viện Hàn lâm, thường được gọi là Đôm 5 (nhà số 5), ở góc ngã tư đường D. Ulianov và N. Vavilov. Kéo cánh cổng nặng nề để vào bên trong tòa nhà, tôi biết mình sẽ “tu” ở đây suốt 4 năm ròng. Đó là một tòa nhà 7 tầng, có cấu trúc chữ L nhìn ra hai mặt đường của ngã tư; thang máy, phòng ốc đều cũ kỹ nhưng ấm áp nhờ hai lớp cửa kính, lò sưởi và hệ thống nước nóng cung cấp thường xuyên. So với ký túc xá ở nhiều nơi khác, nơi đây thật tiện lợi: có hội trường, thư viện, phòng chơi bóng bàn, mỗi tầng đều có nhà bếp; nhà ăn ở tầng trệt mở cửa từ sáng đến tối với giá cả rất mềm; trạm xe buýt, xe điện và sạp báo ngay trước cổng; bên kia đường là hiệu sách Akademkniga; đi bộ một đoạn ngắn gặp cửa hàng thực phẩm và tạp hóa, đi thêm một trạm xe là bách hóa tổng hợp Moskva cung cấp khá đủ các mặt hàng thiết yếu dù lúc đó nước Nga bước vào thời kỳ đình trệ về kinh tế.

Sau này, khi kinh tế mở cửa, người Việt ở Nga bung ra kinh doanh, Đôm 5 bị ít nhiều sự cố, còn thời tôi ở mọi sinh hoạt đều tương đối ổn định, ai làm việc nấy, không va chạm gì nhau. Ban quản lý và các bạn nghiên cứu sinh đến từ các nước cộng hòa đối xử với chúng tôi ân cần và tử tế. Thời gian đầu tôi ở với Nariman đến từ Baku, nhờ anh mà tôi cải thiện được vốn tiếng Nga của mình. Do quan hệ của hai cơ quan nghiên cứu, số người đi học ở đây chủ yếu từ các viện của Hà Nội, nhóm nghiên cứu sinh đi từ miền Nam sống chan hòa với các đồng môn cùng thế hệ ở miền Bắc, hầu như chưa bao giờ xung đột về quan niệm hay lối sống và vẫn còn giữ liên lạc thân tình cho đến bây giờ. Xuất thân từ ngành Văn, những người đến nghiên cứu hay thực tập cùng thời ở Viện Hàn lâm sau này đều chuyên tâm và có nhiều đóng góp cho nghề nghiệp: Nguyễn Thị Huế, Trần Nho Thìn, Trần Ngọc Vương, Trịnh Khắc Mạnh, Vũ Thanh (văn học dân gian và cổ điển); Phan Trọng Thưởng, Vũ Tuấn Anh, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Bích Thu, Tôn Thảo Miên (lý luận và văn học hiện đại); Lê Sơn và Lê Tây (văn học nước ngoài); Mai Văn Hai, Mai Quỳnh Nam, Vũ Phạm Nguyên Thanh (xã hội học)… Thành ra, đây như là một “viện nghiên cứu” thu nhỏ: trong thời chưa có internet và điện thoại di động, không dễ liên lạc thường xuyên với thầy giáo hướng dẫn, đang viết mà cần kiểm tra kiến thức gì thì chỉ cần gõ cửa phòng chuyên gia sẽ được giải đáp. Những đổi mới về đời sống xã hội ở nhà, nhất là sinh hoạt văn hóa văn học, đều được Đôm 5 cập nhật thông tin nhanh nhất. Do sự dễ dãi của nội quy ở đây so với những nơi khác mà Đôm 5 cũng là nơi gặp gỡ họp mặt của các bậc thầy, bậc đàn anh và văn nghệ sĩ từ trong nước sang tham quan hay công tác ở Moskva.

Tôi đã sống qua 4 mùa đông trên nước Nga. Những bông tuyết thơ mộng ngày đầu rồi sẽ thành những tảng băng dày trên lối đi làm trượt bước chân, những cơn gió tuyết quất vào mặt ở trạm chờ xe buýt. Mũ lông, áo bành tô, giày da được trang bị kỹ đến mức nào cũng không ngăn nổi cái rét thấm vào da thịt những người phương Nam chỉ quen nắng ấm. Cùng với đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương không lúc nào nguôi. Có lúc tôi đã tự trách mình, sao lại nông nổi chọn chuyến đi dài ngày này, vì một chút danh vọng hão huyền, để mẹ già và vợ con ở nhà thời đất nước khó khăn. Nhiều khi đi giữa đường phố Moskva mà lòng quặn thắt nhớ câu hát trong bài Thuyền viễn xứ (thơ Huyền Chi, nhạc Phạm Duy): Chiều nay gửi tới quê xưa/ Biết là bao thương nhớ cho vừa/ Trời cao chìm rơi xuống đời/ Biết là bao sầu trên xứ người.

Để nguôi nỗi nhớ quê, mỗi năm đến Tết âm lịch, khi Việt Nam đón giao thừa thì cùng lúc ấy, 8 giờ tối Moskva, đơn vị nghiên cứu sinh, thực tập sinh chúng tôi tổ chức một bữa liên hoan hoành tráng ở nhà ăn Đôm 5 mừng năm mới. Chúng tôi vào rừng tìm những cành cây khô, gắn giấy màu thành những nụ hoa đào. Khách mời là các thầy cô giáo và một số bạn bè ở Viện Hàn lâm và trong ký túc xá. Bánh chưng, dưa hành củ kiệu, thịt kho, súp gà nấu măng khô, rượu sâm banh, những bài hát Nga – Việt và vài phong pháo lẻ gợi nhớ không khí quê nhà, giúp quên đi nỗi buồn xa xứ.

Nước Nga cưu mang nhiều người Việt, nhưng thú thật một số người mình cũng làm phiền dân sở tại không ít. Thật may mắn, cho đến ngày rời xứ sở bạch dương, bản thân tôi chưa gặp phải một biểu hiện kỳ thị nào. Ngày đầu nhập học, bước qua khoảng sân đầy tuyết của Viện Văn học thế giới, thường gọi tắt là IMLI, có tượng ông M. Gorky vai phủ tuyết nghiêng đầu nhìn xuống nhân gian, tôi được dành một chỗ ngồi trong căn phòng nhỏ, nơi những tên tuổi trước chỉ nghe danh, nay mới gặp mặt – những nhà nghiên cứu uy tín trong nghề: N. Ghei, Yu. Borev, G. Belaya, V. Kozhinov, S. Botcharov… Trừ dịp về phép, suốt 4 năm, tôi không bỏ một buổi sinh hoạt khoa học thứ ba hàng tuần nào. Mỗi lần họp như thế là một cuộc thảo luận sôi nổi, có khi dẫn đến tranh luận, nhưng đều mở rộng tầm nhìn trong nghề nghiệp mà tôi theo đuổi. Có những hôm họp xong, thầy trưởng ban A. Mikhailov mời mọi người qua tầng hầm trụ sở Hội Nhà văn Liên Xô uống cà phê tiếp tục câu chuyện văn chương.

Thầy giáo N. K. Ghei nay 98 tuổi

Thầy giáo hướng dẫn tôi là giáo sư Nikolai Konstantinovitch Ghei, từng tham gia chiến tranh vệ quốc, sau làm việc ở Viện, đồng thời dạy ở Trường Đại học quốc gia Moskva, đã qua Việt Nam và vào thăm TP. Hồ Chí Minh. Thầy bảo thầy có ấn tượng sâu sắc với văn hóa Việt Nam khi đi thăm các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nước ta. Thầy thường nhắc tôi nên liên hệ những vấn đề lý thuyết hiện đại với văn học dân gian và cổ điển Việt Nam và chê tôi viết luận án theo văn phong phê bình hơn là văn phong nghiên cứu vốn đòi hỏi sự điềm tĩnh, chân phương. Mỗi lần được thầy thông qua một chương luận án, tôi lại tự thưởng cho mình một buổi chiều lang thang trên phố Arbat gần Viện, với một ly kvac kèm thịt nướng sau khi dạo xem các cửa hàng đồ cổ và sách cũ hai bên con đường lát đá như còn in dấu chân của các nhân vật trong tiểu thuyết Những đứa con phố Arbat của A. Rybakov.

Tác giả Huỳnh Như Phương trên phố Arbat năm 1990

Hàng năm, vào cuối tháng tư, tuyết bắt đầu tan, trên các ngả đường thành phố người ta trồng hoa mới trong các bồn hoa, dọc các vỉa hè. Trong rừng Nga cây đâm chồi và xanh lên từng ngày, vạn vật như sống lại trong màu áo mới. Anh Trần Nho Thìn và tôi cặm cụi trong phòng đọc của Viện Thông tin Khoa học xã hội, nơi mượn sách nhanh và có chỗ ngồi thuận tiện hơn Thư viện Quốc gia. Bên ngoài, gần quảng trường J. Tito, là vườn hoa rực rỡ trong nắng xuân. Lo viết luận án không kịp, chúng tôi ngắm hoa qua cửa kính và chỉ rời trang sách trong giờ ăn trưa.

Sang hè, tôi kịp nộp luận án và làm thủ tục đúng hạn để chờ bảo vệ. Phòng quản lý nghiên cứu sinh thưởng cho tôi một phiếu đi nghỉ ở thành phố Sochi bên bờ Biển Đen. Nhưng tôi xin đổi món quà đó để lấy một giấy phép mời vợ và hai con sang thăm nước Nga. Đó là một chuyến đi nhiều kỷ niệm đẹp của gia đình tôi. Sau đó ít lâu, bảo vệ xong, tôi giã từ xứ sở bạch dương cũng vào một ngày tuyết đầu mùa rơi nhẹ nhàng nhưng sân bay thì hỗn loạn, báo hiệu những biến động sắp xảy đến trên đất nước Nga.

Ba mươi năm qua, tôi vẫn giữ liên lạc với những người thầy và bạn Nga ngày ấy. Anh Bùi Mạnh Nhị và tôi có dịp tiếp giáo sư N. Nikulin, nhà Việt Nam học hàng đầu, ở Thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến đi Việt Nam cuối cùng trước khi ông từ trần. Thầy N. Ghei nay đã 97 tuổi, ngoài những chuyên khảo sâu sắc về nghệ thuật ngôn từ, thầy còn công bố một tác phẩm tự truyện mà thầy gọi là “tiểu thuyết – tưởng niệm”, viết về số phận con người qua những biến thiên lịch sử. Bà Inessa Zimonina, người làm luận văn về Chinh phụ ngâm và đã nhiều lần sang thăm Việt Nam, dịch giả tài năng đã chuyển ngữ tác phẩm của Khái Hưng, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Đoàn Giỏi, Thu Bồn… sang tiếng Nga nay đã cùng gia đình định cư ở Tây Âu. Người bạn chung thủy với văn học Việt Nam, anh Anatoly Sokolov, chuyên gia về Phan Bội Châu, vẫn tiếp tục nghiên cứu về giao lưu văn hóa Nga – Việt và có những phát hiện thú vị về những người Nga đầu tiên đến Sài Gòn. Hầu như tháng nào anh cũng gửi email và gọi điện thoại cho tôi. Trong một lá thư gần đây, anh viết: “Tôi vừa nghe tin ở Việt Nam xuất hiện lại một số ca nhiễm coronavirus trong cộng đồng nhưng đã kịp thời kiểm soát được và không phải áp dụng biện pháp giãn cách xã hội. Thật mừng cho đất nước anh. Ở Nga số ca nhiễm Covid-19 vẫn còn nhiều, nhưng rất may là trước khi mùa đông đến, vaccine đã được sản xuất kịp thời để ưu tiên chủng ngừa cho những người có nguy cơ cao như bác sĩ, y tá, thầy giáo. Tôi đã chuyển ra ngoại thành ở hẳn với mẹ tôi để chăm sóc cho bà, lúc nào cần mới vào thành phố để đến Viện Đông phương học. Tôi vẫn theo dõi thường xuyên sinh hoạt văn hóa ở Việt Nam và tìm đọc thông tin về sách mới xuất bản. Gần đây tôi có hứng thú đọc truyện trinh thám Việt Nam và dự định sẽ viết một khảo luận về đề tài này…”. Mỗi lần nhận thư Tolia tôi lại thấy nước Nga như gần lại, dù đã 30 năm xa.

Ra Hà Nội, thỉnh thoảng tôi được bạn cũ Đôm 5 mời ăn ở quán Nga để nhớ lại hương vị xalát, xúc xích và súp bắp cải Nga thời đi học. Đến Nha Trang và ngay ở Sài Gòn vẫn có thể tìm thấy những nhà hàng ẩm thực Nga rất ngon. Chỉ có những bông tuyết là không thể nào tìm lại được.

Nhưng những bông tuyết đầu mùa năm ấy vẫn bay hoài trong trí nhớ.

