Tư duy nghệ thuật là một loại tư duy mang tính chỉnh thể nhằm phản ảnh và biểu hiện thế thái nhân tình vô cùng phong phú phức tạp muôn màu muôn vẻ, cho nên ngoài tư duy hình tượng là cơ sở, nó còn thu nạp nhiều yếu tố khác của các loại tư duy thể nghiệm, lô-gic đa trị mơ hồ, vô thức và nhất là trực giác nữa.

Sau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm. Ít có người cầm bút nào thoát khỏi sự ảnh hưởng của ý thức hệ. Cái tôi của nhà văn trước sức ép của hoàn cảnh lịch sử buộc phải mang tâm thế nâng cao trình độ chính trị để có thể “nhìn ra những công việc lớn của cách mạng”, chính nhiệm vụ chính trị và quán tính của một hình thái ý thức đã đòi hỏi nhà văn, nhà thơ

  Nguyễn Thị Thanh Xuân

(Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM)

TÓM TẮT

Liên văn bản là một hiện tượng xuất hiện rất sớm trong đời sống văn học, văn hóa nhân loại. Liên văn bản văn học diễn ra ở nhiều cấp độ khác nhau: tác phẩm, tác giả, thể loại, trào lưu; thời đại, quốc gia, khu vực và... thế giới. Liên văn bản vừa là biểu hiện vừa  là điều kiện quan trọng để đưa đến xu thế toàn cầu hóa văn học. Trong hành trình bước ra khỏi không gian khu vực đi vào không gian thế giới, văn học Việt Nam có những hiện tượng liên văn bản nào? Liên văn bản hội nhập của Việt Nam có những đặc điểm ra sao? Trong bối cảnh nào?

TRẦN TỊNH VY (*)

LTS: Bài viết này gồm 3 phần: I. Các vấn đề lý thuyết; II.Tìm hiểu văn bản: các vấn đề về tác giả, tác phẩm; III. Khoảng cách thế hệ và câu chuyện về "cộng đồng tưởng tượng". Do khuôn khổ có hạn của Tạp chí, BBT xin trích đăng phần III.  

III.                   KHOẢNG CÁCH THẾ HỆ VÀ CÂU CHUYỆN VỀ “CỘNG ĐỒNG TƯỞNG TƯỢNG”

Các tác phẩm về văn học di dân chính là những nguồn tư liệu cho phép ta tìm hiểu về cuộc sống của cộng đồng lưu vong, được đặc biệt chú ý trong bài viết này là vấn đề về khoảng cách thế hệ và “cộng đồng tưởng tượng”. Và không phải ngẫu nhiên mà chúng tôi bắt đầu việc khảo sát từ vấn đề về khoảng cách thế hệ. Dựa trên giả thuyết rằng, mâu thuẫn thế hệ, cụ thể là giữa người mẹ và con gái, chính là một trong những biểu hiện của quá trình xung đột về văn hóa, chúng tôi cho rằng đây chỉ là bề nổi của quá trình gầy dựng một “cộng đồng tưởng tượng” trong tâm thức của những người di dân. Nói một cách khác, câu chuyện về những bất đồng trong ngôn ngữ, sự khác biệt về cách nhìn nhận vấn đề hay hiện tượng chính là câu chuyện về ‘cộng đồng tưởng tượng’.

 

            Từ những thập niên đầu thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu ở nước ta đã bắt đầu vận dụng các lý thuyết và phương pháp của phương Tây để khảo cứu và thẩm định văn chương. Nhưng việc áp dụng các phương pháp khoa học đôi khi cũng bộc lộ sự lệ thuộc vào lý thuyết mà chưa căn cứ xác đáng vào thực tiễn sáng tác, từ đó ít nhiều đã để định kiến chi phối một số nhận định của mình, dẫn đến những kết quả thiếu chính xác, làm giảm chất lượng và hiệu quả của phê bình. Ở giai đoạn này, các khiếm khuyết nói trên có thể được biện minh bởi tình trạng non trẻ của khoa nghiên cứu văn học. Nhưng ngày nay, tình trạng phê bình lệ thuộc vào định kiến lý thuyết hình như vẫn đang chi phối một bộ phận trong giới nghiên cứu. Dù việc áp dụng lý thuyết là rất cần thiết, song không phải các lý thuyết đều có thể áp dụng như nhau. Khi áp dụng một lý thuyết, chúng ta nên xem xét thực tiễn văn học để thấy có phù hợp với lý thuyết đó không, nếu phù hợp thì phù hợp đến mức nào.

