Trong lời Nhỏ to... cuối sách Thi nhân Việt Nam (1942), Hoài Thanh - Hoài Chân viết:  “Tôi đã đọc một vạn bài thơ và trong số ấy có non một vạn bài dở. Nếu làm xong quyển sách này, mà không chê chán vì thơ, ấy là điều tôi rất mong mỏi”… Đây mới chỉ nói về việc bao quát tư liệu, thẩm định và chọn lựa tác phẩm thơ ca. Còn một nội dung quan trọng khác nữa là hai ông đã theo dõi sát sao quá trình phát triển của phong trào Thơ mới trên cơ sở cứ liệu phê bình và tranh luận văn học - những cuộc đăng đàn diễn thuyết; những bài điểm sách, đọc sách, bình luận; những bài tựa, bạt; những cuộc luận chiến giữa nhiều người và nhiều phái; những bước tổng kết qua từng năm, từng chặng đường và cả chuyên khảo về từng tác giả hay khảo sát một số đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật Thơ mới đương thời. Nói khác đi, cùng với tiếng đàn đồng điệu qua lời bình về từng thi nhân thì lời dẫn Một thời đại trong thi ca trong Thi nhân Việt Nam chính là đã được chưng cất trên nền tảng những kiến giải sâu sắc về Thơ mới, thực hiện cuộc tổng duyệt thành công mỹ mãn và tương xứng với một mùa bội thu thơ ca.

Vào lúc 8 giờ sáng ngày 21/04/2012, tại phòng A25, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn cơ sở Thủ Đức đã diễn ra buổi giao lưu với nhà thơ Giang Nam do khoa Văn học và Ngôn ngữ tổ chức. Tham dự buổi giao lưu có PGS. TS. Đoàn Lê Giang, Trưởng Khoa Văn học và Ngôn ngữ, cùng các thầy cô và đông đảo sinh viên năm thứ nhất, năm thứ hai của khoa. Dưới sự dẫn dắt chương trình của PGS. TS. Nguyễn Công Lý, buổi giao lưu đã diễn ra thân tình, ấm cúng.

 

         1. Tài liệu xưa nhất hiện còn có nêu thông tin về thiền sư Thiền Lão là sách Thiền uyển tập anh ngữ lục 禪 苑 集 英 語 綠, chép hành trạng các thế hệ truyền thừa các dòng Thiền ở Việt Nam từ nửa cuối thời Bắc thuộc cho đến các triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý và đầu Trần (tức từ cuối thế kỷ thứ VI đến đầu thế kỷ XIII) với 68 tiểu truyện các vị Thiền sư thuộc hai dòng Thiền: dòng Tỳ ni đa lưu chi, dòng Vô Ngôn Thông; còn về dòng Thảo Đường thì chỉ liệt kê tên các thế hệ truyền thừa. Tác phẩm có thể được viết từ cuối thế kỷ XII, XIII và hoàn thành vào đầu thế kỷ XIV. Đây là bộ lịch sử Phật giáo Việt Nam xưa nhất hiện còn với bản in lần đầu vào niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 11 (năm 1715) đời Lê Dụ Tông[1]. Hiện chưa xác định rõ tác giả tập sách, mà theo nhiều nhà nghiên cứu thì sách có thể do Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi, Ẩn Không (và Kim Sơn?) liên tục thay nhau biên soạn [2].

(Ghi chép từ buổi giao lưu với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp

do khoa VN-NN tổ chức ngày 23/03/2012)

Nhiều sinh viên khoa Văn học và Ngôn ngữ, ĐHKHXH&NV Tp.HCM, từng không chỉ gặp gỡ nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua trang sách dù ông sống tận Hà Nội. Nhà văn đã nhiều lần dành thì giờ để giao lưu với nhiều lớp sinh viên hệ Cử nhân tài năng của khoa mỗi khi họ có dịp ra thực tập ở thủ đô. Thế nhưng buổi giao lưu sáng ngày 23/03/2012 tại trường ĐHKHXH&NV Tp.HCM có lẽ là lần đầu tiên ông trò chuyện với đông đảo thầy trò của khoa, gồm cả sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh, và cả những độc giả khác quan tâm đến các sáng tác của ông. Giữa khán phòng đông người, Nguyễn Huy Thiệp vẫn không có vẻ gì là một diễn giả. Ngược lại, ông vẫn nói như thể đang trò chuyện với những người bạn, chia sẻ chuyện đời, chuyện nghề bằng một giọng điệu từ tốn, hơi có phần lan man mà ông tự nhận là “nhà quê và tẻ nhạt”.