Huỳnh Như Phương
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số Xuân 2021

 Trong bài Ngọa bệnh cảm tác, Huỳnh Ngọc Chiến viết: “Trong thời gian điều trị, gần như tôi dùng thơ để chống chọi lại những cơn đau. Bạn bè gọi đùa thơ tôi làm lúc này là thơ… chữa bệnh”. Ở tuổi 67, nhà nghiên cứu - dịch giả gốc Quảng Nam này vừa qua đời vào tối 1/6 tại thành phố Tam Kỳ.

Sáng 23/10 năm ngoái, tại Bệnh viện Chợ Rẫy (TP.HCM), ngay trong đợt hóa trị lần thứ 3 bệnh K thực quản, Huỳnh Ngọc Chiến làm bài thơ khá dài, trong đó có đoạn: “… Ta nhàn du cõi trần gian/ Rong chơi cùng với cây đàn guitar/ Dịch kinh, viết sách gọi là/ Lưu chút tặng vật làm quà thế gian/ Bận tâm chi chuyện hợp tan/ Sinh là nắng gió, tử ngàn hoa bay/ Đến như hoa thắm bên này/ Đi thành hương ngát tháng ngày bên kia/ Một làn sương mỏng cách chia”.

Hiểu lẽ sinh tử thường nhiên

Huỳnh Ngọc Chiến không chỉ có kiến thức uyên bác về đạo Phật, mà dường như anh cũng đã bước chân vào con đường an nhiên. Trong bài Lời cuối gởi cho người thân, bằng hữu trước lúc chia tay, không hề thấy tâm hồn anh dao động, hoang mang, hoặc sợ hãi. Anh xem sự ra đi của mình là một việc tất nhiên như sáng mai mặt trời vẫn mọc, nắng vẫn lên, gió vẫn rì rào trong cành lá.

20210604

Nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Chiến

Huỳnh Ngọc Chiến viết: “Trải qua 3 lần hóa trị, một trận đại phẫu, rồi sự cố hậu phẫu…, nói chung là nếm đủ mùi khổ não của cơn bệnh nan y. Bệnh tình đến nay vẫn không có dấu hiệu gì khả quan, cơ thể dần suy kiệt và bắt đầu những cơn đau nhức ngày càng tăng dần, bác sĩ tiên lượng có thể kéo dài một vài tháng nữa, nên tôi muốn ghi vội lời cuối này như một lời từ giã, phòng khi những cơn đau nhức hành hạ khiến tôi không còn đủ sức lực và tỉnh táo để có thể ghi lại đúng như ý muốn, trước khi bước qua làn sương mỏng cách chia”.

Anh bình tĩnh sắp xếp chu đáo cho mình trong ngày cuối cùng còn “cư ngụ” ở trần gian đầy những đau thương và nghiệt ngã.

Chú thích ảnh

Một số đầu sách công phu của Huỳnh Ngọc Chiến

Anh viết: “Ai rồi cũng phải bước xuống một bến ga nào đó trong chuyến xe đời. Tôi cũng sắp từ giã mọi người để xuống một bến ga”. Anh cũng bình thản đưa ra một sáng kiến “vô tiền khoáng hậu”: “Thân hữu đến viếng tang lễ sẽ tự tay gõ 3 tiếng chuông thay cho nhang đốt. Nhang bây giờ chứa nhiều hóa chất độc hại, gây ô nhiễm môi trường, sao ta không thể thay thế bằng tiếng chuông cho thanh tịnh?”.

Chú thích ảnh

“Bạn bè, người thân cứ lo tôi sẽ bị suy sụp tinh thần, sẽ bị quỵ ngã. Nhưng tôi nhận tin mình bị ung thư rất thanh thản, vì hiểu lẽ sinh tử thường nhiên. Mọi chuyện trong đời xem như đã tạm tròn bổn phận, nên tôi giờ rất xem nhẹ lẽ tử sinh. Chỉ mong sao sinh thuận tử an. Để tiếp tục chu kỳ sinh hóa khác trong vũ trụ. Vậy thôi. Ngày mai hay năm, mười năm nữa cũng như nhau. Chẳng có gì khác biệt. Thân bệnh là chuyện thường tình và tất yếu của con người, giữ tâm không bệnh mới là điều quan trọng” – Huỳnh Ngọc Chiến viết.

“Trong những cơn đau quặn thắt vì hóa trị, tôi vẫn hoàn tất được bộ kinh Lăng Già đối chiếu. Và thấy lòng thanh thản vô cùng. Tôi mang ơn kinh Phật đã đem lại cho tôi những huyền lực để giúp tôi tìm được thanh thản giữa những cơn đau khủng khiếp đến kiệt sức”.

Chú thích ảnh

Tài hoa và tự học

Ngoài nghiên cứu, dịch thuật, làm máy tính, Huỳnh Ngọc Chiến còn viết tiểu luận, tùy bút, ca khúc, thơ, truyện ngắn… Sách viết và sách dịch đã xuất bản khoảng 20 quyển; anh còn cuốn Hán Việt tự điển gần 3.000 trang và tập tiểu luận dày về Bùi Giáng, chưa xuất bản. Anh căn bản là tự học, đa tài trong nhiều lĩnh vực, thông thạo tiếng Anh, Pháp, Đức, Hoa và tiếng Phạn.

Trong số những tác phẩm đã xuất của Huỳnh Ngọc Chiến, độc giả và bạn bè ưa thích nhất là cuốn Lai rai chén rượu giang hồ. Đây là tập tiểu luận về Kim Dung, một thiên tài lừng lẫy dòng truyện kiếm hiệp.

Chú thích ảnh

Tập tiểu luận “Lai rai chén rượu giang hồ” rất được độc giả yêu thích

Tôi nhớ một sáng năm 2016, Huỳnh Ngọc Chiến tổ chức buổi “gặp mặt bỏ túi” tại quán cà phê Đông Hồ ở cuối đường Cao Thắng nối dài (TP.HCM), chỉ có 5 người, nhân dịp phát hành cuốn Tinh hoa triết học Vedànta. Nhà văn Đỗ Hồng Ngọc là khách mời, ngồi gần hồ nước, với những đám cỏ xanh mượt và yên tĩnh. Huỳnh Ngọc Chiến thân tình và gần gũi, khi nhận sách tác giả ký tặng, tôi thấy ai cũng có, riêng anh Ngọc không có cuốn nào, nên rất ngạc nhiên, bèn hỏi: “Ủa, sách anh đâu?”. Anh Ngọc cười: “Tuần trước Chiến biếu anh rồi”. Tôi lại hỏi: “Dễ đọc không vậy anh?”. “Anh mới đọc được mười mấy trang”. Tôi nghĩ, anh Đỗ Hồng Ngọc với “nội công thâm hậu” về Phật pháp như vậy mà đọc cẩn trọng như thế, chắc mình phải đọc mấy tháng mới hết cuốn sách gần 800 trang này.

Sách của Huỳnh Ngọc Chiến biên khảo, dịch thuật, cuốn nào cũng công phu và giá trị. Tôi còn thích các cuốn như Chu dịch thiền giải, Tánh không cốt tủy triết học Phật giáo¸ Diệu nghĩa kinh Lăng Già, Phản triết học nhập môn dịch… Dòng sách này rất kén chọn người đọc, nhưng thiết yếu, vì nó căn bản cho nhận thức.
Nếu nhìn Huỳnh Ngọc Chiến qua các ca khúc, thấy anh đầy chất tài hoa và lãng tử. Những ai đã dự khán hoặc nghe lại đêm nhạc Cung trầm của anh, tổ chức gần đây tại quê nhà, sẽ thấy rõ.

Chú thích ảnh

Tập nhạc "Cung trầm" của Huỳnh Ngọc Chiến

Huỳnh Ngọc Chiến đã sống một cuộc đời tuy không thật dài, nhưng không hoài phí hoặc vô vị. Giờ anh nằm xuống, thanh thản, hết đau đớn, không muộn phiền, không vướng bận gì nữa. Anh đã sống như hai câu thơ của chính anh: “Để khi vào cõi sa mù/ Sẽ bay như hạt mưa Thu nhẹ nhàng”.

Ai trong chúng ta ở đây rồi cũng phải bước xuống sân ga cuối của chuyến tàu đời. Cầu mong anh bước vào cuộc hành trình khác trong một chuyến tàu êm ái hơn, tràn ngập niềm vui và sự an lành. “Mai mốt bước qua bờ sinh tử/ Vén màn sương vào cõi hư vô/ Cũng chờ ngày trùng du cố quận/ Để lai rai chén rượu giang hồ” – thơ Huỳnh Ngọc Chiến.

Nguồn: Thể thao và Văn hóa, ngày 03.6.2021.

Phạm Thanh Chương

Một số nhà khoa học như Heine, Nietzche và Trompf cho rằng lịch sử cũng giống như giấy dán tường hay một mảnh vải vậy. Chúng luôn có xu hướng lặp lại (Historic Recurrence). Những họa tiết nhìn kỹ thì thay đổi trong khuôn khổ vài phân hay thậm chí vài chục phân, nhưng khi ta lùi một bước ra xa, những motif thật ra lặp đi lặp lại. Chúng ta mắc rất nhiều sai lầm giống nhau, từ các xung đột chiến tranh hay sự sụp đổ của các đế chế, cho đến những thứ nhỏ nhặt hằng ngày như quay trở lại với một món ăn đã từng khiến ta đau bụng, hay thậm chí nghiêm trọng hơn là quay trở lại sống chung với chính người tình đã làm ta đớn đau.

20210211 3

Những câu truyện cổ tích vẫn trường tồn hàng ngàn năm, người thời nào đọc cũng thấy như chuyện của mình được phản ánh trong đó. Ấy là bởi lịch sử luôn có xu hướng lặp lại.Tượng truyện cổ tích khổng lồ tại Disneyland, Pháp.

1. Ta không cảm nhận được quá khứ nhưng sẽ cảm nhận được tương lai

Lý do đầu tiên cho hiện tượng này là việc con người có xu hướng ghẻ lạnh với quá khứ và thiên vị tương lai (future bias). Hãy thử tưởng tượng với một thí nghiệm của Derek Parfit. Bạn tỉnh dậy sau hôn mê trong bệnh viện và bác sĩ thông báo rằng có một nhầm lẫn phần giấy tờ, nhưng bạn rơi vào hai trường hợp: một là bạn đã có một cuộc phẫu thuật dài 4 tiếng hôm qua và hai là bạn sẽ có một cuộc phẫu thuật 1 tiếng ngày mai. 

Hầu hết chúng ta sẽ hy vọng vào tình huống thứ nhất. Cuộc phẫu thuật 4 tiếng hẳn là nghiêm trọng hơn và dễ để lại hậu quả nặng nề hơn cuộc phẫu thuật 1 tiếng. Nhưng ít nhất là nó đã xảy ra. Chúng ta không nhớ đến sự đau đớn của cuộc phẫu thuật 4 tiếng ngày hôm qua. Tương tự, chúng ta thiếu khả năng cảm nhận được trọn vẹn nỗi đau đồng loại từng chịu đựng trong quá khứ. Hướng đến tương lai, dù là một tương lai bao gồm cả di chứng nghiêm trọng của quá khứ, vẫn là một lựa chọn dễ chịu hơn. 

2. Ta không thay đổi được quá khứ nhưng có thể thay đổi tương lai

Lý do thứ nhất về thiên kiến tương lai cũng giải thích tại sao chúng ta có thể bằng sống bằng chết, hy sinh mọi giá, chấp nhận mọi tổn thất để đạt mục tiêu, lặp lại vô vàn những lỗi lầm kinh điển trong quá khứ để trở thành kẻ chiến thắng. Đó chính là lý do thứ hai khiến lịch sử liên tục lặp lại. Tương lai, dù có chắc chắn mang thương tật của quá khứ, cũng là một tương lai mà chúng ta có nhiều quyền năng thay đổi hơn. Nhất là khi đó là một tương lại gần với những lợi nhuận gần có thể vươn tay mà với tới. Đây là lý do thiên nhiên vẫn liên tục bị tàn phá, bất kể sự thật là chúng ta ai cũng đều biết hậu quả của việc làm này, cả trong quá khứ lẫn trong tương lai xa. 

3. Ta thay đổi khi thấy có lỗi thay vì hổ thẹn 

Lý do thứ ba khiến chúng ta liên tục mắc những lỗi lầm từng có trong quá khứ là cách ta cảm nhận vấn đề. Cụ thể hơn, ta cảm thấy hổ thẹn (shame) hay có lỗi (guilt)? Cảm giác có lỗi mang tính ngoại vi, định hướng vào hành động sai lầm chứ không bao trùm lên cả nhân cách. Ví dụ, bạn là người thành thực, khi nói dối, bạn thấy có lỗi. Điều này khiến bạn nhìn nhận vấn đề khách quan hơn, có khả năng sửa lỗi nhiều hơn. 

