Thi ca là cây sậy biết nói những lời khổ đau và hy vọng của con người. Nó có sức sống bền bỉ nhưng thật dễ tổn thương.

Khuất Bình Nguyên

 20200103 Ha Tien

Vợ chồng thi sĩ Đông Hồ - Mộng Tuyết

Đứng ngấp nghé ở cửa ra vào thi ca thế kỷ 20 có bao nhiêu là tao nhân mặc khách. Năm người trong số họ như là một trong những minh chứng cho sự nối liền không chia cắt của thi ca trung đại với thơ thời hiện đại. Họ sống với thế kỷ 20 dài ngắn thật khác nhau. Mặc dầu sự dài ngắn ấy không là điều phân biệt phẩm cách thơ và tầm vóc của họ. Sinh sau Nguyễn Khuyến 35 năm nhưng lại mất trước 2 năm, Tú Xương và Nguyễn Khuyến đã có thời gian 7 đến 9 năm sống ở trong lòng thế kỷ 20. Họ viết thơ bằng chữ Hán và chữ Nôm. Nguyễn Khuyến căn bản là đại khoa và đại quan của vương triều phong kiến cáo lão về quê nên thơ ông đẹp nhất vẫn là những bài thơ về ao Thu buồn lặng nơi thôn giã. Tú Xương có tới 135 bài văn thơ nôm; nằm trong thế giới cũ gối đầu lên thế kỷ mới, ông đã nghe được ít nhiều cái chuyển mùa của hương vị cuộc đời nơi phố phường đô thị khi người ta đổi bút lông sang bút sắt để sớm rượu sâm banh tối sữa bò với bao nhiêu dư vị đắng cay. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của Tam Nguyên Yên Đổ và Tú Xương là tiếng gọi đò cuối cùng của văn học trung đại. Sinh sau Tản Đà 7 năm và sống với thế kỷ 20 những 83 năm, nhưng thơ Á Nam Trần Tuấn Khải mặc dù được viết bằng chữ quốc ngữ chăng nữa vẫn mang cốt cách của một vị túc nho nặng lòng non nước qua khúc Tiễn chân anh khóa xuống tàu cũng như nhiều vần thơ cảm khái trong Duyên nợ phù sinh. 1921. Bút quan hoài. 1924… Đi qua thời đại của phong trào Thơ Mới (1930-1945) rồi sống tiếp và viết tiếp đến gần nửa thế kỷ với bao nhiêu biến động của thời cuộc và thi ca nhưng không ai gọi ông là thi nhân của các trào lưu mới. Ông vẫn như là một nhà nho cao đàm khoát luận trong văn chương của thế kỷ hiện đại và như một người thi sỹ nặng lòng với đất nước quê hương bằng việc ngoài thơ Đường luật, thơ Á Nam Trần Tuấn Khải vẫn dụng công trong thể thơ truyền thống lục bát, song thất lục bát… Tản Đà sinh năm 1888 thường được gọi cậu ấm Hiếu là nho sinh trang trải sách thánh hiền dự kỳ thi cuối cùng của triều đại phong kiến cuối cùng năm 1912. Nhưng ông là nhà nho duy nhất vượt qua được những rào cản của thời đại cũ để ngồi chiếu trên của phong trào Thơ Mới. Khai hội một thời đại mới trong thi ca. Danh phận của Đông Hồ không được như Tản Đà. Khi Tú Xương mất 1907, Đông Hồ mới lên 1 tuổi. Là người có nguồn gốc ở xa đến nhưng hiếm có ai cổ xúy cho quốc văn - văn chương viết bằng chữ quốc ngữ như ông. Hoài Thanh có lần nói yêu quốc văn mà đến như Đông Hồ kể cũng ít người. Chỉ chuyên học quốc văn, viết quốc văn rồi mở trường chuyên dạy quốc văn. Lúc mới bước vào văn chương, Đông Hồ chịu ảnh hưởng của Nam Phong tạp chí và tham gia tích cực vào ấn phẩm này. Thơ ông là kiểu thơ được Nam Phong hô hào ủng hộ. Thơ viết bằng chữ quốc ngữ, một điều vẫn còn khá mới mẻ thời bấy giờ. Tôi cho rằng những năm 20 và một hai năm đầu 30 của thế kỷ 20, thơ Nam Phong nói chung và Đông Hồ nói riêng cũng như nhiều thơ viết bằng chữ quốc ngữ nhưng vẫn theo thể loại và niêm luật Đường Thi là một bước chuẩn bị, bước thử nghiệm khả năng biểu đạt cảm hứng và hình tượng của tiếng Việt trong tiến trình từ thơ ca trung đại đến thơ thời hiện đại. Một thế hệ khăn gõ áo the trong thơ không phải bằng chữ Hán chữ Nôm mà bằng chữ quốc ngữ đã góp phần làm nên diện mạo của thi ca Việt Nam những năm 20. Như 1 bước quá độ cần thiết. Đông Hồ đương nhiên không phải là học giả Phạm Quỳnh. Nhưng họ viết văn bằng chữ quốc ngữ, trong khi họ hoàn toàn có khả năng viết bằng chữ Pháp hoặc chữ Hán là một cử chỉ chân thành giống như Tản Đà hô hào ủng hộ quốc văn. Họ không phải làm theo chiêu bài ru ngủ đồng bào của chủ nghĩa thực dân. Chả trách mà trong bài Đề Từ - thơ thất ngôn bát cú Đường luật 100% Đông Hồ đã nói cái mộng ước của việc nối liền nhịp cầu kim cổ.

Kim cổ cách đôi bờ thế hệ

Cảm thông cùng bắc nhịp giao liên

Trong thời gian 10 năm từ 1923 đến 1933, Đông Hồ cộng tác với Nam Phong viết khá nhiều văn thơ, nhưng theo Mộng Tuyết, hay nhất cả 10 năm đó chỉ còn lại 2 bài ký và 1 bài phú theo truyền thống của văn học cổ điển.

Nhưng Đông Hồ không dừng lại. Hân hoan đón luồng sinh khí của phong trào Thơ Mới; Đông Hồ đã buộc lại quai nón thơ ca của mình để sang đò cùng với một thời đại mới trong thơ. Với tập Thơ Đông Hồ năm 1932 và tập Cô gái Xuân năm 1935. Hoài Thanh đã dành ưu ái thật là nhiều cho Đông Hồ. Tác giả Thi Nhân Việt Nam đã nhẫn nại vượt qua mà không ngần ngại, những câu thơ trơn tru tầm thường thậm chí có đoạn thơ còn đỏm dáng quá trời của tập Thơ Đông Hồ 1932 để lọc ra đôi lần sự tình cờ ta thấy ẩn sâu một linh hồn trong những vần thơ.

Mối sầu khôn dãi cùng trời đất

Chén rượu đành khuây với nước non.

Hoài Thanh có lý khi cho rằng với nỗi buồn man mác ấy, Đông Hồ đã đi xa hơn trường thơ Nam Phong nhiều lắm. Có người nói nếu ở tập Thơ Đông Hồ 1932 cũ bao nhiêu thì Cô gái Xuân 1935 đã trở nên mới mẻ và thi sỹ đã làm một cuộc thoát lốt biến hình để làm người của thế hệ với tình yêu và tuổi trẻ bấy giờ. Hoài Thanh đã chọn Đông Hồ vào Thi Nhân Việt Nam - cái sân khấu chính danh trang trọng nhất của phong trào Thơ Mới 1930 - 1945 những 4 bài thơ như Anh Thơ, Vũ Hoàng Chương và hơn cả Bích Khê và Nguyễn Nhược Pháp - mỗi vị chỉ được 2 bài. Bốn bài thơ của Đông Hồ là những bài thơ khá dài. Cô gái Xuân 17 khổ 4 câu thành 68 dòng. Tuổi Xuân - thơ 5 chữ 100 câu, Bốn cái hôn, thơ 7 chữ 76 câu… thuộc những bài thơ dài hiếm gặp trong Thơ Mới. Nổi bật nhất được xem là Cô gái Xuân. Cô gái Xuân thuộc loại tự sự, kể chuyện nhưng lại được phủ lên một bóng mây lãng mạn ít nhiều siêu thực là điều không thấy trong Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp hay Lỡ bước sang ngang của Nguyễn Bính. Cô gái Xuân kể rằng có cô gái quần đen, áo trắng, khăn hồng nhẹ, tóc bỏ đều xõa đến ngang vai, lòng cô phơi phới những buổi cắp sách đến trường chỉ thấy bướm, cỏ và gió thổi. Rồi một hôm gió làm cho như tưởng gặp được bóng tình quân. Là bóng chứ không phải là người. Đợi chờ mà chưa gặp đã thấy cảnh đìu hiu một người tình quân trong gió trong mây.

Gió mây xin để tình quân lại

Chầm chậm cho em nói ít điều.

Nhưng mây gió vẫn cuồn cuộn bay một cách vô tình, cô gái xuân rỏ lệ khóc tình quân. Một nỗi tình vẩn vơ, vô cớ. Có lẽ đó là 1 trong số bài thơ tình yêu ảo vọng nhất thời 30 – 45.

Nói đến Đông Hồ mà không có Mộng Tuyết thì kể như không có Đông Hồ. Họ là đôi uyên ương duy nhất được hát mộng tình trong Thi Nhân Việt Nam. Căn cứ vào nơi sinh sống của các nhà thơ, Hoài Thanh đã chia làng Thơ Mới 30 – 45 thành những xóm thơ. Xóm Sông Thương Bàng Bá Lân Anh Thơ. Xóm Bình Định Hàn Mặc Tử Chế Lan Viên. Xóm Hà Tiên Đông Hồ Mộng Tuyết v.v.. Hai con người ấy, đôi vợ chông ấy đã cùng làm nên diện mạo một xóm thơ để mảnh đất Hà Tiên có nước, có biển và mây trời nối liền một dải vùng biên viễn xa xôi ở tận cực nam. Năm 1998, Huy Cận viết Cặp thi nhân Đông Hồ -  Mộng Tuyết sẽ ở lại trong lịch sử thi ca Việt Nam thế kỷ này như là mối tình thơ đằm thắm, thủy chung nhuốm chút màu huyền thoại… trong cái thuở tha thiết chấn hưng thơ ca và văn hóa nước nhà.

Mộng Tuyết sinh năm 1914 ở Hà Tiên. Đã làm thơ từ năm 12 tuổi, gom lại thành một tập hợp bài mang tên Bông hoa đua nở đăng trên Nam Phong tạp chí năm 1930. Cùng với Đông Hồ và nhiều người khác ở thế hệ ấy, Mộng Tuyết đã tham gia vào cuộc tập dượt khả năng biểu đạt của chữ quốc ngữ xung mãn và tinh tế không thua kém gì chữ Hán và chữ Nôm và còn mang trong mình nó khả năng phổ cập và lan tỏa rộng rãi vì đặc tính gắn liền với ngôn ngữ đời sống hàng ngày. Năm 1939, tập thơ Phấn hương rừng của Mộng Tuyết được Tự Lực Văn Đoàn tặng lời khen. Vào một buổi sáng 1939, người đưa thư đưa đến đường Mạc Cửu cho Mộng Tuyết một bưu phẩm. Đó là một ống tre dài nguyên một đốt đã cưa bỏ mắt tre ở cả 2 đầu. Ống tre đã bị bể vỡ làm mấy mảnh. Bên trong là một tờ giấy dó mỏng manh màu vàng còn nguyên vẹn. Tờ giấy có ghi lời khen tặng, bên dưới đầy đủ 6 chữ ký của các vị đầu lĩnh. Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Thế Lữ… Tờ giấy dó mỏng manh ấy đã mang lại sự đổi đời của nữ thi nhân. Mộng Tuyết trở nên nổi tiếng. 1941 vào Thi Nhân Việt Nam. 1943 có tên trong tập thơ Hương Xuân cùng với Anh Thơ, Hằng Phương, Vân Đài. Nhờ Đông Hồ nói giùm, Hoài Thanh đã được xem Phấn hương rừng trong dạng cảo thơm với bìa thếp vàng giấy tàu tốt, với những bản viết tay và vẽ bằng nét bút hoa mỹ, phóng túng, thỉnh thoáng lại chen vào ít câu chữ Hán. Hoài Thanh chọn 2 bài cho Mộng Tuyết vào Thi Nhân Việt Nam. Bài Dương Liễu Tân Thanh, nhân một ý thơ của một người gửi cho Phan Thanh Giản và bài Vì Anh Thọ Xuân viết cho Đông Hồ khi tặng ông bộ Pháp Việt từ điển. Hoài Thanh khen thơ Mộng Tuyết nhẹ nhàng, hàm súc. Người xem thơ bỗng thấy lòng run run như được đọc bức thư tình. Tôi không rõ ở phần kết, Hoài Thanh có định ám chỉ gì không? Người thiếu nữ trong tập thơ này có làm cho ta quên những thiếu nữ do trí tưởng tượng thi nhân tạo ra không? Nàng một người đàn bà thiệt, nàng có đàn bà hơn những người đàn bà khác trong tưởng tượng kia không?. Hoài Thanh đã để lại câu hỏi này từ tháng 8/1941 đến nay chưa thấy ai trả lời?. Đọc lại Dương Liễu Tân Thanh Vì Anh Thọ Xuân. Chợt thấy: Biệt ly còn hận đời danh sỹ. Huống chốn buồng the khách chỉ kim. Và: Hãy còn thừa thãi tiêu chưa hết. Mua lấy trần gian tiếng khóc cười. Toàn bàn chuyện quốc sự cả. Là khẩu khí của một trang nam tử trong thơ của một nữ sỹ suốt đời bươn chải làm chức phận đàn bà, khác hẳn với người đàn bà tắm đêm dưới trăng bên giậu trúc của Mộng Tuyết đăng trên Hà Nội báo ngày 6-5-1936. Cái khẩu khí của trang nam tử ấy còn gặp lại trong 10 bài thơ Mộng Tuyết viết năm 1945 bàn về quốc sự, về Giá gạo ở Tràng An, về Hấp hối đợi chờ, về Xẻ cháo nhường cơm... trong mùa đói ở Bắc Kỳ.

Đông Hồ và Mộng Tuyết kể từ 1935 đến 1939 đã là hai trong 44 thi sĩ của phong trào Thơ Mới (1930-1945). Hoài Thanh đã nói phần góp mặt của Đông Hồ và phong trào ấy với ít nhiều xa hoa. Hoài Thanh viết Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh trong tiếng sóng. Thú thật là. Nhiều thi sỹ thời ấy đã làm được điều ấy và thậm chí có phần còn dạt dào hơn, kỳ ảo hơn như Xuân Diệu và Hàn Mặc Tử. Nhưng tôi thích Đông Hồ đã chỉ ra cái mơ hồ của ánh sáng vô minh, của tình yêu tuổi trẻ. Khi: Tuổi mười sáu là trăng vừa mới mọc. Lệ tình rơi rớt xuống vô biên. Hay cái biên giới chẳng rõ ràng, biên giới gió trăng của rừng và suối: Bạn bè bốn mùa trăng gió. Rừng em suối chị giao duyên.

Và đặc biệt là cái mờ ảo của đêm liêu trai trong giao hòa của tuổi trẻ và tình yêu nghìn năm bất diệt.

Một luồng hơi thoảng hương xiêm áo

Ngất lịm mùa thơm tóc trái đào...

Một sợi tóc tơ huyền đủ buộc.

Nghìn năm người thực với chiêm bao.

Ba tập hồi ký Núi Mộng Gương Hồ của Mộng Tuyết do NXB Trẻ in 1998 cho thấy con người của Đông Hồ và Mộng Tuyết thật ân tình. Bóng dáng gần gụi và yêu thương của những nghệ sỹ danh tiếng thời thế kỷ 20 hiện về bao giờ cũng thật bình dị mà vô thường. Huỳnh Thúc Kháng người gầy nhỏ nhắn, nét mặt hiền hậu. Học giả Đào Duy Anh tính tình vui vẻ, cử chỉ tự nhiên, vừa đi vừa bóc bưởi Thanh Trà mới khách vừa dẫn giải nói cười. Thư của Tản Đà khảng khái nói về sự chết của nghề làm báo. Vũ Đình Liên, ông đồ già khi tuổi đã 80 giữa ngày mưa to gió lớn tay xắn ống quần tay ôm cặp sách lội bì bõm đến nhà thăm Mộng Tuyết bạn làm thơ. Hồn nhiên, cởi mở, lần nào vào Sài Gòn cũng nói mộng ước về Ba Tri thăm mộ Đồ Chiểu. Nguyễn Tuân tài hoa bằng cử chỉ viết thư mượn sách. Đặc biệt là những trang viết về Huỳnh Văn Nghệ và Nguyễn Bính. Ông tướng thi sỹ Huỳnh Văn Nghệ với Từ buổi mang gươm đi mở nước, nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long đã viết bài thơ Lá Thơ Rừng in trên tờ nhật báo Ánh Sáng ngày 3-10-1948 để giãi bày tâm sự với bài Chiếc lá thị thành của Mộng Tuyết đã in trên báo đó trước đấy. Khi viết hồi ký vào năm 1995, hay tin gia đình Huỳnh Văn Nghệ đang đi sưu tầm tác phẩm của ông, Mộng Tuyết đã tìm được 4 bài thơ của Huỳnh Văn Nghệ đăng trên báo Sống phát hành tại Sài Gòn năm 1935 để đưa vào hồi ký. Đọc 4 bài thơ ấy mới thấy ân tình của mối duyên nợ văn chương và điều quan trọng hơn, thấy được ngay từ năm 1935, Huỳnh Văn Nghệ đã tỏ rõ sự đổi mới về cảm hứng thi ca, điều mà sau này vào năm 1948 ở Việt Bắc đã bùng nổ và phát triển một sinh khí mới của thi ca hiện đại. Đáng tiếc là chuyện kể về Nguyễn Bính đến thăm Hà Tiên, lưu lại gác Nam Phong của Đông Hồ để đêm đêm viết truyện thơ lục bát Thạch Sương Bồ với tham vọng dài hơn Truyện Kiều... còn ít quá. Lúc đó vào năm 1944, Bính mới 25 tuổi đã nổi danh khắp cả ba kì. Cậu Bính hay ra hiệu may của chị Mộng Tuyết ở chợ Hà Tiên. Được mời ăn bánh quy - một đặc sản của Hà Tiên với nhân ngào đường, bột đậu xanh, cùi dừa, vỏ ngoài bằng bột nếp dẻo thường bán ở chợ. To bằng cái bát úp. Nghe nói các nhà văn sau này còn kể mà không thấy ghi trong hồi ký rằng khi đó Bính mới tập đi xe đạp và được Mộng Tuyết may cho quần áo mới. Chuyện kể về giao lưu giữa Đông Hồ với nữ sỹ Tương Phố, mệnh phụ tuần phủ phu nhân ở Bắc Kỳ, tác giả của Giọt lệ Thu nổi tiếng, thật là tao nhã, như một nét văn hóa của một thời gần đây thôi mà tưởng như xa lắm của người xưa... Bà Tương Phố sau này di cư vào sống ở trong Nam. Khi thì Đà lạt. Khi thì Nha Trang. Mới hay Tương Phố là người Tây học. Bổn phận làm vợ của nàng chỉ là người phiên dịch cho ông tuần phủ Tuyên Quang, làm quan to mà không rành tiếng Phú lãng sa.

Xóm Hà Tiên, theo cách gọi mang nhiều ẩn dụ của Hoài Thanh hồi 1941 là nơi sinh ra và cuối cùng trở về của Đông Hồ, Mộng Tuyết. Cả hai người như là những tác giả tiên phong thời hiện đại nghiên cứu giới thiệu Hà Tiên. Đông Hồ viết Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh. Mộng Tuyết viết Đường vào Hà Tiên. Đầu năm 1986 tỉnh Kiên Giang tổ chức hội thảo khoa học 250 năm Tao đàn Chiêu Anh Các và 80 năm ngày sinh Đông Hồ như là một sự ghi nhận đóng góp của Đông Hồ - Mộng Tuyết trong việc giới thiệu thi ca của các tác giả Hà Tiên trong Chiêu Anh Các từ những năm 30 đến 60 của thế kỷ 18 và cảnh vật của một vùng biên viễn Hà Tiên. Bây giờ hàng năm cứ đến rằm tháng giêng từ 2012 đến nay, Hà Tiên mở Lễ hội Chiêu Anh Các và ngày Thơ Việt Nam. Vào đêm ấy, người ta thả đèn hoa đăng hình hoa sen nở hồng xuống mặt nước hồ Đông Hồ như một cử chỉ tao nhã. Chẳng khác gì người ở đất Thăng Long. Mới hay Đông Hồ là tên gọi một trong 10 thắng cảnh Hà Tiên đã làm đề tài ngâm vịnh cho các thi sỹ tao đàn Chiêu Anh Các ở đất này cách đây đã gần đủ 300 năm. Nhà thơ, nhà văn hóa Lâm Tấn Phác đã chọn Đông Hồ làm bút hiệu suốt đời của ông. Ông yêu tiếng Việt và xứ sở này đến mức, ngày 25 tháng 3 năm 1969 đã gục ngã trên bục giảng và tạ thế trong khi đang ngâm bài thơ Trưng Nữ Vương.

Thầy tôi, giáo sư Lê Đình Kỵ đã có lần trích dẫn Đông Hồ: Tiếng Việt quả có một sức quyến rũ phi thường. Thi sỹ Đông Hồ đẹp như chính ánh sáng của cái hồ ấy ở thời đại ngày nay. Thu dạ Đông Hồ tiên đắc nguyệt.

Cuối thế kỷ 20, tôi mới có cơ hội về Hà Tiên tìm gặp Đông Hồ - Mộng Tuyết mà không trọn vẹn. Tháng 7/1992, lên một chiếc xe Jeep nhà binh cũ kỹ, sáng sớm từ Rạch Giá đi Hà Tiên. Đường lúc đó còn xấu lắm. Ra khỏi thị trấn Hòn Đất chừng 4 cây số tự dưng một bánh xe phía trước bên phải văng ra. Chiếc jeep mui trần chỉ còn 3 bánh lăn tiếp 1 đoạn rồi nằm lại bên vệ đường đến chiều muộn phải quay về Rạch Giá.

Lần thứ 2 sau đấy 5 năm, vào tháng 7 năm 2003, xế trưa từ Châu Đốc dọc theo bờ kênh Vĩnh Tế xuôi về Hòn Đất rồi ngược lên Hà Tiên. Đến nơi thì trời tối muộn. Đột xuất sáng sớm hôm sau phải lên cửa khẩu Xà Sía, rồi tức tốc trở về Rạch Giá vì thời đó đang rộ lên 3 Tây. Tây Bắc. Tây Nguyên. Tây Nam Bộ. Thấm thoát đến giờ đã 16 năm rồi không trở lại. Kịp nhờ một người học trò đang làm nghề tư pháp ở Hà Tiên gửi cho tài liệu về nhà lưu niệm thi sỹ Đông Hồ. Ở nơi trang trọng trong ngôi nhà ấy có bức hình của Đông Hồ, màu sắc trang nhã như một bức ảnh chúa. Đông Hồ trong bộ vest màu xám nhạt, áo sơ mi cổ trắng, cà vạt đỏ tươi, trang phục ông thường lên lớp ở văn khoa Sài Gòn những năm 1965 - 1969 theo lời kể của sinh viên. Dọc theo hai bên ảnh có treo câu đối viết bằng chữ quốc ngữ màu hơi vàng trên nền gỗ cánh kiến đỏ hình giống như hai tàu lá chuối xếp xuôi. Gởi tình hoa thảo góp bạn giang hồ - Đọc sách thánh hiền kết duyên hàn mặc. Một đời người. Một sự nghiệp. Đơn giản vậy thôi. Một khuôn tường vôi trắng trong ngôi nhà nhỏ trên bờ vịnh Hà Tiên xa vắng. Làm tôi day dứt không nguôi.

Mộng Tuyết đã cắm sào bến cũ, trở lại Hà Tiên từ năm 1995. Sau 45 năm rời xa nó. Những nỗ lực cuối cùng của người nữ sỹ ấy là xây nhà kỷ niệm chồng trên chính mảnh đất ngày xưa ông đã mở trường dạy chữ quốc ngữ ở đây và bà là một trong những học trò Hà Tiên nhiệt thành đến học. Ngày 1 tháng 7 năm 2007, Thất tiểu muội Mộng Tuyết đã khăn gói đi tìm Đông Hồ, nơi từ thuở thiếu thời đã đợi gió, đợi nước triều lên đến lúc triều đã lên rồi trăng cũng lên ở xóm Hà Tiên. Trăng từ đấy dường như chưa bao giờ lặn hẳn trên mặt nước Đông Hồ để họ tìm được thấy nhau. Thi ca là cây sậy biết nói những lời khổ đau và hy vọng của con người. Nó có sức sống bền bỉ nhưng thật dễ tổn thương. Nhà triết học Pascal có lần nói rằng Đối với cái thái cực thì người ta là một cái hư vô, đối với cái hư vô thì người ta là một cái thái cực, nghĩa là một khoảng giữa cái có với cái không. Con người thật bé nhỏ xiết bao trong cái thế giới vô thủy, vô chung đó. Người ta đối mặt và chất vấn, đặt cược với cái hư vô đó mà mỗi người chỉ là một hạt bụi mỏng manh mà thôi. Nguyễn Khuyến. Trần Tế Xương. Trần Tuấn Khải. Tản Đà. Đông Hồ. Mộng Tuyết… Họ là những hạt bụi có ánh sáng vàng.

Hà Nội, 7 tháng 11 năm 2019

Khuất Bình Nguyên

Bài đã đăng trên Văn nghệ , số Tết Canh Tý (số 3+4+5/ ngày 18-1-2020)

Để phát huy đầy đủ giá trị của di sản sách báo Làng Sông, trong đó có các tác phẩm văn học thiếu nhi, thiết nghĩ cần phải nhanh chóng tái bản và nghiên cứu một cách hệ thống

Năm 1868, nhà in Làng Sông được thành lập, đặt trong khuôn viên Tiểu chủng viện Làng Sông (Tuy Phước, Bình Định).

Vai trò của chữ quốc ngữ

Bên cạnh các ấn phẩm về tôn giáo, kinh tế, du lịch, giáo dục..., Làng Sông còn xuất bản sách văn học cho thiếu nhi. Gần đây, nhờ nỗ lực của Thư viện Quốc gia (Hà Nội), bạn đọc bước đầu đã được tiếp xúc với tác phẩm "Trước cửa thiên đàng" (Jacques Đức, 1923), "Vì thương chẳng nệ" (Đảnh Sơn, 1924), "Ngai vàng" (Jacques Lê Văn Đức, 1925) và "Hai chị em lưu lạc" (Pierre Lục, 1927). Những cuốn sách này giúp chúng ta hiểu biết đầy đủ hơn về văn học thiếu nhi Việt Nam ở buổi đầu hình thành; đồng thời thấy rõ hơn vai trò của chữ quốc ngữ đối với nền văn hóa, văn học dân tộc trong thời kỳ hiện đại.

20191227

Một số cuốn sách xuất bản của Làng Sông

Nhìn vào thực tiễn văn học Việt Nam, chúng ta thấy hoạt động sáng tác cho thiếu nhi diễn ra khá muộn. Mãi cho đến đầu thế kỷ XX, một số cây bút: Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Văn Ngọc, Tản Đà, Khái Hưng... bắt đầu quan tâm tới việc viết sách cho các độc giả nhỏ tuổi. Sự ra đời của văn học thiếu nhi, cố nhiên, liên quan tới nhiều nguyên nhân khác nhau - trong đó, không thể bỏ qua vai trò của chữ quốc ngữ.

Từ cuối thế kỷ XIX, chữ quốc ngữ đã được chính quyền đương thời đưa vào sử dụng trong công sở và nhà trường. Theo ghi nhận chung, ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và các địa phương khác có nhiều trường lớp được mở ra, trẻ em đi học ngày một đông. Nhờ đó, một lớp độc giả mới hình thành, ham thích đọc sách và đủ khả năng tiếp xúc trực tiếp với tác phẩm văn chương. Thực tế này đã đặt ra cho các nhà văn nhiệm vụ là phải viết sách cho các em xem, tránh cho các em phải đọc các loại sách báo nhảm nhí, độc hại. Với đặc điểm "dễ đọc, dễ viết", chữ quốc ngữ trở thành một phương tiện phù hợp, bảo đảm cho hoạt động sáng tác và tiếp nhận văn học diễn ra thuận lợi. Nói cách khác, nếu không có chữ quốc ngữ, văn học thiếu nhi khó có thể nảy sinh vào những năm đầu thế kỷ XX. Nhận định này càng trở nên chắc chắn khi chúng ta nhìn lại thời kỳ trung đại, thấy hoàn toàn thiếu vắng tác phẩm văn học thiếu nhi. Lý do của hiện tượng này, hẳn nhiên, có liên quan tới những trở ngại do chữ Hán, chữ Nôm gây ra.

Nơi khởi phát văn học thiếu nhi

Lâu nay, các nhà nghiên cứu đều thống nhất văn học thiếu nhi xuất hiện vào những năm 20 của thế kỷ XX. Khi đưa ra nhận định như vậy, các nhà nghiên cứu đã dựa vào thời điểm ra đời của tiểu thuyết "Quả dưa đỏ" (Nguyễn Trọng Thuật - năm 1925) và tập thơ "Nhi đồng lạc viên" (Nguyễn Văn Ngọc - năm 1928). Giờ đây, lúc sách báo Làng Sông được "khai quật", chúng ta không khỏi ngỡ ngàng khi biết thêm những tác phẩm mới, ra đời còn sớm hơn tiểu thuyết của Nguyễn Trọng Thuật. Cụ thể, đó là "Trước cửa thiên đàng" (Jacques Đức - xuất bản 1923) và "Vì thương chẳng nệ" (Đảnh Sơn - 1924). Cả hai đều là tác phẩm kịch, viết theo phong cách kịch nói của phương Tây. Đặc biệt, trên bìa chính mỗi cuốn sách đều có dòng chữ rất trân trọng: "Cho nhi đồng nữ".

Cùng thời với Làng Sông, còn có 2 cơ sở in ấn chữ quốc ngữ khác là nhà in Đàng Ngoài (Hà Nội) và Tây Đàng Trong (Gia Định). Cả 3 cơ sở này đã xuất bản hàng ngàn ấn phẩm sách báo khác nhau. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, nguồn sách báo này bị mất mát gần hết. Hiện tại, chỉ còn một ít sách báo của Làng Sông được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Hà Nội (241 đầu sách) và Thư viện Quốc gia Pháp (các số báo Lời thăm). Lưu ý tới điều này để thấy trong tình hình tư liệu như hiện tại, hoàn toàn có thể xem Làng Sông là nơi khởi phát của văn học thiếu nhi Việt Nam. Đó là một vinh dự, một đóng góp của Nước Mặn - Làng Sông (Bình Định) trên tư cách nơi khai sinh, đồng thời là trung tâm truyền bá chữ quốc ngữ.

Chỗ thú vị là Làng Sông không chỉ sử dụng nguồn bản thảo từ Nam Bộ gửi ra mà còn có tác giả sáng tác tại chỗ. Chúng tôi muốn nhắc đến Pierre Lục (1868-1927), tác giả của nhiều cuốn sách cho trẻ em. Trong đó, "Hai chị em lưu lạc" là cuốn sách cuối cùng, một "tiểu thuyết cho trẻ nhỏ" hướng vào hai mục đích căn bản của văn học thiếu nhi là giải trí và giáo dục. Trong lời "Tựa", ông viết như sau: "Đã có nhiều tiểu thuyết cho người lớn mà chưa thấy tiểu thuyết cho trẻ nhỏ coi chơi. Vậy tôi soạn cuốn này đặng cho trẻ nhỏ coi, chẳng những giải khuây, mà lại nhứt là đặng học đòi gương lành thói tốt".

Ngày nay, nghệ thuật văn học thiếu nhi đã thay đổi nhiều, song các tác phẩm của Làng Sông vẫn không vì thế mà suy giảm giá trị. Để phát huy đầy đủ giá trị của di sản sách báo Làng Sông, trong đó có các tác phẩm văn học thiếu nhi, thiết nghĩ cần phải nhanh chóng tái bản và nghiên cứu một cách hệ thống. 

Truyền dạy lòng nhân ái

Trải gần một thế kỷ hoạt động, nhà in Làng Sông đã xuất bản được một khối lượng lớn sách báo quốc ngữ, góp phần quan trọng vào công cuộc truyền bá chữ viết và văn hóa quốc ngữ những năm đầu thế kỷ XX.

Văn học thiếu nhi Làng Sông mang đậm màu sắc Kitô giáo. Đó là điều dễ hiểu, khi các cây bút là người công giáo. Tuy vậy, những bài học giáo dục mà họ chủ trương truyền dạy cho các em như lòng nhân ái, đức tin, hiếu kính... luôn phù hợp với quan niệm chung của xã hội. Do đó, các tác phẩm có khả năng mở rộng được tầm ảnh hưởng đối với bạn đọc cả trong và ngoài cộng đồng Kitô giáo.

Lê Nhật Ký (Trường Đại học Quy Nhơn)

Nguồn: Người lao động, ngày 25.12.2019.

(Đọc khúc thụy du của Du Tử Lê[1])

(TBKTSG) - Mùa hè năm 2014, Du Tử Lê đã trở về ra mắt tập thơ Giỏ hoa thời mới lớn với công chúng Sài Gòn và Hà Nội. Năm nay, nhà thơ lại có mặt tại quê nhà với hai cuốn sách: khúc thụy du (tuyển thơ) và giữ đời cho nhau (văn xuôi). Có thể nói, sự kiện này không chỉ là tin vui với tác giả mà còn là với người đọc Việt Nam.

20191012 Du Tu Le
Ảnh: Từ phải qua trái: Du Tử Lê, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Quốc Thái, Huỳnh Như Phương.

Chẳng phải thế sao, khi tên của Du Tử Lê đã nằm trong ký ức nhiều thế hệ, khi lời thơ của ông đã vang trên những đôi môi của bao người yêu âm nhạc mà giờ đây chỉ một vài cuốn sách mới được tái trình làng. Người già bâng khuâng hoài nhớ văn đàn một thuở, người trẻ chạm đến một không gian chữ nghĩa khác, in đậm dấu ấn của xưa và nay, bởi 60 năm qua Du Tử Lê chưa bao giờ ngừng viết, dù trải qua bao biến cố và giờ chỉ còn vài năm thì đã gần đến tuổi tám mươi.

“khúc thụy du” là một tuyển thơ khá đặc biệt. Những người làm tập sách đã tuyên bố rất rõ về “một lối hẹp” mà họ nghĩ là tương thích với tình thế thi ca, với người đọc, và tất nhiên, với nhà thơ: thời điểm, biến cố, sự kiện (xã hội và cá nhân) như những phông nền sẽ mờ đi, các sắc màu đích thực thắm tươi qua năm tháng, và các hương vị bền lâu trong lớp lớp chữ lời của văn bản đã không ngừng tỏa lan qua giai điệu sẽ nổi lên theo nguyên tắc chụp cận cảnh. Thật là một ý tưởng thú vị!

Những sắc màu đích thực và những hương vị bền lâu nơi thơ Du Tử Lê là gì? Lại cũng vẫn là thơ tình, theo nghĩa hẹp (tình ái) và nghĩa rộng (tình yêu), với bốn mươi chín bài, hầu hết đã được chắp cánh bằng âm nhạc bởi các nhạc sĩ qua nhiều thế hệ: Phạm Duy, Phạm Đình Chương, Anh Bằng, Trần Duy Đức...

Những ai nôn nóng muốn tìm ra đường ngay, ngả thẳng cũng sẽ bối rối khi bước vào nội thất “khúc thụy du”. Ranh giới logic và của Phần 1. Trôi, những ngày neo bão (27 bài thơ) và Phần 2. Người về như bụi (22 bài thơ) là gì, mà bản thân hai tiêu đề nghe rất gợi, rất thơ? Không phải thời gian, không phải không gian thì đã hẳn, nhưng hình như cũng không phải thể loại hay chủ đề. Thì thôi vậy, nhà thơ và người tuyển đã có tâm thế rong chơi thì người đọc cũng thủng thẳng mà theo họ khám phá sắc hương và lắng nghe những xôn xao tái sinh hay vụt hiện trong lòng mình.

Những câu thơ đã quá quen của Du Tử Lê như “chỉ nhớ người thôi đủ hết đời” (lúc người chết); “khi tôi chết hãy mang tôi ra biển (khi tôi chết hãy đem tôi ra biển); “như con chim bói cá/trên cọc nhọn trăm năm/tôi tìm đời đánh mất/trên vụng nước cuộc đời...” (khúc thụy du)... sẽ được đọc lại trong ám ảnh của âm giai bài hát. Nhưng quan trọng hơn là hiệu ứng dây chuyền (domino) giữa nhiều bài cũ-mới, sẽ mang đến một hợp âm có âm vực sâu và âm phổ rộng, làm những người từng biết một Du Tử Lê trong quá khứ sẽ ngỡ ngàng thán phục ông. Linh hoạt trong thể loại (5 chữ, 7 chữ, 8 chữ, lục bát, tự do), đa dạng trong cảm hứng (ái tình, tự tình, thế sự, quê hương, mẹ...), biến hóa trong giọng điệu (tỉnh lạnh, nồng cháy, kịch tính, tra vấn...), phong phú trong hình ảnh và âm thanh: Phải chăng nhờ những điều này mà thơ Du Tử Lê được phổ nhạc nhiều? Có lẽ, còn một yếu tố nữa: những câu chuyện trong thơ ca ông rất gần đời sống, rất sát con người, cả ý tưởng và hình thức biểu đạt. Thơ Du Tử Lê có nhiều từ ngữ và âm giai độc đáo, gây ấn tượng mạnh, nhưng thơ ông ít cầu kỳ, làm dáng, ít vướng vào những cái thời thượng và thường nâng niu những vẻ đẹp long lanh trong truyền thống Việt và phương Đông.

Người ta hay nhớ đến Du Tử Lê như là “ca nhân của ái tình”, riêng trong khúc thụy du, tôi đặc biệt xúc động với những bài về mẹ của ông: cõi mẹ về, thương mẹ đã lưng đồi; và những tự sự của người đàn ông đi qua dâu bể, thấm thía cái khổ làm người: kẻ từ phương đông qua, khi tôi chết hãy đem tôi ra biển, ngọn nến/tôi/cháy hết vẫn ngậm ngùi...

Hơn 60 năm làm thơ viết văn liên tục với 70 tác phẩm và đến nay vẫn còn dồi dào sức sáng tạo, nhà thơ đã thể hiện năng lượng đúng cái tên mà cha mẹ ban cho: Lê Cự Phách, với phong cách của một người rong chơi giữa trần ai như bút danh mình tự đặt: Du Tử Lê.

Nguyễn Thị Thanh Xuân


[1] Phanbook - Nxb Hội Nhà văn, 2018. Toàn bộ các tên tác phẩm chữ đầu viết thường, đúng theo ý tác giả trên văn bản

Nguồn: Thời báo Kinh tế Sài Gòn, ngày 26.9.2018.

TTO - Sự nghiệp văn chương và kỷ niệm sinh hoạt của nhà văn Bùi Hiển vừa được trân trọng nhắc lại tại Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM sáng 23-12 nhân dịp ra mắt tập sách 'Bùi Hiển người đánh thức lương tri'.

20191224

PGS. TS. Võ Văn Nhơn (bìa trái) đang trình bày những điểm tâm đắc trên hành trình văn nghiệp của Bùi Hiển - Ảnh: L.ĐIỀN

Tập sách được gia đình nhà văn Bùi Hiển soạn lục nội dung từ các thư từ qua lại giữa Bùi Hiển với cha ông, với vợ, con, bạn văn đồng nghiệp. Đặc biệt là từ 70 tập nhật ký chép tay do Bùi Hiển cẩn thận ghi lại những gì ông chứng kiến từ năm 1946 đến tận những năm 2000.

Khách mời trò chuyện về văn nghiệp của Bùi Hiển là phó giáo sư, tiến sĩ Võ Văn Nhơn và phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Xuân - hai người cùng theo dõi hành trình văn chương của Bùi Hiển và dành cho nhà văn khởi nghiệp từ thời tiền chiến này nhiều cảm tình đặc biệt.

Phản ảnh con người một cách chân thực

Bàn về buổi đầu viết văn của Bùi Hiển, tiến sĩ Võ Văn Nhơn nhắc một truyện ngắn của Bùi Hiển từng được giáo sư Hoàng Như Mai trân trọng nhắc đến, đó là truyện Ánh mắt.

Theo ông Nhơn, Ánh mắt phản ảnh con người một cách chân thực trong chiến tranh. Truyện kể về ba anh lính vệ quốc quân sau buổi đầu tham gia kháng chiến với những hình dung lãng mạn hào hùng đã vấp phải sự thật khắc nghiệt.

Một anh lính bỏ trốn, một anh sốt rét chết, còn một anh trong khi lạc đơn vị đói khát cùng cực và trên người đầy ghẻ lở, đã bắt gặp ánh mắt của một bé gái, em đem cho anh mấy củ khoai, và từ ánh nhìn của em bé, anh bộ đội đã bước lại về phía chiến khu. Dù vậy, truyện ngắn này khi đăng báo Văn Nghệ đã bị rầy rà.

Tiến sĩ Võ Văn Nhơn còn nhắc một truyện khác của Bùi Hiển, xuất hiện sau này là Cái bóng cọc. Truyện có kể về một người ở khu tập thể, dậy sớm tập thể dục và ấn tượng ở khả năng đứng yên như cái cọc. Nhưng rồi một hôm nhân vật chính phát hiện ra ông này đứng yên như vậy cạnh vòi nước ai đó quên tắt và nước cứ thế chảy lãng phí...

Điều tâm đắc của tiến sĩ Võ Văn Nhơn ở Bùi Hiển chính là quan niệm sáng tác xem con người luôn có tính nhị nguyên: Dựng một nhân vật cần có cả hai mặt tốt xấu và cuộc đấu tranh của hai mặt ấy.

Cô Bùi Cẩm Hà đang thuật lại quá trình làm bản thảo cho tập sách của ông nội - Ảnh: L.ĐIỀN

Một đời văn liền mạch

Theo phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Xuân, cuộc đời nhà văn Bùi Hiển có được một số may mắn: Khởi nghiệp và được ghi nhận ngay từ truyện ngắn đầu tiên (Nằm vạ) đăng trên báo Ngày Nay (1940), với nhận xét sâu sắc và quan trọng của Thạch Lam:

"Đó là bức tranh có giá trị về cảnh sinh hoạt trong xóm làng. Lối viết của ông giản dị và mạnh mẽ, thoáng qua một chút duyên kín đáo và có nhiều nhận xét tinh vi". Đến năm 1941 thì có truyện in trong tập Nằm vạ; năm 1942 Vũ Ngọc Phan đưa ông vào Nhà văn hiện đại.

Bên cạnh đó, một may mắn nữa của Bùi Hiển theo tiến sĩ Thanh Xuân, là ông được viết về quê hương xứ Nghệ của mình, mà hình tượng phụ nữ xứ Nghệ trong văn ông là một mảng đề tài thú vị còn chưa được tìm hiểu tới nơi tới chốn.Và đến tập sách này, thì lại là một thế giới khác, một thế giới riêng tây của nhà văn mà gia đình còn giữ được thật quý giá. "Tôi thấy mình phải bước nhẹ, rón rén vào tập nhật ký này của ông" - bà Xuân tự nhận.

