VU GIA[1]

Nói đến ngàn năm Thăng Long, phần lớn người dân Việt Nam đều nghĩ đến cả ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc. Nói đến triều đại nhà Lý, phần lớn người dân Việt Nam đều nhớ đến bài thơ Thần chống giặc giữ nước. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, thì “Mùa xuân, tháng 3 (1076), nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ làm Chiêu thảo sứ, Triệu Tiết làm phó, đem quân 9 tướng, hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang xâm lấn nước ta. Vua sai Lý Thường Kiệt đem quân đón đánh, đến sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) đánh tan được. Quân Tống chết hơn 1.000 người. Quách Quỳ lui quân, lại lấy châu Quảng Nguyên của ta. Người đời truyền rằng Thường Kiệt làm hàng rào theo dọc sông để cố thủ. Một đêm quân sĩ chợt nghe ở trong đền Trương tướng quân có tiếng đọc to rằng:

Nguyễn Thị Phương Thuý

Khoa Văn học và Ngôn ngữ,

Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM

Lịch sử văn học, báo chí quốc ngữ nửa đầu thế kỳ XX đã quen thuộc với việc nhiều nhà văn, nhà hoạt động báo chí miền Bắc, miền Trung vào Nam gây dựng sự nghiệp và trở thành những cây bút lừng danh. Báo chí miền Nam thời đó có những tờ là nơi tụ hội của các tác giả đang sinh sống trên khắp ba miền. Trong khi đó, hiếm có nhà văn miền Nam nào lại chọn báo chí miền Bắc làm nơi góp tiếng. Có thể bởi Sài Gòn – Gia Định vốn là vùng đất mới phóng khoáng và năng động, dễ đón nhận cái mới từ phương xa nên cũng dễ chấp nhận sự khác biệt và đa dạng của những vùng miền trong nước, không chỉ trên lĩnh vực văn chương mà còn cả trong lối sống và sinh hoạt. Ngược lại Hà Nội từng là kinh kỳ ngàn năm, có niềm kiêu hãnh và khép kín riêng. Hơn nữa, trong cái nhìn của các nhà văn miền Bắc thời bấy giờ, văn chương Nam bộ không được gọi là văn chương. Họ đã từng “bỏ  quên” văn học Nam bộ ngay trong những ngày nó phát triển thịnh vượng nhất.

Hà Tiên là miền đất được mở mang cuối cùng thể hiện ý chí đấu tranh khắc phục thiên nhiên, bảo vệ giang sơn bờ cõi. Đất nước và con người ở đây trong thế đi lên, tràn đầy sức sống. Vì thế, thơ văn ít bị hạn chế bởi hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến, mà thấm đượm tình quê hương đất nước và ý chí độc lập tự cường của những người lãnh đạo đầy chí tiến thủ và của nhân dân Hà Tiên.

Văn nghiệp mà Phan Văn Trị để lại không nhiều. Qua bao phen binh lửa di văn của ông hiện còn ngót trăm bài thơ, một ít câu đối. Nhưng chỉ với bấy nhiêu thôi cũng đủ cho chúng ta hiểu thấu tấm lòng luôn luôn đau đáu nỗi niềm :

                Chưa trả thù nhà, đền nợ nước

 

                Dám đâu mắt lấp lại tai ngơ.

 

                              (Tự thuật – Bài II)