 (Kỷ niệm 630 năm ngày sinh của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi 1380 – 1442)

 

            Sau vụ án Lệ Chi Viên oan nghiệt, thơ văn của Nguyễn Trãi hầu như bị thất lạc gần hết. Bốn năm sau khi lên ngôi (1460), Lê Thánh Tông (1460 – 1497) đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, tiếp theo năm 1467, nhà vua ban chiếu sai văn thần sưu tầm thơ văn còn sót lại của Ức Trai. Trần Khắc Kiệm được nhà vua tin tưởng giao cho trọng trách này. Ròng rã hơn mười năm, Trần Khắc Kiệm hoàn thành bộ Ức Trai thi văn tập, viết lời Tựa năm 1480. Riêng về thơ chữ Hán, ông sưu tầm được 105 bài, mà sau này, giữa thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn đã chép lại trong bộ hợp tuyển đồ sộ Toàn Việt thi lục.

 

1. Hiện chưa rõ năm sinh, năm mất của Hoàng Minh Tự. Căn cứ vào những bài báo và những tác phẩm  hiện còn của ông, có thể đoán định Hoàng Minh Tự sinh vào khoảng đầu thế kỷ XX và mất năm nào thì chưa rõ. Về quê quán, lần theo tư liệu hiện còn, mới biết ông quê ở Bến Tre. Đây là thông tin xưa nhất và duy nhất còn lại bởi nhờ vào hai bài báo mà ông cho đăng trên tờ Lục Tỉnh Tân Văn vào tháng 7 năm 1926. Nhờ vậy mới biết Hoàng Minh Tự khởi nghiệp cầm bút từ năm 1926 với những bài báo, sau đó chuyển sang viết tiểu thuyết từ năm 1931.

Sau nhiều thế kỷ thơ thất ngôn ngự trị - dẫu có ngâm khúc, truyện nôm và hát nói cũng không làm vị trí thơ thất ngôn trong thơ truyền thống lung lay - đến những năm 30 của thế kỷ XX, Thơ mới ra đời như một sự nổi loạn, một cuộc cách mạng. Thơ mới lúc đó mới là nói thơ Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận... với nội dung chủ yếu là biểu hiện những sắc thái tinh thần của con người cá nhân và các hình thức chủ yếu là thơ bảy chữ, tám chữ, năm chữ, lục bát. Các nhà thơ cũ công kích Thơ mới nhưng điều đáng chú ý là chỉ công kích về hình thức mà không nói về nội dung. Mặc dầu bị đả phá kịch liệt, Thơ mới vẫn nhanh chóng chiếm lĩnh văn đàn. Đến những năm 40 của thế kỷ XX, các nhà Thơ mới tuyên bố bỏ khái niệm Thơ mới, tuy thế có lẽ họ vẫn còn đôi chút mặc cảm nên tìm đến Tản Đà như một sự tìm về truyền thống, tìm một sự tiếp nối(1). Các yếu tố ở Tản Đà mà các nhà Thơ mới ca ngợi là cái phóng túng và tính cách đa tình(2). Những yếu tố ấy có ở trong nhiều bài thơ của nhiều thể thơ mà Tản Đà sử dụng nhưng các yếu tố đó lại là nét đặc trưng hát nói Tản Đà nói riêng và hát nói nói chung.

Vũ Anh Khanh là nhà văn—nhà thơ—chiến sĩ nhiệt thành với con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, tác giả của nhiều tác phẩm giá trị được độc giả miền Nam đương thời say đắm. Theo Từ điển  văn học (bộ mới), ông tên thật là Nguyễn Năm, sinh năm 1926, quê ở thị xã Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Trước 1945, sống ở Sài Gòn, làm báo, viết văn([1]).

