(Đọc khúc thụy du của Du Tử Lê[1])

(TBKTSG) - Mùa hè năm 2014, Du Tử Lê đã trở về ra mắt tập thơ Giỏ hoa thời mới lớn với công chúng Sài Gòn và Hà Nội. Năm nay, nhà thơ lại có mặt tại quê nhà với hai cuốn sách: khúc thụy du (tuyển thơ) và giữ đời cho nhau (văn xuôi). Có thể nói, sự kiện này không chỉ là tin vui với tác giả mà còn là với người đọc Việt Nam.

20191012 Du Tu Le
Ảnh: Từ phải qua trái: Du Tử Lê, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Quốc Thái, Huỳnh Như Phương.

Chẳng phải thế sao, khi tên của Du Tử Lê đã nằm trong ký ức nhiều thế hệ, khi lời thơ của ông đã vang trên những đôi môi của bao người yêu âm nhạc mà giờ đây chỉ một vài cuốn sách mới được tái trình làng. Người già bâng khuâng hoài nhớ văn đàn một thuở, người trẻ chạm đến một không gian chữ nghĩa khác, in đậm dấu ấn của xưa và nay, bởi 60 năm qua Du Tử Lê chưa bao giờ ngừng viết, dù trải qua bao biến cố và giờ chỉ còn vài năm thì đã gần đến tuổi tám mươi.

“khúc thụy du” là một tuyển thơ khá đặc biệt. Những người làm tập sách đã tuyên bố rất rõ về “một lối hẹp” mà họ nghĩ là tương thích với tình thế thi ca, với người đọc, và tất nhiên, với nhà thơ: thời điểm, biến cố, sự kiện (xã hội và cá nhân) như những phông nền sẽ mờ đi, các sắc màu đích thực thắm tươi qua năm tháng, và các hương vị bền lâu trong lớp lớp chữ lời của văn bản đã không ngừng tỏa lan qua giai điệu sẽ nổi lên theo nguyên tắc chụp cận cảnh. Thật là một ý tưởng thú vị!

Những sắc màu đích thực và những hương vị bền lâu nơi thơ Du Tử Lê là gì? Lại cũng vẫn là thơ tình, theo nghĩa hẹp (tình ái) và nghĩa rộng (tình yêu), với bốn mươi chín bài, hầu hết đã được chắp cánh bằng âm nhạc bởi các nhạc sĩ qua nhiều thế hệ: Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Trần Duy Đức...

Những ai nôn nóng muốn tìm ra đường ngay, ngả thẳng cũng sẽ bối rối khi bước vào nội thất “khúc thụy du”. Ranh giới logic và của Phần 1. Trôi, những ngày neo bão (27 bài thơ) và Phần 2. Người về như bụi (22 bài thơ) là gì, mà bản thân hai tiêu đề nghe rất gợi, rất thơ? Không phải thời gian, không phải không gian thì đã hẳn, nhưng hình như cũng không phải thể loại hay chủ đề. Thì thôi vậy, nhà thơ và người tuyển đã có tâm thế rong chơi thì người đọc cũng thủng thẳng mà theo họ khám phá sắc hương và lắng nghe những xôn xao tái sinh hay vụt hiện trong lòng mình.

Những câu thơ đã quá quen của Du Tử Lê như “chỉ nhớ người thôi đủ hết đời” (lúc người chết); “khi tôi chết hãy mang tôi ra biển (khi tôi chết hãy đem tôi ra biển); “như con chim bói cá/trên cọc nhọn trăm năm/tôi tìm đời đánh mất/trên vụng nước cuộc đời...” (khúc thụy du)... sẽ được đọc lại trong ám ảnh của âm giai bài hát. Nhưng quan trọng hơn là hiệu ứng dây chuyền (domino) giữa nhiều bài cũ-mới, sẽ mang đến một hợp âm có âm vực sâu và âm phổ rộng, làm những người từng biết một Du Tử Lê trong quá khứ sẽ ngỡ ngàng thán phục ông. Linh hoạt trong thể loại (5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát, tự do), đa dạng trong cảm hứng (ái tình, tự tình, thế sự, quê hương, mẹ...), biến hóa trong giọng điệu (tỉnh lạnh, nồng cháy, kịch tính, tra vấn...), phong phú trong hình ảnh và âm thanh: Phải chăng nhờ những điều này mà thơ Du Tử Lê được phổ nhạc nhiều? Có lẽ, còn một yếu tố nữa: những câu chuyện trong thơ ca ông rất gần đời sống, rất sát con người, cả ý tưởng và hình thức biểu đạt. Thơ Du Tử Lê có nhiều từ ngữ và âm giai độc đáo, gây ấn tượng mạnh, nhưng thơ ông ít cầu kỳ, làm dáng, ít vướng vào những cái thời thượng và thường nâng niu những vẻ đẹp long lanh trong truyền thống Việt và phương Đông.

Người ta hay nhớ đến Du Tử Lê như là “ca nhân của ái tình”, riêng trong khúc thụy du, tôi đặc biệt xúc động với những bài về mẹ của ông: cõi mẹ về, thương mẹ đã lưng đồi; và những tự sự của người đàn ông đi qua dâu bể, thấm thía cái khổ làm người: kẻ từ phương đông qua, khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, ngọn nến/tôi/cháy hết vẫn ngậm ngùi...

Hơn 60 năm làm thơ viết văn liên tục với 70 tác phẩm và đến nay vẫn còn dồi dào sức sáng tạo, nhà thơ đã thể hiện năng lượng đúng cái tên mà cha mẹ ban cho: Lê Cự Phách, với phong cách của một người rong chơi giữa trần ai như bút danh mình tự đặt: Du Tử Lê.

Nguyễn Thị Thanh Xuân


[1] Phanbook - Nxb Hội Nhà văn, 2018. Toàn bộ các tên tác phẩm chữ đầu viết thường, đúng theo ý tác giả trên văn bản

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 26.9.2018.

TTO - Trái tim nhà thơ Du Tử Lê vừa ngừng đập lúc 8 giờ 6 phút tối thứ hai 7-10 (theo giờ Mỹ) tại nhà riêng của ông ở Garden Grove (Mỹ), hưởng thọ 77 tuổi, theo thông tin từ người nhà phát đi trên trang cá nhân trưa nay.

20191010 Du Tu Le

Nhà thơ Du Tử Lê - Ảnh: TRIẾT TRẦN

"Tôi quan niệm, mỗi cá nhân trước khi sinh ra đã được Thượng đế chọn trước một nghề nghiệp hay công việc thích hợp. Điều mà chúng ta gọi một cách nôm na là năng khiếu hay "cái khiếu". Cá nhân, tôi nghĩ tôi sống sót được tới ngày hôm nay nhờ tình yêu văn chương. Trước đây khi còn ở trên quê hương, tôi không thấy văn chương thực sự "cứu rỗi" tôi như những năm tháng tôi luân lạc xứ người... Vì thế, tôi tự nhủ, hãy viết, cứ viết cho tới ngày nào sức khỏe, khả năng không còn cho phép."

Nhà thơ Du Tử Lê từng tâm sự với báo Tuổi Trẻ tháng 6-2018

Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam. Ông là nhà thơ có tiếng tại miền Nam từ trước 1975. 

Du Tử Lê tham gia giới viết văn làm báo, là chứng nhân của nhiều trào lưu văn nghệ tại miền Nam trước đây. 

Những kinh nghiệm từ quãng đời này giúp ông viết thành một số công trình có tính chất tổng thuật và khảo cứu về văn nghệ miền Nam trước 1975: Phác họa toàn cảnh sinh hoạt 20 năm VHNT miền Nam 1954-1975, Sơ lược 40 năm văn học nghệ thuật Việt 1975-2015.

Du Tử Lê làm thơ từ rất sớm, bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức từ năm 1958 trên tạp chí Mai.

Nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam từng yêu thơ Du Tử Lê, đặc biệt cả giới trẻ trước và sau 1975 có nhiều người hâm mộ bài hát Khúc Thụy Du vốn được nhạc sĩ Anh Bằng phổ từ bài thơ cùng tên của Du Tử Lê. 

Khúc Thụy Du được Du Tử Lê viết từ tháng 3-1968, như một phần cảm thức của người trẻ trước cuộc chiến đang lan rộng tại Việt Nam.

Du Tử Lê định cư tại Mỹ sau ngày 30-4-1975.

Theo thống kê chưa đầy đủ, Du Tử Lê có hơn 70 tác phẩm đã xuất bản. Những năm gần đây, một số sách của ông trở lại với bạn đọc trong nước thông qua các đơn vị xuất bản:

- Du Tử Lê tùy bút tuyển chọn (2015)

- Với nhau, một ngày nào (tản văn, 2018)

- Trên ngọn tình sầu (tập thơ, 2018)

- Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời (tùy bút dạng hồi ký, 2017) 

- Khúc thụy du (tuyển thơ, 2018)

- Giữ đời cho nhau (tuyển tùy bút, 2018)

- Chúng ta, những con đường (thơ, 2019)...

Theo ghi nhận của người trong giới, Du Tử Lê bên cạnh Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên làm nên bảy gương mặt thơ xuất sắc nhất miền Nam thời trước 1975.

Về hoạt động liên quan đến thơ, từ năm 1981 tới nay, nhà thơ Du Tử Lê có nhiều buổi thuyết trình tại một số đại học tại Hoa Kỳ, Pháp, Đức, và Úc. Ông từng hai lần được mời đến đại học Harvard để nói chuyện về thơ của mình. 

Từ năm 2009 tới 2012, mỗi năm Du Tử Lê đều có ít nhất một lần thuyết trình về thơ tại đại học UC Berkeley và đại học Cal State Fullerton.

Sự nghiệp thơ của Du Tử Lê từng được một học viên cao học tại Đại học Khoa học, xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là Trần Thị Như Ngọc chọn làm luận văn tốt nghiệp, nhan đề Thơ Du Tử Lê dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật thuộc chuyên ngành Lý luận văn học. 

Một số sách và bản thảo của Du Tử Lê vẫn đang được các đơn vị làm sách trong nước giao dịch với ý định sẽ ấn hành trong tương lai.

Du Tử Lê (Lê Cự Phách) sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam. Ông là tác giả của 70 tập thơ, văn xuôi. Ông học Đại học Văn khoa Sài Gòn, tu nghiệp báo chí tại Indianapolis, Indiana (1969). Giải thưởng Văn chương toàn quốc tại Sài Gòn năm 1973 (tập Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972).

Thập niên 1980-1990, thơ ông xuất hiện trên Los Angeles Times và New York Times. Thơ ông được dịch trong tuyển tập Understanding Vietnam (liên Đại học Berkeley, UCLA, London ấn hành; là sách giáo khoa về văn học Việt Nam cho nhiều đại học tại châu Âu).

Ông là một trong sáu nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20 có thơ dịch trong tuyển tập World Poetry - An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time (W.W. Norton New York, 1998). Ông từng thuyết trình về sáng tạo thơ ca tại một số đại học ở Mỹ, Pháp, Đức và Úc. Ông cư ngụ tại Garden Grove, Nam California (Mỹ).

Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành các ca khúc nổi tiếng.

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 09.10.2019.

 

20190524 HNB

Ông Hoàng Ngọc Biên - Ảnh: KIMB

Tôi hết sức vui mừng khi đọc được bài “Hoàng Ngọc Biên, quê hương, người về” của anh Huỳnh Như Phương đăng trên trang  viet-studies.net của Trần Hữu Dũng ngày 17/5/2019 vừa qua.  Bài viết giới thiệu một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ về cuộc đời nghệ thuật của người bạn đã ra đi. Dầu khá gần gũi với Hoàng Ngọc Biên trong nhiều năm, tôi vẫn giật mình không hiểu tại sao mình không nhận thức được chính xác tầm cỡ của người nghệ sỹ độc đáo này. Tôi nghĩ bài viết của anh Huỳnh Như Phương có thể gợi ý cho những bạn trẻ trong ngành lý luận phê bình văn học hay các nghiên cứu sinh ngữ văn một số đề tài khá hấp dẫn như sau:

- Trường phái văn học Pháp Nouveau Roman (Tiểu thuyết Mới) ảnh hưởng đến phong cách sáng tác văn học ( hay kỹ thuật viết)  của Hoàng Ngọc Biên như thế nào.

- Tìm hiểu “dòng ý thức” ( hay “xu hướng trí tuệ” ) trong sáng tác văn học của Hoàng Ngọc Biên.

- Cấu trúc thực tại ảo trong thơ Hoàng Ngọc Biên và sự tiếp cận bản thể học.

Thực vậy, trong lĩnh vực văn xuôi, Hoàng Ngọc Biên là nhà văn hiếm hoi có bản sắc riêng  về tư duy và về  kỹ thuật viết hay phong cách sáng tác. Những tác phẩm : Đêm ngủ ở tỉnh, Buổi sáng, Một góc phố, Thành phố dốc đồi, Quê hương, Người về, Người đạp xe vào thành phố buổi sáng, Về giữa mùa hè (tiểu thuyết)…. làm ta mang máng nhớ đến Nguyễn Tuân với những thiên tùy bút nổi tiếng của ông. Nhưng trong Nguyễn Tuân ta còn thấy cốt truyện với những diễn biến có đầu có đuôi như Vang Bóng Một Thời hay Chén trà trong sương sớm. Với Hoàng Ngọc Biên, ta thấy có người có cảnh nhưng tuyệt nhiên không có cốt truyện. Mọi thứ đều do nội tâm mà ra. Chẳng hạn trong “Đêm ngủ ở tỉnh” tác giả thức đêm nghe tiếng súng từ xa vọng về và tiếng đại bác từ châu thành bắn ra rồi những tiếng súng ấy lọt qua khe cửa lay động những đồ vật mơ hồ trong đêm. Chỉ có thế nhưng người đọc buộc phải liên tưởng đến bao nhiều điều mà chiến tranh mang lại. Không nói không rằng, tác giả lên án chiến tranh, trăn trở với thân phận con người. Tôi nhớ lại một cuốn phim tài liệu Thụy Điển về Thế chiến thứ hai. Trước khi xem mình hình dung nào là bom đạn, nào là thành phố đổ nát, nào là các đội quân nhếch nhác trong chiến hào. Nhưng phim chỉ cho thấy một cửa sổ có rèm che, lờ mờ trong ánh đèn leo lét. Hai bóng người, một nam một nữ khi đứng khi ngồi khi cử động khi yên chỗ. Người xem cảm nhận được hai bóng người kia thể hiện điều gì: sợ hãi, sững sờ, đột nhiên vui rồi thất vọng ê chề…Tất cả là một cuốn phim câm. Hoàng Ngọc Biên cũng vậy, cũng muốn làm phim câm, không nhiều lời mà truyền đạt thật nhiều xúc cảm.

Cũng thật đáng ngạc nhiên khi Hoàng Ngọc Biên trong những năm 60 thế kỷ trước đã bắt nhịp được với khái niệm thực tại theo kiểu F. De Saussure : Còn xa mới có chuyện sự vật đi trước cách nhìn, chính cách nhìn tạo ra sự vật. Theo Huỳnh Như Phương, trong lời giới thiệu công trình “Mười nhà văn Pháp hiện đại” , Hoàng Ngọc Biên trích lời M. Proust “Thực tại đích thực là ở nội tâm” và câu của họa sỹ Paul Klee “Nghệ thuật đúng với tên gọi đó không tạo ra cái để nhìn: nó phác họa những con mắt”. Trên cơ sở những ý tưởng ấy, Hoàng Ngọc Biên nêu nhận xét riêng của mình: “Mấy chục năm trước Proust đã phát biểu đâu đó rằng vấn đề đặt ra không phải là thực tại (hay mơ mộng ) nữa mà là lối diễn đạt thực tại bắt nguồn từ cái nhìn của chúng ta”. Trường phái “dòng ý thức” hay xu hướng trí tuệ của Hoàng Ngọc Biên là vậy, khá phù hợp với những trăn trở hiện nay của các nhà vật lý lý thuyết. Theo Nguyễn Tường Bách, ngườ ta khám phá ra rằng trong thế giới lượng tử, ý thức con người chi phối thực tại và thực tại không hề là cái gì khách quan độc lập với ý thức con người.

Thơ của Hoàng Ngọc Biên phong phú và đa dạng. Khác với tinh thần kinh điển của thơ là diễn tả tình cảm: yêu, ghét hy vọng, thất vọng, lạc quan, bi quan, hờn dỗi, nể phục, …thơ của tác giả độc đáo này là những suy tư về bản thể: thế giới quanh ta là gì? Ta là ai? Đang ở đâu? …Bây giờ ta thử đọc vài đoạn thơ kiểu bản thể và cố tìm hiểu xem tác giả muốn nói gì.

NÓI CHO CÙNG

nói cho cùng ai cũng như ai

vô thần hữu thần

anh hùng đạo tặc

sống trên mây sống trên sông nước

đều như nhau – đều bị

             đọa đầy

một chút hạnh phúc đó đây

phút chốc thành sương khói

thêm nhiều nỗi khổ

thoắt một làn chớp có thể quên đi

nói cho cùng

ta cũng như ai

mặt trời chiều dát vàng cây cỏ

ta một mình

chờ đợi bóng đêm

TUỔI MỘT NGÀY

ngày  hôm qua ta chưa sinh ra

ngày hôm qua ta chưa có mặt

cuộc đời qua

xô đẩy

túi bụi giữa chốn người

có đủ nước mắt có đủ nụ cười

ta biết sẽ tới….

chết sau khi đã sống

một ngày

ngày trong ngày

đêm trong đêm

những lá kính muôn mảnh  

ngày nối liền

đêm nối liền

THẾ GIỚI MỚI CHỖ TA ĐẾN

chỗ ta đến có thời gian của proust

màu đỏ Iorca

những quán café nhạc jazz

         kerouac

chỗ ta đến

có những đường phố petersburg brodsky

của akhmatov….

…..

Nếu sau này các nhà viết lịch sử văn học Viêt Nam vô tình hay cố ý bỏ quên Hoàng Ngọc Biên thì thật đáng tiếc. Cũng đáng tiếc như bỏ quên Bảo Ninh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Quang Lập hay Bùi Ngọc Tấn vậy.
 
TRƯƠNG QUANG ĐỆ

Truyện Kiều có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa và văn học của dân tộc ta. Một nhà văn ở đầu thế kỷ XX đã ví Truyện Kiều như tờ “trước bạ” ( giống như khái niệm “sổ đỏ” hiện nay) để hình dung vai trò của tác phẩm  đối với việc xác định tư cách văn hóa của người Việt, chủ nhân chân chính của giang sơn gấm vóc. Nếu thiếu đi tác phẩm, chân dung văn hóa của dân tộc ta không thể trọn vẹn. Sức sống và sức hấp dẫn to lớn của kiệt tác đối với người Việt Nam đã khiến cho nhiều học giả nước ngoài quan tâm dịch thuật và nghiên cứu Truyện Kiều như một cách tiếp cận hiệu quả tâm lý, tính cách người Việt. Danh sách hàng ngàn bài báo, hàng chục công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ học giả và những người yêu mến tác phẩm trong và ngoài nước suốt thế kỷ XX vẫn đang tiếp tục được nối dài trong thế kỷ XXI. Người ta đã và đang tiếp tục đào sâu suy ngẫm về giá trị nhiều mặt của tập đại thành này. Nhân lần xuất bản văn bản Truyện Kiều, xin được tổng kết, giới thiệu những thành quả nghiên cứu phong phú nói trên để tiện cho việc đọc văn bản và thưởng thức tác phẩm.

1. Thời điểm viết và quá trình phổ biến văn bản, vấn đề tầm nguyên văn bản  Truyện Kiều:

            Truyện Kiều là thực ra là cách gọi tên đã định hình trong thế kỷ XX tác phẩm của Nguyễn Du. Trong thế kỷ XIX, một số bản Nôm như Liễu Văn Đường (1866, 1871), Duy Minh Thị (1872) khắc là Kim Vân Kiều tân truyện, bản quốc ngữ vào loại sớm nhất do Trương Vĩnh Ký cho in năm 1875 tại Sài Gòn đọc là  Kim Vân Kiều truyện. Bản Nôm do Kiều Oánh Mậu cho  in năm 1902 khắc là Đoạn trường tân thanh. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền có nói Đoạn trường tân thanh được khắp nước truyền tụng song chưa xác định được thời điểm viết gia phả nên giá trị thong tin cũng cần cân nhắc. Tiên Phong Mộng Liên đường chủ nhân trong bài tựa cho tác phẩm này (viết trong đời Minh Mệnh) đã nói rõ Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh  ...   Trong lời tựa cho văn bản chữ quốc ngữ Truyện Thúy Kiều xuất bản năm 1925, Trần Trọng Kim nói đại để Phạm Quí Thích đã đổi tên Đoạn trường tân thanh thành Kim Vân Kiều tân truyện.  Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na gần đây đã bác bỏ nhận định này mà cho rằng vì Phạm Qúi Thích đã viết bài thơ  Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm với những từ ngữ có nhắc đến bốn chữ tân thanhđoạn trường nên không thể là người đổi tên tùy tiện như vậy. Nhận định tương tự của Trần Trọng Kim đã được Đào Duy Anh nhắc lại trong sách Khảo luận về Kim Vân Kiều xuất bản tại Huế năm 1943, nhưng  ông lại không đưa tên này vào nhan đề sách nghiên cứu của mình mặc dù chính ông nói cần khôi phục tên gọi Đoạn trường tân thanh. Như vậy giữa việc biết tên tác phẩm Nguyễn Du đặt là Đoạn trường tân thanh với việc gọi tên tác phẩm khác đi theo quan niệm riêng là một sự kiện có thực. Chưa rõ vì sao lại có sự lựa chọn khác nhau trong việc gọi tên như vậy ? Tên gọi Truyện Kiều đã xuất hiện ở những năm hai mươi của thế kỷ XX, lúc đầu là Truyện Thúy Kiều ( Nguyễn Đôn Phục có bài viết  “Văn chương và nhân vật Truyện Thúy Kiều, Nam Phong 1922). Đến năm 1924, đã thấy khá phổ biến cách gọi này rồi: Vũ Đình Long đăng nhiều kỳ chuyên khảo Văn chương Truyện Kiều, bài diễn thuyết của Phạm Quỳnh cũng gọi tắt là Truyện Kiều ).

            Đoạn trường tân thanh nghĩa là gì ? Trần Trọng Kim trong bài viết đã nói ở trên giải thích: “Đoạn trường tân thanh nghĩa là tiếng than khóc mới về nỗi đau lòng”. Cách hiểu này rất phổ biến trong suốt thế kỷ XX. Năm 1999, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na lật lại vấn đề. Ông vạch rõ, “tân thanh” không phải là tiếng kêu hay tiếng nói mới (thanh là danh từ chỉ âm thanh nói chung), đó là tên gọi của một thể viết theo Tân nhạc phủ. Tra Hán ngữ đại từ điển, thấy rõ Tân Nhạc phủ là một thể thơ Nhạc phủ, viết về đề tài mới, về thời sự. “Tân thanh trong nhan đề tác phẩm của Nguyễn Du hàm chứa nhiều nghĩa, chí ít nó cho ta thấy thể loại của tác phẩm, phương pháp sáng tác nhạc điệu của thi phẩm”. Để hiểu hai chữ đoạn trường, ông dẫn ra hai điển khác nhau, một nói về nỗi đau đứt ruột của con vượn mẹ mất con, một kể về kể về nước mắt một người con gái khóc nhớ người yêu , nhỏ xuống chân tường khiến một loài hoa mọc lên, đó là loại hoa thu hải đường vẫn còn được gọi là hoa đoạn trường. Theo ông câu chuyện thứ hai phù hợp hơn vì “đời Kiều là một kiếp hoa đoạn trường bị vùi dập” .   Kết hợp hai từ, tác giả kết luận “ Tên tác phẩm gồm hai yếu tố: yếu tố đầu- đoạn trường mang ý nghĩa chủ đề; yếu tố sau- tân thanh mang tín hiệu về loại hình thể loại[1]

            Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Phạm Luận, cũng phát biểu trong năm 1999,  thì không có căn cứ gì để từ khái niệm tân thanh không thuộc Nhạc phủ cổ đề mà suy luận thuật ngữ này tương đương với truyện thơ Việt Nam. Khái niệm tân thanh như là âm nhạc  cũng không thể là nghĩa của tân thanh trong nhan đề tác phẩm Nguyễn Du. Vậy tân thanh vẫn là tiếng mới đứt ruột. Để bảo vệ cho lập luận của mình, ông lại dẫn lời bình luận của chính Mộng Liên đường chủ nhân “lục tắc cựu nhi đoạn trường chi thanh tắc tân dã”- cái lục phong tình thì vẫn là cái lục cũ mà cái tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy[2]. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, hiểu như truyền thống là tiếng mới đứt ruột vẫn là cách hiểu có cơ sở hơn về nghĩa của Đoạn trường tân thanh.

            Tên gọi Truyện Kiều là tên gọi tắt của tác phẩm hiện đã trở nên phổ biến và cái lý của hiện tượng gọi tắt này là ở chỗ tác phẩm kể về cuộc đời chìm nổi của nhân vật chính- Thúy Kiều. Thay vì cái tên Đoạn trường tân thanh  gợi đến thái độ, cảm xúc của tác giả, lấy tên nhân vật chính đặt cho tác phẩm lại có lý vì gợi ngay đến nhân vật. Đây là trường hợp hiếm có của văn học sử Việt Nam: người đọc hậu thế đặt tên lại cho tác phẩm họ yêu thích và được tiếp nhận rộng rãi. Phải chăng hiện tượng tiếp nhận rộng rãi này phản ánh phong cách lấy tên nhân vật đặt cho các truyện cổ tích Việt Nam Thạch Sanh, Tấm Cám, các truyện Nôm Việt Nam với cốt truyện không vay mượn của nước ngoài: Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa, Lục Vân Tiên v.v... ? 

(xin xem toàn văn: ở đây)


[1] Nguyễn Đăng Na .  Đoạn trường tân thanh- một mã khóa vào thế giới nghệ thuật Nguyễn Du. In trong sách Đào Thái Tôn. Văn bản Truyện Kiều, nghiên cứu và thảo luận. NXB Hội nhà văn, 2001.

[2] Xin xem: Phạm Luận. Về hai chữ “Tân thanh” trong nhan đề truyện Đoạn trường tân thanh. Tạp chí Văn học, số 11/1999.

LTS: Nhà thơ Tô Thùy Yên, tác giả của những thi phẩm nổi tiếng: Trường Sa hành, Ta về, Chiều trên phá Tam Giang,… vừa qua đời tối 21.5 tại Houston, Texas (Hoa Kỳ), hưởng thọ 81 tuổi. Để bạn đọc hiểu hơn “một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” như nhận định của thi sĩ Du Tử Lê, tòa soạn giới thiệu bài viết của nhà thơ Ý Nhi từng đăng trên báo in Người Đô Thị với nhan đề "Thức cho xong bài thơ" (*)

 
Tô Thùy Yên (1938 - 2019). Ảnh: AFP

Năm 1993, tôi đã gặp Tô Thùy Yên. Tôi đã được nghe Trường Sa hành, Chiều trên phá Tam Giang, Thi sĩ… trước khi gặp Tô Thùy Yên. Vì vậy, có phần bất ngờ khi đối diện với tôi, con người từng mộng du trên trái đất tròn, từng chạy cắm đầu trên sợi kinh hoàng/giăng qua đôi bờ vực lạnh hư vô, từng bay trên phá Tam Giang với những suy nghĩ ở một tầng cao đáng kinh ngạc về cuộc chiến tàn khốc đang diễn ra, lại là một người đàn ông tầm thước, lịch duyệt, từ tốn.

Cho đáng một lần đi (2)

Bất ngờ khác, ông gần như không có sự ngại ngần khi trò chuyện với tôi - một nhà thơ từ Hà Nội vào. Ông thường ghé qua nơi tôi làm việc - Chi nhánh NXB Hội Nhà Văn tại TP.HCM, nơi ông có thể gặp những nhà văn miền Nam còn ở Sài Gòn như Huỳnh Phan Anh, Bùi Giáng, Nguyễn Đình Toàn, Thế Phong... và những nhà thơ trẻ như Nguyễn Quốc Chánh, Bùi Hoằng Vỵ, Thảo Phương, Phạm Thị Ngọc Liên...

Hồi đó, hẻm 361 Hai Bà Trưng (nơi có trụ sở NXB) còn vắng vẻ. Phía trước mặt trụ sở có một khoảnh đất trống. Gia đình nọ đã dựng tạm gian quán lợp giấy dầu bán cà phê nước ngọt, kiểu một cái quán cóc. Chúng tôi thường “tụ tập” ở đó. Sáng nọ, trong gian quán quạnh quẽ, Tô Thùy Yên đã đọc cho chúng tôi nghe bài thơ Quán vắng vẻ của ông, giọng nhẹ nhàng, cách đọc chậm rãi khiến người nghe dễ dàng nhập vào tâm trạng của tác giả: Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì/ Thôi thì hãy cố nán/ Cho đáng một lần đi... Nghe đâu, trong tù, ông còn hát vang lên một ca khúc của Trịnh Công Sơn, để báo với bạn tù sự có mặt của mình, để thiên hạ biết mình vẫn có thể hát.

Đôi lần, ông xuống nhà tôi ở quận 6, không gặp tôi, ông trò chuyện với nhà tôi và các con tôi. Khi nghe vợ chồng tôi có ý định xây nhà trên mảnh đất ở Gò Vấp, ông đưa chúng tôi đến Biên Hòa gặp kiến trúc sư Đinh Thiên Tứ - bạn ông - nhờ thiết kế.

Từ khi ra tù, Đinh Thiên Tứ bỏ nghề, không nhận bất cứ công việc chuyên môn nào. Nếu không có Tô Thùy Yên, chắc chắn chúng tôi không thể có được ngôi nhà trang nhã, thanh thoát, chan hòa nắng gió này. 

 

Ông nói với tôi, ông mong có dịp ra Hà Nội, nơi ông từng qua giữa đêm khuya trong chiếc xe chở tù bít bùng, chật chội. Ông một mình chạy xe đến hồ Trị An: đi giữa trảng tranh/ràn rạt gió lùa/hư rỗng tuênh toang/ bốn phía rừng xa mịt mịt...

Những quấn quýt bạn bè, những lo toan giúp đỡ, những tỏ bày, những chuyến đi... phần nào nói lên tâm trạng của Tô Thùy Yên lúc này. Ông vừa ra khỏi tù lần thứ ba chưa bao lâu và đang chuẩn bị cho việc rời bỏ quê cha đất tổ. Có thể nói, đó là quãng thời gian rất đặc biệt trong cuộc sống của ông: chưa dứt khỏi ký ức nặng nề, bàng hoàng giữa những ngày đang sống (Lang thang rã rời ngoài phố đông người/ không gặp một ai quen... Bất chợt nghe như đời đã muộn/ Muộn đến chán chường rũ thõng đôi tay/Tưởng không cái vội nào còn bắt kịp...) và, đứng trước một chuyến ra đi không dễ dàng, thậm chí, là một chuyến đi đau đớn, đầy ưu uất: Anh ra đi/Bứt ruột mà đi/ Như đã một lần cũng bứt ruột/Đi những mười năm tưởng chẳng còn về...

Cuối năm, trước khi cùng gia đình rời Việt Nam, ông đem cho tôi một số bài thơ chép tay, như món quà cho người bạn vong niên: Ngoài cõi võ vàng, Giấc hoành môn, Những mẩu giấy rời, Những thành phố mà ta không ghé lại, Bài thơ chia tay dành cho người duy nhất đọc, một bài không có tựa đề và bản in bài Ta về (có lẽ trên một tạp chí ở hải ngoại) với các ghi chú: Xin đừng phổ biến. Đa tạ. Chữ Tô Thùy Yên rất đẹp.

Các bài thơ đều được viết trong năm 1993. Sau này, trong Thơ tuyển, Bài thơ chia tay... được lấy tựa Giã biệt và không thấy có Những mẩu giấy rời, Ngoài cõi võ vàng, bài thơ không tựa đề. Có thể Tô Thùy Yên không chọn. Mà cũng có thể ông không còn lưu giữ chúng.

Tô Thùy Yên dường như không có thói quen lưu giữ các bài thơ của mình, dưới bất cứ hình thức nào. Làm thơ từ cuối những năm 1950 mà đến năm 1995 ông mới cho xuất bản tập thơ đầu tiên. Được biết, khi làm sách, ông đã phải nhờ cậy bạn bè và những người yêu thơ còn lưu giữ thơ ông. Một trường hợp hy hữu.

Thơ của gã du hành muôn năm muôn nơi 

Nhưng một cuộc gặp khác, cuộc gặp Thơ Tô Thùy Yên thì phải chờ đến mấy năm sau. Có thể nói, đây là một cuộc gặp gây chấn động với tôi. Mười mấy năm trôi qua, kể từ khi có Thơ tuyển Thắp tạ (3), tôi luôn có ý định viết về thơ Tô Thùy Yên nhưng lại luôn ngần ngại, lo mình không đủ thấu hiểu, không đủ sự đồng cảm (4). Chỉ khi nhận được thư điện tử của ông vào cuối năm 2015 (5), tôi mới khởi sự.

Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã định vị chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế, “Đầu tôi cứng và trơn/ Thượng đế làm sao ngự”, với Hư vô: “Có đọc thuộc thánh thư/Linh hồn tôi vẫn vậy/Tôi vẫn không thể lạy/Dù đứng trước hư vô”, với Cuộc đời: “Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”, với Thơ: “Tôi giựt giành đổ máu với tôi/ từng chữ một” . Và, thi sĩ chấp nhận nỗi cô đơn: “Tôi thấy đã mất mát/ Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc tuần du bất tận… về nơi hẹn nào không định trước”, chấp nhận những đau đớn, những oan khiên, những trượt lỡ của cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn suốt một đời thơ dài hơn 60 năm.

Có thể nói, thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của “gã du hành muôn năm muôn nơi”. Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của con người đầy ý thức về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy diệt, về hy vọng và tuyệt vọng...

Cách khác nữa, là lời tự vấn, là những câu hỏi, nhiều khi không lời đáp, sau những gì đã đi qua, sau những hạnh ngộ và chia lìa, sau những hân hoan hiếm hoi và những khổ lụy lâu dài của kiếp người. Dù là cách nào đi nữa, cuối cùng, thơ Tô Thùy Yên cũng đem lại cho ta những suy nghĩ lớn lao, những rung cảm mãnh liệt, những dày vò khôn nguôi, và, vẫn còn đó, những câu hỏi mà ta cũng không tìm ra lời đáp hay chỉ là “Câu hỏi vạn niên/ Lời đáp nhất thời”.

Đó là câu chuyện của bậc thượng thừa, bậc tiên tri. Chẳng phải thế sao. Ai, ngoài ông, có thể tiên cảm kinh hoàng về những tai ương, những tang tóc mà nhân loại hôm nay đang hứng chịu:

Một ngày, ngọn gió lạ thường sẽ thổi tới
Ngoài biển khơi, trên lục địa
Sò hến, côn trùng cũng chẳng yên thân

Đặng Tiến tinh tế khi cho rằng thơ Tô Thùy Yên là “những bài thơ ngoài thời gian và vô quốc tịch”.

Câu thơ soi mệnh viết mà khóc

Vào năm 1972, trong bài thơ Bất tận nỗi đời hung hãn đó, nhà thơ từng cầu ước được một lần thấu suốt định mệnh của mình. Nhưng, vẻ như, ông đã không được toại ước, không thể biết rằng, chỉ vài ba năm sau đó, đã phải đặt chân lên đoạn đường tàn khốc của đời mình.

Thủ bút của Tô Thùy Yên

Đó là thời của những Mùa hạn: mùa hạn của trời đất, mùa hạn của thể xác, của tâm tưởng:

... Nước khe, cơm độn, thân tàn rạc
Sống chẳng khôn, cầu được thác thiêng

Đó là thời của những chuyến Tàu đêm lao vào cõi mịt mù tựa như một mũi khoan xoáy vào tâm trí đớn đau của người tù:

... Tàu đi như một cơn điên đảo
Sắt thép kinh hoàng va đập nhau
Ta tưởng chừng nghe thời đại động
Xô đi ầm ĩ một cơn đau...

Nhưng, với con người ấy, những oan khiên, những mất mát, những khổ lụy của cá nhân không làm lụi tắt tình yêu thương bất tận với đồng loại, không làm lụi tắt nỗi lo âu nhân thế. Chính trong cái Mùa hạn kinh hoàng ấy, trong cảnh tù đày khốn khổ ấy, những câu thơ vẫn bật lên ánh sáng nhân ái kỳ diệu nhất mà con người có thể có được:

... Tất cả rồi đây sẽ đổi thay
Đổi thay từ quặng mỏ, mầm cây
Đổi thay cả mặt người tăm tối
Những bớt chàm xưa được xóa trôi

Chính trên chuyến tàu đêm mịt mùng, vô vọng ấy, những câu thơ lại như những lời kêu gọi vang vọng, những khắc ghi sâu đậm trên ngày tháng:

... Tàu ơi, hãy kéo còi liên tục
Cho tiếng rền vang dội địa cầu
Lay động những tầng mê sảng tối
Loài người hãy thức, thức cùng nhau

Thật khó hình dung đó là tiếng nói của một người tù nhưng thật dễ hiểu, khi biết, người tù đó là nhà thơ Tô Thùy Yên - người từng chọn cho mình một cách giã từ đẹp đẽ nhất, sang cả nhất:

Rồi đến một hôm nào
Ta mắc lại
Trên cành cây bất chợt gặp bên đường
Tấm áo sinh thời nặng trĩu bụi
Như một lời từ biệt nghe rồi quên.

Đó là những vần thơ Lấy mình soi mệnh mình.

Lòng ta vô sự, ta vui vẻ

Câu thơ này nằm trong bài Hề, ta trở lại gian nhà cỏ, một bài thơ hiếm hoi dường như chứa chất nỗi vui, sự thanh thản của tâm hồn. Dù vậy, ngay lần đầu đọc câu thơ, tôi đã ngờ ngợ có điều chi bất ổn. Có thể vì tôi đã đọc quá nhiều những câu thơ đau đớn, dằn vặt, thảng thốt về nỗi đời của Tô Thùy Yên.

Chúng phủ trùm lên tâm trí người đọc, không nhường chỗ cho bất cứ điều gì khác. Mà cũng có thể, chính âm hưởng của câu thơ đã phủ định ý nghĩa của từ ngữ. Nếu quả ta vui vẻ, ta vô sự, hẳn ta chẳng cần “tuyên bố” như vậy.

Trong lời tuyên bố này hàm chứa một điều gì giống như sự gắng gượng, gắng tỏ ra vui vẻ, gắng quên những lo âu, phiền lụy:

Ví dù ta ngủ không còn dậy
Ắt hẳn lòng ta cũng dửng dưng...

Vẻ như, cuộc gắng gượng không thành. Xem ra, lòng chẳng hề vô sự. Xem ra, cuộc “làm lại tâm hồn” cũng chỉ là một dự tính bất thành.

Hạnh phúc, tình yêu, niềm vui... trong thơ Tô Thùy Yên thường ở trạng thái của một mơ ước, một dự tưởng. Vườn hạ trong xanh dịu dàng kia chỉ là việc của “mai kia mốt nọ”, những cảnh thanh bình yên ả chỉ là nỗi nhớ tiếc:

Còn ở đâu miền xanh bóng cây
Để ta đến đó ngồi trưa nay
Dường như hơi mát trong vòm lá
Có chất men làm ta thoảng say...

Và, tình yêu. Và niềm vui chỉ là một khát vọng khôn cùng, một mong mỏi khiêm nhường: 

Hãy hạnh phúc nhất thời
Như dấu lặng
Hãy hạnh phúc nhất thời
Như tiếng mưa rào, như lời cỏ hát
Như ánh chớp đùa, như hạt sương gieo
Như giọt nước lan reo mà tự hủy...

Liệu con người này có lúc nào vô sự, có lúc nào vui vẻ, thảnh thơi như câu thơ ông từng viết?

Ta về khai giải bùa thiêng yểm

Cuộc “khai giải” này dường đã được bắt đầu từ rất lâu, trước tai ương, trước mười năm tù lưu xứ, trong căn cốt, trong tri cảm của thi sĩ - hành giả.

Ví như, từ một lần đi đến ngôi quán vắng vẻ kia: Lỗi tự mình, lỗi tự mình thôi/ Đã chẳng nhớ ra ngày tháng hẹn... Tội cho người, tội bấy cho người/ Cũng đến đây chờ chẳng gặp ai... Việc đời lầm lẫn vậy/ Hối mấy chẳng hơn gì.

Ví như, từ một lần đến Trường Sa: Ta hỏi han, hề, Hiu quạnh lớn/ Mà Hiu quạnh lớn vẫn làm ngơ... Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt/ Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi/ Đám cây bật gốc chờ tan xác/ Có hối ra đời chẳng chọn nơi...

Ví như, từ bao nhiêu chiêm nghiệm về lẽ đời: Đừng loạn tâm, đừng loạn tâm/ Cuối chặng hành trình quay đảo nhất/ Cả thảy sẽ an nhiên/ Trong trật tự hằng hằng của vũ trụ...

Và, cuộc “khai giải” sâu đậm nhất đã diễn ra trong một lần gặp mặt tưởng tượng với người lính bên kia chiến tuyến:

Ta thương ta yếu hèn
Ta thương ngươi khờ khạo
Nên cả hai cùng cam phận quay cuồng
Nên cả hai cùng mắc đường Lịch sử...

(Chiều trên phá Tam Giang)

Chắc chắn, nếu không có cuộc “khai giải” trong tâm tưởng ấy, không có cuộc khai giải tự lòng mình ấy, không thể có hình ảnh người tù: Ta về một bóng trên đường lớn; không thể có cảnh tượng: Tưởng tượng nhà nhà đang mở cửa/ Làng ta, ngựa đá đã qua sông/ Người đi như cá theo con nước/ Trống ngũ liên nôn nả gióng mừng; không thể có nỗi hàm ơn: Ta về cúi mái đầu sương điểm/ Nghe nặng từ tâm lượng đất trời/ Cám ơn hoa đã vì ta nở/ Thế giới vui từ mỗi lẻ loi; không thể có sự bình tâm: Em hãy yêu lấy thành phố của anh/ Như tất cả những gì anh gửi lại/ Trong buổi chiều dịu lãng đời em/ Thành phố của anh/ Bây giờ đã thuộc về em/ Như lời nói thuộc về nhà thơ phe thắng trận; không thể có cuộc lễ tạ đơn độc mà kỳ vĩ: Ta về như lá rơi về cội/ Bếp lửa nhân quần ấm tối nay/ Chút rượu hồng đây, xin rưới xuống/ Giải oan cho cuộc biển dâu này...

Cuộc khai giải huy hoàng và đau đớn này, chỉ có thể được làm nên bởi chính tri cảm của một người lớn, một nhà thơ lớn. 

Mà, bài thơ ông muốn viết vẫn chưa xong (6).

 * * *

Các nhà phê bình văn học danh tiếng như Đặng Tiến, Thụy Khuê, Nguyễn Hưng Quốc, Bùi Vĩnh Phúc... đều đã thử bút với thơ Tô Thùy Yên. Và, dường như chưa ai trong số họ cho rằng họ đã nói lời sau cùng về ông. Chắc chắn, những nhà phê bình tiếp sau họ, những độc giả của tương lai, sẽ đọc Tô Thùy Yên với một định chuẩn thẩm mỹ mới, bởi Thơ Tô Thùy Yên là kho báu của thơ Việt, bởi Tô Thùy Yên là “một trong những tiếng thơ lớn, của 20 năm văn chương miền Nam” (Du Tử Lê).

Chính xác hơn, Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn của nền thơ Việt Nam hiện đại. 

Tô Thùy Yên tên khai sinh là Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Sài Gòn, cựu học sinh Petrus Ký và Đại học Văn khoa, mất 5.2019 tại Hoa Kỳ.

Ông bắt đầu có thơ đăng trên báo Đời Mới (thập niên 1950) và cùng với Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng, là những nòng cốt của nhóm Sáng Tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh “Thơ tự do” trên văn đàn miền Nam thập niên 1960.

Cuối năm 1963 ông nhập ngũ, phục vụ ngành chiến tranh chính trị quân đội Sài Gòn.  Sau 30.4.1975, Tô Thùy Yên phải tập trung cải tạo tổng cộng gần 13 năm, đến 1993 ông cùng gia đình sang Hoa Kỳ định cư.

Tô Thùy Yên là một trong số các nhà văn hải ngoại vừa nhận được lời mời về nước tham dự  “một cuộc gặp mặt nhẹ nhàng và ấm áp” với các nhà văn trong nước dự định tổ chức vào hạ tuần tháng 10 tại Hà Nội.

Ý Nhi


(*) Tựa bài viết cũng như các câu thơ in nghiêng trong bài viết là thơ Tô Thùy Yên

(2) Các tít phụ đều là thơ Tô Thùy Yên

(3) Tên hai tập thơ của Tô Thùy Yên

(4) Đặng Tiến: “Tác giả kén chọn người đọc và cách đọc, có lẽ vì thế mà 40 năm sau khi có thơ thường xuyên đăng trên báo, anh mới cho xuất bản một tập thơ tuyển, viết về anh có phần khó, không phải ở khâu bình giải khen chê, mà ở mức độ đồng cảm” (Ngựa phi, ngựa phi đường xa)

(5) Trích thư Tô Thùy Yên trả lời về việc xin đăng thơ ông trên Văn Việt: “... Về những bài thơ, xin cô cứ tùy nghi. Tôi thiết nghĩ, dù xa mặt, bao giờ cô cũng chẳng nỡ làm gì có thể hại thanh danh và khí tiết của tôi...”

(6) Trời rạng/Chuyến đi không hoãn được/ Bài thơ tâm phát dẫu chưa xong/ Xin vẫn cài hờ lên cửa tạ (Thơ tạ)

Nguồn: https://nguoidothi.net.vn/to-thuy-yen-thuc-cho-xong-bai-tho-10186.html

20190927 Chu Cam Phong

1. Chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 là cuộc chiến tranh dai dẳng, gây thiệt hại lớn lao về vật chất và con người không chỉ cho đất nước Việt Nam mà còn cho nước Mĩ. Đó còn là cuộc chiến gây chia rẽ nhân tâm nhất trong lịch sử nước Mĩ. Để quốc tế hóa cuộc chiến, Mĩ đã huy động đông đảo lực lượng quân đồng minh tham chiến. Bên cạnh quân đội Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines, lực lượng quân sự Hàn Quốc đã tham gia tích cực, chiếm số lượng đông đảo nhất chỉ sau quân đội Mĩ và được đánh giá rất cao về khả năng và hiệu quả tác chiến.

