1. Hình ảnh trong đầu đề bài viết là lấy ý ở câu cuối trong bài kệ của thiền sư Vạn Hạnh (?-1025) đã đọc cho đồ đệ nghe trước phút Ngài lâm chung (kệ thị tịch):
示弟子
身如電影有還無, 萬木春榮秋又枯.
任運盛衰無怖畏, 盛衰如露草頭鋪.
Thị đệ tử
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. (1)
(Bảo các đồ đệ. Thân người ta như bóng chớp, có rồi lại không,/ Như cây cối mùa xuân thì tốt tươi, mùa thu thì khô héo./ Mặc cho vận đời dù thịnh hay suy đừng sợ hãi,/ Vì sự thịnh suy [cũng mong manh] như giọt sương trên đầu ngọn cỏ.)
Dịch thơ:
Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
(Ngô Tất Tố, Văn học đời Lý, Mai Lĩnh xb, HN, 1942)
2. Hiện chưa rõ tên thực cùng năm sinh của thiền sư Vạn Hạnh, còn họ thì sách Thiền uyển tập anh ngữ lục chép là họ Nguyễn. Nhưng cần lưu ý là, từ sau khi nhà Trần (1225-1400) thay thế nhà Lý (1009-1225), Thái sư Phụ chính Trần Thủ Độ ra lệnh buộc những ai trong nước mang họ Lý phải đổi thành họ Nguyễn, nên không rõ thiền sư gốc họ Lý hay họ Nguyễn (bởi có nhiều sách chép là Lý Vạn Hạnh, mà theo thiển ý, có lẽ sư mang họ Lý thì đúng hơn). Chỉ biết, thiền sư người ở hương Cổ Pháp, lộ Bắc Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh), thuở nhỏ tinh thông Tam giáo, say mê Phật học; xuất gia tu học tại chùa Lục Tổ, hương Dịch Bảng (nay là Đình Bảng, huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh), đắc pháp với thiền sư Thiền Ông, là thế hệ thứ 12 được truyền thừa dòng thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Nhờ chuyên trì pháp môn Tổng trì tam ma địa mà sư có thể đoán biết trước nhiều việc, lời nào sư nói ra, thiên hạ đều cho là sấm truyền. Chẳng hạn sử sách có ghi: chuyện sư tiên đoán giặc Tống phải tan vỡ nội trong ba bảy ngày vào năm 981; chuyện vua Lê muốn cất binh đi đánh Chiêm Thành vào năm Nhâm Ngọ, 982 (Thiên Phúc năm thứ 2) nhưng còn do dự thì sư khuyên làm mau, đừng để mất cơ hội, quả nhiên năm ấy, Chiêm Thành thua to; hay như chuyện nhà Lý sẽ thay nhà Lê vào năm 1009, v.v.. Dưới đời Tiền Lê (981-1009), thiền sư làm cố vấn triều đình, giúp vua trị nước an dân, hiến kế chống giặc phương Bắc ngoại xâm, được vua Lê Đại Hành rất tôn kính; sư lại là người có công đầu trong việc đưa Lý Công Uẩn lên ngôi lập ra nhà Lý, thay thế nhà Lê, sau khi bạo chúa Lê Long Đĩnh (Lê Ngoạ Triều) mất, vua Lý Thái Tổ càng tôn kính, phong làm Quốc sư. Năm Thuận Thiên thứ 16 (1025), thiền sư viên tịch. Trước lúc lâm chung, thiền sư đã đọc bài kệ trên để dặn dò đệ tử. Về thơ văn, ngoài bài kệ thị tịch, thiền sư còn có 4 bài nữa đều mang tính chất những lời sấm và lời kệ và một đoạn khuyên Lý Công Uẩn lên ngôi, mà sử sách xưa có chép như: Ký Đỗ Ngân, Khuyến Lý Công Uẩn, Quốc tự, Yết bảng thị chúng, Thị đệ tử.
Nhân đây, xin được đính chính lại năm viên tịch của Quốc sư Vạn Hạnh, bởi vấn đề này từ xưa đến nay sử sách đã nhầm lẫn, ghi không nhất quán.
