1. Hình ảnh trong đầu đề bài viết là lấy ý ở câu cuối trong bài kệ của thiền sư Vạn Hạnh (?-1025) đã đọc cho đồ đệ nghe trước phút Ngài lâm chung (kệ thị tịch):

示弟子

身如電影有還無, 萬木春榮秋又枯.

任運盛衰無怖畏, 盛衰如露草頭鋪.

Thị đệ tử

Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. (1)

(Bảo các đồ đệ. Thân người ta như bóng chớp, có rồi lại không,/ Như cây cối mùa xuân thì tốt tươi, mùa thu thì khô héo./ Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi,/ Vì sự thịnh suy [cũng mong manh] như giọt sương trên đầu ngọn cỏ.)

Dịch thơ:

Thân như bóng chớp, có rồi không,

Cây cối xuân tươi, thu não nùng.

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,

Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.

(Ngô Tất Tố, Văn học đời Lý, Mai Lĩnh xb, HN, 1942)

2. Hiện chưa rõ tên thực cùng năm sinh của thiền sư Vạn Hạnh, còn họ thì sách Thiền uyển tập anh ngữ lục chép là họ Nguyễn. Nhưng cần lưu ý là, từ sau khi nhà Trần (1225-1400) thay thế nhà Lý (1009-1225), Thái sư Phụ chính Trần Thủ Độ ra lệnh buộc những ai trong nước mang họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn, nên không rõ thiền sư gốc họ Lý hay họ Nguyễn (bởi có nhiều sách chép là Lý Vạn Hạnh, mà theo thiển ý, có lẽ sư mang họ Lý thì đúng hơn). Chỉ biết, thiền sư người ở hương Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), thuở nhỏ tinh thông Tam giáo, say mê Phật học; xuất gia tu học tại chùa Lục Tổ, hương Dịch Bảng (nay là Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đắc pháp với thiền sư Thiền Ông, là thế hệ thứ 12 được truyền thừa dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Nhờ chuyên trì pháp môn Tổng trì tam ma địa mà sư có thể đoán biết trước nhiều việc, lời nào sư nói ra, thiên hạ đều cho là sấm truyền. Chẳng hạn sử sách có ghi: chuyện sư tiên đoán giặc Tống phải tan vỡ nội trong ba bảy ngày vào năm 981; chuyện vua Lê muốn cất binh đi đánh Chiêm Thành vào năm Nhâm Ngọ, 982 (Thiên Phúc năm thứ 2) nhưng còn do dự thì sư khuyên làm mau, đừng để mất cơ hội, quả nhiên năm ấy, Chiêm Thành thua to; hay như chuyện nhà Lý sẽ thay nhà Lê vào năm 1009, v.v.. Dưới đời Tiền Lê (981-1009), thiền sư làm cố vấn triều đình, giúp vua trị nước an dân, hiến kế chống giặc phương Bắc ngoại xâm, được vua Lê Đại Hành rất tôn kính; sư lại là người có công đầu trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý, thay thế nhà Lê, sau khi bạo chúa Lê Long Đĩnh (Lê Ngoạ Triều) mất, vua Lý Thái Tổ càng tôn kính, phong làm Quốc sư. Năm Thuận Thiên thứ 16 (1025), thiền sư viên tịch. Trước lúc lâm chung, thiền sư đã đọc bài kệ trên để dặn dò đệ tử. Về thơ văn, ngoài bài kệ thị tịch, thiền sư còn có 4 bài nữa đều mang tính chất những lời sấm và lời kệ và một đoạn khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi, mà sử sách xưa có chép như: Ký Đỗ Ngân, Khuyến Lý Công Uẩn, Quốc tự, Yết bảng thị chúng, Thị đệ tử.

Nhân đây, xin được đính chính lại năm viên tịch của Quốc sư Vạn Hạnh, bởi vấn đề này từ xưa đến nay sử sách đã nhầm lẫn, ghi không nhất quán.

Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục cả hai bản in đời Lê trung hưng và đời Nguyễn thì chép: Ngày rằm tháng 5 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng thứ 9. Chép như thế là nhầm, bởi Ứng Thiên là niên hiệu đời vua Lê Đại Hành từ 994 đến 1005 và Lê Ngoạ Triều từ 1005 đến 1007, chứ không có niên hiệu Thiên Ứng. Nếu là niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 9 tức năm 1002, thì cũng không đúng, bởi Vạn Hạnh không thể mất trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi (1009). Vì thế mà cụ Trần Văn Giáp trong sách Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII, 1932 (2) và trong Lược truyện các tác gia Việt Nam (3), nghi ngờ sách in sai, nên đã sửa lại thành năm Thuận Thiên thứ 9 (1018). Từ đó về sau nhiều nhà nghiên cứu khi làm sách đều ghi theo ý kiến của cụ Trần Văn Giáp, trong đó có Thơ văn Lý – Trần tập 1; bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga.

Trong khi đó Đại Việt sử lược, một cuốn sử viết vào đời Trần, khuyết danh, tại tờ 4a7 ghi: “Năm Ất Sửu hiệu Thuận Thiên thứ 16, sư Vạn Hạnh hoá” (4), mà năm Ất Sửu, Thuận Thiên thứ 16 là năm 1025; Và sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 2, kỷ nhà Lý, tại tờ 10a3-4 thì ghi: “Ất Sửu, Thuận Thiên năm thứ 16 (...) Sư Vạn Hạnh mất. Sư không có bệnh gì mà mất, người bấy giờ bảo là hoá thân” (5). Ở đây, chúng tôi ghi theo Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư. Như vậy, thiền sư Vạn Hạnh tịch ngày rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16, tức năm 1025.

3. Các bài kệ vốn thường không có đầu đề. Nhan đề của bài là do Lê Quý Đôn dựa vào nội dung mà đặt đầu đề khi soạn bộ Toàn Việt thi lục. Từ đó về sau, khi biên soạn hợp tuyển thơ văn, các nhà nghiên cứu đều ghi theo học giả họ Lê.

Bài kệ trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với niêm luật chặt chẽ. Hai câu đầu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.” Với hình ảnh hiện dụ theo lối so sánh bằng cách ví thân thể con người chẳng khác nào như bóng chớp, có đó rồi tan biến đó; chẳng khác nào như cây cối mùa xuân thì tươi tốt, mùa thu thì khô héo.

Những hình ảnh dụ như trên được các vị thiền sư sau này hay dùng nhằm mục đích gợi mở tâm thức cùng phương pháp tu tập cho hành giả - người học đạo. Mà dụ là phương pháp mà khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài thường dùng để giảng thuyết cho chư đệ tử, bởi tư tưởng - giáo lý nhà Phật là giáo lý Khế cơ, nên với việc sử dụng hình thức dụ sẽ dễ dàng phù hợp với căn cơ trình độ của từng người, ai cũng có thể hiểu được, nhận thức rồi vận dụng được với từng mức độ khác nhau. Dụ 喻 (Thí dụ 譬 喻) là Hán dịch, còn Phạn ngữ là Apadana (A-ba-đà-na). Đây là một trong 12 bộ kinh. Nội dung kinh này nêu ra những thí dụ, nhờ chúng mà người học đạo, nghe kinh sẽ hiểu được rõ ý nghĩa của giáo lý - tư tưởng của kinh. Thí dụ chính là lấy cái pháp mình đã biết để làm sáng tỏ cái pháp chưa được biết. Kinh Pháp hoa văn cú quyển thứ 5 có giải thích như sau: “Thí là so sánh, dụ là nói cho hiểu rõ, bằng cách dựa vào cái này để so sánh với cái kia, dùng cái nông cạn để nói cái sâu sắc… Chẳng hạn, nói cây đang lay động để cho biết là có gió; làm quạt hình tròn để ví với mặt trăng. Cho nên gọi là thí dụ”. Trong kinh văn nhà Phật, cụ thể là kinh Niết bàn quyển thứ 29 có chỉ ra 8 cách thức dụ (Thuận dụ, Nghịch dụ, Hiện dụ, Phi dụ, Tiên dụ, Hậu dụ, Tiên hậu dụ, Biến dụ) (6).

Hình ảnh trong bài kệ là hiện dụ. Bằng biện pháp ví von so sánh sinh động, diễm lệ, giàu hình ảnh gần gũi đời sống, thiền sư Vạn Hạnh đã so sánh với kiếp người vô thường, có đó rồi mất đó.

Câu thơ đầu bàn về quy luật của kiếp người: Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, so sánh thân xác con người chẳng khác nào ánh chớp, bóng hình, có đó rồi tan biến ngay, nó hiện hữu nhưng xét đến cùng là không có thật.

Câu thứ hai bàn về quy luật tuần hoàn của tự nhiên: Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô, mùa xuân thì cây cối tốt tươi, mùa thu thì héo úa. Con người qua thời gian cũng vậy, khi còn trẻ thì dồi dào sức sống, lúc về già thì tàn tạ, bởi bệnh tật ùa về.

Vấn đề mà thiền sư muốn trao truyền dặn dò đồ đệ là cần nhận thức rõ cái quy luật tuần hoàn của cuộc đời, của sự sống, tức nhận chân cái lẽ ‘nhậm vận thịnh suy’ với một thái độ bình thản, không sợ hãi trước quy luật tuần hoàn, biến thiên, vô thường ấy. Bởi thịnh và suy của cuộc đời, của sự sống chẳng khác nào như giọt sương đọng trên đầu ngọn cỏ. Giọt sương long lanh ấy thật mỹ lệ, nhất là lúc ánh nắng ban mai chiếu vào nó càng lung linh hơn, nhưng một lúc sau đó khi nắng lên thì nó tan biến ngay:

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.

Có lẽ khi thể hiện tư tưởng trên, vị Quốc sư của vương triều nhà Lý đã triệt ngộ triết lý tính Không của bài kệ trùng tụng ngũ ngôn trong kinh Kim cang bát nhã ba la mật 金剛般若波羅蜜經 mà Đức Thế tôn đã truyền giảng cho ngài Tu Bồ Đề và toàn thể đại chúng nghe trong pháp hội:

一切有為法,如夢幻泡影.

如露亦如電,應作如 是觀.

Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh,

Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán.

(Tất cả các hiện tượng trong thế giới khách quan, Như giấc mộng, như hình ảnh không có thật, như bóng nổi, như bóng hình, Như giọt sương, và cũng như ánh chớp, [Các ông] nên quán tưởng như thế).

Bởi tất cả những gì có hình tướng đều là hư ảo, là không có thật, như lời Đức Thế tôn đã giảng trong kinh Kim cang bát nhã ba la mật: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng 凡所有相皆是虛妄 (Phàm cái gì có hình tướng, hết thảy đều không có thật). Cái hiện thực mà bằng mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, tay chạm được, con người cứ tin là chúng tồn tại, hiện hữu, có thực tướng, nhưng xét đến cùng, tất cả đều huyễn ảo, bởi chúng không tồn tại vĩnh hằng, chúng không thường hằng bất biến, không có thật như chúng ta đã thấy, mà tất cả đều phải theo quy luật ‘thành trụ hoại diệt’, ‘sinh lão bệnh tử’; theo lý duyên sinh, duyên khởi. Nếu chúng ta nhận chân cái lẽ: Sắc tức thị không, không tức thị sắc; sắc bất dị không, không bất dị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị - Có tức là không, không tức là có; có chẳng khác không, không chẳng khác có (Bát nhã tâm kinh) thì sẽ thanh thản chấp nhận cái quy luật vô thường này của tất cả hiện thực trong thế giới khách quan, từ đó sẽ có thái độ ‘vô bố úy’ (không sợ hãi) trước hiện thực. Thái độ này là hai trong ba đức của nhà Phật: Trí và Dũng.

Từ nhận thức đó nên thiền sư mới khuyên chúng đệ tử: Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Hình ảnh so sánh ví von ở câu kết thúc (câu hợp) của bài kệ thật lung linh, diễm lệ, đậm chất văn chương. Ở đây, qua câu thơ, tư tưởng tính Không của kinh văn hệ Bát nhã đã được thiền sư chuyển tải bằng hình ảnh hiện dụ thật sinh động. Giọt sương mai có đó, hiện hữu đó, dưới cái nhìn của con người, nó thật đẹp, thật long lanh ngời sáng trên đầu ngọn cỏ, nhưng chỉ trong một cái chớp mắt, một sát-na, khi nắng sớm vừa chiếu lên thì nó tan biến ngay, tức không còn tồn tại, hiện hữu. Thúc hốt tức vô (thoạt có liền không). Cuộc đời là vô thường. Vạn pháp đều vô thường. Nhận thức được điều này, con người ta mới thanh thản, an nhiên, tự tại mà vui sống trong cõi đời với sắc thân giả tạm này.

4. Đối với Phật pháp và đất nước, uy đức và công nghiệp của thiền sư thật lớn lao, nhất là với vương triều nhà Tiền Lê, nhà Lý. Uy đức ấy vẫn toả sáng đến đời sau, và cho đến hôm nay. Bởi thế nên mấy mươi năm sau khi thiền sư thâu thần nhập tịch, vua Lý Nhân Tông (1066-1128) vẫn còn làm bài kệ tán (thơ ca ngợi tán dương) Ngài:

追贊萬行禪師 (7)

萬行融三際,真符古讖詩 (8).

鄉關名古法 (9),拄錫鎮王畿.

Truy tán Vạn Hạnh thiền sư

Vạn Hạnh dung tam tế, Chân phù cổ sấm thi.

Hương quan danh Cổ Pháp, Trụ tích trấn vương kỳ.

(Vạn Hạnh [học rộng] thông suốt được ba cõi, [Lời nói của sư] quả là phù hợp với những câu thơ sấm cổ. Quê hương tên Cổ Pháp, Chống gậy tầm xích giữ vững kinh đô nhà vua.)

Dịch thơ: Vạn Hạnh thông ba cõi, Lời ông nghiệm sấm thi.

Quê hương làng Cổ Pháp, Chống gậy trấn kinh kỳ. (10)

Lời truy tán của nhà vua đã tổng kết đầy đủ công trạng của thiền sư đối với đất nước. Công đức ấy thật là vô lượng, không thể luận bàn. Tôi không thể nói thêm được lời nào nữa.

NCL

Chú thích

(1) Dị bản: Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, tờ 83a7-b1, có chép câu thứ ba của bài kệ khác hai chữ: 隨運盛衰休怖畏 Tuỳ vận thịnh suy hưu bố uý. Trong khi đó, các sách Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích thì chép: Dụng vận 用運. Ngô Tất Tố trong Văn học đời Lý chép là Nhậm vận và sách Thơ văn Lý – Trần, tập 1 cũng chép là Nhậm vận.

(2) Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII, 1932, Hà Nội, tr. 239.

(3) Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb Sử học, HN, 1962, tr.183.

(4) Đại Việt sử lược (Việt sử lược), Trần Quốc Vượng dịch (1959), Nxb Thuận Hoá, Huế, tái bản, 2005, tr.77.

(5) Quốc Sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển 2, Kỷ nhà Lý, bản dịch của Viện Sử học, do Cao Huy Giu dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, Nxb KHXH, HN, 1971, tập 1, tr. 198.

(6) Xin xem lý giải tám phép Dụ trong bài “Ý chỉ đoạn Ngữ lục và bài kệ Thị tịch của Khuông Việt thiền sư” của Nguyễn Công Lý trên Nguyệt san Giác Ngộ số 180, tháng 3-2011.

(7) Về nhan đề bài thơ này, trong sách Việt điện u linh tập và sách Thiền uyển tập anh ngữ lục thì ghi là Truy tán Vạn Hạnh thiền sư. Trong khi đó Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích thì ghi là Tặng Vạn Hạnh thiền sư. Thiết nghĩ, ghi như sách Việt điện u linh và Thiền uyển tập anh thì đúng hơn, vì lúc nhà vua viết thơ ca ngợi thì thiền sư đã tịch rồi, nên mới Truy tán, chứ không thể làm thơ Tặng.

(8) (Bản Thiền uyển tập anh chép câu này là 真符古讖機 Chân phù cổ sấm cơ/ky (Lời nói của sư quả thực hợp với những câu thơ sấm cổ).

(9) Theo Đoàn Lê Giang thì câu Hương quan danh Cổ Pháp cần được hiểu là “Quê hương ông nổi danh là nơi phát tích Phật pháp cổ” (Đoàn Lê Giang: “Hai bài thi kệ Đường luật quan trọng thời Lý - Trần: khảo sát văn bản và ý nghĩa”. In trong: Thơ Đường luật đời Lý. Nguyễn Công Lý, Nguyễn Đức Hùng (đồng chủ biên). Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2019. Tr. 155-156.

(10) Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình dịch, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1977, tr. 433.

Tài liệu tham khảo

1. Bát nhã tâm kinh và Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh.

2. Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII, Hà Nội, 1932.

3. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb Sử học, HN, 1962.

4. Đại Việt sử lược, Trấn Quốc Vượng dịch, Nxb Thuận Hoá, tái bản, 2005.

5. Quốc Sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Viện Sử học, do Cao Huy Giu dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1971.

6. Ngô Tất Tố, Văn học đời Lý, Mai Lĩnh xb, HN, 1942.

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ số 304 tháng 7-2021.

      Khi xem xét các tác phẩm văn xuôi ở đô thị Nam Bộ giai đoạn 1945-1954, không khó để nhận ra tác giả và độc giả thời ấy nhận thức về các thể loại văn xuôi khác với chúng ta hiện nay. Không chỉ vậy, một số tác phẩm còn cho thấy sự thiếu nhất quán trong quan niệm về thể loại giữa những người cùng thời với nhau.

       Nhìn chung, quan niệm về các thể loại văn xuôi ở Nam Bộ thời bấy giờ tiếp nối quan niệm thể loại đã hình thành từ buổi đầu của văn học Quốc ngữ Nam Bộ. Văn học Việt Nam tiếp biến các thể loại văn xuôi hiện đại từ văn học Pháp trong sự dung hợp có tính sáng tạo với những khái niệm trong văn xuôi trung đại Đông Á, như tiểu thuyết (roman), truyện ngắn (nouvelle), tuỳ bút, bút kí, tản văn (essai), hồi kí (mémoire), kí sự, phóng sự (reportage)... Mỗi thể loại có chức năng xã hội khác nhau. Các thể loại ít tính hư cấu như reportage, essai, mémoire nhấn mạnh chức năng truyền tin và giá trị của thông tin xác thực, trong khi các thể loại hư cấu như roman và nouvelle chú trọng hơn vào việc truyền tải thông điệp (tôn giáo, đạo đức, tình cảm...) và phục vụ giải trí.

      Roman khi vào Việt Nam được gọi là “tiểu thuyết”, một khái niệm có sẵn trong văn học Đông Á dùng để chỉ tác phẩm tự sự hư cấu kể các chuyện vụn vặt, đời thường, đối lập với “đại thuyết” là văn của thánh nhân và “trung thuyết” là văn của các hiền sư, sử gia. Chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc cận hiện đại, người ta lại chia tiểu thuyết thành đoản thiên, trung thiên và trường thiên tiểu thuyết, vốn là những khái niệm chưa xuất hiện trong văn học cổ trung đại. Tuy cũng có người cố gắng xác định điểm khác biệt về mặt cấu trúc rằng “trường thiên tả phần nguyên, đoản thiên tả phần lẻ”, nhưng thực tế sáng tác cho thấy người ta định danh thể loại cho tác phẩm chủ yếu căn cứ vào độ dài, và trường thiên hay trung thiên tiểu thuyết còn được gọi tắt là tiểu thuyết để phân biệt với đoản thiên tiểu thuyết. Bộ khái niệm truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài không rõ xuất hiện từ khi nào, nhưng được sử dụng rộng rãi trên báo chí trong Nam ngoài Bắc từ thập niên 1930. Võ Văn Nhơn cho rằng khái niệm “truyện ngắn” xuất hiện sớm nhất trên báo Nam Phong, Bình Nguyên Lộc khẳng định khái niệm “truyện dài” được báo Phong Hóa sử dụng đầu tiên.

     Đến giai đoạn 1945-1954, ở Nam Bộ đã có những bài viết có tính lí luận phân biệt truyện và tiểu thuyết, cũng như nhấn mạnh đặc trưng của truyện ngắn. Triều Sơn có bài Chuyện phiếm về tiểu thuyết phân biệt tiểu thuyết (roman) với truyện kể (récit), cho rằng truyện chú trọng việc kể còn tiểu thuyết chú trọng việc tả, truyện giúp ta biết còn tiểu thuyết giúp ta thấy, truyện chỉ rút thông tin từ thế giới thường ngày còn tiểu thuyết xây dựng một thế giới riêng trong tác phẩm. Bình Nguyên Lộc có bài Truyện ngắn và tân truyện khác nhau như thế nào? phân biệt khái niệm truyện ngắn (conte) là truyện kể truyền thống theo kiểu dân gian chú trọng cốt truyện, còn tân truyện (nouvelle) là truyện ngắn hiện đại, chú trọng yếu tố tình huống và miêu tả. Ông cho rằng các truyện ngắn phổ biến đương thời phải gọi là tân truyện mới chính xác.

    Tuy nhiên, những bài lí luận nói trên không chi phối nhiều đến nhận thức thể loại của người sáng tác ở Nam Bộ giai đoạn này, vì các khái niệm trường thiên, trung thiên, đoản thiên tiểu thuyết, truyện dài, truyện vừa, truyện ngắn, tân truyện vẫn được sử dụng lẫn lộn, có khi kết hợp các định ngữ tạo ra những tổ hợp như “truyện vừa vừa”, “tiểu thuyết dài”, “tiểu thuyết ngắn”... Một số sách có in chữ “tiểu thuyết” ở bìa lại là các tập truyện gồm nhiều truyện ngắn biệt lập. Nhiều tiểu thuyết có dung lượng rất ngắn, chỉ khoảng trên dưới 30 trang. Về thành của Hoài Tân ngoài bìa ghi “truyện dài” nhưng bên trong lại ghi là “tiểu thuyết”. Tiếng chó tru đêm của Kiên Giang, Cành hoa sim của Minh Đăng Khánh, Màu đỏ hoa vông của Thương Lan, Lá thư chúc tết của Anh Tuyến... được gọi là tân truyện, mặc dù đặc điểm nghệ thuật không khác mấy các truyện được định danh là truyện ngắn. Nỗ lực về mặt lí luận của Bình Nguyên Lộc không được người đương thời để ý mấy, và theo thời gian khái niệm tân truyện không còn được dùng để gọi tên thể loại nữa. Các định ngữ “dài”, “ngắn” được gắn vào truyện hoặc tiểu thuyết chỉ để nói về dung lượng tác phẩm một cách cảm tính.

      Có vẻ như nhận thức thể loại văn xuôi ở Nam Bộ sau hơn nửa thế kỉ chẳng những không ổn định hay rạch ròi hơn mà lại còn bội phần phức tạp khi ngày càng nhiều tên gọi mới xuất hiện cùng tồn tại với những khái niệm đã có từ trước. Tiểu thuyết và truyện ngắn Nam Bộ xuất hiện chủ yếu trên báo, vốn không thuận tiện cho sự nghiền ngẫm đầu tư, mặt khác không khí thời kì tranh đấu gấp gáp, khẩn trương luôn thúc giục nhà văn viết nhanh, viết nhiều, nên nhà văn Nam Bộ khó có thể sản xuất được tiểu thuyết (roman) như Triều Sơn định nghĩa. Điều này cho thấy đặc điểm của hoạt động sản xuất văn học đã chi phối tư duy thể loại của nhà văn và công chúng Nam Bộ, khiến phần đông trong số họ nhận thức rằng tiểu thuyết và truyện cũng chỉ là một mà thôi. Họ dùng các khái niệm thể loại của văn xuôi hư cấu một cách lẫn lộn vì cả người viết lẫn người đọc đều không có nhu cầu phân biệt chúng về mặt thi pháp.

     Giai đoạn 1945-1954 rộ lên nhiều tác phẩm gọi là kí sự, phóng sự, hồi kí, bút kí, tuỳ bút nhưng cách viết lại đậm chất hư cấu. Các thể loại reportage, essai, mémoire khi vào Việt Nam cùng với báo chí đã kết hợp với những khái niệm có sẵn trong văn học trung đại Việt Nam vốn dùng để kể chuyện có thật, chú trọng tính xác thực của thông tin, cùng với quan điểm, cảm nhận của tác giả về thông tin ấy. Nhiều khái niệm được tạo mới với thành tố “kí” (ghi chép) như hồi kí, bút kí, truyện kí... để gọi tên những thể loại mới cần được phân biệt với những thể loại đã có, nhưng vẫn dựa trên nguyên tắc tôn trọng thông tin. Phóng sự (đọc chệch âm từ phỏng sự) gắn liền với báo chí nên tính xác thực là yêu cầu quan trọng hàng đầu, nhưng được viết một cách sinh động, với nhiều chi tiết phong phú theo kiểu văn chương. Các hồi kí Lao tù của Thiên Giang, Chị Dung của Hợp Phố, phóng sự Tam Giác Tự của Võ Hoà Khanh hay bút kí Cứu lấy quê hương của Hoàng Tấn rất ít thông tin xác thực. Phóng sự Tam Giác Tự chỉ có những địa điểm hư cấu kèm lời giải thích có tính mô tả đặc điểm hơn là cung cấp thông tin, chẳng hạn như Tam Giác Tự là tên một trại giam tù binh ở miền Đông. Phóng sự vui Đơ-dèm cúp-bắp của Vũ Xuân Tự viết về những thanh niên đợi ngày bị chính quyền bắt lính để thoát những khoản tiền nợ hút xách, bài bạc được kể như một truyện ngắn, chủ yếu gồm những đoạn thoại giữa các nhân vật ghép lại với nhau tạo tình huống bất ngờ cho độc giả. Hồi kí Lao tù của Thiên Giang gồm nhiều truyện ngắn viết ở ngôi thứ ba, và một số truyện viết ở ngôi thứ nhất với nhân vật xưng “tôi” tên Tiến - một nhân vật hư cấu. Tương tự, bút kí Cứu lấy quê hương của Hoàng Tấn mô tả trải nghiệm, cảm xúc của chính bản thân tác giả nhưng lại kể từ góc nhìn của nhân vật hư cấu tên Nhi. Các trường hợp nói trên là minh chứng cho một thực tế rằng sự chồng lấn trong cách hiểu về “hiện thực” và “sự thật” trong sáng tác văn học đã khiến các tên gọi thể loại thuộc nhóm hư cấu và phi hư cấu bị sử dụng lẫn lộn. Khái niệm tiểu thuyết có thể kéo giãn tới mức bao trùm cả những văn bản tường thuật chuyện có thật, và những câu chuyện có thật của bản thân tác giả lại có thể được kể như thể nó được hư cấu ra. Từ trước 1945 đã phổ biến khái niệm “phóng sự tiểu thuyết” - một thể loại trộn lẫn hư cấu và phi hư cấu. Vũ Ngọc Phan (1989) giải thích: “Phóng sự tiểu thuyết là thế nào? Là một tiểu thuyết mà tác giả muốn thuật lại những việc có thực, những việc có thể làm đầu đề cho những thiên phóng sự và chỉ có rất ít tưởng tượng. Ở lối tả chân, nhà tiểu thuyết có thể dùng rất nhiều tưởng tượng, miễn là chỉ căn cứ vào sự thực, vào những điều mắt thấy tai nghe là đủ.” Qua định nghĩa của Vũ Ngọc Phan thì tiểu thuyết phóng sự và tiểu thuyết kí sự có hàm lượng hư cấu cao hơn phóng sự, kí sự thuần tuý, nghĩa là định ngữ “tiểu thuyết” mang hàm ý gia tăng phần hư cấu cho những câu chuyện có thật được kể lại trong “phóng sự”, “kí sự”. Thế nhưng không phải tác phẩm nào cũng tuân theo cách phân chia này. Bằng chứng là “phóng sự lao tù” Tam Giác Tự của Võ Hoà Khanh gần như không có thông tin xác thực nào để độc giả có cảm giác đây là một câu chuyện có thật được kể lại từ một người trực tiếp chứng kiến hoặc trải nghiệm sự việc. Tấn công tài xỉu của Vũ Xuân Tự trình bày kết quả quan sát, thâm nhập sâu nghề cờ bạc tài xỉu, với cách bố cục theo kiểu báo chí có đề mục, số thứ tự cho từng luận điểm, diễn đạt theo kiểu cung cấp thông tin xác thực, thì lại in chữ “tiểu thuyết” ở trang bìa. Trường hợp quyển phỏng sự Đồng quê của Phi Vân lại đặc biệt hơn nữa. Tác phẩm gồm hai phần “phỏng sự ngắn” và “phỏng sự tiểu thuyết”. Trong trường hợp này, “phỏng sự” ngụ ý về tính có thật của những câu chuyện được kể, còn khái niệm “ngắn” và “tiểu thuyết” ngụ ý về độ dài tác phẩm. Các bài viết trong phần “phỏng sự ngắn” thì độc lập, trong khi các bài trong phần “phỏng sự tiểu thuyết” lại liên kết với nhau thành một câu chuyện dài hơn.

      Giống như vấn đề lẫn lộn các thể loại văn xuôi hư cấu đã trình bày ở trên, việc không phân biệt rạch ròi các thể loại hư cấu và phi hư cấu cũng bắt nguồn từ tư duy hiện thực của người viết. Khi sáng tác truyện, họ xem trọng tính hiện thực, muốn kể cho độc giả những câu chuyện đáng tin, nên chi tiết trong truyện đều được lấy từ trong hiện thực đời sống. Khi mô tả và phân tích hiện tượng xã hội, tường thuật sự kiện, ghi chép lại kí ức, họ lại muốn trang viết của mình thật sinh động nên tạo ra những nhân vật hư cấu thay mình kể lại những trải nghiệm, nhưng lại tước bỏ các thông tin chi tiết xác thực của sự việc, vì cho rằng bản thân tên gọi “kí” của thể loại đã đủ bảo chứng cho tính có thật của tác phẩm.

      Việc mơ hồ trong nhận thức thể loại văn xuôi Quốc ngữ từ buổi đầu hình thành đến tận thời điểm 1945-1954 còn là kết quả của việc tương tác thể loại theo hình thức tổng hợp thể loại trong lược đồ văn học Quốc ngữ của Nguyễn Thành Thi. Áp dụng quan điểm của trường phái Bakhtin, Nguyễn Thành Thi phác họa lịch sử phát triển văn học Quốc ngữ qua sự vận động và tương tác giữa các thể loại với ba hình thức: (1) tổng hợp thể loại; (2) đổi ngôi - tiếp sức giữa các thể loại; (3) thay thế thể loại. Hình thức 2 và 3 gần như không xảy ra trong giai đoạn 1945-1954, vì chín năm ngắn ngủi thuộc đoạn giữa của thời kì hiện đại không đủ để một thể loại nào đó soán ngôi một thể loại khác, hay khiến cho thể loại khác biến mất. Hình thức 1 là rõ nét nhất, khi các thể loại văn xuôi luôn va chạm lẫn nhau dẫn đến việc đường biên giữa chúng bị mờ nhòe. Đứng giữa nhiều luồng lực tương tác từ các nền văn hóa, văn chương khác nhau khắp Đông Tây kim cổ, nhà văn Nam Bộ luôn nhạy bén và cởi mở với tất cả. Họ chắt lọc từ các thể loại để chọn cách viết phù hợp nhất với mình trong từng trường hợp cụ thể.

