70 năm về trước, đúng vào ngày 25 tháng 9 năm 1945, sau hai ngày giặc xâm lược nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, có một chàng trai Hà Nội 17 tuổi theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường Nam tiến. Với khẩu súng trường trên vai. Mùa hạ này chàng trai năm xưa đã 87 tuổi. Vẫn tươi trẻ nụ cười. Trời run rẩy thế nào mà Đại hội nhà văn lần thứ 9 ở khách sạn La Thành, Hà Nội, ngày 9-7-2015, tôi lại ngồi sát ghế với ông. Cuộc gặp lần trước vào hồi tháng 9 – 1970. Khi đó ông vào nói chuyện thơ với sinh viên Văn khoa Tổng hợp Hà Nội tại hội trường tỉnh ủy Hà Tây. Trước mặt có một khu vườn mà cổng của nó nhìn ra cầu thị xã Hà Đông. Ông dong dỏng cao. Hào hoa phong nhã. Đặc biệt có nụ cười sáng mà duyên. Thấm thoát đã 45 năm rồi. Tôi hỏi nhỏ. Hình như ngày xưa ông cao hơn bây giờ. Ông nói. Hình như vậy. Trách làm sao được với thời gian. Ông là nhà thơ Việt Phương.

Hồi tôi mới về nhận nhiệm sở dạy ở trường THPT Phan Bội Châu (1978), anh Lương Duy Cán (nhà thơ Hà Nhật) lúc ấy là phó hiệu trưởng, bảo tôi trong thời gian ở Phan Thiết, nhớ đến thăm cô Mộng Cầm, tâm sự để hiểu thêm về nàng thơ của Hàn Mặc Tử, nếu không tranh thủ thời gian, lỡ sau này cô không còn, muốn tìm hiểu thì sẽ nuối tiếc.

PGS.TS. Lê Tiến Dũng

Trường ĐHKHXH&NV TP.HCM

1. Thế là vừa tròn một năm Anh Đức đã đi xa (21/8/2014 – 21/8/2015). Tôi nhớ khi đoàn Ban chấp hành Hội Nhà văn đến Huế, giới thiệu có nhà văn Anh Đức, cả Hội trường ĐHSP đứng dậy và vỗ tay hồi lâu. Không biết Anh Đức có nhớ không, còn tôi với tư cách là một bạn đọc thì tôi nhớ vô cùng kỷ niệm ấm lòng ấy. Không nhớ sao được khi mà cả một thời chúng tôi được sống với chị Tư Hậu, với chị Sứ qua trang sách giáo khoa và với điện ảnh. Không nhớ sao được ngòi bút tả mái tóc chị Sứ trở thành suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó, rủ chấm xuống sát đôi gót chân. Lúc đó chúng tôi tưởng đó không riêng gì những nhân vật của Anh Đức, mà cả miền Nam bất khuất kiên cường. Cho nên chúng tôi yêu văn Anh Đức như yêu cả miền Nam anh hùng.

Người ta thống kê được 11 bản dịch đầy đủ Truyện Kiều sang tiếng Pháp, bản đầu tiên vào năm 1884, bản cuối cùng vào năm 1999. Mặt khác, Truyện Kiều đã được chuyển ngữ sang tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Ả Rập (từ bản dịch tiếng Pháp), tiếng Bulgari, tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Hy Lạp, tiếng Hungari, tiếng Ba Lan, tiếng Rumani, tiếng Nga, tiếng Slovaquia và tiếng Thuỵ Điển.

Đặt bút định viết những dòng dưới đây, tôi có đầy đủ ý thức rằng, thật may mắn, cho đến thập kỷ này, vẫn còn sống cả triệu những chiến sỹ đã từng trực tiếp phục vụ trên tuyến đường Trường Sơn, hoặc có dịp qua lại con đường máu lửa này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Tôi đinh ninh tin rằng những đồng chí, đồng đội, đồng trang lứa của tôi sẽ là những ai thẩm thấu và rung cảm đầy đủ, sâu sắc nhất với từng câu thơ của thi sỹ Trường Sơn này.

Các thi sỹ Việt Nam hiện đại ít ai có cảm quan thơ về sự lặng im và yên tĩnh một cách trang trọng trong một tập thơ như ông ấy. Người đã từng triết lý rằng chỉ có biển khơi mới thấu hiểu vì sao con người lại không tìm được sự yên tĩnh trong đời. Và vì thế không biết từ bao giờ và ở đâu, người ta đã đánh mất sự yên tĩnh của bản thân mình như là mất đi một giá trị nhân văn. Chỉ mong được một ngày lặng lẽ trong cõi một mình. Bởi thế cho nên khi đặt bút viết về người ấy, tôi nghĩ ngay đến việc ông đã mai danh ẩn tích giữa chốn đô hội có nhẽ quá 15 năm rồi, liệu có đụng vào cái khoảng trống bình lặng của người ta hay không? Ngày 23-1 chuyển bài cho ông. Ngày 25-1 tôi được trả lời. Phải chờ … sau đại hội nhà văn mới được đăng báo. Chao ôi, Nhà văn là nhà văn. Tôi đã rời xa chốn quan trường được mấy niên rồi mà giờ lại gặp được hình thù gần giống như của nó. Của ông ấy. Của tôi. Và của nhiều người khác nữa. Của bầu trời phương đông nghìn năm phủ bóng mây chiều. Có phải một lúc nào đó tôi đã không hiểu lời Nguyễn Đình Thi: Người viết phải nhạy cảm với nỗi đau vô hình của cuộc sống? Vả lại ông có khiến đâu mà tôi viết? Âu là cái duyên kiếp của một kẻ lãng du trong cõi văn chương vô định không cần tính đếm này? Hoặc bởi tại tôi yêu cái lý thuyết lặng lẽ của ông lúc nào mà cũng chẳng hay?

Đoàn Trọng Huy (*)

Kính gửi Cụ Nguyễn Du là bài thơ như bức tâm thư của Tố Hữu gửi Nguyễn Du, nhưng bài thơ này được viết sau những 200 năm (1965), còn tâm thư văn chương Truyện Kiều thì hậu thế - hậu sinh Tố Hữu đã nhận được từ lâu.

Vậy, nỗi niềm hôm nay chính là sự cảm nhận nỗi niềm xưa, tâm tư xưa gửi lại. Hai hồn thơ giao lưu, giao hòa, giao cảm để tâm sự, tâm tình qua bức tâm thư bằng thơ.

Đoàn Trọng Huy (*)

Truyện Kiều là di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Xưa nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn là một đề tài để cảm tác và phê bình, bàn luận của giới văn nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu, học giả có tiếng.

Riêng về thi ca, nhiều nhà thơ hiện đại như Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh,... đều có tiếng nói cảm nhận, chia sẻ. Chế Lan Viên là một người trong số đó, qua thơ và văn đã từng nói nhiều nhất và nói hay nhất về thi hào và kiệt tác Truyện Kiều.

Đặt vấn đề

Vài năm gần đây, cụm từ “văn học thị trường” xuất hiện khá thường xuyên trên các phương tiện truyền thông để chỉ những sáng tác văn học nặng tính giải trí, được số đông độc giả ưa chuộng nhưng ít có giá trị nghệ thuật. Đa phần các ý kiến đều thể hiện nỗi e dè, lo ngại trước sự xâm lấn của bộ phận văn học này trong không gian văn hoá đọc hiện nay. Thậm chí không ít người cho rằng đây là biểu hiện của sự xuống cấp văn hoá đọc. Thế nào là “văn học thị trường”? Cần có thái độ, đánh giá và tác động như thế nào đến bộ phận văn học này? Những kinh nghiệm của văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX, của văn học đô thị miền Nam những năm 1954-1975, vốn hình thành trong một xã hội tiêu thụ, có giúp ích gì cho chúng ta khi đi vào nghiên cứu vấn đề này? Bài viết này sẽ giải quyết những vấn đề trên trong phạm vi khảo sát ở thành phố Hồ Chí Minh với tư cách là một nghiên cứu trường hợp (case study).

Nguyễn Tuân – Sự thống nhất, biến hoá kỳ lạ trong một con người

Đoàn Trọng Huy (*)

 

Cách mạng Tháng Tám đã đổi đời cho dân tộc, trong đó có các văn nghệ sĩ. Họ trở thành con người với tư thế biến đổi kỳ lạ: nghệ sĩ mới tự do,khác hẳn người làm nghệ thuật thời nô lệ.

Nguyễn Tuân là một trong số đông những nghệ sĩ ấy đã tự Lột xác (1945) để mang một nhân thân mới.Trưởng thành trong cách mạng và kháng chiến,Nguyễn Tuân đã trở thành một nhân cách lớn – nhân cách có nhiều phẩm cách hay tư cách: nhà văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, bậc thầy ngôn từ,

Từ trước Cách mạng Tháng Tám cho tới nay, không ít học giả nổi tiếng trong công trình khoa học của mình vẫn khẳng định: bài thơ Nam quốc sơn hà là của Lý Thường Kiệt. Có thể kể ra đây một vài công trình tiêu biểu như: Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim(1), Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn(2), Việt Nam cổ văn học sử(3) của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu(4) của Dương Quảng Hàm, Tổng tập văn học Việt Nam(5) của Văn Tân, Lịch sử văn học Việt Nam(6) của Đinh Gia Khánh... và một số bộ tổng tập lớn của thời đại như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam(7), Thơ văn Lý - Trần(8), Tổng tập văn học Việt Nam(9) v.v..

1. Mở đầu

Trong quá trình hình thành và vận động của nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn xuôi được xem là bộ phận “mới lạ nhất, hiện đại nhất”. Và trong văn xuôi, tiểu thuyết là thể loại rất đáng được lưu tâm. Dù chưa phải là chặng hoàn tất và đạt được nhiều thành tựu thể loại như giai đoạn sau (1930-1945), nhưng tiểu thuyết giai đoạn giao thời (1900-1930) đã xuất hiện nhiều tác phẩm gây được ấn tượng. Cho đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) với vai trò của “cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên”, Quả dưa đỏ (Nguyễn Trọng Thuật) với vị trí của “cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên”, Cậu bé nhà quê (Nguyễn Lân) với ý nghĩa của “cuốn tiểu thuyết giáo dục đầu tiên”… Trong bài viết này, chúng tôi muốn nói đến một cuốn tiểu thuyết cũng rất đặc sắc: Tây phương mỹ nhơn của nữ văn sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà. Xét về mặt thể loại, tác phẩm này có thể được xem là một cuốn tiểu thuyết luân lý. Nhưng đặc sắc của Tây phương mỹ nhơn không phải ở chỗ nó là cuốn tiểu thuyết luân lý đầu tiên, mà chính là ở tính chất “ngược dòng”, sự khác biệt của nó so với những cuốn tiểu thuyết cùng thời khi có chung nguồn cảm hứng đạo lý.

(Dương Trọng Dật, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, tháng 7 năm 1967, nhà văn hoá Phạm Văn Đồng có viết: “ Trên trời có những vì sao ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.

Thông tin truy cập

66238844
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
3442
19896
66238844

Thành viên trực tuyến

Đang có 656 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website