Sách Thiền uyển tập anh ngữ lục cả hai bản in đời Lê trung hưng và đời Nguyễn thì chép: Ngày rằm tháng 5 năm Mậu Ngọ, niên hiệu Thiên Ứng thứ 9. Chép như thế là nhầm, bởi Ứng Thiên là niên hiệu đời vua Lê Đại Hành từ 994 đến 1005 và Lê Ngoạ Triều từ 1005 đến 1007, chứ không có niên hiệu Thiên Ứng. Nếu là niên hiệu Ứng Thiên năm thứ 9 tức năm 1002, thì cũng không đúng, bởi Vạn Hạnh không thể mất trước khi Lý Công Uẩn lên ngôi (1009). Vì thế mà cụ Trần Văn Giáp trong sách Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII, 1932 (2) và trong Lược truyện các tác gia Việt Nam (3), nghi ngờ sách in sai, nên đã sửa lại thành năm Thuận Thiên thứ 9 (1018). Từ đó về sau nhiều nhà nghiên cứu khi làm sách đều ghi theo ý kiến của cụ Trần Văn Giáp, trong đó có Thơ văn Lý – Trần tập 1; bản dịch Thiền uyển tập anh của Ngô Đức Thọ và Nguyễn Thuý Nga.
Trong khi đó Đại Việt sử lược, một cuốn sử viết vào đời Trần, khuyết danh, tại tờ 4a7 ghi: “Năm Ất Sửu hiệu Thuận Thiên thứ 16, sư Vạn Hạnh hoá” (4), mà năm Ất Sửu, Thuận Thiên thứ 16 là năm 1025; Và sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản kỷ, quyển 2, kỷ nhà Lý, tại tờ 10a3-4 thì ghi: “Ất Sửu, Thuận Thiên năm thứ 16 (...) Sư Vạn Hạnh mất. Sư không có bệnh gì mà mất, người bấy giờ bảo là hoá thân” (5). Ở đây, chúng tôi ghi theo Đại Việt sử lược và Đại Việt sử ký toàn thư. Như vậy, thiền sư Vạn Hạnh tịch ngày rằm tháng 5 năm Thuận Thiên thứ 16, tức năm 1025.
3. Các bài kệ vốn thường không có đầu đề. Nhan đề của bài là do Lê Quý Đôn dựa vào nội dung mà đặt đầu đề khi soạn bộ Toàn Việt thi lục. Từ đó về sau, khi biên soạn hợp tuyển thơ văn, các nhà nghiên cứu đều ghi theo học giả họ Lê.
Bài kệ trên được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật với niêm luật chặt chẽ. Hai câu đầu “Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.” Với hình ảnh hiện dụ theo lối so sánh bằng cách ví thân thể con người chẳng khác nào như bóng chớp, có đó rồi tan biến đó; chẳng khác nào như cây cối mùa xuân thì tươi tốt, mùa thu thì khô héo.
Những hình ảnh dụ như trên được các vị thiền sư sau này hay dùng nhằm mục đích gợi mở tâm thức cùng phương pháp tu tập cho hành giả - người học đạo. Mà dụ là phương pháp mà khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, Ngài thường dùng để giảng thuyết cho chư đệ tử, bởi tư tưởng - giáo lý nhà Phật là giáo lý Khế cơ, nên với việc sử dụng hình thức dụ sẽ dễ dàng phù hợp với căn cơ trình độ của từng người, ai cũng có thể hiểu được, nhận thức rồi vận dụng được với từng mức độ khác nhau. Dụ 喻 (Thí dụ 譬 喻) là Hán dịch, còn Phạn ngữ là Apadana (A-ba-đà-na). Đây là một trong 12 bộ kinh. Nội dung kinh này nêu ra những thí dụ, nhờ chúng mà người học đạo, nghe kinh sẽ hiểu được rõ ý nghĩa của giáo lý - tư tưởng của kinh. Thí dụ chính là lấy cái pháp mình đã biết để làm sáng tỏ cái pháp chưa được biết. Kinh Pháp hoa văn cú quyển thứ 5 có giải thích như sau: “Thí là so sánh, dụ là nói cho hiểu rõ, bằng cách dựa vào cái này để so sánh với cái kia, dùng cái nông cạn để nói cái sâu sắc… Chẳng hạn, nói cây đang lay động để cho biết là có gió; làm quạt hình tròn để ví với mặt trăng. Cho nên gọi là thí dụ”. Trong kinh văn nhà Phật, cụ thể là kinh Niết bàn quyển thứ 29 có chỉ ra 8 cách thức dụ (Thuận dụ, Nghịch dụ, Hiện dụ, Phi dụ, Tiên dụ, Hậu dụ, Tiên hậu dụ, Biến dụ) (6).
Hình ảnh trong bài kệ là hiện dụ. Bằng biện pháp ví von so sánh sinh động, diễm lệ, giàu hình ảnh gần gũi đời sống, thiền sư Vạn Hạnh đã so sánh với kiếp người vô thường, có đó rồi mất đó.
Câu thơ đầu bàn về quy luật của kiếp người: Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, so sánh thân xác con người chẳng khác nào ánh chớp, bóng hình, có đó rồi tan biến ngay, nó hiện hữu nhưng xét đến cùng là không có thật.