Ngược lại, sự hổ thẹn không bó gọn trong hành động mà bao trùm lên cả tư cách con người. Rất khó để hổ thẹn với chính mình, bởi đó là cảm giác tội lỗi. Sự hổ thẹn đúng theo định nghĩa là khi ta đặt mình trong mối quan hệ với cộng đồng và sự đánh giá khắt khe của họ lên tư cách của chính mình. Cộng đồng sẽ không dễ dàng phân biệt một hành động có lỗi và một con người hư hỏng. Điều này khiến ta mất đi khả năng chủ động nhìn nhận vấn đề và dễ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Thay đổi một hành động dễ hơn nhiều thay đổi tư cách, bản chất và danh tính của một con người. 

Nghiên cứu của Tangney (2014) cho thấy những tù nhân có cảm giác tội lỗi tái hòa nhập và tái phạm tội ít hơn những tù nhân có cảm giác hổ thẹn. Một nghiên cứu nổi tiếng khác cho thấy những bác sĩ mổ tim mắc lỗi khi phẫu thuật và cảm thấy hổ thẹn không hề khá hơn trong những cuộc phẫu thuật sau, họ tiếp tục mắc lỗi y như cũ. Đó là vì những bác sĩ này không thể tách biệt hành động và nội hàm con người của chính mình. Thay vì tìm hiểu tại sao cuộc phẫu thuật không thành công, họ đi tìm những lý do ngoại biên như bệnh nhân già, hay có tiền sử bệnh nặng. Ngược lại, những bác sĩ quan sát và rút ra bài học từ các lỗi đó có tỉ lệ thành công cao hơn, do họ không có cảm giác hổ thẹn. 


Chúng ta có nhiều quyền năng thay đổi tương lai hơn là quá khứ. Nhất là khi tương lai đó lại gắn liền với những lợi nhuận trước mắt. Đó là lí do ta tiếp tục tàn phá thiên nhiên, dù hiểu những hậu quả trước mắt. 

Điều này cũng đúng với một cộng đồng. Chúng ta sẽ học được những bài học từ quá khứ nếu đi kèm với nó là khả năng tách biệt hành động và bản chất của một dân tộc. Đó là lý do tại sao các phong trào cực hữu, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thượng đẳng khiến ta có thể trở nên mù lòa với quá khứ. Việc tự cho mình bản chất là cao quý hơn kẻ khác, dân tộc mình ưu việt hơn kẻ khác khiến ta mặc nhiên chấp nhận những hành động sai trái đi kèm với danh tính đó (Đức Quốc xã, phát xít Nhật, các phong trào da trắng thượng đẳng whitesupremacy). Sự trỗi dậy của các phong trào cực đoan, bất kể tôn giáo, chính trị, hay văn hóa đều ít nhiều được xây dựng trên nền móng của việc định vị bản chất của chính mình khác biệt, cao quý hơn so với đồng loại. Đương nhiên, đi kèm với nó là việc bôi đen bản chất của cộng đồng khác: người da đen bản chất là bạo lực; người da vàng bản chất là không cởi mở; người latin bản chất là lười biếng;  người theo đạo Hồi bản chất là cực đoan. Điều này cũng đúng với kỳ thị vùng miền trong cùng một dân tộc. Việc người Do Thái bị gán cho bản chất xảo quyệt luôn là lý do xâu xa để cộng đồng này bị kỳ thị qua nhiều giai đoạn của lịch sử.  

Ngược lại, điều này cũng đúng với các nạn nhân, nhất là khi ta tự vận vào mình. Một danh tính cộng đồng, một danh tính văn hóa, thậm chí là một danh tính gia đình đều có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cách ta suy nghĩ và hành động. Đó là khi một người da màu nghĩ rằng đằng nào thì người da màu cũng sẽ bị phân biệt đối xử, vậy cố gắng đấu tranh để làm gì, và thế là lịch sử lặp lại. Đó là khi một phụ nữ nghĩ rằng, đằng nào thì cũng phải ở nhà chăm con, vậy học để làm gì, và lịch sử lặp lại.

4. Thói quen khiến ta bỏ qua quá khứ

Lý do thứ tư để lịch sử liên tục lặp lại là sự vận hành vô thức của thói quen. Về mặt cá nhân, thói quen khiến ta dù thấy rõ ràng hậu quả của hành vi nhưng không thể hoặc khó có thể dứt bỏ. Từ việc hút thuốc, ăn uống không điều hòa, lười vận động, cho đến cách dạy con bằng quát tháo, cách điều hành công ty bằng đe dọa, hay cách trao đổi với gia đình bằng sự cộc cằn. Biết là sai mà khó sửa. Thói quen vì vậy là kẻ tội đồ của rất nhiều những lỗi lầm mà ta liên tục mắc đi mắc lại, cho đến khi ta tự nhủ rằng, thôi Trời sinh ra thế, hoặc tử vi bảo thế. 

Tương tự, với một cộng đồng, thói quen văn hóa là phương cách tự động xử lý tình huống, kể cả khi phương cách đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ, người Nhật thừa biết là việc coi thường phụ nữ tại công sở và gán việc nhà cho phụ nữ khiến họ không thiết tha đi làm và sinh con, đẩy dân số và kinh tế đến bờ vực nguy hiểm. Tuy nhiên, thói quen văn hóa khiến những chính sách về phụ nữ chậm gây tác dụng. Một ví dụ khác, chúng ta lao vào các cuộc chiến tranh khi bị kích động, ăn miếng trả miếng khi bị lừa phỉnh, trả thù khi dân mình bị hại. Ai cũng biết  kết quả của sự leo thang nhưng việc đi ngược lại thói quen tâm lý và văn hóa đòi hỏi ý chí cao độ mà không phải lãnh đạo và cộng đồng nào cũng có được. 

5. Cái tôi và quyền lực khiến ta bỏ qua quá khứ

Cuối cùng, sự khao khát muốn thỏa mãn cái tôi và cám dỗ của quyền lực khiến những bài học trong quá khứ trở nên vô nghĩa. Để bảo vệ cái tôi của chính mình, ta có thể chịu đau đớn, thiệt thòi, thậm chí hy sinh bản thân và gia đình. Đó là khi sự suy xét đúng sai không quan trọng bằng danh dự của chính mình hoặc cộng đồng. Nếu cộng đồng ấy chịu ảnh hưởng của những cá nhân cùng suy nghĩ và khát khao quyền lực, ta sẽ thấy lịch sử lặp lại những motif cả vinh quang lẫn đau thương. Ví dụ rõ nhất là khi người dân Đức cảm thấy danh dự bị tàn phá bởi thua trận sau Thế chiến thứ nhất, và Hitler lên nắm quyền với lời hứa sẽ làm đất nước hùng mạnh trở lại. Kết quả là Thế chiến hai còn thảm khốc và khiến nước Đức thua đau đớn hơn cả Thế chiến thứ nhất. 

Như vậy, với mỗi cá nhân cũng như cộng đồng, việc chúng ta lặp lại những lỗi lầm trong quá khứ có thể giải thích bởi năm lý do trên. Ta thường quên nỗi đau trong quá khứ, và ta thiên vị tương lai vì tương lai có thể đổi thay còn quá khứ coi như đã xong. Ta cũng lặp lại lỗi lầm khi đánh đồng hành động với bản chất. Ta bị ràng buộc bởi thói quen dù biết điều mình làm quá khứ đã chứng minh là sai. Và cuối cùng, danh dự cũng như quyền lực có thể làm lu mờ ý chí và cách nhìn nhận khách quan với quá khứ. 

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta là những học trò vô vọng. Thế giới chưa bao giờ an toàn như ngày nay, con người ngày càng văn minh hơn, khỏe mạnh và sống lâu hơn. Có lẽ chúng ta đã và đang tiến bộ một cách chậm rãi, đôi khi đi thụt lùi, nhưng về tổng thể, may thay, loài người không hoàn toàn giống như chiếc chăn con công - nhìn gần thì đa dạng, nhìn xa thì chỉ là những con công giống hệt nhau con sau nối chân con trước. 

Chính vì thế, lịch sử và khả năng phán xét phân tích lịch sử khiến chuyên ngành này xứng đáng có một chỗ đứng quan trọng hơn nhiều trong cuộc sống hiện đại của loài người. □

Nguyễn Phương Mai

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 04.02.2021.
------
Tác giả là PGS.TS. Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan 
Tài liệu tham khảo
Parfit, Derek. (1984). Reasons and Persons. Oxford: Oxford University Press.
Tangney, J. P., Stuewig, J., & Martinez, A. G. (2014). Two faces of shame: The roles of shame and guilt in predicting recidivism. Psychological science, 25(3), 799-805.

Khi bàn về sách nói, không thể bỏ qua các câu hỏi hiện vẫn còn khiến nhiều người lăn tăn: nên nghe hay đọc sách, và nghe audiobook sau đó tuyên bố “tôi đã đọc quyển đó rồi” có phải là… ăn gian?

20210515 2

Minh họa

Đọc và nghe một cuốn sách có thể liên quan đến các con đường não bộ khác nhau, nhưng hầu hết các nhà tâm lý học nghiên cứu ngôn ngữ trên các khía cạnh tâm lý và sinh học thần kinh đồng ý rằng “bộ máy tâm trí” liên quan đến việc hiểu ở cấp độ cao hơn các mẩu chuyện, cốt truyện đều giống nhau bất kể bạn “đọc” cuốn sách như thế nào.

Trong một thí nghiệm, các nhà nghiên cứu thuộc Đại học UC Berkeley đã chụp hình não 9 người tham gia đang đọc và nghe một loạt chuyện, rồi lập bản đồ cách các khu vực khác nhau của não xử lý từng từ. 

Nhìn vào các bản scan não và phân tích dữ liệu, các nhà nghiên cứu thấy rằng các câu chuyện kích thích các vùng nhận thức và cảm xúc giống nhau, bất kể phương tiện truyền đạt chúng vào não là gì đi nữa, theo kết quả đăng trên tập san Journal of Neuroscience vào tháng 8-2019. Nói cách khác, ta nghe hay đọc thì đối với não “không thành vấn đề”.

Ảnh chụp não khi nghe sách (trên) và đọc sách cho thấy nhiều nét tương đồng. Nguồn: Fatma Deniz

Điều này lại dẫn đến một câu hỏi khác: giữa nghe và đọc, có cái nào giúp ta dễ hiểu nội dung văn bản hơn cái kia không? Beth Rogowsky, phó giáo sư giáo dục tại Đại học Bloomsburg, đã làm thí nghiệm với 3 nhóm tình nguyện viên là người trưởng thành để tìm câu trả lời. 

Nhóm đầu tiên nghe các đoạn trích của một cuốn sách phi hư cấu về Thế chiến thứ hai; nhóm thứ 2 đọc các đoạn trích từ một máy đọc sách điện tử; nhóm cuối cùng đọc và nghe các đoạn trích đồng thời. 

Các tình nguyện viên sau đó đã làm một bài kiểm tra khả năng hiểu. Rogowsky và các đồng nghiệp không thấy có sự khác biệt đáng kể về điểm số giữa 3 nhóm.

Nhưng Rogowsky lưu ý rằng nghiên cứu của cô chỉ xem xét khả năng hiểu khi mọi người đọc hoặc nghe tài liệu một lần, chứ không phải khi họ cố gắng nghiên cứu nó ở mức độ sâu. 

Nói cách khác, nghiên cứu của Rogowsky gợi ý rằng ít nhất khi nói đến việc tiếp nhận tài liệu một cách tương đối thụ động, thì việc bạn đọc hay nghe cuốn sách không thực sự quan trọng.

Nhưng còn muốn nạp nội dung chủ động thì sao? Một nghiên cứu so sánh mức độ học tập của sinh viên về một chủ đề khoa học bằng cách cho họ nghe 1 podcast dài 22 phút so với đọc 1 bài viết. Hai ngày sau, họ phải làm bài kiểm tra. Kết quả là số sinh viên đọc đạt 81% số điểm và những người nghe thì được 59%.

Xét trên khía cạnh học tập thì 2 cách nạp văn bản này khiến ta tiếp nhận theo những cách khác nhau. Với văn bản có những phần khó, ta có thể dễ dàng quay lại đoạn đó, đọc lại và suy nghĩ dễ dàng hơn khi nghe nội dung đó. 

Văn bản viết dù khó đến mấy cũng góp phần hỗ trợ người đọc thông qua những dấu hiệu tiêu đề, cách sắp xếp đoạn văn, những quy ước này là thứ mà việc nghe sách không thể so sánh được.

Vì vậy, mặc dù cả việc nghe và đọc sách đều có một quá trình hiểu cốt lõi tương đối giống nhau diễn ra trong não, những văn bản khó đòi hỏi tâm trí chúng ta phải có các chiến lược bổ sung và văn bản giấy có thể đáp ứng tiêu chí này. 