Dưới sự chỉ huy của quân Mĩ, các sư đoàn Mãnh Hổ, Bạch Mã và lữ đoàn lính thủy đánh bộ Rồng Xanh được triển khai trên địa bàn các tỉnh miền Trung là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà, một địa bàn chiến lược trọng yếu. Ngoài ra còn có các đơn vị khác đóng tại Vũng Tàu, Biên Hòa, Sài Gòn. Năm 1968 là năm Hàn Quốc có lực lượng quân sự cao nhất hiện diện ở miền Nam Việt Nam với quân số lên tới hơn 50.000 người.

Tham chiến tại Việt Nam, quân đội Hàn Quốc trở thành lực lượng “xương sống” trong các cuộc hành quân bình định và tìm diệt ở duyên hải miền Trung. Từ khi đưa quân vào Việt Nam cho đến khi rút quân về nước, quân đội Hàn Quốc đã thực hiện rất nhiều cuộc hành quân và gây ra hàng loạt vụ thảm sát đẫm máu, tàn khốc như vụ thảm sát Bình Hòa thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi vào tháng 12 năm 1966; vụ thảm sát Bình An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định năm 1966; vụ thảm sát Hà My, Điện Bàn, Quảng Nam năm 1968… Nhiều làng quê miền Trung có ngày “giỗ Đại Hàn” do cả làng bị quân Hàn Quốc thảm sát. Bia căm thù lính Đại Hàn đã được dựng nhiều nơi như Bình Hòa ở tỉnh Quảng Ngãi, Hà My ở tỉnh Quảng Nam, Kim Tài ở tỉnh Bình Định…

Để lại nhiều “dấu ấn” như thế trên đất nước Việt Nam, hình ảnh người lính Hàn Quốc có mặt trong khá nhiều tác phẩm của văn học Việt Nam thời kì chiến tranh. Quan sát văn học Việt Nam thời kì này, có thể thấy hình ảnh người lính Đại Hàn chủ yếu xuất hiện trong tác phẩm của các nhà văn sinh trưởng hoặc có quá trình hoạt động ở các tỉnh duyên hải miền Trung như Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam…

Chu Cẩm Phong sinh ở Quảng Nam, tập kết ra Bắc, sau này quay về hoạt động tại khu 5. Nguyễn Mộng Giác, Mang Viên Long là người Bình Định. Y Uyên người gốc Bắc nhưng dạy học ở Phú Yên. Trần Hoài Thư sinh ở Lâm Đồng nhưng thời đi lính có hoạt động ở miền Trung… Do đứng ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau, cái nhìn của các nhà văn cách mạng và cái nhìn của các nhà văn miền Nam thuộc phía Việt Nam Cộng hòa về người lính Hàn Quốc trong văn học cũng rất khác nhau.

2. Các nhà văn cách mạng gọi lính Hàn Quốc là “lính Nam Triều Tiên”. Trong một số tác phẩm của các nhà văn này, hình ảnh người lính Hàn Quốc thấp thoáng xuất hiện và được nhìn nhận có phần còn đơn giản. Đó chỉ là những người lính đánh thuê cho quân đội Mĩ. Họ do đó cũng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.

Lính Nam Triều Tiên là những lính thiện chiến, can đảm trong trận mạc, nhưng tàn bạo, ráo hoảnh nhân tính, đã gây nhiều tội ác ở Việt Nam, gây ra nhiều cuộc thảm sát ở các vùng nông thôn Việt Nam. Trong tiểu thuyết Mẫn và tôi, Phan Tứ viết về lính Nam Triều Tiên như là một đội quân ác ôn, làm cho đời sống của người dân trở nên khó khăn, khổ sở: “Quân ngụy Nam Triều Tiên đóng chật cứng trong phố cảng, giá gạo củi tăng gấp ba bốn lần, thở sao nổi, còn chưa nói tới tụi ác ôn Rồng Xanh, Cọp Trắng ấy phá phách đến chừng nào”.

Ở Nhật kí chiến tranh của Chu Cẩm Phong, hình ảnh tàn bạo của lính Nam Triều Tiên cũng không ít lần xuất hiện, chẳng hạn: “16/7/67. Đi qua núi Tròn, ngay gần sát dưới chân núi, nhìn thấy rõ trụ cờ và từng nhánh nhỏ của một cây khô. Đường nắng và vắng quá nên hơi ngại. Chỉ e một thằng Nam Triều Tiên tàn bạo nào đó ngứa tay nổ phát súng. Đối với bọn địch dã man như bọn này, việc bắn một người dân lương thiện chúng không cho là lầm lỗi”.

Trong bút kí Xuân 1975 - Đất Quảng, Triệu Xuân đã viết về một cuộc thảm sát của lính đánh thuê Nam Triều Tiên: “Trên doi đất nhô ra sông Thu Bồn, cách cụm cứ điểm Nông Sơn không đầy hai giờ đi thuyền, cách đây năm mùa xuân, bọn đánh thuê Nam Triều Tiên đã bắt hàng chục người toàn phụ nữ, cụ già và con nít trong làng xếp thành một hàng, rồi dùng tiểu liên bắn chết. Cùng ngày đó, đài phát thanh Sài Gòn, một thứ tiếng nói của loài thú, đưa tin: Quân đội đồng minh trong một trận đọ súng ở cách tây nam Đà Nẵng 65 kilômét đã bắn hạ một đại đội Việt cộng. Xác hàng chục người đã ngã xuống sông Thu, trôi trên dòng sông Thu...

Nước sông Thu Bồn vốn rất xanh đã biến thành màu đỏ trong những ngày kẻ thù bình định. Mảnh đất quê hương dường như cũng đổi màu. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm đã thấm nhiều máu đỏ của người dân đất Quảng. Máu con người đã nhuộm đỏ dòng sông, mảnh đất quê mình. Rồi kẻ thù sẽ phải trả nợ máu!”.

Do được nhìn từ xa, từ phía đối nghịch nên chân dung người lính Nam Triều Tiên trong tác phẩm của các nhà văn cách mạng nhìn chung còn sơ lược. Trong Bài thơ về hạnh phúc, nhà thơ Dương Hương Ly gọi những người lính Nam Triều Tiên đã bắn chết vợ mình bằng tên gọi “quân thù” chung chung: Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy/ Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người/ Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi/ Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trong Chiến trường, sống và viết, cho rằng nhân vật phản diện nơi các tác phẩm văn học của ta viết về chiến tranh chống Mĩ “hãy còn mờ nhạt”, “đọc rồi, ta cứ vẫn thấy nó méo mó”, “bởi vì ta chỉ thấy cái bên ngoài hơn là cuộc sống bên trong của nó”. Phạm Văn Sĩ trong Văn học giải phóng miền Nam cũng cho rằng những nhân vật phản diện trong các tác phẩm đề tài này chưa phải là những tính cách văn học. Người lính Hàn Quốc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 nhìn chung cũng được khắc họa đơn giản, một chiều, mờ nhạt như thế.

3. Các nhà văn miền Nam Việt Nam gọi lính Hàn Quốc là “lính Đại Hàn”. Do tiếp cận người lính Hàn Quốc ở một cự li gần, có người còn sát cánh cầm súng cùng quân đội Hàn Quốc, hình ảnh người lính Hàn Quốc trong tác phẩm của các nhà văn miền Nam Việt Nam có phần rõ nét hơn và cũng đa dạng, phức tạp hơn.

Có nhà văn nhìn nhận lính Hàn Quốc như là những người lính đánh thuê, tham chiến chỉ vì tiền. Có người nhìn nhận họ như những người lính man rợ, giết người không gớm tay. Ngụy Ngữ trong truyện ngắn Theo những đường bay đi xa đã viết về “những thằng Đại Hàn man rợ cắm cái đầu người trước xe Jeep, những xâu chuỗi kết bằng tai người khô queo, những họng súng bắn vào dân tị nạn”.

Nhà thơ Luân Hoán tỏ ra không có cảm tình với lính Hàn Quốc: chỗ nào lính Đại Hàn qua/ giếng sâu thuốc độc đã hòa nước trong (Đốt vườn ở Sơn Kim). Là một người lính hải quân của miền Nam nhưng Lê Bá Thông vẫn không có mấy thiện cảm với sự hiện diện của lính Đại Hàn: “Trên đường thỉnh thoảng vài chiếc xe quân đội chở lính Đại Hàn chạy ngang qua, trên xe mấy anh lính miệng cười nham nhở, đưa tay vẫy về phía xe Jeep của Vân, làm cho Hương, bạn gái của Vân, cảm thấy khó chịu” (Sao rơi trên biển).

Cây bút nữ Lê Thị Hoài Niệm viết về những hệ lụy do quân đội Đại Hàn gây ra: “Má tôi kể là có một đơn vị lính Đại Hàn, họ đóng đồn ở giữa đồng trống, chung quanh họ rào kẽm gai đến mấy vòng, hễ có ai lảng vảng đến là họ bắn chết không kêu than. Những ngày tháng đầu vô cùng yên ắng, người dân nào còn ruộng lúa chung quanh thì ban ngày có thể ra đồng làm việc, buổi tối thì họ thiết quân luật. Vậy mà một trận tấn công đồn lại xảy ra.

Không biết có bao nhiêu quân của mặt trận giải phóng xuất hiện, họ lần mò trong đêm tối cắt những vòng dây thép để xâm nhập vào đồn, dù những người lính Đại Hàn canh gác rất nghiêm nhặt. Một trận đánh xáp lá cà ngay trong đồn diễn ra, những người dân trong làng chỉ nghe tiếng súng nổ đã inh tai nhức óc, thót cả tim. Và qua một đêm đen hãi hùng, sáng ngày hôm sau, những người lính đồng minh đi lùng sục, bắt bớ và… giết người nào mà họ cho là có liên hệ với những bọn mặt trận tấn công đồn (Má tôi với quê hương ngày cũ)…

Cũng có cây bút miền Nam tỏ ra thiện cảm với quân đội Hàn Quốc, như Trần Hoài Thư, người từng sát cánh với quân đội Đại Hàn trong một thời gian khá dài tại Bình Định. Hình ảnh người lính Hàn Quốc hiện diện trong một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư như Đêm Chiêm Thành, Gò Bồi bên kia sông với tư cách là những người lính đồng minh.

Nhà văn Nguyên Lương trong Câu chuyện của tôi và một người Hàn họ Lý kể về những người lính Hàn Quốc thân thiện, trong đó có một người thường đến thăm nhà và bút đàm chữ Hán với cha của ông: “Những người lính Hàn thường ra khỏi trại, đến nhà dân thăm hỏi, cho quà, làm quen và tìm hiểu dân tình”. Nguyên Lương cũng viết về vị thiếu tướng Chun Doo-hwan, chỉ huy quân đội Đại Hàn tại Việt Nam, sau trở thành Tổng thống Hàn Quốc. Thiếu tướng Chun Doo-hwan thường ghé Quy Nhơn thăm trường Nguyên Lương học và giúp đỡ trường xây một hội trường lớn theo kiểu kiến trúc cổ rất đẹp.

Có nhà văn nhìn nhận lính Đại Hàn là những người dù tàn bạo nhưng vẫn mang trong mình văn hóa, tôn giáo của họ và họ cũng biết tôn trọng văn hóa, tôn giáo của người Việt. Trong truyện ngắn của Mang Viên Long, hình ảnh người lính Đại Hàn hiện diện khá đậm nét. Nhân vật Tiên trong tác phẩm Trên đỉnh tháp chuông nhận thấy rằng những người lính viễn chinh khi đến nhà thờ cũng đeo tấm thánh giá trên cổ như những con chiên ngoan đạo khác.

Ở truyện ngắn Chùa Cô Ba, Mang Viên Long viết về phản ứng của lính Đại Hàn khi xông vào một ngôi chùa ở làng quê: “Có một lần, gặp toán lính Đại Hàn xồng xộc tràn vào chùa, cô Ba đứng chận ngay ở cổng, lấy tờ giấy carton gần đó, viết dòng chữ Hán rồi đưa cho tên lính đang đứng trước mặt: Chúng tôi thờ Phật, các ông hãy tôn trọng, giúp đỡ, không nên quấy phá. Sau đó, cô Ba vẫn thản nhiên, tay cầm tràng hạt, dạo bước theo họ, yên lặng. Từ hôm ấy, đã thấy vắng bóng của lính Đại Hàn ngang nhiên vào chùa lùng sục”. Cô Ba cho rằng họ như là những nạn nhân của chiến tranh: “Cô cảm thấy thương xót họ, những mảnh đời đang trôi lăn dần vào cõi tối tăm đau khổ, nhưng không thể chia sẻ được lời nào”.

Nhà văn Võ Hồng trong truyện ngắn Như con chim sơn ca lại lên án sự phi lí của chiến tranh khi kể về cái chết của Ái Lan, một cô bé nông dân sống ở vùng “giải phóng” hồn nhiên, vô tư “như con chim sơn ca mổ hạt lúa và con sâu ở cánh đồng bên này rồi bay vụt qua cánh đồng bên kia, lại mổ con sâu, hạt lúa”. Ái Lan đi lên núi gài chông gặp đúng lúc lính Đại Hàn đi càn, cô chạy về đạp trúng ngay bàn chông mình gài. Ở truyện ngắn Chuyến về Tuy Hòa, Võ Hồng lại viết về một quân nhân Đại Hàn “có vẻ mặt khó hiểu” cùng đi trên chuyến xe đò về thị xã Tuy Hòa, tỉnh lị của Phú Yên.

Như vậy, có thể thấy, trong văn học Việt Nam trước 1975, hầu như không có nhân vật người lính Hàn Quốc nào được xây dựng công phu, có số phận, có cuộc đời riêng, trở thành những tính cách văn học đầy đặn, thuyết phục.

4. Sau năm 1975, hình ảnh người lính Hàn Quốc vẫn còn hiện diện trong khá nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam, như các tiểu thuyết Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác, Gió Tuy Hòa của Trần Thiện Lục, Trăng mật bến sông Cầu của Nguyễn Tấn Hưng, Khoảng lặng sau chiến tranh của Trịnh Đình Khôi; truyện dài Phương trời cao rộng của Vĩnh Hảo; tập truyện ngắn Những mảnh đời luân lạc của Trần Đại Nhật; các truyện ngắn Trong khu rừng yên tĩnh của Lê Hoài Lương, Ông già bán quán ăn ở Seoul của Võ Thị Xuân Hà, Ngôi mộ không hài cốt của Văn Quốc Thanh, Con người lính Đại Hàn của Đinh Phong, Mùa xuân của biển của Đỗ Kim Cuông; tập truyện kí Huyền thoại tàu không số của Đình Kính; hồi kí Chiến trường, sống và viết của Nguyên Ngọc, hồi kí của Cao Duy Thảo, Bùi Minh Quốc…

Hình ảnh lính Đại Hàn còn hiện diện cả trong thơ Việt Nam sau 1975, chẳng hạn như những “toán lính Đại Hàn” ẩn hiện trong khung cảnh thánh địa Mĩ Sơn, tháp Yang Pakran Yang Praung “phực cháy”, tháp Dương Long, tháp Cánh Tiên… ở trường ca Sầu ca trên đồi cát Nam Kương của Inrasara. Trần Vàng Sao trong bài thơ Gọi tìm xác đồng đội đã nhập vai một người lính hi sinh trong trận đánh với lính Nam Triều Tiên: Tôi chết trong trận đánh xáp lá cà với bọn Rồng Xanh Nam Triều Tiên ở Kỳ Lam/ Không biết anh em chôn tôi ở đâu.

Sau chiến tranh, nhờ có độ lùi về thời gian, văn học viết về chiến tranh đã có chiều sâu hơn với nhiều tìm tòi về nội dung và nghệ thuật. Hình ảnh người lính Hàn Quốc do đó cũng sinh động hơn, có số phận, cuộc đời riêng, tính cách riêng.

Trong tập truyện ngắn Những mảnh đời luân lạc viết về đề tài con lai Hàn - Việt của Trần Đại Nhật có nhân vật người lính Đại Hàn tên Lee. Lee là một sinh viên, thi rớt, chán nản nên bỏ học, bị động viên vào quân đội. Người yêu của anh bỏ đi lấy chồng khi anh còn ở quân trường. Sau khi hoàn thành đợt huấn luyện, anh được bổ sung vào sư đoàn Mãnh Hổ sang tham chiến tại Việt Nam.

Lee chiến đấu như một người vô hồn: “Là một người lính, Lee làm theo mệnh lệnh của cấp chỉ huy như một cái máy những khi tác chiến. Nhưng là một con người có tâm hồn, nhiều lúc Lee suy nghĩ mình đang chiến đấu vì điều gì đây. Không phải vì lí tưởng, không phải vì Tổ quốc của mình, tại sao mình lại dấn thân đến vùng chết chóc này? Lee đâm ra chán nản vì không tìm thấy câu trả lời ổn thỏa”. Do buồn chán, Lee hay ra quán nước ngồi, từ đó quen thân với một cô chủ quán tên Lan có gương mặt đẹp và đôi mắt quyến rũ.

Họ yêu nhau và có với nhau một đứa con gái. Rồi Lee phải trở về nước và bị đứt liên lạc với người yêu. Sau chiến tranh, Lee trở thành một vị giáo sư sử học và sang lại Việt Nam để sưu tầm tư liệu viết về hậu quả của chiến tranh. Ông cũng muốn tìm lại Lan và đứa con của mình. Nhưng cô Lan - người yêu cũ của Lee- vì đau buồn đã trở thành một bà già điên khùng, luôn ăn mặc rách rưới, tóc tai bù xù rũ rượi. Còn người con gái của bà và Lee do hoàn cảnh đã trở thành gái điếm.

Nhà văn Nguyên Lương trong tác phẩm Những người Hàn, họ Lý, gốc Việt có kể câu chuyện của ông và một người Hàn tên Teak Young Lee (Lý Hoàng Tất). Teak Young Lee là một trong những người lính Hàn Quốc đầu tiên được đưa đến Việt Nam tham chiến từ những năm 1968 - 1972, làm lính tình báo trong sư đoàn lục quân Mãnh Hổ đóng tại vùng núi Vân Sơn, xã Phước Thành, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Anh ta thường đến nhà Nguyên Lương và bút đàm bằng chữ Hán với bố nhà văn.

Sau chiến tranh, nhờ có kinh nghiệm sống và làm việc ở Việt Nam trong thời chiến, Teak Young Lee được công ti Samsung cử làm giám đốc ở Bắc Ninh. Trong thời gian này, qua việc tìm hiểu kĩ về gia phả, Teak Young Lee biết ông tổ của mình cũng xuất thân từ vùng đất mà mình đang làm việc và đã rất xúc động: “Thảo nào mình rất mến người Việt, vì trong máu của mình cũng có dòng máu của Việt tộc”.

Võ Thị Xuân Hà với truyện ngắn Ông già bán quán ăn ở Seoul, in trong tập truyện ngắn Cành phong hương, kể về những lần gặp gỡ của một cô gái Việt với ông chủ một quán ăn ở Seoul “nom rất phúc hậu”, là lính Pak Chung Hee trước kia đã từng tham chiến ở Việt Nam. Người lính ấy từng bắn vào lưng của một bà mẹ trẻ trước ánh mắt chứng kiến của đứa con gái còn non dại. Người lính ấy cũng đã từng ngập ngừng khi chĩa súng vào em bé gái ấy. Giờ nỗi xót xa ân hận của ông như toát ra từ thân thể mỏng dính vì chất độc chết người nào đó từ chiến trường Việt Nam.

Trong tiểu thuyết Mùa biển động, Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng nhân vật thiếu tướng Kim I. Chung, chỉ huy quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam. Đây có lẽ là nhân vật người lính Hàn Quốc có quân hàm cao nhất từng xuất hiện trong văn học Việt Nam. Thiếu tướng Kim I. Chung tuổi đã gần sáu mươi, từng tham dự vào cuộc phản công lên Bắc Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953. Nguyên mẫu của nhân vật này có lẽ là thiếu tướng Chun Doo-hwan, nguyên Tổng tư lệnh quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam thời chiến tranh, sau này là Tổng thống Hàn Quốc.

Đây cũng là tiểu thuyết miêu tả sinh động nhất về những hoạt động của quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam, cụ thể là ở Quy Nhơn, từ lúc sư đoàn Mãnh Hổ đổ bộ lên cảng Quy Nhơn và từ lúc bản doanh chỉ huy đóng tại làng Phú Tài tung các đợt càn quét đẫm máu và hung bạo. Bên cạnh việc miêu tả những hoạt động tuyên truyền, phát thuốc, khám bệnh của quân đội Hàn Quốc, việc sư đoàn Mãnh Hổ xây biếu trường trung học Cường Để một đại thính đường làm nơi sinh hoạt chung cho học sinh, Nguyễn Mộng Giác viết về một cuộc thảm sát ghê rợn những người dân vô tội do quân đội Hàn Quốc gây ra để trả thù cho một thiếu úy Hàn Quốc bị du kích bắn chết.

5. Quân đội Hàn Quốc đã tham chiến tích cực bên cạnh quân đội Mĩ ở Việt Nam và gây ra không ít tội ác chiến tranh, đặc biệt là nhiều trận thảm sát người dân Việt Nam vô tội. Nhưng so với những tác phẩm của Hàn Quốc viết về chiến tranh Việt Nam như các tiểu thuyết, truyện ngắn của Hwang Sok-Yong, Bang Hyun Suk… thì tác phẩm của các nhà văn Việt Nam viết về sự tham dự của quân đội Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam vẫn còn khá đơn giản. Nhân vật người lính Hàn Quốc trong văn học cách mạng, văn học miền Nam Việt Nam và cả trong văn học Việt Nam sau 1975 vẫn còn khá mờ nhạt, chưa có chiều sâu. Đây là một vấn đề cần suy nghĩ đối với các nhà văn Việt Nam khi “thâm canh” đề tài chiến tranh - đề tài vẫn còn nhiều tầng vỉa giàu sức vẫy gọi

Võ Văn Nhơn

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 25.9.2019.

20190519 HNB1

Nhà văn, dịch giả, họa sĩ Hoàng Ngọc Biên vừa từ trần ở San Jose, tiểu bang California, lúc 8 giờ sáng ngày 16-5-2019, hưởng thọ 81 tuổi. Sinh năm 1938 ở Quảng Trị, ông là một nghệ sĩ đa tài và độc đáo, tác giả của nhiều tập thơ, tập truyện, bức tranh, công trình biên khảo được nhiều người biết từ khi còn ở Sài Gòn đến khi định cư ở Hoa Kỳ.

Về thơ, ông đã cho xuất bản: Uống trà sớm mai, Đất và người và thần thoại Việt Nam, Biển ngày đêm, Chân mây cuối trời (in chung với Đỗ Trung Quân).

Về văn xuôi, ông là tác giả của những cuốn sách Đêm ngủ ở tỉnh, Người đạp xe vào thành phố buổi sáng, Chuyến xe, Quê hương, người về.

     Với tư cách dịch giả, ông chuyển ngữ nhiều tác phẩm của Boris Pasternak, Joseph Brodsky, Samuel Beckett, Jean Tardieu, Georges Perec, Alain Robbe-Grillet, trong đó có tác phẩm dịch chung với người bạn đời là Nguyễn Thu Hồng, cũng là một dịch giả tài năng.

Trên lĩnh vực hội họa, Hoàng Ngọc Biên là họa sĩ sáng tác và trình bày, đã triển lãm tranh ở Viện Đại học Đà Lạt, Viện Goethe, Pháp văn Đồng minh Hội, Hội Họa sĩ Trẻ Việt Nam…; đồng thời phụ trách mỹ thuật, vẽ bìa, minh họa cho nhiều ấn phẩm trong và ngoài nước.

Ngoài ra, ông còn sáng tác nhạc, thân hữu còn ghi nhớ những ca khúc ông viết thời trẻ tuổi về Huế (Nắng hoàng hoa, lời Hoàng Phủ Ngọc Tường), về Đà Lạt (Hồ thu)…

Nhà văn – hoạ sĩ này là người am hiểu sâu sắc các khuynh hướng nghệ thuật hiện đại phương Tây và có đóng góp nổi bật trong việc tiếp thu các trào lưu văn học hiện đại để cách tân văn học miền Nam những năm trước 1975. Với hai cuốn sách Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại (Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1969) và Marcel Proust - con người xã hội (Nxb Trình Bầy, Sài Gòn, 1974), Hoàng Ngọc Biên trở thành nhà nghiên cứu chuyên sâu về tiểu thuyết dòng ý thức và Tiểu thuyết Mới (Le Nouveau Roman). Soạn giả dành 60 trang mở đầu Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại để “ghi nhận về một chuyển biến trong văn chương Pháp”. Theo ông, chuyển biến đó chính là sự xuất hiện của tiểu thuyết “dòng ý thức” và Tiểu thuyết Mới. Ông cho rằng Tiểu thuyết Mới là sự tiếp nối hợp lý của Tiểu thuyết “dòng ý thức” - tiểu thuyết như một cái nhìn. Tác giả trích dẫn hai câu nói của nhà văn M. Proust (“Thực tại đích thực là ở nội tâm”) và họa sĩ Paul Klee (“Nghệ thuật xứng danh với tên gọi không tạo ra cái để nhìn: nó phác họa những con mắt”), rồi đi đến nhận xét: “Mấy chục năm trước Proust đã phát biểu đâu đó là vấn đề đặt ra không phải là thực tại (hay mơ mộng) nữa mà là lối diễn tả thực tại, bắt nguồn từ cái nhìn của chúng ta” (Hoàng Ngọc Biên: Tuyển tập các nhà văn Pháp hiện đại, NXB Trình Bầy, Sài Gòn, 1969, tr. 25).

20190519 HNB2

Marcel Proust – con người xã hội, cuốn sách dày 150 trang của Hoàng Ngọc Biên cho thấy tình yêu của soạn giả đối với nhà văn lớn này. Cuốn sách gồm bốn chương “Marcel Proust, cuộc đời thí nghiệm cho tác phẩm”, “Những chủ đề rời thời trẻ tuổi”, “Thời gian tìm thấy lại”, “Marcel Proust, con người xã hội” và hai bài viết của Nguyễn Đăng Thường (Proust, một kỷ niệm trong mùa mưa) và Cao Thanh Tùng (Quê hương của nhạc sĩ). Ngoài ra, cuốn sách còn trích dịch ba đoạn văn nổi tiếng trong tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất (A la Recherche du Temps Perdu): “Chiếc bánh madeleine”, “Những gác chuông nhà thờ ở Martinville”, “Vũ trụ của Vinteuil”. Bằng những câu văn nhiều mệnh đề của một ngòi bút tài hoa, Hoàng Ngọc Biên đã phân tích sắc sảo thế giới nghệ thuật đầy bí ẩn của M. Proust. Điều thú vị là soạn giả đã kết nối sáng tác của Proust với thực tại đầu những năm 1970 : “Cuộc tìm kiếm của Marcel Proust - A la Recherche du Temps Perdu, sản phẩm lao động, và là lao động đấu tranh, bởi vì đấu tranh với thời gian, và đấu tranh cho con người – một trăm năm sau, vẫn còn là một tài liệu xã hội và nhân bản bất diệt, soi sáng những thảm kịch mà mọi xã hội văn minh, mọi xã hội kỹ nghệ ngày nay đang phải chịu đựng” (Hoàng Ngọc Biên: Sđd, tr. 99).

Văn xuôi Hoàng Ngọc Biên, trong Đêm ngủ ở tỉnh (NXB Cảo Thơm, Sài Gòn, 1971) và nhiều truyện ngắn khác, mờ nhạt yếu tố sử thi mà đậm đà chất liệu tự truyện, được thể hiện với kỹ thuật dòng ý thức. Tác giả còn là một nghệ sĩ dấn thân, nên tinh thần xã hội vẫn lấp lánh trong những trang viết của ông. Truyện ngắn Hoàng Ngọc Biên hoàn toàn không có cốt truyện sự kiện, chỉ có những hình ảnh trôi chảy theo một giọng văn giàu chất thơ. Theo chúng tôi, ông là một trong số ít nhà văn viết văn xuôi một cách kỹ thuật và nghệ thuật nhất ở miền Nam. Thật khó mà chọn ra để trích dẫn một đoạn văn của Hoàng Ngọc Biên, bởi vì văn ông có rất nhiều đoạn tinh tế và phải trích thật dài mới thể hiện hết phong cách của ông. Thử chọn một đoạn cho thấy sự hoà quyện giữa văn tự sự, thi ca và hội họa trong tác phẩm Hoàng Ngọc Biên:

Tiếng súng giữa khuya làm anh giật mình tỉnh giấc. Cũng vẫn là những tiếng súng anh thường nghe giữa khuya vào những đêm trễ xe chiều phải ngủ lại tỉnh, vẫn là những tiếng súng xa vọng về xen lẫn những tiếng đại bác từ châu thành bắn ra — những âm thanh cuồng nộ giữa cái im vắng tĩnh mịch của đêm khuya nổi lên làm rung chuyển cả căn nhà, cả bốn bức tường vây quanh anh, cả trời đất ngoài kia — nhưng giữa những cơn đau buốt trong tim nhói lên theo mỗi tiếng đại bác, anh mơ hồ thấy hiện lên trong căn phòng, qua các khe cửa và các chấn song dưới trần nhà một thứ ánh sáng màu đỏ nhạt chiếu mù mờ lên những đồ vật khá quen thuộc, chiếc bàn ở đó tối nay trước khi đi ngủ anh đã có ngồi chuyện vãn với vợ chồng người bạn, chiếc ghế dựa trên đó anh đã ngồi hút thuốc một mình hàng giờ trước khi lên giường, chiếc máy thâu thanh, những tranh ảnh lồng kính, những tấm lịch màu, chiếc tủ kính cao, những ly tách, những chồng giấy tờ sách vở ngổn ngang, anh mơ hồ thấy hiện lên trong căn phòng thứ ánh sáng màu đỏ nhạt của những trái hoả châu bên kia sông chiếu mù mờ lên mùng màn chăn gối trên giường anh. Cũng vẫn là những tiếng súng anh thường nghe giữa khuya vào những đêm trễ xe chiều phải ngủ lại tỉnh, nhưng giữa những cơn đau buốt trong tim nhói lên theo mỗi tiếng đại bác, anh chợt tỉnh giấc sợ hãi, tưởng như thấy lại những ngôi trường tiểu học bốc cháy trong buổi rạng đông trên đường đi của anh, tưởng như nghe rõ từ bên kia sông hay từ những quận lỵ và những làng mạc lân cận tiếng kêu khóc của những đoàn người bồng bế xô đẩy nhau chạy qua những cánh đồng đỏ rực hoả châu và lửa đạn” (Đêm ngủ ở tỉnh).

20190519 HNB Dans notre jardin

Tranh: Dans notre jardin - Hoàng Ngọc Biên     

So với những tác phẩm thuộc loại hình văn xuôi - chứng từ, hình ảnh và tiếng vọng chiến tranh trong Đêm ngủ ở tỉnh dường như được gián cách qua một màn sương của ký ức.

      Những tác phẩm khác viết trước năm 1975 của Hoàng Ngọc Biên như Buổi sáng, Một góc phố, Thành phố dốc đồi, Quê hương, người về, Người đạp xe vào thành phố buổi sáng, Một đoạn giữa mùa hè (trích tiểu thuyết Về giữa mùa hè) đều là những áng văn xuôi không có cốt truyện, gần với những thiên tùy bút nên có thể gọi đó là những truyện ngắn – tùy bút.

Trong công trình biên khảo Văn học miền Nam, Võ Phiến có nhận xét về truyện ngắn Người đạp xe vào thành phố buổi sáng của Hoàng Ngọc Biên:

“Trong truyện ông không có nhân danh, không có địa danh. Người chờ chuyến xe là chờ ở tại ga nào? Không biết. Tỉnh nào? Không biết. Định đi đâu? Không biết. Để làm gì? Không biết. Người đạp xe vào thành phố, người ấy tên gì? Ở đâu? Không biết. Người đọc có biết ông ta đạp xe đi mần kiếm sống. Thế thôi. Những cái người đọc biết rõ là trời tối, trời sáng, trời sáng hơn, là dãy tường, con đường, chiếc áo xanh, cái quần không còn màu, v.v... Người viết chỉ ghi nhận những cái ấy. Bằng cái nhìn objectal. Nhìn cái bên ngoài: hình dạng, màu sắc, cử động, khua khuống... Nhìn, và loại trừ mọi xúc động, nhận xét, suy tưởng” (Võ Phiến: Văn học miền Nam. Truyện [Cuốn 1], NXB Văn nghệ, California, 1999, tr. 780).

20190519 HNB2 Saigon

Tranh: Saigon - Hoàng Ngọc Biên

     Đó chính là do ảnh hưởng của những nhà tiểu thuyết mới như A. Robbe-Grillet, N. Sarraute, M. Butor… Nhưng không hẳn lúc nào Hoàng Ngọc Biên cũng chỉ có cái nhìn khách quan và loại trừ mọi xúc động, nhận xét, suy tưởng: đoạn văn trích từ Đêm ngủ ở tỉnh trên kia là một dẫn chứng. Không phải ngẫu nhiên mà Saint-Exupéry và Hoàng Ngọc Biên cùng yêu thích một câu văn của Marcel Proust: "Mơ tưởng đời mình vẫn hơn là sống thật cuộc đời ấy, cho dù rằng có sống thật đi nữa, thì cũng hãy còn mơ tưởng nó”. (Il vaut mieux rêver sa vie que la vivre, encore que la vivre ce soit encore la rêver). Tác phẩm của họ là sự mơ tưởng về cuộc đời hơn là chính cuộc đời ấy.

Bây giờ, ở thế giới bên kia, chắc hẳn Hoàng Ngọc Biên vẫn không thôi mơ tưởng về cuộc đời, về quê hương đất nước - mười năm qua chưa thấy bóng người về.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

Trong bầu không khí dân chủ tối đa và nhận thức tối đa của con người thời hậu chiến, nền thơ Việt Nam, trong đó có thơ nữ lại nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng về cuộc sống.

20190927 Tho nu

Điều này phản ánh cái nhìn nghệ thuật mới của chủ thể sáng tạo thông qua hình tượng con người trong mối quan hệ với văn hóa thời bình cùng với diễn ngôn tương ứng mang tính khách quan, chân thật.

Bản sắc văn hóa là cụm từ chỉ bản chất và thuộc tính của văn hóa. Nó hình thành từ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và với chính con người để tạo ra các hệ giá trị văn hóa theo quy luật của cái đẹp, cái giá trị. Văn học là một hình thái ý thức xã hội - thẩm mỹ kết tinh từ văn hóa, và đến lượt mình, nó biểu hiện thành những giá trị văn hóa mới, hiển minh nhất, đóng góp những nội dung mới cho văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng và cụ thể. Thơ ca là một thể loại đặc thù tiếp nhận từ văn hóa và tạo ra văn hóa mới trên cơ sở sáng tạo ra thế giới hình tượng phong phú, với ý nghĩa triết mỹ bất ngờ trên chất liệu ngôn ngữ cũng đa dạng, biến ảo. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng có chức năng sáng tạo, truyền dẫn và lưu giữ văn hóa tốt nhất, có sức nội cảm, lan tỏa kỳ diệu nhất. Môi trường sống với các mối quan hệ văn hóa đa dạng của nó chính là nền tảng, là bệ phóng làm xuất hiện hình tượng văn học.

Quan hệ giữa văn hóa và văn học ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Từ góc nhìn giới, quan hệ trên càng tương thích và hứa hẹn tỏ lộ những phẩm chất mới trong thơ nữ hiện đại Việt Nam. Căn cứ vào lý thuyết giới và lối viết nữ cũng như lý thuyết phê bình văn học nữ quyền, chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc trưng thi pháp mới mẻ của thơ nữ thời hiện đại mà cụ thể là từ 1986 đến nay. Đặt thơ nữ giai đoạn này trong bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa tương ứng sẽ phát hiện nhiều giá trị ngữ nghĩa mới cho thơ. Ở đây, cần phải nhìn nhận rằng thơ nữ là mô hình chủ thể để nghiên cứu trong quan hệ với mô hình khách thể là môi trường lịch sử - văn hóa mà nhà thơ sống trong nó và phản ánh nó. Cả hai sẽ cộng hưởng, hỗ tương lẫn nhau để làm giàu có bản sắc văn hóa cho dân tộc, đồng thời làm giàu bản sắc văn hóa cho thơ nữ Việt Nam giai đoạn này.

Văn hóa trong tình yêu biểu hiện ở lòng thủy chung, ân nghĩa, sự son sắt hẹn thề; trong chiến tranh chia cắt, người vợ vẫn đợi ngày thống nhất. Lê Thị Mây nhận ra: “Chợt như trăng non tiếp nhận ánh ngày/ Tôi tiếp nhận niềm tin nước nhà thống nhất/... Sắc cờ sao nơi chót mũi Cà Mau” (Mặt trời ở biển). Nhìn cát, Lê Thị Mây biết mỗi ngày niềm tin mỗi mới: “Cát vàng rơi, cát vàng rơi/ Sau đêm mưa ngọt càng ngời nắng mát” (Cát làng tôi); Hoàng Việt Hằng không thôi day dứt và trách nhiệm với những hiện thực trái ngang, luôn dùng dằng trong tâm tưởng và hiện thực: “Em khâu tóc trắng thay lời/ Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau/ Con chồng, vợ cũ, đồng sâu/ Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng” (Một mình khâu những lặng im). Từ đó, một ý niệm về văn hóa ứng xử hiện lên sâu nặng.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc chiến tranh đau thương, mất mát. Nỗi đau, bi kịch hằn sâu trên mặt đất và trong mỗi hồn người. Tất cả hiện thực đó đã tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của con người, làm hiện lên những phẩm chất văn hóa ngời sáng trong thơ ca. Hiện thực cuộc sống và con người hòa quyện trong nhau để làm nên những nội dung mang bản sắc văn hóa mới, phản ánh tình cảm, tâm hồn, chất thơ mới cho mỗi chặng đường thơ kháng chiến. Ở đó, hiện thực và lý tưởng, trữ tình và anh hùng ca, nội dung và hình thức hòa quyện trong nhau tạo nên đặc trưng văn hóa thời chiến.

Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa trong cuộc sống đời thường hiện lên với nhiều sắc thái và cung bậc. Cuộc sống nghèo túng đã đi vào thơ với nhiều day dứt, xót xa. Nguyễn Thị Mai nhớ về một thời cơ cực của mẹ với hình ảnh buồn thương: “Mẹ ơi/ Thơm cay một miếng trầu xưa/ Mà con phải bớt tiền mua vì nghèo/ Bây giờ đã bớt gieo neo/ Lại không còn mẹ và chiều. Khổ không?” (Qua hàng trầu nhớ mẹ). Suy thoái đạo đức thời kinh tế thị trường lại đi vào thơ một cách day dứt: “Thật khủng khiếp khi lời yêu thương cạn kiệt/ Khi người ta cứ vô cảm sự đời/ Trước vẻ đẹp của ánh trăng, ngọn cỏ/ Trước nỗi buồn da diết cũng dửng dưng” (Khoảng cách - Hoàng Kim Dung)..

Đối thoại, tự thoại, tự vấn, điều trần với văn hóa thời bao cấp cũng có mặt trong thơ nữ giai đoạn này: “Những con lừa đã giấu đi bản chất/ Râu xanh/ Khoác trên vai mùi thơm những vòng nguyệt quế” (Ốc đảo - Đoàn Thị Lam Luyến). Thơ Phan Huyền Thư bộc lộ nỗi hoài nghi có tính triết mỹ và văn hóa trước một hiện thực mới: “Con người là nỗi đau!/ Phá vỡ thuyết tương đối nhưng lại tin sự tương ứng” (Không thanh thản). Có lúc nhà thơ không nén được nỗi xót xa: “Em căm thù sự bất công/ giả trá/ Nghịch lí như mạng nhện ma quái” (Những câu thơ mang vị mặn). Vi Thùy Linh đã soi vào danh tác của các nghệ sĩ bậc thầy trên thế giới để hiểu những vấn đề lịch sử và văn hóa ngày hôm nay của đất nước sau chiến tranh: “Tôi ngước nhìn những câu thơ anh như động mạch chạy dọc vòm trời” (Gửi Êxênhin); “Tôi nghĩ về Van Gogh/ Những kiệt tác hay chính cuộc đời ông là ám ảnh” (Tôi lắng nghe Van Gogh). Đó phải chăng là cách thanh lọc và nhân đạo hóa đời sống mà thơ nữ hướng tới để ủ mầm cho niềm tin thánh thiện trong hiện tại và tương lai? Nhưng dù gì, các nhà thơ nữ cũng đã nhận ra sự bất ổn của văn minh thời hiện đại. Vi Thùy Linh đã xác nhận: “Khi đã thấy nhiều sự đối lập, nghịch lý trên mặt đất này.../ và cừu Dolly ra đời không cần có cha” (Tảng băng trôi); “Sự tiến hóa làm con người xa nhau hơn/ Thậm chí ít có thời gian để cười và càng ít khóc...” (Đôi mắt lửa Puskin); “Khi mà bây giờ hầu như mọi thứ có thể mua/ Từ trinh tiết đến tình cảm hợp đồng và bằng cấp” (Tôi lắng nghe Van Gogh)... Văn hóa thời bao cấp được nhà thơ ghi lại bằng cái nhìn nghệ thuật bình đẳng để thấy được mặt trái của văn minh: “Tiếng thơ ầm ĩ/ tim lại rung lên bao thổn thức: Trái đất - cái cối xay rất cũ/ Vòng vòng quay nặng nề mệt mỏi/ Nóng dần lên, nước biển/ Thức dậy những núi lửa... Hàng triệu người điên lên theo mãnh lực phần mềm Microsoft/ Những tâm hồn đang được mã hóa với nhịp điệu sống lập trình/ Ngày đêm, nơron thần kinh căng cứng cập nhật dữ liệu/ Con người không ngây thơ, không nhiều ước mơ và mất dần lãng mạn/ Màu dollar sắp nhuộm cả da trời...”. Hà Nội thời hội nhập và mở cửa còn ngổn ngang đã đi vào thơ Vi Thùy Linh qua nét vẽ bằng thơ: “Hà Nội vẫn là cái làng/ Vỉa hè phơi những cảnh đời” (Nghệ sĩ); Hà Nội mất dần đi nét đẹp xưa: “Tôi sống trong Hà Nội mà mất dần Hà Nội/ Quy hoạch lộn xộn giải tỏa chất thơ” (Hà Nội tưởng tượng). Thơ tác động vào văn hóa thời mở cửa ở những nét bình dị mà không thể không lo âu về sự phân hóa của xã hội và con người.

Tuy vậy, thơ nữ Việt Nam sau 1986 vẫn không quên chắt chiu, gom góp vẻ đẹp văn hóa truyền thống ngàn đời với tinh thần hoài niệm và đối thoại nhân văn về những cổ mẫu và biểu tượng văn hóa vĩnh hằng.

Tình mẫu tử là một cổ mẫu văn hóa đặc biệt, làm nên nguyên lý Mẹ thiêng liêng và Nữ tính vĩnh hằng. Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong các nhà thơ nữ viết về mẹ nhiều nhất. Mẹ là người âm thầm nuốt dòng lệ cô đơn, ly cách vào lòng; âm thầm nuôi con và mong con khôn lớn. Những bài thơ về mẹ của Lâm Thị Mỹ Dạ như: Nghĩ về mẹ, Hái tuổi em đầy tay, Trái tim sinh nở, Hoa chắt chiu… đều da diết niềm đau và yêu kính thiêng liêng. Từ hoàn cảnh riêng tư của mẹ: “Trách xưa ai đã phụ tình/ Để cho mẹ chịu một mình khổ đau/ Thác ghềnh nước cả, sông sâu/ Chống chèo mình mẹ đương đầu bão giông/ Buồn lo mẹ dấu trong lòng/ Nuôi em trong dạ mẹ mong tháng ngày/ Nỗi mình biết ngỏ ai hay/ Bao đêm nước mắt vơi đầy mẹ ơi”. (Trái tim sinh nở). Mẹ được ví như một loài hoa mang tên khiêm nhường, nhưng vĩ đại: Hoa chắt chiu: “Con gọi hoa chắt chiu là hoa của mẹ/ Bởi tin hoa như đời mẹ, mẹ ơi” (Hoa chắt chiu). Mẹ trong thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng thế, liên quan đến những gì thẳm sâu, ân nghĩa, ngọt lành: “Mẹ chính là cốt rễ/ Cho con kết quả đơm bông” (Dâng mẹ).

Những đắng cay bao giờ mẹ cũng nuốt vào trong, dành trọn tình yêu, niềm tin cho con, hy sinh thầm lặng, nhận tất cả nỗi đau về mình. Giống như Mẹ và Quả trong cái nhìn nam giới của Nguyễn Khoa Điềm: “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống/ Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn/ Nhỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” (Mẹ và Quả).

Trong thơ Ý Nhi, ký ức thời trẻ của mẹ lại hiện về trong ưu tư và day dứt: “Giữa bao nhiêu năm tháng ngược xuôi/ Đã có lúc lòng con đơn bạc/ Quên cả những điều tưởng không sao quên được/ Như người no quên cơn đói của mình...” (Kính gửi mẹ). Cái nhìn đầy yêu thương và văn hóa đối với mẹ bao giờ cũng xuất phát từ những sợi dây tình cảm thiêng liêng và xúc động của một thời cay cực đã qua.

Phan Thị Thanh Nhàn nghĩ về mẹ trong quan hệ máu mủ, nghĩa nặng tình sâu. Không có mẹ, mọi tồn tại trên cõi đời này sẽ thành vô nghĩa: “Đâu tấm lòng nhạy cảm/ Tình yêu và bài thơ/ Cũng chẳng hề đau khổ/ Chẳng một ngày đạn bom/ Chẳng mùa thu giông gió/ Chẳng mùa hè cao xanh”. Có con, đời có buồn vui, ân nghĩa, dẫu vất vả, gian lao: “Con làm khổ mẹ đi nào/ Thèm chua mỏi mệt xanh xao vóc gầy/ Vẫn hay chín tháng mười ngày/ Con như trái nắng mình cây chín dần” (Tình mẹ).

Không có mẹ không có vui buồn, không có khổ đau và hạnh phúc. Những biểu hiện văn hóa khi nghĩ về mẹ của Xuân Quỳnh cũng giống như Phan Thị Thanh Nhàn, nhưng mang chiều sâu nhân quả thiên bẩm. Đó là cái nhìn tác động nhân ái qua lại giữa mẹ và con, cả hai là điểm tựa của nhau: “Dẫu con đi suốt cuộc đời/ Vẫn không đi hết những lời mẹ ru”. Với mẹ chồng, văn hóa ứng xử của Xuân Quỳnh càng trách nhiệm, cao đẹp: “Phải đâu mẹ của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi/ Mẹ tuy không đẻ không nuôi/ Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong”. Và cuối cùng, như một chân lý hiển nhiên: “Chắt chiu từ những ngày xưa/ Mẹ sinh anh để bây giờ cho em” (Mẹ chúng mình). Cao hơn logic thông thường, Lâm Thị Mỹ Dạ nâng con lên tầm vũ trụ, một biểu hiện của cái nhìn văn hóa cao quý về tình mẫu tử: “Những lời vô nghĩa của con/ Dạy cho mẹ nghĩa yêu thương cuộc đời” (Chùm quả cho con).

