20170728.hoa mai

Mộng mị và ảo giác cho đến nay vẫn chưa được lý giải tường minh, thống nhất. Trong văn chương, yếu tố văn hoá tâm linh kỳ bí này có vai trò và ảnh hưởng lớn. Các tác giả kể về giấc mơ, mượn mơ mộng để nói chuyện thực, mượn mộng ảo để giải toả bế tắc trong đời, lấy mộng để phúng dụ… Những bí hiểm của giấc mơ và các cách biến hoá giấc mơ, ảo giác cho ý đồ nghệ thuật của các tác giả đem đến cho văn chương mộng ảo một sức hấp dẫn rất riêng.

Sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát có tới 162 bài[1] đưa người đọc vào thế giới mộng mị và ảo giác. Những bài thơ đó góp phần chứng tỏ Cao Bá Quát là một cây bút có nhiều ý tứ mới lạ, ấn tượng trong văn học Việt Nam trung đại.

1. Mộng mị trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát

Trong thơ chữ Hán, Cao Bá Quát 129 lần dùng từ “mộng”. Trong đó, có nhiều hình thái “mộng” khác nhau. Có “mộng” phù vân của Phật giáo: Mộng đáo chư thiên tối thượng đầu ([Có phải] mơ đến các cõi trời là trên hết cả chăng - Du Nam Tào sơn tự lâu thượng ký vọng đề bích trình Thúc Minh, kỳ nhị), Mộng thất yên hoa lãn tiệm tiên (Mất cái mộng yên hoa nên bệnh lười cũng dễ thích nghi - Dạ thoại túng bút đồng Phan Hành Phủ), có khi là giấc mộng Nam Kha hư ảo: Thí vấn cổ thần đàm mộng sự/ Bách niên lai vãng kỷ hoàng lương (Thử hỏi thần xưa nói chuyện mộng/ Trăm năm qua lại, kể đã mấy giấc hoàng lương rồi - Tống Thổ Khối Nguyễn Kinh Lịch Bắc hồi), có mộng là lý tưởng, khát vọng: Tiền đồ lịch lịch câu nhàn mộng (Con đường phía trước rõ là giấc mộng viển vông - Hoạ Thúc Minh lưu biệt Doãn Trai chi tác kiêm thứ kỳ vận), Bạch gian thanh toả mộng tương vương (Cái khoá xanh rõ như ban ngày kia còn mơ mộng hi vọng gì - Phạm Học Sĩ, Vũ Ninh Phủ tịnh kiến phỏng mạn bút thư tạ), Hồ hải thuỳ đồng mộng (Ai có cùng mộng hồ hải - Đồng Chí Đình, Minh Trọng phiếm chu du Ngũ Hành Sơn hoạ Minh Trọng thứ vận), có mộng là chỉ cảnh suýt chết trong lũ lụt hãi hùng, khiếp đảm của tác giả với hai người bạn: Tàn mộng do kinh cửu dạ phong (Ác mộng đã tàn mà vẫn còn hãi vì chín đêm gió lộng - Đồng Lê Ứng Khanh dạ ẩm), có mộng là chút mơ màng, lãng mạn: Khởi lai đắc đắc hương sinh mộng (Đứng dậy ngửi được mùi thơm sinh mơ mộng - Thử khốn hí ngoạ hà diệp đồng Phan Sinh, kỳ nhất)… Bài viết này đề cập tới “mộng” - những giấc ngủ mơ của tác giả.

Phần nhiều bài thơ có chữ “mộng” của Cao Bá Quát là viết về những giấc chiêm bao mộng mị của ông. Ông có 43 bài nói về giấc mơ của mình. Sự vật, hiện tượng, nỗi niềm xuất hiện trong mơ của ông rất phong phú. Có khi là nơi cửa tía, mây khói gắn liền với ước vọng công danh: Tử khuyết vân yên thường ngọ mộng (Cửa tía, mây khói thường chiêm bao giấc trưa - Phái vãng dương trình chu hành phó Đà Tấn, tẩu bút lưu biệt thân thức), Đỉnh huyễn tha niên mộng (Ngôi Tể tướng trong giấc mộng năm xưa - Dạ vũ thư sự)... Có khi là chuyện hư huyễn như Lý Bạch: Tạc dạ mộng hồn phi quá lĩnh/ Ách quân trực hạ nguyệt giang cao (Đêm qua hồn chiêm bao bay qua đỉnh núi/ Đường hẹp ông rơi thẳng xuống mé sông trăng - Ký Thượng Mão Nguyễn tứ tú tài Dưỡng Chính). Có khi là dư âm kỳ diệu của thơ ca: Tạc dạ ngâm thi thanh đáo hiểu/ Mộng trung thượng giác dư thanh nhiễu/ Khởi lai nhất bán hoặc xuân tâm/ Phi nhập khinh yên uất mộng liễu (Hôm qua ngâm thơ cho đến sáng/ Trong mộng còn biết dư âm quanh quẩn bên mình/ Tỉnh dậy ít nhiều còn ngờ vực lòng xuân/ Cơ sự ấy hoà vào khói mây, niềm u uất trong mộng được xua tan - Tân xuân thí bút, kỳ nhị)...

Tuy nhiên, trở đi trở lại trong những giấc mơ của Cao Bá Quát thường là những cảnh vật, con người gắn bó thân thiết trong cuộc sống đời thường, cá nhân của ông. Ông mơ về quê hương (thơ ông có 16 lần ông thổn thức trong giấc mơ quê): Quy mộng trở sơn xuyên (Giấc mộng về [quê nhà] cách trở núi sông - Đoan ngọ), Mộng nhiễu gia hương chỉ xích gian (Hồn mộng quẩn quanh nơi quê nhà trong gang tấc - Để ngụ bệnh trung giản chư hữu), Hương viên mộng trở tam thu lạo (Hồn mơ về quê nhà, bị nước lụt mùa thu ngăn cách - Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ), Lữ mộng kinh tiêu vũ (Mưa trên tàu lá chuối kinh động giấc mơ xa nhà - Châu Long tự ức biệt, kỳ nhất)... Ông mơ thấy bạn bè: Chỉ kim lai vãng thục/ Do tác mộng trung du (Như nay qua lại quen thuộc như thế/ Vẫn còn cùng nhau du thưởng như trong giấc chiêm bao - Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận (thập nhất thủ)- kỳ lục), Xuân phong mi vũ mộng lai tần (Nhiều lần mộng thấy dung nhan ân huệ đến - Thứ vận Thương Sơn công kiến ký)… Ông mơ thấy những đứa con đã mất (Mộng vong nữ, Thất tử)... Những giấc mộng ấy cho thấy Cao Bá Quát là người sống rất tình cảm. Thơ ông giàu nỗi niềm cảm xúc riêng tư của một con người cá nhân nồng hậu, thắm thiết.

Đương nhiên, những giấc mộng của Cao Bá Quát còn có nhiều điểm chung với các tác giả trước. Mơ về quê chẳng hạn. Nguyễn Trãi cũng từng có giấc chiêm bao về quê day dứt:

Kỷ thác mộng hồn tầm cố lí,

Không tương huyết lệ tẩy tiên doanh.

(Quy Côn Sơn chu trung tác)

 (Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ,

Chỉ suông đem nước mắt pha máu mà rửa mộ tổ tiên) [4]

Sau Nguyễn Trãi, quê hương cũng hiện về trong giấc ngủ của Nguyễn Du:

Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ,

Ngũ canh tàn mộng tục hương quan.

(Thuỷ Liên đạo trung tảo hành)

(Tấm thân nhiều bệnh giao phó cho đường sá,

Trong giấc mộng tàn canh nằm vẫn còn mơ về quê hương) [3]

Vì lẽ, như các nhà nghiên cứu đã khẳng định, “Đối với người trung đại, gia đình, nguồn cội, quê hương là cái đảm bảo cho sự yên ổn, giá trị, mà một khi đã rời bỏ thì con người trở nên yếu đuối, trống rỗng như tự đánh mất mình” [7; tr.146]. Quê hương không chỉ là một mảnh đất, một ngôi nhà, hay những kỷ niệm, đó là biểu tượng của những giá trị muôn đời, là truyền thống gia đình và sự che chở của tiên tổ. Do vậy, khi phải sống xa quê, sống ngụ cư là một nỗi bất hạnh không thể bù đắp được. Với những giấc mơ về quê hương, nhà nho xưa rút khỏi thực tế không thoả mãn để tìm đến nơi thân thuộc bình yên trong mộng tưởng.

Đặc điểm ấn tượng, xúc động trong thơ Cao Bá Quát là những giấc mơ của ông thường hiện hữu những con người, cảnh vật, sự kiện... rất cụ thể, gắn bó mật thiết với đời sống tình cảm rất đỗi riêng tư của ông.

Trong những giấc mơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, quê hương rất ít những hình ảnh chi tiết, thường chung chung, không giới hạn, không xác định. Các tác giả không miêu tả mà đa phần chỉ nhắc tới những giấc mơ khắc khoải về chốn chôn rau cắt rốn. Còn Cao Bá Quát, mơ về quê, ông mộng thấy món gỏi cá lô đặc sản, thân thuộc: Cố hương lô khoái mộng sơ hoàn (Trong mộng mới hiện về món gỏi cá lô ở quê cũ - Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng nhị tri kỷ). Với giấc mộng này, tình yêu quê của Cao Bá Quát đúng là bắt nguồn từ lòng yêu những vật gần gũi, thân thương nhất! Sách xưa chép rằng, Trương Hàn đời Tấn làm quan xa; nhân một hôm gió thu bắt đầu thổi khiến ông nhớ canh rau thuần, gỏi cá lô (Thuần canh lô khoái) ở quê nhà, bèn than rằng: “Đời người ta quý nhất là được điều thích chí, sao có thể chịu trói mình vào chức quan nơi mấy ngàn dặm để cầu danh tước làm gì!” (Nhân sinh quý đắc thích chí, hà năng cơ hoạn sổ thiên lý, dĩ yêu danh tước hồ?). Đoạn ông sai thắng ngựa, rồi bỏ quan trở về. Từ đó, thành ngữ “Thuần canh lô khoái” được dùng để chỉ tấm lòng nhớ quê. Và cũng từ đó, hình ảnh rau thuần, cá lô[2] cũng trở thành biểu tượng của lòng nhớ quê, của phong vị nơi quê nhà.

Đặc điểm “thực”, chi tiết trong những giấc mơ của Cao Bá Quát được thể hiện rõ ở nhiều phương diện. Trong giấc mơ của Cao Bá Quát thường hiện lên những vùng đất, con người có tên riêng. Đó là những tên đất: Biệt lai bất trước Tô giang mộng (Từ khi xa nhau chẳng còn mộng thấy sông Tô Lịch nữa - Ký tiễn Hoan niết Nguyễn Nhân Trai phó lị, kỳ nhất), Hốt tác Giang Nam nhất mộng lai (Bỗng nằm mơ một giấc đến tận miền Giang Nam - Dư hốt ư mộng trung vãng thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm tử, kỳ nhất)... Đó là những tên người: Tạc tiêu hốt hốt kiến Long Trân/ Kim nhật tương phùng mộng thị chân (Đêm qua bất ngờ mơ thấy Long Trân/ Hôm nay gặp nhau mơ là thực - Long Trân hốt lai kiến tầm dĩ biệt cáo, nhân ký tạc dạ sở mộng thư dĩ tống biệt), Mộng Ngô Dương Đình (Nằm mơ thấy Ngô Dương Đình - Mộng Ngô Dương Đình), Cao tử dạ mộng (Chàng Cao đêm nằm mơ - Thất tử)...