Câu thứ hai bàn về quy luật tuần hoàn của tự nhiên: Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô, mùa xuân thì cây cối tốt tươi, mùa thu thì héo úa. Con người qua thời gian cũng vậy, khi còn trẻ thì dồi dào sức sống, lúc về già thì tàn tạ, bởi bệnh tật ùa về.
Vấn đề mà thiền sư muốn trao truyền dặn dò đồ đệ là cần nhận thức rõ cái quy luật tuần hoàn của cuộc đời, của sự sống, tức nhận chân cái lẽ ‘nhậm vận thịnh suy’ với một thái độ bình thản, không sợ hãi trước quy luật tuần hoàn, biến thiên, vô thường ấy. Bởi thịnh và suy của cuộc đời, của sự sống chẳng khác nào như giọt sương đọng trên đầu ngọn cỏ. Giọt sương long lanh ấy thật mỹ lệ, nhất là lúc ánh nắng ban mai chiếu vào nó càng lung linh hơn, nhưng một lúc sau đó khi nắng lên thì nó tan biến ngay:
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy,
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Có lẽ khi thể hiện tư tưởng trên, vị Quốc sư của vương triều nhà Lý đã triệt ngộ triết lý tính Không của bài kệ trùng tụng ngũ ngôn trong kinh Kim cang bát nhã ba la mật 金剛般若波羅蜜經 mà Đức Thế tôn đã truyền giảng cho ngài Tu Bồ Đề và toàn thể đại chúng nghe trong pháp hội:
一切有為法,如夢幻泡影.
如露亦如電,應作如 是觀.
Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng huyễn bào ảnh,
Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán.
(Tất cả các hiện tượng trong thế giới khách quan, Như giấc mộng, như hình ảnh không có thật, như bóng nổi, như bóng hình, Như giọt sương, và cũng như ánh chớp, [Các ông] nên quán tưởng như thế).
Bởi tất cả những gì có hình tướng đều là hư ảo, là không có thật, như lời Đức Thế tôn đã giảng trong kinh Kim cang bát nhã ba la mật: Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng 凡所有相皆是虛妄 (Phàm cái gì có hình tướng, hết thảy đều không có thật). Cái hiện thực mà bằng mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, tay chạm được, con người cứ tin là chúng tồn tại, hiện hữu, có thực tướng, nhưng xét đến cùng, tất cả đều huyễn ảo, bởi chúng không tồn tại vĩnh hằng, chúng không thường hằng bất biến, không có thật như chúng ta đã thấy, mà tất cả đều phải theo quy luật ‘thành trụ hoại diệt’, ‘sinh lão bệnh tử’; theo lý duyên sinh, duyên khởi. Nếu chúng ta nhận chân cái lẽ: Sắc tức thị không, không tức thị sắc; sắc bất dị không, không bất dị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị - Có tức là không, không tức là có; có chẳng khác không, không chẳng khác có (Bát nhã tâm kinh) thì sẽ thanh thản chấp nhận cái quy luật vô thường này của tất cả hiện thực trong thế giới khách quan, từ đó sẽ có thái độ ‘vô bố úy’ (không sợ hãi) trước hiện thực. Thái độ này là hai trong ba đức của nhà Phật: Trí và Dũng.
Từ nhận thức đó nên thiền sư mới khuyên chúng đệ tử: Nhậm vận thịnh suy vô bố uý,/ Thịnh suy như lộ thảo đầu phô. Hình ảnh so sánh ví von ở câu kết thúc (câu hợp) của bài kệ thật lung linh, diễm lệ, đậm chất văn chương. Ở đây, qua câu thơ, tư tưởng tính Không của kinh văn hệ Bát nhã đã được thiền sư chuyển tải bằng hình ảnh hiện dụ thật sinh động. Giọt sương mai có đó, hiện hữu đó, dưới cái nhìn của con người, nó thật đẹp, thật long lanh ngời sáng trên đầu ngọn cỏ, nhưng chỉ trong một cái chớp mắt, một sát-na, khi nắng sớm vừa chiếu lên thì nó tan biến ngay, tức không còn tồn tại, hiện hữu. Thúc hốt tức vô (thoạt có liền không). Cuộc đời là vô thường. Vạn pháp đều vô thường. Nhận thức được điều này, con người ta mới thanh thản, an nhiên, tự tại mà vui sống trong cõi đời với sắc thân giả tạm này.
4. Đối với Phật pháp và đất nước, uy đức và công nghiệp của thiền sư thật lớn lao, nhất là với vương triều nhà Tiền Lê, nhà Lý. Uy đức ấy vẫn toả sáng đến đời sau, và cho đến hôm nay. Bởi thế nên mấy mươi năm sau khi thiền sư thâu thần nhập tịch, vua Lý Nhân Tông (1066-1128) vẫn còn làm bài kệ tán (thơ ca ngợi tán dương) Ngài:
追贊萬行禪師 (7)
萬行融三際,真符古讖詩 (8).