Như một logic của tình cảm máu thịt, thiêng liêng, các nhà thơ nữ khi nghĩ về mẹ, họ lại không nguôi nghĩ về con - một biểu hiện của nguyên lý Mẹ và văn hóa Mẫu. Hy sinh, nuôi dưỡng và yêu thương con đến hơi thở cuối cùng là thiên tính nữ vĩnh hằng mà mọi người mẹ trên trái đất này đều giống nhau. Một cổ mẫu không bao giờ nhòa nhạt. Đầu đời khi con chào đời, đôi môi đỏ thắm, bé bỏng của con sẽ là niềm sung sướng của mẹ: “Đôi làn môi con/ Ngậm bầu vú mẹ/ Như búp hoa huệ/ Ngậm tia nắng trời” (Trắng trong - Lâm Thị Mỹ Dạ). Vì vậy mà lời ru là một trong những biểu hiện của hạnh phúc đầu tiên khi được làm mẹ, nhất là trong lửa đạn chiến tranh: “Ngủ đi con hãy ngủ đi/ À ơi cái ngủ đang về cùng con/ Từ trong lá cỏ tươi non/ Vượt lên mảnh đất vẫn còn mảnh bom/ Từ ngôi nhà mới vừa làm/ Nghe trong cái ngủ nồng nàn mùi vôi” (Lời ru trên mặt đất - Xuân Quỳnh). Cao hơn chức năng vốn có của lời ru, Xuân Quỳnh đã nâng lời ru lên tầm văn hóa, có khả năng thanh lọc, chở che: “Ngủ yên con, ngủ đẫy giấc nghe con/ Lời mẹ ru làm chiến hào che chở” (Lời ru trên mặt đất).

Rồi con lớn lên, chớm vào thời thiếu nữ, người mẹ lại phải bao vất vả lo toan cùng tuổi con khôn lớn mỗi ngày. Mẹ thấy được vui buồn ngày xưa của mẹ bây giờ lại hiện về trong trong ánh mắt thiếu nữ của con: “Tự mình phải hiểu mình thôi/ Làm thân con gái một đời/ Buồn lo lặn vào trong mắt/ Nụ cười cứ nở trên môi” (Mẹ có một thời con gái - Lâm Thị Mỹ Dạ). Xuân Quỳnh mơ một ngày mai tươi sáng cho con khi đất nước hết chiến tranh: “À ơi ngọn lửa ngày xưa/ Mẹ nuôi dưới đất bây giờ về đây/ Nhìn lên rực rỡ trên đầu/ Lửa hôm qua đã trong màu cờ bay” (Lời ru trên mặt đất).

Nghĩ về mẹ, khi mình đã là mẹ, thơ Lệ Thu càng đằm sâu, bởi điểm tựa của suy tưởng đã có thêm kinh nghiệm của khách thể hỗ trợ, có thêm sự so sánh tương đồng để nhận thức và đúc kết: “À ơi… đôi cánh non mềm/ Ngủ đi hãy ngủ bình yên/ ngoan nào/ Ngủ trong tiếng biển rì rào/ Đủ lông mai sẽ bay vào trời xanh.../ À ơi… con ngủ đi nào/ Ngủ ngon mai sẽ bay vào niềm vui!” (Lời ru chim yến).

Văn hóa biểu hiện tình mẫu tử trong thơ Đỗ Thị Tấc lại mang nét riêng của nhân dân miền núi Tây Bắc, nhưng vẫn trên mẫu số chung là thiêng liêng, cao cả: “Con có ở trên đời/ Như sợi khói chui ra từ cọng rạ/ Cay mắt mẹ đun độ mưa dầm ngày không nắng”, hay: “Lời ru bay lên/ Ngọn tre cong ngàn dấu hỏi/ Lời ru run lên/ Nghê đá đình làng nhe răng không nói/ Lời ru ra cánh đồng/ Lúa ngậm đòng hết thì con gái” (Trầu say). Dẫu số phận con chào đời như thế nào thì chín tháng mười ngày mẹ cũng đã ấp iu con từ cuống nhau sầu muộn của mẹ. Đỗ Thị Tấc đã nói lên một sự thật trớ trêu mà hạnh phúc vì được làm mẹ: “Mẹ không gặt con trên cánh đồng tình yêu/ Mẹ không gặt con trên cánh đồng hoan lạc/ Mẹ không gặt con trên cánh đồng người/ Mẹ gặt con trên cánh đồng trớ trêu số phận” (Trớ trêu).

Tình mẫu tử và những biểu hiện của cái nhìn văn hóa, bản sắc văn hóa trong thơ nữ trẻ sau 1986 có khác với thơ nữ lớp trước ở cấp độ khát khao và quyết đoán, nhưng tình mẹ con thì cũng trên hằng số chung của nhân loại. Họ thấy được ngọn nguồn của triết lý và bổn phận làm mẹ. Quyền được làm mẹ và nuôi con, yêu con là tối thượng. Điều đó đã nâng thiên tính nữ trong thơ trẻ lên một nhận thức xã hội và cảm quan văn hóa mới. Số phận những đứa con không may mắn làm cho những người mẹ trẻ khổ đau, nhiều khi đến tội lỗi và ám ảnh suốt cuộc đời họ.

Lê Thị Thấm Vân đã thổ lộ điều đó trong thơ một cách xa xót: “hòn máu lọt trong bồn cầu đêm qua/ cùng những cơn đau buốt bụng trước đó vài ngày” (Kali). Dẫu gì, lỗi đó có một phần của mẹ. Còn Lynh Bacardi thì thèm được có con và ôm ấp con một cách mãnh liệt: “thèm chui rúc trong con”, “thèm cuộn tròn trong tã lót con/ thèm tách sữa nóng chảy từ bầu vú”. Đó là một quan hệ song trùng để cả mẹ và con đều bay bổng trong cảm giác thiên thần, thánh thiện.

Vi Thùy Linh cũng mơ ước mình có những đứa con ra đời và khi lớn lên trở thành thiếu nữ: “Em tin ở ngày mai của đôi ta/ Khi đôi mắt Anh nhìn thấy trong mắt em những đứa bé chờ được sinh ra, và hoan hỉ gọi” (Đôi mắt Anh), “Các con trai vây quanh, thúc giục/ Nhanh lên nào, bố mẹ cưới nhau đi!” (Chờ tháng Tư). Đơn giản mà vĩ đại biết bao: “Con/ Ước mơ vĩ đại, dẫu cho ngày tuyệt diệt” (Đôi cánh của mẹ), “Em bẩm sinh năng lượng làm Mẹ/ một tín ngưỡng vượt lên mọi thống trị” (Nơi tận cùng sự ngưng đọng); “Qua bao nổi nênh/ Mẹ càng hiểu, con rất cần cho mẹ” (Những mặt trời đang phôi thai). Khát vọng được làm mẹ trong Vi Thùy Linh vượt thời gian để đón chờ phía trước. Đó là khát vọng đón đầu thời gian để biết mình cần phải yêu, phải sống đời sống vợ chồng cháy bỏng mới sinh hạ những đứa con. Một biểu hiện văn hóa làm mẹ mãnh liệt và cao quý làm sao! Trong tập thơ Phim đôi - Tình tự chậm, nỗi khát khao ấy đã thành minh triết sống và thiên chức của người phụ nữ: “Con chạy trước dẫn đường cha mẹ tới/ Tiếng con reo trong hơi thở mỗi ngày” (Hôn Việt Trì). Cũng như Vi Thùy Linh, ước mơ làm mẹ trong thơ của Phan Huyền Thư là cháy bỏng: “Rút khỏi đầu tấm voan ảm đạm/ vắt nỗi buồn mẹ lên cành trăng non/ Lập Duy/ vỗ cánh/ Gót chân hồng lanh canh/ tiếng cười bi ve ôm mặt trời nhồi bông/ mơ mẹ”. Một tâm thế khác, dáng vóc khác của mẹ khi con hiện hữu trong niềm tin của mẹ: “Ngày mai/ điềm tĩnh lại! mẹ sẽ tập đi bằng ánh sáng Lập Duy/ trong bóng tối câm lặng của lời” (Lập Duy).

Nhìn từ các quan hệ tương tác, thơ nữ Việt Nam thời hiện đại đã thực sự nói lên tiếng nói nữ giới thành thật, nhân văn, biểu hiện thành cảm thức văn hóa vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại. Sự tác động của văn hóa đến thơ nữ và thơ nữ đến văn hóa cũng đa dạng, làm thành sự phong phú, chúng chuyển hóa trong nhau để hình thành những sắc thái văn hóa nhân văn mới cho thời hiện đại.

Bản năng tính dục và đời sống tâm linh là những biểu hiện cụ thể của văn hóa. Hạnh phúc và khổ đau, lãng mạn và hiện thực, thiêng liêng và phàm tục, tinh thần và thể xác… là những đối lập luôn diễn ra trong tình yêu. Lần đầu tiên, trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945, con người cá nhân cá thể xuất hiện do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những điều kiện cần và đủ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Ở đây, nhu cầu được đối thoại với những quan niệm về tình yêu, tính dục và tâm linh, có cả đối thoại với tiền nhân trong văn chương và lịch sử. Đoàn Thị Lam Luyến có nhu cầu đối thoại với Hồ Xuân Hương, Xúy Vân, Thúy Kiều, Thị Mầu, những người phụ nữ có cá tính và nhân ái, nhưng phải nhận lấy bi kịch trong xã hội bất nhân và vô lý: “Em cứ vu oan Thị Kính/ Em cứ lẳng lơ Thị Mầu” (Hát theo Thị Mầu). Cái lẳng lơ rất dân chủ và rất thật với chính mình. Tác giả đồng cảm và chiêu tuyết cho họ, vì họ là nạn nhân của xã hội, rất đáng được ca ngợi, chứ không đáng phải chê trách. Đó là nhu cầu đối thoại và được đối thoại. Với Thúy Kiều, cũng thế: “Như Eva khát một lần trái cấm/ Trái cấm rơi - phúc, họa cũng theo về!” (Gọi Thúy Kiều). Đó là bản năng đích thực của tình yêu, ai vượt qua được tiếng gọi khát khao của trái cấm!?

Đề tài, chủ đề thơ thời bình không còn ưu tiên bó hẹp trong những nhiệm vụ trọng tâm của thời chiến nữa mà mở ra theo nhiều hướng, nhiều chiều. Lấy con người làm chủ thể ý thức trung tâm, thơ nữ sau 1975 đã phát huy tối đa khuynh hướng dân chủ hóa trong đời sống xã hội và văn hóa để nhận diện con người đời tư và thế sự trong tính tương tác và sinh thành. Thơ nữ giai giai đoạn hiện đại nổi lên với hiện tượng các nhà thơ thể hiện tiếng nói yêu đương và những biểu hiện của dục tính gấp gáp, có phần bạo liệt hơn các giai đoạn trước.

Trong giai đoạn hậu chiến, các nhà thơ nữ ưu tiên tâm tình và triết luận nhiều về đời sống tâm linh và những quan hệ đa dạng của hiện thực đời sống văn hóa, như cách để cân bằng và thanh lọc tâm hồn trong cuộc sống vốn rất nhiều đa đoan và hệ lụy. Về mặt kết tinh giá trị, đó chính là một biểu hiện của cảm thức văn hóa. Trong bầu không khí dân chủ và văn hóa thời bình, thơ nữ nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng, phản ánh văn hóa hậu chiến với diễn ngôn mới mang tính đạo đức và nhân văn mới.

Hồ Tiểu Ngọc

Nguồn: Tạp chí Sông Hương 366/08-2019, phiên bản trực tuyến ngày 20.9.2019.

20190422 VuTrongPhung

Trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, những hình ảnh, biểu tượng về thế giới tâm linh, tôn giáo xuất hiện nhiều, một phần thể hiện sự sùng bái, một phần lại thể hiện sự giễu nhại.

Niềm tin vào thế giới tâm linh thể hiện đầu tiên ở việc Vũ Trọng Phụng chọn bút danh cho mình là Thiên Hư. Thiên Hư là một ngôi sao trong tử vi phương Đông, nghĩa là một nơi hư không ở trên trời. Nhiều bạn văn khẳng định Vũ Trọng Phụng là người biết xem tướng và lấy lá số tử vi rất thạo. Đọc các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, thấy ông thường dùng tử vi để dẫn dắt câu chuyện. Nhà văn thể hiện một sự tin tưởng say mê vào khoa lí số. Trong tác phẩm Số đỏ, lá số tử vi của Xuân là chìa khóa mở ra toàn bộ câu chuyện. Ông thầy số xem cho Xuân Tóc Đỏ đã chỉ ra những sự kiện mà về sau gần như ứng toàn bộ vào cuộc đời Xuân (Khốc Hư tí ngọ cư quan/ Tiếng tăm dậy khắp giang san một thì). Vũ Trọng Phụng cũng đã để cho nhiều sự kiện quan trọng trong tác phẩm Giông tố ứng với những lá số. Thậm chí, những ảnh hưởng của tử vi lí số và quan niệm tâm linh thể hiện ngay trong nhan đề các tác phẩm của ông như Số đỏ, Trúng số độc đắc, Giông tố, Bởi không duyên kiếp… Đặc biệt, trong việc giải quyết những xung đột nội tâm về tình cảm, Vũ Trọng Phụng càng hay sử dụng các quan niệm về duyên kiếp, số mệnh. Truyện ngắn Lấy vợ xấu có hẳn một luận đề: Người ta lấy vợ lấy chồng đều có số cả, số lấy phải vợ xấu thì cũng không tránh được. Với cuốn tiểu thuyết Dứt tình (1934) hay Bởi không duyên kiếp, báo Đuốc Nhà Nam có nhận xét: “Sự dứt tình đó - theo tác giả - chỉ là “Bởi không duyên kiếp” […]. Tác giả tin rằng ở ngoài cuộc đời, có một sức mạnh rất màu nhiệm thiêng liêng cầm quyền sinh sát mọi người. Sức mạnh đó là “duyên kiếp” hay là “định mệnh” (fatalité). Chính sức mạnh đó đã chi phối tới lũ người đang vùng vẫy và đang gây nên những tội lỗi đáng thương”. Nếu như ở giai đoạn đầu sáng tác, những yếu tố về định mệnh mới chỉ xuất hiện thưa thớt thì ở giai đoạn sau chiếm vị trí lớn và vai trò quan trọng trong sáng tác của nhà văn. Đặc biệt, trong các tác phẩm lớn, yếu tố định mệnh càng chi phối một cách sâu sắc, thậm chí đóng vai trò lời chỉ dẫn như trong Số đỏ, Trúng số độc đắc hay Giông tố. Trong Số đỏ, sự sắp xếp cho số phận thường xuyên gặp may mắn của nhân vật Xuân và sự xuất hiện nhiều lần hình ảnh của ông thầy bói chứng tỏ nhà văn cố gắng giải thích những hiện tượng ngẫu nhiên và những điều không thể đoán trước trong cuộc sống bằng những điềm báo và tiên đoán tướng học.
Nếu như trong Trúng số độc đắc, Số đỏ, sự xuất hiện của một ông thầy tướng số đã mở ra không gian truyện thì trong Giông tố, một loạt nhân vật đều chịu ảnh hưởng của tư tưởng số mệnh. Khi Mịch bị Nghị Hách hiếp, ông thầy tướng đã phán cho Mịch một câu mà sau này vận vào cả cuộc đời của Mịch: Quan Phù, Thái Thuế long đong/ Tháng ngày chờ đợi cửa công mỏi mòn; và Sao Thai mà ngộ Đào Hoa/ Tiền dâm hậu thú mới ra vợ chồng. Hầu hết những quẻ bói xuất hiện trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng đều ứng với số phận của nhân vật. Thị Mịch sau khi tự tử và đấu tranh không thành đành chấp nhận số phận với suy nghĩ “Mịch tin rằng người ta có số mệnh, và cái số kiếp của Mịch đã như thế thì Mịch không thể cưỡng lại trời được nữa”. Mịch là một cô gái quê ít hiểu biết, có niềm tin mù quáng vào số phận là điều dễ hiểu. Nhưng Hải Vân - một nhân vật kẻ sĩ trí thức, thể hiện tư tưởng của tác giả, cũng là nhân vật tin vào mệnh trời và là người “lấy lá số tử vi rất thạo”. Hải Vân giải thích cuộc đời hoàn toàn do số phận: “Hầu như trong đời vẫn có một sức mạnh huyền bí gì đó, vẫn cầm quyền cuộc đời, đến nỗi không còn ai lại tự chủ nữa”; “Cuộc đời là trò chơi quái đản, bất tận của Hoàng thiên”; “Không ai đáng phục, không ai đáng khinh. Số mệnh xui khiến cả”- Những cặp phạm trù cuộc đời - số mệnh - tạo hóa - ông trời… cũng xuất hiện nhiều lần trong các tác phẩm khác của Vũ Trọng Phụng - “Sống là mạo hiểm, là đánh xóc đĩa với tạo hóa”.
Không chỉ dùng quan niệm định mệnh để lí giải số phận con người, Vũ Trọng Phụng còn táo bạo dùng nó để giải thích cả nạn mại dâm: “Nạn ấy lại có tính chất số kiếp nữa, và nó đè ép số mệnh chúng ta bằng một mối sầu chua chát lạ thường. Cái số mệnh của con người ta ở đời là như thế…” (Lục xì). Nạn mại dâm mà cũng do số kiếp thì quả là một lí giải có phần tiêu cực và quá tin vào số mệnh của nhà văn. Đúng là trong văn hóa Việt, cái ngẫu nhiên thường được giải thích theo tư tưởng định mệnh. Trong hoàn cảnh xã hội đảo điên, cái ngẫu nhiên càng dễ xảy đến, con người không được ổn định về hoàn cảnh sống, dẫn đến những thay đổi về số phận. Nhiều bất trắc trong cuộc sống xảy đến mà con người không thể lí giải được, đành đổ lỗi cho số phận, định mệnh: “Sự đời là như thế, bao giờ cũng có cái sự gì xảy ra để cho người ta đang sướng hóa ra khổ, hoặc khổ rồi thì lại phải khổ hơn trước nữa” (Giông tố). Thậm chí có những việc do bản thân gây ra cũng đổ lỗi cho số phận, cho ông Trời. Tư tưởng số mệnh đã chi phối rất lớn đến kết cấu và những sự kiện xảy ra trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Ở cấp độ kết cấu, cốt truyện, ở cách sắp đặt những mối quan hệ giữa các nhân vật và số phận của chúng, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng thường bị chi phối mạnh mẽ bởi triết lí định mệnh chủ nghĩa”. Những yếu tố bất ngờ thường xuyên xảy đến trong cuộc đời của các nhân vật và đẩy số phận của họ thay đổi theo. Trong Trúng số độc đắc, một anh chàng tình cờ được mẹ trông hàng giúp, một thiếu nữ tình cờ đến mua hàng, ba tháng sau gia đình hỏi cưới cô ta làm vợ anh và anh ta cũng đồng ý. Chính những sự việc tình cờ tưởng như nhỏ bé đó lại có quyết định quan trọng đối với cuộc đời con người. Vũ Trọng Phụng phải thốt lên rằng: “Ôi! Một việc cỏn con tưởng chừng như vô nghĩa lí vậy mà có thể ảnh hưởng rất to tát đến mức có thể xoay đổi cả cuộc đời con người ta! Một chuyến đò, một sự nhỡ giờ tàu, những điều vụn vặt ấy chính ra mà lại là hệ trọng vô cùng, và dám chắc đó là những cái huyền bí mà tạo hóa muốn an bài cho thế nhân” (Trúng số độc đắc).
Các nhân vật của Vũ Trọng Phụng đều quay cuồng trong số phận và sự sắp đặt của tạo hóa, thể hiện cảm giác bất lực trước giông tố cuộc đời. Việc Vũ Trọng Phụng thường xuyên dùng số mệnh để lí giải cuộc đời các nhân vật cho thấy rõ sự bế tắc trong cuộc sống và những vấn đề trong tâm lí của ông. Tuy nhiên, nhiều lúc ông lại thể hiện sự bất mãn, sự mất niềm tin vào thế giới tâm linh. Thường thì vào những thời điểm mà nhân vật bế tắc không thể giải quyết được, Vũ Trọng Phụng để cho họ quay lại nhạo báng Trời, Phật, thánh thần như sự buông xuôi của số phận.
Trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, sự thể hiện về thế giới tâm linh không hề nhất quán. Rõ ràng Vũ Trọng Phụng là người rất tin vào thuyết số mệnh, nhưng trong nhiều tác phẩm, ông vẫn bộc lộ một thái độ nhạo báng. Những câu chửi Trời, nhạo báng Phật xuất hiện không ít lần trong sáng tác của nhà văn, ngay cả những tác phẩm có tư tưởng ngợi ca tâm linh, như Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê, Trúng số độc đắc… Vũ Trọng Phụng đã đặt Trời, Phật vào một góc nhìn mới. Xã hội thay đổi khiến đồng tiền, quyền lực có một sức mạnh như Trời, như Phật: “Thời buổi tối tân này, Phật mà không biết tiến hóa theo văn minh thì cũng chết nhăn răng ra” (Số đỏ); “Chỉ có đồng tiền là Giời là Phật, chỉ có đồng tiền là đáng kính thờ vì nó sai khiến được mọi người, ai ai cũng phải kính thờ nó thì mới sống được” (Không một tiếng vang). Thậm chí đã có lúc con người chán nản nhìn cảnh đời mà nghi ngờ: “Giời, Phật, có làm gì hở? Có phải chỉ để làm bù nhìn mặc cho loài người chúng nó ăn thịt nhau” (Không một tiếng vang). Có những kẻ bất mãn trong cuộc sống tìm đến thế giới tâm linh như một sự an ủi, nhưng cũng có lúc, trong hoàn cảnh bế tắc, họ quay lại nhạo báng những gì mình đã tin tưởng. Đó là một quy luật của tâm lí con người, nhưng không phải ai cũng dám thể hiện điều đó. Sự chối bỏ, nhạo báng thế giới tâm linh thường bị cho là tội lỗi. Vậy mà Vũ Trọng Phụng để cho nhân vật Phú trong Vỡ đê chửi “Tiên sư cả Trời!”. Một khi cuộc sống quá nhiều đau khổ, người ta chẳng còn nghĩ được điều gì hơn thực tại đang diễn ra trước mắt. Mịch trong Giông tố dù rất tin tưởng ở số mệnh nhưng cũng có lúc chửi Trời là “những đồ thong manh”. Phúc trong Trúng số độc đắc dù đã thầm cảm ơn số phận cho mình may mắn được trúng số nhưng cũng có lúc khẳng định “Khi thất thế thì đất nặn nên Bụt”. Về điều này, Vũ Trọng Phụng muốn khẳng định thực tế trong thời buổi xã hội loạn lạc, tiền và quyền lực chiếm vị trí thứ nhất, mọi giá trị tưởng như tôn nghiêm trước đây đều bị hạ bệ một cách thê thảm: “Giời, Phật nào bây giờ? Làm gì có Giời, làm gì có Phật nào bây giờ? Ăn ở hiền hậu mà cứ vận hạn mãi… Đến thế mà còn tin được Giời, Phật nữa à? Có Giời có Phật mà đến thế à? Không có Giời, Phật nào cả. Hoặc có Giời, có Phật nhưng Giời, Phật không đủ quyền phép thiêng liêng, không công minh, không đáng cho ai kính thờ!...”.
Sự xuất hiện của báo Gõ Mõ trong Số đỏ một lần nữa cho thấy sự giải huyền thoại trong cái nhìn về nhà Phật. Sư thầy cũng ham hố tranh giành quyền lợi như người thường, thậm chí hơn cả người thường. Nếu như trong văn học trung đại, hình ảnh những sư thầy trong các bài thơ thiền thể hiện một sự tĩnh tại tuyệt đối trong thế giới tinh thần thì sư thầy trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng lại quá nhiều ham muốn, dục vọng. Sư cũng đi hát cô đầu. Sư Tăng Phú được miêu tả với một vẻ ngoài rất phong tình: “Ông này cũng tân thời Âu hóa theo văn minh vì ông có ba cái răng vàng trong mồm, cái áo lụa Thượng Hải nhuộm nâu, đi đôi dép cao su và nhất là đẹp giai lắm, trông phong tình lắm”. Những gì mà Vũ Trọng Phụng phản ánh trước đây hàng thế kỉ thì bây giờ đúng với thực tế. Các sư chùa chân chính ngày càng ít, những người mang danh nghĩa nhà sư để tư lợi ngày càng nhiều. Công cuộc làm ăn giữa Xuân Tóc Đỏ và sư Tăng Phú được cho là đoạn mỉa mai nhất trong cái nhìn về nhà Phật: Xuân muốn được trả “năm mươi phần trăm” khi đồng ý quảng cáo cho tờ Gõ Mõ nhưng sư Tăng Phú chỉ trả “ba mươi phần trăm”. Sự trao đổi làm ăn cho thấy rõ sự biến chất của những kẻ dựa hơi nhà Phật: “Ấy ngài đừng tính đắt với Phật mà phải tội”; “Ấy ngài chớ trả rẻ nhà chùa mà phải tội”. Những kẻ đại diện cho Giời Phật đó đã biến thần linh thành phàm tục để kiếm lợi cho cá nhân. Hình ảnh Em Chã - đứa con cầu tự ở chùa Hương của bà Phó Đoan tiếp tục là một sự mỉa mai trong quan niệm về tâm linh. Bà Phó Đoan tôn sùng con như Giời Phật. Chính vì sự tôn sùng đó mà cậu bé được phỉnh nịnh, ăn uống quá đủ đầy, chiều chuộng vô độ dẫn đến sự phát triển sớm về thể xác một cách lệch lạc. Những hình ảnh về cậu con cầu tự cởi truồng nhong nhong trên lưng vú em đã cho thấy sự dâm dục quá sớm ở một đứa trẻ mười một tuổi. Chính Xuân Tóc Đỏ đã lên tiếng: “Dù là con Giời con Phật thì cũng có thể dâm như mọi người, có khi lại hơn mọi người!”. Đám giai nhân trong nhà thì bàn tán về cậu bé: “Ghê chưa! Chết nỗi! Mặt mũi thằng bé như con Giời, con Phật, ai ngờ hư hỏng sớm thế!”. Chứng kiến sự phỉnh nịnh thái quá đối với thể xác của cậu con cầu tự, Xuân Tóc Đỏ đã chửi thề: “Mẹ kiếp, con Giời với lại chả con Phật”… Thế giới tâm linh đã bị hoen ố bởi vật chất, bởi cách sống thành thị Âu hóa nửa mùa. Sự tiếp biến văn hóa một cách khiên cưỡng khiến xã hội đảo điên dẫn đến hệ lụy là một nền văn hóa lai căng Tây Tàu lẫn lộn, và thế giới tâm linh không còn giữ được bản chất thiêng liêng của nó. Đỗ Minh Hợp trong cuốn Tôn giáo học nhập môn cho rằng, hầu hết các giá trị văn hóa tôn giáo đều xuất phát từ nông thôn chứ không phải thành thị. Khi con người bị cái bả vật chất cám dỗ thì những giá trị về văn hóa tinh thần đều bị tiêu trừ. Các nhân vật trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, hầu hết đều tha hóa về tinh thần từ khi dư thừa về vật chất hoặc từ khi di chuyển lên thành phố. Quan niệm về thế giới tâm linh cũng biến chuyển theo quy luật này. Dù đã cố gắng để vượt lên số phận nhưng họ luôn bị đẩy vào những tình thế bế tắc hoàn toàn. Trong hoàn cảnh đó, không còn niềm tin vào bất cứ một giá trị nào, các nhân vật quay lại nhạo báng toàn bộ những điều mình đã từng tin tưởng. Vật chất đã biến số phận và cuộc đời con người thành trò hề của tạo hóa.
Thế giới tâm linh luôn là nơi trú ngụ bình an của tâm hồn mỗi khi con người gặp bất trắc. Thế nhưng, những tiếp biến văn hóa nhố nhăng đã khiến mọi giá trị thành lệch chuẩn, kể cả thế giới tâm linh tưởng như là chốn linh thiêng không thể chạm tới. Trong thế nước đôi ấy, nhận xét của Hoàng Cầm thật xác đáng: “Có lẽ Vũ Trọng Phụng trong tư tưởng, tin ở số mệnh nhưng trên tác phẩm thì lại chứng minh: số mệnh chính là cái thượng tầng đểu cáng, vô sỉ của xã hội thực dân, mại bản” (Nhớ Vũ Trọng Phụng)

V.T.T.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 18.4.2019.

Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày người nghệ sĩ tài hoa Lưu Quang Vũ tạm biệt nhân gian để trở thành “người trong cõi nhớ” của những người ở lại. Lịch sử sân khấu và lịch sử văn học nước nhà đã dành những tôn vinh xứng đáng cho tài năng cùng những trước tác nghệ thuật của ông. Và hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu văn học, sân khấu vẫn cố gắng cắt nghĩa, lí giải tính thời sự nóng hổi cùng sức sống lâu dài của kịch Lưu Quang Vũ đối với công chúng. Có nhiều yếu tố tạo nên sức hấp dẫn lâu bền của kịch Lưu Quang Vũ, nhưng trong những nỗ lực lí giải thành công của hiện tượng này, chúng tôi đề cao năng lực lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ nơi ông, cụ thể là việc trao quyền phát ngôn cho các vai chức năng trong kịch.
Nhiều người cho rằng yếu tố thời đại đã chắp cánh cho những thành công của kịch Lưu Quang Vũ, nhưng những tác giả cùng thời thậm chí còn giàu kinh nghiệm hơn kịch gia họ Lưu khi ấy không hề ít trên kịch trường. Trước Lưu Quang Vũ, khán giả sân khấu kịch cả nước đã quen thuộc với những cái tên như Nguyễn Đình Thi, Học Phi, Xuân Trình, Đào Hồng Cẩm... Sau khi Lưu Quang Vũ xuất hiện, những tác giả gạo cội ấy vẫn tiếp tục mạch sáng tác và có được các vở diễn để đời: Nguyễn Đình Thi có Người đàn bà hóa đá, Tiếng sóng, Cái bóng trên tường, Trương Chi; Xuân Trình có Mùa hè ở biển; Đào Hồng Cẩm có Tiếng hát; Doãn Hoàng Giang có Hà My của tôi, Nhân danh công lí... Kịch của các tác giả kể trên cũng mang những phẩm chất mà trước nay người ta hay dùng để ca ngợi kịch Lưu Quang Vũ như tính dự báo, tính thời sự, sự đa dạng chủ đề và phạm vi phản ánh... Do đó, ngoài năng lực viết nhanh, viết khỏe ít người theo kịp, theo chúng tôi, Lưu Quang Vũ còn có một ưu thế vượt trội so với đa số nhà viết kịch cùng thời, đó là năng lực sử dụng ngôn ngữ tạo ra những câu thoại vừa dí dỏm vừa sâu sắc. Để rồi sau khi đèn tắt, vở khép, điều còn đọng lại trong độc giả, khán giả thường là dư vị mặn đắng, chát chúa của những câu thoại “đắt giá”, buộc họ phải điều chỉnh suy nghĩ và hành vi. Chính khi ấy và bằng cách ấy, kịch của Lưu Quang Vũ đạt được tính chất dụ ngôn sâu sắc.
Phát ngôn trong kịch đã quan trọng, phân vai phát ngôn trong kịch dụ ngôn còn quan trọng và phức tạp hơn rất nhiều. Trên sân khấu của những trò diễn, các nhân vật trong kịch đối thoại, “đấu khẩu” với nhau, nhân vật nào cũng nói, nhưng lời nói của các nhân vật không phải bao giờ cũng có giá trị như nhau. Các tác giả kịch luôn có ý thức để nhân vật này được quyền nói buộc người ta phải nghe, và ngược lại, có những nhân vật khác nói chẳng ai nghe hoặc là cơ sở để người ta lên án, chê trách.
Trong kịch Lưu Quang Vũ, các nhân vật được đặt giữa vô số các mối quan hệ, tuy nhiên có thể lược quy vào ba kiểu quan hệ dựa trên các nền tảng giá trị và vị thế khác nhau gồm: quan hệ bề bậc (bố - con, anh - em, thầy - trò...); quan hệ đạo đức, tư tưởng (thiện - ác, trung - gian, tiến bộ-bảo thủ...); quan hệ giai cấp - xã hội (cán bộ - nhân dân, lãnh đạo - nhân viên, giàu - nghèo...). Trong quá trình can dự vào sự vận động của cốt truyện kịch, các nhân vật đều có lời nói, giọng điệu riêng, nhưng theo chúng tôi chủ thể phát ngôn giữ vị thế thượng tôn trong hầu hết các kịch bản của Lưu Quang Vũ là những nhân vật mang bài học, những chủ thể sở đắc chân lí gồm người già, phụ nữ và người trẻ.

20190905 LQV
Một cảnh trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Ảnh: ST

Là một nghệ sĩ và một nhà văn hóa, trong quá trình xây dựng kịch bản, Lưu Quang Vũ luôn chú trọng đến phát biểu của những nhân vật cao niên và những phát biểu ấy, trong đa số trường hợp đều thể hiện sự minh triết. Đó có thể chỉ là những người lao động bình thường như ông Trương Ba (Hồn Trương Ba, da hàng thịt), bà mẹ Xuyên (Lời thề thứ chín), ông Quých, bà Bộng (Tôi và chúng ta), cụ Gồi (Những ngày đang sống)..., đôi khi là những người lớn tuổi giữ địa vị cao trong xã hội, có tư tưởng tiến bộ như Bí thư Thành ủy Lê Duy (Nếu anh không đốt lửa), vị Bộ trưởng (Tôi và chúng ta)… Xuyên suốt kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt, độc giả chứng kiến nhiều phát biểu tinh tế, ý vị và sắc sảo của Trương Ba những khi nhân vật này suy tưởng, hoài niệm hay trước những lựa chọn khó khăn vào những thời khắc bản lề của cuộc đời. Hãy nghe đoạn ông phản biện lại Tiên cờ Đế Thích khi bị dụ dỗ nhập vào xác chú bé Tỵ:
“Đế Thích: - Trong thân một đứa bé, ông sẽ có cả một cuộc đời trước mặt.
Trương Ba: - Để rồi, chẳng bao lâu nữa, bà nhà tôi, bạn bè cùng lứa với tôi như bác Trưởng Hoạt lần lượt nằm xuống, mình tôi vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách khác đã về cả rồi, mình vẫn dầm dề nán lại”(1).
Trong khi với nhiều người, để giữ lại mạng sống, họ sẵn sàng bán rẻ linh hồn, sẵn sàng chà đạp lên người khác thì phát ngôn trên của ông Trương Ba như lời răn dạy của một bậc hiền triết, logic sắc sảo nhưng cũng rất đỗi dung dị. Nó đồng thời khẳng định vị thế phát ngôn mang tính quan niệm của chủ thể lời nói. Cũng như ông Trương Ba, bà Xuyên trong Lời thề thứ chín tuy chỉ là một nông dân nghèo nhưng lại rất hiểu chuyện, và dường như trong mọi tình huống, bà luôn giữ được sự tỉnh táo để phân tích tình hình và đưa ra những nhận định hợp lí, thuyết phục được mọi người xung quanh. Trước sự xốc nổi, bồng bột của bốn anh lính trẻ trong đó có con trai mình, bà đã bình tĩnh phân tích cho họ thấy cái sai trong hành động bỏ đơn vị về địa phương cứu bố Xuyên đang chịu hàm oan:
“Bà Xuyên: - Yên vui, công bằng không thể đến bằng cách này. Phải do mọi người, rồi phải do Đảng, do chính quyền, nhìn ra mà có cách cho dân khỏi khổ”(2).

Lối suy nghĩ của bà không hề viển vông mà là sự trù tính xa xôi và toàn cục. Ở một diễn biến khác, trước sự mất niềm tin của con trai với những nỗ lực kêu oan dường như vô vọng của mẹ, bà vẫn không bị lung lạc, vẫn suy nghĩ tích cực và lạc quan:
“Bà Xuyên: - Dù có khản tiếng, kiệt sức mẹ vẫn phải đi. Mà đâu chỉ có mình mẹ, còn bà con, còn những người tốt biết phân biệt phải trái... Nhất định có ngày nỗi oan được cởi, trắng đen được sáng tỏ rạch ròi. Lẽ trời, lẽ người là như vậy”(3).
Trong kịch Lưu Quang Vũ, người đàn ông thường xuất hiện như những nhân vật trung tâm, nhưng chính người phụ nữ mới là những nhân vật mà lời nói có “trọng lượng” nhất. Trong những giờ phút quan trọng, những phát ngôn của họ tựa như chứa đựng một thứ “quyền lực mềm” giúp điều tiết, hóa giải xung đột và phát đi những bài học nhân sinh sâu sắc. Ta bắt gặp những phát ngôn như thế đến từ mẹ Xuyên (Lời thề thứ chín), bà vợ, chị con dâu (Hồn Trương Ba, da hàng thịt), Thảo (Ông vua hóa hổ), Thanh (Tôi và chúng ta), Nhâm (Điều không thể mất)...
Theo dõi bi kịch hồn - xác trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt, chúng ta hẳn không quên tình thế dồn nén đưa ông Trương Ba đến quyết định “chết hẳn”. Trong rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan đưa đến quyết định cuối cùng ấy của ông, đáng chú ý nhất và dường như đóng vai trò then chốt nhất là lời của chị con dâu. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng khi bà vợ đòi bỏ đi, cái Gái bực tức ném vào ông những lời mắng nhiếc, xua đuổi, Trương Ba chỉ còn một niềm an ủi duy nhất là tình thương, sự cảm thông của cô con dâu mà mình xem như con đẻ. Thế nhưng sự bấu víu cuối cùng ấy cũng tuột mất:
“Chị con dâu: - ... Thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”(4).
Lời tâm sự đầy chua xót ấy của chị con dâu chính là giọt nước tràn li để ông Trương Ba đưa ra quyết định về sự sống chết của mình.
Dẫu không phải là nhân vật trung tâm nhưng những ý kiến của Thanh luôn có tính tác động trực tiếp đến mọi quyết định của Hoàng Việt (Tôi và chúng ta). Lời lẽ của người phụ nữ nhỏ bé ấy luôn toát lên vẻ sáng suốt, tỉnh táo và sự điềm tĩnh của một người sẵn sàng đối mặt với cái chết khi mang trong mình di chứng chiến tranh.
“Thanh: - ... Tôi không biết lắm về những lí lẽ. Đi từ thế giới của cái “tôi” sang thế giới của “chúng ta”. Nhưng cái chúng ta ấy phải được làm bằng mỗi cái tôi cụ thể, bằng sự tôn trọng, hạnh phúc và phẩm cách của từng người. Nếu không anh sẽ không làm gì được đâu, cái thế giới chúng ta chung chung của anh, sẽ không ai thiết đâu, đồng chí giám đốc ạ!”(5).
Cũng như Thanh, mặc dù nhân vật chính của tấn bi kịch tù oan là Luân (Trái tim trong trắng) nhưng người giữ vai trò kiếm tìm công lí và phát ngôn chân lí lại thuộc về Phương - người yêu của Luân:
“Phương: - Nếu người chết có linh hồn, sẽ nghĩ gì, nói gì? Có nằm yên dưới mộ được không nếu biết vì cái chết của mình mà bao người đau khổ? Nơi kết thúc của mọi đời người đây (nghĩa trang). Mọi thù oán, yêu thương, nghi ngờ, đau khổ... Nhưng phải có gì còn lại? Lẽ phải, tình yêu, công lí...”(6).
Trong hầu hết các vở kịch của mình, Lưu Quang Vũ dành một vị trí trang trọng cho người phụ nữ. Họ có thể không phải là nhân vật trung tâm nhưng phát ngôn của họ là những chân lí không thể chối cãi, và vì lời nói của phụ nữ - với tất cả thiên chức và tính nữ của mình - bao giờ cũng là những lời dịu dàng, mềm mại, dễ lọt tai nhất.
Ngoài nhân vật người già và phụ nữ, Lưu Quang Vũ còn dành một niềm ưu ái đặc biệt với những người trẻ tuổi. Những người trẻ có được thẩm quyền phát ngôn trong kịch Lưu Quang Vũ là những người đại diện cho lực lượng dựng xây hiện tại và kiến tạo tương lai, họ là những người dám thể nghiệm và dám thất bại. Ở những người ấy có sự nông nổi, bồng bột nhưng cũng đầy trách nhiệm và tình yêu cùng niềm lạc quan mãnh liệt.
Điểm hạn chế thường thấy của những người trẻ tuổi là dễ mắc sai lầm. Những nhân vật trẻ tuổi trong kịch Lưu Quang Vũ cũng không ở ngoài xu hướng khách quan đó. Quan trọng hơn, sau những vấp ngã và trả giá họ đúc kết ra được nhiều bài học bổ ích cho bản thân và cho cả những người xung quanh. Khi ấy, thái độ phát ngôn của họ trở nên trầm tĩnh, từ tốn hơn.
Những lời của Hưng (Bệnh sĩ) về quyết tâm vạch trần sự giả dối sau những vỏ bọc hư danh cũng phần nào giống với suy nghĩ của Cuội khi vở Lời nói dối cuối cùng khép lại:
“Hưng: - Vì chính ở cái xã quê mình và quê Nhàn này, mình được chứng kiến bao cái dở, bao sự lăng nhăng vớ vẩn không ra sao do bệnh sĩ, bệnh sính hư danh đâm ra giả dối bốc phét, để cho những kẻ không ra gì nó thừa cơ đục nước béo cò. Dân khổ bởi phải hứng chịu toàn những thứ dởm. Mình không muốn đóng góp thêm một thứ đồ dởm nữa là chính bản thân mình”(7).
Người tốt nhà số 5 không hấp dẫn độc giả ở cốt truyện mà ở những triết lí trong các câu thoại khi các nhân vật của khu nhà nhận xét về Hiệp và lòng tốt của anh. Những câu thoại mà ngay khi vừa cất lên đã khiến độc giả và khán giả ngậm ngùi: Liệu có phải cứ sống tốt là sẽ có ích cho người khác? Làm sao để làm người tốt?
“Khôi: - Anh cố chấp quá! Cố chấp như thế chỉ thiệt anh mà cũng chẳng có lợi cho ai! Chỉ nên làm người tốt khi nào làm người tốt không bị thiệt. Một xã hội để cho người tốt bị thiệt thì ta cũng chẳng nên tôn trọng những quy tắc của xã hội ấy”(8).
Chắc hẳn sẽ có nhiều người đồng ý với lí giải này của Khôi về lòng tốt và điều kiện thực hành lòng tốt. Người ta chẳng thể trách được lối suy nghĩ ấy của Khôi, bởi anh còn phải lăn lộn mưu sinh để nuôi mẹ. Dù còn trẻ và vì còn trẻ nên anh cũng như nhiều người khác đã nhìn ra những khó khăn của thời bao cấp và đã rất nhanh để thích ứng với nó. Để cho chính những người trẻ nhìn nhận về sai lầm của bản thân từ đó phản tỉnh xã hội, Lưu Quang Vũ đã làm sâu sắc thêm tính luận đề cho các vở kịch của mình.
Ý thức sâu sắc rằng ngôn ngữ kịch không chỉ là công cụ biểu đạt mà còn là phương tiện tác động của kịch, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được rất nhiều điển hình nghệ thuật, cùng với đó, những phát ngôn chuyên chở nhiều thông điệp mang chiều sâu tư tưởng kia đã làm nên linh hồn, tạo thành sức sống bền bỉ cho mỗi vở diễn của ông. Với những kiến giải này, chúng tôi muốn khẳng định rằng: cùng với hành động kịch, ngôn ngữ là phương diện góp phần khắc họa tính cách nhân vật; quan trọng hơn, qua việc trao quyền phát ngôn cho các nhân vật một cách đầy dụng ý, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm nhiều bài học dụ ngôn sâu sắc
B.H.Y

--------
1,4, 5: Lưu Quang Vũ (2013), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (tuyển kịch), Nxb Hội Nhà văn, tr.71, 68, 250.
2,3: Lưu Quang Vũ (2003), Tôi và chúng ta, Lời thề thứ chín, Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh), Nxb Sân khấu, tr.278, 279.
6,7, 8: Lưu Quang Vũ, Trái tim trong trắng, Bệnh sĩ, Người tốt nhà số 5, Lời thề thứ chín… (Tài liệu viết tay do gia đình cố nghệ sĩ cung cấp).

Nguồn: Văn nghệ Quân đội, ngày 28.8.2019.

Mười năm làm lính đặc công ở vùng ven Sài Gòn, Chu Lai từng phải đối đầu thường xuyên giữa cái sống và cái chết. Điều đó đã tạo cho người lính một khả năng sinh tồn lạ lùng.

Đi vào cuộc chiến với một lý tưởng mãnh liệt và một sự gan dạ táo bạo, độc đáo, sau đó trở về từ khả năng tồn tại đặc biệt, Chu Lai càng trở thành một cá tính mạnh mẽ, đầy góc cạnh, đầy hồn cốt lính tráng.

Là chàng trai Hà Nội mà “Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa” (Chính Hữu), Chu Lai mang nét đặc trưng của một lãng tử cách mạng.

Tính cách nổi bật, có lẽ là, con người say mê lý tưởng chiến đấu. Đó là chàng trai lãng mạn cách mạng, mà có ai đó đã gọi là lãng mạn trận mạc. Và, lãng mạn như thế, nhà văn đã có thể đi hết chặng đường khói lửa 10 năm.

***

Chu Lai là con người hoạt động, ưa hoạt động, là con người của công việc. Cầm súng rồi cầm bút, vừa cầm súng vừa cầm bút. Một hoạt động khẩn trương trong thách thức lớn lao, đầy hiểm nguy, nhưng lại rất hiệu quả và có nhiều chiến tích.

Từ đó là một tính cách cơ bản: tính hoạt náo.

Chu Lai là một người đa tài, năng nổ, làm việc cật lực ngày đêm để tự tạo cho mình một cuộc sống riêng khá ổn.

Nhà văn có tài thâm canh và biến báo tác phẩm của mình. Từ truyện, tiểu thuyết, nhà văn có thể chuyển thể thành kịch bản sân khấu và điện ảnh.

Thêm sân chơi là thêm sự hứng thú, vui vẻ, và cũng có thêm nhuận bút, nhà văn nghĩ rằng sẽ có thêm độc giả, va một số ít tiền để đảm bảo cuộc sống.

Chu Lai đã tự tạo cho mình một cuộc sống ổn định, dễ chịu. Không giàu có, nhưng không phải là “hàn sĩ”, như định kiến của xã hội xưa nay. Nhà văn là một trong số hiếm hoi các văn nghệ sĩ có xe hơi riêng, để tự do đi “phượt” xuyên Việt, vừa du lịch, vừa tìm hiểu và thâm nhập thực tế.

