Mức độ phổ biến, đón nhận những tác phẩm văn chương mới được tái bản chưa phải ở đâu cũng như nhau

 

Vài năm trở lại đây, những nỗ lực kiểm thảo, sưu tầm, minh bạch hóa văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954 - 1975 đang dần là công việc mang tính thúc ước và thật may mắn, chúng đã được xuất bản, đăng tải, lưu hành khá sôi nổi trong nhiều nhóm cộng đồng.

Việc đọc, thẩm định tác phẩm của nhiều gương mặt quan trọng làm nên bộ phận văn học này cũng dần đi vào bài bản. Đặc biệt, trong số đó, một vài tên tuổi nổi bật đã có thể xướng lên với niềm yêu mến, ngưỡng mộ công khai.

1. Từ điển văn học (bộ mới, 2004) đánh dấu sự có mặt mang tính quy phạm và chính thống hóa của một số tác giả văn học đô thị miền Nam: Bùi Giáng (1926-1998), Bình Nguyên Lộc (1914-1987), Nguyên Sa (1932-1998), Dương Nghiễm Mậu (1936-2016). 

Cho dù quá ít ỏi và không thật sự sáng rõ mọi điều về văn chương của mỗi người nhưng ít nhất, bộ sách công cụ ấy cũng đã hé mở vài cửa ngõ để độc giả nhìn vào bộ phận văn học từng bị coi là sản phẩm đáng quên của chế độ cũ.

Trên thực tế, đó cũng là thời điểm một số đơn vị xuất bản trong nước tỏ ra khéo léo, mạnh dạn lựa chọn và ấn hành lại tác phẩm của nhiều nhà văn có tiểu sử và sự nghiệp khác nhau: Dương Nghiễm Mậu gây khá nhiều sóng gió với các tập truyện Nhan sắc, Cũng đành, Đôi mắt chân trời, Tiếng sáo người em út (2007); Nguyên Sa yên lành hơn với Tuyển tập thơ chọn lọc (2005); Phạm Công Thiện cũng trở lại với tuyển thơ Trên tất cả đỉnh cao là im lặng (2009); 

Bình Nguyên Lộc có vẻ xuôi chèo mát mái với Tuyển tập Bình Nguyên Lộc (4 tập, 2002), mà về sau lại in theo phần riêng, với Truyện ngắn Bình Nguyên Lộc (2012), Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc (2017), Ký thác(2018), Hương quê (2018)... 

So với sự trở lại của một số tác giả mà lí lịch lẫn văn chương không bị coi là “có vấn đề” như Sơn Nam, Vương Hồng Sển, Trang Thế Hy thì Bùi Giáng với Đười ươi chân kinh (thơ văn tinh tuyển, 2012) cũng như hàng loạt dịch phẩm khác, Tràng Thiên với Quê hương tôi (2012) và Tạp văn (2014) hẳn nhiên là một tín hiệu quan trọng, không chỉ vì cho thấy sức đọc hôm nay đã tiếp cận được một hiện tượng thơ khó và còn lâu mới hoàn tất giải mã (như Bùi Giáng) mà còn báo hiệu những ngăn trở quá khứ, lịch sử xã hội sẽ dần khép lại trước nhu cầu thưởng thức văn chương.

Quả là độ lùi thời gian trong đời sống văn học, dù gì, cũng khiến các định kiến không thể kéo dài và sự tri nhận không rơi vào khuyết thiếu, chênh vênh mãi. Năm 2012, thêm một tác giả, lần này là nữ, Trần Thị NgH, được giới thiệu lại với bộ ba tập truyện Lạc đạn, Nhăn rúm, Nhà có cửa khóa trái.

Đến năm 2017, Nguyễn Thị Thụy Vũ, nữ tác giả được đón đọc bậc nhất trước 1975 ở miền Nam, gây chú ý vì trở lại cùng lúc với bộ 10 tác phẩm truyện ngắn, truyện dài. Như thể chẳng đặng đừng trước cơ hội “bước qua lời nguyền”,  đầu 2018, bộ đôi tiểu thuyết Tuổi nước độc và Sợi tóc tìm thấy của Dương Nghiễm Mậu đã được tái xuất.

Tác phẩm trở lại thì việc đọc, đánh giá văn học miền Nam 1954-1975 cũng  biến chuyển. Ngoài giới thiệu từng tác giả, tác phẩm riêng lẻ, đã bắt đầu có những nghiên cứu xoáy vào một vài vấn đề trọng tâm, kéo theo những nỗ lực dài hơi cả về tư liệu và nhận định.

Các công bố chính thức dưới dạng chuyên khảo hay tiểu luận của Trần Hoài Anh, Huỳnh Như Phương, Nguyễn Mạnh Tiến, Đỗ Lai Thúy, Nguyễn Thị Việt Nga, Nguyễn Bá Thành..., đóng vai trò là chỉ dẫn bước đầu để quan sát bức tranh tổng thể đời sống văn hóa văn chương Sài Gòn trước 1975.

Đấy là chưa kể một khối lượng phong phú báo chí văn chương miền Nam, từ Sáng tạo, Hiện đại, Thế kỉ hai mươi, đến Bách khoa, Đại học, Văn,... và các tác phẩm khảo cứu, dịch thuật của Nguyễn Hiến Lê, Phạm Thế Ngũ, Thanh Lãng, Nguyễn Văn Trung, Vũ Đình Lưu, Tuệ Sỹ, Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Duy Cần, Phan  Khoang, Kim Định, Nguyễn Thế Anh, Tạ Chí Đại Trường..., những nhân vật từng góp phần tạo nên đời sống văn sử triết sôi nổi ở miền Nam, đều đã và đang có mặt trên nhiều kệ sách và là thư mục tham khảo trong nhiều bài viết học thuật hôm nay.

2. Thực tế và những động thái tái dựng văn học đô thị miền Nam như trên chắc chưa thể coi là đầy đủ và có tính hệ thống. Chỉ một số lượng rất nhỏ những tác phẩm văn chương có hệ số an tâm cao về nội dung mới được xuất bản lại và mức độ phổ biến, đón nhận chúng chưa phải ở đâu cũng như nhau.

Ngay cả trong cộng đồng quan tâm, có thiện cảm lớn với bộ phận văn học này, từng đầu tư thời gian, kinh phí lẫn cách giải quyết phiền hà ngoài văn chương, khi bắt tay lần giở cảo thơm thì cũng chưa thấy mấy ai có thể  thuyết phục hoàn toàn cho mọi người hiểu đó là hành động nên chung tay góp sức hay chỉ cổ vũ đứng ngoài.

Tuy thế, với chứng cớ rằng đã có lượng độc giả tìm đọc văn học miền Nam 1954-1975 một cách tự thân, thì nhất thời, có thể tin sự ngăn cách quá khứ - hiện tại, và rào cản tâm thế sẽ dần được tháo dỡ, tiến đến những thông hiểu chính xác và chính đáng.

20180813 vhmNam

Tôi tin độc giả thông thái hôm nay đã không còn dễ dàng bị “dắt mũi” trong các diễn ngôn cho phép hay cấm kị đọc sách gì, mà từ đó dẫn đến thờ ơ, lãnh đạm, phủi tay với “ấn phẩm xám” nảy nở trong lòng miền Nam trước 1975. 

Bằng hành vi đọc của mình, độc giả, cũng như tất cả những ai tôn trọng mọi con đường đi tới thống nhất nhân tâm địa lí, đang góp phần tạo nên sự hiện hữu đáng tin của một nền văn học dân tộc đúng nghĩa.

Tương tự, nếu nhìn sang lĩnh vực âm nhạc, sẽ càng thấy sinh động và ngạc nhiên hơn nữa bởi sự hưng thịnh khắp thôn cùng xóm vắng của dòng nhạc bolero hay những tình khúc “đi cùng năm tháng” vốn từng được cất lên ở Sài thành trước 1975.

3. Văn học miền Nam đô thị 1954-1975 vẫn tiếp tục nằm trong “lãnh cung” nếu công việc tìm lại những tiếng nói và đồng thời, hiển thị chúng không được coi là trách nhiệm đương nhiên của văn học sử.

Bên cạnh những phát biểu cửa miệng mang tính chiêu tuyết cho việc dựng lại văn học miền Nam trước giải phóng, nhất thiết phải xây dựng được giáo trình văn học sử trọn vẹn, đa dạng, hợp lí. Tôi biết ở một số Văn khoa của các trường đại học đang cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu và giảng dạy vài tác giả nổi bật như Bùi Giáng, Mai Thảo, Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa...

Bản thân các tác giả này, trong nhiều sự kiện văn học nghệ thuật khác nhau, cũng đều được giới thiệu với công chúng. Bởi thế, đây là lúc để giảng dạy lịch sử văn học trong một tổng thể văn hóa và giá trị dân tộc hài hòa.

Với lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, nhất là từ sau 1954, thì văn học đô thị miền Nam phải được coi là bộ phận hợp thành, và do đó, việc các tác giả tác phẩm được trở lại chính là để giảm thiểu sự khuyết thiếu nhiều năm liền trong cơ cấu tri thức văn hóa văn chương tiếng Việt mà sách vở nhà trường đang đối diện.

Cá nhân tôi và nhiều độc giả khác hẳn đều chờ đợi những tiếng nói và giá trị khác ngoài bộ phận văn học miền Bắc lâu nay, đặng cho cuộc đọc của mình sáng láng, hoan hỉ hơn.

4 thập niên qua, kể từ khi đất nước thống nhất, văn chương tiếng Việt đang không ngừng mở rộng không gian tồn tại, nhất là khi một số lượng lớn các nhà văn miền Nam trước 1975 vẫn tiếp tục cầm bút sáng tác ở hải ngoại, ở nơi họ trú xứ.

Thành quả sáng tạo của họ đang làm cho giao diện văn chương tiếng Việt mới hơn và cũng khác hơn so với quá khứ. Cần đón nhận thế nào bộ phận văn học này? Trong chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước là hòa hợp, hòa giải dân tộc, chúng ta thấy rõ văn chương văn nghệ đang đi những bước rất tích cực, ý nghĩa.

Bởi lẽ, phàm đã là văn chương tiếng mẹ đẻ, ít hay nhiều, chúng ta đều bắt gặp ở đó những hạnh phúc, buồn vui, những vấp ngã và trưởng thành của bóng hình dân tộc. Chẳng có khung hệ đánh giá nào bền vững và nhân văn hơn sự tỉnh táo nhận thức về mình, bao gồm cả quá khứ và hiện tại, để tương lai không bị áy náy, lấn cấn điều gì.

Theo nghĩa đó thì sự tái xuất của một số hiện tượng văn học đô thị miền Nam 1954-1975 cũng trao cho chúng ta nhiều hi vọng, nhất là hi vọng đủ đầy của tương lai.

Mức độ phổ biến, đón nhận những tác phẩm văn chương mới được tái bản chưa phải ở đâu cũng như nhau.

Mai Anh Tuấn

Nguồn: An ninh thế giới, ngày 05.8.2018.

20180808 tac gia nu
Văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI chứng kiến sự trình hiện một cách đầy thuyết phục của các cây bút nữ, đặc biệt ở mảng truyện ngắn. Điểm dễ nhận thấy là các tác giả nữ dành nhiều tâm lực cũng như bút lực cho những vấn đề của giới mình: khát vọng sống, bản năng bị kiềm tỏa, những quan niệm và định kiến… Trong một bối cảnh mà nhiều vấn đề thuộc về giá trị nhân bản của con người đã được mở rộng biên độ, khi nhân loại không chỉ thừa nhận giới thứ hai mà còn thừa nhận cả giới thứ ba, thì các tác giả nữ cũng như nhân vật của mình hoàn toàn có cơ hội vượt thoát những định kiến từ lâu đã in bóng lên cuộc đời họ. Họ sẵn sàng dấn thân vào những vấn đề nhạy cảm như tính dục, đồng giới cũng như thẳng thắn thể hiện lối nghĩ mới về những miền hiện thực mang màu sắc truyền thống như gia đình, con cái, đức hạnh, trinh tiết, v.v… Theo mạch cảm hứng đó, sự phản kháng trở thành một phẩm tính chung của nhiều nhân vật, góp phần sinh tạo nên kiểu nhân vật “nổi loạn” (đặc biệt là nhân vật nữ) trong truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại. “Nổi loạn” ở đây được hiểu là hành trình nhân vật tự đấu tranh, vượt thoát mọi giới hạn để được sống đúng với cái “nhân vị đàn bà” của mình. Đây thực chất là sự phản ứng lại những định chế của xã hội trong việc kìm hãm tự do cá nhân của con người, mà sâu xa hơn là sự phản kháng vừa âm thầm vừa quyết liệt về một xã hội vốn hằn sâu tư tưởng nam quyền.

Từ “nổi loạn” trong nhận thức…
Simone de Beauvoir nói: “Người chỉ là người thực sự nếu biết phản kháng. Danh dự, giá trị làm người ở chỗ biết phản kháng, chống lại một thân phận đã bị gán cho một cách phi lí”(1). Trên tinh thần chung đó, triết gia hiện sinh và là người xác lập lí thuyết nữ quyền người Pháp này đã khẳng định: “Người ta sinh ra không là đàn bà, người ta trở thành đàn bà”. Điều này có thể được diễn giải rằng, đàn bà không sinh ra với những điểm bị cho là “yếu kém” mà chính định kiến và sự áp đặt của chế độ nam quyền đã biến họ trở thành thể thứ yếu, phụ thuộc. Theo đó, người phụ nữ hẳn nhiên không phải là một phần lệ thuộc vào người đàn ông như huyền tích của Kinh Thánh mà là những nhân vị độc lập có đời sống riêng của mình.

Một trong những tín hiệu đầu tiên của ý thức xác lập bản sắc - nhân vị đàn bà chính là ở sự tự thức nhận về cái tẻ nhạt của cuộc sống thường nhật. Khát vọng cháy bỏng muốn thoát ra khỏi cái vùng khí quyển nhờ nhờ, không hương sắc đó chính là động cơ mạnh mẽ nhất cho hành trình dấn thân của người phụ nữ. Khát vọng đó tượng hình trong câu hỏi xoáy mãi vào tâm can Vi (Cuối mùa bạch yến - Đỗ Bích Thúy): “Đời Vi chẳng lẽ giống cái cối này, cứ đứng mãi một chỗ, làm mãi một việc, ngày một già đi, khô héo đi, chẳng lẽ chỉ như thế thôi sao?”, hay My (Thiếu phụ chưa chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ): “Chẳng lẽ cái đời tôi chỉ cần có ăn với ngủ là xong thôi à? Sẩm tối là nhà nào biết nhà ấy, cứ thanh bình mà sống nếu như ngày hôm ấy không bị sổng con gà hay mất con chó. Rồi đẻ. Đẻ một lũ mặt mũi ngờ nghệch như ở trong hang, trong hốc”…

Một khi nhu cầu tự giải phóng của người phụ nữ khởi phát cũng tức là họ đã ý thức sâu sắc việc giải phóng tình trạng lệ thuộc của cái tôi thứ yếu bên cạnh cái tôi chủ yếu là nam giới. Vốn dĩ vẫn thua thiệt người đàn ông về nhiều phương diện, đặc biệt là quyền được biểu thị những ham muốn riêng tư, người phụ nữ không mấy khi dám vượt qua những rào cản tâm lí, đạo đức để sống thực với chính mình. Thông hiểu điều này, người cầm bút đã dành cho nhân vật của mình cơ hội thụ hưởng cảm giác một cách trọn vẹn trong giấc mơ. Nghĩa là, trong giấc mơ, những quan niệm về trinh tiết, nghĩa vụ, sự chung thủy... đều có thể bị bôi xóa. Trong Người đàn bà và những giấc mơ (Y Ban), giấc mơ chính là không gian đồng lõa với cuộc ngoại tình trong tư tưởng của người vợ. Mỗi lần người chồng về muộn, người vợ lại tự ru mình vào những giấc mơ ngoại tình, tận hưởng niềm vui với người đàn ông lí tưởng của mình: “Trong mơ, lần đầu tiên nàng mơ thấy ngủ với một người đàn ông khác và đạt tới cảm giác mạnh”. Nhờ dư âm của những giấc mơ kiểu như thế mà người đàn bà đạt được trạng thái cân bằng và duy trì đời sống vợ chồng ái ân lạt lẽo.

Ở một khía cạnh khác, các nhân vật nữ trong truyện ngắn đương đại còn đấu tranh để thoát ra khỏi tình trạng bị sở hữu, bị chiếm hữu, thậm chí là “bị dùng” như kiểu nhân vật người vợ trongCon chó và vụ li hôn (Dạ Ngân), hay nhân vật cô gái trẻ trong Gió mưa gửi lại (Thùy Linh): “Cháu đã quen với cuộc sống có rất ít sự níu kéo. Cháu không muốn bị chiếm hữu, cháu cần được tự do trần trụi”.
Muốn không bị rêu bám thì hòn đá phải lăn. Một khi đã nhận ra cảnh ngộ của mình cũng tức là đã tỉnh ngộ. Chừng nào con người biết ý thức về bi kịch của mình thì chừng đó họ còn có cơ hội để cải đổi. Bản thân thứ cảm xúc sinh ra từ quá trình tự thức nhận này cũng đã mang những giá trị kích khởi mãnh liệt. Sống là thay đổi, là để lấp đầy như cách lựa chọn của Hoan trong Giờ xanh(Phan Hồn Nhiên): “Tôi muốn thử một đợt sống thật khác. Nếu không bây giờ, sẽ chẳng bao giờ”.

… đến “nổi loạn” bằng hành động
Sự kết hợp giữa tư tưởng hiện sinh và lí thuyết nữ quyền trong nhiều truyện ngắn nữ Việt Nam đương đại là một xu hướng phù hợp với xu thế đi tìm sự cân bằng, bình đẳng giữa hai giới của xã hội hiện đại. Đó thực chất là sự quy chiếu những quan điểm hiện sinh vào một đối tượng bé mọn nhất, đáng thương nhất trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nhân loại: người phụ nữ. Thân phận của họ gắn liền với nỗi khổ đau, mặc cảm lệ thuộc, mặc cảm bị chiếm đoạt, mặc cảm bị áp bức... Họ chỉ là những “công dân loại hai” như lời của nữ luật sư trong Trời vẫn nắng suốt đêm (Hồ Anh Thái): “Chị kể câu chuyện của những thiếu nữ nhà quê, ngay từ bé đã bị cắt âm vật theo tập quán tôn giáo. Phụ nữ là công dân loại hai. Phụ nữ là ô uế và trạng thái cực cảm của họ là nỗi ô nhục cần phải xóa bỏ. Vậy. Phụ nữ chỉ là đồ vật trong gia đình, là cái máy đẻ cho chồng. Họ không có quyền đạt đến cực cảm”. Sự lồng ghép góc nhìn hiện sinh với những tư tưởng của nữ quyền luận là phương thức tạo hình nhiều cá tính góc cạnh, độc đáo. Không chỉ đòi quyền tự do luyến ái, họ còn công khai đòi được khẳng định quyền tự chủ trong đời sống cá nhân, sự ngang bằng về nghĩa vụ và quyền lợi trong tương quan với nam giới. Họ - giờ đây - không còn là những “công dân hạng hai” chỉ biết câm lặng và chịu đựng. Chân trời ở trước mắt và họ cho mình quyền tự định đoạt số phận của chính mình. Nhân vật Thoa trong Đường trần (Thùy Dương) trăn trở: “Có đêm hắn xong việc, ngủ khìn khịt còn tao vật vã trắng đêm, cứ muốn quy hoạch lại đời mình mà sao thấy khó quá, thấy rối bời và mông lung quá… Nhưng mà tao cũng phải có trách nhiệm với cuộc đời của mình chứ không thể sống vì người khác, vì những cái khác được”.

Để giành được quyền sống đúng nghĩa cho mình, sự phản kháng không chỉ dừng lại ở ngưỡng nhận thức mà nó còn cần và nhất thiết phải chuyển hóa thành hành động. Ở tầng ý nghĩa này, nhân vật nữ trong nhiều truyện ngắn thường được mô tả gắn với ý niệm về những cuộc hành trình, những chân trời, những viễn ảnh mới mẻ và đầy quyến rũ. Hình ảnh “tân cảng” trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Thị Thu Huệ trở thành biểu tượng cho những miền đất mới mà con người khao khát kiếm tìm. Không phải ngẫu nhiên mà người mẹ đã phân biệt một cách rành rẽ hai vùng đất - cũng chính là hai khoảng không gian sáng và tối: “Mẹ nói khi cả hai cùng nhìn về phía tân cảng: Con thấy cuộc sống ở đó không? Suốt ngày đêm tàu ra vào tấp nập. Đấy là bến cho các con tàu đến rồi đi. Quay sang phía khác. Lờ mờ trong bóng tối bên kia sông là làng xóm, âm thầm tĩnh lặng. Mẹ lại bảo: Đấy là các gia đình tối đến quây quần, loanh quanh rồi ngủ, mai dậy sớm đi làm… Nó hỏi: Tân cảng là gì ạ? Là cảng mới. Bao giờ cũng cần bến mới cho những con tàu”. Sau cuộc đối thoại, người phụ nữ ấy đã quyết định từ bỏ ngôi vị nữ chúa trong cái “cung điện” lạnh lẽo không hơi ấm suốt bao năm để bắt đầu lại từ đầu. Bão tố nổi lên trong chị ngay từ khi quyết định ấy thành hình và càng ngày càng dữ dội hơn. Nhưng không vì thế mà chị chùn bước: “Không có một điều gì làm chị xúc động hơn chính bản thân bão tố trong lòng chị lúc này. Chiến tranh đã nổ ra. Bom đã rơi vào chính chị. Và chị cũng phải chạy đi. Đến một cảng mới để làm lại từ đầu”.

Cuộc sống là một đường chạy đúng như nhân vật Thầm trong truyện ngắn cùng tên của Nguyễn Ngọc Tư đã định nghĩa: “Chạy, phải đau. Đau nghĩa là sống. Người chết không đau đớn”. Hiểu theo nghĩa này thì hành trình đến với những “tân cảng” trong cuộc đời mỗi người sẽ không bao giờ là con đường dễ dàng. Và cách thức mỗi người phụ nữ lựa chọn cũng khác nhau. Đó có thể là những phản ứng dữ dội theo kiểu con trẻ, gào thét điên cuồng khi không có được thứ nó muốn: “Tiếng thét của tôi bay lên chín tầng không trong thiên đường rồi lặn sâu xuống bảy tầng đất cát địa ngục. Tiếng thét như cánh chim đại bàng, bay đi tìm cái kiếp trước ngang tàng và càn rỡ. Mơ mộng và chìm lút. Muốn chinh phạt mà thành kẻ tội đày. Muốn thành đàn ông mà lại ra một cô gái. Chẳng được đi chơi lênh phênh khắp nơi, chẳng được đỏ đen mê muội, chẳng được vênh váo không cần biết ngày mai” (Giấc mơ - Võ Thị Xuân Hà); “Tôi chạy đến hồ Than Thở, buồn quá, lại quanh quẩn đồi Cù. Còn buồn hơn, mọi thứ đều lặng lờ, tôi muốn thét lên một tiếng thật to, may ra có cái gì sẽ vỡ, sẽ nổ và biết đâu sẽ vui hơn” (Hồng ngủ - Phan Thị Vàng Anh).

Nhiều nhân vật nữ trong truyện ngắn đương đại thậm chí có những quan điểm, hành động vượt ra ngoài mọi chuẩn mực, giới hạn. Họ hùng hồn bao biện cho những quan điểm, hành động đó như sau: “Tôi cóc cần sống vì ai. Tôi phải vì tôi bởi cũng có ai nghĩ đến tôi đâu” (My trong Thiếu phụ chưa chồng - Nguyễn Thị Thu Huệ); “Đời là cái cóc khô gì? Danh dự là cái cóc khô gì? Anh giữ mọi thứ để làm gì? Chết đi, anh cũng một nắm đất như ai” (Huệ trong Minu xinh đẹp - Nguyễn Thị Thu Huệ).

Sắc thái “nổi loạn” hiện sinh trong truyện ngắn Việt Nam đương đại đặc biệt phong phú và tươi mới ở khuynh hướng kêu đòi cho quyền được thỏa mãn những khát vọng luyến ái. Người phụ nữ sẵn sàng dứt bỏ tất cả để ra đi theo tiếng gọi của tình yêu, bất chấp đó là thứ tình yêu trong sáng thuần khiết hay là thứ tình yêu đắm đuối nhục cảm. Cũng như cô gái trong Người xưa (Nguyễn Thị Thu Huệ) “luôn muốn một cái gì như gió bão chứ không đủ sức chịu đựng và chờ đợi sự thấm lâu của mưa ngâu”, người vợ của ông Xung trong Đêm trăng (Nguyễn Thị Thu Huệ) “suốt đời đam mê cái gì đó chính nàng không hiểu”, “khao khát một cuộc sống mà tình yêu phải là ngọn lửa thiêu đốt”, cho dù có thể vì thế mà “đau đớn, bị quật ngã”. Người phụ nữ ấy trốn bình yên đi tìm giông tố vì không thể bằng lòng với những đêm trăng thật là trăng trong vườn hồng tĩnh lặng, vì không chấp nhận năm tháng tuổi trẻ không có đàn ông bên cạnh.
Điều đáng ngạc nhiên là, như một phép phủ định đối với những quan niệm truyền thống, người phụ nữ trong truyện ngắn đương đại có những lựa chọn khác thường. Họ thậm chí có thể phản ứng khá cực đoan với vấn đề gia đình và những đứa con. Trong khi tranh đấu đòi quyền sống, quyền bình đẳng cho mình, họ mặc nhiên xem đó không phải là thiên tính, thiên chức mà ngược lại, là gánh nặng, là sự cản trở. Lan trong Một nửa cuộc đời và Sao trong Giai nhân của Nguyễn Thị Thu Huệ là những mẫu phụ nữ tiêu biểu cho kiểu nhân vật này. Lan van nài Thắng - người tình của cô: “Em sợ cuộc sống buồn tẻ. Nó giết chết tuổi trẻ và những ham muốn. Cuộc sống tuyệt vời thế này vậy mà hàng ngày em cứ lọ mọ như một mụ già xẩm sờ xó bếp. Cơm nước, con cái và ngu si dần đi… Chúng mình hãy rũ bỏ tất cả. Đến với nhau đi anh. Sắp già và chết đến nơi rồi”. Sao thì tuyên bố với người yêu về quyết định phá bỏ đứa con trong bụng mình: “Tôi không muốn giết tuổi trẻ của mình bằng con đường tự biến mình thành con ở. Tôi còn quá trẻ để ngồi ôm con cửa sổ ngóng chồng đi làm về mỗi sáng, mỗi chiều. Tôi còn phải học, phải phấn đấu để có một cái tên trong cuộc đời này. Thành bà nọ bà kia mới khó, chứ thành vú em khó gì…”; “Con ư, con là cái gì? Nó đem lại cho đời tôi cái gì ngoài sự sồ sề, nhếch nhác và ngu si. Con để làm gì khi trước mắt tôi là bao nhiêu con đường. Lấy anh. Rồi cứ một năm tôi sản xuất cho anh một đứa vì dòng họ anh vắng người, lại đẻ như gà ấy mà”.

“Nổi loạn” - theo cách này hay cách khác - có cái giá riêng của nó. Sự trả giá là điều mặc nhiên một khi con người đã lựa chọn. Đôi khi, nó có thể chính là cái chết. Đó là câu chuyện của cô gái đẹp mang tên Sải trong Con dại của đá (Võ Thị Hảo). Sải có những khát khao kì lạ mang đường nét mơ hồ của miền đất mới - nơi chưa một ai trong vùng từng đặt chân đến: “Con ngựa tía là con dại của đá. Nó không biết làm lành với đá và luôn lồng lên khi thoáng nhận ra mùi lạ và cứ vùng vằng xông tới đó bằng được. Thế nhưng nàng thích cưỡi nó, vì nó cũng giống nàng, cứ khao khát mãi một miền ngái lạ”. Đó là lí do nàng rời Hùng De để đi với Cáo Tờ Quẩy: “Hùng De không mang vị mặn của biển. Chàng chưa bao giờ tới biển. Trong mái tóc mịn của chàng chỉ có mùi ngọt lợ của sương mù quanh năm quẩn trên đỉnh núi. Mắt Cáo Tờ Quẩy vằn những tia đỏ của rượu, của thuốc phiện và những ham hố. Nhưng nàng lượng thấy trong mắt hắn những miền xa vời vợi mà nàng chưa hề biết tới. Quẩy hứa sẽ đưa nàng đi chơi biển. Nếu được xuống biển, nàng sẽ sung sướng hơn cả mẹ nàng và bà nàng ngày xưa. Đàn bà con gái trong bản này chưa ai xuống biển”. Sải chết mà chưa kịp biết biển là gì, chết trong nỗi đau và niềm phẫn hận vì bị lừa gạt. Nhưng trong niềm bi phẫn đó, nếu lựa chọn một lần nữa, hẳn Sải sẽ vẫn chỉ là “đứa con dại của đá”, vẫn thêm một lần nữa trốn chạy, bằng lòng đổi tình yêu, hạnh phúc hiện tại của mình để lấy những ước mơ.
*
*    *
Như vậy, sau 1986, hình tượng người phụ nữ “nổi loạn” song hành với những cảm thức về tính chất phi lí của cuộc đời, sự giới hạn, trói buộc của những quan niệm đạo đức cũ, sự vùng lên của giới tính thứ hai… Theo A.Camus: “Sự nổi loạn là một phản kháng bằng sức mạnh không giới hạn và mục đích ôn hòa là giảm bớt đau khổ của thân phận con người”(2). Theo tinh thần này, “nổi loạn” được coi như một lực đẩy tích cực giúp con người tự trấn an mình, đồng thời dấn thêm một bước trên con đường hiện sinh.

 T.N.T
______

1. Dẫn theo Nguyễn Văn Trung (1964), Một vài cảm nghĩ về con người phản kháng của Albert Camus, Tạp chí Văn, số 2, Sài Gòn, tr.69.
2. Dẫn theo Bùi Ngọc Dung (1963), Albert Camus với nền văn chương triết học, Tạp chí Văn học, số 13, Sài Gòn, tr.40.
 
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 07.8.2018.

20180616 Che Lan Vien

1. Giai đoạn ba mươi năm chiến tranh cách mạng 1945 - 1975, thơ viết về cuộc kháng chiến của dân tộc là tiếng hát tự hào của cái “ta” nhân danh dân tộc, nhân danh chính nghĩa. Thơ viết về chiến tranh giai đoạn này là một “dàn đồng ca” với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Thơ đã trở thành vũ khí chiến đấu, cất lên thành lời kêu gọi, thành khẩu hiệu, mệnh lệnh tiến công. Chúng ta thường thấy hình ảnh của những con người xả thân để bảo vệ Tổ quốc. Người lính lên đường với khát vọng chiến đấu và chiến thắng. Cuộc chiến tranh càng lan rộng và quyết liệt thì thơ càng bám sát đời sống, mở ra khả năng chiếm lĩnh thực tại phong phú, đa dạng của hiện thực chiến tranh. Các nhà thơ đã mang đến cho thơ giọng điệu đầy nhiệt huyết của một thế hệ sẵn sàng gánh vác sứ mệnh lịch sử theo tiếng gọi của Tổ quốc: Ơi tuổi thanh xuân/ Mang bốn ngàn năm lịch sử trong tim/ Ta sung sướng được làm người con đất nước/ Ta băng tới trước quân thù như triều như thác/ Ta làm bão làm giông/ Ta lay trời chuyển đất/ Ta trút hờn căm đã làm nên những vinh quang bất diệt/ Sức mạnh bốn ngàn năm đã biến thành bão lửa ngút trời (Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi - Nam Hà).

Thơ chống Mĩ có dáng dấp một dàn đồng ca, một dàn hợp xướng lớn bởi nó được sinh thành trong một bối cảnh tinh thần đặc biệt của “Những năm đất nước có chung tâm hồn, có chung khuôn mặt” (Chế Lan Viên), và khi nhà thơ “tự hát” thì cũng ý thức được: Nhưng giọng anh đơn lẻ/ Sánh sao bằng đồng ca (Nhớ đồng ca, hát đồng ca - Phạm Tiến Duật). Chính vì thế, thơ trong thời kì chiến tranh chủ yếu thể hiện tinh thần lạc quan, nén lại những nỗi niềm riêng tư, nhằm vào mục đích chiến đấu chống lại kẻ thù: Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay (Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật). Cũng viết về cuộc chiến tranh đã đi qua, nhưng sau năm 1975, các nhà thơ đã hướng tới những số phận, khắc họa được những nỗi đau mất mát, nó thấm thía và lay động lòng người hơn trước. Nỗi buồn được cảm thông và chia sẻ trong thơ họ rất thật, nó mệt mỏi, nhức đau như chính sự tàn khốc của chiến tranh. Thơ của họ như bản giao hưởng của rất nhiều khái niệm, cảm giác, suy ngẫm và ý tưởng, cùng tấu lên tràn đầy sức tưởng tượng lạ lẫm. Những “nỗi buồn chiến tranh” để lại không ít vết thương trong trái tim nhà thơ. Sự thật khắc nghiệt mà họ phải nếm trải đã dội đập vào thơ họ đến tức ngực, làm thơ họ bừng tỉnh. Đọc thơ họ, ta như được tham dự vào những nỗi khổ đau và hi vọng đã làm nên gương mặt của mỗi số phận. Các nhà thơ đã dựng lên được chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng với ý thức công dân, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc; khẳng định và tự hào đối với những sự kiện lớn, những chiến công vĩ đại của dân tộc; hồi tưởng về sự hi sinh tột cùng đau đớn: Năm tháng chúng tôi đi cánh rừng xao xác lá/ Trước mặt đạn bom, sau lưng cũng đạn bom/ Tiểu đoàn tôi ba trăm người tất cả/ Chỉ còn năm, khi về tới Sài Gòn (Mùi nhang đêm giao thừa - Văn Lê); Nếu tất cả trở về đông đủ/ Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn (Gửi sư đoàn cũ - Nguyễn Đức Mậu).

Trong quá trình tiếp cận những tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh, Gabrielle Schrader - một người Mĩ đã có nhận xét: “Về mặt lịch sử, văn học chiến tranh Việt Nam đã cung cấp cho các nhà sử học và xã hội một bức tranh sáng rõ về thực tế của cuộc chiến… Văn học Việt Nam viết về chiến tranh thực sự đã chạm đến trái tim người Mĩ”(1). Thật vậy, khác với cách viết về chiến tranh trong thời chiến, văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh đã có hướng khai thác mới mẻ hơn. Đứng trên lập trường của chủ nghĩa nhân đạo, chiến tranh đã được nhìn nhận như một biến cố bất thường, phi nhân đạo bởi những mất mát, bi thảm trong số phận con người.

2. Chưa bao giờ nhu cầu đi tìm một tiếng nói riêng lại được đặt ra cấp thiết như hiện nay. Thơ trước đây cũng mỗi người một vẻ, nhiều giọng điệu, nhưng đó là sự phong phú, đa dạng của một nền thơ thống nhất trên cùng một cảm hứng trữ tình công dân, còn hiện nay sự đa dạng về giọng điệu xuất phát từ nhu cầu khẳng định cá tính và nhận thức hiện thực thông qua số phận cá nhân. Tác giả của các bản trường ca về đề tài chiến tranh giữ nước hầu hết đều là những người trong cuộc, là những người lính gắn bó với chiến trường. Những gì mà họ phản ánh trong trường ca đều là những điều mắt thấy tai nghe. Họ đã từ hiện thực chiến tranh để viết về chiến tranh với biết bao cung bậc cảm xúc. Trong thời chiến các nhà thơ phần lớn thường có tâm thế hướng ngoại khi nói về nhân dân, đất nước cùng với những sự kiện có tầm vóc lịch sử. Trữ tình cá nhân đã nhường chỗ cho trữ tình công dân nên tác phẩm trường ca thường mang dáng vóc và âm hưởng sử thi. Thời kì hậu chiến, hiện thực chiến tranh vẫn là nguồn cảm hứng vô tận của những nhà thơ mặc áo lính, nhưng giờ đây khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo đã cho người viết được khai thác và thể hiện đến tận cùng mọi cảnh huống ngặt nghèo, bi đát nhất của chiến tranh. Chiến tranh được tái hiện trong dòng hồi ức kỉ niệm của ý thức và cả phần vô thức. Giọng điệu một số bản trường ca có khuynh hướng thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện như trong trường ca truyền thống không còn là điều quan trọng, nhưng bao giờ yếu tố tự sự cũng có vai trò nổi bật. Chủ thể sáng tạo không chỉ đóng vai trò là người thư kí trung thành của thời đại mà còn là người phát ngôn của cộng đồng thông qua tiếng nói cá nhân. Về điều này nhà thơ Thanh Thảo đã viết: “Ai sẽ nói thay họ trong khoảnh khắc, trong sự mong manh… nếu không phải là nhà thơ. Nâng cây đàn lyre của vô thức tập thể, nhà thơ hiện đại có thể sững sờ khi những dòng thơ của mình bỗng trào lên nhiều giọng điệu, nhiều tiếng nói, và tự nhiên nó có hình thức của một phức hợp nghệ thuật”(2). Nhìn chiến tranh từ góc độ cá nhân, các tác phẩm viết về đề tài này không chỉ “làm sáng rõ những cội nguồn sâu xa nhất đã làm nên sức mạnh thúc đẩy cuộc chiến đấu trường kì của nhân dân ta tới chiến thắng” (Thiếu Mai) mà còn nêu được những tổn thất, mất mát của dân tộc mà trước đây văn học chưa có điều kiện phản ánh. Khảo sát qua một số tác phẩm có thể thấy rõ hơn những đặc điểm này. Trong trường ca Gọi nhau qua vách núi của Thi Hoàng số lượng các phần, các trang viết về chiến tranh không nhiều nhưng khá ấn tượng. Phần thứ nhất Hoa với chuyện của ba người và chuyện của nhiều người là phần có nhiều sáng tạo. Ba chữ cái A.B.C đã được tác giả sử dụng cho ý đồ nghệ thuật của mình rất hiệu quả. Có khi đó là hình ảnh cụ thể của người lính thời chống Mĩ: Có một đám tang chỉ có ba người/ Kể cả người đã chết/ Trong góc rừng miền tây xa tít tắp/ Nước trong lòng suối lặng lờ trôi/ Chiều lạnh và trong như ngàn vạn mảnh thuỷ tinh tan vỡ/ Những giọt nước mắt khô long lanh sắc cứa/ A và B khóc C trong một tổ ba người. Có khi đó là biểu tượng mang tính ước lệ, là anh, là tôi, là những người còn sống hoặc đã khuất: A.B.C thành một cánh rừng rồi/ Cánh rừng yêu thương lá tìm lá đan cài vấn vít/ - A là anh tôi như thể là B/ Mình thực có hay là không có thực/ Mình đang sống hay là mình đã chết/ Chết rồi hay vẫn sống như ta?
Ở phần chín - phần cuối cùng của trường ca, lại được đặt tên A.B.C (hay là tiếng gọi). Ở đây A.B.C không còn là những mẫu tự vô tri trong hàng chữ cái mà đã được hoá thân trong nhiều dạng thức mới. Chiến tranh được soi chiếu bằng một cái nhìn sắc lạnh, tỉnh táo của người trong cuộc nhưng đã có một khoảng cách thời gian sống trong hoà bình. Những gian khổ, mất mát của chiến tranh được hồi tưởng: Chúng tôi đi qua/ Đi qua/ Nỗi sợ hãi để lại sau lưng một khoảng tối om/ Sự gian khổ ấn xuống hai vai bằng đôi tay một gã khổng lồ/ Niềm thương mẹ nhớ em cũng có lúc hoá thành dao sắc/ Cắt vào thịt da/ Dãy Trường Sơn rùng rùng sốt rét/ Những viên bi của bom bi đỏ máu đồng đội lăn qua ngực mình/ Mắt mờ đục đói ăn tóc khô xác tưởng chừng bẻ gãy/ Đường độc đạo một đi không trở lại. Và số phận cá nhân trong cuộc chiến tàn khốc này mang một vẻ đẹp đầy bi tráng: Tôi hai mươi như nước lũ/ Bom đạn nổ tung con đập, nước tràn bờ/ Tôi - Giản ước đến tận cùng để còn lại chính tôi/ Tôi nổ súng!/ Tôi là hạt cứng đanh chưa nảy lá/ Chiến tranh dẫm lên trầy vỏ đã bao lần.

Cũng giống như Gọi nhau qua vách núi, trường ca Ngày đang mở sáng của Trần Anh Thái được kết cấu theo mạch tư tưởng - cảm xúc. Toàn bộ tác phẩm là một dòng tâm trạng gắn với các tình huống, các sự kiện và các mối quan hệ tình cảm. Nhân vật trữ tình đóng vai trò chủ đạo trong tác phẩm chính là cái tôi của nhà thơ. Ở đây cảm xúc trữ tình đã được kết hợp với năng lực tích tụ những trải nghiệm cá nhân của một người lính từng tham gia chiến trận. Hiện tại và quá khứ đan xen nhau từ trong đáy sâu của tiềm thức như một niềm ám ảnh không dứt. Trường ca gồm có 11 khúc, mỗi khúc lại có nhiều đoạn khác nhau. Mỗi khúc của trường ca có cấu tạo độc lập, mối liên hệ giữa các phần khá “lỏng”, có thể thay đổi vị trí cho nhau cũng không làm ảnh hưởng đến cấu trúc tác phẩm. Nhà thơ tham gia, tác động vào kết cấu bản trường ca với tư cách là nhân vật tâm trạng. Do đó cái tôi của nhà thơ luôn đứng ở bình diện thứ nhất để tạo ra không khí cho toàn bộ tác phẩm. Nó xuất hiện từ Khúc I trong tâm thế: Tôi hào phóng tung những con thuyền cất giấu trong mơ/ Bay mãi mãi về phía mặt trời bí ẩn. Cho đến khúc cuối cùng: Tôi qua những cánh rừng núi đồi/ tới bờ biển và sa mạc lạ/ Những dấu chân bất an/ Kí ức sáng trên vầng trán người đạo sĩ già/ ẩn cư miền cao Yên Tử/ Chòm râu phơ phất ưu tư/ Đêm đêm giấc mơ trở về/ Người đạo sĩ chống cây gậy trúc chỉ tay về phía biển Đông/ Mặt trời đang mở sáng… Có thể thấy ở đây “cơ chế giấc mơ” đã hoàn toàn ngự trị tư duy hướng nội và mạch cảm xúc của nhà thơ.

 Về phương thức biểu hiện của trường ca, chúng ta thường thấy có sự kết hợp giữa trữ tình và tự sự. Trữ tình thường bộc lộ những suy nghĩ và cảm xúc của chủ thể sáng tạo; tự sự phản ánh khách thể, tạo nên mọi dáng vẻ, đường nét của hiện thực. Ở trường ca Ngày đang mở sáng cảm xúc trữ tình của nhân vật tôi có phần nổi trội, lấn át việc miêu tả hiện thực. Hay nói một cách chính xác hơn là hiện thực đã được soi chiếu và dẫn dắt bởi mạch cảm xúc của nhà thơ. Cũng có thể xem đây là một sự “phá vỡ” về mặt thể loại. Chiến tranh luôn đè nặng trong tâm thức của mỗi người lính đã từng tham gia cuộc chiến. Khúc V của bản trường ca là một hồi ức rách xé, đau đớn về chiến tranh và sự thật bi thảm này đâu dễ được tái hiện khi chiến tranh đang tiếp diễn: Kẻ thất trận dưới chân đồi lê bước/ Kéo hoàng hôn rã rời/ Kẻ thắng trận hai tay ôm mặt khóc/ Thương tích tạc vào gió thổi ngàn sau. Chiến tranh được nhìn bằng cái nhìn khác, chân thực và xót đau, chạm đến những rung động của cuộc sống con người đời thường, thế sự.

Bước ra từ cuộc chiến tàn khốc, khác với mọi người, người lính vừa phải sống cùng thực tại vừa phải sống cùng kí ức, phải chịu đựng nỗi đau mất đồng đội hoặc chứng kiến nỗi đau của người thân đồng đội. Những câu thơ văn xuôi trùng trùng, lớp lớp, day dứt khắc khoải là nơi để họ gửi gắm tâm tư:
Bạc mắt mùa màng, cát trắng lăm dăm mặt, bầu trời khoanh một vòng tròn trắng. Những hạt mầm nhao lên cơn khát.
Người ủ giấc mơ vào đêm che chở, ý nghĩ ngược xuôi con đường. Trăng cuối tháng mơ hồ rớt ngoài cửa sổ, bản đồng ca ran vang màn sương mờ đục cõi sinh.
Đâu đó dậy bước đoàn quân. Lá rừng xào xạc rẽ đường qua gai bụi. Tiếng ai ấm áp xa xôi ngày gặp mặt. Những gương mặt xa dần, tiếng đạn bom chìm khuất. Bia mộ viết vu vơ không tên đất tên người. Sông Vệ buồn bã chảy bên đồi Đình Cương, vết thương rỉ máu luênh loang gọi rừng xưa run rẩy tím màu hoa.

(Ngày đang mở sáng - Trần Anh Thái)

Những năm tháng chiến tranh khốc liệt vẫn luôn hiện hữu trong dòng suy nghĩ, trong cơn mơ, lẩn quất trong mỗi không gian sống của cuộc sống người lính thời hậu chiến. Nó trở thành nỗi ám ảnh, thành những mảng kí ức, hằn in khắp nơi trên quê hương. Với những người lính trở về từ cuộc chiến, hiện tại và quá khứ cứ đan xen, lẫn lộn và luôn lẩn khuất đâu đó.

Chiến tranh đã dần lùi xa nhưng nó chưa thể phai nhòa trong kí ức vì đâu đó vẫn còn hình ảnh của chiến tranh. Nó hiện lên trong giấc mơ của người lính, trong nỗi đau mất mát của người mẹ, trong ánh mắt sợ hãi của người em, trong nỗi cô đơn của người góa phụ và trong cảnh côi cút của những đứa trẻ mồ côi.

Bừng thức đàn chim vút ngang mái nhà tranh mỏng mảnh. Cây vú sữa trái mùa rụng lá tím bầm mặt đất. Những ngọn cỏ thiếu nguồn sinh úa ngọn xanh xao. Sông Vệ kiệt dòng nhằng nhẵng bờ tre ngã bóng. Ngày tháng loanh quanh ô đất mảnh vườn.
Đêm toan tính không đâu ngày trĩu nặng. Nước mắt chảy ròng trên má con thơ.
Chị mỗi ngày bước mỏi, bàn chân heo hắt cánh đồng.
Mặt người gập đất.


Dường như dấu ấn chiến tranh vẫn còn hằn rất rõ trên số phận của những người lính và người thân của họ. Những người phụ nữ vừa phải vật lộn với cuộc sống khó khăn thời hậu chiến vừa phải chịu đựng nỗi đau, nỗi cô đơn. Bằng những câu thơ đầy day dứt, cảm xúc tuôn trào, nhà thơ đã lột tả rất rõ nỗi buồn chiến tranh trong thời hậu chiến. Những kỉ niệm của một thời anh hùng mà bi tráng đã trở thành một phần máu thịt của người lính. Dù “ngày đang mở sáng” nhưng những mảng tối của chiến tranh vẫn đâu đây. Và điều đó tạo nên sức mạnh để những người lính bước tiếp vào ngày mai bằng bản lĩnh, niềm kiêu hãnh và cả sức mạnh của nỗi đau.