       Giai đoạn 1945-1954 vẫn phổ biến truyện phóng tác mặc dù ý thức về quyền tác giả lúc này đã rất phát triển. Một số tác giả chỉ ghi tác phẩm của mình là “phóng tác” nhưng lại không cho biết tác phẩm nguồn, như Chúa đảo trả thù của Long Mỹ Nhân, Ngày mai đã muộn rồi của Giang Tân. Ngược lại, truyện dài feuilleton Giết cha của Thiên Giang không có từ “phóng tác” ở phần tên thể loại nhưng trong lời giới thiệu, ông cho biết nó là bản tóm tắt của Anh em nhà Karamazov của Dostoyevsky, với những nhân vật, bối cảnh đã được ông Việt hóa. Thông tin này độc giả chỉ có thể biết được khi đọc kì đăng đầu tiên của truyện. Nếu theo dõi truyện từ giữa chừng, độc giả của báo sẽ không thể biết đây là tác phẩm phóng tác mà dễ hiểu nhầm rằng đây là sáng tạo của Thiên Giang. Ngoài ra, một số nhà văn còn không phân biệt giữa phóng tác và dịch. Tám Thu dịch tóm tắt một đoạn trong tiểu thuyết Túp lều bác Tôm thành truyện ngắn Quyết cứu đứa con, nhưng lại không cho biết nguồn gốc của câu chuyện. Tác phẩm chỉ được ghi là “truyện ngắn nhi đồng”, không có thông tin dịch hay phóng tác, nhưng tên nhân vật và bối cảnh trong truyện gốc được giữ nguyên không Việt hóa. Ngược lại, một số truyện không có bất cứ thông tin nào cho biết nó là phóng tác. Việc nhận ra đó có phải truyện phóng tác hay không hoàn toàn dựa vào kiến thức của độc giả. Hợp Phố Việt hóa cốt truyện Món quà Giáng sinh của O’Henry thành truyện ngắn Món quà ngày Tết, kể về hai vợ chồng nghèo, mỗi người âm thầm bán thứ giá trị nhất mà mình sở hữu để mua quà cho người kia, nhưng hóa ra món quà mới không thể sử dụng được nếu không có thứ đã bán. Truyện dài “phóng tác” Người nữ cứu thương của Hoàng Thơ đăng nhiều kì trên báo Đời mới những năm 1952-1953 có cốt truyện rất giống truyện dài Hờn chinh chiến của Việt Quang đã in sách năm 1949. Truyện kể về diễn biến tâm lí phức tạp của một nữ cứu thương đối mặt với người chồng thương binh trở về với khuôn mặt bị cháy biến dạng, để rồi nàng trưởng thành hơn trong nhận thức và tình cảm của mình. Theo Lê Văn Nghĩa, cũng trong những năm 1948-1949, ở chiến khu phổ biến vở cải lương Người mặt cháy của soạn giả Năm Châu, dựng từ truyện Mối tình cao thượng của Bảo Định Giang và Bích Lâm, vốn được Việt hóa từ truyện ngắn Tính cách Nga của Aleksey Tolstoy, kể về anh thương binh mặt cháy về thăm nhà với danh tính khác vì sợ thương tật của mình sẽ làm người thân khiếp sợ và đau khổ. Việt Quang hẳn đã mượn ý tưởng tình huống từ Tính cách Nga hoặc Người mặt cháy để khai thác sâu hơn tâm lí của người vợ, nhưng Hoàng Thơ đã bám sát cốt truyện của Việt Quang đến từng tình tiết nhỏ và gọi tác phẩm của mình là “phóng tác”. Có thể thấy, khái niệm “phóng tác” vẫn được công chúng chấp nhận, là một bảo chứng cho đạo đức nhà văn trong việc sử dụng lại ý tưởng của người khác, nên không thấy ai thắc mắc gì về trường hợp Hoàng Thơ sử dụng lại toàn bộ cốt truyện của một nhà văn người Việt khác. Nếu từng có ai đó chỉ trích tác phẩm vì lỗi đạo nhái thì nó đã không thể yên ổn xuất hiện đều đặn hàng tuần trong suốt hai năm trên một tờ báo rất nổi tiếng thời bấy giờ là tờ Đời mới.

      Thực tế nói trên cho thấy giới nhà văn và công chúng văn học Quốc ngữ ở Nam Bộ không để tâm nhiều đến vấn đề hình thức thể loại của văn xuôi, mà tập trung hơn vào câu chuyện và tác động xã hội của câu chuyện được kể. Họ không chú tâm vào đặc trưng thi pháp tiểu thuyết, không phân biệt rạch ròi các thể loại hư cấu và phi hư cấu, cũng chưa đi được xa trên con đường phân biệt giữa dịch và phóng tác. Họ quan tâm hơn đến việc kể câu chuyện sao cho hấp dẫn công chúng nhất, có hiệu quả tác động nhất, và gọi câu chuyện đó bằng tên thể loại mà họ nghĩ rằng có thể đem lại hiệu quả ấy. Đó là lí do các thể loại thường có định ngữ chỉ báo nội dung tác phẩm, và trong nhiều trường hợp các định ngữ này kết hợp với nhau, chồng chéo lên nhau, như tiểu thuyết tình ái, tiểu thuyết tâm lí, tiểu thuyết tâm lí-ái tình-xã hội, truyện dài lao tù, truyện ngắn kỉ niệm... Đây không phải là cách định danh hệ thống, khoa học của nhà lí luận phê bình, mà là cách định danh của nhà văn nhằm thu hút sự chú ý của độc giả và định hướng độc giả khi theo dõi câu chuyện. Việc gọi một tác phẩm được viết như tiểu thuyết là kí hay phóng sự cũng nhằm mục đích tương tự, để bảo đảm với độc giả mức độ chân thực của câu chuyện được kể, để thuyết phục độc giả tin mình, từ đó đạt được hiệu quả xã hội cần thiết.

Nguồn: Nguyễn Thị Phương Thúy (2021). Nhận thức thể loại của nhà văn Nam Bộ giai đoạn 1945-1954. Văn nghệ Quân đội (4), tr. 97-101. http://vannghequandoi.com.vn/binh-luan-van-nghe/nhan-thuc-the-loai-cua-nha-van-nam-bo-giai-doan-1945-1954_12177.html

Xét riêng thể truyện ngắn, phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa khó lường: trữ tình dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là truyện kể qua ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào.

20210322

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - Ảnh: NGUYỄN ĐÌNH TOÁN

Trước khi gây chấn động văn đàn với tác phẩm Tướng về hưu, Nguyễn Huy Thiệp đã công bố trên báo Văn Nghệ hai truyện ngắn (Mỵ, Vết trượt). Nếu tiếp tục cách khai thác chất liệu sáng tác và bút pháp của những truyện ngắn này, có lẽ ông vẫn tìm được một vị trí trong văn học sử nhưng không thể trở thành hiện tượng độc đáo gây nhiều tranh cãi như chúng ta chứng kiến suốt ba thập niên văn học.

Trong thế kỷ 20 ở nước ta, trên lĩnh vực văn xuôi hư cấu xuất hiện nhiều văn tài đa dạng, tầm cỡ, nhưng thiết nghĩ hai người có tính cách tân và mang số phận kỳ lạ nhất là Vũ Trọng Phụng và Nguyễn Huy Thiệp.

Một người cầm bút trong xã hội thuộc địa; một người trong bối cảnh đất nước thống nhất, hòa bình. Một người vào nghề và hoàn thành sự nghiệp khi tuổi đời còn rất trẻ; một người khởi nghiệp khi đã qua tuổi thanh niên và có nhiều trải nghiệm cay đắng trong cuộc đời. Một người chủ yếu thành công ở thể loại tiểu thuyết; một người đạt đến đỉnh cao nghệ thuật của thể loại truyện ngắn.

Như những ngôn sứ trong Kinh Thánh từng không được chấp nhận trên quê hương mình, dư luận xã hội đã có lúc không chiều đãi, thậm chí phủ nhận hai văn tài nói trên.

Những mũi tên bắn vào tác phẩm Vũ Trọng Phụng chủ yếu khi ông đã nằm xuống, còn Nguyễn Huy Thiệp thì phải chịu trận và chống đỡ với những làn sóng đả kích khi còn đang sức sáng tạo để tiếp tục khẳng định chính mình.

Nói hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm của thời Đổi mới có lẽ cũng đúng, nhưng tác động của thời cuộc may lắm là kích thích và tạo môi trường tương đối thuận lợi cho tác phẩm được công bố.

Còn sự thật thì Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm của chính Nguyễn Huy Thiệp, với nội công thâm hậu mà ông rèn luyện trong mười năm dạy học ở Tây Bắc, miền đất của Những ngọn gió Hua Tát.

Xét riêng về thể truyện ngắn, có thể xếp Nguyễn Huy Thiệp bên cạnh Nam Cao. Phong cách Nam Cao thống nhất trong sự viên mãn; phong cách Nguyễn Huy Thiệp thống nhất trong sự biến hóa khó lường: trữ tình dân gian, hiện thực khắc nghiệt pha lẫn yếu tố kỳ ảo. Đó còn là những truyện kể qua ngôn ngữ sân khấu, với những xung đột được đẩy đến cao trào.

Không có gì khó hiểu khi nhà thơ trong văn xuôi đó cũng là tác giả của những vở kịch đặc sắc mang chiều sâu tư tưởng. Tiếc là kịch của Nguyễn Huy Thiệp ít được dàn dựng trên sân khấu nên vẫn còn xa lạ với công chúng.

Khoảng trống Nguyễn Huy Thiệp để lại hôm nay có lẽ còn lâu lắm mới được lấp đầy. Người đọc chắc chắn sẽ đọc lại Nguyễn Huy Thiệp và lịch sử sẽ còn dành nhiều giấy mực để luận bàn về sự nghiệp của ông.

Nguyễn Huy Thiệp: người gợi lại dũng khí cho tất cả nhà văn

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - tên tuổi đáng chú ý nhất văn đàn Việt Nam trong vài chục năm qua - vừa qua đời lúc 16h45 ngày 20-3 tại nhà riêng sau một thời gian chống chọi với bệnh đột quỵ. Ông hưởng thọ 72 tuổi.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 20-4-1950 ở Thái Nguyên, nhưng nguyên quán ở Hà Nội.

Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như Tướng về hưu, Muối của rừng, Không có vua, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê, Sang sông, bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết...

Ngoài ra ông còn viết tiểu thuyết, kịch bản, thơ, tiểu luận. Nhưng thành công hơn cả vẫn là truyện ngắn. Ba cuốn tiểu thuyết đã xuất bản gồm: Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm, Tuổi 20 yêu dấu.

Năm 2020, kỷ niệm 70 tuổi, Nguyễn Huy Thiệp cùng với Công ty sách Đông A đã cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn chọn lọc với những tranh minh họa của những họa sĩ xuất sắc, cũng là bạn bè của ông ở Hà Nội.

Cuốn sách tập hợp những truyện ngắn mà nhà văn ưng ý nhất. Từ hơn chục năm nay, ông hầu như gác bút, vui tuổi già với con cháu.

Nhà văn Nguyễn Bình Phương - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đánh giá Nguyễn Huy Thiệp là "một trong những nhà văn gần như là quan trọng số 1 từ sau Đổi mới, người đã gợi lại dũng khí cho tất cả các nhà văn, cho họ thấy thế nào là quyền năng một người viết, quyền thay đổi, quyền khám phá, phản biện xã hội, khiến ta nhìn thấy lại giá trị của nhà văn".

"Chắc chắn anh Thiệp sẽ ở lại với lịch sử văn học. Ông thật sự là một nhà văn lớn. Tôi thật sự tiếc bởi ông ra đi sớm. Ông còn thì anh em làng văn cảm giác ấm cúng hơn" - tác giả tiểu thuyết Mình và họ nói về bậc đàn anh văn chương vừa rời cõi tạm trong lúc đi bộ qua những con phố lướt thướt mưa phùn của Hà Nội.

Về con người cá nhân, Nguyễn Bình Phương rất trân quý Nguyễn Huy Thiệp, một con người rất lặng lẽ, quyết liệt, tôn trọng bạn bè, đồng nghiệp.

Nguyễn Bình Phương còn tiếc nuối hơn khi Nguyễn Huy Thiệp chưa được đánh giá xứng đáng, ông chưa được trao giải thưởng nhà nước, cũng chưa có giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam.

"Đây là món nợ lớn nhất của Hội Nhà văn với Nguyễn Huy Thiệp" - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nói.

Hội Nhà văn Việt Nam sẽ cùng gia đình nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tổ chức tang lễ cho ông, dự kiến tại Nhà tang lễ quốc gia.

Thiên Điểu

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 21.3.2021.

Tin nhà văn Anh Động qua đời được con gái ông là nhà văn Nguyễn Thị Diệp Mai đưa lên trang cá nhân, nghẹn ngào: "Tiễn biệt cha - ngủ ngon, sẽ bình yên, sẽ không còn đau nữa. Cha vẫn ở bên mẹ và tụi con mỗi ngày”.

Nhà văn Anh Động tên thật là Nguyễn Việt Tùng. Ông sinh ngày 20.10.1941 ở Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang và thường trú tại số nhà 23 Trương Định, TP. Rạch Giá, là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Không chỉ "văn hay chữ tốt”, ông còn là một chiến sĩ dũng cảm, gan dạ trong các trận chiến đấu với quân thù. Khi nước nhà thống nhất, nhà văn Anh Động tham gia công tác quản lý và từng giữ chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Kiên Giang. Nhà văn có nhiều tác phẩm dành cho vùng đất miền Tây thương mến của mình như: Ven rừng tràm, Bóng núi Tô Châu, Dòng sông lấp lánh.

Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM Bích Ngân cho biết: “Nhà văn Anh Động là một trong rất ít người cầm bút của miền Tây Nam bộ được kết nạp Hội Nhà văn Việt Nam từ thập niên 70 của thế kỷ trước. Miền Tây lúc đó, người từ bưng biền kháng chiến viết văn làm thơ chưa đếm đủ trên đầu ngón tay: Nguyễn Bá, Lê Chí, Nguyễn Thanh, Anh Động.Trong số người theo nghiệp văn chương, có lẽ nhà văn Anh Động là người phải nỗ lực, phải "chiến đấu" với trang viết gian nan nhất. Bởi, vốn chữ nghĩa được học hành bài bản của ông quá ít. Ông mới học xong tiểu học và rời gia đình tham gia kháng chiến. Ông tự học, tự mày mò, tự vượt lên, tự khẳng định mình, khẳng định vị trí văn chương ở một vùng đất mà đờn ca tài tử chiếm ưu thế so với các loại hình nghệ thuật khác”.

Chia sẻ những kỷ niệm về một người miền Tây có duyên kể chuyện bác Ba Phi, nữ văn sĩ Bích Ngân kể: “Trong số những nhà văn nhà thơ thành danh từ vùng đất U Minh và cũng là đàn em, gọi ba tôi là "anh út" hay "anh Út Nghệ", thì chú Sáu Động (chị em tôi thường gọi "Chú Sáu") luôn dành tình cảm đặc biệt đối với ba tôi. Khi tìm kiếm lại bài viết và tư liệu để in quyển sách Ngày ấy đã lùi xa, quyển sách cuối cùng của ba tôi, tôi gặp một xấp thư dày của người thân, bè bạn gởi cho ba tôi. Trong số thư đó, nhiều lá thư đã ố vàng, nhiều lá thư được viết trong lúc tạm yên giữa khói lửa chiến tranh, là của nhà văn Anh Động. Nhiều lá thư dày kín nhiều trang".

Trên trang cá nhân của mình, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn viết: “Dù chưa từng được đào tạo qua một trường lớp nào, nhưng nhà văn Anh Động chính là người có công văn bản hóa hình tượng lão nông Nam bộ hài hước Bác Ba Phi lừng lẫy trong đời sống tinh thần của người dân sông nước Cửu Long nói riêng và người dân cả nước nói chung. Từ những câu chuyện truyền tụng trong dân gian của nguyên mẫu Nguyễn Long Phi (1884-1964) ở xã Khánh Hải, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, nhà văn Anh Động đã viết Kể chuyện Bác Ba Phi xuất bản lần đầu tiên năm 1995 và nhanh chóng lan tỏa khắp nơi”.

Nói về sự sáng tạo nhân vật Bác Ba Phi nổi tiếng của nhà văn Anh Động, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn bày tỏ sự ngưỡng mộ: “Bằng chứng là ngoài Bác Ba Phi có thật, nhà văn Anh Động còn sáng tạo thêm nhân vật thằng Đậu cho có ông có cháu, rồi từ đó công chúng lại sáng tạo thêm nhân vật quyến rũ không kém là vợ thằng Đậu. Ngay cả nhà văn Anh Động cũng không biết “vợ thằng Đậu” mồm ngang mũi dọc thế nào, nhưng cái câu “tệ hơn vợ thằng Đậu” được dùng phổ biến để nói về một phụ nữ hậu đậu, lười nhát.Từ ngày nghỉ hưu, nhà văn Anh Động bán căn nhà ở trung tâm TP. Rạch Giá và chuyển ra cư ngụ ở khu vực ngoại ô. Tư gia của nhà văn Anh Động gần sân vận động Rạch Sỏi lúc nào cũng rộn ràng tiếng cười nói của cháu con”.

Vậy mà kể từ hôm nay, nhà văn Anh Động - người cha kính yêu và thân thương nhất thường được con gái Diệp Mai gọi bằng 3 chữ "cây di sản”, đã lặng lẽ rời xa dương thế, để lại cho đời những câu chuyện kể về Bác Ba Phi nổi tiếng của miền sông Tây nước.

Nguồn: https://thanhnien.vn/van-hoa/vinh-biet-nha-van-anh-dong-nguoi-mien-tay-co-duyen-ke-chuyen-bac-ba-phi-1402687.html

TTO - Theo tin từ anh Nguyễn Phan Khoa - con trai nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - Nguyễn Huy Thiệp vừa qua đời lúc 16h45 hôm nay, ngày 20-3 tại nhà riêng sau một thời gian chống chọi với bệnh đột quỵ. Ông hưởng thọ 72 tuổi.

20210320

Nguyễn Huy Thiệp ngoài tài văn còn rất ham vẽ trên đĩa gốm tặng bạn bè - Ảnh: Gia đình cung cấp

Con trai của Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp cho biết, cho đến trưa nay nhà văn vẫn ăn uống được nhưng chiều nay thì nhà văn từ từ ra đi trong nhẹ nhàng, bên đông đủ con cháu. 

 Hội Nhà văn Việt Nam sẽ đứng ra cùng gia đình tổ chức tang lễ cho nhà văn Nguyễn Huy Thiệp dự kiến tại Nhà tang lễ quốc gia.

Vậy là tên tuổi đáng chú ý nhất văn đàn Việt Nam trong vài chục năm qua đã ra đi trong một ngày mưa u ám của Hà Nội.

"Sinh lão bệnh tử/ Luật trời đã ban/ Thì đành chấp nhận/ Với nụ cười thôi… Nói chỉ nói vậy thôi/ Lòng buồn không tả nổi…".

Những câu thơ đã là cuối cùng trên giường bệnh của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp - một tên tuổi lừng lẫy trên văn đàn Việt Nam cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI - khiến những người yêu thương ông và yêu tài văn của ông không khỏi đau thắt lòng.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời, văn đàn Việt Nam lòng buồn không tả nổi - Ảnh 2.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp ký tặng sách chiều 11-8-2020 tại nhà riêng - Ảnh: YÊN BA

Nguyễn Huy Thiệp sinh ngày 20-4-1950 ở Thái Nguyên, nhưng quê gốc ở Thanh Trì - Hà Nội. 

Trước khi trở thành người viết chuyên nghiệp, ông đã có 10 năm là một thầy giáo ở miền núi phía Bắc. Đó là 10 năm ông “úp mặt vào núi mà đọc sách”. 

Ông xuất hiện khá muộn trên văn đàn Việt Nam với vài truyện ngắn đăng trên Báo Văn nghệ năm 1986. Ngay lập tức, ông trở thành trung tâm của những cuộc tranh luận văn chương sôi nổi bởi một giọng văn “phũ”, dám đi đến tận cùng cái ác của con người để mà tiêu trừ nó. 

Tên tuổi của ông gắn liền với các truyện ngắn như Tướng về hưu, Muối của rừng, Không có vua, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Thương nhớ đồng quê, Sang sông, bộ ba truyện ngắn lịch sử Kiếm sắc, Vàng lửa, Phẩm tiết… 

Ngoài ra ông còn viết tiểu thuyết, kịch bản, thơ, tiểu luận. Nhưng thành công hơn cả vẫn là truyện ngắn. Ba cuốn tiểu thuyết đã xuất bản gồm: Tiểu long nữ, Gạ tình lấy điểm, Tuổi 20 yêu dấu

Trong đó cuốn Tuổi 20 yêu dấu thành công hơn cả, cuốn sách ông viết từ nguyên mẫu là con trai của mình, một cậu trai đã bị cơn bão ma túy và cơn bão của thời đại đô thị hóa mạnh mẽ cuốn đi. Ông vẫn còn có một cuốn tiểu thuyết hoàn thành đã lâu nhưng chưa xuất bản.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp qua đời, văn đàn Việt Nam lòng buồn không tả nổi - Ảnh 3.

Nguyễn Huy Thiệp nhiều năm về già đã thanh thản hơn với niềm vui chăm con chăm cháu và học đạo - Ảnh: Gia đình cung cấp

Năm 2020, kỷ niệm 70 tuổi, Nguyễn Huy Thiệp cùng với nhà sách Đông A cũng với những người bạn họa sĩ của ông đã cho ra đời một tuyển tập truyện ngắn chọn lọc với những tranh minh họa của những họa sĩ hàng đầu hiện nay như Lê Thiết Cương, Thành Chương, Đào Hải Phong, Đặng Xuân Hòa, Lê Trí Dũng, Phan Cẩm Thượng… 

Cuốn sách tập hợp những truyện ngắn mà nhà văn ưng ý nhất, một cuốn sách ông gọi là “liên tài” khi tập hợp những họa sĩ xuất sắc nhất, cũng là bạn bè của ông ở Hà Nội vẽ minh họa. 

Từ hơn chục năm nay, ông hầu như gác bút, vui tuổi già với con cháu. 

Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng đánh giá Nguyễn Huy Thiệp là một trong số ít nhà văn Việt Nam xuất sắc nhất thế kỷ 20. Theo ông, sau Nam Cao thì Việt Nam chỉ có Nguyễn Huy Thiệp là một người viết có văn và có tư tưởng. Trong khi Nam Cao viết rất hay về người nông dân Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 thì Nguyễn Huy Thiệp cũng xuất sắc trong việc viết về người Việt Nam những năm cuối thế kỷ 20. 

Cái xuất sắc của Nguyễn Huy Thiệp chính là một nhà văn có tư tưởng. Không nhiều nhà văn Việt Nam có được điều này. Và cái đặc sắc làm lên dấu ấn riêng của Nguyễn Huy Thiệp trong văn chương, theo Phan Cẩm Thượng, chính là ông dám đi đến tận cùng cái ác của con người, làm một cuộc phẫu thuật vào cái ác của con người và phơi bày nó ra mà “chữa bệnh” cho con người. 

Đó là điều mà các nghệ sĩ Việt Nam trước ông nói chung luôn dè dặt không dám bước đến tận cùng. Tuy lột trần cái ác trong con người nhưng Nguyễn Huy Thiệp lại không bao giờ quên nhìn thấy chất người trong mỗi con người, dù là một tên cướp. 

Không có cái gì là đơn giản, một chiều trong thế giới người ở văn chương Nguyễn Huy Thiệp. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Vương Trí Nhàn cũng nhìn ra phẩm chất này trong viết lách của Nguyễn Huy Thiệp và ông cho rằng chính cái lúc mà cái ác bị phơi bày là lúc cái ác được tiêu diệt. 

Ông nhận định: “Nếu có một thứ “quả bóng vàng” (hay là “cây bút vàng”) dành để tặng cho các cây bút xuất sắc hằng năm, thì trong năm 1987 - và cả nửa đầu năm 1988 - người xứng đáng được giải trong văn xuôi ta, có lẽ là Nguyễn Huy Thiệp. 

Nhắc tới anh, người ta nhớ Tướng về hưu gây xôn xao một dạo, bởi cách viết rạch ròi, trần trụi; nhớ Muối của rừng tưởng như không đâu, hóa ra lại đượm nhiều ngụ ý âm thầm; nhớ Một thoáng Xuân Hương lịch duyệt mang đậm phong vị kẻ sĩ Bắc Hà; nhớ Con gái thuỷ thần lẫn lộn hư thực, và liều lĩnh đến tùy tiện”.

Thiên Điểu

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 20.3.2021.

Tin từ gia đình nhà văn Nguyễn Xuân Khánh cho biết, tác giả ‘Đội gạo lên chùa’ vừa qua đời vào 14h55 hôm nay 12-6, vì tuổi cao sức yếu, hưởng thọ 88 tuổi.

Nhiếp ảnh gia Nguyễn Đình Toán vừa trở về từ gia đình nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sau khi mang ảnh thờ cho nhà văn từ bức ảnh ông chụp cho biết tác giả Mẫu Thượng Ngàn qua đời tại nhà riêng. Nhà văn đã ốm mấy năm nay.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh sinh năm 1933 tại làng Cổ Nhuế, Hà Nội. Ông đỗ tú tài toán, học Đại học Y khoa Hà Nội cho đến hết năm 1952 thì đi theo kháng chiến, tham gia bộ đội.

Hòa bình lập lại, ông công tác tại tạp chí Văn Nghệ Quân Đội, rồi báo Thiếu Niên Tiền Phong nhưng sớm nghỉ hưu từ năm 1973. Trong thời gian làm báo, ông đã bắt đầu viết văn, viết biên khảo. Năm 1963, ông cho ra mắt tập truyện ngắn đầu tiên có tên Rừng sâu.

Sau khi nghỉ hưu, ông bắt đầu cuộc đời nghèo khó của mình cùng hoàn cảnh khó khăn của đất nước lúc bấy giờ và cần mẫn, chuyên tâm hơn bên những trang viết đêm đêm. Hình ảnh ông đạp máy khâu, viết hàng ngàn trang tiểu thuyết luôn được giới văn nghệ sĩ và bạn đọc nhắc tới với niềm tôn kính sâu sắc.

Những bộ tiểu thuyết đồ sộ liên tiếp ra đời nhưng phải kiên nhẫn nằm trong ngăn kéo đợi nhiều năm sau mới được xuất bản. Sáng tác của ông theo hai thể loại là tiểu thuyết văn hóa lịch sử và tiểu thuyết phúng dụ.

Nổi tiếng nhất trong mảng tiểu thuyết văn hóa lịch sử có Hồ Quý Ly, Mẫu Thượng Ngàn, Đội gạo lên chùa.

Với Đội gạo lên chùa ra mắt năm 2011, Nguyễn Xuân Khánh từng được nhắc tới là nhà văn lớn tuổi nhất viết dài nhất, gần 900 trang.

Thể loại phúng dụ có thể kể đến Miền hoang tưởng, Chuyện ngõ nghèo. Trong đó, Miền hoang tưởng đã được xuất bản lần đầu tiên khá sớm, vào năm 1985, trong khi Chuyện ngõ nghèo viết năm 1982 nhưng mãi tới năm 2016 mới được Nhã Nam xuất bản với tên mới, không giữ được tên gốc của tác phẩm là Trư cuồng.

Chuyện ngõ nghèo lấy chất liệu từ chính đời sống nghèo khổ của tác giả một thời, cái thời mà người Hà Nội phải tăng gia nuôi lợn trong không gian sống vốn đã quá chật hẹp của gia đình để tồn tại qua cái nghèo.

Tuy thế, đây không phải là cuốn tự truyện mà tác giả chỉ dùng chút chất liệu hiện thực cộng với thủ pháp phúng dụ để viết lên câu chuyện buồn khi con người bị “lợn hóa”. Chuyện ngõ nghèo được trao giải Sách hay 2018, hạng mục Tác phẩm văn học.

Ngoài ra, ông còn dịch thuật nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Những quả vàng, Chuông nguyện cầu cho kẻ đã khuất, Năm tuần trên khinh khí cầu, Tâm lý học đám đông.

Nhà văn Nguyễn Xuân Khánh được Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Nhà văn Hà Nội trao nhiều giải thưởng như:

- Giải thưởng cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam 1998 - 2000 cho Hồ Quý Ly.

- Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2001 cho Hồ Quý Ly.

- Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội năm 2006 cho Mẫu Thượng Ngàn.

- Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2011 với tiểu thuyết Đội gạo lên chùa.

- Giải thưởng Thành tựu văn học trọn đời năm 2018 của Hội Nhà văn Hà Nội.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-nguyen-xuan-khanh-qua-doi-20210612205807326.htm

Chán chương trình học và không khí ở Văn khoa trường Luật, bỏ học, đi làm thư kí riêng cho một tỉ phú, không bao lâu lại bỏ công việc ấy, về Nha Trang dạy học nhưng bị từ chối, chuyển lên Đà Lạt rồi lại bỏ Đà Lạt, mãi đến mùa hè năm 1964, với một xấp giấy pelure mỏng ố vàng, một cây bút, và một tháng trong đời, Nguyễn Thị Hoàng mới ngồi xuống và viết một mạch.

Bìa tái bản năm 2021 của tác phẩm “Vòng tay học trò”

Sau này, vị nữ sĩ đã kể lại như thế sự tích ra đời tiểu thuyết “Vòng tay học trò”, tác phẩm từng làm điên đảo giới thanh thiếu niên Sài Gòn một thuở, tái bản tới 4 lần trong vòng mấy tháng, cũng suýt chút nữa đã được Kiều Chinh và Đặng Trần Thức chuyển thể thành phim.

Sự tung hô, như bao giờ cũng vậy, luôn đi kèm với sự hạ bệ. Các nhà phê bình thời ấy không tiếc những lời cay nghiệt nhất cho “Vòng tay học trò”: "phi luân", "sự buôn lậu tư tưởng trong một con bệnh dâm thành phố", "trường hợp ngoại lệ, mất thăng bằng, bệnh hoạn". Khi nhà văn Dương Nghiễm Mậu so sánh Nguyễn Thị Hoàng với Quỳnh Dao, cây bút diễm tình nổi tiếng của Đài Loan, thì nhà văn Viên Linh đã phản đối ngay: "Quỳnh Dao viết về cái trong sáng, không viết về cái nhầy nhụa".

Những cụm từ sởn gai ốc được ném không thương tiếc vào một tác phẩm mà nói cho cùng chỉ là kể lại một mối tình dằn vặt giữa một cô giáo và một cậu học trò, một tình cảm thường bị coi là cấm kỵ. Tầm thời điểm này, ở Pháp cũng có hai tác phẩm với đề tài tương tự, một là “Un certain sourire”, cuốn thứ hai của nữ sĩ Francoise Sagan sau “Buồn ơi chào mi”, hai là “Mourir d'aimer”, một bộ phim rất ăn khách năm 1971 của đạo diễn André Cayatte. Không tác phẩm nào gây ra một vụ ì xèo ở quê hương của nó như “Vòng tay học trò” đã gây ra ở miền Nam Việt Nam.

Đem so với những cuốn "dâm thư" nặng đô như “Justine” của Marquis de Sade hay “Chuyện nàng O” của Pauline Réage, những cuốn tiểu thuyết cũng sục sạo đời sống tinh thần của những người đàn bà, thì khó có thể hiểu tại sao “Vòng tay học trò” lại bị coi là một văn hóa phẩm nguy hiểm và đồi bại. Không những trò tra tấn tình dục và không tình dục, thậm chí không cả khao khát hay huyễn tưởng tình dục, “Vòng tay học trò” giống hơn một bài thơ hiện sinh, hay đứa con lai của chủ nghĩa diễm tình Đài Loan của Quỳnh Dao, Trương Ái Linh và niềm hứng khởi với nhánh triết học hiện sinh phi lý do Jean-Paul Sartre khởi xướng đang được giới văn nghệ sĩ và thanh thiếu niên bấy giờ say mê, tin rằng "con người sinh ra không lý do, kéo lê cuộc đời vì nhu nhược và chết do ngẫu nhiên".

Sau hơn nửa thế kỷ im hơi lặng tiếng vì những đổi thay lịch sử, “Vòng tay học trò” và một số tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Thị Hoàng như “Một ngày rồi thôi”, “Tiếng chuông gọi người tình trở về”, “Tuần trăng mật màu xanh”, “Cuộc tình trong ngục thất” vừa được một đơn vị làm sách tuyển lựa và in ấn công phu, giới thiệu trở lại với bạn đọc đương thời về một nữ sĩ của văn chương miền Nam, một trong ngũ đại nữ sĩ hàng đầu của Sài Gòn xưa. Trong một tác phẩm của Haruki Murakami, ông từng cho một nhân vật tuyên bố rằng mình không muốn tốn thời gian cho những cuốn sách vớ vẩn và chỉ sờ vào những cuốn sách mà tác giả của nó đã chết được ít nhất 30 năm, vì chỉ những cuốn sách ấy mới đáng tin cậy mà thôi, hàm ý thời gian là thước đo duy nhất cho giá trị của một tác phẩm văn học. Nguyễn Thị Hoàng tuy vẫn còn đương thế, nhưng có lẽ 50 năm là quãng thời gian đủ dài để ta có thể nhìn lại “Vòng tay học trò” cùng các tác phẩm của bà với sự khách quan và sự "lạnh" cần thiết, triệt tiêu được những dung sai không đáng có gây ra bởi sức nóng hầm hập của những vụ ồn ào, của vòng kim cô mà cái gọi là "thuần phong mỹ tục" đội lên đầu chúng ta hay những lời phán xét được buông ra một cách cẩu thả trong quá khứ.

Vậy thì ở thời điểm này, đọc “Vòng tay học trò” còn hay không? Còn hay. Nhưng nó còn liên quan gì tới thời đại này không và liệu nó có mang cái phẩm chất bất tử, vượt thời đại của những tác phẩm kinh điển? Có lẽ là cả có và không. Ở mặt nào đó, cuốn sách đã lỗi thời. Vẻ diêm dúa trong nội tâm các nhân vật và sự thiếu vắng tính sáng tạo cho những màn cút bắt ái tình khiến “Vòng tay học trò” khó mà hấp dẫn được những độc giả ngày nay vốn đã được bọc đường trong trí tưởng tượng phong phú nơi những cuốn sách ngôn tình "ngược luyến tàn tâm" của Trung Quốc, những series phim tình cảm hoa hòe hoa sói của Hàn Quốc hay những bộ tiểu thuyết của những ông hoàng, bà hoàng lãng mạn châu Âu như Marc Levy, Guillaume Musso hay Cecelia Ahern.

