Đặt vấn đề

Vài năm gần đây, cụm từ “văn học thị trường” xuất hiện khá thường xuyên trên các phương tiện truyền thông để chỉ những sáng tác văn học nặng tính giải trí, được số đông độc giả ưa chuộng nhưng ít có giá trị nghệ thuật. Đa phần các ý kiến đều thể hiện nỗi e dè, lo ngại trước sự xâm lấn của bộ phận văn học này trong không gian văn hoá đọc hiện nay. Thậm chí không ít người cho rằng đây là biểu hiện của sự xuống cấp văn hoá đọc. Thế nào là “văn học thị trường”? Cần có thái độ, đánh giá và tác động như thế nào đến bộ phận văn học này? Những kinh nghiệm của văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX, của văn học đô thị miền Nam những năm 1954-1975, vốn hình thành trong một xã hội tiêu thụ, có giúp ích gì cho chúng ta khi đi vào nghiên cứu vấn đề này? Bài viết này sẽ giải quyết những vấn đề trên trong phạm vi khảo sát ở thành phố Hồ Chí Minh với tư cách là một nghiên cứu trường hợp (case study).

Từ trước Cách mạng Tháng Tám cho tới nay, không ít học giả nổi tiếng trong công trình khoa học của mình vẫn khẳng định: bài thơ Nam quốc sơn hà là của Lý Thường Kiệt. Có thể kể ra đây một vài công trình tiêu biểu như: Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim(1), Lý Thường Kiệt của Hoàng Xuân Hãn(2), Việt Nam cổ văn học sử(3) của Nguyễn Đổng Chi, Việt Nam văn học sử yếu(4) của Dương Quảng Hàm, Tổng tập văn học Việt Nam(5) của Văn Tân, Lịch sử văn học Việt Nam(6) của Đinh Gia Khánh... và một số bộ tổng tập lớn của thời đại như Hợp tuyển thơ văn Việt Nam(7), Thơ văn Lý - Trần(8), Tổng tập văn học Việt Nam(9) v.v..

1. Mở đầu

Trong quá trình hình thành và vận động của nền văn học hiện đại bằng chữ quốc ngữ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, văn xuôi được xem là bộ phận “mới lạ nhất, hiện đại nhất”. Và trong văn xuôi, tiểu thuyết là thể loại rất đáng được lưu tâm. Dù chưa phải là chặng hoàn tất và đạt được nhiều thành tựu thể loại như giai đoạn sau (1930-1945), nhưng tiểu thuyết giai đoạn giao thời (1900-1930) đã xuất hiện nhiều tác phẩm gây được ấn tượng. Cho đến nay, người ta vẫn nhắc tới Tố Tâm (Hoàng Ngọc Phách) với vai trò của “cuốn tiểu thuyết tâm lý đầu tiên”, Quả dưa đỏ (Nguyễn Trọng Thuật) với vị trí của “cuốn tiểu thuyết luận đề đầu tiên”, Cậu bé nhà quê (Nguyễn Lân) với ý nghĩa của “cuốn tiểu thuyết giáo dục đầu tiên”… Trong bài viết này, chúng tôi muốn nói đến một cuốn tiểu thuyết cũng rất đặc sắc: Tây phương mỹ nhơn của nữ văn sĩ Huỳnh Thị Bảo Hoà. Xét về mặt thể loại, tác phẩm này có thể được xem là một cuốn tiểu thuyết luân lý. Nhưng đặc sắc của Tây phương mỹ nhơn không phải ở chỗ nó là cuốn tiểu thuyết luân lý đầu tiên, mà chính là ở tính chất “ngược dòng”, sự khác biệt của nó so với những cuốn tiểu thuyết cùng thời khi có chung nguồn cảm hứng đạo lý.

(Dương Trọng Dật, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu, tháng 7 năm 1967, nhà văn hoá Phạm Văn Đồng có viết: “ Trên trời có những vì sao ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn mới thấy, và càng nhìn càng thấy sáng. Văn thơ Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy”.