3. Chiến tranh đã đi qua, nhưng nó chưa bao giờ trở thành quá khứ trong cuộc đời của những người lính đã từng tham gia trận mạc. Những hồi ức đau thương, những thực tế dữ dội của chiến tranh luôn ám ảnh họ. Bài thơ Cánh rừng nhiều đom đóm bay của Nguyễn Đức Mậu đã miêu tả cái tâm thế đó bằng những hình ảnh rất cụ thể. Không gian của bài thơ là một góc rừng Trường Sơn thời chiến tranh chống Mĩ, thời gian trải dài trong một ngày đêm, nhân vật chính là người lính trong một đơn vị đang hành quân qua khu rừng... Tất cả những cảnh huống đó đòi hỏi một hình thức thể hiện thích hợp, lạnh lùng, dữ dội nhưng quặn thắt đớn đau: Chiến tranh lùi xa, con đường mòn Trường Sơn bao giờ tôi trở lại? Đâu cái giếng nước hoà máu người tôi uống trong cơn khát, gốc cây rào rào bầy mối đục mòn đêm. Đâu năm ngôi mộ vô danh đắp bằng nỗi đau nước mắt. Nơi cánh rừng có nhiều đom đóm bay. Trong ngày lễ mừng chiến thắng, hàng mấy chục năm sau chiến tranh, người lính vẫn đau đáu một nỗi niềm nhớ về những đồng đội cũ đã nằm lại nơi chiến trường xưa. Những kỉ niệm ấy đã giúp cho họ sống xứng đáng với non sông đất nước hôm nay: (...) Không có ngày vui nào không đi kèm với ngày thương ngày nhớ (...) Bạn ở đâu dưới đất đen, đá đen, cây mục đen, hầm chữ A đen, trọng điểm đen, bóng cây đen trong dải rừng già Trường Sơn. Hơi ấm duy nhất của bạn trong mùa đông chỉ là đất mẹ. Hơi mát duy nhất của bạn trong mùa đông chỉ là chút gió quạt từ cánh bướm hoang. Để có ngày hôm nay, ba triệu người Việt Nam đã ngã xuống (...) Hãy về cùng tôi, một người lính bình thường như bao người lính khác… (Đất nước - Phạm Tiến Duật).

“Giữa chiến tranh hiểu đời thực hơn nhiều”, càng đi sâu vào cuộc chiến, phải chứng kiến nhiều hơn những cảnh tượng giết chóc kinh hoàng, đẫm máu, thế hệ những người lính chống Mĩ không còn đủ vô tư như thời trước Đường ra trận mùa này đẹp lắm (Phạm Tiến Duật). Đó là một thế hệ bầm dập bởi chiến tranh và đã mất đi những ảo tưởng ngây thơ về cuộc chiến: Đừng nói với ta những lời hào nhoáng về chiến tranh/ Tuổi trẻ ta đã qua bạn bè ta đã chết/ Ta vượt bao đèo cao chót vót/ Bao điều nhà trường chẳng dạy cho ta/ Nghĩ lại giễu cười những giấc mộng tuổi thơ/ Giờ trong ta vui buồn đều nín lặng (Những bông hoa không chết - Lưu Quang Vũ). Lưu Quang Vũ trở thành người lính ngay từ những năm đầu chống Mĩ. Chi phối thơ anh thời kì này là cái nhìn lạc quan, trong trẻo, đầy tin cậy: Ta đi giữ nước yêu thương lắm/ Mỗi xóm thôn qua mỗi nghĩa tình. Nhưng chỉ vài năm sau đó, cái nhìn về chiến tranh trong thơ anh đã khác hẳn. Đấy là một cái nhìn trực diện, chân thực và đau đớn. Chiến tranh, trước hết gắn liền với chết chóc và bi kịch: Thời bạo tàn lửa cháy khắp nơi/ Những thây người gục ngã/ Những nhịp cầu sụp đổ/ Những toa tàu rỗng không (Những bông hoa không chết); Nhưng mãi mãi chẳng bao giờ sống dậy/ Những tháng năm đã mất/ Những nhịp cầu gẫy gục/ Những toa tàu đã sụp đổ tan hoang (Những đứa trẻ buồn);Tuổi trẻ, ước mong, những gì quý nhất/ Đều trôi qua trong bụi xám chiến hào (…)/ Ai bảo chúng tôi là tuổi trẻ tươi xanh/ Với những mũi lê với phát đạn đầu tiên/ Chúng tôi đã không còn trẻ nữa(Cơn bão). Lưu Quang Vũ căm ghét chiến tranh bởi sự bạo tàn của nó. Chiến tranh hủy diệt những gì tốt đẹp nhất: tuổi trẻ, tình yêu, những khát vọng tuổi thơ… Nhìn vào cuộc chiến, Lưu Quang Vũ không những thương thế hệ mình phải hi sinh tuổi trẻ, mà anh còn xót thương cả những kẻ đứng bên kia chiến tuyến.

Hành trình vào chiến tranh của Lưu Quang Vũ cũng là hành trình nhận thức lại cuộc đời. Lưu Quang Vũ đã mang một cái nhìn khác và tìm một chất thơ hoàn toàn khác với giai đoạn trước của anh và khác với cả khuynh hướng chung của thế hệ thơ chống Mĩ.

Có thể nói, nhìn lại các sáng tác trường ca và thơ đương đại, tập trung vào chủ đề, cảm hứng viết về chiến tranh, chúng ta sẽ nhận ra những dịch chuyển về góc nhìn, thái độ, suy tư và cảm xúc của con người hậu chiến. Độ lùi thời gian là một nguyên do, nhưng có lẽ, sâu thẳm nhất chính là giá trị nhân văn, nhân bản của đời sống con người. Chiến tranh là đau thương, vì vậy, để hướng tới sự sống tốt đẹp hơn, việc nhìn nhận lại những biến cố ấy, soi chiếu bằng hệ giá trị nhân văn, phổ quát, thơ và trường ca Việt Nam hiện đại nói riêng, văn học nghệ thuật nói chung, đã cho thấy một chặng vận động mới của đời sống, lịch sử và văn chương.

L.K.T
------
1. Gabrielle Schrader, Văn học chiến tranh Việt Nam - một cái nhìn khái quát, http://helium.com.
2. Thanh Thảo, Từ đêm mười chín nghĩ về anh hùng ca và trường ca, Tạp chí Thơ, số 6/2006.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ngày 14.6.2018.

Xuân Quỳnh (6/10/1942 - 29/8/1988) là nhà thơ nữ hiếm hoi đã để lại nhiều bài thơ tình hay trong suốt đời thơ ngót ba mươi năm của mình. Ở thời kì đầu, qua hai tập Chồi biếc (1963) và Hoa dọc chiến hào (1968), bài thơ Thuyền và biển đã neo lại được trong tâm hồn người đọc nhiều thế hệ. Trong hình tượng thuyền và biển - Chỉ có thuyền mới hiểu/ Biển mênh mông nhường nào/ Chỉ có biển mới biết/ Thuyền đi đâu về đâu, chúng ta thấy được sự biểu đạt, sự tượng trưng cho tình yêu muôn thuở của con người, đến từ hai sinh thể khác giới, cộng hưởng, giao hòa, sinh sôi tạo nên cuộc sống. Bài thơ có tứ hay, lời da diết, nghe trong thơ có sóng gió của cao rộng đất trời và sóng gió trong biển lòng dào dạt của con người. Đó là tiếng nói, là vang vọng của một tình yêu nói chung, đúng cho mọi người, chung cho muôn đời. Thế nhưng, tình yêu còn là riêng, là rất riêng; và cái phần riêng đó thật sự chi phối để làm nên cả hạnh phúc và đau khổ, cả bù đắp và chia sẻ, cả gắn nối và chia phôi, cả niềm vui và xót xa...

Những dòng thơ trên là Xuân Quỳnh của thời con gái trẻ trung, thời chưa đến với Lưu Quang Vũ. Không biết thời của cuộc lập gia đình lần thứ nhất của chị có chút dư âm nào ở đây không? Tôi chưa bao giờ hỏi ai để được biết về Xuân Quỳnh của tuổi hai mươi, với gương mặt vui tươi và bừng sáng, dường như không biết buồn rầu, ủ dột là gì. Xuân Quỳnh - cô văn công xinh đẹp, chỉ vài năm sau, qua Chồi biếc mà trọn vẹn một gương mặt thơ nữ, hẳn chắc từng làm say mê nhiều người, có thể ban phát hạnh phúc cho bao nhiêu chàng trai. Thế nhưng tôi lại chưa đọc được trong thơ chị thời gian này những bài thơ thật say, tuy chị đã có bài hay, như Thuyền và biển...

Chia tay với cuộc tình thứ nhất, Xuân Quỳnh đã sớm đến với Lưu Quang Vũ. Vũ lúc này còn ở tuổi hai mươi lăm, sau khi chia tay với Tố Uyên, rồi lại chia tay tiếp với một cuộc tình thứ hai. Có nghĩa là, một Lưu Quang Vũ sau mất mát trong hai cuộc tình dồn gấp chỉ trong khoảng dăm năm. Không kể Vũ còn phải chịu đựng biết bao là bất hạnh trong mưu sinh và lập nghiệp, sau khi rời quân ngũ; thậm chí đang trong một cơn khủng hoảng tinh thần có chiều tuyệt vọng:

Điều anh tin không có ở trên đời
Điều anh có không giúp gì ai được

(Quán cà phê ngoại ô - Lưu Quang Vũ)

Xuân Quỳnh đã kịp đến và dang tay đón Vũ, đã chở che bao bọc Vũ, đã làm điểm tựa cả vật chất và tinh thần cho đời Vũ. Là người phụ nữ thông minh, giàu tình cảm và nhạy cảm, Quỳnh biết Vũ đang cần những gì. Còn chị, chị đã dành toàn bộ những gì mình có - trong tình yêu thứ hai và cũng là cuối cùng này, cho người yêu; đã bù đắp cho những thiệt thòi, bất hạnh của anh. Hơn thế, chị còn mong không chỉ bù đắp mà còn là hồi phục, là tái sinh và trở lại nguyên vẹn những tiềm năng, tài năng Vũ có, mà có lẽ hơn ai hết, Xuân Quỳnh đã sớm nhận rõ trong những năm 1970 gian khổ của đất nước, và tuổi hai mươi có quá nhiều gian nan của đời Vũ. Xuân Quỳnh đã đến với Vũ đúng vào lúc ấy. Lúc Vũ đã có những bài thơ cho hai cuộc tình gồm cả say đắm và cay đắng. Vũ đã đón nhận tình yêu của Quỳnh, tỉnh táo trong một cảm nhận ân nghĩa, sau hai cơn bão lòng:
Dù sao cuộc đời đã dành em lại
                            cho anh
Điều mong ước đầu tiên,
                 điều ở lại sau cùng
Chúng ta đã đi bên nhau trên
                              mặt đất
Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật
Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời
.

(Em II - Lưu Quang Vũ)

Nghe mà thương mà tội, bởi hình như cái bàng hoàng của những mất mát vẫn còn lẩn khuất đâu đây!
Trong tình yêu với Quỳnh, với thời gian không dài, Vũ đã lấy lại được sức lực và cả sự bình tĩnh của tâm hồn. Cách nói của anh trở nên điềm đạm hơn, như một trải nghiệm, một tổng kết mà dường như chỉ trong ân tình mới có được:
Biết ơn em, em từ miền gió cát
Về với anh, bông cúc nhỏ
                       hoa vàng
Anh thành người có ích cũng
                                 nhờ em
Anh biết sống vững vàng không
                                     sợ hãi
Như người làm vườn, như người
                                        dệt vải
Ngày của đời thường - ngày
                                  ở bên em

(Và anh tồn tại - Lưu Quang Vũ)

Hạnh phúc bây giờ không có gì là đột xuất như mối tình đầu, do vậy mà cái đời thường bỗng được đưa lên tầm cao hạnh phúc: cái đời thường - ở bên em. Còn Xuân Quỳnh - chị đã dành trọn vẹn tình yêu cho Vũ. Chị đã được sống hạnh phúc, thật hạnh phúc trong nhận và cho, nhưng trước hết là cho.

Xuân Quỳnh đã cùng chia sẻ những khó khăn của đời Vũ, và cũng như Vũ, chị càng cảm nhận rõ hơn trong đó tất cả hạnh phúc của đời thường. Chị đã có những bài thơ rất hay về con và cho con, qua thế giới tâm hồn đằm thắm của một người mẹ - người mẹ chung, không phân biệt, không thiên vị của cả ba đứa con: con riêng của mình, con riêng của Vũ và con chung của hai người. Chị viết về mẹ của Vũ - bà Lưu Quang Thuận - như chính mẹ của mình:

Phải đâu mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình
đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong
...
Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em

(Mẹ của anh - Xuân Quỳnh)

Chị viết về những lo lắng chăm nom rất nhỏ mà chỉ tình yêu và tình thương mới có:
Sao không cài khuy áo lại anh
Trời lạnh đấy, hôm nay trời trở rét

(Trời trở rét - Xuân Quỳnh)

Ai ở Hà Nội, ở đồng bằng miền Trung và Bắc Bộ mà quên được cái “gió đầu mùa” đã một lần xuất hiện trong văn Thạch Lam, và bây giờ sống một lần nữa trong thơ Xuân Quỳnh gắn với một tình yêu với biết bao là thủ thỉ. Quỳnh yêu cả những phố huyện nhỏ, nơi Vũ từng sống và từng qua:
Đến phố huyện lại nhớ về
                       phố huyện
Phố huyện nào anh ở ngày xưa?
Phố huyện nào anh ở những
                   chiều mưa?
Tiếng vó ngựa về đâu rồi
                    phố huyện?


Có thể nói Quỳnh đã yêu Vũ trong suốt khắp không gian và thời gian. Trước đây, trong bài Sóng, Xuân Quỳnh viết:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức


Còn bây giờ thì chị thức để “hát ru chồng những đêm khó ngủ”. Đó là tình yêu tuyệt vời của người vợ.
Kể từ Thuyền và biển, hay và hấp dẫn trong thế bao quát, đúng cho mọi thời, mọi người, bây giờ Xuân Quỳnh đã đến với chính tình yêu của riêng mình, một tình yêu là sự hòa hợp của hai trái tim; nhưng trong sự nhận - cho của cả hai bên, dường như Xuân Quỳnh là người đã chọn hạnh phúc nghiêng về phía cho, một cách vô tư và tin cậy. Chị đã rất yên tâm trong tình yêu đó, trước hết giữa hai người, nhưng không chỉ có hai người. Đó còn là mẹ, là con - những ba con, là gia đình, là những lo toan cho một cuộc sống đầy vất vả nhưng không hiếm niềm vui trong chia sẻ. Gian phòng của hai người mà tôi đã có nhiều dịp đến chơi ở 96 Phố Huế quả khó có nơi nào có thể chật hơn, chỉ một bàn con, một tủ nhỏ, một giá sách nhỏ đã đủ chật. Chật nhưng cũng đủ để chứa cả khổ và vui!

Quỳnh đã rất yên tâm trong chật chội của những khổ và vui - chứ không phải buồn - vui. Và quan trọng hơn là yên tâm trước một sự nghiệp thơ và về sau là kịch mà cả hai người cùng theo đuổi; một sự nghiệp mà Quỳnh rất tin là Vũ sẽ vươn tới những đích xa của nó. Chính lòng tin đó khiến Quỳnh càng yêu Vũ hơn. Yêu Vũ và yêu sự nghiệp của Vũ, ngay cả khi tài năng của Vũ mới đang là tiềm năng, mới chỉ vừa hé lộ. Điều đó giải thích sự bền vững, sự thủy chung trong tình yêu Quỳnh dành cho Vũ. Ta hiểu vì sao Xuân Quỳnh - người của tài năng và nhan sắc như ai cũng thấy, cũng là người rất tự tin về mình, lại có thể viết những câu như sau cho Vũ:
Anh thân yêu, người vĩ đại của em
Anh là mặt trời, em chỉ là
                        hạt muối
Một chút mặn giữa đại dương
                                vời vợi...

(Thơ vui về phái yếu - Xuân Quỳnh)

Thế nhưng cuộc sống bao giờ cũng gồm hai phía, và hành trình con người có ai mà không đi giữa hai bờ vui - buồn, được - mất, hạnh phúc và đau khổ. Đúng như Xuân Quỳnh đã từng tiên cảm, ở tuổi ba mươi khi chị có bài Thơ viết cho mình và những người con gái khác:
Như các cô, tôi có một tình yêu
                                rất sâu
Rất dữ dội, nhưng không bao giờ
                          yêu được hết
...
Tôi yêu tất cả mọi người mà
          chẳng yêu được riêng ai
Không sĩ diện đâu nếu tôi yêu
                  được một người
Tôi sẽ yêu anh ta hơn anh ta
                yêu tôi nhiều lắm
Tôi yêu anh dẫu nghìn lần
                           cay đắng...


Những năm 1980, nếu thơ tình Vũ viết cho Quỳnh có ít đi hoặc vắng hẳn, do con số trên 50 vở kịch đã hút hết tâm sức của anh, thì Quỳnh vẫn viết đều. Bởi chị là nhà thơ. Cả hai đều đã chín muồi hơn trong các trải nghiệm về cuộc sống, kể cả trải nghiệm trong tình yêu của họ. Một âm điệu có gì khang khác bỗng đã len vào thơ Xuân Quỳnh. Vẫn một Xuân Quỳnh đằm thắm, nhưng đã lại thấy vương vấn nhiều khắc khoải xót xa:
Dòng sông này bãi cát cánh
                     buồm quen
Hoa lau trắng suốt một thời
                         quá khứ
Tôi đã đi đến tận cùng xứ sở
Đến tận cùng đau đớn, đến
                      tình yêu

(Thơ tình cho bạn trẻ - Xuân Quỳnh)

Sao vậy nhỉ, nếu như “quá khứ” đã thoáng len vào đây với “hoa lau trắng”? Tận cùng hạnh phúc là tình yêu. Và, tận cùng đau đớn cũng là tình yêu. Có lẽ đến lúc này Xuân Quỳnh mới có dịp trải nghiệm đến tận cùng nghịch lí đó để cho ra mắt bạn đọc bài thơ Tự hát rồi sẽ trở thành bài thơ tình theo tôi là hay nhất của Xuân Quỳnh, cũng là một trong số ít bài thơ tình hay nhất của thơ Việt Nam hiện đại. “Tự hát” - hát một mình. Phải chăng tình yêu khi hạnh phúc là song ca, là đồng ca - hạnh phúc cần được nói lên, được nhân lên; còn khi đau khổ là hát một mình, là đơn ca hoặc độc ca - dẫu vẫn rất mong được chia sẻ. Sau định nghĩa tình yêu không phải là Vàng, là Mặt trời, mà là Trái tim, Xuân Quỳnh bỗng nói đến sự hoang vắng, sự cô đơn và một nỗi lo âu đang xâm chiếm lòng mình:
Mùa thu nay sao bão mưa nhiều
Những cửa sổ con tàu
                 chẳng đóng
Dải đồng hoang và đại ngàn
                         tối sẫm
Em lạc loài giữa sâu thẳm
                     rừng anh

(Tự hát)

Sớm tắt rồi sao cái hạnh phúc giản dị, dễ hiểu, đơn sơ mà thấm thía của đời thường? Để thay vào đấy là bão và mưa, là cuộc hành trình đi vào chỗ những mênh mông thẳm sâu của đồng hoang và đại ngàn, của những miền tối tăm không thể biết:
Em lo âu trước xa tắp đường mình
Trái tim đập những điều không
                          thể nói
Trái tim đập cồn cào cơn đói
Ngọn lửa nào le lói giữa cô đơn?

(Tự hát)

Đường xa tắp và nỗi lo âu. Những điều không thể nói. Những cồn cào cơn đói... Có chuyện gì đây trong trái tim hẳn lúc này đã chớm đau của Xuân Quỳnh - nó là hiện thân của tình yêu theo cách giải thích của chị? Dẫu về phía Xuân Quỳnh, trái tim đó - biểu tượng của tình yêu:
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời
                không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết
                              đi rồi

(Tự hát)
Những cô đơn và hoang vắng không chỉ xuất hiện trong Tự hát. Nó còn trở lại hơn một lần:

Mắt anh nâu một vùng đất phù sa
Vùng đất của nơi nào trong trí nhớ
Em chiếm đoạt rồi em hoảng sợ
Giữa vô cùng hoang vắng, giữa
                                   cô đơn

(Không đề II)

Những năm 1980, Vũ đạt rất nhiều vinh quang trong kịch trường. Vũ liên tục giành các đỉnh cao, có lúc đến chóng mặt. Có thể nói ngọn đuốc Lưu Quang Vũ trở nên rực sáng trong bầu trời sân khấu. Lại là những năm Quỳnh mang bệnh tim. Ba tháng trước khi đi tới cái tin khủng khiếp bất ngờ và gần như có chút tiên liệu vào chiều 29/8/1988, Vũ đã làm bài thơ Thư viết cho Quỳnh trên máy bay, trong đó, sau những câu hỏi là câu trả lời của Vũ:

Có phải vì mười lăm năm yêu anh
Trái tim em đã mệt?
...
Thương trái tim nhiều vất vả
                         lo buồn
Trái tim lỡ yêu người trai
                      phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi,
        những giấc mơ điên rồ
             những ngọn lửa không có thật
...
Trái tim hãy vì anh mà khỏe mạnh
Trái tim của mùa hè, tổ ấm chở
                               che anh        
  

                     
Vậy là, vẫn lời Vũ “ngày của đời thường, ngày ở bên em” đã chuyển sang “ngày yên tĩnh như anh luôn ở cạnh”. Để sau đó đến với chúng ta, bản thảo bài thơ cuối cùng của Quỳnh làm trong bệnh viện - Thời gian trắng, như một trao gửi, một đối thoại lần cuối đời. Bài thơ như cả một niềm tiên cảm lớn: tất cả, tất cả trên đời này, kể cả những người thân yêu nhất của Quỳnh đều đã trở thành quá khứ - cái quá khứ đã một lần xuất hiện trước đây với màu trắng hoa lau. Tất cả đều đã thành một màu vô tận trắng: Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu / Đều trong suốt một màu vô tận trắng. Trong hoang vu và rợn ngợp của màu trắng, của quá khứ bất tận, càng hiện rõ lên nỗi nhớ của hiện tại, nỗi nhớ làm nên hiện tại khiến Xuân Quỳnh bỗng thảng thốt kêu lên:
Còn hiện tại của em là nỗi nhớ
Thời gian ơi sao không đổi
                      sắc màu?

(Thời gian trắng - Xuân Quỳnh)

Có thể đó là mong ước, là khao khát cuối cùng của Quỳnh cho nỗi nhớ trở về với hiện tại; nhưng lại là điều bỗng trở nên rất mong manh, bởi thời gian rất vô tình. Thời gian là sự vĩnh viễn của màu trắng quá khứ; thời gian sao mà đổi được sắc màu, trong những ngày Quỳnh mang một trái tim đau!

 P.L
 Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 30.7.2018.

Văn xuôi sáng tạo về đề tài lịch sử đương đại có không ít tác phẩm khai thác đời sống tính dục, đặc biệt là tính dục của các nhân vật lịch sử được coi là thần tượng, huyền thoại dân tộc. Kể từ chùm truyện ngắn về đề tài lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp (Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết, Nguyễn Thị Lộ, Mưa Nhã Nam) đến tác phẩm gần đây nhất của Trần Thanh Cảnh (Đức Thánh Trần) ngót đã 30 năm nhưng vấn đề này vẫn luôn là một trong những mối quan tâm đặc biệt của các nhà văn viết về đề tài lịch sử, và là tâm điểm trong nhiều cuộc trao đổi, tranh luận của cộng đồng diễn giải. Bởi lẽ lằn ranh giữa sự sáng tạo, luận giải và sự bịa đặt, tùy tiện vốn đã rất mong manh khi viết về nhân vật thần tượng, huyền thoại, nay lại càng mong manh khi đề cập đến câu chuyện được coi là nhạy cảm, thầm kín nhất của họ: đời sống tính dục. Bằng tài năng, bản lĩnh, sự cẩn trọng, nghiêm túc, nhiều tác giả tiêu biểu đã kiến tạo quan niệm, nguyên tắc, diễn ngôn mới nhằm nhận diện, khám phá lịch sử và con người trong tính đa chiều, phức tạp, toàn diện. Đây là một trong những dấu hiệu thể hiện sự đổi mới trong tư duy, cảm thức, cách tiếp cận lịch sử của các nhà văn đương đại.   

Tính dục như là phương thức kiến tạo quan niệm mới về con người

Trong nỗ lực hoàn nguyên các giá trị, trả lại cho lịch sử chiều sâu nhân bản cùng những biểu hiện đa dạng, phức tạp của tính người trọn vẹn, các tác giả đã miêu tả nhân vật, đặc biệt là các nhân vật nữ bằng vẻ đẹp thân thể, gợi tình, giàu nữ tính. Nguyễn Xuân Khánh, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Võ Thị Hảo, Nam Dao, Đỗ Trọng Khơi, Sương Nguyệt Minh, Uông Triều, Trần Thanh Cảnh… đã không ngần ngại sử dụng chất liệu thân thể gợi cảm để kiến tạo nên diễn ngôn thân xác. TrongMẫu Thượng Ngàn, Nguyễn Xuân Khánh quan tâm nhiều đến vẻ đẹp nữ tính của người phụ nữ thông qua hình ảnh đôi vú và làn da - một biểu tượng cho vẻ đẹp mỡ màng, phồn sinh phồn thực. Trong Giàn thiêu, vẻ đẹp của Ngạn La được Võ Thị Hảo miêu tả đầy hoang sơ, mê hoặc với chiếc rốn nhỏ màu chu sa là “mơ ước muôn đời của các bậc đế vương”. Hay vẻ đẹp tinh khiết vừa e thẹn, vừa bạo dạn, cùng mùi hương trinh nữ đầy mê dụ của người con gái hái dâu Quế Lan đã đánh thức khát khao trần tục của người anh hùng Trần Quốc Tuấn (Đức Thánh Trần - Trần Thanh Cảnh).

Bên cạnh ca ngợi vẻ đẹp thân thể, các nhà văn trong nỗ lực nhận diện về con người một cách thành thực, trần trụi, không tô vẽ - con người như chính sự tồn tại phức tạp trong đời sống - đã đi sâu khám phá nhân vật trong khía cạnh tự nhiên, bản năng và nhân bản nhất. Trong Thế kỉ bị mất, Phạm Ngọc Cảnh Nam vừa miêu tả Lụa với vẻ đẹp đằm thắm, đậm đà vừa khai thác tinh tế những rung động thầm kín, thẳm sâu của người đàn bà. Nguyễn Quang Thân (Hội thề) đã đưa nhân vật Thị Lộ trở về với kích cỡ của một người đàn bà, với những đòi hỏi, khát khao và cả những ước mơ rất đỗi đời thường. Miêu tả những hành vi dục tính, các nhà văn đã tìm cho mình một “mật mã” để khơi mở những góc khuất bí ẩn trong đời sống tâm lí con người. Những tiết đoạn tính giao được Võ Thị Hảo, Phạm Ngọc Cảnh Nam, Nam Dao, Trần Thanh Cảnh… miêu tả tinh tế, đầy tính ước lệ, tượng trưng. Với các tác giả đây như là phương thức hữu hiệu tiếp cận, khai thác con người bản năng, vô thức, qua đó lí giải những “vết hằn” trong cuộc đời mỗi con người, nhất là với các vĩ nhân dân tộc. Trong Giàn thiêu, lần ái ân duy nhất với Nhuệ Anh trên con đường hành cước đã ám ảnh suốt một đời về khát vọng không thỏa của Từ Lộ, để rồi cứ “khát” và “nhớ” một điều gì đó vô hình. Sự hiến dâng trinh tiết của Xuyến (Đất trời  - Nam Dao) cùng những đêm nồng nàn tình tự như một điểm tựa bình yên cho Nguyễn Trãi trong những ngày sóng gió ở thành Đông Quan. Cảm giác nhục thể có được từ kinh nghiệm tình dục ban sơ cùng nỗi ám ảnh, mặc cảm tội lỗi khi vô tình gây ra cái chết tức tưởi của người tình nhỏ bé tội nghiệp đã trở thành nỗi đau thầm kín trong tâm thức Nguyễn Trãi ngay cả khi ở đỉnh cao của sự nghiệp và gặp được tri âm tri kỉ Thị Lộ. Buổi giao tình của Quốc Tuấn với công chúa Thiên Thành trong đêm hội Mo Nang và Quế Lan bên nương dâu xanh ngát đã để lại cho người anh hùng dân tộc những dư vị vừa ngọt ngào, mê đắm vừa nuối tiếc, nhớ thương về một thời trai trẻ với nhiều khát khao, cuồng nhiệt (Đức Thánh Trần).

Tình yêu, dục cảm chính là kết tinh của niềm khao khát được sống thành thật, không che giấu với những gì mình có. Tiếng nói của bản năng con người tự nhiên trở thành tiếng nói thiêng liêng và sâu thẳm nhất, khiến các nhân vật lịch sử “trở mình” sống lại và hơn nữa, được sống như-là-chính-mình. Soi rọi Trần Khánh Dư từ cái nhìn ấy, Uông Triều trong Sương mù tháng Giêng đã khám phá những góc khuất trong tâm hồn, những khát khao thầm kín, thành thực, rất đời, rất người ở nhân vật này. Chấp nhận tất cả để được sống với chính cảm xúc của mình, Khánh Dư hiện lên như một con người của dục vọng, sẵn sàng quên trời quên đất, quên phép tắc, định kiến khắc nghiệt, sống hiện sinh, hết mình với phút giây hiện tại. Mối tình oan nghiệt với Thiên Thụy không đơn thuần chỉ là tiếng gọi của thể xác, dục vọng nguyên sơ mà nó còn trở thành sự nuối tiếc, nỗi day dứt, niềm khát vọng suốt một đời không thỏa của ông.
Có thể nói, tính dục đã trở thành mẫu số chung, nơi gặp gỡ của nhiều nhà văn trong quá trình tiếp cận, miêu tả và nhận diện trọn vẹn con người. Quan niệm về tính dục như một thiên tính tự nhiên, con người như là một sản phẩm của tự nhiên đã giúp cho người nghệ sĩ có cái nhìn chân thực hơn, “người” hơn và theo đó, cách đánh giá cũng độ lượng, giàu tính nhân bản hơn về các nhân vật lịch sử.

gian thieu vo thi hao
 Ảnh minh họa


Tính dục như là phương thức luận giải lịch sử, đối thoại văn hóa

Để thể hiện cái nhìn mới về lịch sử, các nhà văn đã đặt các nhân vật trong vô vàn mối quan hệ đời thường, xoáy sâu vào phần khuất lấp và bi kịch nội tâm, nơi có sự giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối, phi thường và đời thường, hữu thức và vô thức, khát vọng và dục vọng nhằm tìm ra “tiếng nói tối hậu về con người”. Trong Giàn thiêu, Võ Thị Hảo đã đưa ra những “giả thuyết” mới mẻ về nhân vật lịch sử và cũng là nhân vật huyền thoại tôn giáo - Từ Đạo Hạnh. Khi đã đạt đến đỉnh vinh hoa cùng sự ngưỡng vọng, tôn thờ của mọi người, con người dục vọng trong Từ chưa bao giờ ngủ yên. Ngọn lửa sắc dục luôn thiêu đốt ông từng đêm, con rắn độc phiền não luôn chực chờ thức dậy để vò xé, làm khổ ông. Để rồi thiền sư quyết định bỏ rơi đệ tử, đầu thai vào nhà Sùng Hiền hầu, chờ đợi mười hai năm sau trở thành hoàng đế Thần Tông. Suy cho cùng, lịch sử chỉ là cái cớ để nhà văn bộc lộ những trăn trở về thân phận con người và luận giải những vấn đề nhân sinh có tầm phổ quát.

Miêu tả tính dục, soi rọi dưới nhãn quan lịch sử - văn hóa - nhân văn, Sương Nguyệt Minh, Đỗ Trọng Khơi, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Khắc Phục, Trần Thanh Cảnh… đã đối thoại nhiều vấn đề lịch sử, văn hóa và luận giải tấn bi kịch của con người trong quá khứ. Trong Dị hương, Sương Nguyệt Minh qua bộ ba Nguyễn Ánh - Ngọc Bình - Trần Huy Sán đã luận giải hai vấn đề: cái đẹp trong sự kiềm tỏa, bao vây, trấn áp của chiến tranh (lúc này đồng nghĩa với cái ác) và thân phận của bậc kì tài sinh bất phùng thời, suốt một đời mải mê đi tìm cái đẹp, khát vọng lập công danh nhưng không tìm thấy minh chủ xứng đáng. Nhà văn đã dày công miêu tả những tiết đoạn giao hoan của Nguyễn Ánh và Ngọc Bình gắn với nhiều chi tiết kì ảo, hoang đường. Cái chết của Ngọc Bình như là biểu tượng cho dị hương - cái đẹp mong manh, thanh cao, tinh khiết bị hút cạn bởi sức mạnh tà hương - kết vón từ mùi máu tanh tưởi, mùi binh khí đối chạm khét lẹt.

Sự thức tỉnh về thiên tính tự nhiên, về đời sống vô thức cộng đồng là một tạo tác xuất phát từ tâm thức, văn hóa dân tộc trong sự tiếp biến, xâm nhập của văn hóa ngoại lai. Các nhà văn giai đoạn này đã tìm thấy trong đời sống tính dục của con người mảnh đất để chuyên chở những thông điệp đến hiện tại từ quá khứ. Từ quan niệm về nguyên lí Mẫu trong văn hóa Việt đến sự ra đời của Mẫu Thượng Ngàn, hơn ai hết Nguyễn Xuân Khánh đã chiêm nghiệm, lí giải truyền thống “trọng nữ” một cách sâu sắc và vẹn tròn. Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn tiểu thuyết này đông đúc nhất, và cũng đẹp nhất, hay nhất, đậm nhất, mê nhất là những nhân vật nữ. Họ không những mang vẻ đẹp của sự thánh thiện, hoàn mĩ mà còn là vẻ đẹp của sức sống, sự mơn mởn, của khát khao cháy bỏng đẫm màu phồn sinh phồn thực. Vẻ đẹp tự nhiên ấy có một sức cám dỗ, gợi tình mạnh mẽ. Nó không chỉ mang lại cảm hứng xác thịt mà còn ẩn chứa một sức mạnh có thể cảm hóa, thức tỉnh con người. Tiết đoạn tính giao giữa Mùi và Philippe không đơn thuần là sự chung đụng xác thịt giữa người đàn ông và người đàn bà, đó thật sự là cuộc đối thoại ngầm giữa kẻ chinh phục - người bị chinh phục, văn hóa ngoại lai - văn hóa bản địa, sức mạnh cương cường - vẻ đẹp dịu dàng. Trong cuộc đụng độ Đông - Tây quyết liệt này, dường như chỉ có sức mạnh của người đàn bà giàu sức sống, đằm thắm, dịu dàng, cam chịu, gánh vác mới neo giữ được bản sắc trong văn hóa Việt. Bởi điều đơn giản mà vô cùng thiêng liêng là “Người đàn bà là Mẫu, là Mẹ. Người đàn bà là đất xứ sở. Người đàn bà là văn hiến”.

Trần Thanh Cảnh trong Đức Thánh Trần đã rất tinh tế khi sử dụng hai biểu tượng Lửa và Nước để miêu tả về mối tình oan nghiệt của công chúa nhà Trần An Tư (nước) và hoàng tử thứ chín nhà Nguyên Thoát Hoan (lửa). Trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông của quân dân Đại Việt, lửa và nước mang ý nghĩa của sự hủy diệt khốc liệt: lửa đốt cháy kinh thành Thăng Long, nước vùi dập quân Nguyên xâm lược. Trở thành con bài trong cuộc chiến cam go, An Tư mang sứ mệnh giăng bẫy tình khiến chủ soái đoàn quân chinh chiến nhà Nguyên mê mẩn sắc dục, quên việc quân để vua tôi nhà Trần có thời gian chuẩn bị lực lượng, kế sách mới. Nguồn nữ tính tràn trề, bất tận, dịu dàng (An Tư) đã xoa dịu, hóa giải cái hung tợn, hoang dã, bạo liệt (Thoát Hoan) khiến vị tướng trẻ kiêu dũng nhà Nguyên trở nên yếu đuối, ngờ nghệch, mải mê đáp ứng nhu cầu tình dục của bạn tình; đặc biệt biết rung động cảm xúc trong trẻo, lạ lẫm trước nàng công chúa Đại Việt. Trần Thanh Cảnh ở một khía cạnh nào đó đã khai thác thành công đời sống tình dục của nhân vật ở giá trị cứu rỗi, điều hòa, thức tỉnh; đồng thời giải mã hợp lí những điểm mờ mà lịch sử bỏ sót khi chép về cuộc đời và số phận bí ẩn của An Tư.

Khám phá về sự huyền bí của tôn giáo, về con đường đắc đạo của người tu hành, Đỗ Trọng Khơi trong Hành trạng tâm linh có những lí giải sâu sắc khi soi chiếu bản năng tính dục của con người dưới ánh sáng của tư tưởng Thiền tông. Đây thật sự là một cuộc đối thoại giữa Tâm và Thân, giữa Đạo và Sắc Dục trên con đường giác ngộ. Nhà văn đã có những trang phục bút miêu tả những biến chuyển tế vi trong “bản thể người”, “bản nguyên dục tính” của Tuệ Trung Thượng Sĩ trước cám dỗ sắc dục lồ lộ của Trầm Nga. Bức họa cuối cùng họa khỏa thân trực diện nàng Trầm Nga như một ranh giới thiêng liêng từ cõi tục bước vào cõi thiền, giữa dâm tục và nghệ thuật, giữa Tâm Đạo và Dục Vọng của Tuệ Trung. Sau khi những nét phác họa thân thể đã hoàn chỉnh, đến lúc họa tiết điểm cơ thể âm tính của Trầm Nga khiến Ngài lúng túng giây lát. Trong khoảnh khắc đốn ngộ, thật bất ngờ khi Tuệ Trung vung bút dứt khoát họa một đài hoa sen vào nơi ấy. Một biểu tượng thiêng liêng của Phật đài lại được họa vào dấu hiệu giới tính của một người phụ nữ. Người đàn ông - Nghệ sĩ - Thiền sư đã ở vào tâm điểm giao giữa Tâm và Thân ở nơi cùng tận của chuyến đò qua sông bản thể. Chính cái giây phút bông sen được mọc lên từ phần âm thế giới tính, sắc dục ấy, Tuệ Trung Thượng Sĩ đốn ngộ. Và sự thoát ngộ của Bùn và Sen, của nữ sắc dục cảm và tinh thần siêu thoát, hai trạng thái hóa ra làm một, như hai dòng sông hòa vào một biển cả duy nhất. Nàng Trầm Nga - người đàn bà minh triết (trong quan niệm của giáo phái Mật tông) sau khi chứng ngộ đã bốc cháy thành một cây hỏa ngọc. Vậy là Mật tông đưa con người ta vào cõi sống với cách đánh thức tận gốc rễ bản thể - bản năng dục của con người, từ đó giúp con người đạt đến thể tính nguyên sơ vô sắc giới của mình.

Rõ ràng, tình yêu, dục cảm tự nhiên trở thành tiếng nói thiêng liêng và sâu thẳm, khiến các nhân vật lịch sử “trở mình” sống lại và hơn nữa, được sống như-là-chính-mình. Bên cạnh những dấu ấn và thành tựu, vẫn còn đó những tác phẩm chưa sử dụng yếu tố tính dục một cách chừng mực, thậm chí nhiều khi quá lạm dụng yếu tố này khiến chân dung nhân vật bị méo mó, không thật và chưa thể chạm tới chiều sâu nhân bản, giá trị văn hóa và hằng số lịch sử. Một vài cây bút nhân danh đổi mới, tinh thần dân chủ, tự khoác cho mình quyền năng sáng tạo, hư cấu; khai thác quá mức các yếu tố thuộc bản năng tính dục làm méo mó, lệch lạc cái nhìn về các nhân vật được cộng đồng, dân tộc ngưỡng vọng, chiêm bái như Nam Dao với Gió lửa, Trần Vũ với Gia phảMùa mưa gai sắc, Nguyễn Thúy Ái với Trở về Lệ Chi Viên… Một khi các yếu tố bản năng bị dịch chuyển khỏi các giá trị văn hóa của cá nhân và cộng đồng, của cảm xúc thiêng liêng, trong sáng, thánh thiện thì con người sẽ đánh mất đi nhân tính, biến thành một sinh vật tầm thường và văn học mất đi ý nghĩa tồn tại đích thực của nó. Đây là điều hết sức đáng tiếc và các nhà văn nên hết sức tránh.

N.V.H

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 20.4.2018.

Nguyễn Thị Quốc Minh     

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Tp.HCM

Nếu coi Thơ mới là một giàn nhạc với nhiều âm thanh khác nhau: rộn ràng và ảo não, thánh thót và trầm đục, hùng tráng và du dương thì thơ Nguyễn Bính là tiếng đàn bầu nhẹ nhàng mà nỉ non, da diết. Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ được yêu thích nhất trong các nhà Thơ mới, thơ ông đã chạm đến trái tim, chiếm được tình cảm của người đọc bởi sự tự nhiên như lời ăn tiếng nói hằng ngày, bởi sự mộc mạc hồn hậu như những câu ca dao đã ngàn đời khắc vào tâm hồn dân tộc, bởi sự mới mẻ mà kín đáo như cô gái quê đã biết đến son phấn của thị thành. Hình ảnh trong thơ Nguyễn Bính cũng rất đỗi gần gũi với cuộc sống làng quê mà ai cũng có thể bắt gặp hình bóng quê mình: hàng cau, gốc bưởi, vườn cam, giậu mồng tơi, giàn trầu, con bướm bướm… Dù vậy, thơ Nguyễn Bính không cốt ở tả cảnh. Cảnh vật trong thơ ông chỉ là phương tiện để đi vào thế giới tâm hồn với những ước mơ và thất vọng, tình yêu và sự chia lìa, những niềm vui và nỗi đau của thân phận con người. Những hình ảnh có tính biểu trưng cao trong thơ Nguyễn Bính gắn với việc thể hiện thân phận nhà thơ là bướm, hoa, mùa xuân-ngày Tết…

1. Bướm - giấc mơ và thân phận thi sĩ 

Nguyễn Bính tự nhận mình “xuất thân” là con bướm. Con bướm ấy say đắm yêu đương, tận tụy hút hương hoa mật ngọt: “Bên hoa thấy bướm không buồn đuổi/ Chỉ mải mê nhìn bướm ủ hoa”. Có những lúc chúng ta cảm giác như bướm và người trong thơ Nguyễn Bính không còn phân biệt: “Chim ca buổi sớm khuyên nàng học/ Bướm dạy nàng thêu, gió dạy đàn” (Bao nhiêu đau khổ của trần gian, trời đã dành riêng để tặng nàng). Lãng mạn, ngọt ngào, hồn nhiên biết bao khi mối tình ban đầu của cô cậu học trò có cánh bướm làm chứng:

Những buổi học về không có nón

Đội đầu chung một lá sen tơ

Lá sen vương vấn hương sen ngát

Ấp ủ hai ta chút nhụy hờ

Lũ bướm tưởng hoa cài mái tóc

Theo về tận cửa mới tan mơ

(Trường huyện)

Nhưng rồi mọi chuyện không êm đềm như họ mong ước. Thời cuộc đổi thay, lòng người thay đổi, cánh bướm lại một lần nữa xuất hiện, xuất hiện trong sự buồn thương da diết:

Em đi phố huyện tiêu điều lắm

Trường huyện giờ xây kiểu khác rồi

Mà đến hôm nay anh mới biết

Tình ta như chuyện bướm xưa thôi

(Trường huyện)

Nhà thơ ươm trồng hoa cũng như ươm trồng chính ước mơ tình yêu của mình:

Anh trồng cả thảy hai vườn cải

Tháng Chạp hoa non nở cánh vàng

Lũ bướm láng giềng đang khát nhụy

Mách cùng gió sớm rủ rê sang

(Hết bướm vàng)

Hoa tươi non gọi bướm về, lòng người trai gái trẻ buổi ban đầu cũng bừng lên nhiều cảm xúc luyến ái, khát khao hạnh phúc. Nhưng cuộc đời lắm nỗi đắng cay, chẳng bao giờ vẹn tròn như lòng mơ ước:

Năm sau vườn cải nở hoa vàng

Bướm lại sang mà em chẳng sang

Thui thủi một mình anh bắt bướm (…)

Em đã sang ngang với một người

(Hết bướm vàng)

Sinh thời Nguyễn Bính cũng từng nhận rằng ông là người “yêu nhiều” và “dễ yêu”, nhiều khi ông còn tưởng tượng ra là họ yêu mình. Chính các mối tình ấy, các nhan sắc ấy là nguồn cảm hứng cho những sáng tác của ông, cũng như là sức mạnh vô hình nâng đỡ những đau khổ cuộc sống cho ông. Nhưng rồi cũng chính những nhan sắc ấy, những mối tình ấy lại làm ông đau khổ:

Bướm ơi, bướm hãy vào đây

Cho tôi hỏi nhỏ câu này chút thôi

Chả bao giờ thấy nàng cười

Nàng hong tơ ướt ra ngoài mái hiên

Mắt nàng đăm đắm trông lên,

Con bươm bướm trắng về bên ấy rồi

Bỗng dưng tôi thấy bồi hồi

Tôi buồn tự hỏi: hay tôi yêu nàng?

(Người hàng xóm)

Tự hỏi rồi tự trả lời, tự phủ nhận rằng “Không, từ ân ái nhỡ nhàng/ Tình tôi than lạnh tro tàn làm sao” và một lần nữa nhắc lại “Nhớ nàng, không, quyết là không nhớ nàng” đến khi phải “gục xuống bàn rưng rưng” thì vẫn dứt khoát rằng “Nhớ con bướm trắng lạ lùng/ Nhớ tơ vàng nữa, nhưng không nhớ nàng”. Đến cuối cùng thì phải chấp nhận một sự thật rằng “tôi yêu nàng” nhưng tình yêu ấy không kịp thốt ra dù chỉ một lần. Tự yêu, tự dằn vặt, đau khổ cho đến phút biệt ly:

Hỡi ơi bướm trắng tơ vàng

Mau về mà chịu tang nàng đi thôi

Đêm qua nàng chết thật rồi

Nghẹn ngào tôi khóc, quả tôi yêu nàng

Hồn trinh còn ở trần gian

Nhập vào bướm trắng mà sang bên này

(Người hàng xóm)

Tháng chạp cho hoa cải nở vàng

Cho cam da đỏ, cho nàng vu quy

Nàng về mãi xứ bên kia

Cam thôi màu đỏ, bướm chê hoa vàng

(Vu quy)

Có trường hợp, người đã đi xa rồi, không trở về quê nữa hay cũng có thể đó chính là nỗi lòng của Nguyễn Bính trong những lúc xa biệt quê hương, hình ảnh con bướm cũng có mặt trong câu hỏi của ông:

Sao chẳng về đây bắt bướm vàng

Nhốt vào tay áo đợi xuân sang

Thả ra cho bướm xem hoa nở

Cánh bướm vờn hoa loạn phấn hương

(Sao chẳng về đây)

Hoặc:

Cành dâu cao, lá dâu cao

Lênh đênh bóng bướm trôi vào mắt em

Anh đi đèn sách mười niên

Biết rằng bóng bướm có lên kinh thành

(Bóng bướm)

Nhớ người, nhớ mối tình không trọn vẹn, đi kèm nỗi nhớ ấy là hình ảnh con bướm. Có đôi lúc ông xem bướm như người bạn vàng bạn ngọc, có lúc bướm như “đứa con côi” của ông:

Thiếu một vần thôi đủ dở dang

Tay ai giăng mắc hộ dây đàn?