Kể cả cái bi kịch mối tình "sư đồ" hay rộng hơn là người đàn bà lớn tuổi đắm say bên người tình trẻ thì thời đó có thể mới mẻ, còn ngày nay cũng đã sáo mòn và bị khai thác đến cùng tận, không còn tạo nên cảm giác hưng phấn kích thích khi khám phá "vùng đất cấm” ít ai dám bén mảng như đã từng. Nói tóm lại, mong muốn “Vòng tay học trò” được tìm lại như tìm lại một đứt gãy bị lãng quên trong lịch sử văn chương Việt Nam hiện đại, hay như tìm lại một toàn cảnh đầy đủ hơn về văn học nước nhà, thì sẽ khả thi hơn là mong muốn “Vòng tay học trò” được đón nhận nhiệt liệt, được trở thành sách gối đầu giường (hay sách chụp ảnh sống ảo) của những kẻ lãng mạn (hay ra vẻ lãng mạn) khăn gói lên Đà Lạt sống chậm (hay khoe sống chậm).

Nhưng, “Vòng tay học trò” có thể không còn phù hợp với thị hiếu đại chúng đương đại, nó lại nặng những tâm tư không bao giờ cũ với một tập hợp những người thuộc chủ nghĩa hư vô không mưu cầu sự đồng điệu với những giá trị chung của xã hội và có thể sẽ dần trở thành một "cult", nghĩa là một tác phẩm không dành cho tất cả nhưng lại được một nhóm người nhất định yêu thích điên cuồng. Thường xuyên trong “Vòng tay học trò” và các tác phẩm khác của Nguyễn Thị Hoàng, nhân vật hãi hùng bắt gặp mình lạc trong những vùng sương giá băng của thực tại, nơi không gì chờ họ, họ không chờ ai, họ chuội khỏi thế giới họ đang sống, chuội khỏi tình yêu, chuội khỏi vòng tay người tình, hay nói như Jean-Paul Sartre thì họ "không do ai tạo thành, không lý do, không có một tương quan nào với một hữu thể nào khác, hữu thể tự thân thực là thừa đến muôn đời".

Văn chương của Nguyễn Thị Hoàng bỏ qua mọi sắp đặt lộ liễu khác, diễm lệ đến mức khiến cho sự chán chường, nỗi buồn u tối, sự lẻ loi triền miên, sự chơ vơ không lối thoát, sự sầu bi ngột ngạt cũng lấp lánh một vẻ cuốn hút khôn nguôi. Ta không thể ngăn mình muốn được thử một lần lao đầu vào đời sống như họ: tự chôn mình dưới cát như Điệp trong “Tiếng chuông gọi người tình trở về” hay vui một đêm cùng người tình trên chuyến đò xứ Huế như Ý Lan và Đông trong “Tuần trăng mật màu xanh”. Ngay cả cách họ tự dày vò chính mình cũng cám dỗ làm sao, như cái cách mà cô giáo Trâm của “Vòng tay học trò” lấy 200 đồng của mình đưa cho người tình trẻ, rồi chỉnh áo quần cho cậu, dù biết là để cậu đi gặp một người con gái khác, hay cách mà một người vợ trong “Tiếng chuông gọi người tình trở về” mường tượng về người tình năm xưa của người chồng biến mất. Cuộc đấu tranh duy nhất mà họ phải đấu tranh là cuộc đấu tranh để tìm ý nghĩa cho sự tồn tại, vốn cũng là cuộc đấu tranh chỉ xảy ra khi rốt cuộc, người ta không còn phải đấu tranh vì bất cứ điều gì thực tế hơn và thiết thực hơn. Họ có lẽ đã sung sướng đến nỗi không mưu cầu hạnh phúc mà lại "thích hưởng thú đau thương", một sở thích có thể bị gọi là "trưởng giả".

Giờ đây, nhìn lại vị trí của văn chương Nguyễn Thị Hoàng trên văn đàn, ta có thể thấy đó dường như là một trong những trường hợp đầu tiên của văn chương hiện đại bị phê phán và ngờ vực vì tính bi lụy, ướt át, quẩn quanh những huyễn tưởng tầm thường, mà sau này những nhà văn ngôn tình, diễm tình sẽ trở thành nạn nhân chịu trận tiếp theo. Chính Nguyễn Thị Hoàng cũng đã từng tự trào về văn chương phái nữ. Bà để một nhân vật của mình trong “Vòng tay học trò” nói thế này về nữ văn sĩ George Sand của văn học Pháp, "nổi tiếng cũng chỉ vì phụ nữ hiếm trong làng văn, chứ thật ra sự nghiệp của bà ta có đáng gì so với những tác phẩm vĩ đại của các văn hào nam giới".

Cũng có thể là chẳng đáng gì thật. Và số phận của những tác phẩm như “Vòng tay học trò” sẽ lại tiếp tục chìm trôi cùng thời gian, cũng có thể sẽ bị lãng quên, bị chối bỏ, nhưng trải qua một đời đã nếm trải hết "mê lầm, oan khiên, bạc đãi, ngộ nhận, của khổ nạn triền miên tâm và cảnh", nữ sĩ Nguyễn Thị Hoàng nhận chân điều đó hơn ai hết: "Thế hệ đọc những trang cũ ngày xưa đã già cỗi hoặc lụi tàn. Tuổi trẻ ngày nay sẽ hoàn toàn xa lạ và có thể vô cảm với mớ đồ cũ trên tay, nhưng qua dòng trôi chảy của thời gian và thế sự, biết đâu vẫn còn có ai vớt lại chút bọt bèo mong manh của quá khứ. Chút bọt bèo có thể sẽ là mầm xanh cho mùa hoa trái mới, cũng có thể là phiến hóa thạch vô tri vì cuộc đợi chờ vô vọng mấy mươi năm mà kỳ thực đã mấy nghìn năm bên bờ ảo hóa”.

 

Nguồn: http://antgct.cand.com.vn/Chuyen-de/Mot-9x-nghi-gi-khi-doc-Vong-tay-hoc-tro-633288/

  Không phải ngẫu nhiên và khen cho con mắt tinh đời, người vào năm 1928 đỗ thủ khoa toàn xứ Trung Kỳ trong kỳ thi tốt nghiệp cao đẳng tiểu học, người vào năm 1941 đã xúc động kể về sự xuất hiện của một thời đại mới trong thi ca, người vào cuối tháng 7/1948 đã reo lên thi ca đang đi vào giai đoạn mới của thời đại, thì cũng con người đó, vào năm 1966 đã sớm tiên đoán về một cây bút trẻ nhiều triển vọng khi mà thơ Lưu Quang Vũ mới đăng rải rác chừng độ một chục bài trên các báo. Người ấy là Hoài Thanh, đã nhìn nhận Vũ như là một tiếng nói riêng nhỏ nhẹ mà sâu lắng một thời đại mới trong thơ – phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước. Với Hoài Thanh, Vũ là một trong những người đầu tiên báo hiệu sự ra đời của phong trào ấy. Quả thật. Những tên tuổi như Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Lưu Quang Vũ, Hữu Thỉnh, Nguyễn Đức Mậu, Vũ Quần Phương, Xuân Quỳnh, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Thảo, Hoàng Nhuận Cầm v.v.. đã dần dần xuất hiện và trở thành những gương mặt sáng giá của một thời đại Thơ. Người ta hay nói Phạm Tiến Duật là người lĩnh xướng của phong trào ấy. Nhưng đó là câu chuyện sau năm 1969. Lưu Quang Vũ có một vị trí đặc biệt khác. Vũ nằm trong số ít một, hai người ghi dấu ấn đầu tiên đặc sắc của phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước. Đúng như điều Hoài Thanh đã dự báo. Nói là không phải ngẫu nhiên lại rơi vào Hoài Thanh – Là bởi vì với thơ Lưu Quang Vũ, Hoài Thanh đã như gặp lại những người thơ cũ của mình trong ân tình mà tha thiết của Thơ Mới 25 năm về trước và của Thơ kháng chiến chống Pháp 18 năm cách đó; Cũng là bởi vì ít có thi sỹ trẻ nào lúc đó lại tiêu biểu cho một khuynh hướng kế thừa truyền thống trong sáng tạo thi ca như Lưu Quang Vũ từ trong âm hưởng và giọng điệu cũng như những tiết tấu của hình tượng thơ, như là sự nối liền giữa 3 khoảng trời thi ca – Thơ Mới 1930 – 1945; Thơ ca kháng chiến chống Pháp 1946 – 1954; và Thơ thời những năm nửa sau 1960 và 1980.

Vào năm 1965 – 1967, khi cuộc chiến đấu chống Mỹ cứu nước bắt đầu rầm rộ và ác liệt, tuyển thơ Sức mới – tập 1, tập 2 hội tụ thơ của các nhà thơ trẻ được xuất bản. Sau đó là tập Thơ 3 năm chống Mỹ cứu nước (1965 – 1967). Khi Chế Lan Viên viết lời giới thiệu, ông ấy còn thật dè dặt với lực lượng này. Đến năm 1968, tình hình đã khác. Hương cây Bếp lửa của Lưu Quang Vũ và Bằng Việt được xuất bản là một hiện tượng thi ca nổi bật của thời kỳ đó. Người ta hồ hởi và ngạc nhiên trước một Lưu Quang Vũ mượt mà và tươi trẻ, một hồn thơ đằm thắm tình yêu quê hương đất nước với tình yêu lứa đôi trong chiến tranh mang tên gọi Hương cây. Và như Hoài Thanh, ta như gặp lại một lối thơ trữ tình trào ra từ cảm xúc, những vần thơ nhẹ nhàng mà lãng mạn tưởng như không để ý đến cấu tứ một bài thơ, tựa như tràn đầy rồi rung lên trong lắng đọng; chất tự sự không gồ lên thành một vỉa mà chỉ như một mái chèo thấp thoáng đẩy những vòng sóng cảm xúc lãng mạn lan tỏa và giao hòa vào nhau. Ta như gặp lại bóng dáng của Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên thời 1930 – 1945 trong những vần thơ tươi trẻ mà ý tình đằm thắm của Vũ. Gửi các Anh. Qua sông Thương. Phố huyện. Hơi ấm bàn tay. Vườn trong phố. Lá bưởi lá chanh. Thức với quê hương v.v.. Những vần thơ nghe được trong dịu mát yêu thương của con người hơn là tiếng gầm thét và gớm ghiếc của chiến tranh, mặc dù trong những bài thơ đó đều có hình thù của chiến tranh ẩn náu.

Đó là Hơi ấm bàn tay của hai người yêu nhau giữa hai đầu trận tuyến như đặt trên ngực lớn cuộc đời, như giao cảm giữa các thế hệ người mà bồi hồi tình quê hương xứ sở trong sự giao hòa của những lứa đôi.

Khi đàn chim bay đến rợp trời trưa

Cồn mây về mang cơn mưa đầu hạ

Hai vì sao đổi ngôi trong gió ...

Đó chính tay mình đang vượt khoảng xa

Tìm đến nơi này âu yếm nắm tay ta.

1967

Đó là Vườn trong phố nơi ngưng tụ những điều hẹn ước của tình yêu tuổi trẻ, nơi bé nhỏ mà đêm khuya còn vọng lại tiếng còi tàu trong sự chở che của lá để cho nhớ xa xôi những miền quê đất nước, ta nghe như vang lại cảm xúc mới của tình thơ Xuân Diệu, Nguyễn Bính tan chảy trong se sẽ dịu dàng của Vũ, làm nên áng thơ tình vào loại hay nhất của thi ca Việt Nam hiện đại

Nghe lá chuối che nghiêng như một cánh buồm

Cánh buồm xanh đi về trong hạnh phúc

Se sẽ chứ không cánh buồm bay mất

Qua dịu dàng ẩm ướt của làn môi.

1967

Dòng cảm xúc dâng trào mãnh liệt không chỉ ở Hương cây, mà còn gặp lại nhịp điệu bồng bột yêu thương ấy trong nhiều vần thơ sau 1970 của Lưu Quang Vũ. Hoa Tầm xuân kể lại con đường xưa nơi hoa đã nở mà dòng sông cũ cánh buồm vẫn giăng giăng trắng xóa giữa buổi hoa tầm xuân đã xưa cũ mất rồi chỉ để lại những giọt sương run rẩy, khi

Những đền đài thuở trước đã tan hoang

Những chùa cổ chiều mưa rêu ướt lạnh

Chìm trong đất những chùm hương dĩ vãng

Tầm Xuân ơi! Hoa chết đã lâu rồi.

Mùng 3 Tết Nhâm tý.

Di chúc tình yêu có cảm tưởng đồng cảm với những ý tình của Điêu Tàn trong Chế Lan Viên mà Vũ đã siêu hình về trong dáng vẻ điêu linh.

Thịt xương ta là tù ngục của hồn ta

Thân xác hẹp hòi mà khao khát bao la

Bầy chim dữ đen ngòm đang chặn lối

Những buồn chán nửa người nửa khói.

Hương cây viết khoảng thời gian 1965 – 1967. Bộ mặt thật của chiến tranh được Lưu Quang Vũ cho lùi lại ở phía sau; còn phía trước là con người, là những người con trai ra trận đánh thù đường trăm ngả. Buổi chiều họ xuống đò qua dòng sông mênh mông sóng vỗ. Đã ba vầng trăng rồi. Ngày mai tan giặc sẽ về với cái của muôn năm là tháng 8 sen tàn bưởi chín, chim ngói bịn rịn bay về trên quê hương nhiều lắm yêu thương. Bởi những người mẹ, người em.

Cây lá nơi này cây lá quê hương

Ôi những mẹ, những em ta hiền hậu.

1965

Trong Di cảo, nhật ký từ 21/2/1963 đến 8/10/1965 ít nhất có hai lần Vũ nhắc đến Bên kia sông Đuống. Và thơ của Vũ, ở một phương diện nào đó đi lên và nối liền với Thơ kháng chiến chống Pháp trong trường hợp Hoàng Cầm từ cách tổ chức bài thơ ngay từ Hương cây. Gửi các anh, Qua sông Thương, Lá bưởi lá chanh, Phố huyện... với lối thơ tự do có vần linh động và biến hóa một cách tự nhiên. Những bài thơ viết những năm 1970, dường như Hoàng Cầm đã trở thành nỗi ám ảnh của Vũ trong sự sáng tạo mới, khi một lần Vũ lên xứ Đoài xưa, Ba Vì mây trắng. Một miền thơ khác. Một không gian văn hóa khác.

Nhớ mặt em gầy sau lá mưa

Lênh đênh bến nước Trung Hà

Những chị buôn chè

Ngủ hè phố cũ

Con bò gầy đói cỏ

Đi trên đồng miên man

Những pho tượng gỗ chùa Phùng

Thiêm thiếp.

11/1972

Xứ Đoài 1972 có nét văn hóa tương đồng với đất Kinh Bắc 1948 để hai thi sỹ tài danh của hai thời đại thi ca gặp nhau. Cho nên cô gái buôn chè phố cũ, bà già chợ huyện khóc thời con gái thuốc lào say gần gụi với cô hàng xén ở Bên kia sông Đuống hồi 1948 nắm nghiêng nghiêng bên kháng chiến trường kỳ. Nhiều bài thơ viết khoảng thời gian 1970 và đầu 1980, người ta thấy cách tổ chức nhịp điệu thơ tự do có vần hết sức linh động của thơ Lưu Quang Vũ. Viết cho em từ biển. Không đề II. Nói với mình và các bạn. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi… và đặc biệt bài Đất nước đàn bầu viết 1972 – 1983, khi trở lại vùng văn hóa Kinh Bắc, trở lại với sông Cầu xa thăm thẳm, vạt áo tứ thân lau nước mắt người xưa, Vũ ngồi chẻ tre đan nón ba tầm đội lên quán dốc tìm cô bán rượu ngày xưa giữ miền quê ngào ngạt văn hóa dân gian…

Khoảng sau năm 1970, Lưu Quang Vũ rời khỏi quân ngũ, nơi Vũ đã tình nguyện nhập vào khi mới 17 tuổi. Nỗi đa đoan của một con người lúc nào cũng canh cánh tình yêu quê hương đất nước; mong mỏi được sống vì mọi người. Chính trong hoàn cảnh cam go đó, đã làm rạng ngời phẩm chất tuyệt vời của thi nhân. Thơ Lưu Quang Vũ chuyển tới một giai đoạn mới. Không tránh khỏi những cảm xúc bi thiết và đau đớn. Nhưng âm hưởng chủ đạo của thơ Lưu Quang Vũ những năm 1970 – 1980 luôn luôn là nỗi đau đáu tình yêu quê hương xứ sở cùng nhịp thở với tình yêu lứa đôi tha thiết đôi khi đến nghẹn ngào trong thử thách. Đó là thần khúc ngợi ca đất nước và con người Việt Nam. Tầm vóc của Lưu Quang Vũ là ở đó. Ta không thấy sự bi lụy, rã rời phủ bóng lên sự nghiệp thơ của một thi nhân với bao dằn vặt cuộc sống đời thường. Lưu Quang Vũ đã mang tới tiếng nói khác lạ của phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước bằng việc sớm đi tìm sự tiệm tiến giữa cái ta với các cá nhân để vang lên ở đấy những tiếng khắc khoải của số phận con người trong chiến tranh. Tuyển thơ Lưu Quang Vũ xuất bản 2010 ở phần 3 mang tên Đất nước đàn bầu như một tráng ca tình yêu tổ quốc nhiều đau thương mà da diết trong sự chan hòa với hạnh phúc lứa đôi. Khác với Hương cây, ở đây thi pháp Lưu Quang Vũ đã đẩy yếu tố tự sự lên hàng đầu như là một yếu tố chính của thơ, làm nên một phong cách thơ độc đáo của phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước dưới góc nhìn mới mẻ về chiến tranh và hòa bình, về thân phận con người trong máu lửa và chiến tranh, chiến tranh không ẩn đằng sau con người như ở Hương cây nữa. Nó gieo rắc thảm họa. Bây giờ. Đêm đông chí uống rượu với bác Lâm và bác Khánh nói về những cuộc chia tay thời loạn. Mấy đoạn Thơ. Đất nước đàn bầu. Ghi vội một đêm 1972. Viết lại một bài thơ Hà Nội. Tiếng Việt. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Hải Phòng mùa đông. Cầu nguyện. Mùa thu ấy vẫn còn nguyên ở đó v.v.. Thơ thời đó, ít ai có góc nhìn như Lưu Quang Vũ về chiến tranh và hòa bình, vận mệnh đất nước và số phận con người mang sắc thái riêng biệt như thế. Khuynh hướng tự sự, tả thực để bộc lộ tâm trạng là bút pháp chủ đạo của thơ Vũ.

Vũ không ngần ngại chỉ ra những hy sinh mất mát khủng khiếp do chiến tranh giữa một chốn nhân gian đầy đổ vỡ:

Gió hú ầm ầm qua gạch vỡ

Người chết vùi thây dưới hố bom

Kẻ sống vật vờ không chốn ở

Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường.

Đêm tháng chạp 1972, bộ mặt gớm ghiếc và tàn bạo của chiến tranh xâm lược khiến con người nghẹn lại nỗi đau thương.

Bom ném lên cao những đường tàu gãy nát

Những bàn ghế những lá thư những cánh tay người

Mùi thịt cháy rợn mình mùi khói cay

Ta đứng lặng trong tiếng gầm báo động

Dưới vầng trăng tê dại nỗi kinh hoàng.

Dường như tự sự còn chưa đủ, Lưu Quang Vũ siêu thực hóa bộ mặt chiến tranh bằng cách vẽ lên những rừng đen mặt nạ hoang vắng trong mưa. Vì.

Vực sâu đã mở ra

Chôn cả lời trăng trối của mùa thu

Một chiếc lá khổng lồ đỏ thắm.

Với Lưu Quang Vũ tình yêu quê hương đất nước dù đang trải qua khổ đau như vậy vẫn vang lên tiếng nói trường tồn của văn hóa Việt. Nền văn hóa mà Vũ yêu bắt đầu từ sâu thẳm những cổ xưa như những chiếc trống đồng vùi trong cát, những mũi tên đồng lăn lóc khắp núi đồi hoang vu, những rìu đá bên đống lửa còn tro tàn sót lại, những cánh chim lạc mỏ dài cất tiếng kêu hoang dại trong đêm nồng nhiệt đới, những người đàn bà tết cỏ cây che vú đến một đêm quan họ giã bạn ra về mưa bụi mịt mù bay… Tất cả từ đó để nghe nỗi lòng đất nước trong nức nở tiếng đàn bầu. Từ xa xưa Vũ đưa ta trở về hiện tại trong một áng thơ hay tuyệt bích.

Em đi gặt trên cánh đồng cổ tích

Lúa bàng hoàng chín rực những triền sông.

 Tổ quốc Việt Nam đẹp như chưa bao giờ đẹp thế để Lưu Quang Vũ phải thốt lên đầy cảm thán mang tên gọi những bài thơ. Việt Nam ơi!. Tiếng Việt!. Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi!... đầy phấn khích mà trong đó lại ẩn chứa những câu thơ điềm tĩnh lạ thường.

Tổ Quốc là nơi tỏa bóng yên vui

Nơi nghĩ đến lòng ta yên tĩnh nhất.

Khi tiếng mẹ gọi trong hoàng hôn khói sẫm, tiếng cha dặn thì thầm lúc nhóm lửa đời ta đã bắt đầu từ…

Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói

Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ

Ôi tiếng Việt như đất cày như lụa.

Điều đáng quý Lưu Quang Vũ đã nhìn thấy từ rất sớm ngày dân tộc đoàn viên sau những cuộc chiến tranh dài. Có lẽ vì thế mà nhiều người đã gắn tên tuổi Lưu Quang Vũ với Trịnh Công Sơn. Theo Vũ là bởi vì người Việt Nam ta có gốc gác chung một nền văn hóa.

Ai phiêu bạt nơi chân trời góc bể

Có gọi thầm tiếng Việt mỗi đêm khuya

Ai ở phía bên kia cầm súng khác

 Cùng tôi trong tiếng Việt quay về.

Thơ Lưu Quang Vũ những năm 1970 – 1980 tỏ rõ sự trưởng thành về chính trị, sự sâu sắc trong tư tưởng nghệ thuật với sự kết hợp giữa những vỉa tự sự và dòng cảm xúc như là một trong những đặc trưng cơ bản của thơ Việt Nam từ chiến tranh bước tới hòa bình. Bài thơ Tìm về như một khúc đoàn viên. Thời gian và lịch sử đẩy lùi xa thời đào huyệt hận thù chia miền cắt đất để có được một ngày bình thường như Văn Cao lỗi lạc đã từng viết và nói theo thơ Lưu Quang Vũ là để nở hoa muống tím, để đừng quên hoa mắc cỡ trong vườn, để anh em ruột thịt cầm tay lạy mẹ Việt Nam; oán thù đổ xuống ao sâu, rửa sạch đất bùn nhơ nhuốc… Bài thơ Những đám mây ban sớm hay Hồ sơ mùa hạ 1972, Tháng 5 – 1975… mang hơi thở ấm áp của hòa bình làm nguôi ngoai những trường đoạn về nỗi ân hận của một thời đã qua, để dân tộc trở về lợp lại mái nhà xưa…

Có người nói: toàn bộ thơ Lưu Quang Vũ là một bản tình ca giành cho nữ sỹ Xuân Quỳnh. Bao nhiêu tâm sự yêu đương cho Quỳnh và viết về Quỳnh. Thư viết cho Quỳnh trên máy bay. Cho Quỳnh những ngày xa. Phút em đến. Em sang bên kia sông. Thơ ru em ngủ v.v.. Họ có lẽ là cặp uyên ương đẹp nhất của thi ca thế kỷ 20. Nhưng có lẽ họ cũng là những người bất hạnh nhất khi tình thơ của họ bù đắp cho nhau dù chữ mệnh làm cho đoản mệnh. Thơ của Vũ gọi sự bất tử của tình yêu là Mắt của trời xanh.

Tóc của đêm dài, mắt của trời xanh

Mắt của phương xa, tay của đất nâu lành.

Người yêu như lửa và như lụa

… Như vầng trăng như ngọn thủy triều

Mặc dù hiện thực đời thường cái tổ uyên ương của họ chỉ là căn phòng chật hẹp không nhìn thấy vẻ viên mãn của trời xanh, nơi Vũ đã nghẹn ngào mà viết nên câu Ta chỉ có mấy thước vuông cho hạnh phúc của mình.

Tôi không thể không tìm đến mấy thước vuông đó khuất nẻo trên tầng 3 – 96A phố Huế. Dù đã là quá muộn, khi Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh đi khỏi nơi này 33 năm rồi. Vào 1 buổi chiều cuối tháng 4 – 2021, khi trời Hà Nội đang rơm rớm khép cửa mùa xuân để bước sang hè. Căn phòng chật chội. Tối và nóng vì không có điện. Người nhà Vũ giúp chúng tôi thắp 3 ngọn nến đỏ. Các giá gỗ không có kính xếp sách ngăn nắp đứng dựa vào tường. Tôi thắp 3 nén hương cầu khẩn linh hồn hai thi sỹ tài năng đã làm nên sự nghiệp ở chốn nhỏ bé này. Ở đây, Lưu Quang Vũ đã viết nên những vở kịch đi trước thời đại, bằng cái nhìn thấu tận đáy những tấn trò đời và khát vọng sống của nhân dân. Ở một thời sắp bước vào đổi thay như chưa bao giờ được thấy. Và những vần thơ mang bao nỗi lo toan trần thế đã được hát lên cũng ở nơi này. Không gian ấy chiều nay vàng ánh nến như một bằng chứng im lặng mà đầy hiển hách, tôn vinh một nhân cách nhà văn của thời đại chúng ta.

Cao Bá Quát đã từng viết: Tạo vật bản lai vô trước tướng. Chỉ lưu nhất bán tại sơn nguyên. Có nghĩa là: Từ xưa tạo vật vốn không có hình tượng nhất định, chỉ để cho núi sông thấy một nửa mà thôi. Mặc dù, Hoài Thanh là một cây bút phê bình kiệt xuất, nhưng nếu theo Cao Bá Quát, ông ấy cũng chỉ tiên đoán một phần văn nghiệp của Lưu Quang Vũ. Kẻ hậu sinh này càng như vậy.

Chắc không phải ngẫu nhiên dòng sông Hồng phù sa chưa nguôi đỏ bao giờ mà Vũ có lần hình dung phù sa như là khái niệm đầu tiên của nước Văn Lang đã ám ảnh Lưu Quang Vũ đến mức có 4 bài thơ về dòng sông ấy. Vũ một lần viết: Nước lũ qua sẽ còn lại phù sa là theo nghĩa đó. Cuộc đời cá nhân của mỗi chúng ta cuốn vào bao cơn lũ thời cuộc. Xưa phù du mà nay đã phù sa. Cá nhân mỗi con người vỗn chỉ là phù du của lịch sử để phù sa ngưng tụ lại. Văn chương Lưu Quang Vũ như phù sa ở lại mãi với đời.

Bây giờ thành phố Đà Nẵng có tên hai đường phố Lưu Quang Thuận và Lưu Quang Vũ. Nếu mở internet hàng ngày sẽ thấy những quảng cáo dóng dả về nhà hàng khách sạn, quán cá phê, giá bất động sản mặt đường ngạo nghễ, đôi khi nhiều hơn những tin tức văn chương của hai người thi nhân ấy. Có ai trong trong số khách qua đường biết rõ lý do con đường họ đang đi lại mang tên như vậy? Buổi kinh tế thị trường xô bồ khắp Bắc Trung Nam những tưởng người ta chỉ lo việc đếm tiền mà quên cả thi ca? Nhưng tôi tin tượng đài văn chương mà Lưu Quang Vũ dựng lên không bao giờ bị lãng quên trong lịch sử văn học nước nhà. Vì điều đó đã thuộc về lịch sử. Nghĩ thế, chiều nay khi ra khỏi nhà 96A phố Huế, tôi không đi sang đường để vào chợ Hôm mà đi thẳng ra bờ hồ Hoàn Kiếm đón một cơn gió mát của cuối ngày đầu hạ - Con đường mà hồi 1963 – 1965 Vũ vẫn thường đi. Vang lên đâu đây lời Vũ nói. Điều mình mơ ước thật sự vẫn còn xa lắm ở phía trước./.

Hà Nội tháng 4/2021.

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ số ra ngày 29/5/2021.

Tôi nhớ khi Nguyễn Tuân mất (tháng 7 năm 1987), Nguyễn Minh Châu trong bài báo Người cầm bút ấy... có viết rằng: “Đời người được cưng chiều. Thời nào ông cũng được người đời hết mực nâng niu chiều chuộng, vì lòng mến mộ một tài năng đích thực và đồng thời vì một khát vọng cháy bỏng của mọi con người: được sống giữa cõi đời này với tất cả các bản ngã đích thực của mình. Nhà thơ Chế Lan Viên một lần nói với tôi: Văn chương ta mà tất cả đều là Nguyễn Tuân thì mệt quá, nhưng thiếu đi một Nguyễn Tuân thì thiệt to quá, hổng lớn quá, thiếu đi nhiều quá!” Nhắc tới Nguyễn Tuân là nhớ đến mấy câu ngắn gọn nhưng thật đầy đủ về ông của nhà văn cùng thời Nguyễn Đình Thi: “Đây là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp, cái thật. Là người sinh ra để tôn thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa.” Nhân tết đến xuân về xin kể cùng bạn đọc mấy mẩu chuyện về nhà văn lão thành người Hà Nội đặc sắc này.

20210301 2

Nhà văn Nguyễn Tuân.

1. Ôi Đại tướng ơi!

Mùa xuân năm 1948, cùng với nhiều văn nghệ sĩ khác, Nguyễn Tuân theo bộ đội lên Việt Bắc đánh giặc. Ông đi với Trung đoàn Thủ đô. Ông kể trong bài Buổi thi chính trị rằng, có một lần ông và nhà viết kịch Đoàn Phú Tứ- tác giả bài thơ Màu thời gian và vở kịch Ngã ba xuất bản từ trước Cách mạng tháng Tám - được mời tham gia làm giám khảo một cuộc thi chính trị của bộ đội nhân kết thúc cuộc vận động “Luyện quân lập công”.

Ông viết về cảm nghĩ của mình lúc đó như sau: “Thật là một điều mới mẻ cho đời tôi! Một người vốn chỉ sống với hoa nở bên đường, trôi nổi bên dòng liễu nhân và thích những vùng mây xa quá tầm với của tay mình, một người nặng căn mộng tưởng như thế này mà nhất đám phải đứng trước chỗ ba quân, để đố thách những người quân nhân cách mạng! Mà lại đột ngột! Mà lại không được chuẩn bị từ trước! Ôi, Đại tướng ơi! Thật chỉ có Cách mạng thì mới có những việc như thế này!” Và ông đã chứng tỏ được “sự thân thiết giữa anh em cầm bút và anh em cầm súng”.

Ông hỏi năm mươi anh em trong Trung đoàn một câu. Mới đầu định hỏi “Tại sao về chính trị, Trung đoàn Thủ đô lại giỏi hơn các đơn vị khác?”, song nghĩ hỏi như vậy sẽ dễ gợi cái “ý đố kị sai lầm” không tốt, nên trước khi ngồi vào ghế giám khảo cuộc thi vấn đáp chính trị ông đã đổi lại câu hỏi thành “Tại sao anh em Trung đoàn Thủ đô lại không được phép thua những đơn vị khác về chính trị?” Chỉ đổi mấy từ “phải giỏi hơn” thành “không được phép”, câu hỏi thi của Nguyễn Tuân đã không chỉ “chính trị” hơn mà còn toát lên một tinh thần rất “quân sự” nữa. Mới hay với Nguyễn Tuân dù là khi nói hay lúc viết thì ngôn từ luôn luôn được ông tính toán đắn đo rất kĩ. Ông đúng là một nhà văn có “trình độ sử dụng tiếng Việt điêu luyện” và có những đóng góp đáng kể vào sự phát triển văn xuôi quốc ngữ Việt Nam hiện đại như nhận xét của người đời sau.

2. Để “tôi píp”

Năm 1950, ta mở chiến dịch lớn nhằm giải phóng biên giới, mở toang cánh cửa thông thương với Trung Quốc và các nước anh em. Trong chiến dịch này, Nguyễn Tuân được phái đi theo một đơn vị thiện chiến thuộc Đại đoàn Quân Tiên phong. Trong một trận đánh, quân ta thắng lớn, chiếm được đồn của quân Pháp. Trong đồn có rất nhiều thuốc lá Cotab và rượu cognac - những thứ mà khi còn ở Hà Nội, nhà văn rất thích. Nhưng ở chiến trường, kỉ luật của quân đội rất nghiêm không thể uống hút say sưa được. Nguyễn bèn nghĩ ra một cách là đổ cognac vào mũ sắt, ngâm tẩu thuốc vào đó suốt hai mươi tư giờ. Nhà văn bảo ấy là để “tôi píp” (ướp tẩu). Với sáng kiến độc đáo này, trong thời gian tham gia chiến dịch lúc nào bên ông cũng có hơi rượu bởi chiếc píp là vật bất li thân của ông.