Vừa qua, khoa Ngữ văn và báo chí trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn tổ chức một hội thảo khoa học về văn học so sánh.

Cuộc hội thảo khoa học này, có lẽ do dụng ý khiêm tốn của lãnh đạo khoa, gần như chỉ là một cuộc trình bày, trao đổi trong nội bộ. Những người tham dự phần đông là các giáo sư, giảng viên của khoa và một số ít là cộng tác viên với khoa. Thời gian cũng chỉ có một buổi sáng.

Tôi gặp và quen nhà văn Nguyên Minh thật tình cờ: Hôm ấy nhà báo Nguyễn Hoà vcv, người quản lý trang mạng Văn Chương Việt gọi điện bảo đến cà phê “Điểm Mới”, khi đến nơi tôi thấy có mấy người đã có mặt. Ngoài Nguyễn Hoà còn có nhà thơ Âu Thị Phục An, nhà văn Lữ Kiều (Hoạ sĩ Thân Trọng Minh), nhà văn-dịch giả Hiếu Tân, vợ chồng nhà văn Đặng Kim Côn mới từ Mỹ về và nhà văn Nguyên Minh. Ấn tượng ban đầu anh Nguyên Minh gây cho tôi là sự đôn hậu. Cảm nhận ấy đến với tôi từ ánh mắt màu xanh dương rất sáng và trong lúc trò chuyện tôi thấy mình được lắng nghe.

Con người, sống trên đời, như một thi sĩ (Hoelderlin)

Bùi Văn Nam Sơn, nhà triết học và/là một bà con của nhà thơ Bùi Giáng, có lần, thổ lộ: “Viết đôi lời hay nhiều lời về Bùi Giáng không bằng đọc Bùi Giáng. Đọc Bùi Giáng không bằng giao du với Bùi Giáng. Giao du với Bùi Giáng không bằng sống như Bùi Giáng. Mà sống như Bùi Giáng thì thật vui mà thật khó” (1). Khó vì muốn sống được như ông, muốn giao du được với ông, muốn đọc được ông để, cuối cùng, viết được về ông, dù chỉ một đôi lời, thì phải minh định được ông, tức trả lời câu hỏi: Bùi Giáng, ông là ai?

Sự kết hợp giữa lý luận với phê bình khiến cho các tác phẩm thi thoại trong lịch sử văn học cổ điển Trung Hoa luôn có được sức hấp dẫn và ưu thế riêng. Nó giúp người viết có thể phát biểu những quan niệm cá nhân về thơ ca một cách sinh động và thuyết phục thông qua việc chọn lọc, bình phẩm những hiện tượng cụ thể để chứng minh cho các luận điểm khái quát có ý nghĩa đúc kết quy luật sáng tác và thưởng thức văn học. Xu hướng chung của các tác phẩm nổi tiếng như Lục Nhất thi thoại của Âu Dương Tu, Thương Lang thi thoại của Nghiêm Vũ (thời Tống); Tứ Minh thi thoại của Tạ Trăn (thời Minh); Đàm long lục của Triệu Chấp Tín, Khương Trai thi thoại của Vương Phu Chi, Thạch Châu thi thoại của Ông Phương Cương (thời Thanh),... là lựa chọn tác phẩm của những chân dung thơ tiêu biểu thời Hán, Nguỵ, Đường, Tống, hoặc những nhà thơ nổi tiếng đương thời làm đối tượng bình phẩm khen, chê hay dẫn dụng để chứng minh cho quan điểm nghệ thuật của người viết.

1.  Thi pháp học là một lĩnh vực nghiên cứu có ảnh hưởng lớn trong ngành nghiên cứu văn học thế kỉ XX, tuy có cội nguồn xa xưa nhưng đã được cải tạo triệt để, mang nội dung mới, rất đa dạng về quan niệm, phương pháp, đồng thời tự nó cũng biến đổi nhanh chóng chưa từng thấy trong lịch sử.

1. Đặt vấn đề.

Khi các trường phái như Phê bình mới (New Criticism) hay Chủ nghĩa cấu trúc (Structuralism) xuất hiện người ta cho rằng có thể giải quyết những vấn đề của văn học chỉ thuần túy dựa trên những yếu tố nội tại của văn bản mà không cần đến bất kỳ một sự tham chiếu nào khác từ những nhân tố bên ngoài. Tuy nhiên sự phát triển mạnh mẽ của xã hội học văn học mà một nhánh quan trọng của nó là nghiên cứu tiếp nhận cũng như sự ra đời của các trường phái chú giải học/thông diễn học (hermeneutics), phái tính (gender), nữ quyền luận (feminism), chủ nghĩa lịch sử[i]... đã cho thấy sự cần thiết phải đặt văn học trong một bối cảnh rộng lớn hơn của những vấn đề văn hóa và xã hội. Như vậy, đặt vấn đề nghiên cứu diễn ngôn tính dục trong văn học của chúng tôi ở tiểu luận này nảy sinh từ sự vận động và biến đổi nói trên của thực tiễn nghiên cứu và tiếp nhận lí thuyết nước ngoài ở Việt Nam..

         Trong những nhà văn gốc Nam Bộ, Nhật Chiêu là dân Nam Bộ chính hiệu. Anh sinh ra và lớn lên tại Sài Gòn nên Nhật Chiêu là một nhà văn Nam Bộ “thuần chủng” không hề có sự pha tạp nào. Nhưng Nhật Chiêu là một nhà văn Nam Bộ khá lạ lùng. Lạ lùng ở chỗ, là người Nam Bộ nhưng văn chương của Nhật Chiêu không hề mang chút hơi hướm nào của văn chương Nam Bộ từ trong cốt cách, trong nội dung và hình thức biểu đạt của nó. Vì vậy, có thế nói, Nhật Chiêu là “đứa con hoang” của văn chương Nam Bộ.

(VH-NN) – Khóa luận KHẢO SÁT HIỆN TƯỢNG LIÊN VĂN BẢN TRONG TẬP TRUYỆN LỜI TIÊN TRI CỦA GIỌT SƯƠNG CỦA NHẬT CHIÊU của SV Trần Phương Linh (SV chuyên ngành Văn học hệ Cử nhân tài năng khóa 2009-2013, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM) do PGS.TS Nguyễn Thị Thanh Xuân hướng dẫn, đã được bảo vệ tại Trường ĐH KHXH và Nhân văn tháng 6 năm 2013 vừa qua. Khóa luận được Hội đồng đánh giá loại giỏi với số điểm tuyệt đối (10 điểm) . VH-NN xin giới thiệu Chương 1 và Mục lục của khóa luận.

 

Trong lịch sử phê bình văn học Việt Nam, Hoài Thanh là một tác gia quan trọng. Có thể nói, rất ít trường hợp như Hoài Thanh, người đã chọn con đường phê bình văn học từ rất sớm và chung thủy với nó trong suốt cuộc đời mình – đặc biệt là chuyên về phê bình thơ – và rồi đã thực sự trở thành nhà phê bình tạo được lòng tin nơi người đọc và người sáng tác.


Tư tưởng nữ quyền là một sản phẩm của tư tưởng dân chủ. Ở Việt Nam, tư tưởng nữ quyền đã xuất hiện trong điều kiện nào và đã được nhận thức ra sao? Qua báo chí và các xuất bản phẩm bằng tiếng Việt đầu thế kỷ XX, báo cáo của chúng tôi muốn làm rõ những điều kiện lịch sử của việc xuất hiện tư tưởng nữ quyền ở Việt Nam và sự phát triển của quá trình nhận thức tư tưởng này trong xã hội Việt Nam cũng như của chính bản thân phụ nữ Việt Nam đầu thế kỷ XX.

     “ Lời tình buồn” . Thơ, nhạc                     

              và các bản dịch . Anh, Pháp, Ý.

Lời ngỏ :

Bài này viết vào đầu tháng 1/2014, lúc anh Tâm (CTNM) nhập viện. Lúc đó đã có 2 bản dịch  ra tiếng  Pháp và tiếng Ý của Elena.  Dù rất mệt nhưng anh Tâm cũng cố gắng viết và gửi cho tôi bài viết về nguồn gốc và những liên quan về “lời tình buồn” để làm tư liệu.

 1. Biết cái chưa biết là tiền đề của sự biết. Tôi đã nhiều lần trích dẫn một câu nói nổi tiếng của N.G. Secnysevski, đại ý thế này: nếu không có lịch sử, thì không có lí thuyết; nhưng nếu không có lí thuyết thì thậm chí ngay cả ý niệm về lịch sử, người ta cũng sẽ không thể có. Thế thì những nước như Việt Nam phải làm thế nào, khi mà bao giờ chúng ta cũng có sẵn lịch sử để nghiên cứu, nhưng lại không có khả năng tự sản xuất ra lí thuyết? Cũng chẳng riêng gì Việt Nam. Ngay cả Trung Hoa to đùng thế, mà có hơn gì đâu! Đố ai tìm thấy một thứ lí thuyết có thể xem là cái “nguyên sáng” được sinh ra từ Trung Hoa thời hiện đại. Nhưng tai hoạ có lẽ không phải ở đó. Pháp là quê hương của chủ nghĩa cấu trúc và hậu cấu trúc luận. Hậu cấu trúc luận du nhập qua Mĩ, được người Mĩ tiếp thu để tạo ra giải cấu trúc thực hành, rồi sau đó,  người Pháp lại “vui vẻ nhập khẩu” trở lại lí thuyết giải cấu trúc thực hành ấy. Vậy là, khi không có khả năng sản xuất ra lí thuyết, người ta có thể sử dụng các lí thuyết khoa học tiếp thu từ nước ngoài. Với Việt Nam, điều này không chỉ là quy luật tất yếu, mà còn là nhu cầu bức thiết.

1. Về khái niệm “Chấn thương”

“Chấn thương” (Trauma) vốn là một thuật ngữ y học có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp (τραῦμα). Wikipedia định nghĩa Trauma (còn có các tên gọi khác là “wound”/ “injury”), “is a physiological wound caused by an external source. It can also be described as "a physical wound or injury, such as a fracture or blow" [là một vết thương (thuộc về) sinh lý gây ra bởi một nguồn (tác động) bên ngoài. Nó cũng có thể được mô tả như một vết thương hoặc chấn thương về thể chất, chẳng hạn như gãy xương hoặc tổn thương phần mềm]. Trong Từ điển tiếng Việt, chấn thương được định nghĩa là “[tình trạng] thương tổn ở bộ phận cơ thể do tác động từ bên ngoài(1). Ngoài vết thương sinh lý, trauma còn được dùng để nói về thương tổn tâm lý: “Psychological trauma is a type of damage to the psyche that occurs as a result of a traumatic event. When that trauma leads to posttraumatic stress disorder, damage may involve physical changes inside the brain and to brain chemistry, which changes the person’s response to future stress(2) [Chấn thương (thuộc về) tâm lý là một loại tổn thương tinh thần xảy ra như kết quả của một sự kiện đau buồn. Khi chấn thương dẫn đến những rối loạn căng thẳng sau đó, thiệt hại có thể liên quan đến những thay đổi về thể chất hóa học trong não, làm thay đổi phản ứng của người đó đối với những căng thẳng trong tương lai]. Khái niệm này đã được S. Freud sử dụng để miêu tả “Một trạng thái tinh thần khổ sở tồn tại dai dẳng một cách khó hiểu trong cuộc đời của những cá nhân nhất định(3). Chấn thương trong văn học không phải là một tình trạng bệnh tật hay một sự đau đớn thể xác, mà là những vết thương tinh thần tái diễn, “chúng xuất hiện như thể một chuỗi những sự kiện đau khổ mà người ta bị phụ thuộc vào và điều này hoàn toàn nằm bên ngoài mong muốn hay khả năng kiểm soát của người ta(4). Còn Cathy Caruth thì nói: “Theo một định nghĩa phổ biến nhất, chấn thương mô tả một kinh nghiệm choáng ngợp về những sự kiện đột ngột hay thảm họa mà phản ứng đối với sự kiện đó thường xuất hiện dưới dạng ảo giác và các hiện tượng mang tính chất xâm nhập thường bị trì hoãn và tái diễn một cách không kiểm soát được(5). Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, không có một định nghĩa chắc chắn về chấn thương mà nó được mô tả rất khác nhau, ở những thời điểm khác nhau, dưới những tên gọi khác nhau. 

Đoàn Minh Phượng là nhà văn Việt Nam hải ngoại. Tác phẩm đầu tiên của chị được người đọc trong nước biết tới cũng là tác phẩm văn xuôi duy nhất đoạt giải thưởng Hội Nhà văn của năm 2007: Và khi tro bụi. Tiếp đó là Mưa ở kiếp sau (Nxb Văn học, Hà Nội, 2010). Nhìn lại gia tài văn chương của Đoàn Minh Phượng có thể thấy nhà văn này coi trọng chất lượng hơn là chạy đua về số lượng. Hai cuốn tiểu thuyết (đều thuộc loại ngắn) chưa phải là nhiều nhưng cũng đủ tạo nên ấn tượng mạnh về một cách viết mới lạ. Tắm trong bầu không khí rộng rãi của văn chương hải ngoại, Đoàn Minh Phượng đã thực hiện nhiều cách tân nghệ thuật đáng ghi nhận, góp phần làm sôi động không khí đổi mới của văn xuôi Việt Nam trong vài thập kỉ qua.

Thông tin truy cập

63701310
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
21602
23426
63701310

Thành viên trực tuyến

Đang có 200 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website