Các nhà nghiên cứu cũng nhận thấy khả năng nghe và đọc của mọi người tương tự nhau đối với các câu chuyện kể đơn giản hơn là đối với văn xuôi. Các câu chuyện có xu hướng dễ đoán hơn và sử dụng các ý tưởng quen thuộc, còn các bài luận thuyết trình có nhiều khả năng bao gồm nội dung lạ và yêu cầu đọc có chiến lược hơn.

Thể loại sách cũng có thể là một yếu tố ảnh hưởng đến chọn lựa nghe hay đọc của chúng ta. Đối với văn bản tường thuật như tiểu thuyết, việc bạn đọc hay nghe cuốn sách có lẽ không quan trọng lắm. Nhưng đối với văn bản kỹ thuật, văn xuôi thì đọc sẽ tốt hơn. 

Việc tìm hiểu tài liệu dày đặc thông tin thường đòi hỏi phải xem lại và việc lật qua lại giữa các trang sẽ dễ dàng hơn nhiều so với lướt qua lướt lại một đoạn âm thanh.

Daniel T. Willingham, giáo sư tâm lý Đại học Virginia, chia sẻ trên The New York Times rằng cách đây vài năm, khi mọi người nghe nói ông là một nhà nghiên cứu về đọc sách, họ có thể hỏi về chứng khó đọc của con cái hoặc làm thế nào để khiến con họ đọc nhiều hơn. 

Nhưng ngày nay câu hỏi mà ông thường xuyên nhận được nhất là “Nếu tôi nghe sách nói khi sinh hoạt trong câu lạc bộ sách thì có bị xem là gian lận không?”. 

Suy cho cùng việc có gian lận trong câu lạc bộ đọc sách không nếu nghe sách có vẻ như không quan trọng bằng chuyện lựa chọn cách thức nào để hiểu nội dung của một cuốn sách một cách tốt nhất và nắm bắt được điều tác giả cố gắng truyền đạt đến chúng ta. ■

Hiếu Thảo

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 20.4.2021.

Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong cuộc sống mỗi ngày chúng ta đi tới, đi tới; bước đi những bước mà chưa biết sẽ ra sao. Tương lai thì chưa chắc chắn, còn quá khứ lại vô cùng mù mịt.

20210211 6

Chơi Tết âm lịch trên đường Charner 1902 (nay là đường Nguyễn Huệ).

Cũng như các bạn, tôi cũng có những mơ ước như vậy.

Nhân ngày Tết này, chúng ta hãy cùng quay về ngày Tết ở Sài Gòn trăm năm trước coi ra sao? Những ngày ấy có giống với những ngày chúng ta đang sống không? Dĩ nhiên là Sài Gòn trăm năm trước không có xe cộ ồn ào, không bụi bặm mù trời, không có những buổi karaoke ồn ào suốt ngày đêm của hàng xóm…

Nhà báo Ng Thành đã ghi nhận lại không khí Tết ở Sài Gòn cách nay 104 năm.

 

Cuộc ăn tết năm nay

(Tân Đợi Thời Báo số 36 ngày 2.3.1912)

Cuộc ăn tết năm nay sánh với mấy năm trước, thì thua kém hơn nhiều. Y cựu lệ, chợ bữa 27, 28 và 29 Annam; tiền chỗ gia tăng bằng hai đặng trừ bì ba bữa 30, mồng một và mồng hai thì miễn thuế.

Ban đêm ở xa thì thấy chợ thắp đèn điển khí sáng trưng, coi rất đẹp mắt, mà chừng bước chơn [chân] vào chợ, mắt lại ngẩn ngơ, ngống [ngóng] qua ngống lại, dường như là tiềm [tìm] kiếm giống chi, vì lòng đã mất thửa sự mong vọng. Tượng gặp cuộc buôn bán rần rần rộ rộ thạnh vượng như đã từng thấy mấy năm trước tại chợ cũ Sài Gòn và lối dẫy (dãy) Chà Và bán vải, nào hay đâu gặp bề thương mãi bơ thờ, thiên hạ thưa thớt! Có khi tại chợ mới cất lớn quá cho nên bao nhiêu người ta cũng không đủ choán khấp [khắp] cho hết chỗ, hoặc bởi chợ ở một nơi, Chà Và bán vải ở một nơi, nên kẻ mua bán phải chia ra làm hai tốp, làm cho mất sự đông đảo xưa đi.

Đốt pháo Tết trong một sân chùa ở Chợ Lớn 1905.

Tại chợ mới bán vật thực đủ món cùng là hoa quả đủ thứ như mấy năm trước, giá cả không mắc mỏ gì hơn. Duy có cam tàu được rẻ hơn một ít, ngặc [ngặt] dưa hấu thất mùa, nhỏ trái mà lạt, lại bán mắc quá; đường phổ năm nay sơ sài không đúng mùi vị; có muốn “ăn thật” đường phổi, thì phải mua đường Biên Hòa, màu nó thâm thâm, còn đường bán tại Saigon thì trắng xác.

Vòng chợ ngoài phía mặt tiền, có bày nhiều hàng bông hoa đủ thứ, phía bên tay hữu lại có bày viết liễn, viết thiệp. Thấy tại đó có nhiều tay tả tự rất xảo lại sẵn thuộc làu mấy câu sách, nên hễ đặt viết xuống, thì quây (quay) như “rồng bay phượng múa”. Ấy là mấy tay tả tự bậc nhứt. Còn bực nhì thì viết chậm chậm, lại có kềm sẵn sách bên tay.

Lăng Ông Bà Chiểu.

Liễn viết xong rồi, người nào cũng lật đật đem về, dán đen đỏ trong nhà ba bữa tết. Có nhà kia mắc bán buôn không hở tay mà dán liễn. Qua ngày mồng một, ai nấy trong nhà rảnh việc, mới nhắm trước nhắm sau, chừng ngó lên mấy cây cột, thấy liễn dán trở đầu xuống đất hết! Xong chưa! Lanh thiệt!

Nội trong mấy tay tả tự, cũng có vài sư tăng đua chen với thế viết liễn cầu tài, tiếng người tu hành mặc dầu, chớ chữ viết tầm thường.

Khách trú [người Hoa] năm nay ăn tết sớm lắm. Bữa hai mươi tám đã thượng xong cờ ngũ hành, cây nào cũng to lớn, còn màu sắc thì thâm đậm, coi ra lạ con mắt. Cũng có chen lộn theo ít cây cờ tam sắc của Đại Pháp.

Sài Gòn năm 1915. Cả hai hình đều chụp ở trước Nhà hát thành phố hiện nay dưới hai góc độ khác nhau.

Đêm ba mươi và trọn ngày mồng một, pháo nổ liên thinh, ấy là tục người Annam trừ năm cũ và ăn mừng năm mới, “bộc trúc nhứt thinh trừ cựu”. Tối ba mươi, tất nhiên có nhiều kẻ ngủ không an giấc, hoặc mắc thao thức bàn soạn quần áo, vòng vàng đặng rạng ngày có ăn mặc với người ta, hoặc bị pháo nổ rùm tai phải giựt mình ngồi dậy, nhưng vậy mà rồi nhớ sực qua ngày mai là Tết cũng nhộn nhực trong lòng.

Trong ba bữa tết người lớn kẻ nhỏ đều vui đồng. Trẻ em thì lo ăn cam ăn hồng, đốt pháo lãnh “lì xì”, còn người lớn thì lo thăm viếng, làm tuổi ông bà và cầu chúc cho bà con cô bác, bậu bạn đặng vạn sự hanh tường. Có kẻ khác lại lo dụm năm dụm bảy mà đổ bác.

Đừng nói con nít ham đốt pháo chớ người lớn cũng ham đốt pháo vậy; qua mồng bốn lối bửng tưng, đã thấy có ông già kia nhắm hướng nhà thương thí mà phăng lần đến. Quan lương y khán [khám] bịnh xong, liền ra toa mà đề chứng bịnh như vầy “bàn tay hữu bị tách chè hẻ, vì… ham đốt pháo tre! Nguyễn Thạnh Phước, 56 tuổi!!” (Ông nầy đầu năm lót chữ ‘thạnh’ mà bộ hết thạnh nên tới suy!).

Xưa sao nay vậy tái đi tái lại, thì cũng thịt hầm dưa giá, thịt kho cá kho, nem, bì, tỏi, ớt, kiệu, bánh tét, bánh chưng. Chứa tinh những đồ ăn phá bụng.

Ngoài xe lửa chật như nêm. Trừ ra xe lửa Mỹ Tho, còn bao nhiêu, nào là xe lửa Biên Hòa, xe lửa nhỏ, xe lửa Chợ Lớn bộ hành lên xuống không ngớt. Khách trú đi chật xe mặc y phục langsa, bỏ dẹp áo dài xưa xùng xình. Lải rải còn thấy một ít lão mặc áo dài châu xá, che dù đi cung hỉ, ngặc… dang đầu trần ra giữa trời nắng! Khá thương cho á xúc!

Cầu Khánh Hội.

Còn xe lửa Biên Hòa chạy lối miệt Gò Vấp, Bình Lợi, thì bộ hành trên xe thấy dọc theo đàng, có vài nhà chưng dọn có thắt lá dừa và treo đèn lồng giấy, trong nhà khác lại thấy người dụm năm dụm bảy chật một ván mà đánh bài. Nghe xe lửa hú, ngảnh cổ lên ngó, rồi cười. Kẻ trên xe thấy trếu làm vậy, liền đưa ta ra hoắc [ngoắc], người trong nhà lại cười hơn nữa, xa xa thấy bày hàm răng… đen! Nhằm ngày xuân nhựt, người đông vui là vậy đó.

Xe cộ ngày tết, nhứt là bữa mồng một, mắc lắm, giá cả bằng hai, mà cũng không đủ cho người ta đi.

Qua bữa mồng hai, pháo đốt nghe lải rải, bước qua mồng ba nghe càng vắng bặt, chiều lại nghe lộp bộp ít tiếng đưa ông bà rồi… hết tết.

Tết năm nay dân sự thủ phận an thường, chẳng chút nào vi phạm mặt luật; ấu đả cũng không, cướp giựt trộm bối cũng không ngoại trừ tại Vĩnh Long có xảy ra một việc mất của mà thôi. Có ả kia bữa mồng một đi khỏi, giao nhà lại cho con tớ gái; chừng về coi lại thì vòng vàng đã mất hết nhiều, độ giá chừng năm ngàn bạc ngoài. Số là cô ấy lúc dấu (giấu) chìa khóa tủ ở dưới gối, thì có con ở ngó thấy. Việc nầy còn đang tra hỏi.

Múa rồng: Con rồng trong ảnh dài khoảng 50m với trên 25 người múa, đã được chụp trước năm 1905.

Tại Saigon, có chú lính mã tà, cũng trong ngày tết cầm dao mà quyên sinh lấy mình. Nay còn nằm nhà thương. Không rõ cớ chi mà chú nầy đành tự vận như vậy? Hay là thua lắm?… Hay là vấn vương tình nợ? Khó biết được, quan còn đương tra.

Năm nay tết nhứt coi hình cuộc không lấy gì làm vui cho lắm. Có lẽ tại mẩu quốc hữu sự nên chúng dân chẳng đành lòng an vui như mấy năm trước.

 

Xuân nhựt thi

Lễ tết năm nay chút gọi là;
Cờ treo, liễn đánh với người ta;
Giáp Dần đã đặng bề thong thả,
Ất Mẹo từ đây sướng lắm a!

Thắp đèn, đốt pháo với người chơi;
Ăn tết năm nay thiệt thảnh thơi,
Ắt đặng từ rày và sắp tới;
Lộc cao, phước lớn, sống lâu đời!

Mấy ngày tết nhứt sướng bon bon;
Rượu thịt đủ mùi rất ngọt ngon;
Cúng kiến (kiếng) hẳn hòi, thành tín một,
Đất trời phò hộ cả bà con.

NG THÀNH “Khiêm Hòa”
Secretaire à l’Inspection d’Hà Tiên

Trần Nhật Vy

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 06.02.2021.

Một vận động viên Marathon nữ dùng “thế thân” chạy hộ để có huy chương đem khoe trên mạng xã hội. Một “fashionista” nổi tiếng ăn cắp những món đồ hiệu đắt đỏ để khoe cuộc sống giàu có trên Instagram. Những người phụ nữ chung tiền thuê xe hơi xịn để đóng vai “rich kid” (con nhà giàu). Ngày nào ta cũng có thể thấy những chuyện “sống ảo” được vạch trần trên mạng xã hội.

Nhưng, có ai trong chúng ta không “sống ảo”? Có ai trước khi đăng tấm ảnh chân dung lại không đưa nó qua một lớp “filter” kỳ diệu? Có ai không ba hoa về những phần tốt đẹp nhất của cuộc sống để vờ như mình đang rất ổn? Nên nhớ rằng, từ “ảo” trong sống ảo không bắt nguồn từ “ảo ảnh” (illusion), mà từ thế giới mạng Internet ảo (virtual).