3. Đã ngửi thấy mùi Hà Nội

Trong đội ngũ nhà văn đi kháng chiến hưởng ứng phong trào “Văn nghệ sĩ đầu quân” những năm chống Pháp (1946-1954) có nhiều nhà văn tiền chiến, trong đó có nhà văn lão thành Nguyễn Tuân. Đi kháng chiến, theo bước chân bộ đội vào Tây Bắc, lên Việt Bắc, Nguyễn đã viết được nhiều tác phẩm có giá trị, trong đó phải kể đến Tình chiến dịch. Ông là người rất được bộ đội yêu và cũng thích đi cùng bộ đội kể cả dự những chiến dịch. Trong chiến dịch Biên giới, đi cùng một đơn vị thuộc Đại đoàn Quân Tiên phong (308), ông rất phấn khởi vì đây là trận đánh có ý nghĩa lớn: khai thông biên giới, chuẩn vị cho tổng phản công. Một đêm, khi cùng các chiến sĩ bò qua đường số 4 đánh sang Thất Khê, Nà Hang, ông đã tỏ ra... quyến luyến cái đường nhựa. Thấy vậy, người chỉ huy đã phải giục ông vượt nhanh lên kẻo nguy hiểm. Ông thì thầm, rằng ông rất xúc động khi thấy đường cái nhựa, rằng đã ra được đường cái nhựa tức là đã sắp đến ngày chiến thắng rồi và rằng thấy được đường nhựa, đường 4, tức là đã… ngửi thấy mùi Hà Nội. Quả nhiên, sau chiến thắng Biên giới, lực lượng kháng chiến liên tục giành thắng lợi và chưa đầy bốn năm sau nhà văn đã có mặt trong đoàn quân chiến thắng trở lại tiếp quản Thủ đô giải phóng (10/1954).

4. Cà phê ngon…

Thời kì Mĩ ném bom miền Bắc, Nguyễn Tuân đi thực tế ở vùng mỏ Quảng Ninh. Tuy là ở cách Thủ đô hàng trăm cây số, lại dưới trời bom đạn nhưng tác giả Vang bóng một thời vẫn không bỏ được thói quen rất người Hà Nội của mình. Ông không xài nổi thứ cà phê mậu dịch hai hào thơm nức... mùi ngô rang. Một hôm ông bảo Hoàng Gia Điền, người cán bộ địa phương (sau đi bộ đội và làm việc ở Tổng cục Chính trị) có trách nhiệm dẫn đường cho các nhà văn:

- Cháu có biết chỗ nào có quán cà phê tư không?

- Dạ thưa có, nhưng cháu không biết phân biệt thế nào là cà phê ngon, thế nào là cà phê không ngon - Anh Điền trả lời khiêm tốn và thật thà.

- Cà phê ngon à... đơn giản thôi. Thế này nhé. Trừ cà phê mậu dịch quốc doanh, cứ cà phê tư là ngon, nhưng loại ngon nhất phải là đen, đen như quỷ sứ; nóng, nóng như địa ngục và uống vào phải say, say như đàn ông gặp đàn bà...

Nắm được “công thức” ấy, người giao liên trẻ đã dẫn nhà văn đi đến được các hang cùng ngõ hẻm của Quảng Yên, Hòn Gai, Uông Bí, Đông Triều - nơi có những quán cà phê danh tiếng của đất mỏ.

5. Không thèm ăn

Nhà văn Nguyễn Tuân và nhà văn Tô Hoài là những người rất thuộc Hà Nội, biết rành rẽ nhiều lĩnh vực ở Thủ đô, từ chuyện cũ xưa như lời ăn tiếng nói, thói quen của người Tràng An đến phong cảnh, danh thắng. Trong lĩnh vực ẩm thực, hai ông cũng là những người sành điệu có tiếng, chẳng kém cạnh gì những Tản Đà, Thạch Lam, Vũ Bằng... trước đây.

Tô Hoài kể, trong quyển hồi kí Chiều chiều, rằng sinh thời Nguyễn Tuân thường cùng ông tới các hiệu ăn, tiệm giải khát nổi tiếng của Thủ đô. Cũng chẳng ăn cao lương mĩ vị gì, có khi chỉ là uống một li bia hơi, thưởng thức một đĩa bánh cuốn, một tô phở. Một lần, vào lúc chập tối, Tô Hoài cùng Phạm Khoa Văn và Nguyễn Tuân rủ nhau đến nhà hàng Bôđêga - một nhà hàng cao lâu nổi tiếng thời Pháp thuộc nằm ở phố Tràng Tiền định thưởng thức một món gì đó. Nhưng vừa vào đến cửa đã thấy Nguyễn Tuân quay ra ngay. Ông bảo những người cùng đi: “Lên cà phê Nhân, uống một cái phin rồi về.” Tô Hoài cùng Phạm Khoa Văn không hiểu đầu cua tai nheo ra làm sao nữa, cứ phân vân. Sang đến bên kia bờ hồ Hoàn Kiếm rồi, Nguyễn Tuân mới nói: “Mặc quần áo ngủ đón khách vào ăn, bẩn quá không nuốt được.” Thì ra, khi cả ba văn nghệ sĩ bước vào, Nguyễn Tuân đã nhìn thấy cảnh ông trưởng cửa hàng cao lâu mặc pizama xanh ngồi ở ngoài hiên, đứng dậy chào. Thế là Nguyễn Tuân không thèm vào, không thèm ăn nữa.

6. Để tiếp tục tranh luận

Theo Thanh Tịnh, sinh thời Nguyễn Tuân rất nghiệt ngã với các nhà phê bình. Một lần có người đến thăm hỏi nhà văn làm việc vào lúc nào, ông trả lời: “Viết vào lúc nửa đêm.” Hỏi tại sao, nhà văn bảo: “Lúc ấy các ông phê bình ngủ cả rồi.” Và một lần khác khi đang ốm nặng, có người hỏi ông có di chúc gì không, nhà văn nói: “Tôi chết hãy chôn tôi cạnh ông phê bình.” Hỏi tại sao thì được trả lời: “Để tiếp tục tranh luận cùng họ!”

7. Thơ phải đủ sắc hương, mùi vị

Nguyễn Tuân là người rất yêu hoa. Giáp Tết năm ấy có người đem đến tặng nhà văn một chậu hoa lan hàm tiếu rất đẹp. Nguyễn hi vọng đúng khi hoa nở sẽ có bạn quý tới chơi để cùng thưởng thức. Một người bạn đến, hoa chưa nở. Ông cảm thấy buồn tiếc bởi bạn cũ lâu ngày mới gặp, chẳng được cùng nhau thưởng hoa. Sáng xuân sau, Nguyễn dậy sớm, ngồi độc ẩm. Lạ thay, đúng lúc các nhành lan đua nhau nở và đưa hương thoang thoảng. Tức cảnh, Nguyễn Tuân đọc liền câu thơ:

Bạn cũ về rồi hoa mới nở
Nổi tăm lòng rượu một hương ai

Ấy là lần đầu tiên trong đời tác giả Vang bóng một thời làm thơ, làm chỉ đúng hai câu mà có đủ cả hoa, rượu và hương thơm. Và nhớ ông, tôi lại nhớ đến bài của nhà văn Kim Lân viết hôm giã biệt bậc đàn anh: “Anh Nguyễn Tuân ơi! Anh vốn là người yêu hoa, quý hoa. Trong phòng viết của anh quanh năm không lúc nào vắng hoa. Hôm nay, hoa Hà Nội tề tựu cả ở đây, cùng chúng tôi, các bạn bè thân thiết của anh, các bạn đọc xa gần từ lâu vẫn ái mộ anh..., tất cả hoa, và chúng tôi cùng đưa tiễn anh về nơi yên nghỉ cuối cùng… Thế thì anh Tuân ạ, trước sau anh vẫn đúng là người sung sướng nhất đời đấy!”

Nguyễn Tuân sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại phố Hàng Bạc, Hà Nội. Quê gốc của ông ở làng Mọc, nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà Nội. Thân sinh của nhà văn là cụ Tú Hải Văn - một nhà nho tài hoa đậu khoa thi Hán học cuối cùng đồng thời là người ảnh hướng lớn nhất đến hồn văn của Nguyễn Tuân sau này. Cách mạng tháng Tám thành công, Nguyễn Tuân trở thành cây bút tiêu biểu của nền văn học mới. Năm 1950, ông được kết nạp vào Đảng. Từ 1948 đến 1958, ông giữ chức Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Ông mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội. Năm 1996 ông được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

Ngô Vĩnh Bình

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 20.02.2021.

Hồn thơ Quang Dũng sớm biết rung cảm trước những cuộc lữ. Bài Chiêu Quân ông viết năm mười sáu tuổi là một thí dụ: Đây Nhạn Môn quan đường ải vắng/ Trường thành xa lắm Hán vương ơi!/ Chiêu Quân che khép mền chiên bạch/ Gió bấc trời Phiên thấm lạnh rồi. Năm năm sau, tức năm 1942, khi viết Giang hồ, Quang Dũng càng tỏ rõ nỗi xúc động đặc biệt của mình trước những kiếp gió bụi: Mấy gã thanh xuân, lòng bốn cõi/ Nhẹ nhàng thân gửi kiếp ra đi/ Gói, khăn, trăng, gió trời mây bạc/ Hồn nhẹ quên trong xác nặng nề.

20210512

Điều này có vẻ hơi khác thường, song nếu biết đôi chút về đời tư Quang Dũng, hẳn sẽ thấy không có gì khó hiểu cho lắm. Quang Dũng sinh năm 1921, quê ở làng Phượng Trì, xã Đan Phượng, tức phủ Quốc Oai, trấn Sơn Tây xưa - vùng bán sơn địa cổ thường được gọi với cái tên bình dị là xứ Đoài. Nhưng quãng thời gian Quang Dũng gắn bó với nơi này không dài. Mới lên bảy, ông đã được gia đình cho ra Hà Nội học, ở nhà người cậu ruột. Cảnh sống xa nhà và những thân phận u uẩn chiều lưu lạc/ buồn viễn xứ khôn khuây có lẽ vì vậy mà đã ám ảnh tâm hồn Quang Dũng ngay từ thơ ấu.

Từ năm 1946, khi gia nhập Vệ quốc đoàn rồi trở thành một thành viên của Binh đoàn Tây Tiến, ông càng dấn mình vào kiếp phiêu bạt. Cuốn hồi kí Đoàn Võ trang Tuyên truyền Biên khu Lào - Việt(1) được Quang Dũng hoàn thành năm 1952 là bản biên sử sinh động về quãng đời lênh đênh đầy nhọc nhằn nhưng lãng mạn và tươi đẹp ấy. Mà có lẽ cũng chính từ đây, ông bắt đầu nhận ra cái khoái thú của những chuyến đi. Cho nên sau này, dù đã giải ngũ, chuyển sang làm công tác văn hóa, xuất bản rồi về hưu, ông vẫn không quên được đời ngao du bay nhảy, thậm chí xem đó như một niềm mê đắm. Nhà thơ Trần Lê Văn, trong Lời giới thiệu Tuyển tập thơ văn Quang Dũng (Nxb Hội Nhà văn, 2014), khẳng định điều ấy khi nhắc đi nhắc lại nhiều lần rằng, người bạn thân của ông có niềm say mê “được luôn luôn cất bước trên những dặm đường”, lúc nào cũng “hăm hở đi, mải miết đi, như có một ma lực lôi kéo”.

Tâm thức lữ khách ấy len vào đến tận nguồn mạch thơ ca Quang Dũng, làm thành một thứ thơ mà tôi muốn gọi là thơ “ở trên đường”.

*

*          *

Nhìn tổng quát đời thơ Quang Dũng, dễ thấy chủ thể trữ tình trong các sáng tác của ông thường là kẻ đang dấn bước trên những hành trình xê dịch. Đó là chàng lính vệ quốc đang hành quân trong Tây Tiến, Sử một trung đoàn, Quán bên đường, Mắt người Sơn Tây, Nhà bên đường, Lính râu ria, Nhớ… Đó là kẻ sống đời lữ thứ trong Cố quận, Những cô hàng xén, Buồn êm ấm, Thu… Đó là người viễn khách đang trên đường qua Bố Hạ, đến Việt Trì, đi ngang sông Châu, Phủ Lí, trằn trọc đêm Bạch Hạc, nín thở vượt dốc Pha Đin… Chưa kể, thử lướt qua phần cuối các bài thơ, nơi Quang Dũng ghi lại địa điểm sáng tác và nhất là nhìn vào sự hiện diện dày đặc của hàng loạt địa danh khác nhau, những tên đường, tên sông, tên núi trải từ miền ngược đến miền xuôi trong thơ Quang Dũng (đơn cử đoạn trong bài Bắt đầu: Ôi sông Hồng Hà cuộn đỏ/ Đêm thu qua bến Việt Trì/ Sông ơi có biết/ Lòng người ra đi/ Cổ Đô - Thổ - Tạng - những làng/ Sơn Tây - Ba Vì những núi/ Bạch Hạc là đâu/ Phong Châu đất cũ/ Bến vắng thuyền xuôi giọng hát ả đào/ Trăng lạnh mái chèo ca nữ), người ta đã phần nào hiểu được sức đi của vị thi sĩ tài hoa này và cái cảm hứng “trên đường” chảy rào rạt trong thơ ông.

Nói đến đi và viết, có một thực tế thường thấy, rằng khách văn chương, khi bước vào những hành trình, hình như không phải muốn kiếm tìm hay phát kiến ra một thứ gì mới mẻ. Họ không phải là Columbus dong thuyền ra khơi trong niềm khát khao những vùng đất lạ; họ không giống Darwin lênh đênh trên biển suốt nhiều năm để quan sát và ghi nhận tự nhiên, từ đó gây dựng thuyết tiến hóa; và họ cũng khác Lévi-Strauss - người từng bỏ công đi sâu vào vùng rừng rậm Amazon, tìm đến những bầy người da đỏ nguyên thủy để khám phá xem đâu mới là cái cơ cấu tư duy phổ quát của nhân loại đã có từ thượng cổ. Người văn chương, ngược lại, ra đi kì thực là để tâm thức thực hiện những cuộc trở về. Tôi rất thích tựa đề quyển bút kí của nhà văn Lê Vũ Trường Giang, “Đi như là ở lại”. Nghe có vẻ nghịch nhĩ, song thực tế là trên những chặng đường ra đi ấy, hẳn có lúc ta đã để lại một mảnh hồn, một khối tình cho những xứ sở ta qua, cho ngọn cỏ dại ta nhìn thấy bên đường, cho trang sách ta tình cờ lần giở, cho tiếng chuông sơn tự vang vọng vào những buổi sớm sương giáng… Cứ thế, ta đi nhưng thực ra đã mãi ở lại trong những nơi chốn mà ta từng đến, trong những duyên tình ta hạnh ngộ. Đi vì thế cũng là một cách nhung nhớ, mà thậm chí sâu bền và mãnh liệt hơn nhiều so với ở lại: sự quen thân, nghịch lí thay, nhiều khi mới chính là nguồn cội của quên lãng.

Thơ ca Quang Dũng phát khởi từ chính những thương nhớ trên đường như vậy. Điều này lí giải vì sao trong nhiều bài thơ về đời lính, Quang Dũng không nói đến những đoàn quân hào khí ngút trời hay những chiến công hiển hách, oai dũng, mà lại rất hay kể về chặng đường hành quân gắn với những kỉ niệm chỉ một lần gặp gỡ.

Đó là những cái quán nhỏ, những mái tranh vẹo xiêu ở lưng chừng đèo dốc mà ông và đồng đội, trong một đêm ngắn ngủi nào, đã dừng lại nghỉ chân: Khuya khoắt sông bờ vắng/ Lửa hồng quán tản cư/ Lính mấy chàng vất vả/ Tìm sống một đêm thơ (Lính râu ria); Đây căn nhà chật hẹp/ Tạm bợ dựng bên đường/ Tường xếp gạch phá hoại/ Đôi mái liếp che sương/ Năm năm trời kháng chiến/ Đây làm quán giang hồ/ Cửa rộng đón bằng hữu/ Rừng núi về trung du (Nhà bên đường); hay Nhà tranh hốc hác/ Cuối làng chơ vơ/ Đường xa công tác/ Người lính ghé nhờ (Nhớ).

Đó là một đêm vui hiếm có giữa rừng Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa/ Kìa em xiêm áo tự bao giờ/ Khèn lên man điệu nàng e ấp/ Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ (Tây Tiến), là một khoảng yên bình chóng vánh thời chiến mà thi sĩ bắt gặp trên đường hành quân Bên cuối thôn xuân hoa gạo rơi/ Sông xanh hiền triết lặng trôi xuôi/ Đò ngang một chuyến qua mưa bụi/ Ấm áp trong mưa tiếng nói cười/ Cái giọng ru con từ ngõ trúc/ Thanh bình như phút sống đang trôi (Đất nước).

Đó còn là cô em gái tản cư chung cảnh ngộ “thiếu quê hương” Và chợt nhớ chúng ta xa nhà cửa/ Em tản cư tôi làm lính tiền phương/ Quê Hà Nội cùng xa từ một thuở/ Lòng rưng rưng thương nhau qua dọc đường (Quán bên đường), là người gái núi vừa gặp gỡ đã phải chia xa Ngỡ hết thôi rồi muôn giới biên/ Em là gái núi mộng bình yên/ Anh là trai lỗi thời binh lửa/ Môi lạnh không chờ chuyện lứa duyên (Đêm lạnh).

Thơ Quang Dũng viết sau khi ông rời quân ngũ vẫn tiếp nối mạch cảm hứng của các sáng tác giai đoạn trước đó, vẫn là những hành trình đi và viết, nhưng tâm thức lính đã nhạt dần, nhường chỗ cho những xúc cảm mang đậm màu sắc thế sự hơn. Có nhiều bài là nỗi xót xa trước những điêu tàn thời chiến như Đường chiều thứ bảy, Chabbi - Chabbi, Nhớ bạn, Những nghĩa trang… Song cũng có những bài như Bắt đầu, Rừng, Hoa chè, Pha Đin, Bất Bạt đêm giao quân, Những người tóc đã trắng, Mây đầu ô… lại là lời ca hi vọng, là tiếng reo vui, dầu vẫn ở giọng trầm, trước những sinh sắc chớm nở ở miền Bắc hậu chiến.

Tuy nhiên, có một thứ kí ức sâu đậm hơn tất thảy, thứ kí ức đã ở lại và day dứt mãi trong suốt cuộc đời Quang Dũng dù những hành trình thăm thẳm có đưa bước chân ông đi đến tận đâu, và ngược lại, có lẽ cũng chính vì đi nhiều mà cái kí ức ấy trong ông càng nhức nhối. Tôi đang muốn nhắc đến nỗi nhớ cố hương phủ dày trong thơ Quang Dũng.

Hãy thử làm một thống kê: Ngồi đây năm năm miền li hương/ Quê người đôi gót mỏi tha phương (Cố quận); Bộ hành thiêm thiếp nhớ trung châu (Trưa hè); Và chợt nhớ chúng ta xa nhà cửa (Quán bên đường); Cách biệt bao ngày quê Bất Bạt/ Chiều xanh không thấy bóng Ba Vì, Tôi nhớ xứ Đoài mây trắng lắm, Buồn viễn xứ khôn khuây (Mắt người Sơn Tây); Hồn còn buồn vương hình dáng quê xưa (Tình quê); Quê mẹ không còn dấu vết/ Như chẳng có bao giờ (Nhớ về mẹ); Có nhớ về đất Bắc/ Những người xa quê hương (Có nhớ về đất Bắc); Trưa hè bỗng nhớ sông quê (Mây làng); Ai biết Hồ Nam giờ ra sao/ Xa cách hồn quê động bóng cau (Hồ Nam); Áo chàm lên ga/ Hương rừng đã ngái/ Chạnh niềm quê hương (Bắt đầu); Đường về quê hương về quê hương/ Có một ngày sao mà bất tận (Không đề 2); Em chở anh qua đò/ Đi tòng quân một sớm/ Dòng sông của quê ta/ Trong mắt anh chầm chậm (Đám cưới qua sông Đáy); Nhớ Sơn Tây hơn một mối tình (Gửi Sơn Tây); Sấm đầu mùa đã động/ Sao động lòng tha hương? (Chiều núi mưa rào); Nước mắt em buông lã chã/ Long lanh nhớ giếng quê nhà (Bắt tép kho cà); Đất đá ong trong lòng giếng mát/ Ôi Sơn Tây! Sài Sơn yêu thương! (Nhớ một bóng núi)…

Dễ thấy, trong thơ Quang Dũng, nỗi nhớ quê hương của ông đã được bày ra với gần như toàn bộ những cạnh khía, những biến thể phức tạp nhất của nó. Quang Dũng nhớ đất, nhớ sông, nhớ núi, nhớ da diết cảnh mây trắng trùm bọc xứ Đoài, nhớ cái giếng nước mát, những tảng đá ong, thậm chí chỉ cần nghe tiếng sấm một chiều giữa rừng, ông cũng bâng khuâng nhớ thương quê cũ.

Nhưng thao thiết và ám ảnh nhất có lẽ vẫn là nỗi nhớ về những cố nhân nơi quê xưa, nỗi nhớ đã trở thành nguồn cảm hứng cho Đôi bờ, Mắt người Sơn Tây, Những cô hàng xén - những bài thơ tiêu biểu nhất làm nên tên tuổi Quang Dũng. Đôi bờ mở ra một bến sông khuya chìm khuất trong rét mướt và mưa bụi, nhưng nỗi nhớ và khói thuốc đã đưa người em gái bên bờ sông Đáy quê cũ năm nào trở về trong mộng mị: Khói thuốc xanh dòng khơi lối xưa/ Đêm đêm sông Đáy lạnh đôi bờ/ Thoáng hiện em về trong đáy cốc/ Nói cười như chuyện một đêm mơ. Mắt người Sơn Tây lại diễn tả cái khắc khoải trong một đôi mắt xứ Đoài, đôi mắt mà binh lửa, lưu lạc và điêu tàn đã hằn lên thành những “suối lệ”. Trong khi đó, Những cô hàng xén lại là nỗi nhớ đẹp về một làng quê Bắc Bộ tươi nhuận đang vào độ vải chín, và nhất là về những cô gái hàng xén ven sông Đáy duyên xinh, “đẹp như ca dao nước Việt”...

*

*          *

Mỗi lần đọc thơ Quang Dũng, tôi hay nhớ về chân dung ông, bức chân dung chàng quân nhân Bùi Đình Diệm chụp những ngày Tây Tiến với chút râu ria điệu nghệ, nhân trung hõm rõ, mà nhất là đôi mắt, một đôi mắt sâu, xa vắng, thăm thẳm. Mắt người Sơn Tây có đoạn: Đôi mắt người Sơn Tây/ U uẩn chiều lưu lạc/ Buồn viễn xứ khôn khuây. Nhiều người sẽ nghĩ rằng đôi mắt ấy là đôi mắt của một người con gái. Nhưng có gì để bảo chứng? Trong một thoáng mơ lãng, tôi nghĩ đó cũng rất có thể là bức tranh bằng chữ mà Quang Dũng đã dùng để tự họa đôi mắt mình - đôi mắt mà ông cho là “u uẩn” vì “buồn viễn xứ”. Viễn xứ quả là buồn, và Quang Dũng thực ra thấm thía lắm nỗi buồn ấy. Dầu vậy, ông vẫn đi, tha thiết được đi, đi như một phận sự và đi như một lời réo gọi từ nội tại. Bởi rõ ràng những hành trình trong đời đã khiến nỗi nhớ trong ông thêm cuồn cuộn và sâu thẳm. Những thương nhớ trên đường u uẩn ấy, chính chúng tạo cho thơ Quang Dũng một thứ hồn cốt hiếm có, một thế đứng độc đáo trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam.

Nguyễn Đình Minh Khuê

Nguồn: Văn nghê quân đội, ngày 03.5.2021.

-------

1. Quyển hồi kí vừa được gia đình nhà thơ Quang Dũng công bố vào năm 2019, Nxb Kim Đồng ấn hành, đặt lại tên là Đoàn binh Tây Tiến.

Sáng 19.2 tại số 81 Trần Quốc Thảo, Q.3, Hội Nhà văn TP.HCM tổ chức lễ trao giải thưởng năm 2020 và kết nạp hội viên mới trong không khí ấm áp, chan hòa tình đồng nghiệp trong ngôi nhà chung văn chương đầu năm mới.

Theo nhà văn Bích Ngân – Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM: “Hội đồng chuyên môn và Ban Chấp hành (BCH) Hội Nhà văn đã làm việc với tinh thần cầu thị, với nỗ lực không bỏ sót bất kỳ mọi khám phá, tìm tòi nào ...để tìm ra những tác phẩm xứng đáng trao giải thưởng hàng năm. Một mặt BCH luôn tôn trọng đánh giá của các Hội đồng chuyên môn; mặt khác tranh luận, phản biện để đi đến quyết định trao giải thưởng và tặng thưởng. Mặc dù từng có 10 năm trong BCH, dù không muốn so sánh nhưng theo tôi giải thưởng năm nay là đầy đặn và chất lượng nhất, với đủ các thể loại: văn, thơ lý luận phê bình...”.

 

Niềm vui của các tác giả nhận giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM năm 2020: nhà văn - đạo diễn Xuân Phượng (thứ hai từ trái qua), nhà văn Bùi Quang Lâm và nhà thơ Cao Xuân Sơn.

 

Được biết, trong số ba tác giả được trao giải thưởng thì điều bất ngờ là hai tác phẩm hồi ký – truyện ký của hai tác giả chưa là Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM là đạo diễn Xuân Phượng (tác phẩm Gánh gánh gồng gồng...) và tác giả Bùi Quang Lâm (Đất K). Nhà văn đạo diễn Xuân Phượng (sinh năm 1929), dù tuổi năm nay đã cao nhưng bà...quá vui, có mặt ngay từ sáng sớm để nhận giải. Nhà văn Trầm Hương – Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM đánh giá "những trang viết của bà đậm chất nữ tính sự từng trải, nhân hậu, trí tuệ đã làm sống dậy gần trọn một thế thế kỷ đầy biến động, đau thương, bi hùng của đất nước. Động cơ thôi thúc bà cầm bút là để hóa giải uẩn khúc được chôn giấu sau hơn nửa thế kỷ, tuôn ra cùng những giọt nước mắt đoàn viên".

Nhà văn Trầm Hương nói: “Dù đậm chất trữ tình, xót xa, bi phẫn... Nhưng trên tất cả là niềm tự hào về người phụ nữ Việt Nam không cúi đầu khuất phục nghịch cảnh, một người mẹ tràn ngập tình mẫu tử cao đẹp, một nghị lực phi thường vượt qua những khúc quanh nghiệt ngã của lịch sử và số phận... Một hồi ký nhưng đậm chất điện ảnh, sâu thẳm nhân sinh; lấp lánh nước mắt thấm ướt, kết nối các thế hệ và ngân vang tiếng cười lạc quan từ trong chiến tranh tàn khốc; trong đói khổ, bóng tối những ngày hậu chiến, khao khát hướng tới tương lai tươi đẹp bằng nỗ lực kết nối con người...”.

Ngược lại, truyện ký Đất K Bùi Quang Lâm lại là những lát cắt chưa xa về những ngày hậu chiến khó khăn của đất nước, về những người mẹ tần tảo lo từng cái ăn cái mặc cho gia đình lại tiễn những đứa con ra chiến trường ác liệt.

Bấm chân qua tuổi dại khờ là tập thơ duy nhất được trao giải thưởng của Hội Nhà văn TP.HCM năm 2020. Nói về sức hấp dẫn của tập thơ này, nữ văn sĩ Trầm Hương không giấu được cảm xúc khi trải lòng: “Ẩn đằng sau vẻ ngoài hầm hố, bặm trợn của người đàn ông không còn trẻ nữa là trái tim đa cảm, mềm yếu, mong manh của Cao Xuân Sơn. Anh đã tự hoạ chân dung mình:“Anh. Gã đàn ông lênh khênh, vạm vỡ/ đủ tự mình làm núi ngắm mình chơi. Nhưng vượt lên trên, giá trị cốt lõi của tập thơ được vinh danh giải thưởng Hội Nhà văn TP.HCM 2020 là sự lắng đọng, chiêm nghiệm, triết lý bật lên một cách hồn nhiên từ trải nghiệm cuộc sống của anh".

So với mọi năm thì số tiền được trao của giải thưởng của Hội Nhà văn TP.HCM năm nay có tăng khá hơn với 16 triệu đồng/giải và tặng thưởng 8 triệu đồng cho các tác phẩm Chúng tôi - một thời mũ rơm mũ cối (nhà thơ - nhà báo Huỳnh Dũng Nhân - hồi ký - NXB Tổng hợp TP.HCM); Đoản khúc chiều phù dung (Vũ Văn Song Toàn - tập truyện ngắn - NXB Trẻ); Đi tìm mỹ cảm văn chương (Trần Hoài Anh - tiểu luận – Phê bình – NXB Hội Nhà văn).

21 nhà văn – nhà thơ được kết nạp lần này, gồm: Đỗ Thị Anh, Phan Thị Thanh, Trúc Thuyên (Tống Phước Bảo), Đoàn Minh Phong, Đới Xuân Việt, Bùi Quang Lâm, Lê Công Sơn, Trần Võ Thành Văn, Đinh Thị Phúc (Phúc Đinh), Võ Thị Mai (Hoa Mai), Nguyễn Thị Dung (Thanh Dung), Nguyễn Văn Minh, Nguyễn Văn Hân (Phương Hùng), Nguyễn Thị Nguyệt (Nguyệt Thu), Nguyễn Đinh Nhật Lân (Chiêu Dương), Đoàn Lâm, Hồng Ngọc Châu, Nguyễn Văn Thành, Lê Thị Lựu (Thiên Hương), Nguyễn Thanh Hoàng, Nguyễn Thị Hường (Thu Hường), cũng đã được BCH Hội Nhà văn TP.HCM trao thẻ nhà văn và tặng hoa chúc mừng cho các tân hội viên trong những tình thân.

Nguồn: https://thanhnien.vn/van-hoa/hoi-nha-van-tphcm-trao-giai-thuong-nam-2020-chan-hoa-trong-tinh-van-chuong-1343639.html

Lần đầu tiên sau ngày thống nhất đất nước, giữa TP.HCM có buổi trò chuyện về một nhà thơ lớn nổi tiếng trong giới tri thức miền Nam nhưng vẫn còn ít người trong độc giả đại chúng biết đến: nhà thơ Tô Thùy Yên (1938 - 2019).

20210425

Nhiều bạn trẻ tham gia buổi cafe thơ Thơ Tô Thùy Yên - Để mà thương nhớ thơ - Ảnh: KHẢ LINH

Buổi trò chuyện mang tên Thơ Tô Thùy Yên - Để mà thương nhớ thơ diễn ra ngày 24-4 tại địa chỉ mới của không gian văn hóa Cà phê thứ bảy: 79A Phan Kế Bính, Q.1, TP.HCM.

Một tiếng Việt được chưng cất tài hoa qua thơ Tô Thùy Yên

Nhạc sĩ Dương Thụ - người chủ trì buổi café thơ - bày tỏ cuộc trò chuyện đặc biệt này như là một nén nhang "tưởng nhớ một người chúng ta kính trọng", để chúng ta cùng hưởng thụ những di sản văn hóa có giá trị, trong bối cảnh không tránh khỏi của sự phân ly về văn hóa mà lịch sử tác động đến. Ông khẳng định Tô Thùy Yên chính là một nhà thơ của Việt Nam, không phải của riêng miền Nam.

Nhà nghiên cứu, nhà văn Nhật Chiêu cũng khẳng định: "Tô Thùy Yên chính là một nhà thơ lớn của Việt Nam, một bậc thầy của tiếng Việt" - một tiếng Việt "được chưng cất tài hoa mà nếu nhiều người không biết là một cái tội". Ông thừa nhận trong thực tế, rất nhiều bạn trẻ chưa đọc thơ Tô Thùy Yên hay chỉ mới mang máng nghe tên nhà thơ, và hi vọng buổi trò chuyện về một nhà thơ sinh ra ngay thành phố này sẽ lấp một phần nào khoảng trống đó.

Dẫn lại một câu thơ trong bài thơ Ta vềBếp lửa nhân quần ấm tối nay, nhà văn - nhà thơ Nhật Chiêu nêu quan niệm: Sứ mệnh của thơ ca cũng chính là bếp lửa để mọi người đưa tay vào cùng hơ ấm. Thơ Tô Thùy Yên vượt qua mọi phía, phía này hay phía kia để đi tới "bếp lửa nhân quần" đó, đi trên một "con đường lớn" không có phân ly.

Theo ông Nhật Chiêu, đọc thơ của nhà thơ có tư cách triết nhân này sẽ thấy thi sĩ yêu ca dao, yêu tiếng Việt, có chiều sâu triết học, và có kiến thức về văn học thế giới "kinh khủng" đến mức nào.

Ông đi từ Đông sang Tây, từ cổ điển đến hiện đại, để hiểu thơ của ông hết các tầng nghĩa là không dễ với người đọc nói chung, "nhưng chỉ tiếp xúc với bề mặt thơ thôi, hiểu một đến hai tầng nghĩa thôi cũng đủ thấy tuyệt vời", như bài Con sáoCon sáo trong lòng con đã chết/ Bé ơi, sao bé còn đi tìm?/ Còn kêu lạc giọng sáo ơi sáo/ Rồi khóc trong chiều muộn nhá nhem? Hay bài Không kịp có "4 câu thôi mà cực thâm sâu": Gặp lại nhau nhìn sững chẳng ra/ Em thay đổi quá, tựa sơn hà/ Thơ làm không kịp theo dâu biển/ Mắt dẫu khô mà nhớ lại hoa.

