20201225

Văn học hiện đại Việt Nam đã và đang tiến hành giao lưu và hội nhập toàn cầu. Một trong khuynh hướng đổi mới nghiên cứu và giảng dạy của cơ sở đào tạo Đại học là chú ý phát hiện , khai thác và từ đó là đề cao , phát huy những hình mẫu tác gia tiêu biểu nhất trong lịch sử văn học. Đó cũng là một hình thức quảng bá, giao lưu văn học với tinh thần  hoà nhập bình đẳng ,tự hào, thể hiện bản sắc dân tộc theo phương châm  “hoà nhập mà không hoà đồng”.

Tác giả bài viết này xin nêu một minh chứng  cụ thể cho quan niệm trên khi dẫn ra trường hợp nhà văn Nguyễn Minh Châu

Năm vừa qua, tại Viện Văn học đã diễn ra Hội thảo khao học “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Năm nay,  90 năm ngày sinh nhà văn (1930 – 2020) cũng đã có  những  bàn  thảo tiếp tục .

Cho tới kỷ niệm 100 năm tới (2030), chắc rằng những hội thảo khoa học lớn sẽ mở ra. Tất cả những hội thảo với độ lùi lịch sử đáng kể đó đều nhằm đánh giá thêm về vai trò và ảnh hưởng của nhà văn với sự nghiệp văn học chung của đất nước.

Đã có sự đánh giá cao rất thời sự của Nguyễn Khải: “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc của những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam, và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng say này”.

Bài viết này, trong tình hình và xu thế văn học hội nhập toàn cầu hiện nay , muốn khẳng định vai trò tầm cỡ của Nguyễn Minh Châu – một nhà văn lớn của văn học hiện đại. Và, khái quát hơn,  Nguyễn Minh Châu  còn là hình mẫu tiêu biểu nhà văn của thời đại mới, như một  “công dân toàn cầu” lý tưởng.

 

I/ Nhà văn có tầm nhìn cao xa, sâu rộng

Là nhà văn mặc áo lính, trong đời Nguyễn Minh Châu đã từng biết Những vùng trời khác nhau, từng được đặt chân tới nhiều vùng miền, quê hương đất nước với những đặc trưng khu biệt: vùng đồng bằng, trung du và miền núi, vùng duyên hải. Nhà văn cũng từng có những chuyến đi biển và hải đảo.

Cuộc sống trải nghiệm khiến nhà văn có con mắt nhìn bao quát – vừa cao xa, vừa sâu rộng. Từ đó là cái nhìn, tầm nhìn xuyên suốt, xuyên thấu về cuộc đời, về con người thể hiện qua tư duy và sáng tác.

Là người mác xít, cái quý giá trong tâm tưởng nhà văn là chất biện chứng. Sự vật, sự việc và con người luôn vận động, biến đổi và phát triển.

Đặc biệt là trong những hoàn cảnh lịch sử khác nhau.

Nguyễn Minh Châu đã đi qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông đã sống những ngày đất nước thống nhất và bước đầu đổi mới.

Một cách đại thể, có thể thấy Nguyễn Minh Châu là một người viết của một buổi giao thời: giữa chiến tranh và hoà bình như một thế hệ đồng đội.

Chiến tranh nhân dân Việt Nam mang nét đặc trưng lịch sử.

Đã có thời, nửa nước hoà bình, nửa nước chiến tranh. Rồi tình trạng vừa kháng chiến, vừa kiến quốc; vừa giữ nước, vừa dựng nước.

Sự chuyển biến giữa các trạng thái đó đều không thể đơn thuần. Nhất là từ chiến tranh chuyển sang hoà bình không hề đơn giản, mà thực chất có diễn biến mang tính chất dữ dội của nó – cuộc chuyển mình dữ dội từ đời sống đến văn học.

Là người trải nghiệm qua chiến đấu, Nguyễn Minh Châu thấm thía tất cả những điều đó.

Sáng tác của nhà văn trước và sau 1975 đã thể hiện những cái nhìn khác nhau về chiến tranh.

Ông vẫn là người trong cuộc, nhưng sự thể hiện chiến đấu trong Cửa sông, Dấu chân người lính có khác về sự chuyển biến nhận thức ở Miền cháy (1977), Lửa từ những ngôi nhà (1977), Những người đi từ trong rừng ra (1977). Đây là những tác phẩm được ra đời ngay sau năm 1975.

Âm vang, âm hưởng của văn học sử thi vẫn còn, nhưng xu hướng nhìn lại chiến tranh, tìm thêm các giá trị nhân văn của chiến tranh khổng hẳn chỉ là của Nguyễn Minh Châu.

Cái nhìn về con người cũng không như trước – trong thời chiến. Nhà văn đã bám sát biện chứng tâm hồn để tìm ra những đổi thay và chuyển biến mới.

Tôi đã viết về nhận xét này, khi khẳng định dấu ấn sự nghiệp Nguyễn Minh Châu:

“Tuy nhiên, cách nhìn cuộc đời và con người của nhà văn đã dần dần khác trước thấy rõ được đa diện, sinh động và phức tạp mới trong tất cả cái đa sự, đa đoan. Nếu như trước kia là tìm con người trong sự kiện, trong chiến tranh, thì giờ đây là cuộc khám phá con người trong chính họ. Nổi lên là ý nghĩa nhân đạo sâu sắc sau chiến tranh”.

Đó là cái nhìn xuyên suốt của nhà văn từ những năm sau 1975, kể từ cụm sáng tác 1977 kể trên, đến những tác phẩm cuối đời vào thập kỷ 80.

Rõ ràng, nhà văn có quan điểm Viết về chiến tranh (Tiểu luận đăng trên Văn nghệ quân đội, số 11, 1978).

Trước sau, Nguyễn Minh Châu chỉ “hành quân” trên một con đường lớn. Đó là đại lộ chiến đấu vì quyền sống, và quyền hạnh phúc của con người. Chỉ có điều là, ông nhìn ra phương hướng và xác định mục tiêu khác nhau, do lịch sử đề ra.

Trước 1975, Nguyễn Minh Châu “chiến đấu cho quyền sống của dân tộc”, sau đó chuyển sang “cuộc chiến đấu cho quyền sống của từng con người” .

Luôn nhìn xã hội và con người với cái nhìn tìm tòi, khám phá và phát hiện, nhà văn không bao giờ tự hài lòng với sự quan sát bên ngoài, hình thức chủ nghĩa.

Khi chuyển vào đời sống sau chiến tranh, nhà văn đã có cái nhìn tinh tường qua bao nhiêu ngổn ngang, bề bộn, xáo trộn, phức tạp.

Qua đó, là sự phát hiện thế giới tâm hồn của con người trong một xã hội dân sự mới. Đó là con người với muôn mặt đời thường, trong đó phần sáng bộc lộ, phần tối khuất lấp, cả tốt – xấu, thiện – ác đều đan xen, chen lấn và giao tranh với nhau.

Chính vì thế, mà thế giới nhân vật trong sáng tác thường đa dạng và phong phú hơn.

Cho đến cuối đời, Nguyễn Minh Châu vẫn đi sâu vào khám phá thế giới con người thẳm sâu đầy bí ẩn. Đó là cái nhìn và sự phát hiện con người trong chiều sâu triết học – thẩm mỹ. Nói như Bakhtin: “Con người trong con người”.

 

II/ Nhà văn có tư tưởng cao cả, sáng đẹp

Nhà văn chân chính nào, trước hết và xét cho cùng, cũng phải có tư tưởng. Đó có thể là tư tưởng về chính trị, về nhân sinh, xả hội, và tư tưởng về văn học – nghệ thuật.

Những sáng tác phẩm của họ đều có một thông điệp về tư tưởng ấy. Khi phân tích sàn phẩm nghệ thuật, bao giờ độc giả cũng tìm ý tưởng được phát ngôn của tác giả.

Như mọi nhà văn danh giá, Nguyễn Minh Châu là một nhà suy tưởng khi cầm bút . Hơn thế, ông còn là nhà tư tưởng lớn. Bởi, ông thực chất chính là người viết mang tư tưởng cao cả và sáng đẹp.

Là thế hệ nhà văn trải qua cả cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ 30 năm, một cuộc đấu tranh onah liệt trong trường kỳ lịch sử của dân tộc, Nguyễn Minh Châu đương nhiên thấm nhuần tư tưởng của dân tộc trong thời đại. Đó là lý tưởng  “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” như động lực kỳ diệu đã làm nên chiến thắng vẻ vang.

Cũng như thế, ông thấm đượm truyền thống nhân văn của dân tộc: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn/ Lấy trí nhân để thay cường bạo” (Nguyễn Trãi).

Tuy nhiên, là chủ thể tư duy và sáng tạo nghệ thuật, nhà văn có sự tiếp biến để thể hiện những nét bản sắc độc đáo.

Chủ nghĩa nhân đạo cách mạng kết hoà với truyền thống nhân văn của đạo lý dân tộc có biểu hiện đặc sắc của nhà văn.

Có thể coi ở một góc độ khái quát rằng, Nguyễn Minh Châu là nhà văn mang tư tưởng thời đại, mang lý tưởng nhân văn thời đại mới. Đó là thời đại mà đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trong Tuyên ngôn độc lập 1945: “Con người có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.

Cùng đồng đội mặc áo lính,nhà văn thực hiện chân thực, sinh động nhất lý tưởng giải phóng dân tộc và giải phóng nhân loại  “ Ta vì ta ba chục triệu người / Cũng vì ba nghìn triệu trên đời” ( Tố Hữu).Một đời cầm súng và cầm bút, Nguyễn Minh Châu tuyên bố minh bạch, dõng dạc về cuộc chiến đấu  “ cho quyền sống của cả dân tộc” và  “ cho quyền sống của từng con người”. Nhà văn có dịp phát biểu về tính nhân văn của người nghệ sĩ mới “ Tình yêu này của người nghệ sĩ, vừa là niềm hân hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khắc khoải , một nỗi quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh mình”                        ,  .

Nhà văn chủ trương một tình yêu lớn như vậy có thể sẻ chia, thông cảm sâu sắc và hơn thế, nâng đỡ,bênh vực, trợ lực con người đứng vững và đi lên trong cuộc sống đầy gian nan, thử thách.

Giống như Nam Cao xưa kia, Nguyễn Minh Châu không chỉ quan tâm chia sẻ với một lớp người, loại người nào, mà thương cảm bao trùm những phận người, những kiếp người.Qua nhân vật truyện , ta thấy rõ cảm thức nhân loại của nhà văn. Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành hay người phụ nữ trong Chiếc thuyền ngoài xa  là những nhân vật có vẻ dị biệt nhưng lại mang tính phổ quát, là nhân vật tư tưởng mang triết lý nhân sinh của nhà văn.Trong chiến tranh, nổi lên trên những trang viết Nguyễn Minh Châu là  cảm hứng anh hùng. Đó là biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn đặc sắc trong thời cuộc. Cảm hứng này lại giao hoà với cảm hứng nhân văn sau chiến tranh để thực hiện một quan niệm nhất quán là “đi tìm hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Nhà văn chuyên tâm, gắng sức . trước sau đi tìm vẻ đẹp tâm hồn .

Nhà văn từng phân tích, trước đây do hạn chế lịch sử,  ta thường theo quán tính nhìn một chiều, phiến diện.Gio72 đây, trong tình hình mới, với tư duy phản biện xã hội tích cực,, nhà văn đã có phát hiện mới về con người với đời sống  tâm hồn phong phú, phức tạp . Trong cơ chế thị trường nhà văn đã sớm  nhân thấy mặt trái là xuống cấp đạo đức . Từ đó là một đề xuất mới về xây dựng đạo đức xã hội.

Trước hết phải là sự tự vấn, tự phản tỉnh của cá nhân. Con người phải xem lại,  soi xet kỹ lại bản thân mình, tiến hành cuộc đấu tranh với chính mình để loại trừ những thói hư, tật xấu.đồng thời là sự xác định hệ giá trị nhân cách con người mới trong hoàn cảnh mới.

 Cũng rất giống với Nam Cao, nhà văn có thức tỉnh mới  với thông điệo tư tưởng lớn là hoàn thiện nhân cách. Đó là triết lý với các truyên Bức tranh, qua  cuộc sám hối âm thầm mà quyết liệt, truyện Dấu vết nghề nghiệp , qua sự tự thú muộn màng…Nhất là qua Một cuộc đối chứng- hiện tượng đối chứng giữa con người và con vật- để tìm ra bản chất đích thực của con người : tính chất người, hay chính xác hơn, tinh chất người.

Từ sự thoái hoá cuả nhân cách, nhà văn  đê xuất một thông điệp như một tư                                                  tưởng phái sinh. Đó là sự phê phán mặt trái tiêu cực của người nông dân lạc hậu.

Lão Khúng trong Khách ở quê ra  xa lạ thậm chí như dị ứng với cuộc sống đô thị.Lão vốn gốc gác  lâu đời nông thôn nên “ cận thị”, thiển cận, tầm nhìn quanh quẩn , chật hẹp nơi luỹ tre làng “người sản xuất nhỏ cổ sơ”.Do đó không khỏi có hạn chế tư tưởng là kinh nghiệm chủ nghĩa, bảo thủ, cổ hủ. Những con người quê biển tác giả gợi cảm tưởng như thuộc về một thế giới hoang sơ nào! Có một cảm xúc tâm linh : con bò Khoang lại quay về với lão như định mệnh gắn bó cuộc đời người-bò : “Con bò quay về gặp chủ nó là sự thảm hại “não nùng” của ảo tưởng tự do của lão Khúng”.Người nông dân cũng dễ bị tha hoá, dễ trỗi dậy mặt bản năng, thực dụng khi có cơ hội như trường hợp Dũng, con trai lão , định hành hung hàng xóm. Giấc mơ của lão Khúng có tính chất tượng trưng : chính lão đã dùng búa tạ bổ vào đầu con bò Khoang. Tác giả phác ra hai khả năng  giới hạn của số phận nông dân. Họ vẫn là nạn nhân của chế độ bóc lột nhưng vẫn có thể trở thành phạm nhân, kẻ tội đồ  : những  “ác ôn”, “ cường hào mới” ở nông thôn.Nguyễn Minh Châu từng có giả định kỳ lạ nhưng có yếu tố hiện thực : Chí Phèo  “ tái sinh” thành  lính nguỵ và chính tên pạc- ti- dăng  đã bắn chết Nam Cao có thể  chính là Chí Phèo.

Đã có thời dư luận chính trị lên án cái gọi là “chủ nghĩa nông dân”  và sự tác hại của nó, không phải chỉ ở đất nước ta mà nhìn rộng ra còn ở nơi có nền nông nghiệp lạc hậu từ lâu đời. Từ sự  khám phá, phê phán sâu sắc mặt trái trong phẩm cách nhân vật Khúng ,Nguyễn Minh Châu đề xuất việc giao lưu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong hoàn cãnh mới sẽ  phát huy mât tích cực trong quá trình phát triển mới của xã hội để biến họ thành người nông dân hiện đại trong xu thế  công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

Với chức năng tiên tri, Nguyễn Minh Châu đã đưa ra những tiên cảm, dự báo và cảnh báo tầm xa như vậy.

Thi sĩ, văn nhân thường  “yêu cảnh thiên nhiên đẹp”.Hơn thế, Nguyễn Minh Châu còn có ý thức bảo vệ thiên nhiên, bảo tồn giá trị  tự nhiên với quan điểm có tính thời sự- thời đại. Nhà văn còn có tư cách nhà khoa học sinh thái môi trường.

Sống mãi với cây xanh rất tiêu biểu cho tư tưởng ấy.

Đó là một tư tưởng rất mới, rất hiện đại thời nay. Trong truyện, Nguyễn Minh Châu xây dựng mối quan hệ song trùng  giữa bác Thông và cây sấu cổ thụ trên phố.Khi cây sấu bị đốn hạ để mở đường, bác như rơi vào trạng thái bị chấn thương : “kiệt sức vì đau đớn và cô độc. Đó là hai thực thể bị tổn thương trong đời sống hiện đại. Đó là “ niềm tin pha lẫn âu lo” về tương lai đô thị hoá (Khách ở quê ra, Sống mãi với cây xanh).

Thực ra quan niệm thiên nhiên như những thực thể độc lập vốn có từ xưa qua nhân thức tâm linh triết học đồng nhất Thiên – Địa – Nhân : vạn vật hữu linh, con người bình đẳng và hoà đồng với tạo vật.Tư tưởng của tác giả truyền vào truyện rất minh triết: ý thức về sự cần thiết bảo tồn  môi trường thiên nhiên, môi trường văn hoá, lịch sử cho tương lai  đô thị hoá, công nghiệp hoá hiện đại.Thế giới xanh đang là khẩu hiệu , lời hô hào khẩn thiết vì mục tiêu phấn đấu cho môi trường sinh thái của loài người ngày nay.

Có một truyện  rất thời sự mà lại mang tư tưởng rất thời đại là Mùa trái cóc ở miền Nam .

Sư già Thiện Linh, sau 20 năm nương nhờ cửa Phật, gửi trọn niềm tin và niềm hy vọng vào Toàn – đứa con trai duy nhất của mình, nay đã là sĩ quan của quân đội giải phóng. Cuộc gặp gỡ của “tình mẫu tử thiêng liêng” đã lại trở thành một tình huống bi kịch: “vui vẻ, cảm động, nhưng hoàn toàn bất ngờ và trái ngược như một phiên toà đại hình”.

Đó là thái độ vô cảm, vô ý thức, vì chỉ quan tâm đến lý lịch của mẹ khi sống trong vùng địch thời tạm chiếm. Toàn là biểu hiện của sự suy thoái đạo đức cần lên án.

Dân tộc hoà hợp từ gia đình hoà hảo. Đó là tinh thần cốt yếu của chủ nghĩa nhân văn cách mạng: vị tha và bao dung. UNESCO có chủ trương Năm khoan dung (1995) vì sự nghiệp chung sống hoà bình, phát triển và ổn định của nhân loại.

Xoá bỏ hận thù với tinh thần hiện đại là không có kẻ thù vĩnh viễn. Đồng thời, vượt qua quá khứ, hướng tới tương lai là ứng xử nhân văn tiến bộ nhất của những địch thủ trong cuộc chiến. Quan hệ quốc tế mới, tốt đẹp giữa Việt Nam và Hoa Kỳ trong vòng 25 năm qua là một minh chứng hùng hồn của lịch sử.

Nguyễn Minh Châu trong sâu thẳm tâm hồn chắc đã dự cảm được tương lai hoà hợp dân tộc, hội nhập quốc tế của tư tưởng thời đại.

 

III/ Nhà văn có quyết tâm đổi mới sáng tạo mạnh mẽ

Khuynh hướng đổi mới luôn tuân thủ quy luật của tiến bộ xã hội. Đổi mới xã hội kéo theo đổi mới văn nghệ như một tất yếu.

Nguyễn Minh Châu là người sớm nhận thức ra vấn đề và trở thành ngọn cờ tiên phong.

Thực ra, nhà văn thức thời này đã âm thầm tự đổi mới từ lâu.

Với nhận thức đổi mới như tư tưởng nghệ thuật chủ đạo, nhà văn đã mở đầu bằng loạt tác phẩm ngay sau kết thúc chiến tranh, từ năm 1977: Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra. Cho đến sau đó, vẫn là sự trăn trở để tìm đường và chuyển biến rõ rệt: Bến quê (1985), Mảnh đất tình yêu (1987), Chiếc thuyền ngoài xa (1987).

Như phát pháo lệnh bùng nổ, Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn minh hoạ (Văn nghệ 49, 50  5,6/12/1987) là một tuyên ngôn đổi mới vang động mặt trận văn nghệ của Nguyễn Minh Châu. Tuyên ngôn này đã có điểm tựa là loạt tác phẩm thực nghiệm như đã nêu trên.

Tư tưởng chủ đạo là Đổi mới gắn liền với Sáng tạo. Đó là kết quả của một quá trình nhận thức sâu sắc, và hành động mạnh mẽ, hiệu quả: nói và làm tốt qua thực tế mới có sức thuyết phục cao nhất.

Từ đây, sự nghiệp của Nguyễn Minh Châu gắn liền với tiến trình đổi mới văn học: nhà văn là tiêu biểu cho tinh thần đổi mới. Ông như ngọn cờ tiên phong có sức vẫy gọi mạnh mẽ. Nhà văn được đánh giá là một trong những người mở đường “tinh anh và tài năng”.

Hội thảo “Nguyễn Minh Châu và tiến trình đổi mới văn học” nhân dịp kỷ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn tại Viện Văn học (10/10/2019) đã có sự đồng thuận cao về đánh giá vai trò và ảnh hưởng của nhà văn.

Cho đến nay, nhiều chuyên gia lý luận hàng đầu đã sơ bộ tổng kết mấy vấn đề trọng yếu căn cứ vào tuyên ngôn và thực tiễn sáng tác của Nguyễn Minh Châu.

Cơ sở nhận định quan trọng là: thực trạng văn học đang có thiếu sót là thiếu chân thật, phương pháp sáng tác có sai sót là chưa chú trọng phản ánh cái thực tại vốn có, nhà văn còn nặng giáo điều, thiếu bản lĩnh tự do sáng tạo.

Từ đó, Nguyễn Minh Châu đề xuất thay đổi thực tiễn sáng tác từ một hệ hình tư duy lý luận mới, với cái nhìn mới thật chân thực về cuộc sống và con người, một phương pháp mới hiện thực đích thực.

Đặc biệt, nhà văn cũng đề cao lương tri, tâm huyết nghề nghiệp, hết sức trung thực, nghiêm khắc, hết lòng trân quý con người:

“Văn học là như vậy: làm hiện hình lên những huyền diệu bí mật của cõi lòng người (...) Chỗ nào có con người, thì có văn học” (Trang giấy trước đèn, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2002).

Xét cụ thể, có thể thấy, trên hệ thống tư duy nghệ thuật: Quan niệm nghệ thuật về con người, Hệ thống đề tài. Nhất là nghệ thuật tự sự văn xuôi như đặc sắc cách tân của nhà văn.

Từ đây còn là sự phát triển mới những đặc sắc về phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Đây là những vấn đề phong phú dành cho công trình nghiên cứu công phu về sự nghiệp đổi mới văn học của nhà văn.

***

Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của Nguyễn Minh Châu đã hoàn tất, nhưng ảnh hưởng của nhà văn còn lan toả mãi.

Sinh thời, đã có lúc dư luận văn đàn xôn xao về một tác phẩm, hoặc tiểu luận nảy lửa của ông. Tuy nhiên, theo thời gian, dư luận khách quan – khoa học đã đánh giá chính xác về tầm vóc của nhà văn.

Đó là sự nhất trí tôn vinh Nguyễn Minh Châu là nhà văn tầm cỡ hàng đầu, và một nhân cách văn hoá lớn. Đặc biệt là vai trò người mở đường tinh anh và quyết liệt cho đổi mới văn học:

“Nhà văn Nguyễn Minh Châu là người đầu tiên, với một trái tim bỏng cháy như muốn thiêu đốt cả đất trời này, riết róng lo toan cho sự đổi mới văn chương Việt đương đại” (Đỗ Ngọc Yên, Nhà văn Nguyễn Minh Châu – Người lập ngôn “tử tế”, http://toquoc.vn, 11/7/2013).

Chỉ xin được nhấn mạnh điều quan trọng này: Nguyễn Minh Châu là nhà văn đồng hành sát sao với thời đại, luôn có khát vọng mãnh liệt hiện đại hoá tư duy văn học, cùng với bồi đắp cảm hứng nhân văn như cảm thức nhân loại.

Nguyễn Minh Châu thường trao đổi với bè bạn về vấn đề “Gia nhập vào đời sống văn học thế giới”, hoặc “hoà đồng cùng nhân loại”. Đó cũng là khát vọng lớn của nhà văn.

Bằng quan niệm và thực tiễn sáng tác thời Đổi mới, Nguyễn Minh Châu đã hiện thực hoá giấc mơ đời viết. Có thể nói, ông cũng là một trong số những nhà văn hàng đầu của Việt Nam, sớm hội nhập thế giới.

Từ Cửa sông, Nguyễn Minh Châu cùng đồng đội đã tìm ra mênh mông Đại dương như  tiếp lời Biển gọi (Hồ Phương). Bến quê đã và sẽ là nơi neo đậu và qua lại của ngàn vạn những thuyền , tàu biển khơi./.

Đoàn Trọng Huy

PGS. TS Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

 

------

Tài liệu tham khảo

[1] Trần Hoài Anh (2019), Nguyễn Minh Châu với việc góp phần khai mở hệ hình tư duy lý luận văn học thời kỳ đổi mới, http://vanhocsaigon.com, 10/12/2019.

[2] Nguyễn Minh Châu (2002), Toàn tập (1, 2, 3, 4, 5), NXB Văn học.

[3] Đỗ Đức Hiểu (1999), Đổi mới đọc và bình văn, NXB Hội Nhà văn.

[4] Đoàn Trọng Huy (2015), Về con đường sáng tác Nguyễn Minh Châu, http://nguvan.hnue.edu.vn, 17/10/2015. 

[5] Đoàn Trọng Huy (2019), Nguyễn Minh Châu – Trái tim nhân hậu, quả cảm vì con người in trong Ánh sao đầu súng, NXB Văn hoá – Văn nghệ.

[6] Phạm Duy Nghĩa (2006), Nhà văn Nguyễn Minh Châu và cảm hứng nhân văn, NXB Hội Nhà văn.

[7] Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Minh Châu – Con người và tác phẩm, NXB Hội Nhà văn.

[8] Nhiều tác giả (2001), Nguyễn Minh Châu – Tài năng và sáng tác nghệ thuật, NXB Hội Nhà văn, Văn hoá Thông tin.

[9] Nhiều tác giả (2002), Nguyễn Minh Châu – Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.

[10] Nhiều tác giả (2009) Di cảo Nguyễn Minh Châu , NXB Hà Nội.

 [11] Trần Thị Thái (2009), Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong quá trình đổi mới của văn học Việt Nam hiện đại, Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học KH XH & NV-ĐHQGHN.

[12] Nguyễn Huy Thắng (2013), Nguyễn Minh Châu từ “Dấu chân người lính” đến “Lão Khúng” ở quê , NXB Kim Đồng.

Yến Lan là nhà thơ thuộc phong trào Thơ mới (1932 - 1945). Ông sinh ra, lớn lên, học tập và làm thơ trên vùng đất cũ thành Đồ Bàn, thuộc làng An Ngãi, phủ An Nhơn. Ông là một trong những thành viên nòng cốt của nhóm thơ Bình Định.

20201213 16

Chân dung nhà thơ Yến Lan - Ảnh: internet

Tuy xuất hiện sớm muộn khác nhau, nhưng Bình Định là mảnh đất có duyên hội tụ những thi sĩ tài danh châu tuần đông vui: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan (tức Xuân Khai), Hoàng Diệp, Bích Khê, Quách Tấn, Quỳnh Dao, Nguyễn Viết Lãm…

Nhóm thơ Bình Định là cụm từ chỉ chung những nhà thơ gắn bó, sáng tác ở vùng đất này. Trường thơ Loạn chỉ là một bộ phận. Gọi là bộ phận, nhưng thực ra, họ cùng hòa hợp, đông vui và lấy việc đàm đạo, sáng tác thi ca làm lý tưởng nghệ thuật chung. Về sau vì công việc, hoàn cảnh, một số người phải chuyển địa bàn như Bích Khê, Hoàng Diệp... Các cây bút chủ chốt còn lại gồm: Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Yến Lan, Quách Tấn. Tất cả đều là thi sĩ tài danh của Phong trào Thơ mới. Riêng Quách Tấn là hiện tượng đặc biệt. Ông vẫn sáng tác thơ theo luật Đường. Nhưng qua các tập Một tấm lòng, Mùa cổ điển, ông vẫn được mọi người yêu quý và thừa nhận là có một sự giao thoa nào đó giữa ý và tình, tâm và cảnh mà trong lúc lơ đãng, ta không để ý là thơ cũ, thơ mới. Quách Tấn vẫn được Chế Lan Viên viết tựa và Hoài Thanh mời vào Thi nhân Việt Nam với vị trí xứng đáng.

Vì điều kiện xê dịch, công tác; hơn nữa, nghiêng về hướng cảm xúc khác, Xuân Diệu giai đoạn từ 1936 trở đi không còn ở Bình Định nữa. Ông học ở Huế, sau công tác ở Mỹ Tho, rồi Hà Nội nên ông không được xem là thành viên của nhóm thơ Bình Định như trước đây nữa. Còn lại bốn cây bút quen thuộc là Chế Lan Viên, Quách Tấn, Hàn Mặc Tử, Yến Lan mà nhân dân, độc giả ở đây yêu quý tấm lòng bằng hữu văn chương gắn bó của họ nên gọi với cái tên trìu mến là Bàn thành tứ hữu (bốn người bạn thơ ở thành Đồ Bàn).

Điểm cần lưu ý để thấy nét riêng của cả nhóm thơ này, đó là sự tìm tòi, đổi mới thi pháp thơ từ sự tích hợp thi ca Pháp và Trung Hoa trên nền tảng thi ca Việt, ngôn ngữ Việt và văn hóa Việt. Chất trữ tình lãng mạn giai đoạn đầu, giờ đây được các nhà thơ đẩy xa hơn sang khuynh hướng tượng trưng, siêu thực, tăng cường yếu tố khác lạ, dị thường, huyền ảo. Mỗi người mỗi xuất phát điểm nhưng đều gặp nhau ở mục đích: Muốn đưa những yếu tố hiện đại vào thi ca. Điều may mắn là trong quá trình đó, nhiều thi sĩ đã khẳng định thi nghiệp của mình ở những vị trí đỉnh cao. Đó là Xuân Diệu, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Yến Lan... với những tác phẩm được thử thách qua thời gian. Hoài Thanh đã nhận xét: “Trái hẳn với lối thơ tả chân, có lối thơ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Cả hai đều chịu rất nặng ảnh hưởng Baudelaire, và qua Baudelaire, ảnh hưởng nhà văn Mỹ Edgar Poe, tác giả tập Chuyện lạ. Có khác chăng là Chế Lan Viên đã đi từ Baudelaire, Edgar Poe đến thơ Đường, mà Hàn Mặc Tử đã đi ngược lại, từ thơ Đường đến Baudelaire, Edgar Poe và đi thêm một đoạn nữa cho gặp Thánh Kinh của đạo Thiên Chúa. Cả hai đều cai trị Trường thơ Loạn và đã chiêu tập một số đồ đệ là Hoàng Diệp, Quỳnh Dao, Xuân Khai (Yến Lan). Tôi vừa nói Chế Lan Viên đi về thơ Đường. Nếu nói đi đến thơ tượng trưng Pháp có lẽ đúng hơn, tuy hai lối thơ này có chỗ giống nhau. Điều ấy thấy rõ ở tác phẩm một người rất gần Chế Lan Viên và Hàn Mặc Tử: Bích Khê” (Thi nhân Việt Nam) [5,tr.37].

Lời tựa tập Thơ Điên và tập Điêu tàn do chính Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên chấp bút chính là tuyên ngôn của Trường thơ Loạn do hai ông sáng lập 1938 đã nói lên sự kiếm tìm, đổi mới, sự phá rào để làm những thi sĩ “tiền trạm cho tương lai” (André Breton).

Trong bài viết ngắn này, tôi muốn nhìn nhận thơ Yến Lan trước 1945 từ góc nhìn địa - văn hóa, một trong những thi pháp chủ/ nổi trội (poétique dominante) của Trường thơ Loạn, qui định phong cách riêng và phong cách chung của cả Trường thơ.

Đặt thơ Yến Lan trước 1945 trong từ trường thi ca của Nhóm thơ Bình Định, ta sẽ thấy độc đáo riêng của ông, dù ông viết không nhiều và không đều tay. Đương thời, ông có tập thơ Bến My Lăng (chưa in), Giếng Loạn, những bài thơ rời in ở Phụ nữ, Tiểu thuyết thứ Năm, Nghệ thuật… và hai kịch thơ Bóng giai nhân, viết chung với Nguyễn Bính (1940), Gái Trữ La (1943). Qua các tác phẩm: Chơi giữa mùa trăng, Thơ Điên của Hàn Măc Tử; Tinh huyết của Bích Khê, Màu huyền diệu của Hoàng Diệp, một số bài thơ của Xuân Khai (tức Yến Lan), đặc biệt trong tập Điêu tàn, Vàng Sao của Chế Lan Viên... thì rõ ràng quan niệm về thi ca và thi sĩ của Trường thơ này đã có sự thay đổi quan trọng. Yếu tố dị thường thông qua liên tưởng, tưởng tượng có vẻ xa lạ, huyền hoặc trở thành điều quan tâm của các thành viên. “Họ muốn xác lập một thế giới mới trong thi ca khác với quan hệ quen thuộc của đời thường. Cái logique của thi ca đã trở nên khác biệt và nhiều khi đối lập với logique của cuộc đời. Nhà thơ, chủ thể sáng tạo là một nhân tố mạnh, xem mình như một trung tâm của vạn vật mà bộc lộ cảm xúc một cách khác thường.” (Hà Minh Đức) [1,tr.57].

Từ yếu tố địa - văn hóa trong thơ Yến Lan, tôi muốn nói đến địa danh Bình Định - là tên tỉnh, nhưng cũng là tên thành Bình Định cũ (thuộc huyện An Nhơn), nơi Yến Lan sinh sống, trưởng thành và định vị thi sĩ khi tuổi đời còn rất trẻ. Những cảnh vật và con người nơi đây đi vào thơ ông như những yếu tố ám ảnh mạnh, chúng như những cổ mẫu (archétypes), tạo thành những cảm xúc điển hình và tâm trạng điển hình trong thơ Yến Lan.

Suy cho cùng, thì nhà thơ nào chẳng lấy nền cảnh và nhân vật trữ tình của một vùng quê nào đó để làm chất xúc tác cho tâm lý sáng tạo. Thể hiện đậm đặc và kết tinh thành chất thơ riêng đến mức nào đó thì sẽ thành thi pháp và phong cách cá nhân thi sĩ. Chất thơ riêng và thi pháp cá nhân ấy sẽ để lại dấu ấn địa - văn hóa của vùng đất và con người nơi đó một cách sáng rõ. Thơ Yến Lan trước 1945 để lại dấu ấn này cụ thể và độc đáo hơn các giai đoạn sáng tác sau 1945. Có lẽ ông đã gắn với gia đình và cảnh huống quê hương suốt hết tuổi ấu thơ và tuổi học sinh ở đây trong từng cảnh vật u trầm với những đền đài, thành quách rêu phong và tháp Chàm hoen rỉ dưới thời gian, đặc biệt là dòng sông Côn trong những mùa lũ tràn bờ dũng mãnh… Tất cả đã gây ấn tượng mạnh trong tâm lý và cảm thức của ông để chúng thành những hình tượng thơ có sức vang ngân và biến ảo như vậy. Bình Định trong thơ Yến Lan chính là cái nền địa - văn hóa ấy. Ở đó: “Dấu xe ngựa đã niêm đầy ngõ kiệt/ Trăng lạc loài gặp lại giữa đêm thu”. Trong không khí kháng Pháp giải phóng quê hương, Yến Lan đã kịp ghi lại những khoảnh khắc giao thời bừng bừng khí thế tranh đấu của của nhân dân quê hương mình: “Ôi Bình Định, đau thương gài trước ngõ/ Mẹ ru con trong bóng tối phập phồng/ Trong tay áo còn nghe dài tiếng thở/ Bỗng thấy quanh thềm hát núi, ca sông”. Ở đó, bao niềm vui hiện tại tiếp nối hiện về, bao nỗi sầu quá khứ lùi xa:

Ôi Bình Định buổi đèn mờ, nước lã.

Bóng nha môn nằm chặn lối ân tình,

Đêm bỗng dậy những ánh vàng xa lạ.

Sao mọc rồi, sông núi bớt lung linh.

Sông Côn chảy qua bảy tầng thác đập.

Tình Trung châu: hương mật nặng khoang thuyền.

Duyên cá nục, măng le về hội họp.

Phiên chợ Thành vụt tỉnh giấc cô miên.

Quá khứ đồng hiện cùng hiện tại, hiện tại lay thức quá khứ khiến cho cảnh tượng quê hương hội tụ không khí vui ca, vùng lên mạnh mẽ của cảnh vật và con người:

Qua trường cũ thấy rạt rào sóng ngói.

Lòng bỗng dưng thơm mùi giấy học sinh.

Trên trang sách của cuộc đời đổi mới.

Nghe thơ về bay vút cả trời xanh.

 

Lầu Cửa Đông có nghe Em tâm sự

Em đi trong tình sử của lầu thơ.

Hai chúng ta bước qua đêm quá khứ

Ngoảnh đôi đầu không còn thấy bơ vơ.

(Bình Định, 1945)

Thành Bình Định bây giờ khác với ngày xưa: “Đây là chốn nương mây và cậy nguyệt/ Đàng chờ xe, sông nước ước mong thuyền!/ Tịch dương liễu không biết mình đang biếc/ Tương tư trời, tương tư nhạc triền miên”. Cảnh và người thật đấy mà như mộng. Buồn lặng triền miên là một thực tế không thể cứu vãn nỗi buồn của tuổi trẻ một thời dai dẳng:

Ôi Bình Định, hương phong trường cách biệt,

Nhúng bâng khuâng trong đức hạnh sương hoa.

Nhà ngơ ngẩn, những tường vôi keo kiết,

Nam Quách sầu, Đông Phố quạnh, Tây Môn xa…!

 

Ôi Bình Định tự thành cao trao gửi.

Buồn xế tà qua mấy cửa rong xanh:

Nơi đã đọng những vũng đàn lạnh dợi

Cửa trăng gầy, gió lụy xuống mong manh.

Bình Định trở đi trở lại trong thơ Yến Lan chính là nỗi buồn một thuở, hằn sâu trong tâm khảm nhà thơ. Hai cuộc đời, hai cảnh trạng đi vào thơ như những nhân chứng nghệ thuật: Trước cách mạng (Bình Định 1935): Buồn; trong cách mạng tháng Tám (Bình Định 1945): Vui. Dấu ấn hiện thực và văn hóa thể hiện rõ trong từng hình tượng thơ, giọng điệu thơ:

Trời Bình Định có thương em lẻ chiếc?

Em nằm thương xanh biếc của trời buồn!

Trên đài trán thơ hằn lên vọng nguyệt,

Trăng còn nương thuyền nhạc khuất trong sương.

 

Hoa tư tưởng phân thân chìu gió trải,

Trời Giang Nam hồ hải nói trong tâm.

Ôi Bình Định sao nằm trong mãi mãi…

Đĩa dầu vơi tim cháy ngọn âm âm...

(Bình Định 1935)

Bình Định trở thành “mắt thức” của nhà thơ để nhìn từng cảnh vật và soi vào từng tâm trạng của chính mình để tương cảm và tương sinh:

Cùng nhớ lại những nguồn vui nhỏ nhất

Bông gòn bay, chùm me rụng thành xưa

Bình Định đây, từng sợi tơ cái tóc

Vẫn chứa chan, tin tưởng tự bao giờ

(Bình Định mắt thức)

Những yếu tố lặp lại với tần suất cao trong thơ chính là cơ sở để nhìn nhận đặc điểm riêng của vùng đất và những ấn tượng sâu nặng tạo thành chất thơ riêng của thi nhân. Chính vì vậy, phê bình thực chứng - lịch sử của G. Lanson (dựa vào lịch sử, xã hội, không gian địa lý và hoàn cảnh gia đình của nhà thơ để giải mã tác phẩm) và phê bình theo lý thuyết nhân học - xã hội của H. Taine được các nhà phê bình, nghiên cứu vận dụng độc lập hoặc vận dụng kết hợp với các phương pháp khác để nghiên cứu hiệu quả tác phẩm và tác giả. Nghiên cứu địa - văn hóa cần vận dụng và kết hợp thành tựu khoa học của các phương pháp này vào trường hợp Yến Lan, có lẽ là thích hợp và thỏa đáng nhất. Vì những ám ảnh tâm lý và vô thức sáng tạo trước 1945 của ông vận vào nhiều thi phẩm thì có sự tương tác, ăn khớp với những hoàn cảnh xuất xứ của chúng mà ông đã tâm sự trong nhiều bài viết và bài trả lời phỏng vấn của mình. Ví như bài thơ Bến My Lăng là một minh chứng điển hình. Chưa kể, gần đây, nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã vận dụng lý thuyết phê bình sinh thái (ecocriticism) để nghiên cứu tác phẩm và tác giả. Lý thuyết này chú trọng đến sự biến đổi khí hậu, sự xuống cấp của môi trường sinh thái, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người, trong đó, họ chú trọng đến những vùng đất nhạy cảm với những đổi thay của môi trường sống, và điều đó ảnh xạ trực tiếp vào tác phẩm, nhất là đối với các nhà văn, nhà thơ đa cảm, giàu trắc ẩn và gắn bó, trăn trở với quê hương, gia đình, người thân…

Với thơ Yến Lan, có lẽ dấu ấn địa - văn hóa hiển minh nhất trong nhiều thi phẩm là dòng sông vầng trăng, chúng sóng đôi nhau như hai đối tượng phản chiếu, có khi nhập vào nhau làm một mà Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam khi bình về thơ Yến Lan đã xác quyết một cách cụ thể và tinh tế. Ông chỉ ra cái chất riêng mơ màng, lặng lẽ mà đắm đuối rất Yến Lan ấy: “Khi đầu thì cũng hay hay, nhưng dần lâu cơ hồ ngạt thở. Chỉ thấy mờ mờ những con đường chảy, êm như những dòng sông và nhất là cái vừng trăng cứ thường ám ảnh các nhà thơ Bình Định.” (Thi nhân Việt Nam) [5,tr.155].