Đường sang xứ ấy nhiều hoa lắm

Nhi bắt cho tôi chiếc bướm vàng.

Tay áo giang hồ tôi sẽ nuôi

Bướm vàng như thể đứa con côi

Nơi nào xa vắng Nhi, tôi hỏi;

Nó nói: “Cô Nhi đã bắt tôi”

(Nuôi bướm)

Nguyễn Bính cũng tự nhận là mình “điên dại” trong nỗi nhớ ấy: “Có ai điên dại như tôi nhỉ?/ Nuôi bướm làm con để nhớ người” (Nuôi bướm).

Nói đến người hoá bướm người ta nghĩ ngay đến ngụ ngôn Trang Chu mộng hồ điệp trong Nam hoa kinh: Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, bay lượn vui vẻ lắm, đến khi tỉnh dậy cứ suy nghĩ mãi không biết có phải là mình đã nằm mộng hóa bướm không hay chính mình bây giờ đang là bướm và đang mộng hóa Trang Chu? Chính Nguyễn Bính cũng hay nói đến giấc mơ hoá bướm của mình:

Đêm qua mơ thấy hai con bướm

Khép cánh tình chung ở giữa trời

(Hết bướm vàng)

   Trong giấc mơ hoá bướm, người thơ mơ thấy gì ? Cảnh tượng thường trở đi trở lại trong thơ Nguyễn Bính đó là giấc mơ vinh hoa, giấc mơ quan Trạng của một thời vàng son quá khứ:

Quan Trạng đi bốn lọng vàng,

Cờ thêu tám lá qua làng Trang Nghiêm

Mọi người hớn hở ra xem

Chỉ duy có một cô em chạnh buồn

                                                        (Quan Trạng)

Hay :

                                       Tưng bừng vua mở khoa thi,

                           Tôi đỗ quan Trạng vinh quy về làng

                                                                           (Giấc mơ anh lái đò)

Và tất nhiên, trong vàng son ấy, anh có em như bướm có đôi :

                           Em ạ, ngày xưa vua nước Bướm

Kén văn tài mở Điệp lang khoa.

Vua không lấy trạng vua thề thế,

Con bướm vàng tuyền đậu thám hoa.

(Truyện cổ tích)

Quan Thám tân khoa cũng được nhà vua gả công chúa cho, rồi thì “Chồng hóa thành anh, vợ hóa em”! 

Nhưng giấc mộng vinh quy «Võng anh đi trước võng nàng/ Cả hai chiếc võng cùng sang một đò » cũng chỉ là mộng. Nhà thơ chợt tỉnh, giấc bướm tan tành. Chàng thi sĩ hiện về với hình dáng con người trơ trụi giữa nhân gian. Quan Trạng tân khoa chỉ còn là anh lái đò:

                                       Con sông nó có hai bờ,

                           Tôi chưa đỗ trạng, thôi cô lại nhà.

                                                                                       (Giấc mơ anh lái đò)

   Bài Xóm Ngự Viên trong tập Mười hai bến nước cũng viết theo tứ thơ « tỉnh giấc bướm ». Đây là Ngự Viên ngày xưa :

                           Có phải ngày xưa vườn Ngự Uyển,

                           Là đây hoa cỏ giống vườn tiên,

                           Gót son bước nhẹ lầu tôn nữ,

                           Ngựa bạch buông chùng áo Trạng Nguyên.

   Còn nay thì «núi lở sông bồi » ruộng dâu biến thành biển xanh – «khoa cử hết rồi, thôi hết Trạng » , Ngự Viên trơ ra giữa chợ đời của một đô thị thuộc địa :

                           Tôn nữ ngồi đan từng chiếc áo

                           Dân thường đi lại lối đi quen

                           Nhà cửa xúm nhau thành một xóm

                           Cay nồng hơi thuốc lẫn hơi men

                           Mụ vợ Bắc Nam người tứ xứ

                           Anh chồng tay trắng lẫn tay đen

                           Đổi thay tình nghĩa như cơm bữa

                           Khúc “Hậu đình hoa” hát tự nhiên. 

                                                                           (Xóm Ngự Viên)

  Con bướm Trạng Nguyên chỉ còn là một chàng thi sĩ khó nghèo: “Mình tôi giời bắt làm thi sĩ” (Hoa với rượu). Đời thi sĩ gắn với thất nghiệp, thất tình và tha hương như những bài thơ viết về hoa và mùa xuân – ngày tết dưới đây. 

2. Hoa – tình yêu và sự chia ly

Hoa trong thơ Nguyễn Bính không phải là mẫu đơn, phù dung, hải đường… đầy trong điển tích Trung Hoa, mà là hoa cỏ làng quê, đồng nội gắn bó cuộc đời ông với niềm hoài nhớ da diết: hoa đỗ ván, hoa cam, hoa bưởi, hoa xoan, hoa chanh, hoa cải, hoa gạo, hoa cỏ may… Những mối tình chớm nở, những ngày hoa mộng đều gắn với cỏ hoa. Mảnh vườn quê thời thơ ấu với mùa hoa đỗ ván nở tươi lành, trong veo trong kí ức:

Nhà tôi có một vườn dâu

Có giàn đỗ ván, có ao cấy cần

Hoa đỗ ván nở mùa xuân

Lứa dâu tháng tháng, lứa cần năm năm

(Nhà tôi)

Hoa gắn với tuổi thơ của đôi trẻ - nồi nước gội đầu bằng hoa cam - mùi hoa lưu luyến cả cuộc đời:

Ra vườn nhặt những hoa cam rụng

Về bỏ đầy nồi cất nước hoa

Nước hoa tuy chẳng thơm là mấy

Hai đứa bôi đầy cả tóc nhau…

(Hoa với rượu)

Hương hoa bưởi gắn với một mối tình vô vọng. Nguyễn Bính là người “yêu nhiều” và “dễ yêu” nhưng dường như có nhiều mối tình là do chính ông đơn phương yêu thương, đơn phương đợi chờ cho đến khi mọi hi vọng dù là mong manh cũng không còn khi người con gái đã lấy chồng, như trong bài Qua nhà:

Cái ngày cô chưa lấy chồng

Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa

Lối này lắm bưởi nhiều hoa…

(Đi vòng để được qua nhà đấy thôi)

Nhà thơ đã phát hiện hết sức tinh tế tâm lý của người đang yêu. Trái tim yêu luôn có lý lẽ riêng của nó, nhiều khi điều vô lý hết sức lại nằm trong cái có lý vô cùng “Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa”, vô lý, nhưng lại rất có lý “(Đi vòng để được qua nhà đấy thôi)”. Nguyễn Bính đã rất sâu sắc đồng thời cũng rất chân thành khi chọn cách diễn đạt này. Nhưng rồi tình yêu kia vẫn chưa kịp thổ lộ thì cô gái đi lấy chồng. Cảnh vật đã thay đổi hay do chính tâm tư sầu muộn của chàng trai nên cảnh vật mới thành ra như vậy:

Từ ngày cô đi lấy chồng

Gớm sao có một quãng đồng mà xa

Bờ rào cây bưởi không hoa

Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo

(Qua nhà)

Dù cây bưởi bây giờ “không hoa” nhưng cây bưởi ngày xưa thì bao giờ cũng thơm ngát.

Hoa trong thơ Nguyễn Bính là một kỷ niệm, một giấc mơ của ngày xưa, gắn với tình yêu trong trẻo. Cũng như giấc mộng bướm đã tỉnh, giấc mơ hoa cũng không còn. Ông dự cảm thấy một sự thay đổi sâu sắc của làng quê, của lòng người. Bài thơ Chân quê là một dự cảm như thế:

Hoa chanh nở giữa vườn chanh

Thầy u mình với chúng mình chân quê

Hôm qua em đi tỉnh về

Hương đồng gió nội bay đi ít nhiều

(Chân quê)

Vườn xưa cũng đổi thay, hoang vu, tàn tạ: « Không còn ai ở quê nhà/ Hỏi còn ai nữa để hoa đầy vườn » (Anh về quê cũ).

“Tỉnh giấc mơ hoa” – một hình tượng đầy lãng mạn, đã trở thành tứ thơ Nguyễn Bính thường dùng để viết nhiều bài thơ về hoa – tình yêu của mình.

Bài Mưa xuân với hình ảnh hoa xoan được triển khai với tứ thơ như thế: hoa xoan của tình yêu, của gặp gỡ, của mộng ước thành hoa tan nát của chia lìa. Đây là cô gái phơi phới của cô gái đang độ xuân thì với tình yêu mơ hồ mà lung linh:

Lòng thấy giăng tơ một mối tình

Em ngừng thoi lại giữa tay xinh

Hình như hai má em bừng đỏ

Có lẽ là em nghĩ đến anh.

(Mưa xuân)

Cô gái trong Mưa xuân ấy thật trong trắng, nàng đợi người tình trong đêm hát như một lời hẹn ước, một cam kết yêu đương. Nhưng rồi tất cả trở thành vô vọng, mỏi mòn, xa cách. Và một lần nữa hình ảnh hoa lại xuất hiện trong sự dang dở, buồn đau này:

Chờ mãi anh sang anh chả sang

Thế mà hôm nọ hát bên đàng

Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn

Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng! (…)

Bữa ấy mưa xuân đã ngại bay

Hoa xoan đã nát dưới chân giày

Hội chèo làng Đặng về ngang ngõ

Mẹ bảo: “Mùa xuân đã cạn ngày”.

(Mưa xuân)

Bài Hoa với rượu cũng một tứ thơ như thế. Ở đây là hoa cam – hoa cam trong giấc mộng lứa đôi với cô hàng xóm ngây thơ tên Nhi: “Vườn xuân trắng xóa hoa cam rụng/ Tôi với em Nhi kết vợ chồng” (Hoa với rượu).

Để rồi lại tan mơ, để rồi một lần nữa lại khắc sâu hơn nỗi đau của cuộc đời:

Nhưng mộng mà thôi mộng mất thôi

Hoa tàn rượu ế ấy tình tôi

Chiều nay tôi chắp đôi tay lại:

“Đừng gặp người xưa nữa, lạy giời”

(Hoa với rượu)

Tuổi thơ đẹp là vậy, những ngày bên nhau vui là vậy, nhưng rồi người trai đã “cất bước giang hồ” bỏ lại quê nhà cùng bao kí ức hoa mộng:

Bỏ lại vườn cam bỏ mái gianh

Tôi đi dan díu với kinh thành

Hoa thơm mơ mãi vườn tiên giới

Chuốc mãi men say rượu ái tình

(Hoa với rượu)

Những ngày tháng xa quê, xa người bạn nhỏ thân thương, chàng trai ấy cảm nhận sự chát đắng của đời mình:

Đời tôi sa mạc, ôi sa mạc

Hoa hết thơm rồi, rượu hết say (…)

Khóc vụng mỗi lần tôi nhớ lại

Men nồng gạo nếp nước hoa cam.

(Hoa với rượu)

   Gặp gỡ, yêu thương, chia ly trong thơ tình Nguyễn Bính thường gắn với hoa. Hoa phải chăng là hiện thân của cái đẹp, cái thân thương của làng quê, và Hoa cũng chính là cái mong manh của tình yêu và thân phận? Sức cuốn hút, ám ảnh, làm xót xa lòng người của thơ Nguyễn Bính phải chăng là nhờ những bài thơ như thế?

3. Mùa xuân – ngày Tết và thân phận tha hương

Nguyễn Bính là một trong những thi sĩ viết về mùa xuân-ngày Tết nhiều nhất trong các nhà Thơ Mới. Mùa xuân-ngày Tết có ở ngay nhan đề một số bài thơ: Mưa xuân, Xuân về, Thơ xuân, Mùa xuân xanh, Xuân tha hương, Tết, Tết của mẹ tôi, Tết biên thùy…Nguyễn Bính không chỉ viết về mùa xuân mà ông viết cả bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông nhưng trong đó mùa xuân là chiếm tỉ lệ cao nhất. Trong những bài thơ về mùa xuân ấy, có những bài thật vui, thật lãng mạn, ngọt ngào gắn với tuổi trẻ và tình yêu:

Đã thấy xuân về với gió đông

Với trên màu má gái chưa chồng

Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm

Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong

(Xuân về)

Hay:

Xuân đến hoa mơ hoa mận nở

Gái xuân giũ lụa trên sông Vân

 (Gái xuân)

Và cũng có những bài - những mùa xuân thật buồn, đó là khi thiếu vắng người yêu hoặc người tình phụ phàng, phải sống trong sự khắc khoải, mỏi mòn chờ đợi:

Xuân này đến nữa đã ba xuân

Đốm lửa tình duyên tắt nguội dần

Chẳng lẽ ôm lòng chờ đợi mãi

Cô đành lỗi ước với tình quân

(Cô lái đò)

Hay như tâm trạng thất vọng, hụt hẫng và đau khổ của cô gái trong bài Mưa xuân:

Anh ạ! Mùa xuân đã cạn ngày

Bao giờ em mới gặp anh đây?

Bao giờ chèo Đặng đi qua ngõ

Để mẹ em rằng hát tối nay?

Chúng ta bắt gặp nhiều mùa xuân ảm đạm, chia ly trong thơ Nguyễn Bính:

Tất cả mùa xuân rộn rã đi

Xa xôi người có nhớ thương gì?

Sông xưa chảy mãi làm đôi ngả,

Ta biết xuân nhau có một thì!

(Cuối tháng ba)

Hay:

Em đi mất tích một mùa xuân

Đi để chôn vùi hận ái ân

(Khăn hồng)

Hoặc:

Kinh kỳ bụi quá xuân không đến

Sao chẳng về đây, chẳng về đây

(Sao chẳng về đây)

Cùng với mùa xuân thì ngày Tết cũng là một chủ đề, một hình ảnh ám ảnh trong thơ ông. Tết trong thơ Nguyễn Bính trước hết là ký ức về những cái Tết vui, Tết sum họp và đong đầy hạnh phúc:

Em chưa lấy chồng

Má hồng còn thắm

Tết tết xuân xuân

Đời vui vẻ lắm.

                             (Xuân)

 Nhưng Tết xuất hiện nhiều nhất trong thơ ông có lẽ là những cái Tết xa quê, một thân một mình nơi đất khách quê người:

Bốn bể vẫn chưa yên sóng gió

Xuân này em chị vẫn tha hương

Vẫn ăn cái Tết ngoài thiên hạ

Son sắt say hoài rượu viễn phương

(Xuân vẫn tha hương)

Với Nguyễn Bính, ngày xuân ngày Tết mà không được sum vầy đoàn tụ bên gia đình thì Tết đó không đúng nghĩa là Tết, mặc dù mùa xuân, ngày Tết là của đất trời của tất cả mọi người nhưng với ông đó chẳng qua chỉ là “Tết người ta”:

Quán trọ xuân này hoa lại nở

Lại ngồi xem Tết, Tết người ta

(Quán trọ)

Đi vào thơ Nguyễn Bính, mùa xuân - Tết không chỉ gợi ý niệm về thời gian, không gian hay tấm lòng thiết tha vô hạn với quê hương, ước ao sum vầy đoàn tụ… mà ngay trong lúc vui vẻ nhất ấy - vui như Tết đến, vui như xuân về, thì Nguyễn Bính vẫn khắc khoải nỗi niềm phân ly, xa cách:

Năm ngoái Tết rồi

Năm nay lại Tết

Anh đi biền biệt

Hai Tết rồi đây

Buồng hương lẳng lặng

Then chẳng thiết cài

Còn đợi chờ ai

Biết bao Tết nữa

(Tết)

Những cái Tết xa xứ như vậy đều là những cái Tết “vô duyên”, mang nặng nỗi niềm sầu muộn pha chút cô độc, tủi hờn vì bóng lẻ:

Chiều ba mươi Tết hết năm rồi

Nhà tôi riêng một mình tôi vắng nhà

Tôi còn lận đận phương xa

Để ăn cái Tết thật là vô duyên

(Xuân về nhớ cố hương)

Bài thơ xuất hiện nhiều từ Tết nhất và da diết nhất là thi phẩm Xuân tha hương. Cái điệp khúc “Tết này chưa chắc em về được/ Em gửi về đây một tấm lòng” được lặp đi lặp lại gần chục lần trong toàn bộ bài thơ. Cái cảm giác chia lìa, xa quê nên bơ vơ, lạc lỏng đã dễ khiến chúng ta rơi nước mắt huống hồ trong những ngày xuân Tết đến thì mấy ai có thể cầm lòng:

Chị ơi Tết đến em không được

Trông thấy quê hương thật não nùng (…)

Tết này ồ thế mà vui chán

Những một mình em uống rượu nồng (…)

Chị ơi Tết đến em mua rượu

Em uống cho say đến não nùng

Uống say cười òa ba gian gác

Ném cái chung tình xuống đáy sông

Cuộc đời gần hai mươi năm “lưu lạc giang hồ” khiến Nguyễn Bính nhận ra rõ nhất cảm xúc chát đắng, tủi hờn đến tan nát trong những ngày xa xứ bỏ quê.

Mùa xuân và tết không chỉ là những biểu tượng trong thơ Nguyễn Bính mà hình như “văn chương nó vận vào người”, nó đã trở thành định mệnh của thơ và đời ông.

4. Lời kết

Bướm, Hoa, mùa Xuân-Ngày tết là những hình ảnh ám ảnh trong thơ Nguyễn Bính. Những hình ảnh ấy có gì đó vừa quen vừa lạ. Như hình ảnh bươm bướm, ta thấy rất quen vì ta đã gặp đâu đó trong ca dao dân ca, trong văn của các bậc hiền triết hay các nhà thơ xưa: “Mồ cha con bướm khôn ngoan/ Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay(Ca dao), hay: “Thiếp như hoa đã lìa cành/ Chàng như con bướm lượn vành mà chơi(Truyện Kiều). Nhưng ở cả hai, con bướm thường là ẩn dụ hình ảnh của người con trai: đa tình và bạc tình. Con bướm trong thơ Nguyễn Bính là một giấc mơ, vừa có cái hư ảo sâu thẳm của Trang Chu, vừa có cái đa tình của thơ xưa, nhưng lại là con bướm của tình yêu, mong manh và hư ảo như thân phận của chàng thi sĩ.

Hay hình ảnh hoa. Hoa trong thơ rất nhiều, nhưng hoa cỏ quê nhà, đồng nội là nét nổi bật trong thơ Nguyễn Bính, hơn nữa hoa như đường viền cho mối tình, như người chứng giám cho tình yêu, là ẩn dụ cho một tình yêu trong lành, thiết tha rồi đi đến tan nát, chia ly lại là nét rất riêng, rất độc đáo trong thơ Nguyễn Bính. 

Mùa xuân-Ngày Tết cũng vậy. Trong các nhà thơ Thơ Mới không phải chỉ có Nguyễn Bính mới viết về chủ đề ấy. Chúng ta đã từng bắt gặp những mùa xuân đắm say của tình yêu và tuổi trẻ, mùa xuân với những khát vọng sống mãnh liệt trong thơ Xuân Diệu (Vội vàng, Xuân không mùa, Đa tình…), ngày Tết tưng bừng, tươi thắm sắc màu dân tộc trong thơ Đoàn Văn Cừ (Chợ Tết), nhưng Mùa xuân-Ngày Tết gắn với thân phận khổ đau, nghèo túng, tha hương thì chỉ có Nguyễn Bính - Nguyễn Bính là người đã viết về nó một cách phong phú nhất, cảm động nhất.

Thơ là hiện thân của cái đẹp: cái đẹp của hoa cỏ, mây gió, trăng sao của đất trời. Thơ cũng là hiện thân của cái đẹp trong lòng người: tình yêu thương và sự chia sẻ. Ước mơ và thất vọng, niềm hạnh phúc và đau khổ, tình yêu và sự chia ly… người ta tìm thấy sự chia sẻ ấy ở đâu, nếu không phải trong thơ, và trong thơ Nguyễn Bính.

Nguồn : Viện Văn học – Đại học Văn Lang (2018), Trăm năm Nguyễn Bính – Truyền thống và hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, TP. Hồ Chí Minh, tr. 346 – 359.

 

Người lạ hay Thơ trắng, những tập thơ tôi được đọc online, trên các trang Facebook và các trang văn chương mạng. Những người bạn viết cùng thế hệ của tôi, sinh ra và lớn lên từ những năm 80 của thế kỷ trước, và chúng tôi đã trưởng thành như những người của tự do với chữ nghĩa và thi ca. Chúng tôi viết và dám viết những suy nghĩ và nhận thức, sự sáng tạo của chính mình bằng tình yêu, khao khát, cả những băn khoăn, ngờ vực rồi vượt qua những mơ hồ và thực tại ấy, chúng tôi sống tự do với thi ca bằng tình yêu. 

Cuộc phỏng vấn từ xa, với 2 người đàn bà thơ xa lạ, tôi chưa hề gặp, chưa hề trò chuyện ở ngoài đời thực mà bằng online. 

Như Quỳnh de Prelle: Xin chào 2 Người thơ Tạ Anh Thư và La Mai Thi Gia. Chúng ta cùng nhau nói chuyện thẳng thắn về những câu hỏi về thi ca, về cuộc sống quanh thi ca, về cả những thị phi văn chương mà các chị có thể đã trải qua hay tưởng tượng chưa từng trải qua. 

Bắt đầu với Thi Gia, người đàn bà Thơ trắng trong những thị phi chị vừa trải qua. Tôi ấn tượng với nụ cười sáng của chị và những dòng thơ rất đỗi đàn bà ngây dại vì yêu, vì khát khao yêu. Chị đến với thi ca trong cuộc gặp gỡ hay tai nạn nào trong cuộc sống khi quá nhiều những toan tính? 

Thi Gia và Thơ trắng

Thi Gia: Trong một bài phỏng vấn, mình đã từng trả lời rằng mình may mắn được văn chương chọn lựa, từ bé đến giờ mình chỉ có theo đuổi mỗi con đường văn chương, mình có thơ đăng báo từ lúc học lớp 2 nhưng lúc đó ở quê nên việc gởi thư qua đường bưu điện đến báo còn chật vật lắm, nhiều khi báo biếu và nhuận bút cứ trôi mãi nơi đâu chẳng về tới tay mình nữa. 

Lên đại học, thơ mình đăng báo đều hơn: Tuổi trẻ, SGGP, Giáo dục thời đại, Thế hệ trẻ, Phụ nữ…nhưng thời ấy chưa có báo mạng nên thơ ít được phổ biến. Khi ra trường, bẵng đi một thời gian lo mưu sinh, lập gia đình, nuôi con nhỏ mình không gởi thơ cho báo nữa dù vẫn lặng lẽ viết và thỉnh thoảng công bố trên những tập san thơ văn của trường mình là ĐHKHXH&NV và tập san Đại học quốc gia. Nhiêu đó thôi mà trong lòng của thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp và sinh viên, mình cũng được gọi là “nhà thơ” rồi. Làm thơ đối với mình như một nhu cầu bày tỏ nỗi lòng, cảm xúc và rung động trước cuộc sống và tình yêu, mình yêu thơ từ bé và được nuôi dưỡng bằng Truyện Kiều và truyện cổ tích cho nên mình viết cũng tự nhiên và bắt đầu lúc nào chẳng biết, chẳng phải do gặp một duyên may nào hay một “tai nạn” nào cả.

Như Quỳnh de Prelle: Con đường thi ca của Thi Gia luôn song hành trong đời sống của chị chứ không phải một tai nạn hay những gây sốc, gây choáng váng… Và có lẽ thế mà, thi ca với chúng ta luôn trong nghệ thuật đời thường. 

Với Tạ Anh Thư, Người lạ của chị như đang một xu hướng mà tất cả mọi người dùng mạng xã hội đều dùng, Người lạ ơi, Người lạ ơi. Người lạ có phải là những bí mật trong tình yêu của chị bắt gặp trong đời sống này bằng thơ? 

                                                                    

                                       Tạ Anh Thư và Người lạ 

Tạ Anh Thư: Thật ra tập thơ Người lạ của Thư và bài hát  Người lạ ơi đang nổi đình nổi đám không có điểm nào chung về tư tưởng cũng như thông điệp cả.  Tập thơ của Thư ra đời trước bài hát  ấy 6 tháng. Sự trùng hợp này có lẽ là cái duyên giữa những người xa lạ cùng yêu nghệ thuật chăng? Tập thơ Người lạ viết về tình yêu, nhưng không chỉ là tình yêu lứa đôi mà còn là tình yêu với cuộc sống, với cái đẹp. Tình yêu đó thể hiện qua những khắc khoải về thời gian, về những giới hạn của kiếp nhân sinh. Tập thơ của Thư vì vậy không chú trọng giãi bày tâm tư riêng mình mà chủ yếu hoá thân vào những người xa lạ, kể câu chuyện của họ.

Như Quỳnh de Prelle: Oh, mình không hề biết bài hát đó. Mình nghĩ đó là phản ứng lan truyền từ tập thơ của Anh Thư đó. 

Hai người đàn bà viết thơ đều là giảng viên Ngữ văn ở các trường đại học, có lẽ trong môi trường với sinh viên trẻ trung sôi động, các chị có nhiều cảm hứng sáng tác từ những học trò của mình, từ sự thơ trẻ này hay có nhiều cản trở khác? 

Tạ Anh Thư: Sống trong môi trường của những người trẻ tuổi cũng giống như bạn đang đi giữa một khu vườn mùa xuân vậy. Mọi thứ tràn đầy nhựa sống, trong trẻo, thanh khiết và đầy hy vọng. Đó là một bầu không khí tuyệt vời để nuôi dưỡng niềm háo hức, say mê với cuộc sống. Thêm nữa, mỗi năm, những lớp sinh viên nối tiếp nhau, luôn trẻ còn mình thì lại đang già đi. Vì thế, mình có độ lùi cần thiết để ngắm nghía, chiêm nghiệm về sự hữu hạn của vạn vật trong vũ trụ trong một chu kì sinh tử, về cái đẹp của tuổi trẻ cũng như cái đẹp của sự tàn phai. Ngắm nghía vẻ đẹp của những người xa lạ để nhận thấy  được vẻ đẹp của vũ trụ cũng như những quy luật của nó luôn là điều làm Thư thích thú. Bài thơ - Người lạ - chủ đề chính của tập thơ cũng nảy sinh từ cảm hứng này:

Cô gái trẻ trong vườn tôi gặp sáng nay

vạt áo nàng ướp đầy mùi mây

của một mùa xuân chạng vạng

dù tôi nhìn nàng rất dịu dàng

nàng vẫn không giấu nỗi bất bình trong đôi mắt sáng:

"Sao ông nhìn người khác quá lâu?"

Ồ nàng ơi tôi có nhìn nàng đâu

tôi nhìn mùa xuân của tôi cách đây không lâu

hiện lại trên làn da nàng tuổi trẻ

tôi nhớ ngọn gió đã từng lùa rất khẽ

trên tóc xanh tôi qua mái tóc nàng

tôi chỉ nhìn thấy mùa sang

qua đôi má nàng

những cành hồng vườn nhà tôi trĩu quả.

Mà thôi nàng ạ

một ngày kia khi nàng già đi

nàng sẽ hiểu lão già này nói gì.

Thi Gia: Cảm hứng sáng tác của mình có thể đến từ bất kỳ vấn đề nào trong cuộc sống, gia đình, con cái, tình yêu, thân phận con người trong xã hội, vận mệnh của đất nước, tình yêu con người, tình yêu cuộc sống. Nỗi bất hạnh, sự thiếu thốn, nỗi đau của con người, đặc biệt là của trẻ con và người nữ luôn gây ám ảnh mình nhất. 

Như Quỳnh de Prelle: Và chúng tôi, dường như không bị chữ và học thuật đàn áp, và chúng tôi cũng không sử dụng học thuật để tranh cãi nhau cũng như khẳng định vị trí trong thi ca. Thi ca là đời sống, là tình yêu của nghĩa rộng. Đây có lẽ là điểm khác biệt của thế hệ 8x, thế hệ sinh sau chiến tranh, thế hệ lớn lên từ blog, mạng xã hội, thế hệ của học hành và những di chuyển. 

Như Quỳnh de Prelle: Tự do của những người đàn bà trưởng thành với các chị là gì, có ảnh hưởng trong sáng tác không? 

Tạ Anh Thư: Tự do của những người trưởng thành là hiểu rõ mình và dám sống cho mình; dám theo đuổi tới cùng điều mình biết sẽ làm cho mình hạnh phúc - bất chấp những lý thuyết/ qui chuẩn về hạnh phúc của người khác và nỗ lực đồng hoá của họ. 

Điều này, theo Thư, ảnh hưởng nhiều đến sáng tác, nếu không muốn nói là chi phối việc sáng tác kể cả về tư tưởng cũng như hình thức biểu hiện. Nếu không tự do về tư tưởng sẽ không có sự sáng tạo đúng nghĩa. Lúc đó, tác phẩm chỉ như một cái áo ta mặc cho vừa mắt người chứ không phải mặc để ta được đẹp theo cách của ta.

Thi Gia: Quan niệm về tự do của tuổi tụi mình chắc khác với quan niệm của các bạn nữ trẻ hơn, được tự do chọn lựa công việc, hôn nhân, được yêu theo ý mình và từ chối tình yêu không như ý cũng là một tự do mà không phải người nữ nào cũng có được. Được thổ lộ cảm xúc của mình về tình yêu, bộc bạch những khát khao mà mình muốn có trong yêu thương với người đàn ông của mình cũng là một điều tự do. Và tụi mình còn may mắn hơn là biết làm thơ để bày tỏ những khát vọng đó, về những ước ao vươn tới một tình yêu đẹp đẽ đúng nghĩa mà mình nâng niu và trân quý.

Như Quỳnh de Prelle: Thi ca đã thoát khỏi tháp ngà của chữ nghĩa, cái đẹp không còn là tượng trưng quy ước, cái đẹp chính là những cảm nhận đẹp về đời thường nghệ thuật, và thi cả trở nên gần gũi hơn, giản dị hơn. Có phải đây là con đường ngắn nhất để thi ca hiện thời sống như hơi thở của nó, như tinh thần tồn tại hiện sinh của nó chứ không phải những đúc kết, triết lý có sẵn được lặp lại.

Tạ Anh Thư: Thư nghĩ rằng cái đẹp thật sự là cái đẹp của sự sống, của sự vận động và biến hoá đa dạng. Dĩ nhiên, có những cái đẹp đã đến mức toàn mĩ và vì thế vẫn giữ nguyên giá trị theo thời gian. Tuy nhiên, nó chỉ có giá trị tham chiếu, góp vào lịch sử như một kiểu mẫu đại diện cho một thời điểm cụ thể, không thể trở thành một nguyên tắc bất biến cản trở sự sáng tạo. Mỗi thời đại có một hơi thở khác nhau và thi ca, vì thế, phải mang dấu ấn của quan điểm thẩm mỹ thế hệ sản sinh ra nó. Đó là qui luật. Chúng ta sẽ luôn có những sự "khác". Sự khác đó diễn ra lâu hay mau, được đón nhận như thế nào còn tuỳ tâm thế của người tiếp nhận, vào tầm đón đợi của họ. Chỉ là, nếu hiểu được qui luật này, tôn trọng nó, người sáng tạo sẽ bớt hoang mang và người tiếp nhận sẽ bớt định kiến. 

Như Quỳnh de Prelle: Còn với Như Quỳnh, viết như việc ăn, mặc, ở, đi lại. Ngày nào cũng viết. Nếu không viết chắc mình đã chết tự lâu rồi hoặc tự tử mất (cười). Mình xác định bước vào con đường thi ca chính thức 3 năm nay thôi dù viết từ nhỏ, và công việc hàng ngày của mình là viết, viết giữa những bận rộn của công việc khác, viết giữa những chuyến đi… và phải xả ra, đốt cháy nó không thì mình tự thiêu chính mình với ý nghĩ và sự nhảy nhót của nhiều ý tưởng. Viết là Thiền. 

Như Quỳnh de Prelle: Chúng ta biết nhau từ online và kết nối từ đây, chị nghĩ thế nào về thơ trên Facebook và chia sẻ ở Facebook, khi vấn nạn trộm chữ, đạo thơ ngày càng phổ biến? 

Thi Gia: Sao ngăn được chuyện trộm chữ, đạo thơ nhưng rốt cuộc trong lịch sử thi ca có ai đạo văn đạo thơ mà che giấu mãi mãi được đâu. Còn nhu cầu được bộc bạch và được chia sẻ ngay với bạn đọc thì người viết văn nào chẳng có, thế nên đăng Facebook thì cứ đăng thôi và kèm theo sau đó, mình thường gởi ngay cho một trang web nào đó đăng lại, coi như “đóng dấu chính chủ” cho thơ mình, nhỡ mai mốt có bị đạo cũng không mất công cãi vã vì đã có bằng chứng

Tạ Anh Thư: 

Mỗi trang Facebook tựa như một trang báo riêng mà chủ tài khoản là tổng biên tập. Người ta có thể thoải mái chia sẻ tác phẩm của mình mà không phải chờ duyệt/đăng bài. Vì thế, Facebook khuyến khích việc sáng tác, mình cho là vậy. Bởi công bố dễ dàng, đối tượng độc giả lại đa dạng, nên đương nhiên sẽ có hiện tượng trộm chữ, đạo thơ. Thôi thì nếu họ trộm lộ liễu quá thì mình lên tiếng, mình đưa bằng chứng là ngày này giờ này tôi đã post bài này đây. Facebook có lưu thời gian hết mà, nguỵ tạo đâu có được. Còn nếu họ trộm tinh vi ở dạng ý tưởng, hình ảnh thì thôi...đành chịu. Nhưng Thư tin mỗi bài thơ cũng có cái duyên riêng với độc giả. Nếu người viết lương thiện thì tác phẩm của họ sẽ có duyên lành. Hơn nữa, thơ mình sẽ có chất của riêng mình, giọng của riêng mình, chẳng ai cướp được. Những người trộm thơ, đạo thơ đó họ sẽ tự phải chịu một hình phạt là mất đi niềm vui sáng tạo. Không cần phải có ai phát giác, họ cũng cứ tự thấy mình ươn hèn đi với chính mình. Một linh hồn cứ bị những mặc cảm đeo đuổi thì không thể reo vui và bay bổng được. Điều này, theo Thư là hình phạt khủng khiếp nhất. Tóm lại, Thư cho rằng ta hãy cứ tập trung làm thơ cho hay thì vẫn tốt hơn là tập trung canh gác. Mình đâu thể vì sợ tai nạn giao thông mà không ra đường, đúng không? 

Như Quỳnh de Prelle: Đã từ lâu Quỳnh không đăng thơ Facebook nữa, rất hạn chế. Thực sự buồn khi trộm chữ, đạo thơ, đạo văn như là thứ hàng hiệu của giới văn chương. Không biết bao lâu nữa, người viết dù bất cứ ai coi trọng đạo đức của nghề là số 1 chứ không phải sự danh tiếng là số 1 trong nghề này. 

Như Quỳnh de Prelle: Trong vòng vây của thị phi văn chương, các chị nghĩ gì về con đường tiếp theo của mình với thi ca, tôi tin, tình yêu của chúng ta không dễ dàng bỏ cuộc nhưng chúng ta phải bằng cách nào đó để những người viết được tự do, được tôn trọng là những tác giả, được quyền bình đẳng chia sẻ, sáng tác chứ không phải những quy ước ràng buộc hay luật bất thành văn từ nhiều phía. Tôi rất ngạc nhiên khi thấy rất nhiều định kiến dành cho chị em phụ nữ trong giới sáng tác là Đẹp thì làm sao viết thơ hay, Hạnh phúc thì làm sao viết hay được…. Các chị giải phóng những định kiến trong sáng tác bằng cách nào? 

Tạ Anh Thư: Cái đẹp của thi ca thì có gì mâu thuẫn với cái đẹp dung mạo của người sáng tác chứ? Chẳng lẽ người viết phải là những người xấu xí và bất hạnh? Quan niệm như thế là hạ thấp giá trị của thi ca và thi sĩ. Thư nghĩ rằng không cứ phải bất hạnh mới biết buồn, biết đau. Chỉ cần nhạy cảm là nỗi đau của tha nhân đã chạm đến tim mình. Nếu đã có tư chất của người nghệ sĩ thì cuộc sống rộng lớn ngoài kia đã là nguồn cảm hứng bất tận để sáng tác rồi, không cần riêng mình phải có thêm một bi kịch nữa.

Còn việc làm gì để giải phóng khỏi những định kiến đấy hả? Thì Thư...làm thơ thôi. Mình không có quyền bắt buộc người ta phải hiểu như mình nhưng mình có quyền từ chối sự chi phối của họ đến mình. Nói tóm lại chỉ cần tin vào mình là đủ.

Thi Gia: Cách giải phóng định kiến tốt nhất là mình tiếp tục viết và viết cho hay thôi, sản phẩm thi ca của chúng ta sẽ trả lời và tự nhiên gạt bỏ những định kiến đó. Và mình tin là cũng chỉ có một số ít người có những định kiến như vậy thôi vì thế giới thi ca hiện nay của chúng ta đã cởi mở nhiều hơn rồi, tầm đón đợi của độc giả cũng phóng khoáng hơn nhiều. Phần của chúng ta là cứ viết ra những rung động tự đáy lòng mình về những gì chúng ta tìm thấy trong cuộc sống và không cứ là những câu thơ được viết ra bởi người đàn bà đẹp hay xấu, hạnh phúc hay bất hạnh, những câu thơ từ đáy lòng sẽ được đón nhận tận đáy lòng thôi mà.

Như Quỳnh de Prelle: Dù có thế nào hay chuyện gì xảy ra, chúng tôi cũng tiếp tục viết và viết. Viết là hơi thở của đời sống này, trên hết đó chính là con người của mỗi tác giả, là tư tưởng, giá trị sống mà chúng tôi hướng tới, quan tâm. Và có lẽ vì thế, chúng tôi dám sống, dám viết như những gì chúng tôi có, chứ không phải những ồn ào bên ngoài. 

Đây là bài thơ mình viết từ rất lâu rồi nhưng khi lần đầu tiên Như Quỳnh đăng trên một trang văn học mạng ở ngoài không gian Việt Nam, rất nhiều bạn đọc tìm đến và tìm hiểu xem cô này là cô nào?

Những đôi mắt quặng 

trên gương mặt đẹp

đầy nghi hoặc 

những đôi mắt quặng

nhìn dòng người đi qua như quỷ

nhìn tình yêu là màu vô tri

không xấu không tốt

giá trị lỗi thời cổ hủ

nhưng khăng khăng khẳng định 

những đôi mắt quặng

của những người đàn bà có học

không có hy vọng

không có ngày mai

từ tâm vô định

của những người đàn ông thối tha

rục muỗng tinh hoàn 

có thế hệ n cho đôi mắt quặng

thiếu sinh lực

không sự sống

bần cùng trong đống vật chất hàng hiệu mùi Tàu

Cuộc đối thoại của chúng tôi mang tính cởi mở và tôn trọng tự do biểu đạt, chúng tôi nói từ tiếng nói cá nhân của chúng tôi, không đại diện cho bất cứ tổ chức nào. Đăng chính thức trên Facebook của 3 tác giả. 

Trân trọng cảm ơn Người thơ Tạ Anh Thư và Thi Gia, chúc 2 bạn luôn sung sức sáng tạo và giàu cảm hứng với cuộc sống thực tại này. Thi ca luôn trong lòng đời sống ngày thường của chúng ta. 

Cảm ơn tất cả các bạn đọc. 

Trân trọng, 

Như Quỳnh de Prelle từ Brussels, 

Thông tin các tác giả: 

Tạ Anh Thư: Tiến sỹ, giảng viên Ngữ văn, Trưởng bộ môn Ngữ văn, Đại học Thủ Dầu Một- Bình Dương. Tập thơ Người lạ, Nhà xuất bản Thanh Niên 2017. Thơ đăng trên các trang văn học trong nước. 

Thi Gia: Tiến sỹ, giảng viên Ngữ văn, Trưởng Bộ môn Văn học Dân gian, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh. 

Thơ trắng - thơ, NXB Hội Nhà văn 2017.

Như Quỳnh de Prelle: Sống tại Brussels, Bỉ. Thơ xuất bản trên các trang văn học online như Da Màu, Gió O, Hợp Lưu, Văn Việt, Du Tử Lê, Văn chương Việt và Tạp chí Sông Hương….. 

Giải thưởng Du Tử Lê 2016. 

Tập thơ Song tử, Nhà xuất bản Thuận Hoá 2017. 

Thơ trong tập 40 năm thơ Việt hải ngoại cùng 53 nhà thơ khác, Nhà xuất bản Người Việt tại Hoa Kỳ 2017.

Nguồn: https://quynhdeprelle.blogspot.be/2018/01/thi-ca-va-ket-noi.html

20180723 SG 1954

Ảnh: Góc đường Catinat - Bonard (Đồng Khởi - Lê Lợi ngày nay) trước 1954 (Sưu tâm của Lê Hoan Hưng - Nguồn: Báo Thanh niên)

Hoạt động sáng tác văn học sôi nổi ở Sài Gòn giai đoạn 1945-1954 có một phần đóng góp không nhỏ của báo chí. Từ góc nhìn phê bình xã hội học, kênh phổ biến của tác phẩm văn học là một trong những yếu tố chi phối quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm, và có khi chi phối cả những yếu tố thuộc văn bản tác phẩm. Bài viết này phân tích tính xã hội của truyện đăng trên một số tờ báo ở Sài Gòn giai đoạn 1945-1954, cụ thể là Tân Việt Nam (1945), Nguồn sáng (1948), Việt báo (1949), Thế giới (1949), Mới (1952-1953), Đời mới (1952-1954), Nhân loại (1953-1954), và Thẩm mỹ tuần báo (1952-1954). Những số báo nói trên rải đều trong cả giai đoạn 1945-1954 và chuyên về văn học, nghệ thuật, xã hội, nên từ đó có thể khái quát một số đặc điểm của truyện đăng báo giai đoạn này.

1. Truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945-1954 nhìn từ đặc trưng báo chí

Cùng là sản phẩm của công nghệ in ấn hàng loạt, tác phẩm văn học in sách và đăng báo vẫn có những điểm khác nhau. Cái khác nhau căn bản giữa hai đối tượng này là truyện đăng trên báo chí gắn liền với đặc tính của báo chí là hoạt động kinh doanh thông tin.

Báo chí không chỉ là công cụ phổ biến thông tin hàng loạt đến với đại chúng, nó còn là đơn vị kinh doanh thông tin. Trước khi báo chí ra đời vẫn có những hình thức thông tin khác nhau như thư từ, các loại công văn hành chính... nhưng rất giới hạn về mặt không gian và thời gian, và chỉ liên quan đến một số đối tượng cụ thể. Báo chí ra đời đã mở ra thời đại thông tin, vì nó không chỉ cải thiện tốc độ truyền tin, gia tăng lượng thông tin và lượng người nhận tin gấp hàng trăm, hàng ngàn lần so với những công cụ truyền tin trước đó, mà nó còn làm thay đổi nhận thức của mọi người về thông tin. Kể từ khi báo chí ra đời, mọi tầng lớp trong xã hội bắt đầu quan tâm đến thông tin trong thời đại mình sống ở mức độ rộng lớn hơn, không chỉ những thông tin xảy ra xung quanh mình nữa, mà cả những thông tin chính trị, xã hội, văn hoá có tính chất trừu tượng, vĩ mô. Mọi người dù là trí thức hay người dân lao động đều có nhu cầu biết tin, bàn tán về tin, và một số người có nhu cầu can thiệp vào các vấn đề được báo chí phản ánh, và tiếp tục tạo ra tin mới.

Xét ở khía cạnh kinh doanh, văn chương đăng báo là công cụ hút khách của báo, nhưng ngược lại, chính báo chí đã đem đến cho tác phẩm văn học đăng báo lượng người đọc tiềm năng lớn hơn nhiều và đa dạng hơn nhiều so với sách in. Thể loại văn học trên báo chí quốc ngữ nói chung và báo chí Sài Gòn 1945-1954 nói riêng tiêu biểu trong việc làm nhiệm vụ giữ chân độc giả là tiểu thuyết feuilleton, một kiểu tiểu thuyết dài kỳ đăng báo. Trần Nhật Vy đã gọi feuilleton là “đặc sản của báo chí quốc ngữ thời xưa”[1]. Tác giả viết truyện được trả lương tháng, và nhiều tờ báo mướn những nhà văn có tên tuổi viết riêng cho báo mình để câu khách. Phú Đức, tác giả feuilleton nổi tiếng từ trước 1945 đến giai đoạn 1945-1954 vẫn là một tác giả ăn khách, mà theo như người cùng thời khẳng định thì ông là nhà văn “kiếm nhiều tiền nhứt làng báo Sài Gòn”[2]. Bên cạnh đó còn có rất nhiều những feuilleton khác, có khi đăng đến hơn 40, 50 tuần báo, tức cả năm trời vẫn chưa kết thúc như Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang… Truyện ngắn cũng có lúc đóng vai trò giữ chân độc giả như feuilleton khi có một tác giả ăn khách nào đó viết thường xuyên cho chuyên mục đó, chẳng hạn như mục Tiêu khiển trên báo Đời mới (1952) mỗi tuần đăng một truyện trinh thám của Thiên Giang, hoặc truyện gây cười nhằm mục đích giải trí thuần tuý của các tác giả khác. Báo Đời mới có rất nhiều cây bút thân thiết cho mục truyện ngắn, như Trần Phương Như, Vĩnh Lộc, Văn Hoà…

Vì là thành tố của hoạt động kinh doanh thông tin nên truyện đăng trên báo chí phải đáp ứng một số yêu cầu của hoạt động kinh doanh đó. Thứ nhất là tính tức thời. Viết văn đăng báo, đặc biệt là feuilleton, không thể nghiền ngẫm, dồn nén năm này qua tháng nọ như viết sách, cũng không để đợi có hứng mới làm việc, mà cứ đến hẹn lại lên. Phi Vân trong lời nói đầu tập phóng sự-tiểu thuyết Đồng quê rào đón: “Đây là những bài báo. Bởi thế cách hành văn cũng như nội dung đều có tính cách “nhật trình”. Lối văn gần như cẩu thả. Câu chuyện có vẻ nhất thời”[3].