Nhà thơ Nhật Chiêu cũng minh chứng về những biểu tượng đầy tính liên văn bản trong thơ Tô Thùy Yên qua các bài xuất sắc như Du mộng, Vườn hạ, Góa bụa…

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu: Nhà thơ Tô Thùy Yên là bậc thầy của tiếng Việt - Ảnh 2.

Ta về - một bài thơ được xem là kiệt tác của Tô Thùy Yên được đọc vang trong không khí khá xúc động - Ảnh: K.LINH

Đầy lượng từ tâm, không nuôi oán hờn 

Giữa buổi trò chuyện, 126 câu của Bài thơ Ta về - bài thơ được diễn giả Nhật Chiêu xem là 1 trong 4 kiệt tác của Tô Thùy Yên - được TS Hoàng Kim Oanh - vốn thân thiết với gia đình nhà thơ Tô Thùy Yên - và nhà thơ Ngã Du Tử cùng đọc cho khán phòng nghe. Không ít bạn trẻ nghe thơ mà mắt rớm lệ.

Dẫn lời thơ Ta về khai giải bùa thiêng yểm/ Giải oan cho cuộc biển dâu này, Nhật Chiêu bình: Từ Ta về, có thể thấy "thơ Tô Thùy Yên khai giải oan ức để đưa lá rơi về cội, về với giang đầu, về với con người, với cội nguồn, về với nhân quần, không phải về với phe phái nào, bởi lẽ phải là sự tương tác, thương yêu nhau. Khai giải là phương pháp trị liệu vết thương nhân văn nhất".

Từ đó, nhà nghiên cứu luôn tôn vinh vẻ đẹp của tiếng Việt thêm một lần khẳng định: Thơ Tô Thùy Yên đề cao tình tự dân tộc, tinh thần hòa giải, mỗi người cần "góp vui" vào thay vì góp hận (Bao giờ, cho đến bao giờ nữa/ Em gánh vui về họp chợ đông?).

Kết lại bài nói chuyện của mình, ông trích đọc mấy câu trong bài Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai của Tô Thùy Yên để nhắc lại một tư tưởng triết học Phật giáo - Cơ hội làm người là hiếm quý vô cùng - và đúc kết: "Khi mà ta biết hư vô là gì, thì ta sẽ quý con Người":

Biểu dương - hãy biểu dương cùng tận/ Vinh dự lầm than của kiếp người/ Hi hữu một lần trên trái đất/ Và rồi tất cả sẽ nguôi ngoai.

"Thơ cũng như đất trời đầy lượng từ tâm, không nuôi oán hờn. Đây là bài học vĩ đại nhất của Tô Thùy Yên. Nhiệm vụ của chúng ta là gỡ bỏ cái "bùa yểm" rằng dân tộc ta vốn quen với chia ly, với phân tranh (từ thời Trịnh - Nguyễn). Chiến tranh, phân tranh làm gì khi chúng ta là anh em với nhau" - nhà văn Nhật Chiêu nói.

Kết lại buổi trò chuyện, nhạc sĩ Dương Thụ chia sẻ: "Thơ Tô Thùy Yên đánh mạnh về cả trí và tâm. Tôi đã rất xúc động khi đọc Ta về. Một người rất dân gian là Nguyễn Bính. Một người rất tinh tế, bác học là Huy Cận. Tô Thùy Yên hội tụ cả dân gian lẫn bác học. Đầu óc những nhân vật lớn không nhỏ hẹp. Người hẹp hòi thì rất đông. 1 nhà thơ lớn, 1 tâm hồn lớn thì họ nhìn khác, rất bao dung".Ông nói thêm với các bạn trẻ những lời thấm thía: "Những nhà thơ cỡ như Tô Thùy Yên không nhiều được. Tôi phải thừa nhận càng già càng ít đọc, những tôi sẽ tiếp tục đọc thơ Tô Thùy Yên. Chúng ta nên sống với những bài thơ thế này. Đây là một gia tài và chúng ta nên nhận lấy gia tài này. Tôi mong các bạn cũng hãy tiếp tục đọc Tô Thùy Yên, không phải để làm thơ hay mà để chúng ta sống tốt hơn, sống tử tế hơn".

Nhìn vào bên trong để hiểu con người

Trước nhận xét cho rằng Tô Thùy Yên "từ tâm" có lẽ được ảnh hưởng bởi nền giáo dục ông thừa hưởng, có mặt tại buổi trò chuyện, dịch giả Nguyễn Văn Trọng cho rằng thi sĩ có được cái từ tâm đó hay không là câu chuyện của mỗi cá nhân, tâm hồn mỗi con người là huyền bí và nói cho cùng là anh có ngộ hay không, ý thức thế nào về kiếp sống của mình. "Vấn đề là anh nhìn vào bên trong mình để hiểu thế giới con người, hiểu cuộc đời hay nhìn ra bên ngoài để kiếm một con vật tế thần nào đó mà đổ tội".

Dịch giả Nguyễn Văn Trọng cũng bày tỏ nỗi lo ngại khi con đường nhân loại đang đi có vẻ đều hướng về văn minh vật chất, và nếu vậy thì dù là ý thức hệ nào cũng sẽ nguy hiểm.

Tiếp nối ý này, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho rằng các nhà thơ lớn đều là những người gìn giữ, lưu truyền những giá trị mà văn minh vật chất có thể cuốn trôi đi.

Khả Linh

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 24.4.2021.

Vậy là những cố gắng cuối cùng của nhà thơ Đoàn Vị Thượng để trải qua cái Tết Tân Sửu 2021 vừa dừng lại: anh trút hơi thở cuối cùng tại nhà riêng lúc 11h04 ngày mùng 5 Tết (16-2) sau thời gian dài lâm bạo bệnh.

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng

Nhà thơ Đoàn Vị Thượng sinh năm 1959, tên thật là Trần Quang Đoàn, được bạn đọc nhiều độ tuổi yêu mến. Là người gốc Huế, lại sống suốt thời niên thiếu ở Quảng Ngãi, lớn lên lập nghiệp tại Sài Gòn, thơ ông có nhiều ý vị, những cảm xúc hồn nhiên tuổi mới lớn và cả độ trầm lắng suy tư sau khi đối diện với chìm nổi của cuộc đời.

Sự kiện mới nhất về thơ ông là buổi ra mắt tập Thơ Đoàn Vị Thượng hồi cuối tháng 12-2020, do gia đình và bạn hữu cùng NXB Hội Nhà Văn chung tay thực hiện. Tập thơ khiến ông vui hơn một chút trong những ngày cuối đời chống chọi với bệnh tật. 

Nhiều bạn bè yêu quý Đoàn Vị Thượng bắt đầu từ những vần thơ trong trẻo và cá tính. Trong các mối giao tình, họ nhận ra ở nhà thơ gốc miền Trung những độ rung trong tâm hồn có thể tạo ra nhiều giao cảm đồng điệu. 

Đoàn Vị Thượng sống một đời trong niềm yêu thương tin cậy của bạn bè, tránh xa thị phi và không dính dáng đến những được thua còn mất.

Dường như, tự thẳm sâu ông hiểu được sự tạm bợ của kiếp người, sự giả lập của thời gian, và chỉ gửi gắm suy tư vào câu chữ, vào thơ.

Trong buổi ra mắt tập thơ Đoàn Vị Thượng cách đây mới hơn một tháng, nhà nghiên cứu Tịnh Thy chia sẻ với mọi người một góc nhìn về bài thơ Tôi là ai trong tập. 

Theo Tịnh Thy, đây có thể là lời nhắn gửi của Đoàn Vị Thượng đến với mọi người, với cuộc đời: "Tôi là ai, em hỏi lúc gặp nhau/ Chợt câu hỏi cũng là tôi bối rối... Như thể rằng, tôi là một nhà thơ/ Hay là kẻ si tình, thì cũng thế/ Sự có mặt của tôi, có đôi khi không đáng kể/ Tôi lẫn chìm giữa cuộc sống quanh em/ Em yêu đời này, xin yêu một cái tên: Đoàn Vị Thượng".

Cái tên ấy hẳn sẽ còn được nhiều người nhắc mãi, như những vần thơ ông luôn được bạn đọc yêu thích, cho dù ông vừa làm chuyến từ biệt thi đàn để đi vào cõi vĩnh hằng.

Một số tác phẩm của Đoàn Vị Thượng xuất bản trước đây:

- Ngôi trường, hoa phượng và tôi (thơ, 1987)

- Thơ Đoàn Vị Thượng (1988)

- Chuyện tình chim hót (truyện dài, 1989)

- Môi thơm (truyện dài, 1990)

- Tóc em còn thả mùa đi học (truyện dài, 1991)

Hiện linh cữu nhà thơ Đoàn Vị Thượng quàn tại nhà: 41/9 Trần Kế Xương, phường 7, quận Phú Nhuận, TP.HCM.

Thông tin tang lễ: Lễ viếng bắt đầu sau 20h30 ngày 16-2, Lễ động quan: 6h ngày 19-2, sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng tại trung tâm hỏa táng Bình Hưng Hòa.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-tho-doan-vi-thuong-tu-biet-van-dan-o-tuoi-63-2021021614465951.htm

NHỚ TÔ THÙY YÊN

Tự bao giờ anh đã biến thành hoa cỏ

- Tô Thùy Yên -

Đãng tử đi đãng tử đi

âm thầm vang động

thao thức đê mê

**

Đãng tử đi đãng tử đi

mầm xanh cỏ mọc

xuân thì càn khôn

Nhật Chiêu

(Thơ đôi 154)

20210422 2

Tô Thùy Yên là nhà thơ lớn mà sự nghiệp thơ ca đa dạng thể hiện dạn dầy sự sống của ông sẽ được nhắc nhở hoài vì những thi cảm ấy đi với con người dù con người thường đi trong gió loạn.

Sinh năm 1938 tại Gò Vấp Gia Định lớn lên như một người Sài Gòn, trở thành sinh viên Đại Học Văn Khoa, từng đi dạy học, vào quân đội... từng chủ biên tạp chí Thế kỷ 20, góp mặt trong nhóm Sáng Tạo.
Viết thơ trước năm 1975 nhưng chỉ phổ biến trên báo chí. Mãi khi sang Mỹ mới in thơ thành tập: Thơ Tuyển (1995), Thắp tạ (2005).
Tô Thùy Yên qua đời vào năm 81 tuổi tại Houston, 2019.
“Thơ còn – con người còn” đó là niềm tin của Tô Thùy Yên.
Con người thở và mơ. Thở trong khí quyển và mơ trong thi quyển. Thơ vui cùng người và đau cùng người.
“Thơ là hình loại văn nghệ đầu tiên của con người, khi con người không có gì cả trong tay, và thơ chắc chắn cũng là loại văn nghệ cuối cùng của con người khi con người chẳng còn gì cả trong tay. Thơ sẽ còn hiển hiện tồn tại rạng rỡ với con người, nếu mà con người còn ngôn ngữ, còn tấm lòng, còn ký ức, còn là con người trong cái ý niệm cực kỳ cao cả đầu tiên và cuối cùng của mình.” (Tô Thùy Yên, 1997).
Thơ như sương khói (Yên) nhưng mãi nhớ thương người.
Đọc Tô Thùy Yên để mà thương nhớ thơ.

Cà phê Thơ

Chủ đề : THƠ TÔ THÙY YÊN, ĐỂ MÀ THƯƠNG NHỚ THƠ

Diễn giả : Nhà thơ Nhật Chiêu

Chủ trì : Ns Dương Thụ

Thời gian :09:00-11:30 thứ Bảy ngày 24.4.2021

Địa điểm : Salon Văn hoá Cà Phê Thứ Bảy, 79A Phan Kế Bính, P. Đa Kao, Q.1

        Theo tin từ gia đình, nhà thơ Tường Linh, tên thật Nguyễn Linh (1931-2021), đã từ trần tại TP Hồ Chí Minh ngày 05-02-2021, hưởng thọ 91 tuổi.

       Tường Linh có lần nói với người viết bài này, ông sinh đầu năm 1931 (trong khi giấy khai sinh ghi muộn là ngày 12-12-1931), âm lịch là Canh Ngọ, nên tự nguyện làm con ngựa thồ văn chương, thồ nhân nghĩa và ân tình xứ Quảng. Quê ông ở làng Trung Phước, huỵện Quế Sơn, tình Quảng Nam. Ông là tri kỷ của hai văn nhân đồng hương nổi tiếng là Bùi Giáng và Tạ Ký. Bút hiệu Tường Linh đứng tên trên 11 tập thơ, trong đó có tác phẩm được giải thưởng Văn học Nghệ thuật Việt Nam Cộng hòa. Ông còn viết tiểu phẩm với bút hiệu Út Cầu Sơn (có thời nhà ông ở gần Cầu Sơn, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh).

        Tuyển tập thơ Tường Linh xuất bản mười năm trước (NXB Văn Học, 2011), khi nhà thơ đã qua tuổi 80. Hơn sáu thập niên làm thơ, vắt dòng qua hai thế kỷ, chọn lại 396 bài in trong tập sách, cho thấy Tường Linh là một nhà thơ thuộc thế hệ trước, một nhà-thơ-mới-cổ-điển. Ông là nhà thơ dụng công về kỹ thuật, chú trọng niêm luật và vần điệu của từng thể loại mà không gây cho người đọc cảm giác gượng ép, có lẽ một phần là vì thuở thiếu thời, ông đã được tập luyện nhuần nhuyễn khi làm các thể thơ cổ. Sở trường của ông là thơ bảy chữ, tám chữ và lục bát. Có đôi lần ông làm thơ cách tân - thơ tự do hay thơ văn xuôi - nhưng cảm hứng và tình điệu vẫn không rời mạch thơ truyền thống của dân tộc. Thơ ông được nuôi trong nguồn mạch đó và hoà vào tiếng nói trữ tình của người Việt một cách tự nhiên như hơi thở.

         Tuyển chọn từ tám tập thơ in riêng (tập đầu tay nhan đề Thơ tập làm thuở nhỏ, in thạch bản ở Tam Kỳ năm 1950), ba tập thơ in chung, Tường Linh cấu trúc cuốn sách nói trên theo ba phần: Nhánh hồn sông Thu, Chim bay biển Bắc Thao thức phương Nam. Thơ ở cả ba phần đều thấm đẫm một “dòng nhớ thương chảy mãi qua hồn” và nồng nàn tình người, tình nhà, tình quê, tình nước. Không bao giờ thơ Tường Linh thôi âm vọng những tiếng gọi Trung Phước, Đại Bình, Cà Tang, Hòn Kẽm Đá Dừng..., lúc xôn xao trên sóng nước Thu Bồn, lúc hun hút trong mưa ngàn gió núi.

         Ở Sài Gòn từ năm 1956, thơ ông luôn hướng vọng về “ngoài ấy”, “phương xưa”, phương của mẹ, phương của quê nhà:

                  Ngoài ấy giờ đây mùa gió mùa

                  Xiêu xiêu quán nhỏ mé đường trưa

                  Vườn cau của mẹ hoa cau rụng

                  Giọt sáng rơi dường giọt nước mưa.

         Khi thơ ông cất tiếng “Thu ơi, từ đó…”, thì hình ảnh sông Thu, mùa thu quyện chặt hình ảnh người thương mến:

                  Anh mất mùa thu, mất cả em

                  Lạc nhau từ thuở mới vừa quen

                  Trùng trùng dâu bể đau hồn bút

                  Đêm mịt mù sương lụn ánh đèn.

          Thi ảnh trong tác phẩm Tường Linh gắn liền hình tượng đất và người xứ Quảng, với tần số xuất hiện cao, vậy mà không thấy trùng lặp, mỗi lần đọc lại gợi lên những rung động mới. Những bài thơ như Tháng bảy, Tin bão miền Trung... được tác giả viết hơn nửa thế kỷ trước mà tưởng như là chuyện vừa mới tái hiện năm ngoái đây thôi, khi mùa bão lũ gây bao thảm cảnh cho đồng bào trên đất mẹ.

          Phong vị cổ điển trong thơ Tường Linh còn thể hiện ở chỗ dường như nhà thơ làm nhoà đi hình ảnh chính mình mặc dù những điều ông nói đều bắt nguồn từ gan ruột. Phải chăng ông nghĩ rằng những “gió dập sóng nhồi” của cuộc đời ông có thấm gì so với những chìm nổi của đất nước, quê hương. Nhưng dù ông đứng lùi về phía sau thì tấm lòng ông, cái tình trong thơ ông vẫn hiện lên dạt dào ở phía trước. Dễ nhận ra chất nhạc trong thơ Tường Linh là yếu tố gây men cho những ca khúc phổ từ thơ ông của Anh Việt Thu, Trầm Tử Thiêng, Minh Kỳ, Bắc Sơn… Khi viết những bài thơ thế sự về những thảm họa do thiên tai hay chiến tranh, về những ngang trái đắng cay của cuộc đời, Tường Linh vẫn giữ vẹn nguyên chất giọng nhỏ nhẹ, kín đáo mà làm chứng cho những bể dâu và “cuộc tỉnh say” của kiếp người.

         Hồi 50 tuổi, Tường Linh viết về mình:

                       Ta năm mươi tuổi rồi sao?

                 Đời như một thoáng chiêm bao chưa tàn

                       Nửa phần thế kỷ thời gian

                  Trăng tàn sau núi, mây tan cuối trời

                        Quê xưa: bóng nhớ xa vời

                  Thề xưa câm nín như lời cỏ cây.

          Cái tôi của nhà thơ như tan loãng vào thiên nhiên, vào giấc mơ, vào cả niềm thinh lặng. Đến khi viết lời từ biệt chuẩn bị cho “ngày về”, ông vẫn muốn gửi lại mọi người giọng thơ chân thành, lão thực ấy:

                  Bởi ta về phía mặt trời sẽ lặn

                  Không gặp ai, cả chiếc bóng của mình

                  Đi tay trắng thì trở về tay trắng

                  Thơ một đời gửi lại phía bình minh.

        Đọc một tập thơ, hiểu một tâm hồn, luận đề quen thuộc ấy càng đúng với thơ Tường Linh. Đó là một tâm hồn rất mực khiêm cung mà chất chứa bao nỗi niềm tâm sự để viết ra những vần thơ, như “tiếng trúc trầm luân”, thấm sâu vào những tấm lòng Việt Nam bình dị.

         Xin tiễn ông đi bình an về phía mặt trời sẽ lặn.

Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm qua đời chiều 20/4 ở nhà riêng tại Hà Nội, thọ 69 tuổi.

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên nói nhà thơ đột ngột qua đời, chưa rõ nguyên nhân. Khi người thân về đến nhà, ông đã mất. Ông mắc bệnh phổi nhiều năm nay.

Sinh thời, Hoàng Nhuận Cầm nổi tiếng với các bài thơ tình gắn với học sinh, sinh viên, được nhiều thế hệ bạn đọc yêu thích như Chiếc lá buổi đầu tiên, Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu, Hò hẹn mãi cuối cùng em cũng đến, Viên xúc xắc mùa thu... Ngoài thơ, ông còn sáng tác kịch bản phim, trong đó có nhiều tác phẩm nổi tiếng như Đêm hội Long Trì, Hà Nội mùa Đông năm 46, Mùi cỏ cháy.

Nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm. Ảnh: X.T.

Dù bận rộn viết kịch bản, làm phim, Hoàng Nhuận Cầm nói ông chưa từng xao lãng việc làm thơ. Ông từng chia sẻ quan niệm sáng tác: "Thơ ca cũng như tình yêu, không ép buộc được đâu, khi gọi nó không đến nhưng khi đuổi thì nó không chịu đi. Bằng kinh nghiệm làm thơ riêng của mình, tôi thấy những bài thơ hay lại ra đời trong hoàn cảnh chẳng thơ chút nào".

Nhà thơ đoạt giải của Báo Văn nghệ năm 1972 - 1973 trong thời gian đi chiến đấu ở Quảng Trị, dành cho chùm thơ trong đó có bài Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu. Tuy nhiên, sau tập thơ in năm 2008, nhà thơ không ra mắt tuyển tập mới. Ông nói: "Theo thời gian, tôi tự nhận thấy mình trầm tĩnh hơn, sâu sắc và thận trọng hơn khi công bố trước công chúng, dù chỉ là một bài thơ của mình. Nhưng dù trước đây hay sau này, tôi không muốn phụ lòng bạn đọc. Nếu không làm được hay hơn và mới hơn trước thì thà đừng in còn hơn".

Trong lĩnh vực biên kịch, Hoàng Nhuận Cầm được vinh danh "Biên kịch xuất sắc" tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 17 và Cánh Diều Vàng 2011, cho kịch bản phim Mùi cỏ cháy. Tác phẩm lấy cảm hứng từ nhật ký Mãi mãi tuổi 20 của Nguyễn Văn Thạc và hàng loạt nhật ký thời chiến của các liệt sĩ khác như Đặng Thùy Trâm, Vũ Xuân, Hoàng Thượng Lân, Hoàng Kim Giao, được ông thai nghén suốt sáu năm. Ông xây dựng bốn nhân vật chính Hoàng - Thành - Thăng - Long, trong đó nhân vật Hoàng yêu thơ, mơ mộng, hay xúc động, mang dáng dấp của chính nhà thơ.

Hoàng Nhuận Cầm sinh năm 1952 ở Hà Nội, là con trai nhạc sĩ Hoàng Giác. Ông từng chiến đấu trong Sư đoàn 325B ở Quảng Trị. Năm 1975, ông trở lại học nốt chương trình đại học đến năm 1981. Ông từng làm việc cho Hãng Phim truyện Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, cùng vợ lập hãng phim tư nhân Điệp Vân. Ông từng đóng phim, nổi tiếng với vai bác sĩ Hoa Súng trong chương trình Gặp nhau cuối tuần và vai nhà thơ phim Số đỏ.

Nguồn: https://vnexpress.net/nha-tho-hoang-nhuan-cam-qua-doi-4265975.html

Nhà văn Ngô Phan Lưu, thường được gọi là 'nhà văn nông dân', qua đời sáng nay 8-2 tại quê nhà Phú Yên, thọ 78 tuổi.

Nhà văn Ngô Phan Lưu - Ảnh: ĐÀO ĐỨC TUẤN

Sáng nay 8-2, người thân nhà văn Ngô Phan Lưu cho biết ông vừa qua đời lúc 6h55 cùng ngày sau nhiều tháng điều trị tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Phú Yên vì bệnh nặng.

Ngô Phan Lưu sinh năm 1943, tại xã Hòa Mỹ Đông (huyện Tây Hòa, Phú Yên). Ông đoạt giải nhất cuộc thi truyện ngắn 2006-2007 của tuần báo Văn Nghệ (Hội Nhà văn Việt Nam) với hai truyện ngắn "Buổi sáng biến mất" và "Cơm chiều", sau đó được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.

Ngô Phan Lưu trình làng văn chương bằng tập thơ "Bếp lửa chiều đông" (1997). Sau đó, ông chuyển hẳn sang viết truyện ngắn, tản văn và xuất bản nhiều tác phẩm: "Người không giăng câu Kiều" (2004), "Cơm chiều" (2008), "Xoa tay và cười" (2009), "Con lươn chép miệng" (2010), "Tờ lịch gỡ mỗi ngày" (2012)...

Từng học khoa triết tại Đại học Văn khoa Sài Gòn trước 1975, sau này Ngô Phan Lưu về quê làm ruộng, nuôi bò, chụp ảnh dạo…... để mưu sinh. Vì thế khi nổi danh với nghề văn, ông được bạn bè hay gọi là "nhà văn nông dân".

Người nhà của nhà văn cho biết lễ viếng ông sẽ bắt đầu vào sáng 9-2, linh cữu ông được hỏa táng vào sáng 10-2.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-nong-dan-ngo-phan-luu-qua-doi-20210208093316414.htm

Ngoài Ban Kiểm tra do đại hội Hội Nhà văn TP HCM trực tiếp bầu tại đại hội, 7 ban công tác còn lại được chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM ký quyết định thành lập theo đề nghị của các trưởng ban và được thông qua Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP HCM nhiệm kỳ VIII.  

Ngày 26-3, tại trụ sở Hội Nhà văn TP HCM (81 Trần Quốc Thảo, quận 3, TP HCM), Hội Nhà văn TP HCM nhiệm kỳ VIII (2020-2025) đã làm lễ ra mắt các ban công tác.

Ngoài Ban Kiểm tra do đại hội Hội Nhà văn TP HCM trực tiếp bầu tại đại hội, 7 ban công tác còn lại được chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM ký quyết định thành lập theo đề nghị của các trưởng ban và được thông qua Ban Chấp hành (BCH) Hội Nhà văn TP HCM nhiệm kỳ VIII.

Ban Kiểm tra có 5 thành viên, do nhà thơ Bùi Phan Thảo, Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban.

Ban Tổ chức Hội viên có 7 thành viên, do nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; hai phó ban là nhà văn Đỗ Viết Nghiệm và nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu.

Ban Sáng tác văn học có 6 thành viên, do nhà văn Trầm Hương, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; hai phó ban là nhà thơ Lê Tú Lệ (Phó chủ tịch thường trực Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật TP HCM) và nhà văn Trần Thanh Hà.

20210328 4

Các thành viên Ban Văn học thiếu nhi và một số thành viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn tại buổi ra mắt

Hội Nhà văn TP HCM ra mắt các ban công tác - Ảnh 2.

Các thành viên Ban Tổ chức hội viên và một số thành viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn TP HCM tại buổi ra mắt

Ban Văn học thiếu nhi có 7 thành viên, do nhà thơ Phan Trung Thành, Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; hai phó ban là nhà văn Trần Quốc Toàn và nhà văn Văn Thành Lê.

Ban Nhà văn trẻ có 8 thành viên, do nhà thơ Lê Thiếu Nhơn, Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; hai phó ban là nhà thơ Ngô Thị Hạnh và nhà thơ Phạm Phương Lan.

Ban Nhà văn nữ có 6 thành viên, do nhà thơ Huệ Triệu, Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; hai phó ban là nhà thơ Trần Thị Thắng và nhà thơ Trần Mai Hường. 

Ban Công tác Câu lạc bộ văn học có 7 thành viên, do nhà thơ Nguyên Hùng, Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; hai phó ban là nhà thơ Nguyễn Vĩnh Bảo và nhà thơ Phạm Thanh Bình.

Ban Truyền thông có 3 thành viên, nhà văn Phương Huyền, Ủy viên BCH Hội Nhà văn TP HCM làm trưởng ban; phó ban là nhà văn Hồ Huy Sơn và ủy viên là nhà văn Tống Phước Bảo.

Phát biểu tại lễ ra mắt, nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP HCM cho biết với nhà văn, điều quan trọng nhất là phải có tác phẩm và tác phẩm cần đến với người đọc, được chia sẻ, lan tỏa. Các ban chuyên môn của Hội sẽ góp phần quảng bá, đưa tác phẩm đến với công chúng. Từ đầu năm đến nay, các ban chuyên môn của Hội đều có những hoạt động thực chất, với tâm huyết và nỗ lực, đồng lòng xây dựng ngôi nhà chung của Hội Nhà văn TP.

Các nhà thơ Bùi Phan Thảo, Trần Quốc Toàn, Lê Thiếu Nhơn cũng bày tỏ những điều tâm huyết của các thành viên trong ban, với mong muốn có được những kết quả thực chất và xây dựng đội ngũ, hỗ trợ những người viết trẻ…

Trước đó, ngày 19-3, Hội Nhà văn TP HCM đã ra mắt 3 Hội đồng chuyên môn là Hội đồng Thơ, Hội đồng Văn xuôi và Hội đồng Lý luận – phê bình.

Hội đồng Thơ có 5 thành viên, do nhà thơ Lê Minh Quốc làm chủ tịch, nhà thơ Trương Nam Hương làm phó chủ tịch.

Hội đồng Văn xuôi có 5 thành viên do nhà văn Lê Văn Nghĩa làm chủ tịch, phó chủ tịch là nhà văn Cao Chiến.

Hội đồng Lý luận – phê bình có 5 thành viên, nhà văn Bùi Thanh Truyền làm chủ tịch, phó chủ tịch là nhà văn Võ Văn Nhơn.

Danh sách thành viên các Ban công tác và các Hội đồng chuyên môn Hội Nhà văn TP HCM

Ban Kiểm tra:

Nhà thơ Bùi Phan Thảo, Trưởng ban

Nhà thơ Nguyên Trân, Ủy viên

Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Bảo, Ủy viên

Nhà văn Chu Quang Mạnh Thắng, Ủy viên

Nhà văn Hồ Thị Ngọc Hoài, Ủy viên

Ban Tổ chức Hội viên:

Nhà văn Bích Ngân, Trưởng ban

Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm, Phó ban

Nhà thơ Nguyễn Bính Hồng Cầu, Phó ban

Nhà văn Kim Quyên, Ủy viên

Nhà thơ Phạm Trung Tín, Ủy viên

Nhà thơ Nguyễn Thanh Hoàng, Ủy viên

Nhà thơ Nguyễn Khắc Pha, Ủy viên

Ban Sáng tác văn học:

1. Nhà văn Trầm Hương, Trưởng ban

2. Nhà thơ Lê Tú Lệ, Phó ban

3. Nhà văn Trần Thanh Hà, Phó ban

4. Nhà văn Trần Hoài Anh, Ủy viên

5. Nhà thơ Trần Hoàng Nhân, Ủy viên

6. Nhà văn Hoài Hương, Ủy viên

 

Ban Văn học thiếu nhi:

1. Nhà thơ Phan Trung Thành, Trưởng ban

2. Nhà văn Trần Quốc Toàn, Phó ban

3. Nhà văn Văn Thành Lê, Phó ban

4. Nhà văn Kim Hài, Ủy viên

5. Nhà văn Lưu Thị Lương, Ủy viên

6. Nhà văn Trần Gia Bảo, Ủy viên

7. Nhà thơ Nguyệt Thu, Ủy viên

Ban Nhà văn trẻ:

1. Nhà thơ Lê Thiếu Nhơn, Trưởng ban

2. Nhà thơ Ngô Thị Hạnh, Phó ban

3. Nhà thơ Phạm Phương Lan, Phó ban

4. Nhà thơ Gili Nguyễn, Ủy viên

5. Nhà thơ Tô Minh Yến, Ủy viên

6. Nhà văn Võ Chí Nhất, Ủy viên

7. Nhà thơ Nguyễn Khắc Thắng, Ủy viên

8. Nhà văn Nguyễn Tý, Ủy viên

Ban Nhà văn nữ:

1. Nhà thơ Huệ Triệu, Trưởng ban

2. Nhà thơ Trần Thị Thắng, Phó ban

3. Nhà thơ Trần Mai Hường, Phó ban

4. Nhà thơ Tôn Nữ Thu Thủy, Ủy viên

5. Nhà thơ Võ Miên Trường, Ủy viên

6. Nhà văn Võ Thu Hương, Ủy viên

Ban Công tác Câu lạc bộ văn học:

1. Nhà thơ Nguyên Hùng, Trưởng ban

2. Nhà thơ Nguyễn Vĩnh Bảo, Phó ban

3. Nhà thơ Phạm Thanh Bình, Phó ban

4. Nhà thơ Hương Thu, Ủy viên

5. Nhà thơ Phạm Đình Phú, Ủy viên

6. Nhà thơ Vũ Đình Nguyệt, Ủy viên

7. Nhà văn Lê Công Sơn, Ủy viên

 

Ban Truyền thông:

1. Nhà văn Phương Huyền, Trưởng ban

2. Nhà văn Hồ Huy Sơn, Phó ban

3. Nhà văn Tống Phước Bảo, Ủy viên.

Hội đồng Thơ:

1. Nhà thơ Lê Minh Quốc, Chủ tịch

2. Nhà thơ Trương Nam Hương, Phó chủ tịch

3. Nhà thơ Cao Xuân Sơn, Ủy viên

4. Nhà thơ Thu Nguyệt, Ủy viên

5. Nhà thơ Đinh Thị Thu Vân, Ủy viên

Hội đồng Văn xuôi:

1. Nhà văn Lê Văn Nghĩa, Chủ tịch

2. Nhà văn Cao Chiến, Phó chủ tịch

3. Nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Hải, Ủy viên

4. Nhà văn Lại Văn Long, Ủy viên

5. Nhà văn Phan Hồn Nhiên, Ủy viên

Hội đồng Lý luận – phê bình:

1. Nhà văn Bùi Thanh Truyền, Chủ tịch

2. Nhà văn Võ Văn Nhơn, Phó chủ tịch

3. Nhà văn Nhật Chiêu, Ủy viên

4. Nhà văn Đào Lê Na, Ủy viên

5. Nhà văn Bùi Mạnh Nhị, Ủy viên.

Tin - ảnh: Nguyễn Minh

Nguồn: Người lao động, ngày 26.3.2021.