Mang tố chất nghệ sĩ, đa tài, đa tình và đa cảm. Bên ngoài vẻ ngang tàng, và tác phong sôi nổi, bốc lửa, là một tâm hồn rất nhạy cảm. Tâm hồn rất dễ rung động bởi những cảm xúc tinh tế. Con người cứng rắn, hầu như không biết sợ gì ấy cũng đã có những xao động “ngoài luồng” với các người đẹp.

Nguời vợ -  Đại tá, Nhà văn Vũ Thị  Hồng rất thông cảm, và không bao giờ ghen tuông về những điều tưởng như mây gió thoảng qua ấy.

Có những nét tưởng như trái ngược, nhưng lại thống nhất và hoà hợp trong con người nghệ sĩ Chu Lai.

Cả cuộc đời ông là những chuyến lãng du và trận mạc. Phải đi và thích đi, cũng có chút “máu xê dịch” như cố nhà văn Nguyễn Tuân. Đi để sống, đi để trải nghiệm, và để viết. Từ Bắc vào Nam, và từ Nam ra Bắc. Ông đã đi khắp các vùng miền tiêu biểu nhất, kể cả Tây Nguyên.

Đi với nhiều lý do, trong đó có việc đi lại nơi xưa, chốn cũ, chiến địa một thời để tìm mới và tìm lại tư liệu, ký ức, và cảm xúc để viết. Nhưng, đã tới thì lại phải tìm một chốn tĩnh lặng để ngẫm ngợi, và để tượng hình cho con chữ.

Chu Lai là trong số ít các nhà văn trở thành “người của công chúng” – như Phạm Tiến Duật vì nhiều lẽ. Ông thường được đi mời phỏng vấn, nói chuyện, hay có mặt ở hội nghị, hội thảo, và nhất là tới các đài truyền thanh, truyền hình. Tức là xuất hiện ở nhiều sự kiện truyền thông “ồn ào”.

Tuy nhiên, về thực tâm, nhà văn lại rất thích sự yên tĩnh, và mắc bệnh không thích xuất hiện nơi đám đông. Nhà văn thích được cô đơn, thậm chí “nghiện cô đơn”. Cô đơn để được tự do, tránh mọi phiền hà, cô đơn để tự do với chính mình, với con chữ. Nghĩa là cần khoảng tĩnh lặng một mình để sáng tạo.

Xét cho cùng, điều đó  cũng chẳng phải của riêng ai. Cô đơn như là hứng thú, cũng là căn bệnh của bản thể nghệ sĩ.

Đã có lúc, cả hai vợ chồng nhà văn ngồi ở miền Thành cổ Quảng Trị, với sự tĩnh lặng của khung cảnh và tâm trí, như để lắng nghe tiếng đất, và cả tiếng vọng tâm linh từ hồn thiêng của các liệt sĩ.

Bạn văn kể, có tới chục năm trời, đôi “song kiếm hợp bích” – cặp Đại tá, nhà văn Chu Lai và Vũ Thị Hồng thực hiện nhiều chuyến đi xuyên Việt, và: “Hai vợ chồng đã nhiều lần ngồi lặng trên mảnh đất quật cường Quảng Trị, ngắm dòng sông Thạch Hãn bình lặng, năm xưa đã có bao chàng trai trẻ nằm lại dưới đáy sông , lần nào cũng vậy, dừng chân tại Thành cổ để thắp cho đồng chí, đồng đội một nén nhang thơm”.

Mưa đỏ chính là có nguồn cơn  từ những phút giây lắng đọng tưởng niệm tâm hồn như vậy.

Theo Chu Lai, tình yêu làm nên sự lãng mạn của cuộc chiến. Nhận ra tính nhân văn cao cả trong tình cảm đời thường, đó chính là thể hiện bản chất nhân văn như cốt cách tâm hồn của nhà văn.

Văn là người. Đọc văn Chu Lai thấy rõ được con người nhà văn.

Đây là đoạn tâm sự:

“Sở dĩ văn của tôi được nhiều người đọc, là vì cái gì cũng được đẩy đến tận cùng của mọi buồn vui. Tôi không thích chơi những gam màu nhợt nhạt. Vì sao ư? Vì một tuổi thơ nhọc nhằn, đủ khổ, một thời trai trẻ đi qua chiến tranh, cộng thêm tính cực đoan, nên văn khốc liệt thế thôi”.

Bạn bè nhà văn thấy rõ một cá tính mạnh mẽ, là tính quyết đoán, có khi quyết liệt, triệt để, đi đến cùng,bởi sống cực đoan  từ nhỏ, mà Chu Lai tự nhận, cũng  là tính cực đoan trong văn học.

Tâm sự đó cũng bộc lộ rõ thêm bản chất thẳng thắn, bộc trực và khảng khái của nhà văn. Nói về cuộc đời bản thân, về tình yêu, và về nghiệp văn, bao giờ cũng là với chất giọng và tính cách ấy.

Chẳng hạn, sự thú nhận có những phút xao lòng trước người đẹp mà, như đã nói,   chính người vợ , nhà văn Vũ Thị Hồng  đã biết và rất thông cảm, .

Là người lính trận, lẽ dĩ nhiên cốt cách phải là quả  cảm. Riêng  Chu Lai có cái gan dạ, táo bạo mang sắc thái riêng. Gan đến mức như gan lì, thậm chí lì lợm.

Như khi đi bộ đội 10 năm, mà không hề gửi thư về nhà. Đến mức sau hoà bình, anh trai phải vào Nam tìm kiếm, và thông báo với gia đình, là thằng em “còn sống nhăn răng!”. Sau này, cầm bút là cái gan dám viết sự thật, cái bi tráng trong chiến tranh. Người ta đã nhận ra, nhà văm dám xoáy bút vào những góc cạnh nhạy cảm – ít hoặc chưa ai đụng tới.

Nắng đồng bằng đã có những mất mát, cay đắng lớn dám đưa lên trang tiểu thuyết. Ở Mưa đỏ cũng có nét tương tự. Viết cả về ta và về đối phương.

Như nhân vật Quang – một sĩ quan nguỵ bên kia chiến tuyến, được khắc hoạ qua cả mặt xấu và mặt tốt của nó. Rất may là, những sự “cả gan, táo tợn” ấy đều qua mặt được các biên tập viên có trình độ hiểu biết, và rất tâm huyết đổi mới.

Chu Lai từng trải qua những tháng năm dài máu lửa, sống hào sảng mà rất lãng mạn. Yêu tha thiết, say đắm, và ca ngợi tình yêu hết mực trong đời và trong văn.

Với nhà văn, tình yêu trong chiến tranh bao giờ cũng đẹp, và rất thật. Cái đẹp, tình yêu chính là một nguồn lực động viên, thôi thúc và giúp đỡ người lính vững vàng tay súng, xông lên phía trước.

Chu Lai lý giải bản chất con người như một sự thật hiển nhiên: song song tồn tại cả sự lãng mạn của một chàng trai Hà Nội, lẫn sự lì lợm của một tay lính đặc công.

Đúng vậy. Bạn bè và bạn đọc cùng cảm nhận, Đó là Chu Lai.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Xuân Ba (2015), Nhà văn Chu Lai: tiếp tục sòng phẳng với dĩ vãng, http://tienphong.vn, 28/4/2015.

[2] Lê Mỹ Hạnh (2016), Nhà văn Chu Lai: “Viết không phải để ăn mày dĩ vãng”, https://dep.com.vn, 27/7/2016. Theo Vietnamplus.

[3] Trần Mỹ Hiền (2010), Nhà văn Chu Lai: “Gã lãng tử đa tình”, http://antg.cand.com.vn, 11/5/2010.

[4] Thương Huế (2011), Nhà văn Chu Lai – Tình yêu và cuộc chiến, http://vov.vn, 1/5/2011. Nguồn: Báo TNVN.

[5] Phúc Tiến (2017), Nhà văn Chu Lai: Tôi đã khóc trong ngày đầu tiên độc lập ấy, https://baovanntruong.org.vn, 30/4/2017.

20190814 Va khi tro bui

Một trong những thành tựu quan trọng của văn học Việt Nam từ sau 1986 là đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học về đề tài tha hương góp một phần đáng kể vào thành tựu đó. Khảo sát một số tác phẩm văn xuôi đầu thế kỉ XXI, nhất là sáng tác của các nhà văn đã từng sống ở nước ngoài, chúng tôi nhận thấy có kiểu con người dấn thân. Đây cũng là một nét đặc thù của hình tượng con người tha hương, góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức của người đọc về con người, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Dấn thân là một ý niệm thường đi liền với ý niệm tự quyết - một phạm trù của triết học hiện sinh. Tự quyết là “tự chứng minh rằng tôi là một chủ thể tự do và tự đảm nhận”(1). Quan niệm như thế, tất nhiên, chỉ có thể xuất hiện ở những con người hiện sinh - “con người ưu tư về định mệnh của mình và ưu tư tìm cách phát triển nhân cách của mình tới mức hoàn hảo”(2). Do vậy, chữ “dấn thân” chúng tôi dùng ở đây vừa mang nghĩa thường dùng và, ở một mức độ nào đó, vừa mang ý nghĩa của triết học hiện sinh về con người.

1. Những cú sốc trên hành trình dấn thân
Trong vài ba thập kỉ trở lại đây, phần lớn việc xuất ngoại của người Việt là tự nguyện. Nhưng một phần không nhỏ trong số đó do thiếu thông tin, hiểu biết, hoặc vì một mục đích mà họ cho là to lớn hơn, nên không hình dung hết hoặc là bất chấp tính chất nguy hiểm, sự gian nan của hành động mình đang làm. Trong nhiều trường hợp, những thiếu thốn kể trên cộng với sự khác biệt về văn hóa đã tạo cho họ những cú sốc tinh thần ghê gớm.
Tiêu biểu cho đặc điểm này là Quyên trong tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn Văn Thọ. Đồng ý rời bỏ gia đình, quê hương ra đi tìm miền đất hứa cùng người chồng có học thức, có tình yêu, hẳn là Quyên chưa bao giờ hình dung lại có ngày cô bị lạc chồng trên đường vượt biên từ Nga sang Đức; rớt lại giữa khu rừng hoang dã, lạnh lẽo; rơi vào tay thảo khấu; bị cưỡng hiếp, mang thai, đến khi thoát hiểm tìm được chồng thì bị chồng ruỗng rẫy, khinh bỉ, cuối cùng phải tìm đến cái chết để mong chấm dứt quãng đời tủi nhục, đắng cay. Có thể nói, Quyên là một trong những điển hình cho bi kịch của những thân phận tha hương vỡ mộng được thể hiện khá sinh động trong tiểu thuyết của Nguyễn Văn Thọ.
Một mức độ khác của dấn thân là sự liều lĩnh, cùng đường, nhắm mắt đưa chân của những người không còn sự lựa chọn nào khác. Các sáng tác của Trần Dũng (Những người đàn ông, Nam), Nguyễn Lam Thủy (Ngày cuối cùng ở Budapest, Đi buôn vàng) nói tới những bi kịch đó với sự thê thảm gấp bội. Trong Những người đàn ông, sau những tháng ngày lăn lộn ở xứ người, Cường nhận ra “mơ ước kiếm được nhiều tiền một cách hoàn toàn chính đáng, thật viển vông”. Và để tồn tại, Cường đã phải làm những công việc nguy hiểm đến tính mạng như mò xác một triệu phú ở vùng biển ô nhiễm, khai thác thủy ngân, bán thận với giá chỉ bằng hai con trâu ở quê nhà, đi tù thuê theo đơn đặt hàng bí mật của những quan chức cao cấp, những nghệ sĩ, cầu thủ nổi tiếng, giết người thuê... Rồi ngay cả những công việc chết người ấy nhiều khi cũng trở nên khan hiếm, để có tiền trả món nợ ở nhà vẫn không ngừng phình ra, Cường và một người cùng cảnh đã liều lĩnh chấp nhận việc trợ giúp robot chui vào khắc phục sự cố nhà máy điện nguyên tử. Kết cục cho Cường hẳn là chỉ có một cách hình dung sau gợi ý của nhà văn: “Anh bưng hai tay lên miệng, nôn thốc nôn tháo. Một quầng lửa đỏ nhờ nhờ thoáng dâng lên trước mắt anh, kèm theo một cơn đau mơ hồ”.
Đọc các truyện của Trần Dũng, người đọc có thể nhận ra mối quan tâm đặc biệt của tác giả dành cho những người đàn ông - những người phải mưu sinh rất cực nhọc ở xứ người. Không chỉ những người lao động chân tay, phổ thông phải hao tổn sức lực, ngay cả người có học vấn, để tồn tại được ở một đất nước văn minh bên trời Âu, cũng cần phải nỗ lực hết sức, thậm chí kiệt sức. Nam (Nam) đã tốt nghiệp đại học trong nước nhưng khi đến Anh gần như phải làm lại mọi thứ từ đầu. Điều đáng quý ở Nam là một ý chí và nghị lực rất phi thường. Đến nước Anh chỉ với bằng C tiếng Anh nhưng Nam đặt ra mục tiêu phải đạt được học bổng của một trường đại học và sau khi ra trường lại tiếp tục phấn đấu “để giữ vững được chức vụ kĩ sư trưởng ca của một trong hai sở điện lực Luân Đôn”. Để hoàn thành ước mơ, Nam như già trước hàng vài chục tuổi, đầu hói và trí não thì “hầu như quên cả xuất xứ của mọi hành động”. Có thể nói, mỗi bước đi lên trên con đường gây dựng sự nghiệp ở xứ người, Nam đều phải trả giá bằng cả những mất mát của tình cảm riêng như tình chồng - vợ, cha - con, lẫn những tài sản vô hình quý giá là sức lực và trí tuệ.
Truyện ngắn Ngày cuối cùng ở Budapest của Nguyễn Lam Thủy có ý nghĩa như một thiên phóng sự ghi lại hành trình dấn thân bi thảm của Long. Chuyện thật đến nỗi người ta muốn hình dung về nó như là một ghi chép “người thật việc thật” hơn là một truyện ngắn. Tính chất hư cấu của truyện chỉ có thể được nhận ra trong cách nhà văn để cho nhân vật hồi tưởng lại toàn bộ cuộc đời mình vào ngày cuối cùng lưu lại Budapest. Ngày cuối cùng ở Budapest, cũng là ngày đầu tiên sau bảy năm ở Hungary, Long được thanh thản ngắm thành phố đẹp nhất xứ Đông Âu này, còn trước đó Long chẳng biết nơi nào khác ngoài nhà ở và chợ. Dù điều kiện lao động hết sức nghiệt ngã, Long vẫn phải ra sức làm để có tiền gửi về cho người mẹ nghèo khổ, góa bụa trả món nợ đã vay cho con đi xuất khẩu lao động. Nhưng kết cục của những năm tháng phiêu bạt xứ người dành cho Long là một “bản án tử hình”: Long mắc bệnh ung thư gan. Ngày cuối cùng ở Budapest, nhìn dòng Danube trong xanh, Long nhớ về sông Hồng quê mẹ trong một hình dung vừa hãi hùng, vừa êm dịu.
Nhìn chung, dấn thân hiểu theo nghĩa thông thường là đặc tính phổ quát của hầu hết con người tha hương. Ra đi, tự nó đã là một trải nghiệm rất mới lạ, việc đến một vùng đất mới hoàn toàn khác quê mình còn là một thử thách nghiệt ngã hơn nữa, do vậy, ngạc nhiên, bất ngờ, lúng túng, hoảng loạn, vấp ngã, thất vọng, tuyệt vọng... là những trạng thái khó tránh khỏi của con người tha hương đã được thể hiện sinh động và ám ảnh trong nhiều tác phẩm văn xuôi đầu thế kỉ XXI.

 

2. Thay đổi như là một sự lựa chọn để thích nghi
Trong môi trường mưu sinh nghiệt ngã như vậy, để có thể sống được, những người Việt nhập cư đã buộc phải tự thay đổi mình để thích nghi với hoàn cảnh. Để có thể tồn tại được ở nước Đức văn minh, giàu có, Phi (Quyên) buộc phải từ bỏ nhiều thói tật như nói chuyện oang oang, bạ đâu cũng khạc nhổ, khi ăn uống cứ tỉnh queo ném xương thịt cá đầy lên gạt tàn thuốc... và nhất là tật ngoáy mũi. Những thay đổi như thế, dù có đem lại cho Phi nhiều khả năng thích nghi hơn, thì vẫn không đủ sức tạo ra một kiểu con người mới, hoàn toàn phù hợp với xã hội hiện đại Âu Tây. Ở Phi không thể có được sự lột xác, nhiều nhất cũng chỉ là sự pha trộn, chắp vá, ghép buộc. Cuộc sống của Phi trên đất khách do vậy vẫn đầy rẫy những điều bất ổn.
Ngoài việc bắt buộc phải từ bỏ thói tật để thích nghi với điều kiện sống mới trong trạng thái khổ sở, đau đớn, dằn vặt, nhiều người đã chủ động tiếp thu cái mới như một sự thỏa mãn những đòi hỏi tất yếu của quy luật sinh tồn. Phúc (Không ai yêu thương tôi) sau chuyến vượt biển thất lạc gia đình lúc lên tám tuổi, đến Canada trở thành con nuôi của ông bà Thompson như bước vào một hành tinh lạ với vốn tiếng Anh lõm bõm nhờ học được trong mấy tháng sống ở trại tị nạn. Vậy mà, sau mười năm, Phúc đã lột xác hoàn toàn, không còn dấu vết gì của căn tính Việt trên con người gã. Không chỉ nhằm mục đích hòa nhập, nhiều người còn chủ động thay đổi hòng xóa bỏ dấu vết. Trong Quà tặng của trời, một đứa con gái Việt học lớp 7 ở Đức đã không muốn đi cùng mẹ khi ra đường vì xấu hổ khi mẹ học mãi không thuộc một từ tiếng Đức và phải chứng kiến cảnh “... người Việt Nam bán thuốc lá lậu, bị cảnh sát đuổi bắt chạy tán loạn, rồi có cả những người quen của bố mẹ nó bị khóa tay tống vào ô tô đưa lên đồn”. Có thể thấy, sự thay đổi quyết liệt như thế phần nhiều xuất hiện ở lớp người trẻ tuổi, dễ thích nghi. Trong khi đó, thế hệ thứ nhất, hoặc là không đủ khả năng thích nghi, hoặc là vẫn muốn gìn giữ nếp cũ và gốc gác của mình. Điều này đã tạo nên những xung đột không dễ giải quyết giữa các thế hệ trong nhiều gia đình người Việt di cư. Đó cũng chính là căn nguyên sinh ra những công dân được ví như banana - những quả chuối ngoài da thì vàng nhưng trong ruột lại trắng, luôn chứa trong lòng nhiều bi kịch, lớn nhất là bi kịch thiếu căn cước, bi kịch thân phận của những công dân toàn cầu.
Nhìn chung, dù không bắt đầu từ một định đề của chủ nghĩa hiện thực về mối liên hệ giữa tính cách và hoàn cảnh, các nhà văn cũng không thể không chỉ ra một sự thay đổi khó cưỡng của những người Việt di cư trong hoàn cảnh sống mới. Dĩ nhiên, đó là một quá trình không đơn giản, nhất là đối với những người đã sống phần đời quan trọng ở cố hương. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, môi trường sống mới đã khiến người ta thay đổi tới mức không còn chút dấu vết nào của cố hương lưu lại. Điều này tạo nên nét đặc thù của hình tượng con người tha hương so với quan niệm về con người trong các mảng đề tài khác.

3. Dấn thân tìm ý nghĩa của tồn tại
Dấn thân tìm ý nghĩa của tồn tại là quan niệm con người mang ít nhiều sắc thái của triết học hiện sinh. Quan niệm này có thể thấy rõ trong các tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, Thuận. Trong tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, các nhân vật đều được bắt đầu số phận bằng sự ra đi. Sự ra đi cả trong Và khi tro bụilẫn Mưa ở kiếp sau đều nhằm để tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn của đời người: “Ta/ tôi là ai?”. Cả hai tiểu thuyết Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau đều cho người đọc một cảm nhận sâu sắc rằng, những hiện hữu như chiến tranh, đồng tiền, đạo đức, nhân cách, tội ác, trừng phạt, sám hối… - những vấn đề lâu nay tưởng rất quan trọng - lại chưa phải là tất cả của tồn tại. Trong thế giới nghệ thuật của Đoàn Minh Phượng, có một hiện hữu ghê gớm hơn: hư vô và hủy diệt. Do vậy, có thể nhận ra từ đó một quan niệm nhân sinh tuy không mới nhưng vẫn cần nhắc đi nhắc lại rằng: được sống là hạnh phúc, và mọi phạm trù nhân vị đều đáng được trân trọng. Điều này rất phù hợp với tinh thần của thuyết hiện sinh: “Thuyết hiện sinh muốn tạo nên một giới nhân loại như là toàn bộ các giá trị khác với giới vật thể”(3).
Một khía cạnh khác trong quan niệm về con người chịu ảnh hưởng thuyết hiện sinh của Đoàn Minh Phượng là việc miêu tả con người với ý thức “tự đạt đến bản thân mình”, tỉnh ngộ để tự “ý thức về giá trị cao quý của nhân vị mình”. Nghĩa là con người “phải tự trực tiếp hiểu mình mà không qua trung gian nào cả”(4). Để đạt được điều ấy, các nhân vật của Đoàn Minh Phượng thường phải dấn thân hoàn toàn. Trong Và khi tro bụi, An Mi (An) ra đi trong một trạng thái chấn thương nghiêm trọng về tinh thần. Đó là sự hoảng loạn cực độ sau khi tận mắt chứng kiến cái chết vì bom đạn của người mẹ. Dấn thân hoàn toàn, An Mi trở thành một chủ thể tự do. Nhưng “tự do” không phải theo nghĩa “không bị cấm đoán”, “không bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ”(5) mà là “phải chịu trách nhiệm với mọi hành động của bản thân mình”(6). Trên hành trình ấy, dù phải trải qua nhiều nỗi lo sợ, thậm chí nguy hiểm nhưng An Mi vẫn tin vào bản năng sống. Cuộc sống với An Mi là một cuộc dấn thân để tìm ra đáp số cho câu hỏi “Tôi là ai?”. Mọi câu trả lời từ phía khách quan, với An Mi, đều không thỏa đáng, không có sức thuyết phục. Làm sao An Mi có thể là cô Sophie hay Michael, mà chỉ có thể là cô, là An - đứa trẻ mồ côi đến từ một đất nước có chiến tranh đang khao khát tìm về với cội rễ, với bản thể. Đó là câu trả lời hữu lí nhất mà An Mi đã tự tìm thấy cho mình.
Cũng là cảm thức hiện sinh nhưng xu hướng tìm kiếm và thể hiện của nhà văn Thuận không giống Đoàn Minh Phượng. Thuận tập trung xây dựng các kiểu nhân vật phi lí. Phi lí có nghĩa thường dùng là “không hợp với lẽ phải thông thường”(7). Phi lí (absurde) cũng là một phạm trù hiện sinh được đề xuất bởi Camus với ý nghĩa là diễn tả “cái vẻ trơ trơ, vô ý thức và vô vị của cuộc đời”. Với ý nghĩa hiện sinh này, việc ý thức về tính chất phi lí sẽ giúp con người vùng dậy, thoát khỏi “trạng thái sự vật để vươn lên tới thiên chức làm những nhân vị tự do và tự chịu trách nhiệm”(8). Trong các tiểu thuyết của Thuận, nhân vật được miêu tả vừa có vẻ phi lí hiểu theo nghĩa thông thường, vừa có vẻ phi lí hiểu theo cách của triết học hiện sinh. Liên (Paris 11 tháng 8) là một con người đầy mâu thuẫn: chưa từng yêu mà lại chán chuyện yêu đương, chưa từng hi vọng mà đã tuyệt vọng, chưa tiếp xúc mà đã chai sạn, chưa sống hết đời đã muốn chết, rất giàu tình cảm mà cũng rất lãnh cảm, có khi rất sôi nổi có lúc lại rất lạnh lùng, sống trong hiện tại nhưng lòng luôn nhớ về quá khứ... Đặt Liên bên cạnh Mai Lan, Thuận như muốn làm nổi bật lên nhiều phi lí khác: Liên xấu xí, Mai Lan xinh đẹp; Liên vụng về, Mai Lan khéo léo; Liên mặc cảm, Mai Lan rất tự tin... Nhìn chung, trong cảm nhận của Thuận, thế giới đầy rẫy mâu thuẫn. Ý nghĩa hiện sinh của hình tượng là diễn đạt của nhà văn về sự vô vị của cuộc đời. Bất luận trong hoàn cảnh nào, với ai, Liên vẫn là một thực thể vô nghĩa. Quay quắt trong nỗi cô đơn, Liên không sao tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Không có gì đẹp đẽ hơn để miêu tả về Liên ngoài những “im lặng”, “không nói gì”, “gật đầu”, “lại gật đầu”, “lắc đầu”, “chẳng hiểu gì”, “ngây ngô”, “ngượng nghịu”... Liên chỉ có một thứ vũ khí để tự vệ mỗi khi bị “tấn công” là hai con mắt gườm gườm. Khi vũ khí không còn đủ sức mạnh che chở cho Liên, với một tâm hồn trống rỗng, Liên tuyệt vọng nhìn cái chết đang tới. Nhưng chính việc tự quyết về cái chết của mình, chấm dứt tình trạng buồn nôn của cuộc đời vô nhân vị lại khiến Liên trở nên một nhân vị độc đáo. Bởi vì khi con người tự cảm thấy sự phi lí của một tình trạng “sống thừa ra” (se survivre - chữ của J. P. Sartre), một cuộc sống máy móc, sống để mà sống, là khi con người có ý thức sâu xa về tính chất độc đáo hiện sinh của mình.
Trong Chinatown, sự phi lí cũng hiện hữu rõ rệt trong thân phận của những kẻ tha hương. Đó là một người đàn ông gốc Hoa tên Thụy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng không có quê hương. Đó là một người con gái Hà Nội có mối tình sâu nặng với chàng trai gốc Hoa ở phố Lương Ngọc Quyến tên là Âu Phương Thụy, đã từng du học ở Nga, hiện sống trên đất Pháp mà tâm tưởng cứ ám ảnh không nguôi hình bóng phố Tàu. Có thể thấy, cả Thụy, cả người thiếu phụ xưng “tôi” và đứa con của họ đều là hiện thân của cái gọi là công dân toàn cầu bị mắc kẹt giữa các nền văn hóa. Họ có thể có tới ba bốn quốc tịch, nhưng lại không thể thuộc về một đất nước nào. Tình cảnh ấy khiến cho những thân phận tha hương thường chất chứa nhiều bi kịch mà đau đớn nhất là bi kịch phi tổ quốc, thiếu quê hương.
Cần phải nói rằng những tác phẩm mà chúng tôi nhắc đến trên đây chưa phải là tất cả văn học về đề tài tha hương. Cũng như có thể nói, những tác phẩm văn học về đề tài tha hương có mặt cho đến thời điểm này chưa thể nói hết được cuộc sống gian truân, thăng trầm của số đông người Việt trên đất khách. Kiểu con người dấn thân hay hình tượng con người tha hương hẳn là còn nhiều đặc tính cần được khám phá, thể hiện. Bởi vậy, văn học về đề tài tha hương vẫn đầy triển vọng. Quan sát, lí giải những sáng tác này là việc làm cần được tiếp tục theo đuổi. Nó giúp ta nhìn nhận sâu hơn về số phận con người trong một không gian, bối cảnh mới, cũng là đánh giá chân xác, khách quan hơn về những đóng góp của bộ phận văn học Việt ở ngoài nước cho nền văn học dân tộc. Điều này vẫn luôn cần thiết, nhất là trong bối cảnh xã hội và văn học hiện nay
L.T.A


---------
1, 2, 8. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, tr.48-49, 50, 44.
3, 4, 6. Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 2, Nxb Giáo dục, tr.928, 920.
5, 7. Trung tâm từ điển học Vietlex, Từ điển tiếng Việt (2009), Nxb Đà Nẵng, tr.1376, tr.1000.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 10.8.2019.

20190204 Chien tranh

Ảnh: Các đại biểu tham dự hội thảo

Đó là nhận định của TS Trần Đăng Trung - Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG Hà Nội tại Hội thảo khoa học “Chiến tranh - đất nước - con người trong văn học và điện ảnh đương đại” do Khoa Văn Học, Trường ĐH KHXH&NV ĐHQG-HCM tổ chức ngày 22/12.

Theo TS Phan Mạnh Hùng - Phó Trưởng khoa Khoa Văn Học, Trường ĐH KHXH&NV ĐHQ-HCM, hội thảo nhằm tổng kết, đánh giá những thành tựu, xu hướng tiếp cận mới về đề tài chiến tranh - đất nước - con người trong văn học và điện ảnh đương đại. Đồng thời, sự tham gia của các nhà văn, đạo diễn sẽ góp thêm những ý kiến, dự định, trăn trở sáng tạo của người cầm bút về đề tài này trong tương lai.

Chiến tranh nhìn từ văn học và điện ảnh

Tiếp cận chiến tranh từ các sáng tác thơ cách mạng trong giai đoạn 1954-1975, TS Phạm Quốc Ca - Trường ĐH Đà Lạt cho rằng chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam trong chiến đấu và sản xuất vừa là đối tượng phản ánh vừa là mục đích sáng tác của các nhà thơ trong giai đoạn này.

“Đó là thời đại anh hùng, một đi không trở lại, không thể lấy thước tấc bình thường mà đo được. Một trong những quy luật thép lúc bấy giờ là không cho phép sự phân tâm, yếu lòng. Những bài thơ như Sẹo đất của Ngô Văn Phú, Vòng trắng của Phạm Tiến Duật ngày hôm nay ta đọc lại thấy bình thường nhưng xuất hiện vào những năm 1973-1974 đã là sự kiện xôn xao. Những bài thơ bi thương về chiến tranh của Lưu Quang Vũ chỉ tồn tại trong sổ tay hoặc lưu hành trong đám bạn bè thân thiết, thực sự là ‘đồ quốc cấm’ lúc bấy giờ” - TS Phạm Quốc Ca nhấn mạnh.

Đề cập thơ đô thị miền Nam cùng thời kỳ, theo TS Phạm Quốc Ca, cái bi với những biểu hiện đa dạng là âm điệu cơ bản. Thơ Nguyễn Bắc Sơn, nhạc Trịnh Công Sơn được đặt biệt yêu thích vì nó mang tâm trạng chán ghét chiến tranh của người dân miền Nam đương thời.

Ở góc độ điện ảnh, nhà phê bình Tô Hoàng phân tích phim tài liệu The Vietnam War của bộ đôi đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick với những “điểm son” nhất định, dù đây “là phim của người Mỹ” và được “lý giải theo cách của họ”. Ông đánh giá: “Với The Vietnam War, ngay từ vài ba tập đầu đã tựa như cho người xem thấy chính nghĩa thuộc bên nào? Nhân dân ở cả nông thôn lẫn thành thị phía Nam ủng hộ ai? Vì sao biện pháp gom dân vào ấp chiến lược của Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn thất bại? Lính Mỹ thật khó phân biệt đâu là dân đâu là lính ‘Việt Cộng’? ‘Việt Cộng’ tác chiến không dàn tuyến mà ‘xuất quỷ nhập thần’. Chúng ta hiểu, một cuộc chiến tranh với mục đích chính nghĩa, dựa vào dân, được dân đùm bọc, chở che mới tiến hành tác chiến như vậy được. The Vietnam War không muốn hay không gọi thành tên, nhưng chúng ta nhận ra ngay hình thái của một cuộc chiến tranh nhân dân quen thuộc”.

Thảo luận về chủ đề “Văn học và ký ức về chiến tranh Việt Nam”, TS Trần Đăng Trung nhận xét: “Những tác phẩm văn học về cuộc chiến đóng vai trò đáng kể trong việc lưu giữ và củng cố ký ức chiến tranh phổ biến. Nhưng đồng thời không ngừng khơi dậy và bổ sung vào sự ghi nhớ của cộng đồng những câu chuyện và trải nghiệm khuất lấp, thường bị bỏ qua hay lãng quên”.

Lý giải tình trạng mâu thuẫn dai dẳng giữa các nhóm người sau chiến tranh, TS Trung cho rằng một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng trên là do các bên không thể thống nhất về cách cuộc chiến được ghi nhớ hay tạo lập một ký ức chung, câu chuyện chung mà các bên đều có thể đồng cảm và chấp nhận, đều cảm thấy mình là một phần ở trong đó. Ông phân tích: “Sự thiên lệch này phản ánh một phần bản chất sâu thẳm trong con người vốn luôn lấy mình làm trung tâm và hệ quy chiếu. Không chấp nhận và không khoan thứ cho kẻ địch, đó là một luật lệ nghiệt ngã của chiến tranh. Và ảnh hưởng của thái độ thù nghịch đó sẽ còn đeo bám con người rất dai dẳng ngay cả khi cuộc xung đột đã khép lại”.

Đề xuất khuynh hướng sang tác mới trong bối cảnh hiện nay, TS Trần Đăng Trung nhận định: “Một tác phẩm văn học đích thực về chiến tranh tất yếu phải là tác phẩm nói về nhân tính và mang tinh thần hòa giải, làm thuyên giảm nỗi đau cũng như sự thù hận”.

Viết để không bị lãng quên

Đại diện thế hệ cầm bút trong cuộc chiến tranh với Mỹ, nhà thơ Giang Nam cho biết, từ Đổi mới đến nay, ông rất hoan nghênh những tác phẩm đi vào lòng dân với những suy nghĩ mới. Tuy nhiên, tác giả của thi phẩm Quê hương cho rằng có những điều cần xem lại. Đơn cử, quan điểm về văn học nghệ thuật phải dám nói lên sự thật, đặc biệt là mặc tiêu cực, xấu xa của cuộc kháng chiến mà hồi chiến tranh không cho phép, quan điểm này có đúng và có sai.

“Đừng quên là cuộc chiến đấu bảo vệ đất nước, bảo vệ truyền thống của cha ông đang diễn ra từng ngày. Cuộc chiến đấu ấy buộc ta phải thận trọng. Có không ít nhà văn, nhà thơ vi phạm và đã loại ra khỏi đội ngũ. Lực lượng chống đối ta ở trong nước và nước ngoài luôn tìm mọi cách mua chuộc, xuyên tạc, lôi kéo văn nghệ sĩ. Tóm lại, ‘đổi mới’, theo tôi là của những người chiến thắng, cần tìm hình thức và nội dung mới cho văn học nghệ thuật của ta. Đó không phải là vũ khí của kẻ thất bại đang tìm mọi cách để trả thù”.

Nhà thơ Giang Nam cũng bày tỏ niềm tin vào các cây bút trẻ sẽ sáng tạo những tác phẩm hay, viết về chiến tranh sâu sắc hơn, nghĩa tình hơn những cây bút từng trải qua cuộc chiến.

Chia sẻ những khó khăn khi thực hiện các bộ phim về đề tài chiến tranh, đạo diễn Đặng Nhật Minh cho biết: “Cái khó là mình có điều gì đó mới mẻ để nói với người xem không hay chỉ lặp lại những điều mà mọi người đều biết như ta là chính nghĩa, địch là phi nghĩa, ta bao giờ cũng thắng và địch bao giờ cũng thua. Nếu như vậy thì khán giả sẽ nói: ‘Biết rồi! Khổ lắm. Nói mãi!”. Họ sẽ quay lưng lại với những phim về đề tài chiến tranh, chủ yếu để kỷ niệm những ngày lễ lớn, vô cùng tốn kém mà không ai xem như chúng ta từng chứng kiến”.

Đạo diễn của Bao giờ cho đến tháng Mười cho biết thêm, các phim của ông dù làm về đề tài chiến tranh hay phim có hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh như Hà Nội mùa đông 46 đều không mang màu sắc tuyên truyền chính trị. Chúng chỉ nói đến số phận con người nên chạm được trái tim của mọi người. “Tôi còn nhớ năm 2010 khi chiếu phim Đừng đốt ở Trường ĐH De Anza bên Mỹ, có một thanh niên người da màu đã phát biểu trong phần giao lưu sau khi chiếu phim như sau: ‘Tôi có người anh chết trong chiến tranh ở Việt Nam. Tôi căm thù người Việt Nam. Nhưng nay xem xong phim Đừng đốt, tôi không muốn nuôi giữ lòng hận thù đó nữa” - đạo diễn Đặng Nhật Minh chia sẻ.

Trở về từ chiến trường Campuchia, nhà thơ Phạm Sỹ Sáu - Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM cho rằng thế hệ cầm bút của ông viết để khẳng định mình là những người lính thế hệ mới, chỉ muốn ở bên nhau bền vai sát cánh, vì sự sống của bản thân và đồng đội. “Tôi viết như một sự giãi bày, lên tiếng về chân dung thế hệ mình. Không cường điệu, chẳng lên gân, viết như một lựa chọn không thể nào khác. Chứng kiến cuộc sống chiến đấu khốc liệt của đồng đội còn ở lại chiến trường, còn vì nhau mà chiến đấu, những trang viết của tôi vì thế thiếu đi tính hoa mỹ mà tràn đầy sự trần trụi” - tác giả của trường ca Giữa ngày và đêm bày tỏ.

Nhà thơ Phạm Sỹ Sáu nói thêm: “Khi bước ra khỏi cuộc chiến tranh giữ nước từ xa, chúng tôi nghĩ về nó và làm nó sống lại trên những trang viết của mình với sự chân thật cần thiết phải có. Bởi đó là món nợ với những mất mát lớn lao mà đồng đội đã vĩnh viễn ra đi không có ngày về hoặc trở về với những thương tật, là gánh nặng giữa đời thường. Tôi viết bởi tôi không muốn thế hệ lính của mình bị lãng quên trong cuộc chiến”.

Nguồn: Bản tin ĐHQG-HCM số 191-192 - 2019

"Nỗi buồn chiến tranh" được giảng dạy rộng rãi trong các đại học ở Mỹ, được xếp cùng nhiều tác phẩm danh giá khác và có vị trí trang trọng tại các trường học. 

Chiều ngày 15/7, khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tổ chức thuyết trình khoa học  “Ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh”.

Trước sự chứng kiến của vị khách mời đặc biệt là nhà văn Bảo Ninh - cha đẻ tiểu thuyết - và các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của khoa Văn học, diễn giả Giáo sư, Tiến sĩ Laichen Sun đã dành gần hai giờ đồng hồ để nói về ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Ông nêu lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này lại được cộng đồng quốc tế quan tâm. TS Laichen Sun giảng dạy ở Đại học bang California tại Fullerton, Mỹ, Tổng biên tập Tạp chí Chuỗi dịch thuật nước ngoài ở Đông Nam Á, thành viên Hội đồng quản trị Hiệp hội Châu Á về lịch sử thế giới.

Nhà văn Bảo Ninh.

Mở đầu phần thuyết trình, Laichen Sun đã trích dẫn một số nhận định về cuốn tiểu thuyết này: 

“Ở Việt Nam từ khi xuất bản Nỗi buồn chiến tranh, mọi người không còn mô tả chiến tranh như trước đây nữa”, ông Phạm Xuân Nguyên - cựu Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội nói. 

“Trước khi đến Việt Nam, tìm hiểu về Việt Nam, bạn hãy đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, Nhà xuất bản Lonely Planet chuyên xuất bản sách hướng dẫn Du lịch có trụ sở ở Melbourne, Australia khuyến nghị.

“Tất cả các trường học trên thế giới nên đọc cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, nhà văn người Anh và đạo diễn từng đoạt giải thưởng Charlie Raman nói.

“Tiểu thuyết vượt lên thời gian và không gian và có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ”, Kang Young Ha, một nhà văn nổi tiếng của Hàn Quốc nhận xét. 

Laichen Sun cho biết ông đã dành nhiều công sức và thời gian để tìm hiểu tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh khi nhận lời viết lời giới thiệu cuốn tiểu thuyết dịch xuất bản ở Trung Quốc. Sau khi đọc tác phẩm, ông đã viết lời giới thiệu 97 trang (khoảng 70.000 chữ tiếng Trung). Riêng phần tóm tắt đã là 6.000 chữ.

Laichen Sun cũng cho biết có hàng trăm công trình trên thế giới nghiên cứu cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đây là tác phẩm lớn đáng để tìm hiểu, không chỉ bởi vai trò của nó trong thúc đẩy hòa bình ở châu Á mà nó còn giúp chúng ta hiểu được giá trị của hòa bình và căm ghét chiến tranh.

Nhà văn Bảo Ninh (bên trái), Giáo sư, Tiến sĩ Laichen Sun (giữa) trong buổi thuyết trình.

Nhiều vấn đề liên quan đến cuốn tiểu thuyết được Laichen Sun tìm hiểu rất cặn kẽ, ông còn lập các phụ lục với hàng loạt số liệu thống kê về các công trình trích dẫn cuốn tiểu thuyết, các bài phỏng vấn nhà văn Bảo Ninh, những trường đại học, trung học sử dụng tiểu thuyết, các thứ tiếng dịch tác phẩm…

Ông cho biết cuốn tiểu thuyết dịch ra 15 thứ tiếng, 18 phiên bản (mỗi thứ tiếng Nhật, tiếng Hàn và tiếng Trung có hai phiên bản), tiếng Anh, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Pháp, Đức, Ba Tư, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Thái Lan. Phần lớn các bản dịch là chuyển ngữ lại từ bản tiếng Anh, cho dù chưa thực sự chính xác nhưng nó vẫn chiếm được sự quan tâm lớn lao của quốc tế. 

"Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh góp phần làm cho Việt Nam nổi tiếng. Đây là cuốn tiểu thuyết tiếng Việt được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất thế giới, tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Việt Nam từ trước tới giờ. Một trong những tác phẩm văn học lớn nhất trên thế giới. Một tác phẩm về chiến tranh nổi tiếng nhất thế kỷ XX", GS Laichen Sun dành nhiều lời ca ngợi.

Cuốn tiểu thuyết còn vượt qua khỏi lãnh địa văn chương sang các lĩnh vực khác như tâm thần học, tâm lý học, giới sử học và các khoa học khác cũng rất quan tâm. 

Tác phẩm này còn được giảng dạy rộng rãi trong các đại học ở Mỹ và một số nước, được xếp cùng nhiều tác phẩm danh giá khác và có vị trí trang trọng trong không gian trường học Mỹ. Không những thế tiểu thuyết còn ảnh hưởng đến không ít các học giả và là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn quốc tế.

Laichen Sun cho biết sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh ông rất xúc động và tác phẩm này đã làm thay đổi cách dạy lịch sử của ông. Trong hơn 10 năm dạy học, trong các tiết học, ông luôn yêu cầu sinh viên đọc tác phẩm này để hiểu hơn về lịch sử Việt Nam, về sự tàn phá của chiến tranh, sự khủng khiếp của chiến tranh, căm ghét chiến tranh và nuôi dưỡng tình yêu hòa bình.

Nhà văn Bảo Ninh cho biết nhờ bài thuyết trình của Giáo sư Laichen Sun mà ông biết tiểu thuyết của mình được sự quan tâm của quốc tế. Nhưng ông cũng băn khoăn khi thực trạng của văn học Việt Nam trầm lắng. Bởi nhiều tác phẩm chưa được dịch sang các ngôn ngữ khác. Ông đề nghị giáo sư với uy tín của mình nên quảng bá, giới thiệu nhiều tác phẩm văn học của Việt Nam ra quốc tế.

20190729 NBCT

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết đặt dấu mốc quan trọng, mở ra một lối viết khác, cách nhìn khác về chiến tranh. Nếu như trước đây, chiến tranh thường được tái hiện từ cái nhìn của cộng đồng, con người thường được khai thác từ phương diện xã hội, được nhìn từ góc độ của cái đẹp, cái anh hùng, và kết cấu tiểu thuyết thường được xây dựng theo chiều tuyến tính, thì đến Nỗi buồn chiến tranh, người ta bắt gặp một lối viết hoàn toàn mới: Cá nhân hoá hư cấu, xây dựng nhân vật trên phương diện tâm lý cá nhân, tái hiện cuộc chiến từ góc độ chủ yếu là bi kịch, với kết cấu tiểu thuyết theo mô hình dòng ý thức, tiểu thuyết ở bên trong tiểu thuyết. 

Sự đổi mới trong cả cách nhìn và lối viết ấy khiến cho chiến tranh và con người bước ra từ cuộc chiến hiện lên với tính hiện thực, phức tạp, đa chiều, nhiều ám ảnh. Đó là một tiểu thuyết giúp con người bước vào hành trình đi tìm chân lý: Chiến tranh là nỗi buồn, là điều khủng khiếp, nhưng chính sự sẻ chia nỗi buồn ấy là gia tài quý báu mang lại sức mạnh vĩ đại để những người lính vượt qua nó, và hoà bình chính là điều quý giá nhất của nhân loại. 

Tiểu thuyết này cũng kiến tạo một hành trình đi tìm một lối viết mới về chiến tranh và khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm sau này.

Nguồn Zing.vn, ngày 17.7.2019.

Từ đầu chuyến đi ngắn ngày đến Quảng Nam - Đà Nẵng, tôi và Vương Trí Nhàn đã bảo nhau thế nào cũng phải tìm gặp ông Nguyễn Văn Xuân. Thực tình, chúng tôi đọc ông còn quá ít, mới chỉ vài bài báo, vài đoạn trích. Nhưng qua một vài anh em văn nghệ, và nhất là qua sách báo nghiên cứu, chúng tôi cảm thấy phải đọc Nguyễn Văn Xuân để hiểu người và đất từ miền Trung trở vào, tựa như phải đọc Sơn Nam để hiểu người và đất Nam Kỳ lục tỉnh.

Nhà văn Nguyễn Văn Xuân

Bạn bè ở Đà Nẵng bảo việc gặp “cụ Xuân” thì dễ thôi. Vậy mà với hai kẻ tạt ngang như chúng tôi, việc ấy hóa ra lại khó. Rốt cuộc thì cũng gặp được, vào lúc chúng tôi đang sửa soạn khăn gói về Bắc. Và ông già ngoại thất tuần đã để lại nơi tôi một ấn tượng khá đậm. Ông gây cho người mới gặp lần đầu cái cảm giác thân mật, dễ gần. Trông ông bình dân, nhưng không quá dân dã, càng không có vẻ gì của nhà văn bàn giấy hay học giả thư phòng.

          Chúng tôi biết ông là cây bút vào nghề từ những năm 1940s. Tổng tập văn học Việt Nam (tập 30 B) tuyển 2 truyện ngắn ông sáng tác trước 1945. Có điều lạ là từ văn sáng tác (văn hư cấu) thời đầu, ông lại chuyển sang văn nghiên cứu và dường như cái đáng kể hơn ở ngòi bút ông lại là mảng này. Hai cuốn Khi những lưu dân trở lại Phong trào duy tân ông viết những năm 1960s, vừa được in lại; ông ký tặng bọn tôi mỗi người một cuốn Phong trào duy tân.