42 năm ngày mất Đông Hồ
Đông Hồ (1906 – 1969) là một tác gia lớn ở miền Nam, đã làm thơ từ những năm 20 cho đến những năm 60 của thế kỷ 20. Ở Nam kỳ, nói đến thơ người ta nghĩ đến Đông Hồ, cũng như nói đến tiểu thuyết người ta nghĩ ngay đến Hồ Biểu Chánh (1885 – 1958). Không chỉ sáng tác thơ, Đông Hồ còn viết văn xuôi và nghiên cứu văn học. Ngoài ra ông lại là nhà thư pháp chữ quốc ngữ và là nhà giáo. Ông từng làm giáo học, từng lập Trí Đức học xá để dạy quốc văn và vào cuối đời dạy văn học Hà Tiên ở trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Ở mỗi lĩnh vực, Đông Hồ đều có những điểm đáng nói. Nhân kỷ niệm 95 năm ngày sinh của Đông Hồ, tôi muốn nhìn lại ông như là nhà thơ, nhà nghiên cứu văn học.
Trước hết, về thơ, cũng như các nhà thơ khác trước 1932, Đông Hồ làm thơ Đường luật. Bài lệ ký Linh Phượng khóc vợ của ông đăng trong tạp chí Nam Phong số 128 tháng 4 năm 1928, có nhiều bài thơ, đáng kể là bài Khóc Linh Phượng:
                Chăn gối cùng nhau những ấm êm
                Bỗng làm ngọc nát bỗng châu chìm.
                Đầm đìa giọt thảm khăn hồng thấm
                Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm
                Hình dạng mơ màng khi thức ngủ
                Tiếng hơi quanh quẩn nét y xiêm.
                Bảy năm vui khổ nghìn năm biệt
                Sớm gió chiều mưa lắm nỗi niềm.

Đối với chúng ta ngày nay, những dụng ngữ xưa cũ như chăn gối, ngọc nát, châu chìm, đầm đìa giọt thảm, khi thức ngủ, nếp y xiêm, sớm gió, chiều mưa làm cho bài thơ có tính sáo mòn và ước lệ. Tuy nhiên, trong lề lối ràng buộc của thơ cũ và ở thời điểm sáng tác của nó, bài này có lời thơ lâm ly và trang nhã, làm cảm động lòng người. Nhà văn Thượng Chi đã so sánh Linh Phượng ký khóc vợ của Lâm Trác Chi với Tế thập nhị lang văn khóc cháu của Hàn Thoái Chi tức Hàn Dũ đời Đường. So sánh như vậy không tương xứng, nên ít ai tán đồng. Thường thì người ta so sánh bài lệ ký Linh Phượng của Đông Hồ với một tác phẩm ra đời xấp xỉ đồng thời là bài văn xuôi pha biền ngẫu Giọt lệ thu (viết năm 1923, đăng báo Nam Phong số 131 tháng 7 – 1928) khóc chồng của nữ sĩ Tương Phố.
Năm 1932, năm khởi đầu của phong trào thơ mới, ông xuất bản tập Thơ Đông Hồ, trong đó có nhiều bài đã đăng ở tạp chí Nam Phong. Nói chung, những bài trong tập này vẫn giữ đặc điểm cố hữu là lời trang nhã với chữ sáo và ý cổ. Đông Hồ đã có người bạn đời mới, nhưng bài Tục huyền cảm tác của ông vẫn nhuốm màu sắc ảm đạm với giọng thơ ai oán như trong Linh Phượng ký:
                Chim Linh Phượng một bay chẳng lại,
                Nhà độc thê mực vẩy lệ sầu
                Gió mưa hai độ xuân thu,
                Khắp trông non nước toàn màu thê lương.
Thế mới hay con tim nhà thơ vẫn còn chỗ dành cho người vợ cũ vắn số.
Bài hay nhất trong tập Thơ Đông HồTuổi xuân, sau tác giả lại đưa vào tập Cô gái xuân. Đây là bài thơ ngũ ngôn tự sự, có cả đối thoại, dài 100 câu, nhiều đoạn rất đặc sắc:
              Này anh: buổi thư nhàn
              Em dạy anh học đàn.
              -    Học đàn khó! – Đâu khó!
              -    Chỉ đôi tiếng nhặt khoan!…”
             Khoan nhặt đôi đường thơ
             Lay động đôi lòng tơ
             Gảy nên khúc Tình ái
             Khúc dứt, lòng ngẩn ngơ
             Buông bắt trên tơ trúc
            Nhìn em năm ngón ngọc
            Năm búp măng nõn nà
            Mãi nhìn, đàn chửa thuộc…

