Cả tuần nay, bạn bè, học trò của thầy đều biết thầy chuẩn bị chuyến đi xa nhưng không ai muốn viết những dòng chữ như thế này...
Cả tuần nay, bạn bè, học trò của thầy đều biết thầy chuẩn bị chuyến đi xa nhưng không ai muốn viết những dòng chữ như thế này...
Nói đến GS.NGND Lê Đình Kỵ trước hết là nói đến một nhà sư phạm. Một nhà sư phạm không qua trường lớp chính qui nào, kiến thức chủ yếu tự học. Một nhà sư phạm với gần 60 năm gắn bó bục giảng, dạy từ cấp 2,3 đến đại học, cao học và hướng dẫn luận án tiến sĩ. Con đường đến với nghề giáo của Lê Đình Kỵ rất ngẫu nhiên. Năm 1944 sau khi đỗ tú tài 2 trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, ông định học tiếp đại học nhưng không có trường nào hợp với nguyện vọng. Trường luật, toán thì ông không thích. Trường y, ông có thích đôi chút, nhưng do học lực các môn sinh, hóa đều yếu nên sức khó kham nổi. Vì vậy, chàng tú tài xứ Quảng đành rời Sài Gòn “qui cố hương” dạy học tư kiếm sống.
Từ sau Cách mạng Tháng Tám, văn học ta đã có những thành tựu đánh dấu một bước phát triển quan trọng mà lịch sử đã ghi nhận. Nhưng trong hoàn cảnh chung, nó không tránh khỏi những hạn chế, mức độ sâu rộng, nghiêm trọng như thế nào khó mà lường hết được, cũng như không thể lường hết được những gì mà lẽ ra nó có thể đạt tới nếu không bị những vướng mắc, ràng buộc đã xảy ra trong đời sống kinh tế, xã hội chung trước đây.
Vào những năm học cuối bậc phổ thông (1980-1981), tôi đã biết tên thầy qua mục Thường thức văn học trên báo Văn Nghệ TP.HCM do thầy phụ trách. Những bài viết ấy gieo trong lòng chúng tôi ấn tượng ban đầu về những khái niệm và quan điểm lý luận văn học còn khá mới mẻ đối với phần đông học sinh, sinh viên miền Nam lúc bấy giờ.
Phan Nhật Chiêu từ lâu đã trở thành cái tên quen thuộc đối với những người nghiên cứu và yêu thích văn chương. Ông là dịch giả, nhà “Nhật học”, một “cư sĩ” gắn bó với Thiền và Phật giáo, là tác giả của nhiều công trình nghiên cứu có giá trị.
Đọc Mưa mặt nạ, tập truyện ngắn của Nhật Chiêu,
NXB Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2008.
Nhà văn Đặng Tiến định cư và lập nghiệp ở châu Âu từ giữa những năm 1960, nhưng vẫn có mặt trong đời sống văn học miền Nam với những bài phê bình thơ cổ điển và hiện đại thường xuất hiện trên các tạp chí thời đó. Năm 1972, tập tiểu luận đầu tay của ông nhan đề Vũ trụ thơ được xuất bản ở Sài Gòn. Hơn một phần ba thế kỷ sau đó ông không hề in sách, dù sự theo dõi và quan tâm không lúc nào ngưng nghỉ của ông đối với văn học dân tộc luôn được ghi dấu trong những bài viết tài hoa trên các phương tiện truyền thông, gần gũi với chúng ta là các báo Văn nghệ, Thanh niên, Đất Quảng, Sông Trà…
Chau Minh Hung, MA
(Quy Nhon University)
ABSTRACT
Chinese poetics paralleled with Vietnamese poetry history and played an orthodox role in Vietnamese literature until the begining years of 20th century. However, this influence did not destroy the Vietnamese poetics, but always was generative by the inner movement of the national poetry. The structure and prosody of Chinese poetics has been Vietnamized in two ways: 1) by changing the line of verse, like seven word mixed with six word. 2) by hybridizing syntagms, like Ca trù artists.
"Nam Xương nữ tử lục" (Chuyện người con gái Nam Xương) là một kiệt tác trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam [1]. Dựa trên sự kiện có thật, được tiểu thuyết hóa qua bút pháp truyền kỳ, truyện trở thành một tác phẩm văn chương đích thực.
Có lẽ người đầu tiên gieo rắc tư tưởng phục cổ cho bài thơ Tống biệt hành là Hoài Thanh – Hoài Chân. Khi tuyển bài thơ vào tập Thi nhân Việt Nam, nhà tuyển tập – phê bình chỉ viết vẻn vẹn mấy dòng sơ lược nhưng sau đó trở thành uy lực trong tiếp nhận và phê bình văn học: “Thơ thất ngôn của ta bây giờ thực có khác thơ thất ngôn cổ phong. Nhưng trong bài thơ dưới đây lại thấy sống lại không khí riêng của nhiều bài thơ cổ. Điệu thơ gấp. Lời thơ gắt. Câu thơ rắn rỏi, gân guốc. Không mềm mại uyển chuyển như phần nhiều thơ bấy giờ. Nhưng vẫn đượm chút bâng khuâng khó hiểu của thời đại”:
Cùng với sự phát triển của một thế kỉ văn học dân tộc, lí luận văn học ở Việt Nam cũng đã có những thành tựu, khẳng định sự trưởng thành của tư duy lí luận văn học hiện đại.
Không hăm hở giương “mục kỉnh phê bình” lên xộc vào trang viết, chị đọc, trước hết với những cảm xúc tự nhiên, như mọi người đọc bình thường; sau đó mới phân tích và ghi lại cảm nhận của mình, một cách chăm chút, rất chăm chút, như để đáp lại thạnh tình mà nhà văn đã có công mang đến cho đời sống. Không hề có “bảng xếp loại”, cũng không có các thứ khung tiền chế để gò nhà văn vào, theo kiểu phê bình áp đặt.
Trong nửa thế kỷ qua, các học viện trên khắp thế giới, nhất là ở Âu Mỹ, đã chứng kiến những chuyển biến quan trọng liên quan đến giới tính. Chẳng những số lượng nữ giáo sư và nữ sinh viên tăng nhanh trong các học viện, mà học thuyết nữ quyền còn ảnh hưởng đến nhiều bộ môn học thuật khác, từ triết học, lịch sử, đến ngôn ngữ học, xã hội học, nhân chủng học, truyền thông đại chúng, kinh tế, luật… Nhưng trước tiên và căn bản trong vòng ba thập niên qua, học thuyết nữ quyền có ảnh hưởng sâu sắc và rộng lớn nhất đến phê bình văn học, đã làm thay đổi lớn lao cách đọc văn bản, việc bình giảng văn chương, sự định giá kinh điển trong nhà trường, ảnh hưởng đến cảm thụ văn học của công chúng và chuyển đổi cả ngành xuất bản.
(R. Barthes, Độ không của lối viết)
Chủ nghĩa lịch sử mới (New historicism) là một trong những biểu hiện đầu tiên của chủ nghĩa hậu hiện đại từ chỗ giải cấu, phản nghịch, vứt độ sâu, phá bỏ tất cả, nhưng đó chỉ là triệt để phá để mà xây cái mới, và tất yếu sẽ hồi quy văn học về bình diện lịch sử xã hội, hiển nhiên là với những khía cạnh mới trên cơ sở những cách nhìn mới.
Một lần, nhân nói chuyện thơ ca mà “tranh thủ” quảng bá thắng cảnh quê mình, nhà thơ Tế Hanh kể rằng Quảng Ngãi có ba dòng sông bắt đầu bằng chữ “Trà”, tính từ Bắc vô Nam: Trà Bồng, Trà Khúc, Trà Câu. Sông Trà Câu nằm trên địa phận huyện Đức Phổ, chảy qua làng Tân Phong của nhà thơ Nguyễn Vỹ rồi xuống cửa biển Mỹ Á. Sông Trà Khúc chảy ngang thành phố tỉnh lỵ, ở giữa hai huyện Sơn Tịnh và Tư Nghĩa, đổ ra cửa Cổ Luỹ, gần thị trấn Thu Xà của nhà thơ Bích Khê. Còn sông Trà Bồng chảy đến huyện Bình Sơn thì tách dòng làm đôi ôm lấy làng Đông Yên của Tế Hanh như ôm một hòn đảo nhỏ trước khi xuôi về cửa Sa Cần: “Tuổi nhỏ của tôi đã trôi qua giữa cái mùi mằn mặn của những mẻ cá và trong tiếng ru vừa bát ngát vừa êm đềm của bốn bề sóng vỗ. Trên làng tôi, quay mặt về phương nào cũng thấy những tấm lưới, những mái chèo và nhất là những cánh buồm căng gió…”
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía sau
Bùi Giáng
(Chào nguyên xuân trong Mưa nguồn)
Trước hết về sưu tầm, phải nói ngay đến công trình đồ sộ Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam 1900-1945 do Nguyễn Ngọc Thiện chủ biên (Văn học, H.1997). Bộ sách gồm năm tập, trên dưới 2500 trang, biên soạn rất công phu, cẩn trọng. Ngoài phần Văn tuyển là chính, có phần tiểu luận khái quát chung ở đầu, phần tiểu dẫn về tác giả ở sau, lại có bảng tra cứu theo vần tên chín mươi tác giả kèm theo tiêu đề của mấy trăm tác phẩm được trích tuyển. Quy mô khá đồ sộ, qua đây mới thấy được rất nhiều tác giả và công trình có phần lạ lẫm hầu như ít ai biết đến như Cao Văn Chánh với Mặt trận văn chương: Nội dung và hình thức. Chức vụ của nhà văn; Hoàng Duy Từ với Thiên chức của thi sĩ; Trúc Hà với Lược khảo về sự tiến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết v.v...
Cao Bá Quát là một hiện tượng độc đáo trong lịch sử văn chương Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX. Điều đáng lưu ý trong sự nghiệp thơ văn ông là ông có nhiều dịp phát biểu những quan niệm của mình về nghệ thuật, về thơ ca. Tìm hiểu những quan niệm nghệ thuật ấy là một trong những tiền đề lý luận cần thiết để từ đó tiến đến nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp thơ văn của ông.
Đang có 591 khách và không thành viên đang online
Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929