           70 năm về trước, đúng vào ngày 25 tháng 9 năm 1945, sau hai ngày giặc xâm lược nổ súng gây hấn ở Sài Gòn, có một chàng trai Hà Nội 17 tuổi theo tiếng gọi của Tổ quốc lên đường Nam tiến. Với khẩu súng trường trên vai. Mùa hạ này chàng trai năm xưa đã 87 tuổi. Vẫn tươi trẻ nụ cười. Trời run rẩy thế nào mà Đại hội nhà văn lần thứ 9 ở khách sạn La Thành, Hà Nội, ngày 9-7-2015, tôi lại ngồi sát ghế với ông. Cuộc gặp lần trước vào hồi tháng 9 – 1970. Khi đó ông vào nói chuyện thơ với sinh viên Văn khoa Tổng hợp Hà Nội tại hội trường tỉnh ủy Hà Tây. Trước mặt có một khu vườn mà cổng của nó nhìn ra cầu thị xã Hà Đông. Ông dong dỏng cao. Hào hoa phong nhã. Đặc biệt có nụ cười sáng mà duyên. Thấm thoát đã 45 năm rồi. Tôi hỏi nhỏ. Hình như ngày xưa ông cao hơn bây giờ. Ông nói. Hình như vậy. Trách làm sao được với thời gian. Ông là nhà thơ Việt Phương.

(Lê Tiến Dũng, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Nhà văn Tô Hoài (Ảnh: vnexpress.net)

1. Nghe tin Tô Hoài mất, ai cũng buồn. Người ta thương tiếc một năng văn học đã ra đi. Nhà thơ Hữu Thỉnh – Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam nói: “Có những nhà văn, nhà thơ làm vinh dự cho chữ Hán, làm vinh dự cho chữ Nôm. Anh Tô Hoài, cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố… làm vinh dự cho chữ quốc ngữ. Tôi được gần các thế hệ đi trước, càng hiểu giá trị của những giây phút sống bên cạnh họ, kể cả khi các anh im lặng”. Nhận định về sự nghiệp của nhà văn Tô Hoài, Phạm Xuân Nguyên, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội khẳng định: "Tô Hoài là một nhà văn lớn của Văn học Việt Nam hiện đại, người có 95 năm tuổi đời nhưng đã dành hơn 70 năm đóng góp cho văn học. Ông là nhà văn chuyên nghiệp, bền bỉ sáng tác và có khối lượng tác phẩm đồ sộ. Ông cũng nổi tiếng từ rất sớm với tác phẩm Dế Mèn phiêu lưu ký. Văn chương của ông hướng về những con người, số phận, cuộc đời lấm láp, đời thường. Ông ra đi vì tuổi trời nhưng văn chương của ông vẫn còn nguyên giá trị. Tôi tin rằng 'chú Dế Mèn' cùng mảng viết tự truyện của ông sẽ được tìm đọc mãi". Quả đúng như vậy.. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 - 1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ. Kể tên những tác phẩm này ra chúng thấy có tên hai tác phẩm Dế mèn phiêu lưu kýVợ chồng A Phủ.

(Nguyễn Văn TrungIn trong cuốn "Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN) 

Chúng tôi ghi nhận được một số điểm liên quan đến truyện Thầy Lazaro Phiền, xuất bản ở miền Nam năm 1887, như sau:

1. Về kỹ thuật viết tiểu thuyết theo Tây phương

PGS.TS. Lê Tiến Dũng

Trường ĐHKHXH&NV TP.HCM

1. Thế là vừa tròn một năm Anh Đức đã đi xa (21/8/2014 – 21/8/2015). Tôi nhớ khi đoàn Ban chấp hành Hội Nhà văn đến Huế, giới thiệu có nhà văn Anh Đức, cả Hội trường ĐHSP đứng dậy và vỗ tay hồi lâu. Không biết Anh Đức có nhớ không, còn tôi với tư cách là một bạn đọc thì tôi nhớ vô cùng kỷ niệm ấm lòng ấy. Không nhớ sao được khi mà cả một thời chúng tôi được sống với chị Tư Hậu, với chị Sứ qua trang sách giáo khoa và với điện ảnh. Không nhớ sao được ngòi bút tả mái tóc chị Sứ trở thành suối tóc của hai mươi bảy tuổi đời con gái, vừa mượt vừa dày, gồm muôn sợi bền chặt rủ từ đỉnh đầu bất khuất đó, rủ chấm xuống sát đôi gót chân. Lúc đó chúng tôi tưởng đó không riêng gì những nhân vật của Anh Đức, mà cả miền Nam bất khuất kiên cường. Cho nên chúng tôi yêu văn Anh Đức như yêu cả miền Nam anh hùng.

 (Nguyễn Công Lý, In trong  "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN) 

Tóm tắt

HOÀNG ĐẾ - THI NHÂN – ĐIỀU NGỰ GIÁC HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG

             Bài viết giới thiệu hành trạng sự nghiệp, đi sâu phân tích thơ văn hiện còn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông, chỉ ra những nét đặc sắc độc đáo riêng, cụ thể là thơ ứng tác, thơ bang giao, thơ xuân, kệ và thơ Thiền, phú và ca, ngữ lục và truyện ký của Phật Hoàng. Từ đó bài viết kết luận: Thơ văn của Phật Hoàng Trần Nhân Tông có sự kết hợp hài hoà nhuần nhuyễn giữa tư duy Thiền học và tư duy văn học; giữa mỹ học Thiền với văn chương; giữa cảm quan tư tưởng triết học và cảm quan thế sự hiện thực, với lòng yêu nước và lòng tự hào văn hoá dân tộc cùng tinh thần lạc quan, yêu đời, vị tha của một nhân cách văn hoá lớn cùng sự rung động tinh tế, yêu tự do của nhà nghệ sĩ phóng khoáng, với sự hoà quyện khéo léo của một ngòi bút vừa cung đình, bác học lại vừa dân dã, bình dị trong một con người lịch lãm, từng trải.

Đặt bút định viết những dòng dưới đây, tôi có đầy đủ ý thức rằng, thật may mắn, cho đến thập kỷ này, vẫn còn sống cả triệu những chiến sỹ đã từng trực tiếp phục vụ trên tuyến đường Trường Sơn, hoặc có dịp qua lại con đường máu lửa này trong những năm chiến tranh chống Mỹ. Tôi đinh ninh tin rằng những đồng chí, đồng đội, đồng trang lứa của tôi sẽ là những ai thẩm thấu và rung cảm đầy đủ, sâu sắc nhất với từng câu thơ của thi sỹ Trường Sơn này.

(Trần Ngọc Hồng, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Hiển nhiên ai cũng biết rằng Vũ Trọng Phụng viết tiểu thuyết thì đầy chất phóng sự và ngược lại viết phóng sự thì đầy chất tiểu thuyết. Ngay bản thân nhà văn, khi xác định thể loại cho đứa con tinh thần của mình đã hơn một lần ông gọi nó là phóng sự tiểu thuyết. Điều này rõ ràng phải được làm sáng tỏ, dù nó không mấy dễ dàng. Thiết nghĩ, để giải quyết vấn đề không thể không trở lại với cái buổi đầu của nền tiểu thuyết của dân tộc và cũng là của Vũ Trọng Phụng.

Các thi sỹ Việt Nam hiện đại ít ai có cảm quan thơ về sự lặng im và yên tĩnh một cách trang trọng trong một tập thơ như ông ấy. Người đã từng triết lý rằng chỉ có biển khơi mới thấu hiểu vì sao con người lại không tìm được sự yên tĩnh trong đời. Và vì thế không biết từ bao giờ và ở đâu, người ta đã đánh mất sự yên tĩnh của bản thân mình như là mất đi một giá trị nhân văn. Chỉ mong được một ngày lặng lẽ trong cõi một mình. Bởi thế cho nên khi đặt bút viết về người ấy, tôi nghĩ ngay đến việc ông đã mai danh ẩn tích giữa chốn đô hội có nhẽ quá 15 năm rồi, liệu có đụng vào cái khoảng trống bình lặng của người ta hay không? Ngày 23-1 chuyển bài cho ông. Ngày 25-1 tôi được trả lời. Phải chờ … sau đại hội nhà văn mới được đăng báo. Chao ôi, Nhà văn là nhà văn. Tôi đã rời xa chốn quan trường được mấy niên rồi mà giờ lại gặp được hình thù gần giống như của nó. Của ông ấy. Của tôi. Và của nhiều người khác nữa. Của bầu trời phương đông nghìn năm phủ bóng mây chiều. Có phải một lúc nào đó tôi đã không hiểu lời Nguyễn Đình Thi: Người viết phải nhạy cảm với nỗi đau vô hình của cuộc sống? Vả lại ông có khiến đâu mà tôi viết? Âu là cái duyên kiếp của một kẻ lãng du trong cõi văn chương vô định không cần tính đếm này? Hoặc bởi tại tôi yêu cái lý thuyết lặng lẽ của ông lúc nào mà cũng chẳng hay?

                                                                    (Võ Văn Nhơn, chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

Roman fantastique Hà-Huơn̛g phong-nguyệt truyện. par L. H. Múu et Nguyên-Kim-Dính...

Trong quá trình nghiên cứu văn học quốc ngữ Nam Bộ giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có một ý kiến của nhà nghiên cứu Bằng Giang trong công trình Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865 – 1930 khiến chúng tôi đặc biệt lưu ý: “Còn tiểu thuyết (không nói truyện ngắn) thì cũng chỉ bắt đầu với Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm 1915”[1]. Nhà văn Nam Bộ Bình Nguyên Lộc trong cuộc phỏng vấn trên The Vietnam Forum số 13/1990 lúc sang Mỹ định cư cũng cho biết: "Cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên tôi đọc là một cuốn sách mà thoạt đầu cha tôi cấm không cho đọc vì cho là dâm thư, đó là cuốn Hà Hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu. Cuốn này được xuất bản vào khoảng năm 1917, và tôi tin đó cũng là cuốn tiểu thuyết được xuất bản đầu tiên của Việt Nam”. Thái Bạch trong “Truyền thống bất khuất của văn nghệ miền Nam” in trên Tin Văn số 12 ngày 9.6.1967 vẫn còn nhớ đến cuộc bút chiến quanh tác phẩm này. Ông Vũ Anh Tuấn, Chủ nhiệm CLB Sách Xưa & Nay trong Hồi ký 60 năm chơi sách cho biết có người đã từng yêu cầu ông “làm bất cứ cách nào” và mua hộ “bằng bất cứ giá nào” quyển sách này của Lê Hoằng Mưu[2].

Đoàn Trọng Huy (*)

Kính gửi Cụ Nguyễn Du là bài thơ như bức tâm thư của Tố Hữu gửi Nguyễn Du, nhưng bài thơ này được viết sau những 200 năm (1965), còn tâm thư văn chương Truyện Kiều thì hậu thế - hậu sinh Tố Hữu đã nhận được từ lâu.

Vậy, nỗi niềm hôm nay chính là sự cảm nhận nỗi niềm xưa, tâm tư xưa gửi lại. Hai hồn thơ giao lưu, giao hòa, giao cảm để tâm sự, tâm tình qua bức tâm thư bằng thơ.

(Nguyễn Lộc, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Khong quen Nguyen Du truyen cuoi hoc duong 

Ra đời vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, Truyện Kiều đã cố gắng vươn lên rất nhiều trên truyền thống chung của truyện thơ lúc bấy giờ. Nhưng sự vươn lên ấy không cắt đứt với truyền thống. Truyện Kiều vẫn có nhiều liên hệ khắng khít với văn học đương thời nói chung và truyện thơ Nôm nói riêng. Chỉ riêng về phương diện ngôn ngữ nhân vật, yếu tố truyền thống và những sáng tạo riêng của nhà thơ vẫn biểu hiện rõ rệt.

Đoàn Trọng Huy (*)

Truyện Kiều là di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Xưa nay, Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn là một đề tài để cảm tác và phê bình, bàn luận của giới văn nghệ sĩ, các nhà nghiên cứu, học giả có tiếng.

Riêng về thi ca, nhiều nhà thơ hiện đại như Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Tế Hanh,... đều có tiếng nói cảm nhận, chia sẻ. Chế Lan Viên là một người trong số đó, qua thơ và văn đã từng nói nhiều nhất và nói hay nhất về thi hào và kiệt tác Truyện Kiều.

Khi đặt bút ký kết Hiệp định Genève ngày 20-7-1954, có lẽ những bên liên quan đến chiến tranh Đông dương lần thứ nhất chỉ tiên liệu và hình dung phần nào những hậu quả và hệ lụy mà hiệp định này gây ra cho số phận các dân tộc ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Đối với Việt Nam, trước hết đó là việc phân chia lãnh thổ toàn vẹn của nước ta thành hai miền, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời, trong khi chờ cuộc Tổng tuyển cử để thống nhất đất nước dự định diễn ra hai năm sau đó. Tác động trực tiếp của việc này là 14 vạn người miền Nam và miền Trung từng tham gia kháng chiến chống Pháp đi tập kết ra miền Bắc để bảo toàn lực lượng; đồng thời gần một triệu người miền Bắc di cư vào miền Nam để “tị nạn cộng sản”. Cuộc sống người dân từ vĩ tuyến 17 trở vào chứng kiến những xáo trộn và biến động to lớn, từ cơ cấu dân cư, các thành phần kinh tế, chế độ chính trị, đến sinh hoạt văn hóa, văn nghệ. Ảnh hưởng trực tiếp và bao trùm là cuộc chiến tranh ngày càng lan rộng và khốc liệt, diễn ra ở nông thôn, rừng núi và kéo dần đến thành thị.

Nguyễn Tuân – Sự thống nhất, biến hoá kỳ lạ trong một con người

Đoàn Trọng Huy (*)

 

Cách mạng Tháng Tám đã đổi đời cho dân tộc, trong đó có các văn nghệ sĩ. Họ trở thành con người với tư thế biến đổi kỳ lạ: nghệ sĩ mới tự do,khác hẳn người làm nghệ thuật thời nô lệ.

Nguyễn Tuân là một trong số đông những nghệ sĩ ấy đã tự Lột xác (1945) để mang một nhân thân mới.Trưởng thành trong cách mạng và kháng chiến,Nguyễn Tuân đã trở thành một nhân cách lớn – nhân cách có nhiều phẩm cách hay tư cách: nhà văn nghệ sĩ, nhà văn hóa, bậc thầy ngôn từ,

 

 (Nguyễn Thị Phương Thúy, Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

           TP. Hồ Chí Minh là thành phố năng động bậc nhất cả nước. Những đổi thay chóng mặt của cuộc sống đều đậm đặc ở nơi này, từ đó theo ngòi bút của các tác giả trẻ đi vào trang sách. Trong lịch sử văn học, TP. Hồ Chí Minh – trước kia là Sài Gòn – luôn giữ vai trò tiên phong trên con đường cách tân và hiện đại hoá, trong đó lực lượng quan trọng là những người trẻ. Chính vì thế, văn học trẻ ở TP. Hồ Chí Minh có tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của người thành phố, cũng như đóng góp vào sự phát triển văn học cả nước. Bài viết này đưa ra những nhận xét khái quát nhất về đặc điểm văn xuôi hư cấu của các tác giả trẻ ở TP. Hồ Chí Minh những năm đầu thế kỷ 21.

Thông tin truy cập

63707089
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
5183
22198
63707089

Thành viên trực tuyến

Đang có 481 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website