Thứ hai là tính tương tác. Người đọc tiếp nhận tác phẩm ngay trong quá trình nó được sáng tạo ra, và đôi khi có khả năng chi phối quá trình sáng tạo đó. Tính tương tác này phần nào thu ngắn khoảng cách giữa nhà văn và độc giả trong thời đại của in ấn hàng loạt đã phân tích ở mục 1.1. Độc giả có thể gửi thư tới toà soạn thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình với tác phẩm hoặc tác giả nào đó. Điều này có thể tác động trực tiếp tới hợp đồng giữa tác giả và toà soạn báo, hoặc quyết định một tiểu thuyết feuilleton có được viết tiếp, đăng tiếp nữa hay không. Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông chỉ đăng được 8 kỳ thì dừng lại không rõ lý do, dù ở cuối kỳ 8 vẫn ghi là “còn nữa”, Chúa đảo trả thù của Long Mỹ Nhân cũng dang dở ở kỳ 48, Xương máu Phiên Ngung dừng ở kỳ 33. Tương tác giữa tác giả và độc giả về một tác phẩm cụ thể có lúc được đăng công khai trên báo để rộng đường dư luận. Đời mới đăng các bức thư trao đổi qua lại giữa độc giả Nguyễn Đức Hồ và tác giả Giang Tân về feuilleton Ngày mai đã muộn rồi đăng trên tuần báo này. Nguyễn Đức Hồ giật tít bài viết của mình “Giáo dục sinh lý khác với khiêu dâm”, trong đó ông trao đổi với tác giả Giang Tân đại ý rằng tác phẩm gợi dục nhiều hơn là giáo dục, vì những đoạn mô tả các hành vi tò mò sinh lý giới tính của những đứa trẻ quá sinh động. Giang Tân đáp lời, giải thích rằng giáo dục bằng văn học không thể giáo điều, mà phải mô tả sao cho có tính văn học, chi tiết và logic[4].

Thứ ba, văn chương đăng báo, cũng giống như báo chí nói chung, mang tính thời sự. Tất nhiên không phải tác phẩm nào cũng thế, vì vẫn có trường hợp báo in lại tác phẩm cũ, và hoạt động sáng tạo của nhà văn vẫn có sự độc lập tương đối với hoạt động lấy tin, viết phóng sự…của tờ báo. Một ví dụ tiêu biểu là truyện ngắn Vui sướng gì? của Lê Hương đăng trên Thế giới tháng 11.1949, lấy ý tưởng từ sự kiện bố ráp diễn ra ở rạp Trung ương Hí viện Sài Gòn. Tuy nhiên, đa số tác phẩm có tính thời sự đều thể hiện vấn đề một cách chung chung. Các nhà văn, nhà báo không thể viết về chiến tranh chống Pháp một cách cụ thể, đặc biệt là từ sau 1950, vì chính quyền Pháp kiểm soát báo chí giai đoạn này gắt gao hơn thời kỳ 1945-1949.

Thứ tư, văn chương đăng báo ngắn gọn hơn, đơn giản hơn văn chương in sách, do khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo. Trong thời kỳ chiến tranh hay kinh tế khủng hoảng, chi phí giấy mực, in ấn tăng cao khiến báo giảm số trang, người viết lại càng phải tìm cách o ép, cắt tỉa nội dung bài viết của mình cho vừa giới hạn, để đảm bảo việc kinh doanh báo chí vẫn có lời. Có tác phẩm đạt được đặc trưng của truyện ngắn, tức là chỉ thông qua một lát cắt của đời sống, thông qua một sự kiện cụ thể mà nói được những vấn đề nhân sinh rộng lớn, trong khi vẫn đảm bảo sự tinh tế tài hoa trong văn chương và khơi lên những rung động cảm xúc (Người khách đường rừng của Xuân Khai, Gánh hàng rau của Ái Lan, Bóng tối của Văn Hoà) nhưng nhiều truyện lại rất vụn vặt, chỉ mô tả sự kiện như một kiểu kể chuyện hằng ngày để giải trí, tiêu khiển rồi thôi, chứ không giàu chất văn chương. Những tác phẩm đó chỉ là truyện có dung lượng ngắn, chứ không đạt được đặc trưng của thể loại truyện ngắn. Sự sơ sài này có thể là do nhu cầu “lấp cột báo” vẫn xảy ra thường xuyên khi báo đến kỳ mà chưa có bài, buộc ban biên tập phải viết vội một truyện cho xong, độc giả có thể đọc rồi quên, hoặc người phụ trách chuyên mục đó dưới áp lực phải ra bài đều đặn mỗi tuần không tránh khỏi bài hay, bài dở. Nhiều truyện ngắn của Hợp Phố đăng trên Nhân loại thuộc kiểu như vậy (Hợp Phố là thư ký toà soạn của tờ báo này), hoặc một số truyện ngắn trinh thám của Thiết Can trên Đời mới với rất nhiều tình tiết vô lý, thủ phạm rất sơ hở, như thể để sẵn chứng cứ cho người phá án nhìn thấy. Nhiều truyện khác sơ sài có thể là do người viết nghiệp dư được báo chọn đăng bài.

2. Truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945-1954 nhìn từ công chúng

Như đã phân tích ở mục 1, công chúng của truyện đăng báo là khách hàng của hoạt động kinh doanh thông tin, và nhu cầu thông tin của họ lại do báo chí tạo ra. Phillppe M. F. Paycam khi nghiên cứu về báo chí Sài Gòn 1916-1930 đã nhận ra đặc điểm của người làm báo và công chúng báo chí như sau, và đặc điểm này vẫn duy trì đến cả giai đoạn 1945-1954:

“[…] báo chí Việt Nam những năm 1920 đã đóng vai trò làm nền tảng kiến thức cho việc hoạt động chính trị công khai, các toà soạn kiêm luôn cả trụ sở lẫn thư viện, ban biên tập hợp thành một nòng cốt cụ thể của những nhóm giới rộng lớn hơn. Với sự phát triển của số cộng tác viên - vừa là người viết lẫn người đọc báo cho công chúng nghe và là người bán báo - sự cách biệt giữa độc giả và ban biên tập bắt đầu xoá mờ. Báo chí trở thành nơi giao dịch của một kiểu dân chủ sống động: báo chí đã tạo ra một kinh nghiệm chung cho tất cả những ai có liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ. Nhiều công nhân tham gia vào ngành ấn loát và xuất bản; những người có khả năng hơn đi thu thập thông tin hay thu tiền đặt báo dài hạn ở các tỉnh; các bưu tá, đại lý phát hành và trẻ em đường phố hoạt động như những người bán báo hay cho thuê báo không chính thức. Thậm chí các garçons de café (bồi bàn cà phê) cũng đưa báo cho khách và giấu không cho mật thám Sở Liêm phóng biết. Ý kiến của những người mù chữ trở nên có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp với báo chí thông qua những người đọc báo cho công chúng nghe.”[5]

Từ trích dẫn trên, có thể thấy báo chí đã mở rộng cộng đồng những người quan tâm đến chính trị - xã hội và chi phối chính trị - xã hội ở Sài Gòn và Nam kỳ. Cộng đồng này trong thời phong kiến chỉ là những người có quyền lực chính trị, khi kinh tế tư bản phát triển dưới thời thuộc địa thì cộng thêm những người có tiền, tức có quyền lực kinh tế. Nhờ có báo chí mà tất cả những nhóm xã hội khác, kể cả những người lao động nghèo, thậm chí cả người mù chữ ở Sài Gòn ý thức về các vấn đề chính trị - xã hội, và tác động vào chính trị - xã hội bằng cách bàn luận hoặc thông qua phản ánh của người trí thức, giới ký giả.

Theo khảo sát của chúng tôi khi thực hiện đề tài “Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954” do Nguyễn Thị Thanh Xuân làm chủ nhiệm, dựa trên danh mục báo của một số thư viện như Thư viện Khoa học Tổng hợp TP. HCM, Thư viện Quốc gia Việt Nam, Thư viện Quân đội, Thư viện Khoa học Xã hội, Thư viện Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ thì trong số 352 tờ báo quốc ngữ ở Sài Gòn trước 1954, có đến 174 tờ báo thuộc giai đoạn 1945-1954, tức gần một nửa. Cần lưu ý rằng đây là những tờ báo mà các thư viện biên mục được (tuy rất nhiều tờ chỉ còn thông tin biên mục chứ không còn báo), không phải là tất cả những tờ đã từng tồn tại. Các báo thuộc giai đoạn 1945- 1954 có nhiều tờ đã ra đời từ trước 1945 vẫn duy trì tiếp đến giai đoạn sau, hoặc tục bản. Con số 174 tờ báo biên mục cũng không hẳn chính xác, vì có rất nhiều tờ báo trùng tên, các thư viện khác nhau lưu các số báo khác nhau, tuy nhân sự của ban biên tập không giống nhưng cũng chưa thể khẳng định đó là một tờ báo tục bản hay các tờ khác nhau. Tuy nhiên, con số thống kê chưa đầy đủ nói trên cũng cho thấy hoạt động báo chí ở Sài Gòn giai đoạn 1945- 1954 hết sức sôi động. Số lượng báo tuy nhiều nhưng đa phần đều tồn tại trong thời gian ngắn. Số lượng báo bị đình bản rất nhiều, dẫn đến việc giới báo chí liên tục đấu tranh, biểu tình chống đóng cửa báo. Nhiều tờ báo chỉ ra được vài số rồi chết yểu.

Mặc dù tất cả các số liệu trên chỉ giúp cung cấp một bức tranh liên tưởng chứ không cụ thể, chính xác về hoạt động tiêu thụ báo chí ở Nam Bộ giai đoạn 1945- 1954, nhưng ta có thể suy ra được vài nét về công chúng báo chí và công chúng văn học thời kỳ này. Người làm báo không chỉ viết báo để thoả mãn ý muốn của mình, mà họ chỉ có thể duy trì tờ báo khi duy trì được lượng người mua (trừ các báo nhận trợ cấp từ chính quyền). Các báo liên tục ra đời, báo này bị đóng cửa lại có báo kia thành lập, dẫn đến số lượng báo chí rất lớn như đã nêu cho thấy người đọc quan tâm đến những gì mà báo phản ánh. Hoạt động đấu tranh chính trị đã mô tả trong phần bối cảnh không phải chỉ là chuyện của giới ký giả, mà thông qua tin tức trên báo, nó còn tạo ra nhu cầu thông tin của độc giả về các hoạt động tranh đấu. Từ đó công chúng của truyện đăng báo lại hình thành thị hiếu, khuynh hướng thẩm mỹ hướng tới các tác phẩm có tính chất tranh đấu và bàn về những vấn đề xã hội. Điều này lý giải tại sao thể loại feuilleton thời này lại ít hẳn tính giải trí, tiêu khiển so với giai đoạn trước (căn cứ trên các tác phẩm thu thập được). Mục 1 đã phân tích chức năng chủ yếu của feuilleton là để “câu khách”, và thông thường muốn duy trì sự hứng thú của công chúng bình dân thì tác phẩm phải tập trung vào tính giải trí, tiêu khiển. Thế nhưng phần lớn feuilleton giai đoạn 1945- 1954 mà tác giả bài viết này thu thập được lại nặng tính chính trị, xã hội, chẳng hạn như Cát trắng của Kiêm Minh, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang, Ngày mai đã muộn rồi Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông, Trôi giạt của Vĩnh Lộc… Các feuilleton này có truyện kéo dài đến 40, 50 kỳ báo. Có thể lý giải theo hai hướng: một là thị hiếu của độc giả thay đổi, tính giải trí, tiêu khiển của feuilleton phải dần thay thế bằng tính chính trị, xã hội thì mới thoả mãn được độc giả; hai là người làm báo xem trọng tính chính trị của tờ báo hơn độc giả của mình, muốn mượn công cụ văn chương để truyền bá và tác động vào tư tưởng của người đọc. Có thể có cả hai nguyên nhân, nhưng nguyên nhân thứ nhất vẫn có tính quyết định hơn, vì nếu người đọc đã không hứng thú gì với tờ báo và các feuilleton này thì việc tuyên truyền trở nên vô ích.

Bên cạnh độc giả không chuyên nghiệp phần nào được tái hiện qua một vài số liệu và suy luận, công chúng còn bao hàm một bộ phận quan trọng là các nhà phê bình văn học, thông qua những bài viết, ý kiến trao đổi có tác động vào văn chương nói chung, truyện đăng báo thời kỳ này nói riêng. Trong đề tài nghiên cứu “Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954 (sưu tầm, khảo sát và đánh giá), Nguyễn Thị Thanh Xuân có tổng thuật lại diễn trình của các hoạt động lý luận, phê bình văn học trên sách báo xuất bản ở đô thị thời kỳ 1945-1954 một cách cụ thể, bao quát từ các công trình lý luận về văn hoá, đến những sách, báo lý luận về bản chất, chức năng và thể loại văn học, những hoạt động phê bình các tác giả tác phẩm cụ thể, những bài tổng kết thời sự văn học, những cuộc tranh luận văn chương, những cuộc thi sáng tác, các hoạt động dịch thuật, giới thiệu sách, phỏng vấn, điều tra văn học. Nhìn chung, giới nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học thời kỳ này đề cao mối quan hệ giữa văn học với xã hội và ý thức hệ của người nghệ sĩ. Họ nhấn mạnh tính xã hội, tính giai cấp của văn học, đề cao mục đích vị nhân sinh, mà một trong những khía cạnh của vị nhân sinh là tính tranh đấu, đồng thời đặc biệt lưu ý đến tính đại chúng của văn nghệ. Thiên Giang, Thê Húc, Thẩm Thệ Hà cùng thảo luận xung quanh vấn đề văn chương tranh đấu, trong đó Thẩm Thệ Hà khởi xướng và chất vấn về tính tranh đấu trong văn chương Việt Nam đương thời[6], Thiên Giang đề nghị người nghệ sĩ phải tham gia vào cuộc tranh đấu, làm nghệ sĩ tả chân xã hội[7], và Dương Tử Giang kêu gọi đào huyệt chôn các tác phẩm văn chương uỷ mị mới đăng báo, vì ông cho rằng chúng làm lung lạc tinh thần tranh đấu[8]. Về tính đại chúng, các nhà lý luận, phê bình lật đi lật lại tính hai mặt của vấn đề, một mặt phải viết văn cho quần chúng hiểu, quần chúng thích, “nương theo đại chúng”[9], “phụng sự nhân dân”[10], nhưng mặt khác phải định hướng đại chúng đến những giá trị chân, thiện, mỹ, tránh xa thị hiếu tầm thường, đồi truỵ, vì “người nghệ sĩ chân chánh không lẽo đẽo theo sau quần chúng nhân dân”[11]. Tất cả những ý kiến lý luận chung nêu trên đều tác động đến người cầm bút, trong đó có các tác giả viết cho báo. Nhiều tác giả viết lý luận phê bình thời kỳ này cũng chính là những người viết truyện đăng báo chẳng hạn như Thiên Giang, Hoàng Thu Đông, Hà Việt Phương… do vậy tác phẩm của họ thể hiện rất rõ các quan điểm về văn nghệ mà họ đã trình bày.

Đối với các tác phẩm cụ thể mới xuất bản, thông thường giới phê bình hay tập trung vào sách hơn là truyện đăng báo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp cá biệt tác giả có truyện đăng báo được mang ra phân tích để làm rõ một luận điểm lý luận nào đó, chẳng hạn như Phú Đức và Nam Đình Nguyễn Thế Phương. Trọng Yêm trong bài “Thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”[12] đã nêu lên tình trạng cả xã hội mê mẩn feuilleton của 2 tiểu thuyết gia này, cho dù đa số là feuilleton đã cũ (Phú Đức đem đăng báo lại, còn Nam Đình in sách). Ông giải thích rằng điều này có nguyên nhân từ thị hiếu cũ kỹ của dân chúng và do chiến tranh kéo dài làm mọi người mất tinh thần, “mất tin tưởng vào ngày mai, ăn chơi trong ngày nay”. Trước đó, Phú Đức đã “bêu tên” trong một bài viết của Tam Nhơn với tít báo hết sức gây chú ý “Phú Đức tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”[13], trong đó có kể lại chuyện năm xưa Phú Đức tham tiền bỏ Trung lập báo sang viết cho Công luận báo trong lúc Trung lập đang đối mặt với khó khăn vì đăng bài bảo vệ hoạt động kinh doanh của người Việt. Tam Nhơn khiến độc giả nhận thức về thái độ chính trị của nhà văn, và cho thấy ngay cả một feuilleton thuần tuý giải trí vẫn có thể tác động vào công cuộc chính trị vì nó ảnh hưởng đến lựa chọn đọc báo của độc giả đại chúng.

Về tác phẩm cụ thể, chỉ có một vài truyện được phê bình riêng, vì đa phần các nhà phê bình tập trung vào sách in. Truyện ngắn Con thằn lằn chọn nghiệp của Hồ Hữu Tường đăng trên báo Mới số 26 đã khá thu hút ý kiến phê bình. Độc giả Đào Hữu Tường viết bài “Xin tha tội cho con thằn lằn”[14], cho rằng kết truyện của Hồ Hữu Tường có vẻ bất công. Phương Tiện Đạo Nhân[15] phân tích tác phẩm từ góc nhìn Phật pháp để bác ý kiến của ông Đào Hữu Tường, dẫn dắt từ vấn đề tôn giáo đến chức năng cải tạo xã hội của văn học, một trong những vấn đề quan trọng của lý luận phê bình thời đại này. Một tác phẩm đăng báo khác cũng được đem ra mổ xẻ là feuilleton Ngày mai đã muộn rồi của Giang Tân, trong đó độc giả Nguyễn Đức Hồ chê cách mô tả, kể chuyện có tính khiêu dâm dù mục đích tác phẩm là giáo dục, và Giang Tân đăng đàn giải thích, cho rằng văn học có quy luật của riêng nó chứ không giáo dục bằng lý thuyết, nên truyện phải được mô tả sống động, dẫn dắt hợp lý.

3. Truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945- 1954 nhìn từ văn bản

Nhìn từ văn bản không phải là cách nhìn đối lập với cách nhìn xã hội, mà là xem tác phẩm là một cấu trúc chỉnh thể độc lập có mối liên hệ với xã hội. Theo lý thuyết cấu trúc phát sinh của của nhà lý luận phê bình xã hội học Lucien Goldmann thì mỗi văn bản tác phẩm chứa đựng một cấu trúc hàm nghĩa nằm ngoài ý thức chủ quan của nhà văn, tương ứng với một cấu trúc xã hội của một nhóm xã hội mà nhà văn thuộc về, thể hiện thế giới quan không phải của nhà văn mà của nhóm xã hội đó.

Trong những tác phẩm được khảo sát, có hai mảng đề tài được các tác giả chọn viết nhiều nhất là đề tài tranh đấu yêu nước và đề tài đời sống đô thị. Viết về tranh đấu, các tác giả hoặc là kể về những chàng trai cô gái yêu nước thời hiện đại ra đi vì nghĩa lớn, những người ở lại, những người làm quốc sự đầy bí ẩn, cùng những nỗi đau và nét đẹp kiêu hùng của họ (Hận người tử sĩ của Hoàng Kim, Gánh hàng rau của Ái Lan, Làm lại cuộc đời của Hà Phương, Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ, Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông), hoặc mượn những câu chuyện đời xưa để khơi dậy lòng yêu nước (Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang, Lão Tô của Tô Kiều Ngân). Viết về đời sống đô thị, các nhà văn đặc biệt quan tâm đến số phận của các cô gái giang hồ (Ngày mai sẽ đến của Hoàng Thu Đông, Bóng tối của Văn Hoà, Cát trắng của Kiêm Minh, Trôi giạt của Vĩnh Lộc), sức tàn phá của xã hội đô thị xa hoa đối với thiên tính, lý tưởng của con người và sự trong trẻo của trẻ nhò (Hai cái chết cuả Cao Hữu Huấn, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Ngày mai đã muộn rồi của Giang Tân, Bài giảng văn của Hợp Phố), những mối lo tủn mủn tầm thường của con người tầm thường (Vui sướng gì của Lê Hương, Đôi vú sữa của Hợp Phố), những mối quan hệ phức tạp xã hội phức tạp, chồng chéo giữa yêu thương và thù hận, giữa tốt đẹp và sa đoạ, giữa tình nghĩa và phản trắc (Giết cha của Thiên Giang, Chúa đảo trả thù của Long Mỹ Nhân, Cây kiềng vàng của Cô Minh Đạt), những rung động, cảm xúc tế vi của con người cá nhân (Sầu riêng của Linh Bảo, Bãi cỏ của Thuỵ An Hoàng Dân)…

Viết về chiến tranh và cách mạng, các tác phẩm vừa liệt kê ở trên thường xoáy vào những éo le trong tình yêu, bịn rịn ngày ly biệt, người chiến sĩ mang vẻ đẹp kiêu hùng nhưng nhuốm màu u buồn. Điển tích Kinh Kha sang Tần được sử dụng khá nhiều, hoặc nếu không thì cũng là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng cưỡi ngựa trên dặm đường rong ruổi và ghé bến sông trong chiều muộn trò chuyện với một ông lái đò, cũng là người có cảm tình với cách mạng. Quán nước ven đường thường hay là căn cứ liên lạc của cách mạng. Viết về xã hội đô thị, các nhà văn quan tâm đến những phận người bé nhỏ, trôi giạt như gái giang hồ, trí thức, thiếu nhi, dân nghèo thành thị, công nhân... nhưng các cô gái giang hồ đều là những cô gái xuất thân trong gia đình trung lưu, bản thân có học hành, và trong những chuỗi ngày trượt dài trong u tối vẫn trăn trở về đời mình, về nhân thế; các anh công nhân, dân nghèo thành thị nhìn đời như những người trí thức...

Xét từ khía cạnh văn bản, những ví dụ nói trên tạo ra một hệ thống cấu trúc hàm nghĩa chung mang tính chiến đấu. Đó có thể là chiến đấu một cách trực tiếp vì mục tiêu chính trị thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân kiểu mới mà Pháp muốn xây dựng ở Nam Bộ thông qua các chính quyền tự trị bù nhìn. Ở mục tiêu xã hội, các tác giả khi kể các câu chuyện về đời sống đô thị đều không chỉ dừng lại ở việc mô tả đời sống của xã hội đó với những số phận bất hạnh, những mối quan hệ phức tạp, sự suy đồi của đạo đức, sự vụn vỡ của ước mơ… mà họ tả nó với cảm hứng muốn thay đổi hiện trạng đó. Thiên Giang khi phóng tác Anh em nhà Karamazov thành truyện Giết cha đã nhấn mạnh vào vấn đề đạo đức. Cô Minh Đạt viết Cây kiềng vàng kể về một gia đình tan vỡ vì thú sắc dục của người cha và những mưu mô toan tính của các thành viên trong nhà cũng nhằm chuyển tải bài học đạo lý. Tác giả còn viết rõ dụng ý này trong phần Lời cuối truyện. Kiêm Minh, Vĩnh Lộc, Hoàng Thu Đông, Cao Hữu Huấn… viết về các cô gái giang hồ đều mở ra cho họ một con đường thay đổi số phận hoặc được cứu rỗi linh hồn, viết về người trí thức trẻ mất lý tưởng đều vô tình hay hữu ý hé cho họ một tia hi vọng. Như vậy, đây cũng là một hàm nghĩa chiến đấu trên khía cạnh xã hội của các nhà văn, dù có khi họ không chủ đích điều đó. Hàm nghĩa chiến đấu này thực hiện bằng cách đánh vào trái tim nhiều hơn khối óc. Cụ thể là viết về yêu nước và cách mạng thì các tác giả có xu hướng khơi gợi nỗi buồn nhiều hơn vinh quang, mô tả sự khốc liệt của hiện tại nhiều hơn hướng về hạnh phúc trong tương lai. Điều này hoàn toàn trái ngược với văn học cách mạng hiện thực xã hội chủ nghĩa về sau. Bàn về xã hội, các nhà văn làm cho độc giả mủi lòng với các nhân vật hơn là phân tích động cơ của họ. 

Cấu trúc hàm nghĩa khách quan nói trên có mối quan hệ tương quan đối ứng với cấu trúc của nhóm xã hội mà tác giả cuả nó thuộc về, đó là nhóm trí thức trong xã hội đô thị chịu sự quản lý của thực dân trong thời kỳ bùng nổ thông tin chính trị. Sài Gòn vốn là một đô thị thuộc địa với mâu thuẫn giai cấp giữa tư bản và công nhân, giữa thực dân và bản xứ, mâu thuẫn giàu nghèo, vấn đề bần cùng hoá trong xã hội, vấn đề tội phạm… Tính chất thuộc địa này xét về mặt bản chất vẫn tồn tại đến giai đoạn 1945-1954, vì tuy có chính quyền của người Việt nhưng những chính quyền này suốt thời kỳ 1945-1954 không có quyền tự quyết. Điểm khác biệt của giai đoạn này so với giai đoạn trước là hoạt động đấu tranh chính trị diễn ra công khai hơn, quyết liệt hơn. Một trong những hoạt động đấu tranh đáng chú ý của giới báo chí thời này là phong trào Báo chí thống nhất (10.1946) quy tụ nhiều tờ báo thời đó đấu tranh cho sự thống nhất ba kỳ và ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phong trào này bị chính quyền Nam Kỳ dập tắt năm 1947 bằng việc đóng cửa hàng loạt tờ báo, bắt bớ các nhà báo như Phan Văn Thiết, Vũ Tùng, Dương Tử Giang, Thiếu Sơn, thậm chí ám sát các nhà báo Nam Quốc Cang, Đinh Xuân Tiếu (1950).

Các tác giả văn học thời kỳ này đều thuộc tầng lớp trí thức, và như đã nói ở trên rất nhiều người trong số họ cũng đồng thời là nhà báo, trong một thời kỳ báo chí liên tục phản kháng chính quyền, và bị chính quyền cấm đoán. Vì vậy, chiến tranh nói riêng, các xung đột chính trị nói chung đã tác động trực tiếp đến công việc, đời sống và tư duy của giới văn sĩ- ký giả. Cấu trúc hàm nghĩa tranh đấu trong tác phẩm đối ứng với cấu trúc xã hội của tầng lớp trí thức cụ thể này. Đành rằng các cuộc đấu tranh cách mạng đều khởi phát từ mâu thuẫn kinh tế- xã hội, nhưng tầng lớp tri nhận được những cuộc đấu tranh ấy sớm nhất luôn là tầng lớp trí thức, dù họ ở thế mạnh hay thế yếu trong cuộc giao tranh. Nếu nói như vậy, văn chương thời nào cũng sẽ có cấu trúc hàm nghĩa tranh đấu, vì văn chương vẫn thường do trí thức sáng tạo ra. Điểm mấu chốt là thời điểm sáng tạo tác phẩm có phải là thời kỳ mà giao tranh là vấn đề nóng bỏng nhất hay không. Trong mọi cuộc giao tranh, tư duy của con người có khuynh hướng phân cực để nghiêng về một phía nào đó, và tư duy này chi phối sáng tạo nghệ thuật, luôn thể hiện sự lựa chọn hoặc đấu tranh để tìm sự lựa chọn thích hợp. Một điểm đáng lưu ý của trí thức thời này, đó là họ vẫn là sản phẩm của nền giáo dục- văn hoá hỗn hợp Đông- Tây như thời trước 1945, nên thế giới quan của họ về cái đẹp, về giá trị thẩm mỹ vẫn như thời trước. Mặc dù họ vẫn hô hào tẩy chay văn chương lãng mạn[16], nhưng trong thế giới thẩm mỹ của họ, chiến sĩ phải như Kinh Kha mới là đẹp, gái giang hồ phải tài hoa, trắc trở như Kiều, như kỹ nữ bến Tầm Dương, như Trà Hoa Nữ mới có giá trị thẩm mỹ, trong khi trong thực tế thì người chiến sĩ cách mạng thế kỷ 20 không cưỡi ngựa sang sông, và gái giang hồ trong đời thực thì không phải ai cũng tài hoa nghệ sĩ. Đó là lý do tại sao các nhân vật của họ đều mang màu sắc lãng mạn u buồn, câu chuyện của họ thiên về cảm xúc hơn là lý trí, nói nhiều về khổ đau mất mát hơn là vinh quang, mà nhiều người trong giới văn nghệ miền Bắc cùng thời đã quyết liệt bài trừ và chụp cho cái mác “lãng mạn tiểu tư sản” với hàm ý phê phán.

***

Tóm lại, nhìn từ đặc trưng của báo chí, tác phẩm truyện đăng trên báo chí Sài Gòn giai đoạn 1945- 1954 vừa mang đặc điểm chung của văn học hiện đại, vừa mang nét riêng của hoạt động kinh doanh thông tin. Nhìn từ công chúng, những sự kiện chính trị, đặc biệt là hoạt động tranh đấu ở Sài Gòn và cả nước giai đoạn 1945- 1954, cùng với hoạt động lý luận phê bình văn học đề cao mục đích vị nhân sinh, tinh thần tranh đấu và tính đại chúng của văn học đã tác động trực tiếp đến giới làm báo và công chúng đọc báo. Nhìn từ văn bản, truyện đăng trên báo chí Sài Gòn 1945- 1954 mang cấu trúc hàm nghĩa tranh đấu, tương quan đối ứng với cấu trúc xã hội tranh đấu của giai đoạn này, thể hiện qua thế giới quan của tầng lớp trí thức. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, truyện đăng báo thể hiện tính chất xã hội rõ nét và đóng góp trực tiếp vào những hoạt động chính trị, xã hội đương thời.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Pierre Bourdieu (Richard Nice trans., 1984), Distinction: A Social Critique of the Judgement of Taste, Havard University Press, Massachusetts.
  2. Lucien Goldmann (1987), Towards a Sociology of the Novel, Routledge Kegan & Paul.
  3. Vũ Hạnh, Nguyễn Ngọc Phan (2007), 100 câu hỏi đáp về Sài Gòn- Gia Định- Tp. Hồ Chí Minh: Văn học thời kỳ 1945- 1975, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  4. Hà Minh Hồng, Trần Nam Tiến, Lưu Văn Quyết, Hà Kim Cương (2007), 100 câu hỏi đáp về Sài GònGia ĐịnhTp. Hồ Chí Minh: Lịch sử Sài Gòn thời kỳ 19451975, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  5. Phan Mạnh Hùng (2011), “Những vấn đề của văn học đại chúng: so sánh tiểu thuyết feuilleton ở Nam Bộ trước 1945 và tiểu thuyết chương hồi”, Khoa học Xã hội và Nhân văn, (51).
  6. Võ Văn Nhơn (1997), “Văn xuôi yêu nước và tiến bộ trong các thành thị bị tạm chiếm 1945–1954”, Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn, (5), TP. HCM, tr.64–69.
  7. Võ Văn Nhơn (chủ nhiệm) (2012), Sưu tầm, khảo sát, đánh giá văn học Nam Bộ 19451954, Đề tài NCKH cấp Đại học Quốc gia trọng điểm, TP. Hồ Chí Minh.
  8. Philippe M. F. Peycan (Trần Đức Tài dịch) (2015), Làng báo Sài Gòn 1916-1930, NXB. Trẻ, TP. Hồ Chí Minh.
  9. Thế Phong (2007), Lược sử văn nghệ Việt Nam: Nhà văn miền Nam 19451950, http://newvietart.com/index4.287.html
  10. Nguyễn Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Nxb. Kỷ Nguyên, Sài Gòn.
  11. Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945-1950, Nxb. Lửa Thiêng, Sài Gòn.
  12. Trần Hữu Tá (2005), “Những bổ khuyết cần thiết cho bức tranh toàn cảnh của văn học Việt Nam hiện đại”, Nghiên cứu văn học, số 5, tr. 29–30.
  13. Lộc Phương Thuỷ, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng Ngọc Kiên (2014), Xã hội học văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
  14. Trương Ngọc Tường, Nguyễn Ngọc Phan (2007), 100 câu hỏi đáp về Gia Định - Sài Gòn - TP. HCM: Báo chí ở TP. Hồ Chí Minh, Nxb. Văn hoá Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh.
  15. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2010), “Chữ quốc ngữ, báo chí, công chúng và văn học Nam Bộ đầu thế kỷ XX”, kỷ yếu Hội thảo Đồng bằng sông Cửu Long thực trạng và giải pháp, ĐHKHXH&NV- ĐHQG TPHCM.
  16. Nguyễn Thị Thanh Xuân (chủ nhiệm) (2017), Hoạt động nghiên cứu, lý luận, phê bình văn học quốc ngữ ở Nam Bộ trước 1954 (Sưu tầm, khảo sát và đánh giá), Đề tài NCKH cấp Đại học Quốc gia trọng điểm, TP. Hồ Chí Minh.
  17. Trần Nhật Vy (2016), “Feuilleton- hàng độc của báo chí quốc ngữ thời xưa”, Tuổi Trẻ Online, http://tuoitre.vn/feuillton-hang-doc-cua-bao-chi-quoc-ngu-thoi-xua-1209955.htm

Pierre Zima (Phạm Xuân Thạch dịch), Giáo trình phê bình xã hội học, tài liệu dịch chưa công bố.


[1] Trần Nhật Vy (2016), “Feuilleton - hàng độc của báo chí quốc ngữ thời xưa”, Tuổi Trẻ Online, http://tuoitre.vn/feuillton-hang-doc-cua-bao-chi-quoc-ngu-thoi-xua-1209955.htm

[2] Tam Nhơn (1952), “Phú Đức - tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, Đời mới, số 1 (12-4-1952), tr. 54-55.

[3] Phi Vân (1943), Đồng quê, Hội Khuyến học Cần Thơ xuất bản, tr. 3.

[4] Đời mới, số 81, tr. 18-19, 30.

[5] Philippe M. F. Paycam (Trần Đức Tài dịch) (2015), Làng báo Sài Gòn 1916-1930, NXB. Trẻ, TP. HCM, tr. 116-117.

[6] Thẩm Thệ Hà, “Xã hội Việt Nam có văn chương xã hội và văn chương tranh đấu chưa?” Việt bút số 23.

[7] Thiên Giang, “Vấn đề khách quan trong tư tưởng”, Tiếng chuông, số 22.

[8] Dương Tử Giang (1949), “Tin văn”, Thế giới, số 5 (19-11-1949), tr. 2, 34.

[9] Trần Văn Khê (1949), “Nhiệm vụ của một nhạc sĩ trong xã hội”, Việt báo, số 3 và 4 (29-5-1949), tr. 4-5.

[10] Tô Duyên (1953), “Văn nghệ phụng sự”, Đời mới số 74 (27-8-1953), tr. 16-17, 32.

[11] Thanh Lương (1953), “Văn nghệ sĩ, những tên nô lệ của thời cuộc?”, Đời mới, số 60 (23-5-1953), tr. 23.

[12] Trọng Yêm (1953), “Lấy mắt người Việt xét việc xã hội: thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”, Đời mới, số 53 (4-4-1953), tr. 8, số 54 (11-4-1953), tr. 8.

[13] Tam Nhơn (1952), “Phú Đức- tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, Đời mới số 1 (12-4-1952), tr. 24-25.

[14] Không rõ đăng trên báo nào, vì nó được tóm tắt lại trong bài phản biện của Phương Tiện Đạo Nhân.

[15] Phương Tiện Đạo Nhân (1953), “Trả lời câu hỏi của Hồ Hữu Tường - Con thằn lằn đã chọn nghiệp”, Nhân loại, số 20 ngày 4-1-1953, tr. 10-11.

[16] Ky Hà (1952), “Nên chấm dứt văn học lãng mạn bằng một nền văn nghệ mới”, Đời mới, số 32 (15.11.1952), tr. 30.

Nguồn: Số chuyên đề Bình luận văn học - Niên san 2017, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 34 (59), tháng 12.2017, tr.127-137.

Nhà thơ Trần Vàng Sao - tác giả của thi phẩm 'Bài thơ của một người yêu nước mình' - đã trút hơi thở cuối cùng lúc 14h45 phút ngày 9-5.

Ảnh: Minh Tự

Nhà thơ Trần Vàng Sao tên thật là Nguyễn Đính, sinh năm 1941 (Tân Tỵ), quê quán ở thôn Vĩ Dạ, TP Huế.

Năm 1961, ông tham gia phong trào đấu tranh của sinh viên - học sinh Huế cùng với các nhà thơ Ngô Kha, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Võ Quê, Thái Ngọc San, họa sĩ Bửu Chỉ...

Từ 1965, ông lên chiến khu và công tác tại Ban Tuyên huấn Thành ủy Huế, viết báo và làm thơ. Năm 1970 ông ra miền Bắc an dưỡng, chữa bệnh.

Sau ngày thống nhất (1975), Trần Vàng Sao trở về quê nhà và làm giao liên xã Hương Lưu (nay là phường Vỹ Dạ), sau đó về công tác tại Phòng Văn hóa thành phố Huế, cho đến khi nghỉ hưu năm 1984.

Bài thơ của một người yêu nước mình là tác phẩm của Trần Vàng Sao được sáng tác vào tháng 12-1967 và được chọn là 100 bài thơ xuất sắc nhất Việt Nam thế kỷ 20.

Năm 1987, ông lại nổi tiếng với bài thơ Người đàn ông 43 tuổi nói về mình đăng trên tạp chí Sông Hương năm 1987.

Cho đến năm 2012, Nhà xuất bản Hội nhà văn mới in cho ông tập thơ đầu tiên, đó là trường ca Gọi tìm xác đồng đội.

Theo PGS.TS Hồ Thế Hà (Đại học Khoa học Huế), Bài thơ của một người yêu nước mình là điển hình cho phong cách Trần Vàng Sao, với những câu thơ sống mãi với nước Việt:

... Đất nước này còn chua xót

Nên trông ngày thống nhất

Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam

Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc

Lòng vui hôm nay không thấy chật

Tôi yêu đất nước này chân thật

Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi

Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi

Và yêu tôi đã biết làm người

Cứ trông đất nước mình thống nhất.

Những năm cuối đời, ngoài niềm vui làm thơ, ông còn vẽ tranh và nổi tiếng với tranh vẽ về thiền sư Bồ Đề Đạt Ma.

Ông vẽ bằng bút chì, mực tàu, trên mặt sau những tờ lịch cũ, những thứ đồ vật đã bỏ đi.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-tho-yeu-nuoc-minh-tran-vang-sao-vua-trut-hoi-tho-cuoi-20180509164711954.htm

Sáng 21-7, tại TPHCM đã diễn ra Hội thảo khoa học với chủ đề Kỷ niệm 100 năm năm sinh nhà thơ Nguyễn Bính (1918-2018) do trường Đại học Văn Lang phối hợp với Viện Văn học tổ chức.

Hội thảo khoa học Kỷ niệm 100 năm năm sinh nhà thơ Nguyễn Bính (1918-2018) 

Đến dự buổi hội thảo có GS Trần Đình Sử; PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học; PGS-TS Nguyễn Hữu Sơn, Phó Viện trưởng Viện Văn học, Tổng biên tập Tạp chí Nghiên cứu văn học và sự tham dự đặc biệt của nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu – người thực hiện công trình sưu tầm và ra mắt Nguyễn Bính toàn tập, con gái của nhà thơ Nguyễn Bính.

Nhà văn Nguyễn Bính Hồng Cầu, con gái nhà thơ Nguyễn Bính

Tại buổi hội thảo, PGS-TS Nguyễn Đăng Điệp cho biết, TPHCM được chọn tổ chức Hội thảo khoa học này là do dù sinh ra tại Nam Định nhưng vùng đất Nam Bộ có một vị trí đặc biệt trong tác phẩm của Nguyễn Bính. Hơn 30 năm cần mẫn sáng tạo nghệ thuật, ông đã để lại nhiều tác phẩm xuất sắc với đa dạng thể loại khác nhau từ thơ, văn xuôi cho đến tiểu thuyết, kịch… và đặc biệt nhất vẫn là thơ ca.

Cũng theo ông Điệp, có thể nói nhà thơ Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Huy Cận và Nguyễn Bính chính là “tứ bất tử” của phong trào Thơ mới. Trong thơ của Nguyễn Bính có sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, là hiện đại của truyền thống, “chạm đến linh hồn làng mạc” chinh phục người đọc.

Thông qua buổi hội thảo, những tư liệu mới về hoạt động văn học của Nguyễn Bính; sự đa dạng, phong phú của thơ Nguyễn Bính qua các giai đoạn lịch sử khác nhau; bản sắc văn học trong thơ Nguyễn Bính cũng như tìm hiểu giai đoạn nhà thơ trở ra Bắc và làm báo Trăm hoa… được trình bày, thảo luận và trao đổi.

Dịp này, trường Đại học Văn Lang phối hợp với Viện Văn học cũng đã xuất bản cuốn kỷ yếu Trăm năm Nguyễn Bính – Truyền thống và hiện đại gồm 47 trong số 70 tham luận được chọn để tiếp cận và khám phá những sáng tác của nhà thơ Nguyễn Bính từ nhiều phương diện (lý luận, phê bình, văn học so sánh, ngôn ngữ…) do NXB Hội nhà văn phát hành.

Kỷ yếu Trăm năm Nguyễn Bính – Truyền thống và hiện đại

Nguồn: http://www.sggp.org.vn/hoi-thao-ky-niem-100-nam-nam-sinh-nha-tho-nguyen-binh-534118.html

Thi ca là lễ vật của lòng tin. Ít ai dễ tin người như người Việt Nam. Bởi vì họ vững tin ở mình và đem lòng yêu thi ca hơn ai hết.

                                              Khuất Bình Nguyên

          Lịch sử thi ca Việt Nam 1000 năm đầu tiên sau công nguyên vẫn còn để lại những tờ giấy trắng không chữ viết cho đến tận bây giờ. Điều kỳ lạ chưa cắt nghĩa rõ ràng được đó lại xảy ra ở một đất nước có truyền thống yêu thi ca như Việt Nam. Người Việt đã sáng tác văn học như thế nào trong khoảng 1000 năm Bắc thuộc vẫn là một dấu hỏi lớn chưa lời đáp. Khương Công Phụ, người quận Cửu Chân đỗ tiến sỹ năm 784 từng là Hàn lâm học sỹ, rồi Gián nghị đại phu bình chương sự đời Đường và có thể nhiều người khác nữa có trước tác văn học mà chưa được nghiên cứu. Một nghìn năm dài đằng đẵng ấy, những giao thoa văn hoá giữa văn chương bản địa và văn hoá Hán vẫn còn ẩn mình trong bóng đêm.

            Cũng 1000 năm ấy, đã có những đoạn thời gian ngắn ngủi ngời sáng. Ba năm của Trưng Nữ Vương (40-42). 7 năm của Vạn Xuân Lý Nam Đế (541-547). 23 năm của Triệu Việt Vương (548-570). 32 năm của Hậu nam đế Lý Phật Tử (571-602). 10 năm của Mai Hắc Đế (713-722). 7 năm của Bố cái đại vương Phùng Hưng (? -791). 82 năm của 1000 năm. Khoảng thời gian của sự nghiệp khôi phục quốc thống, người Việt Nam không thể không sáng tác những áng thi ca của thời đại mình. Nhưng giấy trắng vẫn còn lại đó. Người Việt lúc đó sáng tác thi ca bằng thứ chữ gì? Là chữ Hán hay chữ khác chữ Hán? Các nhà sử học vẫn còn rất kín tiếng về vấn đề ấy. Nhưng nếu phải vẽ lại hình hài của nền thi ca 1000 năm đã mất thì dựa vào bản tính của dân tộc có thể khẳng định: Đó là nền thi ca thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước nồng nàn và tinh thần quật khởi chống xâm lược. Một thế giới tinh thần cộng đồng của làng xã Việt Nam. Một sự hoà nhập thân ái về tín ngưỡng mà tiêu biểu là sự chấp nhận Phật giáo như là một gốc rễ của đời sống tâm linh Việt. Nền thi ca ấy có phong cách tư duy hoà đồng luôn cởi mở để vượt qua được những thách thức của sự đồng hoá, nhân lên những yếu tố bên ngoài làm nên bản sắc riêng cho lịch sử thời gian sau tiếp nhận. Đó phải chăng là những điều căn cốt của thi ca 1000 năm đầu tiên sau Công nguyên.

            Lịch sử thi ca 1000 năm tiếp theo đã được nhiều người thừa nhận cách phân loại 900 năm văn học trung đại từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 19 và 100 năm văn học hiện đại. Mặc dù 900 năm viết bằng chữ Hán và chữ Nôm, 100 năm viết bằng chữ quốc ngữ nhưng thi ca 1000 năm ấy vẫn quy tụ những đặc diểm chung làm nên truyền thống một nền văn học, bất chấp sự khác nhau và sự thay đổi đầy ngẫu nhiên của lịch sử, sự thăng trầm, hưng vong của đất nước. Hai trong số nhiều đặc điểm phát sáng diện mạo của thi ca Việt Nam. Thứ nhất là: Thi ca Việt Nam luôn luôn đứng ở trung tâm của thời cuộc và vận hội đất nước, phản ánh sinh động tâm hồn và cốt cách của người Việt Nam. Đó là bài ca đầy bi tráng và thống thiết cũng như sự thanh thản và tinh tế tâm hồn Việt giữa bể dâu của vận mệnh đất nước và thân phận con người. Nhờ đó chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa yêu nước như là nền tảng tư tưởng tươi sáng của thi ca 1000 năm biến động. Thứ hai là: Thi ca Việt Nam là kết quả của sự giao thoa văn hoá ngay từ lúc khởi đầu. Người Việt Nam đã thực hiện sự mở cửa rất sớm để đón nhận những ảnh hưởng của tinh hoa văn hoá bên ngoài nhằm làm phong phú và đậm đà bản sắc riêng. Quá trình ấy không phải giản đơn và dễ dàng mà trải qua sự đấu tranh, lựa chọn vô cùng khắc nghiệt để đưa về những giá trị chân, thiện, mỹ cho riêng mình, vượt qua những thách thức mang ý nghĩa sống còn. Văn hoá bất chấp mưu đồ chính trị của những thế lực xâm lược, từ trong lịch sử lâu dài của loài người, văn hoá trở thành cầu nối hữu nghị của các dân tộc. Bởi thế, thi ca là nơi thể hiện bản lĩnh văn hoá của người Việt Nam.

            900 năm văn học trung đại thế kỷ 10 đến thế kỷ 19, thi ca là thể loại văn học phát triển nhất. Thơ được viết bằng chữ Hán và chữ Nôm – thứ chữ dùng chữ Hán để phiên âm tiếng Việt. Chữ tượng hình được xây dựng bởi những ý niệm hình tượng về thế giới tự nhiên ảnh hưởng và tác động sâu sắc trong sáng tạo thi ca. Các nhà sư, nhà nho, vua chúa, những tầng lớp trí thức cao của xã hội tiếp thu những tư tưởng tôn giáo vã xã hội của bên ngoài, nhất là Phật giáo và Nho giáo để thực hiện thiên chức nhà thơ. Họ tiếp thu và sử dụng một hệ thống các điển cố văn học, những tư tưởng chỉ đạo sáng tác như thi dĩ ngôn chí, văn dĩ tải đạo và cả những thể loại thi ca, nhất là thể thơ Đường Luật để chuyển tải chí và đạo của người Việt Nam.

            Từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 15, thi sỹ Việt Nam đứng ở vị trí giữa trận tiền trong cuộc chiến giành và giữ nền độc lập đất nước, viết nên khúc tráng ca bi hùng trên mình ngựa chiến. Trong cái thế mặt đối mặt ở phòng tuyến sông Cầu vang lên thiêng liêng bài thơ thần của Lý Thường Kiệt. Chiến thuyền của giặc Nguyên vừa chìm xuống thì sóng Bạch Đằng lại cuộn lên trong bài phú nổi tiếng của Trương Hán Siêu. Những Lạng Giang, Xương Giang đầy máu giặc Minh đã chảy trong thiên cổ hùng văn Bình Ngô đại Cáo của Nguyễn Trãi.

                                                Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

                                                Non sông nghìn thuở vững âu vàng

            Năm thế kỷ vinh quang như hai câu thơ ấy, cũng là 5 thế kỷ tâm hồn Việt trước cảnh sắc thiên nhiên và thế sự của bao nhiêu đêm mưa xuân. Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận, đình tiền tạc dạ nhất chi mai của Mãn Giác Thiền Sư. Hay án sách cây đèn hai bạn cũ, song mai hiên trúc một lòng thanh để lắng đọng tâm tình với đào hoa kín tiễn mùi hương dễ động người trong thơ quốc âm; Hoặc Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai – một sân hoa xoan nở trong hạt mưa thưa thớt rơi vào thơ chữ Hán của Ức Trai như là nét thi thư bình dị của văn hoá Việt, tâm hồn Việt sau nhiều trận binh đao. Bốn thế kỷ tiếp theo từ 16 đến 19, khi mà xã hội phong kiến rơi vào giai đoạn suy vi, khi mà đình miếu đổ nát, chiến tranh huynh đệ tương tàn, làng xóm đi cả ngày đường không nghe được một tiếng gà gáy, những quán cơm bát canh nổi xao mỡ thịt người như ông Phạm Đình Hổ đã viết tuỳ bút đau thương ấy trong mưa thì bi kịch về thân phận con người, khát vọng được yêu thương hạnh phúc như là tiếng nói chủ đạo phả vào trong nhiều khúc ngâm và truyện thơ nôm tiếng kêu than đứt ruột. 9 thế kỷ thi ca trung đại có hàng trăm thi sỹ tài năng. Mặc dù hồi thế kỷ 18, 19, Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú khi làm sách khảo cứu Thiên Chương Văn tịch chí trong Kiến văn tiểu lục Lịch Triều hiến chương loại chí đều than thở về sự mất mát của văn chương trung đại trải qua binh lửa mà thành tro tàn đành phải tìm những gì sót lại qua Kim thạch di văn. Nếu không thì di sản văn chương trâu kéo phải mệt, nhà chứa phải đầy. Mặc dầu vậy, Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ 10 đến 19 có tới 134 nhà thơ danh tiếng mà Lê Quý Đôn nhận xét: Tinh anh nhân tài, khí cách văn chương không khác gì Trung Quốc… Thi sỹ nhiều người trong trẻo cứng rắn, cao thượng thanh liêm, có phong độ như sỹ quân tử. Họ là Vạn Hạnh thiền sư, Mãn Giác thiền sư, Trần Nhân Tông, Mạc Đĩnh Chi, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, PHạm Sư Mạnh, Trần Nguyên Hãn, Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Phan Phu Tiên, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Phạm Nguyễn Du, Bùi Huy Bích, Nguyễn Gia Thiều, Bùi Dương Lịch, Phan Huy Ích, Hồ Xuân Hương, Phạm Quý Thích, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Văn Siêu, Cao Bá Nhạ, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Đình Chiểu v.v… Thi ca của họ là một thế giới huyền diệu và đa sắc tâm hồn, cốt cách Việt Nam, cả trong thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm. Nếu được kể ra 3 người tiêu biểu nhất thì xin được nêu Nguyễn Trãi, Nguyễn Du và Cao Bá Quát.    Thi hào Nguyễn Trãi (1380-1442) đã dùng chữ Hán để viết nên thiên cổ hùng văn đánh giặc cứu nước và dùng chữ Nôm để viết thơ quốc âm đưa tiếng nói hàng ngày của người dân Việt vào văn chương bác học, truyền cảm đầy tinh tế những rung động sâu xa của tâm hồn trong Ngôn chí, Mạn thuật, Trần tình, thuật hứng… Một thứ thơ quốc âm chững chạc mà trang nhã. Tư tưởng nhân nghĩa của ông là điểm ngời sáng trong văn học trung đại. Thi hào Nguyễn Du (1765-1820) không chỉ là người đưa tiếng Việt trở thành ngôn ngữ văn học trác tuyệt và sức biểu cảm vô cùng tinh tế trong truyện nôm có tên gọi Truyện Kiều mà còn là một tài năng lớn trong những vần thơ thế sự viết bằng chữ Hán. Cao Bá Quát (1808-1855) – tục gọi là Thánh Quát là ngôi sao sáng nhất của thi ca thời kỳ xã hội phong kiến suy tàn ở giai đoạn chót mà thơ chữ Hán của ông được viết ra như ở thời kỳ vàng son của chữ ấy. Thơ ông như báo trước sự lỗi thời của thế hệ ông trước vận mệnh của đất nước sắp đổi thay.

Từ khi vượt biển qua đất Ba Son. Mới cảm thấy vũ trụ bao la. Chuyện văn chương trước đây thực là trò trẻ con. Trong thế gian này có ai thật là bậc tài trai, mà lại phí cả một đời đọc mấy pho sách cũ.

            Nửa sau thế kỷ 18 và nửa đầu thế kỷ 19 là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của thi ca Việt Nam. Dường như có sự cất mình khỏi sự gò bó niêm luật của thơ Đường, các thể thơ truyền thống Việt như lục bát, song thất lục bát được dịp trổ ra phô diễn vẻ đẹp đầy quyến rũ của tâm hồn và khát vọng sống hạnh phúc qua các khúc ngâm và truyện thơ nôm dài hàng nghìn câu mà tiêu biểu là Chinh phụ Ngâm của Đặng Trần Côn qua bài dịch của Đoàn Thị Điểm (?), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều. Và đỉnh cao nhất là Truyện Kiều.

            Vào nửa sau thế kỷ 19 và 30 năm đầu thế kỷ 20 đã có những phản ứng khác nhau của người Việt Nam trước sự gặp mặt với văn hóa Phương Tây.

            Sự giao tiếp đầu tiên giữa 2 dòng văn hoá Đông – Tây thông qua con đường tôn giáo. Các giáo sỹ phương Tây đến Việt Nam từ thế kỷ 16-17 đã mau chóng hoà nhập và được người Việt Nam tin yêu đón nhận. Họ đã dùng chữ cái La tinh để ghi âm tiếng Việt. Chữ quốc ngữ nhờ đó đã mau chóng hình thành để sau đó 300 năm trở thành văn tự phổ thông rộng rãi và là phương tiện đầy hiệu lực để sáng tác thi ca trong thời đại mới. Bởi vì khác với chữ Hán, chữ quốc ngữ gắn bó với cuộc sống thường ngày của người dân Việt. Con đường giao thoa văn hoá Đông – Tây lúc đầu diễn ra âm thầm dưới mái các giáo đường lợp cỏ tranh dài hàng trăm năm có lẽ khác với những gì đã xảy ra những năm đầu sau Công nguyên khi chữ Hán theo chân những đoàn ngựa chiến vào Việt Nam.

            Nhưng rồi cái gì đến cũng phải đến. Văn hoá phương Tây náu mình trong đội quân xâm lược của chủ nghĩa thực dân vấp phải sự chống trả của các thi sỹ Việt Nam. Cao Bá Quát trong bài thơ chữ Hán Thập ngũ dạ đại phong đã tỏ rõ: yếu đả hồng di cự hạm hồi. Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế nghĩa sỹ Cần Giuộc: Bữa thấy dù che trắng lốp muốn đến ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen xì muốn ra cắn cổ. Rồi thì sau đó những cảm xúc ngậm ngùi của thi nhân khi Cao Bá Quát thấy người đàn bà phương Tây cầm ly sữa nũng nịu chồng thì thở dài khởi thức nam nhân hữu biệt ly. Từ ngậm ngùi ấy đến một khoảng cách ngắn nữa là cam chịu đắng cay cái thất thế của chữ thánh hiền như ông Tú ở thành Nam Định than thở: Có làm chi cái chữ nho và bao kẻ muốn bỏ bút nho sang bút sắt để sớm rượu sâm banh tối sữa bò.

            Ba mươi năm đầu thế kỷ 20 có 3 người nổi danh. Họ là Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, và Tản Đà. Nguyễn Văn Vĩnh chủ trương Đông Dương Tạp chí, Phạm Quỳnh, Nam Phong tạp chí nhiệt thành quảng bá dùng chữ quốc ngữ và truyền bá tư tưởng văn chương của người Tây Dương. Phạm Quỳnh và một số người khác đả phá sự gò bó quá chặt chẽ niêm luật của thơ Đường. Tiếc thay cả hai vị này đều không đến được bến bờ của sự cách tân thơ ca. Nam Phong tạp chí có tổng số 210 số từ 1917 đến 1934 lại có tới 78 bài thơ vịnh Kiều. Họ dùng một thứ văn tự mới để làm thơ ngâm Vịnh có từ thời nhà Đường. Thơ ca ấy không đem lại dấu ấn gì đặc biệt cho cuộc đổi đời của thi ca hiện đại thế kỷ 20. Chỉ có Tản Đà là thành công hơn cả. Ông vốn xuất thân nho sỹ và chịu ảnh hưởng sâu nặng văn chương chữ Hán thời trung đại; nhưng chỉ có ông là người đầu tiên nói được lời từ biệt ngọt ngào với quá khứ của thơ Đường Luật 9 thế kỷ trước và bước đi thư thái để ngồi vào chiếu trên của thời đại mới trong thi ca như là biểu hiện của bản tính hài hoà thân ái của người Việt Nam trước sự xung khắc về văn hoá. Với Tản Đà, thi ca là lễ vật của lòng tin. Ít ai dễ tin người như người Việt Nam. Bởi vì họ vững tin ở mình và đem lòng yêu thi ca hơn ai hết.

            Hồi đầu thế kỷ cũng có người muốn lặp lại cái sự tiếp thu văn tự của tiền nhân 9 thế kỷ trước, dùng tiếng Pháp làm thơ. Hoài Thanh đã không ngần ngại hạ những câu rất nặng rằng kẻ ấy đến làng thơ với chiêng, trống xập xoè inh cả tai; người ta đổ ra xem rồi lại tưng hửng trở vào vì không có gì ngoài điệu bộ và lối ăn mặc lố lăng. Có tình hình ấy bởi chưng chữ quốc ngữ - kết quả của sự giao thoa văn hoá Đông Tây đã có sự trưởng thành vượt bậc.

            Hoài Thanh viết Một thời đại trong thi ca đã khẳng định sự gặp gỡ phương Tây là cuộc biến thiên lớn nhất trong lịch sử Việt Nam từ mấy mươi thế kỷ. Chỉ trong khoảng thời gian hơn 10 năm, 1932-1945, một cuộc Cách mạng thi ca lớn nhất trong lịch sử hiện đại với ít nhất 44 thi sỹ tài hoa xuất hiện, như tên người ta thường gọi: phong trào Thơ Mới. Hàn Mặc Tử. Chế Lan Viên. Xuân Diệu. Huy Cận. Nguyễn Bính … Thơ Mới không bị ràng buộc bởi bất kỳ thể thơ nào của phương Tây. Những đòi hỏi về tự do cá nhân trong xã hội lúc bấy giờ gặp gỡ chủ nghĩa lãng mạn trong thơ Pháp, đặc biệt ám ảnh bởi thơ tượng trưng của Rimbaud, Verlaine khác gì lá đương vàng gặp tiết heo may của mùa Thu đã rạo rực lên lòng khát khao yêu đương tuổi trẻ, nỗi buồn cô đơn vô cớ của buổi thanh xuân cùng với những hoài niệm thời xưa yêu dấu lãng đãng trên những dòng thơ vô cùng linh động 8 chữ hay 7 chữ. Chưa bao giờ chữ quốc ngữ lại hữu hiệu đến thế trong việc bày tỏ nỗi lòng. Một tầng lớp thị dân đông đảo ở các đô thị, thành phố đã nồng nhiệt đón nhận Thơ Mới như một người bạn tâm tình thân thiết, vượt qua ảnh hưởng của tiếng Pháp vốn rất được cổ súy trong trường học và các công sở thực dân.

            Nửa sau thế kỷ 20, gần hết 100 năm của thế kỷ ấy, người Việt Nam phải giành mọi nguồn lực cho cuộc trường kỳ kháng chiến giành và giữ nền độc lập. Có cảm tưởng thi ca lại trở lại truyền thống 5 thế kỷ 10 đến 15 khi thơ được viết trên mình ngựa chiến. Những dòng thơ như những luống cày bụi đất trên cánh đồng lửa cháy. Một không khí sử thi như những bài ca ra trận cùng với khúc hát tâm tình của tình yêu thương xứ sở. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng như là âm điệu chủ yếu của thi ca. Cái thời Thơ chỉ sống một phần cho mình ba phần cho nhiệm vụ như là một động lực thúc đẩy cho việc cách tân thi ca. Vì thế cách tân thi ca không phải ý muốn chủ quan của cá nhân thi sỹ mà đó là động lực của thời cuộc và lịch sử. Giữa mưa bom bão đạn có ai còn kịp ngồi một chỗ để tỉa tót nắn dòng. Cách tân thi ca trào ra từ máu lửa và sự quên mình. Thơ tự do không vần giàu nhịp điệu cuộc sống cùng với lời ăn tiếng nói của dân công, binh lính… đã đi vào thơ từ những năm 1948-1949. Và trường ca như là một thể thơ phổ biến để các thi sỹ viết sử thi mở rộng trường cảm xúc mạnh mẽ của mình suốt những năm 1960 – 1970. Một thế hệ các nhà thơ sinh ra trong thời đại ấy đã có mặt trên giá sách của thời gian. Tố Hữu. Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm. Chính Hữu. Quang Dũng. Và. Bằng Việt. Lưu Quang Vũ. Phạm Tiến Duật. Hữu Thỉnh. Nguyễn Khoa Điềm. Nguyễn Đức Mậu. Thanh Thảo. Thu Bồn. Vũ Quần Phương. Xuân Quỳnh. Lê Anh Xuân. Hoàng Nhuận Cầm. Nguyễn Duy. Trần Vàng Sao v.v.. Cuộc đồng hành cùng đất nước vào cuộc chiến sinh tử ấy dài đên mức thần đồng Trần Đăng Khoa đã mang thơ đi tải gạo từ rất sớm hạt gạo làng ta gửi ra tiền tuyến cho đến lúc trưởng thành trở thành người lính biển một bên và em một bên khi đợi mưa ở đảo Sinh Tồn. Chỉ trong khoảng hơn 10 năm từ 1960 đến 1975 một đội quân đông đảo thi sỹ đã ra đời và gắn sinh tử của mình vào cuộc trường chinh của đất nước. Họ đông hơn cả thời kỳ Thơ Mới.

            Nửa sau thế kỷ 20, người Việt Nam mở cửa ra thế giới, tiếp tục thể hiện bản lĩnh văn hóa của mình trong vòng sóng giao thoa. Đáng chú ý nhất là việc tiếp nhận tinh thần công dân và tình yêu tổ quốc trong văn học Nga – Xô Viết. Bản tính Nga, thiên nhiên Nga được xem như là những tiếng nói tâm tình thân thiết nhất.

Thế kỷ 20, các thể loại văn xuôi, kịch … đều phát triển. Nhưng có lẽ vẫn là thế kỷ của thi ca. Có người nói. Trường cảm xúc sung mãn nhất thuộc về Chế Lan Viên, khi ông ấy đến với thi ca buổi đất nước còn điêu tàn, qua ngày của số thành sao chiến thắng đến bao ẩn ức thời di cảo?.

Năm 1984, Chế Lan Viên viết: Thế kỷ 20 người ta nói rất hay về thơ trong thế kỷ người ta sống quá khó khăn này. Ai sẽ là thi nhân của thế kỷ 21? Họ sáng tác bằng gì? Bằng các từ ngữ hay bằng sự lặng im?. Thi ca đương đại, tính từ 30 năm gần đây lại đứng trước những thách thức lớn về bản lĩnh văn hóa của dân tộc Việt Nam trên con đường phát triển giữa cơn bão toàn cầu hóa và thế giới phẳng. Sự sụp đổ những giá trị tưởng như đứng vững không thay đổi lại một lần nữa khẩn thiết đưa ra câu hỏi phải trả lời. Những đám mây của cái ác vẫn đang vẫn vũ mọi nơi đe dọa số phận của con người. Thời mưa gió không chỉ mang tên Âu-Mỹ? Thi ca có dứng vững cùng dân tộc trước thách thức này không?

            Đánh giá về thi ca đương đại phần đông là dè dặt và bi quan. Rằng thơ đang mở rộng nhưng càng mở rộng lại càng tầm thường. Thơ đương đại ít có những thi phẩm có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật. Hàng năm in tới 4, 5 nghìn tập thơ nhưng thơ vẫn mất mùa vì thơ hay quá ít. Thơ dở quá nhiều. Một nhà thơ Việt Nam ở hải ngoại hỏi: Thơ của những người viết trẻ chỉ là những tiếng động mơ hồ phía sau các bức tường mà người khác dựng nên? Những lời bàn chân thành của người trong cuộc làm chúng ta xấu hổ và đau lòng biết mấy.

            Ở một chiều nhìn nhận khác, thơ đương đại đang giành nhiều tâm huyết cho cách tân trong khi kế thừa triệt để truyền thống. Khoảng những năm cuối thế kỷ 20, một nhóm nhà thơ rất có tài năng và đã trải qua nhiều cát bụi đã tìm tòi đổi mới ngôn ngữ và cảm xúc thơ. Họ có những câu thơ độc đáo như: Áo nắng tuổi cờ Thu chín tới thủ đô. Họ chủ trương thơ không dùng đến ngôn ngữ thông thường mà sử dụng các biểu đạt siêu ngôn ngữ, tức là làm thơ bằng các hình vẽ mà có người ở hải ngoại gọi là thi đồ thư. Mặc dù có một thư đồ thi đã được người Mỹ dùng làm bìa sách hồi năm 2004 ở Illinois. Nhưng có lẽ đó là những thử nghiệm táo bạo dù biết trước chưa thành công. Đọc họ mà xúc động, thương cảm bởi một người đã từng viết Thơ là mạng sống, là lý lịch thật của đời tôi.

            Một số nhà thơ trẻ muốn đi khác truyền thống ở chỗ chọn chỗ đứng ở bên lề xã hội và sử dụng ngôn ngữ đời thường còn thô tục hơn cả Nguyễn Huy Thiệp gắn thơ với nửa mơ nửa khôn của vợ. Loại thơ này không được đông đảo người yêu thơ mến mộ.

            Có một lớp thi sỹ đã thành danh và đang ngày càng trở thành lực lượng chủ đạo của thơ đương đại. Họ có những biến đổi mạnh bạo về thi pháp trong việc sử dụng các yếu tố siêu thực và duy lý làm nền tảng cho cảm xúc thơ trong lúc vẫn duy trì những chủ đề truyền thống về tình yêu quê hương xứ sở, về khát vọng lứa đôi cùng với việc nhìn nhận mới mẻ những hiện tượng văn hóa truyền thống bằng việc chiêu tuyết cho thị Mầu, cho Thủy Tinh, phê phán cô Tấm nhân từ gì mà làm mắm Cám cho mẹ nó ăn v.v… Thơ văn xuôi vốn được dùng từ những năm 1960 với Chế Lan Viên ở miền Bắc, Thanh Tâm Tuyền ở miền Nam được giới trẻ sử dụng như những bài thơ dài mà không phải trường ca hay truyện thơ. Một số thể thơ nước ngoài được thể nghiệm nhiều hơn so với hồi thế kỷ 20 dùng thể thơ sonnet. Thời gian thấm thoát trôi qua. Họ cũng không còn trẻ nữa. Một vài khuôn mặt đáng yêu đã phải ra đi vĩnh viễn giữa những dòng thơ cách tân còn dang dở. Lãng Thanh. Nguyễn Lương Ngọc. Dương Kiều Minh. Còn hàng trăm thi sỹ thuộc thế hệ Nguyễn Quang Thiều đang mất ngủ vì lửa của thời đại mình. Có khắt khe quá không khi người ta nói: Thơ trẻ như là những thứ quặng. Đương nhiên lẫn vàng nhưng không phải vàng. Họ cần tinh luyện?

            Thơ thế kỷ 21 đang đi về đâu khi nó đứng ở trung tâm của đời sống dân tộc, lắng nghe và trả lời những câu hỏi khẩn thiết của thời đại mình không phải bằng bộ óc của nhà chính trị mà bằng con tim thi sỹ cũng như chấp nhận thách thức của toàn cầu hóa để viết những vần thơ thể hiện bản lĩnh văn hóa của người Việt Nam – đâu phải chuyện dễ dàng. Có điều là sự cách tân rơi vào cầu kỳ bao nhiêu thì khoảng cách của thơ với sự tầm thường hóa không xa là mấy. Và thật sai lầm trong sự tiếp nhận giao thoa văn hóa ào ạt như sóng đại dương lại dị ứng ngoảnh mặt với bên ngoài hoặc copy không trên cơ sở những giá trị truyền thống. Những trăn trở về tầm vóc của thi ca dân tộc của lớp thi sỹ đi trước vẫn còn đó. Nguyễn Đình Thi băn khoăn chúng ta thiếu những nhà văn dạy cho loài người cách sống. Chế Lan Viên gượng cười trong một cơn đau Thôi đi chú Vịt quẩy ao nhà. Không hiểu cầu vồng không hiểu sấm. Thi ca thế kỷ 21 vẫn đang tìm vận hội như thi sỹ của Điêu Tàn đã viết.

                        Một nghìn câu thơ thì chín trăm câu dang dở

                        Và ai đón thơ anh ở cuối con đường?.

           

Cuối xuân 2018      

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ, số 17-18, ngày 28-4-2018

Giải "Changwon KC International Literary" ghi nhận những đóng góp của tác giả   đối với văn chương quốc tế.

Sáng 17/7, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều chia sẻ niềm vui khi ông được trao giải Văn học quốc tế Changwon KC. Ông nói: "Đối với nhà thơ, khi được bạn đọc chia sẻ một tác phẩm đã cảm thấy vui rồi, huống gì lại là cả hội đồng nghệ thuật nước ngoài. Tôi cảm thấy xúc động bởi thi ca vẫn còn nhận được sự đồng cảm, chia sẻ của nhiều thế hệ độc giả. Đây cũng là dịp để văn học Việt Nam và Hàn Quốc giao lưu và có cơ hội được hiểu nhau hơn".

Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều

Lễ trao giải diễn ra vào tháng 9. Giải thưởng Changwon KC trao cho nhà văn có độ tuổi từ 50 đến 65 tuổi với những đóng góp cho văn học Hàn Quốc và quốc tế. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều là tác giả Việt Nam đầu tiên nhận giải này. Ông từng xuất bản cụm tác phẩm bằng tiếng Anh và Hàn như: Bài hát về cố hương, Những người đàn bà gánh nước sông, Linh hồn con bò, Sự chuyển động của cái đẹp... Changwon KC International Literary Prize từng được trao cho: Chritoper Merrill, Tracy K.Smith (Mỹ), Claude Mouchard (Pháp)...

Nguyễn Quang Thiều sinh năm 1957 tại Hà Nội. Ông từng nhận hơn 20 giải thưởng văn học trong nước và quốc tế, trong đó có giải của Hội Nhà văn Việt Nam cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa (1993). Ngoài ra, Nguyễn Quang Thiều là tác giả của nhiều kịch bản sân khấu, điện ảnh và hơn 500 bài bút ký, tiểu luận. Hiện ông là phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam.

Trọng Trường

Tiểu luận Declassifying Nguyen Huy Thiep (Giải mật Nguyễn Huy Thiệp) của Peter Zinoman có thể coi là một trong những phản ứng nhanh sớm và kĩ lưỡng của độc giả phương Tây, đặc biệt là độc giả hàn lâm, với văn chương Nguyễn Huy Thiệp khi vừa mới được dịch ra tiếng Anh (1992). Trong tiểu luận này, Peter Zinoman đề xuất một cách đọc lại Nguyễn Huy Thiệp, khác với cách đọc cho rằng văn chương Nguyễn Huy Thiệp là biểu hiện của chủ nghĩa hậu hiện đại. Theo đó, ông chỉ ra những nguồn ảnh hưởng sáng tác (truyền thống tự sự Việt Nam và văn học cổ điển Nga, Pháp thế kỉ XIX), các tác nhân văn hóa - chính trị từ Đổi mới đến nhãn quan Nguyễn Huy Thiệp khiến ông khó lòng khớp với chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông cũng chỉ ra các thủ pháp văn chương vẫn được các nhà phê bình coi là hậu hiện đại của Nguyễn Huy Thiệp có thể càng làm mờ các lớp nghĩa được ẩn giấu trong tác phẩm. Từ đó, Zinoman đưa ra các khám phá riêng của mình.      
Chúng tôi xin giới thiệu một phần tiểu luận Declassifying Nguyen Huy Thiep. Các đoạn lược bỏ được để trong dấu (…), một số chú thích của tác giả, nếu thuần túy là thông tin, sẽ không dùng lại. Tiêu đề bài là của người dịch.


Năm 1989, sử gia G. Lockhart cho đăng bản tóm lược tiểu luận tiếng Việt trên tạp chí Văn học tiêu đề “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh”. Ở bài này, Lockhart đặt việc cải dạng triệt để hình thức truyện ngắn Việt Nam của Nguyễn Huy Thiệp trong liên hệ với các dự phóng văn chương của các nhà văn G.G. Márquez, R. Kapuschinsky, M. Duras, và nhà sử học J. Spence. “Những gì chúng ta có ở đây”, Lockhart đã rất cởi mở, “là một hiện tượng văn chương mà chúng ta gọi chủ nghĩa hậu hiện đại”(1).

Trước đó một tháng, nhà phê bình Lê Xuân Giang, cũng trên tạp chí Văn học, đã xếp Nguyễn Huy Thiệp vào nhãn hiệu postmodern (hậu hiện đại), chỉ ra biểu hiện của việc sử dụng phúng dụ (allegory) trong các truyện ngắn đặc sắc Kiếm sắc (Sharp Sword), Vàng lửa (Fired Gold) và Phẩm tiết (Chastity)(2). Năm 1992, khi ảnh hưởng của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp tỏa rộng trong cộng đồng người Việt ở Mĩ, nhà sử học Hồ Tài Huệ Tâm, trong một tiểu luận về truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp, đã cho rằng sức mạnh tác phẩm “bắt nguồn từ một kết hợp khác thường về cảm thức hiện sinh” và “kĩ thuật văn chương hậu hiện đại”(3). Trên tạp chí Hợp lưu ở California, nhà nghiên cứu Đào Trung Đạo cũng cho đăng bài phân tích về những tranh luận Nguyễn Huy Thiệp và nêu lên vài vấn đề phê bình nhằm lấy cớ liên hệ giữa Thiệp, Lyotard, Eco, Kundera và Rushdie(4).

Vậy điều đặc biệt nào đã nảy sinh nhất trí đặt Nguyễn Huy Thiệp vào nhóm “hậu hiện đại” vốn là thứ vẫn tồn tại bất đồng căn bản trong việc làm sao cho khớp nhãn hiệu. Ở các trường hợp được trích dẫn ở trên, sự khác hướng có lẽ xuất phát từ những khác biệt rất lớn về nền tảng văn hóa xã hội và truyền thống học thuật trong việc đánh giá tác phẩm. Tuy nhiên, còn một lí do khác nữa nằm trong sự không rõ ràng về khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại: chủ nghĩa hậu hiện đại, như dâm thư, dễ nhận ra hơn là định nghĩa.
(…) Tiểu luận này, do đó, cố gắng chỉ ra những điểm nhấn trong các bàn luận tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp, theo hướng tránh xa những mô tả ông ở vị thế đoạn cuối của văn chương tiền phong thế giới, để tiếp cận gần hơn những hình dung điều gì đã đẩy ông vào đỉnh điểm bất đồng trí thức trong xã hội Việt Nam đương đại. 
asach 2135 1398064505
                                                  Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp                 Ảnh: TL

Nguyễn Huy Thiệp và chủ nghĩa hậu hiện đại
(…) Đặc tính của văn xuôi hậu hiện đại có thiên hướng làm cho bản thân quá trình viết trở nên vừa sáng rõ vừa mơ hồ, và điều này là điểm sáng tạo nổi bật trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp(5). Chẳng hạn, ở Vàng lửa, truyện thứ hai trong bộ ba giả lịch sử, người kể chuyện - tác giả biết ơn vì đã nhận được một số tài liệu từ người đọc có tên là Quách Ngọc Minh, chứng cứ để phủ nhận tính chính xác của truyện đầu tiên (Kiếm sắc) và làm sáng tỏ nội dung của truyện đang viết. “Tôi đã lên thăm gia đình ông Quách Ngọc Minh”, người kể chuyện giải thích. “Những tư liệu cổ mà ông Quách Ngọc Minh gìn giữ thật độc đáo. Về Hà Nội, tôi viết truyện ngắn này. Khi viết, tôi có tự ý thay đổi một vài chi tiết phụ và sắp xếp, chỉnh lí lại các tư liệu để hợp với việc kể chuyện”. Bằng việc tỏ ra hàm ơn vay chuyện “các tư liệu” trong khi vẫn “sửa đổi”, “sắp xếp” và “chỉnh lí” chúng, Nguyễn Huy Thiệp vừa làm sáng rõ vừa làm cho lộn xộn cái cách mà ông tạo phát văn bản chúng ta đang đọc. Cùng một phong cách như thế, người kể chuyện củaKiếm sắc đã bất ngờ kết thúc bằng chỉ dẫn lờ mờ và nguồn tư liệu mà anh ta khẳng định đã cho phép anh sáng tạo ra câu chuyện.

(…) Cảm giác không chắc chắn về “sự thật câu chuyện” thể hiện trong đoạn kết truyện Cún, một minh chứng đặc điểm khác cũng được cho là hậu hiện đại, sẽ còn có trong 
nhiều truyện Nguyễn Huy Thiệp. (…) Nhiều truyện Nguyễn Huy Thiệp gợi lên một bản thể bất định. Trường hợp gây ấn tượng nhất xuất hiện trong đoạn kết truyện Kiếm sắc, với một mô tả huyền hoặc về chi tiết chém đầu trung thần Đặng Phú Lân (chất lỏng như máu phun ra từ cơ thể), lại xảy ra sau mô tả hoàn toàn đáng tin về cuộc bỏ trốn thành công của Lân tránh tội hình và lẩn vào làng quê vùng cao. Truyện kết thúc mà không gắng thử hòa giải hai kết quả trái ngược hay những đời sống khác nhau mà chúng đưa ra. 

(…) Giới phê bình nhạy cảm với những quy ước văn chương hậu hiện đại phong phú sẽ chú tâm nhận biết các yếu tố quen thuộc khác nữa trong truyện Nguyễn Huy Thiệp. Trò chơi trộn lẫn những chỉ dấu văn hóa bậc cao và thấp được Nguyễn Huy Thiệp thể hiện rành rành trong lời nói phỉ báng, dâm tục đi kèm với vị vua Quang Trung cao quý thế kỉ XVIII ở Phẩm tiết, có khi lại bóng gió đưa Abba và Beatles vào trong Tướng về hưu. Một thứ văn chương hậu hiện đại “tự-phản thân” (xu hướng viết về sự viết) có thể tìm thấy trong lời của thầy giáo Triệu “Tôi thấy buồn vì văn học của ta ít giá trị thật. Nó thiếu tín và thẩm mĩ ngưỡng thực” (Những bài học nông thôn), trong bình luận của tướng Thuấn “Văn chương nghệ thuật bây giờ đọc rất khó vào”, và trong thú nhận của người kể chuyện ở truyện Cún rằng không hiểu mấy về các lí luận văn học(6).  

(…) Phần trên đã nhìn lại một số tu từ pháp hậu hiện đại trong văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Tuy nhiên, những cách đọc như vậy có thể khó hiểu hơn là tác phẩm bộc lộ. Phần dưới đây, bài viết làm rõ những gì tôi tin là các vấn đề nổi bật trong cách đọc hậu hiện đại và đồng thời đưa ra một số khả thể giải thích có tính thay thế khác. 

Nguyễn Huy Thiệp và gánh nặng của lịch sử văn chương Việt Nam
(…) Có hai truyền thống tự sự riêng biệt ngự trị văn chương Việt Nam. Thứ nhất, là dạng truyền kì với các truyện kể dân gian hoang đường, huyền hoặc, nơi nhân vật lịch sử “có thật” được trộn lẫn với siêu nhiên tồn tại trong thế giới thần linh. Loại thứ hai, truyện thơ, là phiên bản trữ tình của người Việt lấy từ văn xuôi Trung Quốc. Vùng thoát khỏi chữ Hán hay còn được biết đến là văn tự Nôm bản địa (cả hai đều không có nhiều người có thể đọc), những truyện kể Nôm được xây dựng trong hình thức thơ ca tự nó dễ dàng truyền miệng và sinh sôi. Những tuyệt tác văn học cổ điển Việt Nam như Truyện Kiều và Lục Vân Tiên là ví dụ của hình thức này. 

(…) Suốt những năm giữa hai cuộc Thế chiến, khi những bậc thầy hiện đại chủ nghĩa như J. Joyce, Mallarmé, E. Pound đang văng ra khỏi quỹ đạo tìm biết của châu Âu, thì hai trào lưu văn học ảnh hưởng nhất xuất hiện ở Việt Nam là phong trào Thơ mới và Tự lực văn đoàn, rõ ràng, đều hình thành bởi mĩ cảm mơ mộng và u sầu từ chủ nghĩa lãng mạn Pháp. Được viết và đọc bởi giới trẻ, rồi mở rộng ra tầng lớp trung lưu đô thị, kiểu thơ văn này biểu lộ mối bận tâm gần như ám ảnh những quan niệm của giai tầng tư sản về ái tình lãng mạn, cảm thức cái tôi và tự do cá nhân. Theo N. Jamieson, những nhà Thơ mới như Huy Cận, Xuân Diệu hay Chế Lan Viên hầu như đều lờ đi những vấn đề chính trị - xã hội, chọn “thám hiểm không gian tinh thần hơn là xã hội”(7). Trong khi đó, các nhà văn Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Khái Hưng hay Hoàng Đạo lại quẳng ra những nhà cải cách, phê phán chống lại những thiết chế xã hội và truyền thống gia đình cổ hủ, chẳng hạn như hôn nhân sắp đặt, và những di chứng đó trở thành điểm bất hòa đối với tầng lớp học thức và có tư kiến. Ngay cả Thạch Lam, với thứ văn chương cúi xuống tâm điểm đời sống dưới đáy, dường như cũng ra vẻ bề trên trong cái nhìn ngày nay.

(…) Nhận thức về giới hạn chí tử của văn học hiện đại ở Nguyễn Huy Thiệp có thể nhặt nhạnh được từ những trích dẫn mà ông đưa vào trong các tác phẩm cụ thể cũng như trong bốn tiểu luận được ông đăng từ 1988 đến 1992 đi kèm với những trải nghiệm và luận điểm của mình với tư cách nhà văn(8). Trong khi Nguyễn Huy Thiệp phải tham bác hầu hết các tác gia lớn của văn học Việt Nam cho việc viết văn của mình (Trần Tế Xương, Lê Quý Đôn, Phan Bội Châu, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm) thì đồng thời ông cũng tìm xem các nhà văn châu Âu là Stendhal, Balzac, Maupassant, Flaubert, Gogol, Pushkin, Dostoevsky, Gorki, Goethe, Tolstoy, Hugo, Diderot, Camus và Sartre. Trừ ngoại lệ là hai nhà văn sau cùng của chủ nghĩa hiện sinh Pháp, tri nền của Nguyễn Huy Thiệp về văn học phương Tây dường như đậm chắc hơn ở văn học Pháp, Nga thế kỉ XIX.  

(…) Cho tới đây, bối cảnh mà bài viết phác thảo hầu như không thể duy trì luận điểm rằng tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp là sự phá vỡ hay sâu sắc thêm đối với chủ nghĩa hiện đại Việt Nam bản địa, hoặc đối với dăm ba hạng tác gia hiện đại (hậu hiện đại) từ lâu được “nhập nội”.  Điều này quay trở lại xói mòn những nỗ lực phân loại tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp như là hậu hiện đại. Tôi thấy nhiều gợi mở hơn từ việc nối tiếp những nhà phê bình Việt Nam đọc Thiệp, và đọc tác phẩm của ông trong mối liên hệ, một mặt với phong cách và quy thức của lịch sử văn học Việt Nam tiền thực dân và mặt khác, với nét chủ đạo của văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa miền Bắc. (…) Cách thức khác thường của Nguyễn Huy Thiệp là đưa truyện mình gài vào nhật kí, thư tịch, và tài liệu có tính chất lịch sử, rồi tinh quái hàm ơn việc được xáo trộn nó.

(…) Tâm thế của một nhà sử học hiện rõ trong sự chú tâm tỉ mỉ của Nguyễn Huy Thiệp dành cho ngày tháng, địa danh, và những nhân vật lịch sử danh tiếng vốn được đưa vào chủ yếu hoặc một phần trong các truyện Vàng lửa, Phẩm tiết, Kiếm sắc và Nguyễn Thị Lộ. Nếu những truyện này cho thấy Nguyễn Huy Thiệp đã nhìn lại những vấn đề lớn của lịch sử chính trị Việt Nam, thì những truyện khác, như Giọt máu, vốn mô tả sự lưu chuyển lợi tức và đạo đức của một gia đình nhiều thế hệ, lại cho thấy Nguyễn Huy Thiệp gần như là sử gia xã hội. Một lần nữa, trái ngược nhau, khi Nguyễn Huy Thiệp, nhà sử học, người định giá xã hội Việt Nam đương thời thông qua giải thích lại cái nhìn quá khứ, Lỗ Tấn lại là một thầy thuốc chẩn đoán bệnh trạng xã hội Trung Hoa trong những ẩn dụ thuốc men dứt khoát. 

 (…) Cảm giác cô đơn, tuyệt vọng vây bủa truyện Nguyễn Huy Thiệp là trọng âm trong những trò chuyện giữa nhân vật này với nhân vật khác, và thực sự, dường như để thể hiện một giọng điệu phổ quát hơn về cõi hiện tồn bi quan. Ở Vàng lửa: “Chúng ta sống vô nghĩa, nghèo khó và đau khổ trong những lí thuyết chắp vá đầy ngụy biện; những mối bất hòa kì thị dân tộc và đẳng cấp; những kinh nghiệm sống của chúng ta mong manh và vụn vặt xiết bao. Đến bao giờ, hỏi đến bao giờ, trên mặt đất này xuất hiện tiến bộ?”. Trong Chảy đi sông ơi: “Con người ta tăm tối lắm. Con người vô tâm nhiều như bụi bặm trên đường. Tôi muốn gào lên chua xót. Tôi bỗng nhiên thấy cuộc sống hiện giờ của tôi vô nghĩa xiết bao”. Trong Những bài học nông thôn: “Tôi nhận ra thế giới bao la vô cùng vô tận, bản thân tôi, sự sống và ngay cái chết đều là bé nhỏ và không có ý nghĩa gì”. Trong khi những câu này có thể đứng cùng hàng với kiểu hậu hiện đại “vô can”, “thản nhiên”, thì độc giả Việt Nam đọc Nguyễn Huy Thiệp lại cảm thấy rõ giọng điệu của chúng, sự u buồn lệch hướng đáng chào đón, khác hẳn thứ lạc quan chủ nghĩa ép buộc trong các tác phẩm được quan phương thừa nhận.

(…) Điều đáng chú ý cuối cùng khi Nguyễn Huy Thiệp vi phạm các quy tắc văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, ông chối từ việc xếp loại một cách máy móc hồ sơ tính cách các nhân vật của mình với thứ bậc giai cấp nào đó. Những người nông dân, thợ thầy, đám chài lưới của ông không đứng đắn cũng chẳng lao động hăng say gì; những thành viên đoàn thể cũng không sáng láng hay quá đức hạnh; còn thói mua chuộc của đám giàu có chỉ gây ấn tượng rằng nó chẳng qua cũng lan tràn khắp nơi ngoài xã hội. Tương tự như thế, cái nhìn xét lại của Nguyễn Huy Thiệp về các nhân vật lịch sử như Gia Long, Quang Trung, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Du và Nguyễn Trãi phá vỡ danh tiếng quan phương của họ và ngầm nhắm vào những giá trị bất khả nghi ngờ trước đây trong lịch sử Việt Nam(9).

Nguyễn Huy Thiệp và tính chất hậu hiện đại
(…) Một trong những cánh cửa rọi vào môi trường văn hóa kinh doanh của miền Bắc đương thời là chuỗi điều tra trên diện rộng được định hướng bởi nhà nhân học Lương Văn Hy tiến hành ở nhiều làng Bắc Bộ từ 1987 đến 1991. Kết quả của ông cho thấy những cải cách kinh tế của Đảng đã kích hoạt căn bản sự “cải biến về mặt văn hóa xã hội” mà biểu hiện là sự “tăng mạnh các thực hành nghi lễ”(10) ở nhiều làng quê. Ông chỉ ra sự tái sinh một cách mới mẻ các nghi lễ làng xã rất mực lề lối và thống nhất, bao hàm cả sự gia tăng đáng chú ý những phí tổn trong cưới xin, tang ma, cúng giỗ. Những phong tục đó từng bị nhà nước gạt bỏ vì quá lãng phí hoặc “phá vỡ tính thống nhất cộng đồng”, từng bị ngăn cấm theo định kì, chẳng hạn như giết trâu mổ lợn, yến tiệc hội hè, quà cáp đi lại, nay được phát sinh trở lại và tăng mạnh thêm(11). Lương Văn Hy cho rằng hiện tượng này như là một “phục hồi có chọn lọc truyền thống trước 1945”(12). Trong khi những kết luận của Lương Văn Hy có thể không cho phép diễn dịch toàn diện bối cảnh kinh tế xã hội Việt Nam đương đại, chúng thực sự vẫn giúp giải thích mối bận tâm chế giễu của Nguyễn Huy Thiệp đối với sự trương phình rõ rệt của thứ văn hóa ăn uống trong đời sống Việt Nam.

(…) Những tóm lược đầy mỉa mai của Nguyễn Huy Thiệp về chuyện cưới hỏi, ma chay, tết nhất và những sự kiện đặc biệt do gia đình bày biện và diễn trong Tướng về hưu cho thấy một sự dồn đuổi để chiếm lĩnh và phê phán thứ văn hóa tân thời của tầng lớp trung lưu mới nổi ở miền Bắc. Mặc dù những nghi thức mà nhà văn mô tả có thể được truy lần theo vết tích truyền thống Việt Nam (…), nhưng những biểu hiện lúc này của nó lại bị lật tẩy trong các thứ tiện nghi lòe loẹt, vô vị, vô vọng, trong cõi tinh thần trống rỗng, hay thứ sách báo ướt át. Trái ngược với Lương Văn Hy nhận định về sự tái diễn có tính “chọn lọc” các đặc trưng văn hóa, Nguyễn Huy Thiệp lại ta thán tình trạng suy đồi toàn diện và sự trương phình chủ nghĩa vật chất của văn hóa đương thời. 

(…) Về cơ bản, con người bản năng, thú tính theo thuyết Darwin và việc tô đậm tính chất này trong quá trình thâm nhiễm chủ nghĩa tư bản trên miền Bắc bấy giờ được tái lặp như là những chủ đề quan trọng trong tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã triển khai chủ đề này ở truyện Cún. (…) Trong Muối của rừng, thậm chí Nguyễn Huy Thiệp còn làm mờ nhòe ranh giới giữa người và thú. Trong truyện, ông Diểu, một thợ săn đã lần theo đàn khỉ ở rừng sâu, quan sát những mối quan hệ phức tạp của gia đình khỉ này, những nghi thức chia thức ăn và tắm táp rất bầy đàn, trái ngược với tình thế đơn độc của ông. Ông Diểu bắn con khỉ đực từ trên chỏm núi cao, cởi quần áo ngoài leo lên để đưa nó xuống. Nhưng lúc ấy, ông bỗng thương hại và cởi chiếc quần lót đang mặc băng bó vết thương của con khỉ. Câu chuyện dừng lại với hình ảnh cuối cùng về ông Diểu, hoàn toàn trần truồng, vác con khỉ bị thương xuyên rừng, đến mức không sao phân biệt được thật rõ ràng những điểm riêng giữa ông Diểu và bầy khỉ trần trụi mà ông vừa săn đuổi. 

(…) Theo ý kiến của tôi, việc ứng dụng lí thuyết hậu hiện đại vào địa văn hóa Việt Nam có nhiều nguy hiểm, và trong thực tế, những điểm lờ mờ của nó mới dừng lại ở nét mới mẻ và thú vị trong một hiện tượng văn chương khác thường. Vì tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp bây giờ mới lần đầu được chuyển ngữ sang tiếng Pháp, tiếng Anh, sẽ có nhiều cơ hội cho độc giả nước ngoài đọc và diễn dịch. Điều cốt yếu phê bình lúc này, quan trọng là không bỏ mặc những điều kiện riêng biệt và cụ thể đã hình thành nên và thấm đẫm trong cái viết của Nguyễn Huy Thiệp 
 MAI ANH TUẤN dịch
(Nguồn: Peter Zinoman,
“Declassifying Nguyễn Huy Thiệp”,
Positions: East Asia Cultures Critique  2: 2 (Fall), p. 294-317)


-------

1. Greg Lockhart, “Tại sao tôi dịch truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp ra tiếng Anh”, Tạp chí Văn học3 (1989): 51.
2. Lê Xuân Giang, “Nhà văn đối thoại -  Phong cách phúng dụ”, Tạp chí Văn học 2 (1989): 79-83.
3.  Hồ Tài Huệ Tâm, “A Postmodern Critique of History and Literature in Vietnam: The Fiction of Nguyen Huy Thiep” (6/1992), 2.
4. Đào Trung Đạo, “Một vài vấn đề phê bình văn chương từ những tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp”, Hợp lưu 4 (1992): 130-146
5. Phân tích về đặc trưng này, xem Linda Hutcheon, The Polictics of Postmodernism (London: Routledge, 1989), chương 2.
6. Một bàn luận về văn chương tự-phản thân, xem Hite, “Postmodern Fiction”. Ba kĩ thuật “phá vỡ khuôn” (“frame-breaking”, thuật ngữ của Hite) của hậu hiện đại đáng chú ý có thể thấy trong truyện Nguyễn Huy Thiệp là: ba cái kết riêng biệt khác nhau trong Vàng lửa; dùng các chú dẫn thơ ca kinh viện để phá vỡ thể loại trong Nguyễn Thị Lộ; hòa trộn những nhân vật có thật và hư cấu trong các truyện lịch sử và trong vở kịch Còn lại tình yêu .
7. Jamesion, “Shattered Identities and Contested Images: Reflections of Poetry and History in Twetieth-Century Vietnam”, Crossroads: An Interdisciplinary Journal of Southeast Asian Studies 7 (1992): 84.
8. Xem “Khoảng trống ai lấp được trong tư tưởng nhà văn”, Sông Hương (4/1990): 57-61; “Một góc sơ suất trong thế giới nội tâm nhà văn”, Sông Hương (3/1990): 125-132; “Nhà văn và bốn trùm Mafia”, Sông Hương s.3, (4/1991): 41-45; “Con đường văn học”, Cửa Việt, s.13 (4/1992): 68-71.
9. Liên quan đến những mô tả này, xem Hồ Tài Huệ Tâm “Postmodernism Critique”, Taylor, “Locating the Boundaries”; và Zinoman, “Nguyen Huy Thiep’s Vang Lua”; Cũng có thể xem K.C.Nguyen, “Left to Write”, FEER (17/8/1989).
10. Lương Văn Hy, “Economic Reform and the Intensification of Rituals in Two Northern Vietnamese Villages, 1980-1990”, trong The Challenge of Reform in Indo-China, Borje Ljunggren và Peter Timmer biên tập (Cambridge, Mass: Harvard Institure for International Development, 1993), 259-291.
11. Lương Văn Hy, Tlđd, 270-284.
12. Lương Văn Hy, Tlđd, 270.
 