Có thể nói, Tuổi xuân là một bài thơ mới lạc bước vào vườn thơ cũ. Đọc bài này, người ta không thể không liên tưởng đến những bài ngũ ngôn tự sự Giận nhau, Em đương thêu của Nguyễn Xuân Huy (1).
Sau tập Thơ Đông HồCô gái xuân (1935). Tập thơ này tuy vẫn giữ vần điệu trang nhã của thơ cũ, nhưng đã chịu ảnh hưởng nhiều của thơ mới. Bài Cô gái xuân có những đoạn cực tả sự hồn nhiên, ngây thơ của một thiếu nữ xuân thì, chẳng hạn:
            Đàn bướm bay qua bãi cỏ xanh,
            Lòng cô phất phới biết bao tình.
            Vội vàng để vở bên bờ cỏ
            Thoăn thoắt theo liền đàn bướm xinh.
            Áo trắng khăn hồng gió phất phơ,
            Nhẹ nhàng vui vẻ nét ngây thơ.
           Trông cô hớn hở như đàn bướm
           Thong thả trời xuân mặc nhởn nhơ.

Bài Mua áo có những câu tả tình yêu một cách bóng bẩy mà táo bạo. Nàng nhờ  chàng mua áo, chàng hỏi kích thước. Nàng trả lời vừa ý nhị vừa âu yếm, không giữ gìn, cũng không e thẹn:
            Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
            Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
             Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
            Ngắn dài, người mới tựa bên vai!

Một bài khác nữa cũng rất tình tứ là bài Bốn cái hôn. Đây là lời một cô gái xuân nói lên cảm giác của nàng về cái hôn của mẹ, của cha, của cô giáo và của người yêu. Trong khung cảnh trăng nước thơ mộng, cái hôn của người yêu khiến cô gái xuân rung động đến tột độ. Cảnh ấy, tình ấy được nói bằng thứ ngôn ngữ tình tự, lãng mạn, có chiều lả lơi mà vẫn trong sáng:
            Nay em đang giữa cảnh đêm xuân,
            Gió trăng tình tứ đêm thanh tân.
            Trước vùng trời biển cảnh lồng lộng,
            Cùng anh trao đổi tình ái ân.
            Khoác tay anh đi trên bãi cát
            Cát bãi trăng soi màu trắng mát.
            Nghiêng đầu lơi lả tựa vai anh,
            Lặng nghe sóng bãi đưa rào rạt.
            Nước mây êm ái bóng trăng sao,
            Say sưa em nhìn lên trời cao,
            Buông khúc đàn lòng theo nhịp gió.
            Giờ phút thần tiên, hồn phiêu dao.
            Một hơi thở mát qua, dịu dàng,
            Như cơn gió biển thoảng bay ngang,
            Rồi luồng điện ấm chạm trên má:
            Ân ái môi anh kề nhẹ nhàng.
            Nũng nịu, em ngả vào lòng anh

Đọc bài này, Hoài Thanh nhận định: “Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng” (2).
Đông Hồ còn tiếp tục sáng tác thơ cho đến những năm cuối cùng của đời ông và vẫn giữ lề lối cũ: tứ thơ cổ kính được chuyển tải bằng những lời trang nhã, trau chuốt. Chúng ta thử đọc thêm một đoạn trong bài Lòng quỳ hoa cúc, một trong những bài thơ cuối cùng của thi sĩ, làm năm 1968:
           Ngày xuân vắng ánh trời hồng
           Còn đây hoa cúc thay lòng hướng dương
           Mỹ nhân hề thiên nhất phương
           Gặp nhau đây tám nẻo đường chiêm bao
           Mây êm nước lặng nhàn phiêu lãng
           Hoa rụng chim kêu bướm cảm hoài
           Khi biệt dễ dàng khi gặp khó
           Chốn vui ai nhớ chốn sầu ai.