Văn học Nam Bộ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã sớm có những tiểu thuyết tâm lý xã hội và sớm đặt ra nhiều vấn đề mới mẻ, như Thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản với tấn bi kịch của cá nhân, Hà Hương phong nguyệt (1912) của Lê Hoằng Mưu với vấn đề tính dục, Lâm Kiều Loan (1932) của Phan Thị Bạch Vân với vấn đề nữ quyền,... Nhưng nói chung, thế mạnh của các nhà văn Nam Bộ không phải là tiểu thuyết tâm lý, sở trường của họ vẫn là tiểu thuyết hành động. Nhà văn Ngọc Sơn bên cạnh việc viết tiểu thuyết tâm lý xã hội còn dùng bút danh Phi Long để viết tiểu thuyết trinh thám. Chất phiêu lưu mạo hiểm, nghĩa hiệp với những tình tiết gay cấn, ly kì đã làm nên sức hút cho những tiểu thuyết thế sự của Nam Đình Nguyễn Thế Phương.

 

Nguyễn Công Thanh Dung*

Nhà thơ Quách Tấn sinh ngày 04/01/1910, quê ở Bình Khê, Bình Định và mất  lúc 7 giờ sáng ngày 21/12/1992 tại Nha Trang, xuất thân trong một gia đình gốc Nho học có pha Tây học. Quách Tấn tập làm thơ từ khi còn học ở trường Quốc học Quy Nhơn khoảng năm 1925-1926, nhưng mãi đến năm 1932 nhờ Tản Đà dìu dắt và cụ Sào Nam Phan Bội Châu nâng đỡ, ông mới chính thức bước vào làng văn. Lúc này, thi phẩm của ông thường đăng ở các báo: An Nam tạp chí (Hà Nội), Phụ nữ tân văn (Sài Gòn), Tiếng dân (Huế). Những tập thơ tiêu biểu của ông đã xuất bản như: Một tấm lòng (1939), Mùa cổ điển (1941) có bổ sung lần tái bản 1960, Đọng bóng chiều (1966), Mộng Ngân sơn (1967), Giọt trăng (1973) và trên 10 tập thơ nữa đã hoặc chưa xuất bản, gồm những bài thơ viết từ trước 1975 đến 1994.

TS. Đoàn Ánh Loan

Khoa Văn học và Ngôn ngữ

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn

 Đại học Quốc gia TPHCM

Ở Trung Hoa thời Trung đại, các trường phái triết học thường đề cập đến vũ trụ quan, nhân sinh quan, tuy có khác nhau ít nhiều, nhưng chung quy đều nói đến con người với những quan hệ xung quanh, đều đi đến công nhận thế giới này là nhất thể. Trong số các quan niệm triết học cổ đại Trung Hoa, nổi bật hơn cả có lẽ là Nho giáo và Đạo giáo. Ảnh hưởng của Nho và Đạo giáo khá sâu rộng, từ tư tưởng xã hội, văn hóa, phong tục tập quán cho đến văn học... Văn học thể hiện tư tưởng của thời đại, vì thế, quan niệm triết học Nho và Đạo thấm nhuần trong sáng tác. Trong văn học trung đại, người ta thường thể hiện cái chung của trời đất, trong đó tâm lý cá nhân được bao bọc bởi sự to lớn của tâm trạng chung trước cảnh, nỗi lòng hay tình yêu trước mối lo lớn của dân tộc. Quan niệm của Nho và Đạo ảnh hưởng sâu đến một số nguyên tắc sáng tác, cụ thể là những thủ pháp thể hiện. Nghiên cứu sâu hơn một chút ở lĩnh vực này, thật bất ngờ và thú vị, nghệ thuật sử dụng điển cố-một thủ pháp sáng tác thông dụng trong văn học thời Trung đại lại có mức độ ảnh hưởng khá đậm đặc hai quan niệm triết học này.

(TT&VH) - Như đã biết, cách nay chẵn 80 năm, vào dịp Tết Nhâm Thân 1932, học giả Phan Khôi đã công bố - trên phụ san Tết của báo Đông tây ở Hà Nội rồi kế đó trên tuần báo Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn - bài báo Một lối thơ mới trình chánh giữa làng thơ. Bài báo đã đi vào văn học sử Việt Nam như hành động mở đầu phong trào cải cách thơ ca tiếng Việt ở thời hiện đại, - phong trào thơ mới, một phong trào diễn tiến mạnh mẽ, sôi động và đạt thành tựu chắc chắn chỉ trong vòng mười năm, làm thay đổi căn bản diện mạo thơ tiếng Việt, tạo ra một mặt bằng mới cho đời sống thơ ca của người Việt ở thế kỷ XX.

PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ

Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP HCM

Tóm tắt:

Bài viết giới thiệu diện mạo thơ sứ trình trung đại Việt Nam viết về những di tích văn hoá, thắng cảnh ở Hồ Nam, Trung Quốc, mà theo thống kê chưa đầy đủ, thơ trung đại viết về đề tài này hiện có đến trăm bài. Từ diện, bài viết đi sâu vào điểm, bằng cách phân tích giới thiệu thơ của Nguyễn Trung Ngạn viết về Hồ Nam. Theo tình hình tư liệu hiện nay, có thể nói Nguyễn Trung Ngạn là nhà thơ Việt Nam đầu tiên viết về Hồ Nam, lúc ông đi sứ Trung Quốc năm 26 tuổi, hiện còn 13 bài có chép trong Giới Hiên thi tập, với ngôn ngữ bình dị, trong sáng mà tinh tế, tài hoa; lời thơ hùng hồn mạnh mẽ; chất thơ phóng khoáng với bút pháp hiện thực trữ tình.

Hiển nhiên ai cũng biết rằng Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết thì đầy chất phóng sự và ngược lại viết phóng sự thì đầy chất tiểu thuyết. Ngay bản thân nhà văn, khi xác định thể loại cho đứa con tinh thần của mình đã hơn một lần ông gọi nó là phóng sự tiểu thuyết. Điều này rõ ràng phải được làm sáng tỏ, dù nó không mấy dễ dàng. Thiết nghĩ, để giải quyết vấn đề không thể không trở lại với cái buổi đầu của nền tiểu thuyết của dân tộc và cũng là của Vũ Trọng Phụng.

Sự sinh thành và phát triển của văn học quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX gắn liền với một nền báo chí non trẻ mà sôi động. Báo chí khép lại một thời kì văn chương được sáng tác chỉ để ngâm vịnh thù tạc, sau đó cất vào những tàng kinh các để dành cho con cháu; hay có phổ biến cũng rất hạn chế bởi cách in ấn thạch bản, mộc bản rất công phu và không in được nhiều. Hầu hết các nhà văn đều trưởng thành từ cái nôi báo chí, đó là nơi nuôi dưỡng tình yêu văn chương, mài giũa ngòi bút, thể hiện quan niệm, tư tưởng và cũng là nơi tranh luận, bút chiến… Báo Sống là một trong rất nhiều những tờ báo ở Sài Gòn ngày ấy, nhưng lại là một trong không nhiều những tờ báo chuyên về văn học, tạo lập  được  một  phong  cách,  trường  phái  riêng,  giành  được  chỗ  đứng  trong  lòng độc  giả đương thời. Thế nhưng không đầy một năm tồn tại ngắn ngủi giữa hàng trăm tờ báo, trong đó nhiều tờ báo lớn có tuổi đời đến mấy mươi năm, đã khiến báo Sống dần bị lãng quên. Tìm hiểu về mảng văn học trên báo Sống là một đóng góp nhỏ vào công việc lớn hôm nay: khôi phục lại chân dung nền văn học một thời bị bỏ quên, bỏ qua.

Sự đóng góp của báo chí Quốc ngữ đầu thế kỷ 20 cho nền văn học Việt Nam hiện đại là hết sức to lớn. Cùng với chữ Quốc ngữ được dùng thay thế chữ Hán và chữ Nôm ở Nam Kỳ trước Trung Kỳ và Bắc Kỳ, báo chí chữ Quốc ngữ ra đời ở Nam Kỳ đã tạo điều kiện cho Nam Kỳ đi trước một bước trong sự hình thành và phát triển tiểu thuyết văn xuôi Quốc ngữ. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định điều này, từ Vũ Ngọc Phan những năm 40 của thế kỷ 20 với Nhà văn hiện đại cho đến các tác giả của Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ đổi mới, từ sách báo của miền Nam cho đến các giáo trình đại học ở miền Bắc, từ trong nước cho đến ngoài nước như Maurice M. Durand và Nguyễn Trần Huân trong Introduction à la littérature vietnamienne.

Trong số những nhà văn góp phần làm nên thành tựu của văn chương Nam Bộ nửa đầu thế kỷ XX, Tân Dân Tử (1) là khuôn mặt tương đối nổi bật. Thế mạnh của ông là tiểu thuyết lịch sử. Sự nghiệp sáng tác của ông đã được các nhà nghiên cứu đánh giá cao (2).

Xuân về Tết đến, có câu đối đỏ treo trong nhà thì thật là trang trọng, thiêng liêng, mới tỏ rõ không khí của ba ngày Tết. Trong tâm lý của người phương Đông, trong đó có người Việt chúng ta, màu đỏ là màu của sự may mắn, hạnh phúc, tốt đẹp. Cho nên, mỗi dịp Tết đến xuân về, chủ nhân của những gia đình có chữ nghĩa thường viết và treo câu đối Tết.

Trần Thị Phương Phương dịch

Trong thời kỳ đầu của sự hình thành tiểu thuyết hiện đại (ở Việt Nam giai đoạn này diễn ra chỉ vào những năm 20 thế kỷ XX), được xem xét rõ ràng nhất là những nguồn văn học, những tư liệu khác nhau đã tạo điều kiện cho sự hình thành thể lọai. Sự hình thành thể loại tiểu thuyết hiện đại ở Việt Nam diễn ra trong mối liên hệ với tiến trình chung của sự hình thành văn học hiện đại, sân khấu hiện đại, và cả điện ảnh. Tất cả cái đó trong ý nghĩa nhất định là một phần của một tiến trình khác- tiến trình hội nhập của Việt Nam vào hệ thống những quan hệ văn hóa thế giới rộng lớn. “Việc làm quen với văn hóa Phương Tây thực sự đã làm rung động giới trẻ vào đầu thế kỷ” – nhà nghiên cứu văn học Phan Cự Đệ viết. [21, t.1, tr.18]

Tóm tắt:

Viên Chiếu (999-1090) là một danh tăng đời Lý, thuộc thế hệ thứ 7 dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Về tác phẩm, thiền sư đã viết: Dược Sư thập nhị nguyện văn, Tán Viên giác kinh, Thập nhị Bồ tát hành tu chứng đạo trường, Tham đồ hiển quyết và một bài kệ thị tịch. Bài viết này sẽ góp phần giải mã tư tưởng uyên nguyên, uẩn súc của Thiền đạo được chuyển tải qua một hệ thống ngôn ngữ lung linh diễm lệ đậm chất văn chương trong Kệ và Ngữ lục của ông.

I. Việt Đông là bút danh. Ông tên thật là Lưu Thoại Khải. Hiện vẫn chưa biết năm sinh và mất, thân thế cùng quê quán của ông. Căn cứ vào tư liệu hiện còn thì Việt Đông bắt đầu viết văn từ năm 1930. Từ năm 1931 về sau, ông cùng Ellen Anh Hoa viết chung một loạt tác phẩm với độ dày mỗi cuốn 32 trang và dự định ra mắt bạn đọc mỗi tuần một cuốn. Những tác phẩm này, ông tập hợp trong bộ Việt Đông văn tập ký tên là Văn khoa học sĩ. Chi tiết trên được nhà văn ghi rõ ở trang cuối cuốn tiểu thuyết Tiếng súng lục liên, do nhà in Đức Lưu Phương, Sài Gòn, ấn hành năm 1931. Theo thông tin quảng cáo ở một số bìa sách thì rất có thể ông là chồng của nữ sĩ Ellen Anh Hoa, tức Huỳnh Thị Anh Hoa và hai người có viết chung một số tiểu thuyết như Ai người hẹn ngọc; Duyên chàng nợ thiếp; Thân gái dặm trường; Con ở chúa nhà ...

Thông tin truy cập

61766852
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
7042
18932
61766852

Thành viên trực tuyến

Đang có 829 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website