Giờ thử tưởng tượng vài trăm năm nữa, con người có một phiên tòa xử án Internet, liệu bị cáo có phải chịu kết án là thủ phạm của “sống ảo”, hay nó chẳng là gì hơn, ngoài một tấm gương cầu lồi phóng to những thứ vốn đã có sẵn trong bản chất của con người?

Năm 1891, chắc chắn khi đó Internet còn chưa ra đời, Oscar Wilde đã viết cuốn tiểu thuyết duy nhất của đời mình, một tác phẩm đưa ông lên đỉnh văn chương nhưng cũng ném ông xuống đáy cuộc đời, Chân dung của Dorian Gray, trong đó kể về một chàng trai trẻ đẹp sa ngã vào đầm lầy tội ác chỉ để giữ cho mình tuổi thanh xuân bất diệt nhưng trong khi chàng mãi trẻ đẹp thì bức chân dung mà chàng giấu kín nơi căn gác ngày một xấu xí, lão hóa, biến dạng sau mỗi lần chàng phạm tội.

20210512 2

Chúng ta đều đeo mặt nạ.

Nhưng, đến lúc mò lên gác xép và đối diện bức chân dung tượng trưng cho cái bên trong của mình, chàng ta chỉ thấy một thứ tàn tạ héo hon, dường như câu chuyện ấy có rất nhiều nét tương đồng với những phiên bản con người trong và ngoài mạng xã hội.Đó là cuốn tiểu thuyết đa nghĩa và bạn có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, nói cho cùng nó bất tử là bởi qua mỗi thời đại nó lại gợi ý thêm những suy tư mới. Trong thời đại của mạng xã hội, cái cách mà Dorian Gray khao khát được xuất hiện trước công chúng với vẻ ngoài đẹp như một mùa xuân, không từ cách nào để luôn mơn mởn trước mắt mọi người.

Như vậy, con người, dù có mạng Internet hay không, hình như luôn có xu hướng tách cái tôi thật và cái tôi xã hội. Từ “person” (một con người) có gốc gác từ từ “persona” trong tiếng Latin, mà persona có nghĩa là mặt nạ sân khấu. Hiểu theo cách nào đó, làm người tức là đeo mặt nạ, đã là con người thì đều đeo mặt nạ. “Mặt nạ [...] được thiết kế một mặt để gây ấn tượng nhất định với người khác và một mặt khác để che giấu bản chất thực sự của một cá nhân” - nhà phân tâm học nổi tiếng người Thụy Sĩ Carl Jung, người với lý thuyết về bản đồ tâm hồn có ảnh hưởng sâu sắc tới tâm lý học hiện đại, đã viết. Carl Jung là người đầu tiên khởi xướng khái niệm “mặt nạ” khi nghiên cứu về hành vi của con người.

“Mặt nạ” mà Jung đề cập thực chất có phổ rộng hơn rất nhiều so với những gì ta đang nói ở đây. Nó là tất cả những vỏ ngoài đóng gói cái tôi đích thực, những thứ định danh ta nhưng không đích thực là ta, kể cả tên tuổi cha mẹ đặt cho, nghề nghiêp ta làm, chức vụ xã hội giao cho ta - những thứ này không phải là giả, một người tên là A không hề nói dối khi anh ta bảo mình tên A, một vị tổng thống đương nhiên là người điều hành đất nước, nhưng nói như Jung, chúng chỉ là “hiện thực thứ hai” hay “một thỏa hiệp giữa con người và xã hội”.

Và nếu như ngay từ những thứ có tính thiết thân như thế đều có thể chỉ là một tấm mặt nạ ta chường ra cho thế giới ngắm nhìn, vậy thì có gì lạ nếu như khi được trang bị công cụ phù hợp (như mạng xã hội), con người tiếp tục đeo thêm những lớp mặt nạ khác để tự vẽ ra cho mình một cuộc sống khác với cuộc sống ta đang sống?

Jung không phản đối mặt nạ. Theo Jung, đeo mặt nạ là một hành vi cực kỳ bình thường và tự nhiên. Chúng ta đều đeo mặt nạ. “Thật không may rằng không nghi ngờ gì cả, con người, về toàn thể, không tốt đẹp như những gì anh ta tự tưởng tượng về mình và những gì anh ta muốn trở thành”. Nên ao ước thấy một phiên bản tốt hơn của bản thân, dù chỉ là trong một ảo tưởng, là rất mực tự nhiên. Nhưng, rắc rối sẽ xảy ra nếu như một người đồng nhất mình với mặt nạ, đánh mất hết ý thức về bản thân và để mặt nạ nuốt chửng bản ngã thật của mình.

Trong bộ phim “Fanny and Alexander”, một trong những phim hay nhất của Ingmar Bergman (và Ingmar Bergman thì là một trong những đạo diễn hay nhất thế giới), có cảnh phim về một vị cha đạo nằm mơ. Trong giấc mơ, ông cố gắng tháo tung chiếc mặt nạ đang đeo trên gương mặt nhưng ông ta làm cách nào cũng không thể tháo được nó. Cuối cùng thì ông ta kéo luôn cả gương mặt mình ra cùng mặt nạ. Ta đeo mặt nạ để che giấu gương mặt thật của mình nhưng khi đã đeo quá lâu, cái mặt nạ ấy sẽ dính chặt vào gương mặt thật của ta, đến mức ta không còn cách nào nhấc lớp phủ lên mà không làm bị thương đến lớp bị che phủ.

Trong khi đó, một nhà phân tâm học khác là Donald Winnicott sống cùng thời với Jung cũng phát triển độc lập một lý thuyết về cái tôi thật và cái tôi giả (hay cái tôi lý tưởng hóa), trùng hợp thay, lại có nhiều điểm tương giao với bản đồ tâm hồn của Jung. Ta có thể hiểu cái tôi giả (false self) là một thứ tương tự như mặt nạ.

Theo Winnicott, cái tôi giả ra đời khi một đứa trẻ bắt đầu biết phân biệt cái gì là được và cái gì là không được theo sở thích chung của xã hội, kiểu như tuổi trẻ là tốt, quyền lực là tốt, giàu có là tốt, thông minh là tốt, dũng cảm là tốt. Những cái không được, không tốt thì ta đem giấu đi. Nói chung, cái tôi giả không hề xấu. Nó là một phần của cái tôi thật và nó có nhiệm vụ bảo vệ cái tôi thật. Cái tôi giả rất vất vả vì hằng ngày nó phải đối phó với thế giới và thích ứng với thế giới thay cái tôi thật, nhờ đó, cái tôi thật có thể tiếp tục tồn tại trọn vẹn.

Dorian Gray trẻ đẹp và bức chân dung biến dạng.

Song, chính vì cái tôi thật không được ngó ngàng thường xuyên, nó chẳng có việc gì để làm, nó được bảo vệ quá kỹ càng đến mức không được thở, nên đâm ra, nó sẽ cảm thấy bị ngộp, cảm thấy không được công nhận, cảm thấy không được yêu. Từ quan điểm của Winnicott, ta có thể suy luận nguyên do vì sao khi một người “sống ảo” quá lâu, người đó cuối cùng lại trở nên mệt mỏi và buồn khổ. Nỗi buồn ấy chính là nỗi buồn của cái tôi thật bị bỏ quên.

Tóm lại, nếu chiếu theo lý thuyết của cả Jung và Winniecott, sống ảo tuyệt đối không phải là lỗi của mạng xã hội. Sự ra đời của mạng xã hội, thậm chí, chỉ phản ánh bản năng đeo mặt nạ của con người. Ta cần một nơi nào đó để làm cho cuộc sống của mình có vẻ tốt đẹp hơn so với thực tế và để không bị xã hội gạt ra lề và mạng xã hội là một sản phẩm tất yếu. Nhưng, thế thì chẳng lẽ ta chịu thua, ta chấp nhận để những chiếc mặt nạ dính cứng vào gương mặt thật của ta không cách nào gỡ ra? Những nhà phân tâm học chẳng lẽ không có một gợi ý gì hết?

Trên thực tế, thì có. Carl Jung không nói rằng chúng ta phải chối bỏ mặt nạ, xã hội này vận hành trơn tru là vì mọi người đều đeo mặt nạ và diễn cảnh với nhau. Nhưng, theo bản đồ tâm hồn của Jung, con người không chỉ có mặt nạ, họ còn có bóng tối (shadow), bao gồm tất cả những gì ta cố gắng tự phủ nhận ở chính mình. Và, Jung khuyên ta hãy nhìn thẳng vào bóng tối, để chúng ta biết rằng mặt nạ không phải là toàn bộ con người ta, bởi cách duy nhất để không bị điều khiển bởi mặt nạ là nhận thức được rằng bản thể của ta lớn hơn mặt nạ. Mặt nạ chỉ là một phần của bản thể mà thôi. Và, chỉ trong sự tỉnh thức hoàn toàn về mọi góc độ tâm hồn, con người mới có thể giữ vững cá tính và không bị trượt đi theo vô thức tập thể.

“Đặc ân của cuộc đời là trở thành con người bạn thực sự là”, Jung viết. Jung không viết “làm một con người bạn thực sự là”, mà ông viết “trở thành con người bạn thực sự là”. Động từ “trở thành” như muốn nói rằng, hành trình đi tìm cái tôi nguyên bản là một hành trình thăng tiến, một hành trình hóa thân, chứ không phải một hành trình quay trở về điểm xuất phát gốc hay một sự giảm trừ và vứt bỏ bất cứ điều gì. Ta không vứt bỏ mặt nạ của mình nhưng ta phải biết nó không là tất cả.

Hiền Trang

Nguồn: An ninh thế giới giữa và cuối tháng, ngày 30.4.2021.

Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu-, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.

20210130

Bức “Gia đình” của danh họa Lê Phổ. Nguồn: Sotheby’s

Làm chuyện này tôi nghĩ mình không phạm thượng, và tin chắc người mỉm cười đầu tiên với tôi là bà chúa Liễu, bởi vì bà là vị nữ nhân đã thấu hiểu hơn ai thể chất đích thực của “đàn bà”, nói chung và phụ nữ Việt nới riêng: không thần tiên, không đúc tượng mà sống chân thực ở đời bằng khúc dạ của mình Câu chuyện tiên hạ giới vào gia đình thường dân, làm con đôi vợ chồng phúc đức, lớn lên, lấy chồng sinh con rồi… chết, rồi ước nguyện tái sinh, chỉ để… lấy chồng, sinh con, làm trọn chức năng đàn bà, rồi lại… chết nhưng… trở thành bất tử. Ba lần trở về hạ giới cũng chỉ vì một chữ “tình”, tình yêu đất, tình yêu người - vị được phong “Mẹ của muôn dân”-, “Thánh mẫu” ấy trở nên bất tử, bất tử trong nghĩa hầu như vẫn còn hiển hiện đâu đây nơi những hình hài nữ nhi, chưa một lần hiển thánh vĩnh viễn, còn mãi trong kiếp “đàn bà”. Liễu Hạnh đã biểu hiện giới tính Việt nữ không ở đâu khác hơn là chính ở trong bản chất “Hóa Thân”. Khác hẳn với nam giới hầu như đồng dạng, và đồng điệu (monotonne), người nữ có thể hiện thân muôn vẻ, như những cánh bướm muôn màu, như những… nàng tiên hạ giới. Tiên phải chăng là hình hài của bướm, của hoa hóa thân, hóa kiếp và đã là tiên ắt phải đẹp?

Câu chuyện mẫu hệ Việt Nam có thật trong lịch sử từ khi mảnh đất chữ S có lá sen, lá chuối, chiếc nón đi về, trong khi huyền thoại tiên bướm là khởi đầu cuộc hóa thân sáng tạo của Mẹ muôn loài. Hóa thân không ngừng trong dòng đời, trong muôn nghìn ức vạn thế hệ, để sinh và dưỡng muôn người. Sinh thành, nuôi dưỡng, giữ gìn, hình hài người phụ nữ Việt in bóng trên dải đất chữ S đã uyển chuyển đi những đường nét đậm tình nhân ái, sáng tạo, chân tình và bi ai. Đi, biến đổi, trở thành, người phụ nữ Việt linh động ảo hóa, dù gian nan đọa đày, ma chiết trắc trở. Từ bà Trưng bà Triệu, Nhà mẹ Lê, Mẹ Hồ Dzếnh, chị Dậu, ngay cả Thị Nở như những số phận hẩm hiu, cho đến Thuận Thiên, Ỷ Lan, Từ Dũ Thái hậu, hay Huyền Trân, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, nàng Kiều, Chinh phụ, bà mẹ Cúc Hoa… để nêu ra một vài tiêu biểu những con người với thiên chức đàn bà, người phụ nữ không ngừng tảo tần, không ngừng hóa kiếp với bầu sữa ngọt, với cảm hứng sáng tạo từ trái tim và đôi bàn tay sẵn sàng biến cải, đổi khác, nhào nặn từng hình hài, tạo dựng cuộc sống, gầy dựng mô hình xã hội yêu thương bằng cấu trúc gia đình.