Cùng với những tên người tên đất ấy là những chi tiết về hình dung, hành động, nỗi niềm trong những cảnh huống xác định. Người con gái đã mất hiện lên trong giấc mơ của Cao Bá Quát y như lúc đứa bé còn sống:

Thân viễn ngô đương bệnh,
Tư nhi mỗi tiết ai.
Hốt nhiên trung dạ mộng,
Sậu kiến lệ như thôi.
Y phục hàn nhưng phá,
Dung nhan thảm bất khai.
Thái diêm bần vị khuyết,
Tân khổ nhữ quy lai!

(Mộng vong nữ)

(Nhà xa bệnh lại dày vò,
Nhớ con hằng nén xót chua nghẹn ngào.
Ðêm qua bỗng thấy chiêm bao,
Gặp con, giọt lệ tuôn dào như mưa.
Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung!
Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Ðắng cay con hãy về cùng với cha!)

 Giấc mơ của tác giả không có những hình ảnh mờ nhoè, pha tạp của nhiều hình ảnh. Chỉ có duy nhất chân dung đứa bé hiện lên như thực, rõ ràng, cụ thể với hai chi tiết: quần áo rách rưới và nét mặt ủ ê. Người cha mộng thấy đứa con gái của mình trong bộ đồ nó từng luôn mặc khi còn ở dương thế. Hình ảnh này gần như là nỗi ám ảnh trong tiềm thức người Việt bao đời nay. Tập quán đốt áo mũ, vải vóc, vật dụng (hàng mã) cho người chết nói lên điều đó. Ca dao cũng phản ánh tục cầu hồn, với sự vất vưởng, đói khát của hồn: Hồn rằng hồn chẳng có nhà/ Ở rào ở giậu cùng bờ là tre, hay Hồn rằng hồn thác ban đêm/ Thèm cơm thèm cháo, hồn đâm thác ngày… Hình ảnh đói cơm rách áo của đứa trẻ chân thật và thương tâm như cuộc sống nghèo khổ của cộng đồng từ bao đời! Đau xót hơn là chi tiết: nét mặt buồn bã, không tươi. Con trẻ gắn liền với sự thơ ngây, hồn nhiên, trong sáng. Nhưng ở đây, đói khổ đã làm đứa trẻ già nua, khắc khổ. Quần áo và tâm tư khiến nó trở nên tiều tuỵ, thảm não. Những hình ảnh ấy cứa vào tim gan của người cha. Bài thơ kết thúc bằng tiếng cầu xin thảng thốt:

Thái diêm bần vị khuyết,

Tân khổ nhữ quy lai!

(Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Ðắng cay con hãy về cùng với cha!)

Tiếng gọi đau đớn này xuất phát từ sâu thẳm trái tim rất mực yêu con của cha. Nó tha thiết đến cháy lòng. Sau tiếng gọi thảng thốt, Cao Bá Quát bừng tỉnh giấc? Đó là lời ông cầu xin con trong lúc mê sảng hay khi đã sực tỉnh giấc chiêm bao? Khó xác định được. Người đọc nhận thấy mộng và thực đã không còn ranh giới. Thậm chí, cái ảo đã tan biến, chỉ còn lại nỗi đau tê tái thực của tác giả ứa máu trong từng dòng chữ!

Lần khác, giấc mơ tới con của Cao Bá Quát cũng xuất hiện rất “thực”:

Cao tử dạ mộng,

Hữu hài nhi tuỳ.

Cụ xưng thần ngôn,

Khẩu tạ thủ huy.

Bái đảo khung mân,

Hoằng ngã tích hi.

(Thất tử)

(Chàng Cao đêm nằm mơ,

Có đứa con đi theo.

Nói đủ lời thần bí,

Miệng tạ tay vẫy.

Cầu lạy cao dày,

Ban cho ta phúc lành.)

Ở giấc mộng này có yếu tố ảo: đứa con đi theo nói đủ lời thần bí, nhưng không nhiều. Vẫn là một chân dung như bằng xương bằng thịt với hành động: “miệng tạ tay vẫy”, “cầu lạy cao dày, ban cho ta phúc lành”. Những cử chỉ, hành động đáng yêu ấy thể hiện sự lễ phép và tình cảm hết mực yêu quý của đứa trẻ dành cho cha.

Lần khác, mộng về mái ấm gia đình, Cao Bá Quát kể về giấc mơ thấy điềm sinh con trai:

Ức dữ cố nhân ngôn,

Ngô dạ mộng hùng bi.

Chiêm chi viết sinh nam,

Môn hộ tương xanh chi.

(Tiểu nam sinh nhật)

(Nhớ [có] nói với bạn cũ,

Ta đêm chiêm bao thấy gấu.

 Xem thế bảo rằng sinh trai,

Cửa nhà sẽ được chống đỡ)

Giấc mơ ấy chạm khắc một nỗi niềm riêng tư. Đó là một khát vọng thành thực của người làm cha trong yêu cầu của thời đại bấy giờ: sinh được con trai nối dõi tông đường theo yêu cầu của chữ hiếu. Nó cho thấy trước khi người con ra đời, người cha rất đỗi hồi hộp, mong chờ. Sự thực ứng với điềm mộng khiến cho người cha bừng lên niềm vui sướng!

Có thể nói, những giấc mơ của Cao Bá Quát rất giàu chi tiết, giàu yếu tố thực. Điều đó khiến cho những giấc mộng của ông được tái hiện sống động. Những trải nghiệm trong mộng mị của ông không phải giả mà là chân. Nó như chứng minh cho quan niệm về giấc mơ dưới cái nhìn khoa học: mộng là hiện tượng khi ta ngủ có một số điểm của não hưng phấn không bị ức chế toàn diện và triệt để nên nó tiếp tục hoạt động mà sinh ra mộng. Chính những nhân tố của các điểm hưng phấn có liên quan đến tác dụng của những vết hằn do những kích thích quá mạnh của tri giác, cảm giác trước hiện thực khách quan trước đây của con người, cho nên những cảnh mộng nói chung có mối liên hệ nhất định với cảnh lao động, sinh hoạt,... thường ngày [5]. Có điều, đúng là Cao Bá Quát 127 lần dùng chữ “mộng” đều phản ánh hay nói đến bấy nhiêu lần ông nằm mơ hay không, thì điều đó nhất định là không chắc. Người nghệ sĩ một khi khó mà thực hiện điều mong nuốn trong đời thực, anh ta có thể mượn hình ảnh giấc mơ để tự do giải thoát qua tác phẩm văn chương. Giấc mơ đó, nói như Sigmund Freud, là “những giấc mơ trong khi thức”. “Những giấc mơ trong khi thức này sở dĩ được gọi như thế là vì trong những sự liên quan với đời thực chúng không có thực hơn gì những giấc mơ chính thức” [6; tr.113]. Ở đây, Cao Bá Quát mơ thấy món gỏi cá lư ở quê nhà như đã nói ở trên là một trường hợp như thế. Cũng theo Sigmund Freud, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng. “Trong các giấc mơ trong khi thức này người ta nhận thấy thực chất của cái hạnh phúc tưởng tượng làm cho con người được hưởng mọi sự khoái lạc bất cần những thực tế của cuộc đời. Chúng ta biết những giấc mơ trong khi thức đó chính là trung tâm điểm và điển hình cho những giấc mơ ban đêm” [6; tr.443].

Với những giấc mơ, đời sống tình cảm của Cao Bá Quát được diễn tả sâu sắc, xúc động. Tình cảm ấy được diễn tả cao hơn so với nỗi nhớ (tư, tưởng). Nhớ gắn liền với ký ức, kỷ niệm đã là sự thanh lọc, đọng lại những ấn tượng lớn lao nhất, thẳm sâu nhất. Đi vào giấc mơ, tình cảm được ghi dấu ấn cả trong tiềm thức, trọn vẹn trong mọi thời gian, mọi hoạt động của con người, cả khi thức lẫn lúc ngủ.

Viết về giấc mơ, Cao Bá Quát đã thực hiện quyền của người nghệ sĩ và đem đến sự an ủi, đền bù cho cả bản thân lẫn độc giả những thiếu thốn trong tình cảm và khát vọng, như Sigmund Freud nói. “Nghệ sĩ còn có quyền lực bí ẩn nhào nặn các vật liệu để trở thành hình ảnh trung thành của trí tưởng tượng vô thức làm cho trí tưởng tượng này gây ra một nguồn khoái lạc đủ để che giấu hay huỷ bỏ, dù chỉ là tạm thời những sự dồn ép”. “Phạm vi của trí tưởng tượng ngông cuồng là con đường trung dung được mọi người trong thế giới quí mến và tất cả những người nào thiếu thốn một cái gì thường đến tìm ở đó những sự an ủi và đền bù” [6 ; tr.447].