Trăng trong thơ Yến Lan đã trở thành những ám ảnh nghệ thuật, trở đi trở lại như những bí ẩn tinh khôi, nhưng gắn với cơn sinh hạ định mệnh của mình từ người mẹ tảo tần lỡ chuyến đò ngang: “Quê mẹ bên kia bãi cát vàng/ Mẹ tôi về, lỡ chuyến đò ngang/ Cơn đau trở dạ không giường chiếu/ Tôi lọt lòng ra giữa bãi trăng”. Cuộc trở dạ của mẹ “giữa bãi trăng”, về sau, giúp ông quan hệ gắn bó sâu nặng với vầng trăng: “Võng mẹ ru hời dưới mái trăng/ Hương đồng cỏ nội - mặc, kề bên/ Tôi nằm trong vũng ca dao lạnh/ Đón những vầng trăng mẹ vớt lên”. Trăng là đối tượng mà cũng là chủ thể trong cảm nhận của tuổi thơ Yến Lan để ông trở thành người mắc “bệnh trăng”:

Trăng đi từ tóc, đi vào máu

Như sữa tuôn dòng chảy khắp thân

Tôi yêu trăng quá, mê trăng quá

Như má yêu môi, để đến gần

 

Tôi đã thành người mắc “bệnh trăng”

Chiều mây sớm nắng mỗi bâng khuâng

Chỉ riêng báo hiệu niềm vui đến

Khi ứng lòng đêm một ngấn hằng

(Bệnh trăng)

Trăng tồn tại trong những mối liên hệ, trong những kinh nghiệm sống cụ thể của Yến Lan. Nhớ bạn, ông cũng mượn trăng để khuây khỏa nỗi niềm. Nhìn trăng ngần phản chiếu trên gương mặt người “khuyết cong mày bạc” là một phát hiện không chỉ thực tế mà có cả tâm linh và tâm cảm mãnh liệt. Ông đã sở hữu trăng như liệu pháp tâm lý để được thỏa mãn nỗi niềm mê đắm và huyền hoặc:

Sang canh, bìm bịp kêu đầu lán

Đất mới, nhà đơn, lạ láng giềng

Nhớ bạn nửa đêm ra tựa liếp

Khuyết cong mày bạc, ngần trăng in

(Nhớ bạn)

Và trăng trong đêm phụ họa những tiếng mõ chùa xa biến thành những xao động tâm hồn như những khúc xạ của sự im lặng đến mênh mang, xa vắng:

Khuya ơi có một khuya tràn

Bờ ao đầy cả trăng vàng như trăng

Gió đi theo gió nhọc nhằn

Chùa xa giữa kín những lằng mõ xa

Im thôi im cả canh gà

Một cầu nhìn nước chẻ ra một cầu

Thuyền chàng còn khuất nương dâu

Thuyền nàng đã ghé bên cầu nước reo

(Khuya)

Trăng trong thơ Yến Lan đủ trạng thái, nhưng vẫn là vầng trăng buồn gắn với từng cảnh vật và tâm trạng của chính người thơ. Khác với trăng trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên và Bích Khê - những thi sĩ tài danh cùng Trường thơ Loạn, ở chỗ, trăng của các thi sĩ này thường dựa vào một đối tượng và một tiền giả định, một không gian tưởng tượng cụ thể. Với Hàn Mặc Tử là trăng thật trong trạng huống bệnh tật và trăng trong Kinh Thánh; với Chế Lan Viên là trăng của nước non Chiêm Thành đã tan thành tro bụi. Riêng Yến Lan là trăng trên quê hương mình, trăng của cửa lầu thành Bình Định và trăng trên dòng sông hiện thực thời gian (sông Côn - sông An Thái - sông Trường Thi); trăng gắn với bao chấn thương tình cảm xa xót và hãi hùng tuổi nhỏ (6 tuổi) khi phải đi trong đêm gọi thuyền giữa không gian hoang lạnh và sợ hãi đến lạnh người mà bài thơ Bến My Lăng là một ám ảnh để trở thành vô thức sáng tạo.

Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách

Rượu hết rồi, ông lái chẳng buông câu

Trăng thì đầy rơi vàng trên mặt sách

Ông lái buồn để gió lén mơn râu

 

Ông không muốn run người ra tiếng địch

Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao

Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch

Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao

Hai khổ thơ đầu là một không gian và thời gian buồn, ngưng đọng do ông lái đò không tự mình tạo thành một chủ thể tích cực để hóa giải thiên nhiên, để mặc cho thiên nhiên diễn ra như nó vốn có. Ông lái đò thì không buông câu, trăng thì vàng rơi đầy trên mặt sách, rượu không còn để tiếng sáo ngân đêm. Cảnh buồn, người buồn tương hỗ nhau tạo ra một cảnh mênh mông rợn ngợp. Buồn nhưng đẹp và thánh thiện. Ông lái đò là một người tài hoa, là một trí thức tài tử:

Trôi quanh thuyền, những lá vàng quá lạnh

Tơ vương trời, nhưng chỉ giải trăng trăng

Chiều ngui ngút dài trôi về nẻo quạnh

Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng

(Hai câu sau có sách ghi: Từng áo chiều, bọc vàng đua lảng tránh - Để trăng buồn bao phủ bến My Lăng).

Những câu thơ ưu tiên nhiều thanh bằng là một động thái logic vì chúng gắn liền với giọng điệu nội tâm của tác giả. Đây là mỹ học thơ mới nói chung, nhưng với Yến Lan, nó biểu hiện sắc thái riêng, phù hợp với tâm trạng và nỗi niềm hiu quạnh của ông. Giọng điệu thơ bao giờ cũng phản ảnh tâm trạng của nhà thơ gắn với chủng tộc, môi trường, hoàn cảnh và văn hóa mà nhà thơ sinh sống. Nhờ giọng điệu mà phong cách tác giả được tỏ lộ.

Toàn bài thơ, tác giả dùng nhiều từ mang sắc nghĩa buồn, xa ngóng và vợi trông: tĩnh mịch, đìu hiu, run rẩy, nẻo quạnh… Những từ này cộng hưởng ý nghĩa tạo thành tâm cảnh và ngoại cảnh… Vậy mà ông lái đò vẫn như hòa vào không gian thời gian xa vợi ấy để trầm tư về những gì đang đối lập với hiện thực chung quanh. Từ không gian “Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách” đến “ông lái buồn”, “ông lái đợi”, “chẳng buông câu” là một chủ động có điều kiện mà cũng do tình huống khách quan: “trăng võ vàng”, “Vì đìu hiu, đìu hiu, trời tĩnh mịch”, “những lá vàng quá lạnh”… Ở đây, có sự gặp gỡ những từ ngữ cổ phổ biến của thơ trung đại: chàng kỵ mã, ngọc lưu ly, tiếng địch, trời tĩnh mịch… Hình như Yến Lan muốn quay về không gian văn hóa và con người trong mệnh đề “thiên nhiên tương dữ” của thơ trung đại Loại ngôn ngữ và kiểu con người này trong thơ Quách Tấn (Một tấm lòng, Mùa cổ điển) hầu như tràn trên trang thơ. Hai thi sĩ cùng Trường thơ Loạn đã có sự gặp gỡ nhau về ngôn từ, dù khác nhau về tư tưởng và mỹ học sáng tạo. Một Yến Lan thơ mới, một Quách Tấn thơ Đường.

Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã

Nhúng đầy trăng màu áo ngọc lưu ly

Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả

Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi

Xuất hiện hình tượng người kỵ mã uy nghi, lộng lẫy trên yên ngựa và sắc áo lưu ly dưới ánh trăng là một lãng mạn bất ngờ, làm rung động không gian tĩnh mịch. Bài thơ đến đây từ tĩnh bỗng trở nên động. Tiếng gọi đò hối hả làm chao động cả vầng trăng. Vậy mà ông lái đò đã không nghe thấy tiếng gọi hối hả như oán trách kia của chàng kỵ mã. Ông để hồn mình thoát ra ngoài không gian tâm tưởng bến My Lăng. Ông say trăng gối đầu trên sách, chàng kỵ mã gọi lay động, run rẩy cả ngành trăng. Sự đối lập về trạng thái này của hai chủ thể trữ tình đã cho thấy có sự đối lập hay hờ hững trong sự xa cách, dù cả hai đều muốn gặp nhau.

Ông lão vẫn say trăng, đầu gối sách

Để thuyền hồn bơi khỏi bến My Lăng

Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách

Gọi đò thôi run rẩy cả ngành trăng

 

Bến My Lăng còn lạnh bến My Lăng

Ông lái buồn đợi khách biết bao trăng.

(Bến My Lăng)

Chàng kỵ mã thì: “Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả”, “Tiếng gọi đò, gọi đò như oán trách”. Còn ông lái đò thì: “Ông lái buồn đợi khách biết bao trăng”. Tại sao lại có sự tìm kiếm trong vô vọng và nghịch lý này? Có thể cắt nghĩa từ cái nhìn địa - văn hóa chăng. Những tháp Chàm lẻ loi và u trầm trong những đêm trăng vàng trên những miền quê Bình Định, trên thành cũ Đồ Bàn (Chà Bàn) nhất định có một tác động tâm lý và tạo nên những ấn tượng trực giác và tâm thức sáng tạo khi nhà thơ liên hệ với hoàn cảnh lịch sử của vùng đất này trong sự điêu tàn và tiêu vong của một vương triều và những biến thiên của lịch sử thời hiện tại mà Hoài Thanh đã nhận xét và xem đó như một yếu tố có tính địa - văn hóa trong thơ của Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên. Và cũng thế, cả trong thơ của Yến Lan. Tiếng gọi đò trong đêm bên sông Trường Thi tuổi nhỏ ấy là hình tượng âm thanh đã ám ảnh Yến Lan đến trọn đời mà sau này trong bài thơ Chút lòng để lại viết ở tuổi thất thập, ông vẫn còn run rẩy với chính mình. Người gọi đò và ông lái đò, giờ đây tuy hai mà một. Họ đã tan trong nhau để thành tiếng gọi miên viễn, tiếng gọi trong chốc lát mà thành thiên thu, thành minh triết cho một hồn thơ:

Lòng thôi tròn khuyết theo trăng

Tình còn cắm bến My Lăng gọi đò

Giải mã thơ Yến Lan từ góc nhìn địa - văn hóa không phải là cách tiếp cận duy nhất, nhưng nó là cách tiếp cận có cơ sở để hiểu và làm đầy nghĩa, làm mới nghĩa cho thơ ông dựa vào phê bình thực chứng - lịch sử của G. Lanson và phê bình nhân học - xã hội của H.Taine. Những ký ức, cổ mẫu trong thơ Yến Lan như thành Bình Định, sông trăng, ông lái đò, người con gái đẹp, mẹ… chính là những hình tượng có nội hàm riêng gắn với vùng đất cũ thành Bình Định/ Đồ Bàn mà Yến Lan đã sống trải trong sinh quyển ấy trọn tuổi ấu thơ và tuổi thi ca. Vì vậy, nó không thể không ám ảnh và trở thành máu thịt của ông trên suốt hành trình sáng tạo. Điều này được Yến Lan suy nghĩ về nghề văn rất chân thành và trách nhiệm: “Qua hơn nửa thế kỷ học tập, tìm tòi, ôn luyện, tôi tự thấy mình xứng đáng là một người cầm bút có nhiều ấp ủ, nhưng cái chính là tâm hồn được soi sáng qua sự hiểu biết tâm lý xã hội, cuộc sống con người. Đó là yếu tố cho nội dung tác phẩm. Nhà văn phải tự tạo lấy vị trí của mình, thành tài năng đích thực của mình, tức là phong cách” [3, tr.1255]. Muốn vậy, phải chọn và gắn bó máu thịt với một vùng đất thi ca và biểu hiện vùng đất ấy thành ngôn từ - hình tượng - tư tưởng mang tâm thức địa - văn hóa riêng, tạo thành chất thơ riêng, thi pháp riêng.

*

Ngày nay, hơn nửa thế kỷ nhìn lại, nhóm thơ Bình Định đã làm tròn trọng trách lịch sử - thi ca của mình. Mỗi người mỗi hương hoa, mỗi âm thanh, mỗi màu sắc đã góp phần làm cho khu vườn văn học dân tộc thêm nhiều đỉnh cao, tỏa sáng, tỏa mát, tỏa hương trước dòng thời gian vĩnh hằng. Những biệt danh và cụm từ cao đẹp mà Hoài Thanh - nhà tiên tri, “người ca sĩ của Phong trào Thơ mới” (GS. Đỗ Đức Hiểu) đã gắn vào thơ của họ vẫn còn nguyên giá trị và được các thế hệ nghiên cứu lớp sau bổ sung nhiều định ngữ mới cao sang, quý giá. Hoàng Diệp mơ màng đã ra đi; Bích Khê - thi sĩ thần linh, Hàn Mặc Tử - ngôi sao chói lòa, rực rỡ đều đã ra đi từ rất sớm; Xuân Diệu - hoàng tử của thi ca cũng ra đi; rồi Quách Tấn ra đi; Chế Lan Viên - nhà thơ lớn, người làm vườn thi ca vĩnh cửu cũng ra đi. Chỉ còn lại Yến Lan - ngồi lại trong bảng lảng hoàng hôn vọng Bến My Lăng. Ông là người cuối cùng của nhóm thơ Bình Định chứng kiến hành trình thi ca đầy vinh quang, ngoạn mục của những tuấn mã thơ Bình Định, giờ cũng đã ra đi. Vâng, họ đã ra đi, nhưng những dòng sông thơ của họ vẫn dạt dào giữa cõi người.

Hồ Thế Hà

Nguồn: Tạp chí Sông hương, SDB38/09-2020, phiên bản trực tuyến ngày 04.12.2020.

TTO - Dịch giả Huỳnh Phan Anh vừa qua đời lúc 16h45 ngày 30-8 tại San Jose, California, Hoa Kỳ (tức 6h45 sáng 31-8 - giờ Việt Nam) sau một thời gian nằm bệnh, hưởng thọ 81 tuổi.

20200831

Dịch giả Huỳnh Phan Anh (trái) chụp chung với nhà thơ Yves Bonnefoy tại Paris năm 1999 - Ảnh tư liệu

Dịch giả Huỳnh Phan Anh tên thật là Huỳnh Thanh Tâm, sinh năm 1940 tại Bình Dương, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Đà Lạt và là giáo sư triết học tại miền Nam. Nhưng sự nghiệp của ông gắn liền với hoạt động dịch thuật và phổ biến tác phẩm văn chương triết từ các nước đến với người đọc Việt Nam từ trước 1975.

Theo những bạn bè của ông từ hồi còn gặp nhau ở tòa soạn báo Văn tại Sài Gòn, tác phẩm phê bình văn học đầu tay của Huỳnh Phan Anh là Văn chương và kinh nghiệm hư vô (NXB Hoàng Đông Phương, 1968), sau đó ông có tập truyện Người đồng hành (Đêm Trắng xuất bản 1969), kế đó là tập tiểu luận - phê bình Đi tìm tác phẩm văn chương (Đồng Tháp, 1972); ngoài ra ông còn truyện vừa Những ngày mưa (Đêm Trắng xuất bản), và tập truyện Phía ngoài viết chung với Nguyễn Đình Toàn.

Nhưng sự nghiệp dịch thuật của Huỳnh Phan Anh mới thật đáng nể, ông đã chuyển ngữ nhiều tác phẩm quan trọng, cả những tác phẩm kinh điển của văn chương và tư tưởng thế giới được in và tái bản nhiều lần trong mấy chục năm qua:

Một mùa địa ngục (thơ Arthur Rimbaud, NXB Văn Học), Tuyển thơ tình yêu (Paul Eluard, NXB Hội Nhà Văn), Thơ Yves Bonnefoy (NXB Hội Nhà Văn), Chuông gọi hồn ai (tiểu thuyết, Ernest Hemingway, NXB Văn Học), Tình yêu bên vực thẳm (tiểu thuyết, Erich Maria Remarque, NXB Trẻ), Sa mạc (tiểu thuyết, J.M.G Le Clézio, NXB Hội Nhà Văn), Lạc lối về (tiểu thuyết, Heinrich Boll, NXB Văn hóa Văn Nghệ), Tình yêu và tuổi trẻ (tiểu thuyết, Valery Larbaud, NXB Trẻ), Những cuộc đời tỏa sáng (nghiên cứu, André Maurois, NXB Trẻ), Ảo ảnh (Thomas Mann, Văn học), Cỏ (Claude Simon, Hội nhà văn), Thế giới của Sophie (Jostein Gaarder, Văn hoá thông tin, Nhã Nam tái bản), Bãi hoang (Jean-René Huguenin, Đồng Nai, Dtbook tái bản), Rimbaud toàn tập (Arthur Rimbaud, Văn hóa Sài Gòn), Thời gian của một tiếng thở dài (Anne Philipe, NXB Văn nghệ TP.HCM).

Một số tác phẩm quan trọng đã được ông sớm dịch từ trước 1975 như Tình yêu và lý tưởng (Thomas Mann, Ngày Mới, 1974), Chuyến viễn hành trong đêm (Heinrich Böll, Vàng Son, 1973), Tình cuồng (Raymond Radiguet, dịch chung với Nguyễn Nhật Duật, Ngày Mới, 1973)…

"Tất cả cuộc sống của ông là ở đây, nó quá đẹp với đủ vui buồn của một chàng trai sớm già dặn và buồn bã vì bị văn chương chiêu dụ, bị triết học mê hoặc; một ngòi bút tài hoa sớm thành danh; một tên tuổi nức tiếng, nhưng ít ai thấy mặt, nghĩa là cô đơn trong chốn đông đảo, như một cách nói của ông" - Nhà văn - dịch giả MAI SƠN

Theo nhà thơ Phạm Chu Sa, một bạn văn của Huỳnh Phan Anh, ở độ tuổi 30, Huỳnh Phan Anh đã "cùng với các nhà văn - nhà phê bình Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Nhật Duật, Nguyễn Quốc Trụ, Nguyễn Hữu Trí và Đặng Phùng Quân quy tụ thành nhóm Đêm Trắng.

Đêm Trắng là nhóm văn học có khuynh hướng hiện sinh, đi tìm cái mới trong văn chương để làm mới văn chương. Hầu hết thành viên của nhóm là nhà văn kiêm nhà giáo dạy văn học và triết học. Huỳnh Phan Anh rất ngưỡng mộ và chịu ảnh hưởng của Jean Paul Sartre, nhà văn - nhà triết học người Pháp, người có công xiển dương chủ nghĩa hiện sinh".

Cũng theo Phạm Chu Sa, "năm 2002, Huỳnh Phan Anh sang Mỹ định cư tại San Jose, một TP ở Bắc California có hơn 100.000 người Việt nhưng anh sống gần như khép kín, cách biệt, cả với giới văn nghệ sĩ - bạn bè cũ của anh. Phần do anh bị bệnh tim, phần không biết lái xe".

Trong một lần trả lời phỏng vấn báo trong nước, dịch giả Huỳnh Phan Anh bộc bạch: "Trước hết, tôi xin khẳng định một điều là cho dù tôi có sống tại Mỹ một vài năm hay trong suốt phần còn lại của cuộc đời, tôi cũng khó hội nhập được vào nước Mỹ! Tôi không bao giờ là một nhà văn lưu vong".

Một cuộc đời sống và làm việc hết mình cho văn chương, phê bình và dịch thuật với lượng tác phẩm đồ sộ rất có giá trị, tên tuổi Huỳnh Phan Anh chắc chắn còn sống mãi với những người trân trọng ngôn ngữ và văn chương.

Lam Điền

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 31.8.2020.

Thi sĩ Nguyễn Xuân Sanh - nhà thơ cuối cùng của phong trào Thơ Mới - qua đời sáng 22/11, thọ 100 tuổi.

Nhà văn Nguyễn Trí Huân - đồng nghiệp của cố thi sĩ - cho biết ông mất tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Xô vì tuổi cao, sức yếu. Nhà thơ Trần Đăng Khoa nói ba ngày trước, ông kịp đến thăm đàn anh lần cuối ở phòng cấp cứu. Ông viết trên trang cá nhân: "Nhà thơ Mới cuối cùng đã vĩnh biệt chúng ta".

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh qua đời sau khi tròn 100 tuổi. Ảnh: Hội Nhà văn Việt Nam.

Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh qua đời sau khi tròn 100 tuổi. Ảnh: Hội Nhà văn Việt Nam.

Nguyễn Xuân Sanh sinh năm 1920 tại Đà Lạt. Từ nhỏ, ông theo học ở trường Quốc học Quy Nhơn (cũ), sau đó chuyển ra Hà Nội. Ở tuổi 15, ông ra mắt trường ca Lạc loài, được nhà phê bình Lê Tràng Kiều - chủ bút Hà Nội báo giới thiệu, cho đăng liên tiếp 13 số báo. Tác phẩm đầu tay của ông phá vỡ những chuẩn mực thơ truyền thốngvới những câu như: "Gió trắng se mùa thơm dáng liễu/ Xa vời nẻo nhạt xanh buồn xanh...". Một năm sau, ông viết bài Xây mơ tặng Chế Lan Viên - người bạn hàng xóm thuở ấu thơ, được Nguyễn Xuân Khoát phổ nhạc thành ca khúc cùng tên.

Năm 1939, khi đã thành danh trên văn đàn, Nguyễn Xuân Sanh cùng 5 văn nghệ sĩ (Phạm Văn Hạnh, Đoàn Phú Tứ, Nguyễn Lương Ngọc, Nguyễn Đỗ Cung và Nguyễn Xuân Khoát) thành lập nhóm Xuân Thu Nhã tập. Với đông đảo đồng nghiệp, ông là người bắc nhịp cầu đầu tiên từ Thơ Mới sang thơ hiện đại. Theo nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy, cố thi sĩ là người khởi động cuộc chạy tiếp sức của thơ Việt vào hiện đại với tác phẩm Buồn xưa: "Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi/ Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y/ Rượu hát bầu vàng cung ướp hương/ Ngón hường say tóc nhạc trầm mi...". Nhà thơ Hữu Thỉnh đánh giá Nguyễn Xuân Sanh đóng góp lớn trong việc cách tân thơ, đào tạo nhiều nhà văn, dịch giả trẻ, giới thiệu nhiều tác gia văn học lớn của thế giới với bạn đọc trong nước.

20201122Nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh bên vợ - nhà văn Cẩm Thạnh - năm 1961. Ảnh tư liệu.

Gần 80 năm cầm bút, Nguyễn Xuân Sanh để lại gia tài thơ ca đồ sộ. Ông là tác giả của nhiều tập thơ: Chiếc bong bóng hồng (1957), Tiếng hát quê ta (1958), Nghe bước xuân về (1961), Quê biển (1966), Đảo dưa đỏ (1974), Đất nước và Lời ca (1978), Tuyển tập Nguyễn Xuân Sanh (1991), Một vườn thơ năm châu (1997), thơ văn xuôi Đất thơm (viết 1940-1945, in 1995). Ông là dịch giả cho thi sĩ các nước Ba Lan, Nga, Luxembourg, Pháp... Năm 1951, ông nhận giải thưởng ngoại hạng Hội Nhà văn Việt Nam cho tác phẩm Anh hùng Trần Đại Nghĩa. Năm 2001, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật. Hôm 9/11, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức chúc thọ nhà thơ tròn 100 tuổi.

Sinh thời, Nguyễn Xuân Sanh được biết đến với cuộc hôn nhân hạnh phúc cùng vợ - nhà văn Cẩm Thạnh. Ông từng viết bài thơ Trước xuân, thăm chùa Hương tặng người vợ hiền thục luôn sát cánh bên chồng. Ông bà có hai người con, trong đó, con trai đầu Nguyễn Việt Lưu đã hy sinh tại chiến trường Phú Yên năm 1968. Những năm về già, vợ chồng ông được con gái - PGS-TS Nguyễn Việt Triều - nguyên cán bộ của Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, phụng dưỡng.

Tam Kỳ

Nguồn: VnExpress, ngày 22.11.2020.

20200814

Nhà văn Kim Lân (1920 – 2007) là người quê gốc ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, Bắc Ninh, nay đã thuộc Hà Nội. Đó chính là miền đất xưa gọi là Kinh Bắc. Phù Lưu, Từ Sơn, Bắc Ninh,... vốn nổi tiếng là vùng văn vật, thi thư.

Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài. Người như tên, có tài và đã phát lộ tài năng. Ông trở thành nhà văn tài hoa của làng quê. Đồng thời, trong hoạt động kịch trường, phim ảnh, là một nghệ sĩ tài tử “tay ngang”, với những vai diễn nổi tiếng.

Sự nghiệp để lại tuy còn khiêm tốn, nhưng đều có giá trị đặc sắc trên hai phương diện chính yếu là văn họcnghệ thuật.

Ông có nét hao hao như Nguyễn Tuân, tuy ngồi “chiếu dưới” một chút so với bậc đàn anh. Nhắc đến Nguyễn Tuân, người ta liên tưởng ngay đến Kim Lân. Đó là hân hạnh đặc sắc cùa nhà văn tài danh.

 

I/ Sự nghiệp khiêm tốn nhưng đặc sắc về văn chương

1/ Phác thảo sự nghiệp văn chương

Kim Lân từng tâm sự: “Viết văn, trước tiên tôi viết cho mình, cho những mơ ước, gửi gắm của chính mình. Sau nữa, đó là những lời bộc bạch, tâm sự với bạn đọc những điều đang nhức nhối, đang thôi thúc”.

Ban đầu, anh cầm bút như một sự giải thoát của cuộc kiếm sống, một giải toả tâm lý cho bằng mọi người, không thua kém ai. Tức là, nhà văn trẻ tìm kiếm một chỗ đứng xã hội, một tư cách bình đẳng với cộng đồng trong một xã hội còn nhiều đánh giá thật giả lẫn lộn, khinh trọng sai lệch về phẩm giá con người.

Dần dần, nghề viết đem lại cho nhà văn sự say mê và niềm ham thích thật sự. Anh thanh niên viết văn đã tìm ra một con đường riêng, một vùng thực tại, cũng là vùng thẩm mỹ cho hứng thú cá nhân.

Kim Lân tham gia tổ chức Văn hoá Cứu quốc từ năm 1944. Cách mạng và kháng chiến bùng nổ, ông làm phóng viên cho các báo của lực lượng vũ trang cách mạng như Chi lăng, Xông pha, Dân quân Việt Bắc.

Từ năm 1948, ông làm việc tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Truyện ngắn Làng xuất hiện trong thời gian này.

Sau hoà bình 1954, nhà văn liên tục công tác ở các cơ quan văn nghệ như báo Văn nghệ, nhà xuất bản Văn học, nhà xuất bản Tác phẩm mới, Trường bồi dưỡng viết văn... cho đến khi nghỉ hưu.

Vậy là, sáng tác coi như tạm dừng ở tuổi 50, nhưng nhà văn vẫn liên tục hoạt động trong lĩnh vực văn học, văn nghệ cho tới khi hoàn toàn “rửa tay, gác bút”.

Kim Lân không có những tiểu luận văn chương để công bố những “tuyên ngôn” gì lớn lao, nhưng qua tự bạch, nhà văn có những quan niệm minh xác, sâu sắc về sáng tác.

Những thông điệp ấy, cùng với những truyền thụ qua trường bồi dưỡng viết văn đã thể hiện tâm huyết của nhà văn dành cho thế hệ những người viết trẻ đầy triển vọng về khai thác vùng thẩm mỹ nông thôn với truyền thống nhân văn và văn hoá.

Từ đó, hình thành một sở trường là viết “tuyên ngôn” về “làng quê Việt Nam”.

Các tác phẩm chính của Kim Lân có thể kể đến:

-     Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn), 1955

-     Con chó xấu xí (tập truyện ngắn), 1962.

-     Kim Lân – Tuyển tập Kim Lân (Lữ Huy Ngôn tuyển chọn), NXB Văn học, 1996.

-     Kim Lân – Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, 2004.

-     Kim Lân – Tuyển tập Kim Lân, NXB Văn học, 2007, 2012.

Con số tác phẩm đầy đủ được khảo sát và nghiên cứu là 27. Trong số đó, có 13 truyện viết trước năm 1945 đăng trên các báo Trung Bắc chủ nhật, Tiểu thuyết thứ bảy và 14 truyện viết sau này.

Nhà văn trình làng truyện Đứa con người vợ lẽ trên tuần báo Trung Bắc chủ nhật (1942). Gần 30 năm sau, ông có truyện Bà mẹ Cẩm (1969). Cả hai giai đoạn, nhà văn đều để lại dấu ấn qua những tác phẩm đặc sắc.

2/ Đặc sắc truyện ngắn và nghệ thuật văn xuôi

Nhiều nhà văn đã thử bút trên nhiều thể loại và có những thành công đặc sắc. Nguyễn Đình Thi là một trường hợp rất tiêu biểu.

Cũng rất nhiều người viết đã bao quát được hầu hết văn xuôi – như ký sự, phóng sự,tuỳ bút, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, và cũng gặt hái được thành công.

Tuy nhiên, có người chỉ thích dùng món “độc tấu” – như Nguyễn Tuân nổi tiếng nhất với tuỳ bút. Kim Lân trước sau chỉ chuyên viết truyện ngắn, và cũng là người có tác phẩm xuất sắc nổi tiếng.

Truyện ngắn, vì vậy, có thể coi là đặc sản của Kim Lân. Nhiều nhà nghiên cứu đều thống nhất đánh giá như vậy.

Hà Minh Đức trong Nhà văn nói về tác phẩm đã viết: “Kim Lân là một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Kim Lân đã tạo được cách viết độc đáo. Phải nói rằng Kim Lân viết không nhiều, nhưng sáng tác của ông đã gây ấn tượng với bạn đọc”.

Nhà văn Nguyễn Khải – cây bút sung sức và có thành tựu lớn của văn học đương đại, cũng đã từng nhận xét đầy thán phục:

“Về văn xuôi là nghề của tôi, trước sau tôi thần phục có ba người là ông Nguyễn Tuân, Nam Cao và Kim Lân. Sau này, viết lách được cái gì, thường cũng lấy văn của ba ông làm chuẩn”.

Nhận xét về Làng Vợ nhặt của Kim Lân, nhà văn Nguyễn Khải vô cùng ngạc nhiên: “Đó là thần viết, thần mượn tay người để viết nên những trang sách bất hủ” (Nghề văn cũng lắm công phu, 2005).

Từ thành tựu đặc sắc truyện ngắn Kim Lân, có thể qua đó nghiên cứu nhiều vấn đề, không chỉ riêng về thi pháp và phong cách nghệ thuật mang cá tính sáng tạo của nhà văn, mà còn cả một loạt vấn đề có ý nghĩa chung về lý luận và sáng tác:

-     Nghệ thuật kết cấu truyện ngắn.

-     Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn.

-     Nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật truyện ngắn.

-     ........................

Đã có nhiều luận văn thạc sĩ về đề tài tác gia Kim Lân trong các trường Đại học trên cả nước.

Sau đây là một thống kê sơ bộ, theo thời gian, có thể còn chưa đầy đủ:

[ 1 ] Đặng Thị Huy Lam (2005), Đặc điểm truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[ 2 ] Nguyễn Quốc Thanh (2006), Cảm hứng chủ đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[ 3 ] Đinh Thị Ngọc Mai ( 2010), Dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân ( Ngữ Văn 12- tập 2) theo hướng tiếp cận thi pháp học, Trường Đại học Giáo dục. Luận văn Sư phạm Ngữ văn mã số 60.14.0.11 Lý luận văn học và Phương pháp dạy học.

[ 4 ] Nguyễn Thị Ngọc Quyên ( 2010 ), Phong cách nghệ thuật truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2.

[ 5 ] Khổng Thị Minh Hạnh, (2012), Cái nhìn thời gian, không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên.

[ 6 ] Nguyễn Thị Nha Trang (2012), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Kim Lân, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

[ 7 ] Ngô Thị Thu Trang (2014), Nhân vật và cốt truyện trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

[ 8 ] Kiều Thị Hà (2014), Dạy học tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân ở trường Trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội

[ 9 ] Nguyễn Văn Minh ( 2015), Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Kim Lân, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội.

[ 10 ] Nguyễn Hồng Diễm ( 2016), Văn hoá phong tục làng quê trong sáng tác của Kim Lân. Luận văn Ngôn ngữ - Văn hoá Việt Nam, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2

Như vậy, những nhà văn có tầm cỡ như Kim Lân, sự hiện diện ở trong sách giáo khoaTrung học cơ sở(lớp 9) và Trung học phổ thông ( lớp 12) là một đóng góp rất có ý nghĩa.

Thêm nữa, ở bậc Đại học Kim Lân cũng là một tác gia được nghiên cứu về mặt Văn học, Ngôn ngữ Lý luận văn học kể cả liên ngành khoa hoc như Phương pháp dạy học - Khoa học Giáo dục

Đây cũng là một đóng góp đáng kể về sự nghiệp văn học của một nhà văn trong số có tên tuổi được chọn lọc trong thế giới học đường.

 

II/ Sự nghiệp đáng kể diễn xuất trong kịch nghệ, điện ảnh

Có những hoạt động nghiệp dư của một số các nhà văn sang địa hạt nghệ thuật cũng nổi tiếng trong giới nghệ sĩ.

Nguyễn Huy Tưởng viết kịch và được trình diễn trên sân khấu như tác phẩm Những người ở lại. Tô Hoài viết kịch phim Vợ chồng A Phủ được dựng thành phim trình chiếu, tức chuyển thể thành tác phẩm điện ảnh. Nguyễn Tuân xưa kia từng sang tận Hongkong đóng phim Cánh đồng ma. Sau này ông cũng tham gia đóng phim ở Việt Nam.

Kim Lân cũng vậy, thời thanh niên đã là “cây” văn nghệ của làng: vẽ tranh, nặn tượng, tổ chức nhóm diễn kịch. Sau này ông bước vào nghệ thuật như dạo chơi một cách hứng thú, say mê. Kim Lân thích hội hoạ nhưng không có điều kiện và hoàn cảnh để theo học Mỹ thuật. Có năng khiếu diễn xuất ông tham gia vào kịch nghệ. Theo tự bạch, ông đã từng tham gia vào đoàn kịch cùng một số nghệ sĩ từ thời trước, sau 1945 như Trần Hoạt, Hoàng Cầm…

Được mời đóng kịch và phim, ông bén duyên và gắn bó với nhiều thể loại: hài kịch (Cái tủ chè - Vũ Trọng Can), kịch thơ (Kiều Loan - Hoàng Cầm) phim chuyển thể (Con - Đoàn Lê)…

 Những vai đầy ấn tượng có thể kể:

-     Ông già say trong kịch Kiều Loan (1946)

-     Pú Pạng trong phim Vợ chồng A Phủ (1972)

-     Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy (1982)

-     Lý Cựu trong phim Chị Dậu (1986)

-     Cụ lang Tâm trong phim Hà Nội 12 ngày đêm (1999, 2002)

Việc lựa chọn người đóng phim thường là khó khăn.Các đạo diễn thường phải chọn người phù hợp nhất với nhân vật kịch bản điện ảnh về ngoại hình và đặc biệt là về diễn xuất, tất nhiên là qua hoá trang.

Đức Lưu nổi tiếng với vai Thị Nở. Bùi Cường cũng thành danh trong vai Chí Phèo trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Còn Trà Giang lại lưu danh với các vai diễn trong phim Chị Tư Hậu, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm.Đó là những minh chứng sinh động.

Kim Lân nhập vai các nhân vật phim, kịch căn bản và trước hết vì có chiều sâu tâm lý, nhập thân với nhân vật. Nói cách khác là diễn xuất rất có hồn, thể hiện chân thật tâm hồn nhân vật. Đó là sự sâu lắng tinh tế, cố gắng để đi đến tận cùng những nỗi niềm tâm trang của con người, phận người. Điều ấy đã góp phần làm nên một vị thế riêng của Kim Lân trong kịch trường và phim trường. Ông hơn hẳn các diễn viên khác, kể cả trẻ và có tuổi nghề, chính là ở chỗ ấy. Họ thường phải đọc đi đọc lại tác phẩm nhiều lần, cũng như phải học đến mức “thuộc lầu” kịch bản chuyển thể nhằm nhập tâm cũng là để hoá thân vào nhân vật.

Những vai diễn kịch nhất là điện ảnh thành công “để đời” của Kim Lân là những mẫu mực vươn tới của nhiều diễn viên, nhất là số còn non trẻ. Và, đó cũng là một mong muốn chính đáng của họ.

*

Có những nhà văn, nhà thơ nổi tiếng vì đa tài. Nguyễn Đình Thi xứng đáng là nhà văn- nghệ sĩ chủ yếu trên phương diện sáng tác văn, thơ, nhạc, kịch.Văn Cao tài hoa ở nhạc và cả thơ. Lớp đàn em Nguyễn Trọng Tao, Hữu Ưóc cũng bước sang hoạt động nghệ thuật ngoài văn chương. Nguyễn Thị Hồng Ngát vừa công tác điện ảnh vừa làm thơ.

Kim Lân đã được tôn vinh chủ yếu về vai trò của người viết văn nhưng cũng được đánh giá cao cả ở hoạt động diễn xuất. Có thể vinh danh ông lên hàng nhà văn - nghệ sĩ vì những đóng góp toàn diện trong địa hạt văn chương và nghệ thuật.

Có nét tương đồng với Tô Hoài về khuynh hướng đi sâu, khám phá phát huy phong tục làng quê, hồn Việt và như vậy Kim Lân cũng xứng đáng với mệnh danh nhà văn – nhà văn hoá.

Có thể đây cũng là cái nhìn ở tầm thế kỷ với một nhà văn đã trải qua cuộc đời hoạt động văn chương và nghệ thuật “trong cõi người ta”.

 

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văm Kim Lân.

Ngày 1/8/2020

 

Đoàn Trọng Huy

(PGS.TS. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội)

Bài viết do tác giả gửi cho Web Khoa Văn học

 

Tài liệu tham khảo

[ 1 ] Kim Lân (1996, 2012, 2017), Tuyển tập Kim Lân, Nxb Văn học.

[ 2 ] Kim Lân (2004), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn.

Sẽ đẹp biết bao khi thế hệ trẻ nói những vấn đề của họ, của đất nước qua những tác phẩm văn chương - nghệ thuật lấy cảm hứng từ Kiều, viết ca khúc phổ nhạc từ Kiều, hay rap Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt.

Trong không gian và thời gian đương đại, chúng ta sẽ nói chuyện gì khi nói về Truyện Kiều của cụ Tiên Điền nhân giỗ Cụ 200 năm (1820-2020)? 

Chẳng có gì lạ nếu những việc như nữ quyền, bình đẳng giới, tự do luyến ái, hay dung hợp tôn giáo lập tức hiện ra trong tâm thức người đương thời khi nhắc đến Kiều.

20200622 2

Một cảnh trong vở ba lê Kiều của nghệ sĩ Tuyết Minh

Truyện Kiều và căn tính văn hoá Việt

Dẫu thế, đấy hẳn nhiên không phải là những khái niệm mà khi xưa cụ Nguyễn Du từng trăn trở, mà là lối hiểu, lối nghĩ, lối diễn giải của chúng ta ngày nay khi đọc kiệt tác của Cụ. Cô Kiều của cụ Nguyễn tựa hồ không tuổi, luôn được thanh xuân hoá để sánh bước bên ta, đặc biệt cùng những người trẻ. Vừa đi, Kiều vừa thủ thỉ, nhắc ta về căn tính văn hoá mà nếu không biết gìn giữ nó, ta sẽ dùng dằng nửa ở, nửa về giữa nghịch cảnh “hoà nhập” với “hoà tan”, e sao quên mất lối về nhà trong cõi người ta đang sầm sập toàn cầu hoá.

Chẳng phải là quá khi nói cái đẹp của Kiều chỉ người Việt mới chiêm ngưỡng được hết.  Nói thế cũng là để nhấn mạnh ý thức về căn tính dân tộc bước ra từ cái đẹp văn chương quan trọng đến nhường nào trong bối cảnh toàn cầu ngày nay. Trước khi là tư tưởng, cái đẹp ấy như duyên ngầm chảy trong từng con chữ được kết nối tài hoa tạo nên nhạc tính của cả bản tổng phổ mỹ lệ mang tên Kiều. 

Khi muốn báo hiếu tiếng Việt qua bản kể Kiều của mình bằng tiếng Anh, nhà thơ Dương Tường hẳn đã không ngại đối mặt với một thử thách vô song để ít nhiều đưa cái đẹp tổng thể của Kiều vào không gian Anh ngữ. Khi Thượng chi Phạm Quỳnh ngâm câu Kiều, Phong trần mài một lưỡi gươm - Những phường giá áo, túi cơm xá gì, ông “bỗng thấy trong lòng vui vẻ, trong dạ vững vàng, muốn nhảy múa, muốn reo hò, muốn ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ”.

Và khi dịch Kiều sang tiếng Pháp dưới thời thuộc Pháp, Tân Nam Tử Nguyễn Văn Vĩnh cũng đã gửi nỗi niềm, ý thức dân tộc vào từng dòng thơ dịch, “Một quyển truyện Kiều, mà giả sử được ngọn Tây-bút nào tài, diễn dịch ra một thứ tiếng Âu-châu nào, cũng đủ chứng cho người Âu-châu phải công nhận rằng cái lối văn-chương, có tư-tưởng, có tâm-lý, có triết-học, không phải là một lối văn-chương riêng của các nước bên Âu-Mỹ; người Nam-Việt cũng có cái cảm-giác ấy, cũng có cái tư tưởng ấy”.

Rap truyện Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt
Poster phim Kiều của đạo diễn Mai Thu Huyền sẽ ra mắt vào đầu năm sau

Vậy nên, đọc Kiều không đơn thuần chỉ là thưởng ngoạn văn chương: lúc nếm trải khoái cảm thẩm mỹ ấy cũng chính là lúc ta ý thức rõ hơn căn tính văn hoá Việt của mình.

Tiếp nối từ cổ điển đến đương đại

“Văn hoá,” “truyền thống” không phải là di sản truyền đời cố định, bất biến, mà chúng ta chỉ là người tiếp nhận thụ động.  Trái lại, con người luôn là nhân tố tích cực tham gia (tái) kiến tạo văn hoá, truyền thống thời mình sống, hoặc ý thức, hoặc vô thức.  Tương tự, người đọc tạo ra những kiếp luân hồi cho tác phẩm văn chương bằng cách đọc vào đó những ý nghĩa mới, những vấn đề của thời đại mình trong khi diễn giải. Chúng ta cần nhận ra điều này và trở thành chủ thể ý thức trong việc kiến tạo văn hoá, truyền thống, cũng như xây dựng xã hội, thế giới của mình. 

Giáo sư Thanh Lãng đã vẽ nên một “Cuộc sống thăng trầm của Đoạn Trường Tân Thanh”, cho thấy các thế hệ người đọc đã nhận diện Kiều như thế nào, từ một “Kiều hài nhi” của thế hệ 1788-1820, sang “Kiều thần tượng - Kiều minh tinh” của thế hệ 1913-1932, cho đến những kiếp đời luân hồi không dứt của “Kiều đầu thai”, khởi sự với thế hệ 1954-1965.

Rap truyện Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt
Giáo sư Nguyễn Nam đưa sinh viên Fulbright đi thực địa tìm hiểu về lịch sử, văn hoá Việt Nam tại Huế

Việc những người trẻ hôm nay đọc ra trong Kiều những vấn đề của thời đại họ tự nhiên như hơi thở: nhờ thế mà Kiều không bao giờ là một di thể xơ cứng, không sức sống.  Thế nhưng quan trọng hơn là phải giúp lớp trẻ ấy ý thức vai trò chủ thể kiến tạo có trách nhiệm của mình qua việc họ đang làm: đó là thông hiểu, hân thưởng và phả hơi thở đương đại vào một tác phẩm văn chương kinh điển tầm cỡ thế giới của dân tộc.   

Kiều đầu thai vào đời sống hiện đại dưới nhiều hình thức: Kiều đi vào diễn văn ngoại giao của các vị Tổng thống Hoa Kỳ; Kiều sánh vai với văn chương thế giới, với triết lý duyên do sinh hiện gần với ikigai Nhật Bản; Kiều được kể lại bằng tiếng Anh qua sinh nghiệm một đời của người dịch; Kiều được đọc qua lăng kính của học giả Bắc Mỹ; Kiều tiếp hiện cùng với diễn hoá của văn hoá “truyền thống” Hà Tĩnh và cả nước; Kiều được người Pháp cải biên thành phim với dàn diễn viên của sân khấu truyền thống Việt đầu thập niên 1920; Kiều bước lên sân khấu cải lương, ba lê, hiển hiện trên màn bạc qua ngôn ngữ điện ảnh đương đại ở trong và ngoài nước. 

Việc vun bồi căn tính văn hoá Việt trong thế hệ trẻ như một trong những nhân tố cốt tuỷ xây dựng xã hội trong bối cảnh toàn cầu cho phép ta kỳ vọng một sự tiếp nối từ cổ điển đến đương đại: sẽ đẹp biết bao khi thế hệ trẻ hôm nay nói được những vấn đề của họ, của đất nước qua những tác phẩm văn chương - nghệ thuật lấy cảm hứng từ Kiều, viết nên những ca khúc phổ nhạc từ Kiều, hay thậm chí rap Kiều bằng chiều sâu tâm hồn Việt. Sẽ chẳng phải là mâu thuẫn khi nói rằng với ý thức căn tính văn hoá được xác lập vững chắc, những người trẻ hôm nay sẽ đóng góp tích cực hơn vào sự phát triển xã hội với tư cách công dân toàn cầu. 

Với những nội dung trên, hội thảo“Nguyễn Du với Đương đại” được tổ chức tại Đại học Fulbright Việt Nam (24/10) với sự tham gia của các nghệ sĩ, nhà giáo, nhà nghiên cứu là nén tâm hương nhân 200 năm năm mất của Đại thi hào Nguyễn Du. Hội thảo mở ra đối thoại xuyên thế hệ, gửi trọn niềm tin vào vai trò (tái) kiến tạo của thế hệ trẻ trong tương lai.

TS Nguyễn Nam (Đại học Fulbright Việt Nam)

Nguồn: Vietnamnet, ngày 18.10.2020.

Nhà văn Mang Viên Long vừa qua đời lúc 14h ngày 22/7 vì một cơn đột quỵ tại nhà riêng ở thị xã An Nhơn- Bình Định, hưởng thọ 76 tuổi.

Nhà văn Mang Viên Long sinh ngày 4/6/1944 tại An Nhơn - Bình Định. Ông từng có nhiều năm dạy học tại Tuy Hòa- Phú Yên. Sau năm 1975, ông về lại quê nhà làm thợ sửa khóa và tiếp tục viết văn. Ông là một tác giả tên tuổi ở khu vực Nam Trung bộ.

Từ cuốn sách đầu tay là tập truyện ngắn Trên đỉnh sa mù xuất bản năm 1969 đến nay, nhà văn Mang Viên Long đã có 30 tác phẩm. Nhắc đến nhà văn Mang Viên Long, độc giả nhớ ngay đến những trang viết mộc mạc và thâm trầm qua các trang văn Mùa thu trống trải, Biển của hai người, Trái tim còn lại, Người lưu giữ bản thảo, Quán cà phê Tulip, Cũng chỉ là giấc mơ...

Ngoài sở trường truyện ngắn, nhà văn Mang Viên Long còn có thế mạnh ở thể loại tùy bút và tiểu luận. Tác phẩm tiêu biểu nhất của ông ở mảng này là Như những giọt sương.

Nhà văn Mang Viên Long sống giản dị, lạc quan và hòa nhã, đúng cốt cách một người từng làm thầy giáo. Sau khi rời bục giảng, ông từng đi làm khuân vác, làm phụ hồ, rồi sửa xe gắn máy. Thế nhưng, căn bệnh thấp khớp mãn tính đã khiến ông phải chọn nghề khác để phù hợp với sức khỏe. Vậy là ông chuyển sang làm thợ sửa khóa ở phố chợ An Nhơn - Bình Định.

Hành trình từ một thầy giáo trở thành một thợ sửa khóa, được chính nhà văn Mang Viên Long kể lại như sau:             

“Một lần đi Qui Nhơn thăm ông bà ngoại của các con, tôi đi lang thang dọc đường phổ Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, bổng thấy chiếc tủ gỗ nhỏ của một cậu thanh niên đặt ở góc đường. Đến gần, xem, hỏi han, chuyện trò cho vui. Cậu ấy rất nhiệt tình trả lời các câu hỏi của tôi như đã thân nhau. Khi biết rõ hoàn cảnh và ý định của tôi muốn “học nghề”, cậu đã vui vẻ giới thiệu tôi đến gặp “sư phụ” đang hành nghề sửa khóa và làm chìa ở đường Phan Bội Châu.

Tôi đã mời “sư phụ” lên nhà tôi một ngày để “truyền nghề” với sự đãi ngộ xứng đáng! Tôi vừa học, vừa làm công việc này suốt mấy chục năm qua. Để có thêm thu nhập, tôi làm thêm công việc bơm quẹt ga và sửa kính đeo mắt. Tôi phải làm ba việc cùng một lúc như vậy mới đủ sống.    

Có ai ngờ được rằng cái nghề mình đã đầu tư liên tục từ thưở lên sáu, ròng rã gần 20 năm (nghề dạy học) mà chỉ nuôi sống nổi mình được 12 năm , trong lúc, một cái nghề khơi khơi , đến với tôi một cách bất ngờ, lại giúp tôi và gia đình đủ sống trong hơn 30 năm. Cũng vui, trong ngần ấy năm, tôi cũng đã “truyền nghề” cho 10 “đệ tử” trong và ngoài tỉnh”.

Nguồn: https://nongnghiep.vn/nha-van-mang-vien-long-qua-doi-o-tuoi-76-d269137.html

Ngày 17 tháng 9 năm 2020 Tuổi trẻ có đăng bài thuật lại ý kiến của ông Lê Nghị và nhóm (từ đây gọi tắt là Lê Nghị) Thử “giải mã” lại Truyện Kiều, trong đó có trình bày nhiều quan điểm ngược hẳn với thành tự nghiên cứu xưa nay về Truyện Kiều, tác phẩm đỉnh cao của văn học cổ điển Việt Nam.

20201006

Trang cuối cuốn 7 của Thông tục Kim Kiều truyện, dòng 3 từ trái qua ghi năm xuất bản: Bảo Lịch thứ 13, Quý Mùi, chính nguyệt (tháng Giêng 1763) - Ảnh: Đ.L.GIANG

Những luận điểm lạ về nguồn gốc Truyện Kiều

Ý tưởng chung là nhóm tác giả này muốn chứng minh Truyện Kiều của Nguyễn Du không phải là sáng tác trên cơ sở cốt truyện Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc, mà ngược lại Truyện Kiều có trước, sau đó nhóm Thanh Tâm Tài Tử người Việt Nam diễn thành Kim Vân Kiều truyện, từ đó truyền sang Trung Quốc thành Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, lưu ở thư viện Đại Liên (nơi vẫn coi là tìm ra một trong các bản cổ Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc), và người Trung Quốc nhận là sáng tác của họ.

Quan điểm này đi ngược lại thành tựu nghiên cứu lâu nay của các học giả Việt Nam và nước ngoài, từ Phạm Quỳnh, Lê Thước, Phan Sĩ Bàng, Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm, Giản Chi và các học giả sau này. Điều này dẫn tới những hệ lụy nghiêm trọng:

- Nó có thể gây mất niềm tin về toàn bộ nền khoa học xã hội nước nhà nghiên cứu về Truyện Kiều trước nay;

- Gây hoang mang cho các thầy cô giáo, sinh viên, học sinh đang dạy-học môn ngữ văn;

- Khiến cho các học giả nước ngoài không hiểu học giới Việt Nam đang ở tình trạng nghiên cứu và tâm lý nào;

- và cuối cùng người ta tưởng đưa ra kết luận ấy là đề cao Nguyễn Du, nhưng thực ra là hạ thấp ông, vì nếu sự thật ngược lại: Kim Vân Kiều truyện có trước, Truyện Kiều có sau thì hóa ra Truyện Kiều không có giá trị gì?

Dù bài báo có cẩn thận ghi ở cuối rằng: “còn cần thêm nhiều nghiên cứu khác về xuất phát Truyện Kiều để tường minh hơn về đại thi hào Nguyễn Du và tác phẩm đã đi vào lòng muôn đời người Việt”, nhưng dòng chữ ấy bị chìm vào những kết luận “động trời” của bài viết.

Xem qua các luận điểm của Lê Nghị, những người có quá trình nghiên cứu về Truyện Kiều thấy ngay tất cả đều sai. Ví dụ:

(1) Lê Nghị viết: “Minh Mạng chỉ đạo các văn thần, gọi tên chung là Thanh Tâm Tài Tử soạn một cuốn bình giảng thơ Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du. Cuốn bình giảng đầu tiên là Kim Vân Kiều lục.”

Ý tưởng này có 2 chỗ sai:

Một là, Kim Vân Kiều lục không phải là cuốn “bình giảng” mà là cuốn truyện viết bằng văn xuôi thuật lại Truyện Kiều. Cuốn này Phạm Tú Châu đã dịch ra tiếng Việt và xuất bản 2015 (Dịch và nghiên cứu Kim Vân Kiều lục, NXB.KHXH);

Hai là, “Minh Mạng chỉ đạo…” đó chỉ là lời người viết tự kể chuyện, mà không có chứng cứ văn bản nào.

(2) Việc Minh Mạng xem và đổi tên Đoạn trường tân thanh thành Kim Vân Kiều truyện thì học giả Trần Văn Giáp đã nói từ lâu. Nhưng lạ một cái là khi trích đoạn này trong bản Kim Vân Kiều truyện Hán Nôm cổ (ký hiệu B60) Lê Nghị đã cắt xén một cách khó hiểu chỗ bất lợi cho mình. Xin chép lại đầy đủ:

“Sách Kim Vân Kiều truyện vốn là sách Thanh Tâm Tài Nhân lục của Bắc quốc, Nguyễn Du ở Tiên Điền diễn ra quốc âm, đặt tên là Kim Vân Kiều truyện, được vua Minh Mạng đọc và (cho) (đổi) (tên) (làm) Đoạn trường tân thanh

(Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, tập 2, NXB.KHXH, 1990, tr.134).

Những ghi nhận ấy của sách Hán Nôm cổ cùng với quá trình nghiên cứu của các học giả 100 năm nay tưởng cũng đã đủ để kết luận: Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc có trước, Truyện Kiều của Nguyễn Du được sáng tác trên cốt truyện ấy có sau, nhưng trở thành kiệt tác của văn học thế giới.

Tuy nhiên Lê Nghị tung ra luận điểm rằng Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc lưu ở Thư viện Đại Liên là sách giả. Đối với giới nghiên cứu chuyên nghiệp thì những kết luận như vậy là không có cơ sở, nhưng để cho rõ ràng, tôi xin đi đường vòng, không dùng tư liệu Trung Quốc nữa mà dùng tư liệu Nhật Bản.

Kim Vân Kiều truyện (1763) có ở Nhật Bản từ trước khi Nguyễn Du ra đời

Truyện Kiều của Nguyễn Du đã được dịch ra tiếng Nhật từ khá sớm, người dịch là nhà văn nổi tiếng Komatsu Kiyoshi. Người Nhật đặc biệt yêu thích Truyện Kiều qua bản dịch này, trong vòng 6 năm nó được tái bản đến 3 lần (Toho hakkosho, 1942; Toho shoten, 1943; Kaikosha xb, 1948). Nhờ thế các học giả Nhật Bản mới chú ý tìm xem có Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc truyền đến Nhật Bản không. Họ phát hiện ra ở Nhật có các bản dịch, phóng tác Kim Vân Kiều truyện khá phong phú.

Người đầu tiên đề cập đến vấn đề này là GS.Hatakenaka Toshiro 畠中敏郎(1907-1998) ở Đại học Ngoại ngữ Osaka. Năm 1959, Giáo sư Hatakenaka đã trình bày bài Kim Vân Kiều và văn học thời Edo, sau đó đăng trên tạp chí Văn học so sánh của Hội Văn học so sánh Nhật Bản (số 3, tháng 9-1960, tr.37-54) với nhan đề Kim Vân Kiều khảo. Năm 1972, ông trở lại vấn đề này với bài viết: Về Kim Vân Kiều đăng trên tạp chí Đại học Ngoại ngữ Osaka (số 27, ngày 25-01-1972, tr.11-21). Bài viết được đưa vào sách Kim Vân Kiều của Nguyễn Du, Takeuchi Yonosuke dịch (Kodansha xuất bản, 1975). Đoạn đầu bài nghiên cứu viết:

“Bản Kim Kiều truyện dịch sang tiếng Nhật thành Tú tượng thông tục Kim Kiều truyện 繍像通俗金翹伝 (Kim Kiều truyện thông tục có tranh minh họa) được xuất bản vào năm Bảo Lịch 13 (1763). So với niên đại nguyên bản được thuyền buôn đưa sang (1754, nói ở trên) thì khá sớm. Bản này được lưu giữ ở Thư viện Đại học Tenri天理図書館, gồm 7 sách, 5 quyển, 20 hồi. Cuối sách 7 có ghi: “Tháng Giêng, năm Quý mùi, Bảo Lịch 宝暦thứ 13 (1763) (…) Người dịch sách này là Nishida Korenori 西田維 則 người vùng Omi mất năm Minh Hòa thứ hai (1765)”. (Ảnh)

Những thông tin này tôi đã giới thiệu từ 25 năm trước trên Kiến thức ngày nay số Xuân 1996 và sau đó trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 12 năm 1999.

Năm 2003 tôi đến Thư viện Đại học Tenri (gần Nara) để nhìn tận mắt, sờ tận tay bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện và xin sao chụp lại (318 trang, khổ 28 cm x 36 cm, 20 tranh minh họa). Tôi được biết GS.Trần Đình Sử cũng có cuốn này từ năm 1996 khi ông đi Nhật.

Gần đây, nhà nghiên cứu Vương Trung Hiếu cũng đã tìm được những tư liệu mới nhất về Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản. Ông đã giới thiệu bài Ảnh hưởng của tiểu thuyết tài tử giai nhân Trung Quốc -Trường hợp Bakin của GS.Isobe Yūko (trích từ Kỷ yếu của Đại học Takaoka, quyển thứ 18, xuất bản 2003 tại Nhật Bản). GS.Isobe Yūko cho biết:

"Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc du nhập vào Nhật Bản trong thời kỳ Edo (1603 - 1868), từ đó về sau có nhiều bản dịch truyện này sang tiếng Nhật. Năm 1763, xuất hiện bản dịch Thông tục Kim Kiều truyện của Nishida Korenori, được xem là bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc sớm nhất”. (Nguồn gốc Truyện Kiều trang Facebook Vương Trung Hiếu 18/9/2020).

Với tư liệu rõ ràng như thế về năm xuất hiện bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Nhật Bản, vấn đề Kim Vân Kiều truyện có trước, Truyện Kiều sáng tạo lại, chuyển thể thành truyện thơ từ tác phẩm này coi như đã rõ.

Trong văn học cổ điển thế giới, sự lưu chuyển cốt truyện là việc rất bình thường: từ bi kịch về hoàng tử Hamlet của F.Belleforest, Th.Kyd; từ kịch Những năm tuổi trẻ của Cid của Castro qua ngòi bút thiên tài của W.Shakespeare, P.Corneille, mà thành kiệt tác Hamlet, Le Cid.

Vì thế không vì yêu quý Nguyễn Du mà cố tình “cưỡng tình đoạt lý” chứng minh Truyện Kiều có trước và tạo ra Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc để làm gì. Dù có kế thừa tiểu thuyết chương hồi của Trung Quốc, Truyện Kiều vẫn là một kiệt tác đỉnh cao của văn học Việt Nam và của văn học Đông Á, đó là điều mà Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân không làm được.

Đoàn Lê Giang

(Bài đã trích đăng báo Tuổi trẻ, ngày 26.9.2020).

20200701 2

Nỗi nhớ quê đôi khi là nỗi đau đáu khôn nguôi về vùng đất chôn nhau cắt rốn, về những tên phố, tên làng mà lâu lắm rồi những người con xa quê ấy chưa được một lần quay trở lại. Đó còn là nỗi nhớ về những con sông tắm mát tuổi thơ êm đềm chảy mãi trong ký ức, là vùng biển quê hương nơi có thân xác người thương yêu của họ gởi lại sau những cơn thịnh nộ của đất trời. Nỗi nhớ quê ấy đôi khi được gắn với hình ảnh người con gái xứ Quảng dung dị hiền lành chịu thương chịu khó, với tiếng nói quê hương “chi mô răng rứa” quê mùa mà nghe thân thương đứt ruột. Tiếng nói mà thỉnh thoảng giữa những nơi chốn không phải quê hương, bất ngờ nghe được đôi tiếng đồng hương mà thấy thương đến trào nước mắt. Nỗi nhớ quê ấy đôi khi thiết thực và đơn giản chỉ là nỗi nhớ những món ăn đã thành ký ức từ thưở các nhà thơ còn là những cô bé, cậu bé theo mẹ ra chợ xuân trong những ngày giáp tết… Nỗi nhớ quê ấy đã được viết nên thành những dòng thơ về mớ cá mớ rau, về cái vị mắm đậm đà của xứ biển miền Trung, về tô mì quảng thơm lừng bởi củ nén đập dập phi dầu phụng ép, bởi miếng bánh đúc gạo mùa chan với chút mắm nêm, bởi cái vị béo ngậy của tô cao lầu Hội An, bởi chén chè đậu đen nấu đường bát ngọt ngào dung dị…

Nhưng có lẽ không một nhà thơ nào, không một nhà văn nào hay một người con nào khi xa quê và thương nhớ quê hương mà nỗi nhớ ấy không gắn liền với mẹ. Người mẹ đau xé châu thân khi sinh con ra, người mẹ bầm gan tím ruột tiễn con ra chiến trường mà không dám khóc, người mẹ xót xa tiễn biệt đứa con mà mẹ cứ ngỡ còn dại khờ đi mưu sinh xa xứ… Đó là những người mẹ Quảng, người mẹ xứ sở, người mẹ quê hương, người mẹ cuộc đời, người mẹ của họ, người mẹ của tất cả chúng ta. Và… hình ảnh người mẹ trong thơ của các nhà thơ Quảng xa xứ đã khiến tôi chạnh lòng nhớ thương mẹ tôi đến rơi nước mắt. Bởi, tôi cũng có khác gì họ đâu, một người con xứ Quảng đã bỏ mẹ, bỏ quê mà đi tròn hai chục năm trời.

 Có lẽ cần nhắc đến đầu tiên trong bài viết này là một nhà thơ Quảng Nam đáng kính, đáng ngưỡng vọng vừa qua đời cách đây hơn 10 năm. Một nhà thơ mà tên tuổi đã vượt ra khỏi bờ cõi quê hương từ khi còn rất trẻ - Thu Bồn. Trong gia tài thơ đồ sộ của ông có không ít những bài thơ về mẹ, trong đó có hình ảnh người mẹ gắn liền với hình ảnh con sông quê hương mà nhà thơ đã chọn làm bút danh của mình, bút danh của một người con đã làm rạng danh quê hương xứ sở.  Trong bài thơ Em hát bằng lòng mẹ Việt Nam, hình ảnh người mẹ hiện lên trong nỗi nhớ của nhà thơ là một người mẹ quê đang đẩy nhẹ những chiếc tao nôi đưa con ngủ trong tiếng hát ru. Lời ru của mẹ chẳng phải luôn là bài ca đầu đời hay nhất, dịu êm nhất mà mỗi đứa trẻ từng được nghe trong suốt cuộc đời của mình hay sao? Phút tình cờ nghe tiếng hát của một cô gái đã khiến ông vời vợi nhớ thương tiếng ru ngày xưa của mẹ dường như đã thấm sâu trong tim ông từ thời thơ dại đến giờ:

Có phải một thời son trẻ 
Tiếng mẹ ru ngọt lịm cả nắng chiều”

Tiếng hát ru con của mẹ trong ký ức của nhà thơ trong vắt như bầu trời xanh thẳm của tự do và cũng nghẹn ngào chứa chan nước mắt khi mẹ phải hát ru con trong cảnh đọa đầy:

“Tiếng trong sao như con chim hót 
Bay giữa vòm trời xanh vợi đến bao la 
Nước mắt nhỏ ròng trong mỗi tiếng ca 
Tiếng mẹ khóc òa vào trong tiếng hát ”

Và rồi, tiếng hát của mẹ, tiếng khóc của mẹ, mẹ Thu Bồn, mẹ Quảng Nam bỗng chốc hóa thân thành tiếng hát hòa tiếng khóc của người mẹ Việt Nam trong nỗi đau thương mất mát của nhà thơ hay là của tất cả chúng ta hôm nay khi “Tiếng hát mẹ đau làm dựng sóng Thu Bồn”.Rồi khi nhà thơ thảng thốt kêu lên:

“Thế kỷ chúng ta thế kỷ dài dằng dặc
Niềm đau thương vì nỗi mẹ không còn”

Ta đều biết nỗi mất mát của nhà thơ khi ấy không chỉ là nỗi đau mất mẹ mà còn là nỗi đau mất cả quê hương. Bởi có mẹ là có quê hương, còn mẹ là còn quê hương, còn mẹ là còn yêu thương, còn mẹ là còn tất cả.

“Quê hương bỗng trở thành khoảng trống lặng im
Đường không hoa không 
gió không chim
Tất cả trở thành dĩ vãng
Mẹ không còn nữa ở trên đời
(Em hát bằng lòng mẹ Việt Nam)

Trong khi đó, người mẹ trong thơ Tường Linh lại hiện ra trong hình dáng thơ ngây của người con gái Duy Xuyên tuổi 15 trong trẻo hồn nhiên:

“Cô gái 15 hái hoa bắt bướm…                                                                                                                                                                 

Nắng sớm thêm vàng màu áo lụa Duy Xuyên”

Nhưng cũng chính người con gái hồn nhiên ấy đã trở thành một người mẹ Quảng Nam trung hậu anh hùng trong ngày đưa con trai của mẹ ra chiến trường cho cuộc chiến vì dân vì nước. Lời thề sắc son của mẹ và cha trước ngọn núi Ngũ Hành của quê hương mãi mãi không thể nào quên được trong nỗi nhớ của nhà thơ trong những tháng ngày mưa bom bão đạn:

“Mỗi ngón tay ngang một cụm Ngũ Hành

Năm cụm núi không thể nào thiếu một

Năm ngón tay không thể chia lìa

Lời mẹ đều đều

Sương rụng vườn khuya”

Và người mẹ trong thơ Tường Linh cũng như muôn người mẹ quê khác, rưng rưng đón con về trong đôi mắt mừng vui đến trào lệ khi được nhìn tận mặt, ôm tận tay đứa con trai đã vượt qua bom đạn chiến trường để về với mẹ, dù thân thể ngày nào mẹ cho anh đã không còn lành lặn:

Mẹ già đón anh mừng vui bỡ ngỡ

Mẹ khóc, mẹ cười, mái tóc rụng hoa sương”

(Năm cụm núi quê hương)

Người mẹ trong nỗi nhớ của nhà thơ Sơn Thu lại là hình ảnh người mẹ quê với đôi quang gánh gánh những đứa con của mẹ trên vai. Những đứa con trong hai đầu quang gánh đã bao lần say giấc theo từng bước chân gập ghềnh của mẹ. Người mẹ với cây đòn gánh gánh con trên đôi vai gầy trong thơ ông đã hóa thân thành hình ảnh của người mẹ miền Trung gánh trên vai hai đầu đất nước:

Mẹ gánh chúng con

Mỗi đầu một đứa

Đòn gánh cong cong thương đất nước quê mình

Trăng đổ xuống đôi vai gầy của mẹ

Giấc ngủ chúng con say theo bước mẹ gập ghềnh (Mẹ tôi)

Còn đối với nhà thơ Nguyễn Vân Thiên, cây đòn gánh trên đôi vai bé nhỏ của người mẹ xứ Quảng lại có khả năng gồng gánh ước mơ lẫn những gieo neo đời mẹ, gánh đời con trẻ đi qua gian lao và gánh cả vũ trụ đầy nắng đầy mưa… đi về sớm tối:

“Trăm năm mẹ gánh đời con qua đèo

Gánh yêu thương, gánh khổ nghèo

Gánh mơ ước lẫn gieo neo đi- về” (Cây đòn gánh)

Có lẽ đối với người dân miền Trung, hình ảnh người mẹ gánh hai đứa con thơ trên đôi quang gánh hoặc một bên là con một bên là rau củ, thịt cá cho buổi chợ phiên đã chẳng có gì xa lạ với những ai được sinh ra và lớn lên ở vùng đất khốn khó đầy mưa bão và nắng gió này….

“Một đời gánh nắng và mưa

Mòn vai mà mẹ vẫn chưa yên lòng (Cây đòn gánh)

Vì ai? Vì ai? Hỏi mà chẳng chờ trả lời vì trong thâm tâm nhà thơ và trong tất cả chúng ta đều đã có lời đáp, có nỗi gian lao nào mà mẹ chẳng thể vượt qua vì hạnh phúc bình yên cho những đứa con của mẹ?

Người mẹ trong nỗi nhớ của nhà thơ Ý Nhi lại gắn liền với nỗi ân hận chân thành và lòng xót xa day dứt của bà. Ý Nhi từ lâu đã được biết đến như là một trong những nữ nhà thơ hiện đại nổi tiếng ở Việt Nam, thơ của bà đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và bà được đánh giá là một trong những nhà thơ Việt Nam đương đại tiên phong sau thời kỳ đổi mới. Trong bài thơ Kính gởi mẹ, Ý Nhi nhắc về người mẹ trong nỗi day dứt xót xa với cảm giác ân hận khi đã lớn khôn và rời xa mẹ. Bà tự nhận mình như những quả cây chín mọng tự bứt mình rời khỏi thân cây đã cho mình sự sống, nơi mình đã hút nhựa thơm và chất dinh dưỡng để trưởng thành. Quả rời cây như con rời mẹ, như người rời khỏi quê hương, rời khỏi mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình:

“Quả chín rồi ai dễ nhớ ơn cây

Như trời xanh nhẫn nại sau mây” (Kính gởi mẹ)

nhưng điều đó cũng có hề gì đâu khi “cây đã tự quên mình trong quả”, sức lực của mẹ, linh hồn mẹ, tuổi trẻ của mẹ và ước mơ của người đã gởi hết vào con. Con từ mẹ mà được sinh ra, lớn lên và rời đi nhưng từ lúc con rời khỏi mẹ cũng là lúc mẹ đã ở trong con mãi mãi thì dẫu con có đi đến đâu, ở nơi xa nào thì đôi mắt mẹ, tâm tư mẹ cũng theo con đến đấy:

“Và lòng con yêu mến, xót thương hơn

Khi con nghĩ đến cuộc đời của mẹ

Khi con nhớ đến căn nhà nhỏ bé

Mẹ một mình đang dõi theo con”

Trái tim của người mẹ bao giờ cũng là nơi trú ẩn an toàn nhất cho những đứa con, là bến bờ cho những con thuyền mãi miết vượt khơi xa có nơi tìm về tránh bão. Ý Nhi là một nhà thơ nữ, cũng là một người mẹ, người đàn bà đa cảm. Bà viết cho mẹ mà như viết cho thân phận chung của những người đàn bà luôn luôn nhận về mình phần chờ đợi, sẵn sàng là bờ bến yên bình cho những con thuyền đi xa quay về trú ẩn, nghỉ ngơi. Dù ngay sau đó, khi trời yên biển lặng những con thuyền lại giương buồm ra khơi xa, mãi mết đuổi theo những ước mơ và khát vọng của riêng mình. Bến bờ mẹ sau những tháng ngày rộn rã lao xao lại trở về vắng vẻ, lặng yên rồi lại tiếp tục dõi theo những cánh buồm xa kia chờ ngày được rộn ràng yêu thương và trao yêu thương dù chỉ là trong chốc lát:

“… đời mẹ như bến vắng bên sông

Nơi đón nhận những con thuyền tránh gió”

Mất mẹ khi còn rất nhỏ, chưa đầy 7 tuổi nhà thơ Bùi Nguyễn Trường Kiên đã theo cha vào Nam tìm kế mưu sinh, nhưng lạ thay chỉ vài tuổi đời ngắn ngủi được sống có mẹ nơi chôn nhau cắt rốn cũng đủ hun đúc nên một con người Quảng, một tâm hồn rất Quảng bên trong nhà thơ này. Nỗi nhớ quê hương trong thơ ông cũng không nguôi thương yêu về một người mẹ có lẽ phải rất mờ nhạt trong trí óc non nớt của đứa bé mới chỉ vài tuổi đầu. Nhưng lại không phải vậy, người mẹ quê cứ hiện lên trong thơ ông rõ nét, đầy day dứt và ăm ắp yêu thương. Có lẽ Bùi Nguyễn Trường Kiên là một trong những nhà thơ Quảng viết về mẹ rất nhiều và bài nào của ông cũng khiến tôi cảm động. Người mẹ với đôi vai gầy và đôi chân trần trong bài thơ Ca dao và mẹ của ông, cứ ngỡ là nhỏ bé mong manh mà như gánh chịu được cả những cơn thịnh nộ của đất trời để chở che cho con của mẹ, để con được bình yên trong tiếng cười giòn trên đôi môi thơ dại:

“Vai gầy mẹ gánh những cơn giông

Chân trần mẹ lội đầu non

Che giông giữ tiếng cười giòn cho ai…”

Để rồi một chiều nào đấy, người con xa xứ nghe tiếng ru vọng từ đâu tới mà cứ ngỡ là tiếng ầu ơ của mẹ ngày xưa vọng về như muốn xé nát tim gan mình, nỗi ngậm ngùi khôn nguôi ứ đầy bóng hình mẹ đã xa biết chứa vào đâu cho đủ? Loay hoay mơ cả cuộc đời liệu có được phút giây nào được nghe lại lời ru vĩnh viễn đã không còn của mẹ nữa hay không?

“Ầu ơ tiếng vọng xé tim

Lời ru xưa bỗng tìm về cơn mơ” (Ca dao và mẹ)

Lời ru của mẹ trong tâm thức nhà thơ có lẽ đã hằn sâu bao lớp bao tầng, ông viết về lời ru mà như viết về nỗi đau mất mát của mình, đọc những câu thơ viết về lời mẹ ru của Bùi Nguyễn Trường Kiên, tôi chợt nghĩ có lẽ nào lời ru hay nhất là những lời ru chỉ còn trong ký ức của mỗi chúng ta?

Tiếng mẹ ru êm như là… tiếng mẹ

Thằng bé bạc phần đánh mất thưở còn thơ!  (Mẹ ơi)

Lời ru cứ trở đi trở lại trong những bài thơ của nhà thơ khi ông viết về mẹ, ông đôi khi “tự dưng thèm là trẻ con” chỉ vì một hôm nào đó nhớ quá, thương quá “lời Mẹ ru thưở tóc chỏm trên đầu”. Đọc những câu thơ dưới đây của ông có ai mà không nghe ngậm ngùi đến mức xót xa:

“tự dưng thèm là trẻ con

để được sống cho đã thèm với mẹ (Thèm là trẻ con)

 Lê Minh Quốc là một nhà thơ Quảng viết khỏe, viết nhiều và viết hay. Và đương nhiên, với một nhà thơ lúc nào cũng đau đáu nỗi niềm đối với quê hương như thế thì thơ ông chẳng thể nào vắng được hình ảnh của người mẹ Quảng, người mẹ quê hương, người mẹ xứ sở, người mẹ của ông. Trong bài thơ Giấc ngủ của mẹ, ông viết về một bà mẹ chân chất với đầy những nỗi lo toan nhọc nhằn cả trong giấc ngủ. Bà mẹ ấy cũng như hàng trăm hàng ngàn bà mẹ quê khác có thể chưa bao giờ được đến lớp, chưa biết lấy một chữ cắn đôi nhưng có thể dạy con bằng những bài học đạo lý ngàn đời của dân tộc từ ca dao cổ tích.

“mẹ ta nhớ nhiều cổ tích với ca dao 
dù chữ cắn đôi mẹ không biết đọc 
ta chưa thấy mẹ cười, chưa nghe mẹ khóc 
gương mặt đăm chiêu ngay lúc ngả lưng nằm”

Những người mẹ quê ấy không chỉ nuôi dạy con mà còn truyền vào trong ký ức con, huyết quản con lòng mến yêu quê hương xứ sở, tự hào về những giá trị văn hoá tốt đẹp của cha ông. Chính những vốn liếng văn hóa đơn sơ mẹ trao từ ca dao cổ tích lại là nền tảng tri thức chắc chắn cho những đứa con dù bay cao bay xa đến đâu trong thế giới này cũng vẫn mãi mãi không bao giờ quên được nguồn cội của mình.
Khi đọc bài thơ Mẹ quê hương tôi biết điều ông muốn nói còn nhiều hơn những câu thơ mà ông đã viết ra, người mẹ của ông, người mẹ Quảng, người mẹ quê hương, người mẹ của tất thảy chúng ta ấy đã tay níu trời chân không chạm đất, oằn mình trong cơn lũ xiết... cho biển hoá nương dâu, cho thảy thảy chúng ta được sống cuộc đời mà chúng ta đang sống, cho hiện tại mà chúng ta đang tồn sinh, kết nên từ những niềm vui hay những giọt lệ buồn của mẹ?

Vẫn một mình mẹ trong nước xiết. Chân không chạm đất. Mẹ đưa tay níu rách cả bầu trời

Đất hóa thành sông. Sông lạc cội nguồn. Biển hóa nương dâu qua nhọc nhằn đời mẹ, thành niềm vui rơi xuống giọt lệ buồn (Mẹ quê hương)

Một Thu Bồn, một Tường Linh, một Sơn Thu, một Nguyễn Vân Thiên, một Ý Nhi, một Bùi Nguyễn Trường Kiên, một Lê Minh Quốc... có lẽ chẳng đủ để đại diện cho những nhà thơ Quảng xa quê luôn không nguôi nỗi nhớ về quê cha đất mẹ. Trong bài viết này, tôi mạo muội sắp xếp một cuộc “họp đồng hương” từ những vần thơ viết về mẹ của những nhà thơ xa xứ này. Có nhà thơ vẫn còn sung sức, còn viết rất nhiều rất khỏe nhưng cũng có những nhà thơ lâu rồi không cầm bút và cũng có nhà thơ đã kịp để lại cho chúng ta một di sản đáng giá trước khi rời xa chúng ta và cõi tạm này mãi mãi. Nói như nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương thì “như những cuộc gặp mặt đồng hương khiến người ta chờ đợi, những cuộc đoàn viên trong thơ ca Quảng Nam bao giờ cũng gây cảm động”. Và càng cảm động hơn nữa khi những nhà thơ trong cuộc đoàn viên thơ ca này đều nói chung một tiếng thơ của người Quảng, tiếng thơ về tình yêu với mẹ, tiếng thơ về nỗi nhớ quê hương.

La Mai Thi Gia

Nguồn: Tạp chí Non Nước, 12/2019

 

20200706

Nikos Kazantzakis có lần nói rằng “Nếu trọn tâm hồn tôi là tiếng thét thì tác phẩm của tôi là lời chú giải cho tiếng thét ấy.” Với Trương Văn Dân, ta như bắt gặp lại điều ấy. Gần 400 trang sách viết về cuộc trò chuyện với một đứa bé sắp chào đời và Trương Văn Dân đã nói với nó về mọi vấn đề, như là một Bách khoa thư, với 75 đề mục, khởi đi từ tình yêu và thiên chức của cha và mẹ, sợi dây liên kết thiêng liêng với con cái, hôn nhân và tình yêu cho đến những vấn nạn xã hội như ly dị, chủ nghĩa mackeno, cho đến những chủ đề bát ngát bao la như thân phận người Việt Nam hôm nay, trong một thế giới phẳng, tình trạng toàn cầu hóa, những vấn đề gai góc như ô nhiễm môi trường, phân biệt giàu nghèo, giới tính, chủng tộc, chiến tranh… Những câu hỏi vĩ mô: Thế giới sẽ về đâu? Nhân loại sẽ ra sao? Chúng ta sẽ bắt gặp trong tập sách này với những lời chú giải.

Tác giả nói với “thiên thần” về mục đích của sự chào đời rằng “ …vấn đề là chúng ta sinh ra để làm gì? Có phải chúng ta sinh ra để yêu nhau? Hay không được sinh ra để hiểu nhau?.. Tìm được câu trả lời về đời thật không dễ dàng… Bất trắc tai ương, chiến tranh, dịch bệnh, cô đơn luôn làm con người hãi sợ. Thế nên trong đời sống ai cũng cần được ở bên một người có thể giúp mình chịu đựng…. Ba mong là trong cuộc đời con sẽ gặp được một người biết biến những thứ vô vị trở nên ý nghĩa… Ba may mắn vì gặp mẹ và những người bạn quý…” Nhưng sau đó, Trương Văn Dân đi xa hơn với những chủ đề rộng lớn hơn. Anh để cho kiến thức của mình tuôn chảy trên những con chữ ngồn ngộn, tràn đầy số liệu và ví dụ, minh chứng cho một thế giới bất trắc mà thiên thần sắp bước vào. Ở đó có những vấn đề xã hội như thân phận phụ nữ lấy chồng xa xứ, thân phận người nghèo, tình trạng ly dị và phá thai… rồi đến thân phận người Việt Nam, rồi đến những vấn đề lớn lao như sự tha hóa quyền lực, cho đến chủ nghĩa toàn cầu hóa đang bế tắc vì bản chất thật sự của toàn cầu hóa bị xem là tàn ác một cách thông minhthông minh một cách tàn ác vượt mọi thời đại, sự chênh lệch quyền lợi giữa những thành phần kinh tế đến nỗi một học giả phương Tây đã cảnh báo “Tất cả chúng ta đều là những kẻ bóc lột, phồn vinh của chúng ta chính là nỗi khổ của kẻ khác.” Trương Văn Dân khi nói về chính trị đặc biệt cảnh báo “Chủ nghĩa dân túy (populism) nhân danh người dân nhưng lại phớt lờ nhân quyền, không nhận di dân, ngoại giao dựa trên sức mạnh quân sự,… phát triển kinh tế bất chấp nợ công, dẫn đến “Thời đại bất định toàn cầu”. Tác giả lên án tình trạng khai thác cạn kiệt tài nguyên, phá hủy môi trường, giết hại sinh vật biến hành tinh này thành nơi không thể sống…

Về chiến tranh trên thế giới, anh viết “Bên dưới lớp áo hoa hòe, chính nghĩa, bản chất chiến tranh vẫn luôn là một sự áp đặt, giành giật và cướp bóc trá hình.”

Trong Trò chuyện với thiên thần, câu hỏi “Thế giới rồi sẽ về đâu?” hay “Nhân loại sẽ ra sao?” được tác giả đưa ra nghiêm túc. Có lúc chúng ta thấy bi quan vì Trương Văn Dân nói đến những cuộc khủng hoảng văn hóa, khủng hoảng sinh thái, khủng hoảng xã hội và tài chính, kinh tế đang trộn lẫn vào nhau và tóm lại chúng ta đứng trước cuộc khủng hoảng văn minh, nhân chủng học… Anh kết luận “Nó tự hủy diệt trong hoang tưởng vì nó đặt nền tảng trên hoang tưởng.”

Thế nhưng khi được hỏi về mục đích khi viết tác phẩm này, nhà văn nói: “Tôi viết vì tôi yêu quý cuộc đời và trong lòng có những điều không thể không nói, dù ý nghĩ có khi mâu thuẫn và những con người khác nhau trong tôi luôn tranh cãi với nhau. Tôi xem những dòng tự sự này như một cách trò chuyện, tâm sự cùng độc giả và cuộc đời”. Cuộc đời mà như anh trích dẫn, thi sĩ Tản Đả định nghĩa “Đời là cõi bắt người ta phải sống” và “Cuộc đời không bao giờ có một hình thù cố định. Nó như giọt nước. Khi tròn lúc vuông. Khi dài như sợi khi ngắn và mỏng như tờ giấy… hình thù nó tùy vào vật chứa. Mỗi hình dạng là một trạng thái tâm hồn.” Thế nên tác giả cũng trải qua nhiều tâm trạng: khổ đau - hạnh phúc - giận dữ - buồn phiền - mừng vui và bị tác động do những ngoại lực xung quanh: các yếu tố môi trường, xã hội, văn hóa, gia đình và bạn bè ảnh hưởng mạnh mẽ đến tâm hồn. Anh vẫn yêu đất nước nồng nàn:

“Tôi yêu đất nước này rau cháo

Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu” (Trần Vàng Sao )

và khi anh nhắc thơ Lưu Trọng Lư, anh nhắc cả những người trên ngôi cao chín bệ

“Mỗi ngày anh phải trả lời câu hỏi
Những việc làm nào là có ích cho dân?”

Chúng ta thấy tác phẩm không chỉ đem lại những suy nghĩ tiêu cực vì Trương Văn Dân cũng viết: “… theo ba chỉ có tôn giáo mới có thể giúp mình vượt thoát khỏi những khổ đau và sống bình an…” Anh nhấn mạnh “Việc thờ phượng đức Phật là do người đời sau bày vẽ, thậm chí mọi người còn mải mê thờ (tượng) Phật mà quên mất việc chính là thực hành con đường hạnh phúc ngài đã chỉ dạy.”

Như vậy Trò chuyện với thiên thần vẫn có những âm ba vọng lại từ tiếng thét của Trương Văn Dân, đồng cảm, chia sẻ, xa hay gần tùy vào người đọc vì ở đó vẫn có những điểm sáng như lòng yêu thương cuộc đời, như con đường của hạnh phúc nếu người ta biết sống mà yêu nhau dù trên mảnh đất còn nhiều thiếu thốn vì như anh viết: “Cõi thiên đường không liên quan gì đến sự bất tử mà là một thế giới trong đó con người biết tôn trọng và sống tử tế với nhau.” Trong tâm thế khai phóng ấy, hãy đọc và ngồi xuống cùng Trò chuyện với thiên thần.

Sài Gòn 7.7.2020  

Nguyên Cẩn

Một ngày giáp Tết Canh Tý, Từ Hoài Tấn* mời bạn bè đến quán cà phê nhìn sang Vương Cung Thánh Đường dự ra mắt tập thơ tuyển của ông (Thơ Từ Hoài Tấn, Nxb. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2020).

20200627

Tập thơ in khổ lớn, trình bày trang nhã, bìa là ảnh tác giả đứng nhìn sang làng Chuồn (làng An Truyền, xã Phú An, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế) từ bên kia sông Như Ý. Đó là quê hương và tuổi thơ Từ Hoài Tấn, nơi chỉ cách thành phố Huế tám cây số theo quốc lộ 49 qua cầu Vỹ Dạ mà như một thế giới riêng biệt được phản chiếu trong thơ ông.

Buổi sáng Sài Gòn cuối năm, nắng mật ong ánh vàng trước tượng Đức Mẹ Hòa Bình, chim bồ câu vui đùa mổ thóc trong nhịp chuông nhà thờ; nghe những kỷ niệm về đường đời và đường thơ Từ Hoài Tấn được gợi lại, bỗng thấy thơ ông như đan kết không - thời gian những phút giao mùa mà một tâm hồn trôi dạt giữa gió bụi còn giữ lại trong ngôn từ.

Phục hưng tuổi trẻ

Những bài thơ làm thời tuổi trẻ của Từ Hoài Tấn đã đăng rải rác trên báo chí miền Nam trước 1975 hay lưu truyền trong vòng thân hữu, được tập hợp trong Phục hưng tôi và em (2013) sau khi đã in Hành tinh phiêu lạc (2003), Đi, đứng và chạy… với thời gian (2012) gồm những tác phẩm của “một thời thất lạc”.

Làng Chuồn nổi tiếng rượu ngon và con người cứng cỏi; còn thơ Từ Hoài Tấn thời trẻ chỉ có hơi rượu nhẹ và giọng thơ dịu mềm như thoáng tình đầu: Em đã sắp về chưa/ Trên những nhánh cây khô cuối mùa héo úa/ Và có ai đi dưới con đường nhạt nhòa/ Hơi thở kín trong lòng tay buốt/ Hỡi ngày mai của một rạng đông/ Nụ cười phơi trên giàn hoa gạo cũ/ Người cười vui con mắt long đong/ Ấm lòng ta những canh khuya lặng lẽ.// Em đã sắp về chưa/ Những ngày tháng mười hai nhịp mùa trở đổi/ Gió không ngừng reo/ Bên kia núi đồi/ Băng qua những dòng sông/ Những cây cầu/ Và những chia cách của lòng người/ Gió thổi tới/ Xóa nhòa khuôn mặt thù hận của đêm tối/ Và gió thổi tới/ Bước chân em/ Từ nghìn trùng xa biệt. (Những buổi chiều cuối năm ngoài đường).

Hồn thơ Từ Hoài Tấn nhạy cảm với những chuyến xe chiều cuối năm, những ngày sắp tàn khi ngoài phố mùa đông trôi đi những bóng người lặng lẽ: Những ngày sắp hết năm tàn nữa/ Một bóng người qua lặng lẽ buồn/ Sông núi mười thu chờ tiếng bước/ Nhẹ lướt qua đời những bến sương (Những ngày cuối năm); Ngày đã vơi với tiếng cười buồn/ Thu mình ngồi trong khoang xe chật/ Ai hát bên đời nghe tang thương/ Chiều mới hết hoàng hôn xô mãi/ Những tiếng đàn trầm hư không. (Buổi chiều cuối năm trên một chuyến xe buýt).

Thơ Từ Hoài Tấn là thơ của “những đêm chờ bình minh”. Chỉ dấu tâm hồn này có thể thấy trong thơ của một thế hệ đương thời. Dưới ngòi bút Từ Hoài Tấn, hình ảnh “thời đại tật nguyền”, “đầy dẫy những vết tích hoang phế”, “vực thẳm”, kết tụ trong những cảnh tượng dữ dội của chiến tranh: Năm năm tôi mơ một mái nhà/ […] Ta đi hai bên những gọng kềm/ Những con mắt là lưỡi đao tàn ngược/ Tên đao phủ mỗi ngày thoáng bóng qua đêm/ Những lời hô từng giờ, từng phút. (Trên đường tới một mái nhà).

Đối lập với những hình ảnh đó là viễn cảnh về một ngày mai hy vọng với, “những khu vườn rực rỡ, cây trái tái sinh”, “những búp non báo hiệu”, “hừng đông rựng sáng”, “nắng mai hồng trên cánh đồng thơm”, “tiếng chim trắng bay về ngoài vuông cửa”, “gió hiền hòa không ngừng thổi tới”. Nhưng nỗi “hoài vọng rạng đông” ấy chỉ gieo lên niềm tin mơ hồ về một “mùa phục hưng” ảo tượng. Tháng chạp kéo dài thành những câu thơ u uẩn mà tháng giêng và mùa xuân chập chờn đâu đó chưa hiển lộ: Trời đã cuối năm đất trở mình/ Những canh khuya nghe trong lòng tôi/ Lời chim khuyên thức dậy/ Đời đã lên men/ Rượu tình ai đã rót/ Nhấp chén tương tri/ Của một người cuối đời trở lại. (Tình khúc cuối năm trên gác xép)

Đất trời, cỏ cây và tình nhân như hòa cùng tiên cảm với nhà thơ về một nỗi niềm không xác định của đời sống: Sách vở em buồn trong ngăn kéo/ Những ngày hoa báo hiệu mùa xuân/ Tôi thu nhặt lại năm tàn cũ/ Gửi gió sông hồ bay mênh mang (Những ngày cuối năm).

Xa Huế, ra đi bốn phương trời, trở về Huế, rồi lại lang bạt, những câu thơ hay nhất của Từ Hoài Tấn thời trẻ, dù không gọi tên, vẫn mang âm hưởng cố đô. Lãng đãng, bàng bạc trong không gian. Dằng dặc, ngập ngừng trong thời gian. Tính cấu trúc chỉ nhận ra được nhờ giọng điệu và điệp ngữ: Những chiều thở không ra hơi/ Đầm đìa cơn mê sảng/ Linh hồn động kinh/ .../ Nhìn lên dãy hành lang của trường đại học/ Bây giờ còn tiếng chân ai lướt nhẹ xa xăm/ Mười năm nữa ai sẽ dắt nhau qua đây/ Hát một bài nuối tiếc/ Mười năm nữa mây trên núi cao sẽ còn bay về/ Xin nở đóa hoa hoài niệm/ Và mười năm tôi dưới đường heo hút/ Tóc trắng chờ mong/ Mà những cánh chim đen không thôi lượn quanh mùa bão tố. (Những cánh chim mùa bão tố).

Mong đợi một ngày trở về, giã từ những chuyến phiêu linh không định hướng, nhưng thời cuộc lại bắt buộc nhà thơ giang hồ một lần nữa với con đò và mái chèo lang thang một vùng sông rạch miền Nam.

Gió bụi giang hồ

Từ Hoài Tấn xa gia đình từ nhỏ, gia đình ông cũng rời quê hương từ sớm, lúc đi tản cư, lúc tìm đường lập nghiệp. Thời chiến, ông đã đặt chân đến Nam Bộ nhưng âm sắc miền này chưa đậm trong thơ ông. Phải đến ngày hòa bình, số phận đun đẩy ông tìm kế sinh nhai suốt 15 năm ở miền Tây. Trong “Khúc dạo đầu” tập thơ Bản tình ca của gió bụi (2018), Từ Hoài Tấn bộc bạch: “Đầu tiên tập thơ này được đặt tên Nhật ký của bể dâu, ghi dấu những năm giang hồ vùng bưng biền sông nước của tỉnh Long An. Từ những đồng bưng mênh mông Đồng Tháp Mười vùng Đức Huệ - Mộc Hóa đến sông nước hai con sông Vàm Cỏ Đông - Vàm Cỏ Tây với những cánh đồng trồng thơm và tràm bông vàng bên những con kinh xáng múc ở các khu kinh tế mới Củ Chi, tôi đã phiêu dạt nhiều năm với chiếc ghe bầu hai tấn rưỡi.

Tất bật với cuộc mưu sinh, thời gian này chắc Từ Hoài Tấn viết không nhiều, được in lại càng ít; nhưng 15 năm gió bụi đó còn ám ảnh những câu thơ ông qua hình ảnh rượu nhòa trong nước mắt một người đàn ông sầu cố xứ: Ai hay lữ khách chiều tê tái/ Nhỏ giọt lệ hoài rượu cố hương/ Nhớ con sông cũ chiều xa ngái/ Đêm dài mưa ngập cả mùa đông. (Chiều cuối năm đứng bên bờ sông Vàm Cỏ).

Về với sông nước miền Tây là một cách nhà thơ giã từ khung trời quá vãng, chia tay những năm ảo mộng, tìm cách làm khác mình theo cái khác trong cuộc xoay vần của thời đại: tìm ra sông lớn băng qua rạch gần/ chiếc xuồng trôi cùng nỗi tự do/ thênh thang vùng sông nước/ tôi vừa ra khỏi cuộc xoay vần/ tìm niềm cô đơn vui cùng lau lách/ tôi sống xa cách những ngày tháng vết hằn đau quá vãng/ thời tuổi trẻ sương mù/ cùng em bơi trong bể cạn/ tôi sống đùa vui sông nước miền Tây… (Sông nước miền Tây).

Trong hai tập Mấy khúc đoạn giang hồ (2016) và Bản tình ca của gió bụi nói trên, có nhiều bài thơ viết vào chiều cuối năm, ngày giáp Tết, đêm ba mươi với giọng điệu u hoài. Nhưng thỉnh thoảng vẫn bắt gặp những niềm vui nhẹ nhàng lan tỏa từ ngoại cảnh vào tâm cảnh của một người tha phương cam chịu tìm nơi nương náu giữa cõi đời phiền nhiễu: Xứ sở cuộc đời tôi/ Hoa tràm vàng nội cỏ/ Bông bàng phấn bụi bay/ Không có núi và đồi/ Không có rừng và biển/ Nhưng có em và con/ Có cha già em nhỏ/ Hương và mật ngàn năm/ Sớm và chiều lan tỏa/ Nhiều năm qua dịu dàng/ Thả cánh chim gió lộng/ Rộng đường bay tháng năm/ Nhiều năm qua như thế/ Cơn gió mát bên lòng. (Những ngày sống ở Bình Thành).

Có thể nói những ngày gian nan làm lưu dân bên bờ sông Vàm Cỏ đã thêm sức cho Từ Hoài Tấn trụ lại với cuộc đời và thêm sức cho thơ Từ Hoài Tấn đến với mọi người.

Sài Gòn gọi về

Thật ra, từ sâu kín, Từ Hoài Tấn vẫn mang hồn thơ thị dân. Khung cảnh thường gặp trong thơ ông là những chuyến xe, những quán cà phê, những cuộc tụ hội bạn bè phố xá. Thời chiến, bảy năm ông lui tới Sài Gòn: Nơi tôi sống, căn gác cao nhìn ra ngoại ô/ Những ánh đèn vàng của đêm hiu quạnh/ Ở bên kia ngôi nhà thờ/ Gác chuông không bao giờ rung tiếng/ Ngoài tiếng rít trên đường ray vào lúc hoàng hôn/ Chuyến xe lửa cuối cùng của một ngày đã hết. (Hẻm 332 Phú Nhuận).

Sau những năm trôi dạt miền Tây, ông tìm về thành phố này như chỗ an trú dài lâu. Sài Gòn có thể là chỗ nghỉ chân sau tháng ngày phiêu lãng, nhưng không hẳn là chỗ để người ta thảnh thơi, dù mỗi sáng vẫn ngồi nơi quán nhỏ góc phố đó, nhìn ra con kênh nước lững lờ trôi đó. Những suy nghĩ năm nào giờ trở lại, không phải để giết chết niềm hy vọng, mà để giúp bình tâm trước số phận: Cuộc sống chúng ta ví như ngôi nhà lớn/ Với nhiều cánh cửa/ Những khung cửa chật hẹp để chui vào/ Ta đã thu thân người bao nhiêu năm/ Vẫn lang thang ngoài hư vọng.// Thời gian không có lấy một giây/ Thấy đời sống có ý nghĩa/ Không có lấy một chỗ/ Để gối đầu tạm nghỉ/ Ta vẫn lang thang ngoài trái đất. (Khúc hoài đêm ba mươi tết).

Sài Gòn dù đổi mới bao nhiêu cũng chỉ nuôi dưỡng những niềm vui thoáng chốc mà không phục sinh được tình yêu và ước vọng tuổi trẻ: có một tấm lòng ước vọng trinh nguyên/ như tuổi xanh như chồi biếc/ tôi sẽ không dậy lớn với thời gian/ sẽ không thành lá xanh trên ngọn/ để cuối con đường vật vã biệt tăm (Sài Gòn, mùa xuân).

Thơ Từ Hoài Tấn viết ở Sài Gòn sau này có nhiều chất nghĩ hòa trong chất cảm. Nghĩ trong âm thầm đêm sâu. Nghĩ giữa sáng mai trên vỉa hè lát đá. Nghĩ trong cơn mưa chiều tháng sáu. Nghĩ khi đạp xe ra ngoại ô. Dưới áp lực của tuổi đời và thời cuộc, đến một lúc nào đó người ta chỉ biết nghĩ gì thay cho làm gì. Và cái nghĩ của nhà thơ là cái nghĩ trong ngày thường giữa một “khí hậu không bình thường”, đôi khi tự trào như một người “bám víu vào những giấc mơ cuối mùa huyễn hoặc”.

Nhưng lẽ nào đã vượt qua ngần ấy biến động của hoàn cảnh để có thể bình thản trước bước đi của thời gian, thơ đã không mang trong sâu thẳm một niềm can đảm?

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tạp chí Sông Hương 375/05-2020, phiên bản trực tuyến ngày 16.6.2020.

-----

(*) Từ Hoài Tấn sinh ở Huế, hiện sống tại thành phố Hồ Chí Minh, sáng tác từ 1964. Tác phẩm đã xuất bản: Hành tinh phiêu lạc (Nxb. Thuận Hóa, 2003); Đi, đứng và chạy… với thời gian (Nxb. Hội Nhà văn, 2012); Phục hưng tôi và em (Nxb. Hội Nhà văn, 2013); Đạp xe ra ngoại ô (Nxb. Hội Nhà văn, 2018); Thơ Từ Hoài Tấn (Nxb. Tổng Hợp Tp. HCM, 2020), v.v.

 

 

20200905 2

1. Có thể tìm hiểu những đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV qua một số phương diện tiêu biểu như ngôn ngữ, thế giới nghệ thuật hay hình tượng (con người, thiên nhiên, không/thời gian nghệ thuật), thể thơ, kết cấu, cách miêu tả thể hiện, giọng điệu… Đây là cách nghiên cứu “diện”.

Tuy nhiên, cũng có thể khảo sát “điểm”. Cụ thể là khảo sát một khía cạnh, một chi tiết nghệ thuật trong thơ Thiền Lý - Trần. Chẳng hạn như chúng ta có thể trình bày một số cảm nhận của mình về việc miêu tả sắc thân trong thơ Thiền giai đoạn trên. Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu một chi tiết nghệ thuật chọn lọc, có thể phát hiện ít nhiều về những quan niệm nghệ thuật về con người, về cách cảm nhận thế giới cũng như khuynh hướng nghệ thuật của thời đại Lý - Trần.

2. Thuộc phạm vi khảo sát của đề tài này không phải là toàn bộ thơ Thiền Lý - Trần nói chung mà chỉ là những bài thơ tiêu biểu trong tập Thơ Thiền Lý - Trần1. Cụ thể:

- Trước tiên là những bài thơ trực tiếp miêu tả sắc thân. Dấu hiệu dễ nhận ra là ở chúng có sự xuất hiện của từ thân trong bản phiên âm của bài thơ. Có điều, hàm nghĩa của từ này phải là chỉ sắc thân, ngoại hình chứ không phải là chỉ thân thế (Thân thế quang âm nhược phi tiễn - Thân thế và tháng năm tựa như mũi tên bay), chỉ sự thân thiết giữa các đối tượng (Dữ vật vô thân - Cùng vật không thân)…

- Hoặc là chỉ đề cập một vài bộ phận của thân thể như: đầu, tóc, chân, tay, mặt, mũi, ngực, bụng… Ví dụ: Cáo tật thị chúng (Mãn Giác), Thị chúng kệ (Giác Hải), Phàm thánh bất dị (Tuệ Trung Thượng Sĩ), Đăng Bảo Đài Sơn (Trần Nhân Tông), Địa lô tức sự (Huyền Quang), Giới am ngâm (Trần Minh Tông)…

- Hoặc là chỉ miêu tả những hiện tượng có liên quan đến sắc thân như sinh, lão, bệnh, tử. Chẳng hạn như: Thị đệ tử Bản Tịch (Thuần Chân), Sinh lão bệnh tử (Diệu Nhân), Sinh tử nhàn nhi dĩ (Tuệ Trung Thượng Sĩ)… Đôi khi lại khéo dùng cách nói ẩn dụ quen thuộc để kín đáo bàn luận về sắc thân như Thị tịch (Ngộ Ấn), Mộc trung hữu hỏa (Khuông Việt)…

3. Thử khảo sát, thống kê những bài thơ trực tiếp miêu tả sắc thân trong tuyển thơ đã đề cập, chúng tôi nhận thấy chúng đã hiện diện với một số lượng không nhỏ: 20/80 bài. Điều này chứng tỏ rằng vấn đề sắc thân cũng là một trong những ám ảnh thơ ca, trở thành một trong những vấn đề quan yếu của những nhà thơ Thiền tông Lý- Trần.

Có thể đi tìm một vài nguyên nhân của hiện tượng trên từ nguồn cội văn học dân gian và văn học trung đại Việt Nam.

Phật giáo Thiền tông dù đi trực tiếp từ Ấn Độ sang hoặc theo đường vòng từ Trung Hoa lại bao giờ cũng phải dung hợp với tư tưởng truyền thống Việt Nam - yêu nước và nhân đạo - để trở thành Phật giáo Thiền tông Việt Nam, một khuynh hướng Phật giáo giàu tính thực tiễn, đại chúng, kết hợp nhuần nhuyễn giữa Đạo và Đời, giàu bản sắc dân tộc Việt Nam.

Trong tư tưởng nhân đạo của văn học truyền thống, chữ thân cũng là một ám ảnh ghê gớm, một ý thức thường trực. Tục ngữ Việt Nam đề cao tư tưởng nhân ái giữa người với người thì “thương thân” vừa là xuất phát điểm vừa là cái đích để hướng tới (Thương người như thể thương thân). Các nhà nghiên cứu ca dao Việt Nam thường hay nhắc tới motif “Thân em như” trở đi trở lại trong nhiều bài ca dao trữ tình: “Thân em như tấm lụa đào”, “Thân em như lá đài bi”, “Thân em như hạt mưa sa”, “Thân em như chổi đầu hè”, v.v. Motif này góp phần khẳng định bi kịch số phận của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Đồng cảm với bi kịch số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã tiếp biến nhiều cách nói, cách cảm nghĩ, cách dùng từ ngữ của ca dao dân tộc. Do vậy, chữ thân có nhiều lí do để chiếm một số lượng đáng kể bên trong kiệt tác của nhà thơ thiên tài. Thống kê sơ bộ cũng có thể bắt gặp sự hiện diện của nó trong Đoạn trường tân thanh trên dưới 40 lần, đặc biệt là những thời điểm quan trọng trong cuộc đời Kiều, nhân vật trung tâm gánh chịu một chuỗi những bi kịch của “phận đàn bà” trong xã hội cũ:

- Thà rằng liều một thân con (Gia biến).

- Thân nghìn vàng để ô danh má hồng (Thất thân với Mã Giám Sinh).

- Thân lươn bao quản lấm đầu (Quyết định tiếp khách).

- Đục trong thân cũng là thân (Quan hệ với Thúc Sinh).

- Tấm thân rày đã nhẹ nhàng (Sống với Từ Hải).

- Tấm thân nào biết thiệt thòi là thương (Dằn vặt trước khi tự trầm).

- Thân tàn gạn đục khơi trong (Đoàn viên).

Mục đích của Thiền là “hiểu rõ thân tâm” (Liễu ngộ thân tâm - Nguyện Học), là tìm đến “Niết bàn tâm tịch tịch” (Mê ngộ bất dị - Tuệ Trung Thượng Sĩ). Song, muốn tâm ngộ trước hết phải nhận thức về sắc thân một cách rốt ráo. Nhìn chung, các nhà thơ Thiền Lý - Trần hay khẳng định, nhấn mạnh tính chất huyễn ảo, vô thường của thân:

- Thân như bóng chớp có rồi không (Thị đệ tử - Vạn Hạnh).

- Thân như tường vách đã đến lúc đổ nát (Tâm không - Viên Chiếu).

- Thân là hiện tượng sinh ra và mất đi (Thị đệ tử Bản Tịch - Thuần Chân).

- Vốn từ không tịch ảo thân sinh (Thị tịch - Bản Tịch). - Thân như băng gặp nắng trời (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông).

- Tấm thân nổi rồi lại chìm (Nhật mộ vô thường kệ - Trần Thái Tông).

- Không biết tấm thân là hư ảo (Bán dạ vô thường kệ - Trần Thái Tông).

- Thân như gương ảo, nghiệp như bóng (Vạn sự qui như - Tuệ Trung).

- Cái thân do huyễn ảo hóa thành rồi cũng phải diệt (Sinh tử nhàn nhi dĩ - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Thân từ vô tướng vốn là không (Phàm thánh bất dị - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Tại sao các nhà thơ thiền Lý - Trần lại cho rằng sắc thân là huyễn ảo, vô thường? Có lẽ phải đi tìm lí do từ trong cảm thức thế giới của văn học trung đại nói chung và quan điểm bản thể luận của Phật giáo Thiền tông nói riêng. Trong cảm nhận của con người trung đại thì thế giới với con người là một (thiên nhân hợp nhất). Đi vào lĩnh vực văn hóa, văn học, con người cảm thấy có mình trong tự nhiên bắt đầu từ thân thể. Đây là cơ sở cho luận điểm “thân thể vũ trụ” của M. Bakhtin, nhà nghiên cứu văn học Liên Xô (cũ) khi phân tích một số hình tượng trong nghệ thuật cổ đại, trung đại. Và ngược lại, họ, những con người trung đại, cũng tự nhận thấy trong bản thân có cả vũ trụ. Nói như thiền sư Tăng Triệu là “thiên địa dữ ngã đồng căn - Vạn vật dữ ngã nhất thể” (Trời đất với ta cùng một gốc - Muôn vật với ta cũng cùng một thể). Mới hiểu vì sao các nhà thơ Thiền Việt Nam thế kỉ XI - thế kỉ XIV đã cụ thể hóa luận điểm này bằng một loạt những so sánh giữa sắc thân với những hiện tượng tự nhiên: hoa sen, cành mai, mùa thu, hoa bướm, mây ngàn, nước suối, ánh trăng, cây cỏ, giọt sương… Thậm chí quan hệ giữa thiên nhiên và sắc thân giàu tính huyễn ảo đã hóa thành tứ thơ trong một bài thơ thiền cụ thể:

Thông reo trăng nước sáng

Không ảnh cũng không hình

Sắc thân cũng thế vậy

Hư không tìm tiếng vang

(Tầm hưởng - Minh Trí)

Sắc thân là hư ảo cũng như “bướm hoa đều huyễn ảo”. Cũng theo quan điểm Phật giáo thì toàn bộ thế giới sự vật, hiện tượng này - thế giới hình tướng - cũng là huyễn ảo. Bởi lẽ, Phật giáo quan niệm rằng cái sắc thân của mỗi người mở rộng ra là toàn bộ thế giới chỉ là “giả hợp”, “vốn từ chỗ trống không lặng lẽ mà sinh ra” (Thị tịch - Bản Tịch). Chúng sinh ra từ bốn yếu tố - “tứ đại” - (đất, nước, lửa, gió) tùy thuộc nghiệp duyên, theo luật nhân quả của nhà Phật. Do vậy, con người tu hành chớ nên “chấp” vào sắc thân mà nên biết “quên thân”, “buông bỏ hình hài” xem chuyện “sinh lão bệnh tử - Lẽ thường tự nhiên” (Sinh lão bệnh tử - Diệu Nhân). Một khi cái tâm đã “ngộ” về lẽ vô thường của sắc thân, giọng điệu thơ Thiền Lý - Trần, đặc biệt ở khá nhiều bài thơ dặn dò đệ tử trước khi viên tịch - sẽ mang cái vẻ ung dung, thanh thản hiếm có.

4. Cái nhìn ung dung, tự tại đối với sắc thân đồng thời cũng là cái nhìn biện chứng. Một mặt, các thiền sư thi sĩ Lý - Trần xem thân là sắc tướng, là “có”. Mặt khác, họ lại cho rằng thân là “tứ đại”, “vốn dĩ đều là không” (nguyên lai nhất thiết không - Sắc thân dữ diệu thể I, Đạo Huệ). Thân đi từ sinh đến diệt: “Thân như bóng chớp có rồi không” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh). Những bậc tu chứng một khi đã giác ngộ “thực tướng” (Niết bàn, Chân như) có thể vượt lên lẽ sinh diệt, chuyển sắc thân thành pháp thân. Bấy giờ con người sẽ là “một thân nhàn nhã dứt muôn duyên” (Thị tịch - Pháp Loa), “vươn mình một cái vượt ra khỏi lồng” (Thoát thế - Tuệ Trung) ung dung đi lại giữa “ba cõi mênh mông”. Trái lại, “bậc chân nhân chưa thành Phật cũng chỉ là một khối thịt đỏ hỏn” (Vô vị chân nhân xích nhục đoàn - Phổ thuyết sắc thân kệ, Trần Nhân Tông). Chưa có điều kiện để bàn đến cái nhìn duy tâm, trừu tượng về một thế giới khác trong những ý thơ trên ; ở đây, chúng ta chỉ lưu tâm tới cái nhìn bình đẳng, không phân biệt giữa phàm và thánh trong thơ Trần Nhân Tông (bài Phổ thuyết sắc thân kệ), thơ Tuệ Trung Thượng Sĩ (bài Phàm thánh bất dị), thơ Trần Minh Tông (bài Giới am ngâm) nói riêng, tiêu biểu cho thơ Thiền Lý - Trần nói chung. Điều này thật đáng quí. Nó khiến cho Phật giáo Thiền tông vừa giống vừa không giống với những tôn giáo khác. Giống ở ý nghĩa nhân bản khẳng định, đề cao con người. Khác ở tính chất vô thần vốn xa lạ với bản chất của tôn giáo nói chung. Phải chăng đây cũng chính là cơ sở cho thấy Thiền tông gần gũi với cách sống, lối sống hơn là một nguyên lí triết học?

Đi sâu hơn nữa vào mảng thơ Thiền miêu tả, đề cập đến một số bộ phận của thân thể trong thơ của những thiền sư Lý - Trần, chúng ta sẽ càng thú vị, ngạc nhiên hơn khi chứng kiến nhiều suy tư, cảm nhận rất người về cách sống, lối sống.

Trước tiên, các nhà thơ hay nói đến một lối sống phù hợp với những qui luật của tự nhiên mang ý vị Lão - Trang. Họ hay nhắc đến trong thơ của mình hình ảnh tuổi già, tóc trắng, điều mà người đời xưa cũng như nay thường luôn lo nghĩ: “Trên đầu già đến rồi” (Thị đệ tử - Vạn Hạnh); “Tóc xuân ngầm điểm trắng” (Sơ nhật vô thường kệ - Trần Thái Tông) ; “Biết dùng gái đầu bạc (Thị chúng kệ - Giác Hải)”. Song khác với thơ Nho ở cái giọng cảm khái, bùi ngùi khi miêu tả tuổi già, đầu bạc2, trong thơ Thiền Lý - Trần, hình ảnh đầu bạc biểu hiện lẽ biến dịch, tính chất vô thường của sắc thân. Người tu chứng ngộ tiếp nhận nó với giọng thơ ung dung, thanh thản của những con người lúc nào cũng có cái nhìn “lạc đạo tùy duyên”) luôn luôn gắn bó với hiện tại, trong cái đổi thay, sinh diệt vẫn đạt được cái không đổi thay, sinh diệt (Biết dùng gái đầu bạc). Hình ảnh “ông sư già bận bịu” trong bài thơ Địa lô tức sự của thiền sư thi sĩ Huyền Quang chẳng phải là cách sống “lạc đạo tùy duyên” tích cực, giàu giá trị nhân bản của các lão sư Lý - Trần hay sao?

Điểm đáng chú ý thứ hai là một số câu thơ miêu tả cử chỉ, tư thế của các thiền sư có liên quan đến sắc thân. Có những tư thế, cử chỉ rất “động”: “Tài trai lập chí xông trời thẳm” (Thị tịch - Quảng Nghiêm); “Xoay mình một ném vượt ra lồng” (Thoát thế - Tuệ Trung Thượng Sĩ); “Bước trên đầu Phật trèo lên đỉnh (Phật tâm ca - Tuệ Trung Thượng Sĩ)”. Xưa nay, các nhà nghiên cứu văn học như Lý Tử Tấn, Lê Quý Đôn, Đặng Thai Mai, Đinh Gia Khánh… cứ ngờ ngợ cho rằng đây là những câu thơ “phi Thiền” chủ yếu phản ánh bản lĩnh, khí phách của con người thời đại Lý - Trần. Thật ra, những con người ấy, nói như nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, “vẫn nằm trong giáo lí Thiền tông”. Chất Thiền ở đây vẫn là tinh thần phá chấp của Thiền tông đồng thời còn là những biểu hiện trạng thái chứng ngộ của các thiền sư bấy giờ. Thơ Thiền Lý - Trần là thế, rất Đạo mà vẫn rất Đời, quyện hòa giữa thiền vị và thi vị. Đặc biệt là những câu thơ miêu tả những cử chỉ, tư thế rất “tĩnh” của những thiền sư:

- Uổng miệng không nói (Sinh lão bệnh tử - Diệu Nhân).

- Giữa nhà không nói chỉ ngồi yên

Nhàn ngắm Côn Luân sợi khói lên (Ngẫu tác - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Đứng tựa lan can cầm ngang sáo ngọc

Trăng sáng rọi đầy cả ngực bụng (Đăng Bảo Đài sơn - Trần Nhân Tôn).

- Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng (Xuân vãn - Trần Nhân Tông).

- Khách ra về tăng không nói gì

Khắp mặt đất ngát mùi hương hoa thông (Đề Gia Lâm tự - Trần Quang Triều).

- Ngồi lặng đìu hiu mát cả giường (Tâm vương - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Những câu thơ trên, đặc biệt là những câu thơ đời Trần (của Tuệ Trung Thượng Sĩ, Trần Nhân Tôn, Trần Quang Triều, Huyền Quang) bộc lộ sự hòa điệu tự nhiên, trọn vẹn giữa con người và ngoại vật. Khó mà phân biệt đâu là mùi tục, đâu là vị thiền. Thiên nhiên vừa được chiêm ngưỡng qua cái nhìn ung dung, tự tại của thiền sư, vừa hiện lên một cách hồn nhiên, gợi cảm dưới đôi mắt của thi nhân. Chất triết lí (đạo học) và chất trữ tình (chất thơ) hòa quyện, gắn bó.

5. Cuối cùng, chúng tôi muốn bàn đến một hiện tượng thơ ca có liên quan đến sắc thân trong thơ Thiền Lý - Trần. Đó là cách dùng một loại ẩn dụ từ vựng nhằm chỉ cái tính nguyên thủy của vạn vật (bổn tánh), cái tâm bản thể chứa đựng trong mỗi sự vật:

- Muốn biết đâu là khuôn mặt thực (Tâm vương - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Khuôn trăng người mẹ ai hay biết (An định thời tiết - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Khúc kì diệu “bản lai” nên cất giọng hát (Thị chúng - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

- Một buổi sáng chợt phát hiện ra khuôn mặt người mẹ (Độc đại tuệ ngữ lục hữu cảm - Trần Thánh Tông).

- Nhận ra được bộ mặt thật vốn có (Tự thuật - Trần Thánh Tông).

Ở đây có hiện tượng dùng “thân” để chỉ “tâm”. Dùng một bộ phận tiêu biểu của “sắc thân” để chỉ “diệu thể”. Hiện tượng này, một mặt, bắt nguồn từ cái nhìn triết học “vạn vật nhất thể” trong tư tưởng trung đại, mặt khác, gần gũi hơn, nó đến từ cái nhìn biện chứng, không phân biệt của Thiền tông. Bởi, theo các thiền sư:

- Sắc thân và diệu thể

Chẳng hợp chẳng chia lìa (Sắc thân dữ diệu thể II - Đạo Huệ).

Để gây ấn tượng mạnh mẽ về sự thống nhất, hài hòa giữa “thân” và “tâm”, các thiền sư thi sĩ thường dùng một hình ảnh ẩn dụ mang tính ước lệ: hoa sen trong lò lửa:

- Trong lò một cành hoa (Sắc thân dữ diệu thể I - Đạo Huệ).

- Trong lò sen nở sắc thường tươi (Thị tịch - Ngộ Ấn).

- Một đóa sen trong lò lửa hồng (Phật tâm ca - Tuệ Trung Thượng Sĩ).

Đôi khi các nhà thơ Thiền Lý - Trần lại dùng một hình ảnh ẩn dụ khác:

- Cái thân vàng cao quí của Di Đà ở ngay trong lòng (Thị du Tây phương bối - Tuệ Trung Thượng Sĩ). Có lẽ các thiền sư muốn nhắc nhở chúng ta rằng Phật tính không ở đâu xa, Phật tính có sẵn trong tâm mỗi người?

Phật giáo nói chung, Thiền tông nói riêng vừa sâu sắc, vừa dung dị. Sâu sắc về triết học, dung dị về lối sống. Albert Einstein (1879-1955), một trong những bộ óc vĩ đại của loài người ở thế kỉ XX, rất có lí khi cho rằng trong tương lai của loài người Phật giáo sẽ trở thành người bạn đồng hành với khoa học, đồng hành cùng nhân loại trên bước đường mưu cầu bình yên, sự thanh thản thân tâm.

Phan Đình Dũng

Nguồn: Tạp chí Sông Hương SDB37/06-2020, phiên bản trực tuyến ngày 04.9.2020.

-----

Chú thích

1. Đoàn Thị Thu Vân - Thơ Thiền Lý - Trần, Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, 1998.

2. Cảm hoài của Đặng Dung; Tự thán I, II; U cư I, II; Mạn hứng I, II của Nguyễn Du.

TTO - Khán phòng của chương trình Cà phê thứ Bảy vào chiều 20-6 chật kín khiến người hâm mộ Truyện Kiều của Nguyễn Du phải đứng đầy bên ngoài hành lang để nghe buổi nói chuyện của thầy giáo Nhật Chiêu và TS Bùi Trân Phượng. 

Một góc khán phòng buổi trò chuyện về Kiều chật kín người nghe - Ảnh: L.ĐIỀN

Giá trị của Truyện Kiều kết tinh thành một phần của đời sống người dân Việt kể từ khi 3.254 câu lục bát được tác giả trình làng. 

Trong âm hưởng của dịp kỷ niệm 200 năm ngày thi hào Nguyễn Du tạ thế, một buổi trò chuyện về Kiều thu hút đông công chúng trẻ đến như vậy đã khiến cô Bùi Trân Phượng phải thốt lên: "Như vậy là tôi yên tâm, vì người đồng điệu yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều vẫn còn nhiều đến như vậy".

Ba cuộc rượu khác nhau của ba người phụ nữ

Nghệ thuật trước hết là phải đẹp. Và hai diễn giả trò chuyện về Kiều hôm nay đã chọn cách tiếp cận từ cái đẹp trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, được chính thi hào dùng chữ là "cái hồng nhan". 

Hai diễn giả tập trung vào ba trường hợp trong Truyện Kiều để nói về "cái hồng nhan", là Thúy Kiều, Thúy Vân và Hoạn Thư. 

Phát hiện mới của ông Nhật Chiêu là có một thứ gắn kết ba nhân vật này lại, không chỉ thế còn làm cho cả ba nhân vật bộc lộ mình ra, "phơi ruột phơi gan" để người đọc qua đó có thể hiểu được ba thân phận người phụ nữ, đó là rượu. 

"Cả ba nhân vật nữ trên đều bộc lộ chân tướng khi gặp rượu, cả tâm hồn, dục vọng. Suy nghĩ của họ cũng đều lộ ra khi ba người này uống rượu", ông Nhật Chiêu giới thiệu.

Và quả thật, Nguyễn Du đã chuẩn bị cho các trường hợp rượu của Thúy Kiều, Thúy Vân và Hoạn Thư đều khác nhau và đều thật độc đáo. 

Thúy Kiều uống rượu với Kim Trọng ở đầu Truyện Kiều được Nguyễn Du mô tả đầy hứng khởi ở hai chữ "tàng tàng" trong câu "Lòng xuân phơi phới chén xuân tàng tàng". 

Thúy Vân lộ tâm can khi cuối truyện trong khung cảnh đoàn viên, tác giả dùng lại hai chữ "tàng tàng" của bữa rượu Thúy Kiều mười lăm năm trước nhưng nay ở một không gian khác, một trường nghĩa khác: Thúy Vân muốn nhắc lại một nỗi éo le chẳng những của đời mình đã qua mà còn của cả hai chị em đang gặp phải trước một chàng Kim Trọng bây giờ. 

Và cũng vì rượu, thái độ Thúy Vân mới bộc lộ qua ngữ điệu của câu:

Cũng là phận cải duyên kim

Cũng là máu chảy ruột mềm chứ sao

Còn rượu của Hoạn Thư chính là bữa uống cùng Thúc Sinh có cả Thúy Kiều góp mặt trong thân phận người phục rượu. Nguyễn Du lại một lần nữa tài tình khi dùng chữ "Vợ chồng chén tạc chén thù", cuộc rượu vợ chồng Thúc - Hoan sao nghe xã giao quá, cái tình chồng vợ kiểu này tự nó cũng nói lên phần nào diễn biến có tính nhân quả của mối (ngoại) tình Thúc Sinh - Thúy Kiều.

Tính cách của người phụ nữ Việt trong cốt cách Thúy Kiều

TS Bùi Trân Phượng lại tâm đắc ở tính cách của người phụ nữ Việt trong cốt cách Thúy Kiều. 

Mặc dù không gian truyện là đời sống phong kiến, nhưng Thúy Kiều hoàn toàn không có ý thức rằng mình là phận liễu bồ cần núp bóng tùng quân. Trong khi nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân lấy lý do rằng Kiều là phận gái vốn xem là ngoại tộc, mai sau không gả chỗ này cũng sẽ về chỗ khác thôi, thì Nguyễn Du đã cho Thúy Kiều phát biểu một câu chí tình: 

Thà rằng liều một thân con

Hoa dù rã cánh lá còn xanh cây

Thái độ hi sinh cho gia đình, chủ động bán mình cứu cha là sự đánh đổi vì chữ hiếu, vì thương cha và hiểu được vị trí của người cha cần thiết như thế nào cho mái ấm cả nhà lúc bấy giờ. 

"Đây cũng chính là quan niệm "ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng" trong gia đình người Việt: người chị cả thường nhận phần hi sinh, chịu thiệt cho các thành viên khác" - cô Bùi Trân Phượng nêu ra.

20200622

TS Bùi Trân Phượng (trái) chia sẻ những tâm đắc về Truyện Kiều - Ảnh: L. ĐIỀN

"Hơn nữa, trong Truyện Kiều, Thúy Kiều có ba mối tình và đều là ba mối tình đẹp, không hề có mô thức chân dài - đại gia như thường thấy, mà cả ba mối tình đều xuất phát từ sự kính phục của người đàn ông, kính phục tài, sắc, cách cư xử của Kiều mà đến với nàng. Đây chính là mẫu hình truyền thống của phụ nữ Việt" - TS Bùi Trân Phượng chia sẻ.

Cũng theo bà Phượng, chính đặc tính của phụ nữ Việt là gắn với lao động, không ăn bám, phụ nữ Việt không học theo cách bó chân như người Trung Quốc mà quan niệm "tay làm hàm nhai", như vậy thì từ nội tại đã có tinh thần tự do, dẫn đến việc xem chuyện quan hệ nam nữ là bình thường, là hạnh phúc, là nhân tính. 

Cái này nằm sâu trong tâm thức người dân Việt, đủ để lý giải hành động "xăm xăm băng lối vườn khuya một mình" của Thúy Kiều, hay nhiều hoàn cảnh yêu đương của những người phụ nữ trong Truyện Kiều tựu trung thành "cái hồng nhan" rất Việt Nam.

Đóng góp lớn của Truyện Kiều là ngôn ngữ

Bà Phượng chia sẻ khởi đi từ những ngày còn thơ với người thầy đầu tiên dạy Kiều cho mình chính là bà nội, Truyện Kiều đã khiến bà dần nhận ra đây là một kiệt tác "bởi nó cắt nghĩa cho thấy người Việt Nam là như thế nào".

Trong khi đó, ông Nhật Chiêu nhấn mạnh rằng đóng góp lớn của Truyện Kiều của Nguyễn Du là ngôn ngữ. 

"Tiếng Việt đến Nguyễn Du bỗng phi thường hẳn lên, có ai vào thời đó dùng chữ "nỗi nàng" như cụ Nguyễn, và có ai dùng được chữ "âu" tài tình như trong câu Càng âu duyên mới càng dào tình xưa như Nguyễn Du khi viết về thái độ Kim Trọng khi ăn ở cùng Thúy Vân.

"Âu, vừa mang nghĩa âu yếm, vừa hàm nghĩa âu lo, vừa có nghĩa âu là, cũng như mấy chữ đầu tiên của Truyện Kiều "trăm năm" mang nghĩa tình duyên chứ đâu chỉ có nghĩa là đời người... Chính điều này khiến cho câu chữ của Nguyễn Du thường chuyển tải nhiều trường nghĩa.

"Đọc Nguyễn Du ráng mà lặn vào ngôn ngữ của ông. Nguyễn Du kéo - căng - đào - khơi tiếng Việt ra, đi vào sơn cùng thủy tận của cõi ngôn ngữ. Mạch ngầm trong ngôn ngữ Nguyễn Du, ngoài Nguyễn Du không có người thứ hai. - Nhà giáo Nhật Chiêu

Nâng mình lên để hiểu Nguyễn Du

Đóng góp thú vị của ông Nhật Chiêu trong lần trình bày về Kiều lần này là những phát hiện mới. Trước hết là mô thức phản hướng, trong trường hợp cái phòng của Thúy Vân vui duyên với Kim Trọng được gọi là phòng xuân - chữ xuân mang nghĩa tình ái, thì phòng của Thúy Kiều được gọi là phòng thu (Từ nay khép cửa phòng thu/ Không tu thì cũng như tu mới là), và phòng thu chính là phản hướng của phòng xuân.

Hoặc quan trọng hơn là phát hiện về dấu hiệu chơi chữ bằng cách nói lái trong Kiều. Ông Nhật Chiêu nêu trường hợp câu "Dải là hương lộn bình gương bóng lồng" với chữ "lộn" được dùng rất bất thường, bởi vị trí đó có thể chọn các chữ khác nhã hơn, hay hơn, như "hương đượm", "hương đậm", "hương thắm", "hương ngậm"... 

Vậy tại sao Nguyễn Du lại chọn chữ "lộn" để thành một cấu trúc "là hương lộn" rất độc đáo siêu phàm như vậy?

Những phát hiện mới thú vị về Truyện Kiều - Ảnh 4.

Buổi trò chuyện nhận được nhiều ý kiến từ các bạn trẻ tham dự - Ảnh: L. ĐIỀN

Thao tác ấy, ông Nhật Chiêu nhận xét rằng: "Tiếng Việt như bị Nguyễn Du kéo căng ra, bộc lộ hết chiều kích, và Nguyễn Du đã đi đến chỗ sơn cùng thủy tận của tiếng Việt. Đây cũng chính là lý do không có một bản dịch sang tiếng nước ngoài nào diễn đạt hết được ý nghĩa Truyện Kiều".

Và Nhật Chiêu hình dung: Nguyễn Du là như vậy, ông viết Truyện Kiều để người đời sau mãi bàn bạc hoài không dứt. 

"Và nếu cụ Nguyễn đã tinh tế đến như vậy thì người đọc như mình cũng phải ráng tinh tế lên một chút để hiểu Nguyễn Du chứ" - ông Nhật Chiêu chia sẻ.

Lam Điền

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 20.6.2020.

Phan Văn Trị (1830 - ?), quê quán ở thôn Hưng Thạnh, tổng Bảo Phước, huyện Bảo An, phủ Hoằng An, trấn Vĩnh Thanh (nay là xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm tỉnh Bến Tre) đỗ kỳ thi Hương tại Trường thi Gia Định năm Kỷ dậu (1849, Tự Đức thứ 2)  (Cao Xuân Dục, 1893). Thế nhưng không hiểu vì lý do gì, Phan Văn Trị lại không nhận chức quan nào ít ra từ khi thi đỗ cho đến khi quân Pháp chiếm đánh Gia Định. Do đó, các nhà nghiên cứu thường thiếu khuyết quãng đời này của Phan Văn Trị, hoặc dựa vào phỏng vấn dân gian, hoặc dựa vào một ít tư liệu thơ văn của Phan Văn Trị và của người khác để viết thêm nhằm hình dung sơ bộ về cuộc đời Phan Văn Trị.

20200916

Ảnh: Tư liệu liên quan đến Phan Văn Trị  trong Quốc triều hương khoa lục của Cao Xuân Dục, 1893.

Từ năm 1849 Phan Văn Trị đỗ cử nhân cho đến khi thực dân Pháp nổ súng gây hấn ở Đà Nẵng, trong khoảng 10 năm này, Phan Văn Trị đã ở đâu làm gì? Sáng tác của Phan Văn Trị như thế nào? Không thấy có một sử sách nào ghi chép về tiểu sử hành trạng của Phan Văn Trị, cho nên cuộc đời hành trạng của Phan Văn Trị còn cần được tiếp tục tìm hiểu và đưa ra những chứng cứ thuyết phục hơn.

Nhất Tâm trong khảo luận về Phan Văn Trị, cho rằng sau khi thi xong ông “chẳng ra làm quan, về ẩn dật, dạy học trò, khi cày cuốc, khi lại đi câu” và “cho đến năm Canh tuất 1910, Phan mất tại Phong Điền là nơi Phan đã ngồi dạy học, thọ 81 tuổi” (Nhất Tâm, 1956). Sau đó, các nhà nghiên cứu khác như Bảo Định Giang trong Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX cũng cho là như thế dù có vài chi tiết về số tuổi khác nhau do cách tính[1]. Từ năm 1974, Nguyễn Văn Hầu đã biên soạn xong công trình Văn học miền Nam lục tỉnh, nhưng cho đến năm 2012, công trình này mới được in ra mắt công chúng, trong đó có chương 26 viết về Phan Văn Trị, phần tiểu sử cũng theo thuyết của Nhất Tâm, phần thơ văn của Phan Văn Trị ông có tham khảo tập chép tay thơ văn Hán Nôm Sưu tập cổ thi văn của một người hiệu là Thất Hiền Cuồng Sĩ  (Nguyễn Văn Hầu, 2012)[2]. Nguyễn Q. Thắng trong sách Tiến trình văn nghệ miền Nam cho rằng, sau khi thực dân Pháp chiếm trọn miền Nam, Phan Văn Trị rời đất Gia Định, về quê rồi xuống “tỵ địa” ở Thất Sơn, An Giang, cuối cùng lại về ở tại Phong Điền, Cần Thơ mở trường dạy học và làm nghề đông y cho đến cuối đời và mất tại đấy (Nguyễn Q. Thắng, 1990)[3]. Sau đó sách Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm trên cơ sở tư liệu của Phan Thành Tài đã công bố cũng cho ra kết luận tương đối thống nhất (Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, 2001).

Những điều chúng ta biết về Phan Văn Trị hiện nay, thông qua các sách vở đương thời hầu như rất ít. Nguyễn Liên Phong (Nam Kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, in lần đầu 1909) cho biết về tình trạng “gàn” của Phan Văn Trị (Cử Trị ăn ở lạ lùng,/ Áo quần xịt xạt điên khùng quá tay,/ Gặp Tường thời Trị mắng ngay,/ Bởi vì tà tửu ít hay kiêng dè), hoặc từng hoạ thơ Tôn Thọ Tường (Hoạ thơ chống chỏi chê dè,/ Tai ngơ danh lợi chẳng nghe chẳng cầu…) và còn cho biết thông tin quan trọng: Phan Văn Trị và cả Tôn Thọ Tường lúc này đã mất (Đều là tương trợ thành danh,/ Đã lâu về cõi âm minh xa miền)  (Nguyễn Liên Phong, 2014)[4]. Lại có người cho rằng Tôn Thọ Tường từng làm thơ khóc Phan Văn Trị với bài “Bái công khóc Hạng Võ” nghĩa là Phan Văn Trị phải mất trước Tôn Thọ Tường, nhưng cũng lại là một tư liệu chưa đáng tin cậy, có thể là thơ khóc Trương Định hơn là Phan Văn Trị. Do đó, việc xác định năm mất của Phan Văn Trị là vấn đề cần tiếp tục làm rõ.

Một hiện trạng cần chú ý khi nghiên cứu văn học Hán Nôm Nam Bộ là tính lưu truyền trong dân gian, văn bản được sao chép không ghi tên tác giả, khiến cho việc xác định các tác phẩm của các tác giả đôi lúc trở nên khó khăn bất khả. Nếu cứ theo các ý kiến của các nhà nghiên cứu về cuộc đời Phan Văn Trị trước đây, khả năng cho thấy thơ của Phan Văn Trị vẫn chưa được sưu tầm hết, chưa minh định xong các tác phẩm tạm cho là của Phan Văn Trị. Như vậy, vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu là tiếp tục tìm kiếm nguồn tư liệu về hành trạng tiểu sử Phan Văn Trị cũng như minh định thêm các tư liệu thơ văn của ông.

Từ trước đến nay, các nhà nghiên cứu đều xem Quốc âm thi hiệp tuyển (Lê Quang Chiểu, 1903)[5] là tư liệu khả tín, vì bởi hai lý do, một là tập tuyển thơ quốc âm đầu tiên xuất bản ở Nam kỳ, hai là có quan hệ gia đình với vợ của Phan Văn Trị. Lê Quang Chiểu là anh em cô cậu với bà Đinh Thị Thanh, bà Thanh là vợ của Phan Văn Trị  (Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, 2001)[6]. Nếu cho rằng tập này là khả tín, thì vì sao có những bài thơ về sau cho là của Phan Văn Trị, mà lúc bấy giờ ông Lê Quang Chiểu lại không biết? Cần nhớ rằng, nếu Phan Văn Trị mất năm 1910, tập sách của Lê Quang Chiểu xuất bản năm 1903, bản thảo hẳn nhiên phải định hình trước thời gian xuất bản, tại sao ông Chiểu lại không minh định tác phẩm khi ông có quan hệ gần gũi với Phan Văn Trị? Vấn đề đặt ra là, hoặc Phan Văn Trị mất trước khi tập sách ra đời; hoặc có thể Phan Văn Trị tuổi cao khó nhớ được chính xác; hoặc công tác sưu tầm văn bản Nôm chưa được ông Chiểu thực hiện kỹ càng; hoặc vấn đề tác phẩm văn học Nôm ở miền Nam lưu truyền theo hình thức truyền miệng dân gian. Các khả năng ấy đều có thể xảy ra. Chính vì thế qua nhiều lần sưu tầm, giám định, các nhà nghiên cứu văn học miền Nam đã đưa thêm và thừa nhận một số bài thơ trong tập thơ quốc âm của Lê Quang Chiểu là của Phan Văn Trị (như Đông Hồ Lâm Tấn Phác, Nhất Tâm, Bảo Định Giang, Nguyễn Văn Hầu…). Thế nhưng trong công trình Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm của Nguyễn Khắc Thuần và Nguyễn Quảng Tuân đã đưa các bài thơ vịnh vật vào phần tồn nghi.

Ngoài những bài của Phan Văn Trị được minh định sẵn trong sách Quốc âm thi hiệp tuyển của Lê Quang Chiểu ra, thì trên Nam Phong tạp chí, Lâm Tấn Phác có sao lục các bài thơ của Phan Văn Trị như công bố 10 bài hoạ vần thơ tự thuật Tôn Thọ Tường của Phan Văn Trị (tập XIII, số 78-1923, tr.517-518), các bài Chùa hư, An Giang phong cảnh, Vĩnh Long hoài cổ, Hột lúa, Thợ may, Ông câu (hai bài) (tập XV, số 88-1924, tr.352-353). Văn bản 10 bài thơ cảm hoài của Phan Văn Trị, lần đầu tiên được Lâm Tấn Phác công bố trên Nam Phong tạp chí ở mục Văn uyển, Thơ cũ Nam kỳ (tập XVIII, số 105-1926, tr.394-395). Nhưng bấy giờ Lâm Tấn Phác chỉ cho là của Phan Văn Trị làm, không ghi đề bài là gì. Dưới chân trang 394 có ghi chú là của Phan Văn Trị làm lúc nước Pháp mới sang chiếm đóng mảnh đất Nam kỳ.

Có lẽ từ đó Nhất Tâm (Phan Văn Trị cuộc đời và thơ văn, 1956), Thuần Phong (Phan Văn Trị thi tập, 1959), Bảo Định Giang, Ca Văn Thỉnh (Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX, 1962, 1976), Lãng Nhân (Giai thoại làng Nho, 1972), Nguyễn Văn Hầu (Văn học miền Nam lục tỉnh, 1974 – 2012),… thừa nhận và tuyển vào trong các công trình của họ. Nhưng từ Nhất Tâm 10 bài thơ thủ vĩ liên hoàn của Phan Văn Trị có tên là “Cảm hoài”. Các công trình về sau đều gọi theo như thế.

Phan Văn Trị xuất thân từ nho học, thi đỗ cử nhân tại Trường thi Gia Định, nhưng cho đến nay điều lạ là chưa tìm thấy bài thơ nào của Phan Văn Trị viết bằng chữ Hán, hầu như được viết bằng quốc ngữ (Nôm). Điều ấy lý giải ra sao? Trong khoảng gần 10 năm sau khi thi đỗ (1849), khi thực dân Pháp chưa nổ súng gây hấn và đánh chiếm Gia Định, thời gian ấy nếu Phan Văn Trị được cha mình đưa đến ra mắt Phan Thanh Giản tại sao không phải là thơ chữ Hán mà là thơ chữ Nôm? Tại sao phải là thơ Con mèo, thơ Hột lúa ngụ ý châm chọc? Cần nhớ khoảng thời gian này, Phan Thanh Giản ở kinh và sau đó làm Tổng đốc Bình – Phú, đến năm 1851, Phan Thanh Giản mới chuyển làm Phó sứ Kinh lược Nam kỳ, Tuần phủ Gia Định, kiêm coi các đạo Biên Hoà và Long Tường, An Hà đến năm 1852 trở về kinh. Thời gian đó, Phan Thanh Giản vẫn là một trọng thần trong triều, tại sao Phan Văn Trị lại đưa thơ có ý châm biếm? Còn nếu Phan Văn Trị gặp Phan Thanh Giản trước thời gian thi thì cũng thật khó có khả năng xảy ra. Cho nên các dật sự ấy cũng khó có thể tin được. Mà cái quan trọng nhất là tiểu sử hành trạng của Phan Văn Trị cho đến nay vẫn còn mù mờ về dòng họ và lai lịch. Cho nên việc tìm hiểu thơ của Phan Văn Trị có nhiều điểm chưa thể làm sáng tỏ.

Đọc lại thơ của Phan Văn Trị trong tình hình tư liệu tạm chấp nhận hiện nay, người viết cảm giác có hai bộ phận thơ trong một tác giả. Bộ phận thơ vịnh vật với một giọng điệu khác hẳn với bộ phận thơ 10 bài hoạ thơ Tôn Thọ Tường và 10 bài thơ cảm hoài của ông. Điều đó cho phép suy luận khả năng có một phần sáng tác lâu nay được cho là thơ của Phan Văn Trị hay không phải của ông cũng cần tiếp tục thẩm định.

Phan Văn Trị là nhà nho trước một thời cuộc mới. Vì thế trong người Phan Văn Trị tồn tại tư tưởng, hành động của một nhà nho bên cạnh cái phi nho. Nếu thừa nhận một bộ phận thơ vịnh vật là sáng tác của Phan Văn Trị thì bộ phận thơ này thể hiện tính phi nho rất rõ bên cạnh những bài thơ cảm hoài mang tính nho của ông. Vì thế nhiều bài viết trước đây cũng đưa ra vấn đề “nho” và “phi nho” trong con người Phan Văn Trị (Đoàn Lê Giang), vấn đề Phan Văn Trị “ở ẩn” hay “dấn thân” (Lê Thu Hà) trong hội thảo về Nhà thơ yêu nước Phan Văn Trị (1830 - 1910) tổ chức tại Hậu Giang năm 1985 (in năm 1990) đã làm rõ vấn đề ấy. Trên cơ sở văn bản còn nhiều nghi vấn như hiện này, người viết đã chú ý đến việc đọc lại và lý giải tư tưởng nho trong chùm thơ cảm hoài của Phan Văn Trị (trên cơ sở tiếp cận thông diễn học và quy chiếu tư tưởng nho học).

Về 10 bài Cảm hoài của Phan Văn Trị, có thể được sáng tác vào khoảng thời gian đầu khi thực dân Pháp xâm lược (1859 - 1862), vì thế nó thể hiện một niềm nuối tiếc và hy vọng về một tương lai mới xoay chuyển tình thế của đất nước. Tác giả dùng thể thơ Nôm thất ngôn bát cú thủ vĩ liên hoàn kể về nội dung lẫn hình thức đều cho người đọc hình dung về một mối lo nghĩ cho thời cuộc, khát vọng xây dựng lại cảnh tượng đất nước thanh bình của một nho gia.

Cái tâm sự của tác giả cảm hoài thể hiện trong toàn 10 bài, có thể quy nạp mấy ý sau:

- Nuối tiếc về cảnh thanh bình của đất nước, cảm nỗi đất nước bị xâm lăng, chờ mong thay đổi vận mới:

Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình,

Trời đất gây nên cuộc chiến tranh.

Xe ngựa nhộn nhàng xe ngựa khách,

Nước non vun quén nước non mình.

(Cảm hoài, 1)[7]

Nhìn Nam chạnh tủi nhành hoa ủ,

Ngó Bắc ngùi thương khóm bạch vân.

(Cảm hoài, 2)

Nỡ nghe tiếng loạn đem tai rửa?

Đành thấy thằng gian để mắt trừng!

(Cảm hoài, 4)

Thế sự băng xăng cờ túng nước,

Nhân tình tráo chác gió rung cây.

(Cảm hoài, 5)

Kìa nước nọ non cờ thế cuộc,

Đầy vơi tròn khuyết có sai rầy.

(Cảm hoài, 6)

Tạo hoá một bầu xoay khí vận,

Đông qua xuân lại trở màu tươi.

(Cảm hoài, 8)

Tiêu trưởng cơ trời dễ dám khinh.

(Cảm hoài, 10)

- Trước cảnh mất nước, hy vọng những trang anh tài giúp vua giúp nước thống nhất sơn hà để lưu tiếng muôn đời:

Những trang dụng thế đành ngơ mặt?

Mấy kẻ trung quân nỡ phụ tình?

Bao thuở đem về cơ nhất thống,

Ngàn thu bia tạc đấng trung trinh.

(Cảm hoài, 1)

Mấy mặt anh hùng sao nép dấu?

Vạc nghiêng há dám một tay nâng?

(Cảm hoài, 2)

Trăm năm bởi gặp khi nguy biến,

Bốn biển chưa gây cuộc diễm tình.

Nhà nước một mai xoay vận thới,

Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình.

(Cảm hoài, 10)

- Tâm sự thân phận cá nhân, gìn lòng ngay thẳng để chờ thời cơ giúp nước:

Trung trinh dốc trọn đạo vi thần,

Nạn khổ xưa nay biết mấy lần…

Cái nợ tang bồng than thở phận,

Đành đem dập giã giữa phong trần.

(Cảm hoài, 2)

Phong trần lắm lúc luống sầu riêng,

Biết mượn tay ai gỡ mối phiền.

Áo mũ ba đời ơn rất trọng,

Binh qua một cuộc nghĩa chưa tuyền.

… Phấp phới bụi hồng đà trải dấu,

Tấm trinh chìu uốn thú hàn huyên.

(Cảm hoài, 3)

Hàn huyên nghĩ phận luống bâng khuâng,

Tình cảnh xem qua lệ ngập ngừng.

Roi vọt dứt dòng chưa phải vận,

Dây oan rối mối hãy lo chừng…

(Cảm hoài, 4)

Như vầy trung nghĩa bấy lâu nay,

Dầu những người xưa cũng sánh tày.

Trướng vải lai rai cơn gió thổi,

Cảnh thu hiu hắt hột mưa bay….

(Cảm hoài, 6)

Sai rầy cũng bởi cuộc phân băng,

Huỷ dự nhân vì lúc ái tăng.

Gió bụi trăm chiều quen mặt cũ,

Đá bia một tiết giữ lòng hằng.

Hòn Nghê gọi chút tình mây nước,

Bến Nghé buồn riêng phận cỏ săng.

Cung kiếm cầm thi cam hổ phận,

Sao cho tỏ rạng bậc tài năng?

(Cảm hoài, 7)

Tài năng chi đó khéo trêu ngươi,

Cái phận nam nhi luống nực cười.

Ngược đậu xuôi đi hiềm thế nước,

Sâu dầm cạn vén thuận tình đời.

Quan san dặm thẳng đường liền bước,

Tùng cúc vườn xưa cảnh nhớ người…

(Cảm hoài, 8)

Màu tươi sắc tốt dám se sua,

Giàu cũng chẳng khoe khó chẳng dua.

Mấy kỷ tuyết sương bền chí trẻ,

Chín từng mưa móc gội ơn vua.

Thuỷ lưu xa ruổi ngoài ngàn dặm,

Tòng bá cao xây giữa bốn mùa.

Lời sáng nết cao tuỳ thuở biến,

Mặc người lưỡi múa lại môi khua.

(Cảm hoài, 9)

Môi khua khéo học dạng cầu vinh,

Tiêu trưởng cơ trời dễ dám khinh.

Ấn hổ xa ban miền Bắc khuyết,

Cờ chiên an dẹp mé Nam minh.

Trăm năm bởi gặp khi nguy biến,

Bốn biển chưa gây cuộc diễm tình.

Nhà nước một mai xoay vận thới,

Cõi Nam chung hưởng hội thăng bình.

(Cảm hoài, 10)

Nếu xét trong toàn bộ sáng tác của Phan Văn Trị, rõ ràng thấy 10 bài Cảm hoài này vẫn còn hoài vọng tin tưởng về khả năng cứu nước của quan quân triều đình, nhân dân hay cả khả năng góp sức của cá nhân. Tâm sự này là tâm sự của một nhà nho yêu nước trong buổi đầu giặc Pháp xâm lược. Nó giống với tâm sự của Nguyễn Đình Chiểu “Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió đông,/ Chúa xuân đâu hỡi có hay không” hay “Hỡi trang dẹp loạn rày đâu vắng,/ Nỡ để dân đen mắc nạn này?”. Nỗi niềm này cũng khá phù hợp với chí khí quyết tâm giữ đạo luân thường, phê phán đả kích sự xu thời, đánh mất phẩm chất quân tử của Tôn Thọ Tường trong 10 bài thơ hoạ thơ Tôn của Phan Văn Trị.

Xét về tư tưởng nho học, từ nội dung của 10 bài Cảm hoài, cốt cách nho gia của Phan Văn Trị thể hiện ở chỗ: hoài vọng đất nước thanh bình, tư tưởng chờ đợi thời cơ “kiến cơ” (thấy máy), đợi vận thái “bĩ cực thái lai”, đầy vơi tròn khuyết “doanh hư tiêu trưởng”, là giữ đạo luân thường “đá bia một tiết giữ lòng hằng”, trau dồi đức sáng “lời sáng nết cao”, “tùng bá cao xây”,“giàu cũng chẳng khoe khó chẳng dua” (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất), gắng sức mình “dốc trọn trung trinh”, sẵn sàng dấn thân để báo đáp nước nhà ơn vua,… Hàng loạt các từ ngữ có tính tượng trưng cho việc thể hiện phẩm đức quân tử nhà nho được sử dụng trong thơ cho thấy tính nho rất rõ.

Trên cơ sở thông diễn học, nếu đọc kỹ từng câu chữ trong các bài Cảm hoài và thơ hoạ của Phan Văn Trị, ta thấy có mấy điểm cũng cần trao đổi, tìm hiểu thêm. Cảm hoài chính là bộc lộ những tâm trạng, nỗi lòng của tác giả trước thế sự, thời cuộc, tình hình đất nước. Việc giải mã các câu thơ ý thơ trong từng bài thơ đôi lúc có thể đi tới chỗ cực đoan, áp đặt và sai lệch. Tuy nhiên, nếu không lý giải nó sẽ khó để hiểu cho kỹ càng tư tưởng trong thơ. 10 bài thơ cảm hoài này, bởi các bản có chép khác nhau, nên sẽ được lý giải khác nhau dù chỉ sai khác vài chữ. Đọc kỹ từng bài để thấy tâm sự của nhà nho bộc lộ rất rõ, và bên cạnh đó, có thể có những lý giải hơi khác với các bản lý giải, chú giải trước đây.   

Bài Cảm hoài 1, sự cảm khái trước tình hình đất nước bị chiếm đóng, mong ước được thống nhất như xưa. Có thể diễn nghĩa ra là: “Cõi trời Nam đang yên bình, trời đất gây ra cuộc chiến tranh, xe giặc đi lại rộn ràng, dù thế mình vẫn phải lo vun bồi cho đất nước, những người hữu dụng trong đời sao đành làm ngơ, kẻ trung với vua đâu nỡ phụ tình cảm vua, biết bao giờ mới khiến cho nước nhà thống nhất để ngàn thu còn lưu tên người trung trinh”. Cho thấy lòng quan tâm và trách nhiệm của tác giả đối với đất nước, triều đình. Ông không hề có kiểu oán giận triều đình như giai thoại về ông với Phan Thanh Giản. Bốn câu thơ sau có thể hiểu theo hai nghĩa vừa chê trách (nếu để dấu !, nếu để dấu ? thì sẽ khác) vừa mong đợi.

Bài Cảm hoài 2, cảm thân phận mình lưu lạc ngay trong nước bị giặc chiếm đóng. Có thể diễn ra: “Đạo làm bầy tôi con dân phải dốc trọn hết lòng trung trinh, dầu xưa nay đã trải qua nhiều khổ nạn, ở trong nước đành phải phò vua trong nước (dù là vua kém, lợn Hán), oán giặc nên ra sức đuổi giặc (hươu Tần, giặc Tây), nhìn cảnh phương Nam tiêu điều vì vong quốc (hoa ủ), phía Bắc ngậm ngùi thương nhớ quê hương (bạch vân), than thở cho cái phận làm trai phải ra sức (dập dã) giữa cõi trần bụi bặm”. Bài này có thể nào là của một người ở quê phía bắc không? Hay bạch vân mây trắng kia chỉ là tượng trưng cho một đất nước thống nhất?

Bài Cảm hoài 3, trước cảnh gió bụi phải chịu theo thời. Tạm diễn nghĩa ra là: “Trong cơn gió bụi chiến tranh lòng ta có khi sầu buồn nhưng không biết làm sao, ba đời chịu ơn vua rất sâu nặng, một trận binh đao khởi nghĩa vẫn chưa thành, tạo hoá trêu người bày nhiều chuyện khó biết trước, anh hùng thiếu niên cũng còn nhiều thử thách, đường đời bụi bặm ta từng trải qua, tấm lòng trinh phải chịu uốn mình trong tình đời ấm lạnh”. Câu 3, 4 có người cho là nói chuyện cha con Phan Thanh Giản (như Bảo Định Giang). Hoặc có thể đây cũng là một bài thơ của người đã từng làm quan chăng? Câu ba đời chịu ơn vua sâu nặng cũng có người cho là ba đời Phan Văn Trị.

Bài Cảm hoài 4, trong cảnh ấm lạnh của tình đời vẫn quyết giữ mình, “độc thiện kỳ thân”. Tạm diễn nghĩa như sau: “Trong cảnh ấm lạnh cuộc đời bâng khuâng nghĩ về phận mình, nhìn thấy tình hình mà lệ tuôn, chưa phải lúc dứt hết cảnh roi vọt (chiến chinh?/hình phạt), hãy coi chừng thêm rối mối oan, đâu nỡ nghe tiếng loạn tà phải lánh đi rửa tai (bất hợp tác giặc/ở ẩn), luôn để mắt trừng mấy kẻ gian, sao chưa thấy anh hùng ra mặt, thế nước ngả nghiêng ta đâu dám một mình đỡ nâng!”. Có thể nào là tâm sự của một người từng bị án phạt và chịu nỗi oan khuất mà vẫn gìn lòng giúp nước chăng?

Bài Cảm hoài 5, cảm trách thế nước nghiêng ngả, một mình khó chống chọi. Có thể diễn nghĩa: “Một mình há dám đỡ được thế nước ngả nghiêng, kẻ bàn ngược kẻ bàn xuôi (kẻ bắc người nam) làm rối loạn lòng ta, chuyện đời (việc nước) rối ren như cờ bí nước, tình người thay đổi tựa gió lay cây, bởi mưu kế cứu nước kém nên phải hoà, chuyện cắt đất nên cứng rắn (kiên/ kiêng = không nên) để tỏ sức trí mạnh mẽ (chỗ này có người hiểu theo nghĩa chê trách, mỉa mai), thử hỏi những người trên cõi Việt có ai có tấm lòng sắt đá mà làm như thế không?”.

 Bài Cảm hoài 6, cảm người trung nghĩa gặp cơn nguy biến. Có thể diễn nghĩa như sau: “Người trung nghĩa đời này bấy lâu nay cũng sánh ngang với những người trung nghĩa xưa, nơi màn trướng (nhung trướng) chịu cảnh gió mưa hiu hắt (trong cảnh cô đơn), như thuyền nhỏ đi trên sông sâu sóng cả, như cọp xuống đồng bằng bị lũ chó vây hãm, nước non bị hãm như bàn cờ thế, quy luật tròn khuyết đầy vơi có sai đâu”.

Bài Cảm hoài 7, cảm cuộc đời vẫn hứa giữ vẹn đạo thường, đợi ra sức cho nước nhà. Có thể diễn nghĩa như sau: “Dẫu có sai cũng bởi thế cuộc chia lìa (nước mất nhà tan/phân băng), khen hay chê cũng là do lúc yêu hay ghét, ta đã quen với việc phong trần gió bụi trăm chiều, lòng vẫn nêu cao giữ vững một tiết đạo thường (ngũ luân, ngũ thường/vô hằng sản hữu hằng tâm), nơi hòn Nghê còn chút tình mây nước (ẩn), ở chốn Bến Nghé thêm buồn phận cỏ cây (bị giặc chiếm?), cam hổ thẹn phận nam nhi được dùi mài văn võ, mà chẳng biết làm gì để thêm tỏ rạng tài năng với nước nhà?”. Tâm sự này dường như của một người có tài văn võ nhưng trước thời cuộc xoay chuyển khó thi thố.

Bài Cảm hoài 8, tự trào về tài năng của mình, muốn được trở về quê ẩn dật, mong thời thế xoay đổi. Có thể diễn nghĩa ra sau đây: “Tài năng có là chi, trời thật trêu người, lại cười cho cái phận nam nhi, cứ theo thế nước nếu ngược thì đậu thuyền, xuôi dòng thì đi, sâu thì dầm, cạn thì vén cho thuận tình đời (tuỳ thời xử thế/ có người cho rằng có ý phê trách những kẻ tráo trở xu thời), cảnh cũ non sông còn chút tình hoài vọng (bản Bảo Định Giang)/dặm đường quan san ta cứ dong ruổi luôn (Đông Hồ, Nhất Tâm, Nguyễn Văn Hầu, Nguyễn Khắc Thuần - Nguyễn Quảng Tuân), mảnh vườn xưa nơi quê nhà chắc đã nhớ ta, nếu trời xoay lại khí vận mới, như đông tàn xuân đến muôn hoa tươi sắc”. Có thể nào là thơ của một người đã làm quan muốn trở về quê cũ sau các nguy biến chăng?

Bài Cảm hoài 9, cảm vọng được đội ơn vua trở lại, mặc ai khen chê. Tạm diễn nghĩa ra sau: “Nếu được tươi màu trở lại cũng đâu dám khoe khoang, bởi tính giàu cũng không khoe, nghèo cũng chẳng dua nịnh (phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di), mấy mươi năm dầu dãi tuyết sương thêm bền chí trẻ, được gội ơn mưa móc của vua nơi ngôi cao, ta vẫn như dòng nước trôi xa ngàn dặm (nguyên thêm lưu viễn), như cây tùng bách vẫn vươn xanh bốn mùa (quân tử tùng, kiên tâm bền chí), lời cốt sáng nết cốt phải cao theo thời mà biến (ngôn hạnh), mặc cho ai múa mỏ khua môi cầu vinh (siểm nịnh, xảo biện)”. Có thể nào là thơ của một nhà nho đã từng chịu ơn mưa móc của vua chăng?

Bài Cảm hoài 10, hy vọng về một tương lai đất nước thanh bình, góp sức cứu nước. Tạm diễn nghĩa như sau: “Kẻ khéo khua môi để cầu vinh thân, hãy nên sợ cơ trời doanh hư tiêu trưởng, khi ấn hổ (tướng ấn) đã ban nơi cửa khuyết (xa ban)/khi đeo ấn tướng băng nơi miền bắc (xa băng), lúc cầm cờ tướng đi dẹp yên cõi nam, trăm năm khi gặp cơn biến loạn, tiếc là bốn bể chưa tạo được sóng lớn, nếu nước nhà một mai xoay lại vận thái, toàn cõi Nam lại chung hưởng thái bình”.

10 bài cảm hoài thể hiện một nỗi lòng dường như của một nhà nho, một bầy tôi giữ trọng trách, bị bức bách trong thời cuộc đổi thay, có những khát vọng cứu nước, lại có ước mong lui ẩn, có hoài cảm nuối tiếc về tài năng, phê trách những kẻ xu thời cầu vinh… Một tâm trạng khá phức tạp nhưng lại khá thống nhất trong tư tưởng của nhà nho.

Dưới một hướng khác, về văn bản văn tự, 10 bài thơ cảm hoài này được viết bằng chữ Nôm miền Nam, nhưng việc chép trước hay sau hay cùng thời sáng tác lại là vấn đề cần bàn. Bởi tình hình văn bản sáng tác văn thơ ở Nam Bộ trước sau khoảng thời kháng Pháp và thuộc Pháp khá phức tạp, chủ yếu bằng con đường truyền miệng, các tập thơ văn sao chép có khi không ghi tên tác giả, tên người chép… khiến cho việc lý giải đích xác vài từ ngữ có phần khó khăn. Ví như:

“Roi vọt dứt dòng chưa phải vận,/ Gây oan rối mối hãy lo chừng.” (Lâm Tấn Phác, tr.395)

“Roi vọt dứt lòng chưa phải vận,/ Dây oan rối mối hãy lo chừng.” (Nhất Tâm, tr.40)

“Roi vọt dứt dòng chưa phải vận,/ Dây oan rối mối hãy lo chừng.” (Bảo Định Giang, tr.155)

Hoặc:

“Giao hoà bởi Tống mưu mô cạn,/ Cắt đất nên Kim trí lực dày” (Lâm Tấn Phác trên Nam Phong, 105-1926, tr.395)

“Giao hoà bởi sóng mưu mô cạn,/ Cắt đất nên kiên trí lực dày” (Nhất Tâm, 1959, tr.41)

“Giao hoà bởi sóng mưu mô cạn,/ Cắt đất nên kiêm chí lực dày” (Bảo Định Giang, 1976, tr.156)

“Giao hoà bởi sợ mưu mô cạn,/ Cắt đứt nên kiên trí lực dày” (Nguyễn Khắc Thuần-Nguyễn Quảng Tuân, 2001, tr.119)

Đó cũng là lý do các bản chú thơ hiện nay vẫn để trống nhiều câu chưa lý giải được. Tình hình văn bản nêu trên đã cho thấy tính phức tạp của việc lý giải xác định để mang lại văn bản tốt nhất và đặt đúng vào cho chủ nhân của nó, vì thế công tác chú giải, thuyên thích, khảo hiệu cần tiếp tục để ngày càng khẳng định tác phẩm của Phan Văn Trị.

Bản thân người viết cũng từng đã sưu tầm được một quyển thơ Nôm chép tay các bài thơ tiền bối, trong đó cũng không thấy đề tên tác giả. Khảo sát trong đó có chép những bài mà ta cho là của Phan Văn Trị, Huỳnh Mẫn Đạt, Bùi Hữu Nghĩa,… và nhiều bài thơ Nôm khác chưa biết ai là chủ nhân của nó.

Từ nội dung thơ Cảm hoài, người đọc cảm thấy nếu đây là thơ của Phan Văn Trị thì tính chiến đấu của nó chưa thể hiện cao độ như ở 10 bài hoạ thơ Tôn Thọ Tường hay ở các bài thơ vịnh vật của ông. Vì vậy, Đông Hồ Lâm Tấn Phác cho rằng 10 bài thơ này làm lúc Pháp mới chiếm Nam Bộ, tức là Phan Văn Trị lúc bấy giờ chưa hẳn bất mãn triều đình, ngả hẳn về phía nhân dân. Lại có người cho rằng nó được làm vào khoảng những năm 1885 bởi nó thể hiện niềm tin xoay chuyển sơn hà như Bảo Định Giang đã nghĩ. Dù là thời gian nào, tính nho trong Phan Văn Trị vẫn còn đậm hơn tính phi nho, giả sử không như thế, Phan Văn Trị sao có thể ẩn dật dạy học kiểu của một nhà nho “tiến vi quan thoái vi sư” hay như kiểu lời của Khổng Tử: “bang hữu đạo tắc trí, bang vô đạo tắc ngu” như Nịnh Võ Tử (Luận ngữ, Công Dã Tràng), “bang hữu đạo tắc sĩ, bang vô đạo tắc khả quyển nhi hoài chi” kiểu Cừ Bá Ngọc (Luận ngữ, Vệ Linh Công), “nguy bang bất nhập, loạn bang bất cư, thiên hạ hữu đạo tắc hiện, vô đạo tắc ẩn. Bang hữu đạo, bần thả tiện yên, sĩ dã; bang vô đạo phú thả quý yên, sỉ dã” (Luận ngữ, Thái Bá).

Dầu sao, 10 bài thơ Cảm hoài đã thể hiện tinh thần khá mạnh mẽ, dứt khoát, không yếu đuối trước nạn ngoại xâm và tình thế đất nước bị chia cắt như kiểu Tự Đức: “Thương xích ngô dân bất hạnh nhi,/ Tinh chiên dị loại nhiễu biên thuỳ./ Phong đình chỉ kiến cầu hoà sách,/ Du tái vô văn báo tiệp kỳ./ Võ tướng tiêu sầu duy hữu tửu,/ Văn quan thoái lỗ khước vô thi./ Thiên tâm như dục khai bình trị,/ Thuỳ thị Hương hài Giáp Mã nhi.”[8] (Đau đớn dân ta bất hạnh này,/ Hôi tanh khác giống quấy biên tây./ Triều đình chỉ kế cầu hoà hiến,/ Biên ải không tin thắng trận về./ Tướng võ giải buồn trong cuộc rượu,/ Quan văn chống giặc chẳng thơ hay./ Lòng trời dẫu muốn cho bình trị,/ Ai kẻ anh tài trong buổi nay?) (trích Hiếu cổ đường thi tập - Lê Quang Trường dịch).

Không những thế Tự Đức còn có phần cam chịu “Hoà hiếu vu kim sự dĩ thành,/ Ngã cam nam đệ nhượng tây huynh… Cử quốc tận tri cân quắc nhục,/ Tại quan do luyến tử chu vinh./ Tống Cao bất giải mê Tần Cối,/ Không sử sơn hà xã tắc khinh.” (Hoà hiếu từ nay việc đã yên,/ Cam làm em nhỏ lũ Tây phiên… Nỗi nhục đàn bà, ai cũng biết,/ Quan tham đai mũ, vẫn còn chen./ Tống triều che mắt - mưu Tần Cối,/ Luống khiến sơn hà xã tắc nghiêng) và đổ lỗi cho thuộc cấp cả triều chẳng kể một ai sau khi ký hoà ước năm Nhâm tuất 1862, kéo dài đến năm Giáp tuất 1874 và Giáp thân 1884: “Nội ngoại quan liêu náo cẩm bào,/ Bất tằng trợ trẫm nhất ti hào./ Sổ hoàng bôi tửu quần lê huyết,/ Bán trản thanh trà vạn tính cao… Như kim thuỳ vị thương sinh mục,/ Đố quốc thương dân tại nhĩ tào.” (Áo gấm xon xen khanh tướng đầy,/ Chưa từng giúp trẫm chút mưu hay./ Máu pha chén rượu muôn dân đó,/ Mỡ váng bình trà trăm họ đây… Từ nay ai kẻ chăn dân trẫm?/ Hại nước hại người tại lũ bây) (Hiếu cổ đường thi tập - Lê Quang Trường dịch). Tự Đức đã không nhìn thấy hay cố tình không nhìn thấy những tác phẩm văn chương giai đoạn này tại Nam Bộ đã trở thành nguồn năng lượng tác động rất lớn đến sức mạnh chiến đấu trên cả hai địa vực chiến trận và tư tưởng. Điều mà Miên Thẩm nhìn thấy ở Nguyễn Đình Chiểu: “Điếu văn đọc lại áng biên cương,/ Ngỡ gió vi vu tiếng chiến trường./ Quốc ngữ văn ngang lời tín sử,/ Quỷ hùng phách sánh điệu từ chương./ Tầm vông áo vải danh còn mãi,/ Binh bại thân vong chuyện đã thường./ Canh cánh nghĩ thương lòng kẻ sĩ,/ Chỉ còn ngọn bút báo ơn suông.” (Độc Nguyễn Đình Chiểu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn, nguyên tác Hán văn, Cao Tự Thanh dịch) hay như Miên Ký, hoàng tử thứ 75 của vua Minh Mệnh cảm nhận: Lần đọc bài văn quốc ngữ đây,/ Cn Vương chống giặc, nghĩ thương tài./ Dng c khởi nghĩa muôn người đến,/ Pháo n phi thuyn vạn dặm mây./ Chiến địa oan hồn vang tiếng khóc,/ Sa trường chinh chiến luống còn ai?/ Áng văn điếu c vô cùng hận,/ Gió thổi điệu buồn thảm thiết thay!” (Độc Điếu nghĩa dân trận tử văn, nguyên tác Hán văn trong Hiếu Cổ đường thi tập. Lê Quang Trường, Tường Vi, Thanh Phương dịch).

Phan Văn Trị đã chọn con đường ấy, trên những gì tư liệu hiện còn, cho thấy ông đã vận dụng các tư tưởng nho học để ứng xử trước một thời cuộc mới với nhiều biến cố. “Bất tại kỳ vị, bất mưu kỳ chính” cho nên Phan Văn Trị đã không trở thành chiến sĩ trên mặt trận thực địa đánh giặc trực tiếp, mà trở thành một nhà thơ nhà giáo dùng ngòi bút của mình để cứu đời như Nguyễn Đình Chiểu. Tiếc là, tiểu sử hành trạng của Phan Văn Trị còn vài điểm chưa được sáng tỏ, nên việc vận dụng thông diễn học, thuyên thích học chú giải thơ của ông chưa thể hữu hiệu nhất, cần tiếp tục nghiên cứu. Nhưng không thể phủ nhận những bài cảm hoài ấy là tiếng nói tâm sự, những phê trách khá mạnh mẽ, một quyết tâm giữ vững chính khí trước thời cuộc thay đổi điên đảo của một nhà nho quân tử hết lòng vì đất nước. Vì thế nó xứng đáng được tồn tại trong bộ phận thơ ca yêu nước Nam Bộ nói riêng và trong dòng chảy của cả nước nói chung.

PGS. TS. Lê Quang Trường*

Nguồn trích từ: Danh nhân Phan Văn Trị, một thế kỷ nhìn lại, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, 2020, tr.100-116.


* Khoa Văn học, Trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG-HCM. 

 

Tài liệu tham khảo

Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân. (2001). Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ.

Thất Hiền Cuồng Sĩ. (n.d.). Sưu tập cổ thi văn.

Lê Quang Chiểu. (1903). Quốc âm thi hiệp tuyển. Sài Gòn: Claude & Cie.

Bảo Định Giang. (1976). Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn học giải phóng.

Nguyễn Q. Thắng. (1990). Tiến trình văn nghệ miền Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Tổng hợp An Giang.

Nguyễn Văn Hầu. (2012). Văn học miền Nam lục tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ.

Nguyễn Liên Phong. (2014). Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca. (T. N. Cao Tự Thanh, Ed.) Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Văn hoá - Văn nghệ.

Cao Xuân Dục. (1893). Quốc triều hương khoa lục. Đại Nam: Quốc sử quán triều Nguyễn.

Nhất Tâm. (1956). Phan Văn Trị (1830-1910), Phụ: Học Lạc - Nhiêu Tâm. Sài Gòn: Tân Việt.

Miên Ký. (n.d.). Hiếu Cổ đường thi tập. Hồ Chí Minh: Phòng Nghiên cứu Hán Nôm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

 


[1] Bảo Định Giang, Thơ văn yêu nước Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. Thành phố Hồ Chí Minh: Văn học giải phóng, 1976, tr.116-120, 116-160

[2] Nguyễn Văn Hầu, Văn học miền Nam lục tỉnh. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb. Trẻ, 2012, tr.178-217.

[3] Nguyễn Q. Thắng, Tiến trình văn nghệ miền Nam. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Tổng hợp An Giang, 1990, tr.96-100.

[4] Nguyễn Liên Phong, Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca, Cao Tự Thanh – Trương Ngọc Tường chỉnh lý, chú thích và giới thiệu. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Văn hoá – Văn nghệ, 2014, tr.171-172.

[5] Lê Quang Chiểu, Quốc âm thi hiệp tuyển. Sài Gòn: Claude & Cie, 1903, 98 trang.

[6] Tư liệu của Phan Thành Tài, dẫn lại từ Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, 2001, tr.61-64.

[7] Các trích dẫn thơ dưới đây được lấy theo Nguyễn Khắc Thuần, Nguyễn Quảng Tuân, Phan Văn Trị, cuộc đời và tác phẩm, Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Trẻ, 2001, tr.114-125.

[8] Hương hài Giáp Mã nhi: đứa trẻ thơm ở doanh Giáp Mã, chỉ Triệu Khuông Dận, thời Tống. Do lúc Triệu Khuông Dận sinh ra, hoa mẫu đơn trong nhà nở rộ, ngát hương nên lấy tên Đứa bé thơm (Hương hài) đặt cho. Khuông Dận thuở nhỏ không thích sách vở chỉ thích luyện tập võ nghệ, sau làm nên nghiệp lớn, dựng triều Tống.

Dịch giả, nhà thơ Nhật Chiêu bình "Truyện Kiều" - tác phẩm của đại thi hào Nguyễn Du - tại buổi nói chuyện chủ đề "Kiều và cái hồng nhan".

Chương trình nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất của đại thi hào (1820-2020), diễn ra vào 14h ngày 20/6 tại Cà phê thứ bảy, TP HCM, có sự tham gia của Tiến sĩ Bùi Trân Phượng. Về cách gọi "cái hồng nhan", Nhật Chiêu lấy ý tưởng từ câu Kiều: "Còn chi là cái hồng nhan, Đã xong thân thế còn toan nỗi nào?".

Nhà thơ cho biết: "Không bao giờ nói hết được ý nghĩa và vẻ đẹp của Truyện Kiều. Điều ta có thể nhận thấy ngay trong kiệt tác của Nguyễn Du là cái đau đớn đọa đày ở đàn bà qua hình tượng nàng Kiều. Kiều là hình bóng đau khổ của người nữ, cái khổ mà Nguyễn Du gọi là 'cái hồng nhan' ".

20200619

Nhà nghiên cứu Phan Nhật Chiêu là một trong những chuyên gia về "Truyện Kiều". Ảnh: Facebook.

Nhật Chiêu là một trong những chuyên gia về Truyện Kiều. Không chỉ tham gia giảng dạy ở các đại học về tác phẩm này và về đại thi hào Nguyễn Du, ông còn có nhiều bài phân tích, nghiên cứu về giá trị Truyện Kiều qua thời gian như: Nói lái trong Truyện Kiều, Triết lý Tarot và Truyện Kiều: Từ ngây thơ đến thế giới... Ông cũng sáng tác nhiều thi phẩm lấy cảm hứng từ tác phẩm của Nguyễn Du, được bạn đọc yêu thích, như: Trong cõi tình không, Tố Như là áng thơ bay... với lời thơ như:

"Về đây ta khóc với lòng
sông Lam khói tỏa núi Hồng mù mây
với người ta khóc hôm nay
chẳng mong ai khóc một ngày mai sau
hai trăm năm đã thế nào
những điều trông thấy mà đau hơn Kiều
tiếng đàn ai đã phiêu diêu
tiếng thơ ta vẫn còn chiêu liêu buồn
lòng người ra một cỗi nguồn
về đây mà vượt nhiễu nhương đời này
Tố Như là áng thơ bay
cõi người ta hát cho ngày phục sinh"

(Tố Như là áng thơ bay

Dịp kỷ niệm 200 năm ngày mất Nguyễn Du, trong nước diễn ra một số chương trình, sự kiện như: khởi quay phim tài liệu Đại thi hào Nguyễn Du kinh phí 15 tỷ đồng, vở ballet truyện Kiều lần đầu được dựng của Nhà hát Giao hưởng Nhạc vũ kịch TP HCM (HBSO) - diễn tối 20/6 tại Nhà hát TP HCM, 14/8 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. 

Nguyễn Du, hiệu Tố Như (1765-1820) quê xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Ông sống vào cuối nhà Lê đầu nhà Nguyễn, là nhà thơ lớn được người Việt kính trọng gọi là "Đại thi hào dân tộc". Ông có ba tập tác phẩm tiếng Hán là Thanh Hiên thi tậpNam Trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Về văn thơ Nôm, Nguyễn Du sử dụng tài tình hai thể thơ dân tộc là lục bát và song thất lục bát. Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) là tác phẩm truyện Nôm nổi tiếng nhất của ông. 

Ở Việt Nam, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Chu Văn An và Chủ tịch Hồ Chí Minh được UNESCO vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.

Thoại Hà

Nguồn: VnExpress, ngày 19.06.2020.

Nhà văn, NSƯT Văn Lê vừa đột ngột qua đời tại nhà riêng vào tối 6-9 sau cơn đau tim, hưởng thọ 72 tuổi.

Văn Lê là nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, đạo diễn, tên thật là Lê Chí Thuỵ, sinh ngày 2-3-1949, quê ở Gia Thanh, Gia Viễn, Ninh Bình.

Ông nhập ngũ 1966, vào chiến trường B2 năm 1967, về tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng năm 1974. Sau 1975, ông công tác ở tuần báo Văn Nghệ Giải Phóng rồi tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam.

Năm 1977, ông tái ngũ chiến đấu ở Mặt trận 479 - Campuchia, đến năm 1982 về công tác tại Hãng phim Giải Phóng và nghỉ hưu vào năm 2010.

Văn Lê thể hiện tài năng đa dạng ở nhiều lĩnh vực: xuất thân nhà thơ nhưng sau đó ông chuyển sang viết văn, viết kịch bản và đạo diễn phim, mỗi lĩnh vực đều có thành tựu. Ông đã xuất bản 3 tập thơ, 2 trường ca, 5 tập truyện, 15 tiểu thuyết và được phong Nghệ sĩ ưu tú của ngành điện ảnh.

Ông là tác giả kịch bản phim truyện Long Thành cầm giả ca - giải nhất về kịch bản của Cục Điện ảnh. Bộ phim được nhận giải Cánh Diều Vàng của Hội Điện ảnh năm 2012.

Nhà văn Phan Hoàng - một đồng nghiệp có giao tình nhiều năm với Văn Lê lúc sinh thời, ghi nhận ở nhà văn tuổi 70 này sức làm việc bền bỉ. "Từ mấy năm trước ông đã từng bị đột quỵ nhưng vượt qua được, từ đó ông càng làm việc hăng say hơn, mà hai tiểu thuyết mới nhất là Cống nhân và Phượng hoàng thật đáng để ngưỡng mộ" - ông Phan Hoàng nhắc lại.

Tác phẩm Phượng hoàng của Văn Lê vừa được trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật TP.HCM lần 2 (5 năm một lần) hồi năm 2019 vừa qua. Đây là tác phẩm về đề tài chiến tranh, được Văn Lê ấp ủ nhiều năm hậu chiến mới chấp bút.

"Và tác phẩm Cống nhân lại là một mảng đề tài độc đáo khác của Văn Lê - đề tài cống danh y người Việt sang Trung Quốc trong thời phong kiến. Ở đề tài này, cho thấy tầm kiến văn quảng bác và sức làm việc, hệ thống tư liệu, xử lý kiến thức để hình thành tác phẩm nơi Văn Lê thật đáng khâm phục" - nhà văn Phan Hoàng chia sẻ.

Hiện linh cữu nhà thơ Văn Lê được đặt tại nhà riêng (28 đường Văn Chung, phường 13, quận Tân Bình, TP.HCM). Lễ động quan lúc 7h ngày 9-9. Sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng tại Bình Hưng Hòa.

Nhà văn Văn Lê từng nhận các giải thưởng:

– Giải A cuộc thi thơ của tuần báo Văn Nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam (1975-1976).

– Giải B thơ tạp chí Văn Nghệ Quân Đội năm 1984.

– Giải A thơ về đề tài Chiến tranh Cách mạng, Hội Nhà văn Việt Nam 1994, với tập thơ Phải lòng.

– Tặng thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1994, với tiểu thuyết Nếu anh còn được sống.

– Tập trường ca Những cánh đồng dưới lửa nhận Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1999; Giải thưởng Văn học quốc tế Me Kong 2006.

– Tiểu thuyết Mùa hè giá buốt, giải B (Không có giải A) về Văn học chiến tranh, Bộ Quốc phòng (2004 – 2009). Giải nhất Giải thưởng văn học nghệ thuật TP. HCM 5 năm lần thứ I (2006-2011).

– Tiểu thuyết Phượng hoàng nhận giải A về văn học chiến tranh của Bộ Quốc phòng 5 năm (2009-2014) và Giải nhì Giải thưởng Văn học nghệ thuật TP. HCM 5 năm lần thứ II (2012-2017).

Đồng thời, trong lĩnh vực điện ảnh, Văn Lê đã nhận các giải thưởng: 3 lần đạt giải thưởng kịch bản phim Tài liệu xuất sắc nhất, 1 giải thưởng Đạo diễn xuất sắc nhất, 1 giải Bông Sen Vàng, 5 Bông Sen Bạc, 2 Cánh Diều Vàng, 1 giải Galaxy của truyền hình Nhật Bản và nhiều giải thưởng cao về phim tài liệu của Hội Điện ảnh Việt Nam.

Một số tác phẩm đã xuất bản của Văn Lê:

– Một miền đất, những con người (tập thơ, 1976)

– Những ngày không yên tĩnh (truyện, ký 1978)

– Chuyện một người du kích (truyện, 1980)

– Bão đen (truyện, 1980)

– Đồng chí Đại tá của tôi (truyện, 1981)

– Người gặp trên tàu (tiểu thuyết, 1982)

– Khoảng thời gian tôi biết (tập thơ, 1983)

– Ngôi chùa ở Pratthana (tiểu thuyết, 1985)

– Khoảng rừng có những ngôi sao (tiểu thuyết, 1985)

– Hai người còn lại trong rừng (tiểu thuyết, 1989)

– Tình yêu cả cuộc đời (tiểu thuyết, 1989)

– Khi tòa chưa tuyên án (tiểu thuyết, 1989)

– Tiếng rơi của hạt sương khuya (tiểu thuyết, 1993)

– Phải lòng (tập thơ, 1994)

– Nếu anh còn được sống (tiểu thuyết, in lần 1 năm 1994, lần 2: 2002; xuất bản tại Hàn Quốc năm 2003)

– Chim Hồng nhạn bay về (tập truyện ngắn, 1996)

– Những cánh đồng dưới lửa (trường ca, 1997)

– Đồng dao thời chiến tranh (tiểu thuyết, 1999)

– Cao hơn bầu trời (tiểu thuyết, 2004)

– Những câu chuyện làng quê (văn, 2005)

– Câu chuyện của người lính binh nhì (trường ca, 2006)

– Mùa hè giá buốt (tiểu thuyết, in lần 1: 2009, lần 2: 2012)

– Mỹ nhân (tiểu thuyết, 2013)

– Vé trở về (tập thơ, 2013)

– Thần thuyết của Người Chim (tiểu thuyết, 2014)

– Phượng hoàng (tiểu thuyết, 2014)

– Cống nhân (tiểu thuyết, 2020)

...

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-nghe-si-van-le-gia-biet-van-dan-20200907113436383.htm

 

20200615

Trước Tết Canh Tý 2020 vừa rồi độ mươi, mười lăm ngày, Ông Thiệp nhắn xuống nhà chơi ở dưới Khương Hạ. Nhân thể vẽ tặng tôi bức chân dung ông có ý định làm từ lâu mà còn dang dở. Chưa thực hiện xong được. Cách đây mấy năm Thiệp đã đưa tôi sang Bát Tràng để vẽ thẳng lên đĩa mộc. Loay hoay cả một buổi chiều không thành. Vía tôi nặng quá. Ông đành phải thôi.

Chuyện hẹn vẽ lên đĩa chờ mãi đến Tết 2020 mà không thấy ông ấy gọi về dưới Khương. Sau Tết thì rộ lên Covid 19 tấn công loài người. Giãn cách xã hội. Người ta không thể đến được với nhau. Độ giữa tháng 5 mới hay nhà văn Nguyễn Huy Thiệp lâm nạn.

Ngày 26 tháng 5 năm 2020, Tôi về Khương Hạ thăm nhà văn. Ở trước cửa hiên nhà, gần pho tượng Phật mà nhiều lần đến đây tôi cứ nghĩ đó là hình bóng Con gái Thủy Thần với những đường nét trên khuôn mặt rõ ràng, đôi mày thanh tú, quả cảm. Người đã ám ảnh Thiệp cả một đời văn. Có một cái gì đấy kéo sững chân tôi đứng lại – Một ông già may ô quần đùi ngồi trên ghế nhựa; đầu tròn lưa thưa tóc ngắn. Từ trán lên đỉnh đầu khoảng bằng bàn tay lộ ra mảng màu xam xám nổi lên dăm bảy đốm lang đỏ mờ vuông vuông nhỏ như mặt quân súc sắc. Miệng hơi chéo thành một đường dưới đôi mắt chừng như mệt mỏi. Gò má bên trái thâm tím vì vừa bị ngã đêm qua. Tay và chân trái bị liệt đang được dần hồi phục. Thiệp đây rồi. Tôi nghẹn lại vì thương ông bạn già. Thiệp nói nhỏ với tôi: Nguyễn Huy Thiệp … xong rồi. Thì ra Thiệp bị tai biến mạch máu não từ ngày 4/3. Gia đình đưa ông vào bệnh viện Bạch Mai. Chỉ đến 10/3 Bạch Mai lại bị phong tỏa vì ổ dịch Covid 19. Thiệp phải chuyển sang bệnh viện y học dân tộc phố Lương Thế Vinh. Bây giờ thì nằm nhà. Chữa bệnh ngoại trú. Nắng nôi thế này mà Thiệp lại tập đi từng bước nặng nề hơn đứa trẻ, phải có người dìu. Trong Dăng lưới bắt chim Thiệp viết: Con đường của nhà văn thật là dài…  bây giờ nó dài hơn thực sự. Điều kỳ lạ Thiệp còn trí nhớ tuyệt vời, tuy ngắt quãng nhưng nói liên tục, cùng với cái dái tai thế kia, cái mũi ống bương thế kia không phải là hạng tầm thường. Thiệp gọi Bách, con trai đầu lòng lấy cuốn sách ở đầu giường ra. Đó là 1 quyển chuyên luận của Đại học Huế viết về Thiệp vừa gửi tặng ông. Hỏi mượn tôi cây bút viết, tay phải nhà văn run run… được mấy chữ ngắt quãng, hết cả trang bìa lót nguyên văn như sau: Thân quý… tặng lại… ông Nga. Đang ốm… đang tập đi. Nhưng ngay 26/5/2010. Ông đã tự ý lùi thời gian lại 10 năm.

Nghiệp chướng văn chương như vận vào cuộc đời của Thiệp. Xuất hiện đầu tiên vào hồi cuối những năm 1980, bằng chùm truyện ngắn dưới tên gọi chung: Những ngọn gió Hua Tát. Đó là phần thưởng của núi rừng Tây Bắc ban tặng sau 10 năm làm giáo học cho cán bộ vùng cao ở Hát Lót – Cò Nòi. Nơi có lần Thiệp bị một cô gái Thái lừa giữ hộ ngựa ở chợ Mường La. Ngay từ lúc ấy, văn chương Thiệp đã cất lên tiếng kêu ai oán và cay đắng của thân phận con người, cảnh báo những hiểm họa không lường được của thế giới nhân sinh. Trong bản nhỏ Hua Tát. Đó là chàng Khó quyết chí giết con hổ dữ để lấy Trái tim hổ chữa cho đôi chân bị liệt của cô Púa xinh đẹp. Khó thì tử nạn, còn Trái tim hổ thì có kẻ lấy cắp mất rồi. Đó là Con thú lớn nhất đời thợ săn lại không phải là thú mà là người vợ già của kẻ đi săn do bị chính người đó bắn nhầm… Đó là chàng Lủ bỏ bản Hua Tát đi tìm chìm nổi vận may trong cuộc đỏ đen. Kiếm được một tay nải đồng bạc hoa xòe. Khi về đến bản, chỉ thấy vôi bột trắng xóa rải khắp nơi, trên những khau cút nhà sàn đầy những quạ đen béo núc. Lủ bới mộ để tìm vợ vì vẫn nghe tiếng rên rỉ ở dưới đất vọng lên. Lủ kéo được vợ ra khỏi huyệt mộ thì cả hai vợ chồng đều tử nạn vì nạn dịch. Người ta lấp họ bằng vôi bột trắng và những đồng bạc trắng hoa xòe… Tôi kinh sợ với lối kể chuyện lãnh đạm của Thiệp ngay khi ông mới bước vào nghề văn. Ngày hôm nay khi đến thăm ông, tôi nhắc lại cái quan niệm sáng tác của Thiệp rằng văn học mà lẩn tránh nỗi đau của thân phận con người thì đâu phải là văn học nữa.  Trong lúc thăng hoa, ở tại thời điểm bệnh tình ác liệt như vậy, Thiệp vẫn còn tỉnh táo và rành rọt để biện minh. Thiệp nói: Phải từ nỗi đau để tìm được tiếng cười. Nguyễn Khải nghiêm chỉnh quá không cười được. Nguyễn Tuân cũng không cười. Chỉ Phụng, Vũ Trọng Phụng mới cười được mà thôi. Mới từ nỗi đau để tìm đến tiếng cười…

Nhưng Con gái Thủy Thần chỉ cho Thiệp xuất hiện như vậy. Dù có ý vị nhưng chưa gây được tiếng vang gì thực sự. Người có đôi lông mày thanh tú quả cảm đã cho Thiệp đợi đến Tướng về hưu, Vàng lửa, Phẩm tiết, Kiếm sắc, Mưa Nhã Nam, v.v.. thì tên tuổi Thiêp mới nổi như cồn. Thiệp đứng vào hàng ngũ của một trong những nhà văn có bản sắc nhờ sự đổi mới của đất nước. Con gái Thủy Thần đã mách Thiệp hãy cho các nhân vật anh hùng thử thách, đặt họ vào trong cuộc sống đời thường, buộc họ cư xử như những người bình thường và bao giờ Thiệp cũng như được sự dẫn dắt của người con gái có bộ mặt sắc nét kia tìm đến cái khía cạnh bi kịch và đau đớn cuả những thân phận người thường, bắt họ phải hành xác, vật vã. Thiếu tướng Thuấn. Quang Trung Nguyễn Huệ. Nguyễn Ánh. Quan Đề Thám đều được Nguyễn Huy Thiệp xử lý bằng bút pháp nghệ thuật mà có người cho là đạp đổ thần tượng. Nhất là ở thể loại truyện ngắn, Thiệp rất sành sỏi lối dẫn những câu chuyện động trời, động đất mà cứ dửng dưng như không, lại thường pha chút huyễn hoặc với lối diễn tả và từ ngữ của người phương Bắc, tạo ra cái chất cổ cổ, kim kim. Giọng văn của hắn ta lạ; lắm khi như người La Hủ thổi khèn lá. Xen vào đó lại thường dùng biện pháp đùa nhả trong văn chương khiến không ít người bực bội như Quang Trung đương đêm xõa tóc, đi chân đất, vừa đi vừa vấp chạy đến nhà Vinh Hoa hay Nguyễn Ánh khi nhìn thấy Vinh Hoa đẹp quá thì bỗng nhiên xây xẩm mặt mày, ngã quay ra đất, ngất lịm đi. Còn Quan Đề Thám, sau khi trả cô Xoan yêu dấu về với nhà chồng, vừa phi ngựa vừa khóc vì bi kịch của bổn phận làm người. Thiệp không có ác ý như vậy. Ông chỉ giành lấy cái quyền của nhà văn được thử thách những nhân vật của mình để từ đó làm sáng lên những giá trị nhân bản của con người. Dù có khác biệt và vĩ đại đến đâu, họ vẫn là con người theo nghĩa viết hoa của từ đấy. Chỉ có một lần Thiệp thành công mỹ mãn trong trường hợp Tướng về hưu. Cả thế kỷ 20 người Việt Nam đi qua 4 cuộc chiến tranh lớn đầy bi tráng. Văn chương của thế kỷ ấy đã giành nhiều trang viết cho các vị tướng anh hùng. Trên mình ngựa chiến. Trên bãi chiến trường. Đến lượt Thiệp, nhà văn cho ông tướng ấy về hưu và sống một cuộc đời thường. Vị tướng ấy đã không chịu nổi sự sa đọa về tinh thần của một thế hệ người đang sống quanh ông. Họ là người thân của ông. Thiệp đã cho ông trở lại chiến trường và hy sinh trên mình ngựa chiến. Có bao nhiêu thông điệp về bản chất con người muốn nói ở đây đây ?

Hôm nay, tôi ngờ rằng Con gái thủy thần hiện hình trong bức tượng đang ngồi ở sân nhà Thiệp  muốn dùng chính văn chương của ông như là một sự thử thách đối với một nhà văn đặc sắc không thể không nhắc đến trong thế kỷ 20, phải đối mặt với bi kịch loài người, làm một người thường trong nỗi khổ đau trần thế. Cao Bá Quát có lần nói văn thiêng là như thế hay chăng? Và tôi tin nhà văn của chúng ta sẽ vượt qua, bởi vì Con gái thủy thầnmẹ cả luôn ở bên cạnh cứu giúp ông ngay từ khi Thiệp còn là đứa trẻ đi đánh vật và bởi vì Thiệp đã sống đúng với những điều mình viết. Ngày hôm nay, bên bức tượng này, tôi đã thấy ở Thiệp toát lên một trí tuệ thật tuyệt vời tưởng như không bao giờ vơi cạn. Trên khuôn mặt mệt mỏi và hoang vắng của ông rạng lên những niềm tin không tả xiết về sự chiến thắng của con người với số phận. Trên vừng trán liền với mảng da đầu đây đó có hình vuông nhỏ mặt quân súc sắc kia thầm lặng một khát vọng sống, khát vọng viết trong sự truy hoan điên rồ của bi kịch lạc quan.

Sông Cà Lồ đoạn chảy qua Kim Anh bên quốc lộ số 2 buồn và đẹp. Thiệp đã đi qua đây. Nghe được bài hát đồng dao mà viết nên thiên truyện ngắn Chảy đi sông ơi ám ảnh cả đời văn của ông. Bây giờ trẻ con lại hát bài đồng dao khác. Chảy đi, Thiệp ơi.

Chảy đi Thiệp ơi,

Chảy ra tận biển,

Con gái Thủy thần,

Tìm sông, sông lở,

Tìm đời, đời trôi.

Cay đắng phận người.

Anh hùng kiêu bạc

Giữ lấy chữ thường.

Mây lòa ngũ sắc,

Xóm nghèo Hạ Khương,

Kìa ai tập bước một mình…

Hội nhà văn Việt Nam, nhiều văn nhân tài tử cùng bạn đọc đã đến bên Thiệp để chia sẻ ân tình. Có một người ở bên Mỹ gửi thuốc chữa bệnh về cho ông. Đó là một Con gái Thủy thần

Mùa Hạ 2020

Khuất Bình Nguyên

Nguồn: Báo Văn nghệ, ngày 13/6/2020

Nhà văn, ‘Văn Ngan tướng công’ Vũ Tú Nam - tác giả truyện ngắn nổi tiếng 'Sống với thời gian hai chiều', em trai nhà thơ Vũ Cao - vừa qua đời sáng nay, 9-9, tại Hà Nội, hưởng thọ 92 tuổi.

Thông tin từ gia đình cho biết nhà văn Vũ Tú Nam đã qua đời vào 10h15 hôm nay, 9-9, tại Hà Nội.

Chia sẻ với Tuổi Trẻ Online, nhà thơ Hữu Thỉnh - chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - cho biết nhà văn Vũ Tú Nam mất do tuổi già sức yếu. Vài ngày trước, ông còn đi thăm nhà văn Vũ Tú Nam tại Bệnh viện Hữu Nghị.

Nhà văn Vũ Tú Nam tên khai sinh là Vũ Tiến Nam, sinh năm 1929 trong một gia đình tiểu trí thức, quê ở Nam Định. Cha ông là một viên chức nhỏ của Pháp ở Hòa Bình nên ông học tiểu học ở Hòa Bình.

Ngoài người anh trai nổi tiếng nhưng mất sớm là nhà thơ Vũ Cao - tác giả bài thơ Núi Đôi, ông còn là em trai của nhà thơ Vũ Ngọc Bình - tác giả của bài thơ Con mèo mướp từng được đưa vào giảng dạy trong chương trình giáo dục tiểu học trước đây.

Vợ ông cũng là một người viết - nhà văn Thanh Hương, nguyên tổng biên tập báo Phụ Nữ Việt Nam. Siêu mẫu Vũ Nguyễn Hà Anh chính là cháu nội của nhà văn Vũ Tú Nam.

Nhà thơ Hữu Thỉnh cho biết sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1947, Vũ Tú Nam tham gia cách mạng. Sau khi học lớp Văn nghệ nhân dân khóa 2 ở Thanh Hóa, ông vào bộ đội, viết báo Vệ Quốc Đoàn ở Khu 4, sau đó ra Việt Bắc tham gia làm tờ báo mà ngày nay là báo Quân Đội Nhân Dân.

Sau Hòa Bình, ông về công tác tại Phòng văn nghệ quân đội của Tổng cục Chính trị với vai trò là một người sáng tác.

Năm 1958, ông được chuyển sang công tác tại báo Văn Học (nay là báo Văn Nghệ) của Hội Nhà văn Việt Nam. Trong năm sau đó, ông lần lượt đảm nhiệm vị trí: thư ký tòa soạn báo Văn Học, phó tổng biên tập báo Văn Nghệ, giám đốc Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (nay là Nhà xuất bản Hội Nhà Văn). Ông cũng được bầu làm ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam các khóa I, II, III, IV.

Đến Đại hội Hội Nhà văn khóa IV năm 1989 thì ông được bầu làm tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam khóa IV (tương đương chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam hiện nay), và ông chỉ làm một khóa, cho đến năm 1994 thì nghỉ hưu.

Ông cũng được bầu làm đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa IX.

Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, Vũ Tú Nam viết cả truyện ngắn, ký và thơ nhưng sở trường là truyện ngắn. Ông đã viết hơn 10 tập truyện ngắn, ký và thơ, trong đó truyện vừa Bên đường 12 viết năm 1950 theo ông Thỉnh là tác phẩm đặc sắc nhất, đã giúp ông giành giải nhất văn xuôi Văn nghệ liên khu 4, đồng thời cũng là tác phẩm giúp ông được trao Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Trong khi đó, nhà thơ Trần Đăng Khoa - phó chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - đánh giá cao nhất hai truyện ngắn mà Vũ Tú Nam viết sau này, khi ông là giám đốc Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới, là truyện Sống với thời gian hai chiềuMùa xuân tiếng chim.

Ngoài ra, nhà thơ Trần Đăng Khoa cũng đánh giá cao truyện thiếu nhi Văn Ngan tướng công, vốn là "nguồn cơn" khiến bạn bè văn nghệ đặt biệt danh cho ông là "Văn Ngan tướng công".

Về con người của nhà văn Vũ Tú Nam thì cả nhà thơ Hữu Thỉnh và nhà thơ Trần Đăng Khoa đều có chung nhận định rằng ông là một nhà văn, một lãnh đạo văn nghệ đức độ, khoan dung.

"Ông rất điềm đạm, tốt bụng, hiền lành, được anh em yêu mến. Ông lãnh đạo bằng sự đôn hậu, chân thành, lấy sự đôn hậu, khiêm nhường mà thu phục anh em văn nghệ", nhà thơ Trần Đăng Khoa nói.

Lễ viếng nhà văn sẽ được tổ chức vào 7h30 ngày 12-9 tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội. Lễ truy điệu và đưa tang sẽ được tổ chức vào 8h45 cùng ngày, an táng tại nghĩa trang quê nhà ở huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-van-vu-tu-nam-qua-doi-o-tuoi-92-20200909205204062.htm

 

TTO - Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, biệt hiệu Sơn Núi, vừa trút hơi thở cuối cùng ở tuổi 83 lúc 3h ngày 11-6, giã biệt đồi thông Phương Bối và núi rừng Bảo Lộc sau một thời gian dài nằm bệnh tại nhà riêng.

20200611

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn tại nhà ở rừng Phương Bối - Ảnh: HUỆ QUANG

"...Khi người ấy làm thơ, thì khi ấy, con người thơ, và cõi mộng của thơ, là ẩn ngữ huyền nhiệm. Tôi biết, và cũng có thể chỉ là biết một cách tưởng tượng, rất nhiều người, những người làm thơ, đọc thơ, và cả những người nguyền rủa thơ; có rất nhiều người nhìn anh với cái nhìn ngạc nhiên, tò mò, như đang nhìn một vật thể rất lạ, rất quái lạ. Tôi nhìn anh cũng thấy rất lạ. Nhưng không lạ hơn khi tôi nhìn chính khuôn mặt mình. Cho nên, tôi thấy mình quen biết anh nhiều hơn là quen biết chính mình. Người ta hỏi tôi, Sơn là ai? Làm sao tôi trả lời được. Tôi vẫn chưa biết mình là ai."

Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ - một tâm hồn thơ ít nhiều đồng điệu - cũng từng dành cho Sơn Núi những lời đầy cảm xúc.

Sinh năm 1937 tại Ninh Thuận, Nguyễn Đức Sơn nổi lên như một nhà thơ đầy cá tính tại Sài Gòn với tập thơ Bọt Nước in năm 1965. Sau đó, tên tuổi ông vang khắp miền Nam như một cây bút kỳ tài không chỉ ở ý tứ cả thơ và truyện, mà cung cách chơi đùa với ngôn ngữ tiếng Việt, ý thức dùng diễn ngôn dâm tục để chuyển tải triết lý nhân sinh, cảm thán về thời cuộc và cả thái độ trước tình người, tình đời...

Ông có bút hiệu là Sao Trên Rừng, nhưng đồng nghiệp, bằng hữu và người hâm mộ vẫn biết đến ông nhiều hơn ở biệt hiệu Sơn Núi, và biết nhiều hơn nữa ở các tác phẩm thơ của ông như một trường hợp kỳ lạ hiếm hoi xuất hiện trên thi đàn tiếng Việt không biết bao giờ mới gặp lại.

Tác phẩm của Nguyễn Đức Sơn xuất bản hầu hết trước năm 1975, về thơ có: Bọt nước (1965), Hoa cô độc (1965), Lời ru (1966), Đêm nguyệt động (1967), Vọng (1972), Mộng du trên đỉnh mùa xuân (1972), Tịnh khẩu (1973), Du sĩ ca (1973); và ba tập truyện: Cát bụi mệt mỏi (1968), Cái chuồng khỉ (1969), Xóm chuồng ngựa (1971).

Theo thông tin lúc Nguyễn Đức Sơn xuất bản tập truyện ngắn Xóm chuồng ngựa năm 1971, ông còn một số bản thảo chưa in gồm: Tạp văn, các bản thảo thơ đã đặt tên: Độc thoại, Đám cưới trên hư không, Tâm tư, Tạ từ, Ngọn suối đời; bản thảo truyện đã đặt tên có Ngồi đợi ngoài hành lang (truyện ngắn), Chỗ nằm của Thạch (truyện dài); và tập Mười lăm năm thi ca Miền Nam (Phóng bút).

Mới đây, trong lúc nhà thơ Nguyễn Đức Sơn nằm bệnh, người thân và giới mộ điệu, đặc biệt là Thư viện Huệ Quang ở TP.HCM đã thực hiện một tập thơ lấy tên Chút lời mênh mông (NXB Đà Nẵng), đây được xem là ấn phẩm cuối cùng của Nguyễn Đức Sơn.

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn - Sơn Núi - vĩnh biệt đồi thông Phương Bối - Ảnh 3.

Chùm thơ của Nguyễn Đức Sơn vừa được giới thiệu trên báo Tuổi Trẻ ngày 5-5-2020 - Ảnh: L.Đ.

"Người ta đa phần có ý ngần ngại khi đọc thơ Nguyễn Đức Sơn vì thấy sự dâm tục quá nhiều, riêng tôi cũng thấy ngần ngại, nhưng không phải vì sự dâm tục trong thơ ông, mà ngần ngại vì mình không đủ thanh khiết để đọc. Mặc dù là một tu sĩ, tôi thấy mình cần phải thanh lọc tâm hồn mình thêm nữa để có thể bước vào thế giới thi ca của ông... Nhưng đọc những vần thơ tục của Nguyễn Đức Sơn chỉ thấy tục, không thấy cái gì khác thì đó là điều bất hạnh đối với người đọc!"

Trong lần xuất bản tập thơ Chút lời mênh mông, thầy Không Hạnh ở thư viện Huệ Quang có nhận định về nét dâm tục trong thơ Nguyễn Đức Sơn bằng một ý quan trọng

Nhận định về tác phẩm của Nguyễn Đức Sơn, văn đàn miền Nam từng dành cho nhiều giấy mực, tựu trung vẫn là những ghi nhận về nhiều điểm độc đáo trong sáng tác của ông.

Nhà văn, dịch giả Bửu Ý nhìn thấy ở Nguyễn Đức Sơn hình ảnh của một con tê giác, "từ tính tình đến cách ăn nói, dáng đi, húc bừa về phía trước không kể thiệt hơn, không tính hậu quả. Thêm thù và bớt bạn. Đơn độc quắc queo. Dã man nghiệt ngã. Chỉ thong dong ở chốn không người: rừng và biển …".

Họa sĩ Đinh Cường - một người bạn thân của Sơn Núi - sinh thời vẫn ám ảnh với quyết định đem vợ con lên ở hẳn trên rừng Phương Bối của Nguyễn Đức Sơn. "Không ai đánh đổi cả đời mình với rừng như Sơn Núi. Sơn vẫn ở riết trên Phương Bối Am từ sau 1975 đến nay" - Đinh Cường viết.

Nay Nguyễn Đức Sơn đã vĩnh biệt đồi thông Phương Bối, vĩnh biệt núi rừng Bảo Lộc từng gắn bó mấy chục năm với ông. Giới hâm mộ hẳn sẽ còn quan tâm những di thảo của ông chưa xuất bản liệu có còn cơ hội để ra mắt bạn đọc trong một dịp nào đó?

Nhà thơ Nguyễn Đức Sơn - Sơn Núi - vĩnh biệt đồi thông Phương Bối - Ảnh 5.

Chút lời mênh mông - tập thơ cuối cùng của Nguyễn Đức Sơn, vừa ấn hành đầu năm 2020 - Ảnh: L.ĐIỀN

Hiện linh cữu nhà thơ Nguyễn Đức Sơm quàn tại nhà riêng (tổ 9, thôn 2, xã Lộc Châu, Bảo Lộc, Lâm Đồng). Thông tin từ gia đình cho biết lễ nhập quan vào lúc 13h30 hôm nay 11-6; lễ di quan đi hỏa táng lúc 6h ngày 13-6.

Lam Điền

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 11.06.2020.

20200831 2

Đó là những thi sỹ sinh ra từ 1950 đến 1959. Họ là một lực lượng đông đảo chừng 80 người. Họ bước lên thi đàn Việt Nam hiện đại ở những thời điểm khác nhau từ khoảng 30 năm sau cùng của thế kỷ 20. Có người đã sớm tham dự vào phong trào thơ chống Mỹ cứu nước, cùng thế hệ cha anh đi trước viết những bản tráng ca anh hùng của thời đại những năm đánh Mỹ và chiến đấu bảo vệ biên cương từ ngút ngàn núi rừng Việt Bắc, Tây Bắc, Tây Nguyên... đến hải đảo ngoài khơi xa biển Đông sóng dữ. Thế hệ của họ hơn ai hết mang trên vai mình sự trăn trở, hồ hởi, lo âu và đầy mẫn cảm những biến thiên của thời cuộc những năm đổi mới, trước sâu thẳm của đời sống cá nhân con người với bao ước vọng, khát khao về hạnh phúc của số phận con người trong bể dâu vô cùng quyết liệt của đời sống. Và điều quan trọng hơn cả, thế hệ ấy đã mang đến tiếng hát của thi ca mới mẻ, những tâm trạng lắng sâu trăn trở cùng sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước trong tiến trình đổi mới để không ngần ngại bước vào một cuộc tìm tòi đổi mới thi ca. Tôi muốn nói tới thời điểm bước lên thi đàn Việt Nam của 5 người trong số họ. Vũ Đình Văn. Hoàng Nhuận Cầm. Trần Đăng Khoa. Nguyễn Lương Ngọc. Nguyễn Quang Thiều.

Vũ Đình Văn - Đợi ngày về anh chia lửa cho em.

Vũ Đình Văn tham dự phong trào thơ chống Mỹ mặc dù đã vào thời gian muộn và những sáng tác hay nhất trong số 19 bài cùng với khoảng thời gian làm thơ quá ngắn chỉ trong năm 1972, những bài thơ như nhật ký chiến trường ấy đã mang đến cho thời đại phong cách thơ độc đáo bằng trực giác tinh tế và mẫn cảm ẩn chứa trong nhiều câu thơ thật tự nhiên và tài hoa kết hợp với cái bản lĩnh trầm tĩnh của người lính trận hàm chứa sắc nét trong những bài thơ có dáng vẻ của một thi sỹ đã trưởng thành. Đất nước đã nâng họ đứng dậy trên các chiến hào đánh giặc. Đêm gác miền Trung 19-1-1972. Đêm hành quân qua phà Long Đại 5-1972. Nửa sau khoảng đời. Cây số bốn 10-1972. Dũng sỹ bạn tôi. Tiếng kẹt cửa 11-1972. Cái nhẫn 20-11-1972. Ở đây thơ với nhật ký của một cuộc hành quân là một.

Vũ Đình Văn viết thơ về những đêm chiến tranh bằng một trực giác lạ thường. Đó là Hà Nội Những đêm cuối bảy mươi, cành sấu gió không còn ngọt tiếng trong khi đậm đà từng ngách phố một màu nâu trăn trở với con người. Đêm chiến tranh dù ở đâu cũng vậy, khắp trên Tổ quốc ta trang nghiêm trầm tĩnh mà xúc động lạ thường cùng với tình quân dân ấm áp. Có những đêm miền Trung đầm đậm. Biển Nga Sơn vỗ vào rất ấm. Bọn mi lên đường, tau nhớ mần răng.

Những đêm trăng hành quân. Đêm ấy đêm trăng hành quân qua phà Long Đại, nghe tiếng nhắc của người con gái, nghe được cái ấm nóng của dòng sông mà những tưởng thời gian đứng lại. Mặc quân thù cứ xuống bến đi anh. Nước Nhật Lệ khuya rồi còn âm ấm. Tiếng côn trùng không kêu làm đêm đi rất chậm.

Đêm gác miền Trung người lính trẻ thức với quê hương mới hiểu ra cái đêm miền Trung đêm nhớ thế, là đêm lần đầu tiên nghe sóng bể, những ngọn sóng dài nóng bỏng lòng trai. Anh đứng gác để miền Trung bình yên ngủ. Rồi đêm khuya ở lại lán trong rừng nhắc ai: Việc khuya, chi đó, riêng chung. Có đi đánh giặc hãy dừng lán ta. Bỗng dưng bát ngát một câu hò có màu sắc tím: Khuya rồi vọng một tiếng chim. Ai hò tím cả đồi sim ai hò. Người lính ấy hình dung Tiếng kẹt cửa của đêm chuẩn bị vào trận đánh tiếng kẹt cửa khép dần yên tĩnh lại, đêm mông lung lắng đọng những màu xa. Những đêm ra trận thời đánh Mỹ cả nước là một chiến trường với Vũ Đình Văn đồng đội là những người anh em và họ chung một niềm vui: Ngày Vĩnh Linh mà đêm thành Quảng Trị, Miền Nam ơi! xin gửi phút giây này. Nhưng cái đích cuối cùng của trận đánh sinh tử là hòa bình, là tình yêu lứa đôi sẽ đoàn viên dù bây giờ là những đêm hành quân rất rội mà hy vọng không bao giờ tắt của hai người. Mắt em, mắt anh ngần ấy vì sao để có được lời hẹn bất tử không bao giờ chết.

Ôi! cái khoảng đời đêm nay cháy đỏ

Đợi ngày về anh chia lửa cho em.

Vào độ mấy ngày cuối tháng 7-2020, tôi đến số 47 Lãn Ông thắp hương bái lễ Vũ Đình Văn. Từ phố vào nhà phải đi sâu vào một con ngõ nhỏ, giống như bao nhiêu ngõ nhỏ của phố cổ Hà Nội. Chật và kín tựa một đường hầm tôi tối dài khoảng 100m; không có đường thông đi ra ở phía bên kia. Ở Hà Nội có hàng vạn đường hầm ngõ nhỏ như thế. Người Hà Nội đã ra đi từ đó không biết bao nhiêu thế hệ để bảo vệ Tổ quốc và phẩm giá con người. Khi ra đến đầu ngõ, nắng cuối hạ đã nhạt màu chớm thu, tôi chợt thấy rặng núi hồn nhiên của Văn hiện về sương khói trên phố Lãn Ông.

Ai gọi dải núi trước nhà là Giăng hạc

Để ấm lưng mình một dải Cù Êu

Hoàng Nhuận Cầm - Chày mùa thu gõ mãi lời nước non.

Tôi hình dung khi Hoàng Nhuận Cầm bước lên thi đàn giống như một Ga vơ rốt trên trận tuyến. Cầm đã mang tiếng nói tươi trẻ cuả tuổi học trò vào trong thơ. Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu nên trong ba lô người lính của Cầm giống như bao người khác cùng thế hệ ra trận thời đánh Mỹ. Tuổi học trò vô tư, đầy mơ mộng và chẳng biết sợ hãi gì lưỡi hái độc ác của chiến tranh. Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu. Dẫu hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ. Trong những ba lô kia ai dám bảo là không có. Một hai ba giọng hát chú ve kim.

Tiếng ve thì đã rõ rồi. Nó khai mở những mùa thi. Những mùa hè. Những mùa phượng đỏ. Nhưng tiếng hát Hoàng Nhuận Cầm còn là tiếng chim của tuổi học trò đã lên tận một đồi chốt lắm chim. Giữa nơi trận mạc, người lính trẻ còn lọc biết được chuyện chim ri ngây thơ, sáo sậu thì khoác lác nhất nhì. Chú vẹt thì nhắc đi nhắc lại chuyện cũ. Tiếng chim Cuốc như máu chảy về tim khi đất nước còn chia cắt. Cuối cùng cũng lộ ra Hoàng Nhuận Cầm.

Mũ tai bèo khẽ nghiêng nghiêng

Nghe lăn lăn những tiếng chim xuống hầm

Đậm đà nhất cái chất học trò trong thơ Hoàng Nhuận Cầm là 4 khổ thơ đầu trong bài Anh bộ đội và tiếng nhạc la. Ở đấy cái lắng nghe của Cầm như được nhả tơ từ sự tò mò mà tinh tế của thi nhân. Tôi không thấy cái chất lính trong bài thơ này mặc dù nó mô tả về lính. Chỉ thấy yêu quý thêm hơn những người ra trận xem cái chết nhẹ như lông hồng mới viết được những vần thơ như thế. Người Việt Nam chiến thắng bằng niềm tin và ý chí sắt đá, bằng sự bình tĩnh phi thường và bằng cả cái chất học trò thản nhiên của thơ giống như Hoàng Nhuận Cầm.

Những cây nấm màu nâu, màu nâu già

Tự dưng thức dậy bên vòm lá

Những bông hoa chửa có tên hoa

Bỗng nhiên mở cánh ra nghe ngóng.

Sau những năm chiến tranh, Hoàng Nhuận Cầm còn tiếp tục đường thơ. Nhưng người ta vẫn chưa thoát được thơ Cầm với cái chất học trò vô tư đầy lạc quan thời chiến tranh. Cái chất học trò ấy có cội nguồn sâu xa từ tình yêu quê hương đất nước. Cầm viết hộ người xứ Đoài tình yêu quê hương mà chưa thấy ai trả được cái chất trầm tư lạ lùng của người xứ ấy.

Xa trung du nên tôi chửa thấy đồi

Nhà đá ong âm thầm mang lời đất.

Đất nước - mẹ Việt Nam hiện hình trong thơ Cầm như mùa thu tuyệt vời vùng châu thổ Sông Hồng, từ cái rung cảm mùa thu trong xa thẳm văn hóa dân gian đất Việt, nơi tháng 7 lác đác cành Ngô, nơi mùa thu của mẹ tảo tần nuôi ta khôn lớn.

Mẹ tôi giã gạo nuôi tôi

Chày mua thu gõ mãi lời non nước.

Trần Đăng Khoa - Những năm băng đạn vàng như lúa đồng.

Năm 2014, NXB Hội nhà văn in Thơ thế hệ các nhà thơ chống Mỹ cứu nước, với hơn 1600 trang, 328 thi sĩ. Gồm cả Vũ Đình Văn, Hoàng Nhuận Cầm, Trần Đăng Khoa. Nhưng trẻ nhất trong số hơn 300 người ấy, Trần Đăng Khoa ghi tên vào phong trào khi mới 9, 10 tuổi thôi. Khoa bước lên thi đàn Việt Nam như một cậu bé mặc hoàng bào phất trên tay lá cờ thêu 8 chữ vàng: Những năm băng đạn vàng như lúa đồng, xứng đáng là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử thi ca Việt Nam.

Ở lúc 9, 10 tuổi đã có những bài thơ với sức liên tưởng kỳ diệu. Hạt gạo làng ta. Ò...Ó...O. Sao không về vàng ơi. Mưa. Đám ma bác giun v.v... Những liên tưởng tươi mới mà ngộ nghĩnh về hạt gạo làng ta có vị phù sa của sông Kinh Thầy. Có lời mẹ hát ngọt bùi đắng cay. Trong hạt gạo nhỏ bé ấy, Khoa đã thấy có bão tháng 7, mưa tháng 3 và những giọt mồ hôi của trưa tháng 6... Tất cả cái đó theo hạt gạo ra tiền tuyến đánh giặc quý giá như những hạt vàng. Từ đó có cơ sở để gọi đây là tám chữ vàng: Những năm băng đạn, vàng như lúa đồng... Sao không về vàng ơi! kể chuyện một con chó không về nhà sau một trận bom... nghe nói người phương Tây rất thích tứ thơ này. Chiến tranh cũng không thể lấn át những cảnh và tình của con người và đất nước Việt Nam. Dù bên cạnh thấy đạn giăng dày nhưng Khoa lại thấy: Thấy trời xanh biếc mênh mông, cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy. Hoa Lựu trầm tích chất suy tưởng: Cuốc kêu chưa dứt mà cành đầy hoa. Từ đó Khoa liên tưởng một cảnh chiến tranh theo con mắt tuổi thơ khi đêm về đạn quân ta bắn máy bay đỏ như chùm hoa lựu. Có lần Trần Đăng Khoa bảo đã hết tuổi thơ từ năm lên 8 mà đến giờ tôi vẫn chưa tin bởi những bài thơ Ò..Ó...O. Mưa. Đám ma bác giun, Chớm Thu... bộc lộ một tài năng thiên bẩm của thi sĩ bởi óc liên tưởng và quan sát kỳ lạ. Chiến tranh cũng không thể bắt Khoa làm người lớn ngay được. Mặc dù đã phất lá cờ thêu 8 chữ vàng.

Như một sự sắp đặt có sẵn của lịch sử, vào năm 1975, 1976 khi Trường Sơn vừa im tiếng súng đuổi giặc, Khoa được cử ra mặt trận mới - Mặt trận biển. Không phụ lòng tin của thời cuộc, anh lính thủy Trần Đăng Khoa đã cho ra đời một chùm thơ biển đảo đặc sắc. Chim Sơn Ca trên đảo Sơn Ca. Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài. Ghi ở đảo chìm. Thơ tình người lính biển. Đợi mưa trên đảo sinh tồn v.v... Vang lên ở đây tình yêu Tổ quốc. Sự hy sinh và lòng dũng cảm. Tiếng gọi thiêng liêng của sự bất khả xâm phạm bờ cõi giữa đảo chìm đảo nổi dữ dội sóng biển khơi. Sự khắc nghiệt của thiên nhiên với sự dạt dào tình yêu lứa đôi trong xa cách thăm thẳm sóng và mây trời... Vào năm 1975 khi Khoa 17 tuổi đã có bài thơ Đồng đội tôi trên đảo Thuyền Chài. Kết của bài thơ này là những dòng sớm nhất, hay nhất của thơ thời biển đảo cam go.

Đảo tự giấu mình trong màu nước lam xanh

Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng

Tổ quốc ơi! Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng tôi nhìn xuống

Bóng chúng tôi chìm khắp đảo Thuyền Chài.

Người ta bảo Trường Sơn là của Phạm Tiến Duật. Trường Sa là của Trần Đăng Khoa có phải là từ những câu thơ như thế đó chăng?

Xuân Diệu đã có lần không mặn mà lắm với Trường ca của Khoa. Ở Khoa, tôi thích đoản thi hơn trường ca. Mấy năm nay Khoa tham gia lãnh đạo Hội nhà văn. Tôi lo hơn là mừng. Bởi vì tôi cũng như nhiều thế hệ độc giả sẵn lòng yêu thơ Khoa từ trước, mong muốn và chờ đợi những sáng tác mới của nhà thơ tài danh này. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp hay nói với tôi rằng Khoa sẽ là người giữ gìn bát văn của quốc gia không phải theo ý nghĩa hành chính mà theo ý nghĩa lĩnh xướng một thời đại trong thơ?

Nguyễn Lương Ngọc - Lau trắng đang nghiêng về sắc xám, có lẽ nó ngả màu vì sợ những hình như.

Nguyễn Lương Ngọc sinh 1958. Đến với thơ vào những năm 1990 là hơi muộn. Khi tuổi làm thơ đã gọi là già. Đời thơ ngắn ngủi của Ngọc có lẽ chỉ được khoảng 6, 7 năm - tức là đến năm 1996, khi nhà thơ lâm nạn nặng không thể gượng dậy làm thơ được nữa. Gượng mãi đến 2001 thì phải rời thị xã Sơn Tây để về chốn cao xanh. Nhưng chỉ 3 tập thơ - Từ Nước 1990. Ngày sinh lại 1991. Lời trong lời 1994 đã đủ tạo lập một sự nghiệp thơ ca đầy sắc thái cách tân và bước lên thi đàn với tư cách một thi sỹ khao khát đổi mới theo tiếng gọi của thời đại. Trong 3 tập thơ đó, thành công hơn cả ở Ngày sinh lạiLời trong lời, ngoại trừ một số bài thơ viết về miền Trung trong chuyến đi xuyên Việt tháng 8, 9-1993 tuy có câu thơ đặc sắc, nhưng ít bài hay và thường ở độ "rằng hay thì thật là hay"…

Thơ Nguyễn Lương Ngọc không tập trung quá nhiều vào việc dàn dựng câu tứ nhằm vào một ý tưởng nào đó. Chuyển biến mới mẻ của thi pháp Nguyễn Lương Ngọc ở chỗ cảm xúc và nhịp điệu của tư duy Thơ tự dâng lên, trào lên đôi khi bởi những ý thơ đột khởi khiến bài thơ tưởng như không có hồi kết mà sâu nặng ý nghĩa nhân bản của tình đời, tình người. Nó ẩn chứa một điều gì không đoán trước được của số phận con người. Nó mang lên tiếng nói lo âu chân thành như lau trắng kia ngả màu về sắc xám vì sợ những hình như, những suy đoán, những giả dụ của muôn nẻo đường trần trong cõi mưu sinh không ngơi nghỉ.

Bài Gió khô tặng Hoàng Trung Thông khởi đầu bằng ý thơ mời trăng uống rượu Người khuất vào trăng người không khuất vào người. Thi sỹ của Bài ca vỡ đất, Bộ đội về làng vui với trăng với bạn chẳng để tâm đến rượu trong rượu đục, Ngọc muốn gió khô đi đâu cho Ngọc được theo cùng, rồi đột nhiên trào ra một lý lẽ: Một thể chữ thế chấp bằng gần 70 năm mở mắt mà nó lại không phải là câu kết. Các bài thơ Trò chuyện với em gái đang quen, Lý do, Đàn giang .v.v... đều được viết trong cái thế Biển tan nát mà không tan nát được, như thể một sự hối hả tìm kiếm cách diễn đạt mới của Thơ.

Một số thử nghiệm của Ngọc chưa đưa đến kết quả mong muốn. Có những bài thơ Ngọc ngắt câu thơ theo dòng mà không theo nghĩa hạn chế sự bùng nổ của ngôn ngữ thơ. Hình như có lúc Ngọc quan niệm điều trước tiên của thơ không phải làm cho thật rõ ràng về nghĩa trong lời thơ, thậm chí cả bài thơ. Đồng hồ vĩnh cửu lời thơ chưa thật tương xứng với ý tưởng của toàn bài, mặc dù cái kết của bài thơ đó thật hay. Tưởng như Ngọc còn sống để được thỉnh tiếng chuông như vậy. Để bên kia sư nữ lại thở dài, tỉnh dậy tụng kinh lần tràng hạt nhưng nghĩ thế nào lại thôi.

Nguyễn Quang Thiều - Những trái cây chín mê ngủ tuột khỏi cành rơi xuống, góc vườn khuya cỏ thức giấc một mình.

Nguyễn Quang Thiều xuất hiện ở cuối thế kỷ 20 như một sự kinh dị lạ lùng theo quan điểm của cả những người ủng hộ và không ủng hộ. Năm 1983 Thiều đã dắt nàng Tô Thị chạy bộ giữa miền biên viễn phía Bắc đang chiến tranh Biên giới giờ này đạn giặc xoáy vào đêm; Nàng Tô Thị bồng con đi lối tắt. Thiều đã đưa người hóa đá đó chạy tản cư đến được giải ba của cuộc thi thơ Văn nghệ Quân đội. 10 năm sau - 1993. Sự mất ngủ của lửa gây tranh cãi nảy lửa ở ban chấm giải Hội nhà văn và lửa của Thiều được giải. Hai năm sau 1995 Nguyễn Quang Thiều khăn áo đi thi một cuộc thi thơ của báo Phụ nữ Việt Nam bằng việc ứng thí dưới cái tên một người đàn bà. Kết quả người đàn bà mạo danh ấy lại là người đứng số nhất cuộc thi. Đời thế mà vui. Người ta xô nhau đi tìm đọc Thiều. Nhiều bạn trẻ làm thơ theo cách của Thiều. Thân phận ấy, tôi nhớ đến cuộc tranh luận thơ tự do không vần của Nguyễn Đình Thi ở chiến khu Việt Bắc. Hồi năm 1948.

Không nghi ngờ gì nữa, Nguyễn Quang Thiều là một phong cách thơ độc đáo vào những năm cuối thế kỷ 20 đầu 21. Có hai cảm hứng chủ đạo của hiện tượng mang tên gọi Nguyễn Quang Thiều. Đó là cảm hứng làm nên cái chất quê mùa kỳ dị mà đẹp lạ thường, cái vẻ đẹp trầm mặc theo lẽ vô thường, đôi khi cay đắng của làng quê vùng châu thổ Sông Hồng và cảm hứng về sự mất ngủ và thức dậy của thân phận con người với ý nghĩa là cá nhân con người và nhất là của thi ca như là tiếng gọi khao khát với bao xót xa đau đớn và hy vọng trong một thế giới đầy biến động với những gãy khúc của không gian, thời gian và chân lý đời sống.

So với làng quê của Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá Lân... ở thế kỷ trước, làng quê xứ Bắc trong thơ Thiều kỳ dị trong cái bình dị, cái tưởng như không đáng giá nhất lại trở thành thiết tha gắn bó và nhân bản nhất của đời một người nhà quê. Con giun đất bò âm thầm dưới vại nước bờ ao, bò qua những bãi tha ma người làng chết đói để đất đùn lên máu chảy ròng ròng. Con giun đất không phải gì xa lạ mà đôi khi lại còn bẩn thỉu dưới con mắt người đời lại là khúc nhau của mỗi chúng ta gửi lại cố hương khi cất tiếng chào đời. Quê hương đó bầy chó đã bao đêm sủa vào ánh chớp cuối chân trời, sủa vào những ngọn đèn dầu heo hắt trên bao khám thờ bằng đất ở xứ sở người ta đôi khi cả năm không dùng đến đồng tiền. Vì thế mới có ước mơ kiếp sau được làm một con chó nhỏ để canh giữ nỗi buồn như là báu vật của quê hương. Ở đó Những người đàn bà gánh nước sông để sông chảy vào đời ta, để sông gục mặt vào bờ đất lần đi trong day dứt. Những buổi hoàng hôn ở nơi nhà quê đó chẳng biết ai lén đổ vào chiều chút rượu để ngày cạn đến đâu, rượu cạn theo cùng. Quê hương mà cả đời ta thương nhớ mẹ già khuất bóng trên cánh đồng xa. Bỗng một hôm, ban mai thức dậy.

Chiếc bánh xe trâu một nửa đã qua đêm

Một nửa thùng cỏ tươi còn trong bóng tối.

Cái ranh giới mơ hồ đó trên chuyến xe trâu mở ra vẻ đẹp vô thường của thơ Nguyễn Quang Thiều.

Không phải ngẫu nhiên có cảm giác cả đời Thiều mất ngủ luôn mơ thấy sự thức dậy bởi những gì đã qua và sắp tới báo có tin mừng sinh nở một điều kỳ lạ trên thùng cỏ tươi kia.

Những ngọn gió thế kỷ sau ùa về làm tôi trở dạ

Tôi tìm mảnh gốm vàng cắt rốn trẻ sơ sinh.

Lúc ấy thi nhân thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình, thức đậy để chào đón một giọng nói. Trong khi những đêm mùa hạ thầm thĩ tạ từ, thức dậy cánh cửa gỗ mười năm mệt mỏi. Những thế hệ của thế kỷ này đã khác trước rất xa. Họ đi ngủ không giống. Nói mê không giống. Thức dậy không giống, như Sông Hồng rộng mê man chảy bên kia giấc mơ, chảy bên này giấc mơ đi tìm cái mới.

Sau những thử nghiệm thơ văn xuôi trong Cây ánh sáng, Bài ca chim đêm, Nhân chứng một cái chết... với sự xuất hiện của những câu thơ luận đề và thường được lặp lại, những câu thơ mở rộng v.v... Thiều đã đi đến cái mà có nhà thơ gọi là nhiệt đới hóa ngôn ngữ thơ… Đã là rừng nhiệt đới thì thường là rậm rạp nên hệ quả có thể là thơ thiếu những khoảng trống của ngữ nghĩa, những khoảng vang xa trong cái hàm xúc đến kỳ diệu. Thơ mới của Thiều đã ít xuất hiện hơn vài năm nay. Có thể nhà thơ đang nghiền ngẫm những sáng tạo không mệt mỏi của một tài năng thơ như cỏ vẫn thức một mình ở góc vườn khuya.

Thi ca thế kỷ 20 là chỉnh thể thống nhất của khí phách và tâm hồn Việt Nam. Tầm vóc của nó thật là kỳ lạ khi chia tay thân ái với kiểu thơ chữ Hán và chữ Nôm của 9 thế kỷ trước. Thi ca thế kỷ 20 không phải là kết quả chỉ trong vòng 100 năm mà của cả hơn 3 thế kỷ phát triển chữ quốc ngữ kể từ 1620 khi các ký tự abc bắt đầu được dùng để ghi âm tiếng Việt. Cho phép tôi không gọi là giai đoạn mà là thời đại thì 100 năm đã qua chúng ta đã có 4 thời đại trong sự tiến hóa không ngừng của thơ. Thơ Mới. Thơ thời chống Pháp. Thơ thời chống Mỹ. Thơ những năm đổi mới và đầu thế kỷ 21. Gọi là thời đại có nhiều lý do; nhưng có một lý do không thể thiếu được là sự hình thành và xác lập thi pháp mới bằng một số thi sĩ có vai trò lĩnh xướng. Ba thời đại trước thì đã rõ rồi. Vậy thời đại thi ca hiện nay những ai là người lĩnh xướng và họ đã đưa đến được những gì của thi pháp mới? Đã gần 10 năm nay, hàng năm tôi đều vào đền thờ văn học ở phố Quốc Tử Giám Hà Nội cầu nguyện. Cầu cho thi ca thế kỷ 21 phát huy bản sắc của những thời đại thi ca thế kỷ 20 và có những người lĩnh xướng tài ba ở tầm vóc mới.

Mùa thu 8/8/2020

Khuất Bình Nguyên 

Nguồn: Bài do tác giả gửi cho Web Khoa Văn học

Tóm tắt:

Khoa cử phương Đông truyền thống do mục tiêu đào tạo các quan chức phục vụ cho bộ máy nhà nước phong kiến chứ không phải các nhà khoa học kỹ thuật nên chú trọng giáo dục năng lực luận thuật kinh điển Nho giáo (kinh thuật) và năng lực văn chương để diễn đạt các nguyên lý của kinh điển (văn chương).

Tuy nhiên, trong lịch sử khoa cử Nho giáo ở Trung Quốc và Việt Nam, có những thời kỳ nổi lên những cuộc thảo luận giữa khuynh hướng thi thiên về kinh thuật (luận thuật kinh điển Nho gia) với khuynh hướng coi trọng văn chương, tạo ra cái nhìn nhị nguyên, hoặc kinh thuật, hoặc văn chương. Ở Trung Quốc, thời Đường và ở Việt Nam thế kỷ XVIII là thời kỳ như thế. Chúng tôi dùng khái niệm "văn chương" chứ không dùng "văn học" để tránh đồng nhất với kiểu sáng tác văn học hiện đại.

Lê Quý Đôn là một nhà khoa bảng nổi tiếng nhưng giữ quan điểm cân bằng giữa kinh thuật và văn chương, tức là ông đã tiến hành “giải cấu trúc” quan điểm nhị nguyên về khoa cử. Các ý kiến của ông được trình bày trong một số trước tác, đặc biệt trong Vân đài loại ngữ . Bài viết lần đầu tiên hệ thống hóa các ý kiến này, so sánh với ý kiến của một số nhà nho cùng thời phê phán lối học nặng về từ chương để chỉ ra đặc điểm thực tế khoa cử thời trung đại và  đóng góp riêng của Lê Quý Đôn cho văn hóa Việt Nam. 

Từ khóa: kinh thuật, văn chương, văn, đức, văn thể, văn thể Hồng Đức, văn và đạo.

Đặt vấn đề

Lê Quý Đôn trong quyển V của sách Vân đài loại ngữ , mục Văn nghệ bàn về tầm quan trọng của “văn chương”, viết : “Văn chương là gốc lớn của sự lập thân, là việc lớn của sự kinh thế. Người nhà Đường nói: lấy kẻ  sĩ nên phải nhằm đức hạnh trước, còn văn nghệ sau. Đó là nói cách lấy thư phán mà xét người lúc bấy giờ, chứ không phải nói chung.

Chu Tử nói : Lời không văn vẻ thì không đi được xa; bốn điều dạy (tứ giáo) của Khổng Tử, tất lấy văn làm trước, muốn tóm tắt lấy lễ tất phải biết rộng văn trước. Vậy văn không khi nào bị coi là việc ngọn. Sách Luận ngữ nói : “Chí ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ”, nghĩa là: lấy đạo làm hướng cho sự lập chí, lấy đức làm chỗ căn cứ, lấy nhân làm nơi nương tựa, lấy nghệ làm thú vui chơi. Xem đó, người xưa cũng chỉ nói ngang nhau, chứ không chia điều nào là gốc, điều nào là ngọn.

Truyện Kinh Thi của họ Mao nói về chín điều hay: 1) Khi xây dựng một nước thì biết bói rùa; 2) Khi đi săn bắn thì biết ra mệnh lệnh; 3) Khi làm đồ đạc gì thì biết làm được bài Minh; 4) Khi đi sứ có thể tạo được từ mạng; 5) Khi lên cao thì biết làm thơ ca; 6) Trong việc sư lữ thì biết làm lời thệ quân; 6) Về núi sông thì có lý thuyết; 7) Trong việc tang ma thì biết làm bài văn tế; 8) Trong việc tế tự thì biết khấn.  Người quân tử có được chín điều hay ấy thì gọi là người có đức, có thể làm được quan đại phu. Đó là cách tuyển sĩ của nhà Chu, đại khái như thế, sao gọi văn là việc ngọn được ? Đại để anh hoa phát tiết ra ngoài, là do ở trong có chứa nhiều hòa thuận; cho nên người có đức tất biết ăn nói; người có hạnh tất có học, như con phượng thì có cánh, sắc lông sặc sỡ; con báo thì có lông trơn mượt; trang sức ở ngoài với chứa đựng bên trong vẫn là một.

Chu Tử nói : “Uy nghi đúng mức, nói năng phải lẽ, đều là văn”. Ông lại nói : “Ngày xưa đem các môn lễ, nhạc, xạ (bắn), ngự (cầm cương ngựa), thư (viết chữ), số (tính toán) dạy người ta; lẽ nào một người đã học các môn văn ấy mà lại bảo là người thiếu sót về đức hạnh được ? Muốn biết người, nên lấy đó mà bàn, nghĩa là nên nhận xét ở các điều đó, chớ nên lầm lẫn (cho đức với văn là hai)”(Lê Quý Đôn a, tr. 235-237), tôi có chỉnh lý lời dịch một vài điểm cho đúng nguyên văn)[1] .

            Đọc những dòng này, có cảm giác Lê Quý Đôn đang tranh luận với một ai đó, hay với một luận điểm nào đó liên quan đến mối quan hệ giữa đức hạnh và văn chương. Và ông tìm cơ sở lý luận từ các diễn ngôn của các nhà kinh điển của đạo Nho như Khổng Tử và Chu Tử (Chu Hy), tác giả Mao thi (Thi đại tự). Đây không phải là những lời bàn về văn học nghệ thuật thuần túy. Nếu chúng ta đặt chúng vào ngữ cảnh rộng hơn, dễ thấy nhà bác học đang thảo luận một trong những vấn đề trọng yếu nhất của thể thức khoa cử Nho học thời trung đại, vấn đề quan hệ giữa luận thuật kinh điển và văn chương. Ý nghĩa của vấn đề mà Lê Quý Đôn đặt ra vốn đến nay chưa được giới nghiên cứu cả về triết học, văn hóa, sử học, văn học chú ý sẽ là mục đích nghiên cứu của luận văn này.

Khoa cử dưới các triều đại lấy Nho giáo làm quốc giáo thì tất nhiên nội dung thi phải nằm trong việc diễn giải kinh điển Nho giáo, sĩ tử phải thể hiện được sự am tường và năng lực vận dụng kinh điển cho việc giải quyết các vấn đề thời sự của quốc gia. Tuy nhiên, các kiến thức và năng lực vận dụng đó đều phải được trình bày dưới hình thức văn chương vì văn chương là một công cụ chuyển tải rất hiệu quả tư tưởng, như chính Chu Hy đã nói “ngôn chi vô văn hành chi bất viễn”-lời nói không có văn không đi được xa. Khi nói về khoa cử, người xưa có khi dùng khái niệm “văn chương”. Văn bia tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám khoa thi 1481 viết: “Kẻ sĩ sinh ở đời này gặp gỡ thánh minh, có tiếng tăm văn chương, gội nhuần giáo hóa” (Ngô Đức Thọ, tr.2) Văn bia khoa thi năm 1481 cũng có đoạn: “Danh là bề ngoài của thực, tốt là đối tượng của xấu. Có danh có thực, há chẳng phải tốt sao ? Có danh không thực, há chẳng phải xấu sao ? Những người được ghi tên vào đá này, cố nhiên phải lấy đạo nghĩa đức hạnh để tu dưỡng bản thân, phải dùng văn học mà dùi mài tâm tính”.  (Ngô Đức Thọ, tr. 216).

Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ khi dâng khải lên chúa Trịnh Sâm bàn về sửa đổi văn thể, viết: “Văn chương quan hệ đến thế đạo, mà muốn cầu người giỏi, phải lấy giáo hóa làm đầu. Bản triều ở đời Hồng Đức, phép dạy phép thi cũng chỉ có kinh nghĩa, lấy nghĩa tùy ý đặt lời, nếu không phải là người đọc rộng hiểu sâu thì không làm nổi; tứ lục dùng cả cổ sử và công việc bản triều; thơ phú thì hoặc theo lối lý tao hoặc theo văn tuyển, không cứ thể cách thất ngôn hay ngũ ngôn, lối bát vận của Lý Bạch hay lối liên châu, có khi dùng sử truyện hay sách ngoài, cùng tả cảnh…” (Phan, tr. 33-34). Rõ ràng văn chương trong quan niệm của các tác giả trên là văn chương khoa cử.  

Khi sử viết: “Năm 1363, thi học trò, lấy người có văn nghệ vào làm việc trong quán các” (Phan Huy Chú, tập 2, tr. 11) thì khái niệm “văn nghệ” dùng chỉ người có năng lực từ chương, vừa nắm vững kinh điển lại có khả năng biểu đạt tư tưởng bằng văn chương.

Trong đoạn văn trích dẫn ở phần mở đầu, ta thấy Lê Quý Đôn dùng các khái niệm 文章 “văn chương”, 文 “văn” 文藝 “văn nghệ” với nội dung tương đồng nhau. Để tránh nhầm lẫn với khái niệm “văn học” của người hiện đại, một lĩnh vực rất rộng, với những đặc trưng riêng khác với nội dung mà Lê Quý Đôn trình bày, chúng tôi xin dùng khái niệm “từ chương” có một nghĩa tương đối, chỉ loại văn chương trong khoa cử như là một khái niệm công cụ cho riêng bài viết này.

  1. 1.     Điểm lại lịch sử khoa cử từ góc nhìn quan hệ giữa kinh thuật (luận thuật kinh điển) và từ chương trong lịch sử khoa cử:

Do lịch sử khoa cử ở Việt Nam thời trung đại tiếp nhận nhiều quan niệm về nội dung và quan niệm của khoa cử Trung Quốc nên chúng ta cần thiết nhìn lại dẫu là một cách sơ lược lịch sử khoa cử Trung Quốc với những đường nét chính của nó để hiểu chính khoa cử Việt Nam. 

  1. 1.1.          Tại Trung Quốc :

Nghiên cứu lịch sử khoa cử, về phương pháp luận, không thể tách rời với bối cảnh lịch sử của mỗi thời đại. Nhà nghiên cứu Benjamin A. Elman viết:  “Khoa cử từng là một vũ đài văn hóa ở đó những quan tâm khác nhau về chính trị và xã hội tranh đấu nhau và cân bằng” (Benjamin A. Elman (2000), tr. xxiv). Nghiên cứu lịch sử khoa cử Trung Quốc hậu kỳ (từ đời Minh đến đời Thanh), ông cũng nhận thấy: “các bậc hoàng đế, các quan lại cung đình, hoạn quan đều nỗ lực kiểm soát giới sĩ phu thông qua các kỳ thi. Các sĩ phu trong và ngoài cung đình thường gắng thoát khỏi sự kiểm soát đó và lật ngược tình thế thành công bằng cách dùng các kỳ thi gây ảnh hưởng đến chính sách nhà nước hay làm sống lại các giá trị của kẻ sĩ”. Đó là một kinh nghiệm quí cho những người nghiên cứu khoa cử hiện nay.

Dưới các triều đại phong kiến cả ở Việt Nam và Trung Quốc, thi cử tất nhiên phải luận thuật kinh điển Nho giáo. Kinh điển Nho giáo dạy người học đạo tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ nên là nội dung học, thi chủ đạo. Khoa cử là một công cụ thống trị tư tưởng của các triều đại theo Nho giáo, dẫu là thi Minh kinh hay thi Tiến sĩ thì sĩ tử đều phải học thuộc lòng Tứ thư, Ngũ Kinh.  Đế chế Hán dùng chế độ 察举“sát cử” , cũng gọi là 荐举 “tiến cử” để tìm kiếm nhân tài. Từ các hương, lý bình nghị, qua khảo sát ở các quận, giới thiệu đến triều đình, triều đình dùng hình thức “sách vấn” hỏi các vấn đề kinh truyện Nho giáo. Khi đó chưa có hình thức thi văn chương. “Sách” nguyên là tấm thẻ trúc trên đó viết vấn đề cần hỏi, người ứng thí hồi đáp lại (đối sách).  Tuy nhiên, hình thức sát cử không có vị trí quyết định, quyết định vẫn là chế độ “thôi cử”, nằm trong tay các quan viên cao cấp thao túng. Mặt khác, để được “thôi cử”, không ít người “ngụy quân tử”, tỏ ra có đạo đức tư cách để mê hoặc nhân thế.

Lịch sử khoa cử Trung Quốc chính thức bắt đầu năm 605, khi Tùy Dạng Đế đặt ra khoa Tiến sĩ, Minh Kinh, thi sách vấn để chọn kẻ sĩ, mở ra trang mới trong lịch sử tuyển bạt nhân tài ở Trung Quốc. Cần phân biệt rõ, ở đời Đường, khoa thi Tiến Sĩ có nội dung chủ yếu thi văn chương,[2] còn khoa thi Minh Kinh, sách vấn dùng để kiểm tra hiểu biết về kinh điển, từ đây, hai phương diện kinh thuật và từ chương dần trở thành nội dung khoa cử. Đến đời Đường, khi Võ Tắc Thiên trị vì, thiết lập các hình thức khảo thí như thiếp kinh, tạp văn, sách văn. Tạp văn chỉ loại văn chương các loại văn thư chốn cung phủ, về sau phát triển thành thi phú. Thời Đường và Tống là thời kỳ từ chương (văn chương khoa cử) thịnh hành nhất. “Sau 680-81 diễn ra việc chuyển dịch tầm quan trọng từ thi minh kinh -kiểm tra hiểu biết về kinh điển bao gồm ba câu hỏi về chính trị sang văn chương của kỳ thi tiến sĩ trong đó vẫn có một câu hỏi về chính trị thì tiêu chí văn học còn thống trị trong thi tuyển kẻ sĩ đời Đường cho đến tân cuối triều đại này” (Benjamin A. Elman , 2000, tr.10). Theo Từ điển lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc (tr. 150) : “Nội dung khoa thi tiến sĩ, đời Đường xem trọng thơ phú, đời Tống thì có lúc trọng thơ phú, có lúc trọng kinh nghĩa hoặc cả hai, nhưng nghiêng về trọng kinh nghĩa hơn”.

Đời Đường và Bắc Tống là hai triều đại duy nhất trong lịch sử khoa cử Trung Quốc dùng thơ phú để tuyển chọn kẻ sĩ, tức trọng thơ phú hơn kinh thuật, lấy việc khảo thí thơ phú làm nội dung chủ đạo dẫn đến những cuộc tranh đấu giữa hai nội dung kinh thuật và từ chương. Triều Đường có đặt khoa thi Minh Kinh (hiểu biết kinh điển nho gia) song trong cái nhìn xã hội, sự trọng thị vẫn dành cho tiến sĩ là những người có tài văn chương (熊庆年, tr.8).

Về nguyên nhân của việc đời Đường đề cao thơ phú trong kỳ thi tiến sĩ, có nhà nghiên cứu lý giải : “Các vấn đề chính sách thi hành trong các triều đại Đường và Tống là những phương tiện để gửi gắm các vấn đề về thiết chế, chính trị, văn hóa, đôi khi bao gồm cả những ý kiến phi chính thống và người ta khen ngợi xu hướng thiên trọng văn chương hướng về thơ, phú trong các kỳ thi ở Trung Quốc. Tuy nhiên, sự thiên trọng ở thời Đường cho các vấn đề thơ ca và hình thức văn học trong chương trình thi tiến sĩ sau năm 681 phản ánh sự thay đổi quan trọng : sự nhấn mạnh vào thơ phú và văn hóa trong giới quý tộc tinh hoa đời Đường, những người bất mãn với chuẩn mực của kinh học được qui định trong kỳ thi minh kinh. Các bài văn sách vẫn rất quan trọng ở thời Đường và còn có cả những kỳ thi chuyên biệt (chư khoa) về luật, toán, cổ ngữ, lễ, Đạo giáo, lịch sử, song năng lực của sĩ tử viết được các thể văn khác nhau nhanh chóng trở thành báu vật văn hóa mà giới trí thức thời Đường tìm kiếm”.    (Benjamin A. Elman , 2000, tr. 9-10). Nhưng theo Hùng Khánh Niên, sở dĩ sĩ  đời Đường đa phần coi trọng khoa thi Tiến sĩ hơn khoa Minh kinh vì những người đỗ Minh kinh chỉ được tuyển bạt làm quan lại cấp châu quận; thêm nữa, vào những thời điểm  gặp khó khăn về kinh tế, như hồi loạn An Sử, năm 757, quốc khố trống rỗng, triều đình bất đắc dĩ phải cho phép nộp tiền để được công nhận minh kinh xuất thân, nhưng đối với khoa Tiến sĩ, không có việc đó (熊庆年, tr. 8).

Tuy nhiên, ngay từ đời Đường, đã diễn ra những cuộc tranh luận không ngớt về khuynh hướng kinh thuật hay từ chương trong khoa cử. Thời Thịnh Đường, Đường Huyền Tông là thời kỳ coi trọng việc dùng văn chương tuyển kẻ sĩ, khoa thi tiến sĩ còn gọi là 词科“từ khoa”. Năm 674, Lưu Hiểu dâng sớ nói : Bộ Lễ lấy kẻ sĩ, chuyên dùng văn chương phân biệt thứ hạng, nên kẻ sĩ trong thiên hạ đều bỏ đức hạnh mà chạy theo văn nghệ, có kẻ sáng đăng giáp khoa mà chiều rơi vào chỗ hình tội, tuy hàng ngày tụng vạn ngôn mà có quan hệ gì với lý thể, bảy bước thành văn mà chưa đủ giáo hóa mọi người. Huống tận tâm ở chốn cây cỏ, cực bút ở chốn mấy ráng, đến mức thành tục, há có phải là nói bậy ư. Ôi con người mà chuộng danh, như nước chảy xuôi, lên trên thì tốt, xuống thấp là hỏng. Bệ hạ thủ sĩ lấy đức hạnh làm đầu, văn nghệ là ngọn, tất nhiều kẻ sĩ nô nức, bốn phương phong động” (chuyển dẫn theo 刘海峰, tr. 7). Đã có một sự hòa giải bằng cách áp dụng cả nội dung thi Minh kinh cùng với thi Tiến sĩ ngay năm 752. 

Đầu đời Tống, tiếp tục tranh luận giữa hai phái kinh thuật và văn học. Đại biểu cho phái kinh thuật có Phạm Trọng Yêm, Tư Mã Quang, Vương An Thạch, đại biểu phái văn học có Âu Dương Tu, Tô Thức. Phạm Trọng Yêm “Khoa thi lấy tiến sĩ, dựa theo các đời thịnh trị, xin tấu: tiến sĩ trước thi sách luận sau thi thơ phú, ngoài các khoa mặc nghĩa đã thông kinh điển, khiến cho người không chuyên từ tháo, tất phải sáng rõ đạo lý, tất việc giảng học trong thiên hạ hưng thịnh, kẻ phù bạc biết là phải cố gắng, đó là điều hết  sức trọng yếu” (chuyển dẫn theo刘海峰, tr. 8). Vương An Thạch đề nghị cải cách văn thể, bãi bỏ các hạng mục khảo thí như thơ, phú, thiếp kinh, mặc nghĩa, yêu cầu các sĩ tử mỗi người chuyên trị một kinh trong số các kinh Dịch, Thi, Thư, Chu Lễ, Lễ Ký, kiêm luyện tập Luận ngữ, Mạnh Tử. Cuộc cải cách về  nội dung và phương pháp khảo thí này đề cao tác dụng của kinh nghĩa, sách, luận trong việc tuyển chọn kẻ sĩ.  Khảo thí được phân làm tứ trường: trường 1) hỏi 10 điều về đại kinh, đại nghĩa; trường 2) kiêm cả kinh và đại nghĩa mười điều; trường 3) một bài luận; trường 4) văn sách hỏi ba điều. Vào điện thí chuyên dùng văn sách. Cuốn Tam kinh tân nghĩa do Vương An Thạch biên soạn được triều đình dùng làm tài liệu học tập và đáp án tiêu chuẩn (刘海峰, tr. 9). Tư Mã Quang tiếp tục duy trì quan điểm tương đồng với Vương An Thạch về tiêu chuẩn thi chọn kẻ sĩ. Ông viết : “Đường lối thủ sĩ tất trước tiên phải dựa vào đức hạnh, sau đó mới đến văn học. Nói đến văn học thì kinh thuật tất đi trước từ chương”[3]. Lối văn kinh nghĩa của Vương An Thạch đặt nền tảng cho lối văn bát cổ là lối văn nặng về thử thách, gò bó, hạn chế năng lực sáng tạo của thí sinh.

Năm đầu niên hiệu Nguyên Hữu (1086), khi vừa lên ngôi, Tống Triết Tông lại chủ trương cân bằng giữa kinh thuật và văn chương, lập hai khoa Kinh nghĩa và Từ phú. Năm Nguyên Hữu thứ 2 (1087) thay đổi phép thi, khôi phục vị trí của thơ phú theo đó, khoa Tiến sĩ có bốn trường: trường 1) hỏi hai đề về kinh nghĩa chuyên về một kinh, Luận ngữ Mạnh Tử mỗi sách hỏi một đề; trường 2) thi thơ phú kiêm luật thơ mỗi môn một đề ; trường 3) một đề viết luận; trường 4) thi hai đề về chư tử, sử, thời vụ sách. Theo một bản tấu của Trung Thư tỉnh năm Nguyên Hữu thứ 8 (1093), sĩ tử phần đông luyện tập thi phú, trong số hơn hai ngàn một trăm Thái học sinh, chỉ có 82 người không kiêm thơ phú. Vua hạ chiếu năm sau vào Ngự thí, những người luyện tập thơ phú thi ba đề, những người chuyên trị kinh điển thi bài sách luận (刘海峰, tr.9). Như vậy, không phải chỉ ở các kỳ thi cấp tỉnh mà cả điện thí, thơ phú, văn học là một nội dung thi quan trọng. Tuy nhiên, chủ trương của nhà Tống về khoa cử diễn biến khá phức tạp: đến 1094, lại hạ chiếu thi tiến sĩ bãi bỏ thơ phú, chuyên tập kinh nghĩa, vào Đình đối, thi sách.

Sang đời Nguyên, những ảnh hưởng của Lý học Tống Nho bắt đầu thấy rõ trong chính sách khoa cử. Năm 1313, lấy nghị luận kinh nghĩa làm nội dung khảo thí chính. Nguyên Nhân Tông tiếp thu kiến nghị của các đại thần về việc “dĩ kinh thủ sĩ”, đã xác định mục đích khảo thí là để tuyển bạt kẻ sĩ “minh kinh tu thân” nên thiết lập khoa thi “đức hạnh minh kinh”, nội dung khảo thí chủ yếu là tri thức về kinh nghĩa, có bao gồm cổ phú, các thể văn ứng dụng như chiếu, cáo, biểu. Từ đây đến cuối đời Thanh, khoa cử đều lấy kinh nghĩa làm nội dung khảo thí chủ yếu.

Qua các đời Tống, Nguyên, thể chế khoa cử đã định hình thành quy phạm nhưng đến đời Minh, triều đình đã có cái nhìn phê phán khoa cử từ Hán đến Đường, Tống vì tình trạng thiên về văn chương. Chu Nguyên Chương, năm thứ 3 niên hiệu Hồng Vũ (1370) nói trong chiếu thư “Từ các đời Hán, Đường đến Tống, việc chọn kẻ sĩ đều có định chế nhưng quý trọng văn học mà không truy cầu sự toàn diện của đức nghệ…Bắt đầu từ tháng 8 năm nay, thiết lập nền khoa cử cốt nhằm lấy những người hiểu biết kinh điển, tu dưỡng đức hạnh, uyên bác việc cổ kim, danh và thực tương xứng” (chuyển dẫn theo 柴志明, tr. 149). Năm thứ 12 niên hiệu Vĩnh Lạc (1413), Minh Thành Tổ sai tu soạn Tứ thư đại toàn, Ngũ Kinh đại toàn phố, Tính lý đại toàn  ban hành rộng rãi tiếp tục khẳng định chủ trương đó.  Tuy nhiên, Minh Thái Tổ và những người nối nghiệp chỉ lấy thể văn bát cổ bó buộc tài năng sáng tạo của sĩ tử vào một thể tài cứng nhắc. Thể văn bát cổ là một thể tài văn chương trong khảo thí khoa cử thời Minh-Thanh. Để trang trọng, người ta gọi đây là loại “chế văn” hay “chế nghệ” ý nói văn chương phụng mệnh sáng tác; còn nói sự thực, người ta dùng tên gọi “thời văn”, “thời nghệ”, với ý nói thứ văn ứng tác, đối phó với khảo thí, không dùng bên ngoài trường thi, khó mà lưu truyền hậu thế. Vương An Thạch đã từng đề nghị phế bỏ thi thơ phú, chỉ dùng kinh nghĩa khảo sát người ứng thí. Nội dung thể văn bát cổ xác định, về hình thức phải tuân thủ khuôn phép. Thí sinh phải đứng trên quan điểm nho gia để giải thích ý nghĩa của Tứ thư, phải dựa trên Tứ thư tập chú của Chu Hy, Lý học gia thời Tống. Đồng thời phải mô phỏng khẩu khí của thánh hiền cổ đại để hành văn (熊庆年, tr. 76). Thể văn bát cổ gò bó, công thức, không có tính sáng tạo. Cố Viêm Võ (1613-1682) phê phán thể văn bát cổ : “Cái hại của văn bát cổ ngang với việc đốt sách chôn nho; làm bại hoại nhân tài như chôn người ở Hàm Dương” (chuyển dẫn theo柴志明, tr. 150).    

  1. 2.          Khoa cử tại Việt Nam

Khoa cử tại Việt Nam phản ánh sự vận động của tư tưởng chính trị và văn hóa  Việt Nam thời trung đại. Ở đây chúng tôi chỉ bàn đến quan hệ giữa kinh thuật và từ chương.

Trong các khoa thi đầu tiên diễn ra vào đời Lý, nhà nước phong kiến chủ yếu dùng khoa cử để truyền bá, phổ biến Nho giáo. Theo Lịch triều hiến chương loại chi –Khoa mục chí, năm 1075 thi Minh kinh bác sĩ tức là tìm những người học rộng về kinh điển Nho giáo và thi Nho học tam trường. Các tài liệu lịch sử còn lại ghi chép chung chung, không cho biết rõ tam trường thi những nội dung cụ thể nào. Năm 1086 thi người có văn học, nhưng khái niệm văn học như đã nói, hoàn toàn không đồng nghĩa với văn học hay từ chương. Năm 1185, thi chọn người thông Kinh Thi, Kinh Thư thì liên quan đến kinh thuật. Điều này có thể hiểu được: giới văn học ở Đại Việt hồi đó chưa lớn mạnh và đông đảo. Thi tam giáo ở các năm 1195, 1227 phản ánh tư tưởng của triều đại Lý-Trần tranh thủ các giới trí thức cả ba giáo trong khi vẫn tiếp tục truyền bá Nho giáo ngày một sâu rộng bằng các khoa thi. Đến đời Trần, vào năm 1305, đã xuất hiện kỳ thi bốn trường mô phỏng thể thức thi thời Tống-Nguyên trong đó kết hợp cả luận thuật kinh điển và từ chương: trường 1 thi Kinh nghĩa (và Kinh nghi), trường 2 thi thơ cổ thể ngũ ngôn trường thiên lấy bốn chữ tài, nan, xạ, trĩ làm vần; phú dùng thể 8 vần; trường 3: thi chiếu, chế, biểu; trường 4 : thi văn sách (Phan Huy Chú, tr. 10-11). Có thể nói, bắt đầu  từ khoa thi này, dù có những biến động nhất định, song thể thức thi tứ trường kết hợp kinh thuật và từ chương là xu thế chính.  Khoa thi 1396 theo thể thức nhà Nguyên, phép thi bắt đầu chặt chẽ, hạn định số chữ của mỗi thể văn, ví dụ như bài kinh nghĩa từ 500 chữ trở lên, trường nhì thi một bài thơ Đường luật, bài phú dùng cổ thể, hoặc thể ly tao, văn tuyển, hạn định dung lượng từ 500 chữ trở lên; trường ba thi Chiếu, chế, biểu dùng thể tứ lục đời Đường; trường tư thi văn sách, đề hỏi về kinh sử, thời vụ, độ dài từ 1000 chữ trở lên (Phan, tr. 13). Định lệ này sẽ có ảnh hưởng  lâu dài đến khoa cử Việt Nam trung đại.   

Theo khảo cứu của Nguyễn Thế Long, chọn 7 khoa thi từ đời Trần đến đời Nguyễn, hầu như bốn kỳ thi (trường thi) mỗi khoa đều có sự phối hợp hai nội dung lớn là luận thuật kinh điển và từ chương, trừ khoa 1858.

Năm

Kỳ 1 Kỳ 2 Kỳ 3 Kỳ 4 Kỳ 5

1396

Trần Thuận Tông

Kinh nghĩa Thơ, phú

Chiếu, chế,

Biểu

Văn sách  
1406 Hồ Hán Thương Kinh nghĩa Thơ, phú Chiếu, chế biểu Văn sách Viết và toán
1434 Lê Thái Tông Kinh nghĩa Chiếu, chế, biểu Thơ, phú Văn sách  
1832 Minh Mệnh Kinh nghĩa Thơ, phú Văn sách Phúc hạch: 1 bài biểu  
1850 Kinh nghĩa Văn sách Chiếu, biểu, luật Thơ, phú  
1858 Tự Đức Kinh nghĩa Chiếu, biểu, luật Văn sách    
1876 Tự Đức Kinh nghĩa Thơ, phú Văn sách Phúc hạch : một bài chiếu hay biểu  

(Nguyễn Thế Long 1995, tr. 132)

Ở Đàng trong, năm 1674, Khoa thi chúa Nguyễn tổ chức cũng có ba kỳ gồm cả Kinh thuật và văn chương, kỳ 1 làm một bài tứ lục; kỳ 2 thi thơ phú; kỳ 3 thi văn sách.  Hồng Đức 1470-1497

Đó là nhìn chung, nói khái quát. Đi vào nghiên cứu chi tiết, thực tế phong phú, phức tạp hơn. Như quan sát của nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc chỉ ra, trong các bia tiến sĩ ở Văn Miếu Thăng Long, ít nhất có 6 văn bia các khoa thi năm 1481, 1496, 1502, 1511, 1565, 1646 phê phán Công Tôn Hoằng và Vương An Thạch (Nguyễn Vinh Phúc, tr. 324). Phải chăng trong khoảng thời gian này, khoa cử Việt Nam chưa bị ảnh hưởng bởi chủ trương thiên trọng kinh thuật, đè nén từ chương với lối văn bát cổ phản tiến bộ của Vương An Thạch ? Nhưng chính văn bia do Nguyễn Đôn Phục soạn vào đời Hồng Đức năm thứ 15 (1484) cho khoa thi 1478 ghi nhận việc dùng kinh nghĩa, sách luận để thi tuyển sĩ tử đã được chú ý từ thời Lê Thái Tổ: “Thái tổ Cao Hoàng Đế ngay từ khi sáng lập ra triều ta đã dùng kinh nghĩa,  sách luận để thi học trò, khoa mục khởi thủy từ đấy. Thái Tông Văn Hoàng Đế kế nghiệp, mở mang kỷ cương…Nhân Tông Hoàng Đế nối theo phép cũ không dám sơ xuất” (Ngô Đức Thọ, tr. 202). Có lẽ điểm này cần được xác minh thêm bằng nhiều tư liệu khác.

Những biến động trong văn thể ở thế kỷ XVII, tức là sau khi nhà Lê đánh bại nhà Mạc, khôi phục được quyền lực mà nhà nho xưa định danh là Lê Trung hưng, được phản ánh trong các chủ trương nhiều lần được nhắc lại: cần trở lại với văn thể đời Hồng Đức. Năm Chính Hòa thứ 14, 1693, có lệnh trở lại văn thể đời Hồng Đức. “Từ Trung Hưng đến nay những người học hành, chuyên chuộng tầm chương trích cú, văn chương ngày càng thấp kém và dở. Bài trường thiên đến chỗ trực đoạn tất dùng một câu khai giảng. Để chiếu ứng toàn đoạn thì đặt chữ “nhiên”, nhưng ở đầu thì gọi là ‘quá tiếp thể” (thể chuyển tiếp),cứ nhắm mắt mà viết thẳng ra, cho nên thực ra không có cấu tứ gì. Thi, phú, tứ lục đều rập theo thể văn cũ, không ngại trùng lặp. Đến đây mới ra lệnh chấn chỉnh lại: từ nay phép thi nhất thể dùng thể văn đời Hồng Đức. Lúc làm bài thì tùy câu hỏi, cốt dùng ý mình nghĩ mà viết ra,hơi văn hồn nhiên, không được viết trầm theo lời văn cũ [đã thuộc] (Đại Việt sử ký tục biên, tr. 38).

Đến năm Cảnh Hưng thứ 12 (1751),  “Chỉ dụ cho các học quan khôi phục văn thể đời Hồng Đức. Buổi quốc sơ về văn chương hùng hồn chứ không cần cân đối. Cốt nói được điều cốt yếu, đại thể, chứ không phân biệt từng mục nhỏ. Khoảng niên hiệu Thiệu Bình (1434-1439), Hồng Đức (1470-1498), môn kinh nghĩa không câu nệ ở chương nào, như câu “Nhặng xanh kêu vo ve, đậu ở tấm phên”[4] . Sĩ tử nếu không phải là người thông kinh truyện, thì không thể làm được kinh nghĩa. Về môn tứ lục, thơ, phú, khi thì dùng cổ sử, khi thì dùng sách ngoại thư [ngoài kinh điển qui đinh] hoặc dùng chính sự đương thời, ví như những đề ra sau đây : bài chế “Cho Lê Niệm giữ chức Bình Chương”, bài biểu “Về việc Chiêm Thành cống voi” và các đề thơ phú như “Độ nghĩ kiều”, “Nghiễn trì ngưu”, “Ngư phủ nhập đào nguyên”, “Hải đường thụy vị túc” v.v…nếu không phải người giỏi về từ phú thì không thể làm được thơ phú và tứ lục. Văn sách cũng thế. Đầu đời Trung Hưng, một lần biến thành lối văn tầm chương trích cú. Khoảng năm Chính Hòa, Giáp Tuất (1694) bàn khôi phục lại văn thể Hồng Đức. Vũ Thành, Ngô Vi Thực nối nhau chấn chỉnh và chỉ thi ở hai kỳ xuân thu. Những kỳ văn sách thi hội lại khôi phục thể chế cũ. Năm ngoái, kỳ phúc khảo ở bãi Trung sa, Ngô Đình Oánh và Trần Huy Bật ra đề, lại chia ra nhiều mục. Nhữ Đình Toản ghét, xin với Chúa ban dụ chỉ xuống rằng: văn sách cổ hỏi về sự đúng sai của chính thể đại lược, văn sách kim hỏi việc thời sự cơ nghi, các kỳ thi hương, hội, đình đều theo văn thể Hồng Đức” (Đại Việt sử ký tục biên, tr. 220-221). Về hiện tượng này, Phan Huy Chú bình luận như sau “Văn chương thi cử đời Lê, sau khi Trung hưng so với khi mới khai quốc khác nhau rất xa. Trước văn gọn mà ý sâu, đến sau Trung hưng thì văn rườm rà mà ý cạn. Khi trước văn lưu loát mà rộng, đến sau Trung hưng thì văn hẹp hòi mà quê mùa…Ngay như lúc này bàn theo văn thể đời Hồng Đức, mà cũng chỉ thi hành được hai khoa, rồi sau lại chia mục từng chương, ra đề lại y như thói cũ. Đến cuối đời Cảnh Hưng, càng tủn mủn tìm tòi, chương cú vụn vặt, không còn chút khí cách hùng hồn nữa. Ôi đổi suy ra thịnh, đổi kiêu bạc ra thuần hậu, thật có quan hệ đến vận đời, muốn một phen chấn tác, có lẽ cần phải đợi chăng” (Phan Huy Chú, tr. 33). Ông còn dẫn lời khải lên chúa Trịnh của Ngô Thì Sĩ : “Văn chương quan hệ thế đạo, mà muốn cầu người tài giỏi phải lấy giáo hóa làm đầu. Bản triều ở đời Hồng Đức, phép dạy phép thi cũng chỉ có kinh nghĩa, lấy nghĩa tùy ý đặt lời, nếu không phải là người học rộng hiểu sâu thì không làm nổi; tứ lục dùng cả cổ thể và công việc bản triều; thơ phú thì hoặc theo lối Ly tao, hoặc theo lối văn tuyển, không cứ thể cách ngũ ngôn hay thất ngôn, lối bát vận của Lý Bạch, hay lối liên châu, có khi dùng sử truyện và sách ngoài, cùng tả cảnh, nếu không xem rộng chư tử và các sử, và không có văn nghệ dồi dào, cũng không làm được” (Phan Huy Chú, tr. 33-34).

Để đánh giá đúng các ý kiến nói trên của người xưa thực ra chúng ta cần có nhiều tư liệu để so sánh văn thể Hồng Đức với văn thể sau Trung hưng, một nhiệm vụ lớn, phức tạp không thể giải quyết ngay trong bài này. Điều khó khăn mà thú vị của người đọc hiện đại là tìm ra mạch ngầm ẩn dưới những diễn ngôn phê phán văn chương từ sau Trung hưng và yêu cầu phục hồi lại văn thể đời Hồng Đức. Có hiểu được diễn ngôn này thì mới hiểu được ý kiến của Lê Quý Đôn và hiểu được không gian văn hóa nửa cuối thế kỷ XVIII.

Việc lấy mốc Lê Trung hưng để đánh giá phê phán văn thể khoa cử, việc lấy văn thể thời Hồng Đức làm chuẩn mực là thực tế suy nghĩ phổ biến không chỉ trong văn bản chính thức mang tính quan phương như lời khải của Ngô Thì Sĩ, lời bình luận của sử gia như Phan Huy Chú mà cả của các văn nhân thi sĩ viết với tư cách cá nhân. Phạm Đình Hổ viết trong Vũ trung tùy bút “Từ đời Lê Trung hưng trở về sau, văn thể càng ngày càng kém…Khoảng đời Minh Đức, Đại Chính khí thế càng ngày càng kém. Những kẻ tao nhân văn sĩ đều đua nhau theo lối văn phù phiếm, so với đời Tiền Lê, lại càng kém lắm. Song thói học còn chưa đến nỗi hủ lậu, nên học vấn, văn chương, chính sự , công nghiệp, cũng không đến kém cổ nhân mấy. Đến đời Lê Trung hưng thì cái danh nghĩa khôi phục, tuy chính đáng thật, nhưng quyền về Trịnh súy phủ. Những người thân sĩ Thanh Nghệ phần nhiều được giữ vị trí trọng yếu; phong thanh, khí tập có khác với thói khoan hòa, giản dị đất Tứ Tuyên. Vả lại cái đức chính của đời Minh Đức, Đại Chính nhà Mạc vẫn còn cố kết ở lòng người chưa quên. Vậy nên vận trời đã về nhà Lê mà lòng người hướng theo nhà Mạc vẫn chưa hết. Những nhà nho đời bấy giờ còn nhiều người còn nhiều người còn náu hình giấu bóng không chịu ra. Còn những kẻ ra ứng dụng cho đời thì phần nhiều là những phường hủ lậu, ít người tài giỏi. Học trò Thanh Nghệ trải qua buổi loạn lạc, không được học mấy; khi ra làm quan, chiếm được địa vị trọng yếu coi giữ việc công, chỉ làm theo ý riêng của mình, muốn thắng cả tiền nhân. Những khi giảng học và mở khoa thi, phàm những đại nghĩa kinh truyện và nguồn gốc trị loạn từ xưa tới nay, điều hay điều dở không mấy người để ý khảo sát cho tinh, chỉ chuyên học những bài chú thích, những bài nghị luận của các bậc hậu nho và nhặt lấy những câu đầu đề hiểm hóc để ra văn cho hay. Những kẻ chuộng công danh lúc bấy giờ chỉ theo đòi hóng gió, tập làm lối văn chương hoa hòe, chứ không có căn bản gì cả…Học tập như thế mà mong làm những việc kinh bang tế thế thì sao được”  (Phạm Đình Hổ , tr. 176-178).

Về nội dung thi, Phạm Đình Hổ viết trong bài Phép thi : “Từ đời Lê Trung Hưng trở về sau, thi Đình thi bài chế sách, thi Hội, thi Hương cũng toàn thi văn chương cả” (Phạm Đình Hổ , tr. 179). Về thể văn bát cổ, Phạm Đình Hổ phản đối ý kiến Lê Quý Đôn (Lê Quý Đôn nói trong Kiến văn tiểu lục rằng lối văn bát cổ không có quan thiết gì đến trị thế). “Lối văn bát cổ tuy không có quan hệ gì đến phép trị nước, nhưng tập làm được lối văn ấy, nếu không phải là người học quán xuyến cả kinh truyện, thì không thể hạ bút mà viết được” (Phạm Đình Hổ, tr. 181).  

Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục tranh luận với quan điểm chủ trương dùng văn bát cổ đương thời: “Gần đây, có người nói văn bát cổ ở Trung Quốc mới mẻ, sắc sảo, trang nhã, dồi dào, quan Tham tụng Nguyễn Công Hãng muốn dùng thể văn ấy để thi lấy sĩ tử. Tôi thiết nghĩ như thế là không đúng. Bởi vì đặt ra khoa cử, tuy có thi, từ, phú, sách, luận, thể thì văn hoa, thể thì chất thực, thể chế khác nhau, nhưng tóm lại, chỉ là dùng lời nói suông để chọn người, mà người ta cũng dùng lời nói suông ứng đối lại, thực ra thì đến khi thi thố ra việc làm, vẫn không phải ở những điều ấy, vả lại căn cứ vào mấy bài thi nơi trường ốc, chỉ biết sơ lược đại khái,  làm gì mà có thể xem xét hết được nhân tài ? …Vậy khoa điều cử nghiệp cần phải bớt đi, trình thức cần phải giản dị, thì sĩ tử không phân tán chí ý, mà việc học được chuyên mà văn từ mới có thể khả quan, nhân tài không đến nỗi bỏ sót. Nếu không thế thì không tránh được mối lo như người đi nhiều đường tìm dê mà dê vẫn bị mất. Nhà Tống chia kinh nghĩa và thơ phú làm hai khoa, cho sĩ tử được tùy ý làm bài thi, quan trường đều phân biệt phê duyệt lấy đỗ; phép thi triều nhà Minh, nhà Thanh, chỉ có kinh nghĩa, phú, văn sách và bài luận, chia làm ba kỳ, sĩ tử đều được làm cả các bài, quan trường duyệt cả các bài mới định được thủ xả. Nay phép thi của bản triều, kỳ đầu thi kinh nghĩa, kỳ hai thi chiếu, chế và biểu, kỳ ba thi thơ phú, kỳ bốn thi văn sách. Bốn kỳ được hợp cách mới là trúng tuyển, mỗi kỳ một lần duyệt, đã sàng sảy đi rồi, nếu lại thay bằng văn bát cổ thi vào kỳ đầu, để hạn chế bó buộc sĩ tử, thì còn được mấy người dự tuyển nữa. Sáo văn kinh nghĩa thật là vụng về quê kệch không có văn chương, cốt yếu đều theo ý nghĩa ông Trình, ông Chu, bắt người ta phải học thuộc lòng những bài truyện chú, rồi xén bớt biến hóa đi cho hợp với thể cách, đã là khó rồi, nhưng cứ như thế cũng có thể biết được người thông suốt tinh tường nghĩa sách, việc gì phải dùng thể thức mới nữa” (Lê Quý Đôn, Kiến văn tiểu lục, 104-105).

Tổng hợp lại, có thể xác định hai tư tưởng có liên hệ chặt chẽ với nhau ngầm ẩn sau các diễn ngôn phê phán văn thể hậu Lê Trung hưng và yêu cầu khôi phục lại văn thể thời Hồng Đức. Tư tưởng thứ nhất là mượn thực trạng khoa cử với rất nhiều tệ lậu, không phải chỉ ở phạm vi văn thể với sự lợi hay hại của văn bát cổ mà trong nhiều lĩnh vực khác như vấn đề đề thi, vấn đề mua bán danh vị, việc thu tiền “thông kinh”… để phê phán chính trị từ sau Lê Trung hưng, thời kỳ kéo dài từ đầu thế kỷ XVII đến cuối thập niên tám mươi của thế kỷ XVIII-thời kỳ các chúa Trịnh tiếm quyền vua Lê, biến vua Lê thành bù nhìn, ngai vàng vua Lê thành hư vị. Khoa cử có quan hệ mật thiết với chính trị. Giáo dục của đạo Nho coi trọng nhất ở lòng trung quân, nhưng chính người lãnh đạo tối cao, nắm thực quyền là các chúa Trịnh từ sau đời Lê Trung hưng cậy công lao đánh bại “ngụy Mạc”, dấy nền trung hưng, đã nắm thực quyền, chà đạp lên danh giáo. Chúa Trịnh công nhiên ra đề thi trong kỳ thi Đình, một công việc mà các hoàng đế trước đây thường làm. Danh phận, lễ nghĩa bị vùi dập. Vậy thì luận kinh nghĩa để làm gì, và ai dám bàn trực diện về đạo trung hiếu nữa đây. Văn chương khoa cử cuối cùng né tránh những vấn đề bức thiết của thời vụ, sa vào hoa hòe, tầm chương trích cú, sa vào nội dung trống rỗng, không cơ bản[5]-thực trạng đáng phê phán đó của khoa cử mà rất nhiều diễn ngôn về khoa cử của người đương thời thực ra chỉ là bề nổi của một thực trạng khác đáng phê phán hơn mà các nhà nho bàn về khoa cử không tiện, không dám nói ra nhưng muốn gửi gắm. Tư tưởng thứ hai là cần khôi phục lại trật tự đạo đức Nho giáo đã bị phá vỡ sau Lê Trung hưng, mà việc khôi phục văn thể đời Hồng Đức chỉ là hình thức diễn ngôn, là phương tiện gửi gắm. Ở trên chúng tôi đã lưu ý đến một số văn bia tiến sĩ đời Hồng Đức và sau đó ở thế kỷ XVI khẳng định nguyên tắc chọn kẻ sĩ tiên đức hạnh, hậu văn chương, nguyên tắc đã được chính Vương An Thạch nhà Tống đề cao.  Có thể nói, luận điểm trở lại văn thể đời Hồng Đức được phát biểu là cách gián tiếp phê phán tình trạng “lưỡng đầu chế” của xã hội Việt Nam kể từ sau Lê Trung Hưng. Cải cách văn thể có liên quan mật thiết đến thay đổi chính trị chứ không chỉ thuần túy dừng lại ở văn thể.

  1. Quan điểm văn của Lê Quý Đôn

Đến đây thì chúng ta có thể nhận ra Lê Quý Đôn muốn đối thoại với ai, với quan điểm nào khi ông viết thiên Văn nghệ trong Vân Đài loại ngữ. Những người trước và đương thời với Lê Quý Đôn chủ trương trở lại văn thể Hồng Đức như đã phân tích trên đây đã tách rời “văn” và “đức” (như ngày nay gọi là văn và người), điều mà theo Lê Quý Đôn, không thể làm được. Văn và đức là hai mặt của một bản chất không tách rời. Ông muốn trình bày có lý luận, bài bản nhất mối quan hệ này, điều mà  hầu như chưa có một nhà nho nào làm được trong lịch sử Việt Nam  trung đại.

  1. 2.1.          Lý luận về quan hệ giữa văn và đức     

Mục đích của khoa cử thời cổ, trung đại là tuyển chọn nhân tài cho hệ thống chính quyền nhà nước. Nhưng tài năng là một cái gì trừu tượng, mơ hồ, không nhìn thấy được.  Một câu hỏi tất yếu đã được đặt ra từ thời cổ đại : căn cứ vào cái gì để đo đếm được tài năng của một con người ?  Các nhà tư tưởng cổ đại đã đề cập đến mối quan hệ giữa năng lực biểu đạt ngôn từ với tài năng. Khổng Tử đã nói đến các cặp quan hệ “đức” và “ngôn”, “chất” và “văn”. Hình thức cao nhất của năng lực ngôn từ chính là thi ca. Ông nhắc nhở học trò “Bất học thi vô dĩ ngôn (Không học Kinh Thi lấy gì để nói). Thiên Nghiêu điển (Thượng Thư) khẳng định ngắn gọn “Thi ngôn chí”, Trịnh Huyền chú “Thi sở dĩ ngôn nhân chi chí ý dã” (Thơ nói ý chí của con người). Theo khảo cứu của nhà nghiên cứu Chu Tự Thanh, “chí” là “hoài bão”, điều ôm ấp trong lòng. Người có tài năng, khát vọng chính trị phải dùng thi ca để biểu lộ hoài bão- điều ấp ủ trong lòng. Thời cổ đại, theo khảo cứu của Chu Tự Thanh, có nhiều cách thực hành chức năng, công dụng của thi như “hiến thi trần chí”, “phú thi ngôn chí”, “giáo thi minh chí”, “tác thi ngôn chí”…

Khái quát lý thuyết về mối quan hệ giữa văn và đức, thiên Nguyên đạo của Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp viết: “Con rồng, con phượng có vẩy, có lông để phô bày sự rực rỡ, con hổ con báo có vằn có đốm để ngưng tụ vẻ ly kỳ. Mây ráng có sắc màu như họa công vẽ tranh. Cây cỏ tươi hoa lá như Chức nữ dệt gấm. Mọi thứ đều có vẻ ngoài trang sức, đó cũng là tự nhiên. Đến như gió thổi trong rừng như đàn cầm đán sắt, suối reo trên đá như tiếng khánh tiếng chuông. Cho nên có hình thì thành chương, thanh phát thì thành văn vậy. Các vật vô tri vô giác mà cũng tự nhiên có văn. Huống hồ con người có tâm lại không có văn hay sao ?” (Lưu Hiệp, tr. 49). Vũ trụ luận cổ đại mà Lưu Hiệp cũng như Lê Quý Đôn trình bày đều chú ý đến tính phổ quát của “văn” như là một phương thức biểu đạt một phẩm chất nội tại. Lưu Hiệp kết thúc thiên Nguyên đạo “Kể từ Phục Hy truyền đến Khổng Tử, các huyền thánh sáng tạo khuôn mẫu, bậc Tố Vương thuật giảng giáo huấn, tất thảy đều do đạo tâm mà phô bày, từ thần lý mà thiết giáo, tìm tượng hình ở Hà Đồ, Lạc Thư, hỏi vận số ở cỏ thi mai rùa. Xem văn của trời mà suy thấu lẽ biến chuyển, xét văn của người mà giáo hóa thành công; nhờ đó mà kinh luân được quốc gia, chỉnh lý được pháp độ, làm vẻ vang cho sự nghiệp, làm giàu đẹp cho văn từ. Mới hay: Đạo nhờ thánh nhân mà truyền văn, thánh nhân nhờ văn mà minh đạo, nơi nơi thông suốt mà không trì trệ, ngày ngày sử dụng mà không thiếu hao. Kinh Dịch nói rằng, “Lời nói sở dĩ có thể cổ vũ được thiên hạ, đó là văn của đạo vậy” (Lưu Hiệp, tr. 49-50). Văn tâm điêu long chỉ rõ, văn trước hết là thứ văn học chức năng có khả năng làm rõ tư tưởng thánh hiền (trưng thánh) và làm sáng tỏ lục kinh (tông kinh). Ông viết “Theo cách chọn người bằng cửu năng thì việc chính trị và từ hàn (từ chương) là một thể” “những người nào cho văn chương là cành, là lá thì thật chưa biết điều đó” (Lê Quý Đôn b, tr. 96).

  1. 2.2.          Chủ trương rèn tập từ chương văn học :

Sau khi lập luận về mối quan hệ gắn bó, không thể tách rời giữa văn và đức, Lê Quý Đôn mượn quyền uy phát ngôn của cổ nhân, trình bày các mẫu mực văn chương ở các thời theo quan điểm của ông, như muốn chống lại lối văn mẫu, lối văn trường ốc bán tràn lan đương thời, khiến sĩ tử ai nấy đều mua, học thuộc lòng, một xu hướng rất có hại tư duy và thực học của sĩ tử. Đây là một quan điểm khai phóng, mở rộng phạm vi đọc, học hỏi của sĩ tử, văn nhân, không chỉ gói gọn trong phạm vi Tứ thư, Ngũ kinh. Các sách được ông liệt kê có : Trang Tử, Hoài Nam Tử, Sử ký, Tả truyện, Sở từ, Quốc ngữ, Tam quốc chí…Ông dẫn các lời bàn của cổ nhân về nghệ thuật đọc sách, nghệ thuật viết. Ông dường như muốn giới thiệu cho giới sĩ tử các thể văn mẫu mực cần đọc “Văn nghị luận thì phải lấy sách của Đổng Trọng Thư và Lưu Hướng làm chủ. Ông dẫn Văn tâm điêu long  bàn về các loại tác phẩm mẫu mực thực sự : “Sách Văn tâm điêu long chép :  Luận thuyết, từ, tự thì Kinh Dịch làm đầu. Chiếu sách chương tấu thì Kinh Thư khởi nguồn. Phú tụng ca tán thì Kinh Thi dựng thể cách. Minh, châm, lụy, chúc thì Kinh Lễ mở mối. Ký, truyện, di, hịch thì Kinh Xuân Thu làm gốc. Tăng Nam Phong nói “Văn chương nguồn gốc ở Lục Kinh, thật đã thấy rõ điều đó ở đây” (Lê Quý Đôn b, tr. 103). “Chu tử nói : “Người nào muốn biết làm văn phải đọc văn của bộ Tây Hán, văn của Âu Dương Tu, văn của Nam Phong và văn của Hàn Dũ”. Ông dẫn nhiều lời bàn của Âu Dương Tu, ví dụ, “Văn chương thánh nhân mượn đó để diễn đạt tới chỗ lòng mình muốn nói, đã đạt tới thì thôi, đã cùng lý thì thôi, không phải cố ý đề cao nó, hay hạ thấp nó, hay làm tỏ tường nó, hay làm giản lược nó. Cho nên chỗ đồng nhau hay khác nhau về văn chương là do ở khí cách cao hay thấp, ở ý tứ cạn hay sâu, chứ không phải ở việc cắt phân chương cú, phế bỏ thanh vận” (Lê Quý Đôn b, tr. 106). Ông dẫn các lời bàn của cổ nhân, bàn  rất sâu về các thể loại, đặc biệt là thơ hay.

Về bản chất cái hay, cái đẹp của văn chương, ông đặc biệt đề cao sự chân thực, điều thường rất thiếu trong thức văn chương nói chí, kể cả văn khoa cử, khi kẻ sĩ có điều chất chứa trong lòng thì không nói ra, điều nói ra lại giả tạo. Ông viết “Tư Mã Thiên và Ban Cố chỉ căn cứ vào sự thật mà chép, vốn không có ý làm văn chương, cho nên văn hay. Đầu đời nhà Tống thì có ý lấy việc tu chỉnh bộ sử làm văn chương, cho nên văn không hay”. Không chỉ sự thật khách quan mà cả sự chân thật từ trong tâm của kẻ làm văn chính là những yếu tố quyết định cái hay của văn chương. “Thơ khởi phát tự lòng người. Ba trăm thiên trong Kinh Thi phần nhiều xuất phát từ điền phu, khuê phụ mà các văn sĩ đời sau không thể theo kịp được, là vì nó chân thành. Những bài ca, bài hành trong Nhạc phủ đời nhà Hán, nhà Ngụy còn có ý vị đời xưa. Từ đấy trở về sau, thơ bị thanh luật bó buộc, bị âm vận giới hạn, người có tài thường lo về phóng túng, kẻ bất tài thường khổ về câu nệ mà những gì phát tự cõi lòng đều không chân thật” (Lê Quý Đôn b, tr. 124). Bản chất vấn đề không phải ở cải cách văn thể mà ở sự chân thực trong tâm của người viết.

Lê Quý Đôn cân bằng giữa từ chương và kinh thuật nhưng về kinh thuật, ông lưu ý đến cách học “Cuối đời Nam Tống, người học Lục kinh không đọc bổn văn và phần truyện, phần chú của các nhà nho đời trước, chỉ lấy những bài văn trúng tuyển trong khoa cử đời gần đây đọc lên bắt chước theo. Chọn lấy những câu có thể làm đề mục trong kinh rồi đem ý nắn nót làm càn lấy chủ trương. Đó là điều mà ông Khảo Đình (Chu Hy) phải than thở và là cái tệ hại thông thường của hậu lai. Chọn kẻ sĩ lại không chuyên thực hành, giảng học lại không chuyên kinh thuật thì không thể ngăn cấm việc phù phiếm khô khan rối loạn được” (Lê Quý Đôn b, tr 113-114).  

Cách tiếp cận của ông đối với các kinh điển Nho giáo rất khác, rất ít thấy ở các nhà nho khác thời trung đại : ông nhấn mạnh đến khía cạnh điển phạm về từ chương, văn thể của Ngũ Kinh như để lưu ý cho kẻ học, người đi thi cần học tập những gì ở các kinh điển đó. Ông nhất quán với bản thân mình, không khi nào tách rời văn và đạo. Luận thuật kinh điển và nắm vững chính nghệ thuật từ chương của kinh điển là một điểm mới rất đáng ghi nhận ở tư tưởng Lê Quý Đôn. 

Không phải ngẫu nhiên, Hoàng Việt văn hải (Lê Quý Đôn biên tập) và Hoàng Việt văn tuyển (Bùi Huy Bích biên tập) chỉ chọn các thể loại chức năng như phú, hịch, cáo, chiếu, chế, biểu mà không quan tâm đến các tác phẩm văn xuôi có cốt truyện. Phải chăng các vị muốn giới thiệu cho kẻ sĩ đương thời những mẫu mực thơ văn nên học theo ?

Kết luận

Lịch sử khoa cử và các diễn ngôn về khoa cử không thể xem xét tách rời lịch sử chính trị và văn hóa xã hội của đất nước.

Lê Quý Đôn đối thoại lại với chủ trương khôi phục văn thể Hồng Đức, một chủ trương tách rời “văn” và “đạo”, đạo trước mà văn sau. Ông chủ trương một quan điểm “biện chứng” cả về lý thuyết và thực tiễn, theo đó văn và đạo không thể tách bạch được; ông phê phán, tranh luận với quan điểm nhị nguyên luận, hoặc A hoặc B. Lê Quý Đôn có lẽ  là nhà “giải cấu trúc” sớm nhất trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.

Viết phần Văn nghệ trong Vân Đài loại ngữ, nhà bác học không chỉ khẳng định tầm quan trọng của văn đối với việc đánh giá lựa chọn con người và đối với việc thực hành sống, thực hành chính trị của kẻ sĩ đã đỗ đạt, ông còn lần đầu tiên cố gắng giảng thuật những nhân tố làm cho văn chương hay, tức là thực hành từ chương học, không bàn suông về đạo lý, về thời chính như khá nhiều nhà nho quan tâm đến xã hội Việt Nam sau Trung hưng. Lê Quý Đôn thuộc số hiếm mẫu nhà nho quan tâm đến không chỉ nội dung giáo huấn mà cả giá trị văn học của kinh điển Nho giáo. Những người được đào tạo để tham gia vào bộ máy chính quyền cần nắm vững đồng thời cả kiến thức kinh điển Nho giáo và có năng lực biểu đạt kinh điển một cách văn chương, tức là phải nói và viết hay, đẹp. Quan điểm này đến ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị. Thực hành từ chương học như Lê Quí Đôn chủ trương có thể là độc đáo không chỉ trong lịch sử khoa cử Việt Nam mà cả ở Trung Quốc, một nhận xét cần tiếp tục được nghiên cứu sâu hơn.  

Tài liệu tham khảo

Trần Thị Kim Anh (2009), Sách văn và kinh nghĩa trong khoa trường Nho học ở nước ta, Tạp chí Hán Nôm, số 2 (93).

Phan Huy Chú (2002) Lịch triều hiến chương loại chí (Bản dịch), tập 2, NXB

Đại Việt sử ký tục biên (1676-1789) (2012), NXB Hồng Đức-Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông-Tây, Bản dịch của Ngô Thế Long-Nguyễn Kim Hưng.

Nguyễn Tuấn Cường (2010), Nghiên cứu Tứ thư ước giải (Lược tả văn bản và giải đọc bài tựa của Lê Quý Đôn) Tạp chí Hán Nôm, số 6 (103).

Vũ Phương Đề (2001) Công dư tiệp ký, NXB Văn học

Lê Quý Đôn a (2006), Vân đài loại ngữ, bản dịch Trần Văn Giáp 1961, NXB Văn hóa –Thông tin tái bản

Lê Quý Đôn b (1995), Vân đài loại ngữ, bản dịch Tạ Quang Phát, tập 2, NXB Văn hóa –Thông tin tái bản.

Phạm Đình Hổ (2001) Vũ trung tùy bút, Nguyễn Hữu Tiến dịch và chú thích, NXB Văn học.  

Ngô Thế Long 1995, Nho học ở Việt Nam –giáo dục và thi cử, NXB Giáo dục.

Nguyễn Công Lý (2011), Giáo dục khoa cử và quan chế ở Việt Nam thời phong kiến thời Pháp thuộc, NXB Đại học Quốc gia Thành phố HCM.

Nguyễn Vinh Phúc (2000), Các bia tiến sĩ Văn Miếu Hà Nội đã nói những gì ( in trong Vit Nam học : Kỷ yếu Hội thảo quốc tế lần thứ nhất, Hà Nội, NXB Thế giới, 2000)
Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch Viện sử học, tập I, NXB Giáo dục.
 Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Bản dịch Viện sử học, tập II, NXB Giáo dục.
Chu Phát Tăng, Trần Long Đào, Tề Cát Tường (2001), Từ điển lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc, Nguyễn Văn Dương dịch, NXB Trẻ. 
Nguyễn Q. Thắng (2005), Khoa cử và giáo dục Việt Nam, in lần 4, NXB Tổng hợp Thành phố HCM.
Benjamin A. Elman (2000), A Cultural History of Civil Examinations in Late Imperial China, University of California Press.

Benjamin A. Elman (2013), Civil Examinations and Meritocracy in Late Imperial China, Harvard University Press.

朱自青, (1998), 朱自青说诗,  上海古籍出版社

熊庆年(1997), 中国古代科举百态, 东方出版中心

林白, 朱梅苏 (2002), 中国科举史话, 江西人民出版社

李元华 (1994), 中国古代科举与 考试, 北京出版社

刘海峰 (2009), 科举制与儒学的传承繁衍, 中国地质大学学報(社会科学版), 第9 卷第一期 2009 年1月.

柴志明 (2004) 试论科举文化熏陶下的明代文人, 浙江大学学报人文社会科学版, 第34 卷第3其2004年5月.  

张希清 (1993), 中国科举考试制度, 新华出版社

Bài đã in trên Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, số  tháng 4/2020

 


[1] ) Chữ Hán : 文章者立身之大本經世之大務. 唐人言取士必以德行為先文藝為末, 盖為當日書判言耳, 非迪論也. 朱子曰: 言之無文行之不遠, 四教必先之, 以文約禮必先博文, 未嘗指為末事. 論語: 志於道據於德依於仁游於藝, 亦只平面說云不曾分本末. 毛詩傳說九能云 : 建 邦能命龜, 田能施命, 作器能銘, 使能造命, 升高能賦, 師旅能誓, 山川能說, 喪紀能誄, 祭祀能祝. 君子能九者,可謂有德音, 可以為大夫. 周家取士大概 如此, 是可謂為末乎. 大柢發外之英华由於銜中 之和順. 故有德者必有言, 有行者必學. 鳳爛其羽, 豹澤其毛, 修飾蕴依表裏一致. 朱子謂: 威儀之中度,言語之當理, 皆文也.  又云: 教以禮樂射御書數之文, 安有人既從事於此而謂有歉於德行者乎 ? 觀人者正當於此論, 不宜岐視 (Lê Quý Đôn b, tờ 1b, 2a)

[2] ) Khảo thí đời Đường có nhiều khoa mục như thi Tú tài, Minh kinh, Tú sĩ, Minh pháp, Minh tự, Minh toán v.v…Khoa Tiến sĩ đời Đường lấy thơ, phú làm chủ đạo. Khoa thi Minh kinh yêu cầu ứng thí thuộc kinh điển Nho gia và các bản chú sớ có quyền uy. Theo Hùng Khánh Niên, so với khoa Tiến sĩ thì khảo thí Minh kinh có phần dễ dàng hơn vì chủ yếu yêu cầu nhớ tốt, công phu học thuộc. Tuổi trẻ trí nhớ còn mạnh mẽ nên khá nhiều người đỗ Minh kinh khi còn trẻ tuổi, còn người đỗ Tiến sĩ thường ở độ tuồi đã cao. “Ngũ thập thiếu Tiến sĩ/Tam thập lão Minh kinh” (Năm mươi tuổi đỗ tiến sĩ còn là trẻ/Ba mươi tuổi đỗ Minh kinh đã là già” (五十少进士, 三十老明經 ) 熊庆年, tr.7).

[3] Nguyên văn “Thủ sĩ chi đạo, đương tiên đức hạnh, hậu văn học . Tựu văn học ngôn chi, kinh thuật hựu tiên ư từ thái”. Luận điểm này thường bắt gặp trong diễn ngôn về khoa cử tại một số thời kỳ ở Việt Nam trung đại. Ví dụ Văn bia Tiến sĩ năm Hồng Đức thứ 6 (1475) do Lê Ngạn Tuấn soạn có câu “Lựa chọn kẻ sĩ ắt trước hết phải xét đức hạnh sau mới xét văn chương, tức là phép tốt của lệ hương cử vậy” (Ngô Đức Thọ, tr. 190) (kỳ thủ sĩ tất tiên đức hạnh nhi hậu văn chương, tức hương lý cử tuyển chi lương pháp dã). Trong bài văn bia Tiến sĩ khoa Giáp Tuất năm Hồng Thuận thứ 6 (1514) của Vũ Duệ có nói:  “Trước phải trau dồi khí tiết, sau mới tới tài nghệ; trước phải nên đức hạnh, sau mới tới văn chương” (Ngô Đức Thọ, tr. 282) (tiên khí thức nhi hậu tài nghệ, tiên đức hạnh nhi hậu văn chương).

[4] ) Một câu trong thơ Thanh dăng, thiên Tiểu nhã, Kinh Thi, ý nói giống nhặng xanh làm cho thứ sạch thành bẩn, chỉ bọn tiểu nhân hay gièm pha.

[5] ) Phạm Đình Hổ nói về thơ khoa cử đời Lê Trung hưng “những bài thơ cử tử, cẩu thả xu thời; toàn là thô kệch cả”. Ông dẫn chứng hai câu trong một bài thơ ứng chế Thời hân phùng chí trị/ Thần nguyện thú tam thê (Mừng gặp thời thịnh đạt/ Muốn lấy đủ ba bà) (Phạm Đình Hổ, tr. 187). Ca ngợi thời thịnh trị thì phải nói cảnh vua sáng tôi hiền, nhưng sĩ tử biết nói gì khi chúa Trịnh lấn át quyền vua Lê, chà đạp danh giáo. Họ đành quay ra nói những điều viển vông cho qua chuyện. 

Thông tin truy cập

63703026
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1120
22198
63703026

Thành viên trực tuyến

Đang có 276 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website