Ngoài sự nghiệp sáng tác, Đông Hồ còn để lại vài công trình nghiên cứu: Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong 107 tháng 7/1926, số 143 tháng 10/1929), Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên (Nhà xuất bản Quình Lâm, Sài Gòn, 1970).
Hà Tiên Mạc thị sử là một tập biên khảo lịch sử, địa chí, văn học rất công phu về họ Mạc ở Hà Tiên, những người đã có công khai phá, mở mang và xây dựng vùng cực nam của đất nước thành một nơi trù phú, văn vật. Mặt khác, tập biên khảo này còn cung cấp cho chúng ta những tài liệu văn học quí báu về nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên. Đánh giá công trình này, Lê Chí Dũng viết: “Có thể ghi công cho Đông Hồ về mặt sưu tầm, khảo cứu văn liệu: tập Hà Tiên Mạc thị sử nói về nhóm Chiêu Anh Các và thơ của nhóm này giúp người nghiên cứu có tài liệu về văn học buổi sơ khai tận cùng phía Nam đất nước, khẳng định sự thống nhất của văn học và văn hóa dân tộc Việt Nam” (3).
Năm 1970, để tưởng niệm Đông Hồ nhân lễ giỗ đầu của nhà thơ, nữ sĩ Mộng Tuyết đã làm một việc rất có ý nghĩa là tập hợp những bài giảng của Đông Hồ ở trường Đại học Văn khoa Sài Gòn, nơi ông đã ngã xuống trong lúc đang giảng dạy, cho ấn hành thành tập Văn học miền Nam – Văn học Hà Tiên. Có thể nói công trình biên khảo này là kết quả của việc tiếp tục nghiên cứu tường tế hơn vấn đề ông đã làm với Hà Tiên Mạc thị sử 40 năm trước. Nhan đề là “Văn học miền Nam” nhưng thực ra chỉ là văn học Hà Tiên, và nói cho chính xác thì chỉ là văn học của thi phái Chiêu Anh Các. Phần nghiên cứu tính cách đặc thù của văn học miền Nam, đất nước Hà Tiên, các tác phẩm chữ Hán và chữ Nôm của thi phái Chiêu Anh Các rất công phu. Phần dịch thơ chữ Hán ra văn xuôi sát nghĩa, chú thích thành ngữ, điển tích rõ ràng, những bài dịch thơ lột tả được tình ý nguyên tác, đúng niêm luật, đối rất chỉnh, lời thật đẹp.
Hai công trình sưu tầm, nghiên cứu kể trên là những cống hiến quí báu của Đông Hồ vào việc tìm hiểu lịch sử, đất nước và văn học Hà Tiên buổi đầu mới khai phá, mở mang, đồng thời cũng biểu lộ tình yêu quê hương sâu đậm của tác giả.
Là nhà nghiên cứu, Đông Hồ làm việc cẩn thận, nghiêm túc và hoàn thành được những công trình có giá trị. Nhưng con người nghiên cứu của ông lu mờ bên cạnh con người thơ. Đông Hồ trước sau vẫn là một thi nhân, hay đúng hơn, một thi gia tài hoa, giàu tình cảm, nhất là tình cảm uỷ mị. Ngay cả lúc ông ngã xuống trong một giảng đường đại học, ông cũng đang ngâm dang dở một bài thơ. Thơ ông và con người ông là một. Ông trau chuốt lời thơ cũng như ông cẩn thận trong cách ăn mặc. Thơ ông thanh tao, người ông nho nhã và có dáng vẻ một tao nhân mặc khách, dù ông mặc complet hay quốc phục. Một đời làm thơ, Đông Hồ có một vị trí quan trọng, nổi bật trên thi đàn.


CHÚ THÍCH
1.    Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, Nxb. Thiều Quang, Sàigòn, 1967, tr. 351- 353.
2.    Hoài Thanh và Hoài Chân, Thi nhân Việt Nam, sđd, tr.337.
3.    Từ điển văn học, Tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, 1983, tr 26.

Lâu nay đọc các ý kiến bàn về tiểu thuyết, bên cạnh những tên tuổi như Phạm Quỳnh, Nhất Linh, Vũ Bằng… chúng ta thấy các nhà nghiên cứu hay nhắc đến Trúc Hà với bài Lược khảo về sự tiến hoá của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết in trên Nam Phong tạp chí năm 1932. Bài phóng sự Hội chợ năm nay có những gì? của ông cũng được chọn in trong tuyển tập Phóng sự Việt Nam 1932-1945 do Nxb.Văn học ấn hành năm 2000. Nhưng có lẽ ít ai biết Trúc Hà lại là một nhà văn quê tận Hà Tiên, miền cực Tây Nam của đất nước, một trong Hà Tiên tứ tuyệt (gồm Đông Hồ, Mộng Tuyết, Lư Khê, Trúc Hà) lừng lẫy một thời.

Nói đến Đông Hồ, không thể không nói đến Mộng Tuyết, người bạn đời và cũng là người bạn thơ của thi sĩ. Cô học trò đặc sắc hơn cả của Trí Đức học xá đã bị bóng dáng đồ sộ của ông thầy che khuất. Và hình như nàng Úc cũng khiêm tốn và tự nguyện nép vào cái bóng ấy, tự nguyện làm người điểm xuyết cho người thầy, người anh mà mình hết mực yêu kính:

 

                      Còn anh em chẳng làm thơ

 

                      Có anh là sống giấc mơ tuyệt trần

 

                      Yêu anh tự kiếp tiền thân

                      Gặp anh biết có được gần kiếp sau.

   

1. Trong lịch sử của dân tộc ta có nhiều nhân vật được người đời tôn vinh với nhiều danh vị khác nhau mà những vinh danh đó đều rất xứng đáng cả dù chúng chưa thể hiện hết và đủ tầm vóc những gì mà người đó đã cống hiến cho đời. Trần Nhân Tông chính là một trong những danh nhân đó.

TRẦN THỊ PHƯƠNG PHƯƠNG (*)

Trong quá trình phát triển, văn học của mọi dân tộc đều không thể nào tránh khỏi những sự giao lưu và ảnh hưởng của văn học các dân tộc khác, nhất là ảnh hưởng của những nền văn học tiên tiến. Quá trình hiện đại hoá trong văn học văn học Viêt Nam, theo chúng tôi, cũng là quá trình hình thành và phát triển hai trào lưu văn học chủ đạo là chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa hiện thực – những trào lưu mà ở phương Tây phát triển vào thế kỷ XIX.

                                                                                                Trần Ngọc Hồng(*)

 

 

 

 1. Vào những năm đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã chuyển mình từ quỹ đạo trung đại sang hiện đại. Điều này gắn liền với nhiều yếu tố như kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quan điểm văn học, tư duy nghệ thuật, sự phát triển của thể loại ngôn ngữ, văn tự v.v. Ở đây, chúng tôi chỉ muốn nhấn mạnh đến vai trò của ý thức cá nhân trong buổi đầu của sự hiện đại hóa văn học Việt Nam. Đây cũng là điều liên quan đến một vấn đề quan trọng  bậc nhất trong bản chất của văn học là quan niệm nghệ thuật về con người.

Con đường văn học của Nguyễn Quang Sáng đã được bắt đầu từ những năm năm mươi. Nhưng sự nghiệp văn học của ông được khẳng định chủ yếu trong thời kỳ kháng chiến chống Mĩ. Người ta nhớ đến một Nguyễn Quang Sáng với một bút pháp linh hoạt mà mộc mạc chân chất, đằm thắm qua những tác phẩm như Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch, Mùa gió chướng và sau này là Dòng sông thơ ấu...

1/- Khái niệm hiện đại gắn liền với một thời đại mà nền văn minh công nghiệp đã, đang và sẽ thay thế hoàn toàn nên văn minh nông nghiệp. Đó là một xã hội của nền kinh tế hàng hóa với sự phát triển mạnh mẻ của đô thị, của cơ khí hóa, cơ giới hóa cùng sự hình thành của các giai cấp tầng lớp mới như: vô sản, tư sản, tiểu tư sản, tri thức tiểu thị dân… Xã hội đó đã thật sự từ buổi đầu thế kỉ XX. Nó gắn liền với cảm hứng khẳng định con người cá nhân và sự phát triển của chữ quốc ngữ trong nền văn hóa dân tộc.

 

Như vậy vào đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam đã chuyển mình từ quỹ đạo trung đại sang hiện đại. Và từ đó, dần dần hiện lên bộ mặt của nền văn học hiện đại Việt Nam.

Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận dân tộc ta vốn có tinh thần dân chủ và sống phóng khoáng nên từ khi Tam giáo vào Việt Nam, cha ông ta đã biết tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến chúng thành cái của mình, phù hợp với điều hiện và hoàn cảnh sống của mình, phục vụ cho mình.

Nhà nghiên cứu Bằng Giang trong Sài Gòn cố sự cho rằng “tính đến năm 1930, văn học quốc ngữ Nam Kỳ có non 20 tác giả nữ còn để lại tác phẩm in thành sách”, nhưng “các tác giả trên không để lại một tiếng vang nào ngoại trừ Phan Thị Bạch Vân, chủ nhân Nữ lưu thơ quán ở Gò Công”[1].

 1. Phan Thị Bạch Vân và Nữ lưu thư quán Gò Công:

Trong bài Xét về sự sinh hoạt của phụ nữ nước ta trên báo Phụ nữ Tân Văn  (PNTV) số 5 - 1929, Phan Khôi có viết một câu như sau: “Mới vài ba năm nay, trong xã hội ta, nhứt là trong làng ngôn luận, có nứt ra một danh từ mới mà nhiều người lấy làm chú ý, ấy là “vấn đề phụ nữ””.

Cách dùng “nứt ra một danh từ mới” rất ngộ nghĩnh của Phan Khôi cho thấy ấn tượng về sự khai sinh “vấn đề phụ nữ” vào những năm đầu thế kỷ XX. Với sự khai sinh này, lần đầu tiên, tinh thần phụ nữ từ chỗ là phát hiện của một trào lưu xã hội đến chỗ hình thành nền văn hóa tri thức mới với “thế lực phụ nữ”[1].

Văn học Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 là một giai đoạn văn học mang tính chất giao thời, bắt đầu chịu ảnh hưởng của phương Tây nhưng đồng thời vẫn còn chịu ảnh hưởng sâu đậm từ nền văn học Trung Hoa. Văn học Nam Bộ cũng không thoát khỏi tình cảnh ấy, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, địa lý, văn học Nam Bộ cũng có những đặc điểm riêng, như ở mảng văn học dịch chẳng hạn.

Văn học Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng dứt khoát phải thể hiện giáo lý nhà Phật, mà cụ thể là thể hiện vấn đề về bản thể luận, về giải thoát luận và những con đường tu chứng. Để biểu lộ nội dung trên,văn học Phật giáo phải có một nghệ thuật tương xứng. Ở bài viết này sẽ đề cập mấy nét đặc sắc về nghệ thuật của văn học Phật giáo. Khi trình bày vấn đề,chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.

 

 

Hồ Biểu Chánh, nhà văn có thể xem như là Balzac của Nam Bộ, trong hồi ký Đời của tôi về văn nghệ đã cho rằng có ba tác phẩm ảnh hưởng nhiều đến việc chuyển hướng sáng tác của ông. Đó là Truyện thầy Lazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản, Hoàng Tố Anh hàm oan của Trần Thiên Trung (tức Gilbert Trần Chánh Chiếu) và Phan Yên ngoại sử của Trương Duy Toản(1).

Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, mục Khuông Việt Đại sư truyện chép: “(Thiên Phúc) thất niên, Tống nhân Nguyễn Giác lai sính, thời Pháp sư Đỗ Thuận diệc hữu thạnh danh, Đế mệnh biến phục vi giang lệnh, nghinh ư Giang Khúc. Giác kiến kỳ thiện ư văn đàm, dĩ thi tặng chi, hữu “Thiên ngoại hữu thiên ưng viễn chiếu” chi cú. Đế dĩ thị sư, đối viết: ‘Thử tôn Bệ hạ dữ kỳ chủ bất dị’. Giác hoàn, sư tác từ viết Ngọc lang quy tống chi, kỳ từ vân: ‘Tường quang phong hảo cẩm phàm trương, thần tiên phục đế hương. Thiên trùng vạn lý thiệp thương lương, cửu thiên quy lộ trường. Nhân tình thảm thiết, đối ly thương. Phan luyến tinh tinh lang, nguyện tương thâm ý vị nam cương, phân minh báo ngã hoàng’ ”.

 

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhân cách văn hoá lớn, một nhà tư tuởng - triết học lớn, một đại thụ bao trùm bóng mát cả vườn cây văn học Việt Nam thế kỷ XVI. Ông là người có khả năng “huyền cơ tham tạo hoá” (nắm được cái lẽ huyền vi của tạo hoá) như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp có ngợi ca; là “một bậc kỳ tài, hiền danh muôn thuở” như Phan Huy Chú đã xưng tụng. Văn chương của ông “không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà rất lưu loát, thanh đạm mà có nhiều vị” (…) “như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy” mà Vũ Khâm Lân đã nhận định trong bài Phả ký; “thanh tao, tiêu sái, hồn hậu, phong nhã, có ý thú tự nhiên” như Phan Huy Chú đã bình trong Văn tịch chí ở sách Lịch triều hiến chương loại chí. Ông sống gần trọn thế kỷ XVI, đã chứng kiến những cảnh tranh giành xâu xé giữa các tập đoàn phong kiến bấy giờ, hết Lê - Mạc rồi Trịnh - Nguyễn. Nếu trừ khoảng 8 năm ông ra làm quan cho nhà Mạc tại triều đình trung ương thì thời gian còn lại ông đều sống ở quê nhà (44 năm trước khi xuất chính và 44 năm sau khi cáo quan về vườn), nhờ thế mà ông có dịp gần gũi nhân dân, thấu hiểu dân tình khốn khổ trong cảnh binh đao. Đây cũng là một trong những yếu tố hình thành tư tưởng thân dân của Tuyết Giang phu tử, với tấm lòng ưu thời mẫn thế, tiên ưu hậu lạc đến già vẫn không nguôi, đúng như Vũ Khâm Lân đã viết: “Tuy ở nhà 44 năm mà không ngày nào quên đời, lòng ưu thời mến tục đều bộc lộ trong thơ” (Phả ký). Ông sống trên đất nhà Mạc, giữa thời chiến tranh tao loạn, vậy mà vẫn đứng vững như cây tùng, cây bách trong giá rét mùa đông; giữa những bão táp biến động của thời thế. Không chỉ thế mà lúc bấy giờ các tập đoàn phong kiến Lê, Mạc, Trịnh, Nguyễn đều nể vì, kính ngưỡng ông; họ trực tiếp hoặc gián tiếp bằng cách phái những thủ túc thân cận đến cầu kiến ông, xin những lời mách bảo của ông về thời cuộc. Bao trùm lên cuộc đời ông, đã có nhiều câu chuyện lưu truyền trong dân gian với những giai thoại khá lý thú mà các cụ ngày trước đã từng chép lại trong các sách như Sấm Trạng Trình, Phả ký chẳng hạn. Bài viết nhỏ này sẽ đặt vấn đề bàn lại những gì mà các bậc tiên Nho đã viết xung quanh các mối quan hệ giữa Bạch Vân cư sĩ với Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan.

Thông tin truy cập

63705539
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
3633
22198
63705539

Thành viên trực tuyến

Đang có 305 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website