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ quân đội, ngày 21.3.2016.

Tập truyện "Cánh đồng bất tận" - bản tiếng Đức - của nhà văn Cà Mau sẽ được giới thiệu tại sự kiện văn học ở Hội sách Frankfurt.

Cuốn Cánh đồng bất tận (Endlose Felder) của Nguyễn Ngọc Tư đã vượt qua tác phẩm của tám tác giả nữ quốc tế để chiến thắng giải Literaturpreis 2018. Giải thưởng do Litprom - hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi và Mỹ Latin ở Frankfurt (Đức) - bình chọn.

Nguyễn Ngọc Tư sẽ nhận phần thưởng trị giá 3.000 Euro do Hội sách Quốc tế Frankfurt tài trợ. Ngoài ra, chị nhận thêm 6.000 Euro từ các đơn vị khác để thực hiện một dự án viết lách dành cho nữ giới tại Việt Nam. Dự kiến, Nguyễn Ngọc Tư sang Đức nhận giải từ ngày 9 đến 14/10. Chị còn tham gia hội chợ sách Frankfurt để đọc tác phẩm và dự lễ trao thưởng cùng hai dịch giả tại Weltemfang - Trung tâm chính trị, văn học và dịch thuật (Đức).

“Cánh đồng bất tận” bản tiếng Việt và bản tiếng Đức

Cánh đồng bất tận do giáo sư Gunter Giesenfeld, nhà giáo Marianne Ngo chuyển ngữ sang tiếng Đức. Năm ngoái, bản dịch dẫn đầu bầu chọn của Litprom tại sự kiện Sách hay mùa đông lần thứ 37 (Đức). 

Literaturpreis là giải thưởng được thành lập 30 năm qua, dành cho các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Thế giới Ả Rập và vùng Caribe. Thành viên ban giám khảo là các nhà văn, phê bình văn học Đức. Một số tác giả từng nhận được giải này như: Madeleide Thien (Cambodia), Laksmi Pamuntjak (Indonesia), Fariba Vafi (Iran)...

Nguyễn Ngọc Tư sinh năm 1976 tại Cà Mau. Chị nổi tiếng với loạt tác phẩm: Ngọn đèn không tắt (2000), Ông ngoại (2001), Biển người mênh mông (2003), Giao thừa (2012), Sầu trên đỉnh Puvan (2007)... Cánh đồng bất tận được chuyển thể điện ảnh năm 2010, do Nguyễn Phan Quang Bình đạo diễn. 

Trọng Trường

Nguồn: https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nguyen-ngoc-tu-doat-giai-thuong-van-hoc-cua-duc-3778988.html

20180404 Tui bac Sai Gon

Trong bức tranh chung của văn học Nam Bộ giai đoạn kháng chiến chống Pháp 1945-1954, các tác phẩm kí ở vùng đô thị, nhờ vào đặc trưng thể loại của mình là tính xác thực, đã có những đóng góp riêng rất đáng ghi nhận. Đề tài của các tác phẩm này trải rộng từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, tranh đấu… Thành phần sáng tác không chỉ giới hạn ở miền Nam mà còn có sự góp mặt của các cây bút gốc Bắc vào Nam sinh sống và cả những tác giả lúc bấy giờ đang sống ở miền Bắc. Bài viết này sẽ khảo sát các tác phẩm kí ở đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945-1954 trên các bình diện nội dung phản ánh và hình thức biểu hiện, làm nổi bật đóng góp của thể loại này trong một giai đoạn văn học rất đặc biệt của đất nước.
 
Vấn đề thể loại

Thể loại là một vấn đề đáng lưu ý khi tìm hiểu về kí ở đô thị miền Nam giai đoạn 1945-1954, cũng như thể kí trong văn học Việt Nam các giai đoạn trước. Rất nhiều tác phẩm được tác giả định danh là một tiểu loại của kí lại mang đầy đủ đặc trưng của truyện ngắn và tiểu thuyết như hồi kíChị Dung (1949) của Hợp Phố, Lao tù (1949) của Thiên Giang, Tuổi xanh (tập san Nhân loại, 1952) của Sơn Mẫu, phóng sự Đơ-dèm cúp-bắp (báo Mới, 1953) của Vũ Xuân Tự, Bên lề xã hội(Mới, 1953) của Thanh Chương… Ngay cả phóng sự Đồng quê (1942) nổi tiếng của Phi Vân giai đoạn trước đó, được xem là phóng sự tiêu biểu viết về người dân quê Nam Bộ, cũng đậm tính tiểu thuyết với một câu chuyện hoàn chỉnh có mở đầu, cao trào, thắt nút, mở nút, diễn ra trong một khoảng thời gian kéo dài đáng kể trong cuộc đời nhân vật, nhưng thời gian và địa điểm cụ thể của sự kiện - những yếu tố quan trọng bậc nhất của phóng sự - thì lại không được đề cập đến. Một trong những đặc trưng của thể kí là cái tôi tường thuật, nhằm khẳng định tính xác thực của sự kiện, đảm bảo tác giả là người đã chứng kiến hoặc trải nghiệm sự kiện được miêu tả trong tác phẩm. Thế nhưng cái tôi tường thuật này lại không hề xuất hiện trong phóng sự Bên lề xã hội của Thanh Chương, hay trong một số truyện trong hồi kí Chị Dung của Hợp Phố. Sự phức tạp về mặt thể loại này xưa nay vẫn được giải thích bằng sự non trẻ của thể kí nói riêng và của nền văn học mới Việt Nam nói chung trong nửa đầu thế kỉ XX. Bản thân thể kí đã mang trong nó sự phức hợp giao thoa giữa văn học và báo chí, in đậm dấu ấn “sự hợp nhất truyện và khảo cứu”(1). Đường biên giữa kí và tiểu thuyết, truyện ngắn càng đặc biệt mong manh khi thể tài này còn đang trong quá trình hình thành và phát triển.

Nội dung phản ánh
Nội dung phổ biến của kí đô thị Nam Bộ giai đoạn này là đời sống sinh hoạt ở đô thành Sài Gòn, với số lượng bài viết tuy dồi dào và góc cạnh khai thác khá phong phú nhưng lại không có nhiều tác phẩm thật sự nổi bật.

Trong bức tranh Sài Gòn nhiều màu sắc, thế giới của những người lao động nghèo được những ngòi bút phóng sự hướng đến nhiều hơn cả. Đặng Thị Thanh Phương có tập phóng sự Bức tranh thành thị (1950) tập hợp những mảng màu tăm tối trong đời sống cơ cực của lực lượng lao động yếu ớt nhất trong xã hội: phụ nữ và trẻ em. Tác giả thuật lại từng hoàn cảnh cụ thể. Có những người vợ, người mẹ loay hoay làm những nghề nghiệp vất vả với thu nhập còm cõi để nuôi con, khi người chồng - trụ cột gia đình - đã chết hoặc đi xa. Có những đứa trẻ sớm dạt vào đời phải lăn lộn đấu tranh để kiếm sống... Tác giả tỉ mỉ ghi chép lại thu nhập của từng nhân vật để người đọc thời bấy giờ có thể hình dung cụ thể sự khốn khó của họ. Tuy nhiên, trong những mảng màu đen tối nhất của bức tranh thành thị vẫn sáng lên những tia hi vọng mỏng manh và ấm nồng tình cảm. Chị Khanh nghĩ đến chồng nơi xa để tiếp thêm nghị lực vượt qua khốn khó; bà Bá tuy “làm mà sống cho qua ngày” vẫn mong mỏi sớm được gặp lại đứa con trai đi xa. Không dày dặn như tập phóng sự của Đặng Thị Thanh Phương, phóng sự Dân cu-li của Ngụy Văn Thông (Mới, 1953) đã chọn lọc những trường hợp tiêu biểu cho đời sống người lao động ở sở tư – những người bị trả đồng lương rẻ mạt giữa thời buổi giá cả sinh hoạt leo thang, bị chủ ngược đãi vì không biết tiếng nước ngoài, và luôn luôn trong tình cảnh có thể bị đuổi bất cứ lúc nào mà luật lao động lại không đứng về phía họ. Trong tình hình đó, phóng sự Người thợ Ba Son (Mới, 1953) của Việt Quang ghi lại một hiện thực khác sáng sủa hơn về tình hình đời sống của giới thợ thuyền ở hãng Ba Son. Nhân viên ở hãng làm tám giờ mỗi ngày như các hãng khác, nhưng được tổ chức phục vụ cơm trưa tại hãng với giá rất rẻ trong chế độ hợp tác xã, mỗi phân sở đều có nơi để công nhân nghỉ ngơi, tắm rửa. Bài phóng sự ghi chép tỉ mỉ hệ thống tổ chức và chế độ lương bổng ở Ba Son với hi vọng các hãng khác có thể học tập.

Một vấn đề nổi bật khác của Sài Gòn thời kì này cũng xuất hiện nóng hổi trong phóng sự là tài xỉu. Với phóng sự Tấn công tài xỉu (1949), Vũ Xuân Tự phơi bày trò cờ bạc này lên trang viết với tất cả những chi tiết sống động, cụ thể về sức cám dỗ của nó bằng những câu chuyện người thật việc thật. Ông mô tả chân dung của những “ông thánh tài xỉu” với những ngón nghề, chiến thuật trong sự nghiệp tấn công tài xỉu nhưng rồi vẫn lâm vào cảnh tán gia bại sản, bỏ xứ đi xa hay treo cổ tự tử; những kẻ cố vùng vẫy khỏi vòng tay mê hoặc của tài xỉu nhưng đến khi tưởng thoát ra lại tự dẫn xác vào. 

Tình hình kinh tế, xã hội ở đất Sài Gòn sau này cũng được Hà Việt Phương, một cây bút xứ Bắc, khắc họa lại trong bài phóng sự Sài Gòn xây dựng dài hai kì đăng trên báo Mới (1953). Tác giả cũng thuật lại quyền lợi kinh tế Sài Gòn nằm chủ yếu trong tay người nước ngoài, mà cụ thể ở đây là người Tàu, thông qua việc miêu tả những cửa hiệu với những màu sắc văn hóa xa lạ nhan nhản trên phố phường Sài Gòn trong khi người Việt phần lớn là những người làm công nghèo khổ trên xứ mình. Tác giả thốt lên chua chát: “Thì đã bảo mình là kẻ ngụ cư ở trong nhà mình mà lị”. Trong nhật kí Sài Gòn có gì lạ? (Mới, 1953), Việt Phương tường thuật lại những việc mắt thấy tai nghe trong đời sống chính trị ở Sài Gòn, những rối ren trong đời sống kinh tế, và cả những hoạt động của các tổ chức ra sức chống giặc đói, giặc dốt.

Bên cạnh những bức tranh có tính chất rộng lớn về thời sự xã hội ở Sài Gòn, các tác giả còn hướng đến những đề tài hẹp hơn với những phóng sự ngắn như Nằm của Thiết Can (Thế giới, 1950) viết về những bệnh nhân lao phổi đang phải điều trị trong bệnh viện, Đơ-dèm cúp-bắp của Vũ Xuân Tự (Mới, 1953) về những người bị bắt lính ở Sài Gòn, Phật Mẫu giáng trần hay khách trú làm tiền và Nàng tiên Kiều của Nguyễn Duy Hinh (Mới, 1953) về tệ mê tín dị đoan và sự thừa cơ làm tiền của những người Tàu hám lợi, Ế vợ! Ế vợ! của Vũ Xuân Tự (Mới, 1953) về việc các chàng trai, cô gái Sài Gòn vì quá nhát, quá nghèo, quá kén, quá keo kiệt, hay nghe thiên hạ hù dọa mà không xây dựng nổi gia đình.

Bên cạnh Sài Gòn hào nhoáng và xô bồ, nông thôn Nam Bộ cũng là đề tài hấp dẫn của kí. Đồng quê Nam Bộ đã được miêu tả khá kĩ trong bộ tứ tác phẩm: phóng sự Đồng quê (1942), truyện dàiDân quê (1949), Tình quê (1949) và truyện ngắn Cô gái quê (1949) của Phi Vân, một tác giả trưởng thành ở ruộng đồng Nam Bộ. Với chùm tác phẩm này, Phi Vân được xem như một Ngô Tất Tố của Nam Bộ. Phóng sự Đồng quê đã được giải nhất trong cuộc thi văn chương của Hội khuyến học Cần Thơ năm 1943, và cũng là tác phẩm ghi lại sinh động phong tục, sinh hoạt và cả sự mê tín của người dân quê miền Hậu Giang. Đến năm 1954, độc giả được biết đến nông thôn Nam Bộ qua ngòi bút của một tác giả gốc Bắc: Nguyễn Hiến Lê, với quyển du kí - biên khảo Bảy ngày trong đồng Tháp Mười. Nếu những trang phóng sự của Phi Vân có cái tự tin, mộc mạc của người hết sức quen thuộc với những gì mình ghi chép, đồng thời chất chứa những cảm xúc gắn liền với thời ấu thơ của chính tác giả, thì công trình du kí - biên khảo của Nguyễn Hiến Lê lại chứa đựng niềm thích thú, say mê của người phương xa, đan xen những cái nhìn so sánh tinh tế của người có cơ hội trải nghiệm thiên nhiên, văn hóa của cả hai miền Nam Bắc.

Không chỉ gói gọn trong những đề tài về thành thị và nông thôn miền Nam, những tác phẩm kí xuất bản ở Sài Gòn giai đoạn này còn khai thác hiện thực ở những miền đất khác của đất nước, mà tiêu biểu hơn cả là Hà Nội và Huế. Đời sống xã hội trên đất Hà Thành thời kì này xuất hiện trên báo chí Sài Gòn dưới ngòi bút của các nhà văn ở cả hai miền Nam Bắc. Vũ Bằng gửi đăng bút kí dài kì Hà Nội trong cơn lốc trên báo Mới – một tờ báo miền Nam – khi ông vẫn còn đang sống giữa lòng Hà Nội, chứng kiến mọi chuyện bi hài những năm thành phố còn bị Pháp tạm chiếm, từ ăn mày, ăn ở, ăn mặc, ăn cắp, ăn chơi, đến chuyện lo thầy chạy thuốc, chuyện sinh hoạt văn nghệ. Trước đó, Phan Như Mỹ có bài kí sự Dưới mắt của một du khách miền Nam: Hà Nội 1952 cũng thuật lại Hà Nội ăn uống, sinh hoạt, lịch sử và văn hóa. Đây là tác phẩm “đặt hàng” của báo Đời mới với mục đích “muốn đời sống ở Hà Thành được một đồng bào Nam Việt chưa từng biết đất Bắc ra sao tả ra theo sự trông thấy của người Nam, với cây viết người Nam… mà cũng làm cho đồng bào ở Bắc nhận ra chỗ người Nam thấy lạ.” Độc giả Sài Gòn còn được biết thêm về đời sống của đồng bào Hà Nội sau cách mạng tháng Tám qua những trang phóng sự của một số tác giả miền Bắc khác gửi đăng báo trong Nam như Huyền Trang với Những kẻ lạc loài (Tia sáng, 1954) hay Phan Tăng Phú với Đời sống học sinh nghèo (Tia sáng, 1954). Đời sống ở Huế thời kì này được kể lại qua phóng sự Huế muôn màu của Tô Kiều Vân (Đời mới, 1952) vàSau ánh sáng đô thành: Huế 1953 (Mới, 1953). Cả hai tác phẩm đều miêu tả Huế ở những góc tối của cuộc sống, nơi có những người lao động nghèo, những số phận hẩm hiu, những con người tội nghiệp, và cả những nghề nghiệp bất đắc dĩ. Đề tài của kí đô thị miền Nam còn đi xa hơn nữa, vượt ra khỏi biên giới quốc gia để tìm đến những miền đất lạ qua những trang du kí như Có gì lạ? Bên kia Thái Bình Dương (Tia Sáng, 1952) của Ngọc Văn hay ghi chép Người Việt ở Paris (Việt báo, 1949) của Thúy Lãnh.

Một bộ phận đáng chú ý nữa là những tác phẩm hồi kí đi đày như Côn Lôn ký sự (Tân Việt Nam, 1945) của Thiết Hán, Lao tù (1949) của Thiên Giang hay Tôi bị đày đi Bà Rá (1949) của Việt Tha. Đây là bộ phận ít ỏi của kí đô thị viết về thế giới của những người chiến đấu. Cho dù đó chỉ là kí ức về những ngày tranh đấu trước cách mạng và đã bị kiểm duyệt cắt bỏ khá nhiều, những trang viết này đã góp phần thổi lửa vào lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu ở đô thị, nơi mà thoạt nhìn vào chỉ thấy hào nhoáng ánh đèn, rối ren tệ nạn hay lê thê những nỗi lo áo cơm mệt mỏi. Việt Tha ghi chép lại quãng thời gian ông bị quản thúc ở Sa Đéc vì những hoạt động tranh đấu ông đã làm trong quá khứ và đã “trả nợ” bằng nhiều năm lao tù. Hồi kí của ông giàu giá trị thông tin với những mẩu chuyện về hiện thực đời sống tù nhân, những cuộc đấu tranh, những chuyến vượt ngục tự phát hoặc có tổ chức, với những nhân vật có tên tuổi cụ thể, trong đó có những người khá có tiếng tăm như Phan Văn Hùm, Trần Văn Giàu, Cao Văn Chánh… Thiên Giang hồi tưởng những ngày ông bị giam cầm ở nhà tù Lao Bảo, nơi từng giam cầm, tra tấn những nhà yêu nước và chiến sĩ cách mạng như Nguyễn Bá Kiệm, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu… Thiên Giang khắc họa lại chân dung những tù nhân - chiến sĩ đẹp can trường bên trong thân xác tả tơi, hơi thở nặng nhọc, giữa không gian tối tăm, ô uế, bế tắc và đau đớn.

Ngoài ra, trên báo chí Sài Gòn giai đoạn này thường có rải rác các tùy bút, tản văn, bình luận giàu cảm xúc trước những sự kiện của thời đại như Ta đã làm gì? (Thế giới, 1950), của Vĩnh Sanh, Thôi cho hết cái năm nay đi và Sài Gòn năm nay có mùa thu (Mới, 1953) của Vũ Xuân Tự, tùy bút An bình của Trần Cẩm và Đường miền xuôi của Ái Lữ (Nhân loại, 1953).

Vài nét về hình thức thể hiện
Kí đô thị Nam Bộ 1945-1954 tuy có biên độ phản ánh rộng và đa dạng về nhiều vấn đề, lưu giữ chi tiết và sinh động một phần lịch sử của đất nước trong những tháng năm sôi động và nhiều ý nghĩa, nhưng lại không có nhiều thành tựu mới mẻ về nghệ thuật khi đặt cạnh những cái bóng lớn của kí văn học giai đoạn trước như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Tuân, Thạch Lam... Với sự trợ lực của báo chí đô thị lúc này vẫn rất sôi động, phóng sự và kí sự là các thể kí được sử dụng nhiều hơn cả, và tính ngắn gọn, trực tiếp, đi thẳng vào vấn đề là đặc điểm khá tiêu biểu. Những phóng sự, kí sự đăng trên báo, có lẽ do hạn chế số chữ và số trang in, thường không thật dài. Nằm của Thiết Can, Dân cu-li của Ngụy Văn Thông, Huế muôn màu của Tô Kiều Ngân, Sau ánh sáng đô thành: Huế 1953 của Ngọc Diệu, Người thợ Ba Son của Việt Quang, Sài Gòn có gì lạcủa Việt Phương… chỉ dài từ ba đến năm kì báo, mỗi kì từ một đến hai trang báo. Có những phóng sự ngắn chỉ đăng trong một kì báo như Hạng người sống thiếu: đời sống của những trẻ đánh giày của Đằng Nhâm, Bên lề xã hội của Thanh Chương, Phật Mẫu giáng trần hay mấy ông khách trú làm tiền? và Nàng tiên Kiều của Nguyễn Duy Hinh. Trong vùng không gian giấy chữ hạn hẹp ấy, tác giả cố gắng dồn vào nhiều thông tin nhất có thể và chẳng mấy dụng công vào câu từ hoa mĩ, khai thác suy nghĩ của nhân vật hay phơi bày cảm xúc tác giả. Dưới mắt một người miền Nam: Hà nội 1952 giống như một mẩu tốc kí, tác giả cố dồn càng nhiều thông tin vào bài viết càng tốt: mục “Hà Nội sinh hoạt” được tái hiện trong những chi tiết về làng hoa Ngọc Hà với người lao động cần cù, lam lũ, những cửa hiệu ở phố Hàng Đào ế ẩm trong thời chiến, xích lô cũ kĩ xấu xí nhưng mô-tô lại khá thịnh hành, nhà cưới đắt đỏ, nhà tắm hơi phổ biến… tất cả chỉ trong nửa trang báo in. Trong lời giới thiệu phóng sự Sài Gòn có gì lạ? của Việt Phương, ban biên tập báo Mới đã thừa nhận rằng giá trị của phóng sự “không phải ở văn chương, giá trị của nó ở chỗ nó là một bằng chứng của sinh hoạt chính trị và văn hóa”. Không chuốt chữ tô lời nhưng những phóng sự này ít nhiều hấp dẫn ở chính những sự thật tươi rói căng chật trong từng câu chữ.

Bên cạnh đó cũng có một số tác phẩm đăng báo kéo dài khá nhiều kì và khai thác sâu sự việc cũng như thể hiện cá tính tác giả khá rõ như bút kí Hà Nội trong cơn lốc của Vũ Bằng đăng liên tiếp hai năm 1953-1954 trên báo Mới, phóng sự Những kẻ lạc loài của Huyền Trang đăng trong hai năm 1952-1953 trên Tia sáng.

Những tác phẩm kí xuất bản thành sách có vẻ dày dặn và được đầu tư công phu hơn đa số bài viết đăng trên các báo, tạp chí. Tác giả có nhiều thời gian biên tập tác phẩm của mình, do đó về mặt nghệ thuật thể hiện, tác phẩm cũng có nhiều điểm hấp dẫn hơn. Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười của Nguyễn Hiến Lê không chỉ ghi chép những chuyện thu lượm được trong chuyến đi công tác Đồng Tháp Mười mà còn đan cài những biên khảo rất công phu, tỉ mỉ về địa lí, văn hóa xứ này. Cái tài tình của tác giả là ông đã đưa những thông tin khoa học, số liệu lịch sử một cách rất tự nhiên vào những cuộc trò chuyện vui giữa ông và các nhân vật trong tác phẩm. Người đọc có thể tìm thấy trong những trang kí của Nguyễn Hiến Lê nét quyến rũ riêng, vừa trí tuệ, vừa tình cảm. Tác giả thổi hồn vào những thông tin lịch sử khô khan nhờ biết tạo không khí thích hợp cho câu chuyện, lôi kéo người đọc chia sẻ cảm xúc cùng ông. Ở một đối cực khác, Vũ Xuân Tự cực kì hài hước với các phóng sự như Túi bạc Sài Gòn, Tấn công tài xỉu, Đả đảo phở tái, Muộn chồng… đến những phóng sự ngắn vui, phóng sự điều tra nặng tính thông tin hay các tùy bút đăng trên các báo như Đơ-dèm cúp-bắp, Trong cuộc săn voi Sài Gòn B, Những cô hồn tòa án, Đi bắt ngoại tình, Ế vợ! Ế vợ!, Thôi cho hết cả năm nay đi, Sài Gòn năm nay có mùa thu… Hai hồi kíTôi bị đày đi Bà Rá của Việt Tha và Lao tù của Thiên Giang cũng rất giàu chất văn học. Cùng là hồi ức về những ngày tù đày gian khổ, mỗi tác giả có một cách khai thác khác nhau. Việt Tha thể hiện phong cách nhà báo rất rõ khi những sự kiện ông tường thuật lại thường đi kèm với tên họ đầy đủ của nhân vật, địa điểm cụ thể và ngày tháng xảy ra sự kiện. Ông có cách đặt tít “giật gân” đậm chất báo chí nhằm thu hút sự chú ý của bạn đọc như Gặp Phan Văn Hùm ở khám mới, Trịnh Hưng Ngẩu làm lục lộ, Trần Văn Giàu trốn với mười một người “chánh hiệu”… Khác với hồi kí của Việt Tha, Lao tù của Thiên Giang không mang chút tính chất báo chí nào. Ông không đề cập đến thời gian cụ thể của những sự kiện diễn ra trong hồi kí, nhân vật cũng không được giới thiệu tên đầy đủ mà chỉ đơn giản là cố Thiều, ông Hai Cụt, bà Tư, anh Tiến, anh Long, anh Sơn, anh L., anh Đ., lão Xếp... Các tiêu đề của ông thiếu tính thông tin nhưng giàu xúc cảm và tính gợi mở văn chương như Dưới nắng hè, Trong chỗ quạnh hiu, Nguyện vọng cuối cùng… Thiên Giang không kể lại sự kiện theo trật tự thời gian với ưu tiên cung cấp thông tin về những gì đã xảy ra trong những năm tháng ông ở tù, mà chỉ chọn lọc những câu chuyện hướng về một đề tài chung: sự tàn bạo của nhà tù và tinh thần chiến đấu của người tù Lao Bảo. Những câu chuyện của ông không chỉ có sức lay động ở chính bản thân sự thật khốc liệt, mà còn ở cách ông xây dựng nhân vật, sắp xếp các chi tiết để tạo nên tình huống bất ngờ. Những người tù trong hồi kí của Thiên Giang đều được vẽ nên bằng những nét bút rất đẹp. Ở họ lúc nào cũng toát ra lòng tự tôn và tinh thần tranh đấu mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh. Tiến, Sơn là những nhân vật “sừng sỏ” trong việc tổ chức anh em tù nhân tuyệt thực để đòi những quyền lợi tối thiểu. Họ không nao núng cả khi bị tra tấn dã man mấy ngày liền, hay bị chiêu dụ bằng vật chất và quyền lực trong tù. Tiến cố giữ cho lòng mình không nao núng khi cai ngục lấy tình thương của người mẹ già tội nghiệp để làm mềm lòng chàng. Còn Sơn khi bị bắt, được cha mình là quan Huyện tìm cách cứu thoát, đã thẳng thừng trả lời với cha: “Thầy có đưa con ra khỏi chỗ này, thì một ngày khác con lại trở vô. Con không thể mang cái sỉ nhục mà sống đời được. Con làm sao yên hưởng lạc thú gia đình khi mà bạn bè của con còn ở đây.” Thiên Giang dành nhiều tình cảm cho các nhân vật trong hồi ký của mình đến mức họ hiện ra phảng phất nét đẹp của các nhân vật trong tiểu thuyết. Ông viết những dòng miêu tả tâm trạng ngồi tù của Tiến không khác gì tâm trạng những nhân vật trong tiểu thuyết: “Từ ngày ra đi đến nay, có lẽ chàng không có một dịp nào để nghĩ đến việc ở nhà. Mà nghĩ đến làm gì, người chiến sĩ “lên yên” đã nguyện thí thân cho gió bụi. Chàng không ngờ trong đời chàng lại có lúc nằm đếm bước thời gian để tưởng nhớ đến tất cả những chuyện mà chàng coi như đã vất qua bên lề đời…”

Nhìn chung, kí đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1954 tuy không có những thành tựu lớn về mặt nghệ thuật nhưng đã hoàn thành tốt vai trò của mình: ghi chép lại một giai đoạn lịch sử của thành phố nói riêng và đất nước nói chung một cách trung thành nhất. Đề tài của kí trải rộng từ đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, tranh đấu… hoàn thành sứ mệnh người thư kí của thời đại trong một giai đoạn lịch sử sôi động và nhiều ý nghĩa.

N.T.P.T
______

1. M.Gorki, dẫn theo Hoàng Ngọc Hiến, (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, tr.6.
 Nguồn: Tạp chí Văn nghệ Quân đội, ngày 30.3.2018.

Thế là Hoàng Cầm rời bỏ nhân gian cưỡi hạc đi vân du vào cõi tiên từ ngày 6 tháng 5 năm 2010. Sớm hơn rất nhiều so với dự định của ông vào hồi tháng 5 năm 2003. Khi ông hẹn tới đầu thế kỷ 22 - Vâng, thế kỷ 22, sẽ cùng Nguyễn Đình Thi thức giấc vào nửa đêm nào đó ở chốn đào nguyên để cùng lắng nghe một đám thanh nữ hình như đẹp lắm và đông lắm đang hát véo von. Người thơ đã ra đi mà cơ sự còn để lại bao nhiêu vương vấn ở cuộc đời vốn lắm bể dâu này. Người ta vẫn ca hát và ngẫm ngợi về thơ ông như khi ông còn sống và đương nhiên có những lời bàn thật trái ngược nhau. Năm 1997, khi Hoàng Cầm 75 tuổi, Lê Đạt nhớ lại một buổi sáng, không nói rõ năm tháng nào, nhưng có lẽ vào hồi mới tiếp quản Thủ đô, cùng chàng Nguyễn Bính ra Hàng Bè ăn thịt chó. Giữa hai miếng chả đặc sản thơm phức, Đạt bất chợt hỏi Bính: Trong dòng thơ dân dã sau cậu là ai? Bính trả lời tắp lự: Sau tao là thằng Cầm! Rồi tì tì uống tiếp. Rồi lại bỗng đặt chén xuống nói như quát: Thằng Cầm cũng bằng tao! Lê Đạt giống như Nguyễn Bính cho rằng: trong hàng ngũ các nhà thơ thời kháng Pháp, ngoài Tố Hữu ra có lẽ ít người nổi tiếng như Cầm.

Tôi không thích nhạc Phạm Duy, đặc biệt là những bài phổ thơ Hoàng Cầm. Nhưng hồi ký của ông nhạc sỹ tài hoa mà cũng lắm cái sự tình tang này, sau nhiều năm ở hải ngoại về dường như quả đất thì rất nhỏ mà quê hương thì rộng lớn, kể nhiều chuyện văn nghệ sỹ xứ Bắc. Nhưng hay nhất có lẽ về Hoàng Cầm gắn với những ngày đầu kháng chiến ở Việt Bắc, với những kỷ niệm đẹp nhất đời Phạm Duy khi lên chiến khu cùng một gánh hát với Hoàng Cầm. Phạm Duy viết: Phải ghi nhận một điều rất quan trọng là tác dụng của bài thơ (của Hoàng Cầm). Nó đã có khả năng diệt giặc hơn cả những võ khí tối tân lúc đó như SKZ hay Bazoka... Trong ba lô của bất cứ vệ quốc quân nào đều có những bài thơ chép tay của Hoàng Cầm. Trong thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp không thể không nói đến vai trò của những tác phẩm văn nghệ như nhạc của Văn Cao, thơ của Hoàng Cầm, Quang Dũng. Sau năm 1987, thơ Hoàng Cầm được phổ cập sâu rộng trong nhiều thế hệ độc giả Việt Nam. Người ta phổ nhạc, làm phim về ông.Phỏng vấn ông trực diện và qua làn sóng điện. Hàng triệu người được nghe ông đọc Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông qua màn ảnh truyền hình, internet. Khác xa với hồi 9 năm ông diễn thơ cho Vệ quốc đoàn trong đạn lửa. Người ta yêu thơ ông đến mức yêu cả mái đầu bạc trắng và khuôn mặt già nua lúc nào cũng có vẻ buồn buồn bên cạnh chiếc điếu bát hút thuốc lào cũ kĩ.

Ở một chiều khác. Có những ý kiến đánh giá ngược lại. Trong nhiều năm nay, không ít công trình nghiên cứu dài hơi về thơ thế kỷ 20, người ta có nhắc đến tên Hoàng Cầm nhưng chưa giành một dung lượng thỏa đáng và cần thiết cho sự nghiệp thơ của ông, cho đóng góp của thơ Hoàng Cầm trong tiến trình phát triển của thi ca hiện đại. Có người còn tự mình bổ sung khiếm khuyết ấy bằng phỏng vấn về thơ tình, và tò mò muốn biết những cuộc tình có thật trong đời ông. Hoàng Cầm cũng thật thà giãi bày: miễn thơ hay là được. Còn chuyện tình có thực đến đâu thì chỉ tôi biết. Không biết hương vị của quả ngon thì con chim cũng không thể ca hót lâu được. Có vẻ như là một vài nhà nghiên cứu còn ngài ngại việc gì đó chăng? Họ nói về thơ Hoàng Cầm trong những công trình đồ sộ vẫn thật là phải chăng.

Trong cuốn Đường chữ, tập hợp tất cả những gì chủ yếu nhất có được của đời văn Lê Đạt, người tự nhận trọn đời trọ góc nhìn thiên hạ có cho biết: Sinh thời Đặng Đình Hưng vừa là bạn thơ vừa là bạn rượu tâm giao của Hoàng Cầm. Nhưng ông ấy lại có cách đối xử không công bằng với Hoàng Cầm. Ông ấy bảo Cầm như một nhà thơ bình dân ở ... chiếu nhì...

Nguyễn Đình Thi và Hoàng Cầm như hai chàng hoàng tử phong nhã lạc vào rừng xuân thơ hiện đại. Cả hai thời đầu kháng chiến chống Pháp đều cùng một hướng: đi tìm đường viết thơ tự do với sự phóng túng và vô cùng linh hoạt về khẩu độ các câu thơ. Nhưng họ lại tạo ra hai phong cách thơ hoàn toàn khác biệt và thành công theo cách riêng của mình - Thơ tự do có vần và thơ tự do không vần. Có lẽ họ còn chung một điều nữa là đều được nhiều người đàn bà thanh lịch, học thức và quý phái yêu mến nổi trội hơn các thi sỹ cùng thời. Họ đều nổi tiếng thơ tình viết về những mối tình có thật của họ trong đời. Chung nhiều như thế nhưng Nguyễn Đình Thi đánh giá thơ Hoàng Cầm thấp hơn những gì thơ Hoàng Cầm gây dựng được. Ngày 16/8/1995, khi nói chuyện ở Viện văn học, Nguyễn Đình Thi nói: Trải qua vất vả nghĩ đến văn chương, càng thấy văn chương gần gũi. Chắc chắn không phải vấn đề hình thức.Hoàng Cầm ở văn công quân đội. Hoàng Cầm làm thơ sáo. Trong hồi ký văn chương Cát bụi chân ai Tô Hoài cũng bảo Lê Đạt coi vẻ đẹp thơ Hoàng Cầm lấp lánh vàng mã trang kim. Kể mấy từ này của Lê Đạt cũng ác thật.Tôi hiểu nó cùng một hướng nhắm đến chữ sáo của Nguyễn Đình Thi.Thơ mà sáo thì không còn chuyện gì để nói nữa rồi. Nhưng trong cõi văn chương việc khen chê không bị cấm và cũng thường thôi. Hồi tháng 4/2007, trong khi trả lời một nhà thơ hải ngoại, Hoàng Cầm chê thơ Chế Lan Viên sức rung động hạn chế. Yếu. Rất yếu. Mới đọc thì hay lắm nhưng rồi người ta sẽ quên đi. Hay hay không hay cũng tùy ở mỗi người thôi. Nhưng bảo vì lý do Chế Lan Viên làm thơ theo một ý định sẵn thì cũng chưa thuyết phục lắm đâu Hoàng Cầm ơi!

Người đời đã trao nhiều danh hiệu cho thi sỹ Hoàng Cầm. Ông vua hoặc là hoàng tử của thơ tình Việt Nam hiện đại. Một vầng hồi quang Kinh Bắc đầy màu sắc. Một thế giới hòa âm hòa sắc của những liêu trai. Một điệu quan họ chỉ hát tình yêu. Là mắt thời gian v.v... Những điều ấy hoàn toàn đúng. Nhưng chưa xứng với tầm vóc Hoàng Cầm. Chưa thấy rõ được những đóng góp quan trọng của ông ở thời điểm có tính bước ngoặt trong tiến trình cách tân thơ Việt Nam nửa sau thế kỷ 20, nhất là giai đoạn khoảng 15 năm 1945-1960. Có ba thời điểm quan trọng nhất. Năm 1948 với Bên kia sông Đuống. Năm 1956 với trường ca Tiếng hát người quan họ. Năm 1959-1960 với tập Về Kinh Bắc.

Văn chương là tiếng chim gọi đàn.Năm 1948 là thời điểm kỳ lạ. Đó là năm ra đời không chỉ một mà nhiều bài thơ mang sắc thái đổi mới. Tiêu biểu là Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Hoàng Cầm viết bài thơ này vào tháng 4/1948. Sau một đêm nghe bộ đội báo cáo tình hình chiến sự hai bờ sông ấy, Hoàng Cầm về viết một mạch đến sáng thì xong. Hai tháng sau, bài thơ được in lần đầu tiên vào tháng 6/1948 trên báo Cứu Quốc. Bài thơ có 134 câu, trong đó chỉ có 10 câu lục bát. Vào thời điểm lịch sử ấy, Bên kia sông Đuống có ý nghĩa đặc sắc về tư tưởng và nghệ thuật. Đó là một trong số bài thơ đầu tiên của thi ca hiện đại viết theo thể tự do với nhịp điệu uyển chuyển và vô cùng linh động, đánh dấu sự chuyển mình của thơ ca kháng chiến vào cuộc cách tân. Nó được viết ra theo quan niệm về thơ tự do của Hoàng Cầm: Tương tiến tửu của Lý Bạch có câu đầu có 17 chữ. Câu thứ 2 cũng 17 chữ chạy liền một mạch như rượu chảy ồng ộc ở chai ra. Tất cả đều phải gọi là thể thơ tự do (thực ra trong bản chữ Nho câu ấy Lý Bạch ngắt làm ba nhịp). Bên kia sông Đuống được xếp vào 100 bài thơ hay nhất thế kỷ 20. Bài thơ là bức tranh đa màu đa diện về cuộc kháng chiến của đất Kinh Bắc với vẻ đẹp giản dị mà huyền diệu của khuôn mặt búp sen cười như mùa thu tỏa nắng. Những nàng môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu. Cảnh sắc thiên nhiên đẹp lạ lùng. Bãi sông cát trắng phẳng lì liền dải xanh xanh bãi mía bờ dâu. Một con thoi của thế giới tự nhiên dệt nên bức tranh ngàn năm làng quê Việt: Có con cò trắng bay vùn vụt, lướt ngang dòng sông Đuống về đâu. Những tấm the đen gửi người may áo suốt mấy trăm năm trong mộng bình yên, trong tiếng chuông chùa văng vẳng mà không hay biết người muôn năm cũ ở đâu rồi. Rõ nét hơn cả là hình ảnh nền văn hóa dân gian hiện lên trong nghi ngút và hoang tàn của khói lửa chiến tranh.

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Thắng lợi và mất mát hy sinh của nền văn hóa ấy bắt nguồn từ sức mạnh tinh thần của đất Kinh Bắc. Nhịp thơ mạnh mẽ như những hồi trống ngũ liên: Vì nắng sắp lên rồi, chân trời đã tỏ. Sông Đuống cuồn cuộn trôi. Để nó cuốn phăng ra bể. Bao nhiêu đồn giặc tơi bời...

Bên kia sông Đuống bứt phá sang thể thơ tự do tạo thế uyển chuyển linh động cùng với sự nhuần nhụy của số câu lục bát khoáng đạt. Điều khó có thể tìm thấy sự kết hợp ấy trong thơ của phong trào Thơ Mới (1930-1945). Bên kia sông Đuống. Tình sông núi.Nhớ. Tây Tiến. Bài ca vỡ đất... không phải chờ đợi lâu nữa, thơ thời kháng chiến chống Pháp đã cất mình làm một cuộc cách tân vào năm 1948, chỉ sau 3 năm các thi sĩ trẻ đồng hành cùng cuộc trường chinh. Điều quan trọng là sau Bên kia sông Đuống, con sông ấy thêm một đời sống khác. Đó là dòng sông của thi thư văn hóa, của tình yêu tổ quốc và sắc màu muôn thuở của đời sống tinh thần. Danh sỹ Ngô Thì Nhậm (1746-1803) thật có lý khi viết: Nước Việt ta lấy văn hiến để giữ nước.

Năm 1956, trường ca còn lác đác trên thi đàn Việt Nam. Cùng năm đó, Hoàng Cầm và Văn Cao đã cho in Tiếng hát quan họ Những người trên cửa biển. Nếu Những người trên cửa biển, Văn Cao vẫn giữ lối kết cấu truyền thống của trường ca tổ chức theo các chương mà không câu nệ cốt chuyện thì Tiếng hát Quan họ của Hoàng Cầm đưa ra một kiểu kết cấu mới. Nó bao gồm 17 bài thơ độc lập.Tuy không có cốt chuyện nhưng chúng được liên hoàn với nhau bởi trường cảm xúc của thi nhân. Những nét chuyện như là tự sự của tác giả kể từ khi tôi lớn lên mang giọng mẹ tròn trong đôi mắt sáng đến ngày trở về nghe tiếng hát nổi triền đê. Bao nhiêu chuyện đời chuyện người mà xoay quanh vẫn là tiếng hát, dù có là vất vả, xót xa. Từ chuyện những vợ trái duyên chồng khăng khăng giả của, bỏ đi theo trai chờ thuyền hát lặn đêm trăng. Cái vùng đất nghe giọng hát biết người chung thủy. Tiếng hát theo em đêm về xay lúa, cối xoay tròn biết thuở nào xong. Tai cối đuổi nhau mãi mãi.Biết khi nào nên vợ nên chồng... và lão tiên chỉ già sợ tiếng hát quan họ phải khép cửa gối đầu lên chồng sách cũ. Nhưng, tình không dối được nhịp cầu. Những lỡ làng duyên phận đã làm nên mùa hoa gạo đỏ tháng giêng.

Trường ca Tiếng hát quan họ bằng 17 bài thơ độc lập, sử dụng nghệ thuật đồng hiện để kể về vùng văn hóa Kinh Bắc. Tuy vậy ít có bài đặc sắc và đôi khi gợi lại ám ảnh cái chữ sáovàng mã trang kimmà Nguyễn Đình Thi và Lê Đạt đã dùng. Nhưng chỉ giới hạn ở một vài câu thơ mà thôi.

Vào năm 1956 khi mà Con ngựa già của Chúa Trịnh, Xiếc khỉ.... bị quy là hai mặt thì lão tiên chỉ trong Tiếng hát quan họ nửa nạc nửa mỡ như thế cũng khó tránh khỏi. Tô Hoài viết: Hoàng Cầm thì vẫn thế. Ai bảo thơ Hoàng Cầm hai mặt, một mặt. Không. Hoàng Cầm có thể cắt nghĩa thành ba mặt, bốn mặt cũng được. Như sợi dây cứ mỗi ngày một rối không gỡ được, cùng với nhiều việc khác nữa, Hoàng Cầm của chúng ta vướng vào vụ Nhân Văn.

Nhiều người đánh giá và Hoàng Cầm cũng tự nhận tập Về Kinh Bắc nổi bật hơn cả. Nhưng điều quan trọng hơn, với tập Về Kinh Bắc viết thu năm 1959 và xuân 1960, Hoàng Cầm đã hoàn thiện một phong cách thơ độc đáo. Đó là phong cách tự sự giàu huyền sử và sự chắt lọc cảm xúc trữ tình, cũng như sự phát sáng ở nhiều biên độ của những hình tượng thơ độc đáo giàu sức biểu tượng được trau chuốt bởi một thi pháp giản dị mà dễ hiểu, lan tỏa dư ba của tình người. Đó là lối thơ tự do giàu nhạc điệu, rất mới mẻ trên thi đàn Việt Nam hồi đầu những năm 1960. Đó là một trong những tập thơ hay nhất ở giai đoạn này; góp phần vào cuộc cách tân thơ vẫn diễn ra không ngừng không nghỉ trong một nhịp ngắt ngắn ngủi từ chiến tranh sang hòa bình. Các nhà thơ xuất sắc của phong trào Thơ Mới phải mất 15 năm (1945-1960) nhập cuộc để phục sinh. Huy Cận sau tập Lửa thiêng, đến Vũ trụ ca. 1942 thì xuống tay hẳn. Phải đợi đến giờ mới có Đoàn thuyền đánh cá, Các vị La Hán chùa Tây Phương... Chế Lan Viên đến đầu năm 1960 mới sinh hạ Ánh sáng và phù sa. Xuân Diệu thì không bao giờ lấy lại được phong độ trên hàng nghìn câu thơ thế sự của ông.

Về Kinh Bắc viết từ 1959-1960, in năm 1993. Vậy là sau 30 năm ở trong im lặng và bóng tối, trong túi thơ riêng của Hoàng Cầm. Liệu nó có được sửa chữa bổ sung gì không? - Không. Lê Đạt cho biết.Hồi năm 1990 đã xảy ra việc to tiếng. Đặng Đình Hưng gật gù bảo: Những câu thơ mới viết của Hoàng Cầm sắc nước hẳn. Hoàng Cầm vốn mát tính và tốt nhịn. Nhưng lần này thì mặt đỏ lên và nói dằn từng tiếng: Đây không phải là những câu thơ mới làm. Đây là những câu thơ trong phần kết tập Kinh Bắc tôi đã đưa ông xem từ 30 năm trước.

Về Kinh Bắc thêm một lần nữa trở về. Lần này ít nhất là lần thứ 3, kể từ thời Bên kia sông Đuống. Hoàng Cầm như muốn tô đậm thêm lên màu sắc văn hóa dân gian quê hương ông.Tập thơ có kết cấu mới lạ. Gồm 8 nhịp. Nhịp 1 khấnnguyện có 5 bài thơ Đêm. Mở đầu bằng: Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc. Nhịp 2. Kiếp trước gồm 4 bài thơ. Nắng phù sa, Gió lông ngỗng. Sương cầu Lim. Khói Yên Thế. Kể về những câu chuyện huyền sử. Phù Đổng Thiên Vương bay về trời chẳng nói. Cò chở nắng tề phi điệp điệp đằng ngà. Gió lông ngỗng Cổ Loa cú rúc chòi canh. Giếng ngọc ếch ương, quát đêm tiễn sử. An Dương Vương bọt bể bồ hòn. Gái cầu Lim đã đi. Xênh xang năm sắc áo mới biết lòng chim sáo chim ri. Trai cầu vồng Yên Thế đã đi. Ngựa ô truy phi một đêm đến cửa Bồ đề. Nhịp 3. Rũ bụi gia phả. Tiếp tục không khí khấn vái và hội hè sàn sạt trên những dòng thơ vương vấn màu lịch sử. Áo Hai Bà Trưng. Mộ Hùng Vương. Trần Bình Trọng. Cụ tổ chín đời mở Bình Ngô đại cáo. Nhịp 4. Rồi cùng đi tất cả gồm 5 bài thơ kể chuyện trai đời Trần. Gái hậu Lê... Không khí huyền sử lại dâng lên nhang khói với nhiều câu thơ siêu thực đặc sắc: Đàn quạ khoang mang vệt bóng trăng thừa, Ném xuống cầu em cởi áo chiều xưa.