Không ngạc nhiên chút nào khi “Gia huấn ca” của Nguyễn Trãi, tác phẩm thành văn về giáo dục con người Việt thực hiện đạo làm người, ở thế kỷ 14  đã dành 15 trong toàn thể 16 chương của  tác phẩm, về việc giáo dục người phụ nữ trong gia đình, bởi vì gia đạo nằm chính trong sự cầm cương nảy mực của người phụ nữ: làm con, làm em, làm chị, làm mẹ, làm dâu, làm bà, đối với bà con, vợ lẽ, bạn bè của chồng, đối với người ngoài trong xã hội, đối với người cơ hàn thấp kém, đối với gia đình, thờ cúng tổ tiên…đến điều chi li với mọi chi tiết cách ăn ở đứng ngồi, công dung ngôn hạnh, bởi vì mọi phẩm chất đời sống của mỗi một con người được sinh ra và lớn lên đều bắt nguồn từ cái kén đức hạnh của người đàn bà. Con tằm nhả tơ cuộc sống, như lời hát ru “cocon de soie, source de vie”, con tằm biết sống theo đạo tằm nhả tơ, đức hạnh nằm trong nhả tơ, không phải trong thần tượng.

Bức “Đời sống gia đình” của danh họa Lê Phổ. Nguồn: Sotheby’s

Điều kiện sống và hành vi sống của người đàn bà là nguồn gốc của con người, của xã hội, đến nỗi, không lạ, một thời xa xưa, mẫu hệ là hình thức tổ chức xã hội đi trước phụ quyền và cũng không lạ khi J. J. Bachofen với tác phẩm "Das Mutterrecht" (“Mẫu quyền”) năm 1861 đã làm xôn xao giới nghiên cứu trí thức của thế kỷ 19, trong đó lời trao tặng cao quý nhất dành cho Mẹ “Bao lâu còn sống trên đời con sẽ không ngừng nói về phẩm hạnh tốt và lòng tin yêu của Mẹ” (Solange ich lebe, werde ich nie aufhören, von Deiner Güte und Deinem Vertrauen zu sprechen), với niềm đam mê chứng minh “mẫu quyền là nguồn gốc của xã hội”, đã đánh đỗi mọi tham vọng thế lực khoa học mang tính hàn lâm trí thức của thời ông. .

“Mẹ” đi trước muôn loài. Mẹ là cốt tủy của tâm tình nước non từ khi sóng vỗ bên bờ Kreta (Hy lạp), Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Trung Hải, Biển Đông. Mẹ Kreta cầm rìu hai lưỡi, mẹ Liễu Hạnh tiên hóa bướm, đều là những khởi đầu của khởi sự “con người”.

Có thể nói trước mọi quyển huấn ca, mỗi người con đã đọc Mẹ từ khi còn nằm trong bụng Mẹ. Quyển sách đời nằm trong những nét Mẹ viết CON, vẽ CON, bừng sáng trên từng khoảnh khắc, không phải chỉ trong hạnh phúc mà ngay trong gian khổ bi ai. Con đường mẹ đi, mẹ dẫn con đi, đi theo cách nào đi nữa, gian nan, khổ ải, đắng cay, ngọt bùi nhung lụa, vẫn là con đường “gia đạo”, con đường đi và quay về tổ ấm, hợp quần nhân loại, con đường nâng bước chân người đến gần với nhau vì thương nhau, như mẹ thương con. Trên con đường ấy, sáng tạo hiện sinh mang ý nghĩa nhân quần, nhân tính của mái nhà yêu thương, của tụ hợp, quây quần bên nhau, từ đó con người trở thành người, không còn là những thú giữ gầm thét, cấu xé nhau. Hàng mấy mươi thế kỷ bể dâu, thương hải tang điền, mẫu gia đình biến đổi theo cấu trúc xã hội, mẫu quyền rồi phụ quyền, nhưng gia đạo thì chỉ có một, một con đường đi do người phụ nữ khai phá và đảm trách, bền bỉ, hiện diện nơi từng nhịp thở của con, trên đó người đàn ông khó có thể thay thế để gầy dựng nên.

Bức “Thiên chức làm mẹ” của danh họa Lê Phổ. Nguồn: Sotheby’s

Mẹ có thể dịu dàng như cánh bướm mà cũng có thể sắc bén như cây rìu hai lưỡi. Là rìu để bảo vệ con người, là bướm để làm đẹp nhân tính. Cả hai đều là biểu tượng nữ phái và sự quân bằng nằm ở trái tim nhân ái, rộng lòng biết thương “lòng ái từ như bể như non”. Gia đạo của người phụ nữ nằm trong hành trình mang nhiều chữ “thương”, thương chồng, con, cháu, nuôi lớn khôn, tạo bền vững, vun trồng hợp nhất. Gia đạo dù gian nan, Mẹ vẫn sắt son nhẫn nại tô bồi “Vườn xuân một cửa để bia muôn đời”. Nỗi mong ước hóa thân của Liễu Hạnh, người mẹ của muôn dân mang ý nghĩa chuyển hóa trên “đường đi”, làm cho “con” trở nên người trưởng thành và đứng vững trong xã hội. “Con” trở nên “Người”, từ dã tính trở nên nhân tính, mỗi lúc một được cải thiện đạo đức hơn và trở nên con người của hoàn vũ, của nhân loài. Đức hạnh của Mẹ nằm trong sự chuyển hóa, chuyển hóa bằng hơi ấm và trái tim sẵn sàng hi sinh.


Khác với chế độ phụ quyền nổi trên bề mặt ở các nước Âu cũng như Á, và cũng khác với cấu trúc mẫu quyền chuyên chế của thời xa xưa, trong đó người phụ nữ hoăc bị khinh rẻ như nô lệ, hay độc đoán bạo động như nam giới, phụ nữ Việt đã có một vị trí cao trong gia đình và được mọi phần tử trong gia đình tôn trọng như là bà tổ của gia tộc: người phụ nữ là “nội tướng”, là phên dậu của cái nhà, và người đàn ông trong gia đình vẫn chỉ là “đứa con” lớn nhất, dù là con trời, trong tổ chức do người phụ nữ xếp đặt nên. Gia đạo bền vững nơi nhịp đong đưa giữa êm ái và sắt gan của người phụ nữ “Liễu Hạnh”, ở đạo hạnh nữ phái mềm mỏng mà trung kiên. Gương bền bỉ, can trường, sẵn sàng chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam trong việc giữ gìn gia đạo của thế hệ trước vẫn còn ấm trong văn chương và ấm trái tim của những người con nay đã trở nên già. Làm sao quên được hình ảnh của Bà, của Mẹ, đầy thương yêu mà cũng đầy sức mạnh chống đỡ, lèo lái gia đình trong những lúc hoạn nạn, khi thì mất chồng, khi mất con, khi chiến tranh, khi đói khát lao khổ? Làm sao quên được bà Tú Xương vẫn tươi cười nuôi con khi chồng dài lưng tốn vải? Làm sao quên được cảnh Bà nội tôi vẫn ngâm thơ và ru con trong lúc gạo châu củi quế, phải nhịn bụng dành tiền cho con trai đi học, như mẹ Hồ Dzếnh một thời? Cũng không thể quên được cảnh Bà ngoại tôi ôm con của vợ lẽ vào lòng, nuôi nấng và che chở khỏi những cơn giận dữ của Ông tôi, công dung ngôn hạnh hơn cả tứ đức tam tòng vì tất cả đến từ trái tim đơn giản.

Đối với mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của… mẹ của con thì hóa bao nhiêu kiếp cũng sẵn lòng, độ lượng mười phương tám hướng, vẫn lồng lộng đi về bên con như Cúc Hoa hiển hiện, nâng con thành người của người. Cánh bướm của Liễu Hạnh vẫn còn đập mềm mại như cơn mộng ru con, dệt tơ nhân ái, và đôi tay vẫn chuyên cần thoăn thoắt như hai cánh dũa sắt của chiếc rìu sẵn sàng bảo vệ mọi đe dọa hiểm nguy xâm hại phẩm chất con người, dành tin yêu cho đàn con mai sau. Cầm rìu cũng như cầm kim thêu hay cầm bút viết, người phụ nữ Việt có thừa năng lực và trí tuệ để chuyển hóa chính mình và người trong cuộc hành trình nhân thế- cuộc giải phóng khỏi áp lực định kiến xã hội bên ngoài vẫn còn đằng đẳng, cho nên đức hạnh người phụ nữ nằm chính trong năng lực sáng tạo hóa thân mộng đời thành hiện thực bằng chân tình Mẹ Con, luôn chảy không ngừng, không dừng một giây để đừng hóa đá, dù là hóa đá chờ người thương…

Thái Kim Lan

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 14.01.2021.

Bạn có biết ngày xưa ở vườn Tao Đàn có xóm Lụa? Đầu đường Đồng Khởi từng có xóm Hàng Đinh? Ngay Bến Bạch Đằng có bãi tắm riêng của vua? Chợ Lớn nguyên thủy nằm ở Chợ Rẫy? Sài Gòn đầu thế kỷ XIX là thành phố sông nước đông vui?...

Vào một chiều cuối đông, tiết trời tươi đẹp, chúng tôi được tham dự một “tour” đặc biệt trở lại Sài Gòn hơn 200 năm trước. Nghe nói đoàn có “tour guide” U.70, vốn là nhà giáo và nhà báo, tinh thông nhiều chuyện Đông Tây. Nào đi thôi, Ông Cụ đang đợi chúng ta ở công viên phía trước Sở Ngoại vụ kìa!

Hoàng thành uy nghiêm và kỳ thú

Đây, Ông Cụ mặc áo dài khăn đóng kiểu xưa, rất mộc mạc. Ông cười, nét mặt hiền hậu, khoan thai chỉ về bồn hoa ở giữa giao lộ, phía sau Nhà thờ Đức Bà và nói: “Chỗ ấy thời nhà Nguyễn là vị trí Cột cờ thành Gia Định”. 

Ông cho biết đại lộ Lê Duẩn ngày nay chính là đường Thần đạo chia đôi tòa thành, theo thuật phong thủy phương Đông. Năm 1789, Sài Gòn bắt đầu được thiết kế và xây dựng với quy mô lớn để làm kinh đô của chính quyền chúa Nguyễn sau khi Phú Xuân (Huế) mất về Tây Sơn. Từ ấy, Sài Gòn chính thức mang tên Gia Định Kinh bao gồm một tòa thành lớn và hơn 40 xóm làng bao quanh. Trung tâm Gia Định là Hoàng thành (còn gọi là thành Bát Quái hay thành Quy) có 8 cổng lớn(1). Sau bao phen binh lửa, tiếc thay Hoàng thành Gia Định không còn nữa nhưng vẫn còn nhiều dấu tích để khám phá.

Nằm không xa cột cờ là Cung Vua. Chỉ về hướng cao ốc German House và khách sạn Intercontinental, Ông Cụ cho biết năm 1802, vua Gia Long chuyển kinh đô ra Huế nhưng Cung Vua vẫn được giữ lại, trở thành hành cung cho vua “ngự” khi kinh lý. Đây còn là nơi các quan tề tựu bái vọng vua vào ngày mồng một Tết hàng năm. Riêng vị trí Sở Ngoại vụ và Thành Đoàn vốn là Dinh Tổng trấn của Quan Thượng Lê Văn Duyệt.  

20210429 3

Nhà cửa ven sông Sài Gòn giáp rạch Bến Nghé, trích tranh vẽ trên báo Pháp Le Monde Illustration 4.1859 (ảnh tác giả sưu tầm)


Song song với Dinh Tổng trấn là Trường Thi và Nhà Quốc học nay là Nhà Văn hóa Thanh niên. Đi bộ một đoạn ra ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Thị Minh Khai, sẽ gặp Đàn Xã Tắc - khu vực thiêng liêng để vua và các quan tế Thần Đất cùng Thần Nông. Khu vực này, phải chăng chính là gò đất cao, bên trên có ngôi nhà nhỏ hình bát giác trong khuôn viên góc phải Dinh Độc Lập, đối diện trường Lê Quý Đôn? 

Trên đất của trường này, ngày xưa Quan Thượng cho mở rạp hát bội và sân chọi gà, là hai thú vui của ngài và dân Gia Định. Phía sau trường Lê Quý Đôn, thuở đó có ngôi chùa lớn là chùa Khải Tường - nơi hoàng tử Đảm được hạ sinh, sau này trở thành vua Minh Mạng. Khi Pháp vào, họ chiếm chùa làm đồn binh, có sĩ quan đứng đầu là Barbé. Người dân kể lại, nàng Hai Bến Nghé đã liều mình dẫn dụ Barbé vào ổ phục kích của nghĩa quân. Từ chùa Khải Tường trở lên vùng Cầu Kiệu là đất của làng Mỹ Hội, nay thuộc quận 3. 