Lý do khiến Phan Khôi (1887 - 1959) phải tìm gặp bằng được Vũ Hoàng Chương - tác giả “Bài ca sông Dịch” - là sau khi ông được nghe đọc bài thơ này.

20210102 3

Phan Khôi (1887 - 1959) và Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976). Ảnh: TL


Ngày 6.7.1946 Phan Khôi ra tới Hà Nội để dự Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ nhất, dự định khai mạc vào đầu tháng 8, nhưng do tình hình chiến sự ngày một căng thẳng, Hội nghị phải lùi đến ngày 24.11. Phải chờ đợi chừng đó thời gian là một cực hình đối với Phan Khôi, nhưng ông ra Hà Nội là để dự Hội nghị, thì cứ phải chờ thôi.

Kể từ năm 1941 Phan Khôi gác bút, từ Sài Gòn về quê, ông chưa có dịp trở ra Hà Nội, cũng không có điều kiện quan tâm đến đời sống văn nghệ ở đất Hà thành. Bây giờ phải chờ đợi đến mấy tháng mới tới ngày Hội nghị, tự nhiên bị rơi vào cảnh vô công rỗi nghề, ngày rộng tháng dài, nên ông tận dụng bằng hết thời gian, không bỏ sót một cuộc họp mặt nào của giới trí thức và văn nghệ sĩ cả nước đang tề tựu về Hà Nội để dự Hội nghị như ông.

Ông có mặt trong ngày giỗ Vũ Trọng Phụng do Nhà xuất bản Minh Đức tổ chức trong dịp ra mắt tiểu thuyết Số đỏ của cố nhà văn. Ông tham dự buổi liên hoan của trí thức và văn nghệ sĩ Hà Nội tổ chức để chào đón trí thức và văn nghệ sĩ Trung - Nam - Bắc. Ông ngồi với tốp này, ngồi với người kia ở bất cứ chỗ nào, vào bất cứ lúc nào để thăm hỏi, để đàm đạo chuyện làng văn, làng báo.

Những cuộc gặp mặt lớn, nhỏ đó giúp ông nhận thấy một điều lạ, là người ta bàn luận rất nhiều về các quan niệm văn nghệ khác nhau, như hồi trước đã có một dạo bàn luận trên mặt báo về “nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “nghệ thuật vị nhân sinh” vậy.

Hồi này thấy giới “nghệ thuật vị nhân sinh” như là thắng thế, nhiều người lớn tiếng cổ xúy cho một nền văn nghệ chỉ nhằm phục vụ cho giới cần lao. Có người mới hôm qua còn là trí thức như ông, tôn trọng tự do cá nhân như ông, thì nay tuyên bố từ bỏ tự do cá nhân để chỉ sáng tác phục vụ cho công nhân, cho nông dân.

Ông chưa hiểu ra thế nào, chỉ thấy nếu không có tự do thì sẽ không có văn nghệ, đơn giản thế thôi. Mấy năm vừa qua phe Trục làm mưa làm gió, với những Đức, Ý, Nhật đã chẳng chứng tỏ điều đó rồi sao? Chính chế độ phát xít và nền độc tài đã giết chết văn nghệ. Trong các cuộc gặp gỡ, một đôi lần nghe phải những điều chướng tai, ông cũng định trao đổi lại đôi câu, nhưng rồi thấy mình là khách, làm thế không tiện, nên thôi.

Ngày nay, chúng ta cần thấu hiểu Phan Khôi ở một điểm rất quan trọng, đó là cái cách hiểu của ông về chủ nghĩa cá nhân, cụ thể là tự do cá nhân; trong văn nghệ, là tự do sáng tác. Ngay từ những năm 30 thế kỷ trước, dưới ách cai trị của triều Nguyễn và chế độ bảo hộ của người Pháp ở Việt Nam, Phan Khôi đã hiểu đúng nội dung chủ nghĩa cá nhân của xã hội phương Tây đương thời.

Trong các bài báo của mình, ông đã cố gắng diễn đạt để người Việt Nam hiểu đúng về chủ nghĩa cá nhân mà ở xã hội phương Tây thời đó người ta đang chủ trương và đang sống trong các nguyên tắc của nó; cụ thể là nhân quyền, là quyền và lợi ích hiển nhiên của cá nhân mỗi người trong xã hội. Không ai và không thế lực nào được phép tước bỏ các quyền thiêng liêng đó của mỗi người.         

Một số sách đã xuất bản tập hợp từ các tác phẩm của Phan Khôi. Ảnh: TL


Trong một buổi liên hoan, kịch sĩ Hoàng Cầm được Ban tổ chức đề cử ngâm mấy bài thơ gọi là để thắt chặt mối duyên văn nghệ Trung - Nam - Bắc. Tình cờ trong bốn bài thơ ấy có Bài ca sông Dịch của Vũ Hoàng Chương (1916 - 1976), một nhà thơ trẻ mà ông chỉ mới nghe tên chứ chưa biết mặt.

Ngồi nghe đọc bài thơ, Phan Khôi rất cảm kích, ông nghĩ tác giả phải là người thế nào mới sáng tác được một bài thơ hào hùng đến như vậy và nóng lòng muốn được gặp mặt tác giả ngay. Với một người như Phan Khôi, không dễ gì có chuyện đó xảy ra bởi một bài thơ khác, bởi một tác giả khác! Qua cử chỉ đó của ông, có thể hiểu giá trị của bài thơ và tài năng thơ của Vũ Hoàng Chương. Nếu không, làm gì Phan Khôi lại phải nhọc lòng đến thế!

Đối với Vũ Hoàng Chương thì lại khác. Ngay từ khi bước chân vào làng văn để nhận lấy cái nghiệp dĩ của người cầm bút, Vũ Hoàng Chương đã nghe đại danh ông Tú Phan Khôi như sấm dậy vang tai. Nhưng phải chờ đến cuối mùa thu năm Bính Tuất (1946) ấy, Vũ Hoàng Chương mới dó dịp cùng Phan Khôi hạnh ngộ tại Hà Nội. Với thi sĩ họ Vũ, buổi nhất kiến đó như đã được định trước bởi duyên trời!

Hôm đó mới cuối thu mà cái lạnh như đã thấm vào lòng người thi sĩ vốn ưa họp bạn ngâm văn. Để thỏa nỗi nhớ bạn văn, Vũ Hoàng Chương từ Nam Định đáp xe lửa lên Hà Nội để tự cởi mở lòng mình theo niềm hứng khởi, để được hòa vào nhịp sống vừa tao nhã vừa sôi động của đất ngàn năm văn vật, của hồ Trúc, của sông Hồng.

Bước xuống ga Hàng Cỏ, nhà thơ đi về trụ sở Ban kịch Đông Phương. Ông lấy làm tiếc lắm vì buổi liên hoan bắt đầu từ năm giờ chiều, mà lúc ông đặt chân lên vỉa hè phố Hàng Lọng thì ba mươi sáu phố phường đã nhất tề khai đăng.

Vũ Hoàng Chương ngồi cùng họa sĩ Hoàng Tích Chù và nữ kịch sĩ Tuyết Khanh, câu chuyện chưa đi hết một tuần trà, thì Nguyễn Tuân đã lừng lững hiện ra từ cái cầu thang dẫn lên gác. Nguyễn Tuân lấy bộ trịnh trọng, lên tiếng:

- Xin lỗi toàn thể Ban kịch, tôi có chút việc riêng, cần phải mượn tạm Vũ quân đây!

Vừa nói, Nguyễn Tuân vừa đưa tay hướng về phía Vũ Hoàng Chương. Mọi người phá lên cười, có tiếng trả lời:

- Bất phương! Bất phương! Cứ mượn dài hạn đi cũng được, ông Tuân ạ!

Thế là Vũ Hoàng Chương cùng Nguyễn Tuân vội vã ra đường. Nguyễn Tuân nói giọng quan trọng, vừa đủ nghe:

- Này! Ông Phan Khôi muốn gặp anh đó! Mà gặp ngay tức khắc kia! Sao, đi chứ?

Nói rồi, không đợi Vũ Hoàng Chương trả lời, Nguyễn Tuân vẫy luôn một chiếc xe kéo, rồi lệnh cho “cọp” lồng thẳng xuống bãi Phúc Xá, nơi Thế Lữ có một túp nhà. Đến nơi, Nguyễn Tuân chỉ tay về phía một ông già cao gầy, vai rộng, râu dài, mắt sáng, mặc bộ vét phẳng phiu, đầu đội mũ phớt, tay chống ba toong, có vẻ như đang nóng lòng đợi ai.

Linh tính giúp Vũ Hoàng Chương nhận ra đó là Phan Khôi, trong lòng không khỏi hồi hộp pha chút ngại ngùng. Thế nhưng cái phút hai người họ - một già một trẻ - nhìn mặt, cầm tay thật đã hào hứng phi thường. Đó là lần đầu tiên Vũ - Phan hạnh ngộ, để rồi không lâu sau đó, con tạo xoay vần, bể dâu thay đổi, biến cuộc hạnh ngộ bắt đầu từ phút ấy trở thành duy nhất cho cả hai người!

Hai người họ nói chuyện thâu đêm suốt sáng, toàn chuyện văn. Chiều hôm sau, Vũ Hoàng Chương ngỏ lời cáo biệt để về lại Nam Định khiến Phan Khôi trầm ngâm nửa khắc, gương mặt lộ rõ vẻ tiếc nuối, bởi đối với ông, câu chuyện chỉ vừa mới bắt đầu, còn dang dở. Ông quyết định ngay, giọng dứt khoát:

- Được, hai ta sẽ cùng đi!

Vũ Hoàng Chương mừng thầm, tự nhủ: “Thế là gió đã lên!”. Rồi bắt chước kiểu Nguyễn Tuân “mượn tạm” mình ở Ban kịch Đông Phương, ông chỉnh lại áo khăn, trịnh trọng xin phép Ban kịch Thế Lữ cho “mượn tạm” ông Tú Khôi ít bữa(1). Rồi cùng Vũ Hoàng Chương, Phan Khôi đáp tàu lửa thẳng đường về bến Vị, non Côi, mảnh đất không mấy xa lạ với ông từ bốn mươi năm trước, lúc còn đầu xanh tuổi trẻ, đã tìm đến nhà thầy Nguyễn Bá Học để học tiếng Pháp. Mươi năm nay mảnh đất đó còn trở nên gần gũi với ông hơn vì nó là quê hương người vợ hai do ông tự chọn cho mình sau này!

Xuống ga Nam Định, Vũ Hoàng Chương mời Phan Khôi ngồi xe kéo về phố Bờ Sông, chui vào một căn gác xép dài như cái ống và tối như cái “hũ Xuân Thu”, đó là theo nhà thơ tả lại như vậy. Ông nhận thấy Phan Khôi rất hào hứng, vẻ như trẻ lại, và hai người coi đây mới thực sự là thời gian dành riêng cho họ, chứ không như một đêm với nửa ngày trên nhà Thế Lữ ở bãi Phúc Xá Hà Nội, người đông quá, ồn ào quá.

Vũ Hoàng Chương (1915 - 1976). Ảnh: Đặng Tiến sưu tầm


Ngồi trước người bạn trẻ, Phan Khôi không hề giấu giếm nỗi cảm kích của mình đối với Bài ca sông Dịch. Ông thẳng thắn nói rằng: nghe đọc bài thơ, là ông thấy thú tác giả liền! Tự coi mình là kẻ trẻ người non dạ, Vũ Hoàng Chương thật lòng không dám nhận lời khen đó. Ông cố hiểu rằng Phan Khôi bảo thú là thú cái tinh thần hào hiệp, cái lòng can đảm của người anh hùng đã quyết một đi không trở lại, của người anh hùng đã đánh đổi tính mạng mình trong vụ giết hụt Tần bạo chúa ở Hàm Dương kia, chứ đâu phải thú tác giả bài thơ!

Vũ Hoàng Chương nhận thấy lời bộc bạch chân tình đó của Phan Khôi đã nói lên tất cả con người ông! Phan Khôi hỏi về hoàn cảnh sáng tác bài thơ, Vũ Hoàng Chương kể rằng ông bắt đầu thai nghén Bài ca sông Dịch từ năm 1940 kia, nhưng chưa kịp động bút vì các đề tài khác cứ cuốn ông đi. Nhưng rồi Ban kịch Thế Lữ thúc đẩy ông bằng mọi phương tiện để bài thơ sớm chào đời, vì vậy mà nó ra đời năm 1943. Lập tức Ban kịch Thế Lữ mượn bài thơ làm lời khai từ cho vở kịch Kinh Kha của Vi Huyền Đắc (1899 - 1976) trong năm đó được công diễn tại Hà Nội.

Nhắc đến Thế Lữ và Ban kịch Thế Lữ, câu chuyện của hai người họ càng có cái vẻ hào hứng lạ. Phan Khôi bảo đó là chỗ quen biết cũ của ông, và mới năm ngoái đây, Thế Lữ dẫn ban kịch của mình vào Bảo An diễn liền mấy tối, ông mời cả đoàn về nhà mình ăn ở rất vui vẻ. Còn Vũ Hoàng Chương thì nói không hiểu sao cái Ban kịch đó lại cũng rất có duyên nợ với mình, cái duyên đó cũng lại diễn ra lần nữa hồi năm 1944 đây thôi.

Năm đó, Thế Lữ đề nghị Vũ Hoàng Chương viết lời khai từ cho vở kịch Nguyễn Thái Học, hạn bốn mươi tám giờ phải hoàn thành, để kịp công diễn. Như có phép thần nhập vào ngòi bút, nguồn cảm hứng mỗi phút một dâng trào, nhà thơ cắm cúi trên trang giấy suốt đêm, đến nỗi trời sáng lúc nào không hay, thì cũng vừa làm xong bài thơ Trả ta sông núi dài 120 câu!

Lời khai từ hùng hồn vang lên trong đêm diễn vở kịch Nguyễn Thái Học hôm đó khiến cho kẻ thù khiếp sợ, bọn hiến binh Nhật xộc vào rạp gây khó dễ, nhưng nhờ tài chống chế của đạo diễn, chúng buộc phải rút lui và đêm diễn lại tiếp tục trong sự hân hoan nức lòng của người xem. Nghe chuyện, Phan Khôi lấy làm thích thú lắm. Ông thấy quả là mình nhìn người không sai, anh bạn trẻ này là người có tài thơ rất đáng khâm phục.

Rồi câu chuyện của họ, khởi đầu từ Bài ca sông Dịch, chuyển sang hai nhân vật lịch sử Tần Thủy Hoàng, Kinh Kha cùng cuộc hành thích bất thành, khiến Kinh Kha phải bỏ mình. Câu chuyện về lịch sử của nước Trung Hoa cổ đại cũng không kém phần hào hứng vì là sở đắc của cả hai người, chưa kể là nó đã trở thành đề tài cho một bài trường thi mà mới được nghe đọc lần đầu, Phan Khôi đã cho là rất hay.

Tần Thủy Hoàng (259 - 210 TCN) vốn có tên Doanh Chính, là vua thứ 36 của nước Tần, là hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa do chính tay ông ta làm cuộc thống nhất sau khi giành chiến thắng trong cuộc Chiến quốc thất hùng, thôn tính sáu nước Hàn, Ngụy, Sở, Tề, Triệu, Yên vào năm 221 TCN. Doanh Chính nối ngôi vua nước Tần năm 13 tuổi - gọi là Tần vương - làm hoàng đế Trung hoa năm 38 tuổi, là người khởi đầu của nhà nước phong kiến Trung Hoa thời cổ đại cho đến khi nó sụp đổ ở triều Mãn Thanh năm 1912.

Sau khi xưng đế, Tần Thủy Hoàng ban bố hàng loạt cải cách lớn về kinh tế, chính trị và xã hội: thiết lập hệ thống quan lại ở địa phương do triều đình chỉ định (thay vì phân chia ban tước cho các quý tộc như trước đây); cho phép nông dân sở hữu đất đai; thống nhất hệ thống đo lường, tiền tệ; xây dựng hệ thống luật pháp chặt chẽ; tiến hành nhiều đại dự án: như đặt nền móng cho việc xây dựng Vạn Lý Trường Thành, kênh Linh Cừ, cung A Phòng, lăng mộ Tần Thủy Hoàng được bảo vệ bởi đạo quân đất nung hàng ngàn người; chinh phạt phương Nam mở rộng lãnh thổ.

Dưới bàn tay tàn bạo của Tần Thủy Hoàng, tất cả được tiến hành với cái giá đắt của hàng triệu, triệu sinh mạng. Để dập tắt sự phản ứng của nhân dân và áp đặt tư tưởng Pháp gia, Tần Thủy Hoàng đã ra lệnh thiêu cháy vô số những pho sách quý, chôn sống nhiều học giả.

Với 37 năm trị vì, Tần Thủy Hoàng xưng vương 25 năm, xưng đế 12 năm, chết vì ngã bệnh năm 49 tuổi, có vô số thê thiếp và khoảng 50 người con, nhưng sử sách không nhắc đến tên một người vợ nào. Dù làm Tần vương Chính hay làm Tần Thủy Hoàng, thời nào ông ta cũng có rất nhiều kẻ thù, đã ba lần bị hành thích, nhưng vẫn bảo toàn được mạng sống. Lần thứ nhất, năm 227 TCN bởi Kinh Kha. Lần thứ hai, bởi Cao Tiệm Ly. Lần thứ ba, năm 218 TCN bởi Trương Lương(2).

Còn với Kinh Kha thì thiên Thích khách liệt truyện trong bộ Sử ký của Tư Mã Thiên cũng có chép cả. Kinh Kha người nước Vệ, là môn khách của Thái tử Đan nước Yên. Thái tử Đan là bạn của Doanh Chính, nhưng Tần vương Chính cũng không tha trong công cuộc chinh phạt sáu nước láng giềng. Khi quân Tần tiến sát biên giới nước Yên, vì sức yếu, Thái tử Đan lập mưu ám sát Tần vương Chính, chứ không tổ chức chiến đấu chống lại, và giao Kinh Kha thực hiện.

Có một vị tướng nhà Tần là Phàn Ư Kỳ từng bị Tần vương Chính cho thất sủng, cũng là môn khách của Thái tử Đan. Tần vương Chính rất tức giận Phàn Ư Kỳ, một hai muốn lấy đầu Kỳ bằng được. Biết vậy, Phàn Ư Kỳ quyết định tự sát để Kinh Kha lấy thủ cấp của mình làm vật làm tin để tiếp cận Tần vương Chính. Khi lên đường, tới bờ sông Dịch thuộc biên giới nước Triệu, Kinh Kha ứng tác hai câu thơ để tiễn biệt đoàn người đưa tiễn:

Gió đìu hiu sông Dịch lạnh lùng ghê

Tráng sĩ một đi không trở về

Cùng đi với Kinh Kha có Tần Vũ Dương. Vật làm tin với Tần vương Chính là thủ cấp của Phàn Ư Kỳ và tấm bản đồ nước Yên được cuộn tròn lại, bên trong giấu một thanh chủy thủ. Bước chân vào triều đình nhà Tần, Kinh Kha bưng thủ cấp Phàn Ư Kỳ, Tần Vũ Dương bưng cuộn bản đồ nước Yên. Tự dưng Tần Vũ Dương hoảng sợ, mặt biến sắc, Kinh Kha vội cầm lấy cuộn bản đồ trong tay Tần Vũ Dương để tự mình dâng nộp cho Tần vương Chính. Khi mở cuộn bản đồ ra, Kinh kha rút thanh chủy thủ đâm Tần vương Chính, nhưng trượt, binh lính Tần xông vào giết chết Kinh Kha(2).

Tranh Kinh Kha ám sát Tần Vương được người đời sau vẽ lại. Ảnh: TL


Cái chết oanh liệt của Kinh Kha thức tỉnh lòng dân trước mọi thứ cường quyền. Dân chúng bảy nước Tần, Hàn, Ngụy, Sở, Tề, Triệu, Yên; cho đến dân chúng của nước Trung Hoa thống nhất sau này; đều coi Tần Thủy Hoàng là bạo chúa và tôn vinh Kinh Kha là vị anh hùng. Đã có biết bao thiên truyện, bài thơ, vở kịch, phim điện ảnh, phim truyền hình… của Trung Quốc và của các nước ca ngợi cái chết bất tử của Kinh Kha.

Vở kịch Kinh Kha được công diễn tại Hà Nội năm 1943 với lời khai từ là Bài ca sông Dịch của Vũ Hoàng Chương, gây được tiếng vang lớn, là một ví dụ sinh động cho việc cổ võ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam đứng lên đánh đuổi mọi thứ giặc ngoại xâm.

Sau một khoảng lặng đầy suy tư giữa câu chuyện, Phan Khôi đề nghị Vũ Hoàng Chương cho ông được nghe một lần Bài ca sông Dịch(3) do chính tác giả của nó đọc. Vũ Hoàng Chương như được nhập thần, lúc khoan thai, lúc dồn dập, ông đọc từng câu, từng chữ với giọng vừa ấm, vừa nóng, vừa như có tiếng gươm khua lạnh người trong đó:

Đời lắng nghe đây trầm tư hồn bể dâu

Bàng bạc trường giang lạnh khói

Đìu hiu điệp khúc ly sầu

Đã mấy thời gian nằm u hoài sông Dịch

Tiễn kẻ một đi người kiếm khách Đông Châu

Ôi sông ngát dư linh! trải bao đời có biết

Hào khí ai xưa giờ vang bóng nơi đâu

Phải chăng ngươi! phải chăng kìa dấu vết

Tình anh rờ rỡ ngàn sau

Nước trôi đây nước trôi bờ cõi Việt

 Âm u gợn tiếng ghê màu

Ai tráng sĩ bao năm mài gươm dưới nguyệt

Còn tưởng nghe hồn thép múa sông sâu

Kinh Kha hề Kinh Kha

Vinh cho người hề! ba nghìn tân khách

Tiễn người đi tiếng trúc nhịp lời ca

Biên thùy trống giục

Nẻo Tần sương sa

Gió thê lương quằn quại khói chiêu hà

Buồn xưa giờ chưa tan

Phong tiêu tiêu hề Dịch thuỷ hàn

Bạch vân! Bạch vân! kìa ngang rừng phất phới

Ôi màu tang khăn gói lũ người Yên

Nhịp vó câu nẻo Hàm dương tung bụi

Ta nghe, ta nghe! này cuồng phong dấy lên

Tám phương trời khói lửa

Một mũi dao sang Tần

Ai trách Kinh Kha rằng việc người đã lỡ

Ai khóc Kinh Kha rằng thềm cao táng thân

Ai tiếc đường gươm tuyệt diệu

Mà thương cho cánh tay thần

Ta chỉ thấy

Tơi bời tướng sĩ thây ngã hai bên

Một triều rối loạn ngai vàng xô nghiêng

Áo rách thân rung hề ghê hồn bạo chúa

Hùng khí nuốt sao Ngâu hề nộ khí xung thiên

Một cánh tay đưa mà danh lừng vạn cổ

Hiệp sĩ Kinh Kha hề người thác đã nên

Ta há quan tâm gì việc thành hay bại

Thế gian ơi kìa bãi bể nương dâu

Cung điện Hàm Dương ba tháng đỏ

Thành xây cõi dựng là đâu

Nào ai khởi nghiệp đế

Nào ai diệt chư hầu

Ca trùng lửa đóm cùng hoàn phản không hư

Dù lăng ngà hay cỏ khâu

Riêng tồn tại với thời gian việc làm chính nghĩa

Tranh sáng với trăng sao tấm lòng trượng phu

Một nét dao bay ngàn thuở đẹp

Dù sai hay trúng cũng là dư

Kìa uy dũng kẻ sang Tần không trở lại

Đã trùm lấn Yêu Ly hề át Chuyên Chư

Ôi Kinh Kha

Hào khí người còn sang sảng

Đâu đây lòa chói giấc mơ

Nước sông Dịch còn trôi hay đã cạn?

Gương anh hùng vằng vặc sáng thiên thu!

Vũ Hoàng Chương đọc xong bài thơ dài, cả hai người ngồi lặng! Rồi câu chuyện của họ lại tiếp tục, và không biết từ lúc nào, câu chuyện đang từ một sự tích của lịch sử cổ đại, bắt sang câu chuyện văn nghệ của nước Việt Nam thời hiện tại với nỗi quan tâm của cả hai: rồi ra, tương lai của văn nghệ nước nhà sẽ đi về đâu? Hai người, một già một trẻ, sẵn sàng nghe nhau, nhưng cũng sẵn sàng tranh luận với nhau, không dễ dàng nhượng bộ.

Chuyển qua câu chuyện văn nghệ, Phan Khôi như sống lại cái không khí văn nghệ mấy tháng vừa qua ở Hà Nội; cảm xúc của ông tuôn trào, ông cao đàm hùng biện, hứng khởi thao thao, giọng sắc như chém đinh chặt sắt. Ông bày tỏ sự căm thù bạo lực, sự phản kháng độc tài, ông lên án mọi hình thức dân chủ giả hiệu.

Vũ Hoàng Chương ngồi nghe, thấy Phan Khôi có thừa phong độ cốt cách của một nho sĩ ngang tang bất khuất, cộng thêm khối kiến thức sâu rộng của một bản lĩnh lịch lãm, giang hồ. Lắm lúc Phan Khôi nói như gào, như quát, giọng cứ sang sảng lạnh người. Nhiều lần ông nhắc đi nhắc lại:

- Không thể được! Sao lại thế được? Văn nghệ phải là văn nghệ. Thiếu tự do, thà ném bút đi, cầm lấy một mũi nhọn khác!

Vũ Hoàng Chương ngồi nghe ông nói mà không khỏi nghĩ thầm trong bụng: phải chăng hào khí Kinh Kha đã nhập vào con người thâm trầm quắc thước này? Không, còn hơn thế! Lòng phẫn nộ của Phan Khôi còn có thể bốc lên cao hơn và mãnh liệt hơn cái oán khí cầu vồng trắng xuyên mặt trời của kẻ một đi không trở lại trên bến Dịch nữa kia(1)!

Trong cái dài dằng dặc và tối mò mò của căn gác xép hình ống ở phố Bờ Sông, mới đó mà câu chuyện của hai văn nhân đã tiêu béng mất hai ngày dài và hai đêm trắng. Rồi cũng đến lúc họ tạm biệt nhau để Phan Khôi trở về Hà Nội. Tàu chuyển bánh, ông rời ga Nam Định, nơi có người bạn trẻ tài danh mới quen mà đã trở thành tri âm, tri kỷ; ông biết rằng mình khó mà quên được con người ấy. Cũng như vậy, Vũ Hoàng Chương nghĩ rằng: người bạn già ấy, buổi hạnh ngộ ấy, ông lại có thể quên được ư? Rồi đây cả đời ông sẽ còn ghi nhớ mấy ngày ngắn ngủi của tháng 9.1946 ấy, tính chi li thì vừa đúng 13 tháng trời kể từ ngày triều Nguyễn bị chấm dứt!(1)

Về Vũ Hoàng Chương, trong cái lưng vốn học vấn ít ỏi của mình, tôi không thấy có bóng dáng của ông! Đôi điều được biết từ ghế nhà trường về nhà thơ lại là những điều chẳng hay ho gì, đáng bị rũ sạch đi cho rảnh. Hồi đó đi học, tôi bị gieo vào cái đầu non nớt của mình rằng ông là nhà thơ của rượu, của gái, của say, của trụy lạc.

Câu thơ của Vũ Hoàng Chương được trích dẫn mà chúng tôi nhớ đến thuộc lòng, là: Say đi em! / Say đi em! / Say cho lơi lả ánh đèn / Cho cung bậc ngả nghiêng, cho điên rồ xác thịt! / Rượu, rượu nữa! Và quên, quên hết! (1940). Tôi có biết đâu, dù cuộc đời có dẫn ông đi muôn nẻo và buộc ông kiếm sống với đủ thứ nghề, thì từng giây từng phút của cuộc đời ông đều dâng mình cho thơ, với sức viết phi thường: mười lăm tập thơ với hơn năm trăm bài thơ, cùng ba vở kịch thơ Trương ChiVân muội và Hồng Diệp; ông hai lần được Giải thưởng văn chương (Sài Gòn, 1959 và 1972), được tôn vinh là Thi bá Việt Nam.

Điều tôi nhắc lại ở đây là một bằng chứng bác bỏ cách nhìn nhận, đánh giá về nhà thơ Vũ Hoàng Chương theo lối thiển cận, sai lệch, đầy ác ý và tất cả đều nằm ngoài khung trời xanh của thơ ca. Trong thời khắc hết sức ngặt nghèo của Tổ quốc, của nhân dân trước họa xâm lăng từ các loại kẻ thù, Vũ Hoàng Chương đã dốc cạn lòng yêu nước của mình để sáng tác hai bài trường thi bất hủ. Hai bài trường thi đó là lời khai từ - lời mở đầu - cho hai vở kịch lịch sử của những người yêu nước ở Hà Nội thời đó.

Trong văn giới lúc đó, có ai làm được như ông?

Sau cuộc hạnh ngộ cuối mùa thu năm 1946, cuộc đời dẫn Phan Khôi và Vũ Hoàng Chương mỗi người đi một ngả. Vũ Hoàng Chương lúc ở Hà Nội, lúc ở Thái Bình, Nam Định, làm nhiều nghề mà nghề chính là dạy học, nhưng trên tất cả là ông dâng mình cho thơ. Còn Phan Khôi thì tự ông đi thẳng lên Việt Bắc tham gia kháng chiến chống Pháp chứ không ai bắt buộc, cũng không ai rải thảm đỏ đón chào. Sau đó mấy năm, còn có một sự kiện nữa xảy ra giữa hai người, rồi bặt vô âm tín, cho đến lúc chết hai người họ không còn gặp nhau lần nào nữa.

Chính cái sự kiện đó đã biến cuộc hạnh ngộ của Phan Khôi và Vũ Hoàng Chương vào mùa thu năm 1946 ở Hà Nội, trở thành cuộc gặp gỡ tri âm của hai người tri kỷ. Thiển nghĩ, cuộc đời và sự nghiệp của Phan Khôi, của Vũ Hoàng Chương đã đi vào văn học sử nước nhà, thì cuộc gặp gỡ tri âm của họ cũng rất đáng được ghi lại vì nó thật là hiếm có! Muốn lý giải ngọn ngành sự kiện đó, tôi đã phải lần theo từng bước đi của Phan Khôi trên Việt Bắc thông qua một số bài thơ của ông.

Phan Khôi (người đội nón) chụp chung với Tố Hữu (bìa phải), Văn Cao (bìa trái) và Tú Mỡ tại Việt Bắc - Ảnh: TLGĐ


Phan Khôi là nhà báo tự do, ông đề cao tự do cá nhân, đề cao tự do sáng tác; nhưng từ Hội nghị Văn hóa Toàn quốc lần thứ nhất cùng bản Đề cương Văn hóa Việt Nam với ba nguyên tắc Dân tộc - Khoa học - Đại chúng, mà ông là người có can dự, thì ông biết cuộc đời mình rồi đây sẽ phải đổi khác, nhưng ông không mấy bận tâm. Lúc đó, ông chỉ chăm chăm một điều, là thế nào giặc Pháp cũng sẽ quay lại xâm chiếm nước ta một lần nữa, và ông cần Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải thật tâm đánh Pháp, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia.

Được như thế thì ông ủng hộ, thì ông sẽ đi cùng để góp chút sức lực còn lại. Và quả có thế thật! Đêm 19.12.1946, đang trú trong nhà một người dân ở Láng, ông được trực tiếp chứng kiến hơn 60 phát đại bác của ta từ Pháo đài Láng bắn vào nội thành Hà Nội, mở đầu cho cuộc kháng chiến, đã xác nhận quyết tâm đánh Pháp của Chính phủ Việt Minh, khiến ông quên cả tuổi già, vừa hăm hở, vừa bươn bả lao theo, với quyết tâm đánh đến khi nào thắng mới thôi.

Mùa hè năm 1947, nghe có nhiều lời bàn không nên tiếp tục đánh Pháp vì chúng mạnh lắm, không thể thắng chúng được, chi bằng điều đình với chúng có khi lại hơn, ông liền phản đối. Ông ngồi viết luôn bài Cứ đánh đi, không điều đình gì hết, rồi gửi ngay cho báo Cứu quốc. Có thể nói Phan Khôi gạt hết tất cả lại phía sau, đi kháng chiến với tâm trạng phơi phới, quên cả tuổi già, ông như trẻ lại với cuộc kháng chiến của dân tộc!

Năm 1947, cơ quan Đoàn Văn hóa Kháng chiến nơi ông làm việc đóng trụ sở tại xã Xuân Áng, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ. Lần đầu tiên sống ở vùng đất trung du lắm núi nhiều đồi, lắm sông nhiều suối, vốn là vùng đất cổ, là trung tâm sinh tụ đầu tiên của nước Đại Việt thời Âu Lạc, cư dân đông đúc, phong tục thuần phác, khiến ông rất xúc động.