          “Tôi là một người địa phương học, - Nguyễn Văn Xuân nói - nhưng không phải địa phương học theo nghĩa cũ, mà là theo nghĩa mới. Việc nghiên cứu xã hội, theo tôi, không phải là chép chỗ này một ít chỗ kia một ít, mà phải nghiên cứu thực tế sự việc, phong tục, văn hóa… Hồi trước, khi đọc một tác giả Pháp, tôi sững sờ vì cái nhận xét mang tính phương châm này: sự nghiên cứu về cả thế giới nên bớt đi, sự nghiên cứu về địa phương nên tăng lên. Tôi yên tâm khi tập trung tối đa vào nghiên cứu địa phương, thấy việc nghiên cứu từng địa phương là quan trọng. Nghĩ như lịch sử nước mình, trong cả chiều dài chiều rộng, sức mấy mà người nghiên cứu nêu được những nhận định khái quát mới. Thôi thì hẵng tạm bằng lòng là đã có mấy bộ sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử thông giám cương mục. Rồi tập trung nghiên cứu các địa phương. Ngay bây giờ, tôi cho là cần đào tạo thật đông những nhà địa phương học có trình độ ngang mức quốc tế, để có thể tiến hành nghiên cứu so sánh rộng…”

          Ông nêu tên một loại dép người Việt xưa đã dùng, có những người Nhật bảo giống một thứ dép của họ.

“Đó, nếu đặt vấn đề nghiên cứu so sánh, có thể tìm ra những điều thú vị: biết đâu người ta đã chẳng mang kiểu từ Việt về Nhật?”

Ông nêu tên mấy thứ bánh miền Trung có: chưng, tét, tổ, nổ, ích; trong số này, theo ông, bánh tổ có gốc từ Trung Hoa. Thế là trên một loại bánh đã đọc thấy những giao lưu văn hóa.

“Việc nghiên cứu không nên dừng lại ở văn bản. Ví như về phong trào duy tân. Không nên dừng ở các văn bản còn lại. Phong trào này không chỉ có một hướng mở tư thục, dạy tân thư. Nó còn có hướng thực nghiệp. Công ty nước mắm Liên Thành ở miền Trung được lập cùng lúc với trường Đông Kinh nghĩa thục ngoài Bắc. Không phải ngẫu nhiên bác sĩ Hồ Tá Khanh ở Pháp đã viết một cuốn sách về công ty này. Tổ chức sản xuất kinh doanh kiểu công ty là nội dung quan trọng thứ hai của duy tân. Thứ ba, phong trào duy tân là khởi nguồn của phong trào lãng mạn trong văn hóa, văn học.”

Duy tân đưa tới phong trào văn nghệ lãng mạn - như ông nhận định - là điều chúng tôi hầu như mới nghe lần đầu, nhưng có thể tán thành bởi tính chất chung của hai phong trào: đó là việc Âu hóa, đô thị hóa, đưa xứ mình thoát ra khỏi nhịp sống trung đại để đi vào thời hiện đại cả về kinh tế, xã hội, văn hóa. (Tôi nhớ, ở một ghi chép, Thế Lữ cho biết ông từng “sống” với phong trào tẩy chay hàng của Khách, hô hào dùng nội hóa, trước khi sống với phong trào văn học lãng mạn). Ông Nguyễn Văn Xuân chỉ cho chúng tôi mấy việc cụ thể: “Phong trào duy tân cung cấp cho phong trào lãng mạn về sau những người hoạt động, những lối sáng tác. Ví dụ quyển Hãn mạn du ký (1920) của Nguyễn Bá Trác. Hoặc những người như Lê Dư, và nhất là Phan Khôi - người cho đăng bài thơ “Tình già” châm ngòi cho việc đăng tải hàng loạt sáng tác thơ mới lãng mạn…”

Luôn thể, chúng tôi hỏi ý kiến ông về một số học giả trong Nam ngoài Bắc từ đầu thế kỷ XX đến gần đây. Về từng người, ông nêu nhận xét trong mấy câu ngắn gọn, ý sắc. Những ai ông không nắm được, ông từ chối: “Anh ấy thuộc lớp trẻ hơn, tôi không biết.”

Chúng tôi muốn được biết rõ hơn về ông. Ví dụ, ông có nhớ rõ ngày tháng năm sinh? Câu trả lời của ông vừa bỏ ngỏ, vừa… đầy tư liệu:

“Hồi ở tiểu học, ngày sinh ghi là 10.5.1920. Con số này chắc là sai, vì tôi tuổi Dậu, tức là năm 1921; còn ngày tháng, thì 10.5, chắc là theo âm lịch” [quy đổi thì ngày 10 tháng 5 năm Kỷ Dậu nhằm ngày thứ Tư 15.6.1921]

Chúng tôi hỏi ông đang viết gì, nhất là ông viết cái gì “để đời”? Ông trả lời trong giọng hào hứng, vừa đệm theo những tiếng thở dài:

“Ôi chao, muốn lắm chớ. Tôi muốn viết một bộ sách về văn học trình diễn, tức là văn học để nói. Mà tôi cũng đã viết được ra thành đến mấy xếp giấy, không biết để lạc đâu đó, ngay trong nhà mình cũng nên. Tôi cũng đi thuyết trình cho các lớp sau đại học ở TP. HCM. Nhưng để làm được thì phải có thời gian, thật nhiều thời gian. Mà thời gian bây giờ tôi phải giành để kiếm sống nuôi đặng ba bốn người lớn trong nhà… Không chắc đã viết được.

Tôi nghiệm rằng ở miền Nam, văn học trình diễn rất quan trọng. Ngoài Bắc, “văn” là cái để đọc. Trong Nam, “văn” là để nói. Thơ lục bát Nguyễn Đình Chiểu là để nói. Người ta nói thơLục Vân Tiên, thơ Thông Tằm, thơ Mụ Đội, vè Chàng Lía… Nói là một phong cách lớn của văn học miền Nam góp vào văn học người Việt. Kết tinh của phong cách này là văn học trình diễn.

Dân Việt trong Nam từ mấy thế kỷ nay là dân đi khai phá, kiểu như dân Âu sang đất Mỹ. Thường thì kẻ đi khai phá đành chịu dốt, không được học. Tiếp nhận bằng nghe nói thuận lợi hơn bằng đọc. Người được học không nhiều; họ có phần giống các samurai bên Nhật: mức học thường là đến tú tài, dưới cử nhân, nhưng ra đời cầm cuốc cầm gươm nhiều hơn cầm bút, di chuyển nhiều hơn là ngồi một nơi. So thử hai thứ bánh đồng chất: bánh chưng ngoài Bắc thích hợp với sự cố định, để nguyên một chỗ; bánh tét trong Nam là thứ thích hợp cho di chuyển, xách mang… Miền Bắc nền nếp, cố định. Miền Nam có khác…”

Chúng tôi hiểu ý ông. Tính năng động, trẻ trung - là đặc tính thấy rõ hơn ở miền Nam. “Văn để nói” của miền Nam, nhất là ở thế kỷ XIX, ít tính uyên thâm, tao nhã, chọn lọc như “văn học để đọc” ở Bắc. Nhưng bù lại, “phong cách nói” của lối văn trong Nam không phải là không đem lại điều gì cho văn học tiếng Việt, nhất là từ thế kỷ XX, khi phong trào văn học và báo chí quốc ngữ chảy ngược từ Nam ra Bắc.

Chúng tôi muốn hỏi chuyện ông về ngôn ngữ, nhân cái ý vừa được khơi ra. Nhưng đã đến giờ ông phải đi vì công việc. Như là để kết thúc, ông trở lại cái ý về sự cần thiết đào tạo các nhà địa phương học, xã hội học. Ông lo lắng: phải dạy thế nào cho sinh viên, nếu không, rồi sẽ không có người viết sử, không có người nghiên cứu địa phương học, xã hội học. Mà phải lo từ nhà trường phổ thông. Phải làm sao có được những trường chính quy, có trường sở tốt, thày giỏi, có đủ thư viện, phòng thí nghiệm, vườn trường, xưởng trường, sân thể thao. Phải có những trường chính quy rồi mới có nhiều chuyên gia giỏi…

Tạm biệt một người có thể xem là một pho sách sống lý thú như ông Nguyễn Văn Xuân, chúng tôi rất mong có dịp gặp lại.

Liệu chúng tôi còn dịp may gặp lại ông không?

Thái Bá Lợi im lặng tham dự toàn bộ cuộc trò chuyện này, bây giờ mới lên tiếng đáp: “Việc gặp là tùy duyên, không nên hẹn trước!”

  

Sửa lần cuối vào Thứ năm, 31 Tháng 1 2019 19:32

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/gap-nha-van-nguyen-van-xuan

Xét trên những thi phẩm viết bằng chữ Hán của Đào Tấn, chúng tôi nhận thấy có đầy đủ biểu hiện của ba kiểu loại ứng xử nhà nho: hành đạo, ẩn dật và tài tử. Tuy nhiên xuyên suốt và đậm nét hơn cả vẫn là loại hình nhà nho hành đạo.

20190721 Dao Tan

Khảo sát cụ thể sáng tác thơ chữ Hán của Đào Tấn, nhiều biểu hiện cho thấy tác giả vẫn sống đúng với phận vị của một bề tôi. Tết đến xuân về, Đào Tấn không quên gửi lời chúc tốt đẹp đến vua: Ngự Bình Nam vọng chiêm hoa đán/ Nguyện hiệu sơn hô đệ kỷ thanh (Ngóng về phương Nam nơi có núi Ngự Bình mà đón tết/ Xin tung hô nhiều lần chúc thọ nhà vua - Nhâm Dần nguyên đán thí bút). Trong mắt cụ Đào, đôi khi ngay cả cỏ hoa cũng mang ơn vua: Kỳ viên hoa thảo thượng quân ân (Hoa cỏ vườn chùa còn thắm đượm ơn vua - Dạ quá Hòa Quang tự ngẫu chiếm). Có lúc, kẻ bề tôi cô đơn lại hổ thẹn vì cảm thấy có lỗi với đấng tiên đế (Tự Đức): Tiên đế ủy vi kim nhật dụng/ Cô thần hoàn tác cố sơn mưu (Đấng tiên đế ủy thác cho ta phải làm công việc ngày hôm nay/ Nhưng kẻ bề tôi cô đơn này lại toan tính việc trở về non cũ - Vô đề), tựa như Nguyễn Khuyến từng trách mình: “Ơn vua chửa chút báo đền/ Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời” (Di chúc văn - Trần Tán Bình dịch). Và trong những lúc buồn rầu, cô đơn ấy, khi nghe tiếng cuốc kêu, Đào Tấn không khỏi bâng khuâng nhớ về vị vua cũ đầy tâm đắc, tri ngộ (Văn đỗ vũ). Xuất phát từ lý tưởng “Quân minh thần lương” nên khi vua quan nhà Nguyễn ngày càng sa sút, từ trong đáy lòng mình, Đào Tấn vẫn mong muốn có một vị vua sáng suốt, biết dựa vào dân như người anh hùng Lê Lợi để phò tá. Điều đó giải thích tại sao hai lần đi thăm di tích Lam Sơn (Thanh Hóa), tác giả đều có thơ ca ngợi Lê Lợi (Du Lam Sơn bái đề Lê Thái Tổ miếu, Trùng du Lam Sơn tuyệt cú). Tuy tư tưởng trung quân ở Đào Tấn không được phát biểu trực tiếp như Nguyễn Đình Chiểu từng nói: Trai thời trung hiếu làm đầu (Truyện Lục Vân Tiên) nhưng tác giả lại gián tiếp mượn hình ảnh bề tôi nổi tiếng trung với vua, sẵn sàng chết vì vua như Nhạc Phi (thời Nam Tống) để ngầm thể hiện điều đó: Đại nghĩa quân thần trọng/ Cô trung thiên địa tri (Nặng lòng vì nghĩa lớn vua tôi/ Ôm nỗi cô trung trời đất biết - Vịnh Nhạc Vũ Mục). Như vậy, nuôi lý tưởng trung quân vẫn là khát vọng mong manh của Đào Tấn trong chốn quan trường. Tuy nhiên, tiếng nói ơn vua, giữ phận làm tôi trong thơ ông không có được sự hùng sảng, khẳng định mạnh mẽ mà chỉ phảng phất, có phần mờ nhạt. Điều đó phù hợp với tâm trạng tác giả, với sự suy tàn của chế độ phong kiến nước ta cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

Bên cạnh đạo vua tôi, Đào Tấn nổi bật hơn là một nhà nho luôn giữ lối sống phải đạo đối với những người thân. Người học trò họ Đào ấy dù đi đâu cũng không quên ân nghĩa của thầy (Sơ thu vãng yết nghiệp sư Nhơn Ân Nguyễn tiên sinh sơn phần cảm thuật). Khi làm quan nơi đất khách quê người, trong nỗi nhớ quê thường trực, Đào Tấn luôn thể hiện ước nguyện báo hiếu và nỗi nhớ mẹ già day dứt khôn nguôi. Đó còn là tình cảm anh em sâu nặng chỉ biết lấy rượu mà giải bày: Chước bãi hân nhiên hướng quân đạo (Rượu rót rồi khuây khỏa nói cùng em - Hoan thành dữ gia cửu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựu). Bao nhiêu thành đạt trên bước đường hoạn lộ, chẳng lúc nào ông không nghĩ tới công ơn của người vợ từ thuở hàn vi ở quê nhà Bình Định (Đợ áo cho ta rượu, lúc nghèo/ Bỏ nhà khi loạn, bế con theo/ không màng cảnh sống ngày vinh lạc/ So với nàng, ta thẹn xiết bao - Mai tăng đề ư An Tịnh tổng chế đường chi khiếu ngạo đông hiên, đương Thành Thái Quý Tỵ, hòa tiết, Vũ Ngọc Liễn dịch). Tình cảm phu thê thắm thiết, thủy chung được Đào Tấn bộc lộ trong nhiều thi phẩm của mình (Bệnh tích Diêu Tiên ái khanh thi dược hữu hiệu hí thư thị chi, Thọ Diêu Tiên phu nhân ngũ thập sơ độ, Thính Diêu Tiên khanh độc tao…). Đặc biệt, tác giả còn có cả một bài thơ khóc vợ: Tự cổ sinh ly túc cảm thương/ Tranh giao tử biệt tiện tương vương (vong)/ Hoang pha hà xứ phần tam xích/ Lão nhãn tha hương lệ sổ hàng… (Từ xưa đến nay, sống mà chia lìa đã là chuyện đau thương/ Huống chi sự chia lìa bằng cái chết, thế là mất nhau rồi/ Ngôi mộ ba thước đặt nơi gò hoang nào/ Ở đất khách, đôi mắt già rơi bao hàng lệ… - Điệu vong). Bài thơ vừa nói lên được cái triết lí tình cảm sâu sắc của con người, vừa là bài khóc vợ thống thiết thương đau. Bài thơ xứng đáng là một trong những tác phẩm ai điếu hay nhất trong văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh Nguyễn Kiều (1694-1771) khóc thương Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ (1726-1780) với Khuê ai lục, Ngô Thì Nhậm (1746-1803) với Hoài nội, Phạm Thái (1777- 1813) với Văn tế Trương Quỳnh Như, Nguyễn Khuyến (1835-1909) với Điếu nội, v.v... Trong quan hệ với con, Đào Tấn là người cha mẫu mực, luôn quan tâm, lo lắng, khuyên bảo con những điều hay lẽ phải. Từ việc con đi lấy chồng, con đi học, đi ứng thí, hay đặt tên cho cháu, ông đều trăn trở và ký thác vào thơ (Giá nữ tiểu khúc, Ký nhi, Sinh tôn chu nguyệt mệnh danh Sư Kiệm thị nhi Thạch…). Qua đây, chúng ta thấy, Đào Tấn luôn quan tâm đến mọi sắc thái của tình cảm gia đình. Đó là biểu hiện của một tâm hồn nhà nho giàu tình cảm và phần nào mang cảm quan hiện thực. Bên cạnh đó, trong 141 bài thơ chữ Hán, thơ viết về bạn, viết cho bạn của cụ Đào cũng chiếm một số lượng khá lớn. Một lần tiễn bạn, bạn nhậm chức mới, bạn mất, hay những lúc ngồi một mình nhớ bạn,… tất cả đều có thể tạo thành nguồn cảm xúc vô tận để tác giả chấp bút thành thơ (Khấp Lan Nông Phan thượng thư cố hữu, Ký hoài Hà Đình công, Tống Hồ An Tăng cải phiên Phú Yên...).

Nói đến khí tiết trong sạch của cụ Đào, giới nghiên cứu thường lấy thi phẩm Đề mai sơn thọ viên của ông để minh họa:

Nhàn hướng Mai sơn bốc thọ viên,

Thạch đầu cao cứ tiếu vô ngôn.

Mai sơn tha nhật tàng mai cốt,

Ưng hữu mai hoa tác mộng hồn.

(Lên đỉnh núi Mai tìm đất thọ,

Mỉm cười lặng ngắm đá chon von.

Núi Mai rồi gửi xương mai nhé,

Ước được hoa mai hóa mộng hồn)

(Xuân Diệu dịch)

Bài thơ chuyển tải được vẻ thanh thản, ung dung, tự tại của một con người đã “tri thiên mệnh”, xem thường danh lợi, không còn quá lo lắng trước sóng gió cuộc đời. Cái “tiếu vô ngôn” ấy mang tinh thần “vô úy”, chứa chất nội lực đến mức “vô ngã” mà hòa nhập đến tận cùng vào trời mây cây cỏ. Khi rảnh rỗi tìm đất thọ, thản nhiên với một ngày mình sẽ nằm lại nơi này, ước tâm hồn biến thành hoa mai, chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ nói lên nhân cách lớn của một bậc đại nhân. Mười năm làm quan gắn bó sâu nặng trên đất Lam Hồng, có lúc nhà thơ còn hóm hỉnh hỏi sông Lam núi Hồng để gián tiếp thể hiện khí tiết như tác giả cũng đã từng trực tiếp khẳng định tâm hồn trong sạch của mình qua thơ: Thập niên lai vãng Hồng Lam lộ/ Thanh khoáng ngâm hoài tự thử trung (Mười năm qua lại con đường núi Hồng sông Lam/ Thơ văn ta cũng trong sạch như cảnh nước non nơi đây - Hành bộ ngẫu đắc)...

Không chỉ “thanh, thận, cần”, Đào Tấn còn mang phẩm chất cương trực, cứng cỏi của một nhà nho “tiết tháo”: An đắc Linh Phong phong hạ kiến tiết lâu (Dễ đặng một ngôi nhà dành cho người tiết tháo dựng dưới chân núi Linh Phong - Hoan thành dữ gia cửu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựu). Ông tồn tại như một cây tùng, cây bách giữa trời, dày dạn nắng mưa (Vãng đăng Hồng Sơn phỏng Thiên Tượng phế tự xuất sơn hữu tác) như Nguyễn Trãi, hay Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định. Đào Tấn đã hết lời ca ngợi những người bạn như thế: Bắc Hải hào tình dư khẳng khái (Khấp Lan Nông Phan thượng thư cố hữu), Hà xứ giai nhân không cốc trung (Tịnh am tôn thất tặng lan thư thử báo chi), Khởi thị tầm thường nhất hác mưu/ Thung dung tiến thoái thị hà vưu (Tống Hoàng Miễn Trai hiệp quỹ công trí sự).

Theo đạo đức Nho giáo, người quân tử sau khi đã tu thân, có được đạo đức; biết thi, thư, lễ, nhạc thì phải có bổn phận hành động nhập thế bằng con đường công danh. Con người nhà nho hành đạo trong thơ Đào Tấn cũng tỏ chí, cũng nói lên khát vọng của mình nhưng hẳn không phải là khát vọng công danh kiểu như Đặng Trần Côn từng tỏ bày: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/ Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao” (Chinh phụ ngâm) mà là khát vọng giúp dân, cứu nước. Nền văn hóa nông nghiệp lúa nước chúng ta vốn trọng tình và coi trọng khái niệm quốc gia nên đã biến khái niệm trung quân phải đi liền với ái quốc; pháp trị phải đi liền với nhân trị. Điều đó phù hợp với cách ứng xử của đại đa số nhà nho Việt Nam và cũng đúng với Đào Tấn. Khi vua với đất nước không còn là một thì trách nhiệm của nhà nho là trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân chứ không chỉ còn dừng lại ở trách nhiệm của một bề tôi đối với vua chúa.

Đứng về phía đất nước, nhân dân nhưng lại làm quan cho một triều đình bị phụ thuộc nên chí trai của Đào Tấn không có cơ hội để khẳng định mạnh mẽ, quyết liệt như Nguyễn Công Trứ: “Chí những toan xẻ núi lấp sông/ Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ” (Chí anh hùng); hay mang phong vị hào hùng của một tráng sĩ như Đặng Dung: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma” (Cảm hoài). Cái ngục văn tự treo trên đầu những nhà nho có cái tôi công dân như Đào Tấn, buộc họ phải tỏ chí theo kiểu truyền thống - thể hiện gián tiếp qua thiên nhiên, con người. Mượn nhân vật lịch sử là Trịnh Ninh, tác giả đã bày tỏ được khát vọng trừ gian diệt tà, mang lại thái bình cho đất nước: Nghịch tử cường thần đương nhật bối/ Khả tằng trảm đắc kỷ đầu lai (Đề Trịnh thị Ninh Quận Công thí kiếm thạch). Hỏi Trịnh Ninh đã chém được bao nhiêu cường thần nghịch tử, Đào Tấn cũng như hỏi chính bản thân mình. Câu hỏi tu từ không nhằm để biết mà để khẳng định lại dũng khí của một nhà nho đầy trách nhiệm đối với đất nước. Trước cảnh nước mất nhà tan, triều đình nhu nhược, nhà thơ canh cánh nung nấu khát vọng cứu dân giúp nước. Tiếng vọng của non sông đất nước, của phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng nơi núi cao cứ ngân mãi trong lòng nhà thơ, khiến tác giả trăn trở nhiều đêm không ngủ được: Dạ trường bất đắc miên/ Minh nguyệt hà chước chước/ Tưởng văn tán hoán thanh/ Hư ứng không sơn nặc (Đêm dài không ngủ được/ Ánh trăng sao cứ lấp lánh?/ Đâu đây như có tiếng vang gọi/ Dội lại từ núi xa - Tý dạ ca nhị thủ). Và có những thi phẩm, Đào Tấn lại như nhắn nhủ, gửi gắm khát vọng đó ở những người bạn của mình: Thạch Thành sơn thủy hảo/ Tịnh nhập họa đồ trung (Tống Hồ An Tăng cải phiên Phú Yên). Câu thơ ngũ ngôn tự nhiên mà rất hàm súc, đầy ẩn ý. Nói đến cảnh đẹp non nước phải chăng là tác giả đang ca ngợi phong trào cách mạng chống Pháp nơi đây, và khuyên bạn nên hòa mình vào giúp đỡ mọi người. Trong thơ chữ Hán Đào Tấn, tinh thần yêu nước còn được bộc lộ khá rõ, ở việc tác giả có hàng loạt những bài thơ khóc thương, ca ngợi những người anh hùng xả thân vì nước như: Hoàng Kế Viêm, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Quang Viễn...

Có thể nói, trong thời buổi đen tối nhất của lịch sử, Đào Tấn đã chọn cách ứng xử linh hoạt, vì chẳng bao lâu sau, phong trào Cần Vương của Đào Doãn Địch - Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, của Phan Đình Phùng ở Nghệ Tĩnh bị dập tắt, sự nghiệp cứu nước của Phan Bội Châu cũng không thành. Ông đã tìm con đường đi phù hợp theo quan điểm nhận thức lịch sử của bản thân, chọn “lối đi bình dị” mà lên đến đỉnh non (Chỉ tùng bình dị quá sơn điên - Sơn hành ngẫu đắc). Phải chăng, đối với Đào Tấn, làm quan là kiểu “đại ẩn” tốt nhất để vừa mưu sinh, có thời gian chăm lo sự nghiệp soạn tuồng, vừa có điều kiện giúp đỡ các phong trào cách mạng, tìm ra đường lối cứu nước. Trên cơ sở những tư liệu lịch sử cũng như qua sáng tác thơ văn, chúng ta có thể khẳng định, mặc dù không có những hành động dứt khoát, mạnh mẽ trong việc chống lại triều đình phong kiến tay sai và thực dân pháp, không trực tiếp tham gia các phong trào cách mạng nhưng tâm thế của ông vẫn luôn hướng về cách mạng, về vận mệnh của đất nước.

Khác với tấm lòng yêu nước phải thổ lộ một cách kín đáo, tình cảm thương dân của Đào Tấn phần nào được bộc bạch trực tiếp hơn. Ở Đào công, tình cảm thương dân vừa xuất phát từ tinh thần của một nhà nho “dĩ dân vi bản”, vừa xuất phát từ truyền thống của một dân tộc giàu lòng nhân đạo và đoàn kết. Hơn nữa, chính ông cũng xuất thân từ một vùng quê nghèo Tuy Phước - Bình Định. Do đó, trong thơ, tâm hồn ông đã thực sự hòa nhập vào đời sống của nhân dân, vui buồn cùng người dân, chứ không còn khoảng cách xa lạ, tự đặt mình cao hơn những người lao động, lấy người dân để khẳng định vai trò của mình như một số sáng tác của vua quan, nho sĩ thế kỷ XV. Đi ngang qua những cánh đồng, nhà thơ không khỏi lo lắng, xót thương cho người dân vì nắng hạn: Xuân, hạ tồ thu thốn trạch vô/ Cao đê, điền mẫu thái tiêu khô (Từ xuân, hạ đến thu vẫn chưa có giọt mưa nào/ Đồng thấp, đồng cao đều khô cháy cả - Thương hạn). Rồi một ngày mưa xuống, ông lại tràn ngập niềm vui: Vạn kim hảo vũ tán nguyên điền/ Tẩy tịnh viêm trần lục nguyệt thiên (Cơn mưa lành như muôn vàng rải xuống ruộng đồng/ Rửa sạch lớp bụi nóng của tiết trời tháng sáu - Hỷ Vũ). Không dừng lại ở đó, Đào Tấn còn có sự hiểu biết sâu sắc và đồng cảm thực sự với nỗi khổ của người nông dân. Thi nhân ai cũng bảo nhà nông sướng, Đào Tấn lại thấy nhà nông rất đáng thương: Ngũ nguyệt, lục nguyệt bất vũ thiên/ Đạp xa nhi nữ ca thả miên/ Thi nhân mỗi đạo điền gia lạc/ Như thử điền gia tối khả liên (Thủy xa), rồi hiểu được ngàn nỗi lo của người dân sau ba ngày tết: Đồng du tam nhật xuân/ Trúc phù khan phóng hạ/ Thiên lự hựu thùy nhân (Tân sửu trừ tịch). Đặc biệt, trong thời buổi “súng giặc đất rền”, ông rất buồn cho những cảnh tan tác, chia ly: Thùy gia trú trạch Bắc sơn ôi/ Loạn hậu bô nhân thượng vị hồi (Nhà ai dựng ở hẻm núi phía Bắc/ Sau khi loạn, người đi trốn vẫn chưa về - Kinh phế trạch). Và có lúc không kìm nén được lòng mình, tác giả đã thốt lên lời ai oán, xót thương cho những người dân vô tội trong cơn loạn lạc: Thử địa tùng tiền diệc phú nhiêu/ Khả liên loạn hậu bán tiêu điều (Chốn này trước kia là nơi trù phú/ Thương thay sau cơn loạn lạc bị xơ xác đến một nửa - Vô đề). Tấm lòng xót xa của Đào Tấn trước cảnh bể dâu ấy đã bắt gặp được sự đồng điệu ở Nguyễn Du (Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng - Truyện Kiều), hay ở Nguyễn Đình Chiểu (Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây - Chạy giặc).

Một biểu hiện khác trong con người nhà nho hành đạo còn giữ được lương tâm trong cảnh “trời đất nổi cơn gió bụi” ; trong nhiều bài thơ của mình, Đào Tấn đã vẽ nên bức tranh biếm họa về sự thối nát không thể cứu vãn của một bộ máy chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Giang Nam xứ xứ phong yên khỉ/ Hải thượng niên niên ngự tửu lai (Phương Nam chốn chốn khói lửa dậy/ Mặt biển năm năm rượu ngự về - Tịch thượng tác - Xuân Diệu dịch). Đối lập giữa cảnh binh đao, khói lửa của nhân dân lục tỉnh Nam kỳ với cảnh tiệc tùng của triều đình cùng bọn phương Tây, bản thân nó đã cất lên tiếng nói phê phán, tố cáo đối với thói ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ cá nhân mà phớt lờ đi nỗi nhục mất nước.

Nhìn lại con người Đào Tấn trong thơ, ta thấy toát lên hình ảnh một nhà nho hành đạo nhưng có phần ly tâm, xa chính thống. Về hình thức, ông vẫn làm quan nhưng tâm hồn thì đã hướng hẳn về phía nhân dân, cách mạng; hướng vào quan hệ gia đình, bạn bè, thiên nhiên hơn là nói chí trung quân, tỏ lòng khát vọng công danh. Ông là một nhà nho thức thời, linh hoạt xuất xử trong tình cảnh mất nước, nặng lòng với nước, với dân. Trên lĩnh vực văn chương, tác giả đã có những thi phẩm thực sự có giá trị đóng góp vào sự phát triển của dòng thơ văn yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định, bản thân con người Đào Tấn là hiện thân cho sự chuyển hóa của tầng lớp nho sĩ cuối mùa.

Nguyễn Đình Thu

Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 363/05-2019, phiên bản trực tuyến ngày 05.7.2019.

Khi nghĩ về diện mạo văn chương Việt Nam 2018, tôi nhận ra sự bất lực của những tính từ. Một năm văn học vừa qua, theo tôi, chứng kiến quá nhiều những cuộc chuyển động, mà chuyển động nào cũng mạnh mẽ, quyết liệt, phức tạp đến nỗi không một hình dung từ nào, dù tinh vi nhất, có thể bao quát được, mô tả được chúng một cách chân xác và thuyết phục. Tuy nhiên, nếu ta thực lòng muốn có một mường tượng tổng quan về toàn cảnh văn học Việt Nam 2018, thì tôi cho chỉ còn cách cố tìm ra một động từ có khả năng thâu tóm, diễn đạt một cách tương đối cái chiều hướng chủ đạo của những cuộc chuyển động kia.  

Trong cái nhìn tất nhiên rất chủ quan của cá nhân tôi, động từ ấy là trở lại.

Bao quát văn đàn Việt suốt một năm 2018 vừa qua là rất nhiều những cuộc trở lại. Những cuộc trở lại đầy ý nghĩa. Những cuộc trở lại thú vị, rực rỡ, thậm chí ngoạn mục. Tôi đang muốn nói đến những lần tái xuất diệu kỳ của nhiều mảnh văn học sử đặc biệt quan trọng, cuộc trở về để truy tìm căn tính của những tiếng nói lưu lạc, và nhất là những chuyến du hành ngược thời gian của các cây bút đương đại với khao khát tìm tòi, lục lọi quá khứ và ký ức dân tộc.

*

            Ở Việt Nam, có lẽ chưa bao giờ nhu cầu tái đánh giá, tái nhận thức về con đường đi của lịch sử văn học lại trở nên mạnh mẽ và quyết liệt như bây giờ. Càng ngày người ta càng nhận ra rất rõ rằng, những gì mỗi cá nhân biết và được biết về lịch sử nói chung và lịch sử văn chương nói riêng phần nhiều chỉ là những hư cấu huyền thoại, hay nói đúng hơn là những thực tại xiêu vẹo, kết quả của liên tục những lần bị/được kiến tạo, cắt dán, phân mảnh, tái cấu trúc. Càng ngày, những lỗ hổng chứa đầy bí mật của lịch sử văn chương Việt Nam càng mở rộng ra, sâu hoắm. Có những điều tưởng chừng đã xác lập được vị thế rất vững chãi của mình trong tiến trình văn học, nay lại trở thành một đối tượng hứng chịu những hoài nghi về giá trị và ý nghĩa tồn tại. Có những tác phẩm tưởng chừng đã trở thành hóa thạch của quên lãng nằm câm lặng dưới những lớp đất sâu, nay chợt nhiên được khai quật và được đưa trở lại với những kiếp sống mới, những cương vị mới. Cũng có những cái tên tưởng chừng đã quá quen thuộc đến mức mòn sáo, nay bỗng chốc bừng lên thành những câu chuyện đầy cuốn hút có khả năng mời gọi và kích nhạy những tra vấn mới, những hồi đáp mới, những viễn tượng mới,…

            Thực ra, tình thế rộn ràng đa thanh ấy của văn đàn Việt đã kéo dài từ suốt gần chục năm nay. Nhưng tôi cho năm 2018 này mới thực sự là một năm đặc biệt chứng kiến những cuộc trở lại vần vũ, dữ dội nhất của các giá trị quá khứ, với quá nhiều những sự kiện buộc người ta không thể không có một cái nhìn khác, thậm chí là phải thay đổi toàn bộ nhìn nhận lâu nay về con đường đi của lịch sử văn chương Việt Nam, ít nhất là trong thế kỷ XX đầy biến động vừa qua.

            Có lẽ ít có một năm văn học nào lại chứng kiến nhiều cuộc kỷ niệm đáng chú ý như năm 2018. Theo thống kê sơ lược của tôi, từ đầu năm đến nay, có khoảng bảy cuộc tọa đàm, hội thảo khoa học nổi bật được tổ chức từ Bắc vào Nam – một con số khá ấn tượng – để tưởng nhớ những nhân vật, những sự kiện văn học vô cùng đặc biệt. Thật ra, khi nhắc đến những cuộc hội thảo, tọa đàm, kỷ niệm như thế, tôi biết có nhiều người sẽ cảm thấy phiền lòng bởi cho rằng, chúng chỉ là những sự kiện nặng vẻ nghi lễ, công thức, và vì thế không mang nhiều ý nghĩa. Tuy vậy, vượt ra khỏi cái vỏ bọc của tính hình thức, những cuộc hội đàm với ý nghĩa tưởng nhớ những cột mốc ấy, theo tôi, đôi khi lại có khả năng mang đến cho người ta một cảm giác rất lạ: cái cảm giác tròn đầy, cái cảm giác hoàn tất một chu trình, và vì thế là cái cảm giác được nối kết, tương hợp, như hai đầu của một đường tròn gặp nhau sau suốt một hành trình dài. Cứ tưởng tượng rằng, khi biết từng có một văn tài lỗi lạc qua đời vào đúng ngày này nhưng cách đây vài thập kỷ hay hàng trăm năm trước, sao lòng ta có thể tránh khỏi những bùi ngùi xúc động, những thương cảm nhớ tiếc, hay thậm chí là những nối kết, những rung cảm thiêng liêng? Cái cảm giác ấy sẽ dọn đường để những hồn thiêng trở về, và cũng sẽ tạo ra một cơ hội diệu kỳ cho những người đương thời chúng ta đọc lại, nghĩ lại, đánh giá lại để từ đó, lịch sử văn học một lần nữa được phục dựng, bổ khuyết và tái kiến tạo một cách khách quan hơn, công bằng hơn.

Tôi có thể đưa ra một ví dụ. Cuộc hội thảo diễn ra vào tháng 8 năm nay tại Đại học Duy Tân (Đà Nẵng) với mục đích kỷ niệm 70 năm năm sinh và 30 năm năm mất của thi sĩ, kịch tác gia tài hoa Lưu Quang Vũ đã kích nhạy được thêm rất nhiều những góc nhìn mới mẻ, những luận bình sâu sắc và đầy gợi mở về bản sắc và những đóng góp của các tác phẩm kịch, thơ ông đối với tiến trình văn chương Việt Nam thế kỷ XX, mà đơn cử là hai tiểu luận tôi đánh giá khá cao: Diễn ngôn về sự khuyết tật trong kịch Lưu Quang Vũ của TS. Đào Lê Na (ĐHKHXHNV TP.HCM) và Mỹ cảm về thành phố trong thơ Lưu Quang Vũ của TS. Trần Ngọc Hiếu (ĐHSP Hà Nội). Tuy vậy, trong năm 2018 này không chỉ có duy nhất cuộc hội thảo hoành tráng về Lưu Quang Vũ. Tháng 3/2018, lễ kỷ niệm 100 năm năm sinh Nguyễn Bính diễn ra tại Sài Gòn, với sự tham gia của gia đình nhà thơ và rất nhiều những người yêu thơ ông trong suốt hơn bảy thập kỷ qua. Tám tháng sau đó, vị thi sĩ chân quê này tiếp tục trở thành nhân vật trung tâm của cuộc hội đàm được Viện Văn học và trường Đại học Văn Lang liên kết tổ chức. Cùng trong tháng 11/2018, lễ kỷ niệm 100 năm năm sinh nhà văn Nguyên Hồng diễn ra tại Hải Phòng – nơi tuy không phải là sinh quán của ông, nhưng có một ý nghĩa hết sức đặc biệt đối với đời văn của cây bút chuyên viết về những người cùng khổ này. Không dừng lại ở đó, diễn ra song song với những cuộc hội đàm về ba cây bút lừng lẫy của văn chương hiện đại Việt Nam trong năm nay là hai cuộc hội thảo không kém phần trang trọng tưởng nhớ cuộc đời và sự nghiệp của hai nhà nghiên cứu văn chương Đỗ Đức Dục và Lê Trí Viễn. Di sản mà hai ông để lại không chỉ là hàng ngàn trang bản thảo luận khảo văn chương trung đại Việt Nam và văn học Pháp thế kỷ XIX, mà còn là những bài học đáng quý về thái độ học tập, làm việc và nhân cách của người trí thức.

Song chỉ nhắc đến sáu cuộc hội thảo, kỷ niệm trên đây thôi thì hẳn là chưa đủ, bởi năm 2018 này còn chứng kiến cuộc hội thảo diễn ra tại Huế vào tháng 7 để kỷ niệm 80 năm ngày tờ báo Dân của xứ ủy Trung Kỳ ra số đầu tiên – một trong những cuộc hội thảo hiếm hoi được tổ chức để vinh danh hành trình lịch sử và vị thế của một tờ báo trong tiến trình văn nghệ dân tộc. Số lượng lớn những cuộc gặp gỡ học thuật đầy chất lượng như thế tạo nên một bản sắc rất riêng cho năm văn học này, như tôi đã nói từ đầu: năm của những cuộc trở lại. Những hồi ức trở lại, nhưng là để khơi gợi những tri kiến mới và tạo đà cho những bước đi mới của lịch sử văn chương Việt Nam.

Bên cạnh những cuộc hội thảo, tọa đàm kỷ niệm hoành tráng, tôi cũng muốn nhắc đến những “pha” xuất bản đáng chú ý trong năm nay, những cuộc tái bản các tác phẩm văn học đặc biệt quan trọng và nhiều ý nghĩa. Năm 2018 “tuôn ra” một loạt những kinh điển: Hà Hương phong nguyệt của Lê Hoằng Mưu; Thượng Chi văn tập của Phạm Quỳnh; Đốt lò hương cũ của Đinh Hùng; Ta đã làm chi đời ta của Vũ Hoàng Chương; Nhật ký Nguyên Hồng được hai người con gái ruột của nhà văn chọn lọc và biên soạn từ phần di cảo ông để lại; Khúc thụy du tập hợp những bài thơ làm nên sự nghiệp nửa thế kỷ của Du Tử Lê; Tuổi nước độc vả Sợi tóc tìm thấy của Dương Nghiễm Mậu; Nguồn nước ẩn của Hồ Xuân Hương Vô Kỵ giữa chúng ta hay là hiện tượng Kim Dung của Đỗ Long Vân; bộ sách nhiều thể loại (từ truyện ngắn, truyện dài đến khảo cứu) của “ông già Nam Bộ” Sơn Nam; Di cảo Lưu Quang Vũ, Chuyện nhỏ sớm mùa thu Nàng Sita của Lưu Quang Vũ;…

Thật ra, trong những năm trước, tủ sách Việt Nam danh tác của Nhã Nam hay các tủ sách kinh điển của Phương Nam, Alphabooks,… vẫn làm tốt công việc tái bản những kiệt tác của văn học Việt Nam từ thời trung đại cho đến thế kỷ XX. Song năm 2018 này, theo tôi, mới là năm chứng kiến những cuộc trở lại bất ngờ và kỳ diệu nhất: Hà Hương phong nguyệt tưởng chừng đã bị thiêu hủy hoàn toàn sau khi trở thành đối tượng cho cuộc tranh luận dữ dội về vấn đề luân lý trên báo chí Nam bộ hồi đầu thế kỷ, nay chợt trở về từ Pháp quốc xa xôi để tái sinh trong hình dáng gần như đầy đủ nhất của nó và bắt đầu gợi mở những câu chuyện bí ẩn đằng sau diễn trình tiểu thuyết Quốc ngữ trước 1932; hay trường hợp Đỗ Long Vân – cái tên tưởng chừng đã chìm khuất hẳn vào mù sương của lịch sử, nay chợt sống dậy với hai kiệt tác phê bình được tái bản gần như cùng một lượt. Tuy nhiên, năm 2018 này càng khác lạ hơn khi những công ty xuất bản có tuổi đời rất ngắn, thậm chí mới toanh như Saigonbooks, Domino Books, Như Books, Phan Book,… lại có vai trò trội bật hơn trong việc đưa trở lại các trường hợp kinh điển đặc biệt của văn học Việt Nam. Sự uyên bác, dấn thân trong lựa chọn xuất bản, sự cởi mở trong tiếp nhận cái mới cộng với nguồn năng lượng nhiệt huyết, trẻ trung chính là những yếu tố quan trọng giúp các công ty và đơn vị xuất bản này ngày càng tạo dựng được vị thế vững chãi của mình trong lòng bạn đọc, và nhất là khiến người ta có quyền tin tưởng và hy vọng về một nền xuất bản nhiều đột phá rực rỡ hơn trong tương lai.

*

            Cuối năm 2017, độc giả trong nước bất ngờ và thích thú khi nghe tin Phương Nam Books chuẩn bị ra mắt tập truyện ngắn Người tị nạn của Viet Thanh Nguyen – tác giả người Mỹ gốc Việt đầu tiên đạt giải thưởng danh giá Pulitzer. Sự bất ngờ thích thú ấy một phần đến từ niềm vui khi biết rằng không khí xuất bản trong nước ngày càng cởi mở và cập nhật sát sao hơn với tình hình sách vở thế giới khi một tác phẩm Anh ngữ như Người tị nạn (tên tiếng Anh: The Refugees) vừa phát hành ở Hoa Kỳ vài tháng thì bản dịch tiếng Việt đã xuất hiện, song một phần cũng bắt nguồn từ niềm hạnh phúc của các độc giả trong nước khi biết mình sắp sửa được đọc tác phẩm của một nhà văn mang dòng máu Việt Nam được văn đàn thế giới công nhận và đánh giá cao. Nhất là, sự xuất hiện hoành tráng của một cái tên mới lạ (tất nhiên là chỉ với văn đàn trong nước) như Viet Thanh Nguyen cho người ta một niềm tin mãnh liệt, rằng trong một tương lai không xa, những người Việt trên khắp thế giới sẽ được đọc nhau nhiều hơn, đối thoại cùng nhau nhiều hơn chứ không chỉ quanh quẩn mãi với một vài nhà văn hải ngoại quen thuộc.

            Niềm tin ấy, đến năm nay, ngay lập tức được đáp lời bằng cuộc trở về (một cách chính thống) của rất nhiều những tiếng nói lưu lạc đặc biệt. Tất nhiên, chiếm đa phần trong số ấy vẫn là những tiếng nói thân quen như Linda Lê (Pháp) với hai quyển tiểu thuyết khá ấn tượng được dịch và xuất bản liên tục trong cùng năm 2018 Vượt sóng Sóng ngầm; Lê Minh Hà (Đức) với Những triền xưa ai đi; Đỗ Hoàng Diệu (Hoa Kỳ) với Lưng rồng; Như Quỳnh de Prelle (Bỉ) với Buổi sáng phủ định; Du Tử Lê (Hoa Kỳ) với những cuộc trở lại hoành tráng khi hàng loạt tựa sách được tái bản như Với nhau, một ngày nào, Trên ngọn tình sầu hay Giữ đời cho nhau;… Tuy vậy, điều đáng chú ý nơi bộ phận văn học hải ngoại xuất bản ở Việt Nam năm nay là sự xuất hiện của những tác giả mới toanh, rất giống với trường hợp của Viet Thanh Nguyen năm ngoái. Tôi đang muốn nhắc đến Doan Bui và Ocean Vương. Hai cây bút, một làm thơ một viết tiểu thuyết, một dùng Pháp ngữ một sáng tác bằng tiếng Anh, một nam một nữ, một trung niên một thanh niên. Cả hai có lẽ cũng chưa biết nhiều về nhau do sống cách nhau tận nửa vòng trái đất, kẻ ở Pháp quốc người ở Hoa Kỳ. Song họ đã cùng nhau trở về trong năm 2018, và quan trọng hơn là đang dần tạo được những dấu ấn nhất định trong lòng độc giả Việt.

Doan Bui, từ sự giới thiệu của nhà văn Thuận, xuất hiện một cách bất ngờ trên văn đàn trong nước bằng quyển tiểu thuyết mang nhiều yếu tố tự truyện Người cha im lặng. Cuốn sách có văn phong gọn, chắc, lạnh rất gần với phong cách báo chí (Doan Bui hiện là một nữ nhà báo có tiếng tại Pháp), nhưng miên man hoài niệm, đẹp một cách giản dị và đầy những ẩn dụ ám ảnh. Ngoài ra, những song thoại đa thanh về thân phận và sự mô tả đầy nhân bản cuộc hành trình truy tìm căn tính, bản sắc của những người Việt lưu vong cũng là điểm nhấn quan trọng giúp Người cha im lặng chiếm được cảm tình của cả độc giả Việt Nam lẫn ngoại quốc, mà bằng chứng là với quyển tiểu thuyết này, Doan Bui đã vinh dự được nhận hai giải thưởng văn chương Amerigo Vespucci và Porte Dorée.

Ocean Vương là một cây bút còn rất trẻ, thuộc thế hệ cuối 8x. Từ một cậu bé tận 7 tuổi mới biết đọc tiếng Anh, vậy mà mười mấy năm sau, Ocean Vương khiến văn đàn Mỹ choáng ngợp đến sững sờ bằng tập thơ đầu tay Night Sky with Exit Wounds. Những câu thơ dài ngắn bất định, vừa mơ mộng tinh tế vừa phá cách, trần tục, nổi loạn của anh khiến cho những thảm kịch nhân sinh, từ cô đơn, chiến tranh, bạo lực, phi nhân,… được lột tả một cách ám ảnh đến khốc liệt. Song điều khiến nhiều người thích thơ Ocean Vương chính nằm ở chỗ, những ý thơ gai góc kia của anh, sau rốt, vẫn hướng đến niềm tin về những vết thương được chữa lành và niềm hy vọng mãnh liệt về sức mạnh của lòng trắc ẩn. Tháng 10/2018, Hoàng Hưng chuyển ngữ tập thơ này của Ocean Vương sang tiếng Việt với tựa đề Trời đêm những vết thương xuyên thấu. Chính bởi nỗ lực này, độc giả trong nước có cơ hội được chứng kiến thêm, từ rất sớm, cuộc trở lại huy hoàng của một tiếng thơ gốc Việt đầy sức nặng được văn đàn thế giới thừa nhận (Ocean Vương từng đạt giải thưởng văn chương danh giá T.S. Eliot vào năm 2017).

Tuy nhiên, sẽ là vô cùng thiếu sót nếu nhắc đến văn đàn Việt năm nay mà quên đi một sự kiện đặc biệt có liên quan đến một nhân vật cũng đặc biệt không kém: nữ nhà văn người Canada gốc Việt Kim Thúy.

Những tháng cuối năm 2018, độc giả Việt Nam xôn xao vì cái tin Kim Thúy – cái tên không mấy quen thuộc trước đây – trở thành một trong bốn ứng cử viên cho giải Văn chương mới (thay thế cho Nobel Văn chương thường niên đang bị hoãn trao giải một năm vì những lộn xộn trong hội đồng xét giải), đứng cùng hàng ngũ với ba tên tuổi nổi bật khác, trong đó có nhà văn đình đám người Nhật Haruki Murakami. Kim Thúy chủ yếu viết bằng tiếng Pháp, song lại cho ra đời nhiều quyển tiểu thuyết có tựa đề rất Việt Nam như Ru, Mãn, Vi,… kể câu chuyện về các thuyền nhân và thân phận những người Việt xa xứ. Hiện tại, các tác phẩm của chị chưa được xuất bản chính thức tại Việt Nam, song theo tôi, ta hoàn toàn có thể xem đây là cuộc trở về đúng nghĩa của một tiếng nói văn chương lưu lạc. Chưa đọc được các sáng tác của chị một cách toàn vẹn, cũng chưa một lần gặp chị ngoài đời, nhưng chỉ cần nghe chị trò chuyện, trả lời phỏng vấn, trong sự chân thành và khiêm nhường, thì những độc giả Việt Nam, ít nhất là cá nhân tôi, hiểu rằng mình có cơ sở để tiếp tục chờ mong sự xuất hiện rực rỡ và đầy hứa hẹn của Kim Thúy – một cách chính thức – trên văn đàn Việt trong thời gian sắp tới.

*

            Những tháng đầu năm nay, gần như toàn bộ văn đàn trở nên sôi động vì một truyện ngắn của Trần Quỳnh Nga đăng trên báo Văn nghệ từ tháng 12/2017. Truyện Bắt đầu và kết thúc của nữ nhà văn sinh năm 1981, với câu chuyện lấy bối cảnh cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần 2 của triều đại nhà Trần, nhanh chóng hứng chịu nhiều phản hồi không mấy tích cực từ phía độc giả. Người cho rằng Trần Quỳnh Nga đang kiến tạo một diễn ngôn phản lịch sử khi chiêu tuyết cho kẻ “cõng rắn cắn gà nhà” là Trần Ích Tắc. Người khác lại cho Bắt đầu và kết thúc có những chi tiết đi ngược lại với tinh thần dân tộc, thậm chí được viết bằng một lối “văn nô”! Nhắc lại câu chuyện không vui vẻ gì của văn đàn Việt đầu năm 2018, tôi thực lòng không hề muốn khơi gợi thêm bất kỳ một cuộc tranh luận nào, và cũng không phải để đưa ra một lời phân định đúng – sai nào của cá nhân mình cho câu chuyện vốn dĩ đã quá phức tạp này. Việc dẫn ra những lùm xùm ấy ở đây chỉ là cách để tôi từ đó có thể trình bày một phán đoán của mình, rằng rất có khả năng cuộc tranh luận về truyện ngắn Trần Quỳnh Nga, hay rộng hơn là vấn đề viết truyện lịch sử diễn ra rầm rộ vào đầu năm nay đã định hình một “định mệnh”, một bản sắc đặc biệt đeo đuổi năm văn học này: sự tìm tòi, trở về với quá khứ và kho ký ức dân tộc.

            Thực vậy, trong năm 2018, theo quan sát của cá nhân tôi, đề tài lịch sử tỏa đi rất rộng. Những quyển sách đáng chú ý của năm nay hầu như đều rơi vào mảng đề tài nhiều gợi mở này. Có thể liệt kê ra một số ví dụ như Những vọng âm nằm ngủ (Huỳnh Trọng Khang), Người canh giữ phù dung (Nguyệt Chu), Hùng binh (Đặng Ngọc Hưng), Về từ hành tinh ký ức (Võ Diệu Thanh),… Chưa kể các truyện ngắn đăng rải rác trên các báo, tạp chí từ trung ương đến địa phương cũng rất chú ý đến những câu chuyện, những con người tưởng chừng đã ở lại rất sâu trong hồi ức dân tộc. Chỉ tính riêng tạp chí Văn nghệ quân đội, gần như bất kỳ một số tạp chí nào trong năm nay cũng ít nhất có một truyện ngắn viết về đề tài lịch sử, mà tác giả của chúng đều là những cây bút tên tuổi như Sương Nguyệt Minh, Ma Văn Kháng, Hồ Tĩnh Tâm, Lê Vũ Trường Giang, Phạm Hữu Hoàng, Triều La Vỹ, Trần Thị Tú Ngọc, Bảo Thương,… Các sáng tác này, theo tôi, phần nhiều đã soi xét được những vấn đề, những bí mật của lịch sử một cách đa diện, đa chiều cũng như chọn được cho mình những lối viết phù hợp, lúc truyền thống giản dị nhưng khơi mở được nhiều ẩn ức, cảm xúc nơi độc giả, lúc mới mẻ, cách tân, tràn đầy tinh thần giải thiêng hậu hiện đại.

            Song không dừng lại ở đây, cuộc trở về của lịch sử và hồi ức như là bản sắc của năm văn học này còn in dấu rõ nét trong cuộc thi Văn học tuổi 20 lần VI đang gần như chiếm trọn mọi mối quan tâm của những người yêu văn chương trong cả nước. Hai mươi tác phẩm vào vòng chung khảo thì hơn một phần tư số ấy là những tác phẩm viết về đề tài lịch sử và những trầm tích văn hóa dân tộc. Có thể bắt gặp cuộc hành trình tìm về với ký ức chiến tranh trong Cửa sổ phía Đông của Nguyễn Thị Kim Hòa, những tự sự mới mẻ về vua Lê Long Đỉnh trong Trăng trong cõi của Phạm Thúy Quỳnh, câu chuyện fantasy lồng ghép lịch sử và huyền thoại dân tộc trong Yagon – Những kẻ vô cảm của Phạm Bá Diệp hay những cốt truyện mang màu sắc “xuyên không” đưa người đọc trở về với không gian huyền thoại cổ sơ trong Những đứa con cổ tích của Bạch Đằng và cuộc chiến đấu chống quân Nguyên – Mông trong Nhân gian nằm nghiêng của Đặng Hằng,… Những nỗ lực ấy cho thấy những người trẻ viết văn hôm nay chưa bao giờ vô tâm với lịch sử và kho tàng văn hóa dân tộc. Họ vẫn thường xuyên thực hiện những cuộc trở về trong tâm tưởng để chiêm ngưỡng, đối thoại và đồng cảm với những câu chuyện và những bí mật từ quá khứ, mà bằng chứng rõ rệt là hàng loạt những cái tên viết truyện lịch sử, từ quen thuộc đến mới toanh, xuất hiện trong cuộc thi lần này và hứa hẹn sẽ còn tiếp tục mang đến nhiều điều kỳ diệu cho độc giả Việt trong thời gian sắp tới.

*

            Rất nhiều cuộc trở lại đã diễn ra trong một năm văn học vừa qua và để lại hàng loạt những thành tựu kỳ vĩ. Đời sống văn chương Việt Nam 2018 vừa được làm dày lên bằng cuộc trở về của nhiều tác phẩm kinh điển và cả những người văn tưởng chừng đã mất hút bên kia đại dương, vừa trở nên tươi mới, hiện đại, nhiều hứa hẹn khi những cây bút đương đại đang miệt mài làm sống dậy những câu chuyện xa xưa dưới ánh sáng của một tinh thần mới, một lối nghĩ mới. Chính vì lẽ ấy, với tôi, trở lại ở đây không có nghĩa là thụt lùi, là thoái lui, như cái nghĩa hiển ngôn ít nhiều u ám của nó, mà thực ra là sự tiến lên, sự vươn đi chở theo rất nhiều những tham vọng và tin tưởng.

Sài Gòn, tháng 11.2018

Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 359/01-2019           

           

             

20190621 cau chu Y

Đọc tập truyện &Tùy bút:  Bên Kia Cầu Chữ Y

(Tác giả Huỳnh Ngọc Nga, nxb Tổng Hợp tp HCM, 4-2018)

Khi người ta nói bên này bên kia thì này chỉ nơi gần, kia chỉ nơi xa.  Xa có thể là cách một dòng kênh, nhưng cũng có thể là cách một đại dương. Và tập truyện bên kia cầu cữ Y của Huỳnh Ngọc Nga xuất hiện  giữa mùa nóng tháng 4/2018 giữa Sài Gòn như  bao gồm cả hai ý ấy, vì trang văn của chị đậm đặc chất hoài niệm về những điều mà với chị nay đã xa xôi, đã không còn nữa.

Tôi biết chị Nga từ nhiều năm trước. Và có lẽ chị là người bạn văn duy nhất của tôi ở Ý. Phần đông những bạn bè đi du học cùng thời chỉ theo học những môn kỹ thuật, tuy cũng có người thích đọc nhưng phần lớn xem văn chương là một điều vô bổ.

Tôi làm việc và sinh sống ở Milano, còn chị Nga và gia đình sống ở Torino, hai thành phố cách nhau chừng 150km, chỉ 2 tiếng đi xe lưả nhưng chị em ít gặp nhau, ai cũng bận rộn và chỉ gặp nhau qua điện thoại, hay sau này, qua những bài viết, chuyển qua email.

Là người đảm đang, chị như  một cầu thủ bao sân, hết chăm sóc ba mẹ, các em, con cháu rồi còn lo việc quán xuyến gia đình. Đời sống của chị vì thế nên khá bận rộn, thời gian không có nhiều mà vẫn thích “cày” trên cánh đồng chữ. Để viết, tôi biết chị phải cố gắng chu toàn mọi việc xong xuôi mới có thể yên tâm ngồi vào bàn viết. Lúc đó, sớm nhất cũng là 23h, thường thì quá nửa đêm, có khi đến 2h sáng chị vẫn còn ngồi cóc cóc trên bàn phiếm. Nhiều lần đau lưng, hoa mắt mà vẫn không… chừa, cái tật mê văn: "Là một người nội trợ chỉ biết lo việc gia đình, tôi viết, trước hết là để đừng quên tiếng Việt, sau để mượn những trang chữ kể chuyện đời người, đời ta. Viết khi chờ cơm sôi, canh chín; viết lúc chiều đèn lên, bóng phủ".

Sức khỏe sau này suy giảm, đã từng có đôi lúc làm chị cũng nản lòng. Muốn buông bút. Nhưng  đã “ từng là học trò cưng của cô giáo dạy văn, đứng nhất trong các kỳ thi lục cá nguyệt” và từ năm đệ ngũ và đệ tam được trường Gia Long đề cử dự thi văn chương phụ nữ toàn quốc”… sau này xa quê còn “táy máy” cầm lấy bút thì đã là cái nghiệp, dễ gì buông. Những lúc nản lòng chị gọi điện và tôi thường an ủi, khích lệ để chị  tiếp tục viết, nhưng tránh thức (quá) khuya có hại cho sức khỏe.

Từ đó chúng tôi thường trao đổi các truyện ngắn để nhận xét hay góp ý. Và bây giờ những truyện ngắn rời rạc của chị vừa được tập hợp lại thành một tập truyện BKCCY…  nhìn qua tổng thể tôi hiểu ngay đó là  những trang viết về những điều đã xa và đã mất. 

Như bao khách tha hương “tôi ra đi với trái tim còn ở lại”nỗi nhớ theo năm tháng đong đầy để tôi biến thành con chim Việt nhớ trời Nam”. Và nỗi nhớ nào hơn là về nơi mình đã sinh ra và lớn lên, nên bối cảnh xung quanh cây cầu chữ Y là không gian mà chị quay về để  “kể lại cho các bạn nghe những địa điểm đơn sơ nhưng đầy tình người với những tập tục ăn sâu vào đời sống người dân địa phương. Đây đình miếu, đó chùa chiền bến đò giữa hai con kênh nối liền cùng Sài Gòn - Chợ Lớn, nhà máy gạo, xưởng cây, lò than, lò heo, chợ Ba Đình, chợ Xóm Củi, chợ Phạm Thế Hiển… tạo nên những nghĩa tình bình thường mà sâu đậm khó quên".

Những địa danh mà chị nhắc đến có thể ngày nay chỉ quen thuộc với người Sài Gòn lớn tuổi, vì theo tháng năm vật đổi sao dời.

Tất cả những nơi chốn ấy lúc này đã quá xa tầm tay chị, ra đi là bỏ lại, nhưng qua những trang viết, người đọc có thể nhận ra  hành trang mà chị mang theo là tình yêu “tiếng nước tôi” luôn cháy bỏng trong lòng mình. Tình yêu đó đã bật ra khi nghe đưá con gái của mình tập nói: "Tôi rạng rỡ uống từng câu, từng lời Việt con tôi đang tự nhiên ríu rít với tôi. Con tôi đó, thiên thần của vợ chồng tôi đó, nó đang dang đôi tay nối hai bờ đại lục bằng cả hai ngôn ngữ của mẹ và cha. Thanh bằng, thanh trắc của các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng thoát trên môi cô gái như các cung nhạc của một bản giao hưởng êm đềm đang vang nhẹ bên tai tôi" (Quê hương của mẹ).

Trong cái bối cảnh nhỏ bé mà mênh mông trong lòng chị, đã xảy ra bao nhiêu sự việc, bao nhiêu cảnh đời mà chị đã chứng kiến hay nghe kể lại, giờ đây, với thời gian biến thành những dòng cảm xúc hiện ra trên giấy: “Bên kia cầu Chữ Y là thế,  một ốc đảo xanh màu xanh của nước những dòng kênh, màu xanh của cỏ cây trên mặt đất và màu xanh của lòng người hướng vọng tương lai. Vậy mà tôi đã bỏ đó mà đi, đi khi chưa làm được một điều gì ích lợi cho nơi đã nuôi nấng tôi thành người, đi khi nước kinh Đôi chưa cạn và những con đò vẫn tiếp tục ngày hai buổi nối Chánh Hưng với Chợ Lớn – Sài Gòn. Hai mươi mốt năm dài sống đời viễn xứ, đã bao lần tôi thở dài:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về xóm cũ ruột đau chín chiều”.

Ruột đau khi nhớ về bóng dáng mẹ cha, bạn bè, những con người sinh ra và và sống bên chiếc cầu đặc biệt này của thành phố Sài Gòn:  "Người Chánh Hương hiền hòa, cục mịch, giận hờn không giấu giếm, thương ghét chẳng đậy che. Mắng chửi nhau hôm trước, hôm sau cúng giỗ đã thấy bánh rượu, trà mời. Cửa không khóa, sân không đóng, tin nhau như tin người thân ruột thịt, tiền của không nhiều nhưng tình nghĩa mênh mông" (Bên kia cầu chữ Y).

Những câu chuyện chị kể vì thế  là những hoài niệm xoay quanh một ốc đảo, về quãng thời gian mà chị đã sống và trưởng thành.

Hoài niệm (Nostalgia) là nhớ về những gì đã xa, đã không còn trong tầm tay nữa hay đã mất đi. Nhưng mất ở đây là qua thị giác, chứ trí nhớ và cảm xúc vẫn còn, như chưa từng thay đổi. Nên mỗi lần nhìn lại, hồi ức làm sự vật sống dậy như một sự tái sinh và chuỗi cảm xúc ấy làm lòng ta bồi hồi. Nhiều người cho rằng hoài niệm là nhớ về một nơi chốn, còn tôi thì nghĩ rằng cảnh vật nào cũng chỉ là một cảnh sắc vô hồn. Buồn vui trong lòng người thì cảnh vật sẽ buồn vui theo chứ không thể nào ngược lại. Con đường dẫn đến nhà người yêu, mái trường thời đi học, dòng sông tuổi thơ… thật ra đó chỉ là một con đường đất, một mái ngói, một dòng nước… và nó chẳng lưu giữ trong tim  ta lâu dài nếu không có những cảm xúc, những rung động bồi hồi khi ta nhớ về những kỷ niệm, về cái thời mà chúng ta lớn lên, nhưng thời gian đã đánh lừa và phủ lên nó một khuôn mặt của không gian.

Vì chỉ những rung động riêng ta mới có đã thổi hồn vào cảnh vật, và nỗi nhớ luôn làm ta cảm thấy êm đềm, đáng yêu, đáng quý. Có khi nỗi nhớ ấy còn mang 1 chút nuối tiếc “giá như” “nếu” “phải chi”… để những chuyện “hồi đó” sống cho trọn vẹn, nên cũng mang theo một chút ngậm ngùi. Và cái hồn mà ta đã gửi gắm vào những dòng chữ trải lên trang viết đã hóa thành sợi dây kết nối, đi vào tâm hồn bạn đọc.

Trong truyện ngắn sách lược Tào Tháo chị Nga kể lại một thời thơ ngây, e ấp của tuổi học trò, “suốt thời gian ba năm đeo đuổi nhau, cả hắn và tôi chưa ai mở lời yêu đương” “không ai vướng mắc lời thề” và chàng đã đi du học, nhưng giận hờn vu vơ vẫn có, tuy không còn gặp gỡ hay nhìn thấy nhau nên cũng “mau quên trong sự vô tư trẻ dại” có lẽ có một chút hối tiếc nhưng chỉ có thế thôi vì chị đã chấp nhận hệ quả đó vì chuyện đời “như kim đồng hồ không quay ngược lại phía sau bao giờ”. Viết thế nhưng người đọc tinh ý sẽ thoáng thấy đâu đó còn vương một chút ngậm ngùi, nhưng chỉ thoáng thôi, vì chị không đến nỗi ra ngẩn vào ngơ, nuối tiếc mơ hồ để mạnh mẽ và toàn tâm toàn ý sống với thực tại của mình. Chị hiểu rõ lẽ vô thường, yêu chồng, yêu con và thương quý gia đình.

“Hẻm nhỏ” là câu chuyện tình 2 trong 1, một truyện ngắn cảm động kể về hai thế hệ tình yêu và có một cái kết thật đẹp. Tâm trạng của Duy khi xa nhà có lẽ cũng chính là tâm hồn tác giả “Sống bên đây chàng nhớ bên kia, về bên kia chàng hoài vọng bên này”; sau cơn sinh nở, mất cả vợ lẫn con và chàng vì công việc nên phải ở lại Pháp chứ chưa thể về VN sinh sống cùng ba mẹ: nhưng sau đó chàng cũng trở về nước và từ 1 đứa con rơi vì mẹ bị một nhóm thanh niên cưỡng hiếp nên chưa từng biết cha mình là ai, bỗng “chàng kêu người đàn ông gần như xa lạ bằng một tiếng “ba” bằng cả một sự dửng dưng, cha người ta không sinh cũng dưỡng, cha của mình không dưỡng chẳng cố tình sanh, chàng ra đời chỉ với một cơn vui tàn bạo trên thân xác của mẹ chàng…” . Sau vui buồn lẫn lộn, về Pháp chàng còn  nghe tin ba mẹ chính thức “làm đám cưới, tuy muộn màng nhưng vẫn đầy yêu thương và hạnh phúc” .

Là người chân thật, chị Nga viết ra cảm xúc thật của mình mà không che đậy, không núp sau câu chữ, với những câu văn hiền lành, chân chất. Trong truyện ngắn “Bài luận tuyệt vời” chị kể là khi gặp mặt một chàng trai qua mục “tìm bạn bốn phương”, tưởng sẽ gặp “chàng hoàng tử mắt xanh” nhưng thực tế phũ phàng vì đó là một thương phế binh nạng gỗ. Chị ngỡ ngàng, thất vọng… “và bối rối, thoái thác gặp lại lần nữa mà như đuổi xua”  để rồi “Hơn 40 năm nhưng tôi không quên được đôi mắt của Hưng giây phút đó. Đôi mắt của Từ Hải khi chết đứng, như bàng hoàng, có nét buồn vương ẩn, có nét giận thoáng cau, hòa trộn lại để thấy đó là một nỗi đau sỉ nhục. Không hiểu sao toi bỗng đâm sợ, không phải sợ cái chân thương binh của chàng mà sợ tia nhìn trong đôi mắt đó. Hưng không nói gì, đứng lặng, sững người như tôi đã sững sờ khi vừa gặp chàng. Không chờ đợi lâu, tôi cúi đầu chào chàng rồi quay lưng đi như trốn chạy…” “Đó là lần duy nhất tôi gặp Hưng vì tôi không đủ dũng cảm của một con người có trái tim nhân hậu”. Tôi hiểu là chị đã suy nghĩ nhiều khi viết ra tự truyện này, như 1 ăn năn, để sám hối cho lòng mình nhẹ bớt: “Tôi đã ứa nước mắt… không biết khóc thương người bạc hạnh hay khóc xấu hổ cho sự bạc lòng của tôi. Ngày đó tôi mới 19 tuổi, tôi còn quá trẻ để biết cách cư xử ra sao cho phải đạo làm người. Tôi không biết màu mè  giả dối để nở nụ cười tươi, đưa đôi tay nhỏ nắm lấy bàn tay Hưng, chứng tỏ sự cảm thông, ra điều niềm chia sẻ những bất hạnh hiển hiện trên đôi nạng gỗ của chàng”. “Tết năm đó tôi không dám đi chùa lễ Phật, tôi sợ cái tâm xấu xa của tôi làm héo hoa lá nhà Chùa, sợ khói hương ngày Tết không phủ hết tội dối người của tôi với câu viết “em chọn viết cho anh vì muốn xóa lấp những không may anh gặp phải trên đường đời.” vì 40 năm sau trong đầu mình có lúc còn vang lên nhịp gõ của chiếc nạng gỗ lúc anh lặng lẽ bước đi. Tôi đọc những dòng này của chị mà lòng xúc động, bồi hôi pha lẫn thương cảm.

Trong câu chuyện về “Ngải mặn Cà Chum” chị kể về một câu chuyện tình tay ba vừa ly kỳ vừa tha thiết, kẻ nhiều tiền thất thế, vì lụy tình nên phải viện dẫn bùa ngải để chiếm đoạt người yêu... Truyện đan xen ảo và thực nên gây tò mò, làm hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Còn câu chuyện “Chuông đêm giáng sinh” nói lên tính nhân hậu và thành công của chị trong việc  giáo huấn cái tình người cho các con mình.

Nói chung, những ký ức, những kỷ niệm về vùng đất phía bên kia cây cầu đã được chị Nga vẽ thành một bức tranh nhiều màu sắc và lần lượt kể lại qua những truyện ngắn trong tập truyện bên kia cầu chữ Y, mà chị đã “sống” cùng với nó.

Phần lớn truyện ngắn của chị đều dài, được viết bởi giọng văn chân phương, mộc mạc, nhưng không vì thế mà người đọc dễ buông sách vì tính hấp dẫn của câu chuyện: cảm giác như  được chị nắm tay nhẩn nha kể chuyện. Tập truyện vì thế như đưa người đọc vào một không gian mát lành của một thời xa xưa với những điều thiện, lành. Điều nổi bật trong tập truyện chính là tình người hồn hậu, chân chất và đậm đà.

Tự nhận mình là người viết lách “tay ngang”: “Không phải tự dưng tôi mê chuyện viết lách, cũng không phải tự dưng tôi chọn quãng thời gian tuổi nhỏ làm điểm mốc cho hành trình chữ nghĩa của tôi hiện giờ dù thực sự ở môi trường này tôi chỉ là dân không chuyên”… “Thiên hạ viết đa số nhờ thiên phú hay nhờ đam mê, duyên nghiệp… còn tôi viết nhờ xấu hổ (Thuở nhỏ có lần chị copy bài viết trong “Quốc Văn toàn thư” đưa vào bài luận văn ở lớp ba, bị cô giáo phát hiện, trách mắng) nên tức mình tập tành học hỏi để viết sao cho không đến nỗi tệ…” Tôi nghĩ là chỉ vì khiêm tốn nên chị đã giải bày như thế chứ thật ra chị viết chắc tay, có bút pháp và chiến lược riêng khi kể lại các mẩu truyện nhằm lý giải những diễn biến theo một trục hợp lý riêng để  chuyển tải những cảm nhận tâm lý và hoàn cảnh xã hội.

Là người có tâm hồn bén nhạy các trang viết của chị Nga là cảm xúc, là nỗi lòng, và chị trải ra để giải tỏa nỗi niềm nên câu chữ hị mang đậm nỗi ám ảnh về một quê hương đã rời xa. Hơn ai hết chị hiểu  “ra đi có nghĩa là bỏ hết lại sau lưng, đi có nghĩa là chấp nhận tương lai chưa biết được nơi quê người” và nỗi niềm ấy chưa bao giờ nguôi trong lòng chị.

Nếu “ông điên Kiệt Tấn” sau 50 năm sống ở Canada và Pháp đã nhiều lần thốt lên “Ôi sao tôi cần quê hương đến vậy!” thì câu chữ của chị Nga “Vậy mà tôi đã bỏ đó mà đi” người ta như nghe được mùi thơm của bụi đất lam lũ bám lên những chiếc áo đẫm mồ hôi của người dân nghèo vùng Chánh Hưng, và trong mùi thơm đó còn có một vị mặn vì nước mắt của những kẻ ở xa đau đáu nhìn về chốn cũ. Nếu có thể tóm tắt những trang viết của chị trong một độ nén, thì tôi sẽ không ngần ngại viết về nỗi niềm của chị mà chị gửi gắm trong BKCCY:  “Thương quá quê hương”.

Trương Văn Dân

Milano 3/2019

Lưu Quang Vũ được biết đến nhiều nhất là một kịch tác gia. Các vở kịch của anh gần như độc chiếm đời sống sân khấu một thời. Mặc dù kịch là nơi đã đưa anh đến đỉnh vinh quang nhưng với anh thì thơ mới là niềm đam mê lớn nhất, kéo dài nhất và đó là nơi anh ký thác tâm sự nhiều nhất. Trong di sản thơ ca phong phú đó của Lưu Quang Vũ, thơ tình chiếm vị trí rất quan trọng. Trong số 121 bài (trong quyển Lưu Quang Vũ thơ và đời), có đến 46 bài đề cập đến tình yêu nam nữ. Qua thời gian thơ tình của anh càng ngày càng được người đọc yêu thích. Ở đó người ta thấy rõ hơn tình yêu của anh với những cung bậc khác nhau: đắm say, ghen tuông, được mất, đắng cay và hạnh phúc...

Trong thơ trước 1975 và mươi năm sau đó, tình yêu ít được đề cập đến, nếu có thì nó có màu sắc rất riêng. Đó là một thứ tình yêu có tính lý tưởng, tình yêu cao cả gắn với những sứ mệnh lớn lao. Đôi khi nó là khoảng lặng, là phút nghỉ ngơi của tâm hồn. Thơ tình Lưu Quang Vũ bên cạnh những nét chung của một thế hệ, một thời đại, vẫn có những nét riêng. Nhiều bài trong số đó rất khác lạ, vượt ra khỏi thời đại của nó, để đạt đến những giá trị trường tồn.  

  1. 1. Vẻ đẹp người nữ

Lưu Quang Vũ làm thơ về tình yêu chính là tình yêu của anh trong cuộc đời thực: từ những cảm xúc rạo rực của buổi yêu đầu, đến những đổ vỡ cay đắng và cả sự hồi sinh của tình yêu mạnh mẽ trong anh… Cảm hứng tình yêu trong thơ Lưu Quang Vũ gắn với từng chặng đường đời anh, với từng mối tình cụ thể. Tình yêu trong thơ mình trong thơ thật nồng nàn, mãnh liệt.

Đó là những rung động trong trẻo của tình yêu đầu đời:

Dưa hấu bổ ra thơm suốt ngày dài

Em cũng mát lành như trái cây mùa hạ

Nước da nâu và nụ cười bỡ ngỡ

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa.

                                   (Vườn trong phố)

Nhưng cầu vồng bảy sắc và những âm thanh trong trẻo, hình ảnh mát lành ấy nhanh chóng tan vỡ để lại trong lòng anh những vết cắt đau đớn, những thất vọng ê chề và sự cam chịu. Anh đã có những dòng thơ về “những bức tranh nổi gió ở trên tường” với mảng khối màu sắc dành cho một nữ họa sĩ trong cuộc tình thứ hai:

 

Đã xa vắng trên mặt đường ướt lạnh

Tóc em rối và áo em đỏ thắm

Những bức tranh nổi gió ở trên tường

Hoa cúc vàng - nỗi nhớ của hoàng hôn

(Lá thu)

Nhiều hơn cả là những bài thơ anh dành tặng cho người phụ nữ sau cùng của đời anh - nữ sĩ Xuân Quỳnh - người đã cùng anh tạo nên những bài thơ tình tuyệt đẹp trong thơ ca hiện đại Việt Nam.

Nhiều người con gái xuất hiện trong đời, trong thơ Lưu Quang Vũ, nhưng dẫu là ai thì người nữ trong thơ anh đều rất đẹp.

Anh dành cho người mình yêu những hình ảnh đẹp đẽ, đáng yêu nhất trong thiên nhiên: Em là một nhành mai xanh biếc, là trái cây mùa hạ, là cầu vồng bảy sắc sau mưa, là con sóc hiền, là chùm dẻ mùa đông, là sông êm ả một dòng, là lụa, là lửa, là bóng cây, là âm nhạc của đời anh… Anh yêu đến quên mình và luôn ngỡ ngàng bởi vẻ đẹp bí ẩn của người con gái. “Em” xuất hiện với vẻ đẹp đời thường, nhưng vẫn rực rỡ, làm bừng sáng cả không gian:

Chân bước vội em về từ phố rộng

Mang mùa hè xanh biếc trên vai

Chiều mênh mông gió lớn thổi từ trời

Em bỏ nón tóc lòa xòa trên má

(Chiều chuyển gió)

Vẻ đẹp của người nữ thường xuất hiện trong thiên nhiên, giao hòa cùng với thiên nhiên:

Nhớ vai em chập chờn hoa gạo đỏ

Nhớ vầng trăng xẻ nửa lúc xa xôi

(Từ biệt)

Trở đi trở lại trong thơ anh những hình ảnh người nữ với một vẻ đẹp trần thế : đôi mắt, bàn tay, ngón tay, bờ vai, mái tóc. Vẻ đẹp thuần khiết của người phụ nữ Á Đông hiện lên qua những dòng thơ tình của anh. Bắt đầu từ “cô bé con có đôi mắt mở to” mộng mơ, trong trẻo của tuổi học trò:

- Sau cửa gương là đôi mắt yêu thương

(Chiều chuyển gió)

- Mắt em mở với chân trời xa vợi

(Em - tình yêu những năm tháng đau xót và hi vọng)

đến đôi mắt buồn của người phụ nữ từng trải :

- Năm tháng và tuổi trẻ đi qua

Mắt em buồn hoang vắng

(Mưa dữ dội trên đường phố)

Có lúc chân dung người nữ xuất hiện với đôi vai : Nhớ vai em chập chờn hoa gạo đỏ (Từ biệt). Ám ảnh nhất là bờ vai mềm ấm, nữ tính và gợi cảm :

Sau cửa gương là đôi mắt thương yêu

Ôi vai em mềm ấm biết bao nhiêu

(Chiều chuyển gió)

- Em của anh, đôi vai ấm dịu dàng

Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc ban mai

                                                 (Và anh tồn tại)

Qua năm tháng, đôi vai ấy hiện lên tượng trưng cho sự chịu đựng, sẻ chia những vất vả trong đời :

Em gầy đi đấy đôi vai nhỏ

Lẫn với bờ cây, lẫn với thuyền

(Thu)

Hình ảnh mái tóc người nữ xuất hiện với tần số cao trong thơ tình Lưu Quang Vũ. Có khi là mái tóc đen huyền diệu, bí ẩn:

Mái tóc em là xứ sở của anh

Mái tóc đen như nỗi kinh hoàng

Phủ xuống hồn anh hoang dại mà ấm áp

(Những ngày chưa có em)

Có khi lại là mái tóc quen thuộc, mái tóc của đời thường với những lo toan :

- Hơi thở em từ lâu anh đã thuộc

Tóc em đây lời nói của em đây

(Em - tình yêu những năm tháng đau xót và hi vọng)

- Tóc em dài như một ngày mệt mỏi

(Bầy ong trong đêm sâu)

- Em ngẩng đầu, mái tóc đen cắt ngắn

(Em II)

Mái tóc ấy có khi không còn là suối tóc mềm mại mà là “tóc rối” rất thực mà cũng rất gợi cảm: Tóc em rối và áo em đỏ thắm (Lá thu), “Và gió thổi quanh em tóc rối/ Những bông hoa đã mất vụt bay về ” (Hoa tầm xuân)…

Nhưng có lẽ hình ảnh trở đi trở lại nhiều nhất trong thơ Lưu Quang Vũ chính là hình ảnh “ngực em”. Hình ảnh này quả là rất hiếm gặp trong các sáng tác của các nhà thơ cùng thời.

Em đến cùng tôi như chùm vải đầu mùa

Tóc hoang dại lòa xòa trên ngực nắng

Ngực em sáng như mặt trời sắp lặn

Tôi đầm đìa sương lạnh của bờ đê

(Đất nước đàn bầu)

Dưới những nét nhấn và lướt của người nghệ sĩ, chân dung “em” hiện lên tràn căng sức thanh xuân. Có lúc vẻ đẹp ấy lại rất huyền hoặc trong sự tưởng tượng của anh:

Ngực đồi trăng ướt đẫm

Tay chập chờn lửa sáng

(Bây giờ)

Có thể nói vẻ đẹp nữ tính trong thơ của Lưu Quang Vũ gắn với mỹ cảm Á Đông, nó gợi lên cái đẹp trinh trắng, thuần khiết:

Cô giáo cười, áo dài trắng tung bay

Hoa phượng đỏ lòa xòa nghiêng trước ngực

(Giấc mộng đêm)

 Nhưng ấn tượng hơn, là cái đẹp nữ tính, đầy đặn, căng tràn nhựa sống: “ngực tròn”, “ngực nắng”, “ngực mềm”, “ngực sáng”:

Con người trao lửa cho nhau

Từ những lồng ngực tròn căng

(Mấy đoạn thơ về lửa)

Tình yêu tôi như một tiếng chuông dài

Làm run rẩy hoa hồng trên ngực nắng

(Có những lúc)

“Ngực nắng” vừa cụ thể lại hàm ẩn nghĩa khái quát, khiến người ta liên tưởng về một cuộc sống chan hòa, ấm áp, lại vửa trong trẻo, tươi lành.

Lưu Quang Vũ tìm thấy ở “em”, ở tình yêu niềm hạnh phúc vô tận, như là nguồn cội của sự sống, là “sức lực của đời anh”.

Những cảm xúc tình yêu đã tạo nên một mảng thơ tình đặc sắc của Lưu Quang Vũ. Lưu Quang Vũ yêu nhiều, và hạnh phúc thay, người yêu, vợ anh đều là những người đẹp có tiếng đương thời. Đành rằng người nữ nào, người nữ trong thơ nào cũng đẹp, nhưng cũng phải thừa nhận rằng: chính nhờ những người nữ đẹp thật ở ngoài đời, đã tạo ra vẻ đẹp rất riêng trong thơ tình Lưu Quang Vũ. Dù cuộc sống kháng chiến và hậu chiến gian khổ, vất vả, thiếu thốn, nhưng không vì thế mà vẻ đẹp của người nữ bị che khuất đi. Vẻ đẹp của người nữ trong thơ Lưu Quang Vũ là vẻ đẹp cảm nhận từ người nam, vẻ đẹp từ sự ngắm nhìn, cảm xúc, vuốt ve của người nam nên không chỉ tâm hồn mà thân thể còn hiện lên rất rõ: “mắt em”, “bàn tay em”, “ngón tay em”, “vai em”, “tóc em”, “ngực em”… Vẻ đẹp ấy tạo nên nét chất đời, chất lãng mạn – rất độc đáo, táo bạo trong thơ tình Lưu Quang Vũ.

 

  1. 2. Ái tình khổ đau

Nhạy cảm và tài hoa, Lưu Quang Vũ sống đã hết mình, làm việc hết mình và cũng yêu hết mình. Anh đã có những giây phút ngọt ngào bay bổng, đồng thời cũng đã gánh chịu những giây phút vỡ nát, u buồn, chát đắng… Những bài thơ tình của anh được viết bằng chính sự thể nghiệm của cuộc đời anh: chua xót và cay đắng của cuộc tình tan vỡ:

Thôi nhé, em đi

Như một cánh chim bay mất

Phòng anh chẳng có gì ăn được

Chim bay về những mái nhà vui

(Từ biệt)

Có lúc tình yêu đổ vỡ ấy trong anh đưa anh đến tột cùng của nỗi cô đơn:

Tôi khát khao yêu người

Mà không sao yêu được

(Có những lúc)

Hay:

Em sập cửa lại rồi

Tôi nhận bao cái tát

Của đời của bạn thân

Em sập cửa lại rồi

Tôi còn gì mà đau khổ nữa

(Mấy đoạn thơ)

Có thể tìm trong thơ tình của anh những nuối tiếc, thất vọng, những mong ước được sẻ chia:

Điều tôi nói phải chăng là quá muộn

Em u buồn có nhận hay không?

(Lá thu)

Hay những phấp phỏng lo âu:

Anh sợ rồi trời sẽ mưa

Xóa nhòa hết những điều em hứa

Mây đen tới trời chẳng còn xanh nữa

Nắng không trong như nắng buổi ban đầu

(Anh sợ rồi trời sẽ mưa)

Trong thơ tình Lưu Quang Vũ chúng ta sẽ rất nhiều lần bắt gặp hình ảnh mưa: mưa xám, mưa rào, mưa dầm, mưa trên đường xa, mưa trên sông, mưa trên cửa sổ tâm hồn, mưa mùa hạ, mưa chiều… Phải chăng vì mưa là bối cảnh phù hợp nhất để người ta giãi bày tâm trạng, đặc biệt là tâm trạng cô đơn, buồn bã, nhiều trăn trở.

Mưa bao giờ cũng mênh mông, ngập tràn, bao trùm không gian đối lập với hình ảnh con người nhỏ bé, cô đơn. Trong cơn mưa con người càng thấy mình lẻ loi, mất mát, bơ vơ. Mưa trong thơ Lưu Quang Vũ gắn liền với ý nghĩa “xóa tan”, “xóa nhòa” mọi kí ức, mọi lời hứa, tình yêu hạnh phúc từng tồn tại:

Cơn mưa rào nối trận mưa ngâu

Xóa cả dấu chân em về buổi ấy

(Mưa)

Hay:

Em đi, phố ngày mưa

Suốt đường dài không nói

Cánh cửa chiều khép lại

Hoa đầm đìa mưa ướt chói trên cao

(Em - Tình yêu những năm đau xót và hi vọng)

Mưa cho thấy cái mong manh, hữu hạn của hạnh phúc đời người “Hạnh phúc con người mong manh mưa sa”. Mang trong mình dự cảm bất an về tương lai xa xôi, Lưu Quang Vũ luôn phập phồng lo âu, hoài nghi hết thảy, không biết nương tựa vào đâu. Anh khát khao yêu người nhưng không sao yêu được, anh muốn nương tựa vào tình yêu thì tình yêu tan vỡ:

Mưa cướp đi ánh sáng của ban ngày

Đường chập choạng trăm mối lo khó gỡ

Thức chẳng yên dở dang giấc ngủ

Hạnh phúc con người mong manh mưa sa

(Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa)

Tình yêu đổ vỡ, u uất, đắng cay khiến anh cảm thấy mọi thứ đã trôi theo mưa và trôi xa mãi:

Anh đã mất cả mây qua lòng giếng

Cả tiếng gà, hẻm núi, cả cơn mưa

(Anh đã mất chi, anh đã được gì)

Bên cạnh hình ảnh mưa thì hình ảnh gió chiếm tỉ lệ rất cao trong thơ anh. Khi mới yêu hay khi tình yêu tan vỡ đều có “gió” làm nhân chứng. Gió trong thơ anh rất đa dạng và đều có nét chung là dữ dội và khắc nghiệt: gió dữ, gió nóng, gió hú, gió lốc, gió độc, gió điên, gió thổi lồng, gió ầm ào…

Những ngày chưa có em “Anh như một toa tàu bỏ vắng/Rất nhiều gió thổi qua cửa lạnh”. Và khi có em rồi “Em đã tới diệu kỳ như âm nhạc/ Đất mênh mông chuyển gió tới chân trời”. Cũng như bao nhiêu chàng trai đang yêu, anh mong được sẻ chia, thông cảm nhưng anh đã thất bại và thất vọng, anh đành ôm lấy nỗi buồn lặng lẽ: “Những chùm hoa nở bừng trong gió/ Những chùm hoa ngày cũ chết lâu rồi” (Hoa tầm xuân)

Và rồi điều gì đến cũng đã đến, mọi thứ đã đổ vỡ, anh hụt hẫng, anh đau khổ và anh buồn bã ẩn mình trong ngọn gió:

Bây giờ anh trong suốt như không khí

Như gió hoang không hình không giới hạn

Không gương mặt nụ cười thể hiện trước em (…)

Chỉ có gió em làm sao thấy được

(Anh chẳng còn gì nữa)

Khi tận cùng của khổ đau anh lại dùng hình ảnh “ngọn gió” để ví những gì anh có, anh muốn dâng cho người anh yêu nhưng em đã “không màng”:

Hai ta không chung một ngả đường dài

Không chung khổ đau không cùng nhịp thở

Những gì em cần anh chẳng có

Em không màng những ngọn gió anh trao

(Từ biệt)

Gió trong thơ Lưu Quang Vũ là là gió lòng, gió tâm hồn, là những yêu thương khao khát của đời anh:

Đã có lần tôi muốn nguôi yên

Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng

Nhưng vô ích làm sao quên được

Những yêu thương khao khát của đời tôi

(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)

Dù cay đắng, khổ đau hay ngay cả trong những lúc tuyệt vọng nhất “Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió”, thì người đàn ông trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn luôn giữ được sự bao dung nồng ấm của trái tim, vẫn muốn bộc bạch hết nỗi lòng, tâm sự, tình yêu của mình:

Anh như sông cứ muốn chảy ngược dòng

Khi tuyệt vọng không muốn làm em khổ

Anh bỏ nhà ra đi như ngọn gió

Ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em

(Không đề)

Anh luôn luôn mong muốn làm điều gì đó có ích cho người anh thương mến, dù chỉ là những điều nhỏ nhoi nhất: làm cốc nước, làm con đường, làm cánh cửa, làm ngọn gió…, và xem em là tất cả của cuộc đời mình:

 

Anh muốn làm cánh cửa để em quên

Ngọn gió nhỏ trên trán em kiêu hãnh

Làm cốc nước em cầm trưa nắng gắt

Làm con đường quen thuộc để em qua (…)

Chỉ tin nơi nào có em đến ở

Chỉ sống bằng hơi thở của em thôi
                                                       
(Mắt của trời xanh)

Và dù đã từng thất vọng, từng đau khổ nhưng cuối cùng vẫn là trái tim yêu người tha thiết:

Dẫu bao lần người làm tôi thất vọng

Tôi vẫn yêu người lắm lắm người ơi

(Có những lúc)

Lưu Quang Vũ yêu nhiều, nhưng khổ đau cũng nhiều. Khổ đau vì những hiểu lầm, những nghịch cảnh, những chia lìa, tan vỡ - khổ đau như một bản chất của ái tình. Nhưng dù cuộc tình có đến đâu thì người đàn ông đang yêu trong thơ Lưu Quang Vũ vẫn một mực bao dung, độ lượng, vẫn yêu chân thành và mãnh liệt. Ngưng kết từ nỗi đau của riêng mình, thơ Lưu Quang Vũ lại tìm được sự đồng điệu trong trái tim người đọc, hết thế hệ này đến thế hệ khác.

  1. Tình yêu đắm say và ước vọng hạnh phúc 

Tài hoa, nhạy cảm và sâu sắc có lẽ là những từ phù hợp với Lưu Quang Vũ. Anh đến với tình yêu một cách chân thành, trong sáng cũng như đó là cách anh đến với thơ. Có đôi khi tìm đến thơ như cách giãi bày cảm xúc, nỗi lòng, những suy tư trăn trở của mình:

Một tình yêu không biết nói cùng ai

Đến điên dại đến nghẹn ngào đau đớn

Mặt anh vỡ trong tấm gương thất vọng

Em ơi ngày ấy em đâu?

(Em - tình yêu những năm đau xót và hi vọng)

Trong ký ức của anh luôn hiện lên hình ảnh, hương vị ngọt ngào của mối tình đầu, dẫu hiện tại đã là xa ngái:

Em vẫn như sông rộng tốt lành

Em mà ngọn gió chiều nức nở

Em mà ngày xưa run rẩy cả lòng anh

(Anh đã mất chi, anh đã được gì)

Đến với tình yêu, Lưu Quang Vũ tìm thấy ở đó ý nghĩa của cuộc đời dù không ít lần tình yêu mang đến cho anh nhiều đau khổ. Trong suốt những ngày tháng cô đơn, thất vọng, khổ đau, lận đận anh vẫn không tắt ngọn lửa của ước vọng, đắm say. Nếu như hình ảnh mưa đã từng gắn với sự chia xa, đổ vỡ thì mưa cũng biểu trưng cho nguồn sống dạt dạo, những ước vọng và khát khao hạnh phúc trong thơ anh. Đó là mưa mát lành, mưa mát mẻ, mưa rộng dài… Từ buổi đầu tiên gặp gỡ đã có cơn mưa xuất hiện: “Chưa kịp lời tự tình/Trời đã òa cơn mưa” (Mưa).

Lưu Quang Vũ nhiều lần gắn hình ảnh mưa với hình ảnh “em” trong thơ của mình. “Em” trong thơ anh đẹp mong manh, hư ảo, xa xăm. Em đẹp hơn trong cơn mưa “Em về mưa ướt vai”. Em tưới mát cuộc đời anh, em mang đến cho anh những giây phút êm đềm say đắm nhất:

Nơi vòm lá rì rào xao động cơn mưa

Quả ngọt chín khi mùa ve lại đến (…)

Em như cầu vồng bảy sắc hiện sau mưa

(Vườn trong phố)

Mưa là dấu hiệu thời gian đồng thời cũng là dấu hiệu không gian, xóa tan hết mọi cách trở xa xôi đưa hai người vượt khoảng cách tìm đến nhau. Mưa không chỉ nối liền những lằn ranh khoảng cách xa xôi mà hơn hết là mưa xóa nhòa mọi muộn phiền, lo lắng “Mưa rộng dài xóa những nỗi lo riêng”. Mưa còn thắp sáng niềm tin, tái sinh sức sống mới, khát khao hạnh phúc:

Bông lúa vàng hạt mẩy quẩy trong mưa (…)

Như nhãn thơm thấm mát giọt mưa đầu

(Thức với quê hương)

Hay:

Anh hãy nghe tiếng mưa, tiếng mưa

Trên những cánh đồng đất nâu tơi tả (…)

Chùm vải sẽ sai, quả mận sẽ hồng

Cửa kính ướt sẽ thành gương trong trẻo

(Mưa)

Mưa còn là khúc hát ngọt ngào, tha thiết của tình yêu:

Em đưa tay hứng những hàng mưa

Bàn tay như đài hoa, như búp lá…

Em hiểu điều gì đã gắn bó đôi ta

Em hiểu điều gì… Ôi, tiếng mưa, tiếng mưa

(Mưa)

Cũng như hình ảnh mưa, gió xuất hiện trong thơ Lưu Quang Vũ không chỉ là những chia ly, mất mát, khổ đau, u buồn, gió trong thơ anh còn là gió mát, gió mới, gió tâm hồn, ngọn gió đầu tiên, lộng gió chiều… Gió là những ngày yêu thương hạnh phúc “Nằm bên em nghe gió suốt đêm dài… Mùa gió mới nhờ em tôi có lại”. Gió nhắc những kỉ niệm đẹp đã có trong đời “Vẫn nguyên vẹn những hoa rừng thơ dại… Ngọn gió rừng vẫn thổi giữa hồn tôi”. Gió gợi nhớ cảm xúc rạo rực buổi ban đầu “Anh mở gió tâm hồn cho buồm thắm kéo lên”…

Với Lưu Quang Vũ, yêu và được yêu là cách vượt lên những đau khổ, vượt lên những hoàn cảnh bất hạnh xung quanh, vượt lên sự hữu hạn của đời người. Anh yêu và tôn vinh, hàm ơn người phụ nữ anh yêu. Đây là nét nổi trội của anh so với tình yêu của dòng thơ thời ấy. Những lời thơ đẹp dành cho em thì “gió” vẫn luôn có mặt:

Em là sớm mai là tuổi trẻ của anh

Khi những điều giả dối vây quanh

Bàn tay ấy chở che và gìn giữ

Biết ơn em, em từ miền gió cát

Về với anh, bông cúc nhỏ hoa vàng

(Và anh tồn tại)

Hay:

Gió bồn chồn nhắc gọi bước chân quen

Em như thời khắc của anh như dáng hình như trí nhớ

(Em vắng)

Anh dành nhiều hình ảnh đẹp, trong lành, mát mẻ của gió để dành cho em:

- Có em anh bắt đầu tất cả

Bắt đầu con đường, bắt đầu nhịp thở

Mùa hạ đầu tiên ngọn gió đầu tiên (…)

Em ngoảnh lại nhìn buổi chiều lộng gió

(Chiều chuyển gió)

- Em làm thay đổi đời anh

Như màu trời đổi thay sắc nước

Như gió bấc, gió nồm đổi mùa nóng lạnh

Như phù sa đằm thắm tạo đồng bằng

(Em I)

- Nắng chiều trên ngọn lá

Gió cồn bụi trắng bay

(Ru em ngủ)

Gió luôn mạnh mẽ, khoáng đạt, luôn khát khao những chân trời rộng lớn “Luôn luôn ra đi luôn luôn mới đến” như chính tính cách, tâm hồn và ước mơ của Lưu Quang Vũ. Khát vọng tinh thần lớn nhất của anh là hóa mình thành ngọn gió lành, dù anh đã “lớn lên trong ngọn gió nhà ga, ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt”, nó như sức mạnh kì diệu của sự hồi sinh về niềm tin, tình yêu, hạnh phúc:

Gió mang đến sự tươi mát, hồi sinh

Ước chi được hóa thành ngọn gió

Để sưởi ấm những đỉnh đèo buốt giá

Để mái rượi những mái nhà nắng lửa

Để luôn luôn được trở lại với đời…

(Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi)

Ngoài mưa, gió thì lửa cũng là hình ảnh thường thấy trong thơ Lưu Quang Vũ. Lửa là biểu tượng của sự sống mãnh liệt, bền bỉ, soi ngọn lửa đó vào nhân dân, anh thấy “Nhân dân có gì giống lửa phải không anh/ Gió bão ngàn đời vẫn nối nhau chẳng tắt”. Lưu Quang Vũ đã đúc kết trong mấy câu thơ: “Sự sống là lửa/ Thiêu hủy và sinh nở/ Bình minh là lửa/ Mở ngày mới và xé toang ngày cũ…”. Lửa còn là biểu hiện của những khát vọng tinh thần, của nhiệt huyết với cuộc đời. Lưu Quang Vũ quan niệm thơ phải “mang lửa đến cho đời”, thơ “thắp lửa”, thơ “là bó đuốc”. Có lúc anh muốn “cho ta làm ngọn lửa”, ngọn lửa với những hàm nghĩa tốt đẹp nhất của nó. Và gần gũi nhất, thân thương nhất khi lửa là biểu tượng của tình yêu, của hạnh phúc gia đình. Nồng nàn, ấm áp hình ảnh người vợ hiền bên ngọn lửa hồng - nơi sưởi ấm tâm hồn đã từng cô đơn, giá lạnh của anh:

- Đánh mất niềm tin tìm về bếp lửa

(Không đề III)

- Anh yên lòng bên lửa ấm yêu thương (…)

- Em của anh, đôi vai ấm dịu dàng

Người nhóm bếp mỗi chiều, người thức dậy lúc tinh sương

(Và anh tồn tại)

- Em là bóng cây, em là bếp lửa

Che mát và sưởi ấm lòng anh (…)

- Mọi tên tuổi vinh dự chỉ là hư danh

Chẳng nghĩa lý bằng chiều nay em nhóm bếp

(Không đề II)

Lưu Quang Vũ đã yêu đến tận tụy, đến cháy lòng, dù có cả vui sướng lẫn khổ đau trong tình yêu nhưng điều vượt lên tất cả đó chính là những ước vọng, say mê của anh. Và cuối cùng, anh đã có được tình yêu như anh mong đợi:

Phút cuối cùng tay vẫn ở trong tay

Ta đã có những ngày vui sướng nhất

Đã uống cả men nồng và rượu chát

Đã đi qua cùng tận của con đường

Sau vô biên dẫu chỉ có vô biên:

Buồm đã tới và lúa đồng đã gặt

(Bài hát ấy vẫn còn dang dở)

Và:

Dù sao cuộc đời đã dành em lại cho anh

Điều mong ước đầu tiên điều ở lại sau cùng

Chúng ta đi bên nhau trên mặt đất

Dẫu chỉ riêng điều đó là có thật

Đủ cho anh mãi mãi biết ơn đời

(Em II)

Có “em” là anh như có tất cả, có “sớm mai và tuổi trẻ”, anh biết “sống vững vàng không sợ hãi”… và quan trọng nhất là nguồn cảm hứng bất tận trong những lời thơ bởi “Và thương mến có nghĩa là hi vọng/ Anh tin đời theo nghĩa lứa đôi”…

Kết luận

Với những hình ảnh đa nghĩa như mưa, gió, lửa giàu sức ám ảnh cùng giọng điệu riêng mang âm hưởng buồn thương, da diết pha lẫn nồng nàn, đắm đuối, say mê, thơ tình Lưu Quang Vũ đã thật sự hấp dẫn người đọc. Nó gợi lên trong lòng người đọc những cảm xúc yêu thương thiết tha đến lạ! Trong những sáng tác của mình, Lưu Quang Vũ luôn dành những ngôn từ, hình ảnh đẹp nhất cho những người nữ trong đời anh. Thơ anh có lúc viễn vông, cay đắng, u buồn nhưng không vì thế mà bi lụy, buông xuôi. Ngược lại, sau những đau khổ, tuyệt vọng, hoài nghi, chán nản là sự hồi sinh mạnh mẽ, căng tràn nhựa sống, khát khao hạnh phúc vô biên…

Thơ tình Việt Nam trước 1975 và mươi năm sau đó dù không phải là dòng chính nhưng không phải là không phong phú. Có thơ tình đam mê của Xuân Diệu, có thơ tình mơ hồ, sang trọng của Chế Lan Viên, có thơ tình tận hiến tuổi trẻ cho cuộc kháng chiến bi hùng của đất nước của cả một thế hệ: Nguyễn Mỹ, Dương Hương Ly, Nguyễn Thị Xuân Quý, Lê Anh Xuân, Phan Thị Thanh Nhàn… mỗi người một vẻ riêng. Trong một cuộc hoà nhạc vĩ đại đó, thơ tình Lưu Quang Vũ cũng định vị cho mình một chỗ đứng riêng. Chất đời và chất thơ, hiện thực và lãng mạn, nhục cảm và lý tưởng… hoà quyện trong anh với nhiều cung bậc của tình yêu: những rụt rè, ngất ngây của tình đầu, những say mê, nồng nhiệt của người đang yêu, những chia lìa, tan vỡ của chặng cuối đường tình…, thông qua những hình ảnh riêng đầy sức ám ảnh: gió, mưa, lửa…đã tạo cho thơ tình một chỗ đứng riêng trong thơ tình đương đại. Và Lưu Quang Vũ còn được nhiều thế hệ nhắc đến như một trong những thi sĩ của tình yêu tiêu biểu nhất của thơ ca hiện đại nửa sau thế kỷ XX.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học
  2. Vũ Hà, Ngô Thảo (1988), Lưu Quang Vũ - một tài năng, một đời người, NXB Văn hóa thông tin
  3. Lưu Khánh Thơ (1994), Xuân Quỳnh - Lưu Quang Vũ tình yêu và sự nghiệp, NXB Hội nhà văn
  4. Lưu Khánh Thơ (1997), Lưu Quang Vũ - thơ và đời, NXB Văn hóa thông tin
  5. Lưu Khánh Thơ (2001), Lưu Quang Vũ - tài năng và lao động nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin
  6. Lưu Quang Vũ (1983), Bầy ong trong đêm sâu, NXB Hội nhà văn
  7. Lưu Quang Vũ (1989), Mây trắng của đời tôi, NXB Tác phẩm mới

Nguồn: Lưu Quang Vũ - Những đối thoại nghệ thuật, Nxb Đà Nẵng, 2018.

20190531 den tho NCTru

Ảnh: Đền thờ Nguyễn Công Trứ - Kim Sơn, Ninh Bình

Gần một thế kỷ nay, kể từ khi Lê Thước mở đầu nghiên cứu một cách hệ thống về con người và thơ văn Nguyễn Công Trứ (1928), tuy đã có không ít công trình lớn nhỏ tiếp tục trình bày các suy tư về nhân vật lịch sử kỳ vĩ này, song hầu như chưa có ai chú ý giải quyết vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến  đọc văn bản thơ và thơ hát nói của ông. Việc đồng nhất con người trong sáng tác thơ văn (con người nghệ thuật) và con người thực ngoài đời (con người tiểu sử) vẫn diễn ra khá phổ biến trong thực tế tiếp cận thơ văn Nguyễn Công Trứ.  

Văn bản sáng tác bao giờ cũng là đối tượng quan trọng nhất của người đọc. Thế giới nghệ thuật với con người và không gian, thời gian chứa đựng trong văn bản không đồng nhất với thế giới hiện thực. Tìm hiểu, lý giải sự không đồng nhất này sẽ đưa lại những nhận thức quan trọng không thể thiếu về chính thế giới nghệ thuật của văn bản.   

Khó khăn của việc phân biệt con người tiểu sử và con người nghệ thuật luôn xuất hiện trong thực tế đọc văn học vì nhà nghiên cứu thiếu tài liệu về tiểu sử tác giả để đối chiếu, so sánh. Điều thuận lợi là chưa bao giờ tiểu  sử một tác giả thời trung đại  lại được lịch sử (và cả giai thoại) ghi chép, phản ánh chi tiết như trường hợp tiểu sử Nguyễn Công Trứ [i]. Chúng tôi muốn tận dụng khối lượng chi tiết tiểu sử phong phú đó để đối chiếu, tìm ra đặc điểm của con người nghệ thuật so với con người tiểu sử Nguyễn Công Trứ, từ đó nêu lên cách đọc sáng tác của ông, lý giải động cơ diễn ngôn sau thực tế sáng tác đó.

                                         *     

Giữa sáng tác và cuộc đời của Nguyễn Công Trứ dường như hàm chứa một khối mâu thuẫn lớn. Đứng trước thực tế sáng tác có vẻ mâu thuẫn đó, Lê Thước-nhà nghiên cứu đầu tiên về Nguyễn Công Trứ- đã nêu vấn đề về tính chủ ý của tác giả, một vấn đề mà lý luận văn học ngày nay vẫn quan tâm: “Xưa nay những kẻ anh hùng hào kiệt đã có cái tài “xuất chúng” thì thường hay có cái khí “siêu nhân”. Công đâu ăn lẫn với gà, rồng đâu ở vùng nước cạn, đã là người hào kiệt thì quả không chịu lẩn quất trong cái khuôn sáo người thường. Có lẽ cũng vì thế nên trong sự hành vi của cụ Nguyễn Công Trứ, nhiều khi hình như là lạ mắt trái tai, mà trong văn chương của cụ cũng lắm khi trái với cái tục kiến của người đời. Tức như ở chùa mà có ả đầu đi theo, thân làm việc đời mà miệng lại thích ngâm vịnh cái cảnh nhàn, khiến người đời sau, xem sử cụ, đọc văn cụ, không sao khám phá được cái tâm sự của cụ”.  Lê Thước tự hỏi : “Hoặc giả vì ta không hiểu thâm ý của cụ, nên ta ngộ nhận cái việc cụ làm cái lời cụ nói chăng ?”[ii].  Khái niệm “thâm ý” dùng ở đây tương đương với khái niệm chủ ý. Vấn đề ở chỗ có chủ ý sáng tác của tác giả hay không và làm sao để biết chủ ý của tác giả.       

Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) cho rằng Lê Thước đã bất lực khi muốn giải thích tính cách “mâu thuẫn” của tâm lý và cuộc đời Nguyễn Công Trứ. Sự bất lực này của Lê Thước, theo Nguyễn Bách Khoa, có ba nguyên nhân : 1) Không nhìn nhận mâu thuẫn là bản tính của sự vật; 2) Quan niệm trừu tượng về “cá nhân”; 3) Quan niệm phong kiến về tài năng. Ông lý giải : mâu thuẫn là bản tính của sự vật, một người như Nguyễn Công Trứ, sinh trưởng vào thời đại như thời đại của Nguyễn Công Trứ tất nhiên có tâm lý, hành vi mâu thuẫn nhau; còn con người là sản phẩm của những tương quan giai cấp nhất định; tài năng là sản phẩm của đời sống xã hội. Từ đó, Nguyễn Bách Khoa nêu lên nguyên tắc dựa vào đó để hiểu một thiên tài mà ông gọi là phương pháp duy vật biện chứng, nghiên cứu tất cả cái hệ thống xã hội trong đó cá nhân, đứng ở phạm vi đẳng cấp của mình, đã bị hoàn cảnh quyết định và đã chiến đấu để chống lại hoàn cảnh ấy[iii].

Dễ thấy Nguyễn Bách Khoa đã đồng nhất con người nghệ thuật trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ với con người tiểu sử của tác giả, một sự đồng nhất dễ dẫn đến cách lý giải không thuyết phục, dùng sáng tác thơ văn để minh họa cho những mối quan hệ xã hội-giai cấp của tác giả.  Chẳng hạn, nhận xét về quan niệm hành lạc của Nguyễn Công Trứ, ông viết “Quan niệm “cầm kỳ thi tửu” là một quan niệm tài tử. Bằng danh từ này, người ta thường chỉ thị hạng nho sĩ lơ đãng với công việc kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn học, về sự vui sống cầu kỳ (hành lạc). Đỗ Phủ, Lý Bạch, Lưu Linh chính là những nhà nho tài tử như vậy. Họ không sống cho tổ quốc, không sống vì đạo lý. Họ không sống cho họ, sống vì nghệ thuật , sống vì đẹp. Suốt đời họ chỉ đi tìm cái đẹp. Cái ý vị của cuộc sống, theo quan niệm tài tử, không phải ở chỗ phụng sự mà là ở chỗ hưởng thụ, ở uống rượu, ở làm thơ, ở gảy đàn, ở đánh cờ, ở giăng gió, ở sông núi…Nguyễn Công Trứ đã dùng đến triết lý hành lạc của phường tài tử. Ông đã ca tụng rượu, đàn, thơ, cờ, giăng, gió. Hơn nữa, ông đã sống nghênh ngang triết lý tài tử, suốt một kiếp người. Nhất là trong lúc thiếu thời”[iv]. Không phân biệt con người tiểu sử và con người nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Công Trứ, đến mức đánh đồng thơ văn và cuộc sống thực là một nét dễ thấy trong công trình Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ .  

Những dòng phân tích tuy hùng biện và hấp dẫn trên đây có sơ hở dễ thấy. Về phương diện lý luận, cần phân biệt thế giới khách quan với tính cách là đối tượng phản ánh với thế giới nghệ thuật như là sản phẩm sáng tạo chủ quan của tác giả. Tác giả không thể nào ôm trùm thế giới khách quan (trong đó có chính cái tôi của bản thân) bề bộn, phong phú, bác tạp mà buộc phải lựa chọn một số sự kiện, yếu tố với một chủ ý sáng tác nhất định. Chẳng hạn, nếu không gian hiện thực của mùa xuân ở Việt Nam có rất nhiều yếu tố như hoa đào, én bay, đôi chim yến anh, hoa đào và các loại hoa như hoa xoan, ong bướm-hoa, cánh đồng xanh, mầm non, mưa xuân, phiên chợ tết, pháo nổ giao thừa… thì khi đi vào mỗi sáng tác của mỗi tác giả, chúng lại được lựa chọn theo một cách riêng, không tác phẩm nào giống tác phẩm nào. Có tác giả chọn ong (bướm)- hoa, có người chọn mưa xuân, có người lại chọn màu xanh (Nguyễn Bính tùy từng bài thơ mà chọn mưa xuân, chọn cỏ xanh, đồng lúa xanh, và chiếc thắt lưng xanh hay chọn đôi chim yến anh). Cũng tương tự như vậy, các tác giả thuộc các lập trường tư tưởng và nghệ thuật khác nhau lại có thể, một số tác giả này nhắm đến người nông dân dưới đáy xã hội, một số tác giả khác lại quan tâm đến người tiểu tư sản thành thị. Việc tái cấu trúc không gian hiện thực khi đưa không gian vào tác phẩm phục vụ những mục đích sáng tạo nhất định của tác giả. Không gian vật lý và không gian địa lý được lựa chọn và  tái cấu trúc để trở thành không gian nghệ thuật. Các tác giả nhà nho trung đại thường tả không gian theo nguyên tắc đối xứng của âm-dương và ngũ hành, trong khi đó, các nhà thơ hiện đại lại có thể bỏ qua kiểu không gian đối xứng đó. Thời gian cũng là một phương diện của hiện thực khách quan và cũng được tác giả tiếp nhận, tái cấu trúc theo một chủ ý sáng tác nào đó. Thời gian vật lý khi đi vào tác phẩm đã thành thời gian tâm lý, thời gian nghệ thuật, theo đó, tác giả quyết định kể lại, chẳng hạn một sự kiện trong tác phẩm vốn chỉ diễn ra trong một buổi chiều, với thời gian kể dài gấp vài lần thời gian hai mươi tám năm diễn ra ngoài đời. Chí Phèo từ lúc đẻ rơi đến khi đi tù về trải qua khoảng 28 năm nhưng khoảng thời gian này chỉ được kể rút ngắn lại, chỉ bằng khoảng ¼ thời gian kể lại diễn biến trong một buổi chiều Chí Phèo đến cổng nhà Bá Kiến ăn vạ. Thời gian vật lý có  bốn mùa xuân hạ thu đông, song tỷ lệ các mùa đó đi vào thơ ca trung đại không như nhau, mùa thu và sau đó là mùa xuân được tả nhiều nhất, còn mùa hạ và mùa đông có tần suất thấp hơn. Một ngày có 24 giờ, song thơ trung đại lại hứng thú với những thời điểm liên quan với hoàng hôn và đêm hơn là buổi sáng, buổi trưa. Và tất cả những lựa chọn đó đều có mục đích sáng tạo nghệ thuật riêng.

Nếu chúng ta hình dung cái tôi của tác giả là một khách thể của hành động sáng tác văn học (tạo ra thế giới nghệ thuật) thì sẽ thấy nguyên lý về sự khác biệt giữa hiện thực khách quan và thế giới nghệ thuật vẫn giữ nguyên hiệu lực. Tác giả có thể không bộc lộ toàn bộ con người tiểu sử mà chỉ chọn những hành động, những tâm tư, cảm xúc, những hành vi nào đó của bản thân làm đối tượng biểu đạt đồng thời, vì một mục đích sáng tạo nào đó, gạt bỏ hành động, việc làm khác tuy có thực ở tác giả, không đưa vào thế giới nghệ thuật của sáng tác, không dùng chúng như chất liệu xây dựng hình tượng cá thể của mình. Có nhà thơ không yêu, không có vợ, song làm thơ về tình yêu thật tha thiết, đắm say và ngược lại, không phải nhà thơ nào cũng đưa tình yêu của riêng mình vào thơ. Trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, các tác giả thường cố gắng đưa vào thơ không gian chiến trận, súng đạn, tiếng còi tàu gọi lên đường, thậm chí muốn ôm hôn người yêu mang súng trên vai, điều không nhất thiết có thực với con người tiểu sử. Lại có nhà thơ không hề có mặt ở Điện Biên Phủ mà vẫn viết những vẫn thơ vào loại hay nhất về chiến thắng này.    

Một vấn đề lý luận nữa cần chú ý khi đọc tác phẩm là mối quan hệ giữa tư tưởng và ngôn từ. Ngôn từ có chức năng chuyển tải tư tưởng, song không phải bao giờ ngôn từ cũng đủ để biểu hiện tư tưởng của tác giả. Một tư tưởng mới có khi vẫn bị khuôn trong hệ thống ngôn từ và biểu tượng cũ. Hệ từ vựng mà một tác giả sử dụng khi đã tồn tại trong một thời gian nhiều thế kỷ –nhất là ở thời trung đại – có thể trở nên sáo mòn,  không phản ánh được đầy đủ những nét riêng ở một tác giả, không đáp ứng được nhu cầu biểu hiện của tác giả. Khi đó nếu chỉ dựa vào nghĩa từ điển của các từ ngữ được sử dụng sẽ không thể hiểu đúng con người nghệ thuật trong văn bản tác phẩm. Khi đó có thể xuất hiện hệ từ vựng mới hoặc phá vỡ nghĩa của từ vựng cũ.

                                                   *         

Nói về thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ, từ góc độ ngôn ngữ nghệ thuật, có thể bắt gặp con người  “hành lạc” với “cầm kỳ thi tửu”, “gió trăng”, “chí nam nhi”, “công danh”, “trời đất”, “núi sông”, “nợ tang bồng”, “trung hiếu” là những khái niệm thuộc về mã văn hóa của nhà nho, của văn nhân, trí thức thời trung đại nói chung đã tồn tại hàng ngàn năm cho đến Nguyễn Công Trứ mà Nguyễn Công Trứ kế thừa. Hay nói như lý thuyết liên văn bản, giữa các văn bản có sự gặp gỡ của nhiều khái niệm, phạm trù, có ảnh hưởng qua lại của văn bản xuất hiện trước đối với văn bản xuất hiện sau. Đề cập đến hành  lạc với cầm, kỳ, thi, tửu không phải chỉ có trong thơ và hát nói Nguyễn Công Trứ mà có thể gặp trong sáng tác của nhiều tác giả trung đại khác như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, tất nhiên ở các mức độ đậm nhạt khác nhau. Cuộc đời hoạt động không biết mệt mỏi trên nhiều lĩnh vực và những sáng tác của Nguyễn Công Trứ viết về chí nam nhi cũng không cho phép nhận xét quan niệm tài tử lơ đãng với kinh bang tế thế (hành đạo) mà thiên trọng về văn học, vui sống cầu kỳ. Thưở thiếu thời nghèo khó không cho phép ông “sống cầu kỳ”. Khi ra làm quan, một người như Nguyễn Công Trứ được vua Minh Mạng gọi bằng danh từ “nho tướng”, với cuộc đời hoạt động trên đủ mọi lĩnh vực, trải rộng trên các vùng không gian rộng dài của đất nước và được sử sách chép nhiều nhất, không cho phép định danh là lơ đãng với hành đạo được. Thơ hát nói, thơ Nôm của Nguyễn Công Trứ tràn đầy các ngôn từ hành động “công nghiệp”, nợ công danh”, “chí nam nhi”, “tang bồng hồ thỉ”, “chẳng lẽ tiêu lưng ba vạn sáu”…đồng tồn tại với các ngôn từ chỉ hành lạc cũng tràn ngập trong sáng tác của ông.

Khi đọc thơ và thơ hát nói của Nguyễn Công Trứ, người đọc hiện đại dễ mắc vào những cái bẫy ngôn từ vốn do đặc điểm của ngôn ngữ văn học trung đại tạo ra, nhất là những ngôn từ đã thành “mẫu gốc”, đồng thời, dễ bỏ qua ranh giới giữa văn bản tác phẩm  như là một thế giới nghệ thuật và thế giới hiện thực.

Trường hợp Nguyễn Công Trứ đặt ra những vấn đề thú vị cho lý thuyết tiếp nhận văn học trung đại.

                                         *

          Như trên đã nói, khái niệm “thế giới nghệ thuật” được dùng để chỉ thế giới nội tại của văn bản tác phẩm và phân biệt với thế giới thực tại khách quan. Văn học phản ánh hiện thực; con người tác giả trong sáng tác có quan hệ như thế nào đó với con người thực ngoài đời song không phải là một; thế giới khách quan với không gian, thời gian được hình tượng hóa chứ không được bê nguyên si vào sáng tác. Nhà văn không thể bê nguyên si thế giới hiện thực khách quan bề bộn, ngổn ngang vào thế giới nghệ thuật vốn bị hạn định về thể loại, về ngôn ngữ. Thế giới nghệ thuật là thế giới hiện thực khách quan đã được tác giả lựa chọn, xếp đặt lại, tái cấu trúc theo một định hướng, một chủ đích sáng tác nhất định của tác giả.          

Nhà nho là mẫu người “tu kỷ, trị nhân” nên không khó hiểu khi họ chủ trương làm thơ để phát biểu “chí” (thi ngôn chí). Không thuộc loại nhà văn chuyên nghiệp sống bằng nhuận bút như tác giả văn học thế kỷ XX, mà thuộc kiểu người hoạt động chính trị -xã hội trong một xã hội vận hành theo mô hình đức trị phát biểu, nhà nho nói “chí” là nói những hoài bão chính trị -xã hội ấp ủ trong chiều sâu nội tâm.  Nhà nho thường bộc lộ hai nội dung cảm xúc chủ đạo :1) trách nhiệm với đời, với dân, nước của một con người có lý tưởng đạo đức và nhân cách cao quý (tinh thần tự nhiệm) và 2) quan niệm về một nền chính trị theo mô hình đức trị.

Để phục vụ cho việc nói chí, lịch sử văn học nhà nho từ xa xưa đã xây dựng cho mình một hệ thống các biểu tượng và các khái niệm riêng như là các mẫu gốc. Các biểu tượng không gian như trời đất, vũ trụ, giang sơn (núi sông, non nước), vũ trụ, càn khôn, bốn bể, Nam Bắc Đông Tây …  có ý nghĩa định vị cao quý cho chủ thể nam nhi, nam tử, anh hùng, trượng phu, quân tử -con người với chí nam nhi, nợ công danh, công nghiệp, nợ quân thân, nợ tang bồng, kinh luân, kinh thiên động địa, gươm đàn,  với các phẩm đức trung hiếu, ưu ái, quân thân rất cần cho một xã hội thái bình thịnh trị. Như đã nói ở trên, có thể dùng lý luận về tính liên văn bản để hình dung điều này. Mặt khác, qua các thời đại khác nhau, soi vào từng tác giả nhà nho khác nhau, trong tình huống sáng tác khác nhau (ví dụ văn khoa cử), nội hàm các khái niệm trên cũng có thể biến đổi và đến một lúc nào đó, có thể trở thành những cái vỏ ngôn từ rỗng nghĩa hoặc xuất hiện những hàm nghĩa mới. Khổng Tử từng phân biệt hai khả năng : hữu đức giả tất hữu ngôn, hữu ngôn giả bất tất hữu đức (người có đức tất có tài ăn nói, người có tài ăn nói vị tất đã có đức). Mối quan hệ giữa phẩm chất bên trong và biểu hiện ra bên ngoài bằng ngôn ngữ không đơn giản một chiều. Hai thứ thơ khẩu khí và thơ khoa cử khá phổ biến thời trung đại là bằng chứng cụ thể. Thoạt nhìn, hai loại thơ này có dấu hiệu điển hình của thơ nói chí. Những ngôn từ, biểu tượng nói chí ở đó không khác với thơ nói chí thông thường nhưng chúng trống rỗng, nói như lời cổ nhân, không có phong cốt, không được bảo lãnh bằng hành động thực tế của tác giả, tức là không chân thực, mà chỉ dừng lại ở nghệ thuật ngôn từ, do kết quả của một quá trình đèn sách, luyện tập viết nhiều thơ văn khoa cử.     

Vì thế, khi đọc sáng tác của một tác giả trung đại và có lẽ cả tác giả hiện đại, điều lý tưởng nhất là có nhiều thông tin xác thực về tiểu sử  tác giả phục vụ cho sự đối chiếu sáng tác phục vụ cho công việc đối chiếu. Lý thuyết về cái chết của tác giả hoàn toàn không phù hợp với kiểu tác giả nhà nho và sáng tác nói chí của họ trong văn học trung đại Việt Nam. Thông tin về tiểu sử tác giả trong trường hợp Nguyễn Công Trứ đã cấp cho độc giả thế kỷ XXI một hình dung cụ thể về nội hàm các khái niệm phổ biến cho thơ nói chí. Lấy khái niệm “nam nhi” (nam tử) làm ví dụ. Phạm Ngũ Lão (thế kỷ XIII-đầu thế kỷ XIV), Phùng Khắc Khoan (thế kỷ XVI-đầu thế kỷ XVII), Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ (thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX) và Phan Bội Châu (cuối thế kỷ XIX-đầu thế kỷ XX) đều dùng từ “nam nhi” (nam tử) để hình dung mẫu hình nhân cách nhà nho tự nhiệm, con người đứng giữa càn khôn, vũ trụ, giang sơn-không gian thiêng cấp khí cho những con người phi thường, lỗi lạc [v]. Tuy vậy, cuộc đời hoạt động hết sức phong phú, đa dạng, trải trên một vùng không gian đất nước rộng dài của Nguyễn Công Trứ đã cấp cho khái niệm “nam nhi” một nội dung phong phú, thực chất hơn cả, không phải vì Nguyễn Công Trứ phát biểu bằng nhiều bài thơ và thơ hát nói về nam nhi. Phạm Ngũ Lão là một võ tướng; Nguyễn Du chỉ là một người long đong lật đật hết ăn nhờ ở miền sông đến miền bể, không có tài liệu nào xác nhận ông có hoạt động về quân sự hay kinh tế; Phan Bội Châu là nhà nho duy tân mải miết đi tìm đường cứu nước trong bối cảnh mới. Nguyễn Công Trứ hoạt động trên hầu như tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ chánh chủ khảo trường thi, tiễu phỉ, dẹp loạn (quân sự), làm doanh điền sứ (lãnh đạo khai khẩn đất hoang) và các tư tưởng xây dựng xã hội như : tấu sớ về nạn cường hào, về trị thủy sông Hồng. Không gian ước lệ mang tính biểu tượng như trời đất, giang sơn, càn khôn và các quan niệm giá trị sống có tính ước lệ nợ công danh, phải có danh gì với núi sông khi soi vào cuộc đời hoạt động của Nguyễn Công Trứ có những nội dung thực tiễn rất khác với vẫn những từ ngữ đó soi vào cuộc đời của các tác giả khác[vi]. Những khái niệm ước lệ mòn sáo hàng ngàn năm không thể giúp cho người đọc chỉ dựa vào văn bản mà hiểu hết con người tiểu sử của tác giả. Lịch sử văn học Việt Nam đã chứng kiến nhiều trường hợp khi con người và tư tưởng đòi hỏi đổi mới nhưng ngôn từ không kịp thay đổi tương ứng[vii]. Nguyễn Công Trứ đã “điền” vào những khái niệm phổ biến của văn chương nhà nho nội dung riêng, bằng chính cuộc sống của mình. Nếu ta liên hệ với con người tiểu sử tác giả, có thể thấy khái niệm “chí nam nhi” ở Nguyễn Công Trứ bao gồm không thuần túy là nhà nho lập công danh sự nghiệp theo “tam bất hủ” –lập đức, lập công và lập ngôn. Bàn về trị thủy sông Hồng, thực hiện chiến lược khai khẩn đất hoang, làm quan chủ khảo trường thi … dường như không có quan hệ nào với “chí nam nhi” theo cách hiểu thông thường. Những khái niệm mòn sáo như “vũ trụ”, “bốn bể”, “trời đất” của nhà nho hàng ngàn năm vốn dùng để hình dung không gian hoạt động của nhà nho khó có thể bao quát được không gian hoạt động hiện thực của Nguyễn Công Trứ suốt từ Hà Giang, Thái Nguyên, Hải Dương, Quảng Yên (Quảng Ninh), qua Hà Nội, Thừa Thiên, Quảng Ngãi đến An Giang, trong rất nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, kinh tế, quân sự, văn hóa khác nhau. Những khái niệm mòn sáo đó không thể chuyển tải đúng, đủ những nỗ lực, những gian khó, những thử thách, những hiểm nguy do núi cao, vực sâu, sông rộng, biển dữ mà Nguyễn Công Trứ trải qua trên các hành trình từ núi đến đồng bằng, biển cả.  Như để bù lại cho thiếu hụt của hệ ngôn từ truyền thống, ông đã cố gắng sử dụng tối đa thể thơ hát nói, một thể thơ chơi, viết cho ả đào hát, có tính chất phóng khoáng tự do, như để tăng thêm tính loại biệt, tính khác thường cho chí nam nhi và con người vũ trụ mà thơ Đường luật kể cả Hán hay Nôm không thể chuyển tải. Vòng trời đất dọc ngang ngang dọc/ Nợ tang bồng vay trả trả vay/ Chí làm trai nam bắc đông Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể. Ở đây có vấn đề về quan hệ giữa nội dung và hình thức thể loại. Chế Lan Viên đã từng nêu ý kiến sâu sắc:  “Một số thơ dùng thể cũ để nói lên chất liệu mới, nội dung mới. Cần chống xu hướng modec theo kiểu lai căng, lại cần chống dân tộc theo kiểu hình thức. Tôi cho là đố ai dùng 6/8 (lục bát) mà đưa được chữ chất độc da cam vào cho khỏi khiên cưỡng. Yếu tố mới đòi phá vỡ khuôn khổ cũ”[viii].  Nhưng thể thơ hát nói tuy có nhịp điệu khác lạ so với thơ Đường luật vẫn không diễn tả hết được nội hàm của danh xưng “nho tướng” mà vua Minh Mạng dùng để gọi Nguyễn Công Trứ vì hệ thống ngôn từ cũ về cơ bản vẫn không thay đổi [ix]. Làm sao mà “trời đất”, “bốn bể”, “dọc ngang”, “tung hoành”, “vẫy vùng”… lại có thể gợi cho người đọc hình dung đầy đủ một con người vừa xông pha trận chiến, lại vừa khai hoang lập ấp và chủ khảo trường thi. Như để bù lại cho sự bất lực của hệ từ vựng truyền thống, để hiểu con người Nguyễn Công Trứ trong sáng tác, giới nghiên cứu hướng đến tiểu sử tác giả. Lê Thước đã chú ý đến giai thoại và sử liệu đời Nguyễn về Nguyễn Công Trứ [x]; nhà sử học Mai Khắc Ứng và gần đây nhất là nhà nghiên cứu Đinh Văn Niêm đã công phu lọc từ toàn bộ sử liệu viết về Nguyễn Công Trứ-một nhà văn được sử sách đương thời nhắc đến nhiều nhất, nhờ đó, người đọc thế kỷ XXI dễ dàng hình dung thế nào là quan niệm “nam nhi” ở tác giả văn học này, một quan niệm mà liên văn bản “nam nhi” không thể giải thích nổi vì nghĩa của “nam nhi” được định nghĩa bởi chính cuộc đời hoạt động của mỗi tác giả sử dụng nó. Nếu chỉ dựa vào nghĩa từ điển của “nam nhi” mà không đối chiếu với tiểu sử tác giả thì không thể hiểu đầy đủ sáng tác của Nguyễn Công Trứ[xi].  Nói tóm lại, tiểu sử tác giả và ngôn từ văn bản là hai thực thể riêng biệt song giữa chúng có mối quan hệ qua lại mật thiết. Việc đối chiếu con người tiểu sử và con người nghệ thuật trong trường hợp Nguyễn Công Trứ đã cho thấy ngôn ngữ và thể loại dù đã được ông cách tân của văn học trung đại đã không theo kịp con người tiểu sử.  Đối chiếu con người tiểu sử như là một tham khảo cần thiết đã giúp chúng ta, những hậu thế cách ông hơn hai thế kỷ không chỉ nhận thấy tính cách mạnh mẽ, khỏe khoắn của kiểu nhà nho Nguyễn Công Trứ mà còn cảm thông, thấu hiểu gian khổ, khó khăn, thử thách đã dồn lên ông, để từ đó trân trọng hơn, trân trọng đúng những cống hiến, hy sinh, thiệt thòi của ông cho dân cho nước trong lòng một xã hội phong kiến chuyên chế.

                                                   *

Trong sáng tác, Nguyễn Công Trứ xây dựng hình ảnh một kẻ hành lạc đậm nét đến mức Nguyễn Bách Khoa đã cho rằng Nguyễn Công Trứ lơ đãng với công danh, với kinh bang tế thế. Nguyễn Công Trứ không chỉ chơi “cầm kỳ thi tửu”, mà lại còn “đối mặt hoa mà cầm mà kỳ mà tửu mà thi” đến mức có nhà nghiên cứu qui kết ông là kẻ sắc dục, đồi trụy[xii]. Những tiếng ngợi ca và phê phán Nguyễn Công Trứ đều ồn ào. Nhưng trong cách đọc hiện nay, vẫn có sự đồng nhất con người tiểu sử và con người nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ vốn rất cần phân biệt. Nếu Nguyễn Công Trứ trong đời thực có cuộc sống trụy lạc thì chắc chắn ông không được nhân dân kính cẩn lập sinh từ (đền thờ ngay khi ông còn sống), hàng chục làng ở Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình thờ ông làm thành hoàng làng[xiii] và được Minh Mạng gọi là nho tướng. Con người trụy lạc đó chỉ là một hư cấu nghệ thuật mang một chủ đích của tác giả hơn là một con người thực.

Nội dung của “hành lạc” được diễn đạt bởi nhân vật phát ngôn (speaker) trong sáng tác Nguyễn Công Trứ có thể qui về cầm, kỳ, thi, tửu với điểm nhấn là sự tô đậm nữ sắc. Ai cũng biết, cầm, kỳ, thi, tửu (cầm, kỳ, thi, họa) là thú chơi tao nhã của trí thức nho sĩ và được đưa vào thơ ca như một thứ biểu tượng đánh dấu kiểu người trí thức xưa. Nguyễn Trãi viết Dắng dỏi bên tai tiếng quản huyền/Lòng xuân nhẫn động ắt khôn thìn (Tích cảnh thi, 201). Những từ ngữ hoa nguyệt, xuân xanh, lòng xuân trong thơ Nguyễn Trãi như gợi ý sự rung động trước âm nhạc và có thể cả thanh sắc của người biểu diễn. Có thể bài ca trù cổ nhất hiện còn là bài Nghĩ hộ tám giáp giải thưởng hát ả đào do Lê Đức Mao viết cuối thế kỷ XV, song giới quan lại, nho sĩ trí thức từ trước đó như Nguyễn Trãi  đã sống trong không gian giải trí nghệ thuật tương tự. Nguyễn Du tiết lộ thú nghe đàn hát qua Long thành cầm giả ca. Nguyễn Khuyến có một lần tiết lộ rằng ông cùng bạn Dương Khuê đi hát ả đào Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang. Tuy nhiên, trò chơi thanh sắc bị cái nhìn chính thống miệt thị (ả đào là hạng xướng ca vô loài) nên dẫu có chơi, nhiều trí thức nho sĩ hạn chế phô phang, nghĩa là chủ trương lược bỏ hoạt động nghệ thuật và chơi ngoài đời đó, không đưa vào sáng tác. Phạm Đình Hổ còn thú nhận nghe thấy nói đến thanh sắc, cờ bạc là bịt tai[xiv] tuy trong tập Đông Dã học ngôn thi tập ông có bài thơ Cựu ca cơ nhắc đến cô đào nào đó ở giáo phường Chức Cẩm từng biểu diễn trong cung đình tại Thăng Long. Một khi nhà nho coi ả đào, ca nhi là xướng ca vô loài, dĩ nhiên, không hay ho gì việc khoe khoang hát xướng, nếu có đi hát cũng cần giấu đi, hay hạn chế đưa vào thơ, hát nói. Nguyễn Du chỉ hé lộ trong thơ một lần việc ông từng nhiều lần tham dự các buổi hòa nhạc của cô Cầm trong cung đình (Long thành cầm giả ca). Có khi từng gác cheo leo/ Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang -đó là tiết lộ của Nguyễn Khuyến về việc ông một lần đi hát nhân Khóc Dương Khuê- khóc một tác giả viết hát nói nổi tiếng. Trong khi đó, Nguyễn Công Trứ dường như lại cố ý nói to lên, tô đậm thêm cái thú hát xướng, nhấn mạnh đây là thú tài tình-thưởng thức tài đàn hát và thể nghiệm tình ái với các ả đào Khi đắc ý mắt đi mày lại/Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng. Nguyễn Trãi từng lưu ý Sắc là giặc đam làm chi. Nguyễn Công Trứ không những ca ngợi tài tình mà còn cố ý nói to lên trong sáng tác như muốn phô phang chuyện lấy vợ lúc đã vào tuổi xưa nay hiếm Tân nhân dục vấn lang niên kỷ/ Ngũ thập niên tiền nhị thập tam (Người mới hỏi chàng bao nhiêu tuổi/ Năm mươi năm trước đây ta hai mươi ba tuổi). Đi xa hơn, người đọc ở thế kỷ XXI còn gặp tư thế “ngất ngưởng” trong Bài ca ngất ngưởng của ông, trong đó Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì/Bụt cũng nực cưởi ông ngất ngưởng. Nhà nho này trong sáng tác không còn là con người nhà nho ngoài đời trọng “lễ” mà Khổng Tử từng dạy “xuất môn như kiến đại tân, sử dân như thừa đại tế” (ra khỏi cửa như đi gặp một vị khách quan trọng, sai khiến dân cẩn trọng như tiến hành tế lễ lớn). Ngất ngưởng mang tinh thần phá chấp, thể hiện một thái độ coi thường lễ nghi trang trọng, phiền phức của xã hội Nho giáo.

Chúng tôi từng lý giải rằng đó là biểu hiện của sự trung thực mà Nguyễn Công Trứ luôn đề cao. Tuy nhiên, nếu phân tích mối quan hệ giữa Nguyễn Công Trứ và triều Nguyễn, đặc biệt với vua Minh Mạng thì các tài liệu thuộc tiểu sử cho thấy có một hướng giải thích khác khả thủ hơn.

Lịch sử cho hay, đối với các triều đại chuyên chế, nguy cơ bị lật đổ hoặc thoán đoạt  từ phía những công thần tài năng, đức độ khiến các bậc đế vương luôn nghi kỵ, cảnh giác. Biết Nguyễn Công Trứ là bậc hiền tài, vua Minh Mạng chọn cách đối xử bằng ân uy. Nhà nghiên cứu Lê Thước từng nhận xét rằng ân thì mọn mà uy thì toàn uy lớn và những lần triều đình giáng chức ông đều oan sức hoặc quá nặng. Có khi vua ban thưởng, có khi gửi  cả vàng cho Nguyễn Công Trứ tiêu pha nhưng cũng nhiều phen giáng chức vì các lý do khác nhau. Nguyễn Công Trứ được dân vùng khẩn hoang lập đền thờ sống (sinh từ, năm 1852)[xv] thì làm sao ông có thể tránh khỏi bị nghi ngờ : có giai thoại kể rằng Nguyễn Công Trứ đã phải ứng khẩu bịa ra đôi câu đối về cái phản để kể cho vua nghe như một cách khéo léo oán trách Minh Mạng Đem thân cho thế gian ngồi/Rồi ra lại nói những lời bất trung [xvi] (câu đố này ngụ ý cái phản, vừa để ngồi nhưng lại bị gọi là “phản”, một cách chơi chữ). Đã có tài, lại có đức, Nguyễn Công Trứ không thể yên thân nếu không có minh triết bảo thân. Cách giữ mình tốt nhất có lẽ là qua sáng tác văn chương xây dựng hình tượng một con người nghệ thuật có vẻ kém đạo đức, ngông nghênh, trụy lạc, tương tự như mẹ Mốc của Nguyễn Khuyến sau này Tấm hồng nhan đem bôi lấm lòa xòa/ Làm thế để cho qua mắt tục . Do đó, con người nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Công Trứ được trình bày như một kẻ kém đức, ít lễ: ngất ngưởng khinh bạc, ham mê nữ sắc, hành lạc bao gồm sắc dục…điều mà nhiều nhà nho thuộc các thế hệ tránh biểu lộ trong sáng tác. Trình diễn một con người không mẫu mực, không chân chỉ, bằng cách đó, dường như Nguyễn Công Trứ có dụng ý đem lại sự yên tâm cho Minh Mạng vốn luôn mang một mối nghi ngờ về khả năng làm phản của những bề tôi tài năng. Đó là minh triết bảo thân trong xã hội chuyên chế. Không nhất thiết phải theo đường mòn quen thuộc, xây dựng một hình tượng ẩn sĩ lánh đục tìm trong, để bảo thân và giữ vững nhân cách, có một phương án khác mà Nguyễn Công Trứ đề nghị và thực hành: xây dựng một hình tượng đa dục, ngông nghênh, ngang tàng, ít đức theo cách nghĩ thông thường. Đó là diễn ngôn chính trị của nhà thơ mà hậu thế chúng ta cần nắm bắt.  