Ban nhạc người Sài Gòn trước ngôi nhà bình dân những năm 1860. Ảnh: Emile Gsell


Dấu tích Hoàng thành còn rất nhiều ở bờ rạch Thị Nghè và bờ sông Sài Gòn. Chúng tôi đi thẳng đại lộ Lê Duẩn, rồi rẽ qua đường Tôn Đức Thắng đến khu Ba Son. Nơi đây thời nhà Nguyễn là Thủy xưởng, chuyên đóng thuyền chiến và là bến tàu hải quân. Đến bến tàu khách Bạch Đằng và bến phà Thủ Thiêm cũ, Ông Cụ cho biết đây chính là Thủy các (nhà sàn cho vua hóng mát) và Lương tạ (bến tắm của vua).

Đi tiếp đến Cột cờ Thủ Ngữ, đầu đường Hàm Nghi, là nền của trạm Gia Tân, một trong 4 trạm giao liên của triều Nguyễn tại Gia Định. Tại mỗi trạm lúc nào cũng có ngựa tốt và kỵ sĩ giỏi túc trực để chuyển và nhận công văn hỏa tốc đi Huế và khắp Nam kỳ. Đối diện trạm Gia Tân là Công quán - nơi các quan từ tỉnh khác đến trú chân. Tại đây, có đồn binh và từng là đồn thu thuế (hải quan) của Chúa Nguyễn, có từ thế kỷ XVII. Hiện ở đây đã mọc lên cao ốc chọc trời Saigon One Tower.

Xóm làng sung túc

Xe chạy dọc đại lộ Hàm Nghi ra chợ Bến Thành và công viên 23 Tháng 9. Theo Ông Cụ, đường Hàm Nghi xưa là con rạch lớn mang tên Cầu Sấu vì có đầm cá sấu và là nơi bán thịt cá sấu! Đầu rạch, nhìn sang trạm Gia Tân, có ngôi chợ mang tên chợ Sỏi. Đất chợ Sỏi và rạch Cầu Sấu đều thuộc làng Tân Khai (Hoàng thành Gia Định nằm trên gò Tân Khai). Còn khu chợ Bến Thành và công viên 23 Tháng 9 (trước là ga Sài Gòn) là vùng ao hồ, Pháp gọi là đầm Boresse. Song, trước khi Pháp vào, đã có xóm Vườn Mít và xóm Cầu Quan. Tên Cầu Quan là do xóm có nhiều nhà quan lại. 

Dãy phố Tàu Khậu ở Chợ Lớn, khoảng 1866. Ảnh của Emille Gsell


Cái tên Cầu Quan nay vẫn còn, cũng là tên một ngôi đình, còn gọi là đình Thái Hưng ở góc Yersin - Phạm Ngũ Lão. Cả hai xóm trải dài đến đường Trần Đình Xu (tên cũ là đường Cầu Kho). Khu Cầu Kho chính là làng Tân Triêm, nơi đặt kho Cẩm Thảo - kho lương thực của triều đình. Làng này cũng là quê ngoại của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. Quanh Cầu Kho có chợ chuyên bán gạo là Cầu Gạo. Gần chợ này lại có một xóm của người Khmer chuyên dệt chiếu. Thêm nữa, ở khu vực đường Calmette, từng có một dãy nhà lụp xụp của dân nô lệ Lào được triều đình phóng thích. Dân Lào tại đó làm nghề đóng “thùng xách nước bằng lá dừa nước”. 

Xe đi tiếp ra vòng xoay ngã sáu Sài Gòn, dừng ở đầu đường Nguyễn Thị Nghĩa, hướng ra cầu Muối. Ông Cụ bảo cầu Muối và cầu Ông Lãnh là hai chợ cổ buôn bán nông sản từ đó đến giờ. Còn ở đầu đường Nguyễn Trãi, thời ấy có xóm Buồm Đệm. Thuở xưa, từ Sài Gòn qua Chợ Lớn chỉ có hai con đường đất. Con đường khởi đầu từ xóm Buồm Đệm, gọi là đường Trên, dân gọi là đường Nước Nhĩ (vì có mạch nước ngầm rỉ nước ra), hay là đường Cây Mai vì chạy thẳng đến chùa Cây Mai - Phú Lâm. Còn đường Dưới chạy dọc rạch Bến Nghé, giờ là đường Võ Văn Kiệt. Ông Cụ bảo theo đường Dưới vào chơi Chợ Lớn sẽ gặp dấu tích nhiều xóm làng - trên bến dưới thuyền nhộn nhịp. 

Thì đây, lần lượt là làng Tân Kiểng (còn gọi là xóm Lò Rèn Thợ Vắp), làng Nhơn Giang, làng Bình Yên, làng Phú Hội, rồi xóm Bột và xóm Cối Xay…  Các xóm làng này nằm quanh nhà thương Chợ Quán hiện tại. Trong đó, làng Nhơn Giang từng có nhiều thợ đúc sinh sống. Đi nữa sẽ thấy xóm Lá, xóm Cốm, xóm Câu, xóm Dầu (làng An Bình), xóm Lò Gốm và  xóm Lò Vôi… Theo Ông Cụ, Chợ Lớn nguyên thủy là vùng đất từ nhà thương Chợ Rẫy kéo thẳng sang bờ rạch Bến Nghé. Con đường Châu Văn Liêm hiện tại nguyên là con rạch thông với rạch Bến Nghé. Thời nhà Nguyễn, hai bên rạch đều có dãy phố lớn gọi là Tàu Khậu, làm kho hàng và cửa hàng của dân buôn từ Trung Quốc đến bằng tàu. Trên con rạch, có ba cây cầu là cầu Đường (bán nhiều loại đường), cầu Khâm Sai và cầu Phố. 

Đồn Cây Mai trên nền chùa Cây Mai, khoảng 1866. Ảnh của Emille Gsell


Ông Cụ nói đi về hướng Chợ Vải Đèn Năm Ngọn (Soái Kình Lâm bây giờ), sẽ gặp xóm Thợ Rèn và Thợ Kéo Dây Sắt, gọi là Quân Mậu Tài. Từ đây, chúng tôi quay về quận 1 bằng đường Trên, tức đường Nguyễn Trãi. Khi xe qua giao lộ Cống Quỳnh, Ông Cụ kể vùng này khi xưa là chợ Điều Khiển. Các doanh trại từ đường Nguyễn Trãi ra đến Nguyễn Văn Cừ, vào thế kỷ XVII từng là nơi đồn trú của quân chúa Nguyễn, dưới quyền vị tướng có tước hàm là Điều Khiển. Sát chợ Điều Khiển có chợ Cây Da Thằng Mọi, nơi có một cây đa to, chuyên bán cau, bán “thuốc xiêm” và đặc biệt là đèn dầu mang hình “Thằng mọi”. 

Trở lại ngã sáu Sài Gòn, Ông Cụ chỉ về hướng vườn Tao Đàn, cho biết thời nhà Nguyễn có  xóm Lụa trong đấy. Gần đó là xóm Chợ Đũi (bán lụa), xóm Buồm Đệm (làm chiếu) và xóm Lá Buông. Đi thêm một đoạn sẽ gặp xóm Thuẩn và xóm Củ Cải ở gần bệnh viện Từ Dũ ngày nay. Xe đi tiếp đường Lý Tự Trọng, ngang Tòa án và Thư viện Tổng hợp (thời Pháp là Khám Lớn), Ông Cụ bảo nơi đây xưa là chợ Da Còm. Gọi thế vì chợ có “một cây đa cổ thụ mà thân thì còng”. Chợ bán trống, lọng, yên cương và mũ ông Nghè, ông Cử. Gần chợ còn có xóm Thầy Bói và xóm Thợ Tiện. Hai nghề này đồng hành với nhau, khá “ngộ”!

Từ đường Lý Tự Trọng ra đường Đồng Khởi, xe đi qua tòa nhà Dinh Thượng thơ (59-61 Lý Tự Trọng), Ông Cụ thoáng trầm ngâm rồi bảo thời trẻ mình từng làm báo tại đây (2). Ông kể từ công viên Chi Lăng đổ xuống khách sạn Continental xa xưa là xóm Hàng Đinh, còn tại trụ sở UBND thành phố có một cống lớn là cống Cầu Dầu. Đường Lê Thánh Tôn ngày trước là rạch Cây Cám, chạy sát đường thành phía Nam của thành Quy, giao với kinh Chợ Vải (là đường Nguyễn Huệ bây giờ). Chợ Vải là chợ to nhất gần cổng thành Càn Nguyên (Đồng Khởi - Lý Tự Trọng) cho nên dân còn gọi là chợ Bến Thành(3). 

Nam giới và phụ nữ Sài Gòn trung lưu những năm 1860, ảnh của Emille Gsell


Dân tình tứ xứ và cởi mở

Chúng tôi dừng chân, ngồi ngắm sông Sài Gòn khi hoàng hôn xuống. Nhìn qua bán đảo Thủ Thiêm mênh mông, Ông Cụ bảo bên ấy thời nhà Nguyễn có xóm Tàu Ô (thuyền sơn đen), là xóm của người Hoa được quan ta thu phục, cho làm lính chuyên tuần tra sông biển và sửa thuyền. Sở chỉ huy của họ là Tuần hải Đô Dinh. Như vậy, cách đây hơn 200 năm, Sài Gòn là nơi hội tụ người tứ xứ, từ người đi khai phá đất đai đến dân thương hồ và giang hồ hảo hán! Ông Cụ bỗng cao hứng đọc mấy đoạn thơ Nôm vần điệu rất hùng tráng:  

Phủ Gia Định! Phủ Gia Định! Nhà đủ người no chốn chốn
Xứ Sài Gòn! Xứ Sài Gòn! Ăn ở vui thú nơi nơi 

Hóa ra đó là đoạn mở đầu bài Cổ Gia Định phong cảnh vịnh mà Ông Cụ sưu tầm và chú giải. Ông đưa chúng tôi xem bài thơ dài, in trên giấy khoảng một trang. Mọi người đọc thấy áng văn khuyết danh này giống như một phim phóng sự đầy hình ảnh và âm thanh, miêu tả toàn cảnh Sài Gòn trước khi Pháp vào. Thời ấy, Sài Gòn đã là phố thị phồn hoa, không chỉ là nơi giao thương Trung-Nam-Bắc mà còn là nơi giao lưu với nhiều nước xa gần.

Ông Cụ nói, thú vị lắm, ghe đò qua lại trên sông nước thường xuyên có lời ca tiếng hát đối đáp. Trai gái ra đường ai nấy thong dong, bài thơ ghi là “gái nha nhuốc tay vòng tay niểng, trai xênh xang chơn hớn chơn hài”. Thành phố có nhiều đền chùa, miếu mạo, đời sống tâm linh hướng tới việc thiện và điều lành. Ông Cụ nhận xét thời ấy “trọng trung ngải” (trung nghĩa), “không quên chữ ngọn rau tấc đất” (không quên nguồn gốc dân tộc). Ông Cụ còn sưu tầm được hai áng văn dân gian khác là Gia Định thất thủ vịnh và Kim Gia Định phong cảnh vịnh. Cả hai tác phẩm đều cho thấy nỗi tiếc thương Sài Gòn xưa. Song không vì thế, người đời nay quên đi những cảnh sống và phương tiện mới của một Sài Gòn tân tiến. 

***

Xe chở đoàn về lại địa điểm xuất phát. Khi chia tay, Ông Cụ ôn tồn dặn dò: Dầu cuộc đổi đời - cồn có hóa nên vực - vực có hóa nên cồn đi nữa thì cũng còn tích xưa mà nhắc lại. Và Ông Cụ nhắn nhủ: “Thời tôi nhiều người đã tâm niệm làm sao giữ Sài Gòn sạch đẹp để trở thành một trong những đô thị đẹp nhất miền Viễn Đông đó!” (4)

Petrus Trương Vĩnh Ký 1883 (ảnh tư liệu)


Một bạn trẻ thay mặt đoàn cảm ơn Ông Cụ và thưa rằng chúng cháu cũng mong Đàn Xã Tắc và các cổng thành, cùng nhiều vị trí khác mà Ông Cụ đã chỉ dẫn, nay mai sẽ được gắn bảng lưu niệm. Để qua đó, người Sài Gòn, và cả du khách, biết rõ thêm lịch sử địa linh nhơn kiệt của Gia Định. Ông Cụ mỉm cười và bỗng tan biến vào bầu trời cao xanh…

Chao ôi, tôi nhận ra rồi. Người “tour guide” đặc biệt ấy chính là cụ Petrus Trương Vĩnh Ký!

