Họ và tên SV: Trần Phượng Linh

Lớp Cử nhân tài năng khóa 2009 - 2013 

Hoàng Hưng cũng là một trong những nhà thơ đề cao lao động chữ nghĩa. Tác phẩm của ông thường được dựng lên trên nền một hệ thống biểu tượng đa nghĩa, với trung tâm là một hình ảnh mang tính ám gợi. Xa lộ thông tin là tác phẩm như vậy. Giữa cảm quan về thế giới hỗn tạp, dữ dội là sự tồn tại đầy trăn trở của kiếp người nhỏ nhoi. Trong đó, cấu trúc các biểu tượng được trải dài xuyên suốt bài thơ, lấy biểu tượng xa lộ thông tin làm tâm điểm nhận thức.

1. Đuổi bắt thế giới

Có thể nói, từ những thập niên đầu thế kỷ 20, xã hội Việt Nam mới thực sự tham dự vào cuộc hành trình rời quỹ đạo khu vực để gia nhập quỹ đạo thế giới. Hành trình hiện đại hóa này, trước 1945, hầu như trùng khít với phương Tây hóa.

Trong học thuật, viết được một bài hay đã khó, viết được một cuốn hay, khó hơn. Dầu vậy, vẫn cứ còn dễ. Khó nhất là mở ra được một lối riêng. Trước hết cho mình, sau nữa cho người. Có rất nhiều người chả băn khoăn về chuyện này. Họ cứ cắm cúi đi, bất luận đó là đường con hay đường cái, đường cũ hay đường mới. Họ bằng lòng với việc có được bài nọ bài kia, rồi cuối đời cứ gom thành tập, thành quyển. Đó là người đi đường, không phải người mở đường. Rất nhiều người khác có khát khao mở lối, nhưng rồi lực bất tòng tâm, đành cả đời cứ lê bước trên lối xưa. Kẻ mở đường là của hiếm. Để mở đường, cần tài chí, hẳn nhiên, nhưng cũng không thể thiếu một điều khác: cơ duyên.

Ngày nay, có ý kiến cho rằng chủ nghĩa hiện đại đã được thay thế bằng chủ nghĩa hậu hiện đại; rằng thời kỳ hiện đại đã chấm dứt và bây giờ là thời kỳ hậu hiện đại. Tuy nhiên, thực chất cái gọi là chủ nghĩa hậu hiện đại có phải chỉ là sự ảnh hưởng hay sự nối dài của chủ nghĩa hiện đại không? Chúng tôi xin trình bày lại vấn đề này như sau…

Kiều Thanh Quế (1914 - 1947), còn có các bút danh Mộc Khuê, Quế Lang, Tô Kiều Phương, Nguyễn Văn Hai, là một trong số những nhà văn, dịch giả, nhà phê bình có uy tín của miền Nam và cũng là người có công đầu xây dựng nền văn học hiện đại Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ 20. Quê ông ở làng Hắc Lăng, xã Tam Phước, huyện Long Ðất (nay thuộc thị xã Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu)...

 

Gia đình bé mọn - cuốn tiểu thuyết của nhà văn Dạ Ngân, đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2005, là một trong những cuốn sách được nhiều người quan tâm trong thời điểm ra đời cũng như những nghiên cứu về văn học Việt Nam gần đây. Chiều sâu phản ánh hiện thực, khả năng miêu tả tinh tế và sâu sắc đời sống bên trong của con người, cách viết giản dị mà có sắc thái riêng và gây được sự xúc động, đồng cảm của người đọc... là những giá trị nổi bật của cuốn sách. Bên cạnh đó, những tìm tòi về thể loại của Dạ Ngân cũng thu hút được nhiều bàn luận. Sự quan tâm được bắt đầu từ chỗ tác giả gọi đứa con tinh thần của mình là “tiểu thuyết”, trong khi đó, nhiều độc giả lại thấy hình bóng cuộc đời của người viết hiện lên “rõ mồn một”, nên xem nó như là một tự truyện. Và tự truyện hay tiểu thuyết trở thành vấn đề gây hứng thú cho khá nhiều người mỗi khi bàn đến tác phẩm này([1]).