Nhịp 5. Còn em với 10 bài thơ là nhịp đặc sắc hơn cả. Trong đó có những bài thơ hay nhất của Hoàng Cầm. Cây Tam cúc - Lá Diêu bông - Quả vườn ổi. Bộ tam đa tình yêu và sự thất tình bất hủ của Hoàng Cầm bằng một mô típ chung ít thấy trong thơ hiện đại. Điệp khúc chị - người con gái lớn tuổi hơn đang độ dậy thì. Em - Hoàng Cầm - cậu bé mới 12 tuổi chẳng biết đâu là qua cầu bà Sấm bến cô Mưa sớm thức dậy bởi tình yêu ngây thơ trong trắng. Có một thứ sắc dục mơ hồ nhẹ nhàng, mộng mơ mà thật thanh bạch buồn trong hoài niệm. Một lối thơ tình mang thương hiệu Hoàng Cầm. Vừa dễ hiểu vừa ám ảnh bởi cái hơi men lạ lùng vụng dại mang đến. Có người không thích cái sắc dục dù là mơ hồ đó của thơ Hoàng Cầm. Nhưng sau khi đi thánh địa Mỹ Sơn về, tận mắt thấy sự uy nghi của hai vật tự nó thách thức với thời gian và sự ghen tỵ của loài người mới hay đó là sự sinh tồn và vẻ đẹp của con người. Văn chương mà chối bỏ điều đó thì làm sao sống được.

Đọc hết nhịp 5, những tưởng tập thơ dừng lại. Ngoại trừ ở nhịp 7 có bài thơ hay đến mức nó như bản mệnh của đời Hoàng Cầm - Mưa Thuận Thành. Bài thơ làm ra một Hoàng Cầm mưa trong thơ hiện đại. Cái vô thủy vô chung của quá khứ và hiện tại, của tình đời chỉ làm tròn một hạt mưa thôi. Về Kinh Bắc - một mối liên hệ 3 ngôi. Quê hương - người nữ (từ của Hoàng Cầm để chỉ mẹ, chị, em) và Hoàng Cầm, vây bọc lấy cảm xúc vừa trang nhã mà lại vừa xót xa làm nên những câu thơ về xứ sở mà cả đời thơ Hoàng Cầm trở đi trở lại âm điệu và màu sắc của văn hóa dân gian trên giấy điệp vàng rưng rưng mưa nắng. Đó là tiếng chuông như hiểu được tiếng người chuông chiều cởi yếm, chuông sớm đội khăn. Đó là âm thanh xưa lắm của dĩ vãng nhuộm đời thêm sắc cô liêu: Ơi chiều Kinh Bắc, chuông chùa nhuộm son. Đó là dòng sông không ngủ vì người: Sông xuân vừa chợp mắt, đã gọi đò Tú Xương.

Sau 3 lần đưa em về bên kia sông Đuống, về Kinh Bắc, thơ Hoàng Cầm về sau không còn gì xuân sắc nữa để đạt tới cái mà ông đã trải qua, chưa nói là vượt qua những đỉnh cao chỉ một lần có được trong đời. Đôi khi ông trở về những mô típ cũ. Những chị. Những em. Những đi tìm. Những gọi đôi… Như bức tranh lạt màu tô lại. Đâu còn bóng dáng tha thướt của thời xưa.

Sau vụ Nhân văn giai phẩm hồi cuối những năm 1950, Tô Hoài nhớ lại: Hoàng Cầm bị ra khỏi Ban chấp hành, phải thôi việc nhà xuất bản, chuyển công tác về Sở văn hóa Hà Nội... Hoàng Cầm thì mở quán rượu. Hội nhà văn quyết định truất 3 năm hội tịch của Hoàng Cầm. Năm 1956, tôi chưa hiểuvì sao Hoàng Cầm lại chọn điểm phê chưa thích hợp lắm với tập thơ Việt Bắc được trao giải nhất của Hội văn nghệ, rằng nó thiếu chất sống thực tế. Việt Bắc không phải không có những nhược điểm. Nhưng bảo thiếu thực tế thì chưa hẳn. Hoàng Cầm có biết chăng khuyết điểm thiếu chất sống thực tế là “cái hèm” đáng sợ nhất của một nhà chính trị?

Tập Về Kinh Bắc chưa đưa đi in được hồi những năm 1960. Nhưng cũng vì tập thơ ấy, Hoàng Cầm bị bắt từ ngày 20/8/1982 và bị giam đến trước lễ giáng sinh 1983. Khoảng 16 tháng. Lý do vì ông đã chép tay tập Về Kinh Bắc cho một người yêu thơ mang ra nước ngoài. Luật hình sự ở tất cả các nước khái niệm thi sỹ đều không có trong phần phàm lệ. Luật pháp là luật pháp. Thi sỹ là thi sỹ. Hoàng Cầm đã phạm vào điều Nhà nước cấm: chuyển... tài liệu… ra nước ngoài. May thay. Công cuộc đổi mới cứu nhân độ thế, đưa tập thơ và thi sỹ ra ánh sáng, khi Hoàng Cầm tóc đã bạc trắng và Về Kinh Bắc không những không có hại mà được mọi người yêu mến như ngày nay.

Sách Tang thương ngẫu lục hồi thế kỷ 18 trích dẫn Địa kiềm của Cao Biền: thấy dây thì ngừng, gặp cỏ thì dừng. Hoàng Cầm không làm như vậy. Những lưu ảnh của Hoàng Cầm từ hồi còn trẻ đến lúc về già không hiểu sao tất cả đều nhìn nghiêng. Một sự vô tình giống như hồi ông chia tay với Kiều Loan ở phố Nỉ - Bắc Giang quãng 1948 - 1949 gì đó. Trong bữa cơm đạm bạc một đi không về. Hoàng Cầm vẫn ngâm thơ. Có phải thi nhân là kẻ hay nhìn nghiêng mới thấy sóng sánh bao nhiêu của cuộc đời này?

Năm 2010, tôi theo anh em lên làng Diềm ở Bắc Ninh nghe hát quan họ cổ và xem cửa võng của đình làng ấy có mấy tầng mà cái ông Hoàng Cầm bạo hổ bằng hà dám viết váy trùng cửa võng. Sau mấy hồi quan họ và 7 tuần rượu trắng còn chưa dứt, tôi đọc một đôi lục bát làm quà: Làng Diềm ở giữa câu ca, để tôi đi mãi chưa ra cổng đình. Khi bái biệt, một người khách tang bồng trong số liền anh có đưa cho tôi mảnh giấy mỏng màu vàng điệp gấp tư nói là quý khách về xuôi qua bờ bên kia sông Đuống hãy mở ra xem. Tôi làm y như vậy. Đó là một bài đồng dao viết bằng mực tím.

Hoàng Cầm mưa

Nào chảy đi

chảy đi,

Sông Đuống ơi!

Nghiêng về một bên.

Nghiêng một đời người

Làm hạt mưa rơi

Long lanh mắt ướt.

Tóc mưa nghiêng đầu

Người về bến bạc Luy Lâu

Đừng tìm chi nữa

Người đi chưa trọn kiếp người.

Bến Lú

Bên kia sông Giác

Tuần du

Chưa vợi khối tình

Má hồng liền chị

Tóc bạc thi nhân

Đức vua than thở một mình

Kìa mây nghiêng buồn chớp mắt

Lênh đênh quán rượu vỉa hè

Thuyền tình nửa tỉnh nửa mê.

Kìa mưa tái tê

Là mưa ái phi

Mưa là mưa lượt

Ướt mềm bồng thi.

Mưa đi khép nép

Người xa xa mờ

Mưa về chưa vợi

Nghiêng thuyền đợi thơ

Kìa ai ngơ ngẩn một mình…Đám cưới chuột rải vàng giấy điệp.

Năm 2007, Hoàng Cầm nhận giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Sau đấy 3 năm ông mất ở nhà số 43 phố Lý Quốc Sư - Hà Nội.

Nguồn Văn nghệ số 27/2018

Bùi Diệp là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đoản văn rất đặc sắc. Anh đã có 3 tập đoản văn được xuất bản: Không gian tiệm nước, Về thương chim sẻ, Về ngang quán không và một số truyện ngắn đăng báo Tuổi trẻ, Tuổi trẻ cuối tuần. Anh cũng là nhà thơ với rất nhiều bài thơ có bản sắc được lưu truyền trên mạng. Sinh năm 1963, học khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp TP.HCM khóa 1983-1987, do hoàn cảnh gia đình mà phải bỏ về quê ở Phan Rang. Vừa qua anh bị bệnh nặng, gia đình đã đưa vào TP.HCM để điều trị nhưng không qua khỏi. Anh qua đời ngày 6 tháng 3 năm 2018 ở quê nhà Phan Rang, hưởng dương 56 tuổi.

Hình như cảm nhận được cái ngắn ngủi của cuộc đời nên Bùi Diệp qua những trang văn, trang thơ của mình như muốn cố níu giữ những điều quý giá nhất của cuộc sống: những kỷ niệm đẹp thời ấu thơ, những nét đẹp của quê hương, và nhiều nhất là ký ức về tình bạn, tình thân yêu gia đình hay một tình yêu mơ hồ nào đấy… Bây giờ anh đã về nơi “quán không” vĩnh hằng, bạn bè vẫn nhớ về anh: một người bạn rất hiền và tử tế, độc giả vẫn xem văn của anh như theo sóng tìm nguồn mà tìm thấy gương mặt của anh, tâm hồn của anh.    

Website Văn học từng giới thiệu thơ anh, báo Tuổi trẻ cũng giới thiệu tập đoản văn mới nhất cảu anh: Về ngang quán không. Xin đăng lại dưới đây.

http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/sang-tac/6439-th%C6%A1-b%C3%B9i-di%E1%BB%87p.html

Một lần lang thang trên Face book, tình cờ đọc được bài thơ hay Ờ thôi sau bài hát đó trên FB“Bùi Diệp”. Có một cái gì đó nghèn nghẹn, chất chứa không muốn nói ra, mà không thể không nói ra. Có thể là một kỷ niệm, một cuộc tình, mà cũng có thể là một cuộc đời: trái ngang, lỡ dở. Đọc mục Giới thiệu mới biết Bùi Diệp là cựu sinh viên Đại học Tổng hợp (ĐH KHXH&NV ngày nay), học Văn khóa 1983-1987. Học chưa xong anh bỏ về quê, làm ruộng, viết báo kiếm sống và làm thơ. Anh làm thơ khá nhiều mà có vẻ như mỗi bài làm ra không dễ. Tôi thích nhất mấy bài thơ sáu chữ của anh: ngang ngang, khô khô, phớt tỉnh. Đọc xong mấy bài này, tôi gõ vào comment trên Face của anh: Nhẹ mà xót, tỉnh mà đau. Lời ít tình nhiều . Viết xong được nhiều người Like.

(Đoàn Lê Giang)

Hoạt động sáng tác văn học sôi nổi ở Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954 có một phần đóng góp không nhỏ của báo chí. Từ góc nhìn phê bình xã hội học, kênh phổ biến của tác phẩm văn học là một trong những yếu tố chi phối quá trình sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm, và có khi chi phối cả những yếu tố thuộc văn bản tác phẩm. Bài viết này phân tích tính xã hội của truyện đăng trên một số tờ báo ở Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954, cụ thể là Tân Việt Nam (1945), Nguồn sáng (1948),Việt báo (1949), Thế giới (1949), Mới (1952 - 1953), Đời mới (1952 - 1954), Nhân loại (1953 - 1954), và Thẩm mĩ tuần báo (1952 - 1954).

 1. Tuy cùng là sản phẩm của công nghệ in ấn hàng loạt, tác phẩm văn học in sách và đăng báo vẫn có những điểm khác nhau. Cái khác nhau căn bản giữa hai đối tượng này là truyện đăng trên báo chí gắn liền với hoạt động kinh doanh thông tin - một đặc tính quan trọng của báo chí. Xét ở khía cạnh này, văn chương đăng báo là công cụ hút khách, từ đó đem lại thu nhập - cho báo, nhưng ngược lại chính báo chí đã đem đến cho tác phẩm văn học đăng báo lượng người đọc tiềm năng lớn hơn nhiều và đa dạng hơn nhiều so với sách in. Thể loại văn học trên báo chí quốc ngữ nói chung và báo chí Sài Gòn 1945 - 1954 nói riêng tiêu biểu trong việc làm nhiệm vụ giữ chân độc giả là tiểu thuyết feuilleton, một kiểu tiểu thuyết dài kì đăng báo. Trần Nhật Vy đã gọi feuilleton là “đặc sản của báo chí quốc ngữ thời xưa”(1). Tác giả viết truyện được trả lương tháng, và nhiều tờ báo mướn những nhà văn có tên tuổi viết riêng cho báo mình để câu khách. Phú Đức, tác giả feuilleton nổi tiếng từ trước 1945 đến giai đoạn 1945 - 1954 vẫn là một tác giả ăn khách, mà theo như người cùng thời khẳng định thì ông là nhà văn “kiếm nhiều tiền nhứt làng báo Sài Gòn”(2). Bên cạnh đó còn có rất nhiều những feuilleton khác, có khi đăng đến hơn 40, 50 tuần báo, tức cả năm trời vẫn chưa kết thúc như Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang… Truyện ngắn cũng có lúc đóng vai trò giữ chân độc giả như feuilleton khi có một tác giả ăn khách nào đó viết thường xuyên cho chuyên mục đó, chẳng hạn như mục Tiêu khiển trên báo Đời mới (1952) mỗi tuần đăng một truyện trinh thám của Thiên Giang, hoặc truyện gây cười nhằm mục đích giải trí thuần túy của các tác giả khác. Báo Đời mới có rất nhiều cây bút thân thiết cho mục truyện ngắn, như Trần Phương Như, Vĩnh Lộc, Văn Hoà…

Vì là thành tố của hoạt động kinh doanh thông tin nên truyện đăng trên báo chí phải đáp ứng một số yêu cầu của hoạt động kinh doanh đó. Thứ nhất, tính tức thời. Viết văn đăng báo, đặc biệt là feuilleton, không thể nghiền ngẫm, dồn nén năm này qua tháng nọ như viết sách, cũng không để đợi có hứng mới làm việc, mà cứ đến hẹn lại lên. Thứ hai, tính tương tác. Người đọc tiếp nhận tác phẩm ngay trong quá trình nó được sáng tạo ra, và đôi khi có khả năng chi phối quá trình sáng tạo đó. Độc giả có thể gửi thư tới toà soạn thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình với tác phẩm hoặc tác giả nào đó. Điều này có thể tác động trực tiếp tới hợp đồng giữa tác giả và toà soạn báo, hoặc quyết định một tiểu thuyết feuilleton có được viết, đăng tiếp nữa hay không. Đất dậy sóng của Hoàng Thu Đông chỉ đăng được 8 kì thì dừng lại không rõ lí do, dù ở cuối kì 8 vẫn ghi là “còn nữa”, Chúa đảo trả thù của Long Mĩ Nhân cũng dang dở ở kì 48, Xương máu Phiên Ngung dừng ở kì 33. Tương tác giữa tác giả và độc giả về một tác phẩm cụ thể có lúc được đăng công khai trên báo để rộng đường dư luận. Đời mới đăng các bức thư trao đổi qua lại giữa độc giả Nguyễn Đức Hồ và tác giả Giang Tân về feuilleton Ngày mai đã muộn rồi đăng trên tuần báo này. Nguyễn Đức Hồ giật tít bài viết của mình “Giáo dục sinh lí khác với khiêu dâm”, trong đó ông trao đổi với tác giả Giang Tân đại ý rằng tác phẩm gợi dục nhiều hơn là giáo dục, vì những đoạn mô tả các hành vi tò mò sinh lí giới tính của những đứa trẻ quá sinh động. Giang Tân đáp lời, giải thích rằng giáo dục bằng văn học không thể giáo điều, mà phải mô tả sao cho có tính văn học, chi tiết và logic(3). Thứ ba, tính thời sự. Truyện ngắn Vui sướng gì? của Lê Hương đăng trên Thế giới tháng 11 năm 1949, lấy ý tưởng từ sự kiện bố ráp diễn ra ở rạp Trung ương Hí viện Sài Gòn. Tuy nhiên, đa số tác phẩm có tính thời sự đều được thể hiện một cách chung chung. Các nhà văn, nhà báo không thể viết về chiến tranh chống Pháp một cách cụ thể, đặc biệt là từ sau 1950, vì chính quyền Pháp kiểm soát báo chí giai đoạn này gắt gao hơn thời kì 1945 - 1949. Thứ tư, tính ngắn gọn, súc tích. Văn chương đăng báo ngắn gọn hơn, đơn giản hơn văn chương in sách, do khuôn khổ hạn hẹp của tờ báo. Điều này dẫn đến việc có nhiều báo đăng các truyện ngắn vụn vặt, chất lượng kém. Sự “yếu kém” này có thể là do nhu cầu “lấp cột báo” vốn xảy ra thường xuyên khi báo đến kì mà chưa có bài buộc ban biên tập phải “đăng đại” những truyện ngắn theo kiểu “được chăng hay chớ”. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có những truyện ngắn hay nói được những vấn đề nhân sinh rộng lớn bằng sự tinh tế tài hoa trong văn chương (Người khách đường rừng của Xuân Khai, Gánh hàng rau của Ái Lan…).

2. Theo khảo sát của chúng tôi, trong số 352 tờ báo quốc ngữ ở Sài Gòn trước 1954 thì có đến 174 tờ báo thuộc giai đoạn 1945 - 1954, tức gần một nửa. Cần lưu ý đây là những tờ báo mà các thư viện biên mục được (tuy rất nhiều tờ chỉ còn thông tin biên mục chứ không còn báo), không phải là tất cả những tờ đã từng tồn tại. Mặc dù các số liệu trên chỉ giúp cung cấp một bức tranh liên tưởng chứ không cụ thể, chính xác về hoạt động tiêu thụ báo chí ở Nam Bộ giai đoạn 1945-1954, nhưng chúng ta có thể suy ra được vài nét về công chúng báo chí và công chúng văn học thời kì này. Người làm báo không chỉ viết báo để thoả mãn ý muốn của mình, mà họ chỉ có thể duy trì tờ báo khi đảm bảo được lượng người mua (trừ các báo nhận trợ cấp từ chính quyền). Hoạt động đấu tranh chính trị không phải chỉ là chuyện của giới kí giả, mà thông qua tin tức trên báo, nó còn tạo ra nhu cầu thông tin của độc giả về các hoạt động tranh đấu. Từ đó công chúng của truyện đăng báo lại hình thành thị hiếu, khuynh hướng thẩm mĩ hướng tới các tác phẩm có tính chất tranh đấu và bàn về những vấn đề xã hội. Điều này lí giải tại sao thể loại feuilleton thời này lại ít hẳn tính giải trí, tiêu khiển so với giai đoạn trước. Phần lớn feuilleton giai đoạn 1945 - 1954 mà tác giả bài viết này thu thập được lại nặng tính chính trị, xã hội, chẳng hạn như Cát trắng của Kiêm Minh, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ, Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang… Có thể lí giải theo hai hướng: một là thị hiếu của độc giả thay đổi, tính giải trí, tiêu khiển của feuilleton phải dần thay thế bằng tính chính trị, xã hội thì mới thoả mãn được độc giả; hai là người làm báo xem trọng tính chính trị của tờ báo hơn độc giả của mình, muốn mượn công cụ văn chương để truyền bá và tác động vào tư tưởng của người đọc. Có thể có cả hai nguyên nhân, nhưng nguyên nhân thứ nhất vẫn có tính quyết định hơn, vì nếu người đọc đã không hứng thú gì với tờ báo và các feuilleton này thì việc tuyên truyền vô ích.

 Bên cạnh độc giả không chuyên, công chúng còn bao hàm các nhà phê bình văn học, thông qua những bài viết, ý kiến trao đổi có tác động vào văn chương nói chung, truyện đăng báo thời kì này nói riêng. Thiên Giang, Thê Húc, Thẩm Thệ Hà cùng thảo luận xung quanh vấn đề văn chương tranh đấu. Thẩm Thệ Hà khởi xướng và chất vấn về tính tranh đấu trong văn chương Việt Nam đương thời(4), Thiên Giang đề nghị người nghệ sĩ phải tham gia vào cuộc tranh đấu, làm nghệ sĩ tả chân xã hội (5), và Dương Tử Giang kêu gọi đào huyệt chôn các tác phẩm văn chương uỷ mị mới đăng báo vì cho rằng chúng làm lung lạc tinh thần tranh đấu (6). Mặt khác, các nhà lí luận, phê bình lật đi lật lại tính hai mặt của vấn đề, một mặt phải viết văn cho quần chúng hiểu, thích, “nương theo đại chúng”(7), “phụng sự nhân dân”(8), nhưng mặt khác phải định hướng quần chúng đến những giá trị chân, thiện, mĩ, tránh xa thị hiếu tầm thường vì “người nghệ sĩ chân chánh không lẽo đẽo theo sau quần chúng nhân dân” (9). Tất cả những ý kiến lí luận chung nêu trên đều tác động đến người cầm bút, trong đó có các tác giả viết cho báo.

Đối với các tác phẩm cụ thể mới xuất bản, thông thường giới phê bình hay tập trung vào sách hơn là truyện đăng báo. Tuy nhiên vẫn có một số trường hợp cá biệt tác giả có truyện đăng báo được mang ra phân tích để làm rõ một luận điểm lí luận nào đó, chẳng hạn như Phú Đức và Nam Đình Nguyễn Thế Phương. Trọng Yêm trong bài “Thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”(10) đã nêu lên tình trạng cả xã hội mê mẩn feuilleton của hai tiểu thuyết gia này, cho dù đa số là feuilleton đã cũ (Phú Đức đem đăng báo lại, còn Nam Đình in sách). Ông giải thích rằng điều này có nguyên nhân từ thị hiếu cũ kĩ của dân chúng và do chiến tranh kéo dài làm mọi người mất tinh thần, “mất tin tưởng vào ngày mai, ăn chơi trong ngày nay”. Trước đó, Phú Đức đã được “bêu tên” trong một bài viết của Tam Nhơn với tít báo hết sức gây chú ý “Phú Đức tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, trong đó có kể lại chuyện năm xưa Phú Đức tham tiền bỏ Trung lập báo sang viết cho Công luận báo trong lúc Trung lập đang đối mặt với khó khăn vì đăng bài bảo vệ hoạt động kinh doanh của người Việt. Tam Nhơn khiến độc giả nhận thức về thái độ chính trị của nhà văn, và cho thấy ngay cả một feuilleton thuần tuý giải trí vẫn có thể tác động vào công cuộc chính trị vì nó ảnh hưởng đến lựa chọn đọc báo của độc giả đại chúng.

Về tác phẩm cụ thể, chỉ có một vài truyện được phê bình riêng, vì đa phần các nhà phê bình tập trung vào sách in. Truyện ngắn Con thằn lằn chọn nghiệp của Hồ Hữu Tường đăng trên báo Mới số 26 đã thu hút được nhiều ý kiến phê bình. Đào Hữu Tường viết bài “Xin tha tội cho con thằn lằn” (11), cho rằng kết truyện của Hồ Hữu Tường có vẻ bất công. Phương Tiện Đạo Nhân (12) phân tích tác phẩm từ góc nhìn Phật pháp để bác ý kiến của ông Đào Hữu Tường.

3. Nhìn từ văn bản không phải là cách nhìn đối lập với cách nhìn xã hội, mà là xem tác phẩm là một cấu trúc chỉnh thể độc lập có mối liên hệ với xã hội. Theo lí thuyết cấu trúc phát sinh của nhà lí luận phê bình xã hội học Lucien Goldmann thì mỗi văn bản tác phẩm chứa đựng một cấu trúc hàm nghĩa nằm ngoài ý thức chủ quan của nhà văn, tương ứng với một cấu trúc xã hội của một nhóm xã hội mà nhà văn thuộc về, thể hiện thế giới quan không phải của nhà văn mà của nhóm xã hội đó.

Trong những tác phẩm được khảo sát, có hai mảng đề tài được các tác giả chọn viết nhiều nhất là đề tài tranh đấu yêu nước và đề tài đời sống đô thị. Viết về tranh đấu, các tác giả hoặc là kể về những chàng trai cô gái yêu nước thời hiện đại ra đi vì nghĩa lớn, những người ở lại, những người làm quốc sự đầy bí ẩn, cùng những nỗi đau và nét đẹp kiêu hùng của họ (Hận người tử sĩ của Hoàng Kim, Gánh hàng rau của Ái Lan, Làm lại cuộc đời của Hà Phương…), hoặc mượn những câu chuyện đời xưa để khơi dậy lòng yêu nước (Xương máu Phiên Ngung của Cửu Lang, Lão Tô của Tô Kiều Ngân…). Viết về đời sống đô thị, các nhà văn đặc biệt quan tâm đến số phận của các cô gái giang hồ (Ngày mai sẽ đến của Hoàng Thu Đông, Bóng tối của Văn Hoà…), sức tàn phá của xã hội đô thị xa hoa đối với thiên tính, lí tưởng của con người và sự trong trẻo của trẻ nhỏ (Hai cái chết của Cao Hữu Huấn, Ánh sáng đô thành của Vân Nga, Trôi giạt của Vĩnh Lộc, Bài giảng văn của Hợp Phố…), những mối lo tủn mủn tầm thường của con người tầm thường (Vui sướng gì của Lê Hương, Đôi vú sữa của Hợp Phố), những mối quan hệ xã hội phức tạp, chồng chéo giữa yêu thương và thù hận, giữa tốt đẹp và sa đọa, giữa tình nghĩa và phản trắc (Giết cha của Thiên Giang, Cây kiềng vàng của Cô Minh Đạt…), những rung động, cảm xúc tế vi của con người cá nhân (Sầu riêng của Linh Bảo, Bãi cỏ của Thụy An Hoàng Dân…).

Viết về chiến tranh và cách mạng, các tác phẩm vừa liệt kê ở trên thường xoáy vào những éo le trong tình yêu, bịn rịn ngày li biệt, người chiến sĩ mang vẻ đẹp kiêu hùng nhưng nhuốm màu u buồn. Điển tích Kinh Kha sang Tần được sử dụng khá nhiều, hoặc nếu không thì cũng là hình ảnh người chiến sĩ cách mạng cưỡi ngựa trên dặm đường rong ruổi và ghé bến sông trong chiều muộn trò chuyện với một ông lái đò, cũng là người có cảm tình với cách mạng. Quán nước ven đường thường là căn cứ liên lạc của cách mạng. Viết về xã hội đô thị, các nhà văn quan tâm đến những phận người bé nhỏ, trôi dạt như gái giang hồ, trí thức, thiếu nhi, dân nghèo thành thị, công nhân... nhưng các cô gái giang hồ đều là những cô gái xuất thân trong gia đình trung lưu, bản thân có học hành, và trong những chuỗi ngày trượt dài trong u tối vẫn trăn trở về đời mình, về nhân thế; các anh công nhân, dân nghèo thành thị nhìn đời như những người trí thức...

Xét từ khía cạnh văn bản, những ví dụ nói trên tạo ra một hệ thống cấu trúc hàm nghĩa chung mang tính chiến đấu. Đó có thể là chiến đấu một cách trực tiếp vì mục tiêu chính trị thống nhất đất nước và giải phóng dân tộc khỏi chế độ thực dân kiểu mới mà Pháp muốn xây dựng ở Nam Bộ thông qua các chính quyền tự trị bù nhìn. Ở mục tiêu xã hội, các tác giả khi kể các câu chuyện về đời sống đô thị đều không chỉ dừng lại ở việc mô tả đời sống của xã hội đó với những số phận bất hạnh, những mối quan hệ phức tạp, sự suy đồi của đạo đức, sự vụn vỡ của ước mơ… mà họ tả nó với cảm hứng muốn thay đổi hiện trạng đó. Thiên Giang khi phóng tác Anh em nhà Karamazov thành truyện Giết cha đã nhấn mạnh vào vấn đề đạo đức. Cô Minh Đạt viết Cây kiềng vàng kể về một gia đình tan vỡ vì thú sắc dục của người cha và những mưu mô toan tính của các thành viên trong nhà cũng nhằm chuyển tải bài học đạo lí. Tác giả còn viết rõ dụng ý này trong phần lời cuối truyện. Kiêm Minh, Vĩnh Lộc, Hoàng Thu Đông, Cao Hữu Huấn… viết về các cô gái giang hồ đều mở ra cho họ một con đường thay đổi số phận hoặc được cứu rỗi linh hồn, viết về người trí thức trẻ mất lí tưởng đều vô tình hay hữu ý hé cho họ một tia hi vọng. Như vậy, đây cũng là một hàm nghĩa chiến đấu trên khía cạnh xã hội của các nhà văn, dù có khi họ không chủ đích điều đó. Hàm nghĩa chiến đấu này thực hiện bằng cách đánh vào trái tim nhiều hơn khối óc. Cụ thể là viết về yêu nước và cách mạng thì các tác giả có xu hướng khơi gợi nỗi buồn nhiều hơn vinh quang, mô tả sự khốc liệt của hiện tại nhiều hơn hướng về hạnh phúc trong tương lai. Điều này hoàn toàn trái ngược với văn học cách mạng hiện thực xã hội chủ nghĩa về sau. Bàn về xã hội, các nhà văn làm cho độc giả mủi lòng với các nhân vật hơn là phân tích động cơ của họ. 

Cấu trúc hàm nghĩa khách quan nói trên có mối quan hệ tương quan đối ứng với cấu trúc của nhóm xã hội mà tác giả của nó thuộc về, đó là nhóm trí thức trong xã hội đô thị chịu sự quản lí của thực dân trong thời kì bùng nổ thông tin chính trị. Sài Gòn vốn là một đô thị thuộc địa với mâu thuẫn giai cấp giữa tư bản và công nhân, giữa thực dân và bản xứ, mâu thuẫn giàu nghèo, vấn đề bần cùng hoá trong xã hội, vấn đề tội phạm… Tính chất thuộc địa này xét về mặt bản chất vẫn tồn tại đến giai đoạn 1945 - 1954, vì tuy có chính quyền của người Việt nhưng những chính quyền này suốt thời kì này không có quyền tự quyết. Điểm khác biệt của giai đoạn này so với giai đoạn trước là hoạt động đấu tranh chính trị diễn ra công khai hơn, quyết liệt hơn. Một trong những hoạt động đấu tranh đáng chú ý của giới báo chí thời này là phong trào Báo chí thống nhất (10.1946) quy tụ nhiều tờ báo thời đó đấu tranh cho sự thống nhất ba kì và ủng hộ chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Phong trào này bị chính quyền Nam Kì dập tắt năm 1947 bằng việc đóng cửa hàng loạt tờ báo, bắt bớ các nhà báo như Phan Văn Thiết, Vũ Tùng, Dương Tử Giang, Thiếu Sơn, thậm chí ám sát các nhà báo Nam Quốc Cang, Đinh Xuân Tiếu (1950).

Tóm lại, nhìn từ đặc trưng của báo chí, tác phẩm truyện đăng trên báo chí Sài Gòn giai đoạn 1945 - 1954 vừa mang đặc điểm chung của văn học hiện đại, vừa mang nét riêng của hoạt động kinh doanh thông tin. Trong giai đoạn lịch sử đặc biệt này, truyện đăng báo thể hiện tính chất xã hội rõ nét và đóng góp trực tiếp vào những hoạt động chính trị, xã hội đương thời.
N.T.P.T
----------

1. Trần Nhật Vy (2016), “Feuilleton - hàng độc của báo chí quốc ngữ thời xưa”, Tuổi Trẻ Online, http://tuoitre.vn/feuillton-hang-doc-cua-bao-chi-quoc-ngu-thoi-xua-1209955.htm
2. Tam Nhơn (1952), “Phú Đức - tiểu thuyết gia bổn cũ soạn lại”, Đời mới, số 1 (12-4-1952), tr. 54-55.
3. Đời mới, số 81, tr. 18-19, 30.
4. Thẩm Thệ Hà, “Xã hội Việt Nam có văn chương xã hội và văn chương tranh đấu chưa?”, Việt bút số 23.
5. Thiên Giang, “Vấn đề khách quan trong tư tưởng”, Tiếng chuông, số 22.
6. Dương Tử Giang (1949), “Tin văn”, Thế giới, số 5 (19-11-1949), tr. 2, 34.
7. Trần Văn Khê (1949), “Nhiệm vụ của một nhạc sĩ trong xã hội”, Việt báo, số 3 và 4 (29-5-1949), tr. 4-5.
8. Tô Duyên (1953), “Văn nghệ phụng sự”, Đời mới số 74 (27-8-1953), tr. 16-17, 32.
9. Thanh Lương (1953), “Văn nghệ sĩ, những tên nô lệ của thời cuộc?”, Đời mới, số 60 (23-5-1953), tr. 23.
10. Trọng Yêm (1953), “Lấy mắt người Việt xét việc xã hội: thời này là của Phú Đức, Nam Đình chăng?”, Đời mới, số 53 (4-4-1953), tr. 8, số 54 (11-4-1953), tr. 8.
11. Không rõ đăng trên báo nào, vì nó được tóm tắt lại trong bài phản biện của Phương Tiện Đạo Nhân.
12. Phương Tiện Đạo Nhân (1953), “Trả lời câu hỏi của Hồ Hữu Tường - Con thằn lằn đã chọn nghiệp”, Nhân loại, số 20 ngày 4-1-1953, tr. 10-11.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 29.6.2018.

(Báo cáo đề dẫn Hội thảo “Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp”)

                                Đoàn Lê Giang*

Hôm nay 30 tháng 10 năm 2017, ở Thành phố Quảng Ngãi các vị khách quý trong tỉnh nhà, các học giả từ Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh và nhiều tỉnh thành trong cả nước tụ hội về đây tham dự Hội thảo Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp, để trình bày những nghiên cứu mới nhất của mình, thảo luận về những đóng góp vào sự nghiệp văn hoá, văn học, báo chí nước nhà của một trong những gương mặt trí thức tiêu biểu của tỉnh Quảng Ngãi, cũng là của nước ta 70 năm từ đầu thế kỷ XX: nhà văn, nhà thơ, nhà báo Nguyễn Vỹ.

Ban Tổ chức Hội thảo đã nhận được tất cả 36 tham luận của 35 nhà nghiên cứu, trong đó có: 29 nhà nghiên cứu ngoài tỉnh; 06 nhà nghiên cứu trong tỉnh và 9 người có báo cáo là thân nhân gia đình Nguyễn Vỹ. Điều ấy cho thấy tình cảm và sự đánh giá rất cao của giới nghiên cứu, phê bình văn học dành cho Nguyễn Vỹ. Các tham luận tập trung vào các vấn đề sau đây.   

1. Tiểu sử - cuộc đời làm báo của Nguyễn Vỹ

Nguyễn Vỹ sinh năm 1910 tại làng Tân Hội (sau đó đổi thành Tân Phong, sau 1945 đổi là Phổ Phong), huyện Đức Phổ tỉnh Quảng Ngãi, trong trong một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm ở huyện Đức Phổ tỉnh Quãng Ngãi. Thân phụ ông là Nguyễn Thuyên từng làm quan ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định, nhưng sau từ chức để tham gia phong trào cần vương chống Pháp.

Bản thân Nguyễn Vỹ cũng là một học sinh yêu nước, có tinh thần chống Pháp. Khi còn là học sinh trung học ở trường Quốc học Quy Nhơn (1924 – 1927), Nguyễn Vỹ đã tham gia phong trào chống thực dân nên bị đuổi học. Sau đó, ông ra Hà Nội tiếp tục học ban Tú tài.

Trong cuộc đời làm văn, làm báo của mình, Nguyễn Vỹ hai lần bị bỏ tù: một lần bị tù thực dân Pháp, một lần bị tù phát-xít Nhật. Năm 1937, ông viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp đăng trên tờ Le Cygne (Bạch Nga, song ngữ Pháp-Việt, do ông sáng lập), nên tờ báo bị rút giấy phép vĩnh viễn, còn bản thân ông bị tòa án thực dân kết tội “phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia”, bị tuyên phạt 6 tháng tù giam và 3.000 quan tiền. Năm 1939, khi quân Nhật vào chiếm đóng Đông Dương, quân Pháp đầu hàng, Nguyễn Vỹ viết 2 quyển sách cảnh báo về nguy cơ của phát-xít Nhật: Kẻ thù là Nhật Bản (H. E'dition Jeunesse; Impr. Văn Lâm, “Thanh niên tùng thư”, 1939. - 62tr.); Cái họa Nhật Bản (E'dition Bảo Ngọc, “Thanh niên tùng thư”, 1939), nên hiến binh Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê cho đến 1945 mới được thả.

Nguyễn Vỹ cũng là nhà văn có khuynh hướng dân chủ, ông lập toá báo, viết báo bênh vực người nghèo, công kích nhà cầm quyền đương thời. Các tờ báo Tổ Quốc số đầu tiên xuất bản vào năm 1946,  tờ Dân chủ xuất bản ở Đà Lạt sau đó, tờ Dân ta (1952), sau này là Phổ thông bán nguyệt san (1958), tuần báo Bông lúa…đều thể hiện khuynh hướng đó.

Ngày 04 tháng 02 năm 1971, ông qua đời bởi tai nạn giao thông trên đường đi từ Tân An về Sài Gòn, thọ 61 tuổi. Ngoài tên gọi thường gặp là Nguyễn Vỹ, ông còn có nhiều bút danh khác như: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền. Với khoảng 40 năm hoạt động báo chí, văn học, ông để để lại một sự nghiệp đồ sộ, chỉ riêng về sách, ông đã xuất bản trên 20 đầu sách gồm nhiều thể loại: thơ, ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, biên khảo, nghị luận.

      Thơ:

  1. Tập thơ đầu - Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934
  2. Hoang vu (thơ), Phổ thông xuất bản, Sàigòn 1962.
  3. Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970
  4. Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970.
  5. Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971.

Truyện ngắn, tiểu thuyết, ký:

  1. Đứa con hoang, tiểu thuyết, Minh Phương xuất bản, Hà Nội, 1936 (?), 1938, 180 tr.
  2. Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn), Đông Tây xuất bản, Hà Nội, 1937
  3. Người yêu của hoàng thượng, tiểu thuyết, Minh Phương xuất bản, 1938.
  4. Thi sĩ Kỳ Phong, tiểu thuyết, 1938
  5. Chiếc bóng, tiểu thuyết, Cộng lực xuất bản, Hà Nội 1941
  6. Những cô gái hư, Impr. Đời mới, HN, 1941, 141tr
  7. Hận Hoàng Giang, tiểu thuyết, Impr. Quốc Gia, HN, 1942, 26tr
  8. Mười hòn đá, Impr. Quốc gia, HN, 1943, 26tr
  9. Chiếc áo cưới mầu hồng , tiểu thuyết, Dân Ta xuất bản, Sàigòn, 1957 , 187 tr
  10. Giây bí rợ, tiểu thuyết, Dân Ta xuất bản, Sàigòn 1957, 230 tr (đã có)
  11. Hai thiêng liêng I,  “Tình yêu và Tổ quốc: hai thiêng liêng”, 246 tr. Hai thiêng liêng II, tiểu thuyết, Dân Ta xuất bản, Sàigòn, 1957, in lần đầu trên nhật báo Dân ta từ tháng 5 đến tháng 11/ 1953 (Lời giới thiệu)
  12. Mồ hôi nước mắt, tiểu thuyết, Sống Mới xuất bản, Sàigòn 1965.
  13. Tuấn, chàng trai nước Việt I, tác giả xuất bản. Tuấn, chàng trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Triêu Dương xuất bản, Sàigòn, 1970.
  14. Văn thi sĩ tiền chiến, (chứng dẫn của một thời đại), Nxb Khai Trí, Sàigòn, 1970, 528 tr.

Văn nghị luận, biên khảo:

  1. Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), (Thanh niên tùng thư), H. : Impr. Văn Lâm, E'dition Jeunesse, Hà Nội, 1939
  2. Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), (Thanh niên tùng thư), E'dition Bảo Ngọc xuất bản, Hà Nội, 1939.
  3. Đứng trước thảm kịch Việt Pháp - Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt, 1947.
  4. Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt, 1948.
  5. Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970.

Sau 1975 nhiều sách của ông đã được tái bản. Không kể thơ ông được tái bản trong các tuyển tập, thì có 2 quyển sách được tái bản và được yêu thích là:

Tuấn - chàng trai nước Việt,  NXB.Văn học, HN, 2006. Năm sau lại được tái bản, NXB. Văn học, 2007; 4 năm sau lại được NXB. Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh tái bản 2011;

Cuốn Văn thi sĩ tiền chiến được  NXB.Hội nhà văn tái bản lần đầu tiên vào năm 1994, NXB. Văn học tái bản 2007.

Năm 2003 tác phẩm của Nguyễn Vỹ cũng được NXB Văn học xuất bản trong tùng thư văn học có tính chất tinh tuyển, đó là bộ: Văn học Việt Nam thế kỷ XX : Tiểu thuyết trước năm 1945, Mai Quốc Liên, Chu Giang, Nguyễn Cừ sưu tầm, biên soạn. Quyển 1, tập 7, bao gồm các nhà văn: Nguyễn Công Hoan, Nguyễn Triệu Luật, Nguyễn Vỹ.

Những vấn đề về cuộc đời, sự nghiệp văn học và báo chí của Nguyễn Vỹ được trình bày trong các tham luận của: PGS.TS. Nguyễn Công Lý: Vài ấn tượng về Nguyễn Vỹ và “Phổ thông bán nguyệt san”; TS. Trần Hoài Anh: Nguyễn Vỹ nhà báo với ý thức dấn thân trong cái nhìn của các nhà nghiên cứu ở miền Nam 1954-1975; Nhà nghiên cứu Thiện Mỹ: Quê hương – gia đình và nhân cách Nguyễn Vỹ qua tư liệu ở miền Nam trước 1975; PGS.TS. Nguyễn Phong Nam: Dấu ấn Nguyễn Vỹ trong lịch sử văn học Việt Nam; Nhà nghiên cứu Vu Gia: Người cố gắng làm mới nền văn học chữ quốc ngữ; Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân: Câu chuyện dựa vào hồi ức Nguyễn Vỹ để tìm dấu vết hoạt động báo chí của Phan Khôi, TS. Mai Bá Ấn: Nguyễn Vỹ: tầm – tâm – tài và tình của người làm báo; TS. Trần Hoàng: Nguyễn Vỹ, văn chính luận; Nhà nghiên cứu Trần Ngọc Trác: Đà Lạt và Nguyễn Vỹ; ThS. Bùi Văn Quảng: Nhà báo Nguyễn Vỹ với tuần báo "Thằng Bờm" ; ThS.Võ Quốc Việt: Những gợi ý từ bài viết “Văn chương và tư tưởng Việt Nam” của Nguyễn Vỹ trên “Phổ thông tạp chí”.

II. Nguyễn Vỹ, nhà thơ

            Các tham luận tập trung nghiên cứu về sự nghiệp thơ ca của Nguyễn Vỹ: kiểm kê lại các tác phẩm thơ của ông, giá trị nội dung nghệ thuật, cá tính sáng tạo, đặc điểm thi pháp trong thơ ông.

PGS.TS. Nguyễn Thành Thi với tham luận: Người thơ Nguyễn Vỹ qua những bài thơ đậm sắc thái chính luận; TS. Lê Nhật Ký: Thử mở rộng giá trị thơ Nguyễn Vỹ, TS. Cao Thị Hồng: Thân phận con người trong thơ Nguyễn Vỹ; TS. Nguyễn Đình Thu: Thực và mộng trong thơ Nguyễn Vỹ; Nguyễn Công Đức: Ẩn dụ ý niệm trong thơ Nguyễn Vỹ, thông qua từng thể tài, từng khía cảnh, tìm hiểu những cảm hứng, giá trị và cá tính sáng tạo trong thơ Nguyễn Vỹ.

Một trong những cách tân quan trọng về thơ của Nguyễn Vỹ là chú ý đến hình thức sắp đặt bài thơ: bài thì ziczac, bài thì hình thoi, bài thì bậc thang…điều mà sau này người ta gọi là “Thơ thị giác”. Thơ thị giác khá phát triển gần đây, được coi là một trong những cách tân quan trọng của thơ ca đương đại. Nhưng ít ai ngờ là người đưa thơ thị giác theo kiểu phương Tây vào Việt Nam là Nguyễn Vỹ với trường phái thơ Bạch Nga. Các tham luận của Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, PGS.TS. Võ Văn Nhơn và TS. Thái Phan Vàng Anh đều tập trung vào vấn đề này (lần lượt là các tham luận: Nguyễn Vỹ làm thơ thị giác, Thơ thị giác của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Vỹ và vai trò cách tân thơ tiếng Việt hiện đại).

Đã là thơ thì phải là thơ hay. Nói đến Nguyễn Vỹ người ta nhớ ngay đến bài Sương rơi và bài thơ mà nhà phê bình Hoài Thanh gọi là “kiệt tác”: Gửi Trương Tửu:

Làm báo làm bung chán mớ đời!

Anh đi che tàn một lũ ngốc

Triết lý con cừu, văn chương cóc!

Còn tôi bưng thúng theo đàn bà,

Ra chợ bán văn ngày tháng qua!

Cho nên tôi buồn không biết mấy!

Ðời còn nhố nhăng, ta chịu vậy!

Ngồi buồn lấy rượu uống say sưa,

Bực chí, thành say mấy cũng vừa.

Mẹ cha cái kiếp làm thi sĩ!

Chơi nước cờ cao gặp vận bĩ

Rồi đâm ra điên, đâm vẩn vơ,

Rốt cuộc chỉ còn… mộng với mơ!

Trong các tham luận, bài viết của nhà phê bình Nhật Chiêu: Ánh sáng và bóng tối trong “Đêm trinh” của Nguyễn Vỹ cố gắng phát hiện ra một kiệt tác mới trong thơ Nguyễn Vỹ là bài Đêm trinh, một bài thơ sâu thẳm, huyền bí, trau chuốt và sang trọng kỳ lạ của Nguyễn Vỹ:

                     Đêm nay tôi không muốn ngồi gục bên đỉnh trầm

                                       Nghe rượu cười trong ly,

                                Nhạc quay cuồng trong khói,

                                       Thời gian đọng trên mi.

                                Tôi muốn về bên giếng tối,

                                       Khu vườn âm u,

                                Quê hương hoang vu.

                                       Không một dấu vết.

                                          (…)

            Thơ Nguyễn Vỹ người khen thì khen đến tận mây xanh mà chê thì chê đến tận cùng. Thực sự thì trong mấy chục năm qua, giới phê bình đã đánh giá về thơ Nguyễn Vỹ thế nào? Các ý kiến ấy có thể có giá trị tham khảo gì cho chúng ta ngày nay không? Các tham luận Người đương thời thơ mới bàn về thơ Nguyễn Vỹ của PGS.TS. Nguyễn Hữu Sơn, Có lẽ chúng ta đã hiểu lầm Hoài Thanh của PGS.TS. Đào Ngọc Chương; Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của  phê bình văn học ở miền Nam 1954 – 1975 của TS.Trần Hoài Anh đi theo hướng nghiên cứu đó.

III. Nguyễn Vỹ, nhà văn 

Sự nghiệp Nguyễn Vỹ để lại quan trọng nhất là thơ hay văn? Thơ Nguyễn Vỹ có những cách tân đi trước thời đại, tạo thành một dòng; thơ ông có những bài được liệt vào hàng “kiệt tác”, thế còn văn? Văn của ông để lại có đủ cả bộ ba quan trọng của văn xuôi nghệ thuật: ký, truyện ngắn, tiểu thuyết. 

Tham luận của TS. Lê Hương Thủy: Sáng tác của Nguyễn Vỹ, nhìn từ tiểu thuyết đi vào khảo sát nhiều cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Vỹ với mong muốn tìm ra giá trị và đặc điểm tiểu thuyết của ông. Nhưng có lẽ chỉ có Tuấn, chàng trai nước Việt là tác phẩm còn đọng lại qua thời gian. Có thể coi đây là tiểu thuyết tự truyện trường thiên có giá trị nhất của văn học Việt Nam thế kỷ XX. Giới phê bình từng đánh giá rất cao Thời thơ ấu của Nguyên Hồng, Cát bụi chân ai của Tô Hoài, với tư cách là tiểu thuyết tự truyện, thế thì không thể không nhìn nhận đúng mức giá trị của Tuấn, chàng  trai nước Việt của Nguyễn Vỹ, cuốn tiểu thuyết ghi lại một cách trung thực những năm tháng chuyển mình của đất nước ta trên con đường hiện đại hoá, những tháng ngày đói khổ cùng cực trong chiến tranh khốc liệt, qua sự trải nghiệm của một chàng trai nước Việt đầy nhiệt huyết, thiết tha yêu nước, dám hy sinh, và cũng không hiếm lúc hoang mang, lầm đường… Nhiều tham luận trong hội thảo đã tập trung trình bày về giá trị tác phẩm này như: Nguyễn Vỹ, người trí thức nước Việt của TS. Đỗ Hải Ninh; “Tuấn, chàng trai nước Việt” – biên ký lịch sử văn hóa Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX của TS. Nguyễn Diên Xướng; Vỹ - chàng chai xứ Quảng, TS. Trần Tuấn.

Cùng với Tuấn, chàng trai nước Việt là tác phẩm Văn thi sĩ tiền chiến. Tác phẩm này không phải là phê bình, nghiên cứu văn học, cũng không phải hồi ký, mà có thể nói đó là bút ký chân dung văn học: các nhà văn, nhà thơ nửa đầu thế kỷ XX qua con mắt với trải nghiệm trực tiếp của Nguyễn Vỹ. Tính xác thực, sinh động bằng trải nghiệm thực tế, tính sâu sắc bởi con mắt tinh đời của người viết, tính chất tinh tế của một trái tim nghệ sĩ đã tạo nên giá trị của tác phẩm này. Phân tích, đánh giá giá trị của nó trong hội thảo này, chúng ta có thể thấy qua các tham luận của các nhà nghiên cứu: PGS.TS. Nguyễn Thị Thanh Xuân với Nguyễn Vỹ và “Văn thi sĩ tiền chiến”, PGS.TS. Văn Giá: Đọc lại “Văn thi sĩ tiền chiến” của Nguyễn Vỹ, TS. Lê Thị Hường: Chân dung Nguyễn Vỹ nhìn từ hồi kí Văn thi sĩ thiền chiến, ThS. Phạm Tuấn Vũ: Văn thi sĩ tiền chiến – tác phẩm giá trị của Nguyễn Vỹ.

V. Những vấn đề đặt ra từ hội thảo

Từ các tham luận này chúng tôi thấy còn có nhiều vấn đề đặt ra mong muốn các nhà nghiên cứu làm rõ:

  1. Cần phải xác lập một tiểu sử đầy đủ, chính xác về cuộc đời Nguyễn Vỹ, đồng thời tìm hiều thêm về tư tưởng, tình cảm, cung cấp thêm các chi tiết về cá tính, phong cách của ông, để ông có thể hiện lên rõ ràng hơn đối với hậu thế. Ngay như năm sinh của ông cũng không thống nhất: ông sinh năm 1910 như Văn Thi sĩ tiền chiến (tr.6), Từ điển văn học (bộ mới) viết, hay 1912 như một số tài liệu khác?
  2. Sưu tầm, ghi chép chính xác các tác phẩm của ông. Sự nghiệp văn học và báo chí của ông hiện còn những gì, bao nhiêu cuốn, xuất bản lần đầu năm nào, tái bản bao nhiêu lần? Hiện nay do cái nạn “tam sao thất bản”, các tài liệu, ngay cả từ điển cũng ghi không thống nhất về tên thể loại, tên nhà xuất bản, nhà in, nơi xuất bản, năm xuất bản/ tái bản, số trang…
  3. Tìm hiểu giá trị, đặc điểm, thi pháp thơ, văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Vỹ. Đánh giá những đóng góp của Nguyễn Vỹ đối với nền văn học và báo chí nước nhà. Từ đó định vị Nguyễn Vỹ trên tiến trình phát triển của văn học dân tộc;
  4. Thảo luận về những cách thức đưa các giá trị của sự nghiệp văn học của Nguyễn Vũ đối với hậu thế: xuất bản tuyển tập, sách nghiên cứu phê bình về Nguyễn Vỹ, đưa Nguyễn Vỹ vào giáo trình đại học, sách giáo khoa ngữ văn phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa về chương trình địa phương…
  5. Thảo luận về mức độ cần thiết vinh danh Nguyễn Vỹ như một trí thức, văn nhân ưu tú của Quảng Ngãi: lập nhà lưu niệm Nguyễn Vỹ, đặt tên đường Nguyễn Vỹ ở TP.Quảng Ngãi như Đà Nẵng đã làm để tôn vinh Bùi Giáng, Lê Đình Kỵ…, như tỉnh Quảng Ngãi đã từng làm để tôn vinh Bích Khê mới đây.

Lời kết

            Nguyễn Vỹ là một nhà báo, nhà thơ, nhà văn… một gương mặt trí thức tiêu biểu của nước ta từ thập niên 1930 đến 1970. Cuộc đời của ông không dài nhưng sự nghiệp ông để lại hết sức phong phú, đa dạng. Hội thảo Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp có nhiệm vụ đánh giá những giá trị mà Nguyễn Vỹ để lại: những gì là giá trị đương thời, những gì là giá trị vượt thời gian, những gì là tích cực, đáng được vinh danh, những gì là những hạn chế do hoàn cảnh lịch sử cần thông cảm... Chúng ta hy vọng thông qua Hội thảo này mà sự nghiệp của Nguyễn Vỹ được đánh giá đúng mức, tác phẩm của ông được định vị  trong lịch sử văn học dân tộc, tên tuổi ông được vinh danh ở ngay quê nhà, nối tiếp truyền thống Núi Ấn Sông Trà với những danh nhân văn học: Trương Đăng Quế, Lê Trung Đình, Tế Hanh, Bích Khê...  

Chú thích

  1. Hội thảo “Nguyễn Vỹ - cuộc đời và sự nghiệp” do Hội Văn học nghệ thuật Quảng Ngãi và Trường Đại học KHXH & NV- ĐHQG TP.HCM tổ chức ngày 30 tháng 10 năm 2017 tại TP. Quảng Ngãi.

Nguồn: Tạp chí khoa học Đại học Sài Gòn, số chuyên đề Bình luận văn học, niên san 2017, số 34 (59) tháng 12/ 2018.

 


* PGS,TS. – Trường Đại học KHXH và NV – ĐHQG TP.HCM. 

Xuyên qua thời gian thế kỷ, những mong đợi, gửi gắm, dặn dò còn đó trong trang viết của cha ông. Chúng ta có lãng quên chăng, trong nhịp đời
hối hả, trong cái lầm lũi của kiếp đời an phận?

Đầu hè năm nay, trong cái nóng bỏng của thời tiết và thời sự, TS Nguyễn Đức Mậu, người được giới nghiên cứu xem là một trong những chuyên gia về ca trù, nói chung và hát nói nói riêng, trình làng "Tuyển tập Hát nói" (NXB Đại học Vinh ấn hành) với 407 bài hát nói, một con số có thể nói là nhiều nhất từ trước đến nay.

Di sản rất đáng chú ý

Tiếp xúc với một bức tranh phong phú về văn bản trong tuyển tập này, tôi ngạc nhiên nhận ra: Hát nói không dừng lại ở cái phong vị nhuốm mùi dục lạc, ngông nghênh, hát nói còn tràn đầy hào khí; hát nói không ngưng kết ở nửa đầu thế kỷ XX mà còn lan đến cuối thế kỷ XX; chủ yếu là không gian của tiếng nói nam quyền, hát nói cũng có tác giả nữ (bà Nhàn Khanh). Quả thật, nếu đúng như Nguyễn Đức Mậu khẳng định ngay câu đầu tiên của bài nghiên cứu công phu "Hát nói, thời điểm hình thành và quá trình phát triển" (tr.7-42): "Hát nói là thể loại thơ ngắn duy nhất mà lịch sử văn học Việt Nam sáng tạo được" (tr.7) thì đây là một di sản rất đáng chú ý.

Với phần văn tuyển, Nguyễn Đức Mậu đã luôn xác định thời điểm ra đời, xác định văn bản và tác giả, luôn dẫn nguồn và đưa nhiều chú thích tỉ mỉ, bổ sung nhiều văn bản tồn nghi và khuyết danh. Trong nghiên cứu, khi đưa ra nhận định, ông luôn chọn cách nói thận trọng, không xác quyết. Có thể thấy phần viết công phu và có nhiều cảm hứng nhất là về Nguyễn Công Trứ.

Từ những khảo chứng và diễn giải (trên góc độ lịch đại và đồng đại) của Nguyễn Đức Mậu và từ sự phong phú độc đáo của thể loại hát nói, người đọc thấy nơi mình có nhiều câu hỏi nảy sinh: Sau ca dao, dân ca, hát nói là thể loại văn học kết hợp trong lòng nó chất văn (chữ), chất ca (âm) và chất nói (lời), vậy có thể dùng những kiến thức lý thuyết và lịch sử để cắt nghĩa sâu hiện tượng này, từ đó phát hiện vẻ đẹp riêng của thể loại và tinh thần cũng như xu hướng sáng tạo của văn học dân tộc? Phải chăng cùng gần nhau ở nguyên tắc kết hợp (lời và âm) nhưng hát nói khác ca dao, dân ca không gian diễn xướng? Có thể cho rằng từ ca dao, dân ca đến hát nói là quãng đường đi từ làng mạc tĩnh lặng đến thị tứ nhộn nhịp không? Hát nói phải chăng là sản phẩm của tầng lớp thị dân? Tính đô thị của hát nói được biểu hiện như thế nào? Khi cho rằng hát nói "đã đạt đến độ điển phạm", vậy tính điển phạm của hát nói là gì? Vì sao Nguyễn Công Trứ là người đánh dấu bước hoàn thiện cuối cùng cho thể loại này? Vì sao thế kỷ XX, một số bài hát nói tràn đầy từ Hán Việt (trường hợp Ưng Bình Thúc Giạ Thị); chất đời sống đi vào hát nói (trường hợp Nguyễn Văn Bình) có thể phân tích thế nào? Tiêu đề "Hát nói từ nửa cuối thế kỷ XIX đến Tản Đà" liệu có bao quát hết những hiện tượng hát nói sau đó với những tên tuổi hoạt động trên các lĩnh vực khác nhau như: Bùi Kỷ, Á Nam Trần Tuấn Khải, Trần Huy Liệu, Nguyễn Tuân, Xuân Thủy, Vũ Hoàng Chương, Nguyễn Tài Cẩn… không? Những khái niệm chuyên biệt của thể loại không thật dễ hiểu với người đọc (điệu hà nam, điệu nói sử, hát giặm…) phải chăng nên chú thích?...

Bìa sách "Tuyển tập Hát nói"

Tiếng lòng của ông cha

Chảy mải miết qua hàng ngàn năm lịch sử của người Việt, dòng sông văn học Việt Nam luôn chao giữa hai bờ thực - mộng, và quả thật, do nhu cầu xã hội, dòng sông đã ngả vào bờ thực nhiều hơn. Hát nói, một thể loại của "thú ăn chơi", cũng không đành lòng thờ ơ khi nước non cất tiếng kêu trầm thống. Đọc những bài hát nói của Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, chúng ta tưởng như hai nhà chí sĩ ấy đang có mặt cùng chúng ta hôm nay cảnh báo về hiện trạng xã hội, khẩn thiết kêu gọi sự thức tỉnh của lương tri dân tộc và khẳng định vai trò quan trọng của cơ quan ngôn luận.

Trong bài thơ "Vịnh Tết", Phan Bội Châu gửi lời nhắn nhủ: "… Thưa các anh, các chị, các ngài! Đáng khóc hay đáng cười xem thử thử! Ai là chủ? Ai là thầy? Ai là tớ? Non sông này mang mãi lốt cu ly! Sống không sống có vui gì? Trông thấy bạn thanh niên mà sống rốn! Cờ tính xong, bàn tay nên đủ ngón. Thuyền chèo giữa sóng gấp đều tay, No mà chi! Ấm mà chi! Sung sướng cũng mà chi! Trường đời dại dắt nhau đi rạc rạc. Ma vật chất chém cha tuồng quái nghiệt. Khua tinh thần mà đánh chết chúng ngươi! Có gan trời cũng thua người…" (tr.317).

Đêm, lặng nghe tiếng muỗi vo ve, nhà thơ cũng bất giác ngỏ lời khuyên nhủ: Hãy đừng "hút máu nhân dân", để rồi được muỗi trả lời: "Chúng tôi là vật vô tri. Hễ mình no bụng sá gì đến ai! Kìa thử hỏi loài người ta đó, Lũ tham quan nào có thương ai! Chỉ đi bóc lột của người, Làm nên giàu có một đời sướng thân. Nào có tưởng đến dân đói khổ, Tiếng chê cười gác bỏ ngoài tai! Huống chi khác giống khác nòi!... (Phan Bội Châu, "Nói chuyện với muỗi" - tr. 320).

Mừng Báo Tiếng Dân kỷ niệm 2 năm thành lập, Phan Bội Châu nói lên ý nghĩa của báo chí với sự sống còn của công luận: "Dế hót đêm đông tan giá đất, Cóc kêu ngày hạ động mưa trời. Lũ con đen đau khổ há câm hoài? Nhuốm giọt mắt vẽ bày trên báo chí (…) May nhờ có báo chương thay miệng lưỡi (…) Miệng lưỡi còn, tính mạng chắc đương còn. Mấy lời dặn bể thề non, Vợ chồng ôm ấp lấy con báu này. Nghìn thu cơ sở từ đây. (Phan Bội Châu, "Kỷ niệm đệ nhị chu niên Báo Tiếng Dân" - tr.322).

Xuyên qua thời gian thế kỷ, những mong đợi, gửi gắm, dặn dò còn đó trong trang viết của cha ông. Chúng ta có lãng quên chăng, trong nhịp đời hối hả, trong cái lầm lũi của kiếp đời an phận? 

Trách nhiệm của người làm sách giáo khoa

Lần giở từng trang sách, người đọc như tôi bồi hồi nhớ lại thời trung học cách nay những nửa thế kỷ. Vốn không phải là người mê hát nói, vậy mà không hiểu sao ký ức trẻ thơ vẫn cứ lưu như in những dòng thơ của Nguyễn Công Trứ ("Vịnh nhàn", "Chơi là lãi", "Thoát vòng danh lợi", "Chí khí anh hùng", "Nợ tang bồng", "Chí nam nhi", "Trên vì nước, dưới vì nhà"), Cao Bá Quát ("Nghĩ đời mà chán", "Tự tình"), Nguyễn Khuyến ("Mẹ Mốc", "Trở về vườn cũ", "Ông phỗng đá"), Trần Tán Bình ("Tặng cô đầu Trang") , Trần Tế Xương ("Tết dán câu đối", "Chú Mán"), Tản Đà ("Hơn nhau một chén rượu mời I", "Lại say", "Cánh bèo", "Đời đáng chán"). Thậm chí người đọc như còn nghe thấy giọng tụng ra rả của mình thuở ấy: "Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy/Cảnh phù du trong thấy cũng nực cười…". Tôi tự hỏi vì sao sách giáo khoa văn học ngày ấy lại có thể cung cấp cho học sinh nhiều tác phẩm đa dạng đến như vậy và làm họ nhớ hoài, nhớ mãi với một nỗi niềm rất lạ.

Từ tuyển tập này, những nhà làm sách giáo khoa (đang được nhà nước đầu tư kinh phí, đang được bao đôi mắt trẻ già nhìn vào mong đợi) sẽ chọn đưa vào chương trình những tác phẩm nào trong di sản hát nói, cũng như trong những di sản văn học khác của Việt Nam, để chúng có thể được lưu lại mãi mãi trong những tâm hồn non trẻ?

Nguyễn Thị Thanh Xuân

Nguồn: https://nld.com.vn/van-nghe/hat-noi-di-san-bi-lang-quen-20180618212046369.htm

Nguyễn Đình Thi trở thành nghệ sĩ đa tài là trường hợp đặc biệt thuận với lịch sử vận động trong tiến trình hiện đại của văn nghệ Việt Nam.

 Ông là điển hình cho số phận nhà văn Việt Nam mà tài năng được phát lộ, tỏa sáng viên mãn về nhiều phương diện trong thời tiết đặc thù của cách mạng Tháng Tám, và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, kéo dài suốt từ những năm 40 của TK XX, khi Nguyễn Đình Thi còn đầu xanh tuổi trẻ, cho đến ngày ông về cõi, năm 2003, đầu TK XXI.

  Sinh vào những năm 20 của TK XX, Nguyễn Đình Thi không trải qua hành trình triết học-mỹ học như  Chế Lan Viên từng nghiệm sinh “từ thung lũng đau thương đến cánh đồng vui”. “Ta là ai như ngọn bấc siêu hình/Cơn gió hư vô thổi nghìn nến tắt/Ta là ai khẽ xoay chiều ngọn bấc/Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh”. Ông đến với Cách mạng Tháng Tám bằng tấm tình trong trắng của một thanh niên “Tây học”, yêu nước như yêu tình đầu: “ Anh yêu em như anh yêu đất nước/ Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần”. Cuộc lột xác của ông theo kháng chiến cũng là một cuộc lột xác lãng mạn, dù cho “ rớm máu”

 Với những lý do lịch sử-thẩm mỹ đặc trưng ấy, đường văn nghệ của ông không ngẫu nhiên, khởi đi từ thơ tự do, mối tình đầu, và càng không tình cờ, khép lại ở thể loại kịch, như mối tình cuối.

Một: Tự do thơ từ ngọn nguồn triết học

 

 Từ góc nhìn triết học- mĩ học, tôi nghĩ ông đã đi từ mùa thu nghĩa hẹp (của riêng Hà Nội, với “sáng mát trong” như lòng ông trong sáng. Ngày mùa thu ấy ông không thể nào quên. Vào mùa thu cách mạng, vào tự do thơ của Nguyễn Đình Thi đã được triết học của ông dâng lên thành mã thi ca của riêng ông. Quên sao được “sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác hơi may/ Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy). Và dù ông đã lưu luyến để lại cả sáng mùa thu Hà Nội ấy sau lưng, khoác ba lô lên rừng theo kháng chiến chống Pháp, rồi sau đó cùng đoàn quân trùng trùng như nước về giải phóng thủ đô, tràn ngập 5 cửa ô màu xanh quân phục bộ đội cụ Hồ, màu thắm tươi cờ đỏ sao vàng, ông đã mê say  ăn ở cùng Hà Nội, “nơi lắng hồn núi sông” cho đến cuối TK XX, (ngoài đoạn chót, ông ở TP.HCM). Lúc sắp về cõi, thấm thía buồn, ông chạnh thấy mình chỉ còn gặp “Bóng mùa thu”. Mùa thu đầu đời quá xa xôi, đã mờ phai, như cánh chim bay mỏi về cuối trời, đã nhuốm màu tục lụy, nhiễm buồn hơn, bởi: “Tôi đã thấy mái tóc bạc/ Người ấy ngồi một mình giữa rừng/ Lặng im hút thuốc/ Nhặt chiếc lá rụng cầm lâu trên tay/ Dưới trời chói lòa tôi đã gặp/ Em bé cười chạy vào ngàn sóng thơm vàng/ Hôm nay dọc đường phố ồn ào đầy quảng cáo/ Bóng mùa thu bay trong cây/ Gió hỡi thổi đi những bụi bậm hủy hoại/ Đôi mắt buồn cô gái kia nhìn. (Viết năm 1994)

 Hình ảnh “Người ấy” trong thi phẩm này đã hiển thị đậm đặc tâm trạng chủ thể trữ tình Nguyễn Đình Thi, cả đời thơ đã chỉ muốn lui vào nội tâm, một mình cô đơn ngẫm nghĩ. Cả đời thơ chỉ muốn tự vạch đường, đi theo tự do thơ “riêng ra một lối”. Khôngchút tình cờ, người thanh niên thi sĩ Nguyễn Đình Thi đã nghĩ, đã cảm bằng tự do thơ-thơ tự do, với tất cả lòng tin triết học trinh bạch, trong vắt về khả năng diễn đạt tối ưu của thể thức thơ mới mẻ ấy, cho cái nghĩ, cái cảm của mình về cuộc đời, mà ngay từ những ngày trai trẻ, và trong trẻo nhất, số phận Nguyễn Đình Thi đã gắn chặt như định mệnh vào cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc.

Thử đặt mình vào trạng huống sáng tạo “độc trọi” của Nguyễn Đình Thi trên hai điểm nối kết mà tôi cho là quan trọng bậc nhất, đặng “tìm thấy” trong hai loại hình sáng tạo, mở đầu và kết thúc sự nghiệp sáng tác của ông: thơ tự do đầu đời và kịch cuối đời, nhằm lý giải, biện luận và đánh giá ông, tôi thấy Nguyễn Đình Thi đúng là một tài năng muôn mặt, xứng đáng là một trong mấy nhà văn hóa khai sáng văn nghệ cách mạng Việt Nam, ngay từ cuộc Kháng chiến chống Pháp, trên nền tảng “Tây học” chắc chắn, vững vàng của chính ông.

 Không hề tình cờ, Nguyễn Đình Thi rất mê triết học phương Tây,  và tư duy của ông mang rất đậm phẩm chất lý thuyết. Trước khi mặc khải cử chỉ tự do thơ, mê đắm điệu tâm hồn phóng túng ngang tàng, mang tình điệu thơ từ bên trong, không chịu gói mình trong câu thúc vần luật của các thể thơ cố điển: song thất lục bát, lục bát, ngũ ngôn, thất ngôn, Nguyễn Đình Thi đã khát khao gửi mình cho triết học.

Trong “Thi Nhân Việt Nam”[1], khi tìm cách gọi tên và lý giải hiện tượng Thơ Mới, là mới mẻ thực sự như sự hiện diện của một thời đại mới trong thi ca Việt Nam, Hoài Thanh “quyết rằng trong lịch sử thi ca Việt Nam chưa bao giờ người ta thấy xuất hiện cùng một lần một hồn thơ rộng mở như Thế Lữ, mơ màng như Lưu Trọng Lư, hùng tràng như Huy Thông, trong sáng như Nguyễn Nhược Pháp, ảo não như Huy Cận, quê mùa như Nguyễn Bính, kì dị như Chế Lan Viên… và thiết tha, rạo rực, băn khoăn như Xuân Diệu.” Cắt nghĩa trên tinh thần triết học, Hoài Thanh cho rằng, có sự xuất hiện cả một thế hệ thi sĩ cùng một lần với sự khác biệt, cách biệt đa dạng giữa những cá tính thơ, là do những cá tính ấy “bị kiềm chế trong bao nhiêu lâu bỗng chốc được giải phóng”. Sự giải phóng này, chắc chắn, “chỉ làm giàu cho thi ca”. Theo Hoài Thanh, nó là “sức mạnh súc tích từ mấy ngàn năm” đã được “tung bờ vỡ đê”, chỉ bởi “một điều rõ: ảnh hưởng phương Tây, hay đúng hơn, ảnh hưởng Pháp, cho dù “có chia đậm lạt khác nhau”. Tuy nhiên, khi minh định điều đó, chính Hoài Thanh cũng“cảm thấy khó chịu. Mỗi nhà thơ Việt hình như mang nặng trên đầu năm bảy nhà thơ Pháp”. Song, là một thiên tài Việt về bình luận Thơ mới, Hoài Thanh lại khẳng định: “Sự thật đâu có thế. Tiếng Việt, tiếng Pháp khác nhau xa. Hồn thơ Pháp hễ chuyển được vào thơ Việt là đã Việt hóa hoàn toàn”.

Nguyễn Đình Thi là kẻ hậu sinh, sinh sau những nhà thơ Mới hàng thế hệ. Ông không có diễm phúc ra đời trong dải Ngân Hà Thơ Mới, được   lấp lánh cùng một lượt với các vì sao “thơ mới”. Trên đầu ông cũng không mang  nặng ảnh hưởng của nhà thơ Pháp nào. Song chắc chắn, ông chịu ảnh hưởng của các nhà triết học Pháp[2], đủ để “tự giải phóng”, chứ không phải “được/bị giải phóng”, để tự thành lập một trầm tư triết học nội tâm sâu thẳm, trước khi ông òa đến với thơ tự do, như một chỉ định thi ca tất nhiên của số phận. Về căn bản, Nguyễn Đình Thi là số phận một thi nhân. Chính vì thế,  số phận này đã khiến cuộc chiếm lĩnh chữ nghĩa đầu tiên của ông, được chỉ định là thể thức thơ tự do. Và cũng vì thế, triết học về thơ tự do đã dẫn dắt ông căn bản vượt qua cuộc tranh luận rất gay gắt về thơ tự do của ông, trong đó nhiều phần là ý kiến phê phán kịch liệt thơ của ông trong chiến khu Việt Bắc[3]. ( 25-28.9.1949).

Nguyễn Đình Thi không quan trọng cái tên người ta gọi thơ ông là “thơ  tự do”, hay “thơ không vần”. Theo ông, vần điệu của thơ nằm trong tình điệu nội tâm thi sĩ, thuộc về giọng thầm bên trong, mang nhạc cảm nội tâm, hắt sáng từ tâm hồn thi sĩ, tuyệt nhiên không phải thứ niêm luật bên ngoài, với nhiều ràng buộc lễ lạt của hình thức. Nghĩ và làm thơ như thế, dĩ nhiên chủ thể thơ Nguyễn Đình Thi đã nỗ lực tự thiết kế công cuộc sáng tạo thơ của chính mình trên nền tảng triết học phương Tây, với nội lực nằm rất sâu trong bản thể phương Đông. Bình tĩnh lắng nghe, nhất là những ý kiến phê phán, Nguyễn Đình Thi công nhận sự sáng tạo nghệ thuật của ông, vì được thiết kế trên nền tảng lý luận, nên “cái tìm tòi” của ông cũng nhuốm đậm màu lý luận: Tôi hay lý luận. Cái tìm tòi của tôi cũng hay lý luận. Nhưng nói đến thơ, đó là cái thiết tha nhất của tôi, và cũng là cái tìm tòi rất khổ của tôi (tuy nó có cái vui của nó). Cảm giác tiếp theo của ông rất lạ (so với chính cái cuộc “phê bình” hồi bấy giờ), đó là cảm giác “rất áy náy”. Ông nói rõ hai lý do: Một là vì thơ ấy là thơ của tôi. Hai là thơ ấy là thơ tự do( dài, ngắn, vần, không vần, không quan hệ). Đáng lẽ thơ của tôi là thơ của tôi. Còn vấn đề thơ tự do thì rộng hơn thơ tôi nhiều. Rồi ông khéo léo tiếp, với sự minh triết rất Nguyễn Đình Thi: Vậy phải tách ra làm hai: trước hết, tôi tự phê bình thơ tôi. Sau xin bênh vực thơ tự do.

Về sự “tự phê bình thơ tôi”, cũng thật là tinh tế và rành rõ, theo cách của ông. Phản hồi ý kiến Xuân Diệu cho thơ ông “già”, Nguyễn Đình Thi nhận: Gần đúng. Vì thơ của tôi không phải những bài thơ vui. Đó là những bài thơ đau đớn. Lúc tôi làm nó, tôi cũng nghĩ rằng trong lúc này, có nên đưa ra cái đau đớn đó không? Có. Vì cuộc kháng chiến của ta có bao nhiêu cái đau đớn, những đau đớn chính đáng; miễn là cái đau thương ấy không phải cái đau thương đi xuống(…). Rất đau thương mà không nói. Đó là thái độ nội dung của tôi. Khi tôi nói cái đau thương của tôi ra, nó ẩn ở một chỗ rất kín.(Ví dụ trong bài Không nói: Môi em, đôi mắt còn ôm đây).

Nhưng nội dung ấy khách quan mà xét, thì nó không đúng với cuộc kháng chiến bây giờ, cái đau đớn của kháng chiến không giống cái đau đớn trong thơ tôi. Ở nhiều chỗ của kháng chiến, còn đau đớn hơn nhiều, nhưng cái đau đớn không như thế(…). Vì cái nội dung đã u uất rồi, cho nên khi nó thể hiện ra ngoài, nó cũng có vẻ khắc khổ gò bó. Trong khi tôi đi tìm một hình thức tự do, thì cái nội dung của tôi lại gò tôi lại. Tôi muốn có cái mộc mạc đơn sơ, thì trái lại nó lại cầu kỳ.

Tiếp thu phê bình, Nguyễn Đình Thi nhã nhặn nhận hai ý kiến. Ý kiến Xuân Diệu về  thơ ông: già, đau đớn, u uất về nội dung, sự khắc khổ gò bó về thể hiện. Ý kiến Xuân Thủy cho thơ ông “trúc trắc khó ngâm”, “đọc khó hiểu”. (…). “Trong thời kỳ này, cần phải phục vụ quần chúng, thì không nên dùng lối thơ mà quần chúng không hiểu. Nên phổ biến lối thơ dễ nhớ, mà quần chúng có thể cảm thông với thi sĩ được”.

Đồng ý với ý kiến của Xuân Thủy, Nguyễn Đình Thi “rất mừng vì có dịp để bộc lộ một thái độ minh bạch. Chỉ quan niệm không mà thôi, nhất định là không đủ. Phải được sống nhiều hơn, sống rộng rãi, vui, tin tưởng, khỏe lành. Không thể quay vào mình thôi mà tìm được.

Còn về “thơ tự do”, Nguyễn Đình Thi sau khi đã tiếp nhận phê bình theo lối độc đáo như thế, ông biểu đồng tình với ý kiến Xuân Thủy: “đó là một câu chuyện rộng rãi, vượt qua tôi nhiều. Khi tôi nói đến thơ tự do, xin hiểu cho là tôi nghĩ đến cái gì chung”. Và Nguyễn Đình Thi  trở nên đặc biệt sắc sảo, thuyết phục, khi bênh vực thơ tự do, trên một tinh thần triết học đổi mới. Ông khẳng định chắc thiệt: “Cái hình thức gọi là “thơ mới”nó sẽ cứ có, dù ngăn nó cũng không được.Vần hay không vần, câu dài hay câu ngắn, cái đó đã thường lắm rồi. Kháng chiến đã làm ra như thế. Những bài thơ hiện nay đã chứng tỏ điều này. Có vần là một lợi thế rất đắc lực cho sự truyền cảm. Nhưng không phải hết vần là hết thơ. Khi làm thơ, thái độ của người làm là ghi cho đúng cảm xúc. Nếu cảm xúc gặp được vần thì hay. Nhưng gặp khi nó gò bó, hãy vượt lên nó đã. Hình thức nghệ thuật (các luật bằng trắc) phải tự thân nó ra. Khi gạt luật bên ngoài đi, phải có luật bên trong rất mạnh. ( Người viết bài nhấn mạnh).

Rất sòng phẳng, Nguyễn Đình Thi tự thức, và cùng lúc, ông trả lời cả cho Xuân Diệu và cử toạ lúc bấy giờ: “Có thể có sự bỡ ngỡ đối với thơ không vần. Hồi “thơ mới”(1932) mới ra đời, người ta cũng bảo không hiểu. Thơ tôi bây giờ có gì là không hiểu?(…).Nếu trên đường cởi mở, có rất nhiều người làm thơ ấy, thì mới đầu có loạn thật, nhưng rồi cũng quen như thơ lục bát”.Vậy, Nguyễn Đình Thi vững tâm làm thơ “tự do”, là vì “ không thích những bài thơ nói ra tâm tình. Nó phải nói ra cảm xúc, cảm xúc là tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, tay sờ, cảm thế nào nói thế ấy.” Thơ hay, theo  minh định của ông, là “không kể lể tình cảm, chỉ nói cái sống ra bằng những hình ảnh, thành cảm xúc” và “có sợi dây nối liền những hình ảnh đó lại. Đó là một thứ dây lý luận rất khéo. Chính lối thơ nói “hình ảnh bằng cảm xúc” hoặc “cảm xúc bằng hình ảnh” này của ông đã mặc nhiên “chống hẳn lối thơ kể lể mười mấy năm trước đây”. Và ông rút ra kết tinh (thi pháp) quan trọng cho sáng tác thơ tự do theo cách riêng: “ Khi đã bỏ luật lệ rồi, đủ cảm xúc tự nhiên thì cứ nói, thành vần cũng được, không thì thôi. Nói như lời nói thường vậy(….). Nói như lời thường. Tôi mong đi tới những câu thơ như lời nói thường mà đến một độ cảm xúc mãnh liệt. Nếu cần nói một hơi dài, dùng những câu dài. Nếu hơi ngắn, nói ngắn. Những hình ảnh thơ mới bây giờ, tôi tưởng tượng nó cần phải khỏe, gân guốc, xù xì, chất phác,chung đúc, tự nhiên. Những bài thơ cũ, cùng một nhịp điệu đều đều, tôi không thể chịu được. Bài thơ chất phác kia tác động vào tâm hồn ta hơn(…). Rồi đây, tiến độ hơn nữa của tình cảm, thơ sẽ trở về cái hình thức đều hòa hơn(…). Người dùng những điệu đều đặn mà nói được nội dung mới phải là thiên tài. Hình thức cũ để tả nội dung cũ. Nội dung mới, tự  nó sẽ tìm đến hình thức mới.”

Điều khá lạ lùng nữa là lời kết cuộc tranh luận của Tố Hữu, một thi sĩ cách mạng “toàn phần”, một lãnh đạo văn nghệ cao nhất của kháng chiến chống Pháp trong chiến khu Việt Bắc. Có lẽ chịu tác động từ cách “tự phê” độc đáo, đầy tinh thần tranh biện triết học, cũng rất thành thật của Nguyễn Đình Thi, mà Tố Hữu thông cảm được “cái khổ tâm của người làm thơ”, thực chất là mối quan hệ biện chứng giữa nỗi đau đớn về tình cảm, đã dẫn đến nỗi “ khổ vì trí tuệ” trong thơ tự do của Nguyễn Đình Thi. Tố Hữu bày tỏ: “Làm thơ không phải do trí tuệ muốn, mà do sự sống bản thân của mình. Có những lúc tôi yêu thơ anh Thi, và cũng có lúc tôi thù ghét nó. Những lúc mà tôi buồn bực, nhọc mệt, có những lúc nhớ, tôi thích đọc thơ anh Thi. Tôi đọc những bài Sáng mát trong…Thơ là một điệu hồn, tìm đến với những hồn đồng điệu. Những lúc thấy cần làm việc, tôi thấy ghét thơ anh Thi ghê lắm vì tôi thù ghét cái cá nhân nó trở về với tôi. Rồi tôi lại dè chừng với tôi. Nhiều khi thấy bài thơ hay mà chưa chắc nó hay. Vậy lấy gì làm chuẩn cho cái hay…”. Thế mới thấy là khi “va chạm” với Nguyễn Đình Thi về lý luận thơ, chính cách thơ của Nguyễn Đình Thi đã khiến Tố Hữu lộ rõ sự mâu thuẫn trong  bản thân Tố Hữu, giữa con người thi nhân và con người chính trị, nhất là khi Tố Hữu ở vị trí lãnh đạo văn nghệ.

 Âu cũng là cách hiểu, cách đọc thơ của một thời, và điều đó chỉ minh chứng rằng, thơ tự do của Nguyễn Đình Thi là khởi đầu cho một cách thơ lãng mạng cách mạng, một cuộc đổi mới thơ ca, tuy khá đơn độc, song có tính chất ngang hàng với Thơ Mới, tất yếu hiện diện trong cuộc kháng chiến chống Pháp, mà Nguyễn Đình Thi là tiêu biểu Và vì thế, sau đó, thơ tự do đã trở thành hiện thực như “thơ mới”, không thể cưỡng chống.

Cưỡng chống làm sao, những câu thơ trong vắt tình yêu Hà Nội, một tình yêu đầy nhung nhớ, khắc khoải. Từ chiến khu Việt Bắc, năm 1948, Nguyễn Đình Thi nhớ Hà Nội, nhớ một sáng mát trong như sáng năm xưa/ Gió thổi mùa thu hương cốm mới/ Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em/ Gió thổi mùa thu vào Hà Nội/ Phố dài xao xác heo may/ Nắng soi ngõ vắng/ Thềm cũ lối ra đi/ Lá rụng đầy…Dù tên bài thơ này có thay đổi, sửa sang, thay tên gọi mới, được biên tập mới do Nguyễn Đình Thi (có thể vì lý do “tiếp thu phê bình”), nhưng với cái tên nào, sửa chữa thế nào, thì đó vẫn là những bài thơ và câu thơ lộng lẫy trong thể thức tự do, với vẻ đẹp đặc sắc chỉ có trong thi pháp Nguyễn Đình Thi.[4] (Thực ra, bài Sáng mát trong như sáng năm xưa, ngoài tên đầu tiên này, còn có tên Sáng mát trong, rồi mới mang tên Đất nước, đang phổ biến hiện nay trong các sách giáo khoa và giáo trình).

Không phải ngẫu nhiên, những bài thơ hay nhất  của Nguyễn Đình Thi là thơ tình, viết về tình yêu trong kháng chiến chống Pháp, và sau này, chống Mỹ. Nhân vật trữ tình Em láy đi láy lại trong thơ ông. Một người tình không chân dung, không tên, hoặc chỉ nằm trong một chữ cái viết tắt đề tặng  lặng lẽ, kín đáo đầu bài thơ, nhưng đã theo ông, ám ảnh ông suốt một đời thi sĩ, dù có thể không thực sự có mặt trong đời thường. Đó là một “mã thi ca” sáng chói nhất, ám ảnh nhất trong thế giới thơ buồn lắng sâu, thăm thẳm suy tư, lộng lẫy hình ảnh lạ về “một thời để yêu, một thời để chết” của riêng ông, trong thời thi sĩ trẻ trai, đã một lòng theo kháng chiến chống Pháp ngay từ những ngày đầu gian khổ.

 Không nói là bài thơ gần như đầu tay của Nguyễn Đình Thi, đúng nghĩa thơ tình, thể thức tự do, viết năm 1948, chứa đầy những khoảng im đa nghĩa trong ý thức kiệm chữ rất nhất quán với quan niệm riêng của Nguyễn Đình Thi về thơ tự do. Kể cả tên, bài thơ gồm 37 chữ, với ba khổ thơ, với  cố ý rất Nguyễn Đình Thi trong ngắt câu dài ngắn, nhịp điệu buông bỏ tự do, tiết tấu dùng dằng ngẹn ngào được nén thật chặt dưới đáy chữ thơ, biểu đạt một lần gặp thoáng chốc trên nẻo đường chiến tranh, rồi đôi người yêu vội vã chia ly. Và phía dưới cuộc chia ly, chữ thơ của Nguyễn Đình Thi đã ngậm một nghĩa chìm sâu: không bao giờ còn gặp lại. Ai biết trước điều gì sẽ xảy ra trong chiến tranh? Khi một lần gặp nhau, vội đến mức không nói được một lời: Dừng chân trong mưa bay/ Ướt đầm mái tóc/ Em em nhìn đi đâu/ Môi em đôi mắt/ Còn ôm đây/ Nhìn em nữa/ Phút giây/ Chiều mờ gió hút/ Em/ Bóng nhỏ/ Đường lầy. Trong tứ thơ “không nói”, cả bài thơ ngập trong chuyển động của những cử chỉ lặng im và lặng im. Người trai, chủ thể trữ tình, đã chỉ  có thể nhìn, thấy mái tóc ướt đầm, thấy môi, thấy đôi mắt, thấy mình còn ôm đây. Em em nhìn đi đâu. Trong bài thơ, cặp tình nhân thời chiến tranh không nhìn vào mắt nhau, có lẽ để đỡ đau đớn trong cuộc gặp đấy, mà cũng là chia ly ngay đấy. Nguyễn Đình Thi bảo con chữ độc nhất, nặng tình nhất, ngời sáng nhất, ngay cả với ông trong bài thơ ngắn này là chữ còn. Còn ôm đây, đang ôm em trong vòng tay mà biết sẽ phải buông tay biệt ly. Chỉ trong phút giây ngắn ngủi, cái đang còn, đồng hành với cái sắp mất. Ý nghĩa triết lí thật mạnh, về cái tình mong manh đến hư vô trong chiến tranh, khi cả hai “không nói”, vì chỉ gặp nhau trong một lát ngắn ngủi, chỉ nhìn, mà không cùng một hướng. Em em nhìn đi đâu. Còn anh chỉ nhìn em: môi, mắt…Nhìn lần nữa, một cái nhìn hoang hoải vô thường, để biết em phải đi, đi thật, xa hút, phút chốc chỉ còn thấp thoáng bóng nhỏ khuất dần trong chiều mờ, xiêu xiêu mưa, đường lầy, gió hút … Và mưa cứ bay từ đầu đến cuối bài thơ trong nỗi chia ly đau đớn đến không nói xuyên suốt bài thơ.

Đúng như thú nhận của Nguyễn Đình Thi, chùm thơ 3 bài đầu tay của ông đều buồn thẳm, hơi có vẻ lạc ra ngoài cuộc kháng chiến. Song, nếu nhìn từ triết học- thẩm mĩ, có thể thấy đây là những bài thơ tình phản đề lộng lẫy vẻ đẹp riêng của thơ tự do Nguyễn Đình Thi.  Nó xác tín vẻ đẹp trí tuệ thâm trầm riêng của thi sĩ - nhà văn hóa Nguyễn Đình Thi, người thực sự theo cách mạng và kháng chiến bằng toàn bộ ý thức triết học, cùng trái tim đa cảm của mình. Sau này, trong cuộc chiến chống Mỹ, Nguyễn Đình Thi lại có một cuộc gặp và chia tay thoáng chốc trong một bài thơ khác: Lá đỏ.

Có điều, chủ thể thơ không một mình, nhân vật trữ tình em của ông cũng không một mình. Người đi trong đoàn quân xanh màu lá, gặp em gái tiền phương trong rừng Trường Sơn, trên cao lộng gió, áo ào rụng đầy lá đỏ. Em đứng bên đường, thân mật như quê hương, vai áo bạc, quàng súng trường. Đoàn quân vẫn đi vội vã, chào vội vã em gái tiền phương, hẹn gặp nhé, trong thắm đỏ ngày giải phóng Sài Gòn. Màu lá thắm đỏ bài thơ, thắm đỏ cuộc hẹn gặp ngày chiến thắng, khác với nỗi buồn lặng, màu không xác định của mưa bay, trong “ Không nói” của giữa thế kỉ trước. Nhưng, thời gian cứ trôi mặc lòng, cốt lõi vẻ đẹp thơ tự do của Nguyễn Đình Thi vẫn còn nguyên, sự nhất quán của tình thơ với nhân vật Em vẫn còn nguyên. Và dường như, nỗi buồn lãng mạn cách mạng cũng vẫn còn nguyên…

 


[1] Hoài Thanh-Hoài Chân, Thi Nhân Việt Nam. NXB Văn học,H.,2000, tr.41,42,47,48

[2] .Nguyễn Đình Thi là tác giả của những sách: Siêu hình học, Triết học Kant, Triết học Nietzsche, Triết học Descartes,… đều do Tủ sách triết học Tân Việt,  NXB Tân Việt, 49, phố Takou, Hà nội, xuất bản, năm  1941, 1943.

[3] Sách Nguyễn Đình Thi, về tác gia và tác phẩm.( Hà Minh Đức và Trần Khánh Thành giới thiệu và tuyển chọn. NXB Giáo Dục, từ tr.215 đến tr. 229. Bài  “ Cuộc tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi”. XD ghi theo biên bản Hội nghị, chiều 28). Tạp chí Văn nghệ số 17,18, tháng 11,12-1949.

 Theo chú thích, bài tường thuật này do Xuân Diệu ghi. Những người tham gia cuộc tranh luận này: Xuân Diệu, Tâm Trung, Thanh Tịnh, Văn Cao, Ngô Tất Tố, Tố Hữu, Phan Thị Nga, Thế Lữ, Nguyên Hồng, Xuân Trường, Nguyễn Huy Tưởng, Hữu Tâm, Nguyễn Đình Phúc, Nguyễn Xuân Khoát, Phạm Văn Khoa, Xuân Thủy,… với lời kết của chủ tịch đoàn: Tố Hữu. Hối đó, Nguyễn Đình Thi 24 tuổi, mới in 5 bài thơ ngắn. Nguyến Đình Thi coi chùm thơ: Đường núi, Không nói, Sáng mát trong như sáng năm xưa in trên Văn Nghệ hồi Việt Bắc là những bài đầu tay. Không nói in đầu tiên trên  Tạp chí Văn nghệ số 6. 11.1948.

[4] Sdd, Nguyễn Đình Thi-về tác gia và tác phẩm.  Nguyễn Văn Nam, tác giả bài “Thơ Nguyễn Đình Thi”, tr.245, đã chú thích như sau: Các bài thơ trong bài này đều lấy ở tập Người chiến sĩ in lần thứ 2, NXB Văn học, 1960 Bài thơ Hắc Hải, NXB Văn học, 1959. So với các bản in trước, có những thay đổi. Ví dụ: bài Đêm sao nguyên là bài Đêm mít tinh trong Tập văn cách mạngvà kháng chiến. Bài Đấtt nước nguyên là bài Sáng mát trong như sáng năm xưa nói trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc. Cũng cần nói thêm, Nguyễn Đình Thi còn một số thơ nữa chưa đưa được vào hai tập thơ này.

 

Nguyễn Thị Minh Thái, PGS.TS nghệ thuật học

Chủ nhiệm Bộ môn Văn hóa truyền thông

Khoa Báo chí, trường ĐH KHXH&NV. HN

(Bài viết do tác giả gửi cho Web Khoa Văn học)

Thông tin truy cập

63704273
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2367
22198
63704273

Thành viên trực tuyến

Đang có 283 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website