Cụ là người đầu tiên góp nhặt nhiều tư liệu, viết nhiều sách báo về lịch sử Sài Gòn và Việt Nam. Ngay chỗ chúng tôi gặp và chia tay cụ, từ năm 1937 là nơi đặt tượng Petrus Ký, do người dân Nam kỳ góp tiền xây dựng. Sau tháng 5.1975, tượng bị dời đi, hiện đang lưu tại sân sau Bảo tàng Mỹ thuật. 
Giờ đây, hình dung Sài Gòn cổ xưa như thế nào, không thể không rưng rưng nhớ đến Ông Cụ. Có người mách nhà Ông Cụ còn đó, có cái cổng kiểu dáng Văn miếu ở số 520 Trần Hưng Đạo, góc Trần Bình Trọng. Thử đến đó thăm Ông Cụ nhé! 

Phúc Tiến

Bài viết đã đăng trên Giai phẩm Người Đô Thị Tết 2021

___________

Chú thích:

Bài viết sử dụng tài liệu về Sài Gòn của Petrus Trương Vĩnh Ký biên soạn qua bản dịch của Nguyễn Đình Đầu, bao gồm: Tiểu giáo trình địa lý Nam kỳ - xuất bản 1875, Cổ Gia Định phong cảnh vịnh - 1882, Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận - 1885. Ngoài ra, còn có bản đồ Gia Định 1815 của Trần Văn Học, bản đồ Sài Gòn 1820 của John White và một số tư liệu khác

(1) Thành Bát quái tồn tại 1790 - 1838, có 8 cổng:
- Phía Đông là Hoài Lai Môn (Thảo Cầm Viên trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm) và Phục Viễn Môn (góc Tôn Đức Thắng - Nguyễn Hữu Cảnh, đối diện xưởng  Ba Son)
- Phía Tây là Tuyên Hóa Môn (ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Thị Minh Khai) và Tĩnh Biên Môn (Nam Kỳ Khởi Nghĩa - Nguyễn Du)
- Phía Nam là Càn Nguyên Môn (Lý Tự Trọng - Đồng Khởi) và Lý Minh Môn  (Lý Tự Trọng - Thái Văn Lung)
- Phía Bắc là Vọng Khuyết Môn (Nguyễn Đình Chiểu - Phạm Ngọc Thạch), Cọng Thìn Môn (Nguyễn Đình Chiểu - Mạc Đĩnh Chi)
(2) 
Gia Định Báo ra đời năm 1865, đặt trụ sở tại Dinh Thượng thơ
(3) Chợ Bến Thành nguyên thủy ở vị trí Kho Bạc. Sau năm 1914, chợ được dời ra vị trí hiện tại, dân còn gọi là chợ Mới để phân biệt với chợ xưa, được gọi chợ Cũ
(4) Trích dẫn câu của Petrus Ký viết trong lời tựa giới thiệu bài 
Cổ Gia Định phong cảnh vịnh và bài Ký ức lịch sử về Sài Gòn và các vùng phụ cận

SVVN - Tốt nghiệp trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG TP. HCM) chuyên ngành Hán Nôm (khoa Văn học), Trương Thị Mỹ Dung là đồng sáng lập và điều hành dự án Ruy Băng Tím, giúp mọi người phòng chống các bệnh ung thư. Dự án từng xuất bản đầu sách “Ung thư Tin đồn và Sự thật 1” lọt top những sách bán chạy trên thị trường năm 2019. Mỹ Dung đồng thời cũng là tác giả của nhiều đầu sách cho thiếu nhi.

Tìm đam mê từ thiện nguyện

Dung đã từng làm biên tập viên tạp chí, copywriter cho công ty truyền thông. Dung cũng đã kinh qua vai trò quản lý Nội dung rồi quản lý bộ phận Nội dung và Truyền thông mạng xã hội của các công ty khác nhau. Năm 2017, Dung từng làm Giám đốc điều hành một startup về công nghệ.

Từ chuyên ngành Hán Nôm, công việc đầu tiên mà Dung nhận được là vào học kỳ II của năm thứ 4, đó là dịch sổ bộ cho một dự án nghiên cứu của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Sau khi tốt nghiệp, Dung làm biên tập viên cho một tạp chí liên quan về văn hóa - học thuật. Nhưng sau đó nữa, Dung dần chuyển sang lĩnh vực truyền thông và tự học hỏi, phát triển bản thân dựa vào công việc thực tế mà mình đảm nhiệm. Hiện tại, lĩnh vực sở trường của Dung là sản xuất nội dung và truyền thông mạng xã hội. “Dù nhìn từ bề ngoài thấy công việc mình đang làm không liên quan đến ngành học đại học trước đây, nhưng bản thân mình nhận thấy, ngành Hán Nôm đã cho mình một nền tảng vững chắc về chữ nghĩa, văn hóa lịch sử Việt Nam. Chính nhờ vậy mà mình gặp nhiều thuận lợi trong quá trình thích nghi và phát triển bản thân trong ngành truyền thông. Đồng thời, bên cạnh việc hoàn thành công việc của mình, bản thân có thể góp thêm chút ít trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc”, Mỹ Dung chia sẻ.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 1Ban Quản trị Ruy Băng Tím ngày đầu thành lập. Từ trái qua: ThS. Nguyễn Cao Luân, Trương Thị Mỹ Dung và BS Đặng Phước Hưng

Dung cho biết, việc tham gia những dự án xã hội và định vị được bản thân trên hành trình hoạt động cộng đồng cũng là một hành trình thú vị mà cô đã trải nghiệm.

Ban đầu, ở trường, Dung tham gia vào Liên chi hội sinh viên, rồi các câu lạc bộ như CLB Văn học, CLB Thư pháp… sau đó, ra trường Dung hay tham gia vào những chương trình thiện nguyện do thầy cô ở trường đại học tổ chức hoặc do công ty tổ chức. “Mình thực hiện điều này một cách rất tự nhiên, không suy tính cũng chẳng đắn đo. Có lẽ vì từ thuở nhỏ, mình đã sống trong một môi trường gia đình mà việc cho đi hay giúp đỡ người khác là chuyện hiển nhiên”, Dung tâm sự.

Cũng trong những chuyến đi thiện nguyện đó, Dung bắt đầu quan sát và đặt ra nhiều câu hỏi: Làm sao để những chuyến đi như thế này đạt hiệu quả cao nhất? Làm sao để những chuyến đi như thế này không còn là phong trào mà trở nên lâu dài? Làm sao thoát ra khỏi tâm lý xin - cho của việc làm từ thiện từ cả hai phía cho và nhận?...

20210117
Mỹ Dung trong vai trò chủ trì (host) trong talkshow "Hormone hạnh phúc" được Ruy Băng Tím thiết kế dành cho các bạn sinh viên trường ĐH Kinh tế - Tài chính TP. HCM (UEF) ngày 30/12/2020.

Rồi Dung tham gia CLB Bé Khỏe Bé Ngoan của ĐH Y Dược TP. HCM vào năm 2012 - 2013 với vai trò Trưởng ban Truyền thông. Đến cuối năm 2015, Mỹ Dung và ThS Nguyễn Cao Luân (Nghiên cứu sinh ngành Liệu pháp miễn dịch Ung thư, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Lowy, ĐH New South Wales, Sydney, Úc) lập nên dự án Ruy Băng Tím. Đây chính là thời điểm mà Dung cho rằng, mọi trăn trở của bản thân đã có câu trả lời.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 3Mỹ Dung và 5 bạn trong Ban Tổ chức talkshow của Ruy Băng Tím tại UEF. 

Trăn trở cùng “Ruy Băng Tím” 

Cho đến nay, Ruy Băng Tím đã hoạt động được hơn 5 năm và là dự án xã hội mà Dung xác định từ đầu sẽ theo lâu dài với tất cả tâm trí của mình. Ở Ruy Băng Tím, Dung và các cộng sự làm tất cả để nâng cao nhận thức của cộng đồng về bệnh ung thư, cung cấp thông tin, kiến thức hữu ích dưới nhiều hình thức khác nhau để mọi người hiểu được cách phòng bệnh, nắm được những phương pháp điều trị chính thống, không bị dắt mũi bởi những kẻ lừa đảo, đặc biệt là nắm được kỹ năng phân biệt tin thật - giả liên quan đến sức khỏe, đặc biệt là ung thư. “Chuyên mục làm nên thương hiệu của Ruy Băng Tím 5 năm qua là “Ung thư - tin đồn & sự thật”. Ở chuyên mục này, các chuyên gia của Ruy Băng Tím chuyên viết bài tổng hợp các nghiên cứu và phân tích những vấn đề nổi cộm, những tin đồn liên quan đến phòng ngừa và điều trị ung thư như kiềm hóa cơ thể để chữa ung thư, uống nước đun sôi để nguội gây ung thư, lá đu đủ chữa ung thư, lò vi sóng gây ung thư… Cuốn sách đã tổng hợp những bài viết có sẵn trong chuyên mục này lại, rồi biên soạn lại theo một cấu trúc rõ ràng và dễ tiếp cận hơn, văn phong cũng được điều chỉnh cho phù hợp với loại hình thể hiện mới là sách. Cách trình bày cũng được quan tâm với nhiều hình ảnh minh họa, in màu để mọi người cảm thấy không nặng nề với những nội dung về y - khoa học mà sách chuyển tải”, Dung cho biết.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 4Talkshow offline đầu tiên của Ruy Băng Tím tổ chức vào ngày 08/01/2017.

Vượt ngoài mong đợi, cuốn sách tạo nên một hiện tượng trong lĩnh vực sức khỏe nửa cuối năm 2019 và cuốn sách đã tạo đà để Dung và các cộng sự của Ruy Băng Tím đã thực hiện những sổ tay sức khỏe năm 2020 và ấp ủ những dự án sách sức khỏe tiếp theo trong năm 2021.

Mê viết cho thiếu nhi

Dung có thiên hướng văn chương từ bé và bắt đầu viết lách rất sớm. Ngay từ lúc đi học Dung đã có tác phẩm được đăng báo và thậm chí có năm còn đoạt giải, được ra Hà Nội để nhận thưởng. Lúc đó Dung hay viết tản văn và truyện ngắn. Lên đại học, lại được học trong khoa Văn học với CLB Văn học quy tụ nhiều cây bút cá tính, Dung như cá gặp nước, được viết nhiều hơn. Tuy nhiên, đến khi ra trường, thì Dung lại viết ít lại mà dành thời gian cho sự trải nghiệm. “Bước ngoặt đến với mình vào năm 2014, khi được tham gia Hội thảo sáng tác do Room to Read - một tổ chức phi chính phủ về giáo dục tổ chức. Ở đó, mình được biết đến loại hình sách tranh dành cho thiếu nhi, chú trọng vào phát triển trí tưởng tượng và ước mơ cho trẻ nhỏ, việc cung cấp thông tin, kiến thức được thực hiện một cách tinh tế và nhẹ nhàng, khiến cho các bạn nhỏ hứng thú và khơi dậy trí tò mò với cuộc sống. Từ hội thảo cho đến dự án sách tranh đầu tiên với Room to Read, mình đã có được kiến thức nền tảng về việc viết cho thiếu nhi. Những bài học đạo đức chưa cần xuất hiện dưới dạng những lời khuyên mà chỉ cần thấp thoáng đâu đó giữa những câu chuyện và tự các em sẽ rút ra được những điều thú vị cho bản thân mình. Mình cũng biết cách làm việc với họa sĩ để có được những cuốn sách tranh đẹp và hấp dẫn”, Dung nhớ lại cơ duyên viết sách thiếu nhi của mình.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 5Một số đầu sách tranh dành cho thiếu nhi của Mỹ Dung.

Cho đến nay, Dung đã kết hợp với các nhà xuất bản được một số đầu sách tranh: Su đi lấy nước, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2019; Kiến đen tìm mè, sách tranh, NXB Kim Đồng, 2018 (thuộc bộ sách Từ những hạt mầm); Hột điều của Sóc, sách tranh, NXB Kim Đồng, 2018 (thuộc bộ sách Từ những hạt mầm); Sớm mai, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2017 (Giải thưởng White Ravens); Gà Trống muốn ngủ nướng, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2016; Cậu có lấy hạt của tớ không?, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2015.

Trong năm nay, Dung đang ấp ủ hai dự án sách tranh mới. “Đây là những dự án sách được mình dành rất nhiều tâm huyết từ nội dung cho đến hình thức, cả những ý tưởng tương tác với bạn đọc nhí để đem đến cho các bạn nhiều hứng thú hơn khi đọc sách. Qua đó, mình mong rằng sẽ góp phần nuôi dưỡng được tình yêu và thói quen đọc sách từ lúc còn thơ bé cho các bạn nhỏ”, Dung phấn khởi chia sẻ.

Thời sinh viên Dung từng giành giải Ba Euréka lần thứ 8 năm 2011 do Thành Đoàn TP. HCM trao tặng, với chủ đề “Sưu tầm, nghiên cứu và phiên dịch di sản Hán Nôm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng”.

Hà Chi

Nguồn: Sinh viên Việt Nam, ngày 13.01.2021.

Thông tin truy cập

61765214
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
5404
18932
61765214

Thành viên trực tuyến

Đang có 492 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website