2. Ảo giác trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát

Ảo giác của Cao Bá Quát trong thơ ông có nhiều dạng thức. Trước hết, Cao Bá Quát có niềm tin mãnh liệt rằng kiếp trước ông là một nhân vật đặc biệt của cõi thiêng. Có lúc ông cho rằng mình vốn là một danh nhân của lịch sử: Dạ gian ức đắc quy phi mộng/ Do ký tiền thân bản thị Chu (Ban đêm nghĩ đến giấc mơ bay về/ Còn nhớ ra rằng kiếp trước chính mình là chàng Trang Tử - Tiểu ẩm hí bút), Ngã thị Hậu Sơn bệnh cư sĩ (Ta là một kẻ cư sĩ Hậu Sơn[3] nằm dưỡng bệnh - Lạp mai thi đồng Thận Phu, Cung Trọng tác), Kim Túc tiền thân chứng (Kiếp trước từng là Phật Thóc Vàng[4] - Bất tri thuỳ thị trích tiên tài). Thậm chí, kiếp trước của ông là minh nguyệt: Tri ngã tiền thân thị minh nguyệt (Chính là minh nguyệt, tiền thân của ta đó - Quỳnh Cần Phạm Giám sinh vị dư tụng mỗ phụ nhân trung thu dạ thi, tình trí thê uyển, nhược hữu bất thăng li biệt chi cảm giả. Kỳ tình dâm cố kỳ từ ai dĩ thương. Lễ nghĩa quân tử sở bất dự dã. Nhiêu Khâu Ma, Trạch Bồ chi phong do kiến thái ư kinh, tư cố thủ nhi lục chi, kiêm thứ kỳ vận, dụng tắc Phạm tử, diệc dĩ chư hảo sự vân)... Có khi ông lại khẳng định mình từng giữ những chức mọn nơi thiên đình, tiên cảnh: Hư đạo Thượng Thanh hương án lại/ Hối lao Trường Cát cẩm nang đồng (Từng làm chức quan coi việc nhang đèn ở cõi Thượng Thanh[5]/ Hận vì đã nhọc thân làm tiểu đồng mang túi gấm cho Trường Cát[6] - Hoạ Nhữ Nguyên Lập giáo thụ ngũ thập tự thọ ngũ thủ thứ vận, kỳ tam), Tiền thân nguyệt phủ tu (Thân kiếp trước từng sửa búa trăng[7] - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), Khiếu xưng thần hữu hiệu Mẫn Hiên/ Ôi danh cựu trứ Hương án lại (Kêu rằng: - Bạn thần hiệu là Mẫn Hiên/ Chức danh hèn mọn là cựu Hương án lại[8] - Đắc vũ đồng Phan Hành Phủ mính ẩm hiệu Hàn thể), Nghi thị tiền thân thị Ngọc Hoàng (Ngờ rằng tiền thân ta đã hầu Ngọc Hoàng - Châu)... Nhiều hơn cả là sự tự nhận mình là một chàng tiên ở Cao Bá Quát. Ông “tưởng” mình là khách của nhà trời: Thuỳ liệu Ngọc kinh Thiên thượng khách (Ai ngờ rằng đây là khách nhà trời của chốn Ngọc kinh - Đáp niên gia Vũ Hoài Phủ kiến tặng thứ vận, kỳ nhất). Ông tự nhận mình là “tiên tử”: Kỵ lư tiên tử hạnh nan phùng (Tiên tử cưỡi lừa khó gặp mơ - Dạ túc Triệu Châu kiều), là “thi tiên”: Bắc Sơn thi tiên Mẫn Hiên ông (Ông tiên thơ Mẫn Hiên ở núi Bắc - Di Xuân dĩ Tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút, ca dĩ đáp chi), là “thiên tiên”, “ngoan tiên” bị biếm trích ở cõi trần: Phụ kinh sơ thí tiểu ngoan tiên (Người ta chỉ mới thử chàng tiên bướng xem có hối lỗi mà mang roi hay không đó thôi - Cửu nhật chiêu khách), Ngoan vân thâm xứ ngoạ ngoan tiên (Đám mây nhởn nhơ nơi sâu thẳm có ông tiên bướng bỉnh nằm ở đó - Tặng Trà Lũ cử nhân), Tiêu nhiên trích truỵ cổ ngoan tiên (Thản nhiên đày xuống trần gian vị tiên cổ bướng bỉnh - Dạ thoại túng bút đồng Phan Hành Phủ), Nhân bản thiên tiên trích (Người vốn là tiên trên trời bị đày xuống trần - Chúng tiên đồng nhật vịnh Nghê thường), Ký đắc thử bang tằng trích đoạ (Nhớ được chốn ấy từng [là nơi] bị biếm trích, đầy đoạ - Tàng Chân động)... Lối tự nhận gốc gác lai lịch thiêng này của Cao Bá Quát khiến thơ ông phảng phất hình bóng Lý Bạch, Nguyên Chẩn của Trung Quốc thời trước, và Tản Đà của Việt Nam thời sau. Với lai lịch ấy, Cao Bá Quát khẳng định mình khác người, vượt lên trên số đông trần tục. Đặc điểm “ngông” của Cao Bá Quát biểu lộ ở đây.

Không chỉ tin mình vốn thiêng, Cao Bá Quát còn thường xuyên đưa mình đến cõi mộng. Trong những phút giây ấy, cơ hồ như Cao Bá Quát có hiện tượng xuất thần, thân một nơi, hồn lạc vào những cõi miền khác nhau. Có hai loại không gian xuất hiện trong ảo giác của Cao Bá Quát: cõi trần và cõi hư.

Cõi trần gồm quán rượu và những cảnh nổi danh: Cơ như thân tại tửu gia lâu (Cơ hồ như ta đang ở quán rượu - Hoạ Lục Phóng Ông chinh nguyệt ngũ nhật xuất du), Tam Thanh, Bát Cảnh như truy tuỳ (Tưởng như Tam Thanh Bát Cảnh cũng theo mình đến - Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân), Hành, Nhạc, Thái Hàng thiên hạ sơn/ Hoàng Hà, Giang, Hán thiên hạ thuỷ/ Thuỳ khiển tam xích thằng sàng gian/ Điệp điệp trùng trùng kiến lưu trĩ/(...) Nhược thân ngô lịch túc ngô lý (Hành, Nhạc và Thái Hàng là những núi nổi tiếng trong thiên hạ/ Hoàng Hà và Giang Hán là những sông nổi tiếng trong thiên hạ/ Vì ai mà kẻ ở quanh cái võng ba thước này/ Lại được thấy cảnh sông núi trùng trùng, điệp điệp?/ (...) Tưởng như chính mình bước chân đến tận nơi ấy - Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu), Quải phàm hướng Thương Bột/ Nhất tiếu vọng Chi Phù (Căng buồm hướng về Thương Bột/ Cười một tiếng trông về núi Chi Phù - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)... Theo ảo giác, Cao Bá Quát thấy mình đến những miền đất xa xôi, nổi tiếng hoặc chính những miền đất ấy hội tụ, “theo” ông về!

Cõi hư là những cảnh thiên đình, cõi tiên của Đạo giáo hoặc những địa danh trong sách của nhà Phật: Hương Quốc, Dao Trì, Bồng Lai, Doanh Châu, núi Viên Kiểu, ngọn Phương Hồ, Nhị Châu, Tiên quế, bến Ngân Hà, Hoàng Cô, Thiên Tôn, đảo Lang Phong...: Hương Quốc quần tiên hội/ Hoa trường tuyển phật kỳ (Đông các tiên hội họp ở Hương Quốc/ Mong chọn được vị phật ở Hoa trường - Bất tri thuỳ thị trích tiên tài), Viên Kiểu vị câu lưu/ Hồi thủ Phương Hồ tức ([Nay] được núi Viên Kiểu bắt giữ lại/ Quay đầu đi tới ngọn Phương Hồ - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), Ngã hành tố Ngân Chử/ (...) Hoàng Cô diểu an cầu/ Thiên Tôn lộng vân cẩm/ (…) Hoàn khấu Lang Phong đảo/ (...) (Ta đi ngược lên bến Ngân Hà/ (...) Hoàng Cô[9] mịt mùng sao tìm được/ Thiên Tôn[10] còn đùa với gấm đẹp như mây/ (…) Lại gõ cửa đảo Lang Phong[11] - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)...

Trong những cõi phi thực ấy, Cao Bá Quát “gặp gỡ” với những con người đấng bậc, thần thiêng: Động Tân, Thái Bạch phân tống nghinh (Các ông tiên Động Tân[12], Lý Bạch rộn rã tiễn đưa - Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân), Thử trung vô số thánh, hiền, hào/ Dữ ngã lai vãng tận tri kỷ (Trong ấy có vô số các bậc hào kiệt/ Cùng đi lại với ta và thành tri kỷ cả - Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu), Lộ phùng Ngô tiên nhân (Trên đường gặp ông tiên họ Ngô[13] - Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân), Thượng Thanh chư tiên nhân/ Tiếu ngã thanh lang lang (Các nàng tiên cung Thượng Thanh/ Cười ta tiếng nghe lanh lảnh - Đàm thiên hành), Thượng Thanh chân nhân phi hạc mao/ Không trung di ngã lục ngọc trượng (Thượng Thanh chân nhân[14] xoã tóc bạc/ Trao ta gậy ngọc màu lục giữa không trung - Tự đề liễu yến trướng tử ca), Nam Đẩu Tinh Quân tiếu dư lão (Nam Đẩu Tinh Quân[15] lại cười ta già - Du Hưng Phúc tự đề bích)...

Cõi ấy bừng lên hoa ngọc, mây trời... với hương thơm, sắc thắm kỳ lạ: Dao thảo khai tam đảo/ Quỳnh hoa tuỵ thập châu (Cỏ dao phát triển trên ba đảo[16]/ Hoa quỳnh nở rộ trên mười châu[17] - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), San thụ sâm Bồng Đảo/ Ngân hoàng triệt Nhị Cung (San hô đầy rẫy nơi Bồng Đảo/ Bụi tre ngà giăng khắp cung Nhị Châu[18] - Chúng tiên đồng nhật vịnh Nghê thường), Thiên Tôn lộng vân cẩm/ Xán nhược tử ỷ cừu/ (...) Hải thị phú châu bội/ Yêu quang chiếu di mâu (Thiên Tôn còn đùa với gấm đẹp như mây/ Rực rỡ như lụa lông cừu màu tía/ (...) Ngọc trai hàng chuỗi tạo nên ảo ảnh/ Ánh sáng quỷ quái chiếu sáng khắp nơi - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên), Hoạ bình phiến thạch Thiên Thai san/ Tứ thời bát tiết sinh chi lan/ Ngọc giai trạc trạc thanh lang can/ Chi chi tiết tiết thuỳ châu hoàn/ Xuân vũ dục thấp xuân phong can/ Cô tư phiêu dật phi nhân hoàn (Bình phong vẽ bằng đá phiến núi Thiên Thai[19]/ Bốn mùa tám tiết sinh cỏ thơm chi lan/ Thềm ngọc lang can xanh bóng sạch sẽ/ Cành cành đốt đốt buông rũ hạt châu/ Mưa xuân muốn làm ướt, gió xuân liền lau khô/ Vẻ phiêu dật riêng không phải trong cõi người - Di Xuân dĩ Tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút, ca dĩ đáp chi)...

Diệu kỳ nhất và được Cao Bá Quát nhắc đến nhiều nhất là thi, nhạc -  những thanh âm, khúc nhạc du dương bao trùm, thấm đượm, tan hoà vào cảnh vật và những đấng bậc linh thiêng: Thử nhật Nghê Thường vịnh/ (...) Nhất khúc tấu Dao Trì (Ngày nay vịnh khúc nhạc Nghê Thường/ (...) Một khúc nhạc dâng lên ca ngợi cảnh Dao Trì - Bất tri thuỳ thị trích tiên tài), Đồng nhật Nghê Thường vịnh (Cả một ngày vịnh khúc Nghê Thường - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), Nghê Thường vịnh tối công/ Thanh bình tam điệp lộng/ Nhã Tụng nhất ban đồng/ (...) Thử khúc nghi thiên thượng/(...) Thanh tiêu âm tử tế/ Bích lạc vận đinh đông/ (...) Quỳnh bội hướng linh lung (Ca hát rất hay khúc Nghê Thường/ Vui ba lần láy lại điệu Thanh bình/ Sánh ngang với các phần Nhã, Tụng [trong kinh Thi]/ (...) Khúc hát này đáng loại ở trên trời/ (...) Âm thanh tề chỉnh vang trời xanh/ Làn điệu thánh thót trong khoảng không màu biếc/ (...) Đi hướng tới nơi đó, ngọc đeo trên người rộn ràng âm thanh - Chúng tiên đồng nhật vịnh Nghê Thường)... Những khúc nhạc kỳ ảo chỉ có ở chốn thần tiên, muôn đời đi vào huyền thoại (như Nghê thường vũ y khúc), hay điệu từ bất hủ ở chốn nhân gian (như Thanh bình điệu của thi tiên Lý Bạch), hay thơ ca đạt đến mức chuẩn mực trong kinh Thi… mới có thể dự vào đây cùng các đấng bậc thần tiên.