Đáng kể nhất của Bùi Hiển là ông có một đời văn liền mạch không gián đoạn. Ông chứng kiến nhiều biến động của lịch sử văn học hiện đại nước nhà và bình thản vượt qua.

Trong tập sách này, ở giai đoạn năm 1958 khi vụ Nhân văn giai phẩm xảy ra, cũng có những đoạn nhật ký của Bùi Hiển được công bố. "Mặc dù ngắn thôi, nhưng cũng cho thấy thái độ của ông về các vấn đề mà ông chứng kiến", cô Bùi Cẩm Hà - cháu nội nhà văn Bùi Hiển chia sẻ.

Với sự nghiệp của Bùi Hiển, tiến sĩ Nguyễn Thị Thanh Xuân nêu gợi ý có lẽ gia đình và văn giới nên bắt tay làm toàn tập Bùi Hiển, và "có lẽ khoa Văn của chúng tôi cũng sẽ có các công trình, đề tài nghiên cứu về Bùi Hiển trong thời gian tới".

Sách Bùi Hiển người đánh thức lương tri gồm các phần nội dung:

Con đường văn chương và nhật ký: rút từ 70 cuốn nhật ký của Bùi Hiển để thấy được hành trình viết văn và hoạt động của ông xuyên qua hai cuộc kháng chiến, vắt sang thời hậu chiến và đổi mới.

Ân tình bè bạn: thư từ của bạn văn, thân hữu trao đổi cùng Bùi Hiển, gia đình chọn lọc giới thiệu tiêu biểu một số thư từ năm 1941 đến 2001.

Gia đình: có lá thư cụ Bùi Công Trứ gửi cho con là Bùi Hiển, một số đoạn nhật ký về gia đình; các lá thư gửi cho anh em trong gia đình và thư gửi vợ, con...

Trong ký ức người thân: những trang viết của các thành viên trong đại gia đình dành cho Bùi Hiển...

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 23.12.2019.

TTO - Trái tim nhà thơ Du Tử Lê vừa ngừng đập lúc 8 giờ 6 phút tối thứ hai 7-10 (theo giờ Mỹ) tại nhà riêng của ông ở Garden Grove (Mỹ), hưởng thọ 77 tuổi, theo thông tin từ người nhà phát đi trên trang cá nhân trưa nay.

20191010 Du Tu Le

Nhà thơ Du Tử Lê - Ảnh: TRIẾT TRẦN

"Tôi quan niệm, mỗi cá nhân trước khi sinh ra đã được Thượng đế chọn trước một nghề nghiệp hay công việc thích hợp. Điều mà chúng ta gọi một cách nôm na là năng khiếu hay "cái khiếu". Cá nhân, tôi nghĩ tôi sống sót được tới ngày hôm nay nhờ tình yêu văn chương. Trước đây khi còn ở trên quê hương, tôi không thấy văn chương thực sự "cứu rỗi" tôi như những năm tháng tôi luân lạc xứ người... Vì thế, tôi tự nhủ, hãy viết, cứ viết cho tới ngày nào sức khỏe, khả năng không còn cho phép."

Nhà thơ Du Tử Lê từng tâm sự với báo Tuổi Trẻ tháng 6-2018

Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách, sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam. Ông là nhà thơ có tiếng tại miền Nam từ trước 1975. 

Du Tử Lê tham gia giới viết văn làm báo, là chứng nhân của nhiều trào lưu văn nghệ tại miền Nam trước đây. 

Những kinh nghiệm từ quãng đời này giúp ông viết thành một số công trình có tính chất tổng thuật và khảo cứu về văn nghệ miền Nam trước 1975: Phác họa toàn cảnh sinh hoạt 20 năm VHNT miền Nam 1954-1975, Sơ lược 40 năm văn học nghệ thuật Việt 1975-2015.

Du Tử Lê làm thơ từ rất sớm, bút hiệu Du Tử Lê được dùng chính thức từ năm 1958 trên tạp chí Mai.

Nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam từng yêu thơ Du Tử Lê, đặc biệt cả giới trẻ trước và sau 1975 có nhiều người hâm mộ bài hát Khúc Thụy Du vốn được nhạc sĩ Anh Bằng phổ từ bài thơ cùng tên của Du Tử Lê. 

Khúc Thụy Du được Du Tử Lê viết từ tháng 3-1968, như một phần cảm thức của người trẻ trước cuộc chiến đang lan rộng tại Việt Nam.

Du Tử Lê định cư tại Mỹ sau ngày 30-4-1975.

Theo thống kê chưa đầy đủ, Du Tử Lê có hơn 70 tác phẩm đã xuất bản. Những năm gần đây, một số sách của ông trở lại với bạn đọc trong nước thông qua các đơn vị xuất bản:

- Du Tử Lê tùy bút tuyển chọn (2015)

- Với nhau, một ngày nào (tản văn, 2018)

- Trên ngọn tình sầu (tập thơ, 2018)

- Chỉ nhớ người thôi, đủ hết đời (tùy bút dạng hồi ký, 2017) 

- Khúc thụy du (tuyển thơ, 2018)

- Giữ đời cho nhau (tuyển tùy bút, 2018)

- Chúng ta, những con đường (thơ, 2019)...

Theo ghi nhận của người trong giới, Du Tử Lê bên cạnh Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Bùi Giáng, Nguyên Sa, Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên làm nên bảy gương mặt thơ xuất sắc nhất miền Nam thời trước 1975.

Về hoạt động liên quan đến thơ, từ năm 1981 tới nay, nhà thơ Du Tử Lê có nhiều buổi thuyết trình tại một số đại học tại Hoa Kỳ, Pháp, Đức, và Úc. Ông từng hai lần được mời đến đại học Harvard để nói chuyện về thơ của mình. 

Từ năm 2009 tới 2012, mỗi năm Du Tử Lê đều có ít nhất một lần thuyết trình về thơ tại đại học UC Berkeley và đại học Cal State Fullerton.

Sự nghiệp thơ của Du Tử Lê từng được một học viên cao học tại Đại học Khoa học, xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội là Trần Thị Như Ngọc chọn làm luận văn tốt nghiệp, nhan đề Thơ Du Tử Lê dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật thuộc chuyên ngành Lý luận văn học. 

Một số sách và bản thảo của Du Tử Lê vẫn đang được các đơn vị làm sách trong nước giao dịch với ý định sẽ ấn hành trong tương lai.

Du Tử Lê (Lê Cự Phách) sinh năm 1942 tại Kim Bảng, Hà Nam. Ông là tác giả của 70 tập thơ, văn xuôi. Ông học Đại học Văn khoa Sài Gòn, tu nghiệp báo chí tại Indianapolis, Indiana (1969). Giải thưởng Văn chương toàn quốc tại Sài Gòn năm 1973 (tập Thơ tình Du Tử Lê 1967-1972).

Thập niên 1980-1990, thơ ông xuất hiện trên Los Angeles Times và New York Times. Thơ ông được dịch trong tuyển tập Understanding Vietnam (liên Đại học Berkeley, UCLA, London ấn hành; là sách giáo khoa về văn học Việt Nam cho nhiều đại học tại châu Âu).

Ông là một trong sáu nhà thơ Việt Nam thế kỷ 20 có thơ dịch trong tuyển tập World Poetry - An Anthology of Verse from Antiquity to Our Time (W.W. Norton New York, 1998). Ông từng thuyết trình về sáng tạo thơ ca tại một số đại học ở Mỹ, Pháp, Đức và Úc. Ông cư ngụ tại Garden Grove, Nam California (Mỹ).

Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành các ca khúc nổi tiếng.

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 09.10.2019.

 

20191214 Khe iem

Ảnh: internet

1. Chưa bao giờ, đọc một tiểu luận về thơ mà sự ám ảnh của nó đối với tôi mạnh mẽ đến thế!? Ý tưởng réo gọi ý tưởng, tập tiểu luận là công trình nghiên cứu công phu, nghiêm cẩn và sâu sắc về thơ, trong đó có thơ Tân hình thức đã cuốn hút, dẫn dụ tôi đi vào “ma trận” của những suy niệm về thơ mà ở đó, tưởng đâu gặp những diễn ngôn tắt tị, rối rắm, mơ hồ, nhiều khi đến khó hiểu như vẫn thường gặp ở một số bài nghiên cứu, lý luận, phê bình về thơ. Nhưng không, khi đọc tập tiểu luận Vũ điệu không vần của nhà thơ Khế Iêm, tôi luôn bắt gặp ở đó những suy tưởng chứa đầy sắc hương và ánh sáng. Đó là thứ hương sắc của tâm hồn, của cảm xúc và ánh sáng của trí tuệ với những luận giải về thơ đầy chất triết luận và một tình yêu thơ ca mãnh liệt, thể hiện một khao khát cháy bỏng về hành trình đổi mới thơ như một sứ mệnh.

2. Trong suy luận của Khế Iêm, thơ Tân hình thức không chỉ là thơ của một thế giới khác lạ, mà đó là thơ của cuộc sống đời thường, của thế giới tâm tưởng, của hoài niệm và ước mơ. Bạn hãy cầm và đọc tập tiểu luận đầy sức ám gợi có tên “Vũ điệu không vần” sẽ thấy những điều tôi cảm nhận và chia sẻ với bạn không phải là vu vơ, là không có cơ sở khoa học và thực tiễn. Bởi, nói như nhà thơ Khế Iêm “Những ngành khác có thể đưa chúng ta đến vinh quang nhưng thơ ngược lại, đưa chúng ta trở lại đời thường, mà đời thường thì có cả những dị thường”(1) . Cái “dị thường” ở đây, phải chăng là sự thể hiện một hệ giá trị của “cái khác”, của “sự khác”, là sự làm mới cái bình thường này bằng nột cái bình thường khác. Và đây chính là một trong những yếu tính trong sáng tạo thơ ca. Mệnh đề có tính triết luận này nghe rất lạ nhưng lại rất gần gũi. Bởi, cuộc đời vốn là nơi trú ngụ của những cái bình thường và chính những cái bình thường này là thước đo để kiểm chứng mọi giá trị, trong đó có giá trị thơ ca. Thơ Tân hình thức là thơ của đời thường nên nó không thể không hiện hữu giữa đời thường. Bởi, nói như nhà thơ Khế Iêm: “Thơ không còn tùy thuộc vào nỗ lực từ cá nhân mà là những vận động rộng lớn của cả một thế hệ, như một trào lưu, xác định tiếng nói và bản chất của một nền văn hóa ở một thời điểm đặc biệt của lịch sử thi ca. Nhưng nhà thơ khi chọn một ngôn ngữ bởi sự quyến rũ và lòng yêu mến, và là ngôn ngữ họ có khả năng nhất để biểu hiện thơ, ở đây là tiếng Việt, cớ gì không hợp quần, nhiều phong cách làm một phong cách, nhiều tiếng nói làm một tiếng nói, thành một phong trào đầy tự tin và hào hứng. Điều này đòi hỏi chúng ta phải xóa bỏ những định kiến và tự mãn cá nhân, chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm trong tinh thần giống như thi pháp đời thường, có gì là quan trọng và ghê gớm đâu”.(2)

Trên cuộc đời, mọi cái đều diễn ra bình thường, thậm chí vô thường, mà nhà thơ Khế Iêm gọi là “thi pháp đời thường” nên thi pháp thơ, trong đó có thơ Tân hình thức cũng không nằm ngoài tâm thức ấy. Đến với thơ là trở về với “thi pháp đời thường”, để người ta có thể chia sẻ những vấn đề “bình thường” trong cuộc sống, nhằm tìm lại cho mình những giây phút an nhiên. Đây là một nhu cầu không chỉ của người đọc thơ mà cũng là của người làm thơ. Khi chia sẻ những điều ấy, mỗi nhà thơ có thể chọn cho mình một phong cách, một thi pháp, một kiểu ngữ ngôn riêng theo mỹ cảm của mình mà thơ Tân hình thức là một trong những kiểu thi pháp ấy. Và sự phủ định lẫn nhau giữa các kiểu thi pháp, các trường phái, trong sự vận động và phát triển của thơ và hành trình sáng tạo của mỗi nhà thơ là điều tất yếu của quy luật sáng tạo. Thế nên, việc chúng ta mở lòng và chuẩn bị tâm thế đón nhận những thi pháp mới, trong đó có thi pháp thơ Tân hình thức cũng là một ứng xử văn hóa của việc tiếp nhận và sáng tạo thi ca. Ta hãy nghe nhà thơ Khế Iêm chia sẻ để thấu hiểu hơn về sự chọn lựa thơ Tân hình thức của mình: “Đề cập tới thơ cổ điển, tiền chiến hay thơ tự do Việt không phải là để phán đoán. Mà rút ra từ kinh nghiệm của chính tôi. Ở thời kỳ đầu, tôi làm đủ thể loại từ thơ vần đến thơ tự do, chủ ý làm mới cảm xúc và ngôn ngữ và thấy rằng cũng chỉ làm mới Tiền Chiến, và nếu có một chút giá trị thì đó là giá trị của một chặng đường đã qua (tập thơ Thanh Xuân). Tới thời kỳ thứ hai, tôi thoát hẳn ra bằng cách sử dụng dòng động lực và sự chuyển động của ngôn ngữ, đi tìm một cấu trúc mới (tập thơ Dấu Quê). Tiếp tục theo đó là những kết hợp giữa thơ và nhiều nguồn khác nhau như thơ và kịch, kể cả bằng graphic… và tưởng rằng đã đi khá xa so với thời kỳ đầu”(3) . Nhưng rồi, ai đó không thể vượt qua chính mình trong hành tình sáng tạo, bởi sáng tạo nào cũng không chấp nhận sự đứng lại, sự đóng băng, sự trì trệ, bảo thủ khi mãi giam mình trong một “thành trì” tưởng chừng vững chắc, nhưng đó là sự vững chắc nhằm che chắn cho những giới hạn và thất bại của mình, điều này hoàn toàn đi ngược với quy luật của sự sáng tạo, trong đó có sáng tạo thi ca. Và, theo nhà thơ Khế Iêm: “Vấn đề không phải đi xa hay đi gần mà tôi nhận ra thơ có quyền năng và chỉ có thơ mà thôi, cho chúng ta biết giới hạn và thất bại của mình. Nhà thơ đều là những kẻ thất bại và nếu không nhận ra điều đó, có lẽ chẳng bao giờ họ trở thành nhà thơ.”(4) Vì thế, cũng theo nhà thơ Khế Iêm: “Thất bại làm cho nhà thơ nhận ra được chính mình và mọi người, thúc giục họ phải đi tới mãi, cho đến bao giờ không còn đi được nữa. Phủ nhận chẳng qua là phủ nhận những thất bại để làm một thất bại khác. Vấn đề là thất bại lớn hay nhỏ, và chúng ta có dám đối mặt với nó hay không”.(5) Có thể nói, hành trình đến với thơ Tân hình thức của Khế Iêm, theo chúng tôi, cũng là một thể nghiệm và đúng hơn là một thực nghiệm cần thiết trong quá trình sáng tạo để tìm ra một hướng đi mới cho thơ anh. Và sự thể nghiệm này còn nhiều gian nan. Vì thế, để cứu sống thơ không có con đường nào khác, phải luôn đổi mới thơ. Và thơ Tân hình thức trong suy niệm của nhà thơ Khế Iêm là một trong những phương cách làm mới thơ. Nhưng cách làm mới trong thơ Tân hình thức theo nhà thơ Khế Iêm “chẳng dừng ở quan niệm làm mới, vì đó là phương cách của thời hiện đại, mà dùng thể truyền thống hòa trộn với chất hiện đại (bao gồm thơ tự do) giống như kiến trúc hậu hiện đại, tạo thành một thể lai, hoàn toàn khác, không những hóa giải và làm tan biến truyền thống, mà cả hiện đại”.(6)

Như vậy, trong suy niệm của nhà thơ Khế Iêm, thơ Tân hình thức không phải là cái gì hoàn toàn mới lạ và xa lạ mà nó là một sự làm mới lạ những cái vốn đã cũ, thậm chí quá quen thuộc, để phù hợp với khí quyển của thời đại lịch sử và văn hóa mới, hầu tạo ra sân chơi mới, diễn đàn mới, một lực hấp dẫn mới cho thi nhân cũng như người đọc. Vì thế, chúng ta không nên thờ ơ, xa lạ, thậm chí phản kháng thơ Tân hình thức mà hãy đến với nó bằng tất cả sự đam mê hiểu biết, khám phá và sáng tạo, chúng ta sẽ nhận ra chân giá trị trong sự đổi mới của thi pháp thơ Tân hình thức vốn cũng không có gì xa lạ với cảm quan mỹ học trong thi pháp thơ Việt truyền thống. Bởi, “Đổi mới thơ, chính là đổi mới phương cách tạo nhạc, luật tắc và phương pháp biểu hiện. Thơ cổ điển và Tiền Chiến phải ngâm, thơ Tân hình thức chỉ để đọc, nhưng khác với thơ tự do trước đó, thơ Tân hình thức có những luật tắc căn bản để tạo thành nhịp điệu, và người làm thơ theo đó phát huy được nhạc tính cho thơ. Khi đọc chúng ta, cảm thấy thanh thoát tự nhiên, như đang hít thở không khí, gặp gỡ ngoài đường phố, giao tiếp với bạn bè và với mọi người. Đó là thứ âm nhạc trò chuyện (music of conversation), phong phú và hàm súc, mỗi lúc mỗi khác và những khoảng khắc có thực của thực tại. Thơ được chắt lọc và bước ra từ thực tại, mà thực tại thì không nằm ở trong mù sương, thuộc về quặng mỏ chứa đầy chất đời”.(7) Và, cũng như các thể loại văn học khác, thơ Tân hình thức, một trong những thể loại thơ bắt nguồn từ cuộc sống và trở lại phục vụ cuộc sống, thắp sáng ước mơ của con người, giúp con người đi về phía ánh sáng chứ không phải “ở trong mù sương”. Và để làm được sứ mệnh cao cả ấy, thơ nói chung, trong đó có thơ Tân hình thức rất cần sự dũng cảm vượt thoát chính mình của các nhà thơ. Bởi, hơn ai hết, nhà thơ là người có đủ quyền lực và năng lực đập tan cái vỏ kén, để cho con tằm “thơ” nhả ra chất tơ óng mượt, lung linh của thơ. Nhưng trong suy nghĩ của nhà thơ Khế Iêm “bây giờ có lẽ còn quá sớm để tiên đoán, thơ có ra khỏi và làm một bước ngoặt mới, tùy thuộc vào những nhà thơ có dám dứt khoát với những giấc mộng đêm qua”.(8) “Giấc mộng đêm qua”. Đó là những ám ảnh của quá khứ, của thói quen, của sự bảo thủ nên thi nhân phải tạo cho mình một quán tính mới, biết “chất vấn thói quen”, phải tự mình phân tích, luận giải trước những ám ảnh của quá khứ, của thói quen để luôn đổi mới mình, đổi mới thơ và tự tìm cho mình những con đường mới, chân trời mới mà thơ Tân hình thức là một trong những chân trời để thi nhân chọn lựa!?

Song, trong văn chương để cho một thể loại được tồn sinh không chỉ lệ thuộc vào người sáng tạo ra nó là nhà văn hay nhà thơ mà còn lệ thuộc ở người tiếp nhận. Đó chính là người đọc. Bởi, một văn bản chỉ trở thành tác phẩm văn học khi văn bản đó được người đọc tiếp nhận. Vì thế, thể thơ Tân hình thức muốn tồn tại, không những cần có sự đổi mới trong tư duy sáng tạo của nhà thơ mà còn cần có sự đổi mới trong tư duy tiếp nhận của người đọc. Nghĩa là, người đọc cũng phải làm quen với việc tiếp nhận thi pháp thơ Tân hình thức như làm quen với một món ăn mới và đưa nó vào thực đơn thơ một cách tự nhiên, để làm phong phú mỹ cảm tiếp nhận thơ của mình. Có như thế, thơ Tân hình thức mới hiện hữu trong đời sống văn chương như tác giả Vũ điệu không vần đã xác quyết: “Cuối cùng cần nhấn mạnh một lần nữa, thơ Tân hình thức gồm ngữ điệu tự nhiên của những câu nói thông thường, vắt dòng và kỹ thuật lập lại. Vấn đề là sử dụng kỹ thuật lập lại làm sao để chuyển nhịp điệu từ những biến cố tự nhiên thành nhịp điệu thơ, không bài thơ nào giống bài thơ nào, điều đó tùy thuộc tài năng và kinh nghiệm của từng nhà thơ, vừa đơn giản vừa phức tạp, là một ẩn số khó ai nói trước. Những nguyên tắc đó và yếu tố thơ đóng vai trò, là giao ước ngầm giữa người đọc và tác phẩm, giúp người đọc nhập vào với những biến chuyển và tình tiết của bài thơ.”(9)

Trong những suy niệm của nhà thơ Khế Iêm, vai trò của người đọc trong thơ Tân hình thức có vị thế vô cùng quan trọng. Người đọc đã trở thành một thành tố đồng sáng tạo với nhà thơ, quyết định giá trị và sự tồn sinh của tác phẩm thơ. Bởi, “Một bài thơ luôn luôn hàm chứa hai yếu tố, vừa quen (thể luật, nguyên tắc) để lôi cuốn và dẫn dụ người đọc, vừa lạ (nhịp điệu, tư tưởng) để hướng người đọc vào thế giới sáng tạo. Như vậy, “khi mang những câu nói thông thường vào trong thơ, nói lên tâm tình của nhiều tầng lớp xã hội, nếu chỉ lọc ra những yếu tố thơ thì chưa đủ. Hiệu ứng cánh bướm sự phản hồi và lập lại và những vận hành tự nhiên của thiên nhiên, như một đàn chim bay, một dòng sông, sự tuần hoàn của máu trong cơ thể, một cơn lốc xoáy một đám cháy rừng… sẽ cho chúng ta những ý niệm vô cùng tận để tạo nên nhạc tính phong phú và biến đổi không ngừng cho thơ Tân hình thức. Có nghĩa là mọi chuyện đã sẵn sàng, chỉ còn chờ ánh lửa tài năng của nhà thơ bừng sáng, như trong thí nghiệm về sự đối lưu chất lỏng của Lorenz”.(10)

Không chỉ quan tâm đến hành trình sáng tạo của nhà thơ cũng như sự tiếp nhận của người đọc, trong suy niệm về thơ Tân hình thức, nhà thơ Khế Iêm còn quan tâm luận bàn đến một số phương diện nghệ thuật mà theo cảm nhận của ông, trong một bài thơ Tân hình thức: “Chữ nghĩa, hình ảnh bóng bẩy và cầu kỳ không còn, chỉ còn sự đơn giản tự nhiên như một dòng đời sống. Vần và chỗ ngắt không bất di bất dịch chỉ ở cuối dòng, mà cũng giống như thơ tự do xuất hiện ở những chỗ không thể đoán trước”.(11) Đồng thời, để định hướng cho sự sáng tạo và cảm nhận thơ, Khế Iêm cũng bàn đến tiêu chuẩn một bài thơ hay mà theo quan điểm của ông: “Cái hay của thơ Tân hình thức Việt là cái hay của ý tưởng và nhịp điệu. Ngôn ngữ đơn giản dễ hiểu, nhưng nhịp điệu và ý tưởng phải mới mẻ và sâu sắc.”(12)

Và để cho thơ Tân hình thức hiện hữu trong cuộc sống con người cũng như trong đời sống văn chương rất cần không chỉ tài năng của nhà thơ, sự tiếp nhận của người đọc mà còn cần sự đồng thuận trước cái mới, cái lạ của cộng đồng, của xã hội

3. Bàn về thơ Tân hình thức, có lẽ với tập tiểu luận Vũ điệu không vần cũng chỉ là những khởi đầu của nhà thơ Khế Iêm, người đã tận hiến biết bao sức lực của đời mình cho sự tồn sinh của thơ, trong đó có thơ Tân hình thức. Nhưng dẫu sao với hơn ba mươi bài viết đầy chất triết luận về thơ trong đó có những bài tác giả đã bàn đến nhiều phương diện về nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật của thơ Tân hình thức như: “Chú giải về thơ Tân hình thức”; “Thơ và Hiệu Ứng Cánh Bướm”; “Thể Thơ Không Vần”; “Giải Hình Thức”; “Vũ Điệu Không Vần”; “Bài Thơ Tân Hình Thức Đầu Tiên”; “Thơ Tân Hình Thức Đọc”; “Thơ Tình – Từ Tiền Chiến Đến Tân Hình Thức”; “Tân Hình Thức -Nhắc Lại 10 Năm”; “Thơ Tự Do, Một Tiếng Gọi Khác”; “Thơ Bùi Giáng, Một Thử Nghiệm đọc”… Có thể khẳng định nhà thơ Khế Iêm đã trở thành một trong những “chủ tướng” của trường phái thơ Tân hình thức Việt, một thể loại thơ mà anh rất trân quý và muốn nó trở thành một sự tiếp nối tự nhiên trong dòng chảy thơ Việt từ truyền thống đến hiện đại.

Trần Hoài Anh

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 369/11-2019, phiên bản trực tuyến ngày 12.12.2019.

 

...........................................

(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) (11) (12) Khế Iêm (2019), Vũ điệu không vần, tr.18, tr.16, tr.17, tr.17, tr.18, 19, tr.18, tr.17, tr.17, tr.71, tr.72, tr.19, tr.525, tr.23, tr.23, tr.23, tr.525.

Truyện Kiều có một vị trí đặc biệt trong đời sống văn hóa và văn học của dân tộc ta. Một nhà văn ở đầu thế kỷ XX đã ví Truyện Kiều như tờ “trước bạ” ( giống như khái niệm “sổ đỏ” hiện nay) để hình dung vai trò của tác phẩm  đối với việc xác định tư cách văn hóa của người Việt, chủ nhân chân chính của giang sơn gấm vóc. Nếu thiếu đi tác phẩm, chân dung văn hóa của dân tộc ta không thể trọn vẹn. Sức sống và sức hấp dẫn to lớn của kiệt tác đối với người Việt Nam đã khiến cho nhiều học giả nước ngoài quan tâm dịch thuật và nghiên cứu Truyện Kiều như một cách tiếp cận hiệu quả tâm lý, tính cách người Việt. Danh sách hàng ngàn bài báo, hàng chục công trình nghiên cứu của nhiều thế hệ học giả và những người yêu mến tác phẩm trong và ngoài nước suốt thế kỷ XX vẫn đang tiếp tục được nối dài trong thế kỷ XXI. Người ta đã và đang tiếp tục đào sâu suy ngẫm về giá trị nhiều mặt của tập đại thành này. Nhân lần xuất bản văn bản Truyện Kiều, xin được tổng kết, giới thiệu những thành quả nghiên cứu phong phú nói trên để tiện cho việc đọc văn bản và thưởng thức tác phẩm.

1. Thời điểm viết và quá trình phổ biến văn bản, vấn đề tầm nguyên văn bản  Truyện Kiều:

            Truyện Kiều là thực ra là cách gọi tên đã định hình trong thế kỷ XX tác phẩm của Nguyễn Du. Trong thế kỷ XIX, một số bản Nôm như Liễu Văn Đường (1866, 1871), Duy Minh Thị (1872) khắc là Kim Vân Kiều tân truyện, bản quốc ngữ vào loại sớm nhất do Trương Vĩnh Ký cho in năm 1875 tại Sài Gòn đọc là  Kim Vân Kiều truyện. Bản Nôm do Kiều Oánh Mậu cho  in năm 1902 khắc là Đoạn trường tân thanh. Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền có nói Đoạn trường tân thanh được khắp nước truyền tụng song chưa xác định được thời điểm viết gia phả nên giá trị thong tin cũng cần cân nhắc. Tiên Phong Mộng Liên đường chủ nhân trong bài tựa cho tác phẩm này (viết trong đời Minh Mệnh) đã nói rõ Nguyễn Du viết Đoạn trường tân thanh  ...   Trong lời tựa cho văn bản chữ quốc ngữ Truyện Thúy Kiều xuất bản năm 1925, Trần Trọng Kim nói đại để Phạm Quí Thích đã đổi tên Đoạn trường tân thanh thành Kim Vân Kiều tân truyện.  Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na gần đây đã bác bỏ nhận định này mà cho rằng vì Phạm Qúi Thích đã viết bài thơ  Thính Đoạn trường tân thanh hữu cảm với những từ ngữ có nhắc đến bốn chữ tân thanhđoạn trường nên không thể là người đổi tên tùy tiện như vậy. Nhận định tương tự của Trần Trọng Kim đã được Đào Duy Anh nhắc lại trong sách Khảo luận về Kim Vân Kiều xuất bản tại Huế năm 1943, nhưng  ông lại không đưa tên này vào nhan đề sách nghiên cứu của mình mặc dù chính ông nói cần khôi phục tên gọi Đoạn trường tân thanh. Như vậy giữa việc biết tên tác phẩm Nguyễn Du đặt là Đoạn trường tân thanh với việc gọi tên tác phẩm khác đi theo quan niệm riêng là một sự kiện có thực. Chưa rõ vì sao lại có sự lựa chọn khác nhau trong việc gọi tên như vậy ? Tên gọi Truyện Kiều đã xuất hiện ở những năm hai mươi của thế kỷ XX, lúc đầu là Truyện Thúy Kiều ( Nguyễn Đôn Phục có bài viết  “Văn chương và nhân vật Truyện Thúy Kiều, Nam Phong 1922). Đến năm 1924, đã thấy khá phổ biến cách gọi này rồi: Vũ Đình Long đăng nhiều kỳ chuyên khảo Văn chương Truyện Kiều, bài diễn thuyết của Phạm Quỳnh cũng gọi tắt là Truyện Kiều ).

            Đoạn trường tân thanh nghĩa là gì ? Trần Trọng Kim trong bài viết đã nói ở trên giải thích: “Đoạn trường tân thanh nghĩa là tiếng than khóc mới về nỗi đau lòng”. Cách hiểu này rất phổ biến trong suốt thế kỷ XX. Năm 1999, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Na lật lại vấn đề. Ông vạch rõ, “tân thanh” không phải là tiếng kêu hay tiếng nói mới (thanh là danh từ chỉ âm thanh nói chung), đó là tên gọi của một thể viết theo Tân nhạc phủ. Tra Hán ngữ đại từ điển, thấy rõ Tân Nhạc phủ là một thể thơ Nhạc phủ, viết về đề tài mới, về thời sự. “Tân thanh trong nhan đề tác phẩm của Nguyễn Du hàm chứa nhiều nghĩa, chí ít nó cho ta thấy thể loại của tác phẩm, phương pháp sáng tác nhạc điệu của thi phẩm”. Để hiểu hai chữ đoạn trường, ông dẫn ra hai điển khác nhau, một nói về nỗi đau đứt ruột của con vượn mẹ mất con, một kể về kể về nước mắt một người con gái khóc nhớ người yêu , nhỏ xuống chân tường khiến một loài hoa mọc lên, đó là loại hoa thu hải đường vẫn còn được gọi là hoa đoạn trường. Theo ông câu chuyện thứ hai phù hợp hơn vì “đời Kiều là một kiếp hoa đoạn trường bị vùi dập” .   Kết hợp hai từ, tác giả kết luận “ Tên tác phẩm gồm hai yếu tố: yếu tố đầu- đoạn trường mang ý nghĩa chủ đề; yếu tố sau- tân thanh mang tín hiệu về loại hình thể loại[1]

            Tuy vậy, theo nhà nghiên cứu Phạm Luận, cũng phát biểu trong năm 1999,  thì không có căn cứ gì để từ khái niệm tân thanh không thuộc Nhạc phủ cổ đề mà suy luận thuật ngữ này tương đương với truyện thơ Việt Nam. Khái niệm tân thanh như là âm nhạc  cũng không thể là nghĩa của tân thanh trong nhan đề tác phẩm Nguyễn Du. Vậy tân thanh vẫn là tiếng mới đứt ruột. Để bảo vệ cho lập luận của mình, ông lại dẫn lời bình luận của chính Mộng Liên đường chủ nhân “lục tắc cựu nhi đoạn trường chi thanh tắc tân dã”- cái lục phong tình thì vẫn là cái lục cũ mà cái tiếng đoạn trường thì lại là cái tiếng mới vậy[2]. Chúng tôi cũng nghĩ rằng, hiểu như truyền thống là tiếng mới đứt ruột vẫn là cách hiểu có cơ sở hơn về nghĩa của Đoạn trường tân thanh.

            Tên gọi Truyện Kiều là tên gọi tắt của tác phẩm hiện đã trở nên phổ biến và cái lý của hiện tượng gọi tắt này là ở chỗ tác phẩm kể về cuộc đời chìm nổi của nhân vật chính- Thúy Kiều. Thay vì cái tên Đoạn trường tân thanh  gợi đến thái độ, cảm xúc của tác giả, lấy tên nhân vật chính đặt cho tác phẩm lại có lý vì gợi ngay đến nhân vật. Đây là trường hợp hiếm có của văn học sử Việt Nam: người đọc hậu thế đặt tên lại cho tác phẩm họ yêu thích và được tiếp nhận rộng rãi. Phải chăng hiện tượng tiếp nhận rộng rãi này phản ánh phong cách lấy tên nhân vật đặt cho các truyện cổ tích Việt Nam Thạch Sanh, Tấm Cám, các truyện Nôm Việt Nam với cốt truyện không vay mượn của nước ngoài: Phạm Tải Ngọc Hoa, Tống Trân Cúc Hoa, Phương Hoa, Lục Vân Tiên v.v... ? 

(xin xem toàn văn: ở đây)


[1] Nguyễn Đăng Na .  Đoạn trường tân thanh- một mã khóa vào thế giới nghệ thuật Nguyễn Du. In trong sách Đào Thái Tôn. Văn bản Truyện Kiều, nghiên cứu và thảo luận. NXB Hội nhà văn, 2001.

[2] Xin xem: Phạm Luận. Về hai chữ “Tân thanh” trong nhan đề truyện Đoạn trường tân thanh. Tạp chí Văn học, số 11/1999.

20191203 NNT

Văn học trẻ đang có thêm chuyển động với một lứa tác giả mới, lại thêm những cuộc thi sáng tác văn học như một cú huých, một động lực thúc đẩy họ mạnh dạn bước vào chốn văn chương. Nhưng văn chương có cần đông, cần vui? Và làm cách nào để vượt qua ánh hào quang của những giải thưởng văn học đầu đời? Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (trong ảnh) chia sẻ với Thời Nay.

Phóng viên (PV): Thời gian qua chị ngồi ghế giám khảo nhiều cuộc thi sáng tác văn học có đông tác giả trẻ gửi tác phẩm tham dự. Theo chị, chất lượng mảng văn học do những người trẻ kiến tạo đang đi lên hay đi xuống?

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (NNT): Nói lên hay xuống là phải dựa vào một chuẩn mực, một cái mốc nào đó. Nhưng văn học, giá trị của nó phụ thuộc vào thời gian, vào sự sống sau hai mươi hay cả trăm năm nữa. Chúng ta lấy chuẩn nào mà đong đo. Và với những phong cách viết khác nhau, những trường phái, phân cao thấp là không thể.

Nhưng sự đông đảo không phải đã nói được chút nào rồi sao, những cây viết trẻ đang làm nên cơn sóng!

Lễ tổng kết và trao giải cuộc thi truyện ngắn “Một nửa làm đầy thế giới”. Ảnh: TL

PV: Gần đây, có ý kiến cho rằng, các tác giả trẻ hiện đang đối mặt nhiều khó khăn, như không có kinh phí để in sách, sách in xong không ra được thị trường, không được truyền thông biết tới... Chị có bình luận gì và có thể chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân?

NNT: Tôi biết có vài tác giả còn tự viết bài giới thiệu sách mình trên báo, nên nói khó thì chắc là không khó lắm. Các bạn có nhiều phương tiện để giới thiệu tác phẩm, nhất là mạng xã hội. Nếu ta tràn đầy lòng tin rằng tác phẩm của mình hay, nhưng không bán được, thì hãy tự an ủi rằng nhà văn, nhà viết kịch Ireland Samuel Beckett (1906 - 1989) hồi chưa giành Giải Nobel năm 1969, sách cũng ế lắm.

PV: Vừa qua cuộc thi truyện ngắn “Một nửa làm đầy thế giới” với sự tài trợ giải thưởng từ một dự án phát triển văn học dành cho nữ giới mà chị nhận được thông qua Giải thưởng Liberaturpreis 2018 - đã kết thúc. 1.419 truyện ngắn gửi tới tham dự; một giải nhất, một giải nhì, hai giải ba và năm giải tư đã được trao. Theo chị, số lượng tác phẩm tham dự nói lên điều gì, có làm nên chất lượng cuộc thi?

NNT: Chất lượng không được nói bằng con số. Đó là rung cảm mang đến cho người đọc ít nhiều, là vòng sóng có thể lan xa tới đâu. Ngay từ đầu tôi nói với các anh chị trong Ban tổ chức rằng, mình không mong đợi gặp kiệt tác, nhưng số lượng nhiều bất ngờ đó đã an ủi chúng tôi, rằng ít nhất cuộc thi cũng phần nào tác động người viết mở một file trắng ra, và bắt đầu bày chữ.

PV: Chị vừa nói ngay từ đầu đã không kỳ vọng có kiệt tác, nhưng khách quan mà nói, những tác phẩm đoạt giải ở cuộc thi này, có truyện nào khiến chị bất ngờ?

NNT: Tác giả, khi gặp ở buổi trao giải, mới khiến tôi bất ngờ. Có nhiều bạn không phải người viết chuyên nghiệp. Họ nói họ viết vì chủ đề phụ nữ không xa lạ với mình. Những cái tên rất lạ, với riêng tôi, nhưng người của Ban tổ chức nói bạn này bạn kia đã viết khá lâu rồi, đã in một vài đầu sách. Những giấc mộng văn chương luôn được nuôi dưỡng đâu đó, và chúng sẽ lấp lánh đúng lúc.

PV: Từ trải nghiệm của mình, theo chị, các tác giả trẻ nên vượt qua ánh hào quang của những giải thưởng đầu đời như thế nào?

NNT: Có lẽ không cần nói về hào quang nữa, việc các bạn tránh văng mình, bạc màu hoàn toàn vào mạng xã hội đã là một kỳ tích rồi. Bạn được giải một cuộc thi, tức là “chinh phục” được một ban giám khảo. Nhưng còn một thế giới độc giả mênh mông ngoài kia, có thể dễ tính hơn hoặc khắc nghiệt hơn. Tôi nghĩ mình vẫn đang leo khỏi giếng, cứ bám thành giếng lên được một quãng, lại thấy trời rộng hơn.

PV: Cảm ơn nhà văn Nguyễn Ngọc Tư về cuộc trò chuyện này!

Mới đây, NXB Trẻ phát động cuộc viết và vẽ về tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư để tri ân bạn đọc. Theo đó, từ ngày 16-11 đến ngày 30-12, bạn đọc từng đọc và yêu thích các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư có thể gửi bài viết và tranh vẽ dựa trên tất cả sách/truyện ngắn/truyện dài của Nguyễn Ngọc Tư do NXB Trẻ phát hành (gồm: “Cánh đồng bất tận”, “Đảo”, “Đong tấm lòng”, “Gáy người thì lạnh”, “Giao thừa”, “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác”, “Hành lý hư vô”, “Khói trời lộng lẫy”, “Không ai qua sông”, “Ngọn đèn không tắt”, “Sông”, “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư”, “Yêu người ngóng núi”). Bài viết từ 200 - 800 chữ, còn tranh có thể vẽ tay hoặc vẽ trên máy tính. Ban tổ chức sẽ trao giải nhất, nhì, ba cùng nhiều giải thưởng hấp dẫn khác…

Hoàng Thu Phố (thực hiện)

Nguồn, Thời nay, ngày 02.12.2019.

Văn học trẻ đang có thêm chuyển động với một lứa tác giả mới, lại thêm những cuộc thi sáng tác văn học như một cú huých, một động lực thúc đẩy họ mạnh dạn bước vào chốn văn chương. Nhưng văn chương có cần đông, cần vui? Và làm cách nào để vượt qua ánh hào quang của những giải thưởng văn học đầu đời? Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (trong ảnh) chia sẻ với Thời Nay.

Phóng viên (PV): Thời gian qua chị ngồi ghế giám khảo nhiều cuộc thi sáng tác văn học có đông tác giả trẻ gửi tác phẩm tham dự. Theo chị, chất lượng mảng văn học do những người trẻ kiến tạo đang đi lên hay đi xuống?

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư (NNT): Nói lên hay xuống là phải dựa vào một chuẩn mực, một cái mốc nào đó. Nhưng văn học, giá trị của nó phụ thuộc vào thời gian, vào sự sống sau hai mươi hay cả trăm năm nữa. Chúng ta lấy chuẩn nào mà đong đo. Và với những phong cách viết khác nhau, những trường phái, phân cao thấp là không thể.

Nhưng sự đông đảo không phải đã nói được chút nào rồi sao, những cây viết trẻ đang làm nên cơn sóng!

Lễ tổng kết và trao giải cuộc thi truyện ngắn “Một nửa làm đầy thế giới”. Ảnh: TL

PV: Gần đây, có ý kiến cho rằng, các tác giả trẻ hiện đang đối mặt nhiều khó khăn, như không có kinh phí để in sách, sách in xong không ra được thị trường, không được truyền thông biết tới... Chị có bình luận gì và có thể chia sẻ những kinh nghiệm cá nhân?

NNT: Tôi biết có vài tác giả còn tự viết bài giới thiệu sách mình trên báo, nên nói khó thì chắc là không khó lắm. Các bạn có nhiều phương tiện để giới thiệu tác phẩm, nhất là mạng xã hội. Nếu ta tràn đầy lòng tin rằng tác phẩm của mình hay, nhưng không bán được, thì hãy tự an ủi rằng nhà văn, nhà viết kịch Ireland Samuel Beckett (1906 - 1989) hồi chưa giành Giải Nobel năm 1969, sách cũng ế lắm.

PV: Vừa qua cuộc thi truyện ngắn “Một nửa làm đầy thế giới” với sự tài trợ giải thưởng từ một dự án phát triển văn học dành cho nữ giới mà chị nhận được thông qua Giải thưởng Liberaturpreis 2018 - đã kết thúc. 1.419 truyện ngắn gửi tới tham dự; một giải nhất, một giải nhì, hai giải ba và năm giải tư đã được trao. Theo chị, số lượng tác phẩm tham dự nói lên điều gì, có làm nên chất lượng cuộc thi?

NNT: Chất lượng không được nói bằng con số. Đó là rung cảm mang đến cho người đọc ít nhiều, là vòng sóng có thể lan xa tới đâu. Ngay từ đầu tôi nói với các anh chị trong Ban tổ chức rằng, mình không mong đợi gặp kiệt tác, nhưng số lượng nhiều bất ngờ đó đã an ủi chúng tôi, rằng ít nhất cuộc thi cũng phần nào tác động người viết mở một file trắng ra, và bắt đầu bày chữ.

PV: Chị vừa nói ngay từ đầu đã không kỳ vọng có kiệt tác, nhưng khách quan mà nói, những tác phẩm đoạt giải ở cuộc thi này, có truyện nào khiến chị bất ngờ?

NNT: Tác giả, khi gặp ở buổi trao giải, mới khiến tôi bất ngờ. Có nhiều bạn không phải người viết chuyên nghiệp. Họ nói họ viết vì chủ đề phụ nữ không xa lạ với mình. Những cái tên rất lạ, với riêng tôi, nhưng người của Ban tổ chức nói bạn này bạn kia đã viết khá lâu rồi, đã in một vài đầu sách. Những giấc mộng văn chương luôn được nuôi dưỡng đâu đó, và chúng sẽ lấp lánh đúng lúc.

PV: Từ trải nghiệm của mình, theo chị, các tác giả trẻ nên vượt qua ánh hào quang của những giải thưởng đầu đời như thế nào?

NNT: Có lẽ không cần nói về hào quang nữa, việc các bạn tránh văng mình, bạc màu hoàn toàn vào mạng xã hội đã là một kỳ tích rồi. Bạn được giải một cuộc thi, tức là “chinh phục” được một ban giám khảo. Nhưng còn một thế giới độc giả mênh mông ngoài kia, có thể dễ tính hơn hoặc khắc nghiệt hơn. Tôi nghĩ mình vẫn đang leo khỏi giếng, cứ bám thành giếng lên được một quãng, lại thấy trời rộng hơn.

PV: Cảm ơn nhà văn Nguyễn Ngọc Tư về cuộc trò chuyện này!

Mới đây, NXB Trẻ phát động cuộc viết và vẽ về tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư để tri ân bạn đọc. Theo đó, từ ngày 16-11 đến ngày 30-12, bạn đọc từng đọc và yêu thích các tác phẩm của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư có thể gửi bài viết và tranh vẽ dựa trên tất cả sách/truyện ngắn/truyện dài của Nguyễn Ngọc Tư do NXB Trẻ phát hành (gồm: “Cánh đồng bất tận”, “Đảo”, “Đong tấm lòng”, “Gáy người thì lạnh”, “Giao thừa”, “Gió lẻ và 9 câu chuyện khác”, “Hành lý hư vô”, “Khói trời lộng lẫy”, “Không ai qua sông”, “Ngọn đèn không tắt”, “Sông”, “Tạp văn Nguyễn Ngọc Tư”, “Yêu người ngóng núi”). Bài viết từ 200 - 800 chữ, còn tranh có thể vẽ tay hoặc vẽ trên máy tính. Ban tổ chức sẽ trao giải nhất, nhì, ba cùng nhiều giải thưởng hấp dẫn khác…

20190927 Chu Cam Phong

1. Chiến tranh Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 là cuộc chiến tranh dai dẳng, gây thiệt hại lớn lao về vật chất và con người không chỉ cho đất nước Việt Nam mà còn cho nước Mĩ. Đó còn là cuộc chiến gây chia rẽ nhân tâm nhất trong lịch sử nước Mĩ. Để quốc tế hóa cuộc chiến, Mĩ đã huy động đông đảo lực lượng quân đồng minh tham chiến. Bên cạnh quân đội Úc, New Zealand, Thái Lan, Philippines, lực lượng quân sự Hàn Quốc đã tham gia tích cực, chiếm số lượng đông đảo nhất chỉ sau quân đội Mĩ và được đánh giá rất cao về khả năng và hiệu quả tác chiến.

Dưới sự chỉ huy của quân Mĩ, các sư đoàn Mãnh Hổ, Bạch Mã và lữ đoàn lính thủy đánh bộ Rồng Xanh được triển khai trên địa bàn các tỉnh miền Trung là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hoà, một địa bàn chiến lược trọng yếu. Ngoài ra còn có các đơn vị khác đóng tại Vũng Tàu, Biên Hòa, Sài Gòn. Năm 1968 là năm Hàn Quốc có lực lượng quân sự cao nhất hiện diện ở miền Nam Việt Nam với quân số lên tới hơn 50.000 người.

Tham chiến tại Việt Nam, quân đội Hàn Quốc trở thành lực lượng “xương sống” trong các cuộc hành quân bình định và tìm diệt ở duyên hải miền Trung. Từ khi đưa quân vào Việt Nam cho đến khi rút quân về nước, quân đội Hàn Quốc đã thực hiện rất nhiều cuộc hành quân và gây ra hàng loạt vụ thảm sát đẫm máu, tàn khốc như vụ thảm sát Bình Hòa thuộc huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi vào tháng 12 năm 1966; vụ thảm sát Bình An, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định năm 1966; vụ thảm sát Hà My, Điện Bàn, Quảng Nam năm 1968… Nhiều làng quê miền Trung có ngày “giỗ Đại Hàn” do cả làng bị quân Hàn Quốc thảm sát. Bia căm thù lính Đại Hàn đã được dựng nhiều nơi như Bình Hòa ở tỉnh Quảng Ngãi, Hà My ở tỉnh Quảng Nam, Kim Tài ở tỉnh Bình Định…

Để lại nhiều “dấu ấn” như thế trên đất nước Việt Nam, hình ảnh người lính Hàn Quốc có mặt trong khá nhiều tác phẩm của văn học Việt Nam thời kì chiến tranh. Quan sát văn học Việt Nam thời kì này, có thể thấy hình ảnh người lính Đại Hàn chủ yếu xuất hiện trong tác phẩm của các nhà văn sinh trưởng hoặc có quá trình hoạt động ở các tỉnh duyên hải miền Trung như Khánh Hoà, Phú Yên, Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam…

Chu Cẩm Phong sinh ở Quảng Nam, tập kết ra Bắc, sau này quay về hoạt động tại khu 5. Nguyễn Mộng Giác, Mang Viên Long là người Bình Định. Y Uyên người gốc Bắc nhưng dạy học ở Phú Yên. Trần Hoài Thư sinh ở Lâm Đồng nhưng thời đi lính có hoạt động ở miền Trung… Do đứng ở hai chiến tuyến đối nghịch nhau, cái nhìn của các nhà văn cách mạng và cái nhìn của các nhà văn miền Nam thuộc phía Việt Nam Cộng hòa về người lính Hàn Quốc trong văn học cũng rất khác nhau.

2. Các nhà văn cách mạng gọi lính Hàn Quốc là “lính Nam Triều Tiên”. Trong một số tác phẩm của các nhà văn này, hình ảnh người lính Hàn Quốc thấp thoáng xuất hiện và được nhìn nhận có phần còn đơn giản. Đó chỉ là những người lính đánh thuê cho quân đội Mĩ. Họ do đó cũng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam.

Lính Nam Triều Tiên là những lính thiện chiến, can đảm trong trận mạc, nhưng tàn bạo, ráo hoảnh nhân tính, đã gây nhiều tội ác ở Việt Nam, gây ra nhiều cuộc thảm sát ở các vùng nông thôn Việt Nam. Trong tiểu thuyết Mẫn và tôi, Phan Tứ viết về lính Nam Triều Tiên như là một đội quân ác ôn, làm cho đời sống của người dân trở nên khó khăn, khổ sở: “Quân ngụy Nam Triều Tiên đóng chật cứng trong phố cảng, giá gạo củi tăng gấp ba bốn lần, thở sao nổi, còn chưa nói tới tụi ác ôn Rồng Xanh, Cọp Trắng ấy phá phách đến chừng nào”.

Ở Nhật kí chiến tranh của Chu Cẩm Phong, hình ảnh tàn bạo của lính Nam Triều Tiên cũng không ít lần xuất hiện, chẳng hạn: “16/7/67. Đi qua núi Tròn, ngay gần sát dưới chân núi, nhìn thấy rõ trụ cờ và từng nhánh nhỏ của một cây khô. Đường nắng và vắng quá nên hơi ngại. Chỉ e một thằng Nam Triều Tiên tàn bạo nào đó ngứa tay nổ phát súng. Đối với bọn địch dã man như bọn này, việc bắn một người dân lương thiện chúng không cho là lầm lỗi”.

Trong bút kí Xuân 1975 - Đất Quảng, Triệu Xuân đã viết về một cuộc thảm sát của lính đánh thuê Nam Triều Tiên: “Trên doi đất nhô ra sông Thu Bồn, cách cụm cứ điểm Nông Sơn không đầy hai giờ đi thuyền, cách đây năm mùa xuân, bọn đánh thuê Nam Triều Tiên đã bắt hàng chục người toàn phụ nữ, cụ già và con nít trong làng xếp thành một hàng, rồi dùng tiểu liên bắn chết. Cùng ngày đó, đài phát thanh Sài Gòn, một thứ tiếng nói của loài thú, đưa tin: Quân đội đồng minh trong một trận đọ súng ở cách tây nam Đà Nẵng 65 kilômét đã bắn hạ một đại đội Việt cộng. Xác hàng chục người đã ngã xuống sông Thu, trôi trên dòng sông Thu...

Nước sông Thu Bồn vốn rất xanh đã biến thành màu đỏ trong những ngày kẻ thù bình định. Mảnh đất quê hương dường như cũng đổi màu. Đất Quảng Nam chưa mưa đã thấm đã thấm nhiều máu đỏ của người dân đất Quảng. Máu con người đã nhuộm đỏ dòng sông, mảnh đất quê mình. Rồi kẻ thù sẽ phải trả nợ máu!”.

Do được nhìn từ xa, từ phía đối nghịch nên chân dung người lính Nam Triều Tiên trong tác phẩm của các nhà văn cách mạng nhìn chung còn sơ lược. Trong Bài thơ về hạnh phúc, nhà thơ Dương Hương Ly gọi những người lính Nam Triều Tiên đã bắn chết vợ mình bằng tên gọi “quân thù” chung chung: Những viên đạn quân thù bắn em trong lòng anh sâu xoáy/ Bên những vết đạn xưa chúng giết bao người/ Anh bàng hoàng như ngỡ trái tim rơi/ Như bỗng tắt vầng mặt trời hạnh phúc.

Nhà văn Nguyễn Quang Sáng, trong Chiến trường, sống và viết, cho rằng nhân vật phản diện nơi các tác phẩm văn học của ta viết về chiến tranh chống Mĩ “hãy còn mờ nhạt”, “đọc rồi, ta cứ vẫn thấy nó méo mó”, “bởi vì ta chỉ thấy cái bên ngoài hơn là cuộc sống bên trong của nó”. Phạm Văn Sĩ trong Văn học giải phóng miền Nam cũng cho rằng những nhân vật phản diện trong các tác phẩm đề tài này chưa phải là những tính cách văn học. Người lính Hàn Quốc trong văn học Việt Nam giai đoạn 1965 - 1975 nhìn chung cũng được khắc họa đơn giản, một chiều, mờ nhạt như thế.

3. Các nhà văn miền Nam Việt Nam gọi lính Hàn Quốc là “lính Đại Hàn”. Do tiếp cận người lính Hàn Quốc ở một cự li gần, có người còn sát cánh cầm súng cùng quân đội Hàn Quốc, hình ảnh người lính Hàn Quốc trong tác phẩm của các nhà văn miền Nam Việt Nam có phần rõ nét hơn và cũng đa dạng, phức tạp hơn.

Có nhà văn nhìn nhận lính Hàn Quốc như là những người lính đánh thuê, tham chiến chỉ vì tiền. Có người nhìn nhận họ như những người lính man rợ, giết người không gớm tay. Ngụy Ngữ trong truyện ngắn Theo những đường bay đi xa đã viết về “những thằng Đại Hàn man rợ cắm cái đầu người trước xe Jeep, những xâu chuỗi kết bằng tai người khô queo, những họng súng bắn vào dân tị nạn”.

Nhà thơ Luân Hoán tỏ ra không có cảm tình với lính Hàn Quốc: chỗ nào lính Đại Hàn qua/ giếng sâu thuốc độc đã hòa nước trong (Đốt vườn ở Sơn Kim). Là một người lính hải quân của miền Nam nhưng Lê Bá Thông vẫn không có mấy thiện cảm với sự hiện diện của lính Đại Hàn: “Trên đường thỉnh thoảng vài chiếc xe quân đội chở lính Đại Hàn chạy ngang qua, trên xe mấy anh lính miệng cười nham nhở, đưa tay vẫy về phía xe Jeep của Vân, làm cho Hương, bạn gái của Vân, cảm thấy khó chịu” (Sao rơi trên biển).

Cây bút nữ Lê Thị Hoài Niệm viết về những hệ lụy do quân đội Đại Hàn gây ra: “Má tôi kể là có một đơn vị lính Đại Hàn, họ đóng đồn ở giữa đồng trống, chung quanh họ rào kẽm gai đến mấy vòng, hễ có ai lảng vảng đến là họ bắn chết không kêu than. Những ngày tháng đầu vô cùng yên ắng, người dân nào còn ruộng lúa chung quanh thì ban ngày có thể ra đồng làm việc, buổi tối thì họ thiết quân luật. Vậy mà một trận tấn công đồn lại xảy ra.

Không biết có bao nhiêu quân của mặt trận giải phóng xuất hiện, họ lần mò trong đêm tối cắt những vòng dây thép để xâm nhập vào đồn, dù những người lính Đại Hàn canh gác rất nghiêm nhặt. Một trận đánh xáp lá cà ngay trong đồn diễn ra, những người dân trong làng chỉ nghe tiếng súng nổ đã inh tai nhức óc, thót cả tim. Và qua một đêm đen hãi hùng, sáng ngày hôm sau, những người lính đồng minh đi lùng sục, bắt bớ và… giết người nào mà họ cho là có liên hệ với những bọn mặt trận tấn công đồn (Má tôi với quê hương ngày cũ)…

Cũng có cây bút miền Nam tỏ ra thiện cảm với quân đội Hàn Quốc, như Trần Hoài Thư, người từng sát cánh với quân đội Đại Hàn trong một thời gian khá dài tại Bình Định. Hình ảnh người lính Hàn Quốc hiện diện trong một số truyện ngắn của Trần Hoài Thư như Đêm Chiêm Thành, Gò Bồi bên kia sông với tư cách là những người lính đồng minh.

Nhà văn Nguyên Lương trong Câu chuyện của tôi và một người Hàn họ Lý kể về những người lính Hàn Quốc thân thiện, trong đó có một người thường đến thăm nhà và bút đàm chữ Hán với cha của ông: “Những người lính Hàn thường ra khỏi trại, đến nhà dân thăm hỏi, cho quà, làm quen và tìm hiểu dân tình”. Nguyên Lương cũng viết về vị thiếu tướng Chun Doo-hwan, chỉ huy quân đội Đại Hàn tại Việt Nam, sau trở thành Tổng thống Hàn Quốc. Thiếu tướng Chun Doo-hwan thường ghé Quy Nhơn thăm trường Nguyên Lương học và giúp đỡ trường xây một hội trường lớn theo kiểu kiến trúc cổ rất đẹp.

Có nhà văn nhìn nhận lính Đại Hàn là những người dù tàn bạo nhưng vẫn mang trong mình văn hóa, tôn giáo của họ và họ cũng biết tôn trọng văn hóa, tôn giáo của người Việt. Trong truyện ngắn của Mang Viên Long, hình ảnh người lính Đại Hàn hiện diện khá đậm nét. Nhân vật Tiên trong tác phẩm Trên đỉnh tháp chuông nhận thấy rằng những người lính viễn chinh khi đến nhà thờ cũng đeo tấm thánh giá trên cổ như những con chiên ngoan đạo khác.

Ở truyện ngắn Chùa Cô Ba, Mang Viên Long viết về phản ứng của lính Đại Hàn khi xông vào một ngôi chùa ở làng quê: “Có một lần, gặp toán lính Đại Hàn xồng xộc tràn vào chùa, cô Ba đứng chận ngay ở cổng, lấy tờ giấy carton gần đó, viết dòng chữ Hán rồi đưa cho tên lính đang đứng trước mặt: Chúng tôi thờ Phật, các ông hãy tôn trọng, giúp đỡ, không nên quấy phá. Sau đó, cô Ba vẫn thản nhiên, tay cầm tràng hạt, dạo bước theo họ, yên lặng. Từ hôm ấy, đã thấy vắng bóng của lính Đại Hàn ngang nhiên vào chùa lùng sục”. Cô Ba cho rằng họ như là những nạn nhân của chiến tranh: “Cô cảm thấy thương xót họ, những mảnh đời đang trôi lăn dần vào cõi tối tăm đau khổ, nhưng không thể chia sẻ được lời nào”.

Nhà văn Võ Hồng trong truyện ngắn Như con chim sơn ca lại lên án sự phi lí của chiến tranh khi kể về cái chết của Ái Lan, một cô bé nông dân sống ở vùng “giải phóng” hồn nhiên, vô tư “như con chim sơn ca mổ hạt lúa và con sâu ở cánh đồng bên này rồi bay vụt qua cánh đồng bên kia, lại mổ con sâu, hạt lúa”. Ái Lan đi lên núi gài chông gặp đúng lúc lính Đại Hàn đi càn, cô chạy về đạp trúng ngay bàn chông mình gài. Ở truyện ngắn Chuyến về Tuy Hòa, Võ Hồng lại viết về một quân nhân Đại Hàn “có vẻ mặt khó hiểu” cùng đi trên chuyến xe đò về thị xã Tuy Hòa, tỉnh lị của Phú Yên.

Như vậy, có thể thấy, trong văn học Việt Nam trước 1975, hầu như không có nhân vật người lính Hàn Quốc nào được xây dựng công phu, có số phận, có cuộc đời riêng, trở thành những tính cách văn học đầy đặn, thuyết phục.

4. Sau năm 1975, hình ảnh người lính Hàn Quốc vẫn còn hiện diện trong khá nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam, như các tiểu thuyết Mùa biển động của Nguyễn Mộng Giác, Gió Tuy Hòa của Trần Thiện Lục, Trăng mật bến sông Cầu của Nguyễn Tấn Hưng, Khoảng lặng sau chiến tranh của Trịnh Đình Khôi; truyện dài Phương trời cao rộng của Vĩnh Hảo; tập truyện ngắn Những mảnh đời luân lạc của Trần Đại Nhật; các truyện ngắn Trong khu rừng yên tĩnh của Lê Hoài Lương, Ông già bán quán ăn ở Seoul của Võ Thị Xuân Hà, Ngôi mộ không hài cốt của Văn Quốc Thanh, Con người lính Đại Hàn của Đinh Phong, Mùa xuân của biển của Đỗ Kim Cuông; tập truyện kí Huyền thoại tàu không số của Đình Kính; hồi kí Chiến trường, sống và viết của Nguyên Ngọc, hồi kí của Cao Duy Thảo, Bùi Minh Quốc…

Hình ảnh lính Đại Hàn còn hiện diện cả trong thơ Việt Nam sau 1975, chẳng hạn như những “toán lính Đại Hàn” ẩn hiện trong khung cảnh thánh địa Mĩ Sơn, tháp Yang Pakran Yang Praung “phực cháy”, tháp Dương Long, tháp Cánh Tiên… ở trường ca Sầu ca trên đồi cát Nam Kương của Inrasara. Trần Vàng Sao trong bài thơ Gọi tìm xác đồng đội đã nhập vai một người lính hi sinh trong trận đánh với lính Nam Triều Tiên: Tôi chết trong trận đánh xáp lá cà với bọn Rồng Xanh Nam Triều Tiên ở Kỳ Lam/ Không biết anh em chôn tôi ở đâu.

Sau chiến tranh, nhờ có độ lùi về thời gian, văn học viết về chiến tranh đã có chiều sâu hơn với nhiều tìm tòi về nội dung và nghệ thuật. Hình ảnh người lính Hàn Quốc do đó cũng sinh động hơn, có số phận, cuộc đời riêng, tính cách riêng.

Trong tập truyện ngắn Những mảnh đời luân lạc viết về đề tài con lai Hàn - Việt của Trần Đại Nhật có nhân vật người lính Đại Hàn tên Lee. Lee là một sinh viên, thi rớt, chán nản nên bỏ học, bị động viên vào quân đội. Người yêu của anh bỏ đi lấy chồng khi anh còn ở quân trường. Sau khi hoàn thành đợt huấn luyện, anh được bổ sung vào sư đoàn Mãnh Hổ sang tham chiến tại Việt Nam.

Lee chiến đấu như một người vô hồn: “Là một người lính, Lee làm theo mệnh lệnh của cấp chỉ huy như một cái máy những khi tác chiến. Nhưng là một con người có tâm hồn, nhiều lúc Lee suy nghĩ mình đang chiến đấu vì điều gì đây. Không phải vì lí tưởng, không phải vì Tổ quốc của mình, tại sao mình lại dấn thân đến vùng chết chóc này? Lee đâm ra chán nản vì không tìm thấy câu trả lời ổn thỏa”. Do buồn chán, Lee hay ra quán nước ngồi, từ đó quen thân với một cô chủ quán tên Lan có gương mặt đẹp và đôi mắt quyến rũ.

Họ yêu nhau và có với nhau một đứa con gái. Rồi Lee phải trở về nước và bị đứt liên lạc với người yêu. Sau chiến tranh, Lee trở thành một vị giáo sư sử học và sang lại Việt Nam để sưu tầm tư liệu viết về hậu quả của chiến tranh. Ông cũng muốn tìm lại Lan và đứa con của mình. Nhưng cô Lan - người yêu cũ của Lee- vì đau buồn đã trở thành một bà già điên khùng, luôn ăn mặc rách rưới, tóc tai bù xù rũ rượi. Còn người con gái của bà và Lee do hoàn cảnh đã trở thành gái điếm.

Nhà văn Nguyên Lương trong tác phẩm Những người Hàn, họ Lý, gốc Việt có kể câu chuyện của ông và một người Hàn tên Teak Young Lee (Lý Hoàng Tất). Teak Young Lee là một trong những người lính Hàn Quốc đầu tiên được đưa đến Việt Nam tham chiến từ những năm 1968 - 1972, làm lính tình báo trong sư đoàn lục quân Mãnh Hổ đóng tại vùng núi Vân Sơn, xã Phước Thành, quận Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Anh ta thường đến nhà Nguyên Lương và bút đàm bằng chữ Hán với bố nhà văn.

Sau chiến tranh, nhờ có kinh nghiệm sống và làm việc ở Việt Nam trong thời chiến, Teak Young Lee được công ti Samsung cử làm giám đốc ở Bắc Ninh. Trong thời gian này, qua việc tìm hiểu kĩ về gia phả, Teak Young Lee biết ông tổ của mình cũng xuất thân từ vùng đất mà mình đang làm việc và đã rất xúc động: “Thảo nào mình rất mến người Việt, vì trong máu của mình cũng có dòng máu của Việt tộc”.

Võ Thị Xuân Hà với truyện ngắn Ông già bán quán ăn ở Seoul, in trong tập truyện ngắn Cành phong hương, kể về những lần gặp gỡ của một cô gái Việt với ông chủ một quán ăn ở Seoul “nom rất phúc hậu”, là lính Pak Chung Hee trước kia đã từng tham chiến ở Việt Nam. Người lính ấy từng bắn vào lưng của một bà mẹ trẻ trước ánh mắt chứng kiến của đứa con gái còn non dại. Người lính ấy cũng đã từng ngập ngừng khi chĩa súng vào em bé gái ấy. Giờ nỗi xót xa ân hận của ông như toát ra từ thân thể mỏng dính vì chất độc chết người nào đó từ chiến trường Việt Nam.

Trong tiểu thuyết Mùa biển động, Nguyễn Mộng Giác đã xây dựng nhân vật thiếu tướng Kim I. Chung, chỉ huy quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam. Đây có lẽ là nhân vật người lính Hàn Quốc có quân hàm cao nhất từng xuất hiện trong văn học Việt Nam. Thiếu tướng Kim I. Chung tuổi đã gần sáu mươi, từng tham dự vào cuộc phản công lên Bắc Triều Tiên trong chiến tranh Triều Tiên 1950 - 1953. Nguyên mẫu của nhân vật này có lẽ là thiếu tướng Chun Doo-hwan, nguyên Tổng tư lệnh quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam thời chiến tranh, sau này là Tổng thống Hàn Quốc.

Đây cũng là tiểu thuyết miêu tả sinh động nhất về những hoạt động của quân đội Hàn Quốc ở Việt Nam, cụ thể là ở Quy Nhơn, từ lúc sư đoàn Mãnh Hổ đổ bộ lên cảng Quy Nhơn và từ lúc bản doanh chỉ huy đóng tại làng Phú Tài tung các đợt càn quét đẫm máu và hung bạo. Bên cạnh việc miêu tả những hoạt động tuyên truyền, phát thuốc, khám bệnh của quân đội Hàn Quốc, việc sư đoàn Mãnh Hổ xây biếu trường trung học Cường Để một đại thính đường làm nơi sinh hoạt chung cho học sinh, Nguyễn Mộng Giác viết về một cuộc thảm sát ghê rợn những người dân vô tội do quân đội Hàn Quốc gây ra để trả thù cho một thiếu úy Hàn Quốc bị du kích bắn chết.

5. Quân đội Hàn Quốc đã tham chiến tích cực bên cạnh quân đội Mĩ ở Việt Nam và gây ra không ít tội ác chiến tranh, đặc biệt là nhiều trận thảm sát người dân Việt Nam vô tội. Nhưng so với những tác phẩm của Hàn Quốc viết về chiến tranh Việt Nam như các tiểu thuyết, truyện ngắn của Hwang Sok-Yong, Bang Hyun Suk… thì tác phẩm của các nhà văn Việt Nam viết về sự tham dự của quân đội Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam vẫn còn khá đơn giản. Nhân vật người lính Hàn Quốc trong văn học cách mạng, văn học miền Nam Việt Nam và cả trong văn học Việt Nam sau 1975 vẫn còn khá mờ nhạt, chưa có chiều sâu. Đây là một vấn đề cần suy nghĩ đối với các nhà văn Việt Nam khi “thâm canh” đề tài chiến tranh - đề tài vẫn còn nhiều tầng vỉa giàu sức vẫy gọi

Võ Văn Nhơn

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 25.9.2019.

20191122 Ke si thoi loan

Tác phẩm Kẻ sĩ thời loạn, Vũ Ngọc Tiến, Nxb Phụ nữ, 2019

 

            Có thể nói tiểu thuyết lịch sử ở Âu châu bắt đầu từ sau khi nhà văn Walter Scott viết tiểu thuyết Ivanhoe,  xuất bản vào năm 1819. Truyện kể về một hiệp sĩ thời trung cổ của nước Anh và sau đó năm 1823 ông còn xuất bản quyển Quentin Durward kể về  những chuyện xảy ra vào thời vua Luigi XI (1423-1483) ở Pháp. Cả hai quyển này đã thành công xuất sắc và mở đầu cho thể loại tiểu thuyết này.

Cùng trong thời gian đó, dưới ảnh hưởng của chủ nghĩa lãng mạn thì tiểu thuyết Người được đính hôn (Promessi Sposi) của Alessandro Manzoni ở Italia cũng vừa xuất hiện. Được viết từ năm 1821 và xuất bản vào năm 1827 tác phẩm này thành công tức khắc và cho ra đời một thể loại mới về lịch sử.

Trong tiểu thuyết, bằng cách kể chuyện sinh động Manzoni nói về sự bùng phát bệnh dịch hạch năm 1630 ở Milano, giữa những tàn phá, kích động, chết chóc đầy hỗn loạn. Mới đây, một nhà văn hiện đại đã hòa nhập vào cách nhìn của tác giả về những cuộc bạo động tranh giành bánh mì ở Milano đã liên tưởng đến một bức tranh lớn hơn về thời hiện đại: “Thay bột mỳ, dầu ăn và bánh mỳ bằng xăng, thì những chương sách của Manzoni là câu chuyện thời nay”.

 Đặc tính của tiểu thuyết lịch sử được các nhà phê bình tổng kết theo công thức: lịch sử + hư cấu văn học.  Và mục đích của nó là tìm trong quá khứ gốc rễ của hiện tại.

Bởi thế một quyển tiểu thuyết lịch sử “hay” là phải đáp ứng được nhu cầu cùng những chờ đợi của người đọc, dắt họ trong một chuyến du hành ngược thời gian, thoát khỏi hiện tại, tiếp xúc với văn hóa ngày xưa, phong cảnh quá khứ, thức ăn, quần áo và những con người thực của một thời, kể cả những nhân vật đến từ hư cấu văn học. Nói cách khác, tiểu thuyết lịch sử mở tầm mắt cho người đọc nhìn về những chân trời mới.

                                                         

            Trong thế kỷ XX, tiểu thuyết Tôi, Claudio của tác giả Robert Graves, xuất bản năm 1934 được xem là quyển tiểu thuyết lịch sử hay nhất thế kỷ. Tiểu thuyết nói về Tiberio Claudio hoàng đế thứ tư của La Mã thuộc triều đại Giulio-Claudia. Người đọc được quay trở về thời La Mã, nhìn cận cảnh từ vụ ám sát hoàng đế Giulio Cesare (44 TCN) cho đến thời Caligola (41 TCN)  và có thể thấy sự vĩ đại, tàn bạo và trụy lạc của các hoàng đế La Mã. Tiểu thuyết còn cho ta thấy những cuộc phản loạn, bất mãn, sự điên loạn, khôi hài, những cuộc chiến trận mà qua đó độc giả có thể thấy toàn bộ đời sống của những nhân vật quyền lực của đế chế Roma. 

Có một tiểu thuyết lịch sử  khác, kết hợp giữa phương Tây và phương Đông, rất lôi cuốn, đó là Shogun (Tướng quân) được nhà văn người Úc James Clavell viết vào năm 1975, kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật John Blackthorne, một hoa tiêu người Anh bị cầm tù trong một làng chài ở Nhật vào thế kỷ XII. Nhờ khả năng thích ứng, trí thông minh và lòng can đảm, từ tù binh ông đã trở thành một Samurai phục vụ cho mạc phủ. Tác phẩm được đón nhận rộng rãi và chỉ đến năm 1990 đã bán hơn 15 triệu bản trên toàn thế giới, được dựng thành phim năm 1980, với diễn viên chính là tài tử lừng danh Richard Chamberlain.

                                                                                             *                   

 

Vũ Ngọc Tiến là nhà văn cực kỳ đam mê tiểu thuyết lịch sử. Thực vậy, chỉ cần nhìn những sách ông viết và xuất bản gần đây như Sóng hận sông Lô, Quỷ vương là những  quyển tiểu thuyết lịch sử viết về triều Lê, nhưng trước đó ông còn có 3 cuốn tiểu thuyết khác nữa về 3 nhà cải cách Khúc Hạo, Trần Thủ Độ, Đào Duy Từ đã in và tái bản nhiều lần.

Đã có lúc tôi tự hỏi vì sao mà Vũ Ngọc Tiến đã bỏ nhiều công sức để nghiên cứu và viết nhiều tiểu thuyết lịch sử? Có lẽ vì ông là người... lãng mạn? Tôi thường nghĩ, trong cái thế giới bất toàn, không mấy khi người trí thức bằng lòng với hiện tại, nên ông muốn nhìn lại, đối thoại với lịch sử để mơ về một xã hội tốt đẹp và nhân bản hơn chăng?

                                                  *

Phải công nhận là tiểu thuyết lịch sử là một thể loại hấp dẫn nhưng không dễ viết. Vì vừa là lịch sử vừa là hư cấu văn học sử nên nhà văn phải biết giữ thăng bằng giữa hai tính chất: Nếu khăng khăng bám vào sự kiện và số liệu thì tính sáng tạo sẽ bị thui chột, trở thành một bản sao khô khan, còn nếu hư cấu quá đà, “bắt” lịch sử phải xảy ra theo ý cá nhân thì dễ gây phản cảm đối với những độc giả truyền thống, quen đánh giá theo góc nhìn “chính sử”, và gây ra nhiều tranh cãi, dư luận trái chiều. Do đó mà người cầm bút phải tự giới hạn, biết đu dây giữa hư cấu và hình ảnh, ngôn ngữ văn chương, để vừa làm tăng tính hấp dẫn của tiểu thuyết vừa bảo đảm tính chân thật khi chuyển tải thông điệp lịch sử.

            Dung hòa giữa hai tính chất khác biệt như nước và lửa này không mấy dễ dàng nên chỉ có những nhà văn tài năng mới dám thử nghiệm, và tác phẩm của họ thường quyến rũ người đọc, để lại ấn tượng không những về lịch sử mà còn cộng thêm những góc nhìn đa chiều, trong đó có số phận con người lênh đênh theo dòng chảy của thương hải tang điền. Nó còn giúp người đọc liên tưởng và ngẫm nghĩ về hoàn cảnh hiện tại, và có khi còn soi chiếu về một tương lai gần hay xa tùy theo kiến văn của tác giả.

Vì lịch sử, trước sau gì cũng sẽ lặp lại!                     

          

            Lần này, tiểu thuyết lịch sử Kẻ sĩ thời loạn của nhà văn Vũ Ngọc Tiến vẽ nên một bức tranh toàn cảnh về chính trị xã hội thời cuối Lê đầy biến động của lịch sử Việt Nam, một thời kỳ nhiễu nhương và có nhiều phân chia sâu sắc giữa các thế lực quân sự: Lê - Mạc, Trịnh - Nguyễn, rồi thế chân vạc Trịnh - Nguyễn - Tây Sơn và lấy Bằng Quận công Nguyễn Hữu Chỉnh, làm nhân vật chính. Nhà văn Vũ Ngọc Tiến chia sẻ là mình rất thích nhân vật phức tạp và có nhiều đánh giá trái chiều này.

Cũng như với Quỷ vương trước đó, tác phẩm này của Vũ Ngọc Tiến cũng đan xen lịch sử và thời hiện tại, cách viết của nhà văn là sử dụng nghệ thuật cốt truyện song hành, mượn chuyện xưa để nói chuyện nay mà tôi đã gọi đó là tiểu thuyết đồng hiện, ảo - thực, bóng và hình.

Trong Kẻ sĩ thời loạn với cặp nhân vật chính là nhà di truyền học Duy Thiện và bà Hoàng Lan, hồng nhan tri kỷ của ông. Hai mạch truyện kể gắn với nhau, xưa và nay đan xen: Duy Thiện của thời hiện tại là người viết cuốn sách kể lại lịch sử cuộc đời của cụ tổ mình, tức Bằng quận công Nguyễn Hữu Chỉnh. Và nếu Nguyễn Hữu Chỉnh đã “vì dân” đến tận lúc bị tứ mã phanh thây, thì Duy Thiện hậu duệ của ông cũng “vì dân” trong cả giấc mơ bất chợt sau bao năm tháng quằn quại vì bị biệt giam ở bệnh viện tâm thần!

 Bằng cách kể như vậy Kẻ sĩ thời loạn không chỉ nói về những diễn biến xảy ra ở thời Lê mạt, mà có thể nói là kéo dài cho mãi đến hôm nay, bước qua những giai đoạn đất nước bị chia cắt, cát cứ, về những gia đình bị vùi dập, chia lìa, về tham nhũng: Cái thời mà những kẻ cơ hội được ngoi lên, lòng người ly tán, đây đó đều có tiếng cười của đồng tiền lấn át tiếng nói của lương tri.

Để hiện thực hóa kiểu tiểu thuyết giáo trình (Lesson novel) của văn chương Mỹ và phương Tây hiện đại mà nhà văn tâm đắc, Vũ Ngọc Tiến dùng tiểu thuyết như một hình thức “mềm hóa” cho việc chuyển tải một cách nhẹ nhàng những suy tư của mình để mời độc giả “đọc lại” và bàn luận, đặt lại những vấn đề về một giai đoạn đã qua. Theo tác giả, vì thuộc loại “giáo trình” nên trong tiểu thuyết vừa kể vừa giảng để những trang viết khỏi khô khan và đồng thời giúp người đọc dễ nhớ.

                       

            Từ xưa đến nay, khi đánh giá về Nguyễn Hữu Chỉnh, các nhà nghiên cứu lịch sử đều coi ông là nhân vật lịch sử mang tính hai mặt “anh hùng và gian hùng ” - Trong đó mặt “ gian hùng” và “cơ hội” được coi là nổi trội, chính yếu!

Thế nhưng trong toàn bộ tác phẩm nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã phác họa một Nguyễn Hữu Chỉnh như hình mẫu của một “kẻ sĩ thời loạn” tạo nên nhân cách của Nguyễn Hữu Chỉnh với tư tưởng “vì dân” nên đã tạo nên những tranh luận, có khi gay gắt.   

 Chúng ta đều biết Nguyễn Hữu Chỉnh (1741-1788) vốn là môn khách dưới quyền gia đình Hoàng Ngũ Phúc và Hoàng Đình Bảo. Ông từng là cánh tay đắc lực giúp hai cha con họ Hoàng. Sau khi Hoàng Đình Bảo bị giết trong loạn kiêu binh, Nguyễn Hữu Chỉnh chạy vội vào Nam theo quân Tây Sơn. Từ đây mở ra  một định mệnh mới cho Nguyễn Hữu Chỉnh.

Nhìn một cách tổng thể, Nguyễn Hữu Chỉnh là một viên tướng văn võ song toàn, có công lớn trong việc phò giúp Tây Sơn đánh sập hai tập đoàn phong kiến Chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Hữu Chỉnh đã từng khuyên thủ lĩnh Tây Sơn tập trung diệt Nguyễn Ánh để trừ hậu hoạn... Nhưng sau đó, Nguyễn Hữu Chỉnh đã mượn uy Tây Sơn, huênh hoang thao túng nhà Lê, uy hiếp vua Lê Chiêu Thống còn non trẻ. Và đây có thể nói là cách hành xử sai lầm nhất của nguyễn Hữu Chỉnh: đánh mất niềm tin của Nguyễn Huệ và bị đánh giá là “Một kẻ gian hùng. Hiểm độc, mưu mô, giả trá.”

Mầm mống của những bi kịch của Chỉnh có thể nói là từ sai lầm nguyên thủy này.

Sai lầm thứ hai là cách ứng xử vụng về, trước mặt Nguyễn Huệ mà dám khoe tài: “Kẻ sĩ ở Bắc Hà chỉ có Chỉnh mà thôi!” nên khiến ông và các cận thần càng thêm ác cảm. Chỉnh vô tình nên chạm vào cái điểm “nhạy cảm” nhất: so sánh kẻ sĩ với một anh “nông dân áo vải mang khí chất thiên tài!” Tuy Chỉnh biết mình lỡ lời, ngay lập tức muốn rút lại nhưng lời đã nói, tứ mã làm sao truy kịp? Và tai họa đến với Chỉnh sau đó là không thể  nào tránh khỏi.

Trước đó có lẽ Nguyễn Hữu Chỉnh chưa hề nghĩ đến chuyện bỏ Tây Sơn. Mãi tới khi anh em nhà Tây Sơn bí mật quay về Nam, bỏ ông ở lại Thăng Long với ý định mượn tay các sĩ phu Bắc Hà trừ khử, thì tới bước đường cùng, chạy theo mà không được, Nguyễn Hữu Chỉnh mới bắt buộc “lựa chọn” cho mình một con đường khác: sẽ tự làm minh chủ, không muốn (và cũng không thể) phụ thuộc bất cứ ai, quyết định xưng hùng, thống nhất sơn hà, làm nên nghiệp lớn. Đây có lẽ là chuyển biến tâm lý quan trọng nhất trong cuộc đời ông: Chỉ cần một quyết định mà số phận, danh tiếng và sinh mệnh của ông thay đổi và tùy theo góc nhìn của lịch sử mà ông trở thành Thiện hay Ác.

Đây chính là khúc quanh sinh tử của cuộc đời Nguyễn Hữu Chỉnh!

Mọi sự tranh cãi có nổ ra thì cũng là điều tất yếu. Vì ở thời nào người viết sử cũng phải viết theo ý chí của thế lực cầm quyền. Vấn đề là anh đọc sử của ai? Của nhân dân, của phe thua hay phe thắng trận.                                                            

Vậy thì Nguyễn Hữu Chỉnh là anh hùng hay gian hùng? Lịch sử đã trôi qua, câu trả lời không phải dễ dàng. Vì dù có đánh giá thế nào thì cũng chỉ là giả thiết, mong manh, và không ai có đủ tư liệu hay dẫn chứng lịch sử để xác nhận phán xét của mình. Nhưng chắc chắn là người đọc Kẻ sĩ thời loạn sẽ còn tranh luận khá nhiều về tư tưởng “vì dân” vì nó không được chính sử nhắc đến. Đó là chưa nói đến việc đánh giá Nguyễn Hữu Chỉnh cũng có thể phát xuất từ sự đố kỵ tài năng, ghen ghét, nghi kỵ. Chính Nguyễn Huệ, trước khi rút về Nam đã kích động lòng tị hiềm của Vũ Văn Nhậm (con rể Nguyễn Nhạc) để gài ông này ở lại để về sau trừ khử và diệt Chỉnh.

 Chúng ta hãy thử đối chiếu trường hợp Nguyễn Hữu Chỉnh với Tào Tháo: Cũng có nhiều dẫn chứng và cứ liệu cho rằng Tào Tháo là người văn võ song toàn, dụng binh giỏi, văn thơ hay. Bài Đoản ca hành (bài hát ngắn) mà ông sáng tác ngay trong đêm xảy ra trận Xích Bích được giới văn học đánh giá là từ thời Xuân Thu người ta mới gặp một bài thơ tứ ngôn cảm khái và lời lẽ cực kỳ bi tráng như vậy. Trong chính sử ông được xem là một nhà chính trị kiệt xuất, hết lòng lo cho dân, cho nước. Thế nhưng trong Tam quốc chí, bị La Quán Trung vì tình hoài Hán mà biến thành đệ nhất gian hùng, xem là tên phản nghịch.

Có thể xem đó là trường hợp ngược lại của Nguyễn Hữu Chỉnh hay chăng?

Người đọc có thể cho rằng sự lựa chọn cuối cùng của Nguyễn Hữu Chỉnh là sai lầm, cho là tài năng của ông chưa đủ cho một sự quyết định làm “ngọn pháo nổ đanh giữa trời” vì ông đã thua trận, nhưng lịch sử sẽ đánh giá ra sao nếu như ông thắng trận, thống nhất sơn hà?

Tất nhiên đó cũng chỉ là một giả thuyết!

Nhưng khi đọc Kẻ sĩ thời loạn, độc giả không thể không nhận ra là bằng văn phong chừng mực, hiền hòa, với những trang đối thoại đầy lôi cuốn nhà văn Vũ Ngọc Tiến đã muốn rửa oan cho Nguyễn Hữu Chỉnh.

Thật ra, khi bàn lại lịch sử là chỉ để thêm vào một chữ “nếu”, nên để kết thúc người viết xin dùng lời của Hứa Thiệu khi xem tướng và phán xét về nhân vật Tào Tháo: “Quan giỏi thời trị và gian hùng thời loạn”. Tất cả đều do một hoàn cảnh trớ trêu của lịch sử nên hai danh xưng thật ra chỉ cách nhau một sợi tóc.

Trương Văn Dân

Sài Gòn 9-2019

(Bài viết được tác giả gửi cho Web Khoa Văn học)

Trong bầu không khí dân chủ tối đa và nhận thức tối đa của con người thời hậu chiến, nền thơ Việt Nam, trong đó có thơ nữ lại nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng về cuộc sống.

20190927 Tho nu

Điều này phản ánh cái nhìn nghệ thuật mới của chủ thể sáng tạo thông qua hình tượng con người trong mối quan hệ với văn hóa thời bình cùng với diễn ngôn tương ứng mang tính khách quan, chân thật.

Bản sắc văn hóa là cụm từ chỉ bản chất và thuộc tính của văn hóa. Nó hình thành từ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, xã hội và với chính con người để tạo ra các hệ giá trị văn hóa theo quy luật của cái đẹp, cái giá trị. Văn học là một hình thái ý thức xã hội - thẩm mỹ kết tinh từ văn hóa, và đến lượt mình, nó biểu hiện thành những giá trị văn hóa mới, hiển minh nhất, đóng góp những nội dung mới cho văn hóa ngày càng phong phú, đa dạng và cụ thể. Thơ ca là một thể loại đặc thù tiếp nhận từ văn hóa và tạo ra văn hóa mới trên cơ sở sáng tạo ra thế giới hình tượng phong phú, với ý nghĩa triết mỹ bất ngờ trên chất liệu ngôn ngữ cũng đa dạng, biến ảo. Văn học nói chung, thơ ca nói riêng có chức năng sáng tạo, truyền dẫn và lưu giữ văn hóa tốt nhất, có sức nội cảm, lan tỏa kỳ diệu nhất. Môi trường sống với các mối quan hệ văn hóa đa dạng của nó chính là nền tảng, là bệ phóng làm xuất hiện hình tượng văn học.

Quan hệ giữa văn hóa và văn học ngày càng được các nhà nghiên cứu quan tâm. Từ góc nhìn giới, quan hệ trên càng tương thích và hứa hẹn tỏ lộ những phẩm chất mới trong thơ nữ hiện đại Việt Nam. Căn cứ vào lý thuyết giới và lối viết nữ cũng như lý thuyết phê bình văn học nữ quyền, chúng ta dễ dàng nhận ra những đặc trưng thi pháp mới mẻ của thơ nữ thời hiện đại mà cụ thể là từ 1986 đến nay. Đặt thơ nữ giai đoạn này trong bối cảnh lịch sử - xã hội - văn hóa tương ứng sẽ phát hiện nhiều giá trị ngữ nghĩa mới cho thơ. Ở đây, cần phải nhìn nhận rằng thơ nữ là mô hình chủ thể để nghiên cứu trong quan hệ với mô hình khách thể là môi trường lịch sử - văn hóa mà nhà thơ sống trong nó và phản ánh nó. Cả hai sẽ cộng hưởng, hỗ tương lẫn nhau để làm giàu có bản sắc văn hóa cho dân tộc, đồng thời làm giàu bản sắc văn hóa cho thơ nữ Việt Nam giai đoạn này.

Văn hóa trong tình yêu biểu hiện ở lòng thủy chung, ân nghĩa, sự son sắt hẹn thề; trong chiến tranh chia cắt, người vợ vẫn đợi ngày thống nhất. Lê Thị Mây nhận ra: “Chợt như trăng non tiếp nhận ánh ngày/ Tôi tiếp nhận niềm tin nước nhà thống nhất/... Sắc cờ sao nơi chót mũi Cà Mau” (Mặt trời ở biển). Nhìn cát, Lê Thị Mây biết mỗi ngày niềm tin mỗi mới: “Cát vàng rơi, cát vàng rơi/ Sau đêm mưa ngọt càng ngời nắng mát” (Cát làng tôi); Hoàng Việt Hằng không thôi day dứt và trách nhiệm với những hiện thực trái ngang, luôn dùng dằng trong tâm tưởng và hiện thực: “Em khâu tóc trắng thay lời/ Mỗi khi cúi xuống rã rời nỗi đau/ Con chồng, vợ cũ, đồng sâu/ Lấy chồng lấy cả nỗi đau của chồng” (Một mình khâu những lặng im). Từ đó, một ý niệm về văn hóa ứng xử hiện lên sâu nặng.

Dân tộc Việt Nam đã trải qua hai cuộc chiến tranh đau thương, mất mát. Nỗi đau, bi kịch hằn sâu trên mặt đất và trong mỗi hồn người. Tất cả hiện thực đó đã tác động sâu sắc đến tâm tư, tình cảm của con người, làm hiện lên những phẩm chất văn hóa ngời sáng trong thơ ca. Hiện thực cuộc sống và con người hòa quyện trong nhau để làm nên những nội dung mang bản sắc văn hóa mới, phản ánh tình cảm, tâm hồn, chất thơ mới cho mỗi chặng đường thơ kháng chiến. Ở đó, hiện thực và lý tưởng, trữ tình và anh hùng ca, nội dung và hình thức hòa quyện trong nhau tạo nên đặc trưng văn hóa thời chiến.

Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa trong cuộc sống đời thường hiện lên với nhiều sắc thái và cung bậc. Cuộc sống nghèo túng đã đi vào thơ với nhiều day dứt, xót xa. Nguyễn Thị Mai nhớ về một thời cơ cực của mẹ với hình ảnh buồn thương: “Mẹ ơi/ Thơm cay một miếng trầu xưa/ Mà con phải bớt tiền mua vì nghèo/ Bây giờ đã bớt gieo neo/ Lại không còn mẹ và chiều. Khổ không?” (Qua hàng trầu nhớ mẹ). Suy thoái đạo đức thời kinh tế thị trường lại đi vào thơ một cách day dứt: “Thật khủng khiếp khi lời yêu thương cạn kiệt/ Khi người ta cứ vô cảm sự đời/ Trước vẻ đẹp của ánh trăng, ngọn cỏ/ Trước nỗi buồn da diết cũng dửng dưng” (Khoảng cách - Hoàng Kim Dung)..

Đối thoại, tự thoại, tự vấn, điều trần với văn hóa thời bao cấp cũng có mặt trong thơ nữ giai đoạn này: “Những con lừa đã giấu đi bản chất/ Râu xanh/ Khoác trên vai mùi thơm những vòng nguyệt quế” (Ốc đảo - Đoàn Thị Lam Luyến). Thơ Phan Huyền Thư bộc lộ nỗi hoài nghi có tính triết mỹ và văn hóa trước một hiện thực mới: “Con người là nỗi đau!/ Phá vỡ thuyết tương đối nhưng lại tin sự tương ứng” (Không thanh thản). Có lúc nhà thơ không nén được nỗi xót xa: “Em căm thù sự bất công/ giả trá/ Nghịch lí như mạng nhện ma quái” (Những câu thơ mang vị mặn). Vi Thùy Linh đã soi vào danh tác của các nghệ sĩ bậc thầy trên thế giới để hiểu những vấn đề lịch sử và văn hóa ngày hôm nay của đất nước sau chiến tranh: “Tôi ngước nhìn những câu thơ anh như động mạch chạy dọc vòm trời” (Gửi Êxênhin); “Tôi nghĩ về Van Gogh/ Những kiệt tác hay chính cuộc đời ông là ám ảnh” (Tôi lắng nghe Van Gogh). Đó phải chăng là cách thanh lọc và nhân đạo hóa đời sống mà thơ nữ hướng tới để ủ mầm cho niềm tin thánh thiện trong hiện tại và tương lai? Nhưng dù gì, các nhà thơ nữ cũng đã nhận ra sự bất ổn của văn minh thời hiện đại. Vi Thùy Linh đã xác nhận: “Khi đã thấy nhiều sự đối lập, nghịch lý trên mặt đất này.../ và cừu Dolly ra đời không cần có cha” (Tảng băng trôi); “Sự tiến hóa làm con người xa nhau hơn/ Thậm chí ít có thời gian để cười và càng ít khóc...” (Đôi mắt lửa Puskin); “Khi mà bây giờ hầu như mọi thứ có thể mua/ Từ trinh tiết đến tình cảm hợp đồng và bằng cấp” (Tôi lắng nghe Van Gogh)... Văn hóa thời bao cấp được nhà thơ ghi lại bằng cái nhìn nghệ thuật bình đẳng để thấy được mặt trái của văn minh: “Tiếng thơ ầm ĩ/ tim lại rung lên bao thổn thức: Trái đất - cái cối xay rất cũ/ Vòng vòng quay nặng nề mệt mỏi/ Nóng dần lên, nước biển/ Thức dậy những núi lửa... Hàng triệu người điên lên theo mãnh lực phần mềm Microsoft/ Những tâm hồn đang được mã hóa với nhịp điệu sống lập trình/ Ngày đêm, nơron thần kinh căng cứng cập nhật dữ liệu/ Con người không ngây thơ, không nhiều ước mơ và mất dần lãng mạn/ Màu dollar sắp nhuộm cả da trời...”. Hà Nội thời hội nhập và mở cửa còn ngổn ngang đã đi vào thơ Vi Thùy Linh qua nét vẽ bằng thơ: “Hà Nội vẫn là cái làng/ Vỉa hè phơi những cảnh đời” (Nghệ sĩ); Hà Nội mất dần đi nét đẹp xưa: “Tôi sống trong Hà Nội mà mất dần Hà Nội/ Quy hoạch lộn xộn giải tỏa chất thơ” (Hà Nội tưởng tượng). Thơ tác động vào văn hóa thời mở cửa ở những nét bình dị mà không thể không lo âu về sự phân hóa của xã hội và con người.

Tuy vậy, thơ nữ Việt Nam sau 1986 vẫn không quên chắt chiu, gom góp vẻ đẹp văn hóa truyền thống ngàn đời với tinh thần hoài niệm và đối thoại nhân văn về những cổ mẫu và biểu tượng văn hóa vĩnh hằng.

Tình mẫu tử là một cổ mẫu văn hóa đặc biệt, làm nên nguyên lý Mẹ thiêng liêng và Nữ tính vĩnh hằng. Lâm Thị Mỹ Dạ là một trong các nhà thơ nữ viết về mẹ nhiều nhất. Mẹ là người âm thầm nuốt dòng lệ cô đơn, ly cách vào lòng; âm thầm nuôi con và mong con khôn lớn. Những bài thơ về mẹ của Lâm Thị Mỹ Dạ như: Nghĩ về mẹ, Hái tuổi em đầy tay, Trái tim sinh nở, Hoa chắt chiu… đều da diết niềm đau và yêu kính thiêng liêng. Từ hoàn cảnh riêng tư của mẹ: “Trách xưa ai đã phụ tình/ Để cho mẹ chịu một mình khổ đau/ Thác ghềnh nước cả, sông sâu/ Chống chèo mình mẹ đương đầu bão giông/ Buồn lo mẹ dấu trong lòng/ Nuôi em trong dạ mẹ mong tháng ngày/ Nỗi mình biết ngỏ ai hay/ Bao đêm nước mắt vơi đầy mẹ ơi”. (Trái tim sinh nở). Mẹ được ví như một loài hoa mang tên khiêm nhường, nhưng vĩ đại: Hoa chắt chiu: “Con gọi hoa chắt chiu là hoa của mẹ/ Bởi tin hoa như đời mẹ, mẹ ơi” (Hoa chắt chiu). Mẹ trong thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát cũng thế, liên quan đến những gì thẳm sâu, ân nghĩa, ngọt lành: “Mẹ chính là cốt rễ/ Cho con kết quả đơm bông” (Dâng mẹ).

Những đắng cay bao giờ mẹ cũng nuốt vào trong, dành trọn tình yêu, niềm tin cho con, hy sinh thầm lặng, nhận tất cả nỗi đau về mình. Giống như Mẹ và Quả trong cái nhìn nam giới của Nguyễn Khoa Điềm: “Lũ chúng tôi từ tay mẹ lớn lên/ Còn những bí và bầu thì lớn xuống/ Chúng mang dáng giọt mồ hôi mặn/ Nhỏ xuống lòng thầm lặng mẹ tôi” (Mẹ và Quả).

Trong thơ Ý Nhi, ký ức thời trẻ của mẹ lại hiện về trong ưu tư và day dứt: “Giữa bao nhiêu năm tháng ngược xuôi/ Đã có lúc lòng con đơn bạc/ Quên cả những điều tưởng không sao quên được/ Như người no quên cơn đói của mình...” (Kính gửi mẹ). Cái nhìn đầy yêu thương và văn hóa đối với mẹ bao giờ cũng xuất phát từ những sợi dây tình cảm thiêng liêng và xúc động của một thời cay cực đã qua.

Phan Thị Thanh Nhàn nghĩ về mẹ trong quan hệ máu mủ, nghĩa nặng tình sâu. Không có mẹ, mọi tồn tại trên cõi đời này sẽ thành vô nghĩa: “Đâu tấm lòng nhạy cảm/ Tình yêu và bài thơ/ Cũng chẳng hề đau khổ/ Chẳng một ngày đạn bom/ Chẳng mùa thu giông gió/ Chẳng mùa hè cao xanh”. Có con, đời có buồn vui, ân nghĩa, dẫu vất vả, gian lao: “Con làm khổ mẹ đi nào/ Thèm chua mỏi mệt xanh xao vóc gầy/ Vẫn hay chín tháng mười ngày/ Con như trái nắng mình cây chín dần” (Tình mẹ).

Không có mẹ không có vui buồn, không có khổ đau và hạnh phúc. Những biểu hiện văn hóa khi nghĩ về mẹ của Xuân Quỳnh cũng giống như Phan Thị Thanh Nhàn, nhưng mang chiều sâu nhân quả thiên bẩm. Đó là cái nhìn tác động nhân ái qua lại giữa mẹ và con, cả hai là điểm tựa của nhau: “Dẫu con đi suốt cuộc đời/ Vẫn không đi hết những lời mẹ ru”. Với mẹ chồng, văn hóa ứng xử của Xuân Quỳnh càng trách nhiệm, cao đẹp: “Phải đâu mẹ của riêng anh/ Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi/ Mẹ tuy không đẻ không nuôi/ Mà em ơn mẹ suốt đời chưa xong”. Và cuối cùng, như một chân lý hiển nhiên: “Chắt chiu từ những ngày xưa/ Mẹ sinh anh để bây giờ cho em” (Mẹ chúng mình). Cao hơn logic thông thường, Lâm Thị Mỹ Dạ nâng con lên tầm vũ trụ, một biểu hiện của cái nhìn văn hóa cao quý về tình mẫu tử: “Những lời vô nghĩa của con/ Dạy cho mẹ nghĩa yêu thương cuộc đời” (Chùm quả cho con).

Như một logic của tình cảm máu thịt, thiêng liêng, các nhà thơ nữ khi nghĩ về mẹ, họ lại không nguôi nghĩ về con - một biểu hiện của nguyên lý Mẹ và văn hóa Mẫu. Hy sinh, nuôi dưỡng và yêu thương con đến hơi thở cuối cùng là thiên tính nữ vĩnh hằng mà mọi người mẹ trên trái đất này đều giống nhau. Một cổ mẫu không bao giờ nhòa nhạt. Đầu đời khi con chào đời, đôi môi đỏ thắm, bé bỏng của con sẽ là niềm sung sướng của mẹ: “Đôi làn môi con/ Ngậm bầu vú mẹ/ Như búp hoa huệ/ Ngậm tia nắng trời” (Trắng trong - Lâm Thị Mỹ Dạ). Vì vậy mà lời ru là một trong những biểu hiện của hạnh phúc đầu tiên khi được làm mẹ, nhất là trong lửa đạn chiến tranh: “Ngủ đi con hãy ngủ đi/ À ơi cái ngủ đang về cùng con/ Từ trong lá cỏ tươi non/ Vượt lên mảnh đất vẫn còn mảnh bom/ Từ ngôi nhà mới vừa làm/ Nghe trong cái ngủ nồng nàn mùi vôi” (Lời ru trên mặt đất - Xuân Quỳnh). Cao hơn chức năng vốn có của lời ru, Xuân Quỳnh đã nâng lời ru lên tầm văn hóa, có khả năng thanh lọc, chở che: “Ngủ yên con, ngủ đẫy giấc nghe con/ Lời mẹ ru làm chiến hào che chở” (Lời ru trên mặt đất).

Rồi con lớn lên, chớm vào thời thiếu nữ, người mẹ lại phải bao vất vả lo toan cùng tuổi con khôn lớn mỗi ngày. Mẹ thấy được vui buồn ngày xưa của mẹ bây giờ lại hiện về trong trong ánh mắt thiếu nữ của con: “Tự mình phải hiểu mình thôi/ Làm thân con gái một đời/ Buồn lo lặn vào trong mắt/ Nụ cười cứ nở trên môi” (Mẹ có một thời con gái - Lâm Thị Mỹ Dạ). Xuân Quỳnh mơ một ngày mai tươi sáng cho con khi đất nước hết chiến tranh: “À ơi ngọn lửa ngày xưa/ Mẹ nuôi dưới đất bây giờ về đây/ Nhìn lên rực rỡ trên đầu/ Lửa hôm qua đã trong màu cờ bay” (Lời ru trên mặt đất).

Nghĩ về mẹ, khi mình đã là mẹ, thơ Lệ Thu càng đằm sâu, bởi điểm tựa của suy tưởng đã có thêm kinh nghiệm của khách thể hỗ trợ, có thêm sự so sánh tương đồng để nhận thức và đúc kết: “À ơi… đôi cánh non mềm/ Ngủ đi hãy ngủ bình yên/ ngoan nào/ Ngủ trong tiếng biển rì rào/ Đủ lông mai sẽ bay vào trời xanh.../ À ơi… con ngủ đi nào/ Ngủ ngon mai sẽ bay vào niềm vui!” (Lời ru chim yến).

Văn hóa biểu hiện tình mẫu tử trong thơ Đỗ Thị Tấc lại mang nét riêng của nhân dân miền núi Tây Bắc, nhưng vẫn trên mẫu số chung là thiêng liêng, cao cả: “Con có ở trên đời/ Như sợi khói chui ra từ cọng rạ/ Cay mắt mẹ đun độ mưa dầm ngày không nắng”, hay: “Lời ru bay lên/ Ngọn tre cong ngàn dấu hỏi/ Lời ru run lên/ Nghê đá đình làng nhe răng không nói/ Lời ru ra cánh đồng/ Lúa ngậm đòng hết thì con gái” (Trầu say). Dẫu số phận con chào đời như thế nào thì chín tháng mười ngày mẹ cũng đã ấp iu con từ cuống nhau sầu muộn của mẹ. Đỗ Thị Tấc đã nói lên một sự thật trớ trêu mà hạnh phúc vì được làm mẹ: “Mẹ không gặt con trên cánh đồng tình yêu/ Mẹ không gặt con trên cánh đồng hoan lạc/ Mẹ không gặt con trên cánh đồng người/ Mẹ gặt con trên cánh đồng trớ trêu số phận” (Trớ trêu).

Tình mẫu tử và những biểu hiện của cái nhìn văn hóa, bản sắc văn hóa trong thơ nữ trẻ sau 1986 có khác với thơ nữ lớp trước ở cấp độ khát khao và quyết đoán, nhưng tình mẹ con thì cũng trên hằng số chung của nhân loại. Họ thấy được ngọn nguồn của triết lý và bổn phận làm mẹ. Quyền được làm mẹ và nuôi con, yêu con là tối thượng. Điều đó đã nâng thiên tính nữ trong thơ trẻ lên một nhận thức xã hội và cảm quan văn hóa mới. Số phận những đứa con không may mắn làm cho những người mẹ trẻ khổ đau, nhiều khi đến tội lỗi và ám ảnh suốt cuộc đời họ.

Lê Thị Thấm Vân đã thổ lộ điều đó trong thơ một cách xa xót: “hòn máu lọt trong bồn cầu đêm qua/ cùng những cơn đau buốt bụng trước đó vài ngày” (Kali). Dẫu gì, lỗi đó có một phần của mẹ. Còn Lynh Bacardi thì thèm được có con và ôm ấp con một cách mãnh liệt: “thèm chui rúc trong con”, “thèm cuộn tròn trong tã lót con/ thèm tách sữa nóng chảy từ bầu vú”. Đó là một quan hệ song trùng để cả mẹ và con đều bay bổng trong cảm giác thiên thần, thánh thiện.

Vi Thùy Linh cũng mơ ước mình có những đứa con ra đời và khi lớn lên trở thành thiếu nữ: “Em tin ở ngày mai của đôi ta/ Khi đôi mắt Anh nhìn thấy trong mắt em những đứa bé chờ được sinh ra, và hoan hỉ gọi” (Đôi mắt Anh), “Các con trai vây quanh, thúc giục/ Nhanh lên nào, bố mẹ cưới nhau đi!” (Chờ tháng Tư). Đơn giản mà vĩ đại biết bao: “Con/ Ước mơ vĩ đại, dẫu cho ngày tuyệt diệt” (Đôi cánh của mẹ), “Em bẩm sinh năng lượng làm Mẹ/ một tín ngưỡng vượt lên mọi thống trị” (Nơi tận cùng sự ngưng đọng); “Qua bao nổi nênh/ Mẹ càng hiểu, con rất cần cho mẹ” (Những mặt trời đang phôi thai). Khát vọng được làm mẹ trong Vi Thùy Linh vượt thời gian để đón chờ phía trước. Đó là khát vọng đón đầu thời gian để biết mình cần phải yêu, phải sống đời sống vợ chồng cháy bỏng mới sinh hạ những đứa con. Một biểu hiện văn hóa làm mẹ mãnh liệt và cao quý làm sao! Trong tập thơ Phim đôi - Tình tự chậm, nỗi khát khao ấy đã thành minh triết sống và thiên chức của người phụ nữ: “Con chạy trước dẫn đường cha mẹ tới/ Tiếng con reo trong hơi thở mỗi ngày” (Hôn Việt Trì). Cũng như Vi Thùy Linh, ước mơ làm mẹ trong thơ của Phan Huyền Thư là cháy bỏng: “Rút khỏi đầu tấm voan ảm đạm/ vắt nỗi buồn mẹ lên cành trăng non/ Lập Duy/ vỗ cánh/ Gót chân hồng lanh canh/ tiếng cười bi ve ôm mặt trời nhồi bông/ mơ mẹ”. Một tâm thế khác, dáng vóc khác của mẹ khi con hiện hữu trong niềm tin của mẹ: “Ngày mai/ điềm tĩnh lại! mẹ sẽ tập đi bằng ánh sáng Lập Duy/ trong bóng tối câm lặng của lời” (Lập Duy).

Nhìn từ các quan hệ tương tác, thơ nữ Việt Nam thời hiện đại đã thực sự nói lên tiếng nói nữ giới thành thật, nhân văn, biểu hiện thành cảm thức văn hóa vừa mang tính truyền thống vừa mang tính hiện đại. Sự tác động của văn hóa đến thơ nữ và thơ nữ đến văn hóa cũng đa dạng, làm thành sự phong phú, chúng chuyển hóa trong nhau để hình thành những sắc thái văn hóa nhân văn mới cho thời hiện đại.

Bản năng tính dục và đời sống tâm linh là những biểu hiện cụ thể của văn hóa. Hạnh phúc và khổ đau, lãng mạn và hiện thực, thiêng liêng và phàm tục, tinh thần và thể xác… là những đối lập luôn diễn ra trong tình yêu. Lần đầu tiên, trong Thơ mới Việt Nam 1932 - 1945, con người cá nhân cá thể xuất hiện do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây với những điều kiện cần và đủ của xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Ở đây, nhu cầu được đối thoại với những quan niệm về tình yêu, tính dục và tâm linh, có cả đối thoại với tiền nhân trong văn chương và lịch sử. Đoàn Thị Lam Luyến có nhu cầu đối thoại với Hồ Xuân Hương, Xúy Vân, Thúy Kiều, Thị Mầu, những người phụ nữ có cá tính và nhân ái, nhưng phải nhận lấy bi kịch trong xã hội bất nhân và vô lý: “Em cứ vu oan Thị Kính/ Em cứ lẳng lơ Thị Mầu” (Hát theo Thị Mầu). Cái lẳng lơ rất dân chủ và rất thật với chính mình. Tác giả đồng cảm và chiêu tuyết cho họ, vì họ là nạn nhân của xã hội, rất đáng được ca ngợi, chứ không đáng phải chê trách. Đó là nhu cầu đối thoại và được đối thoại. Với Thúy Kiều, cũng thế: “Như Eva khát một lần trái cấm/ Trái cấm rơi - phúc, họa cũng theo về!” (Gọi Thúy Kiều). Đó là bản năng đích thực của tình yêu, ai vượt qua được tiếng gọi khát khao của trái cấm!?

Đề tài, chủ đề thơ thời bình không còn ưu tiên bó hẹp trong những nhiệm vụ trọng tâm của thời chiến nữa mà mở ra theo nhiều hướng, nhiều chiều. Lấy con người làm chủ thể ý thức trung tâm, thơ nữ sau 1975 đã phát huy tối đa khuynh hướng dân chủ hóa trong đời sống xã hội và văn hóa để nhận diện con người đời tư và thế sự trong tính tương tác và sinh thành. Thơ nữ giai giai đoạn hiện đại nổi lên với hiện tượng các nhà thơ thể hiện tiếng nói yêu đương và những biểu hiện của dục tính gấp gáp, có phần bạo liệt hơn các giai đoạn trước.

Trong giai đoạn hậu chiến, các nhà thơ nữ ưu tiên tâm tình và triết luận nhiều về đời sống tâm linh và những quan hệ đa dạng của hiện thực đời sống văn hóa, như cách để cân bằng và thanh lọc tâm hồn trong cuộc sống vốn rất nhiều đa đoan và hệ lụy. Về mặt kết tinh giá trị, đó chính là một biểu hiện của cảm thức văn hóa. Trong bầu không khí dân chủ và văn hóa thời bình, thơ nữ nhanh chóng hòa nhập và tạo ra những góc nhìn đa dạng, phản ánh văn hóa hậu chiến với diễn ngôn mới mang tính đạo đức và nhân văn mới.

Hồ Tiểu Ngọc

Nguồn: Tạp chí Sông Hương 366/08-2019, phiên bản trực tuyến ngày 20.9.2019.

20191111 Y Nhi

Sách ghi rõ: “Tuyển tập thơ – truyện ngắn” của Ý Nhi. Nhưng nhìn cuốn sách khổ lớn, bề thế, rồi nhìn vào mục lục thấy điểm danh hầu như đầy đủ các tập thơ và truyện của Ý Nhi, thì có ấn tượng đây là toàn tập của tác giả.

Đấy là vì chưa nói đến những chân dung văn chương mà Ý Nhi đã viết (vẽ) về những văn nghệ sĩ quen biết có bề dày tác phẩm. Những bức chân dung mà Ý Nhi dựng lên đều có màu sắc tỉ mỉ đồng thời bao quát của văn bản nghiên cứu, và tất nhiên không thể thiếu những kỷ niệm những hồi ức của người trong cuộc. Tôi có hỏi đã làm hẳn một tuyển dày cộp như thế này, sao không nhân tiện mà làm luôn bộ toàn tập gồm hai tập, đưa vào đấy cả phần chân dung, Ý Nhi bảo phần chân dung vừa mới in trong cuốn Kỷ niệm không có mưa (Domino Books và NXB Đà Nẵng 2018), cho nên bà chưa muốn vội vàng in lại.

Nhìn lại lâu lâu, thì thấy trong tuyển tập này, các tập thơ được điểm danh đầy đủ, nhưng Ý Nhi cũng chỉ chọn lại những bài mình ưng ý, không phải là toàn bộ tập thơ. Đấy là cách tác giả giúp cho người đọc đỡ mất thêm thời gian chọn lựa. Đấy cũng là sự nghiêm khắc của tác giả khi nhìn lại chặng đường đã qua của chính mình (khác với nhiều nhà thơ, khi làm tuyển thì không nỡ bỏ một cái gì, có lẽ vì… quá yêu mình).

Như vậy là người đọc đã cầm trên tay một tuyển tập cần có về một tác giả. Những gì thơ của Ý Nhi chưa nói thì truyện ngắn của bà đã nối mạch để giãi bày. Hay nghĩ ngợi theo cách khác, nếu đọc xong truyện của Ý Nhi mà còn thấy thòm thèm, thì ta có thể tìm sang thơ bà mà đọc lại. Thơ ấy là của người ấy và truyện ấy cũng là của người ấy.

Thay cho lời giới thiệu, nhà nghiên cứu phê bình Huỳnh Như Phương viết về “Ý Nhi và những bến bờ của sáng tạo”. Phần phụ lục cũng là sự chọn lựa một số bài viết nói được nhiều điều về tác phẩm của Ý Nhi. Chọn lựa, nhưng xem ra cũng là một hợp ca ăn ý và hài hòa: các nhà nghiên cứu phê bình Chu Văn Sơn, Lê Thành Nghị, Nguyễn Đức Tùng, Lê Hồ Quang; các nhà thơ: Hoàng Hưng, Thanh Thảo, Anh Ngọc; các nhà văn: Lê Minh Khuê, Ngô Thị Kim Cúc, Hồ Anh Thái, Mai Sơn, Vũ Thành Sơn, Phạm Toàn. Có người nhìn ra ở Ý Nhi “cuộc độc thoại triền miên” (Lê Minh Khuê). Có người lại nhìn thấy một “trái tim tự do” (Nguyễn Đức Tùng). Có người biết nữ thi sĩ còn đắm đuối với văn xuôi “không ngồi đan mà ngồi viết truyện” (Hồ Anh Thái). Có người thấy ở Ý Nhi “một vẻ đẹp khác” (Mai Sơn).

Nói về các giải thưởng, thì văn nghệ sĩ nào trong đời mình cũng đều có giải thưởng, đáng kể và không đáng kể. Vậy nói về sự đáng kể thì với Ý Nhi, đó là giải thưởng văn chương Cikada của Thụy Điển, dành cho những tác phẩm đã được dịch ra ngôn ngữ Bắc Âu này. Tuyển tập dành những trang cuối để in bài phát biểu dày dặn của Ý Nhi trong lễ trao giải Cikada tháng 11-2015.

Xin ghi nhận thêm những nỗ lực của nhà xuất bản Phụ Nữ: lâu nay nhà xuất bản vẫn chọn điểm nhấn là tác phẩm hay của các nữ tác giả. Có thể kể luôn, gần nhất là những tập sách dày cộp như bộ tiểu thuyết Từ Dụ thái hậu của Trần Thùy Mai và tuyển tập này của Ý Nhi. Điều đó khiến cho người ta mong chờ những tác phẩm dày dặn khác sẽ ra mắt. Thêm vào đó là bộ sách song ngữ Việt - Anh của các nhà văn Việt Nam đang ra những cuốn đầu tiên. Những tác phẩm lớn của văn chương thế giới cũng đã và đang được Phụ Nữ nối tiếp truyền thống của mình, nhanh chóng giành được bản quyền, tổ chức dịch và kịp thời mang đến cho người đọc (người ta vẫn chưa quên những Linh sơn của Cao Hành Kiện, Chúa trời của những điều vụn vặt của Arundhati Roy, Ruồng bỏ của J. M. Coetzee… một thời khuấy động giới yêu văn chương ở ta).

  

Hồ Anh Thái

Nguồn: Tiền Phong ngày 07.11.2019

Hơn ba mươi năm đã trôi qua kể từ ngày người nghệ sĩ tài hoa Lưu Quang Vũ tạm biệt nhân gian để trở thành “người trong cõi nhớ” của những người ở lại. Lịch sử sân khấu và lịch sử văn học nước nhà đã dành những tôn vinh xứng đáng cho tài năng cùng những trước tác nghệ thuật của ông. Và hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu văn học, sân khấu vẫn cố gắng cắt nghĩa, lí giải tính thời sự nóng hổi cùng sức sống lâu dài của kịch Lưu Quang Vũ đối với công chúng. Có nhiều yếu tố tạo nên sức hấp dẫn lâu bền của kịch Lưu Quang Vũ, nhưng trong những nỗ lực lí giải thành công của hiện tượng này, chúng tôi đề cao năng lực lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ nơi ông, cụ thể là việc trao quyền phát ngôn cho các vai chức năng trong kịch.
Nhiều người cho rằng yếu tố thời đại đã chắp cánh cho những thành công của kịch Lưu Quang Vũ, nhưng những tác giả cùng thời thậm chí còn giàu kinh nghiệm hơn kịch gia họ Lưu khi ấy không hề ít trên kịch trường. Trước Lưu Quang Vũ, khán giả sân khấu kịch cả nước đã quen thuộc với những cái tên như Nguyễn Đình Thi, Học Phi, Xuân Trình, Đào Hồng Cẩm... Sau khi Lưu Quang Vũ xuất hiện, những tác giả gạo cội ấy vẫn tiếp tục mạch sáng tác và có được các vở diễn để đời: Nguyễn Đình Thi có Người đàn bà hóa đá, Tiếng sóng, Cái bóng trên tường, Trương Chi; Xuân Trình có Mùa hè ở biển; Đào Hồng Cẩm có Tiếng hát; Doãn Hoàng Giang có Hà My của tôi, Nhân danh công lí... Kịch của các tác giả kể trên cũng mang những phẩm chất mà trước nay người ta hay dùng để ca ngợi kịch Lưu Quang Vũ như tính dự báo, tính thời sự, sự đa dạng chủ đề và phạm vi phản ánh... Do đó, ngoài năng lực viết nhanh, viết khỏe ít người theo kịp, theo chúng tôi, Lưu Quang Vũ còn có một ưu thế vượt trội so với đa số nhà viết kịch cùng thời, đó là năng lực sử dụng ngôn ngữ tạo ra những câu thoại vừa dí dỏm vừa sâu sắc. Để rồi sau khi đèn tắt, vở khép, điều còn đọng lại trong độc giả, khán giả thường là dư vị mặn đắng, chát chúa của những câu thoại “đắt giá”, buộc họ phải điều chỉnh suy nghĩ và hành vi. Chính khi ấy và bằng cách ấy, kịch của Lưu Quang Vũ đạt được tính chất dụ ngôn sâu sắc.
Phát ngôn trong kịch đã quan trọng, phân vai phát ngôn trong kịch dụ ngôn còn quan trọng và phức tạp hơn rất nhiều. Trên sân khấu của những trò diễn, các nhân vật trong kịch đối thoại, “đấu khẩu” với nhau, nhân vật nào cũng nói, nhưng lời nói của các nhân vật không phải bao giờ cũng có giá trị như nhau. Các tác giả kịch luôn có ý thức để nhân vật này được quyền nói buộc người ta phải nghe, và ngược lại, có những nhân vật khác nói chẳng ai nghe hoặc là cơ sở để người ta lên án, chê trách.
Trong kịch Lưu Quang Vũ, các nhân vật được đặt giữa vô số các mối quan hệ, tuy nhiên có thể lược quy vào ba kiểu quan hệ dựa trên các nền tảng giá trị và vị thế khác nhau gồm: quan hệ bề bậc (bố - con, anh - em, thầy - trò...); quan hệ đạo đức, tư tưởng (thiện - ác, trung - gian, tiến bộ-bảo thủ...); quan hệ giai cấp - xã hội (cán bộ - nhân dân, lãnh đạo - nhân viên, giàu - nghèo...). Trong quá trình can dự vào sự vận động của cốt truyện kịch, các nhân vật đều có lời nói, giọng điệu riêng, nhưng theo chúng tôi chủ thể phát ngôn giữ vị thế thượng tôn trong hầu hết các kịch bản của Lưu Quang Vũ là những nhân vật mang bài học, những chủ thể sở đắc chân lí gồm người già, phụ nữ và người trẻ.

20190905 LQV
Một cảnh trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt - Ảnh: ST

Là một nghệ sĩ và một nhà văn hóa, trong quá trình xây dựng kịch bản, Lưu Quang Vũ luôn chú trọng đến phát biểu của những nhân vật cao niên và những phát biểu ấy, trong đa số trường hợp đều thể hiện sự minh triết. Đó có thể chỉ là những người lao động bình thường như ông Trương Ba (Hồn Trương Ba, da hàng thịt), bà mẹ Xuyên (Lời thề thứ chín), ông Quých, bà Bộng (Tôi và chúng ta), cụ Gồi (Những ngày đang sống)..., đôi khi là những người lớn tuổi giữ địa vị cao trong xã hội, có tư tưởng tiến bộ như Bí thư Thành ủy Lê Duy (Nếu anh không đốt lửa), vị Bộ trưởng (Tôi và chúng ta)… Xuyên suốt kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt, độc giả chứng kiến nhiều phát biểu tinh tế, ý vị và sắc sảo của Trương Ba những khi nhân vật này suy tưởng, hoài niệm hay trước những lựa chọn khó khăn vào những thời khắc bản lề của cuộc đời. Hãy nghe đoạn ông phản biện lại Tiên cờ Đế Thích khi bị dụ dỗ nhập vào xác chú bé Tỵ:
“Đế Thích: - Trong thân một đứa bé, ông sẽ có cả một cuộc đời trước mặt.
Trương Ba: - Để rồi, chẳng bao lâu nữa, bà nhà tôi, bạn bè cùng lứa với tôi như bác Trưởng Hoạt lần lượt nằm xuống, mình tôi vẫn phải sống suốt bao năm tháng dằng dặc. Mình tôi giữa đám người hậu sinh. Những gì chúng thích thì tôi ghét, những gì tôi thích chúng chẳng ưa. Tôi sẽ như ông khách ngồi dai ở nhà người ta, mọi khách khác đã về cả rồi, mình vẫn dầm dề nán lại”(1).
Trong khi với nhiều người, để giữ lại mạng sống, họ sẵn sàng bán rẻ linh hồn, sẵn sàng chà đạp lên người khác thì phát ngôn trên của ông Trương Ba như lời răn dạy của một bậc hiền triết, logic sắc sảo nhưng cũng rất đỗi dung dị. Nó đồng thời khẳng định vị thế phát ngôn mang tính quan niệm của chủ thể lời nói. Cũng như ông Trương Ba, bà Xuyên trong Lời thề thứ chín tuy chỉ là một nông dân nghèo nhưng lại rất hiểu chuyện, và dường như trong mọi tình huống, bà luôn giữ được sự tỉnh táo để phân tích tình hình và đưa ra những nhận định hợp lí, thuyết phục được mọi người xung quanh. Trước sự xốc nổi, bồng bột của bốn anh lính trẻ trong đó có con trai mình, bà đã bình tĩnh phân tích cho họ thấy cái sai trong hành động bỏ đơn vị về địa phương cứu bố Xuyên đang chịu hàm oan:
“Bà Xuyên: - Yên vui, công bằng không thể đến bằng cách này. Phải do mọi người, rồi phải do Đảng, do chính quyền, nhìn ra mà có cách cho dân khỏi khổ”(2).

Lối suy nghĩ của bà không hề viển vông mà là sự trù tính xa xôi và toàn cục. Ở một diễn biến khác, trước sự mất niềm tin của con trai với những nỗ lực kêu oan dường như vô vọng của mẹ, bà vẫn không bị lung lạc, vẫn suy nghĩ tích cực và lạc quan:
“Bà Xuyên: - Dù có khản tiếng, kiệt sức mẹ vẫn phải đi. Mà đâu chỉ có mình mẹ, còn bà con, còn những người tốt biết phân biệt phải trái... Nhất định có ngày nỗi oan được cởi, trắng đen được sáng tỏ rạch ròi. Lẽ trời, lẽ người là như vậy”(3).
Trong kịch Lưu Quang Vũ, người đàn ông thường xuất hiện như những nhân vật trung tâm, nhưng chính người phụ nữ mới là những nhân vật mà lời nói có “trọng lượng” nhất. Trong những giờ phút quan trọng, những phát ngôn của họ tựa như chứa đựng một thứ “quyền lực mềm” giúp điều tiết, hóa giải xung đột và phát đi những bài học nhân sinh sâu sắc. Ta bắt gặp những phát ngôn như thế đến từ mẹ Xuyên (Lời thề thứ chín), bà vợ, chị con dâu (Hồn Trương Ba, da hàng thịt), Thảo (Ông vua hóa hổ), Thanh (Tôi và chúng ta), Nhâm (Điều không thể mất)...
Theo dõi bi kịch hồn - xác trong Hồn Trương Ba, da hàng thịt, chúng ta hẳn không quên tình thế dồn nén đưa ông Trương Ba đến quyết định “chết hẳn”. Trong rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan đưa đến quyết định cuối cùng ấy của ông, đáng chú ý nhất và dường như đóng vai trò then chốt nhất là lời của chị con dâu. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng khi bà vợ đòi bỏ đi, cái Gái bực tức ném vào ông những lời mắng nhiếc, xua đuổi, Trương Ba chỉ còn một niềm an ủi duy nhất là tình thương, sự cảm thông của cô con dâu mà mình xem như con đẻ. Thế nhưng sự bấu víu cuối cùng ấy cũng tuột mất:
“Chị con dâu: - ... Thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn thấy mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa... Con càng thương thầy, nhưng thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia?”(4).
Lời tâm sự đầy chua xót ấy của chị con dâu chính là giọt nước tràn li để ông Trương Ba đưa ra quyết định về sự sống chết của mình.
Dẫu không phải là nhân vật trung tâm nhưng những ý kiến của Thanh luôn có tính tác động trực tiếp đến mọi quyết định của Hoàng Việt (Tôi và chúng ta). Lời lẽ của người phụ nữ nhỏ bé ấy luôn toát lên vẻ sáng suốt, tỉnh táo và sự điềm tĩnh của một người sẵn sàng đối mặt với cái chết khi mang trong mình di chứng chiến tranh.
“Thanh: - ... Tôi không biết lắm về những lí lẽ. Đi từ thế giới của cái “tôi” sang thế giới của “chúng ta”. Nhưng cái chúng ta ấy phải được làm bằng mỗi cái tôi cụ thể, bằng sự tôn trọng, hạnh phúc và phẩm cách của từng người. Nếu không anh sẽ không làm gì được đâu, cái thế giới chúng ta chung chung của anh, sẽ không ai thiết đâu, đồng chí giám đốc ạ!”(5).
Cũng như Thanh, mặc dù nhân vật chính của tấn bi kịch tù oan là Luân (Trái tim trong trắng) nhưng người giữ vai trò kiếm tìm công lí và phát ngôn chân lí lại thuộc về Phương - người yêu của Luân:
“Phương: - Nếu người chết có linh hồn, sẽ nghĩ gì, nói gì? Có nằm yên dưới mộ được không nếu biết vì cái chết của mình mà bao người đau khổ? Nơi kết thúc của mọi đời người đây (nghĩa trang). Mọi thù oán, yêu thương, nghi ngờ, đau khổ... Nhưng phải có gì còn lại? Lẽ phải, tình yêu, công lí...”(6).
Trong hầu hết các vở kịch của mình, Lưu Quang Vũ dành một vị trí trang trọng cho người phụ nữ. Họ có thể không phải là nhân vật trung tâm nhưng phát ngôn của họ là những chân lí không thể chối cãi, và vì lời nói của phụ nữ - với tất cả thiên chức và tính nữ của mình - bao giờ cũng là những lời dịu dàng, mềm mại, dễ lọt tai nhất.
Ngoài nhân vật người già và phụ nữ, Lưu Quang Vũ còn dành một niềm ưu ái đặc biệt với những người trẻ tuổi. Những người trẻ có được thẩm quyền phát ngôn trong kịch Lưu Quang Vũ là những người đại diện cho lực lượng dựng xây hiện tại và kiến tạo tương lai, họ là những người dám thể nghiệm và dám thất bại. Ở những người ấy có sự nông nổi, bồng bột nhưng cũng đầy trách nhiệm và tình yêu cùng niềm lạc quan mãnh liệt.
Điểm hạn chế thường thấy của những người trẻ tuổi là dễ mắc sai lầm. Những nhân vật trẻ tuổi trong kịch Lưu Quang Vũ cũng không ở ngoài xu hướng khách quan đó. Quan trọng hơn, sau những vấp ngã và trả giá họ đúc kết ra được nhiều bài học bổ ích cho bản thân và cho cả những người xung quanh. Khi ấy, thái độ phát ngôn của họ trở nên trầm tĩnh, từ tốn hơn.
Những lời của Hưng (Bệnh sĩ) về quyết tâm vạch trần sự giả dối sau những vỏ bọc hư danh cũng phần nào giống với suy nghĩ của Cuội khi vở Lời nói dối cuối cùng khép lại:
“Hưng: - Vì chính ở cái xã quê mình và quê Nhàn này, mình được chứng kiến bao cái dở, bao sự lăng nhăng vớ vẩn không ra sao do bệnh sĩ, bệnh sính hư danh đâm ra giả dối bốc phét, để cho những kẻ không ra gì nó thừa cơ đục nước béo cò. Dân khổ bởi phải hứng chịu toàn những thứ dởm. Mình không muốn đóng góp thêm một thứ đồ dởm nữa là chính bản thân mình”(7).
Người tốt nhà số 5 không hấp dẫn độc giả ở cốt truyện mà ở những triết lí trong các câu thoại khi các nhân vật của khu nhà nhận xét về Hiệp và lòng tốt của anh. Những câu thoại mà ngay khi vừa cất lên đã khiến độc giả và khán giả ngậm ngùi: Liệu có phải cứ sống tốt là sẽ có ích cho người khác? Làm sao để làm người tốt?
“Khôi: - Anh cố chấp quá! Cố chấp như thế chỉ thiệt anh mà cũng chẳng có lợi cho ai! Chỉ nên làm người tốt khi nào làm người tốt không bị thiệt. Một xã hội để cho người tốt bị thiệt thì ta cũng chẳng nên tôn trọng những quy tắc của xã hội ấy”(8).
Chắc hẳn sẽ có nhiều người đồng ý với lí giải này của Khôi về lòng tốt và điều kiện thực hành lòng tốt. Người ta chẳng thể trách được lối suy nghĩ ấy của Khôi, bởi anh còn phải lăn lộn mưu sinh để nuôi mẹ. Dù còn trẻ và vì còn trẻ nên anh cũng như nhiều người khác đã nhìn ra những khó khăn của thời bao cấp và đã rất nhanh để thích ứng với nó. Để cho chính những người trẻ nhìn nhận về sai lầm của bản thân từ đó phản tỉnh xã hội, Lưu Quang Vũ đã làm sâu sắc thêm tính luận đề cho các vở kịch của mình.
Ý thức sâu sắc rằng ngôn ngữ kịch không chỉ là công cụ biểu đạt mà còn là phương tiện tác động của kịch, Lưu Quang Vũ đã xây dựng được rất nhiều điển hình nghệ thuật, cùng với đó, những phát ngôn chuyên chở nhiều thông điệp mang chiều sâu tư tưởng kia đã làm nên linh hồn, tạo thành sức sống bền bỉ cho mỗi vở diễn của ông. Với những kiến giải này, chúng tôi muốn khẳng định rằng: cùng với hành động kịch, ngôn ngữ là phương diện góp phần khắc họa tính cách nhân vật; quan trọng hơn, qua việc trao quyền phát ngôn cho các nhân vật một cách đầy dụng ý, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm nhiều bài học dụ ngôn sâu sắc
B.H.Y

--------
1,4, 5: Lưu Quang Vũ (2013), Hồn Trương Ba, da hàng thịt (tuyển kịch), Nxb Hội Nhà văn, tr.71, 68, 250.
2,3: Lưu Quang Vũ (2003), Tôi và chúng ta, Lời thề thứ chín, Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh), Nxb Sân khấu, tr.278, 279.
6,7, 8: Lưu Quang Vũ, Trái tim trong trắng, Bệnh sĩ, Người tốt nhà số 5, Lời thề thứ chín… (Tài liệu viết tay do gia đình cố nghệ sĩ cung cấp).

Nguồn: Văn nghệ Quân đội, ngày 28.8.2019.

Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, cho đến nay, các nhà làm văn hóa ở Việt Nam chưa có được những hoạt động văn hóa hay những nghiên cứu đúng tầm về Nguyễn Du, hay về Truyện Kiều.

Truyện Kiều hiện đã có hơn 70 bản dịch ở nhiều quốc gia và đã trở thành danh tác, nhân vật Thúy Kiều đã trở thành “công dân quốc tế”. Trong cuốn Những kiệt tác văn chương ngoài phương Tây của Thomas L. Cooksey có dành hẳn một chương để nói về Truyện Kiều. Truyện Kiều còn được viết trong một cuốn sách hướng dẫn giảng viên giảng dạy văn học thế giới.

Trong các dự án kỷ niệm 200 năm ngày mất Nguyễn Du đã được khởi động từ vài tháng cuối năm nay, đều có nguồn tài trợ từ các tổ chức văn hóa nước ngoài. Chẳng hạn như vở kịch đương đại Nàng Kiều do Viện Goethe tại Việt Nam tổ chức, hay vở nhạc kịch Kim Vân Kiều do Viện Pháp tại Việt Nam và IDECAF phối hợp với Trung tâm Văn học Nghệ thuật TP.HCM tổ chức…

Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, cho đến nay, các nhà làm văn hóa ở Việt Nam chưa có được những hoạt động văn hóa hay những nghiên cứu đúng tầm về Nguyễn Du, hay về Truyện Kiều - một tác phẩm lớn của dân tộc. Đó là một điều đáng buồn. 

2019111 NC

Phóng viên: Ông có thể nói sơ lược vài ý để bạn đọc có thể hình dung được phần nào tầm vóc của Nguyễn Du và Truyện Kiều?

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: Thứ nhất: về ngôn ngữ, ngay câu mở đầu: Trăm năm trong cõi người ta, nếu người đọc sâu sắc sẽ tìm thấy ít nhất sáu tầng nghĩa. Trăm năm: 1/ Quy ước về một đời người, 2/ Mãi mãi - vĩnh viễn, 3/ Trời định, 4/ Tình duyên, 5/ Đối sánh câu đầu và câu cuối của Truyện Kiều: “Trăm năm… trống canh” sẽ thấy triết lý đời là phù du, vô thường, mộng ảo, 6/ Đối sánh ngay trong câu ấy sẽ thấy tương quan của thời gian và không gian: “trăm năm” (thời gian) tương sánh với “cõi người ta” (không gian).

Nguyễn Du còn là vua của trò chơi “vu hồi ngôn ngữ”, khuyến khích người đọc suy nghĩ đa chiều để thấy cuộc sống luôn tồn tại nhiều mặt trong cùng một vấn đề: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều, hay Có trời mà cũng tại ta… Ông không đánh lừa người đọc, mà từ sự vu hồi ấy cho thấy ở đời mọi sự đều phức tạp.

Tiếng Việt có những điểm thua các ngôn ngữ khác, nhưng riêng hai phương diện: nhạc điệu và hình ảnh thì xếp vào hàng… thượng thừa. Đại thi hào Nguyễn Du chính là người làm cho tiếng Việt và thể thơ lục bát lên đến đỉnh cao. Đáng lưu ý là Truyện Kiều ra đời cách đây hơn 200 năm, khi hệ thống chữ nôm còn chưa hoàn thiện, mà Nguyễn Du đã sáng tác một tác phẩm hoàn chỉnh đến vậy. 

Thứ hai: sống trong một xã hội mặc định “nam tôn nữ ti” mà ông lại viết về phụ nữ trìu mến nhất, tôn trọng nhất. Từ cái rất nhỏ trong cuộc sống, ông nâng tầm thành cái chung của mọi người, vì vậy người ta có thể lẩy Kiều trong nhiều hoàn cảnh, chẳng hạn câu: Hoa chào ngõ hạnh hương bay dặm phần có thể sử dụng dịp đỗ đạt, khi hạnh phúc, lúc cưới hỏi… Tiếp cận Truyện Kiều nên tiếp cận ở yếu tố vũ trụ và nhân sinh, vượt ra khỏi cái nhìn hạn hẹp. Thế giới kính nể Nguyễn Du vì cái nhìn nhân văn, triết lý nhân sinh, tinh thần cởi mở đó. 

* Ông từng nói mối quan hệ của các nhân vật trong Truyện Kiều tương ứng với bốn nguyên tố tạo nên thế giới là đất, nước, gió, lửa. Ông có thể cụ thể điều này?

- Khi đọc sách cỗ bài Tarot đúc kết minh triết phương tây về 4 nguyên tố đất, nước, gió, lửa (tôi đã nói trong cuốn Người về với Như), rồi đọc mấy chục cuốn của triết gia Gaston Bachelard, tôi thấy hay quá. Điều này trùng hợp với khái niệm thân tứ đại của phương Đông, bốn yếu tố đó có ở bên ngoài cảnh vật, bên trong thân và tâm mỗi người.

Nhiều câu thơ của Nguyễn Du mang ba tầng nghĩa như vậy. Kiều với Kim Trọng là nước, Kiều với Từ Hải là gió, Kiều với Thúc Sinh là đất và Kiều với Giác Duyên là lửa. Trong đó, chỉ có thành tố nước là có tính phản chiếu, vì vậy đó là mối quan hệ của tình yêu. Đất vừa có nghĩa là sinh sôi, nhưng cũng vừa mang nghĩa chết chóc, chôn vùi. Vì vậy đại diện cho mối quan hệ đầy thực tế, dựa trên tiền bạc giữa Thúc Sinh và Kiều. Gió mang hình ảnh đại diện là gươm đao, và đó là mối quan hệ giữa Kiều và Từ Hải. Lửa vừa là hình ảnh trí huệ của Phật giáo, vừa là lửa đốt tâm dục vọng, vì vậy đó là mối quan hệ giữa Kiều và Giác Duyên.

Người đọc có thể thấy những câu thơ mang ảnh tưởng nước mỗi khi Kiều và Kim Trọng gặp nhau: Dưới cầu nước chảy trong veo/ Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha, hay Đủ điều trung khúc ân cần/Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng. Tương tự, nhiều hình ảnh liên quan đến gió, lửa và đất cũng có trong các câu thơ khi Kiều xuất hiện cùng các nhân vật khác. Rõ ràng thiên tài Nguyễn Du vẫn còn khiến ta bỡ ngỡ.

* Truyện Kiều đẹp là thế, nhưng vì hệ thống chữ nôm không hoàn chỉnh nên có nhiều dị bản khiến bạn đọc bối rối, thưa ông?

- Chính vì điều đó mà tôi có khuynh hướng đọc Kiều theo kiểu so sánh các bản khác nhau, và chọn những từ cho là tinh túy, xứng đáng với thiên tài của Nguyễn Du. Ví dụ hai câu nói về Đạm Tiên: Sống làm vợ khắp người ta/ Hại thay thác xuống làm ma không chồng. Theo tôi đây không phải là câu thơ hay, nhiều nhà thơ khác cũng nói được không cần đến Nguyễn Du. Hai câu trong bản Liễu Văn Đường năm 1871: Sống thì tình chẳng riêng ai/ Khéo thay thác xuống ra người tình không.

Rất có thể Nguyễn Du nói như vậy khi xét về mặt dùng chữ xuất chúng. Tôi không phải là người phát hiện, cũng như có bằng chứng, nhưng tôi thấy hai câu này tài tình. Hoặc hai câu khác lúc Kiều gặp Kim Trọng: Hải đường lả ngọn đông lân/ Giọt sương chíu nặng cành xuân la đà. Chữ chíu, có bản in chữ trĩu, có bản in chữ gieo, tôi chọn chữ chíu vì nó nhẹ hơn chữ trĩu và gieo, làm cho hình ảnh trong câu thơ đẹp hơn.

* Có rất nhiều câu thơ xuất chúng trong Truyện Kiều, nhưng câu nào khiến ông tâm đắc nhất?

- Thân tàn gạn đục khơi trong/ Là nhờ quân tử khác lòng người ta. Lỡ từ lạc bước bước ra/ Cái thân liệu những từ nhà liệu đi. Liệu bài mở cửa cho ra/ Ấy là tình nặng ấy là duyên sâu. Hoặc câu: Sư rằng: Song chẳng hề chi/ Nghiệp duyên cân lại nhắc đi còn nhiều. Những lúc tuyệt vọng, đọc câu này lên thấy được giải thoát, thấy cơ duyên còn nhiều. Ở đây, Nguyễn Du dùng thủ pháp tách ghép chữ cân nhắc và chữ đi lại rất tài tình.

Tôi thích những câu trên vì nó đơn sơ và Việt Nam vô cùng. Nó có cái nhìn mở về tương lai. Tôi yêu những cái nhìn vươn lên, hướng về phía ánh sáng như vậy. Câu nào của Nguyễn Du cũng đầy tư tưởng, triết lý nhưng nói ra rất nhẹ, không làm dáng, không nhại tàu, không nói theo Khổng Tử. 

* Ở vị trí một nhà giáo, theo ông nên có một chương trình dạy Truyện Kiều như thế nào ở các trường trung học và đại học, để học sinh - sinh viên từng bước thấy được cái tầm của Nguyễn Du và Truyện Kiều?

- Thật ra tôi không lo học sinh sẽ cảm nhận Truyện Kiều như thế nào, mà chỗ đáng lo hơn là giáo viên. Bao nhiêu năm qua, giáo viên vẫn thường dạy Kiều theo kiểu không để học sinh tư duy, đúng hơn là bắt học sinh tư duy theo một kiểu có sẵn. Các kiểu dạy như tư tưởng chống phong kiến, lên án đồng tiền của Nguyễn Du trong Truyện Kiều. Tư tưởng của Nguyễn Du không hạn hẹp như thế.

Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói về Nguyễn Du: Nhãn phù lục hợp/ Tâm quán thiên thu, mà tôi dịch thành Mắt trôi sáu cõi/ Tâm tràn thiên thu. Một quyển sách xứng đáng cho thấy cái đẹp và cái tầm của Nguyễn Du cũng chưa có. Giáo viên cứ nói mãi những điều không phải của Nguyễn Du như chống phong kiến, lên án đồng tiền. Nguyễn Du không biết xã hội ông sống là xã hội phong kiến. Tôi cho rằng dùng từ chống phong kiến là sai cơ bản. cái ông chống là cái ác, cái xấu, mà ông gọi là những người bạc ác tinh ma. Nếu có sống dậy, thì ông vẫn chống điều ấy.

Trong khi đó, trong giáo trình hướng dẫn dạy Truyện Kiều của nước ngoài, họ đưa ra những khuynh hướng đọc Kiều, những gợi ý và đặt ra những câu hỏi theo hướng mở để sinh viên tư duy.

Họ đặt ra một số câu hỏi dành cho sinh viên như: “Kiều là nạn nhân của vô số tội ác mà vẫn sống sót, qua tất cả những khủng khiếp mà nàng đã trải qua, bạn hãy viết bài tiểu luận tranh luận Kiều là nhân vật chủ động hay thụ động?”, “Qua Truyện Kiều, hãy đề cập thi pháp, tài khéo thi ca trong đó, giải thích những giá trị mà tác giả đã đem đến cho văn chương”, “Truyện Kiều chứa đựng những câu thơ lãng mạn, qua nhiều tình yêu mà nàng đã trải nghiệm, hãy xem xét những hiệu quả mà tình yêu đã đem đến trong thế giới, và viết những giá trị đưa đến những tình yêu ấy”… Tất cả những câu hỏi đều gợi mở chứ không đưa ra một chân lý nào. Tôi cho rằng những câu đó hay hơn sách giáo khoa ở ta.

* Xin cảm ơn ông. 

Lâm Hạnh (thực hiện)

Nguồn: Phụ nữ Online, ngày 11.11.2019.

20190814 Va khi tro bui

Một trong những thành tựu quan trọng của văn học Việt Nam từ sau 1986 là đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người. Văn học về đề tài tha hương góp một phần đáng kể vào thành tựu đó. Khảo sát một số tác phẩm văn xuôi đầu thế kỉ XXI, nhất là sáng tác của các nhà văn đã từng sống ở nước ngoài, chúng tôi nhận thấy có kiểu con người dấn thân. Đây cũng là một nét đặc thù của hình tượng con người tha hương, góp phần làm sâu sắc hơn nhận thức của người đọc về con người, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Dấn thân là một ý niệm thường đi liền với ý niệm tự quyết - một phạm trù của triết học hiện sinh. Tự quyết là “tự chứng minh rằng tôi là một chủ thể tự do và tự đảm nhận”(1). Quan niệm như thế, tất nhiên, chỉ có thể xuất hiện ở những con người hiện sinh - “con người ưu tư về định mệnh của mình và ưu tư tìm cách phát triển nhân cách của mình tới mức hoàn hảo”(2). Do vậy, chữ “dấn thân” chúng tôi dùng ở đây vừa mang nghĩa thường dùng và, ở một mức độ nào đó, vừa mang ý nghĩa của triết học hiện sinh về con người.

1. Những cú sốc trên hành trình dấn thân
Trong vài ba thập kỉ trở lại đây, phần lớn việc xuất ngoại của người Việt là tự nguyện. Nhưng một phần không nhỏ trong số đó do thiếu thông tin, hiểu biết, hoặc vì một mục đích mà họ cho là to lớn hơn, nên không hình dung hết hoặc là bất chấp tính chất nguy hiểm, sự gian nan của hành động mình đang làm. Trong nhiều trường hợp, những thiếu thốn kể trên cộng với sự khác biệt về văn hóa đã tạo cho họ những cú sốc tinh thần ghê gớm.
Tiêu biểu cho đặc điểm này là Quyên trong tiểu thuyết cùng tên của Nguyễn Văn Thọ. Đồng ý rời bỏ gia đình, quê hương ra đi tìm miền đất hứa cùng người chồng có học thức, có tình yêu, hẳn là Quyên chưa bao giờ hình dung lại có ngày cô bị lạc chồng trên đường vượt biên từ Nga sang Đức; rớt lại giữa khu rừng hoang dã, lạnh lẽo; rơi vào tay thảo khấu; bị cưỡng hiếp, mang thai, đến khi thoát hiểm tìm được chồng thì bị chồng ruỗng rẫy, khinh bỉ, cuối cùng phải tìm đến cái chết để mong chấm dứt quãng đời tủi nhục, đắng cay. Có thể nói, Quyên là một trong những điển hình cho bi kịch của những thân phận tha hương vỡ mộng được thể hiện khá sinh động trong tiểu thuyết của Nguyễn Văn Thọ.
Một mức độ khác của dấn thân là sự liều lĩnh, cùng đường, nhắm mắt đưa chân của những người không còn sự lựa chọn nào khác. Các sáng tác của Trần Dũng (Những người đàn ông, Nam), Nguyễn Lam Thủy (Ngày cuối cùng ở Budapest, Đi buôn vàng) nói tới những bi kịch đó với sự thê thảm gấp bội. Trong Những người đàn ông, sau những tháng ngày lăn lộn ở xứ người, Cường nhận ra “mơ ước kiếm được nhiều tiền một cách hoàn toàn chính đáng, thật viển vông”. Và để tồn tại, Cường đã phải làm những công việc nguy hiểm đến tính mạng như mò xác một triệu phú ở vùng biển ô nhiễm, khai thác thủy ngân, bán thận với giá chỉ bằng hai con trâu ở quê nhà, đi tù thuê theo đơn đặt hàng bí mật của những quan chức cao cấp, những nghệ sĩ, cầu thủ nổi tiếng, giết người thuê... Rồi ngay cả những công việc chết người ấy nhiều khi cũng trở nên khan hiếm, để có tiền trả món nợ ở nhà vẫn không ngừng phình ra, Cường và một người cùng cảnh đã liều lĩnh chấp nhận việc trợ giúp robot chui vào khắc phục sự cố nhà máy điện nguyên tử. Kết cục cho Cường hẳn là chỉ có một cách hình dung sau gợi ý của nhà văn: “Anh bưng hai tay lên miệng, nôn thốc nôn tháo. Một quầng lửa đỏ nhờ nhờ thoáng dâng lên trước mắt anh, kèm theo một cơn đau mơ hồ”.
Đọc các truyện của Trần Dũng, người đọc có thể nhận ra mối quan tâm đặc biệt của tác giả dành cho những người đàn ông - những người phải mưu sinh rất cực nhọc ở xứ người. Không chỉ những người lao động chân tay, phổ thông phải hao tổn sức lực, ngay cả người có học vấn, để tồn tại được ở một đất nước văn minh bên trời Âu, cũng cần phải nỗ lực hết sức, thậm chí kiệt sức. Nam (Nam) đã tốt nghiệp đại học trong nước nhưng khi đến Anh gần như phải làm lại mọi thứ từ đầu. Điều đáng quý ở Nam là một ý chí và nghị lực rất phi thường. Đến nước Anh chỉ với bằng C tiếng Anh nhưng Nam đặt ra mục tiêu phải đạt được học bổng của một trường đại học và sau khi ra trường lại tiếp tục phấn đấu “để giữ vững được chức vụ kĩ sư trưởng ca của một trong hai sở điện lực Luân Đôn”. Để hoàn thành ước mơ, Nam như già trước hàng vài chục tuổi, đầu hói và trí não thì “hầu như quên cả xuất xứ của mọi hành động”. Có thể nói, mỗi bước đi lên trên con đường gây dựng sự nghiệp ở xứ người, Nam đều phải trả giá bằng cả những mất mát của tình cảm riêng như tình chồng - vợ, cha - con, lẫn những tài sản vô hình quý giá là sức lực và trí tuệ.
Truyện ngắn Ngày cuối cùng ở Budapest của Nguyễn Lam Thủy có ý nghĩa như một thiên phóng sự ghi lại hành trình dấn thân bi thảm của Long. Chuyện thật đến nỗi người ta muốn hình dung về nó như là một ghi chép “người thật việc thật” hơn là một truyện ngắn. Tính chất hư cấu của truyện chỉ có thể được nhận ra trong cách nhà văn để cho nhân vật hồi tưởng lại toàn bộ cuộc đời mình vào ngày cuối cùng lưu lại Budapest. Ngày cuối cùng ở Budapest, cũng là ngày đầu tiên sau bảy năm ở Hungary, Long được thanh thản ngắm thành phố đẹp nhất xứ Đông Âu này, còn trước đó Long chẳng biết nơi nào khác ngoài nhà ở và chợ. Dù điều kiện lao động hết sức nghiệt ngã, Long vẫn phải ra sức làm để có tiền gửi về cho người mẹ nghèo khổ, góa bụa trả món nợ đã vay cho con đi xuất khẩu lao động. Nhưng kết cục của những năm tháng phiêu bạt xứ người dành cho Long là một “bản án tử hình”: Long mắc bệnh ung thư gan. Ngày cuối cùng ở Budapest, nhìn dòng Danube trong xanh, Long nhớ về sông Hồng quê mẹ trong một hình dung vừa hãi hùng, vừa êm dịu.
Nhìn chung, dấn thân hiểu theo nghĩa thông thường là đặc tính phổ quát của hầu hết con người tha hương. Ra đi, tự nó đã là một trải nghiệm rất mới lạ, việc đến một vùng đất mới hoàn toàn khác quê mình còn là một thử thách nghiệt ngã hơn nữa, do vậy, ngạc nhiên, bất ngờ, lúng túng, hoảng loạn, vấp ngã, thất vọng, tuyệt vọng... là những trạng thái khó tránh khỏi của con người tha hương đã được thể hiện sinh động và ám ảnh trong nhiều tác phẩm văn xuôi đầu thế kỉ XXI.

 

2. Thay đổi như là một sự lựa chọn để thích nghi
Trong môi trường mưu sinh nghiệt ngã như vậy, để có thể sống được, những người Việt nhập cư đã buộc phải tự thay đổi mình để thích nghi với hoàn cảnh. Để có thể tồn tại được ở nước Đức văn minh, giàu có, Phi (Quyên) buộc phải từ bỏ nhiều thói tật như nói chuyện oang oang, bạ đâu cũng khạc nhổ, khi ăn uống cứ tỉnh queo ném xương thịt cá đầy lên gạt tàn thuốc... và nhất là tật ngoáy mũi. Những thay đổi như thế, dù có đem lại cho Phi nhiều khả năng thích nghi hơn, thì vẫn không đủ sức tạo ra một kiểu con người mới, hoàn toàn phù hợp với xã hội hiện đại Âu Tây. Ở Phi không thể có được sự lột xác, nhiều nhất cũng chỉ là sự pha trộn, chắp vá, ghép buộc. Cuộc sống của Phi trên đất khách do vậy vẫn đầy rẫy những điều bất ổn.
Ngoài việc bắt buộc phải từ bỏ thói tật để thích nghi với điều kiện sống mới trong trạng thái khổ sở, đau đớn, dằn vặt, nhiều người đã chủ động tiếp thu cái mới như một sự thỏa mãn những đòi hỏi tất yếu của quy luật sinh tồn. Phúc (Không ai yêu thương tôi) sau chuyến vượt biển thất lạc gia đình lúc lên tám tuổi, đến Canada trở thành con nuôi của ông bà Thompson như bước vào một hành tinh lạ với vốn tiếng Anh lõm bõm nhờ học được trong mấy tháng sống ở trại tị nạn. Vậy mà, sau mười năm, Phúc đã lột xác hoàn toàn, không còn dấu vết gì của căn tính Việt trên con người gã. Không chỉ nhằm mục đích hòa nhập, nhiều người còn chủ động thay đổi hòng xóa bỏ dấu vết. Trong Quà tặng của trời, một đứa con gái Việt học lớp 7 ở Đức đã không muốn đi cùng mẹ khi ra đường vì xấu hổ khi mẹ học mãi không thuộc một từ tiếng Đức và phải chứng kiến cảnh “... người Việt Nam bán thuốc lá lậu, bị cảnh sát đuổi bắt chạy tán loạn, rồi có cả những người quen của bố mẹ nó bị khóa tay tống vào ô tô đưa lên đồn”. Có thể thấy, sự thay đổi quyết liệt như thế phần nhiều xuất hiện ở lớp người trẻ tuổi, dễ thích nghi. Trong khi đó, thế hệ thứ nhất, hoặc là không đủ khả năng thích nghi, hoặc là vẫn muốn gìn giữ nếp cũ và gốc gác của mình. Điều này đã tạo nên những xung đột không dễ giải quyết giữa các thế hệ trong nhiều gia đình người Việt di cư. Đó cũng chính là căn nguyên sinh ra những công dân được ví như banana - những quả chuối ngoài da thì vàng nhưng trong ruột lại trắng, luôn chứa trong lòng nhiều bi kịch, lớn nhất là bi kịch thiếu căn cước, bi kịch thân phận của những công dân toàn cầu.
Nhìn chung, dù không bắt đầu từ một định đề của chủ nghĩa hiện thực về mối liên hệ giữa tính cách và hoàn cảnh, các nhà văn cũng không thể không chỉ ra một sự thay đổi khó cưỡng của những người Việt di cư trong hoàn cảnh sống mới. Dĩ nhiên, đó là một quá trình không đơn giản, nhất là đối với những người đã sống phần đời quan trọng ở cố hương. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, môi trường sống mới đã khiến người ta thay đổi tới mức không còn chút dấu vết nào của cố hương lưu lại. Điều này tạo nên nét đặc thù của hình tượng con người tha hương so với quan niệm về con người trong các mảng đề tài khác.

3. Dấn thân tìm ý nghĩa của tồn tại
Dấn thân tìm ý nghĩa của tồn tại là quan niệm con người mang ít nhiều sắc thái của triết học hiện sinh. Quan niệm này có thể thấy rõ trong các tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, Thuận. Trong tiểu thuyết của Đoàn Minh Phượng, các nhân vật đều được bắt đầu số phận bằng sự ra đi. Sự ra đi cả trong Và khi tro bụilẫn Mưa ở kiếp sau đều nhằm để tìm câu trả lời cho câu hỏi lớn của đời người: “Ta/ tôi là ai?”. Cả hai tiểu thuyết Và khi tro bụi và Mưa ở kiếp sau đều cho người đọc một cảm nhận sâu sắc rằng, những hiện hữu như chiến tranh, đồng tiền, đạo đức, nhân cách, tội ác, trừng phạt, sám hối… - những vấn đề lâu nay tưởng rất quan trọng - lại chưa phải là tất cả của tồn tại. Trong thế giới nghệ thuật của Đoàn Minh Phượng, có một hiện hữu ghê gớm hơn: hư vô và hủy diệt. Do vậy, có thể nhận ra từ đó một quan niệm nhân sinh tuy không mới nhưng vẫn cần nhắc đi nhắc lại rằng: được sống là hạnh phúc, và mọi phạm trù nhân vị đều đáng được trân trọng. Điều này rất phù hợp với tinh thần của thuyết hiện sinh: “Thuyết hiện sinh muốn tạo nên một giới nhân loại như là toàn bộ các giá trị khác với giới vật thể”(3).
Một khía cạnh khác trong quan niệm về con người chịu ảnh hưởng thuyết hiện sinh của Đoàn Minh Phượng là việc miêu tả con người với ý thức “tự đạt đến bản thân mình”, tỉnh ngộ để tự “ý thức về giá trị cao quý của nhân vị mình”. Nghĩa là con người “phải tự trực tiếp hiểu mình mà không qua trung gian nào cả”(4). Để đạt được điều ấy, các nhân vật của Đoàn Minh Phượng thường phải dấn thân hoàn toàn. Trong Và khi tro bụi, An Mi (An) ra đi trong một trạng thái chấn thương nghiêm trọng về tinh thần. Đó là sự hoảng loạn cực độ sau khi tận mắt chứng kiến cái chết vì bom đạn của người mẹ. Dấn thân hoàn toàn, An Mi trở thành một chủ thể tự do. Nhưng “tự do” không phải theo nghĩa “không bị cấm đoán”, “không bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ”(5) mà là “phải chịu trách nhiệm với mọi hành động của bản thân mình”(6). Trên hành trình ấy, dù phải trải qua nhiều nỗi lo sợ, thậm chí nguy hiểm nhưng An Mi vẫn tin vào bản năng sống. Cuộc sống với An Mi là một cuộc dấn thân để tìm ra đáp số cho câu hỏi “Tôi là ai?”. Mọi câu trả lời từ phía khách quan, với An Mi, đều không thỏa đáng, không có sức thuyết phục. Làm sao An Mi có thể là cô Sophie hay Michael, mà chỉ có thể là cô, là An - đứa trẻ mồ côi đến từ một đất nước có chiến tranh đang khao khát tìm về với cội rễ, với bản thể. Đó là câu trả lời hữu lí nhất mà An Mi đã tự tìm thấy cho mình.
Cũng là cảm thức hiện sinh nhưng xu hướng tìm kiếm và thể hiện của nhà văn Thuận không giống Đoàn Minh Phượng. Thuận tập trung xây dựng các kiểu nhân vật phi lí. Phi lí có nghĩa thường dùng là “không hợp với lẽ phải thông thường”(7). Phi lí (absurde) cũng là một phạm trù hiện sinh được đề xuất bởi Camus với ý nghĩa là diễn tả “cái vẻ trơ trơ, vô ý thức và vô vị của cuộc đời”. Với ý nghĩa hiện sinh này, việc ý thức về tính chất phi lí sẽ giúp con người vùng dậy, thoát khỏi “trạng thái sự vật để vươn lên tới thiên chức làm những nhân vị tự do và tự chịu trách nhiệm”(8). Trong các tiểu thuyết của Thuận, nhân vật được miêu tả vừa có vẻ phi lí hiểu theo nghĩa thông thường, vừa có vẻ phi lí hiểu theo cách của triết học hiện sinh. Liên (Paris 11 tháng 8) là một con người đầy mâu thuẫn: chưa từng yêu mà lại chán chuyện yêu đương, chưa từng hi vọng mà đã tuyệt vọng, chưa tiếp xúc mà đã chai sạn, chưa sống hết đời đã muốn chết, rất giàu tình cảm mà cũng rất lãnh cảm, có khi rất sôi nổi có lúc lại rất lạnh lùng, sống trong hiện tại nhưng lòng luôn nhớ về quá khứ... Đặt Liên bên cạnh Mai Lan, Thuận như muốn làm nổi bật lên nhiều phi lí khác: Liên xấu xí, Mai Lan xinh đẹp; Liên vụng về, Mai Lan khéo léo; Liên mặc cảm, Mai Lan rất tự tin... Nhìn chung, trong cảm nhận của Thuận, thế giới đầy rẫy mâu thuẫn. Ý nghĩa hiện sinh của hình tượng là diễn đạt của nhà văn về sự vô vị của cuộc đời. Bất luận trong hoàn cảnh nào, với ai, Liên vẫn là một thực thể vô nghĩa. Quay quắt trong nỗi cô đơn, Liên không sao tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời. Không có gì đẹp đẽ hơn để miêu tả về Liên ngoài những “im lặng”, “không nói gì”, “gật đầu”, “lại gật đầu”, “lắc đầu”, “chẳng hiểu gì”, “ngây ngô”, “ngượng nghịu”... Liên chỉ có một thứ vũ khí để tự vệ mỗi khi bị “tấn công” là hai con mắt gườm gườm. Khi vũ khí không còn đủ sức mạnh che chở cho Liên, với một tâm hồn trống rỗng, Liên tuyệt vọng nhìn cái chết đang tới. Nhưng chính việc tự quyết về cái chết của mình, chấm dứt tình trạng buồn nôn của cuộc đời vô nhân vị lại khiến Liên trở nên một nhân vị độc đáo. Bởi vì khi con người tự cảm thấy sự phi lí của một tình trạng “sống thừa ra” (se survivre - chữ của J. P. Sartre), một cuộc sống máy móc, sống để mà sống, là khi con người có ý thức sâu xa về tính chất độc đáo hiện sinh của mình.
Trong Chinatown, sự phi lí cũng hiện hữu rõ rệt trong thân phận của những kẻ tha hương. Đó là một người đàn ông gốc Hoa tên Thụy sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng không có quê hương. Đó là một người con gái Hà Nội có mối tình sâu nặng với chàng trai gốc Hoa ở phố Lương Ngọc Quyến tên là Âu Phương Thụy, đã từng du học ở Nga, hiện sống trên đất Pháp mà tâm tưởng cứ ám ảnh không nguôi hình bóng phố Tàu. Có thể thấy, cả Thụy, cả người thiếu phụ xưng “tôi” và đứa con của họ đều là hiện thân của cái gọi là công dân toàn cầu bị mắc kẹt giữa các nền văn hóa. Họ có thể có tới ba bốn quốc tịch, nhưng lại không thể thuộc về một đất nước nào. Tình cảnh ấy khiến cho những thân phận tha hương thường chất chứa nhiều bi kịch mà đau đớn nhất là bi kịch phi tổ quốc, thiếu quê hương.
Cần phải nói rằng những tác phẩm mà chúng tôi nhắc đến trên đây chưa phải là tất cả văn học về đề tài tha hương. Cũng như có thể nói, những tác phẩm văn học về đề tài tha hương có mặt cho đến thời điểm này chưa thể nói hết được cuộc sống gian truân, thăng trầm của số đông người Việt trên đất khách. Kiểu con người dấn thân hay hình tượng con người tha hương hẳn là còn nhiều đặc tính cần được khám phá, thể hiện. Bởi vậy, văn học về đề tài tha hương vẫn đầy triển vọng. Quan sát, lí giải những sáng tác này là việc làm cần được tiếp tục theo đuổi. Nó giúp ta nhìn nhận sâu hơn về số phận con người trong một không gian, bối cảnh mới, cũng là đánh giá chân xác, khách quan hơn về những đóng góp của bộ phận văn học Việt ở ngoài nước cho nền văn học dân tộc. Điều này vẫn luôn cần thiết, nhất là trong bối cảnh xã hội và văn học hiện nay
L.T.A


---------
1, 2, 8. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học hiện sinh, Nxb Văn học, tr.48-49, 50, 44.
3, 4, 6. Lộc Phương Thủy (chủ biên) (2007), Lí luận - phê bình văn học thế giới thế kỉ XX, tập 2, Nxb Giáo dục, tr.928, 920.
5, 7. Trung tâm từ điển học Vietlex, Từ điển tiếng Việt (2009), Nxb Đà Nẵng, tr.1376, tr.1000.

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 10.8.2019.

Cho dù vai trò của người đọc được đề cao trong việc thông diễn tác phẩm, và dù rằng đã có tuyên bố nhấn mạnh "cái chết của tác giả", tác giả vẫn hiện hữu trong văn bản và không bao giờ phải chấp nhận một cái chết hoàn toàn tuyệt đối.  Việc phát hiện ra tác giả của một tác phẩm từ lâu bị xem là khuyết danh, hay việc nhầm lẫn tác giả, hay việc nhận chân được tác giả thực sự của một văn bản được viết dưới một bút danh nào - tất cả đều đòi hỏi phải có cách đọc mới, trong đó những hiểu biết về tác giả đích thực sẽ đóng một vai trò quan trọng và tích cực trong diễn giải.  Vừa đi đường, vừa kể chuyện (từ đây, gọi tắt là Vừa đi đường) trong khoảng gần 5 thập niên (1961-2009) vẫn được biết đến như một ký sự của tác giả T. Lan ghi theo lời kể của Hồ Chủ tịch.  Phải đến năm 2009, việc Bảo tàng Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Thế giới chính thức công bố những tư liệu quý cùng với bản dịch tiếng Anh của tác phẩm này, ghi rõ tên tác giả là Hồ Chí Minh (T. Lan) đã đặt ra một loạt vấn đề cho các nhà nghiên cứu, đặc biệt là giới nghiên cứu văn học.  Trước hết là vấn đề thể loại: cách đọc tác phẩm này như một ký sự rõ ràng không còn thích hợp nữa.  Nên chăng tác phẩm này nên được đọc như một tự truyện, hay như một thể loại phức hợp nào đó?  Với hiện trạng các bản thảo của sách vẫn đang được bảo tồn tốt, các vấn đề văn bản học của tác phẩm cũng cần được xem xét kỹ càng để thấy được những quá trình biên thuật và biên tập nghiêm túc và cẩn trọng với định hướng rõ ràng.  Nhận diện được bản chất thể loại và các vấn đề văn bản là cơ sở để tìm hiểu và diễn giải tác phẩm theo những góc độ mới.  Dựa trên những tư liệu đã được chính thức công bố hiện nay, bài viết thử đọc lại Vừa đi đường từ một góc nhìn mới của thể tự truyện.  Sau khi khởi đầu với một lược khảo về những thay đổi căn bản trong các bản thảo, người viết nhìn lại bối cảnh chính trị - xã hội của tác phẩm, cũng như tìm hiểu hoàn cảnh thời gian tự sự của sách đã xác lập những tiền đề gì cho việc kể chuyện.  Một số vấn đề lý thuyết căn bản của tự truyện, đặc biệt là tự truyện thuật ở ngôi thứ ba, sẽ được giới thiệu nhằm tạo cơ sở cho việc tìm hiểu Vừa đi đường.  Tác phẩm này sẽ được đặt trong một mạng văn bản liên kết để làm rõ những nét chung và tính đặc thù của văn bản này.  Cuối cùng, bài viết chọn đọc một vài mẩu chuyện trong Vừa đi đường từ góc độ tự truyện như những viên gạch lát thử nghiệm sơ bộ trên con đường nghiên cứu còn dài, hứa hẹn nhiều điều bất ngờ và lý thú đang trải ra trước mặt.

 

Ăn cơm mới, nói chuyện cũ                          

 

Cho đến gần đây, các bản in Vừa đi đường vẫn xem tập sách của tác giả T. Lan được xuất bản lần đầu vào năm 1963 [29, 5], mà thường không nhắc đến việc tác phẩm này đã được công bố trước đó tổng cộng 13 kỳ trên báo Nhân Dân vào năm 1961.  Bản đăng trên báo Nhân Dân sau được in lại chính xác trong sách của Nxb. Sự thật năm 1963. [15, 12 và 13].[1]   Năm 2009, nhân Bảo tàng Hồ Chí Minh xây dựng hồ sơ đăng ký Vừa đi đường của tác giả Hồ Chí Minh (từ đây, viết tắt HCM với tư cách là tác giả của sách) làm Di sản Tư liệu Thế giới với UNESCO, nhiều thông tin văn bản của tác phẩm này được tiết lộ đến công chúng. [23][2]  Cũng trong năm này, Bảo tàng Hồ Chí Minh và Nxb. Thế Giới ấn hành sách Stories Told on the Trail do Lady Borton dịch sang tiếng Anh và được Trịnh Ngọc Thái biên tập (từ đây, gọi tắt là Stories) [15].[3]  Năm 2013, sách được tái bản với một số nội dung mới: bài tựa “A Rare and Precious Book” (Một tập sách hiếm và quý)[4] của Lady Borton có thêm nhiều chi tiết mới được đưa vào, và cũng theo bài này, “Bản in lại năm 2013 này bao gồm các hình ảnh bổ sung về những bản thảo gốc của HCM”. [16, 11].[5] 

Sách Stories cho biết tác phẩm Vừa đi đường được viết trong hơn 5 tháng, từ 7/2 đến 15/7 năm 1961.  Đầu tiên, bản thảo được viết tay trên mặt sau còn trắng của bản tin Bộ Ngoại giao.  Bản thảo thứ hai được tác giả đánh máy cũng trên mặt sau của những trang bản tin, những tờ lịch cũ, và các tài liệu khác.  Sau khi đánh máy xong bản thảo này, tác giả thường vò nát và xé nhỏ bản thảo viết tay.  Thư ký riêng của ông và các nhân viên Văn phòng Phủ Chủ tịch đã thu nhặt và giữ lại bản thảo này.  Nhân viên Phủ Chủ tịch đánh máy bản thảo lần 3 (và cũng là bản thảo cuối) trên giấy mới để gửi đến báo Nhân Dân; chính tay tác giả sửa chữa bản đánh máy này trước khi gửi đi. [16, 8][6]  Phải nói rằng hai ấn bản năm 2009 và 2013 của sách Stories với ảnh chụp các trang bản thảo là tài liệu quý, cho phép hiểu thêm rất nhiều điều về quyển Vừa đi đường.  Những tài liệu quý như thế lẽ ra phải được phát hành đến tay bạn đọc trong nước trước bằng tiếng Việt để tiện việc tìm hiểu, nghiên cứu.  

Theo những tập bản thảo hiện đang lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, sách Vừa đi đường nguyên có tựa là Ăn cơm mới, nói chuyện cũ.  Đây là một thành ngữ thông dụng trong dân gian,  ở đó, cơm mới là chỉ gạo mới từ vụ mùa vừa thu hoạch, liên quan đến tục cúng cơm mới vào dịp đầu năm nơi thôn làng Việt.  Cơm mới còn là thời điểm hiện tại, thường tốt hơn so với thời kỳ khó khăn của những câu chuyện cũ được kể lại.  “Ăn cơm mới, nói chuyện cũ” là dịp hồi tưởng, đứng chân ở hiện thời mà kiểm điểm quá vãng, để từ đó lạc quan hơn với những gì đang có và hiểu hơn những gì đã qua từ góc độ đương thời.[7]  Thành ngữ này cũng hàm nghĩa hồi cố quá khứ để rút ra những bài học cho hiện tại.  Bản thảo đầu tiên do HCM viết tay và bản thảo lần thứ hai do chính ông đánh máy, sửa chữa bằng bút đỏ đều có tựa đề Ăn cơm mới, nói chuyện cũ.  Chỉ đến bản thảo lần ba do nhân viên Phủ Chủ tịch đánh máy, tựa đề này mới bị gạch bỏ, và được HCM tự tay viết thêm tựa mới là Vừa đi đường, vừa kể chuyện.  Đây chính là bản thảo được đưa in trên báo Nhân Dân, và sau khi in xong, báo Nhân Dân đã gửi trả lại bản thảo này cho Văn phòng Chủ tịch lưu giữ  [16, 14-15].  Hiện vẫn chưa rõ vì sao có sự thay đổi về tựa đề như trên, nhưng tựa đề mới miêu tả một sự vận động về đích (vừa đi đường), diễn ra cùng lúc với một hành động tự sự có tính động viên, khích lệ (vừa kể chuyện).   

Một thay đổi đặc biệt quan trọng khác về mặt văn bản chính là việc thêm tên tác giả “T. Lan” vào bản thảo.  Bản thảo viết tay đầu tiên không có tên tác giả, nhưng ở bản thảo đánh máy thứ hai, HCM đã viết thêm bút danh “T. Lan” vào bằng bút đỏ.  “T. Lan” là một trong gần 170 tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được đã được Bảo tàng Hồ Chí Minh sưu tập và xác nhận.  Cần nhắc thêm rằng, trong năm 1960, Hồ Chí Minh đã dùng hai bút danh khác nhau “Giăng Pho” và “Tuyết Lan” trong cùng một bài: “Chủ tịch Hồ Chí Minh ký bút danh Tuyết Lan trong bài ‘Ba chai rượu sâm banh’, đăng trên báo Nhân Dân, số 2331, ngày 27/04/1960.  Dưới hình thức dịch lại bức thư của một công nhân tên là Giăng Pho [Jean Fort], ở Angiêri gửi cho tác giả nói về tình cảm của một người bạn quốc tế đối với Nguyễn Ái Quốc thời kỳ ở Pari và những năm sau này.”  Như vậy, “T. Lan” cũng có thể là bút danh ký tắt của “Tuyết Lan”.  “T. Lan” được dùng trong năm 1961: đó là “[b]út danh Chủ tịch Hồ Chí Minh dùng khi viết tác phẩm Vừa đi đường vừa kể chuyện, đăng nhiều kỳ trên báo Nhân Dân, tháng 5/1961 và một bài báo khác nhan đề ‘Bác ăn Tết với chúng tôi’, đăng báo Nhân Dân, ngày 14/02/1961.” [3].  Lady Borton tiết lộ rằng, “Chỉ có ba hay bốn người biết được căn tính của “T. Lan”: tác giả Hồ Chí Minh, thư ký riêng của ông là Vũ Kỳ, một hay hai người đánh máy ở Văn phòng Chủ tịch, và Hoàng Tùng – Tổng Biên tập báo Nhân Dân.” 

Lady Borton cũng đã thử lý giải nguyên do HCM dùng bút danh “T. Lan” trong tập sách mang tính tự truyện/hồi ký này như sau, “Vào năm 1961, Việt Nam có văn hoá khiêm cung mạnh hơn ngày nay.  Thời ấy, lãnh đạo Việt Nam có lẽ đều xem bất kỳ một tự truyện nào là việc mưu cầu chú ý không thích đáng.  Để che dấu căn tính của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo ra người kể chuyện T. Lan như một cán bộ tháp tùng Chủ tịch trên đường thị sát chiến dịch giải phóng biên giới Việt – Trung khỏi sự kiểm soát của Pháp vào tháng 9/1950 trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954).” [16, 5]   Trong thế lưỡng phân Đông – Tây, tự truyện thường được xem là một thực hành không mấy quen thuộc với các nước “phương Đông.”  Tự truyện Gandhi ghi lại một trường hợp khá thú vị như sau.  Khi biết Gandhi khởi sự viết tự truyện, một “người bạn sùng tín” của ông đã chất vấn, “Ai xui khiến ông dấn mình vào cuộc phiêu lưu đó?  Viết tự truyện là một thói (tục) đặc biệt của Tây phương.  Tôi chưa hề thấy một người Đông phương nào viết tự truyện, trừ những người chịu ảnh hưởng của Tây phương.” [13, 8].  Những nhận định này có thể ít nhiều giúp lý giải trường hợp “T. Lan” trong Vừa đi đường, nhưng việc tác giả sáng tạo nhân vật kể chuyện “trung gian” T. Lan ấy đã khiến tác phẩm này trở thành một trường hợp tự sự độc đáo của Việt Nam và thế giới.

So sánh ba bản thảo Vừa đi đường được Văn phòng Phủ Chủ tịch bàn giao cho Bảo tàng Hồ Chí Minh năm 1970 và được lưu trữ ở đấy cho đến nay, cùng loạt bài đăng tải trên báo Nhân Dân năm 1961 với bản in của Nxb. Sự Thật năm 1963, có thể thấy một sự khác biệt tuy nhỏ nhưng đáng chú ý.  Bìa trong bản sách in có thêm một dòng phụ đề trong ngoặc đơn “Một số mẩu chuyện về Bác Hồ trước năm 1945”. [28], và đã được bản tiếng Anh dịch sát thành “A number of anecdotes about Uncle Hồ from before 1945”.  [15 và 16].  Phụ đề này giúp làm rõ nội dung của sách với bạn đọc và mặt khác, gợi nhớ đến mô thức đặt tựa của sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch do nhà xuất bản Văn nghệ in lần đầu bằng tiếng Việt năm 1955.  Điều chưa rõ, cần tìm hiểu thêm ở đây là phụ đề này được tác giả bổ sung, hay do nhà xuất bản tự thêm vào.  Tất cả những điều trình bày trên đây là những vấn đề văn bản cần lưu ý trước khi xem xét cấu trúc tự sự cơ bản của tác phẩm.

Thời gian và người kể chuyện

Lời giới thiệu trong Stories đã khái quát về thời điểm ra đời năm 1961 của tác phẩm Vừa đi đường: đó là lúc đất nước còn đang bị chia cắt, Mỹ đã can thiệp sâu vào miền Nam Việt Nam, và miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, ra sức thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng Lao động Việt Nam đề ra từ năm 1960. [16, 6].   Tại Đại hội này, Chủ tịch Đảng Hồ Chí Minh đọc lời khai mạc, trong đó có đoạn, “Từ trước tới nay, Đảng ta đã cố gắng liên hệ chặt chẽ chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tế cách mạng Việt Nam…Nhưng chúng ta còn khuyết điểm như: bệnh chủ quan, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa kinh nghiệm, tác phong quan liêu, chủ nghĩa cá nhân… chúng ta phải ra sức học tập chủ nghĩa Mác-Lênin, tăng cường giáo dục tư tưởng trong Đảng, đấu tranh khắc phục khuyết điểm… Phải nâng cao hơn nữa tính giai cấp và tính tiên phong của Đảng, tăng cường không ngừng mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, phải biết đoàn kết mọi người yêu nước và tiến bộ để xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà”. [1]  Phát biểu trên nêu lên một số nội dung cấp thiết lúc bấy giờ: giáo dục chủ nghĩa Marx-Lenine, khắc phục những khuyết điểm và xây dựng mẫu hình lý tưởng của người cách mạng, và tăng cường “liên hệ giữa Đảng và quần chúng.”  Sách Vừa đi đường sẽ góp phần thực hiện những nhiệm vụ này. 

Những dòng đầu tiên của Vừa đi đường liên tục dẫn người đọc ngược dòng về những mốc thời gian của năm 1920 và rồi 1950: “Chuyện này bắt đầu cách đây đã hơn 40 năm về trước.  Chúng tôi được nghe kể lại cách đây hơn 10 năm.  Tôi nhớ được thế nào xin thuật lại thế ấy.” [28, 9].  Mỗi câu trong đoạn văn trích này thực hiện những chức năng thông báo khác nhau:  câu đầu cho biết những sự việc lịch sử được kể diễn ra trong khoảng thời gian từ những năm 1920 trở đi; câu thứ hai cho biết thời gian những câu chuyện ấy được kể - đó là năm 1950; và câu cuối giới thiệu người kể trung gian đang cố gắng thuật chuyện trong khi đối mặt với những thách đố của năng lực ký ức.  Hoàn cảnh thời gian tự sự cơ bản của Vừa đi đường có thể hình dung qua sơ đồ dưới đây.

   20191030 TLan1

Hoàn cảnh thời gian tự sự cơ bản của Vừa đi đường

Khi xem sách, người đọc tiếp nhận sự kiện trực tiếp từ T. Lan và dễ quên đi những gián cách thời gian mà đoạn mở đầu sách đã trình hiện.  Đó là gián cách thời gian 30 năm kể từ khi những sự kiện xảy ra từ những thập niên 1920 cho đến thời điểm những sự kiện này được HCM kể lại cho T. Lan vào năm 1950; đó cũng là gián cách thời gian 10 năm kể từ khi HCM kể cho T. Lan vào năm 1950 cho đến khi T. Lan có dịp kể lại cho công chúng vào năm 1961.  Gộp chung lại, khoảng cách 40 năm đã là một thách thức với ký ức.  Hơn thế nữa, ở đây tình huống tự sự lại được xây dựng thành hai tầng bậc, với hai người kể chuyện, tiếp nối nhau theo lối kế thừa (từ HCM đến T. Lan và từ T. Lan đến bạn đọc).  Ký ức theo đó đã phải đối mặt với thách thức nhân đôi vì nó không được lưu giữ trong một người kể duy nhất mà được chuyển giao sang một người kể thứ hai; người kể thứ hai lại lưu giữ ký ức ấy không phải như điều mình trực tiếp trải nghiệm mà như những tự sự lịch sử được nghe kể bởi một vị lãnh tụ tôn kính và vì thế cần phải ghi nhớ để tường thuật lại chính xác.  Đến cuối sách, người đọc một lần nữa được nghe người kể T. Lan bộc bạch về việc cố gắng bảo đảm tính xác thực của những ghi chép mặc cho những hạn chế ký ức của mình: “Bác kể chuyện đến đó thì vừa về đến nhà, những câu chuyện trên đây Bác vừa đi đường vừa kể.  Tối đến chỗ nghỉ, chúng tôi nhớ được chừng nào ghi lại chừng nấy.” [28, 79].  Ký ức và việc bảo đảm tính chân xác của những câu chuyện được kể lại, thuật sự và tái lập quá khứ, căn tính của người kể chuyện và một loạt câu hỏi khác liên quan đến tự truyện/hồi ức là những vấn đề cần làm rõ nhằm xây dựng tiền đề lý thuyết cho việc tìm hiểu tác phẩm Vừa đi đường.

Tự truyện – Mấy vấn đề căn bản

 

Mặc dù đã được công chúng biết đến từ lâu qua những tác phẩm như Phan Bội Châu niên biểu của Phan Bội Châu hay Giấc mộng lớn của Tản Đà ở cuối thập niên 20 của thế kỷ XX [17][8], phải đến những năm đầu của thế kỷ XXI, tự truyện như một hình thức tự sự văn chương với những câu chuyện của diễn viên, nghệ sĩ, doanh nhân hay người nổi tiếng mới thực sự thu hút sự chú ý của độc giả Việt Nam bởi sự “dũng cảm” kể lại “những câu chuyện chân thật” của họ.  Mặt khác, nhận định của tiểu thuyết gia người Mỹ Thomas Wolfe trong The Story of a Novel (Chuyện một bộ tiểu thuyết) cho rằng, “mọi tác phẩm sáng tạo nghiêm túc cuối cùng đều mang tính tự truyện, và một người phải sử dụng chất liệu và kinh nghiệm đời mình nếu như người ấy muốn sáng tạo ra bất kỳ thứ gì có giá trị đáng kể” [34, 21] trước đây đã được giới thiệu ở Việt Nam (rất tiếc là dịch lại từ một bản dịch Trung văn), và có ảnh hưởng nhất định.  Đỗ Hải Ninh đã chuyển dẫn nhận định này từ sách Lý luận văn học của Đại học Sư phạm Hà Nội như một trong những cơ sở lý thuyết để xem xét khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. [10].  Tương tự, Đoàn Cầm Thi đã nói đến một “tự truyện bất thành” trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh. [12].  Đây chỉ là một đôi ví dụ trong số khá nhiều nghiên cứu tập trung tìm hiểu yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết hiện đại Việt Nam.[9]  Những ví dụ này đã phần nào cho thấy một trong những vấn đề quan trọng trong lý thuyết tự truyện – đó là đường ranh mờ cần được tìm hiểu thêm giữa tính chân thực và hư cấu, giữa tự truyện và tiểu thuyết.

Về mặt lý thuyết, nhà lý luận văn học người Pháp Philippe Lejeune là một tên tuổi thường được trích dẫn mỗi khi tự truyện được bàn ở Việt Nam.[10]  Với những sắc thái khác nhau biến đổi tuỳ theo người dịch, định nghĩa sau đây, được xem là của Lejeune, luôn được dẫn như tiền đề lý thuyết quan trọng: tự truyện là “chuyện kể có tính hồi tưởng bằng văn xuôi viết bởi một người có thực về sự hiện hữu của người ấy, trong đó tiêu điểm là đời sống cá nhân của người ấy, đặc biệt là câu chuyện về nhân cách của người đó.”[11]  Thực ra, định nghĩa này không hoàn toàn là của Lejeune. [5, 51].  Trong bài “Le Pacte autobiographique, Vingt-cinq ans après” (Hiệp ước tự truyện, Hai mươi lăm năm sau), ông cho biết đã lấy định nghĩa đó trong từ điển bách khoa Larousse và chỉ thêm phần giới thuyết theo mô hình của Rousseau bằng cách mạnh đó là “câu chuyện về nhân cách”. [22, 21].  Một điều đáng nói khác là khi được trích dẫn ở Việt Nam, định nghĩa này thường bị tách khỏi bối cảnh mà Lejeune đã cẩn thận xác lập.  Theo Lejeune, về mặt lịch sử, định nghĩa mà ông dùng dựa trên văn chương châu Âu trải dài qua hai thế kỷ, bắt đầu từ 1770.  Quan trọng hơn, xét về mặt văn bản, ông xuất phát từ vị trí của người đọc: “Bằng việc lấy vị trí người đọc (là vị trí của tôi, vị trí duy nhất mà tôi hiểu rõ) như xuất phát điểm, tôi có dịp hiểu rõ hơn công năng của các văn bản (những sự khác biệt của công năng), vì các văn bản này được viết cho chúng ta, những người đọc, và khi đọc chúng, chính chúng ta là người khiến chúng phát huy công năng.” [18, 14; 21, 4].  Chính từ xuất phát điểm này mà Lejeune đã đặt tựa đề cho chuyên luận về tự truyện của ông là Le Pacte autobiographique, tức là “Hiệp ước tự truyện” giữa người viết và người đọc để người đọc tin những điều họ đọc được là sự thật. 

Năm 2005, khi hồi niệm những gì đã viết 25 năm trước, Lejeune đã làm rõ hơn khái niệm “hiệp ước” (pacte) với câu hỏi “Hiệp ước tự truyện là gì?” và giải đáp, “Hiệp ước tự truyện là lời tác giả cam kết kể trực tiếp về đời mình (hay một phần đời, hay một phương diện của đời mình) trong tinh thần chân thực”.   Hiệp ước, cam kết này được nhận biết/xác nhận đôi khi ở ngay trong tựa đề, với những chỉ ngữ như “Hồi ức” (Mémoires), “Kỷ niệm” (Souvenirs), “Chuyện đời tôi” (Histoire de ma vie); đôi khi những chỉ ngữ tương tự lại thấy ở phụ đề, ví như “Tự truyện” (Autobiographie), “Chuyện kể” (Récit), hay “Nhật ký” (Journal).  Lại cũng có lúc bài tựa hay tuyên ngôn của tác giả giúp xác tín tính chất tự truyện của tác phẩm.  Thông thường, “hiệp ước tự truyện” đòi hỏi sự đồng nhất về tên giữa tác giả được in tên trên bìa và người kể chuyện – nhân vật thuật chuyện về mình trong văn bản. [22, 31-32]    

Với điểm xuất phát là người đọc, định nghĩa về tự truyện mà Lejeune đề xuất được phân thành những yếu tố sau đây:

  1. Hình thức ngôn ngữ
    1. Tự sự
    2. Bằng văn xuôi
  2. Chủ đề được xử lý: Đời sống cá nhân, chuyện về nhân cách
  3. Tình huống của tác giả: tác giả (mà danh tính thuộc về một người có thật) và người kể chuyện là đồng nhất
  4. Vị trí của người kể chuyện
    1. Người kể chuyện và nhân vật chính là đồng nhất
    2. Điểm nhìn hồi ức của tự sự

Theo Lejeune, tác phẩm nào đáp ứng được tất cả những điều kiện kể trên thì là tự truyện.  Những thể loại gần với tự truyện không đáp ứng được hoàn toàn những đòi hỏi này.  Việc thiếu mất một trong những yêu cầu trên sẽ dẫn đến những thể loại khác nhau.

-       Hồi ký: (2)

-       Tiểu sử: (4a)

-       Tiểu thuyết nhân vật: (3)

-       Thơ tự truyện: (1b)

-       Nhật ký: (4b)

-       Chân dung tự hoạ hay tiểu luận: (1a và 4b) [18, 14]

Cũng trong nghiên cứu này, Lejeune nói đến ba ngôi đại từ nhân xưng (tôi, anh, và anh ấy) được dùng cho nhân vật chính trong tự truyện như những nhân vật ngữ pháp (personne grammaticale), và so sánh với phương thức tương tự trong tiểu sử.  Tuỳ thuộc vào quan hệ giữa “người kể” (narrateur) và “nhân vật chính” (personnage principal), tự truyện và tiểu sử kể ở ba ngôi nhân xưng nói trên sẽ dẫn đến những loại tự sự khác nhau, phản ánh trong biểu đồ dưới đây. 

20191030 TLan3

Tự truyện ở ngôi thứ ba

Ở biểu đồ trên, đáng chú ý là trường hợp tự truyện ngôi nhân xưng thứ ba.  Trong sách Je est un autre,[14] Lejeune có hẳn một chương để bàn về “Tự truyện ở ngôi thứ ba” (“L’Autobiographie à la troisième personne”),[15] trích dẫn Paul Valéry đề từ ở đầu bài, “Cái tôi tự gọi mình là tôi, hay mày, hay hắn.  Có 3 người trong tôi.  Tam vị nhất thể.  Tam vị nhất thể ấy mày-tao với cái tôi; nó đối xử với anh ấy như hắn.”  Tiểu luận mở đầu với chuyện kịch tác gia người Đức Bertolt Brecht đề nghị diễn viên chuyển vị vai diễn của mình sang ngôi thứ ba và đưa nó vào quá khứ, nhằm gián cách họ với vai trò họ diễn.  Với dẫn dụ này, Lejeune kết luận, “Những nhà tự tuyện cũng là diễn viên. Và nhiều người trong số họ tham gia trò chơi này một cách nghiêm túc, trước công chúng của họ.  Nhưng do họ đồng thời là tác giả của vai trò mà họ đang diễn giải, quá trình này có một chức năng hoàn toàn khác đối với họ.  Nó giúp họ bày tỏ những vấn đề về căn tính của họ, và đồng thời làm xiêu lòng độc giả của mình.” [20, 32]  Lejeune phân tích, “Tác giả nói về mình như thể một người nào khác đang nói về mình, hay như thể mình đang nói về một người nào khác.  Cái như thể này chỉ liên quan đến phát ngôn: việc bày tỏ tiếp tục phải tuân theo những quy tắc nghiêm ngặt và đúng đắn của hợp đồng tự truyện.” [20, 32-33].  Trong khảo luận này, Lejeune tập trung vào hai tình huống khác nhau: tự truyện ở ngôi thứ ba và tự truyện với một người kể chuyện hư cấu.

Theo Lejeune, trong khuôn khổ tự truyện, việc dùng ngôi thứ ba ở đây về căn bản không khác mấy so với việc sử dụng ngôi thứ nhất.  Trên thực tế, trong tự truyện, chúng ta thật ra không biến thành một người nào khác khi dùng ngôi thứ ba, và cũng không thực sự là cùng một người khi dùng ngôi thứ nhất.  Những nhân vật (figures) ngôi thứ ba cung cấp một âm giai (gamme) những giải pháp trong đó việc gián cách được đặt lên trước để thể hiện sự căng kéo giữa căn tính và sự khác biệt. [20, 39].  Jean-Paul Sartre đã tinh tế chỉ ra điều này khi biểu tả, “Năm 1936, năm 1945, người ta đã làm tình làm tội cái kẻ mang tên tôi: chuyện đó có liên quan gì đến tôi?  Tôi buộc kẻ đó phải trả giá vì những sự lăng nhục đã phải hứng chịu ấy: cái gã đần độn này thậm chí chẳng biết cách làm cho người ta tôn trọng mình.” [25, 260]. 

Về những tự truyện được viết xen lẫn giữa nhân vật tự sự ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, Lejeune cho rằng tự truyện kiểu cho thấy một lĩnh vực nghiên cứu tuyệt vời vì theo định nghĩa (hay theo hợp đồng của thể tự truyện), nó buộc người đọc phải tiến hành phiên dịch, do tất cả các quá trình được dùng đều theo phương thức tỉ dụ.  Các văn bản ấy được trình bày như các văn bản song ngữ (bilingues), do chúng đặt những phát ngôn có nội dung tương tự, khi thì được viết ở ngôi thứ nhất, khi thì ở ngôi thứ ba, kề cận nhau trong thế đối sánh. [20, 43].  Việc dùng ngôi nhân xưng thứ ba trong tự truyện tạo ra một hiệu ứng độc đáo: chúng ta đọc văn bản từ điểm nhìn quy ước tự truyện mà bút pháp này đang vi phạm, do vậy mà người đọc luôn phải để tâm đến quy ước thể loại ấy.  Trong trường hợp văn bản được viết hoàn toàn ở ngôi thứ ba mà lại là một văn bản dài, người đọc có nguy cơ quên mất là họ đang đọc một tự truyện.  Việc này giải thích vì sao có rất ít tự truyện hiện đại viết hoàn toàn ở ngôi thứ ba (loại này hầu như không tồn tại trong thế giới văn chương Pháp ngữ). [20, 47]  

Đáng chú ý nhất trong nghiên cứu tự truyện ở ngôi thứ ba là vấn đề mà Lejeune gọi là “nhân chứng hư cấu” (témoin fictif).  Tác phẩm kinh điển của loại này là Tự truyện của Alice B. Toklas (The Autobiography of Alice B. Toklas) của nữ văn sĩ Mỹ Gertrude Stein.  Dù tựa đề viết rõ là “tự truyện” của Alice B. Toklas, tác phẩm lại được viết bởi tác giả Gertrude Stein.  Bản “tự truyện” này được kể từ điểm nhìn ngôi thứ nhất của Toklas, người bạn đồng hành trọn đời của tác giả Stein.  Trên cơ sở quan hệ thân thiết giữa hai người phụ nữ này, dẫu rằng Stein là người viết sách, điểm nhìn của người kể chuyện hiển nhiên lại là của Alice B. Toklas.  Lejeune nhận xét rằng điều bạn đọc cần làm khi đọc tác phẩm này là tưởng tượng ra việc một trong những người bạn thân của bạn sẽ kể về đời bạn như thế nào.  Lẽ dĩ nhiên, không có giả trá ở đây: người đọc được cảnh báo về luật chơi vì ngay từ đầu, Gertrude Stein đã nói  rõ mình là tác giả tập tự truyện của thư ký của bà.  Người đọc sẽ phải lưu tâm rằng đây là một điều kiện của hợp đồng tự sự; và nếu như họ có chiều hướng quên đi điều này thì những câu cuối trong sách sẽ nhắc họ rằng, “Khoảng sáu tuần trước Gertrude Stein nói rằng với tôi, dường như cô [Toklas] sẽ không viết bản tự truyện ấy.  Cô biết rằng tôi sẽ làm điều đó.  Tôi sẽ viết bản tự truyện ấy cho .  Tôi sẽ viết nó đơn giản như Defoe viết tự truyện của Robinson Crusoe.  Và bà ấy [Stein] đã làm điều đó, và nó chỉ là thế này thôi.” [26].  Lejeune chỉ ra rằng, “Trò chơi này là hai mặt: vừa hư cấu và vừa tự truyện.  Xét về mặt hư cấu, chúng ta quan tâm với việc xây dựng nhân vật chứng nhân, với việc sáng tạo ra một điểm nhìn cho nhân vật ấy, với việc tạo ra một phong cách cho nó, để nó thích hợp với toàn bộ ký thuật; chúng ta hân thưởng việc sáng tạo ra sự tươi mới của một điểm nhìn khác về chúng ta. (…) Người đọc ắt bị cuốn hút bởi việc đọc song trùng (double lecture) bởi việc phát ngôn của “chứng nhân” với tư cách là thẩm quyền hư cấu và truyền đạt tự truyện đề xuất cho họ.” [20, 54].  Tất nhiên, tất cả các tự truyện đều không thể tách khỏi bối cảnh chính trị - xã hội nơi chúng được kể lại.

Bối cảnh chính trị - xã hội của tự truyện

Molly Andrews của Đại học Đông London (Univeristy of East London) đặt ra một loạt câu hỏi về việc viết tự truyện trong một bối cảnh chính trị-xã hội rộng lớn, “[V]ì sao một số câu chuyện được chọn và một số câu chuyện khác lại bị bỏ qua?  Sự việc không tự nói được.  Chúng ta chọn lấy một số sự việc nào đó, và hy vọng chúng sẽ nói thay cho chúng ta, thông qua chúng ta.  Nhưng chúng ta nghĩ mình sẽ đạt được điều gì qua việc kể lại những câu chuyện của chúng ta cho người khác theo cách của mình?  Điều gì khiến chúng ta diễn giải những sự kiện của thời đại mình theo cách này mà không phải là cách khác?  Chúng ta nhận thức mình là ai trong quan hệ với những sự kiện ấy?  Chúng ta tham gia vào việc nỗ lực hình thành môi trường chính trị của mình tích cực như thế nào?  Chúng ta xác định điều gì là thế lực chính cho thay đổi trong cuộc đời mình?  Chúng ta cảm thấy thuộc về nhóm, hay những nhóm nào, và điều này góp phần vào hiểu biết về thế giới chính trị của chúng ta như thế nào?” [6, 2].  Các nhà tâm lý học cũng đã nói đến quan hệ tương tác song phương giữa ký ức có tính tự truyện (autobiographical memory) và căn tính bản ngã đương thời (current self-identity).  Ký ức có tính tự truyện đóng vai trò quan trọng trong việc kiến lập căn tính cá nhân.  Những cái nhìn về bản ngã đương thời, những tín niệm, và mục tiêu của cá thể ảnh hưởng đến hồi ức và bình giá về bản ngã trước đó.  Ngược lại, căn tính bản ngã đương thời của họ cũng chịu ảnh hưởng bởi việc họ ghi nhớ gì về quá khứ cá nhân của mình, và bởi việc họ nhớ lại tự ngã và những giai đoạn trước đó như thế nào.  Những đánh giá được tái lập về hồi ức, khoảng cách được nhận thức từ những kinh nghiệm quá khứ và điểm nhìn về những hồi ức của họ có ý nghĩa đối với việc quá khứ ảnh hưởng đến hiện tại như thế nào. [33, 137]

20191030 TLan4

Biểu đồ về quan hệ tương tác song phương giữa ký ức có tính tự truyện và căn tính bản ngã đương thời

Trong chuyên luận Bản ngã tự truyện trong thời đại và văn hoá (The Autobiographical Self in Time and Culture), Qi Wang cũng khẳng định rằng ký ức và cảm nhận về tự ngã của chúng ta bị quy định bởi thời đại và văn hoá.  Do đó, tự truyện tất yếu bị chi phối bởi quan niệm mang tính văn hoá về bản ngã vốn luôn chuyển hoá qua các thời kỳ lịch sử. [32].  Những ý kiến về tự truyện được trình bày trên đây là tiền đề lý thuyết giúp tìm hiểu tác phẩm Vừa đi đường, trước hết trong mạng văn bản nối kết của nó.

Mạng văn bản của một tự truyện

 

Sách Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch ra mắt độc giả lần đầu năm 1949 qua bản tiếng Trung Hồ Chí Minh truyện do Trương Niệm Thức dịch, nhà xuất bản Bát nguyệt ấn hành ở Thượng Hải. [31].  Dù tất cả tên người, tên đất Việt Nam và nước ngoài đều được phiên sang Trung văn, tên tác giả được in bằng chữ quốc ngữ không dấu “Tran Dan Tien” ở ngoài bìa và trong sách.  Mặt khác, bản dịch Trung văn và bản tiếng Việt có một số khác biệt và không hoàn toàn trùng khớp về nội dung.[16]  Cả một đoạn văn dài ở cuối sách Những mẩu chuyện mở đầu với câu “Chúng tôi không có tham vọng viết một quyển tiểu sử của Hồ Chủ tịch, chúng tôi chỉ mong quyển truyện này giúp đồng bào biết vài mẩu chuyện của vị lãnh tụ đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà” đã không thể tìm thấy được trong bản dịch Trung văn.  Từ đoạn văn dài kết lại cả tập sách này, người đọc biết rằng, “Địa bàn hoạt động của Hồ Chủ tịch bao la, trong nước có, ngoài nước có.  Thường lại phải hoạt động bí mật, khi ẩn, khi hiện rất khó theo dõi, mà Hồ Chủ tịch thì ít muốn nói về mình.  Chúng tôi phải công phu bắt mối người này sang người khác.  Chúng tôi phải dựa vào một số các đồng chí thường được gần gũi Hồ Chủ tịch.  Các đồng chí này thỉnh thoảng, tình cờ trong những giờ nghỉ ngơi sau công tác hay trong những lúc đi đường được nghe Hồ Chủ tịch kể cho ít mẩu chuyện trong đời hoạt động của Người.” [31, 151] Đó chính là “phương pháp gián tiếp” đã được Trần Dân Tiên nêu ở đầu sách, sau khi “phương pháp trực tiếp, nghĩa là nói chuyện thẳng với Hồ Chủ tịch để có tài liệu, điều ấy đã không thành”.  Phương pháp gián tiếp bao gồm việc phỏng vấn “không cứ là người Việt Nam hay ngoại quốc, để lấy tài liệu viết tiểu sử.” [31, 9].  Sách Những mẩu chuyện kết thúc với mong đợi, “Chuyện của Hồ Chủ tịch trong và sau thời kỳ kháng chiến mong nhiều anh chị em chúng ta sẽ tiếp tục viết thêm.” [31, 151].  Về sau, Vừa đi đường đã đảm nhiệm việc này, lấp đầy một số khoảng trống chưa biết trong đời hoạt động của Hồ Chủ tịch.  

Những mẩu chuyện về các hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch sẽ được thuật lại trên báo chí thông qua một (có lúc là hai) trung giới với những nhân vật như Tuyết Lan và T. Lan.  Ngày 27 tháng 4 năm 1960, trên báo Nhân Dân có bài “Ba chai rượu sâm banh” của một người nước ngoài tên là Giăng Pho (Jean Fort), được Tuyết Lan dịch sang tiếng Việt.  Lời mào đầu (“Lời người dịch”) viết rằng, “Thư của anh Giăng (Jean) dài hơn thế này.  Nhưng tôi không dịch những đoạn nói về tình hình chính trị ở Pháp, chiến tranh ở An-giê-ri (Algérie), phong trào công nhân và nông dân Pháp.”   Ngay đầu bài có phần tự giới thiệu, “Tôi là Giăng Pho (Jean Fort), thợ điện, đảng viên Đảng cộng sản Pháp.  Tôi quen biết đồng chí Nguyễn-ái-Quốc từ năm 1920-1921, vì hồi đó chúng tôi cùng trọ một nhà, ở ngõ hẻm Công-poăng (Compoint).”  Bài báo này có một vài câu chuyện rất gần với những gì đã được kể trong Những mẩu chuyện, chẳng hạn như chuyện về điều kiện sống tối giản và kham khổ của Nguyễn Ái Quốc trong thời gian ở Paris với viên gạch nung nóng để sưởi ấm giữa đông lạnh dưới đây.

Những mẩu chuyện về đời hoạt động… “Ba chai rượu sâm banh”

Mỗi buổi mai, ông Nguyễn nấu cơm trong một cái sanh nhỏ bằng sắt tây đặt trên ngọn đèn dầu.  Với một con cá mắm hoặc một tí thịt.  Ông ăn một nửa và để dành một nửa đến chiều. (…) Ông trọ ở một phòng nhỏ trong một khách sạn rẻ tiền ở xóm lao động.  Phòng chỉ vừa kê một cái giường sắt chật, một cái bàn nhỏ và một cái ghế.  Chỉ thế thôi, không có gì khác.

Về mùa đông lạnh, mỗi buổi sáng trước khi đi làm, ông để một viên gạch vào lò bếp của khách sạn.  Chiều đến, ông lấy viên gạch ra, bọc nó vào trong những tờ báo cũ, để xuống nệm cho đỡ rét. [31, 38-39]

Buồng anh Nguyễn chỉ vừa đặt một cái giường sắt, và một cái bàn cỏn con.  Trên bàn có một cái thau, trong thau có một pô nước để rửa mặt.  Thế thôi, không có đồ đạc gì khác. (…) Mỗi ngày anh chỉ đi làm thuê buổi sáng cho một xưởng phóng đại ảnh.  Trưa về, anh nấu một soong cơm, trên cơm hấp một cái lạp xưởng hoặc một con cá mòi.  Anh ăn một nửa, còn một nửa để tối ăn (…) Mùa đông giá lạnh, không đủ chăn đắp, trước khi đi làm, anh đặt nhờ một viên gạch trên bếp bà chủ nhà; tối về, anh gói viên gạch vào một tờ báo, rồi đút vào giường cho đỡ rét cóng. [14]

 

Theo phương thức biên soạn của Những mẩu chuyện, có thể hiểu Giăng Pho là một trong những người ngoại quốc đã thuật lại hồi ức của mình về Hồ Chủ tịch.  Cũng theo như giới thiệu, bài “Ba chai rượu sâm banh” là kết quả của việc trích dịch từ một lá thư dài hơn của Giăng Pho, và tựa đề hẳn là do người dịch thêm vào.  Những chuyện được kể trong bài đến với người đọc không phải trực tiếp từ Hồ Chủ tịch mà qua hai trung giới: người kể (Giăng Pho) và người dịch (Tuyết Lan).  Với hai tầng trung giới này, người đọc có thể băn khoăn về tính chân xác của những tự sự ấy.  Tuy nhiên, các công bố chính thức đã xác nhận Giăng Pho và Tuyết Lan đều là những bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, [3] và điều này giúp người đọc xác tín hơn về những gì được nghe kể.

Nhân vật “T. Lan” cũng là một trường hợp đặc biệt.  Sách Vừa đi đường cho biết về đoàn tuỳ tùng trong chuyến đi thị sát mặt trận của Hồ Chủ tịch năm 1950 như sau, “Đi với Bác có: một tiểu đội bảo vệ, một thày thuốc – bác sĩ Chân, đồng chí Thành và tôi, T. Lan.” [28, 3].  Trong chuyến đi này, T. Lan và đồng đội được nghe Bác kể về những chuyện xảy ra trước đó mà họ chưa từng biết.  Trước khi Vừa đi đường được khởi đăng trên báo Nhân Dân ngày 10 tháng 05 năm 1961, cũng trên báo này đã có bài “Bác ăn Tết với chúng tôi” của tác giả T. Lan (đăng ngày 14 tháng 02 cùng năm).  Trong bài này, các sự kiện xảy ra với Bác vào cuối năm 1940 được kể trong Vừa đi đường nay lại được kể qua góc nhìn của T. Lan, vì T. Lan là người trong cuộc, là người trực tiếp trải nghiệm những sự kiện ấy: “Vào cuối năm 1940, chúng tôi một nhóm thanh niên Cao Bằng bí mật sang Trung Quốc đi tìm cách mạng, tìm lãnh tụ cách mạng.” [27].  Đọc bài báo này cùng với sách Vừa đi đường, người đọc có điều kiện nhìn lại những thuật sự lịch sử từ hai góc độ khác nhau: một là góc nhìn của Hồ Chủ tịch (được T. Lan ghi lại), và hai là từ góc nhìn của T. Lan, người trực tiếp trải nghiệm những sự việc lịch sử nọ.  Trên đây chỉ là một đôi ví dụ giúp hình dung được một mạng văn bản kết nối khá phong phú cho phép độc giả tìm hiểu sâu sắc hơn về Hồ Chủ tịch.[17]    

Vừa đi đường đọc lại

Khác với “Ba chai rượu sâm banh” hay “Bác ăn Tết với chúng tôi” được kể từ góc độ của chứng nhân (hay người trực tiếp trải nghiệm), những mẩu chuyện trong Vừa đi đường được Hồ Chủ tịch trực tiếp kể cho “tác giả” T. Lan và được nhân vật này kể lại cho người đọc.  Vì thế, người đọc có thể hiểu rằng trong tự sự này có thể sẽ có sự chủ quan của “tác giả” khi nhận xét hay bình luận.  Việc “tác giả” nhấn mạnh các thời điểm kể khác nhau (1950 và 1961) về những sự kiện diễn ra 30 hay 40 năm trước đó cùng với khả năng ghi nhớ có hạn của ký ức (“Tôi nhớ được thế nào xin thuật lại thế ấy”) là cơ sở tiền đề để giải thích, dự phòng cho những nhầm lẫn có thể xảy ra ngoài ý muốn, ảnh hưởng đến tính xác thực (véracité) của các chi tiết.  Quả thật, điều này đã xảy ra ở Vừa đi đường, có thể thấy được trong đoạn nói về chính khách Raymond Poincaré (1860-1934), người từng giữ chức tổng thống Pháp trong 7 năm (1913-1920).   Sách Vừa đi đường viết, “Trong một cuộc tổng tuyển cử hạ nghị viện Pháp, [Poincaré] đã cho dán khắp cả nước bức vẽ tuyên truyền chống cộng, dưới nhan đề là ‘Bôn-sơ-vích hai hàm răng ngậm dao’.  Trong bức vẽ thì phía sau là những ngôi nhà đang cháy ngùn ngụt; phía trước là một người ‘bôn-sơ-vích’, mặt mũi rất dữ tợn, miệng ngậm một cái dao đẫm máu, tay xách cái đầu của một người đàn bà.” [28, 8].  Bức vẽ tuyên truyền chống cộng ấy đúng là có in hình một khuôn mặt đỏ ngầu, hung tợn, cắn chặt một con dao giữa hai hàm răng, bên dưới có dòng chữ Comment voter contre le bolchevisme? (Làm thế nào bỏ phiếu chống lại bolshevik), ngoài ra không có thêm hình ảnh nào khác.  Cũng liên quan đến Poincaré, Vừa đi đường kể thêm một câu chuyện khác, “Đảng Cộng sản Pháp đập lại Poanh-ca-rê một vố cũng khá nặng.  Số là Poanh-ca-rê trong khi đến thăm một nghĩa địa có hàng nghìn mộ lính Pháp, thì Poanh-ca-rê nhăn răng cười.  Đảng Pháp lấy được bức ảnh đó, cho in ra hàng triệu tấm, dưới nhan đề “Poincaré qui rit” (nghĩa là Poanh-ca-rê nó cười) và bán khắp nước Pháp.  Bức ảnh đó đã gây nên một phong trào sôi nổi chống Poanh-ca-rê.” [28, 9].  Xem lại bức ảnh lịch sử ấy, có thể thấy rõ hàng chữ “L’Homme qui rit” (người cười) in bên trên.[18]  Hiển nhiên, hai trường hợp được dẫn trên đây chẳng qua chỉ là sự sai chệch chi tiết do hạn chế của ký ức, và những điều thêm vào chưa thật xác thực ấy cũng là cái mà Rousseau gọi là “điểm tô đôi chút một cách vô thưởng vô phạt, thì chỉ để bổ khuyết một chỗ trống do thiếu trí nhớ mà thôi.” [24, 16].  Đây cũng là cơ sở để hiểu hơn về ảnh hưởng của ký ức đối với tính xác thực trong tự truyện nói chung, và trong Vừa đi đường nói riêng. 

Trong phần hai của Les Confessions (Những lời bộc bạch), Rousseau có nói đến “những giấy tờ [ông] đã tập hợp để bổ sung cho ký ức và dẫn dắt” mình trong việc viết tự truyện. [24, 338].  Người đọc Vừa đi đường hẳn không thể quên được những số liệu được dẫn dụng khá chi tiết trong sách, chẳng hạn như những con số về tổn thất về kinh tế ở Nga sau bốn năm Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và việc hồi phục trong lĩnh vực này dưới sự lãnh đạo của chính quyền cách mạng trong những thập niên 20 và 30 của thế kỷ trước; hay số liệu về những tổn hại do phát-xít Đức gây ra ở Liên xô trong Thế chiến thứ hai, cũng thắng lợi và sự lớn mạnh của phe xã hội chủ nghĩa sau những thử thách sống còn và khốc liệt này.  [28, 15-16, 78-79].  Những dữ liệu này một mặt bảo đảm tính chính xác lịch sử của tự sự, và mặt khác đưa người đọc ít nhiều tách khỏi mạch tự sự cá nhân để đến gần hơn với sử liệu chính thức.  Mục đích dẫn dụng các số liệu này là để khẳng định niềm tin tất thắng vào con đường cách mệnh mà Hồ Chủ tịch đang dẫn dắt.

Như phụ đề đã nói rõ, Vừa đi đường là tập sách bao gồm “một số mẩu chuyện về Bác Hồ trước 1945”, và những mẩu chuyện này đã được kể có chọn lọc.  Trong sách có đoạn như sau, “Trước khi Bác tiếp tục kể chuyện, anh Thành đề nghị: ‘Nếu Bác kể cho nghe những chuyện hoạt động bí mật của Bác thì chắc là thú vị lắm.’  Không đồng ý với anh Thành, bác sĩ Chân nói: ‘Đã là bí mật thì không nên nói công khai.  Anh em cách mạng ở các nước khác có thể còn dùng những cách bí mật đó.  Nói ra không lợi.’  Bác bảo: ‘Chú Chân nói đúng.  Thôi để Bác kể những chuyện không bí mật vậy.”  [28, 20].  Như thế, tiêu chí lựa chọn chuyện để kể là có thể công khai được và không ảnh hưởng đến những bí mật chính trị.  Mặt khác, tuy không thật rõ về hai nhật vật bác sĩ Chân và đồng chí Thành tháp tùng và được nghe Hồ Chủ tịch kể chuyện, tên của họ khi đặt chung với nhau hợp thành một tiêu chí quan trọng luôn được trông đợi ở tự truyện – đó chính là sự “chân thành.”  Tuy nhiên, cũng chính trong sự “chân thành” này lại nảy sinh mâu thuẫn trong lựa chọn khi phải quyết định điều gì có thể nói ra được (vì những nguyên nhân, mục đích nào đó), và điều gì cần phải giữ bí mật (vì những duyên do nào khác cũng không thể nói ra được).

Vừa đi đường là một tác phẩm xuất sắc trong việc miêu tả tính cách nhân vật, chính cũng như phụ.  Hơn thế nữa, ảnh chụp các trang bản thảo được giới thiệu trong sách Stories thực sự rất quý vì giúp cho người đọc thấy rõ hơn những thay đổi từ bản thảo đến văn bản công bố chính thức.  Có thể nói hầu như mỗi câu chuyện kể trong Vừa đi đường đều là tư liệu thú vị để tìm hiểu các hình thức tự sự khác nhau của tự truyện.  Ở đây, chỉ tập trung vào hai trường hợp cụ thể.  Trước hết, có thể đọc tiếp phần viết về Poincaré đã dẫn ở trên.  Phần tiếp theo chuyển sang kể lại cuộc gặp giữa Nguyễn Ái Quốc và Thượng thư thuộc địa Albert Sarraut xảy ra trước ngày 22 tháng 6 năm 1922. [16, 29] Cuộc đối mặt của hai bên được miêu tả khá cặn kẽ, và qua những thay đổi trong các bản thảo, có thể thấy sự lựa chọn từ ngữ để khắc hoạ tính cách của hai nhân vật đã được thực hiện rất cẩn trọng.  Đoạn trích dẫn dưới đây cho thấy văn bản đã trải qua những thay đổi như thế nào trước khi định hình như hiện tại (những chữ in đậm là thay đổi cuối cùng):

“Thượng thư thuộc địa mắt thì nhìn thẳng vào Bác chằm chằm, tay thì vẽ trên bàn, miệng thì nói một cách như phun ra lửa.  Y nói đại ý như sau: “Hiện nay có những kẻ dại dột ngông cuồng hoạt động ở Pháp.  Họ liên lạc với bọn Bolchevik bôn-sơ-vích Moscu Nga.” (…) Nói đến đó vẻ mặt ông ta trở nên y vẻ mặt thì hầm hầm, hai tay ông ta nắm lại và làm như đang bẻ gãy những vật gì rất cứng rắn – những người cách mạng Việt-nam…Bác cứ giữ một thái độ ung dung,Ông ta nói gì thì nói, Bác vẫn cứ mỉm cười, để mặc y nói.” [16, 32-33]

Rõ ràng với những thay đổi cuối cùng, văn bản đã thể hiện tính cách đối lập của hai nhân vật mạnh mẽ hơn lên rất nhiều: một Albert Sarraut nóng giận, hung tợn trước một Nguyễn Ái Quốc ung dung, điềm tĩnh nhưng không kém phần kiên nghị.  Thêm vào đó, việc thay thế “ông ta” bằng “y” khi nói về Sarraut đã thể hiện thái độ khinh thường của người kể đối với nhân vật này. 

Một trường hợp thú vị khác liên quan đến việc Hồ Chủ tịch vừa ra khỏi nhà tù Quốc dân đảng năm 1943.  Trong bản in hiện nay có đoạn kể rằng, “Khi được thả ra, mắt Bác nhìn kém, chân bước không được.  Bác quyết tâm tập đi, mỗi ngày 10 bước, dù đau mà phải bò, phải lết, cũng phải được 10 bước mới thôi.  Cuối cùng Bác chẳng những đi vững mà còn trèo được núi.  Lần đầu tiên lên đến đỉnh núi, Bác cao hứng làm một bài thơ chữ Hán như sau: Vân ủng trùng sơn, sơn ủng vân – Giang tâm như kính tịnh vô trần – Bồi hồi độc bộ Tây phong lĩnh – Nam vọng trùng dương ức cố nhân.  Bác chỉ nhớ bài thơ đó.  Chúng tôi cố hết sức chỉ tạm dịch như thế này: Mây ôm núi, núi ấp mây – Lòng sông chẳng gợn mảy may bụi hồng – Bồi hồi dạo đỉnh Tây phong – Trông vời cố quốc, chạnh lòng nhớ ai.” [28, 74]  Trong cả 3 bản thảo vốn không có đoạn này.  Chỉ đến khi có bản đánh máy cuối cùng, đoạn văn trên mới được Hồ Chủ tịch viết tay thêm vào.  Bài thơ tứ tuyệt chữ Hán được T. Lan dịch sang thơ lục bát tiếng Việt và khiêm tốn nhìn nhận bản dịch chưa chuyển tải trọn vẹn tinh thần nguyên tác dù đã “cố gắng hết sức” cũng “chỉ tạm dịch” được như thế.  Theo sách Stories, bài thơ này là một mật báo của Hồ Chí Minh gửi các đồng chí của mình.  Năm 1943, có tin là ông đã mất do ở Trung Quốc hơn một năm rồi mà không có tin tức gì.  Một hôm, các ông Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng nhận được một tờ Quảng Tây Nhật Báo, bên lề có mấy dòng chữ Hán viết tay, đại ý mong anh em bên nhà đều khoẻ mạnh, còn bên này mọi việc đều tốt, kèm theo bài thơ nói trên.  Nhận ra đó là thủ bút của Hồ Chủ tịch, đồng thời căn cứ vào ngày báo ra lại là sau ngày nhận tin Chủ tịch đã mất, mọi người mừng là ông vẫn còn sống và mạnh khoẻ. [16, 149]  Chức năng mật báo ấy của bài thơ không được nhắc đến trong Vừa đi đường có lẽ cũng là do tiêu chí chọn lọc, chỉ kể những chuyện có thể công khai được mà không gây tổn hại đến những điều cần bảo mật. 

Vừa kể chuyện tiếp theo      

Những diễn giải, phân tích trên đây giúp khẳng định một điều: quả thật, Vừa đi đường, vừa kể chuyện là một tác phẩm tự thuật quý và hiếm.  Từ những bản thảo hiện có, người đọc có điều kiện hiểu rõ hơn quá trình sáng tác của một tác phẩm đặc sắc, trong đó tác giả danh nghĩa (T. Lan) thực ra là người kể chuyện hư cấu, đóng vai trò trung giới thuật chuyện thay cho tác giả thực (Hồ Chí Minh) về cuộc đời mình.  Tình huống độc đáo này cùng với điều kiện thuật sự dựa trên ký ức song trùng (dựa trên hồi ức, Hồ Chủ tịch kể lại những điều xảy ra trước đó 30 năm cho T. Lan, và lại dựa trên hồi ức, T. Lan thuật chuyện cho bạn đọc khoảng 10 năm sau khi được nghe kể) đã góp phần tạo nên tính phức hợp thu hút độc giả, đặc biệt là những người nghiên cứu tự truyện.  Với những điều kiện tự sự đặc biệt được trình thuật công khai như thế, người đọc đã được gián tiếp nhắc nhở về tính chân xác tương đối của tác phẩm, về yếu tố hư cấu có thể đã tham gia ít nhiều vào tác phẩm nhằm lấp đầy những khoảng trống mà ký ức hạn chế đã để lại.  Không nhằm mục đích thuật lại toàn bộ những gì đã diễn ra với Hồ Chủ tịch, Vừa đi đường tự giới hạn trong phạm vi “một số mẩu chuyện” về đời hoạt động của ông trước năm 1945, với nguyên tắc chọn lọc: công bố những gì có thể công khai được, và bảo mật những gì những gì được xem là bí mật, nếu công khai sẽ không có lợi cho cách mạng.

Để hiểu Vừa đi đường, không thể không tìm hiểu những lý thuyết tự truyện; mặt khác, nghiên cứu tập sách quý này tất yếu sẽ làm phong phú hơn lý thuyết tự truyện nói chung, và tự truyện ở Việt Nam nói riêng.  Tự truyện cần được khảo cứu trong mạng tác phẩm liên quan: quan hệ liên văn bản này giúp người đọc hình dung rõ hơn tác giả đã khắc hoạ hình tượng bản thân như thế nào trong những bối cảnh thời đại và văn hoá của họ.  Được viết vào đầu thập niên 1960 khi miền Bắc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, Vừa đi đường xây dựng mẫu hình lý tưởng của người cách mạng nhằm tăng cường liên hệ giữa Đảng và quần chúng.   Tập sách giới thiệu Hồ Chủ tịch như tấm gương tiêu biểu cho mọi người.  Đó là một con người chân thành, khiêm tốn, giản dị gần gũi với nhân dân, chan hoà, quan tâm đến quần chúng, điềm tĩnh nhưng kiên quyết đấu tranh chống thực dân – đế quốc, và tin tưởng tuyệt đối vào thắng lợi của cách mạng.  Một tập sách đặc sắc như thế với những bản thảo gốc hiện vẫn đang đang được bảo quản cẩn thận đương nhiên có sức hấp dẫn lạ kỳ, luôn mời gọi những nghiên cứu tiếp nối làm rõ hơn các tầng nghĩa đa dạng vẫn còn ẩn mình trong từng dòng chữ, ở từng trang sách.

20191030 TLan2

Bản thảo viết tay với tựa đề Ăn cơm mới, nói chuyện cũ với dấu xé đã được ghép lại. 

Ở bản thảo này, từ “Bác” được viết tắt là “B.”

Bản thảo do tác giả đánh máy, vẫn với tựa đề Ăn cơm mới, nói chuyện cũ, nhưng đã có tên “T. Lan” viết thêm vào bằng mực đỏ. Ngoài câu “Bác định đi thăm mặt trận”, từ “Bác” trong bản thảo này vẫn được đánh máy tắt là “B.”

Bản thảo được nhân viên Văn phòng Phủ Chủ tịch đánh máy.  Tựa đề Ăn cơm mới, nói chuyện cũ bị gạch bỏ, và tựa đề mới Vừa đi đường, vừa kể chuyện được tác giả viết tay thêm vào.  Từ “Bác” được đánh máy đầy đủ.

Nguồn: Stories Told on the Trail (2009)

Tranh tuyên truyền của chính quyền Poincaré “Làm thế nào bỏ phiếu chống lại bolshevik?” 

Bức ảnh chống Poincaré với tiêu đề “L’Homme qui rit” (Người cười) Nguồn: Internet

 

Tài liệu tham khảo

  1. “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng”, Trang Lịch sử Việt Nam, http://www.lichsuvietnam.vn/home.php?option=com_content&task=view&id=1159&Itemid=5, truy cập ngày 01/02/2019.
  2. “Lady Borton: I’m an Honest American Woman,” Vietnam Plus, 20/10/2010, https://en.vietnamplus.vn/lady-borton-im-an-honest-american-woman/23440.vnp, truy cập ngày 31/01/2019.
  3. “Những tên gọi, bí danh, bút danh của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Trang tin điện tử Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, 23/10/2013, https://bqllang.gov.vn/tin-tuc/tin-tong-hop/1837-nh-ng-ten-g-i-bi-danh-but-danh-c-a-ch-t-ch-h-chi-minh-ph-n-cu-i.html, truy cập ngày 31/01/2019.
  4. “Vietnam: UNESCO Heritage Recognition Sought for Ho Chi Minh Script”, Việt Nam News, 21/07/2009, http://vietnamnews.vn/print/unesco-heritage-recognition-sought-for-ho-chi-minh-script/190157.html, truy cập ngày 31/01/2019.
  5. Allamand, Carole (2018), “The Autobiographical Pact, Forty-Five Years Later”, European Journal of Life Writing, số VII, tr. 51-56.
  6. Andrews, Molly (2007), Shaping History – Narratives of Political Change, Cambridge University Press.
  7. Borton, Lady (2007), “Piece of Uncle Ho History Surfaces in London”, Viet Nam News, 21/05/2007, https://vietnamnews.vn/sunday/features/164816/piece-of-uncle-ho-history-surfaces-in-london.html#7yb34KfTOtRu04Sz.97, truy cập ngày 31/01/2019.
  8. Borton, Lady (2010), “Cuốn sách: Vừa đi đường, vừa kể chuyện”, Hồn Việt, số 57, http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/694-cun-sch-va-i-ng-va-k-chuyn.aspx, truy cập ngày 31/01/2019.
  9. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (chủ biên, 2003), Từ điển Văn học Bộ mới, Nxb. Thế Giới.
  10. Đỗ Hải Ninh (2009), “Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Sông Hương, số 250 (tháng 12), http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c196/n4496/Khuynh-huong-tu-truyen-trong-tieu-thuyet-Viet-Nam-duong-dai.html, truy cập ngày 31/01/2019.
  11. Đỗ Hải Ninh (2014), “Mối quan hệ giữa tự truyện – tiểu thuyết và một số dạng tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại”, Trang “Phê bình Văn học,” https://phebinhvanhoc.com.vn/moi-quan-he-giua-tu-truyen-tieu-thuyet-va-mot-so-dang-tu-thuat-trong-van-hoc-viet-nam-duong-dai/, truy cập ngày 31/01/2019.
  12. Đoàn Cầm Thi (?), “Nỗi buồn chiến tranh: Tự truyện bất thành”, Trang Tiền vệ, http://www.tienve.org/home/literature/viewLiterature.do?action=viewArtwork&artworkId=4572, truy cập ngày 09/02/2019.
  13. Gandhi, Mahatma (2018), Tự truyện Gandhi, Ni sư Trí Hải dịch, Sách Khai Tâm và Nxb. Hồng Đức.
  14. Giăng Pho (Jean Fort) (1960), “Ba chai rượu sâm banh”, Tuyết Lan dịch, Nhân Dân, 27/04/1960.
  15. Hồ Chí Minh (T. Lan) (2009), Stories Told on the Trail, Hồ Chí Minh Museum và Thế Giới Publishers.
  16. Hồ Chí Minh (T. Lan) (2013), Stories Told on the Trail, Hồ Chí Minh Museum và Thế Giới Publishers.
  17. Lê Tú Anh (2010), “Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc mộng lớn (Tản Đà) – Những bước đi đầu tiên của tự truyện Việt Nam”, Tạp chí Khoa học (Đại học Hồng Đức), số 6, tr. 5-12.
  18. Lejeune, Philippe (1975), Le Pacte autobiographique, Seuil.
  19. Lejeune, Philippe (1977), “Autobiography in the Third Person”, Annette và Edward Tomarken dịch từ tiếng Pháp, New Literary History, số 9:1, tr. 27-50.
  20. Lejeune, Philippe (1980), Je est un autre – L’Autobiographie de la littérature aux médias, Seuil.
  21. Lejeune, Philippe (1989), On Autobiography, Katherine Leary dịch từ tiếng Pháp, Minneapolis: University of Minnesota Press.
  22. Lejeune, Philippe (2005), Signes de vie – Le Pacte autobiographique 2, Seuil.
  23. M. An (2009), “Đăng ký tác phẩm Vừa đi đường, vừa kể chuyện là Di sản Tư liệu Thế giới”, Sài gòn Giải phóng, 15/07/2009, http://www.sggp.org.vn/dang-ky-tac-pham-vua-di-duong-vua-ke-chuyen-la-di-san-tu-lieu-the-gioi-78335.html, truy cập ngày 31/01/2019.
  24. Rousseau, Jean-Jaques (2017), Những lời bộc bạch, Lê Hồng Sâm dịch, Nxb. Tri Thức.
  25. Sartre, Jean-Paul (2017), Ngôn từ, Thuận và Lê Ngọc Mai dịch, Nhã Nam và Nxb. Văn học.
  26. Stein, Gertrude (1933), The Autobiography of Alice B. Toklas, Project Gutenberg of Australian eBook, gutenberg.net.au/ebooks06/0608711.txt
  27. T. Lan (1961), “Bác ăn Tết với chúng tôi”, Nhân Dân, 14/02/1961.
  28. T. Lan (1963), Vừa đi đường, vừa kể chuyện, Nxb. Sự Thật.
  29. T. Lan (2008), Vừa đi đường, vừa kể chuyện, Nxb. Trẻ.
  30. Trần Dân Tiên (1949), Hồ Chí Minh truyện, Trương Niệm Thức dịch, Bát nguyệt xuất bản xã.
  31. Trần Dân Tiên (2004), Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Nghệ An.
  32. Wang, Qi (2013), The Autobiographical Self in Time and Culture, Oxford University Press.
  33. Wilson, Anne E. và Michael Ross (2003), “The Identity Function of Autobiographical Memory: Time Is on Our Side”, Memory, số 11:2, tr. 137-149.
  34. Wolfe, Thomas (1962), The Thomas Wolfe Reader, C. Hugh Holman biên tập, giới thiệu và chú giải, Charles Scribner’s Sons.

Trần T. Lam*

Tóm tắt

Trong số rất nhiều tác phẩm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Vừa đi đường, vừa kể chuyện hẳn nhiên là một trong những tác phẩm độc đáo của ông.  Được viết và đăng tải hàng ngày thành hai đợt trên báo Nhân Dân trong năm 1961, tập sách này đến nay vẫn thường được biết như tác phẩm của một nhà văn ký tên là T. Lan.  Vừa đi đường, vừa kể chuyện đến với người đọc như một tập hợp những mẩu chuyện về hoạt động cách mạng của Hồ Chủ tịch do chính ông kể lại cho T. Lan ghi chép, và sách đã được đọc và diễn giải theo cách này.  Tuy nhiên, năm 2009, Bảo tàng Hồ Chí Minh và Nhà xuất bản Thế giới cho ra mắt bản dịch tiếng Anh của tác phẩm, khẳng định rõ Hồ Chí Minh là tác giả của sách dưới bút danh T. Lan.  Điều này đòi hỏi những cách đọc và diễn giải mới đối với tác phẩm dưới ánh sáng của lý thuyết tự truyện.  Với “sự trở lại của tác giả,” bài viết lược khảo những thay đổi trong ba tập bản thảo của Vừa đi đường, vừa kể chuyện để hiểu rõ hơn tác phẩm đã được viết như thế nào, đồng thời đề xuất một cách đọc mới dựa trên lý thuyết tự truyện đối với tác phẩm này.

Từ khoá: tự truyện, ký ức, hư cấu, mạng văn bản (liên văn bản)

 

Abstract

Tales Told on the Revolutionary Road:

Stories Told on the Trail – A Rare and Precious Narrative

Among his voluminous writing, Ho Chi Minh’s Stories Told on the Trail surely stands out as one of his unique works.  First written and published daily in two sets in People’s Newspaper (Nhan Dan) in 1961, this had been known as the work written by a writer by the name of T. Lan.  Stories Told on the Trail has come to readers as a collection of anecdotes about Ho Chi Minh’s revolutionary activities told by himself and recorded by T. Lan, and consequently, it has been read and interpreted this way.  However, the publication of an English translation of the book by the Ho Chi Minh Museum and the The Gioi Publishers in 2009 clearly confirms that Ho Chi Minh is in fact the work’s author who wrote it under the pen name of T. Lan.  This consequently requires new readings and interpretations for the book in the light of theories of autobiography.  With the “return of the author,” this paper examines changes in three sets of manuscripts of Stories Told on the Trail to better understand how it was written and suggests a new reading for the book based on theories of autobiography.  

Keywords: autobiography, memory, fiction, textual network (intertextuality)


* Nhà nghiên cứu độc lập, Hà Nội, This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

[1] Theo Stories, tác phẩm Vừa đi đường được đăng thành hai đợt trên báo Nhân Dân: đợt 1 từ ngày 10 đến 14/05/1961, đợt 2 từ ngày 28 đến 31/05 và từ ngày 3 đến 6/8/1961. [16, 12]

[2] Theo bản tin của báo Sài gòn Giải phóng, tác phẩm được đăng ký là “di sản tư liệu thế giới” (World Documentary Heritage).  Đây là chương trình được UNESCO khởi xướng năm 1992 với tên chính thức là “Chương trình Ký ức Thế giới” (Memory of the World Programme).  Việt Nam News đã dùng tên chương trình này khi đưa tin. [4]

[3] Lady Borton là nhà văn, nhà báo, và nhà hoạt động từ thiện người Mỹ, tác giả của nhiều tác phẩm về Việt Nam như Sensing the enemy: An American among the Vietnamese Boat people (Doubleday, 1984), hay After Sorrow: An American among the Vietnamese (Kodansha USA, 1996).  Bà đến Việt Nam lần đầu năm 1969, và từ đó đến nay đã trở lại đất nước này rất nhiều lần.  Tự nhận là “một người Mỹ chân thật”, Borton muốn giới thiệu Việt Nam như bà đã trải nghiệm ra thế giới.  Xem [2].   

[4] Bài của Lady Borton in trong ấn bản 2009 đã được Trung Hiếu dịch sang tiếng Việt. [8] Đoạn mở đầu cho biết, “Vừa đi đường vừa kể chuyện của T. Lan là một cuốn tự truyện duy nhất được Hồ Chí Minh - người sáng lập ra Nhà nước Việt Nam hiện đại, viết.  Tập tiểu sử Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch được xuất bản năm 1948 với bút danh Trần Dân Tiên. Trần Dân Tiên không phải là Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chưa bao giờ dùng bút danh Trần Dân Tiên.”. Đoạn này đã được bỏ trong ấn bản năm 2013.

[5] Hình ảnh trích từ bản thảo Vừa đi đường cũng đã được dùng trong sách Legal Case Against Nguyen Ai Quoc (Ho Chi Minh) in Hong Kong (Nxb. Chính trị Quốc gia, 2006).  Xem [7].

[6] Xem Phụ lục các trang bản thảo ở cuối bài.

[7] Xem thêm Phạm Văn Tình (2011), “Ngôn ngữ dân gian về Tết”, tham khảo tại http://baochinhphu.vn/Utilities/PrintView.aspx?distributionid=62943, truy cập ngày 31/01/2019.

[8] Cả hai tác phẩm này cùng được viết trong năm 1929.

[9] Về quan hệ giữa tự truyện và tiểu thuyết cùng một số dạng tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, xem thêm [11].

[10] Chẳng hạn như trong Từ điển Văn học bộ mới [9, 1905-1906]

[11] Nguyên văn là “Récit rétrospectif en prose qu’une personne réelle fait de sa propre existence, lorsqu’elle met l’accent sur la vie individuelle, en particulier sur l’histoire de sa personnalité” [18, 14]

[12] Các thuật ngữ Autodiégetique, Homodiégetique, và Heterodiégetique của nhà tự sự học G. Genette được Lejeune dẫn dụng ở đây. [18, 18]

[13] Lejeune giải thích, “Trường hợp tiểu sử hướng đến nhân vật mẫu [biographie adressée au modèle] là trường hợp của những diễn văn hàn lâm gửi đến người mà cuộc đời được kể lại trước khán thính giả - người tiếp nhận thực sự [diễn văn ấy], tựa như trong một tự truyện kể ở ngôi thứ hai.” [18, 18] 

[14] Je est un autre (Tôi là một người khác) là một tựa đề khó dịch đầy đủ vì nó trộn lẫn ngôi nhân xưng thứ nhất Je (tôi) với động từ être (là) chia ở ngôi thứ ba (est).

[15] Hiện nay đã có 2 bản dịch tiếng Anh; xem [19] và [21].

[16] Ở cuối bản dịch tiếng Trung có đoạn, “最後,我們應該附記一下,據胡主席的左右說,他永遠保持「胡志明」這個姓名,是為了對中國表示禮貌。” (Cuối cùng, chúng tôi nên viết thêm đôi chút, theo lời Hồ Chủ tịch, ông mãi mãi giữ tên “Hồ Chí Minh” là để biểu thị phép lịch sự với Trung Quốc) [31, 191].  Do đoạn này không có trong bản tiếng Việt, nên không rõ có phải do người dịch (Trương Niệm Thức) thêm vào hay không?  Ngoài ra, toàn bộ chương 27 trong bản dịch tiếng Trung (tr. 140-143) nói về những cuộc gặp gỡ thân thiện, hữu nghị giữa Hồ Chủ tịch và một tiểu đội quân nhân người Mỹ khi ông vừa trở về từ Trung Quốc cũng không thấy có trong bản tiếng Việt.

[17] Chẳng hạn như Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng dùng bút danh “Trần Lam” trong bài “Chuyện giả mà có thật” thuật chuyện những hoạt động của mình đăng trên báo Nhân Dân, số 2242, ra ngày 9 tháng 5 năm 1960. [3]

[18] Xem Phụ lục 2 ở cuối bài.

 

 

"Nỗi buồn chiến tranh" được giảng dạy rộng rãi trong các đại học ở Mỹ, được xếp cùng nhiều tác phẩm danh giá khác và có vị trí trang trọng tại các trường học. 

Chiều ngày 15/7, khoa Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tổ chức thuyết trình khoa học  “Ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh”.

Trước sự chứng kiến của vị khách mời đặc biệt là nhà văn Bảo Ninh - cha đẻ tiểu thuyết - và các giảng viên, nghiên cứu sinh, sinh viên của khoa Văn học, diễn giả Giáo sư, Tiến sĩ Laichen Sun đã dành gần hai giờ đồng hồ để nói về ảnh hưởng quốc tế của tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Ông nêu lý do tại sao cuốn tiểu thuyết này lại được cộng đồng quốc tế quan tâm. TS Laichen Sun giảng dạy ở Đại học bang California tại Fullerton, Mỹ, Tổng biên tập Tạp chí Chuỗi dịch thuật nước ngoài ở Đông Nam Á, thành viên Hội đồng quản trị Hiệp hội Châu Á về lịch sử thế giới.

Nhà văn Bảo Ninh.

Mở đầu phần thuyết trình, Laichen Sun đã trích dẫn một số nhận định về cuốn tiểu thuyết này: 

“Ở Việt Nam từ khi xuất bản Nỗi buồn chiến tranh, mọi người không còn mô tả chiến tranh như trước đây nữa”, ông Phạm Xuân Nguyên - cựu Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội nói. 

“Trước khi đến Việt Nam, tìm hiểu về Việt Nam, bạn hãy đọc Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, Nhà xuất bản Lonely Planet chuyên xuất bản sách hướng dẫn Du lịch có trụ sở ở Melbourne, Australia khuyến nghị.

“Tất cả các trường học trên thế giới nên đọc cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh”, nhà văn người Anh và đạo diễn từng đoạt giải thưởng Charlie Raman nói.

“Tiểu thuyết vượt lên thời gian và không gian và có ảnh hưởng đến nhiều thế hệ”, Kang Young Ha, một nhà văn nổi tiếng của Hàn Quốc nhận xét. 

Laichen Sun cho biết ông đã dành nhiều công sức và thời gian để tìm hiểu tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh khi nhận lời viết lời giới thiệu cuốn tiểu thuyết dịch xuất bản ở Trung Quốc. Sau khi đọc tác phẩm, ông đã viết lời giới thiệu 97 trang (khoảng 70.000 chữ tiếng Trung). Riêng phần tóm tắt đã là 6.000 chữ.

Laichen Sun cũng cho biết có hàng trăm công trình trên thế giới nghiên cứu cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh. Đây là tác phẩm lớn đáng để tìm hiểu, không chỉ bởi vai trò của nó trong thúc đẩy hòa bình ở châu Á mà nó còn giúp chúng ta hiểu được giá trị của hòa bình và căm ghét chiến tranh.

Nhà văn Bảo Ninh (bên trái), Giáo sư, Tiến sĩ Laichen Sun (giữa) trong buổi thuyết trình.

Nhiều vấn đề liên quan đến cuốn tiểu thuyết được Laichen Sun tìm hiểu rất cặn kẽ, ông còn lập các phụ lục với hàng loạt số liệu thống kê về các công trình trích dẫn cuốn tiểu thuyết, các bài phỏng vấn nhà văn Bảo Ninh, những trường đại học, trung học sử dụng tiểu thuyết, các thứ tiếng dịch tác phẩm…

Ông cho biết cuốn tiểu thuyết dịch ra 15 thứ tiếng, 18 phiên bản (mỗi thứ tiếng Nhật, tiếng Hàn và tiếng Trung có hai phiên bản), tiếng Anh, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Điển, Pháp, Đức, Ba Tư, Hy Lạp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Ba Lan, Thái Lan. Phần lớn các bản dịch là chuyển ngữ lại từ bản tiếng Anh, cho dù chưa thực sự chính xác nhưng nó vẫn chiếm được sự quan tâm lớn lao của quốc tế. 

"Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh góp phần làm cho Việt Nam nổi tiếng. Đây là cuốn tiểu thuyết tiếng Việt được dịch ra nhiều thứ tiếng nhất thế giới, tác phẩm văn học nổi tiếng nhất của Việt Nam từ trước tới giờ. Một trong những tác phẩm văn học lớn nhất trên thế giới. Một tác phẩm về chiến tranh nổi tiếng nhất thế kỷ XX", GS Laichen Sun dành nhiều lời ca ngợi.

Cuốn tiểu thuyết còn vượt qua khỏi lãnh địa văn chương sang các lĩnh vực khác như tâm thần học, tâm lý học, giới sử học và các khoa học khác cũng rất quan tâm. 

Tác phẩm này còn được giảng dạy rộng rãi trong các đại học ở Mỹ và một số nước, được xếp cùng nhiều tác phẩm danh giá khác và có vị trí trang trọng trong không gian trường học Mỹ. Không những thế tiểu thuyết còn ảnh hưởng đến không ít các học giả và là nguồn cảm hứng cho nhiều nhà văn quốc tế.

Laichen Sun cho biết sau khi đọc Nỗi buồn chiến tranh ông rất xúc động và tác phẩm này đã làm thay đổi cách dạy lịch sử của ông. Trong hơn 10 năm dạy học, trong các tiết học, ông luôn yêu cầu sinh viên đọc tác phẩm này để hiểu hơn về lịch sử Việt Nam, về sự tàn phá của chiến tranh, sự khủng khiếp của chiến tranh, căm ghét chiến tranh và nuôi dưỡng tình yêu hòa bình.

Nhà văn Bảo Ninh cho biết nhờ bài thuyết trình của Giáo sư Laichen Sun mà ông biết tiểu thuyết của mình được sự quan tâm của quốc tế. Nhưng ông cũng băn khoăn khi thực trạng của văn học Việt Nam trầm lắng. Bởi nhiều tác phẩm chưa được dịch sang các ngôn ngữ khác. Ông đề nghị giáo sư với uy tín của mình nên quảng bá, giới thiệu nhiều tác phẩm văn học của Việt Nam ra quốc tế.

20190729 NBCT

Tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” được dịch ra nhiều thứ tiếng.

Sự ra đời của cuốn tiểu thuyết đặt dấu mốc quan trọng, mở ra một lối viết khác, cách nhìn khác về chiến tranh. Nếu như trước đây, chiến tranh thường được tái hiện từ cái nhìn của cộng đồng, con người thường được khai thác từ phương diện xã hội, được nhìn từ góc độ của cái đẹp, cái anh hùng, và kết cấu tiểu thuyết thường được xây dựng theo chiều tuyến tính, thì đến Nỗi buồn chiến tranh, người ta bắt gặp một lối viết hoàn toàn mới: Cá nhân hoá hư cấu, xây dựng nhân vật trên phương diện tâm lý cá nhân, tái hiện cuộc chiến từ góc độ chủ yếu là bi kịch, với kết cấu tiểu thuyết theo mô hình dòng ý thức, tiểu thuyết ở bên trong tiểu thuyết. 

Sự đổi mới trong cả cách nhìn và lối viết ấy khiến cho chiến tranh và con người bước ra từ cuộc chiến hiện lên với tính hiện thực, phức tạp, đa chiều, nhiều ám ảnh. Đó là một tiểu thuyết giúp con người bước vào hành trình đi tìm chân lý: Chiến tranh là nỗi buồn, là điều khủng khiếp, nhưng chính sự sẻ chia nỗi buồn ấy là gia tài quý báu mang lại sức mạnh vĩ đại để những người lính vượt qua nó, và hoà bình chính là điều quý giá nhất của nhân loại. 

Tiểu thuyết này cũng kiến tạo một hành trình đi tìm một lối viết mới về chiến tranh và khơi nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm sau này.

Nguồn Zing.vn, ngày 17.7.2019.

TP - Mấy ngày qua, người yêu văn học trong nước không khỏi bất ngờ và tiếc nuối trước thông tin nhà lưu niệm của cố nhà văn Vũ Trọng Phụng đã không còn nữa. Nó đã thuộc về người chủ mới và những hiện vật quí ghi dấu ấn một đời cầm bút của tác giả “Số đỏ” cũng không còn… Thực, hư ra sao?

20191028 VTP

Trong nghĩa trang, mộ của nhà văn nổi tiếng nằm ở vị trí trang trọng Ảnh: N.H.D

Không vào bảo tàng sẽ ra... đồng nát?

Trước khi tìm đến nhà lưu niệm và mộ phần của nhà văn Vũ Trọng Phụng, tôi kết nối với nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên. Anh cho biết: Trước đây, mọi việc gìn giữ và bảo tồn di sản văn học của Vũ Trọng Phụng đều do người con duy nhất của cố nhà văn đảm đương, bà Vũ Mỵ Hằng. Sau này, bà Hằng khuất núi, công việc được chuyển giao cho chồng là ông Nghiêm Xuân Sơn, con rể của nhà văn. “Khi ông Nghiêm Xuân Sơn mất đi, tôi không còn manh mối nào nữa”, nhà phê bình nói. Ngay khi đọc thông tin của nhà báo Huỳnh Dũng Nhân qua mạng xã hội facebook phản ánh tình trạng nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng, Phạm Xuân Nguyên vừa từ Hà Tĩnh ra đã tức tốc “thị sát tình hình”: “Đến nhà lưu niệm, tôi bấm chuông 30 phút không có ai ra mở cổng, nhòm vào trong tôi vẫn thấy cái nhà lưu niệm nhưng cửa đóng im ỉm”. Nhà phê bình buồn bã ra về. Chúng tôi hỏi Phạm Xuân Nguyên: “Theo anh, những hiện vật quí trong nhà lưu niệm sẽ trôi về đâu?”. Nhà phê bình đáp: “Nếu không vào bảo tàng thì… ra đồng nát. Chứ còn về đâu?”.

Tôi kết nối điện thoại với Phó giám đốc Bảo tàng Văn học Việt Nam, ông Lê Quang Sinh. Ông Quang Sinh cho biết, mấy ngày qua không hề nghe tin tức gì về nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng. Bảo tàng Văn học Việt Nam cũng không liên quan gì tới nhà lưu niệm của tác giả “Số đỏ”, không có chuyện bán mua hay trao tặng hiện vật liên quan đến cuộc đời sáng tạo nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Lẽ nào?

Sang tên, đổi chủ, nhà lưu niệm bị phá, mộ phần buộc phải di dời?

Tôi quyết định lên đường tìm hiểu và mời nhà thơ Lương Ngọc An, đồng hành. Hà Nội đã thay đổi nhiều, đường làng giờ đã thành đường phố, trong làng nhà cửa mọc san sát, khiến thi sĩ đi cùng tôi thở dài: “Nhà Vũ Trọng Phụng rộng thế, thời buổi này muốn giữ cũng khó. 300 m2 có thể xây biệt thự rồi”. Chúng tôi đến rất gần nhà lưu niệm, song Lương Ngọc An không thể xác định chính xác vị trí, dù trước đây anh đã ghé thăm địa chỉ văn chương này. Tôi dừng lại vài lần hỏi người bán hàng ven đường, họ đều nhiệt tình chỉ giúp. Người cuối cùng còn chỉ rõ: “Anh chị đến gần quán bán phở sẽ thấy nhà lưu niệm”.

Một thoáng buồn khi trước cổng hiện lên tấm biển xanh đề tên một công ty nào đó. Nhà lưu niệm đã trở thành trụ sở công ty tư nhân? Thật khó tin. Tôi bấm chuông, không ai ra mở cổng, chỉ có tiếng chó sủa liên hồi. Nhòm qua một ô nhỏ trên cổng tôi  thấy nhà lưu niệm vẫn mở cửa, soi vào trong thấy chiếc tủ kính vẫn trưng bày một vài món đồ vật (chẳng biết có phải hiện vật liên quan sự nghiệp của nhà văn nổi tiếng?).  Tôi gọi Lương Ngọc An cùng nhòm vào trong. Hội viên lâu năm của Hội Nhà văn Việt Nam xác nhận: Vẫn là nhà lưu niệm xưa. Nhưng những ngôi mộ trong vườn nhà đã được di dời.

Chúng tôi tìm đến nghĩa trang Quán Dền - Nhân Chính- Hà Nội và gặp hai người đàn ông, một trong số đó hình như  có nhiệm vụ trông coi nghĩa trang. Người này kể: “Cuối năm vừa rồi, gia đình chuyển về đây 5, 6 cái mộ, nhưng mộ của cụ Vũ Trọng Phụng được đặt ở trung tâm, bởi cụ là danh nhân văn hóa. 4, 5 cái thì ở kia”, ông chỉ tay ra đằng xa. Tôi hỏi: “Người nhà cụ Vũ Trọng Phụng có thường xuyên đến đây hương nhang không?”. Vị này đáp: “Có chứ. Rằm, mồng một nào cũng có cháu ông ấy, nếu không nhầm là cháu ngoại, đến thắp hương”. Tôi hỏi tiếp: “Tại sao những ngôi mộ trước đây nằm trong vườn nhà bây giờ lại ra nghĩa trang, ông có biết không?”. Người đàn ông chép miệng: “Mảnh đất họ bán rồi còn gì. Bán chỗ thì chuyển mộ. Nhà lưu niệm cũng phá hết, xây nhà khác, chủ khác  mua rồi”. Tôi dừng câu chuyện tại đây và quyết định quay trở lại nơi nhà văn Vũ Trọng Phụng từng sống, bởi nhận ra, người đàn ông chăm sóc nghĩa trang, tuy cởi mở song nắm vấn đề không thật chính xác, rõ ràng nhà lưu niệm vẫn còn, tại sao  lại nói đã đập đi, đã xây nhà mới?

Mọi hiện vật trước ra sao, nay vẫn vậy?

Tôi lại đứng trước cổng nhà lưu niệm, lại bấm chuông và chờ đợi trong tiếng chó sủa. Cổng vẫn im lìm. Nhìn lên tấm biển công ty, tôi tìm được một số điện thoại, liền gọi ngay: “Tôi muốn hỏi, trong công ty này có nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng phải không?”. Đầu dây bên kia, giọng một người đàn ông nền nã đáp lại: “Vâng, đúng rồi”. “Anh có thể mở cổng cho tôi thăm nhà lưu niệm được không? Tôi đang đứng trước cổng công ty”, tôi nói. Người đàn ông đáp: “Hiện tại nhà tôi không có ai ở nhà”. Tôi hỏi thẳng: “Tôi nghe dư luận nói, nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng đã thay tên đổi chủ, phải không anh?”. Phản ứng của người đàn ông: “Chẳng biết chị nghe thông tin ở đâu, sang nhượng như nào? Nhà lưu niệm có phá gì đâu? Đây vẫn là nhà tôi”.

10 phút sau, tôi  gọi điện lại cho người khẳng định “nhà lưu niệm là nhà tôi”: “Anh à, vậy anh là người nhà của nhà văn Vũ Trọng Phụng?”. Bỗng nhiên khoảng cách giữa chúng tôi xích lại gần: “Vâng, đúng rồi. Tôi là cháu ngoại”. Anh cho biết, sổ đỏ của khu nhà và đất này đứng tên 3 người, gồm hai người dì của anh có tên Nghiêm Thị Hằng Phương, Nghiêm Thị Hằng Nga và anh, Nguyễn Thanh Tú. Các dì của anh đang ở Sài Gòn, hiện nay khu nhà chỉ có anh và vợ anh sống. Vợ anh đang mang bầu. Anh đang đi làm, ở nhà chỉ có vợ, vợ anh mệt nên không muốn tiếp ai. Có một chút nghi ngờ trong tôi, vì trong trí nhớ của tôi, bà Vũ Mỵ Hằng, con gái của nhà văn Vũ Trọng Phụng, có một người con tên gái thứ tên Ngọc, chính người con gái thứ này được giao trách nhiệm trông nom gia tài của ông ngoại. Chị Ngọc giờ ở đâu? Tôi cũng được biết nhà văn Vũ Trọng Phụng còn có một chắt tên Hiệp, anh là một lái tàu. Anh Hiệp giờ ở đâu? Anh Thanh Tú giúp tôi giải tỏa thắc mắc: Dì tôi, Nghiêm Thị Hằng Nga ở nhà gọi là Ngọc. Còn tôi là anh trai của Hiệp. Trước đây, chị Hằng Nga (tức Ngọc) và “chắt” Hiệp từng ở đây, chăm chút di sản văn học của nhà văn để lại. Còn nay, chỉ có anh Tú và vợ anh ở ngôi nhà này. Phải chăng, vì thế một số người tưởng nhà lưu niệm đã “sang tên đổi chủ”?

“Anh có trăn trở cần làm gì đó để nhà lưu niệm thực sự thành một địa chỉ văn hóa?”. Anh Thanh Tú nói: “Giai đoạn này có mỗi mình ở đây, vợ mình đang bầu bí nên mình chưa nghĩ tới chuyện đó được”. Về hiện vật của nhà lưu niệm anh Tú khẳng định: Mọi hiện vật trước đây thế nào giờ vẫn vậy.  Anh mời chúng tôi tới thăm nhà lưu niệm vào thứ 7, chủ nhật tuần tới, bởi cuối tuần này anh bận đưa vợ đi khám. Chúng tôi sẽ trở lại nhà lưu niệm theo lời mời của anh và sẽ rõ hơn, nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng thực sự hiện hữu hay chỉ còn... xác nhà? Còn câu chuyện di dời các ngôi mộ ra nghĩa trang, theo anh Tú, xuất phát từ ý nguyện của cả gia đình. Theo chúng tôi, di dời mộ của nhà văn Vũ Trọng Phụng ra nghĩa trang là điều nên làm, mộ ngay giữa vườn nhà, khu vườn ấy lại nằm trong quần thể dân cư đông đúc. Tại nghĩa trang, mộ của nhà văn nằm ở vị trí trang trọng nhất.

Khát vọng song cũng đành “bó tay”

Hội Nhà văn Việt Nam có quan tâm đến nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng nói riêng, nhà lưu niệm của các nhà văn nổi tiếng đã khuất nói chung? Hội đã, đang và sẽ làm gì để cùng với gia đình của người đã khuất biến nơi đây thành những địa chỉ văn hóa? Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam chia sẻ: “Hội Nhà văn mong muốn tạo ra một đời sống văn hóa từ tác phẩm và từ tác giả, những người đóng góp xuất sắc cho nền văn học Việt Nam. Không chỉ Vũ Trọng Phụng mà nhiều nhà văn, nhà thơ danh tiếng khác của các thời đại trôi qua. Nhưng cần chiến lược và cần ngân sách cho chiến lược ấy, mới thực hiện được khát vọng này. Những người như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao và nhiều nhà văn khác, đáng lẽ phải tạo ra không gian của họ. Có khi không gian rất đơn giản như một bức tượng trong công viên chẳng hạn. Ở đây, vai trò của Hội Nhà văn chưa đủ, cần chiến lược của Nhà nước”. Ông kể thêm: “Vừa rồi, Bảo tàng Hội Nhà văn làm khu tượng của các nhà văn, nhà thơ tên tuổi của những thời kỳ văn học trước, còn các nhà văn, nhà thơ hiện đại như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng... chưa làm được. Nhiều cái khó, nhất là ngân sách”.

Như vậy, nhà lưu niệm ra đời, tồn tại và phát huy giá trị ra sao, thuộc về gia đình của cố nhà văn. Nhà lưu niệm lớn hay nhỏ không căn cứ vào tên tuổi, tầm vóc trên văn đàn  của người đã khuất, mà phụ thuộc vào tấm lòng cũng như khả năng tài chính của người thân của họ.  Giới văn chương đồn, nhà lưu niệm của nhà thơ Nguyễn Phan Hách mới ra đời, rất đàng hoàng và đầy đủ hiện vật. Nhà phê bình Ngô Thảo cũng đang nỗ lực cùng với người thân của thi sĩ Thu Bồn hoàn thành nhà lưu niệm cho ông. Trăn trở của Ngô Thảo: “Làm không khó... Duy trì, bảo dưỡng và có người xem mới khó. Nhà lưu niệm không phải miếu thờ”. Khi Bảo tàng Hội Nhà văn nói riêng, các bảo tàng khắp nơi nói chung, còn ít người ghé đến thì nhà lưu niệm của một tác giả nổi tiếng, nguy cơ biến thành... miếu thờ không phải không có khả năng xảy ra.

Một góc nhà lưu niệm (ảnh chụp từ ô trống nhỏ trên cổng)

NÔNG HỒNG DIỆU

Nguồn: Tiền phong, ngày 27.10.2019.

Xét trên những thi phẩm viết bằng chữ Hán của Đào Tấn, chúng tôi nhận thấy có đầy đủ biểu hiện của ba kiểu loại ứng xử nhà nho: hành đạo, ẩn dật và tài tử. Tuy nhiên xuyên suốt và đậm nét hơn cả vẫn là loại hình nhà nho hành đạo.