鄉關名古法 (9),拄錫鎮王畿.
Truy tán Vạn Hạnh thiền sư
Vạn Hạnh dung tam tế, Chân phù cổ sấm thi.
Hương quan danh Cổ Pháp, Trụ tích trấn vương kỳ.
(Vạn Hạnh [học rộng] thông suốt được ba cõi, [Lời nói của sư] quả là phù hợp với những câu thơ sấm cổ. Quê hương tên Cổ Pháp, Chống gậy tầm xích giữ vững kinh đô nhà vua.)
Dịch thơ: Vạn Hạnh thông ba cõi, Lời ông nghiệm sấm thi.
Quê hương làng Cổ Pháp, Chống gậy trấn kinh kỳ. (10)
Lời truy tán của nhà vua đã tổng kết đầy đủ công trạng của thiền sư đối với đất nước. Công đức ấy thật là vô lượng, không thể luận bàn. Tôi không thể nói thêm được lời nào nữa.
NCL
Chú thích
(1) Dị bản: Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ, tờ 83a7-b1, có chép câu thứ ba của bài kệ khác hai chữ: 隨運盛衰休怖畏 Tuỳ vận thịnh suy hưu bố uý. Trong khi đó, các sách Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích thì chép: Dụng vận 用運. Ngô Tất Tố trong Văn học đời Lý chép là Nhậm vận và sách Thơ văn Lý – Trần, tập 1 cũng chép là Nhậm vận.
(2) Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII, 1932, Hà Nội, tr. 239.
(3) Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb Sử học, HN, 1962, tr.183.
(4) Đại Việt sử lược (Việt sử lược), Trần Quốc Vượng dịch (1959), Nxb Thuận Hoá, Huế, tái bản, 2005, tr.77.
(5) Quốc Sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển 2, Kỷ nhà Lý, bản dịch của Viện Sử học, do Cao Huy Giu dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, Nxb KHXH, HN, 1971, tập 1, tr. 198.
(6) Xin xem lý giải tám phép Dụ trong bài “Ý chỉ đoạn Ngữ lục và bài kệ Thị tịch của Khuông Việt thiền sư” của Nguyễn Công Lý trên Nguyệt san Giác Ngộ số 180, tháng 3-2011.
(7) Về nhan đề bài thơ này, trong sách Việt điện u linh tập và sách Thiền uyển tập anh ngữ lục thì ghi là Truy tán Vạn Hạnh thiền sư. Trong khi đó Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích thì ghi là Tặng Vạn Hạnh thiền sư. Thiết nghĩ, ghi như sách Việt điện u linh và Thiền uyển tập anh thì đúng hơn, vì lúc nhà vua viết thơ ca ngợi thì thiền sư đã tịch rồi, nên mới Truy tán, chứ không thể làm thơ Tặng.
(8) (Bản Thiền uyển tập anh chép câu này là 真符古讖機 Chân phù cổ sấm cơ/ky (Lời nói của sư quả thực hợp với những câu thơ sấm cổ).
(9) Theo Đoàn Lê Giang thì câu Hương quan danh Cổ Pháp cần được hiểu là “Quê hương ông nổi danh là nơi phát tích Phật pháp cổ” (Đoàn Lê Giang: “Hai bài thi kệ Đường luật quan trọng thời Lý - Trần: khảo sát văn bản và ý nghĩa”. In trong: Thơ Đường luật đời Lý. Nguyễn Công Lý, Nguyễn Đức Hùng (đồng chủ biên). Nxb Thanh niên, Hà Nội. 2019. Tr. 155-156.
(10) Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình dịch, Thơ văn Lý – Trần, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1977, tr. 433.
Tài liệu tham khảo
1. Bát nhã tâm kinh và Kim cang Bát nhã Ba la mật kinh.
2. Trần Văn Giáp, Le Bouddhisme en Annam, BEFEO XXXII, Hà Nội, 1932.
3. Trần Văn Giáp, Lược truyện các tác gia Việt Nam, tập 1, Nxb Sử học, HN, 1962.
4. Đại Việt sử lược, Trấn Quốc Vượng dịch, Nxb Thuận Hoá, tái bản, 2005.
5. Quốc Sử quán triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Viện Sử học, do Cao Huy Giu dịch; Đào Duy Anh hiệu đính, chú giải và khảo chứng, tập 1, Nxb KHXH, HN, 1971.
6. Ngô Tất Tố, Văn học đời Lý, Mai Lĩnh xb, HN, 1942.
Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ số 304 tháng 7-2021.