 Trịnh Bá Đĩnh dịch

     Lời giới thiệu

     Roman Jakobson (1896-1984) nhà ngữ học, nhà thi pháp học, nhà văn hóa nổi tiếng thế giới người Nga. Ông là người sáng lập Nhóm Ngôn ngữ học Moskva (1915-1920), sau sát nhập với Hội nghiên cứu ngôn ngữ thơ ca. Ông là một nhân vật nổi bật của Chủ nghĩa Hình thức Nga. Từ năm 1920 đến 1939, R. Jakobson sống ở Tiệp và là một trong những thành viên tích cực nhất của Nhóm ngôn ngữ Praha. Hai tác phẩm đầu tiên của ông Thơ Nga hiện đại (1921) và Về câu thơ Tiệp (1923) là một phần trong di sản quý báu của những nhà hình thức chủ nghĩa. Trong Thế chiến hai, ông di cư Thụy Điển, rồi từ Thụy Điển lại di cư sang Hoa Kỳ và dạy ngữ học đại cương, ngôn ngữ và văn học các nước Slave ở Đại học Tổng hợp Harvard và MIT. Sự lang bạt của ông cũng phản ánh số phận của giới trí thức trong thế kỉ XX và những hiểu biết bách khoa của họ. ở Mỹ, R.Jakobson trở thành một trong những nhà ngữ học và thi pháp học, đặc biệt là thi pháp thơ, hàng đầu thế giới. Tác phẩm nổi tiếng của ông là Luận về ngữ học đại cương (1963), Những vấn đề thi pháp học (1973), ngoài ra còn rất nhiều công trình về cấu trúc hình thức, ngữ pháp học, lí thuyết thông tin…

Người dịch: Lã Nguyên
 

 I. Thi pháp học hay là sự mô tả cái được mô tả

Cuốn sách của M.Bakhtin - dịch từ bản in lần thứ hai, do tác giả sửa chữa và bổ sung - đã xuất bản lần đầu vào năm 1929 dưới nhan đề “Những vấn đề sáng tác của Dostoievski”[1]. Giới thiệu cuốn sách này với cử toạ nước ngoài sau 40 năm đã trôi qua cũng có nghĩa là chấp nhận một sự rủi ro nhất định (liệu độc giả sẽ tiếp nhận văn bản thế nào?), bởi làm như thế sẽ tạo ra không chỉ mình vấn đề lý thuyết, mà còn có cả vấn đề tư tưởng: người ta muốn nói gì đây về một tác phẩm khi tách nó ra khỏi hoàn cảnh không gian, thời gian và ngôn ngữ, khi bỏ qua khoảng cách thời gian, địa lý, lịch sử và xã hội để lại từ đầu, ứng xử với nó theo kiểu mới?

 Lê Hoài Nam, Tạp chí Hán Nôm, số 1/2001.

 

Đọc thơ xưa - Hán Việt cũng như Nôm, nhiều khi người ta gặp một tình hình dường như không được bình thường này: trong cùng một bài thơ có những chi tiết về không gian, nhất là về thời gian, trước sau không thống nhất, không ăn khớp với nhau. Chẳng hạn bài Thu ẩm của Nguyễn Khuyến:

 

Lên núi thả mây là tác phẩm thứ 18 của Lê Văn Thảo, sau năm cuốn tiểu thuyết và 12 tập truyện ngắn. Nhan đề của truyện ngắn đầu tiên được chọn làm tên chung cho tập truyện có thể khiến bạn đọc nhầm lẫn với một câu chuyện viễn mơ nào đó. Lê Văn Thảo chưa bao giờ là nhà văn viễn mơ. Văn học ta bây giờ cũng đã vượt qua sự phân ranh viễn mơ và tả thực. Nhưng câu chuyện về đỉnh núi mây mù đã đánh thức một điều gì mơ hồ trong lòng nhân vật an phận, “sống qua ngày, nhạt nhoà theo với năm tháng” của Lê Văn Thảo, như cái bãi bồi bên kia sông đã đánh thức giấc mơ phiêu lãng trong lòng một nhân vật trong Bến quê của Nguyễn Minh Châu. Lên núi thả mây cũng như Ngọn núi trong tuyết phủ lẫn lộn thực và hư, vừa nhắc ta ý thức về tình cảnh trong cõi đời này lại vừa kéo ta xa khỏi thế giới mà ta đang gánh chịu số kiếp của chính mình. Hai truyện ngắn mở đầu bằng những hình ảnh đầy chất thơ đã kết thúc với một ấn tượng nặng trĩu.

            Trần Nho Thìn, "Nhà thơ lãng mạn “đọc” văn học phương Đông truyền thống: Xuân Diệu với bài Mơ xưa", tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2012.

 

Nhà thơ Xuân Diệu 

            Đặt vấn đề

            Trong di sản thơ mới của Xuân Diệu, Mơ xưa là một bài thơ khá đặc sắc. Nét đặc sắc dễ thấy nhất là những văn liệu mang đến cho thi nhân cảm hứng sáng tạo ở đây đều thuộc về văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc truyền thống –chúng tôi gọi chung là văn học phương Đông. Nhưng Xuân Diệu là nhà thơ mới nhất trong số các nhà thơ mới, và trong tư cách này nhà thơ đã xử lý văn liệu đó ra sao?  Nói cách khác, điểm nhìn thơ mới đã chi phối như thế nào đối với cách đọc văn học phương Đông? Nghiên cứu vấn đề đặt ra sẽ bộc lộ một phương diện ít được chú ý trong thơ mới nói chung, thơ mới Xuân Diệu nói riêng. Vì giới nghiên cứu đã bàn nhiều về ảnh hưởng của Đường Thi và thơ truyền thống đối với Thơ mới nhưng thường chỉ liệt kê những ảnh hưởng trên cấp độ ngôn từ, thể thơ, hình ảnh. Lý thuyết tiếp nhận chưa được chú ý vận dụng để cắt nghĩa sự tiếp nhận văn học truyền thống của các nhà thơ mới.

Không ai nỗ lực hơn Barthes trong việc làm cho tư tưởng cua chính ông trở thành không sao có thể xác định được . Đọc Barthes, cũng như đọc Foucault, Derrida, Deleuze, hay Lacan, nghĩa là tự đày đoạ bản thân vào một ma cung của ngôn ngư, trong đó ý nghĩa trôi nổi bập bềnh không sao nắm giữ được. Người đọc khổ sở cảm thấy có một điều gì đó rất quan trọng đang xảy ra nhưng không làm sao cắt nghĩa được điều đó là gì. Nghịch lý trong tư tưởng Barthes chính là nghịch lý của ngôn ngữ và đọc Barthes là phiêu lưu vào thế giới chi li phiền toái của ngôn ngữ, đặc biệt là ngôn ngữ văn học. Nhưng không thể không đọc Barthes, cũng như không thể không đọc Bát Nhã Tâm Kinh, không thể không đọc Foucault, không thể không đọc Lưu Hiệp, nếu muốn một phần nào hé nhìn thấy sức mạnh vô địch của ngôn ngữ, những huyền thoại ma quái do ngôn ngữ tạo nên và lại xoá đi trong biển cát mông mênh của lịch sử. Nghịch lý toàn bộ của ngôn ngữ và tư tưởng loài người nằm gọn trong Bát Nhã Tâm Kinh, trong biện chứng điên đảo giữa Sắc và Không (rupasunyata), một biện chứng kỳ lạ chi phối toàn bộ tư duy và lịch sử văn minh nhân loại, vậy mà Tây Phương phải đợi đến Roland Barthes, Michel Foucault, Derrida, mới chứng kiến được vòng tròn bi thảm của tư duy trên con đường lần mò tiến về chân lý.

Bên cạnh các tiểu luận Kiều Thanh Quế còn có khá nhiều công trình nghiên cứu, phê bình dài hơi. Xét trong khoảng dăm năm (1941-1945), ước tính Kiều Thanh Quế đã cho in tới gần chục đầu sách được định danh là nghiên cứu, biên khảo, phê bình. Trong số này có những sách ghi danh biên khảo nhưng lại nghiêng về dịch thuật, lược dịch, tổng thuật: Học thuyết Freud (Ký tên Tô Kiều Phương. NXB Tân Việt, H., 1943; 152 trang), Thi hào Tagore (Ký tên Nguyễn Văn Hai. NXB Tân Việt, H., 1943; 396 trang); còn lại những công trình nghiên cứu, phê bình đích thực do Kiều Thanh Quế thực hiện có Phê bình văn học, Ba mươi năm văn học, Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam, Đàn bà và nhà văn, Xuân phong văn tập, Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa tả thiệt xã hội, Cuộc vận động cứu nước trong “Việt Nam vong quốc sử”...

 

 

Đầu năm 2012, Viện Văn học đã tổ chức Hội thảo Nghiên cứu - phê bình văn học hiện nay. Đây là hội thảo quan trọng nhằm nhận diện và đánh giá tình hình nghiên cứu, phê bình văn học và dịch thuật ở nước ta trong thời gian qua, đồng thời thúc đẩy phát triển hơn nữa tính học thuật, tính thời sự trong các sản phẩm nghiên cứu, phê bình nhất là của các nhà nghiên cứu trẻ.

Hiện nay ở nước ta, mỗi khi nói đến một hiện tượng có ý hướng đổi mới, nhiều người thích thêm vào khái niệm “lạ hoá”. Một số người đã nói đến một “khuynh hướng lạ hoá trong tiểu thuyết, truyện ngắn Việt Nam đương đại”, với tên tuổi của Phạm Thị Hoài, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Nguyễn Việt Hà, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Hồ Anh Thái..., và của nhiều nhà văn trẻ khác. Có thể nói người ta hiểu lạ hoá như là một biện pháp đổi mới văn học, một đặc điểm của văn học đương đại.

Lê Thuỵ Tường Vi*

Ngày 1/12/1924, Tuyên ngôn siêu thực, do André Breton soạn thảo, lần đầu tiên được đăng trên tạp chí La Révolution surréaliste. Kể từ thời điểm này, ngọn cờ siêu thực đã được giương lên, tách khỏi tính chất tiền phong của Dada để gia nhập vào hệ thống các chủ nghĩa hiện đại. Các nhà siêu thực tự viết tuyên ngôn, minh định khái niệm siêu thực, xác định các tiêu chí nghệ thuật siêu thực song song với quá trình sáng tác. Lý luận và sáng tác của siêu thực gắn bó với nhau, thể hiện cao độ ý thức tự tìm đường, tự điều chỉnh và tác động vào tầm đón đợi của công chúng.

Khái niệm trí thức hiện đại ở đây được hiểu trong sự đối nghĩa với trí thức - kẻ sĩ (sẽ được giới thuyết cụ thể trong phần tiếp theo của bài viết) trong xã hội Việt Nam truyền thống. Sự hiện diện của tầng lớp trí thức hiện đại, trên thực tế, mới chỉ xuất hiện ở giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

Nhà thơ Ngô Kha - Ảnh: internet



Ngô Kha là một trong số ít những nhà thơ có số phận khá đặc biệt trên thi đàn Việt Nam. Sinh năm 1935 ở Thế Lại Thượng (thuộc thành phố Huế ngày nay), ông tốt nghiệp thủ khoa khóa 1 Đại học Sư Phạm Huế (1958 - 1959), tốt nghiệp Cử nhân Luật khoa (1962), sau đó dạy văn và giáo dục công dân ở các trường Quốc Học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo ở Huế từ 1960 cho đến khi bị thủ tiêu vào 1973.

(Toquoc)- Với những đóng góp xuất sắc - đặc biệt về nghiên cứu, phê bình văn học - Kiều Thanh Quế được ghi nhận là “người thứ nhất phác họa một bộ mặt của văn học mới, ghi nhận sự diễn tiến của văn học mới và vẽ khoáng được cái đồ biểu đường tiến hóa của văn học mới” (Thanh Lãng)(1), “Nhà phê bình văn học hiếm có của Nam Bộ” (Hoài Anh)(2), “Kiều Thanh Quế có thể coi như nhà phê bình văn học chuyên nghiệp duy nhất của văn học Nam Bộ” (Đoàn Lê Giang)(3)...

Thông tin truy cập

60774515
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
18685
10454
60774515

Thành viên trực tuyến

Đang có 783 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website