Ông quên đi cuộc sống thiếu thốn, kham khổ để thả hồn thơ còn nguyên vẹn của mình vào hai bài thơ chữ Hán Xuân Áng tức cảnh 1 và Xuân Áng tức cảnh 2. Năm 1975, tại Sài Gòn, nhà thơ Đông Xuyên dịch hai bài thơ này:

Bài 1: Ba mặt non xanh đứt lại liền / Giữa là xóm núi, ruộng đồng chen / Thật thà quen thói, dân theo cổ / Thừa thãi hằng năm, lúa được rền / Khói sớm, đùm cơm, trâu đuổi tới / Đá tầng, ống trúc, nước đeo lên / Rừng xanh lánh nạn, đùa chim vượn / Cái thú lâm tuyền được ngẫu nhiên!

Và bài 2: Biếc biếc, xanh xanh, vun vút xa / Lùm cây, nương lá ngó bao la / Chiều vàng, lửa đỏ ven rừng đốt / Đập biếc, làn trong suối mỏ pha / Tóc gió tắm về, hong mụ trẻ / Bừa trăng cày đoạn, vác ông già / Lom khom dãy núi như mời khách / Muốn dọn nhà lên... sống tuổi già(4). Xem đó thì thấy Phan Khôi đi kháng chiến với một tấm lòng thật thanh thản, một tâm hồn thơ vẫn rất nguyên vẹn và nhạy cảm.

Học giả Phan Khôi cùng vợ con. Ảnh:TLGĐ


Sau Tết Mậu Tý 1948 được mấy tháng, một hôm Phan Khôi nhận được thư nhà, ông vui lắm. Trong thư gửi về Quảng Nam cho vợ con, ông gửi theo bài thơ Nhớ nhà 1 và 2 ông làm trước đó ít lâu:

Bài 1: Vì có trông người, nhớ đến ta / Nhà Hai, nhà Cả, cả hai nhà / Tài không tháo vát, nhưng cần kiệm / Họa có ghen tuông, vẫn thuận hòa / Tình nặng nhớ nhung, thơ vụng tả / Biệt ly khao khát, tuổi quên già / Loạn ly, sống chết, còn chưa biết / Đã một, hai rồi, chẳng lẽ ba.

Và bài 2: Hai nhà cộng lại có mười con / Năm gái năm trai nhắm cũng giòn / Gả cưới tạm yên nguyền một nửa / Sữa măng riêng mủi máu ba hòn / Tư trào thôi hẳn đành chia rẽ / Nhân cách còn mong được vẹn tròn / Bé nhất Lang Sa mới ba tuổi / Tên mày ghi cái nhục sông non(5).

Đất nước đã gần 80 năm nằm trong tay thực dân, sau lại rơi vào tay phát xít, là nỗi quốc nhục. Nay Việt Minh làm cuộc kháng chiến chống Pháp, thì ông vì nghĩa lớn mà để lại vợ con ở phía sau để ra đi phục vụ kháng chiến, âu đó cũng là cách giữ tròn nhân cách của một người yêu nước vậy.

Tuổi cao, sức yếu, lại không quen cuộc sống kham khổ nơi rừng thiêng nước độc, nhưng ông vui vẻ vượt qua, tận tâm với công việc, các bản dịch Lỗ Tấn, các bài nghiên cứu tiếng Việt của ông được xuất bản ngay trên Việt Bắc. Phan Khôi tự khép mình lại, tự giác hòa vào cuộc kháng chiến với niềm tin như nhất, với lòng yêu thương rất cảm động dành cho tất cả mọi người, không kể gần gũi hay xa lạ. Năm 1948, trong bài Thơ tặng một vệ quốc đoàn, ông viết: Vượt suối trèo non tôi đến đây / Gặp anh ngồi nghỉ dưới chân mây / Chúc anh mạnh khỏe rồi ra trận / Máu sức càng hăng để đánh Tây / Đánh đến bao giờ độc lập thành / Tôi dù già rụi ở quê anh / Cũng nguyền nhắm mắt không ân hận / Nằm dưới mồ nghe khúc thái bình(6).    

Hội nghị Văn hóa lần thứ hai họp từ 16 đến 20.7.1948 tại thôn Đông Lĩnh, xã Đào Giã, huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ với bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam, đã làm rõ bản Đề cương Văn hóa Việt Nam với các nội dung cụ thể: về xã hội lấy giai cấp công nhân làm gốc; về chính trị lấy độc lập, dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc; về sáng tác lấy hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc. Liền sau đó là Hội nghị Văn nghệ toàn quốc từ 23 đến 25.7.1948 tại thôn Dộc Phát, xã Yên Kỳ, huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ với nội dung cũng từa tựa như Hội nghị Văn hóa, dành riêng cho các văn nghệ sĩ.

Theo một định hướng như thế, cỗ máy văn hóa - văn nghệ chạy bằng năng lượng chuyên chính vô sản cứ quay với tốc độ mỗi ngày một cao. Các văn nghệ sĩ tham gia kháng chiến, tức là tự nguyện làm một cái đinh ốc trong cỗ máy - không phân biệt trường phái lãng mạn hay hiện thực, nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh - tất cả đều vận hành đồng tốc, hết lòng cho công cuộc kháng chiến.

Trong một môi trường như thế, văn nghệ sĩ tự hòa tan, như tuyệt đại đa số trường hợp. Riêng Phan Khôi nằm ngoài cái đại đa số trường hợp đó, ông hăng say làm việc, nhưng hòa tan thì không; có thể vì ông cao tuổi, mọi thứ đã trở nên cố định làm hạn chế khả năng thích ứng với hoàn cảnh; cũng có thể ông không chấp nhận bởi có quan điểm riêng.

Trên thực tế không phải chỉ có chừng đó thứ. Tư tưởng Mao Trạch Đông với chính trị là thống soái, tư tưởng là hàng đầu, đã từ biên giới phía Bắc, theo chân những Lý Ban, những La Quý Ba cùng các đoàn cố vấn, xâm nhập mọi ngõ ngách của cuộc kháng chiến với đầy rẫy tài liệu, với các cuộc chỉnh đảng, chỉnh phong, chỉnh huấn từ cao đến thấp.

Trong mọi cuộc tắm rửa, kỳ cọ tư tưởng đó, theo phương châm trị bệnh cứu người, mỗi cá nhân đều không được nói về ưu điểm của mình, mà chỉ nói mọi thứ khuyết điểm mình đã phạm phải, thành thử sau đó, mỗi người thấy mình bé nhỏ như con sâu cái kiến, chỉ còn biết tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa, trung thành với đường lối.

Phan Khôi chấp nhận tất cả để đi đến ngày kháng chiến thắng lợi. Đến cuối năm 1949, người ta vẫn còn chứng kiến hình ảnh lồng lộng của ông giữa hàng quân, trong một cuộc xuất quân của văn nghệ sĩ đi chiến dịch cùng với một đơn vị bộ đội chủ lực.

Một trí thức cũ như ông, tuổi tác như ông, mà chịu đựng đến như thế, cũng đã là can trường. Nhưng càng ngày, Phan Khôi càng nhận thấy sự cách biệt giữa đảng viên và những người không phải đảng viên; giữa lãnh đạo văn nghệ với quần chúng văn nghệ; nhận thấy không khí nguội lạnh của cơ quan; nhận thấy phê bình và tự phê bình chỉ là dịp tốt để cấp dưới rót những lời đường mật vào tai cấp trên. Phan Khôi nhận ra tất cả và thử ra tay cải tạo tình hình bằng vài lần phát biểu trong các cuộc họp cơ quan, chỉ ra khuyết điểm, đề nghị sửa chữa, nhưng thảy đều không đi đến đâu.

Lâu dần ông rơi vào tâm trạng lẻ loi, cô độc, rõ nhất là từ đầu năm 1950 với một bài thơ chữ Hán có tên Giao thừa năm Canh Dần. Về sau, nhà phê bình văn học Thiếu Sơn dịch nghĩa và in trong bài Bài học Phan Khôi của sách Những văn nhân chính khách một thời xuất bản ở Sài Gòn trước năm 1975: Một mình đêm giao thừa / Đến ngọn đèn làm bạn cũng không có / Đắp lên thân suy tàn một tấm mền kép / Chợp mắt mơ là nhấm miệng chua cay / Có vợ con mà cam sống chia cách / Không sinh kế phải ăn nhờ / Nghe gà gáy mừng vùng dậy / Kháng chiến bốn xuân rồi(7).

Phan Khôi (thứ 2 từ phải qua) tại Trung Quốc, trong dịp tưởng niệm 20 năm ngày mất văn hào Lỗ Tấn. Ảnh: TLGĐ


Phan Khôi tham gia kháng chiến trong tư cách một nhân sĩ yêu nước, một nhà Hán học giỏi tiếng Pháp, chuyên về nghiên cứu và dịch thuật, chứ không phải nghệ sĩ sáng tác, nên “cái tôi” của ông ít có cơ hội biểu lộ trong tác phẩm. Nói vậy thôi, chứ “cái tôi” của ông không phải không bị cọ xát, chưa kể là ông chứng kiến nhiều cuộc cọ xát “cái tôi” của những nghệ sĩ sáng tác chung quanh ông, buộc ông phải bày tỏ thái độ của mình.

Nhân thấy ở Việt Bắc có một thứ cây mà lá giống y như lá hồng, nhưng chỉ có gai mà không có hoa, ông liền làm bài thơ Hồng gai: Hồng nào hồng chẳng có gai / Miễn đừng là thứ hồng rài không hoa / Là hồng thì phải có hoa / Không hoa, chỉ có gai mà ai chơi / Ta yêu hồng lắm hồng ơi / Có gai mà cũng có mùi hương thơm(8). Đã là nghệ sĩ thì phải có cá tính, không có cá tính thì bất thành nghệ sĩ. Ví như cây hồng, có gai, có hoa và hoa thơm; đừng bắt cây hồng chỉ được ra hoa mà không được có gai. Bắt thế là vô lối, vì gai là thứ cây hồng phải có để tồn tại cùng muôn loài, nó có tồn tại thì mới có hoa đẹp, hoa thơm!

Bị bệnh sốt rét quật lên quật xuống, sức khỏe ngày một tệ, nên năm 1951 lúc đang là người của Sở Văn nghệ Trung ương, Phan Khôi được nghỉ làm việc để dưỡng sức. Đầu năm 1952 ông lại bị đau dạ dày, được đưa vào bệnh viện quân y để mổ. Trước khi ra viện, trong tâm trạng buồn bã và cô độc, ông làm bài thơ Hớt tóc trong bệnh viện quân yTuổi già thêm bệnh hoạn / Kháng chiến thấy thừa ta / Mối sầu như tóc bạc / Cứ cắt lại dài ra(8).

Lúc này cơ quan ông đã di chuyển về Thái Nguyên. Ông ra viện trở về cơ quan thì tiết trời đã chuyển từ xuân sang hè. Cuối hè, cơ quan cử ông và nhiều người khác đi dự một lớp chỉnh huấn kéo dài một tháng ở Phủ Bình, Thái Nguyên. Cuộc chỉnh huấn này chủ yếu làm rõ vai trò của văn nghệ là phục vụ chính trị, không chấp nhận thứ văn nghệ chung chung, phi giai cấp và đả phá tư tưởng đòi văn nghệ độc lập với chính trị hay đứng ngoài chính trị.

Theo đó, những người làm văn nghệ như ông phải tự nguyện đặt mình dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, Đảng yêu cầu thế nào phải làm đúng thế ấy, phải quên cái riêng của mình đi để phục vụ cái chung. Ông thấy mình đã tự nguyện rồi, có tự nguyện thì ông mới đi kháng chiến, mới vui vẻ làm được chừng đó việc. Nhưng ông vẫn nghĩ ngợi: văn nghệ cứ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, văn nghệ cứ phục vụ kháng chiến, nhưng muốn làm được thứ văn nghệ đó thì người nghệ sĩ phải xuất phát từ cảm xúc nghệ thuật của riêng mình, chứ sao lại bắt họ phải quên cái riêng của mình đi?

Trong nghệ thuật ngụ cái cá tính của mỗi người một khác, do đó cái nghệ thuật tính của mỗi tác giả cũng một khác. Nhược bằng bắt mọi người viết phải viết theo một lối, thì rồi đến một ngày kia, hàng trăm loài cúc đều nở ra hoa cúc vạn thọ hết! Cái lỗi đó không phải của loài cúc, không phải của nghệ sĩ, mà là lỗi của người làm vườn, của người lãnh đạo. Văn nghệ là công việc của sáng tạo mà không xuất phát từ cái riêng của mỗi người, thì sáng tạo làm sao? Đòi quên cái riêng đi, là quên thế nào?

Ông biết nhiều người cũng nghĩ như ông, nhưng khi ông nêu ý kiến đó trong buổi thảo luận, thì tất cả đều lặng ngắt. Nhiều nhà văn, nhà thơ thuộc trường phái lãng mạn, nổi tiếng từ trước 1945 bởi những áng văn, những thi phẩm xuất phát từ chính “cái tôi” rất riêng của họ; không hiểu sao trong cuộc chỉnh huấn lại quay ra phản đối ý kiến của ông!? Đến cuối cuộc chỉnh huấn thì ông hiểu ra rằng: hóa ra những nhà văn, nhà thơ đó đã kịp trở thành đảng viên hết cả, và nay họ đều có chỗ ngồi cao hơn người trong các cơ quan văn hóa, văn nghệ.

Không biết những người tổ chức cuộc chỉnh huấn đánh giá thế nào về kết quả chỉnh huấn một tháng ở Phủ Bình, riêng với Phan Khôi thì ông thấy không có mấy kết quả, tệ hơn nữa là ông thấy bế tắc. Mấy năm nay, trong các cơ quan, đã có nhiều người “dinh tê”, tức là rời bỏ kháng chiến, trở về sống ở vùng Pháp tạm chiếm. Người ta “dinh tê” với những lý do khác nhau, người thì không chịu được cuộc sống kham khổ, người thì bất đồng chính kiến, tất thảy họ đều bị phê phán kịch liệt, bị coi là đầu hàng giặc.

Ông thì không, ông cho là mỗi người có quyền lựa chọn con đường đi của mình: anh có quyền đi với kháng chiến, cũng có quyền không đi với kháng chiến, miễn là đừng theo giặc. Ông chỉ thấy tiếc cho những người “dinh tê”: giá kể trước đây họ cứ ở yên trong thành, đừng đi kháng chiến, là hơn!

Ông không ân hận vì đã đi kháng chiến bởi kháng chiến là nghĩa lớn, kháng chiến lại đang mỗi ngày một tấn tới, giặc Pháp rồi sẽ phải đầu hàng, sẽ phải cút khỏi Việt Nam. Nhưng ông thất vọng, rất thất vọng về cái mình đã tin, đã hy vọng và chờ đợi! Trong nỗi thất vọng đó, ông chợt nhớ đến người bạn trẻ ở Hà Nội mà ông được làm quen và đàm đạo suốt mấy ngày đêm hồi cuối thu năm 1946, chính là tác giả Bài ca sông Dịch.

Quan điểm về tự do sáng tác của Phan Khôi thế là bị tổn thương, tâm hồn thơ của ông thế là bị tổn thương, nhưng ông vẫn sống cách nghiêm túc và cần mẫn với công việc nghiên cứu, dịch thuật, không rơi vào tình trạng mà người ta thường gọi là bất mãn.

Ông vẫn rất thành tâm với kháng chiến, chủ động tìm tiếng nói chung với kháng chiến một lần nữa bằng cách tự mình đề nghị được đi dự một lớp chỉnh huấn khác dài tới ba tháng ở Chiêm Hóa, Tuyên Quang vào năm 1953. Và năm sau, ông chủ động giúp Hội Văn nghệ trong việc xuất bản các tác phẩm của Lỗ Tấn. Đặc biệt ông hoàn thành một chuyên đề nghiên cứu rất công phu là Thử tìm sử liệu Việt Nam trong ngữ ngôn ngay trước ngày ta giành chiến thắng ở trận Điện Biên phủ.

Hồi ký Ta đã làm chi đời ta - Nhà xuất bản Trương Vĩnh Ký (Sài Gòn) in năm 1974, được tái bản dưới tên gọi bút ký bởi NXB Văn Hóa - Văn Nghệ, DominoBooks tháng 10.2018


Trong tập bút ký Ta đã làm chi đời ta, sau khi kể về cuộc hạnh ngộ cuối mùa thu năm 1946 ở Hà Nội, Vũ Hoàng Chương kể tiếp: khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu. Nhà thơ phải tạm dời về miền duyên hải. Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu, lòng nhớ bè bạn làng văn của ông càng như thiêu như đốt.

Bỗng một hôm ông nhận được từ Thái Nguyên gửi về không phải một lá thư thắm buông theo dòng nước biếc, mà là một lá thư trao theo kiểu chim xanh. Ngoài phong bì chỉ có hai dòng, dòng trên: Vũ Hoàng Chương, dòng dưới: Nam Định. Và bên trong vẻn vẹn một bài luật thi với chữ ký: Phan Khôi! Thật không sao kể xiết những cảm xúc của Vũ Hoàng Chương phút ấy. Cảm xúc dâng tràn đến nỗi ông suýt quên rằng phong thư gửi cho ông, nhưng chưa chắc ông là người đầu tiên mở ra đọc… chỉ vì là thư tay, không dán kín(1)!

Bài thơ luật Đường không có đầu đề ấy, bây giờ tôi tạm đặt tên là Thơ gửi Vũ Hoàng Chương. Nó như thế này:

Ngừng tim lặng óc bặt dòng tình

Tai mắt như không phải của mình

Thấy dưới ánh trăng muôn khúc nhạc

Nghe trong tiếng ếch một màu xanh

Suối tiên đắm đuối bao cho chán

Khối mộng vờn mơn mãi chẳng thành

Thú ấy từ lâu không có nữa

Ngủ say thức tỉnh dậy buồn tênh

Những năm tháng ấy Vũ Hoàng Chương không sống cùng Phan Khôi, nhưng qua bài thơ, ông có vẻ như hiểu tất cả những gì người bạn cao niên đang gặp phải. Tâm hồn thơ của Vũ Hoàng Chương thốt kêu lên: Ôi! Câu phá đề sao mà u uất thế? Cả một dòng máu bị thắt nút đang sôi sục, phá phách, đòi tự do! Con người cầm bút đó sẵn sàng vì tự do mà lưu huyết.

Câu thừa đề mới lại mỉa mai, não nuột đến đâu! Tai mắt còn không phải của mình, hỏi ngọn bút cầm ở tay có thể nào là của mình được nữa chứ? Nghe thấy màu, trông thấy nhạc, tai mắt thế là loạn rồi ư? Mà không loạn sao được? Không phải của mình kia mà! Đến như suối tiên đắm đuốikhối mộng vờn mơn, niềm khát khao tự do quả đã tuôn tràn đè trĩu khắp trang giấy. Ôi! Thật là hiển nhiên với hai câu kết:

Thú ấy từ lâu không có nữa

Ngủ say thức tỉnh dậy buồn tênh

Thú ấy là thú nào? Nếu không phải là cái thú tự do mà con người văn nghệ quyết tranh đấu cho kỳ được, nắm giữ lấy như tính mạng, hơn cả tính mạng, có khi!

Vũ Hoàng Chương nằm trong túp lều tranh tại phủ lỵ Xuân Trường, ngâm đi ngâm lại bài thơ của Phan Khôi mà cả một bầu tâm sự đột nhiên được cởi tung, mở phắt. Một tiếng xướng đòi tự do như thế, phải được muôn tiếng họa lại, mới là công bằng. Lẽ nào trong muôn tiếng họa ấy lại thiếu tiếng họa của một kẻ từng bằng lòng lấy văn chương làm nghiệp dĩ, hay sao?

Nhà thơ hiểu tính Phan Khôi nóng như lửa, nếu khoảng giữa tiếng xướng tiếng họa mà im lặng đến hai mươi bốn giờ, ấy là Vũ Hoàng Chương đã đắc tội với bậc vong niên tri kỷ lắm rồi đó. Cho nên Vũ Hoàng Chương, ngay lập tức, họa nguyên vận bài thơ của Phan Khôi:

Trời vô tâm quá, đất vô tình…

Biết gửi vào đâu cái “chính mình”?

Tiếng ếch đã trùm lên tiếng sóng

Màu đen lại ngả xuống màu xanh

Uổng cho thơ dẫu bày trăm trận

Ngán nhẽ sầu khôn phá một thành

Tưởng tới nguồn đào thôi lại tiếc

Con thuyền đêm ấy nhẹ tênh tênh

Vũ Hoàng Chương gửi đi ngay tức khắc. Thơ trao đi mà lòng còn thắc mắc cho mãi đến sau này. Không biết Phan Khôi có tiếp được thư không, mà từ đó bặt vô âm tín!(1)

*

Trong cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi - Vũ Hoàng Chương, có vẻ như trước, sau, phần chủ động đều thuộc về Phan Khôi. Trước, là mùa thu năm 1946 do Phan Khôi được nghe Bài ca sông Dịch mà chủ động tìm gặp tác giả. Sau, là từ cuộc chỉnh huấn một tháng ở Phủ Bình, Thái Nguyên vào mùa hè năm 1952(9), trong tâm trạng bế tắc và thất vọng, Phan Khôi làm bài thơ để trang trải lòng mình, ông không gửi cho ai, mà gửi cho Vũ Hoàng Chương.

Có vẻ như từ năm 1946 Phan Khôi đã phát hiện ra Vũ Hoàng Chương và tìm thấy ở người bạn trẻ một tài năng thơ và một tâm hồn thơ chân chính, rất đáng tin cậy, để mình có thể gửi gắm, chia sẻ mọi nỗi niềm. Nhưng chính Phan Khôi lại hoàn toàn im lặng, không có lấy một dòng viết về cuộc gặp gỡ tri âm của hai người, mà chỉ có Vũ Hoàng Chương ghi lại và đưa vào sách, nên người đời sau mới được biết.

Chắc chắn bài thơ họa nguyên vận của Vũ Hoàng Chương, do hoàn cảnh kháng chiến, đã không đến được tay Phan Khôi, nên cuộc gặp gỡ tri âm của họ phải dừng lại ở đó và Phan Khôi mất đi một cơ hội để chứng giám tấm thịnh tình của người bạn trẻ đối với mình. Thật đáng tiếc cho Phan Khôi và thật đáng ghi lòng tạc dạ tấm thịnh tình của Vũ Hoàng Chương đối với người bạn văn cao niên!

Còn bằng cách nào mà Phan Khôi từ Thái Nguyên là vùng Việt Minh lại gửi được bài thơ cho Vũ Hoàng Chương ở Nam Định là vùng Quốc gia, là một câu hỏi khó trả lời cho chính xác. Tôi chỉ suy đoán rằng: Phan Khôi đã nhờ một văn nghệ sĩ “dinh tê” - người này cũng biết Vũ Hoàng Chương - cầm cái phong thơ không dán kín, về Nam Định trao tận tay người nhận. Tôi ngẫm đi ngẫm lại, thấy chỉ có cách đó là khả dĩ nhất. Và tôi tin như thế!

Tôi đã đi đến tận cùng cuộc gặp gỡ tri âm Phan Khôi - Vũ Hoàng Chương để bày tỏ lòng ngưỡng vọng của mình đến hai cố nhân có đường đời khác nhau, nhưng cùng yêu tự do và cùng chết trong cảnh mất tự do!

Phan An Sa

Nguồn: Người đô thịngày 15.11.2020.


Chú thích:

 (1) Theo cuốn hồi ký của Vũ Hoàng Chương Ta đã làm chi đời ta, Nhà xuất bản Trương Vĩnh Ký, Sài Gòn, 1974, từ trang 110 đến 114; bản e-book (PDF) của độc giả Phạm Quang Ái gửi tặng ngày 29.9.2020 qua e-mail.

 (2) wikipedia tiếng Việt.

(3) www.thivien.net: Trang thơ Vũ Hoàng Chương, Rừng phong (1954). Đăng bởi Vanachi vào 3.6.2005, sửa lần cuối bởi Vanachi vào 4.4.2006.

(4) Đông Xuyên, Tuyển tập thơ Hán - Việt, Nhà xuất bản Cảo Thơm, Sài Gòn, 1975; trang web www.thivien.net: Trang thơ Phan Khôi, hạng mục “Những bài thơ mới nhất”, đăng bởi hongha83 vào ngày 19.4.2020, sửa 2 lần.

(5) Phan An Sa, Nắng được thì cứ nắng - Phan Khôi từ Sông Hương đến Nhân văn, Nhà xuất bản Tri thức, Hà Nội, 2013, trang 442.

 (6) Phan Thị Mỹ Khanh, Nhớ cha tôi - Phan Khôi, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2001, trang 162.

(7) Phan An Sa trích đăng, sách đã dẫn, trang 349.

(8) Giai phẩm mùa thu 1956, tập III, nhà xuất bản Minh Đức, Hà Nội, tháng 11.1956. Dẫn theo Lại Nguyên Ân, Phan Khôi - Tác phẩm đăng báo, in sách 1948 - 1958, Nhà xuất bản Tri Thức, Hà Nội, 2019, trang 222.

(9) Chủ nhân một trang facebook cá nhân, ngày 1.6.2020 có bài Nhà thơ Vũ Hoàng Chương họa thơ nhà báo Phan Khôi, viết rằng: “Năm 1946, lúc gia đình ông đang ở tại lỵ phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định thì nhận được thư của Phan Khôi đến từ Thái Nguyên”. Viết 1946 là sai, gây sự nhầm lẫn rất có hại cho việc tìm hiểu Phan Khôi giai đoạn kháng chiến chống Pháp.

Văn bút ký của Vũ Hoàng Chương có một đặc điểm là đọc lên như thơ, cứ lơ lửng, lửng lơ, như bay, như liệng; người đọc thiếu cẩn thận một chút là bị nhầm lẫn liền. Người sở hữu trang facebook nói trên viết sai, chính là do sự nhầm lẫn đó. Tôi đã mất cả sáu tháng trời loay hoay trong sự nhầm lẫn do đọc phải các thông tin trên, khiến không thể lý giải được sự bất hợp lý giữa thời điểm Vũ Hoàng Chương nhận được bài thơ và địa danh Thái Nguyên là nơi Phan Khôi gửi bài thơ đi. Cho đến khi được trực tiếp đọc tập bút ký Ta đã làm chi đời ta, mà đọc rất kỹ, mới luận ra được, mới thoát khỏi sự nhầm lẫn tai hại lúc đầu.

Nên nhớ rằng, chỉ khi Vũ Hoàng Chương kể về cuộc hạnh ngộ giữa ông với Phan Khôi tại Hà Nội thì ông mới nhắc đến năm 1946. Ông còn viết kỹ càng thế này kia mà: “Con người ấy! Buổi hạnh ngộ ấy! Tôi mà quên được ư? Và năm ấy, tôi còn nhớ là năm 1946! Triều Nguyễn chấm dứt vừa đúng mười ba tháng trời!”.(Lấy 19.8.1945 làm mốc, 13 tháng trời, thì tôi đoán cuộc hạnh ngộ của hai người diễn ra vào hạ tuần tháng 9. 1946).

Còn về việc nhà thơ nhận được thư của Phan Khôi gửi từ Thái Nguyên, thì ông viết thế này: “Sau đó ít lâu… khói lửa bùng lên từ Hải Phòng, từ Hà Nội… và lan tràn khắp các thị trấn trung châu… Ngày dài đằng đẵng, hết xuân rồi lại thu… Lòng nhớ bè bạn làng văn càng như thiêu đốt…” . Tôi gạch chân cụm từ hết xuân rồi lại thu để nhấn mạnh rằng: nhà thơ viết như thế là để chỉ thời gian đã trôi ra khỏi năm 1946 rồi, đã trôi đi nhiều năm nữa rồi, chính Vũ Hoàng Chương cũng không còn nhớ chính xác là năm nào nữa.

Nghiên cứu kỹ quá trình Phan Khôi tham gia kháng chiến chống Pháp, thì thấy rằng: Từ 19.12.1946 cho đến đầu năm 1947 ông vẫn còn ở Hà Nội và các vùng phụ cận. Chỉ từ sau Tết năm 1947 trở đi ông mới di chuyển lên Phú Thọ, rồi Tuyên Quang, rồi Thái Nguyên.

Từ lời văn nói trên của Vũ Hoàng Chương, từ hành trạng của Phan Khôi mấy năm đầu đi kháng chiến, thì không thể có chuyện ông làm bài Thơ gửi Vũ Hoàng Chương và gửi cho nhà thơ vào năm 1946 được.

Mấy năm tiếp sau đó như 1947, 1948, 1949 cũng khó xảy ra vì không khí kháng chiến đầy hứng khởi còn đang cuốn hút ông, những bài thơ ông làm trong mấy năm này đều rất ấm áp, tình cảm, như đã kể ở trên. Từ năm 1950 trở đi thì có thể, nhưng đáng tin nhất là vào cuối mùa hè 1952 sau khi ông dự lớp chỉnh huấn một tháng tại Phủ Bình, Thái Nguyên, khiến ông bị rơi vào bế tắc và thất vọng. Trong hoàn cảnh đó, ông làm bài thơ Đường luật với tâm trạng não nề như thế gửi Vũ Hoàng Chương, người bạn tri kỷ của ông, là rất có lý.

Tin nhà văn Nguyễn Huy Thiệp bị tai biến thì nhiều người đã biết nhưng tin tác giả Tướng về hưu qua đời khiến giới văn chương và độc giả bất ngờ. Theo nhà thơ Văn Công Hùng, "văn đàn Việt vắng đi một bóng cây lớn".

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lúc sinh thời /// Ảnh: T.L

 Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lúc sinh thời (ẢNH: T.L)

Nhớ về kỷ niệm với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh không quên những lần gặp gỡ tác giả Tướng về hưu. Nữ giảng viên trường ĐH KHXH và NV TP.HCM kể lại: “Tôi gặp nhà văn Nguyễn Huy Thiệp tổng cộng ba lần. Lần thứ nhất là do nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh rủ khi anh Thiệp vào Nam chơi. Lần thứ hai khi trường tôi mời nhà văn Nguyễn Huy Thiệp và nhà thơ dân gian Bảo Sinh đến nói chuyện với sinh viên và lần thứ ba là khi tôi ra Hà nội dự hội thảo của Viện Văn. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đến dự với một túi lạc luộc và khoai lang rồi mời mọi người ăn. Anh vẫn nhớ tên tôi (có lẽ vì cái tên đặc biệt chứ không phải vì cái gì khác). Ngoài đời anh ít nói, không hoạt ngôn, cứ im im ngồi, thi thoảng nói vài câu. Người như vậy để hết tâm vào con chữ rồi..."

20210328 6

Tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh (bìa trái) và nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (thứ hai từ trái sang) cùng các bạn văn chương

(ẢNH: FBNV)

Gặp trực tiếp chỉ ba lần, nhưng với tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh “gặp” truyện của ông thì không biết bao nhiêu lần: Tướng về hưu, Không có vua, Những ngọn gió Hua Tát, Muối của rừng, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Trương Chi, Vàng lửa, Kiếm sắc, Phẩm tiết... Cô nhận xét: "Những trang văn gai góc, không màu mè, xoáy sâu vào tim gan độc giả với những cảnh tình nhiều khi rùng rợn và không tưởng tượng nổi. Tôi đọc đi đọc lại nhiều tác phẩm, nhất là Không có vua, một mảnh vỡ chông chênh của những giá trị giao thời, mà khi đọc Tiệm may Sài Gòn của Phạm Thị Hoài, tôi chỉ phục thôi chứ không cảm và lặng người như đọc Nguyễn Huy Thiệp. Gần nhất, năm ngoái, khi dạy truyện Tướng về hưu qua bản dịch tiếng Anh, sinh viên Mỹ rất thích. Nhiều bạn trẻ bày tỏ rằng nhờ truyện này mà họ hiểu được cái tâm tình đổ vỡ của người lính hậu chiến, thì ra người chiến thắng cũng đổ vỡ chứ không phải chỉ người thua".

Cũng theo tiến sĩ Trần Lê Hoa Tranh: “Nếu chọn vài nhà văn lớn nhất nửa sau thế kỷ 20, có lẽ chỉ có Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh (giống như tôi chọn Vũ Trọng Phụng là nhà văn lớn nhất Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20 vậy). Một kiếp người gian truân, vất vả, nhưng để lại cho đời từng đó tác phẩm hay, âu cũng là phần thưởng xứng đáng".

Bạn văn thương nhớ Nguyễn Huy Thiệp, một kiếp người gian truân và tài hoa  - ảnh 2

Một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (ẢNH: T.L)

 

Còn nhà văn Bùi Anh Tấn thì chia sẻ trên trang cá nhân với những dòng cảm động: “Dẫu biết đời người là một vòng quay sinh - bệnh - lão -tử, không ai tránh khỏi. Tuy nhiên biết tin, vẫn rất buồn. Ra đi ở tuổi 71 không gọi là trẻ nhưng cũng chưa hẳn là quá già. Xin tiễn ông, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp”.

Nhà thơ Nguyễn Hữu Hồng Minh cho biết: “Anh Thiệp biết tôi ra Hà Nội nên mời tôi đi ăn. Anh Thiệp là một nhân vật nổi tiếng nên thật ra người ta thường mời anh chứ anh ấy rất ít mời ai (!?). Điều này cũng dễ hiểu. Anh nói hụt hơi trong điện thoại: - "Minh, Minh. Phải gặp nhau nhé! Việc gì cũng phải bỏ! Chiều mai đến cà phê Nhân nhé! Tôi cũng sẽ cố gắng để ra sớm... Đúng rồi! Đúng rồi! Cái quán ấy. Góc ngồi ấy..".