20190721 Dao Tan

Khảo sát cụ thể sáng tác thơ chữ Hán của Đào Tấn, nhiều biểu hiện cho thấy tác giả vẫn sống đúng với phận vị của một bề tôi. Tết đến xuân về, Đào Tấn không quên gửi lời chúc tốt đẹp đến vua: Ngự Bình Nam vọng chiêm hoa đán/ Nguyện hiệu sơn hô đệ kỷ thanh (Ngóng về phương Nam nơi có núi Ngự Bình mà đón tết/ Xin tung hô nhiều lần chúc thọ nhà vua - Nhâm Dần nguyên đán thí bút). Trong mắt cụ Đào, đôi khi ngay cả cỏ hoa cũng mang ơn vua: Kỳ viên hoa thảo thượng quân ân (Hoa cỏ vườn chùa còn thắm đượm ơn vua - Dạ quá Hòa Quang tự ngẫu chiếm). Có lúc, kẻ bề tôi cô đơn lại hổ thẹn vì cảm thấy có lỗi với đấng tiên đế (Tự Đức): Tiên đế ủy vi kim nhật dụng/ Cô thần hoàn tác cố sơn mưu (Đấng tiên đế ủy thác cho ta phải làm công việc ngày hôm nay/ Nhưng kẻ bề tôi cô đơn này lại toan tính việc trở về non cũ - Vô đề), tựa như Nguyễn Khuyến từng trách mình: “Ơn vua chửa chút báo đền/ Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời” (Di chúc văn - Trần Tán Bình dịch). Và trong những lúc buồn rầu, cô đơn ấy, khi nghe tiếng cuốc kêu, Đào Tấn không khỏi bâng khuâng nhớ về vị vua cũ đầy tâm đắc, tri ngộ (Văn đỗ vũ). Xuất phát từ lý tưởng “Quân minh thần lương” nên khi vua quan nhà Nguyễn ngày càng sa sút, từ trong đáy lòng mình, Đào Tấn vẫn mong muốn có một vị vua sáng suốt, biết dựa vào dân như người anh hùng Lê Lợi để phò tá. Điều đó giải thích tại sao hai lần đi thăm di tích Lam Sơn (Thanh Hóa), tác giả đều có thơ ca ngợi Lê Lợi (Du Lam Sơn bái đề Lê Thái Tổ miếu, Trùng du Lam Sơn tuyệt cú). Tuy tư tưởng trung quân ở Đào Tấn không được phát biểu trực tiếp như Nguyễn Đình Chiểu từng nói: Trai thời trung hiếu làm đầu (Truyện Lục Vân Tiên) nhưng tác giả lại gián tiếp mượn hình ảnh bề tôi nổi tiếng trung với vua, sẵn sàng chết vì vua như Nhạc Phi (thời Nam Tống) để ngầm thể hiện điều đó: Đại nghĩa quân thần trọng/ Cô trung thiên địa tri (Nặng lòng vì nghĩa lớn vua tôi/ Ôm nỗi cô trung trời đất biết - Vịnh Nhạc Vũ Mục). Như vậy, nuôi lý tưởng trung quân vẫn là khát vọng mong manh của Đào Tấn trong chốn quan trường. Tuy nhiên, tiếng nói ơn vua, giữ phận làm tôi trong thơ ông không có được sự hùng sảng, khẳng định mạnh mẽ mà chỉ phảng phất, có phần mờ nhạt. Điều đó phù hợp với tâm trạng tác giả, với sự suy tàn của chế độ phong kiến nước ta cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

Bên cạnh đạo vua tôi, Đào Tấn nổi bật hơn là một nhà nho luôn giữ lối sống phải đạo đối với những người thân. Người học trò họ Đào ấy dù đi đâu cũng không quên ân nghĩa của thầy (Sơ thu vãng yết nghiệp sư Nhơn Ân Nguyễn tiên sinh sơn phần cảm thuật). Khi làm quan nơi đất khách quê người, trong nỗi nhớ quê thường trực, Đào Tấn luôn thể hiện ước nguyện báo hiếu và nỗi nhớ mẹ già day dứt khôn nguôi. Đó còn là tình cảm anh em sâu nặng chỉ biết lấy rượu mà giải bày: Chước bãi hân nhiên hướng quân đạo (Rượu rót rồi khuây khỏa nói cùng em - Hoan thành dữ gia cửu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựu). Bao nhiêu thành đạt trên bước đường hoạn lộ, chẳng lúc nào ông không nghĩ tới công ơn của người vợ từ thuở hàn vi ở quê nhà Bình Định (Đợ áo cho ta rượu, lúc nghèo/ Bỏ nhà khi loạn, bế con theo/ không màng cảnh sống ngày vinh lạc/ So với nàng, ta thẹn xiết bao - Mai tăng đề ư An Tịnh tổng chế đường chi khiếu ngạo đông hiên, đương Thành Thái Quý Tỵ, hòa tiết, Vũ Ngọc Liễn dịch). Tình cảm phu thê thắm thiết, thủy chung được Đào Tấn bộc lộ trong nhiều thi phẩm của mình (Bệnh tích Diêu Tiên ái khanh thi dược hữu hiệu hí thư thị chi, Thọ Diêu Tiên phu nhân ngũ thập sơ độ, Thính Diêu Tiên khanh độc tao…). Đặc biệt, tác giả còn có cả một bài thơ khóc vợ: Tự cổ sinh ly túc cảm thương/ Tranh giao tử biệt tiện tương vương (vong)/ Hoang pha hà xứ phần tam xích/ Lão nhãn tha hương lệ sổ hàng… (Từ xưa đến nay, sống mà chia lìa đã là chuyện đau thương/ Huống chi sự chia lìa bằng cái chết, thế là mất nhau rồi/ Ngôi mộ ba thước đặt nơi gò hoang nào/ Ở đất khách, đôi mắt già rơi bao hàng lệ… - Điệu vong). Bài thơ vừa nói lên được cái triết lí tình cảm sâu sắc của con người, vừa là bài khóc vợ thống thiết thương đau. Bài thơ xứng đáng là một trong những tác phẩm ai điếu hay nhất trong văn học trung đại Việt Nam, bên cạnh Nguyễn Kiều (1694-1771) khóc thương Đoàn Thị Điểm, Ngô Thì Sĩ (1726-1780) với Khuê ai lục, Ngô Thì Nhậm (1746-1803) với Hoài nội, Phạm Thái (1777- 1813) với Văn tế Trương Quỳnh Như, Nguyễn Khuyến (1835-1909) với Điếu nội, v.v... Trong quan hệ với con, Đào Tấn là người cha mẫu mực, luôn quan tâm, lo lắng, khuyên bảo con những điều hay lẽ phải. Từ việc con đi lấy chồng, con đi học, đi ứng thí, hay đặt tên cho cháu, ông đều trăn trở và ký thác vào thơ (Giá nữ tiểu khúc, Ký nhi, Sinh tôn chu nguyệt mệnh danh Sư Kiệm thị nhi Thạch…). Qua đây, chúng ta thấy, Đào Tấn luôn quan tâm đến mọi sắc thái của tình cảm gia đình. Đó là biểu hiện của một tâm hồn nhà nho giàu tình cảm và phần nào mang cảm quan hiện thực. Bên cạnh đó, trong 141 bài thơ chữ Hán, thơ viết về bạn, viết cho bạn của cụ Đào cũng chiếm một số lượng khá lớn. Một lần tiễn bạn, bạn nhậm chức mới, bạn mất, hay những lúc ngồi một mình nhớ bạn,… tất cả đều có thể tạo thành nguồn cảm xúc vô tận để tác giả chấp bút thành thơ (Khấp Lan Nông Phan thượng thư cố hữu, Ký hoài Hà Đình công, Tống Hồ An Tăng cải phiên Phú Yên...).

Nói đến khí tiết trong sạch của cụ Đào, giới nghiên cứu thường lấy thi phẩm Đề mai sơn thọ viên của ông để minh họa:

Nhàn hướng Mai sơn bốc thọ viên,

Thạch đầu cao cứ tiếu vô ngôn.

Mai sơn tha nhật tàng mai cốt,

Ưng hữu mai hoa tác mộng hồn.

(Lên đỉnh núi Mai tìm đất thọ,

Mỉm cười lặng ngắm đá chon von.

Núi Mai rồi gửi xương mai nhé,

Ước được hoa mai hóa mộng hồn)

(Xuân Diệu dịch)

Bài thơ chuyển tải được vẻ thanh thản, ung dung, tự tại của một con người đã “tri thiên mệnh”, xem thường danh lợi, không còn quá lo lắng trước sóng gió cuộc đời. Cái “tiếu vô ngôn” ấy mang tinh thần “vô úy”, chứa chất nội lực đến mức “vô ngã” mà hòa nhập đến tận cùng vào trời mây cây cỏ. Khi rảnh rỗi tìm đất thọ, thản nhiên với một ngày mình sẽ nằm lại nơi này, ước tâm hồn biến thành hoa mai, chỉ bấy nhiêu thôi đã đủ nói lên nhân cách lớn của một bậc đại nhân. Mười năm làm quan gắn bó sâu nặng trên đất Lam Hồng, có lúc nhà thơ còn hóm hỉnh hỏi sông Lam núi Hồng để gián tiếp thể hiện khí tiết như tác giả cũng đã từng trực tiếp khẳng định tâm hồn trong sạch của mình qua thơ: Thập niên lai vãng Hồng Lam lộ/ Thanh khoáng ngâm hoài tự thử trung (Mười năm qua lại con đường núi Hồng sông Lam/ Thơ văn ta cũng trong sạch như cảnh nước non nơi đây - Hành bộ ngẫu đắc)...

Không chỉ “thanh, thận, cần”, Đào Tấn còn mang phẩm chất cương trực, cứng cỏi của một nhà nho “tiết tháo”: An đắc Linh Phong phong hạ kiến tiết lâu (Dễ đặng một ngôi nhà dành cho người tiết tháo dựng dưới chân núi Linh Phong - Hoan thành dữ gia cửu đệ Khiêm Khiêm tử thoại cựu). Ông tồn tại như một cây tùng, cây bách giữa trời, dày dạn nắng mưa (Vãng đăng Hồng Sơn phỏng Thiên Tượng phế tự xuất sơn hữu tác) như Nguyễn Trãi, hay Nguyễn Công Trứ cũng đã từng khẳng định. Đào Tấn đã hết lời ca ngợi những người bạn như thế: Bắc Hải hào tình dư khẳng khái (Khấp Lan Nông Phan thượng thư cố hữu), Hà xứ giai nhân không cốc trung (Tịnh am tôn thất tặng lan thư thử báo chi), Khởi thị tầm thường nhất hác mưu/ Thung dung tiến thoái thị hà vưu (Tống Hoàng Miễn Trai hiệp quỹ công trí sự).

Theo đạo đức Nho giáo, người quân tử sau khi đã tu thân, có được đạo đức; biết thi, thư, lễ, nhạc thì phải có bổn phận hành động nhập thế bằng con đường công danh. Con người nhà nho hành đạo trong thơ Đào Tấn cũng tỏ chí, cũng nói lên khát vọng của mình nhưng hẳn không phải là khát vọng công danh kiểu như Đặng Trần Côn từng tỏ bày: “Chí làm trai dặm nghìn da ngựa/ Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao” (Chinh phụ ngâm) mà là khát vọng giúp dân, cứu nước. Nền văn hóa nông nghiệp lúa nước chúng ta vốn trọng tình và coi trọng khái niệm quốc gia nên đã biến khái niệm trung quân phải đi liền với ái quốc; pháp trị phải đi liền với nhân trị. Điều đó phù hợp với cách ứng xử của đại đa số nhà nho Việt Nam và cũng đúng với Đào Tấn. Khi vua với đất nước không còn là một thì trách nhiệm của nhà nho là trách nhiệm đối với đất nước, với nhân dân chứ không chỉ còn dừng lại ở trách nhiệm của một bề tôi đối với vua chúa.

Đứng về phía đất nước, nhân dân nhưng lại làm quan cho một triều đình bị phụ thuộc nên chí trai của Đào Tấn không có cơ hội để khẳng định mạnh mẽ, quyết liệt như Nguyễn Công Trứ: “Chí những toan xẻ núi lấp sông/ Làm nên đấng anh hùng đâu đấy tỏ” (Chí anh hùng); hay mang phong vị hào hùng của một tráng sĩ như Đặng Dung: “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch/ Kỷ độ long tuyền đới nguyệt ma” (Cảm hoài). Cái ngục văn tự treo trên đầu những nhà nho có cái tôi công dân như Đào Tấn, buộc họ phải tỏ chí theo kiểu truyền thống - thể hiện gián tiếp qua thiên nhiên, con người. Mượn nhân vật lịch sử là Trịnh Ninh, tác giả đã bày tỏ được khát vọng trừ gian diệt tà, mang lại thái bình cho đất nước: Nghịch tử cường thần đương nhật bối/ Khả tằng trảm đắc kỷ đầu lai (Đề Trịnh thị Ninh Quận Công thí kiếm thạch). Hỏi Trịnh Ninh đã chém được bao nhiêu cường thần nghịch tử, Đào Tấn cũng như hỏi chính bản thân mình. Câu hỏi tu từ không nhằm để biết mà để khẳng định lại dũng khí của một nhà nho đầy trách nhiệm đối với đất nước. Trước cảnh nước mất nhà tan, triều đình nhu nhược, nhà thơ canh cánh nung nấu khát vọng cứu dân giúp nước. Tiếng vọng của non sông đất nước, của phong trào Cần Vương Phan Đình Phùng nơi núi cao cứ ngân mãi trong lòng nhà thơ, khiến tác giả trăn trở nhiều đêm không ngủ được: Dạ trường bất đắc miên/ Minh nguyệt hà chước chước/ Tưởng văn tán hoán thanh/ Hư ứng không sơn nặc (Đêm dài không ngủ được/ Ánh trăng sao cứ lấp lánh?/ Đâu đây như có tiếng vang gọi/ Dội lại từ núi xa - Tý dạ ca nhị thủ). Và có những thi phẩm, Đào Tấn lại như nhắn nhủ, gửi gắm khát vọng đó ở những người bạn của mình: Thạch Thành sơn thủy hảo/ Tịnh nhập họa đồ trung (Tống Hồ An Tăng cải phiên Phú Yên). Câu thơ ngũ ngôn tự nhiên mà rất hàm súc, đầy ẩn ý. Nói đến cảnh đẹp non nước phải chăng là tác giả đang ca ngợi phong trào cách mạng chống Pháp nơi đây, và khuyên bạn nên hòa mình vào giúp đỡ mọi người. Trong thơ chữ Hán Đào Tấn, tinh thần yêu nước còn được bộc lộ khá rõ, ở việc tác giả có hàng loạt những bài thơ khóc thương, ca ngợi những người anh hùng xả thân vì nước như: Hoàng Kế Viêm, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Quang Viễn...

Có thể nói, trong thời buổi đen tối nhất của lịch sử, Đào Tấn đã chọn cách ứng xử linh hoạt, vì chẳng bao lâu sau, phong trào Cần Vương của Đào Doãn Địch - Mai Xuân Thưởng ở Bình Định, của Phan Đình Phùng ở Nghệ Tĩnh bị dập tắt, sự nghiệp cứu nước của Phan Bội Châu cũng không thành. Ông đã tìm con đường đi phù hợp theo quan điểm nhận thức lịch sử của bản thân, chọn “lối đi bình dị” mà lên đến đỉnh non (Chỉ tùng bình dị quá sơn điên - Sơn hành ngẫu đắc). Phải chăng, đối với Đào Tấn, làm quan là kiểu “đại ẩn” tốt nhất để vừa mưu sinh, có thời gian chăm lo sự nghiệp soạn tuồng, vừa có điều kiện giúp đỡ các phong trào cách mạng, tìm ra đường lối cứu nước. Trên cơ sở những tư liệu lịch sử cũng như qua sáng tác thơ văn, chúng ta có thể khẳng định, mặc dù không có những hành động dứt khoát, mạnh mẽ trong việc chống lại triều đình phong kiến tay sai và thực dân pháp, không trực tiếp tham gia các phong trào cách mạng nhưng tâm thế của ông vẫn luôn hướng về cách mạng, về vận mệnh của đất nước.

Khác với tấm lòng yêu nước phải thổ lộ một cách kín đáo, tình cảm thương dân của Đào Tấn phần nào được bộc bạch trực tiếp hơn. Ở Đào công, tình cảm thương dân vừa xuất phát từ tinh thần của một nhà nho “dĩ dân vi bản”, vừa xuất phát từ truyền thống của một dân tộc giàu lòng nhân đạo và đoàn kết. Hơn nữa, chính ông cũng xuất thân từ một vùng quê nghèo Tuy Phước - Bình Định. Do đó, trong thơ, tâm hồn ông đã thực sự hòa nhập vào đời sống của nhân dân, vui buồn cùng người dân, chứ không còn khoảng cách xa lạ, tự đặt mình cao hơn những người lao động, lấy người dân để khẳng định vai trò của mình như một số sáng tác của vua quan, nho sĩ thế kỷ XV. Đi ngang qua những cánh đồng, nhà thơ không khỏi lo lắng, xót thương cho người dân vì nắng hạn: Xuân, hạ tồ thu thốn trạch vô/ Cao đê, điền mẫu thái tiêu khô (Từ xuân, hạ đến thu vẫn chưa có giọt mưa nào/ Đồng thấp, đồng cao đều khô cháy cả - Thương hạn). Rồi một ngày mưa xuống, ông lại tràn ngập niềm vui: Vạn kim hảo vũ tán nguyên điền/ Tẩy tịnh viêm trần lục nguyệt thiên (Cơn mưa lành như muôn vàng rải xuống ruộng đồng/ Rửa sạch lớp bụi nóng của tiết trời tháng sáu - Hỷ Vũ). Không dừng lại ở đó, Đào Tấn còn có sự hiểu biết sâu sắc và đồng cảm thực sự với nỗi khổ của người nông dân. Thi nhân ai cũng bảo nhà nông sướng, Đào Tấn lại thấy nhà nông rất đáng thương: Ngũ nguyệt, lục nguyệt bất vũ thiên/ Đạp xa nhi nữ ca thả miên/ Thi nhân mỗi đạo điền gia lạc/ Như thử điền gia tối khả liên (Thủy xa), rồi hiểu được ngàn nỗi lo của người dân sau ba ngày tết: Đồng du tam nhật xuân/ Trúc phù khan phóng hạ/ Thiên lự hựu thùy nhân (Tân sửu trừ tịch). Đặc biệt, trong thời buổi “súng giặc đất rền”, ông rất buồn cho những cảnh tan tác, chia ly: Thùy gia trú trạch Bắc sơn ôi/ Loạn hậu bô nhân thượng vị hồi (Nhà ai dựng ở hẻm núi phía Bắc/ Sau khi loạn, người đi trốn vẫn chưa về - Kinh phế trạch). Và có lúc không kìm nén được lòng mình, tác giả đã thốt lên lời ai oán, xót thương cho những người dân vô tội trong cơn loạn lạc: Thử địa tùng tiền diệc phú nhiêu/ Khả liên loạn hậu bán tiêu điều (Chốn này trước kia là nơi trù phú/ Thương thay sau cơn loạn lạc bị xơ xác đến một nửa - Vô đề). Tấm lòng xót xa của Đào Tấn trước cảnh bể dâu ấy đã bắt gặp được sự đồng điệu ở Nguyễn Du (Trải qua một cuộc bể dâu/ Những điều trông thấy mà đau đớn lòng - Truyện Kiều), hay ở Nguyễn Đình Chiểu (Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây - Chạy giặc).

Một biểu hiện khác trong con người nhà nho hành đạo còn giữ được lương tâm trong cảnh “trời đất nổi cơn gió bụi” ; trong nhiều bài thơ của mình, Đào Tấn đã vẽ nên bức tranh biếm họa về sự thối nát không thể cứu vãn của một bộ máy chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Giang Nam xứ xứ phong yên khỉ/ Hải thượng niên niên ngự tửu lai (Phương Nam chốn chốn khói lửa dậy/ Mặt biển năm năm rượu ngự về - Tịch thượng tác - Xuân Diệu dịch). Đối lập giữa cảnh binh đao, khói lửa của nhân dân lục tỉnh Nam kỳ với cảnh tiệc tùng của triều đình cùng bọn phương Tây, bản thân nó đã cất lên tiếng nói phê phán, tố cáo đối với thói ích kỷ, chỉ biết hưởng thụ cá nhân mà phớt lờ đi nỗi nhục mất nước.

Nhìn lại con người Đào Tấn trong thơ, ta thấy toát lên hình ảnh một nhà nho hành đạo nhưng có phần ly tâm, xa chính thống. Về hình thức, ông vẫn làm quan nhưng tâm hồn thì đã hướng hẳn về phía nhân dân, cách mạng; hướng vào quan hệ gia đình, bạn bè, thiên nhiên hơn là nói chí trung quân, tỏ lòng khát vọng công danh. Ông là một nhà nho thức thời, linh hoạt xuất xử trong tình cảnh mất nước, nặng lòng với nước, với dân. Trên lĩnh vực văn chương, tác giả đã có những thi phẩm thực sự có giá trị đóng góp vào sự phát triển của dòng thơ văn yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Qua đó, chúng ta có thể khẳng định, bản thân con người Đào Tấn là hiện thân cho sự chuyển hóa của tầng lớp nho sĩ cuối mùa.

Nguyễn Đình Thu

Nguồn: Tạp chí Sông Hương số 363/05-2019, phiên bản trực tuyến ngày 05.7.2019.

NDĐT- Sáng 20-10, tại Đường sách TP Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa-Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh tổ chức lễ tổng kết và trao giải Cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ với chủ đề “Một nửa làm đầy thế giới”.

“Tràng phan” đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn “Một nửa làm đầy thế giới”

Ban giám khảo trao giải nhất cho tác giả Tống Phước Bảo với truyện ngắn “Tràng phan”.

Sau tám tháng diễn ra (từ ngày 22-12-2018 đến 22-8-2019), cuộc thi đã nhận được 1.419 tác phẩm gửi đến tham gia. Các giám khảo, biên tập viên của NXB đã chọn lọc 452 truyện ngắn qua vòng sơ khảo. Sau đó, ban chung khảo gồm GS,TS Huỳnh Như Phương; nhà văn Nguyễn Ngọc Tư; Giám đốc, TBT NXB Văn hóa-Văn nghệ Đinh Thị Phương Thảo đã chọn ra 19 tác phẩm của 19 tác giả vào chung kết.

Kết quả, truyện ngắn “Tràng phan” của tác giả Tống Phước Bảo đã được trao giải Nhất. Giải Nhì thuộc về tác giả Võ Đăng Khoa với truyện ngắn “Con Bén”. Ban tổ chức còn trao hai giải Ba, năm giải Tư. Tác giả Bùi Mai Linh, với tác phẩm “Một đời” được trao giải bạn đọc yêu thích nhất với 1.472 lượt like bình chọn.

20191022 Trang phan

Các tác giả đoạt giải cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ do NXB Văn hóa-Văn nghệ tổ chức.

Phát biểu trong buổi lễ trao giải, GS,TS Huỳnh Như Phương cho biết, cuộc thi là một bức tranh phong phú và đa dạng về chân dung, tính cách, tâm lý và sinh hoạt của giới nữ Việt Nam hôm nay. Qua đó, độc giả hiểu được đời sống, con người trên đất nước mình từ nông thôn đến thành thị, từ Hà Nội đến TP Hồ Chí Minh, từ miền xuôi đến miền ngược, từ Tây Bắc đến Tây Nguyên và Tây Nam Bộ. “Những truyện ngắn trong tập này toát lên lời cảnh báo về hiện trạng gia đình và xã hội Việt Nam. Sau chiến tranh và nghèo đói là nạn bạo hành, cạm bẫy, lường gạt, phụ rẫy, phản bội và nguy cơ tan vỡ. Những người phụ nữ bé mọn chịu đựng và nhạy cảm trước những biến động đó ngay khi họ một mình một bóng. Nhờ sự nhạy cảm và thiên tính nữ giới, họ tìm cách chữa trị những vết thương, bổ sức cho chính mình và cho cả cuộc đời khốn khó này”, GS Huỳnh Như Phương nhận xét.

Về tác phẩm đoạt giải nhất, GS,TS Huỳnh Như Phương cho rằng “Tràng phan” là một tác phẩm có cốt truyện lạ, viết về một nghề lạ ngày càng mai một ở một góc nhỏ ít người biết của thành phố chúng ta: nghề may cờ phướn. Qua câu chuyện làm nghề truyền thống, tác giả thể hiện tự nhiên, chân thực và cảm động về tình cảm gia đình, nỗi nhớ thương lưu luyến trong xa cách của những người phụ nữ đã bền bỉ gìn giữ nếp nhà thời mở cửa.

Cuộc thi truyện ngắn viết về phụ nữ “Một nửa làm đầy thế giới” do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP Hồ Chí Minh tổ chức với sự tài trợ giải thưởng của một dự án thuộc Giải LiBeratupreis-Frankfurt 2018. Giải thưởng Liberaturpreis là Giải thưởng do Litprom - Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi và Mỹ Latinh ở Frankfurt (Đức) - thực hiện hằng năm nhằm vinh danh tác giả nổi tiếng đến từ các nước châu Phi, châu Á, châu Mỹ Latinh và các nước Ả Rập. Đây là giải thưởng văn học Đức duy nhất được trao tặng độc quyền cho các nhà văn nữ đến từ miền Nam toàn cầu. Và năm 2018, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư- đại diện cho Việt Nam là người được vinh dự nhận giải thưởng văn học danh giá này.

Ngoài tiền thưởng cá nhân, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư còn được nhận thêm một khoản kinh phí để thực hiện dự án viết dành cho nữ giới tại Việt Nam. Ý tưởng của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cùng với quyết tâm của Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ đã cho ra đời cuộc thi truyện ngắn “Một nửa làm đầy thế giới” và nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã dành nguồn kinh phí được tài trợ cho toàn bộ giải thưởng của cuộc thi.

MẠNH HẢO

Nguồn: Nhân dân, ngày 20.10.2019.

20190621 cau chu Y

Đọc tập truyện &Tùy bút:  Bên Kia Cầu Chữ Y

(Tác giả Huỳnh Ngọc Nga, nxb Tổng Hợp tp HCM, 4-2018)

Khi người ta nói bên này bên kia thì này chỉ nơi gần, kia chỉ nơi xa.  Xa có thể là cách một dòng kênh, nhưng cũng có thể là cách một đại dương. Và tập truyện bên kia cầu cữ Y của Huỳnh Ngọc Nga xuất hiện  giữa mùa nóng tháng 4/2018 giữa Sài Gòn như  bao gồm cả hai ý ấy, vì trang văn của chị đậm đặc chất hoài niệm về những điều mà với chị nay đã xa xôi, đã không còn nữa.

Tôi biết chị Nga từ nhiều năm trước. Và có lẽ chị là người bạn văn duy nhất của tôi ở Ý. Phần đông những bạn bè đi du học cùng thời chỉ theo học những môn kỹ thuật, tuy cũng có người thích đọc nhưng phần lớn xem văn chương là một điều vô bổ.

Tôi làm việc và sinh sống ở Milano, còn chị Nga và gia đình sống ở Torino, hai thành phố cách nhau chừng 150km, chỉ 2 tiếng đi xe lưả nhưng chị em ít gặp nhau, ai cũng bận rộn và chỉ gặp nhau qua điện thoại, hay sau này, qua những bài viết, chuyển qua email.

Là người đảm đang, chị như  một cầu thủ bao sân, hết chăm sóc ba mẹ, các em, con cháu rồi còn lo việc quán xuyến gia đình. Đời sống của chị vì thế nên khá bận rộn, thời gian không có nhiều mà vẫn thích “cày” trên cánh đồng chữ. Để viết, tôi biết chị phải cố gắng chu toàn mọi việc xong xuôi mới có thể yên tâm ngồi vào bàn viết. Lúc đó, sớm nhất cũng là 23h, thường thì quá nửa đêm, có khi đến 2h sáng chị vẫn còn ngồi cóc cóc trên bàn phiếm. Nhiều lần đau lưng, hoa mắt mà vẫn không… chừa, cái tật mê văn: "Là một người nội trợ chỉ biết lo việc gia đình, tôi viết, trước hết là để đừng quên tiếng Việt, sau để mượn những trang chữ kể chuyện đời người, đời ta. Viết khi chờ cơm sôi, canh chín; viết lúc chiều đèn lên, bóng phủ".

Sức khỏe sau này suy giảm, đã từng có đôi lúc làm chị cũng nản lòng. Muốn buông bút. Nhưng  đã “ từng là học trò cưng của cô giáo dạy văn, đứng nhất trong các kỳ thi lục cá nguyệt” và từ năm đệ ngũ và đệ tam được trường Gia Long đề cử dự thi văn chương phụ nữ toàn quốc”… sau này xa quê còn “táy máy” cầm lấy bút thì đã là cái nghiệp, dễ gì buông. Những lúc nản lòng chị gọi điện và tôi thường an ủi, khích lệ để chị  tiếp tục viết, nhưng tránh thức (quá) khuya có hại cho sức khỏe.

Từ đó chúng tôi thường trao đổi các truyện ngắn để nhận xét hay góp ý. Và bây giờ những truyện ngắn rời rạc của chị vừa được tập hợp lại thành một tập truyện BKCCY…  nhìn qua tổng thể tôi hiểu ngay đó là  những trang viết về những điều đã xa và đã mất. 

Như bao khách tha hương “tôi ra đi với trái tim còn ở lại”nỗi nhớ theo năm tháng đong đầy để tôi biến thành con chim Việt nhớ trời Nam”. Và nỗi nhớ nào hơn là về nơi mình đã sinh ra và lớn lên, nên bối cảnh xung quanh cây cầu chữ Y là không gian mà chị quay về để  “kể lại cho các bạn nghe những địa điểm đơn sơ nhưng đầy tình người với những tập tục ăn sâu vào đời sống người dân địa phương. Đây đình miếu, đó chùa chiền bến đò giữa hai con kênh nối liền cùng Sài Gòn - Chợ Lớn, nhà máy gạo, xưởng cây, lò than, lò heo, chợ Ba Đình, chợ Xóm Củi, chợ Phạm Thế Hiển… tạo nên những nghĩa tình bình thường mà sâu đậm khó quên".

Những địa danh mà chị nhắc đến có thể ngày nay chỉ quen thuộc với người Sài Gòn lớn tuổi, vì theo tháng năm vật đổi sao dời.

Tất cả những nơi chốn ấy lúc này đã quá xa tầm tay chị, ra đi là bỏ lại, nhưng qua những trang viết, người đọc có thể nhận ra  hành trang mà chị mang theo là tình yêu “tiếng nước tôi” luôn cháy bỏng trong lòng mình. Tình yêu đó đã bật ra khi nghe đưá con gái của mình tập nói: "Tôi rạng rỡ uống từng câu, từng lời Việt con tôi đang tự nhiên ríu rít với tôi. Con tôi đó, thiên thần của vợ chồng tôi đó, nó đang dang đôi tay nối hai bờ đại lục bằng cả hai ngôn ngữ của mẹ và cha. Thanh bằng, thanh trắc của các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng thoát trên môi cô gái như các cung nhạc của một bản giao hưởng êm đềm đang vang nhẹ bên tai tôi" (Quê hương của mẹ).

Trong cái bối cảnh nhỏ bé mà mênh mông trong lòng chị, đã xảy ra bao nhiêu sự việc, bao nhiêu cảnh đời mà chị đã chứng kiến hay nghe kể lại, giờ đây, với thời gian biến thành những dòng cảm xúc hiện ra trên giấy: “Bên kia cầu Chữ Y là thế,  một ốc đảo xanh màu xanh của nước những dòng kênh, màu xanh của cỏ cây trên mặt đất và màu xanh của lòng người hướng vọng tương lai. Vậy mà tôi đã bỏ đó mà đi, đi khi chưa làm được một điều gì ích lợi cho nơi đã nuôi nấng tôi thành người, đi khi nước kinh Đôi chưa cạn và những con đò vẫn tiếp tục ngày hai buổi nối Chánh Hưng với Chợ Lớn – Sài Gòn. Hai mươi mốt năm dài sống đời viễn xứ, đã bao lần tôi thở dài:

“Chiều chiều ra đứng ngõ sau

Trông về xóm cũ ruột đau chín chiều”.

Ruột đau khi nhớ về bóng dáng mẹ cha, bạn bè, những con người sinh ra và và sống bên chiếc cầu đặc biệt này của thành phố Sài Gòn:  "Người Chánh Hương hiền hòa, cục mịch, giận hờn không giấu giếm, thương ghét chẳng đậy che. Mắng chửi nhau hôm trước, hôm sau cúng giỗ đã thấy bánh rượu, trà mời. Cửa không khóa, sân không đóng, tin nhau như tin người thân ruột thịt, tiền của không nhiều nhưng tình nghĩa mênh mông" (Bên kia cầu chữ Y).

Những câu chuyện chị kể vì thế  là những hoài niệm xoay quanh một ốc đảo, về quãng thời gian mà chị đã sống và trưởng thành.

Hoài niệm (Nostalgia) là nhớ về những gì đã xa, đã không còn trong tầm tay nữa hay đã mất đi. Nhưng mất ở đây là qua thị giác, chứ trí nhớ và cảm xúc vẫn còn, như chưa từng thay đổi. Nên mỗi lần nhìn lại, hồi ức làm sự vật sống dậy như một sự tái sinh và chuỗi cảm xúc ấy làm lòng ta bồi hồi. Nhiều người cho rằng hoài niệm là nhớ về một nơi chốn, còn tôi thì nghĩ rằng cảnh vật nào cũng chỉ là một cảnh sắc vô hồn. Buồn vui trong lòng người thì cảnh vật sẽ buồn vui theo chứ không thể nào ngược lại. Con đường dẫn đến nhà người yêu, mái trường thời đi học, dòng sông tuổi thơ… thật ra đó chỉ là một con đường đất, một mái ngói, một dòng nước… và nó chẳng lưu giữ trong tim  ta lâu dài nếu không có những cảm xúc, những rung động bồi hồi khi ta nhớ về những kỷ niệm, về cái thời mà chúng ta lớn lên, nhưng thời gian đã đánh lừa và phủ lên nó một khuôn mặt của không gian.

Vì chỉ những rung động riêng ta mới có đã thổi hồn vào cảnh vật, và nỗi nhớ luôn làm ta cảm thấy êm đềm, đáng yêu, đáng quý. Có khi nỗi nhớ ấy còn mang 1 chút nuối tiếc “giá như” “nếu” “phải chi”… để những chuyện “hồi đó” sống cho trọn vẹn, nên cũng mang theo một chút ngậm ngùi. Và cái hồn mà ta đã gửi gắm vào những dòng chữ trải lên trang viết đã hóa thành sợi dây kết nối, đi vào tâm hồn bạn đọc.

Trong truyện ngắn sách lược Tào Tháo chị Nga kể lại một thời thơ ngây, e ấp của tuổi học trò, “suốt thời gian ba năm đeo đuổi nhau, cả hắn và tôi chưa ai mở lời yêu đương” “không ai vướng mắc lời thề” và chàng đã đi du học, nhưng giận hờn vu vơ vẫn có, tuy không còn gặp gỡ hay nhìn thấy nhau nên cũng “mau quên trong sự vô tư trẻ dại” có lẽ có một chút hối tiếc nhưng chỉ có thế thôi vì chị đã chấp nhận hệ quả đó vì chuyện đời “như kim đồng hồ không quay ngược lại phía sau bao giờ”. Viết thế nhưng người đọc tinh ý sẽ thoáng thấy đâu đó còn vương một chút ngậm ngùi, nhưng chỉ thoáng thôi, vì chị không đến nỗi ra ngẩn vào ngơ, nuối tiếc mơ hồ để mạnh mẽ và toàn tâm toàn ý sống với thực tại của mình. Chị hiểu rõ lẽ vô thường, yêu chồng, yêu con và thương quý gia đình.

“Hẻm nhỏ” là câu chuyện tình 2 trong 1, một truyện ngắn cảm động kể về hai thế hệ tình yêu và có một cái kết thật đẹp. Tâm trạng của Duy khi xa nhà có lẽ cũng chính là tâm hồn tác giả “Sống bên đây chàng nhớ bên kia, về bên kia chàng hoài vọng bên này”; sau cơn sinh nở, mất cả vợ lẫn con và chàng vì công việc nên phải ở lại Pháp chứ chưa thể về VN sinh sống cùng ba mẹ: nhưng sau đó chàng cũng trở về nước và từ 1 đứa con rơi vì mẹ bị một nhóm thanh niên cưỡng hiếp nên chưa từng biết cha mình là ai, bỗng “chàng kêu người đàn ông gần như xa lạ bằng một tiếng “ba” bằng cả một sự dửng dưng, cha người ta không sinh cũng dưỡng, cha của mình không dưỡng chẳng cố tình sanh, chàng ra đời chỉ với một cơn vui tàn bạo trên thân xác của mẹ chàng…” . Sau vui buồn lẫn lộn, về Pháp chàng còn  nghe tin ba mẹ chính thức “làm đám cưới, tuy muộn màng nhưng vẫn đầy yêu thương và hạnh phúc” .

Là người chân thật, chị Nga viết ra cảm xúc thật của mình mà không che đậy, không núp sau câu chữ, với những câu văn hiền lành, chân chất. Trong truyện ngắn “Bài luận tuyệt vời” chị kể là khi gặp mặt một chàng trai qua mục “tìm bạn bốn phương”, tưởng sẽ gặp “chàng hoàng tử mắt xanh” nhưng thực tế phũ phàng vì đó là một thương phế binh nạng gỗ. Chị ngỡ ngàng, thất vọng… “và bối rối, thoái thác gặp lại lần nữa mà như đuổi xua”  để rồi “Hơn 40 năm nhưng tôi không quên được đôi mắt của Hưng giây phút đó. Đôi mắt của Từ Hải khi chết đứng, như bàng hoàng, có nét buồn vương ẩn, có nét giận thoáng cau, hòa trộn lại để thấy đó là một nỗi đau sỉ nhục. Không hiểu sao toi bỗng đâm sợ, không phải sợ cái chân thương binh của chàng mà sợ tia nhìn trong đôi mắt đó. Hưng không nói gì, đứng lặng, sững người như tôi đã sững sờ khi vừa gặp chàng. Không chờ đợi lâu, tôi cúi đầu chào chàng rồi quay lưng đi như trốn chạy…” “Đó là lần duy nhất tôi gặp Hưng vì tôi không đủ dũng cảm của một con người có trái tim nhân hậu”. Tôi hiểu là chị đã suy nghĩ nhiều khi viết ra tự truyện này, như 1 ăn năn, để sám hối cho lòng mình nhẹ bớt: “Tôi đã ứa nước mắt… không biết khóc thương người bạc hạnh hay khóc xấu hổ cho sự bạc lòng của tôi. Ngày đó tôi mới 19 tuổi, tôi còn quá trẻ để biết cách cư xử ra sao cho phải đạo làm người. Tôi không biết màu mè  giả dối để nở nụ cười tươi, đưa đôi tay nhỏ nắm lấy bàn tay Hưng, chứng tỏ sự cảm thông, ra điều niềm chia sẻ những bất hạnh hiển hiện trên đôi nạng gỗ của chàng”. “Tết năm đó tôi không dám đi chùa lễ Phật, tôi sợ cái tâm xấu xa của tôi làm héo hoa lá nhà Chùa, sợ khói hương ngày Tết không phủ hết tội dối người của tôi với câu viết “em chọn viết cho anh vì muốn xóa lấp những không may anh gặp phải trên đường đời.” vì 40 năm sau trong đầu mình có lúc còn vang lên nhịp gõ của chiếc nạng gỗ lúc anh lặng lẽ bước đi. Tôi đọc những dòng này của chị mà lòng xúc động, bồi hôi pha lẫn thương cảm.

Trong câu chuyện về “Ngải mặn Cà Chum” chị kể về một câu chuyện tình tay ba vừa ly kỳ vừa tha thiết, kẻ nhiều tiền thất thế, vì lụy tình nên phải viện dẫn bùa ngải để chiếm đoạt người yêu... Truyện đan xen ảo và thực nên gây tò mò, làm hấp dẫn và lôi cuốn người đọc. Còn câu chuyện “Chuông đêm giáng sinh” nói lên tính nhân hậu và thành công của chị trong việc  giáo huấn cái tình người cho các con mình.

Nói chung, những ký ức, những kỷ niệm về vùng đất phía bên kia cây cầu đã được chị Nga vẽ thành một bức tranh nhiều màu sắc và lần lượt kể lại qua những truyện ngắn trong tập truyện bên kia cầu chữ Y, mà chị đã “sống” cùng với nó.

Phần lớn truyện ngắn của chị đều dài, được viết bởi giọng văn chân phương, mộc mạc, nhưng không vì thế mà người đọc dễ buông sách vì tính hấp dẫn của câu chuyện: cảm giác như  được chị nắm tay nhẩn nha kể chuyện. Tập truyện vì thế như đưa người đọc vào một không gian mát lành của một thời xa xưa với những điều thiện, lành. Điều nổi bật trong tập truyện chính là tình người hồn hậu, chân chất và đậm đà.

Tự nhận mình là người viết lách “tay ngang”: “Không phải tự dưng tôi mê chuyện viết lách, cũng không phải tự dưng tôi chọn quãng thời gian tuổi nhỏ làm điểm mốc cho hành trình chữ nghĩa của tôi hiện giờ dù thực sự ở môi trường này tôi chỉ là dân không chuyên”… “Thiên hạ viết đa số nhờ thiên phú hay nhờ đam mê, duyên nghiệp… còn tôi viết nhờ xấu hổ (Thuở nhỏ có lần chị copy bài viết trong “Quốc Văn toàn thư” đưa vào bài luận văn ở lớp ba, bị cô giáo phát hiện, trách mắng) nên tức mình tập tành học hỏi để viết sao cho không đến nỗi tệ…” Tôi nghĩ là chỉ vì khiêm tốn nên chị đã giải bày như thế chứ thật ra chị viết chắc tay, có bút pháp và chiến lược riêng khi kể lại các mẩu truyện nhằm lý giải những diễn biến theo một trục hợp lý riêng để  chuyển tải những cảm nhận tâm lý và hoàn cảnh xã hội.

Là người có tâm hồn bén nhạy các trang viết của chị Nga là cảm xúc, là nỗi lòng, và chị trải ra để giải tỏa nỗi niềm nên câu chữ hị mang đậm nỗi ám ảnh về một quê hương đã rời xa. Hơn ai hết chị hiểu  “ra đi có nghĩa là bỏ hết lại sau lưng, đi có nghĩa là chấp nhận tương lai chưa biết được nơi quê người” và nỗi niềm ấy chưa bao giờ nguôi trong lòng chị.

Nếu “ông điên Kiệt Tấn” sau 50 năm sống ở Canada và Pháp đã nhiều lần thốt lên “Ôi sao tôi cần quê hương đến vậy!” thì câu chữ của chị Nga “Vậy mà tôi đã bỏ đó mà đi” người ta như nghe được mùi thơm của bụi đất lam lũ bám lên những chiếc áo đẫm mồ hôi của người dân nghèo vùng Chánh Hưng, và trong mùi thơm đó còn có một vị mặn vì nước mắt của những kẻ ở xa đau đáu nhìn về chốn cũ. Nếu có thể tóm tắt những trang viết của chị trong một độ nén, thì tôi sẽ không ngần ngại viết về nỗi niềm của chị mà chị gửi gắm trong BKCCY:  “Thương quá quê hương”.

Trương Văn Dân

Milano 3/2019

Thông tin truy cập

60882874
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
6730
18331
60882874

Thành viên trực tuyến

Đang có 756 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website