                                         *

Sáng tác của một nhà nho trung đại như Nguyễn Công Trứ cho thấy, cần vận dụng lý luận liên văn bản và lý thuyết tiếp nhận cho văn học trung đại Việt Nam một cách linh hoạt, sáng tạo. Điều quan trọng là cần phân biệt con người tác giả tiểu sử và con người nghệ thuật trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Công Trứ. Trong sáng tác của ông, các khái niệm xoay quanh chí nam nhi, quanh hưởng lạc cần được xem xét như là một “diễn ngôn”, chúng chỉ có thể hiều đúng khi ta đối chiếu chúng với cuộc đời (tiểu sử tác giả ) và so sánh với các tác giả khác. Vấn đề chủ đích của tác giả, về chỗ riêng, độc đáo của tác giả khi xây dựng thế giới nghệ thuật của mình không thể giải quyết nếu chỉ dựa vào văn bản mà thiếu liên hệ với tiểu sử. 

Trần Nho Thìn, GS TS - Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

Nguồn: Tạp chí Lý luận phê bình Văn học - Nghệ thuật, số 5/2019


Chú thích:

[i] ) Nhà nghiên cứu Đinh Văn Niêm đã thống kê  261 sự kiện liên quan đến Nguyễn Công Trứ do sử nhà Nguyễn ghi chép, công bố trong sách Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008. 

[ii] ) Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ , chuyển dẫn theo  Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008. 

[iii] ) Nguyễn Bách Khoa, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ , chuyển dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008, tr. 496-503.

[iv] ) Nguyễn Bách Khoa, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ , chuyển dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008, tr. 524-525.  

[v] ) -Phạm Ngũ Lão Nam nhi vị liễu công danh trái (Thuật hoài-Công danh nam tử còn vương nợ)

     -Phùng Khắc Khoan Nam nhi tự hữu hiển dương sự (Tự thuật, Nam nhi phải có sự  nghiệp làm vẻ vang cho cha mẹ)

     -Nguyễn Du Loạn thế nam nhi tu đối kiếm (Lưu biệt Nguyễn Đại Lang, Trai thời loạn nhìn thanh gươm mà thẹn)

­     -Nguyễn Công Trứ, Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái (Chí nam nhi-Lập công danh là món nợ của nam nhi)

    -Phan Bội Châu Sinh vi nam tử yếu hy kỳ (Xuất dương lưu biệt, Làm trai phải lạ ở trên đời).

Về không gian thiêng theo vũ trụ luận cổ đại phương Đông, xin xem Trần Nho Thìn, Phương pháp tiếp cận văn hóa trong nghiên cứu, giảng dạy văn học, NXB Giáo dục, 2018, tr. 131-132.  

[vi] ) Trích biên niên sử đời Nguyễn Đại Nam thực lục ghi một số hoạt động của Nguyễn Công Trứ

Các hoạt động đa dạng của Nguyễn Công Trứ theo biên niên sử Đại Nam thực lục Đại Nam chính biên liệt truyện. Đinh Văn Niêm tổng hợp in trong Nguyễn Công Trứ theo dòng lịch sử, sách đã dẫn.

­

-Tháng 1/1826 (Minh Mạng), Tham hiệp Thanh Hoa là Nguyễn Công Trứ tâu xin thân đem thủ hạ đi đánh bắt thổ phỉ (Lê Duy Lương); tháng 2 đánh bắt bọn Ninh Đăng Tạo thuộc các huyện Nghệ An-Thanh Hóa. Tháng 6 dẹp xong. Vua ban khen, tháng 12 Nguyễn Công Trứ được gia hàm Thị Lang quyền biện Hình tào Bắc thành.

-1827: tháng 2 tham gia đánh dẹp Phan Bá Vành ở Trà Lũ, Nam Định; tháng 3 : được làm Tả Thị lang Hình bộ; tháng 7 triệu về Kinh (Huế)

-1928, tháng 2: Tả Thị lang Lễ bộ Nguyễn Công Trứ làm Tả Thị lang Hình bộ, vẫn kiêm chức Toản tu, tiếp tục biên soạn Bách ti chức chế; tháng 3 lĩnh chức Dinh điền sứ, dâng sở bàn ba việc quản trị nông thôn. Tháng 9 lại dâng sớ xin trừ tệ cường hào; tháng 10 đặt huyện Tiền Hải, nơi trước đây, bọn cướp hay tụ tập, nay Nguyễn Công Trứ đến nơi, chiêu tập phủ dụ lòng người mới yên;

-1829: bắt đầu đặt huyện Kim Sơn, Nguyễn Công Trứ lĩnh Dinh điền sứ, định qui ước cho các làng mới lập.

-1830: tháng 5, Thự Tham tri Hình bộ Nguyễn Công Trứ tâu xin đưa các tù phạm đến khai khẩn vùng đất Hà Tiên, bị vua bác.

-1831: tháng giêng, Thự Hữu Tham tri Hình bộ Nguyễn Công Trứ bị phạt giáng chức Tri huyện Kinh huyện vì bảo cử Phí Quý Trại.

-1832 : tháng 3, được làm Viên ngoại lang Nội vụ phủ; tháng 3 thăng làm Thự Lang trung; tháng 5; thự Bố chính Hải Dương, tháng 8, làm Bố chính Hải Dương; tháng 9 làm Tuần phủ Hải Dương rồi Thự Tổng đốc Hải Yên, xin đi tiễu phỉ từ Trung Quốc, vua khen chí khí; tâu xin cho khẩn hoang ở Quảng Yên, vua chuẩn y.

-1833: Thự Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ xin cầm cờ tiết đi đánh dẹp vùng Sơn-Hưng, vua sai bộ Lễ truyền chỉ ban qướ; tháng 6, do công dẹp giặc ở Hải Dương, được khôi phục hai cấp bị giáng trước; tháng 8: Thự Tổng đốc Hải –Yên Nguyễn Công Trứ nhận lệnh đem binh đến Tuyên Quang hội với Tổng đốc Sơn-Hưng-Tuyên Lê Văn Đức đánh giặc  Nông Văn Vân. Nguyễn Công Trứ nhận chức Tham tán quân vụ.

-1834: tháng 8, bộ Hình tâu Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ hành quân chậm trễ, kết án tử hình. Vua dụ hãy tước hết mũ áo, đoạt hết lương bổng, giáng Lê Văn Đức 4 cấp, Nguyễn Công Trứ 3 cấp cho lập công chuộc tội.

-1835: tháng 3, giết được Nông Văn Vân, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ trước bị án hành quân chậm trễ phải tước mũ áo, nay được trả lại. Tháng 4, vua triệu các đại thần và Nguyễn Công Trứ về Kinh chầu, ban thưởng. Trong khi chờ đợi, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ  cứ ở lại Thái Nguyên ăn yến, xem hát chèo và làm các công việc đợi tháng 5 vào chầu. Tháng 6, Nguyễn Công Trứ dâng sớ xin đi quân thứ Gia Định, vua chưa sai đi; các bầy tôi có công được ban lễ bão tất (ôm gối vua); vua chính tay ban rượu. Vua phán “ Nguyễn Công Trứ xuất thân từ quan văn, thế mà ngày ngày làm được việc quân, nay đã ba năm, không ngại khó nhọc, kể cũng đáng khen. Vậy chuẩn cho một người con được tập ấm làm Hiệu úy vệ Cẩm y.  Tháng 10: Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ cùng Thự Tổng đốc Yên Định, Tuần phủ Hưng Yên đi xem xét sông, đê bàn về đào sông, đắp đê dòng sông Cửu An (nhánh sông Cái)

-1836, tháng 2 tiếp tục đào sông Cửu An ; tháng  9, Tổng đốc Hải -Yên Nguyễn Công Trứ tâu xin thay các Tú tài bằng Cử nhân làm chức Giáo thụ, Huấn đạo, vua không cho; tháng 11, Nguyễn Công Trứ điều trần về tệ xét xử hình ngục gây nhiều oan uổng.

-1837: tháng giêng tiếp tục đắp đê sông Cửu An, tháng 3, đê đắp xong, vua ban thưởng; tháng 5 triệu Tổng đốc Hải An về Kinh chầu, cùng vua bàn về phát thóc cho dân vay. Tháng 12, Nguyễn Công Trứ tâu xin cho khơi các nhánh sông Hồng, vua chuẩn y.

-1838: tháng 5, giáng Nguyễn Công Trứ hai cấp vì để cướp biển hoành hành. Tháng 9, Tổng đốc Hải Yên đem quân vây bắt giặc biển. Tháng 12, Nguyễn Công Trứ bị giáng một cấp vì vẫn để cướp biển hoành hành. Dựng bia võ công, bộ Binh chọn 20 người, trong đó có Nguyễn Công Trứ

-1839: tháng 6, giáng Tổng đốc Hải Yên Nguyễn Công Trứ xuống Hữu Tham tri bộ Binh vì không biết bắt giặc biển ở Quảng Yên; tháng 9, cho Nguyễn Công Trứ kiêm Tả Phó Đô ngự sử viện Đô Sát; tháng 10: Nguyễn Công Trứ cùng các quan làm Phó Đổng lý, dựng lầu rạp nhân khánh tiết.

-1840: tháng 7, phái Hữu Tham tri bộ Công Nguyễn Công Trứ nghiên cứu xây pháo đài Phòng Hải ở tỉnh Quảng Nam và thuyền đồng, súng, vẽ bản đồ dâng lên. Tháng 10, Hà Nội, Nam Định mở khoa thi Hương, sai Hữu Tham tri bộ Binh kiêm Tả phó Đô ngự sử viện Đô sát Nguyễn Công Trứ sung chủ khảo trường thi Hà Nội, tháng 11, thăng Thự Tả Đô ngự sử viện Đô sát. Nguyễn Công Trứ làm Tán lý cơ vụ ở Trấn Tây, xin đi đánh dẹp.

1841(Thiệu Trị 1): Tán lý Nguyễn Công Trứ kiêm Tham tán đại thần ở Trấn Tây. Tháng 5, Tán lý Nguyễn Công Trứ mật tấu về Cao Miên: dù lấy được nước ấy, đất nước đó không cày được, dân cũng không sai khiến được. Tháng 8 xin tạm rút quân về An Giang. Tháng 9, định tội  các tướng hiệu ở Trấn Tây, trong đó có Nguyễn Công Trứ, vào tội giảo giam hậu. Cách chức hàm Thự Tả Đô ngự sử kiêm Tham tri bộ Binh của Nguyễn Công Trứ nhưng cho quyền lĩnh Tuần phủ An Giang. Tháng 12, vua phê Nguyễn Công Trứ nhút nhát đóng quân ngồi giữ.

-1842: tháng Giêng, vua dụ Phạm Văn Điển, Nguyễn Công Trứ là bề tôi có tiếng đã lâu; tháng 2, vua sai Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Công Nhàn án ngữ sông Vĩnh Tế.

-1843: tháng Giêng, vua sai Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Công Trứ bàn việc phòng thủ ở hai tỉnh Vĩnh Long, An Giang. Bổ Nguyễn Công Trứ Thự Tham tri bộ Binh, vẫn lĩnh Tuần phủ An Giang. Tháng 10, Tổng đốc An-Hà Nguyễn Công Nhàn, Thự Tổng đốc Long Tường Nguyễn Tri Phương, lĩnh Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ tấu về việc đào sông Tân Châu ở An Giang.

-1844: Tỏng đốcAn –Hà Nguyễn Công Nhàn, Tuần phủ An Giang Nguyễn Công Trứ bị coi là đòi tiền bạc đút lót nên đều bị mất chức. Nguyễn Công Trứ còn bị Nguyễn Công Nhàn đàn hặc  mua tê giác, đậu khấu, cả hai người đều bị cách chức, đi hiệu lực. Nguyễn Công Trứ bị phát phối đi biên thùy tỉnh Quảng Ngãi.

-1845: tháng 9, Nguyễn Công Trứ được khôi phục làm Chủ sự bộ Hình quyền Viên ngoại lang, rồi đổi làm quyền Viên ngoại lang Đại lý tự.

-1846: tháng 7, cho Đại lý tự Viên ngoại lang Nguyễn Công Trứ tạm quyền Án sát Quảng Ngãi; tháng 9, cho quyền Án sát Quảng Ngãi là Nguyễn Công Trứ bổ thự Phủ thừa phủ Thừa Thiên; tháng 11 bị giáng cấp do tình hình trộm cắp ở Kinh thành.

-1847: Thăng Nguyễn Công Trứ lên Thự Phủ doãn Thừa Thiên; tháng 7 Thự Phủ doãn phủ Thừa Thiên Nguyễn Công Trứ lấy niên lệ xin về quê hưu trí. Vua qướ trách : Trứ trước đây không có công trạng gì ở ngoại biên, đến khi lui về tỉnh An Giang, không thi thố được kế sách gì, lại can việc tham tang riêng, án nghị phạt trượng và tội đồ, gia ân đổi cải thành án sung quân. Nghĩ là bề tôi cũ nên xóa dấu vết mà thu dụng, đến hàm bây giờ, thế mà không biết cảm kích, cam tự bỏ mình. Chuẩn cho cung chức như cũ. Tháng 9: Thự Phủ doãn Thừa Thiên Nguyễn Công Trứ sung chủ khảo trường thi Nam Định.

-1848 (Tự Đức 1): Sai Kinh doãn Nguyễn Công Trứ cầu đảo ở miếu Hội đồng, sau được mưa nhỏ.

-1849: tháng 10, 8 viên Chánh tam phẩm trong đó có Phủ doãn Nguyễn Công Trứ 71 tuổi, nghỉ hưu, cho mỗi người 80 quan tiền.           

[vii] ) Khi kháng chiến chống Pháp mới diễn ra, Chính Hữu viết bài thơ Ngày về  (1947) từng viết Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa/Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng/Những chàng trai chưa trắng nợ anh  hùng/ Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm/ Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa . Các từ ngữ diễn tả anhhùng, con người vũ trụ kiểu truyền thống của văn học trung đại  như trời đất, nợ anh hùng, mười phương  không diễn tả đúng tinh thần và bản chất của người lính vệ quốc kiểu mới. Nhưng một hệ thống từ vựng mới của văn học cách mạng đang dần hình thành. Đến bài Đồng chí (1948)Chính Hữu đã tìm được một hệ thống từ vựng thích hợp để khắc họa hình ảnh người lính vệ quốc Quê hương anh nước mặn đồng chua/ Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá…Áo anh rách vai/ Quần tôi có vài mảnh vá/ Miệng cười buốt giá/ Chân không giày...

[viii] ) Dẫn theo Hà Minh Đức, Chế Lan Viên người trồng hoa  trên  đá, NXB Văn học, 2010, tr. 214.

[ix] Nho tướng : Nho tướng ( 儒将). Năm 1840, Minh Mạng sai Thự Tả Đô Ngự sử viện Đô sát Nguyễn Công Trứ làm Tán lý cơ vụ ở Trấn Tây, cùng Kinh lược Phạm Văn Điển, Nguyễn Tiến Lâm đem quân đi đánh giặc, cho đứng dưới Tiến Lâm. Đại Nam thực lục chính biên chép “Trứ thấy bọn thổ phỉ ở Trấn Tây xui giục khởi loạn, việc đánh dẹp vỗ yên có nhiều ngả, tự xin đi để giúp việc, tùy việc chia sức khó nhọc, nên có mệnh ấy. Khi vào từ biệt trước thềm  để đi, vua dụ bảo trước mặt rằng : “Bọn Phạm Văn Điển, Nguyễn Tiến Lâm, không lo là không mạnh, chỉ lo không có mưu, mà trong quân có văn viên tứ phẩm là Đinh Văn Huy, bàn bạc việc quân, sợ hoặc chưa trùng khớp. Khanh là nho tướng, việc quân lữ vốn đã quen thạo, cốt nên cùng nhau đắn đo cơ nghi, sớm được thành công lớn để xứng với ủy nhiệm”.

[x] Lê Thước (1928), Sự nghiệp và thi văn của Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ, Hà Nội, Lê Văn Tân xuất bản.

Mai Khắc Ứng (2001), Tư liệu về Nguyễn Công Trứ, Sở Văn hóa Thông tin Hà Tĩnh. (đưa ra 200 sự kiện liên quan Nguyễn Công Trứ từ Đại Nam thực lục chính biên).

Đinh Văn Niêm (2008),  khảo Đại Nam thực lục chính biên ghi chép 261 sự kiện về Nguyễn Công Trứ (in trong  Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Đoàn Tử Huyến chủ biên, NXB Nghệ An-Trung  tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2008,  tr. 305-453).    

[xi] ) Từ điển tiếng Việt (2003) “Nam nhi: đàn ông, con trai, thường nói về mặt có chí khí, có tính cách mạnh mẽ”( Viện Ngôn ngữ học- NXB Đà Nẵng, tr. 656).

[xii] ) Nguyễn Nghiệp nhận xét : “Cái thú sắc dục có mang tính chất đồi trụy đó Nguyễn Công Trứ đã công khai phát triển trong khá nhiều  trong khá nhiều câu thơ của ông” (Những nhân tố gì đã tạo nên mâu thuẫn trong tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nghiên cứu văn học, số 5/1962).

[xiii] ) Dựa vào Thư mục thần tích, thần sắc lưu trữ tại Viện thông tin khoa học xã hội, nhà nghiên cứu Nguyễn Hoài Phương cho biết có 15 làng (1 ở Nam Định, 13 ở Thái Bình, 1 ở Ninh Bình) thờ Nguyễn Công Trứ làm thành hoàng, đều có sắc phong (Nguyễn  Hoài Phương , Nguyễn Công Trứ từ nhân vật lịch sử đến thần thành hoàng ở các làng xã vùng duyên hải Bắc Bộ, tham luận tại Hội thảo khoa học “Nguyễn Công Trứ với lịch sử, văn hóa Việt Nam” , Hà Tĩnh 24/11/2018 .

[xiv] ) “Có người đem những sách truyện Nôm và những trò thanh sắc, nghề cờ bạc, rủ rê chơi đùa, thì ta bịt tai lại không muốn nghe. Ta đã học vỡ được ít kinh sử, thế mà chữ Nôm ta không biết hết, câu ca, bản đàn thoảng qua ngoài rồi lại lờ mờ không hiểu gì cả” (Phạm Đình Hổ, Tự thuật, Vũ trung tùy bút, tr. 10)

[xv] ) Câu đối đề ở sinh từ thờ Nguyễn Công Trứ tại đền làng Đông Quách, Tiền Hải, Thái Bình : “Đắc địa sinh từ, Đông ấp nhất bách niên kỷ niệm/ Kình thiên trụ thạch, Hồng sơn thiên vạn cổ tề cao (Sinh từ đắc địa, làng Đông trăm năm kỷ niệm/ Cột đá chống trời, núi Hồng muôn thưở sánh cao). Câu đối tại đền thờ Nguyễn Công Trứ xã Lạc Thiện, Kim Sơn, Ninh Bình “Văn võ toàn tài, danh trọng nội triều ngoại quận/ Điền trù thực ngã, công cao Tiền Hải Kim Sơn (Văn võ toàn tài, danh nổi khắp trong triều ngoài quận/ Ruộng nương mở rộng, công cao nơi Tiền Hải Kim Sơn) (dẫn theo Nguyễn Công Trứ trong dòng lịch sử, Sách đã dẫn)

[xvi] ) Lê Thước đã kể giai thoại này  đầu tiên, dẫn theo giai thoại số 26 trong Nguyễn Công Trứ trong dòng thời đại, Sách đã dẫn.

 

Lịch sử thi ca Việt Nam nếu gọi thế kỷ thứ 18 như là thời kỳ biến đổi rực rỡ của văn chương Hán Nôm về thân phận con người với tên tuổi của Truyện Kiều Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc Nguyễn Gia Thiều thì có thể gọi thi ca thế kỷ 20 như là thời kỳ biển đổi thứ hai với cuộc cách mạng mang tên gọi phong trào Thơ Mới 1930 – 1945 có ý nghĩa mở ra một thời đại mới của thi ca chữ quốc ngữ, cùng với hành trình cách tân của phong trào thơ kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954 và phong trào thơ kháng chiến chống Mỹ 1955 – 1975 … Một thế kỷ không đứt đoạn để làm nên diện mạo của tâm hồn Việt Nam đầy bản sắc trong thi ca hiện đại. Phong trào thơ kháng chiến chống Pháp có 3 gương mặt trong nhiều gương mặt thi nhân tiêu biểu góp phần đổi mới thi ca ngay sau khi phong trào Thơ Mới vừa mới im tiếng nhạc. Họ là Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm và Chính Hữu. Cái mà họ đưa đến sự đổi mới là việc đưa ra và xác lập những sáng tác thơ tự do không vần, không theo kiểu truyền thống bằng cách riêng của mỗi người. Trong số họ, Chính Hữu là người ít lên tiếng nhất và đã lặng lẽ làm thơ tự do theo con đường của ông.

            Tại biên bản hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc diễn ra các ngày 25, 26, 27, 28 tháng 9/1949, các phiên tranh luận về thơ Nguyễn Đình Thi, những nhân vật nổi tiếng nhất, đang có ảnh hưởng lớn trên văn đàn đều dùng lời lẽ phản đối quyết liệt thơ tự do không vần. Từ Thế Lữ, Ngô Tất Tố, Thanh Tịnh đến Tố Hữu, Xuân Thủy, Xuân Trường v.v.. Số bênh vực thơ tự do không nhiều. Văn Cao, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng … Nhưng điều ngạc nhiên nhất, người phản đối mạnh mẽ nhất lại là Xuân Diệu, vốn được mệnh danh là nhà thơ số 1, nhà thơ mới nhất của phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu bảo Hồn thơ anh Thi chưa ổn. Nên câu thơ có chỗ lệch lạc. Khôn văn tế dại văn bia. Xuân Diệu không ngại điều đó. Ông viết thêm một bài văn bia dài mang tên Tiếng Thơ ngày 15-12-1949 đăng trên tạp chí Văn Nghệ số 19 tháng giêng 1950 khẳng định ước lệ thơ Việt Nam là vần và điệu. Nhưng dường như ông lại không phân biệt vần và điệu mà diễn giải nó có vẻ là một: Quần chúng Việt Nam đã có điệu lục bát thần tình, điệu bốn chữ, năm chữ, bảy chữ, bắt vần ở phần lưng, rất dễ đọc, dễ nghe, dễ làm thì quần chúng nhất định không chịu nghe những cái trò trí thức. Mấy chữ này được phép hiểu là thơ tự do không vần. Rằng không đếm xỉa đến tinh thần âm nhạc của tiếng Việt Nam. Chàng Chính Hữu của chúng ta lúc ấy, tính cả tuổi mụ mới 24. Còn như Trần Quốc Toản cầm quả cam đứng ngoài hội nghị. Nhưng cuộc giáp mặt giữa họ không phải chờ đợi lâu. Trên tạp chí Văn Nghệ số xuân 1950 – Chính Hữu không một lời phát biểu tranh luận đã cho đăng bài thơ Sáng hôm nay theo thể thơ tự do không theo vần điệu truyền thống. Xuân Diệu khai trương một bài mới toanh viết 1- 1950 có tiêu đề Xe đạp. Phần bất lợi trong thế so sánh thuộc về Xuân Diệu. Xe đạp của Xuân Diệu tỏ ra cũ kỹ không ngờ được cả trong cảm xúc và ngôn ngữ thơ. Đọc lên thật ngồ ngộ và tự dưng tôi thấy thương cho Xuân Diệu vô cùng. Nào là sỏi đá lộn vòng lăn chúm chím. Nào là trong lúc giặc điên cuồng hết thở, quân chính quy sắp sửa đội sao vàng. Chưa nói chuyện người ta bảo Xe đạp có vấn đề tư tưởng, sao lại gọi An toàn khu là U Tì Quốc ? Sáng hôm nay của Chính Hữu theo thể thơ tự do, nhịp trầm tĩnh mà không kém phần tha thiết. Ngôn ngữ thơ bình dị. Với cách mở đầu quê hương nhận tin thắng trận. Bình thản quá.

                        Quê ta lên khói cơm mùa

                        Ai hát tin về thắng trận

                        Bâng khuâng nắng nghiêng mái nhà.

            Từ sự mở đầu thanh thản như vô tư ấy, nhịp thơ bỗng chuyển tiếp sự phơi phới của tâm trạng, tràn đầy tin yêu và tự hào. Bọn chúng ta đi ồn ào lứa tuổi. Lớn lên trong nước Cộng hòa. Phấp phới trong lòng bao tiếng nói. Đồng xanh cỏ núi. Chân người thiết tha. Sáng hôm nay tạo ra nhịp thơ rõ ràng không theo truyền thống vần điệu như Xuân Diệu phân tích. Trước đó, Chính Hữu đã công bố Ngày về, Đồng chí Đêm sầu Hà Nội. Đồng chí đã quá nổi tiếng từ 1948 như là một ví dụ của thơ tự do, trước một năm khi có tranh luận ở Việt Bắc năm 1949. Trước đó nữa, vào hồi 1946 đã có Tình sông núi, Nhớ máu của Trần Mai Ninh, Đèo cả của Hữu Loan… Năm 1948 như là một dấu mốc đặc biệt của thơ tự do. Đồng chí - Chính Hữu. Nhớ - Hồng Nguyên. Bên kia sông Đuống - Hoàng Cầm. Bài ca vỡ đất - Hoàng Trung Thông … Cả hai phía ủng hộ và phê phán thơ tự do đều không để ý đến năm 1948 đã bắt đầu một cái gì đó khác trước, khác với phong trào Thơ Mới 1930 – 1945, với sự linh động về khẩu độ câu thơ làm nên một tiếng nói mới mẻ về nhịp thơ cùng với cảm xúc và ngôn ngữ thơ. Bài Đêm sầu Hà nội ra đời tháng chạp năm 1948 dường như là một thể nghiệm cho sự lựa chọn viết thơ theo những thể và nhịp truyền thống hay là thơ tự do. Ban đầu được in trên tạp chí Văn nghệ số 11-12 tháng 4, tháng 5 – 1949 là thể thơ truyền thống 5 chữ với 9 khổ thơ và 36 dòng thơ, thuộc loại trung bình. Không có ấn tượng gì đặc biệt. Sau đó được Chính Hữu sửa đổi sang thơ tự do với 3 lần thay đổi đầu đề. Đêm sầu Hà Nội. Đêm Hà Nội 1950 và cuối cùng là Đêm Hà Nội. Vào năm 1966, sau 27 năm, bài thơ có diện mạo thơ tự do đưa đến hiệu quả thẩm mỹ hoàn toàn khác, như một biểu hiện cho sự kiên trì của một khuynh hướng sáng tác. Đêm Hà Nội thoát khỏi lốt cũ đến nỗi không còn dấu tích của bài thơ xưa. Nó là một bài thơ mới với những câu thơ được gạn lọc bởi một cảm xúc tinh tế và nhịp thơ trầm tĩnh, một nhịp tâm trạng đặc trưng Chính Hữu. Đêm Hà Nội buốt tê. Mái buồn nghe sấu rụng. Nhìn ra cửa ô bóng những con đê. Ầm ì tiếng súng

            Việc xác lập thơ tự do không theo vần truyền thống như là một hướng cách tân của phong trào thơ chống Pháp lúc đầu ồn ã như thế rồi tất cả lặng im cho thực tiễn trả lời. Chính Hữu đã kiên định phong cách sáng tác của ông. Hầu như đời thơ Chính Hữu đều viết theo thể thơ tự do, không bắt nhịp vần điệu theo kiểu 6/8, thơ 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ mà Thơ Mới 1930 – 1945 đã rất thành công. Cái tinh tế và sức sống nội tại của những bài thơ thường ngắn mà xúc tích của Chính Hữu là ở chỗ bắt lấy nhịp đập của hiện thực làm thành sự đa dạng cho nhịp của thơ. Nhịp thơ Chính Hữu là nhịp sống của thời cuộc được ẩn mình trong nhịp tâm trạng của thi sỹ. Cái nhịp tâm trạng ấy thường điềm đạm, trầm tĩnh và có sức ngân vang. Đó là một thi pháp ám ảnh lâu dài và tạo ra sự khác biệt lý thú với thơ tự do của Nguyễn Đình Thi, Hoàng Cầm…

Nhịp thênh thênh của người lính hiền như đất tháng năm ra trận.

                        Tháng năm trong làng đã mùa gặt

                        Lòng dân sung sướng thóc mênh mông

                        Có người đi lính, hiền như đất

                        Mùa hạ tưng bừng vui núi sông.

            Nhịp giãi bày nhỏ nhẹ của người chiến binh càng xa xôi cách trở càng ấm áp lòng thương của mẹ hiền lặng lẽ như những chiều thôn dã. Nhịp thơ như được chắt ra từ tâm trạng thi nhân.

                        Con mang tấm lòng thương mẹ

                        Đi qua nghìn dặm quê hương,

                        Này đây núi, này đây sông

                        Này đây buổi chiều khói thổi cơm lặng lẽ

                        Nơi nào cũng hiền như đời của mẹ.

            Nhịp đi của đoàn dân công hỏa tuyến hiện lên trong thư của vợ gửi chồng.

                        Thư người hậu phương gánh gạo đưa chồng

                        Hai vai khó nhọc,

                        Viết gửi cho ta ngổn ngang từng nét.

                        Như gồng như gánh dân công

                        Ánh mực lập lòe đường xa lửa đuốc.

            Nhịp gấp gáp của cuộc hành quân. Đi nhanh đi nhanh. Chiến trường đã giục. Đầy núi đầy sông. Đèn ta đã mọc.

            Từ một tú tài triết học, đọc viết nói thông thạo tiếng Pháp, xung phong làm lính trung đoàn thủ đô ngay từ những ngày đầu cách mạng để trở thành thi sỹ sớm bắt nhịp vào trào lưu thơ tự do và cả đời thơ đi theo hướng đó cho phép Chính Hữu dù chỉ có 54 bài đã hội đủ một phong cách thơ độc đáo, tạo ra một nhịp tâm trạng trong thơ như những gì tiếp nối và cách tân vần điệu thi ca, vốn là dấu hiệu đặc trưng của thơ khác với văn xuôi, góp một tiếng nói có bản sắc vào tiến trình đổi mới thi ca hiện đại. Vấn đề quyết định của tiến trình ấy không phải ở thể thơ mà ở tài năng của người thi sỹ.

            Suốt đời Chính Hữu là người lính. Thơ ông là bài ca người lính. Đọc Chính Hữu như được soi vào thế giới tâm hồn đẹp vô ngần của người chiến binh trong khói lửa của cuộc trường chinh gần như đi trọn nửa sau thế kỷ 20. Điều này không mới. Nhưng vì sao lại như vậy cần được cắt nghĩa những hiện tượng thơ ở giai đoạn này không chỉ xuất phát từ sự thôi thúc của lịch sử đương thời mà còn từ cảm quan lịch sử bắt rễ từ những gì sâu xa nhất của đời sống tinh thần dân tộc, những tháng năm đau thương mà bi phẫn của quá khứ. Của thế kỷ trước.

            Cuốn sử liệu Việt Nam – Cuộc chiến 1858 – 1975 bằng tiếng Anh và tiếng Việt, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc in năm 2000 đã nói về sự thua trận của chiến binh Đại Việt trước giặc xâm lược. Súng đại bác bằng gang, bắn ít khi nổ. Nhà vua sắc phong cho súng. Trước khi bắn phải cúng. Súng không nổ cho là ốm phải uống thuốc… Trong 4 ngày từ 20 đến 24/6/1867 giặc Pháp chiếm xong 3 tỉnh miền tây Nam Bộ… Ngày 20 -11-1873 sau một giờ tấn công giặc chiếm được thành Hà Nội. Tổng đốc Nguyễn Tri Phương bị thương nặng và bị bắt. Ông nhịn ăn mà chết… Trong 21 ngày từ 20 – 11 đến 12-12-1873 giặc chiếm được Hưng Yên, Bắc Ninh, Ninh Bình, Hải Dương và Nam Định. Ở Ninh Bình chỉ có một viên đội và 7 lính đến chiếm được thành. Ở Hưng Yên nghe tin có 10 lính Pháp theo sông Hồng đến, quan quân đã bỏ thành chạy thoát thân… Ngày 3-4-1882 Pháp tấn công vào cửa đông và cửa tây đến 11 giờ, thành Hà Nội thất thủ. Tổng đốc Hoàng Diệu tự sát v.v.. Chưa đợi đến 100 năm sau, những người lính vệ quốc đoàn của trung đoàn Thủ đô anh dũng và quả cảm trên từng dãy nhà, góc phố Hà Nội trước một kẻ thù đông và mạnh gấp nhiều lần với tinh thần quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Từ cảm quan lịch sử như thế thì Ngày về của Chính Hữu thật hào hoa, phong nhã và oanh liệt biết chừng nào. Người lính hiện thân của dân tộc Việt Nam vùng đứng dậy.

Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa,          

Cả đô thành nghi ngút cháy sau lưng

… Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm,

Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa

… Nguy nga sao cái buổi lên đường,

Súng chuốt gươm lan, mắt ngời sáng quắc,

… Ôi bài chiến thắng reo vang.

            Sảng khoái cái chất lính đầy niềm tin như thế chắc là điều mà các vị tổng đốc Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu đã chờ đợi từ lâu. Vậy mà trong một thời gian dài Ngày về bị phê bình, nhẹ thì chất liệu thơ cách bức với đời thật, đay nghiến thì khẩu khí tráng sỹ hề, phù phiếm, lãng mạn tiểu tư sản v.v.. Những thành kiến ấy dẫn đến thơ Chính Hữu qua nhiều lần xuất bản từ 1966, 1972, 1997, 2000 … bài Ngày về vẫn không in. Năm 1998, Tuyển tập Chính Hữu đầy đủ nhất trong các lần in. Nhưng thay vì 20.100 bản năm 1972, Tuyển 1998 chỉ có 800 bản. Như để bù đắp lại, Ngày về được xuất hiện dưới hai diện mạo khác nhau. Bản Chính Hữu tự sửa và chỉ trích in với lời chú dẫn của tác giả như để làm một cái lẫy an toàn rằng nó là lời viết cho bài hát của Lương Ngọc Trác. Tiếc thay, bản sửa sau 51 năm tái sinh trở lại đã vơi cạn đi khá nhiều cái chất hào hoa nguyên thủy của nó. Chắc là Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu và các binh sỹ canh giữ Hà Thành năm ấy cũng như nghĩa sỹ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu không đồng ý với việc sửa chữa ấy. Và thêm một lần dè dặt nữa, cũng có thể nói là cẩn trọng cũng được, người làm tuyển tập đã in nguyên bản Ngày về ở phần chú dẫn như một lần chờ đợi sự đồng thuận vô hình thêm một thời gian nữa chăng?

            Trong 48 bài thơ Chính Hữu in 1997 có tới 35 lần nhân vật người lính xuất hiện. Dường như trên mọi trang thơ. Vẻ đẹp của người lính trong thơ Chính Hữu thật trọn vẹn. Họ là những người hiền như đất và còn rất trẻ bởi ồn ào lứa tuổi với những đầu say bát ngát đi giữa nắng mùa ngân nga. Họ là những đứa con hiếu thảo của mẹ hiền Việt Nam lặng lẽ như khói thổi cơm chiều.

            Có thể nói trong thơ thế kỷ 20, Chính Hữu có nhiều câu thơ để đời về tình đồng đội. Bài thơ Giá từng thước đất như bổ sung cho Ngày về, Đồng chí vốn nhiều biểu tượng lãng mạn hào hoa bằng những hình ảnh đời thường của lính chia nhau nắm cơm hớp nước, chia nhau một mẩu thư nhà, chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp để đi đến một nghĩa cử cao hơn. Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết. Không phải trước tiên Lê Anh Xuân, mà là Chính Hữu dựng tượng đài người lính Việt Nam trong thơ. Họ ngã trên dây thép 3 tầng. Một bàn tay vẫn chưa rời báng súng. Chân lưng chừng nửa bước xung phong. Ôi, những con người mỗi khi nằm xuống, vẫn nằm trong tư thế tiến công. Họ là những người thương binh trên đôi nạng gỗ để lại một phần thân thể cho hoa lá cỏ cây xanh tươi, cho những ngôi sao xa long lanh nước mắt để hiểu được tâm hồn tiếng trống hôm nay. Nỗi ám ảnh suốt đời của Chính Hữu là những người lính vô danh. Họ vô danh cả khi chết và khi sống. Bài thơ Vô danh về mộ người chiến sỹ trên sườn núi khuất vô danh xanh như Tổ quốc. Những người lính trong Đồng chí, Tháng năm ra trận, Sáng hôm nay, Gửi mẹ, Giá từng thước đất, Thư nhà, Lá ngụy trang, Duyệt binh, Nhật ký biên giới, Vô danh, Một nửa, Bắc cầu, Đường ra mặt trận, Trận địa Hà Nội, Ngọn đèn đứng gác, Truy kích, Bài hát, Kỷ niệm trung đoàn, Nghĩa trang liệt sỹ… Những người lính hầu như là chiến sỹ vô danh, làm nên cái đau đáu khôn nguôi khi đọc thơ và khi gập lại cả đời thơ Chính Hữu. Nghe như thiêng liêng của tiếng chiêng đồng kể về sự bất tử. Ngày về, Đồng chí như là hai điểm sáng của một đời thơ. Trầm tĩnh và suy tưởng hơn cả; sức nén của ngôn từ, cấu tứ và hình tượng thơ đặc trưng của Chính Hữu phải kể đến bài thơ Trinh sát chỉ có 9 dòng 31 từ. Thơ Chính Hữu đẹp tựa cây đào thế như Hữu Thỉnh nói có lẽ dùng ở đây chăng? Không gì xanh, bằng đỉnh núi vô danh. Không gì đẹp bằng người trinh sát. Anh ra đi. Trước mặt, Là núi là sông. Là mênh mông, Những điều chưa biết.

            Triết lý nhân sinh trong thơ Chính Hữu không phải ghi lại những điều đã mất mà là những điều để lại. Nó xáo động lòng người. Và Chính Hữu đã phát hiện ra một chân lý đánh thức ta dậy sau mấy chục năm hòa bình, rằng tôi chưa bị ai phê bình dữ dội, bằng người đang lặng im không nói – người lính vô danh cả khi sống và khi chết.

            Thi ca hiện đại là nơi lưu giữ tâm tình của người Việt Nam. Thế giới tinh thần ấy được các thi sỹ đương thời lựa chọn bằng những hình ảnh tượng trưng thật đẹp. Với Chính Hữu, đó là Ngọn đèn. Đọc Chính Hữu, tôi hiểu vì sao danh họa Bùi Xuân Phái vẽ chiếc đèn dầu nhiều và đẹp đến thế. Câu đầu tiên nhật ký của ông Phái năm 1970 ghi: Viết dưới ánh đèn dầu. Trong 48 bài thơ của một đời khiêm nhường và có lúc tí nữa bị hàm oan, Chính Hữu dường như đã hiểu thấu cuộc bể dâu để 16 lần thắp lên ánh lửa ngọn đèn là mỗi lần thắp lên tâm trạng của người Việt Nam trong ầm ào chiến tranh cũng như lặng lẽ hòa bình. Loáng đèn trên đường nhựa dài đêm Hà Nội rét tê mái buồn nghe sấu rụng mà người Hà Nội quên buồn quên rét rầm rì đứng lên từ gạch ngói đổ vỡ bởi đạn bom. Đó là ánh đèn tỏa ra từ mái trường dưới bom đạn giặc, khi chúng đem bom nghìn cân dội lên trang giấy, mỏng như một ánh trăng ngần, hiền như lá mọc mùa xuân. Vì thế ánh đèn ấy là lời kêu gọi, là mệnh lệnh hành quân. Đó là những con tàu đi lên vùng đất mới mang theo những ngọn đèn soi trong đêm vội như con người thao thức suốt năm canh. Đó là ngọn hải đăng bồi hồi nhấp nháy chỉ đường cho tàu đến tàu đi nơi đầu sóng ngọn gió ngoài biển khơi. Đó là nơi xa xôi trên trái đất lạnh giá cuộc sống đã trồng cây đã thắp đèn để lòng thi nhân cũng lên đèn theo thành phố mới. Nhà thơ trẻ tài năng Phạm Tiến Duật phải đến năm 1969 mới thắp được Lửa đèn. Chính Hữu đã làm việc đó sớm hơn. Năm 1965. Bài thơ Ngọn đèn đứng gác ra đời như là hình tượng tập trung về đất nước, con người Việt Nam, về những gì sâu nặng của Bắc Nam liền một dải, sự tin yêu và lòng dũng cảm của người Việt Nam đi qua cuộc trường chinh máu lửa hy sinh đến tận cùng chiến thắng, vẻ đẹp tâm hồn và khí phách Việt Nam. Một hình ảnh quá đỗi quen thuộc, giản dị đến mức khiêm nhường mà đầy suy tưởng và triết lý. Bởi những ngọn đèn dầu chong mắt đêm thâu. Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt. Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt. Đó là biểu tượng của miền Nam 20 năm không đêm nào ngủ được, biểu tượng của đất nước đêm nào cũng thức vì miền Nam. Ngọn đèn đứng gác nằm trong số ít những bài thơ hay nhất về chiến tranh Việt Nam thế kỷ 20. Sức khái quát và tầm cao tư tưởng, vẻ độc đáo của hình tượng ngọn đèn làm bài thơ có sức lan tỏa và hiệu triệu mạnh mẽ. Đèn ta thắp những lời kêu gọi … Đầy núi, đầy sông, đèn ta đã mọc.

            Ngọn đèn ấy không phải là lửa cháy của chiến tranh. Nó là cái đích đến của hòa bình. Ngọn đèn của Chính Hữu không chỉ đẹp trong tâm thế hào hùng mà còn lay động bởi ánh lửa của tâm thức, của suy tư trầm lắng nào dễ được nguôi ngoai, như những nốt trầm xao xuyến. Kỷ niệm trung đoàn là kỷ niệm những con đường như những khúc ruột bị chặt đứt, quặn đau mà sinh ra, khi những ngọn đèn hồi hộp giữa sương bay trong thành phố tháng chạp đêm 19 cả đất nước chỉ có 2 bàn tay không đi vào cuộc chiến. Thơ Chính Hữu lấy lửa từ nghìn năm ca dao dân tộc mà viết thành lời như một lời hứa và nhiều hơn là một câu hỏi biết bao giờ nguôi.

                        Ai đó khuya rồi, một ngọn chong

                        Đèn thương nhớ ai đèn không nhắm mắt.

            Có thể nói toàn bộ thơ cuối đời của Chính Hữu, khi ông cởi áo chiến binh để về với ngôi nhà của mình đều viết theo tinh thần của hai câu thơ ấy. Tất cả như muốn lưu luyến lại, muốn giữ lại, muốn sự hiện diện siêu hình của những gì đã trải qua. Muốn nhắn gửi. Quá khứ hiện hình như tiếng gọi cuối rừng. Một thành phố tuổi thơ giờ xa xôi như tiếng thở dài. Người bộ hành tận hưởng niềm vui cô lẻ trong lặng lẽ, sau lưng là một suối hương dài, ngơ ngẩn còn bay trên phố trên cây. Đứa trẻ đang đồng hành với ta để nay mai không còn dáng hình ta nữa…

            Khi biết tôi trở về với thơ Chính Hữu, nhiều thi sỹ và bạn văn đã thân tình trao cho tài liệu. Đọc 3 tập tùy bút Tản mạn trước đèn, Chén rượu gạn đáy vò, Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu có bài kỷ niệm về Chính Hữu. Nhà văn Đỗ Chu tự bạch Con sông Thương chảy vào đời tôi, dòng sông Cầu chảy qua đời tôi với bộ râu oai vệ mà thật là hiền. Có lẽ vì hai con sông ân tình kia mà đôi mắt của ông ấy lúc nào cũng ngân ngấn và dường như đầm đậm nước chúng sinh. Đỗ Chu đưa tôi đến nhà anh Trần Vinh Bắc, con trai Chính Hữu. Khi dâng 5 bông cúc vàng và thắp 3 nén nhang trước bàn thờ Chính Hữu, Đỗ Chu khấn to. Nghe rõ từng tiếng một. Đọc Nhật ký Chính Hữu các năm 1954, 1955, 1956, 1960, 1961, 1962, 1963, càng rõ đời Chính Hữu với thi ca là một. Nhật ký có nhiều câu chuyện về các bài thơ. Đáng chú ý là những tâm sự về nghề nghiệp.

            - 30/11/1961. Thơ là sự thơ ấu của loài người. Ở đầu mỗi thời đại, bao giờ thơ cũng cất tiếng nói đầu tiên. Đôi khi là một tiếng nói dại dột.

            - 20/7/1962 Rimbaud, Pautopski, Chế Lan Viên đối với mình có tác dụng (kích thích sáng tác).

            - 17/11/1962 Trong một bài thơ nào đó, mình phải đề cập đến cái định nghĩa về đất nước … Những cái gì bỗng dưng làm mình chảy nước mắt.

            - 20/11/1962. Mỗi chữ trong thơ phải gợi cái lối gợi rất ngắn mà rất sâu của mùi hoa hồi.

            - 9/9/1963 “Sau cái chết của Khuất Nguyên, con sông Mịch La ba nghìn năm vẫn có tiếng reo buồn bã” v.v..

            Chính Hữu đã góp vào làng thơ Việt Nam một phong cách thơ tự do độc đáo, với nhịp tâm trạng liên kết thơ thật trầm tĩnh. Cấu tứ thơ bao giờ cũng thể hiện tầm cao trí tuệ với sự tiết chế về ngôn từ đặc biệt chắt lọc, ngắn gọn. Ngắn gọn đến mức như là một sự thách thức với dòng thơ văn xuôi. Ông để lại nhiều viên ngọc sáng ở biên độ câu thơ cũng như bài thơ.

            Bùi Xuân Phái có 4 bức họa cho tập Đầu súng trăng treo in năm 1972. Trong đó có 3 lần trăng non xuất hiện và một lần là ngọn đèn dầu dưới dạng đèn treo. Tôi biết ông Phái họa ngọn đèn dầu nhiều lần. Xin được chọn một bức của nhà danh họa có khuôn mặt đức cha thật đẹp và buồn về ngọn đèn dầu làm bìa cho cả đời thơ Chính Hữu. Ngọn đèn dầu nhỏ bé tỏa sáng trên khám thờ văn chương. Bởi vì thi ca mọi thời đại còn nợ cuộc đời một câu hỏi chưa bao giờ dứt: Đèn thương nhớ ai mà đèn không tắt.

5 tháng 12 năm 2018

Nguồn: báo Văn nghệ, số Tết Kỷ Hợi số 4+5+6 (2019)

Thông tin truy cập

63704174
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2268
22198
63704174

Thành viên trực tuyến

Đang có 243 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website