Bạn văn thương nhớ Nguyễn Huy Thiệp, một kiếp người gian truân và tài hoa  - ảnh 3

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp (phải) và nhà văn Trần Nhã Thụy tại sự kiện gặp gỡ cộng tác viên Viết & Đọc tại Hà Nội, tháng 10.2019 (ẢNH: NVCC)

Nguyễn Hữu Hồng Minh tâm sự: “Cả buổi chiều đó Hà Nội quá nóng, bất chợt đổ một cơn mưa lớn. Cơn mưa lớn đến nỗi, hai phụ bàn chạy lăng xăng đóng lại mấy cửa kính. Tôi phải đổi qua một cái bàn mới khuất sâu hơn để tránh mưa. Và gọi cho anh Thiệp. Tiếng anh lòe nhòe trong mưa: -"Đang tới Minh. Mưa to.Tắc đường. Tôi đang chờ ngớt mưa để đi....Tôi quay lại thì nghe loảng xoảng phía ngoài sân. Nhìn ra phía ngoài một giỏ hoa quán cà phê Nhân đã bị gió cuốn đứt xõa một đống trước sân. Nhân viên chỉ thò đầu ra, rồi rụt cổ thè lưỡi chứ không ai dám đổ ra dọn. Mưa Hà Nội. Hà Nội cũng bất thần có những cơn mưa lớn như thế mà lần đầu tôi được biết khi hẹn với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp".

Còn nhà văn Trần Nhã Thụy chia sẻ ngắn ngủi: "Vĩnh biệt ông, nhà văn - cây bút truyện ngắn tầm cỡ của văn học Việt Nam. Một cuộc đời trầm luân nhưng đáng giá. Danh càng lớn họa càng cao - đó là câu của Nguyễn Huy Thiệp mà tôi xem như là công án tu tập cho đời mình".

Lê Công Sơn

Nguồn: Thanh niên, ngày 20.3.2021.

20201227

Tranh Hasui

Văn chương là lĩnh vực của sự độc đáo, sáng tạo. “Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những cái gì chưa có” (Nam Cao). Trước thử thách đó, Nhật Chiêu đã khẳng định Tôi là một kẻ khác- như  tên một tập thơ của ông. Sau khi khởi xướng hai loại thơ mới: Thơ giao lời kể, và Thơ tượng quẻ; gần đây, Nhật Chiêu tiếp tục là người tiên phong cho một lối thơ lạ nữa: Thơ đôi đồng phương- một haiku, một lục bát. Đến hết tháng 9 năm 2020, Nhật Chiêu đã công bố 95 bài thơ đôi trên mạng xã hội[1].

Lối kết hợp thơ đôi, trước đây đã có.Phối hợp thể nọ với thể kia là một sở thích của các thi sĩ Việt Nam, bác học cũng như bình dân; chúng ta có thể song thất lục bát, và rất nhiều câu ca dao hỗn hợp thất ngôn với lục bát. Tuy nhiên, trong trường hợp nào cũng chỉ có các thể thơ thuần Việt hòa hợp với nhau mà không hề có chuyện Hoa Việt hợp thể. Trong bài hát ả đào, hai câu "thơ" được thỉnh vào không phải để hòa mình, mà là để tách riêng ra đứng sừng sững một mình như vị khách lạ: lạ về thi luật, lạ về nhạc điệu, lạ về ngôn ngữ (trong bài hát Việt, hai câu ấy viết bằng Hán văn). Hóa ra thơ không dễ dàng chịu hợp thể như người hợp chủng. Câu thơ, coi vậy mà nó không ngoan ngoãn đâu"[2].

Đến nay, trên thi đàn văn học Việt Nam có sự trở lại hình thức thơ đôi – khởi xướng là tác giả Nhật Chiêu. Tuy nhiên,  Nhật Chiêu không kết hợp Hán- Việt. Ông sáng tác thơ đôi theo một lối mới: kết hợp một haiku, một lục bát và gọi đó là “Thơ đôi đồng phương”. Với tên gọi “đồng phương”, Nhật Chiêu như muốn hướng người đọc hướng tới tính chất đồng văn, cùng hướng, hòa quyện làn hương giữa haiku và lục bát. Hướng đi đột phá  này của Nhật Chiêu có thành công?

 

1. Thơ đôi đồng phương một haiku một  lục bát  của Nhật Chiêu-  cặp “duyên tình” về hình thức

Khi kết hợp haiku với lục bát, Nhật Chiêu luôn để haiku ở trước, lục bát đứng sau.

Thơ haiku của Nhật được coi là thể thơ ngắn nhất thế giới, thường vỏn vẹn chỉ 17 âm tiết, ngắt làm 3 dòng (5 + 7+ 5). Tiếng Nhật đa âm tiết; do đó, bài thơ haiku rất ít từ. Haiku trong sáng tác của Nhật Chiêu là haiku đã được Việt hóa, sáng tác bằng ngôn ngữ đơn âm tiết tiếng Việt. Trong các bài haiku Việt Nam, số lượng âm tiết không phải giữ nguyên 5 + 7 + 5 nữa. Âm tiết trong các dòng thơ linh hoạt hơn, tuy nhiên, số lượng âm tiết trong mỗi dòng, mỗi bài cũng hết sức ít ỏi, có thể gọi là cực ngắn (cũng chỉ trong khoảng 10-18 âm tiết). Các âm tiết trong mỗi câu cũng không đều nhau làm cho các câu thơ haiku có sự xô lệch về độ ngắn dài của dòng thơ. Trong khi đó, lục bát luôn có sự ổn định về câu chữ: một câu 6 âm tiết; một câu 8 âm tiết. Số lượng âm tiết của mỗi câu lục bát thường nhiều hơn lượng âm tiết mỗi dòng của thơ haiku. Do đó, đặt câu thơ haiku ngắn ở trước, lục bát dài ở sau, hình thức câu chữ của bài thơ đôi lập tức có tính tạo hình, hội họa với bố cục và đường nét cân đối, nhịp nhàng. Có thể liên tưởng hình thức câu chữ bài thơ như một quả núi, như một cái cây đẹp, có chân nền ổn định (lục bát) và có ngọn cao, nhiều cành nhánh nhấp nhô, khoáng đạt (haiku). Cũng có thể hình dung haiku như núi rừng với những ngọn cao thấp tiếp nối, còn lục bát như suối sông êm đềm... Cùng có thể hình dung haiku, lục bát như một sự sóng đôi song trùng cây, song trùng hoa, song trùng núi, song trùng sông... Sự sóng đôi haiku, lục bát đã khiến ngay hình thức câu chữ của bài thơ đôi đã có tính “thi trung hữu họa”- một đặc điểm nổi trội của thơ ca phương Đông truyền thống. Thêm nữa, người đọc cũng có thể liên tưởng tới tính chất âm (lục bát), dương (haiku); động (haiku), tĩnh (lục bát)... từ hình thức câu chữ- điều này thêm khiến cặp đôi haiku và lục bát như một cặp đôi vừa tương đồng vừa khác biệt.

Cùng với hình thức số lượng câu từ,  cặp đôi haiku lục bát còn “kết gắn” với nhau bởi vần. Thơ haiku Nhật vốn không có vần. Sang “sinh sống” ở nước Việt, haiku đã được các nhà thơ biến cải, thêm vần. Sự xuất hiện vần trong các bài haiku Việt cũng đã khiến cho thể haiku của Nhật đã có trong mình một phần đặc điểm của thơ lục bát Việt: luôn có vần. Điều đó khiến cho cặp bài haiku, lục bát đã có cùng điểm tương đồng: có sự bắt nối âm, liên kết giữa câu thơ này với câu thơ khác. Thêm nữa, nhiều bài thơ đôi, vần của các câu haiku đã được bắt nối sang vần của lục bát. Ví dụ:

NGƯỜI MẪU

Người mẫu thanh tân

khoác lên thân thể

một tâm hồn trần

          *

Vì trăng buông áo phù vân

em ôm nhật nguyệt đôi vầng tắm mưa

                 SỮA

            (tặng H. thai phụ)

Mưa đêm nay

bé nào trong mẹ

nằm nghe sữa đầy

          *

Em ơi mưa bắt đầu bay

thánh ca giọt nước ơn đầy thinh không

Sự có vần ở câu thơ kiểu haiku và sự bắt vần sang các câu lục bát đã khiến cho cặp thơ đôi có sự gắn kết tự nhiên về hình thức với nhau.

Tiếp nữa, mối duyên của hai thể thơ này còn được thể hiện ở tính chất “đồng phương”- cùng hướng, cùng mùi hương như tác giả đã đặt tiêu đề. Thơ đôi được sáng tác theo ý tưởng mới của tác giả: “Một cảm xúc bất chợt sẽ diễn thành một cặp thơ khác thể nhưng đồng phương”, “mỗi đôi là hai bài song hành trên một con đường cùng cảm hứng nhưng thể thức khác nhau”[3] (Nhật Chiêu). Chủ đề của các cặp bài có sự hô ứng với nhau. Ý từ câu haiku gọi tới câu lục bát như một sự dẫn dắt để lục bát tiếp nối, lan tỏa, âm vang. Giai điệu trên trời cao trong câu haiku:

                                Chim xuống từ mây

                                đầy buông giai điệu

                                đẹp và say

như lời tha thiết gọi cỏ cây:

                                Thả mình đi cỏ may ơi

                                bay  lên áo mộng say đời phù du

                                          (Đẹp và say)

Từ bức họa “Người mẫu” khỏa thân, được mô tả từ điểm nhìn khách quan:

                                Người mẫu thanh tân

                                khoác lên thân thể

                                một tâm hồn trần

đến lời bộc bạch táo bạo, đáng yêu từ tiếng nói chủ quan của chính người mẫu:

                                Vì trăng buông áo phù vân

                                em ôm nhật nguyệt đôi vầng tắm mưa

Từ hiện tại với người yêu giữa lòng biển cả:

                                Bơi biển chiều

                                ẩn sau tiếng sóng

                                nàng như nói... yêu

đến hồi ức như trên mây hạnh phúc kỉ niệm hồn nhiên thời thơ ấu:

                                Trong mây nàng bé thơ bay

                                tấm chăn xưa ấy dựng ngày thần tiên

                                          (Nàng)

Cứ tiếp diễn, hô ứng cùng nhau như vậy, cặp haiku và lục bát trong thơ đôi của Nhật Chiêu gần như hai vế đối kiểu lưu thủy, mạch ý câu trên trôi chảy như nước, được tràn sang câu dưới, sóng sánh, dư âm và tình tứ. Haiku phá đề, lục bát thừa đề, nối tiếp, bổ sung cho nhau thành một chỉnh thể ăn ý, thống nhất.

2. Thơ đôi đồng phương một haiku một  lục bát  của Nhật Chiêu-  cặp “duyên tình” về  chủ đề  cái đẹp tình yêu

Thơ đôi đồng phương một haiku một lục bát của Nhật Chiêu có rất nhiều chủ đề. Trong đó, có nhiều bài là chủ đề của haiku truyền thống Nhật Bản. Đó là tư tưởng Thiền:

                                Tóc mưa

                                thân thuyền độc mộc

                                đêm xưa

                                          *

                                Đêm mưa người cứu độ người

                                đưa hương cực lạc về trôi vô thường

                                          (Người cứu độ người)

                                Tôi thường rơi

                                như chiếc lá nào đó

                                vào hoang vắng tôi

                                          *

                                Ta là tặng vật ta ơi

                                mà ai gởi tặng về nơi vô hình

                                          (Vô hình)

Chủ đề thiên nhiên:

                                Bồ công anh

                                tan mình trong gió

                                sao mà long lanh

                                          *

                                Gió ngày sẽ chạm vào mơ

                                thổi muôn tia nắng trong bồ công anh

Tác giả cũng thể hiện những chiêm nghiệm, suy tư về lẽ đời:

                                Đất ơi

                                đa mang biển núi

                                và ôi... mang người

                                          *

                                Bi thương này cõi đất ơi

                                nặng mang cuồng vọng con người mà quay

                                (Này cõi đất ơi)

Thậm chí cất tiếng nói phẫn nộ, đau đớn bằng thơ đôi:

                                Bầu trời này

                                mà các ngươi chiếm đoạt

                                là nơi chim bay

                                *

                                Phố dài không một bóng cây

                                bỗng nghe sa mạc chờ thay cát người

                                          (Không bóng chim)

                                Mi giết người Vâng

                                mi có tội Vâng

                                mi toi rồi Vâng

                                          *

                                Trái tim người với lông chim

                                ai cân bóng tối đừng tìm ánh mai

                                          (Ai cân trái tim)

Song, nổi bật lên trong thơ đôi đồng phương một haiku một lục bát của Nhật Chiêu là những bài thơ viết về tình yêu. Nhật Chiêu có 52/94 bài thơ đôi tình yêu (đây chỉ tính số bài có nội dung trực tiếp về tình yêu. Nếu tính cả những bài viết về thiên nhiên nhưng có thể liên tưởng đến tình yêu nam nữ thì số lượng tăng lên nhiều hơn nữa, ví dụ bài Bồ công anh đã dẫn ở trên). Những bài thơ đó giàu mĩ cảm, ngời lên cái đẹp. Đó là cái đẹp tự nhiên, thanh lịch, xuân thì... Nhân vật “em”- người con gái là biểu tượng của sự xinh đẹp, trong ngần. Nàng hội tụ tinh tế của đất, nước, gió, lửa, mây trời, trăng sao, kim cương, lụa ngọc v.v...: “Ngực bồng bềnh gió biển” (Điệu gió), “suối khe em đẹp lũng đồi em xinh” (Điệu đất), “em nằm mây trắng” (Đẹp và trôi), “mắt người rực ánh kim cương” (Khắc dấu)... Nàng khỏa thân đẹp đẽ: “đào nguyên hé mở đất trời bao dung” (Đẹp và trôi) và thiên nhiên cũng thành trang sức cho nàng thêm đẹp, thêm lả lơi, mời gọi:

                                Trăng dư tình

                                xuống khe nước nhỏ

                                tắm mình và em

                                          *

                                Đêm xuân người tắm dư vang

                                tiếng thanh thanh ấy ướt tràn hồn tôi

                                (Nước)

và tuyệt mĩ là lúc nàng ân ái. “Điệu lửa”, “Điệu nước”, “Điệu gió”, “Điệu đất”... (nhan đề các bài thơ) và nhiều cung bậc khau nhau nữa – những động thái, đặc điểm của thiên nhiên như đều gợi đến dáng vẻ, hành động ma mị, kì diệu của người con gái. Những khi ấy: “Khi thân thể diễm đem trồng cõi mơ” (Trồng), “lửa yêu ửng mọng thân ngời lên than” (Lửa), “trong đêm ửng mọng đào nguyên tận nguồn” (Điệu nước), “em khe xuân hát em đồi hạ ru” (Mùa)...

Đó là người con gái. “Đồng phương” với nàng (như haiku với lục bát), chàng trai trong thơ Nhật Chiêu say tình. Người yêu đến là cả một thế giới niềm vui mở ra với chàng:

                                Em đến đây rồi

                                ta trôi sáu cõi

                                yêu hơn nụ đời

                                          *

                                Phút giây hạnh ngộ là thơ

                                đến đây là đã sang bờ dấu yêu

                                          (Hạnh ngộ)

Chàng rất đỗi hào hoa, thanh lịch với bạn tình. Mỗi cử chỉ của người yêu, chàng đều nhìn thấy vẻ đẹp thơ mộng:

                                Nhìn em thay áo trong đêm

                                tấm chăn cũ trải ánh huyền trăng thơ

                                          (Nhìn)

                                Khi em cài nút vào khuy

                                nghe thiên thu động nhu mì đồi trăng

                                          (Khuy)

Đặc biệt, chàng hết mực trân quý bạn tình:

                                Yêu trong phai tàn

                                có gì như mê chạm

                                ta và triêu nhan

                                          *

                                Chạm mình vào nhau triêu nhan

                                ta thơ thẩn tới chạm nhàn nhã em

                                          (Chạm)

                                

                                Lạnh chiều em nắng lên tôi

                                em khe xuân hát em đồi hạ ru

                                          (Mùa)

Thái độ “gói em như món quà” (Mưa, nắng và quà) khiến chàng trai trong thơ đôi đồng phương haiku, lục bát của Nhật Chiêu tương phản đối lập hoàn toàn với kiểu đàn ông phàm phu tục tử “Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hoa”, “Đuốc hoa để đó mặc nàng nằm trơ” (Truyện Kiều), “Qua sông phụ sóng”, “Cọc nhổ đi rồi, lỗ bỏ không” (Hồ Xuân Hương)... Viết về những chàng trai lịch thiệp, say tình bên những cô gái đẹp xinh, nồng cháy, thơ đôi của Nhật Chiêu chỉ có các cuộc tình lãng mạn, tha thiết, tươi thắm.

Tình yêu đôi lứa trong thơ đôi Nhật Chiêu là điều kì diệu của cuộc sống. Nhật Chiêu diễn tả tình yêu bằng những yếu tố tinh hoa của tự nhiên, để thế giới thiên nhiên chan hòa với tình yêu. Bài thơ nào viết về tình yêu của ông cũng có hình ảnh thiên nhiên. Thêm nữa, các hình ảnh của thế giới tự nhiên cũng thường có đôi gần gũi, quấn quýt. Đó là hòn cuội với dòng suối, núi với mặt nước (Hôn), hồ và mây trắng (Đẹp và trôi),  sương với cỏ  (Đẹp và say), siêu hoa trăng với giàn mướp (Hoa trăng)... Vạn vật dậy hương tình yêu với con người, rất đỗi lãng mạn và thi vị. Ngay cả những bài thơ Thiền trong thơ đôi haiku của Nhật Chiêu cũng gợi đến tình yêu đôi lứa:

                                Trăng rơi nhanh

                                trong viên mưa đá

                                vỡ tan tành

                                          *

                                Em về bục áo vai tơ

                                phút giây ta ngộ đôi bờ lộ thiên

                                          (Ngộ)

                                Em trôi

                                với sông và nguyệt

                                qua mùa và tôi

                                          *

                                Bơi vô hình một dòng sông

                                em trôi trên đất qua lòng Như Lai

                                          (Trôi)

                                Cánh hoa rơi

                                thảnh thơi mơ thấy

                                mình đang ra đời

                                          *

                                Nam mô Bụt nam mô em

                                nam mô nắng thả lên thềm lung linh

                                          (Đản sinh)

Như thế, tôn giáo lớn nhất với Nhật Chiêu đã là tôn giáo của tình yêu, gắn với tình yêu. Thế giới đẹp nhất với ông là thế giới của tình yêu đôi lứa và có tình yêu đôi lứa mặn nồng, hạnh phúc. Đưa thơ tình lên ngôi trong thơ đôi đồng phương, Nhật Chiêu khiến haiku vừa kế thừa được sự phóng khoáng của văn hóa Nhật Bản vừa về gần với tiếng nói  của thơ ca lục bát với ca dao dân gian và truyện Nôm truyền thống Việt Nam. Nhiệt huyết với tình yêu và vẻ đẹp sex như vậy, Nhật Chiêu đã làm mới cả haiku lẫn lục bát. Ông khiến cho thơ đôi đồng phương haiku và lục bát vừa bắt rễ vào truyền thống văn hóa xưa của Nhật Việt, vừa mang hơi thở hiện đại, văn minh. Đây có lẽ là đóng góp và cũng là điều ấn tượng nhất về chủ đề trong thơ đôi đồng phương của Nhật Chiêu.

3. Thơ đôi đồng phương một haiku một  lục bát  của Nhật Chiêu-  thỏa sức đồng sáng tạo, đọc liên văn bản cho độc giả

Cả haiku và lục bát đều là những thể thơ lời ít, ý vô cùng. Haiku lại là thể loại ngắn và hàm súc nhất của thơ ca phương Đông nói chung, thế giới nói riêng. Để có sức chứa vô biên trong hình thức ngôn từ ít ỏi, thơ haiku tích hợp trong lòng nó đa dạng các hình thức văn hóa phương Đông: nghệ thuật tranh thủy mạc, nghệ thuật cắm hoa, nghệ thuật trà đạo... Bên cạnh haiku, lục bát cũng là thể thơ ngắn. Trong thơ ca dân gian Việt Nam, chỉ một cặp lục bát cũng đã đủ trở thành một chỉnh thể tác phẩm hấp dẫn, sinh động. Bằng tài hoa của mình, Nhật Chiêu kết hợp được vẻ đẹp kì diệu của tính hàm súc, gợi mở ở haiku và lục bát, tạo nên được hình thức thơ “xứng đôi đẹp lứa”. Đến với thơ đôi Nhật Chiêu, người đọc được đồng sáng tạo với tác giả bằng những sự cảm nhận phong phú, đa dạng qua đôi mắt và tâm hồn mỗi bạn đọc.

Tính chất hàm súc, đa nghĩa, dư ba ở thơ đôi Nhật Chiêu có nhiều cách thức khác nhau.

Thứ nhất, người đọc có thể thoải mái suy luận từ ngôn từ và ngữ nghĩa câu chữ. Ví dụ câu từ của bài Lửa sau đây:

                                Cây hồng ơi

                                hoàng hôn chín đỏ

                                quả ngon em mời

                                          *

                                Hoàng hôn nằm xuống bên đồi

                                lửa yêu ửng mọng thân ngời lên thân

“Cây hồng” là chỉ một loài cây- “cây hồng”, có quả chín hồng và sai quả, quả nọ san sát cạnh quả kia (thân ngời lên thân)? “Cây hồng”- ấy là “lửa” cháy trông như cây hồng- đỏ? “Cây hồng”- vùng trời bừng ánh sáng “hoàng hôn” cháy đỏ? “Cây hồng”- là “em” đang rực hồng đôi má, đôi môi tràn trề sinh lực của tuổi trẻ?  “Cây hồng”- trạng thái cảm xúc nàng đang rạo rực, khát khao hạnh phúc? “Lửa”, “cây hồng”, “hoàng hôn”, “em”- mỗi từ đều có thể khiến bài thơ có thêm một ý nghĩa. “Hoàng hôn nằm xuống” là ánh sáng hoàng hôn được nhân hóa? Ánh sáng hoàng hôn bừng lên, chiếu vào quả hồng đang chín đỏ làm quả hồng vốn đã đẹp lại càng rực sáng hơn, lung linh hơn?  Hay “Cây hồng” kia là “em”, “hoàng hôn” là “anh”? Bài thơ nghiêng tả cảnh một màn sex thăng hoa “ửng mọng thân ngời lên thân” của một đôi bạn trẻ? Biết đâu, cũng có thể đó là tình của một người đã về “hoàng hôn” của cuộc đời với một người đang thắm hồng như lửa cháy? “Lửa”- chủ đề bài thơ là sức nóng của lửa, hay của vũ trụ lúc chuyển giao trạng thái giữa ngày và đêm, hay là “độ nóng” trong lòng bạn trẻ, hay là sự bùng cháy của người đã sắp về bên kia thế giới? Bất tận ý nghĩa có thể tạo ra từ sự kết hợp, liên kết các câu từ, tùy theo sự tưởng tượng, liên tưởng bay bổng của người đọc.                     

Không bài thơ đôi nào của Nhật Chiêu có tính đơn nghĩa. Đọc bài thơ về thiên nhiên, thấy tình yêu đôi lứa; đọc bài thơ đôi lứa, thấy triết lí Thiền tông; đọc bài thơ tình yêu lại có thể thấy cả thế giới tự nhiên và suy tư về cuộc sống con người... Nhiều khi khó có sự tách rời giữa chất Thiền tông với bức tranh thiên nhiên và những cung bậc cảm xúc của con người. Nhật Chiêu thường hòa điệu các chủ đề đó trong một bài thơ. Trong đó, như đã nói, nổi bật lên là chủ đề tình yêu. Không ít bài, Nhật Chiêu khúc xạ thiên nhiên, chiêm nghiệm cuộc sống nhân sinh bằng đôi mắt và tâm hồn đôi lứa. Những hòn cuội, núi non, dòng sông trong thơ đôi của Nhật Chiêu thật tình tứ:

                                Hòn cuội nghiêng dần

                                lên hòn cuội khác

                                dưới dòng suối xuân.

                                          *

                                Nụ hôn của núi hằn sâu

                                lên gương mặt nước một màu hoàng hôn.

                                          (Hôn)

Đá cuội, dòng sông, mặt nước... tất cả đều được tác giả nhân hóa, có tâm hồn. Chẳng những “Sỏi đá cũng cần có nhau” (Trịnh Công Sơn) mà chúng còn có cách thức đến bên nhau thật dịu dàng, tinh tế: “Hòn cuội nghiêng dần/ lên hòn cuội khác”. Chúng ở bên nhau thật diễm lệ: “dưới dòng suối xuân”. Dòng suối xuân tình, luôn ở mùa của tuổi trẻ, mùa của sự sống, mùa của sự khởi đầu đã, đang và sẽ nuôi dưỡng, tắm mát muôn đời cho tình yêu của những hòn cuội. Những hòn cuội sống đời sống tình yêu bất tử. Thật thú vị và hạnh phúc biết bao. Cùng với những hòn cuội, núi cũng hành động trong yêu thương với dòng nước. Tuy nhiên, nó không “nghiêng dần” nhẹ nhàng, chậm khẽ như những viên cuội; ngược lại, nó “hằn sâu” nụ hôn mạnh mẽ, bạo liệt: “lên gương mặt nước một màu hoàng hôn”. “Màu hoàng hôn”- là màu chói chang bừng lên mạnh mẽ? Núi đã hôn dòng nước đắm say bằng tất cả trái tim nồng cháy của mình? Dòng nước mang “Một màu hoàng hôn”, e thẹn, đỏ ứng vì nụ hôn của núi? “Một màu hoàng hôn” là bóng núi in trên dòng nước xuân? Câu thơ đa nghĩa, có thể hiểu theo rất nhiều chiều liên tưởng khác nhau. Vì rằng, tài thơ của Nhật Chiêu đã khiến ông “chưng cất” được đặc điểm của thơ ca phương Đông nói chung, haiku nói riêng: ý tại ngôn ngoại, chỉ vài âm tiết ít ỏi mà ý tứ mênh mông, vô cùng. Mà cách hiểu nào cũng thi vị.  Cả thế giới thiên nhiên là một bản tình ca. Nhật Chiêu đã  thấy mọi vật, đá cuội hay dòng nước, ngọn núi cũng có đời sống tình yêu của chúng. Niềm tin “vạn vật hữu linh” đã được Nhật Chiêu diễn tả thăng hoa qua trạng thái và xúc cảm tình yêu đôi lứa của vạn vật. Thiên nhiên hòa điệu với con người. Nhật Chiêu nhìn hòn cuội, thấy tình yêu của cuội, nhìn bóng núi dưới làn nước thấy tình yêu của non nước... , nhìn đôi mi của người yêu, ông lại thấy cánh bướm chập chờn:

                                Rập rờn lay

                                đôi cánh nhung mi ấy

                                cánh bướm mơ bay

                                          (Mi)

Đôi mắt người con gái như đôi “cánh nhung”- đây là một sự liên tưởng kì thú. “Cánh nhung”- màu den huyền diệu và mượt mà, mát rượu- rất đẹp. Đó là “cánh bướm” nhung? Hay bờ mi của người con gái được trang điểm lộng lấy nhiều màu sắc, làm nền cho đôi mi khiến tác giả tưởng đôi cánh bướm sặc sỡ, điểm tô nhiều màu? Lại là thêm một ví dụ nữa để thấy tính chất ý tại ngôn ngoại, liên tưởng đa dạng, phong phú từ hình thức câu từ! Điều đáng nói nữa là: Nhật Chiêu đã nhìn thấy ở thiên nhiên có con người; ở con người có hình hài của tự nhiên. Như thế, thiên nhiên với con người là một mối tổng hòa hữu cơ, hòa kết. Đó cũng là tính chất Thiền tông cùng hòa quyện trong mỗi bài thơ đôi đồng phương của Nhật Chiêu.

Sẽ thêm ý vị nếu như đến với thơ đôi Nhật Chiêu bằng cách đọc liên văn bản. Người đọc có thể liên hệ đến nhiều tinh hoa văn chương nghệ thuật của ca dao, truyện thần thoại, các kiệt tác văn chương Đông- Tây  trong thơ đôi đồng phương haiku lục lát của Nhật Chiêu. Bài Lụa:

                                Một làn hương

                                bắc cầu với lụa

                                người thương người thương

                                          *

                                Con sông buồn bỏ đi đâu

                                mà nghe áo lụa qua cầu gió bay

với nhiều bài ca dao:

                                - Ước gì sông rộng một gang,

                                Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi.

                                - Yêu nhau cởi áo trao nhau,

                                Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.

                                - Em như tấm vải lụa đào,

                                Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?

                                ...

Bài Lạnh:

                                Lạnh và lẻ loi

                                sự thật ngồi trong tối

                                không có ánh đèn soi

                                          *

                                Em ngồi đâu đó trong mơ

                                mỗi khi lạnh lẽo tôi sờ tường không

gợi tâm trạng não nề của chàng Trương sinh khi tỏ thấu nỗi oan của vợ (Người con gái Nam Xương). Bài Tắm hoa, Khoảng vắng liên quan đến Truyện Kiều. Bài Ảnh có nàng tiên bước ra từ tranh trong Bích Câu kì ngộ (Đoàn Thị Điểm). Bài Gió bụi có bút danh Phong Trần của Hàn Mặc Tử. Bài như có ca từ Suối mơ của Văn Cao, lời thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính.  Bài Mưa và Miu gợi đến truyện ngắn Mèo trong mưa của Ernest Miller Hemingway. Đáy mắt có đồng điệu với Trăng soi đáy nước của Kawabata. Nàng chứa Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust... Đọc liên văn bản như vậy, thơ đôi Nhật Chiêu mở thêm nhiều ý nghĩa, vừa như “cô đọng” tinh hoa văn chương đông tây, kim cổ vừa thêm vào những ý nghĩa mới mẻ với sự đồng điệu, hoặc đối thoại, hoặc bổ sung, mở rộng, viết tiếp tác phẩm. Bạn đọc, bằng vốn sống, kiến thức, tâm hồn của mình, tha hồ liên tưởng, kết nối, đồng sáng tạo của tác giả.

                           

Kết luận

Với sự sáng tạo thơ đôi đồng phương haiku và lục bát, Nhật Chiêu đã có sự sáng tạo. Các bài thơ đôi trở thành thi phẩm kết hợp hai nền văn hóa Nhật Việt. Ông tạo ra cái mới hiệu quả đồng thời làm mới chính haiku và lục bát truyền thống. Mỗi bài thơ đôi của ông trở thành một phát minh mới cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Thơ đôi đồng phương thêm một lần nữa khẳng định cá tính sáng tạo mãnh liệt của Nhật Chiêu. Đó là sự tiếp nối thành công cho những cố gắng tìm tòi của ông trên văn đàn từ khoảng 2006 với nhiều ấn phẩm Mưa mặt nạ, Người ăn gió và quả chuông bay đi, Lời tiên tri của giọt sương (tập truyện song ngữ Việt - Anh), Tôi là một kẻ khác (thơ tượng quẻ), Người về với như (thơ ca tương chiếu),...

Thơ đôi của Nhật Chiêu cũng là một minh chứng cho quy luật giao lưu, tiếp biến văn hóa. Trong giao lưu, các hiện tượng văn hóa có thể đan xen, ảnh hưởng, kết nối, giao thoa, hỗn dung với nhau. Thơ ca là những hiện tượng văn hóa, năm trong quy luật đó. Khi tiếp thu các thể thơ nước ngoài, các nhà thơ Việt Nam đã có tinh thần cởi mở trong tiếp nhận. Họ có nhiều sáng tạo, cách tân. Nhiều nhà thơ chơi thơ theo các cách khác nhau. Sáng tác “kép”- kết hợp thơ đôi haiku lục bát là hình thức chơi thơ tài hoa, độc đáo của Nhật Chiêu.

Nguyễn Thị Tính

TS - Khoa Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

Bài viết đã trình bày tại Hội thảo “Nhận diện thơ lục bát Việt Nam đương đại”, Đại học Văn hóa Hà Nội, ngày 24/12/2020.

Tài liệu tham khảo

1. Nhật Chiêu (1994), Basho và thơ Haiku, biên khảo, NXB Văn học, 1994.

2. Nhật Chiêu (1998), Thơ ca Nhật Bản, biên khảo, NXB Giáo dục, 1998

3. Inoue Yasushi (2019), Luật thơ Haiku, Nguyễn Vũ Quỳnh Như dịch, NXB ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.


[2] Tràng Thiên, Mưa và thơ in trong Quê hương tôi, NXB Thời đại, 2012.

[3] Nhật Chiêu, lời comment trên Facebook “Cafe với Nhật Chiêu”

Thông tin truy cập

63703447
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1541
22198
63703447

Thành viên trực tuyến

Đang có 319 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website