Nói chung, không gian ảo giác của Cao Bá Quát được tái hiện chủ yếu bằng các điển tích điển cố, phần nhiều là những điển về Đạo giáo. Cao Bá Quát chưa sáng tạo được những miền mộng siêu thực, tượng trưng như các nhà thơ mới Hàn Mặc tử, Bích Khê sau này. Song, thế giới cõi mộng của Cao Bá Quát cũng đã rất xa lạ với cảnh sắc của cuộc sống hàng ngày. Đó là một cõi huyền bí của thế giới cái đẹp. Nó khiến cho thơ ca Cao Bá Quát có thêm màu sắc mới mẻ, lãng mạn và kỳ ảo.

Con người Cao Bá Quát ở cõi miền tâm linh, mộng ảo ấy chỉ đôi lúc không còn ở trạng thái ý thức, mất mọi ràng buộc thể chất, đắm mình trong vô thức (khi say ở quán rượu để quên thực tại); còn lại, hầu hết được tác giả khắc hoạ với một niềm tin tuyệt đối. Thân hồn Cao Bá Quát như hoà nhập tột độ trong những ấn tượng và cảm giác ở thế giới hư ảo. Vậy nên, trong những vùng không tưởng ấy, tâm trạng, cảm xúc của Cao Bá Quát luôn dâng lên ở mức cao độ, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Khi thì ngạc nhiên, phấn khích, thăng hoa:

Bệnh trung hốt toạ, toạ hốt khởi,

Hạp ngô lưỡng mục, bế ngô nhĩ.

Trừng thần địch lự mặc dĩ du,

Nhược thân ngô lịch, túc ngô lí.

Khởi dư giả thuỳ? Bùi sứ quân!

(...) Đốt đốt nam nhi chân khoái sự !

(Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu)

(Rồi bỗng nhiên đang ốm, ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên,

Nhắm hai mắt lại, bịt hai tai lại.

Tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng, lặng lẽ cho tâm hồn giong ruổi,

Tưởng như chính mình bước chân đến tận nơi ấy.

Người làm cho ta phấn khởi như thế là ai? Là ông sứ họ Bùi!

(...) Chà chà! Làm trai như thế mới thực là khoái!)

Thủ pháp liệt lê một loạt hành động nhanh, gấp đã diễn tả thành công cảm giác kinh ngạc của chính tác giả khi đọc tác phẩm của ông sứ họ Bùi! Tác phẩm ấy khiến cho tác giả hồi sinh, khoẻ mạnh về thể chất, hết cả đau ốm, mệt mỏi (ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên). Hơn thế, nó làm thanh thản tâm hồn (tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng) và khai sáng nhận thức, đổi mới tư duy của tác giả.

Một lần khác, ảo giác thể hiện tâm trạng tê tái đến tột cùng trong nỗi đau mất con của Cao Bá Quát (Thất tử). Vì đau khổ, Cao Bá Quát không còn là một người bình thường nữa. Hỏi người đời không được giải đáp, ông tiến lên trời, hỏi Ngọc Hoàng, nghe câu trả lời của gã tóc đỏ - kẻ phát ngôn đại diện cho cõi trời. Ông dường như đang có tâm trạng của một kẻ điên khùng giống hệt hành xử và tâm lý của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao sau này. Bên trong sự phi lý ở lối chất vấn của Cao Bá Quát và tiếng chửi của Chí Phèo có sự diễn tiến rất logic. Câu trả lời của gã tóc đỏ cũng được tác giả nghe và ghi lại đầy đủ, rất dài và chi tiết, mạch lạc. Điều đó cho thấy cả Cao Bá Quát lẫn Chí Phèo đều rất “tỉnh” trong cơn say, cơn điên loạn! Nỗi đau, vì thế được diễn tả ở mức thấm thía, xót xa cực độ!

Một lần khác, Cao Bá Quát cũng bị rơi vào trạng thái hoảng loạn khi chứng kiến văn minh, sức mạnh phương Tây, thấy hậu hoạ xâm lược của phương Tây với phương Đông, trong đó có cả đất nước mình, đang hiển hiện trước mắt. Hồn ông đi tìm phương án ngăn ngừa ở các cõi mộng. Đầu tiên, ông đến bến Ngân Hà, tìm hỏi Ngưu Lang - chàng chăn trâu vốn người trần mắt thịt nhưng ở trên trời. Rồi lại lặn lội đến đảo Lang Phong gặp Tây Vương Mẫu. Sau đó, đến Thương Bột, Chi Phù tiếp xúc với bầy chim Tinh Vệ. Chưa có câu trả lời, lại đến tận Bồng Lai... Như có phép mầu của Tôn Ngộ Không, Cao Bá Quát đi hết nơi này đến nơi khác, gặp gỡ đủ mọi đối tượng, từ kẻ trần đến người tiên, từ chàng làm nghề mọn chăn trâu cho đến nhân vật thống soái của chốn thiên đình, từ nam cho đến nữ, từ người cho đến cả động vật, sự vật... Tất cả đều không có lời giải đáp cho nỗi sợ hãi của tác giả. Trong thế giới Cao Bá Quát tưởng có thể tìm được câu trả lời ấy, Thiên Tôn đang mải chơi đùa với gấm mây, Tây Vương Mẫu chuẩn bị du hành, bầy chim Tinh Vệ tiếp tục lo trả thù cá nhân, lũ chim xanh lặng lẽ ăn tiệc... Mọi đối tượng đều có việc riêng của mình, thờ ơ, không quan tâm đến nỗi nhức nhối trong tâm can của hồn Cao Bá Quát. Chỉ có con chim đại bằng hỏi lại một câu: “Mưu tính đuổi bọn quân xâm lược phương Tây chần chừ ư?” thì lại chỉ “Nghiêng cánh nhìn mây đỏ”, không biết trả lời sao! Phải nói rằng, dùng yếu tố hoang đường, ngòi bút của Cao Bá Quát có tính ngụ ý. Nó phản ánh sự bế tắc, bi quan của Cao Bá Quát trước việc tìm ra một phương sách đối phó với hiểm hoạ mất nước trong tương lai gần. Đồng thời, nó gợi ra sự tương phản, đối lập giữa cá nhân Cao Bá Quát với những đấng bậc bề trên chịu trách nhiệm và có vai trò quyết định với vận mệnh non sông.

Điều đáng nói nữa là những bài thơ ảo mộng của Cao Bá Quát thường viết theo cấu trúc: thực - ảo - thực. Nếu chiêm bao của Cao Bá Quát gắn liền với sợi dây của đời sống tình cảm cá nhân thì những ảo giác của ông lại thường xuất hiện khi đột ngột chạm vào những sự kiện đặc biệt. Các bài thơ chủ yếu bắt đầu là không gian, sự kiện thực. Như Cao Bá Quát du chơi ở Côn Sơn là thực: Khách đạo: Côn Sơn chi thượng thanh thả u/ Dữ tử tương tương phỏng cổ du (Khách nói: Trên núi Côn Sơn vừa mát mẻ vừa tĩnh mịch/ Chúng ta hãy cùng nhau lên thăm những dấu tích xưa - Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân). Nhưng sau khi vượt lên khoảng trời cao xa trên núi Côn Sơn, cảnh vật chung quanh tựa như tiên cảnh, thì lúc này Tam Thanh, Bát Cảnh như thể cũng theo cùng[20], và [các vị tiên] Động Tân, Lý Bạch [mới nhân đó] rộn rã đón đưa. Hay Cao Bá Quát ngắm trăng sông Trà là cũng là chuyện thực: Trà giang nguyệt/ Kim dạ vị thuỳ thanh (Trăng sông Trà/ Đêm nay vì ai mà trong trẻo - Trà giang thu nguyệt ca)..., nhưng khi nhà thơ say sưa cùng ánh trăng, hoà mình cùng vũ trụ, thì ông mới tự nhận mình là “anh bộ binh gặp bước đường cùng trong bọn Trúc Lâm[21]”. Hoặc có khi Cao Bá Quát rơi vào những cảnh huống bất hạnh, trớ trêu: Cơ lưu lưỡng thiên thứ/ Thập kiến hải nguyệt viên (Bị giam cầm đã hai lần đổi chỗ/ Và đã mười lần thấy trăng tròn trên mặt bể - Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân). Dưới ánh trăng rằm trong cảnh ngục tù, ông thả hồn lên tận tầng mây tía, và đã gặp ông tiên họ Ngô “trên đường đi” kéo vào cung quế chuyện trò hồi lâu, ông toan hỏi trời nhưng không được, rồi cuối cùng trở về với cảnh ngục tù. Hoặc trong cảnh đau đớn tột cùng vì mất con: Cao tử bất hạnh/ Nhi vẫn quyết nhi (Cao tử bất hạnh/ Nên mất đứa con - Thất tử), Cao Bá Quát đã phân thân thành một nhân vật siêu phàm, bay lên tận trời xanh để hỏi trời... Hoặc từ một sự kiện “lịch sử” khác của đời mình, đi “Dương trình hiệu lực”, tác giả từ chỗ tận mắt chứng kiến cảnh Cổn cổn thế vị hưu (Thế hung hăng cuồn cuộn chưa dừng - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên) của phương Tây mà phân thân bay ngược lên bến Ngân Hà để tìm Ngưu Lang, Chức Nữ...

Từ trong hiện thực cuộc sống, tác giả có khi ban đầu chỉ là “muốn” (dục) thoát ly, nhưng sau thì chìm vào ảo giác thực sự:

- Hạ hữu đại bằng tương cửu sồ,

Trắc thân ai minh thị thương mãng.

Ngã dục thừa chi phù dao thướng,

Phi khâm kiểu thủ vọng thiên nhưỡng.

Ngoan vân oanh hợp xương môn âm,

(Tự đề liễu yến trướng tử ca)

(Bên dưới có chim đại bằng đem chín con,

Nghiêng mình kêu thảm nhìn cỏ xanh rậm.

Ta muốn cưỡi nó bay vọt lên phía trên,

Áo lất phất ngẩng đầu trông trời đất.

Mây quấn giáp vòng cửa tiên râm mát)

- Ngã dục thừa vân ly,

Kiểu đầu khuy phù tang.

Hồi quy lãng phong điên,

Tức giá thu đồi quang.

Hốt truỵ xích ngọc tích,

Cánh cách Bồng Lai hương.

(Đàm thiên hành)

(Ta muốn cưỡi con vân li,

Cúi đầu trông xuống cây phù tang.

Bay về trong sóng gió điên cuồng,

Ngừng bay thu lại ánh sáng mờ đi.

Bỗng đánh rơi chiếc hài ngọc đỏ,

Lại cách xa quê xứ Bồng Lai)

- Ngã dục sáp song sí,

Phi bộ lăng tử yên.

Lộ phùng Ngô tiên nhân,

Ấp ngã quế thụ biên.

(Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân)

(Ta muốn chắp thêm đôi cánh,

Bay lên tận tầng mây tía.

Trên đường gặp ông tiên họ Ngô,

Kéo ta đến bên cây quế)

Có khi tác giả lập tức chuyển sang trạng thái hoang tưởng:

- Giải y phân thủ tản bộ hành,

Tùng đào vị ngã trữ viễn tình.

Tam Thanh, Bát Cảnh như truy tuỳ,

Động Tân, Thái Bạch phân tống nghinh

(Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác “Côn Sơn hành” vân)

(Phanh áo, giang tay bước đi thong thả,

Tiếng thông reo làm khuây cả nỗi lòng xa xôi.

Tưởng như Tam Thanh, Bát Cảnh cũng theo mình đến,

Và các ông Động Tân, Lý Bạch rộn rã tiễn đưa)

- Cử bôi thí yêu nguyệt,

Nguyệt nhập bôi trung hành.

Hàm bôi dục yết cánh phi khứ,

Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành.

(Trà giang thu nguyệt ca)

(Cất chén thử mời trăng,

Trăng vào đi trong chén.

Ngậm chén toan uống thì trăng lại biến mất,

Chỉ còn có bóng người dọc ngang)

- Nãi hô vấn thiên,

Thiên viết: Bất tri

(Thất tử)

(Bèn kêu hỏi trời,

Trời rằng: chẳng hiểu)...

Những ảo giác ấy rồi cũng tan đi, cuối cùng tác giả lại trở về với hiện thực buồn thương, nghiệt ngã. Trước mắt tác giả chỉ còn là những hình ảnh nổi trôi, vô định (mây bay), tàn lụi (lá rụng, tuổi già đến):

Sơn tiêu phục hữu cao tùng tam lưỡng chi,

Phan trắc diếu bát hoang.

Minh vân thiên ngoại phi,

Chinh điểu tương dữ hoàn.

Lạc diệp phân phân nhi,

Du nhân quy bất quy?

(Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác “Côn Sơn hành” vân)

(Kìa trên đỉnh núi còn có đôi ba cành tùng cao,

Trèo cho tới nơi, nhìn ra tám cõi.

 Chỉ thấy những đám mây lờ mờ bay tận ngoài trời,

Chim đi xa đã rủ nhau về.

Lá cây rụng đang bay phất phới,

Khách du tử về hay không đây?)

Ông đau đớn cất lên lời than:

Ô hô! Nhất danh cơ bạn trường như thử!

Bạch phát, thanh bào, ngô lão hĩ!

(Đề Sát viện Bùi công “Yên đài anh ngữ” khúc hậu)

(Than ôi! Một chút danh cứ ràng buộc mãi thế này,

Bạc đầu với chiếc áo xanh. Ta già mất rồi!)

Và rốt cuộc, lại mượn rượu, thơ để quên đi nỗi đắng cay, u uất:

Quy lai nhất trường khiếu,

Bả tửu dục vấn thiên.

Thiên cao bất khả vấn,

Thả phú Tù sơn thiên.

(Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân)

(Trở về ta huýt một hơi sáo dài,

Nâng chén rượu toan hỏi trời.

Trời cao không thể hỏi được,

Âu là ta cũng làm bài phú Tù sơn)

Kiểu kết cấu này gợi một vòng tròn luẩn quẩn, không lối thoát trong tâm hồn, tư tưởng tác giả. Nó kết lại nỗi đau tê dại, hoá đá trong lòng Cao Bá Quát.

Kết luận

Mộng mị và ảo giác tạo nên một ấn tượng đặc biệt cho thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Những giấc mơ, những cảm giác ảo của Cao Bá Quát vừa có yếu tố hiện thực vừa là bút pháp dùng ảo giác để phản ánh hiện thực, mượn mộng mơ nghệ thuật để hoá giải thực tại phũ phàng và nỗi niềm chua xót. Sự kết hợp thú vị giữa thực và ảo khiến thơ chữ Hán của Cao Bá Quát bắt đầu có sắc thái lãng mạn, siêu thực, tượng trưng của các tác giả Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bích Khê... sau này!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, Tập I, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

2. Mai Quốc Liên chủ biên (2012), Cao Bá Quát toàn tập, Tập II, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

3. Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa, chú thích (1996), Nguyễn Du toàn tập, Tập 1 và 2, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

4. Mai Quốc Liên chủ biên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Tập 1, 2 và 3, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

5. Nguyễn Thị Nhàn, “Yếu tố chiêm mộng trong truyện thơ Nôm”, http://www.pupuneko.net/tabid/330/itemid/4991/default.aspx

6. Sigmund Freud (1970), Phân tâm học nhập môn, Nguyễn Xuân Hiếu dịch, Nxb. Khai trí.

7. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục.

8. Kim Cương Tử chủ biên (1998), Từ điển Phật học Hán-Việt, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội.


[1] Căn cứ theo Cao Bá Quát toàn tập (Mai Quốc Liên chủ biên), hai tập, Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Tập I năm 2004, Tập II năm 2012. Toàn tập công bố 1212 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát. Các trích dẫn thơ Cao Bá Quát trong bài đều căn cứ theo sách này.

[2] Rau thuần, cá lô: Thuần là một loài rau mọc trong hồ nước, chỉ phần đọt non nhú lên khỏi mặt đất mới được hái làm rau. Lô, cũng đọc là lư, là một loài cá nước ngọt rất ngon, nhưng phông phải cá vược ở ta.

[3] Hậu Sơn Cư Sĩ là hiệu của Trần Sư Đạo (1053-1102), nhà thơ đời Tống, từng làm quan đến chức Giáo thụ Từ Châu, Giáo thụ Dĩnh Châu, suốt đời an bần lạc đạo. Trước tác có Hậu Sơn tiên sinh tập, Hậu Sơn từ…

[4] Phật Thóc Vàng: dịch chữ Kim Túc trong nguyên văn, chỉ Kim Túc Như Lai, được coi là tiền thân của cư sĩ Duy-ma. Vị cổ Phật này đã mượn thân cư sĩ giáng sinh cùng thời với đức Phật Thích-ca để ủng hộ Phật Pháp [8; tr.634]. Thi hào Lý Bạch trong bài Đáp Hồ Châu Ca Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân tự nhận mình là “trích tiên” (tiên bị đày), và kiếp sau của ông sẽ là Kim túc Như Lai (Thanh Liên cư sĩ trích tiên nhân,… Kim Túc Như Lai thị hậu thân).

[5] Cõi Thượng Thanh: một trong 3 cõi Thanh (Tam Thanh) của Đạo giáo (gồm Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Tam Thanh), nơi ở của các đạo sĩ đắc đạo thành tiên.

[6] Trường Cát là tên tự của Lý Hạ (790-816), nhà thơ lớn đời Đường được mệnh danh là Thi Quỷ. Sách xưa chép rằng: Lý Hạ mỗi khi đi đâu thì cưỡi lừa, hễ nghĩ ra một câu thơ hay thì chép bỏ vào túi gấm do tiểu đồng mang theo hầu, tối về sửa lại thành bài.

[7] Búa trăng: dịch chữ nguyệt phủ có nghĩa là “búa để sửa trăng”. Theo truyện thần thoại Trung Quốc, mặt trăng là do 7 thứ báu vật (san hô, hổ phách, xà cừ, mã não, kim ngân, trân châu, lưu ly) hợp thành, và phải dùng tám vạn hai ngàn hộ để sửa nó.

[8] Hương án lại: tiên đồng phụ trách việc hương đèn ở nhà trời. Nguyên chú: Nguyên Chẩn thi, Ngã thị Ngọc Hoàng hương án lại (Thơ Nguyên Chẩn có câu: Ta vốn là viên quan coi việc hương án của Ngọc Hoàng). Bài thơ Dĩ châu trạch khoa ư Lạc Thiên của thi sĩ Nguyên Chẩn đời Đường có 2 câu cuối: Ngã thị Ngọc Hoàng hương án lại/ Trích cư do đắc trú Bồng Lai (Ta vốn là viên quan coi việc hương án của Ngọc Hoàng/ Bị đày đi còn ở chốn Bồng Lai).

[9] Hoàng Cô: tên gọi khác của sao Khiên Ngưu.

[10] Thiên Tôn: tên gọi khác của sao Chức Nữ.

[11] Lang Phong: tên núi, tương truyền là nơi ở của thần tiên.

[12] Động Tân: tức Lã (Lữ) Động Tân, cũng đọc Đỗng Tân, người đời Đường, một trong tám vị được gọi là Bát tiên.

[13] Ông tiên họ Ngô: chỉ Ngô Cương, người đời Hán, tu thành tiên, sau mắc lỗi, bị đày vào cung trăng đẵn cây quế.

[14] Chân nhân: giáo phẩm Đạo giáo dành cho giáo sĩ đắc đạo thành tiên.

[15] Nam Đẩu Tinh Quân: là sáu ngôi sao về phương Nam, coi việc thọ yểu trong nhân gian (theo Đạo giáo).

[16] Ba đảo: còn gọi là Tam thần sơn, đó là 3 đảo theo truyền thuyết là nơi thần tiên ở ngoài biển khơi, gồm Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu.

[17] Mười châu: Theo sách Thập châu ký của Đông Phương Sóc thời Tây Hán, đó là 10 đảo thần tiên ở, ngoài biển khơi, trong đó có Doanh Châu.

[18] Cung Nhị Châu: chữ Hán gọi là Nhị Cung, hay Nhị Châu Cung, là nơi tiên ở (theo Đạo giáo).

[19] Thiên Thai: tên núi ở Triết Giang, tương truyền có tiên ở, do đó thường dùng chỉ cảnh tiên hay cõi tiên.

[20] Tam Thanh, Bát Cảnh như thể cũng theo cùng: nguyên văn Tam Thanh Bát Cảnh như truy tuỳ. Tam Thanh Bát Cảnh ở đây theo chúng tôi là từ ngữ của Đạo giáo. Tam Thanh là từ chỉ chung 3 cõi Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh như đã chú ở trên (chứ không phải chỉ 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh ở Lạng Sơn nước ta) và Bát Cảnh là chỉ 8 cảnh sắc đẹp (không phải chỉ 8 cảnh đẹp quanh Hồ Tây ở nước ta, hay “Tiêu tương bát cảnh” ở Trung Quốc). Câu thơ Cao Bá Quát lấy từ ý thơ Lưu Vũ Tích đời Đường: Tiên tâm tòng thử tại Dao Trì/ Tam Thanh Bát Cảnh tương truy tuỳ (Lòng tiên từ nay ở Dao Trì/ Tam Thanh Bát Cảnh cùng theo về - Tam Hương dịch lâu phục đổ).

[21] “anh bộ binh… trong bọn Trúc Lâm”: nguyên văn (Ngã thị) Trúc Lâm cùng đồ chi bộ binh, chính là Nguyễn Tịch đời Tấn, một trong “Trúc Lâm thất hiền”, tính phóng đạt, thường uống rượu say liên miên, từng xin vào làm Hiệu uý trong trại bộ binh để có dịp uống rượu ngon. 

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận Văn học, Niên san 2015

Sắp kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sĩ, nhớ đến nhà thơ-liệt sĩ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân, tôi xin trích trong Hồi ký đoạn nói về câu chuyện xin về Nam tham gia chiến đấu rồi hy sinh của em.

                                                                                              Nguyễn Long Trảo  

...Còn đối với Ca Lê Hiến, một thanh niên trí thức, một nhà thơ trẻ thì cái gì đã thôi thúc em đi “B”?

Từ một cậu bé sớm giác ngộ cách mạng, tham gia kháng chiến khi còn ở tuổi 12, theo cơ quan tập kết ra Miền Bắc lúc 14 tuổi, được nhà nước nuôi ăn học, sau khi tốt nghiệp phổ thông thi đổ vào đại học, tốt nghiệp hạng ưu, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, sau đó được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô nhưng em từ chối và xin được vào Nam tham gia chiến đấu.

   Ca Lê Hiến đã sống 10 năm trên một nửa nước độc lập tự do, trong khi quê hương Miền Nam ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn của em vẫn bị chia cắt và đang ngập chìm trong máu lửa. Sống và làm việc trên đất Bắc, gắn bó thương yêu Miền Bắc bao nhiêu thì Ca Lê Hiến cũng thương nhớ và xót xa với những nỗi khổ đau của đồng bào Miền Nam bấy nhiêu, tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với quê hương luôn thôi thúc, vẩy gọi em về:

        

        “Quê hương đang nước sôi lửa bỏng

Lẽ nào ta lại sống bình yên

Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng 

Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè

Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng

Ta say nồng mùi lá rụng bờ tre”.

     Cuộc sống ngày Bắc đêm Nam đã được giải tỏa khi theo lời kêu gọi của Đảng, Ca Lê Hiến đã đi đến một quyết định có thể nói là trọng đại trong cuộc đời: em từ chối việc được cử đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài và làm đơn đề đạt với tổ chức xin được lên đường về Nam. Với quyết định này, em chấp nhận chia tay với tất thảy những gì thân thiết nhất: Cha mẹ, anh em bạn bè, thầy cô, kể cả người vợ chưa cưới thân yêu của em, người mà bóng hình được em giữ mãi trong tim suốt các năm dài.

 Đây là đoạn ghi nguyện vọng mà Hiến đã gửi lên đề đạt với tổ chức, kiên quyết và thiết tha được trở về Miền Nam tham gia chiến đấu:

 “Nguyện vọng và quyết tâm của tôi là được về Nam bộ tham gia kháng chiến cùng bà con quê hương trong ấy. Hiện nay chuyên môn của tôi là giảng dạy môn lịch sử thế giới cổ đại ở trường Đại học Tổng hợp, nhưng về miền Nam tôi có thể giảng dạy các môn khoa học xã hội cả Văn, Sử... Ngoài chuyên môn ra tôi có khả năng tham gia công tác báo chí hoặc sáng tác thơ. Ngoài công tác giáo dục tôi rất muốn được tham gia công tác về văn học nghệ thuật ở miền Nam. Tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào Đảng cần đến. Nguyện vọng và quyết tâm của tôi là được về miền Nam, về lại quê hương tôi”.( Tờ 25-Hồ sơ 1429-Uỷ ban Thống nhất Chính phủ-Trung tâm lưu trữ Quốc gia III).

Trong lý lịch cán bộ, phần kê khai về gia đình, Ca Lê Hiến còn ghi rõ: “Tôi có vợ chưa cưới tên là Bùi Xuân Lan hiện đang học năm thứ ba Học viện Kinh tài Thượng Hải ( Trung Quốc ).”

Với tất cả sự nổ lực và quyết tâm ấy, đề nghị của em đã được tổ chức chấp thuận. Sau một thời gian khổ luyện hành quân trên đất Phú Thọ, ngày 22/12/1964 Hiến lên đường đi “B” với cái tên mới là Lê Lan Xuân, ghép chữ  Lê Hiến và Xuân lan - đảo ngược thành Lan Xuân; sau này vào chiến trường em lấy bút danh là Lê Anh Xuân. Riêng bút danh này tôi đoán có lẽ là chữ lót của tên 3 người: Lê của Lê Hiến, Anh của nhà văn Anh Đức- là anh ruột của Xuân Lan và là người đã nâng bước em trên con đường văn học nghệ thuật từ những ngày đầu và được em hết sức quí trọng, còn Xuân thì chắc chắn là của Xuân Lan rồi.

Đường hành quân vào Nam là thử thách đầu tiên đối với Ca Lê Hiến. Nếu như ngày nay, đi Hà Nội – TP.HCM bằng đường hàng không ta chỉ mất có 1 giờ 45 phút, còn đi bằng xe hơi thì cũng chỉ mất 2 ngày 2 đêm, thì hồi ấy cuộc vượt Trường Sơn phải kéo dài trong 3 tháng, hành quân vác nặng, trèo đèo lội suối, cơm vắt lá rừng, hiểm nguy chết chóc luôn cận kề. Với vóc dáng thư sinh, chân lại bị tê thấp, lòng bàn chân nứt nẻ, nhưng Ca Lê Hiến quyết chí đi đến cùng vì miền Nam ruột thịt, đi với “tinh thần anh Trỗi” như Ca Lê Hiến sau này từng kể lại với chị Quyên:

“...Ngay từ lúc còn ở trên Miền Bắc tôi đã đắm đuối nhìn tấm ảnh của anh Trổi in trên báo với tất cả lòng thương yêu và kính phục, tấm gương anh Trỗi làm tôi hết sức xúc động. Một tháng sau tôi làm một cuộc hành quân dài 3 tháng trường đi suốt từ Bắc vào Nam. Chính tôi đã đi với sức mạnh của anh Trỗi. Những lúc mệt quá, leo núi cao, hình ảnh của anh Trỗi đã tăng thêm sức mạnh cho tôi và tôi đã đi đến nơi!” ( Văn nghệ một thời để nhớ-Bảo Định Giang).

Vừa đặt chân đến Nam bộ, Ca Lê Hiến đã hứng chịu một trận bom và càn quét kinh hoàng. Em đã kể lại chuyện này trong bức thư gửi nhà thơ Chế Lan Viên:

“Lần đầu tiên vào Nam bộ, em chịu ngay một trận bom và phải chạy càn suốt bốn năm ngày liền. Có những giếng bom sâu bằng cái ao con, chính em trông thấy những đàn trực thăng rà sát trên đầu mà lúc ở ngoài ấy em cứ phải tưởng tượng”.

Nhưng Ca Lê Hiến đã hòa nhập rất nhanh vào không khí sôi sục chiến đấu và bắt tay ngay vào công việc. Đó là việc tham dự và viết về Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua Miền Nam lần thứ nhất, với kết quả là sự ra đời của tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người Anh hùng quân đội Miền Nam – liệt sĩ Nguyễn Văn Tư. “Giữ đất” là một trong hai tập văn xuôi hay nhất viết về Đại hội này, đã được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1966.

Cũng chính lần dự Đại hội này mà em đã ghi chép được biết bao câu chuyện về các anh hùng, chiến sĩ thi đua của lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam, làm tư liệu sống cho những bài thơ sáng tác sau này như: “Gặp những anh hùng”, “Không đâu như ở Miền Nam”, “Chào các anh, những người chiến thắng”,“Ánh đuốc”, “Anh đứng giữa Tháp Mười”, “ Qua Ấp Bắc” vv...Em cũng đã đúc kết được những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân trong đó có một điểm sáng chói là ý chí tiến công tuyệt vời mà em đã ghi lại trong nhật ký: “Chủ lực: Liên tục tấn công với tinh thần cách mạng, đạp lên sắt thép, đạp lên đầu thù, đạp lên đầu địch tấn công, hy sinh còn tấn công, hy sinh với tư thế tấn công” ( Nhật ký Lê Anh Xuân- ngày 14/9/1967).

Và phải chăng cũng từ cảm nhận đó mà sau này, khi bắt gặp hình ảnh người chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Mao đã anh dũng hy sinh trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất vẫn với tư thế đang đứng bắn, em đã cảm xúc viết nên bài thơ bất tử “Dáng đứng Việt Nam”, ca ngợi lòng dũng cảm tuyệt vời của người chiến sĩ Giải phóng quân:

         “...Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

           Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.”

    Những tháng ngày về thâm nhập thực tế chiến trường tại quê hương Bến Tre, em đã ngày đêm lặn lội đi khắp các xóm ấp để tìm hiều từng người thật, việc thật, cần mẫn ghi chép vào nhật ký hầu như không sót một điều gì mà em bắt gặp hoặc nghe thấy để chuẩn bị tư liệu cho các sáng tác của mình. Có thể kể một số bài:

-“Gửi anh Tư” ( tức anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Tư), gởi lòng thương nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng chân đất.

- “ Cô gái đưa đò” ca ngợi gương dũng cảm và mưu trí của cô giao liên trên sông An Hóa, bất chấp hiểm nguy và mưu trí thay nhiều màu áo để kẻ địch không nhận biết được bóng dáng con người cô.

- “ Lão du kích”, một điển hình về lão du kích nông dân miền Nam anh dũng và mưu trí dánh giặc.

- “ Người mẹ trồng bông” sớm chiều yêu thương và âm thầm chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ.

- “ Qua cầu” tặng 12 cô gái Bến Tre đã lấy vai làm cầu đỡ cho bộ đội đi qua.

- “ Cây chông tre” với hình ảnh cỏ cây cũng tham gia giết giặc.

- “ Đuốc lá dừa” nói về một cô giáo dũng cảm, dám lao vào lửa bom na-pan cứu các em bé và hy sinh.

- “ Cô xã đội” ( Út Tiết), nghe ca nông còn bịt tai, nhưng đã tay không lấy bót giặc.

- “ Bông trang đỏ” kể về một bà mẹ kiên trì anh dũng, mưu trí, nuôi giấu cán bộ, bị địch bắt đánh mù cả hai mắt vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu và đã hy sinh anh dũng.

- “ Ánh lửa trên sông” nói về em giao liên tên Trì, đã anh dũng nhảy qua tàu địch, tự cho nổ bộc phá, làm cháy tàu và cháy cả thân mình.

 vv....đều là những con người bình dị nhưng rất đỗi anh hùng.

    Trong thời gian gần 4 năm về tham gia chiến đấu ở miền Nam, Ca Lê Hiến đã sáng tác 37 bài thơ được in trong tập “Hoa Dừa” dày khoảng 100 trang, một bài “Trường ca Nguyễn Văn Trổi” với khoảng 1500 câu thơ và tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người anh hùng Nguyễn Văn Tư ở Bến Tre. Chính những sáng tác thơ, văn đã đưa em vào hàng ngũ những văn nghệ sĩ tên tuổi đương đại, và đất nước cũng đã ghi công em bằng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

 Các bài thơ của em, càng đọc càng thấy thích đọc, người đọc không có cảm giác như đọc một bài thơ đã được làm sẵn, mà như nghe em đang tâm tình, khơi gợi, với giọng mê say trong trẻo, nhỏ nhẹ chân tình, rót sâu vào tâm tư tình cảm. Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần những bài thơ Lê Anh Xuân viết khi trở về chiến đấu ở Miền Nam, nhất là trong thời gian ở Bến Tre, có những bài hầu như tôi đã thuộc lòng. Rất tiếc vì trang in có hạn không thể ghi lại tất cả để mọi người cùng đọc, cùng thưởng thức vì nó rất đáng. Thôi thì cứ lấy ra mấy bài, tuy không phải là đặc sắc nhất, nhưng mỗi bài là một câu chuyện chứa chan tình cảm yêu thương:

                                        

                           BÔNG TRANG ĐỎ

                Dừa Bến Tre bốn mùa xanh mát

                Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều

                Hát rằng: Hỡi mẹ kính yêu

                Cuộc đời mẹ đẹp như màu bông trang.

 

                Nhà mẹ đó một gian nhà nhỏ

                Mẹ cắm bông trang nhỏ mà thờ

                Phải chăng mẹ nhớ bóng cờ

               Các con tập kết bao giờ về đây?

 

               Trên bàn thờ khói bay hương tỏa

               Dưới bàn thờ ai có biết chăng?

               Mẹ nuôi cán bộ dưới hầm

               Mẹ nuôi hy vọng, mẹ mong có ngày...

 

              Ôi quê hương đêm dài tang tóc

              Lũ chó săn rình rập bên hè

             Mà lòng bà mẹ Bến Tre

             Là nơi cán bộ đi về sớm hôm.

 

             Một tay mẹ nấu cơm, kho cá

             Nuôi các con, nuôi cả phong trào

            Có lần quân giặc ập vào

            Mâm cơm vừa dọn, giấu đâu bây giờ?

 

            Mẹ bình tỉnh giả đò thổi lửa

            Rồi bưng mâm đặt giữa bàn thờ

            Lâm râm mẹ khấn nhỏ to

            Hương nhang thơm cả bàn thờ tổ tiên.

 

            Lời mẹ khấn: nhắn tin con biết

            Vừa cầu mong con được bình an

            Lắng nghe lũ giặc xa dần

            Bưng mâm nhìn các con ăn, mẹ cười.

 

           Đêm không ngủ, mẹ ngồi mẹ gác

          Nghe tàu dừa xào xạc ngoài hiên

          Giật mình đau nhói trong tim

          Tưởng đâu quân giặc nửa đêm ập vào.

 

          Đêm ấy...mưa đổ rào như thác

          Chồng vừa đi công tác ghé về

          Mẹ mừng mẹ khép cửa tre

          Bỗng đâu súng giặc bốn bể nổ ran.

 

         Ôi lòng mẹ ngổn ngang trăm mối!

         Mười năm sau mẹ lại mất con

         Xác con mẹ vớt bên cồn

         Nửa đêm bó chiếu lén chôn sau nhà.

 

       “ Chồng tao chết oán thù chưa hết

         Nay con tao cũng chết, vì ai?

         Thù xưa lại đến thù nay

         Tây đi, Mỹ đến một bầy sói lang”.

 

            Mẹ ngồi gác mịt mùng đêm tối

            Vết thương xưa đau nhói từng cơn

            Nhìn bông trang đỏ như son

            Nhớ con đã khuất, thương con bây giờ.

 

            Có các con mẹ như trẻ lại

            Nuôi các con – nuôi mãi niềm tin

            Mẹ ngồi gác giữa đêm đen

            Nghe gà gáy sáng, bốn bên rạng dần.

 

            Ôi mùa xuân, mùa xuân đồng khởi

            Tiếng mõ vang, lửa nổi xa, gần

            Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?

            Rừng dừa lộng gió, Hàm Luông sóng gầm.

 

            Chúng con bật nắp hầm đứng dậy

            Bọn ác ôn run rẩy đầu hàng

            Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?

            Thù xưa đã trả cho chồng, cho con.

 

            Nhưng mắt mẹ chẳng còn nhìn thấy

            Một bữa kia mẹ tới Mỏ Cày

            Tại thằng phản bội cung khai

            Quân thù bắt mẹ, mấy ngày khảo tra.

 

            Giặc đánh mẹ, mẹ la, mẹ chửi

            Phun bã trầu vào bọn ác ôn

            Không khai, mẹ cố chịu đòn

            Mắt già giặc đánh mấy hôm đã mù.

 

            Đêm Đồng khởi lòng già mừng quá

            Đánh mõ tre, đánh cả vào tay

            Mắt mù lòng mẹ vẫn say

            Tay đau chẳng nhớ, đêm dài chẳng quên.

 

            Con thương mẹ mắt nhìn đêm tối

            Khi bình minh mẹ đã mù rồi

            Mẹ ơi! Ánh mắt mặt trời

            Mặt sân dừa rụng biết bao oán hờn.

 

             Mẹ khuất rồi cỏ non xanh mộ

             Nước hố bom gợn sóng rừng dừa

             Mẹ nằm  năm tháng gió mưa

             Mà bông trang đỏ vẫn chưa phai màu.”

                                                     12-1965

                     

                             NGƯỜI MẸ TRỒNG BÔNG

                 Tôi gặp mẹ ở nghĩa trang An Thới

                 Tay nhẹ nhàng mẹ xới, mẹ vun

                 Mẹ ngồi giữa những hàng cúc trắng

                 Tóc mẹ và bông gió thổi rung.

 

                Chỗ mẹ ngồi xưa là nền bót

                Giặc bắn, giặc đâm xác chất thành cồn

                Đêm đêm cùng bà con trong ấp

                Mẹ vượt rào khiêng xác đem chôn.

 

                Những nấm mộ chôn thầm, chôn lén

                Không có bia, không một cành bông

                Nghĩa trang chính là lòng của mẹ

                Nơi anh hùng yên nghỉ có mùi hương.

 

                 Hôm nay đồn giặc không còn nữa

                 Trời thênh thang, đồng lúa chín vàng

                 Mẹ ngồi giữa hàng bông rực rỡ

                Cỏ mùa xuân xanh mướt nghĩa trang.

 

                 Mẹ nhớ rõ tên từng ngôi mộ

                 Mộ Giải phóng quân cạnh Vệ quốc đoàn

                 Ôi các anh đã khuất rồi nằm đó

                 Mà vẫn thẳng hàng như một đoàn quân.

 

                 Mẹ kể, đã mấy lần phản lực

                 Mang đạn bom trút xuống nghĩa trang

                 Mẹ cùng với bà con trong ấp

                 Đã mấy lần dập lửa na-pan.

 

                 Và hôm nay chiều nghĩa trang rất đẹp

                Mộ anh hùng nắng dát vàng tươi

                Bông mẹ trồng không sợ gì sắt thép

                Đã vươn cao thơm mát cả da trời.

 

                 Bông mẹ trồng là lòng mẹ, mẹ ơi!

                          

                                                          11-1965

                        ÁNH LỬA TRÊN SÔNG

                Hoàng hôn thuyền đậu bến sông

                Chờ khi đêm xuống vượt dòng Cổ Chiên

 

                 Em Trì, em nhỏ giao liên

                 Dáng trai  nhanh nhẹn, mắt đen hay cười

                 Em đang té nước nghịch chơi

                 Giật mình cá nhảy thơm mùi phù sa

                 Sáng chiều như có khói nhòa

                 Một vùng man mác bao la nước trời

                 Bần như rặng liễu xanh tươi

                 Bóng soi nước biếc, sóng dồi thiết tha

                 Hỏi em, em đã mất cha

                 Cha ra đánh Pháp thường qua sông này

                  Bây giờ đánh Mỹ con thay

                  Lại làm liên lạc ra  tay chống chèo

                  Mịn màng đêm xuống trong veo

                  Từng chùm đom đóm vàng treo trên cành

                  Ấy là lúc sóng réo quanh

                  Hiên ngang thuyền nhỏ băng mình trong đêm

                  Ấy là lúc trước mũi thuyền

                   Bóng em khắc đậm giữa nền trời sao

                   Vai em ướt đẵm sóng trào

                   Lặng im em vẫn dõi vào đêm khuya

                   Mắt em ngắm, tai em nghe

                   Từng cơn sóng cuộn, từng bè lá trôi

                   Ở đây tàu Mỹ ngược xuôi

                   Máu người còn đấy, xác người còn đây

                    Thù xưa cùng với thù nay

                    Nén trong thủ pháo hai tay em cầm

                    Thuyền đi máy vẫn rì rầm

                     Dịu dàng lòng trẻ vẫn thầm ước mong:

                   “Bình yên thuyền cập bến sông

                     Thì em mừng lắm, còn mừng nào hơn

                     Qua sông nguy hiểm chẳng sờn

                      Đạn bom em vượt, sóng cồn em qua”

                      Bỗng đâu một ánh đèn pha

                      Như thanh kiếm vụt chói lòa mắt em

                      Đạn tàu vây đỏ quanh thuyền

                      Tay cầm thủ pháo ngực em phập phồng

                       -“Dẫu em có chết giữa dòng

                       Mấy anh còn sống thì lòng em vui”

                       Tàu thù vừa ập đến nơi

                       Em Trì tôi đã ngang trời đứng lên

                       Giọng em vút ngọn sóng rền

                       Thanh thanh như tiếng chim chuyền cành xanh:

                        -“Bác Hồ ơi, cháu hy sinh!”

                        Nói rồi em vụt lao nhanh qua tàu

                        Sông bừng lửa đỏ, thuyền chao

                        Cổ Chiên dồn dã sóng gào không nguôi

                         Em trì hỡi! Em có vui?

                         Đáy sông xác giặc chìm rồi em nghe

                         Thôi em ở lại anh đi

                         Giết xong giặc Mỹ anh về thăm em

                         Thôi em ở lại Cổ Chiên

                         Quê hương, sóng vỗ ru em bốn mùa

                         Bình yên thuyền đã đến bờ

                         Xa còn thấy bóng em thơ giữa dòng

                         Sáng ngời anh lửa trên sông.

                                                                 10-1967

    Nói thật là khi đọc và chép lại các bài thơ về Bến Tre của Hiến bao nhiêu lần mắt tôi bị nhòe vì xúc cảm, mỗi bài thơ là một câu chuyện lay động lòng người, là một tấm gương anh hùng người thật việc thật, không hề hư cấu. Cũng nghĩ rằng đây đâu phải là những câu chuyện chỉ riêng có ở Bến Tre thuở quê hương Miền Nam đang còn ngập chìm trong máu lửa.

Tôi vẫn cứ chép tiếp:

                        

                       EM GÁI ĐƯA ĐÒ

               Em mười tám tuổi giao liên

               Trên sông An Hóa ngày đêm đưa đò

               Khi trưa nắng, lúc chiều mưa

               Đò em vẫn nối hai bờ dừa xanh.

 

                Một lần trời mới bình minh

                Em đưa lực lượng biểu tình qua sông

                Vì sao giặc bắn, giặc ngăn

                Qua sông em chẳng ngại ngần vì sao?

 

                Em nghe đạn rít qua đầu

                Mà em vẫn đứng bóng cao giữa trời

                Mái chèo giặc bắn gãy đôi

                Buông chèo thoăn thoắt em bơi bằng dầm

 

                Qua sông, đò vẫn qua sông

                Tìm em, quân giặc đừng hòng tìm em

                Áo em như có phép tiên

                Đò qua mấy chuyến áo em mấy màu

                Lúa vàng, vàng rực như sao

                Lúa xanh, xanh biếc như màu tóc em

                Lửa hồng như máu trong tim

                Trái tim dũng cảm vượt trên đầu thù

                Lúc đen, màu áo chiến khu

                Lúc em trắng áo học trò thương yêu

                Lúc như hoa tím trời chiều

                Thủy chung màu áo, trong veo tâm hồn.

 

                 Trên sông súng vẫn nổ giòn

                  Đò em vẫn lướt sóng dồn hai bên

                  Trùng trùng người chật như nêm

                  Đội quân “đầu tóc” xông lên ào ào

                  Đò xong, em vội cắm sào

                   Bóng em thoắt đã nhập vào đoàn quân

                   Hỡi em – cánh én mùa xuân

                   Hòa trong muôn vạn anh hùng Miền Nam

 

                   Vẫy vùng một chiếc đò ngang.

                                                           

                                                              10-1965

                                                                     

                                   QUA CẦU    

                                    

                    Sao anh lại bước ngập ngừng

                 Vai em dù nặng đâu bằng vai anh

                 Một đêm dưới nước ngâm mình

                 Tụi em lạnh ít, mấy anh lạnh nhiều

                 Hỡi anh giải phóng thân yêu

                 Thương anh khi sớm, khi chiều hành quân

                 Vai anh khiêng súng tím bầm

                 Đường xa mưa ướt mấy lần, anh ơi!

                 Gốc tràm chân bật máu tươi

                 Thương anh lội nước Tháp Mười mênh mông

                 Đi đi, anh cứ qua sông

                 Đừng lo cầu nổi bềnh bồng, anh nghe!

                 Vai em đỡ, tay em ghì

                 Em kềm thật chắc, anh đi yên lòng

                 Đi đi, anh cứ qua sông

                Kịp giờ nổ súng, em mừng, em vui

                Dưới sông ngực đập bồi hồi

                Mười hai cô gái, mười hai nhịp cầu

                Mặt sông ánh một trời sao

                 Mắt em lấp lánh, sao nào đẹp hơn?

 

                 Hành quân lòng bỗng bồn chồn

                 Qua cầu lại nhớ vai tròn của em.

                                                       10-1966

                                          LÃO DU KÍCH

Tuổi lão ngoài sáu mươi                       Vóc người còn khỏe lắm

Lão nói chuyện rất vui                          Giọng lão cười sang sảng.

 

Cả ngày lão ở trần                                 Ngang lưng lận bao thuốc

Đầu bịt chiếc khăn rằn                          Tay lão cầm mác vót.

 

   Cuộc đời lão thuở xưa                          Kể hoài không hết khổ

Lão như chiếc lá khô                            Hận thù cao hơn núi.

 

Năm ba mươi, bốn mươi                       Lão có treo cờ đỏ

Trống đình thúc liên hồi                       Chính một tay lão đó.

 

Dạo đánh Pháp chín năm                      Lão vô chân “ tự vệ”

Sau mỗi trận thắng càn                         Lão hoa tay hát bộ.

 

Bây giờ lão ngồi đây                            Vót mũi chông bén ngọt

Mỗi lần nghe máy bay                          Lão vung cây mác vót:

 

-“Mặc phản lực lộn nhào                      Lão đây đâu có sợ

Chỉ gãy vài cây cau                              Lão vót làm chong đó”.

 

Rồi lão kể tôi nghe                               Chuyện đánh ong vò vẽ

Mặt thằng Mỹ sưng vù                         Giọng lão cười rất khỏe.

 

Nào chuyện đắp pháo đài                    Lão đòi lên pháo kích

Lũ trẻ nhìn lão cười                           -“Ngắm súng phải mang kiếng”

 

Chuyện lão cùng thằng con                Căng dây chì trên lộ

Chờ lũ xe ác ôn                                  Vướng dây rơi xuống hố.

 

Nghe chuyện tôi hình dung                Tay lão cầm mác vót

Vỗ đùi nhảy lên đường                       Bắt bảo an sát bót.

 

Lão nói lão già rồi                              Mỗi lần đi đánh giặc

Lão chỉ cần ít thôi:                              Rượu trắng xin vài hớp.

 

Thấy tôi nhìn ngôi nhà                       Cột kèo trây đất sét

Lão khoái chí gật gù                           Rồi ôn tồn giải thích:

 

“Mỹ dội bom na-pan                          Lão trị bằng cách ấy

Đưng, lá cháy mấy lần                       Nhưng cột kèo không cháy”.

 

Tôi bỗng thấy lạ lùng                         Một ngôi nhà lá nhỏ

Ôi bùn đất Việt Nam                          Mạnh hơn bom đạn Mỹ.

 

Tôi nhìn kỹ ngôi nhà                          Rồi nhìn lão ngồi đó:

Lưỡi mác lóe trời xa                           Râu dài rung trắng xóa.

 

                                                                                    1-1966

Và còn rất nhiều bài nữa, mà mỗi bài là một gương chiến đấu anh dũng của những người con của mảnh đất Miền Nam anh hùng. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ bất hủ “ Dáng đứng Việt Nam” tạc hình người chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam bình dị mà anh hùng, tạc hình đất nước Việt Nam là đất nước anh hùng của thế kỷ; một bài thơ đã đưa tên tuổi em vào những trang sử sáng chói của nền văn học Việt Nam hiện đại.

                       DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM

                        ----------------

“Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và anh chết trong tư thế đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa  đạn cầu vòng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.

Anh tên gì hỡi anh yêu quý

Anh đứng lặng im như bức tường đồng

Như đôi dép dưới chân anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong.

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.

Tên anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

5-1968

   Nhưng Ca Lê Hiến vẫn chưa mãn nguyện với những trang thơ đã viết, em vẫn cảm thấy cần phảỉ có mặt ngay giữa cuộc chiến đấu đang rất ác liệt để có thể nói lên nhiều hơn nữa những điều kỳ diệu về con người Việt Nam, về đất nước Việt Nam. Đây là bức thư ngắn của em gởi cho Viễn Phương, với lời lẽ hết sức tha thiết xin được ra mặt trận:

“ Chúng em đã xuống đây rồi, không thể nào trở về không cho được. Xin các anh cho chúng em đi một chuyến ngắn, một chuyến rất ngắn, chỉ vài ngày thôi để biết hơi thở của chiến trường rồi chúng em sẽ trở về căn cứ. Không đi xuống vùng sâu thì không thể nào chúng em có được tác phẩm tốt về cuộc tổng công kích lịch sử này. Chúng em vẫn bám trụ ở đây, và chờ các anh cho người qua đón”.

Nguyện vọng được chấp thuận, em hăng hái quảy ba lô lên đường. Nhưng đâu có ai ngờ rằng đây lại là chuyến đi định mệnh, em đã hy sinh vài ngày sau đó, và hành trình thơ của em cũng phải dừng lại với bao dự định sáng tác đang còn ấp ủ. Đó là lần xuống chiến trường tham gia đợt II cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, trong ba lô còn nguyên vẹn quyển nhật ký được em ghi chép đều đặn từ khi bước chân ra đi trên đất Bắc cho đến 24-5-1968 là ngày hy sinh của em, vào độ tuổi  28 xuân xanh.

Được tin em hy sinh, người vợ chưa cưới của em - Xuân Lan, khi đó đang ở Hà Nội, đã nói lên lòng mình bằng những dòng thơ sau đây:

                             MỐT CUỘC ĐỜI

Mười chín tuổi, tôi gặp lại anh

Không kịp nghĩ gì mà như không còn gì để nghĩ

Ngoài một cảm xúc rộn ràng bỡ ngỡ

Muốn nhìn anh, muốn đến bên anh

Không, cũng không hẵn là như thế

Bởi ánh mắt anh sao như mời gọi:

 “Đến với anh đi. Hãy đến bên anh”

Hai chúng tôi đã cùng đến.

 

Rất  ngắn và cũng rất dài

Mọi vật như ngưng lại

Đất trời như chưa tồn tại bao giờ

Chúng tôi đã đến bên nhau như thế

Giản dị, thiêng liêng, tràn dâng như sóng bể

Vui sướng, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn

Cả hai rạng rỡ như chưa bao giờ rạng rỡ

Như thế...và cũng chỉ là thế

Bởi chúng tôi quá trẻ, quá khát khao

Cuộc sống hôm nay, cho cả mai sau

Không một lời, mà ánh mắt đã trao:

Hảy chờ nhau!

 

Hai ngày sau

Tôi và anh, mỗi người một phương xa lắc

Tôi bay lên bắc, anh vượt về nam

Đường tôi đi thênh thang rộng mở

Trong bình yên, tôi được nuôi dưỡng nên người

Từng tháng năm đằng đẵng trôi

Cũng từng tháng năm đong đầy thương nhớ!

Trong khắc khoải, tôi mong ước đợi chờ

Tôi vẫn sống, đã sống như triệu người đang sống

Mà tim vẫn vang vọng gọi người:

“Anh đang ở đâu? Anh ở đâu?”

 

Bởi đường vô Nam, anh đi trong lửa đạn

Đói rét, ốm đau, bệnh tật

Chết sống cận kề trong gang tấc

Anh cứ đi và vẫn sống những ngày như thế

Vẫn cùng đồng đội súng trong tay

Cùng vẽ lên những trang sử hùng oai

Cùng viết lên những vần thơ cháy bỏng

Ca ngợi con người, ca ngợi cuộc sống.

 

Anh vẫn đi tiếp bước về phía trước

Mãi đi như thế, anh cứ đi

Cho đến khi tim anh ngừng đập

Một cuộc đời chỉ hăm tám năm thôi

Mà sao đáng sống như người đã sống

Và anh đã nằm sâu trong lòng đất

Đã hiến dâng cho Tổ quốc bình yên:

Cả cuộc đời

Một khối óc

Một trái tim.

                                               XUÂN LAN

                                      Hà Nội tháng 12-1968

                         ( Được tin anh hy sinh ngày 24-5-1968)

  

Và cũng suốt mấy mươi năm từ ngày đất nước được giải phóng, năm nào cũng như năm nào, cứ đến Tết và ngày giổ của Ca Lê Hiến, cho dù đã có gia đình riêng nhưng Xuân Lan luôn có những bó hoa đẹp nhất đem đặt trước mộ Hiến với những giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ...

1. Tiểu sử tác giả

Tác gia Thẩm Thệ Hà tên thật là Tạ Thành Kỉnh, sinh ngày 9/3/1923 tại làng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh. Cha ông là Tạ Thành Tàu, mẹ là Nguyễn Thị Tám. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu. Thẩm Thệ Hà học tiểu học ở Trảng Bàng, trung học ở Sài Gòn, đỗ tú tài Pháp và lập gia đình năm 22 tuổi. Ông tham gia Cách mạng từ 1945, hoạt động trong Ban điệp báo Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Năm 1949, cùng với Vũ Anh Khanh (1926 - 1956) thành lập nhà xuất bản Tân Việt Nam. Từ 1952, để kiếm sống và hoạt động trong vùng tạm chiếm, