1. Phương pháp loại hình hay loại hình học (typologie), thuật ngữ Typologie là tiếng Pháp, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp typologos với nét nghĩa “dấu tích, hình mẫu” mà ngữ căn là type (thể loại, kiểu). Đây là một phương pháp nghiên cứu khoa học tổng hợp, ra đời khoảng nửa sau thế kỷ XX và được ngành Nhân chủng học áp dụng đầu tiên khi nghiên cứu xếp loại con người thành từng nhóm để phân biệt con người này khác với con người khác, dân tộc này khác với dân tộc khác trên cơ sở phát hiện ra những nét giống nhau (tính cộng đồng, tính cùng họ) của các dân tộc. Nói cách khác là xác định để tìm ra nét tương đồng về mặt nguồn gốc, ngôn ngữ, sắc tộc… Tính cùng họ này, xét đến cùng, biểu hiện ở hai khía cạnh: một là, cấu trúc bên trong của đối tượng; hai là, tìm ra những quy luật phát triển của nó. Điều này, như viện sĩ M.B. Khrapchenkô đã tổng kết trong công trình Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học là “nó sẽ tìm đến loại hình (type) và cấu trúc (structure) bên trong của đối tượng nghiên cứu” ([1]). Từ đó, vào những năm 70 của thế kỷ trước, giới nghiên cứu – lý luận văn học đã vận dụng để xếp loại các hiện tượng văn học từng giai đoạn, của từng dân tộc trên thế giới với mục đích là tìm ra những nét tương đồng về mặt loại hình, tức tìm ra tính cộng đồng về mặt loại hình. Điều đó có nghĩa là loại hình học xem văn học như là một hiện tượng thế giới, là những cộng đồng loại hình của từng giai đoạn lịch sử văn học, dĩ nhiên nó không loại trừ tính cá biệt và tính đặc thù của văn học. Tính cộng đồng không có nghĩa là sự lặp lại một cách giản đơn hoặc giống nhau về hình thức mà đây là hiện tượng văn học cùng họ với những đặc điểm bản chất nhất của nó như giống nhau về nguồn gốc, về cơ cấu bên trong, về quá trình phát triển, về ngôn ngữ, về số phận lịch sử, về hệ thống thể loại miêu tả, về hệ thống thế giới quan v.v.. Phương pháp này có tính ưu việt đáng kể bởi nó là sự tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau như phương pháp phân tích lôgic, phương pháp phân tích lịch sử, phương pháp so sánh nên được nhiều nhà nghiên cứu văn học có uy tín vận dụng. Có lẽ GS. Viện sĩ M.B. Khrapchenkô và GS. Viện sĩ B.L. Riptin là những người đầu tiên ở Liên Xô cũ vận dụng phương pháp này từ đầu những năm 70 của thế kỷ XX để nghiên cứu các hiện tượng văn học cụ thể với những khám phá mới cùng những đóng góp về hệ thống lý luận([2]). Nó cũng đã được giới nghiên cứu văn học ở Việt Nam vận dụng vào những năm cuối thập kỷ 70 rồi những năm 80 của thế kỷ trước để nghiên cứu một bộ phận văn học, một thể loại văn học, một tác phẩm văn học cụ thể và kết quả là đã có những đóng góp mới đáng kể ([3]).
Xem tiếp...