1.

Có thể nói, các khái niệm: chữ quốc ngữ, báo chí, công chúng (public) và nền văn học mới chỉ đến với Việt Nam trong giai đoạn Pháp thuộc, khi xã hội này đã bắt đầu chuyển sang mô hình hiện đại. Ở đó, việc dạy và học để biết chữ; việc in ấn, mua bán và đọc báo; việc truyền bá và thưởng thức tác phẩm văn học … đã trở thành   một nhu cầu thực sự của đông đảo của người dân và là một hoạt động phổ biến toàn xã hội.

GS. NGND Hoàng Như Mai

1. Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, là Lý Thái Tổ. Việc đầu tiên Lý Thái Tổ làm là dời đô từ Hoa Lư - kinh đô cũ của các triều Đinh, Lê - ra thành Đại La và thành Đại La được đổi tên thành Thăng Long. Việc làm này mang một ý nghĩa trọng đại: Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên”. Thủ đô là bộ mặt, bộ não của đất nước, đặt tên cho thủ đô là Thăng Long, Lý Thái Tổ muốn mở ra một vận hội mới cho đất nước thành một quốc gia có vị trí hiên ngang trong khu vực, mở ra một tương lai bền vững lâu dài.

Lâu nay đọc các ý kiến bàn về tiểu thuyết, bên cạnh những tên tuổi như Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Vũ Bằng… chúng ta thấy các nhà nghiên cứu hay nhắc đến Trúc Hà với bài Lược khảo về sự tiến hoá của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết in trên Nam Phong tạp chí năm 1932. Bài phóng sự Hội chợ năm nay có những gì? của ông cũng được chọn in trong tuyển tập Phóng sự Việt Nam 1932-1945 do Nxb.Văn học ấn hành năm 2000. Nhưng có lẽ ít ai biết Trúc Hà lại là một nhà văn quê tận Hà Tiên, miền cực Tây Nam của đất nước, một trong Hà Tiên tứ tuyệt (gồm Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê, Trúc Hà) lừng lẫy một thời.

Phải nói rằng người đề cao tột bậc phong trào Thơ mới là nhà phê bình Hoài Thanh, tác giả Thi nhân Việt Nam (1942). Nhưng cũng không ai khác, chính Hoài Thanh cũng là người tiên cảm sớm nhất chỗ dừng lại, hay nói đúng hơn là số phận của Thơ mới. Tác giả viết với một tâm trạng bùi ngùi rằng: "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ra đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh (...). Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thuở trước", "... ta thấy thiếu một điều cần hơn trăm nghìn điều khác, một lòng tin đầy đủ". Tác giả Thi nhân Việt Nam gọi hẳn đó là "bi kịch". Liệu có một giải pháp nào để cứu vãn bi kịch đó không ? Hoài Thanh vừa tiên liệu, vừa đề xuất: Tìm vào tình yêu tiếng Việt, vào tinh thần nòi giống, vào "dĩ vãng để vin". Con đường vận hành của Thơ mới (1932 - 1941) là quá trình đi tới sự trọn vẹn, hoàn tất ngay trong bản thân nó. Trong sự sung mãn và phong phú tận độ của cái tôi thơ mới đã bắt đầu vẳng lên hồi chuông báo động vế số phận lịch sử của nó. Cho nên như một tất yếu, vào những năm 1941 - 1942, được coi là những năm cuối của phong trào Thơ mới, đã xuất hiện một đôi tiếng nói khác lạ, đi chệch khỏi con đường đi của Thơ mới. Thực chất đây là một sự tự thức tỉnh, một nhu cầu muốn cải tạo thơ ca hiện hành, để tìm một tiếng thơ khác hơn. Xuân Thu nhã tập (XTNT) ra đời nhờ sự tự ý thức ấy và đã nồng nhiệt trình bày quan niệm của mình.

 

   

1. Trong lịch sử của dân tộc ta có nhiều nhân vật được người đời tôn vinh với nhiều danh vị khác nhau mà những vinh danh đó đều rất xứng đáng cả dù chúng chưa thể hiện hết và đủ tầm vóc những gì mà người đó đã cống hiến cho đời. Trần Nhân Tông chính là một trong những danh nhân đó.

Phan Mạnh Hùng

(ĐH KHXH & NV TP. HCM)

1. Tiểu thuyết Nam Bộ đầu thế kỷ XX viết về con người và lịch sử gắn với vùng đất Thăng Long – Hà Nội có các bộ Lê triều Lý thị - 1931, Tiền Lê vận mạt - 1932, Việt Nam Lý trung hưng - 1929, Trần Hưng ĐạoViệt Nam Lê Thái Tổ -1933 của Phạm Minh Kiên (? - ?), - của Nguyễn Chánh Sắt (1869-1947), Nặng gánh cang thường - 1930 của Hồ Biểu Chánh (1885-1958)(1). Đây là những bộ tiểu thuyết lấy cảm hứng từ lịch sử dân tộc và được viết bằng chữ Quốc ngữ La tinh, thể hiện tinh thần “trời Nam thương nhớ đất Thăng Long” của các nhà văn xuất hiện vào giai đoạn tương đối sớm ở Nam Bộ. Nội dung các bộ tiểu thuyết này tập trung vào hai vấn đề chính là xây dựng đất nước và chống ngoại xâm của dân tộc ta từ thế kỷ X đến thế kỷ XV, trải qua các triều đại Lý, Trần, Lê, với các danh nhân lịch sử Lý Công Uẩn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Ngô Sĩ Liên… Thiết nghĩ, lịch sử ngàn năm của dân tộc không phải là lịch sử của riêng Thăng Long – Hà Nội, nhưng trong bao lớp thăng trầm hưng phế của các thời đại, triều đại, Thăng Long – Hà Nội luôn là tâm điểm của lịch sử, là biểu tượng của sức mạnh và sự thống nhất đất nước. Đầu thế kỷ XX, trong điều kiện đất nước bị thực dân xâm lược, các nhà văn Nam Bộ đã làm sống lại những chặng đường, sự kiện lịch sử hào hùng và cũng là một cách thể hiện tinh thần dân tộc, qua đó góp phần khơi gợi, cổ vũ các phong trào đấu tranh yêu nước đang ngày càng sục sôi của đồng bào cả nước. Lần giở lại các trang viết này, chúng ta sẽ thấy được ý thức và tình cảm của các nhà văn Nam Bộ đầu thế kỷ XX đối với lịch sử ngàn năm của dân tộc.

Phan Mạnh Hùng (*)

TÓM TẮT

 

Phiên dịch quốc ngữ đã đóng một vai trò kiến tạo to lớn trong quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam cũng như các nước khác ở Châu Á đầu thế kỷ XX. Ở Nam Kỳ phong trào phiên dịch tiểu thuyết truyền thống Trung Hoa diễn ra sôi nổi. Phong trào dịch thuật ấy đã có ảnh hưởng đối với khuynh hướng sáng tác tiểu thuyết lịch sử, một trong những khuynh hướng nổi bật của văn chương Nam Kỳ đầu thế kỷ XX. Trong bài viết này, chúng tôi tìm hiểu cơ chế chuyển đổi, giao lưu và tương tác, sự ảnh hưởng của hoạt động phiên dịch tiểu thuyết lịch sử Trung Hoa và sáng tác tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong đời sống văn hóa lịch sử Nam Kỳ đầu thế kỷ XX.

Con đường văn học của Nguyễn Quang Sáng đã được bắt đầu từ những năm năm mươi. Nhưng sự nghiệp văn học của ông được khẳng định chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Người ta nhớ đến một Nguyễn Quang Sáng với một bút pháp linh hoạt mà mộc mạc chân chất, đằm thắm qua những tác phẩm như Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch, Mùa gió chướng và sau này là Dòng sông thơ ấu...

Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định giá trị tư tưởng, nghệ thuật khác nhau của Vũ Trọng Phụng. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định tác phẩm của ông là "niềm căm uất không nguôi" cái xã hội "chó đểu" thời thuộc Pháp (Nguyễn Đăng Mạnh), là "ngón đòn đả kích cay độc cái xã hội tư sản bịp bợm" (Nguyễn Hoành Khung). Nhiều người cũng khẳng định ông là " một tài năng hiếm thấy" (Trần Hữu Tá), "một sức sáng tạo nhiệm màu" (Lưu Trọng Lư), có những trang viết có thể "làm vinh dự cho mọi nền văn học" (Nguyễn Khải) với một "bút lực ghê gớm và dữ dội" (Nguyễn Quang Sáng)... Nhưng còn có một phương diện khác trong tư tưởng - nghệ thuật của ông buộc chúng ta không thể không bàn đến. Đó là nỗi trăn trở về nghĩa lý cuộc đời.

Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận dân tộc ta vốn có tinh thần dân chủ và sống phóng khoáng nên từ khi Tam giáo vào Việt Nam, cha ông ta đã biết tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến chúng thành cái của mình, phù hợp với điều hiện và hoàn cảnh sống của mình, phục vụ cho mình.

         

Trong các nhà văn Nam Bộ đầu thế kỷ XX, có lẽ Đông Hồ và Mộng Tuyết, đôi thi sĩ đất Hà Tiên, là hai người có nhiều tình cảm, gắn bó nhất đối với miền Bắc, với Thăng Long – Hà Nội. Có phải vì quê hương ở mảnh đất cực Tây của đất nước, giáp với biên giới xứ người, nên ý thức về tổ quốc luôn thường trực trong tâm hồn họ? Nhìn cảnh sắc Hà Tiên,  Đông Hồ như nhìn thấy một đất nước thu nhỏ: “Có một ít hang sâu động hiểm của Lạng Sơn. Có một ít ngọn đá chơi vơi giữa biển của Hạ Long. Có một ít núi vôi của Ninh Bình, một ít thạch thất sơn môn của Hương Tích. Có một ít Tây Hồ, một ít Hương Giang. Có một ít chùa chiền của Bắc Ninh, lăng tẩm của Thuận Hoá. Có một ít Đồ Sơn Cửa Tùng, một ít Nha Trang Long Hải” (1).

 1. Phan Thị Bạch Vân và Nữ lưu thư quán Gò Công:

Trong bài Xét về sự sinh hoạt của phụ nữ nước ta trên báo Phụ nữ Tân Văn  (PNTV) số 5 - 1929, Phan Khôi có viết một câu như sau: “Mới vài ba năm nay, trong xã hội ta, nhứt là trong làng ngôn luận, có nứt ra một danh từ mới mà nhiều người lấy làm chú ý, ấy là “vấn đề phụ nữ””.

Cách dùng “nứt ra một danh từ mới” rất ngộ nghĩnh của Phan Khôi cho thấy ấn tượng về sự khai sinh “vấn đề phụ nữ” vào những năm đầu thế kỷ XX. Với sự khai sinh này, lần đầu tiên, tinh thần phụ nữ từ chỗ là phát hiện của một trào lưu xã hội đến chỗ hình thành nền văn hóa tri thức mới với “thế lực phụ nữ”[1].

TS. Nguyễn Kim Châu

 

Khoa Khoa học xã hội và nhân văn

 

Đại học Cần Thơ

1. Trong Thiền Tông chỉ nam tự,[1] Trần Thái Tông có nhắc lại câu chuyện ông từng đang đêm trốn khỏi hoàng cung, vượt suối trèo đèo lên Yên Tử. Vị vua nổi tiếng này, lòng nặng trĩu ưu tư vì ở ngôi cao khi còn rất trẻ, lại mất đi những người thân yêu nhất và bị chi phối ghê gớm bởi Trần Thủ Độ, một chính khách đầy quyền uy, đã đến gặp nhà sư trụ trì thỉnh cầu thành phật. Sư trả lời: “Trong núi vốn không có Phật. Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu đó chính là chân phật, không cần khổ công tìm kiếm bên ngoài”. Nội dung bài tựa nổi tiếng này còn cho biết rằng sau đó Thái Tông trở về triều tiếp tục làm vua và cần mẫn tham cứu đạo thiền hơn 10 năm cho đến khi bất ngờ đọc đến câu “Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” trong kinh Kim Cương thì “khoát nhiên tự ngộ”. Cách nói này rất phổ biến trong các thiền thoại, cho biết rằng khoảnh khắc ngộ thường chợt đến do một cú sốc tâm lý đột ngột, một lực tác động ngẫu nhiên hay một biến cố bất ngờ. Thật thú vị khi đọc thấy trong Cảnh Đức truyền đăng lục vài chi tiết về cuộc đời Lục tổ Huệ Năng có phần trùng hợp với lời tự thuật của Trần Thái Tông. Sách ghi nhận rằng thời trẻ, Huệ Năng phải làm việc cực nhọc, “đốn củi  đem bán nuôi mẹ, ngày nọ nhân gánh củi qua chợ, chợt nghe có người khách đọc kinh Kim Cương đến câu Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm đâm ra cảm ngộ”[2]. E rằng câu chuyện nêu trên có phần huyễn hoặc, một cách thần thiêng hóa khoảnh khắc tự ngộ như là kết quả của sự mặc khải huyền diệu thường thấy trong điển thoại của các học thuyết tôn giáo tin tưởng vào một quyền năng siêu nhiên có thể bất ngờ dùng phép lạ khai sáng tâm trí, cứu vớt linh hồn con người. Hoặc giả đó là biến thể cực đoan hóa do người sáng tạo câu chuyện trên chịu ảnh hưởng khá thụ động từ thiền thoại “Thế Tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu”?

Văn học Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng dứt khoát phải thể hiện giáo lý nhà Phật, mà cụ thể là thể hiện vấn đề về bản thể luận, về giải thoát luận và những con đường tu chứng. Để biểu lộ nội dung trên,văn học Phật giáo phải có một nghệ thuật tương xứng. Ở bài viết này sẽ đề cập mấy nét đặc sắc về nghệ thuật của văn học Phật giáo. Khi trình bày vấn đề,chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.

VU GIA[1]

Nói đến ngàn năm Thăng Long, phần lớn người dân Việt Nam đều nghĩ đến cả ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nói đến triều đại nhà Lý, phần lớn người dân Việt Nam đều nhớ đến bài thơ Thần chống giặc giữ nước. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì “Mùa xuân, tháng 3 (1076), nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1.000 người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta. Người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, mục Khuông Việt Đại sư truyện chép: “(Thiên Phúc) thất niên, Tống nhân Nguyễn Giác lai sính, thời Pháp sư Đỗ Thuận diệc hữu thạnh danh, Đế mệnh biến phục vi giang lệnh, nghinh ư Giang Khúc. Giác kiến kỳ thiện ư văn đàm, dĩ thi tặng chi, hữu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” chi cú. Đế dĩ thị sư, đối viết: ‘Thử tôn Bệ hạ dữ kỳ chủ bất dị’. Giác hoàn, sư tác từ viết Ngọc lang quy tống chi, kỳ từ vân: ‘Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, thần tiên phục đế hương. Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương, cửu thiên quy lộ trường. Nhân tình thảm thiết, đối ly thương. Phan luyến tinh tinh lang, nguyện tương thâm ý vị nam cương, phân minh báo ngã hoàng’ ”.

Nguyễn Thị Phương Thuý

Khoa Văn học và Ngôn ngữ,

Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM

Lịch sử văn học, báo chí quốc ngữ nửa đầu thế kỳ XX đã quen thuộc với việc nhiều nhà văn, nhà hoạt động báo chí miền Bắc, miền Trung vào Nam gây dựng sự nghiệp và trở thành những cây bút lừng danh. Báo chí miền Nam thời đó có những tờ là nơi tụ hội của các tác giả đang sinh sống trên khắp ba miền. Trong khi đó, hiếm có nhà văn miền Nam nào lại chọn báo chí miền Bắc làm nơi góp tiếng. Có thể bởi Sài Gòn – Gia Định vốn là vùng đất mới phóng khoáng và năng động, dễ đón nhận cái mới từ phương xa nên cũng dễ chấp nhận sự khác biệt và đa dạng của những vùng miền trong nước, không chỉ trên lĩnh vực văn chương mà còn cả trong lối sống và sinh hoạt. Ngược lại Hà Nội từng là kinh kỳ ngàn năm, có niềm kiêu hãnh và khép kín riêng. Hơn nữa, trong cái nhìn của các nhà văn miền Bắc thời bấy giờ, văn chương Nam bộ không được gọi là văn chương. Họ đã từng “bỏ  quên” văn học Nam bộ ngay trong những ngày nó phát triển thịnh vượng nhất.

Hà Tiên là miền đất được mở mang cuối cùng thể hiện ý chí đấu tranh khắc phục thiên nhiên, bảo vệ giang sơn bờ cõi. Đất nước và con người ở đây trong thế đi lên, tràn đầy sức sống. Vì thế, thơ văn ít bị hạn chế bởi hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến, mà thấm đượm tình quê hương đất nước và ý chí độc lập tự cường của những người lãnh đạo đầy chí tiến thủ và của nhân dân Hà Tiên.

Văn nghiệp mà Phan Văn Trị để lại không nhiều. Qua bao phen binh lửa di văn của ông hiện còn ngót trăm bài thơ, một ít câu đối. Nhưng chỉ với bấy nhiêu thôi cũng đủ cho chúng ta hiểu thấu tấm lòng luôn luôn đau đáu nỗi niềm :

                Chưa trả thù nhà, đền nợ nước

 

                Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ.

 

                              (Tự thuật – Bài II)

42 năm ngày mất Đông Hồ
Đông Hồ (1906 – 1969) là một tác gia lớn ở miền Nam, đã làm thơ từ những năm 20 cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. Ở Nam kỳ, nói đến thơ người ta nghĩ đến Đông Hồ, cũng như nói đến tiểu thuyết người ta nghĩ ngay đến Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958). Không chỉ sáng tác thơ, Đông Hồ còn viết văn xuôi và nghiên cứu văn học. Ngoài ra ông lại là nhà thư pháp chữ quốc ngữ và là nhà giáo. Ông từng làm giáo học, từng lập Trí Đức học xá để dạy quốc văn và vào cuối đời dạy văn học Hà Tiên ở trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ở mỗi lĩnh vực, Đông Hồ đều có những điểm đáng nói. Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của Đông Hồ, tôi muốn nhìn lại ông như là nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học.
Trước hết, về thơ, cũng như các nhà thơ khác trước 1932, Đông Hồ làm thơ Đường luật. Bài lệ ký Linh Phượng khóc vợ của ông đăng trong tạp chí Nam Phong số 128 tháng 4 năm 1928, có nhiều bài thơ, đáng kể là bài Khóc Linh Phượng:
                Chăn gối cùng nhau những ấm êm
                Bỗng làm ngọc nát bỗng châu chìm.
                Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm
                Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm
                Hình dạng mơ màng khi thức ngủ
                Tiếng hơi quanh quẩn nét y xiêm.
                Bảy năm vui khổ nghìn năm biệt
                Sớm gió chiều mưa lắm nỗi niềm.

Đối với chúng ta ngày nay, những dụng ngữ xưa cũ như chăn gối, ngọc nát, châu chìm, đầm đìa giọt thảm, khi thức ngủ, nếp y xiêm, sớm gió, chiều mưa làm cho bài thơ có tính sáo mòn và ước lệ. Tuy nhiên, trong lề lối ràng buộc của thơ cũ và ở thời điểm sáng tác của nó, bài này có lời thơ lâm ly và trang nhã, làm cảm động lòng người. Nhà văn Thượng Chi đã so sánh Linh Phượng ký khóc vợ của Lâm Trác Chi với Tế thập nhị lang văn khóc cháu của Hàn Thoái Chi tức Hàn Dũ đời Đường. So sánh như vậy không tương xứng, nên ít ai tán đồng. Thường thì người ta so sánh bài lệ ký Linh Phượng của Đông Hồ với một tác phẩm ra đời xấp xỉ đồng thời là bài văn xuôi pha biền ngẫu Giọt lệ thu (viết năm 1923, đăng báo Nam Phong số 131 tháng 7 – 1928) khóc chồng của nữ sĩ Tương Phố.
Năm 1932, năm khởi đầu của phong trào thơ mới, ông xuất bản tập Thơ Đông Hồ, trong đó có nhiều bài đã đăng ở tạp chí Nam Phong. Nói chung, những bài trong tập này vẫn giữ đặc điểm cố hữu là lời trang nhã với chữ sáo và ý cổ. Đông Hồ đã có người bạn đời mới, nhưng bài Tục huyền cảm tác của ông vẫn nhuốm màu sắc ảm đạm với giọng thơ ai oán như trong Linh Phượng ký:
                Chim Linh Phượng một bay chẳng lại,
                Nhà độc thê mực vẩy lệ sầu
                Gió mưa hai độ xuân thu,
                Khắp trông non nước toàn màu thê lương.
Thế mới hay con tim nhà thơ vẫn còn chỗ dành cho người vợ cũ vắn số.
Bài hay nhất trong tập Thơ Đông HồTuổi xuân, sau tác giả lại đưa vào tập Cô gái xuân. Đây là bài thơ ngũ ngôn tự sự, có cả đối thoại, dài 100 câu, nhiều đoạn rất đặc sắc:
              Này anh: buổi thư nhàn
              Em dạy anh học đàn.
              -    Học đàn khó! – Đâu khó!
              -    Chỉ đôi tiếng nhặt khoan!…”
             Khoan nhặt đôi đường thơ
             Lay động đôi lòng tơ
             Gảy nên khúc Tình ái
             Khúc dứt, lòng ngẩn ngơ
             Buông bắt trên tơ trúc
            Nhìn em năm ngón ngọc
            Năm búp măng nõn nà
            Mãi nhìn, đàn chửa thuộc…

Có thể nói, Tuổi xuân là một bài thơ mới lạc bước vào vườn thơ cũ. Đọc bài này, người ta không thể không liên tưởng đến những bài ngũ ngôn tự sự Giận nhau, Em đương thêu của Nguyễn Xuân Huy (1).
Sau tập Thơ Đông HồCô gái xuân (1935). Tập thơ này tuy vẫn giữ vần điệu trang nhã của thơ cũ, nhưng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thơ mới. Bài Cô gái xuân có những đoạn cực tả sự hồn nhiên, ngây thơ của một thiếu nữ xuân thì, chẳng hạn:
            Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,
            Lòng cô phất phới biết bao tình.
            Vội vàng để vở bên bờ cỏ
            Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
            Áo trắng khăn hồng gió phất phơ,
            Nhẹ nhàng vui vẻ nét ngây thơ.
           Trông cô hớn hở như đàn bướm
           Thong thả trời xuân mặc nhởn nhơ.

Bài Mua áo có những câu tả tình yêu một cách bóng bẩy mà táo bạo. Nàng nhờ  chàng mua áo, chàng hỏi kích thước. Nàng trả lời vừa ý nhị vừa âu yếm, không giữ gìn, cũng không e thẹn:
            Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
            Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
             Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
            Ngắn dài, người mới tựa bên vai!

Một bài khác nữa cũng rất tình tứ là bài Bốn cái hôn. Đây là lời một cô gái xuân nói lên cảm giác của nàng về cái hôn của mẹ, của cha, của cô giáo và của người yêu. Trong khung cảnh trăng nước thơ mộng, cái hôn của người yêu khiến cô gái xuân rung động đến tột độ. Cảnh ấy, tình ấy được nói bằng thứ ngôn ngữ tình tự, lãng mạn, có chiều lả lơi mà vẫn trong sáng:
            Nay em đang giữa cảnh đêm xuân,
            Gió trăng tình tứ đêm thanh tân.
            Trước vùng trời biển cảnh lồng lộng,
            Cùng anh trao đổi tình ái ân.
            Khoác tay anh đi trên bãi cát
            Cát bãi trăng soi màu trắng mát.
            Nghiêng đầu lơi lả tựa vai anh,
            Lặng nghe sóng bãi đưa rào rạt.
            Nước mây êm ái bóng trăng sao,
            Say sưa em nhìn lên trời cao,
            Buông khúc đàn lòng theo nhịp gió.
            Giờ phút thần tiên, hồn phiêu dao.
            Một hơi thở mát qua, dịu dàng,
            Như cơn gió biển thoảng bay ngang,
            Rồi luồng điện ấm chạm trên má:
            Ân ái môi anh kề nhẹ nhàng.
            Nũng nịu, em ngả vào lòng anh

Đọc bài này, Hoài Thanh nhận định: “Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng” (2).
Đông Hồ còn tiếp tục sáng tác thơ cho đến những năm cuối cùng của đời ông và vẫn giữ lề lối cũ: tứ thơ cổ kính được chuyển tải bằng những lời trang nhã, trau chuốt. Chúng ta thử đọc thêm một đoạn trong bài Lòng quỳ hoa cúc, một trong những bài thơ cuối cùng của thi sĩ, làm năm 1968:
           Ngày xuân vắng ánh trời hồng
           Còn đây hoa cúc thay lòng hướng dương
           Mỹ nhân hề thiên nhất phương
           Gặp nhau đây tám nẻo đường chiêm bao
           Mây êm nước lặng nhàn phiêu lãng
           Hoa rụng chim kêu bướm cảm hoài
           Khi biệt dễ dàng khi gặp khó
           Chốn vui ai nhớ chốn sầu ai.

Ngoài sự nghiệp sáng tác, Đông Hồ còn để lại vài công trình nghiên cứu: Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong 107 tháng 7/1926, số 143 tháng 10/1929), Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên (Nhà xuất bản Quình Lâm, Sài Gòn, 1970).
Hà Tiên Mạc thị sử là một tập biên khảo lịch sử, địa chí, văn học rất công phu về họ Mạc ở Hà Tiên, những người đã có công khai phá, mở mang và xây dựng vùng cực nam của đất nước thành một nơi trù phú, văn vật. Mặt khác, tập biên khảo này còn cung cấp cho chúng ta những tài liệu văn học quí báu về nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên. Đánh giá công trình này, Lê Chí Dũng viết: “Có thể ghi công cho Đông Hồ về mặt sưu tầm, khảo cứu văn liệu: tập Hà Tiên Mạc thị sử nói về nhóm Chiêu Anh Các và thơ của nhóm này giúp người nghiên cứu có tài liệu về văn học buổi sơ khai tận cùng phía Nam đất nước, khẳng định sự thống nhất của văn học và văn hóa dân tộc Việt Nam” (3).
Năm 1970, để tưởng niệm Đông Hồ nhân lễ giỗ đầu của nhà thơ, nữ sĩ Mộng Tuyết đã làm một việc rất có ý nghĩa là tập hợp những bài giảng của Đông Hồ ở trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, nơi ông đã ngã xuống trong lúc đang giảng dạy, cho ấn hành thành tập Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên. Có thể nói công trình biên khảo này là kết quả của việc tiếp tục nghiên cứu tường tế hơn vấn đề ông đã làm với Hà Tiên Mạc thị sử 40 năm trước. Nhan đề là “Văn học miền Nam” nhưng thực ra chỉ là văn học Hà Tiên, và nói cho chính xác thì chỉ là văn học của thi phái Chiêu Anh Các. Phần nghiên cứu tính cách đặc thù của văn học miền Nam, đất nước Hà Tiên, các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của thi phái Chiêu Anh Các rất công phu. Phần dịch thơ chữ Hán ra văn xuôi sát nghĩa, chú thích thành ngữ, điển tích rõ ràng, những bài dịch thơ lột tả được tình ý nguyên tác, đúng niêm luật, đối rất chỉnh, lời thật đẹp.
Hai công trình sưu tầm, nghiên cứu kể trên là những cống hiến quí báu của Đông Hồ vào việc tìm hiểu lịch sử, đất nước và văn học Hà Tiên buổi đầu mới khai phá, mở mang, đồng thời cũng biểu lộ tình yêu quê hương sâu đậm của tác giả.
Là nhà nghiên cứu, Đông Hồ làm việc cẩn thận, nghiêm túc và hoàn thành được những công trình có giá trị. Nhưng con người nghiên cứu của ông lu mờ bên cạnh con người thơ. Đông Hồ trước sau vẫn là một thi nhân, hay đúng hơn, một thi gia tài hoa, giàu tình cảm, nhất là tình cảm uỷ mị. Ngay cả lúc ông ngã xuống trong một giảng đường đại học, ông cũng đang ngâm dang dở một bài thơ. Thơ ông và con người ông là một. Ông trau chuốt lời thơ cũng như ông cẩn thận trong cách ăn mặc. Thơ ông thanh tao, người ông nho nhã và có dáng vẻ một tao nhân mặc khách, dù ông mặc complet hay quốc phục. Một đời làm thơ, Đông Hồ có một vị trí quan trọng, nổi bật trên thi đàn.


CHÚ THÍCH
1.    Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb. Thiều Quang, Sàigòn, 1967, tr. 351- 353.
2.    Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, sđd, tr.337.
3.    Từ điển văn học, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1983, tr 26.

Thông tin truy cập

66250750
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
15348
19896
66250750

Thành viên trực tuyến

Đang có 356 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website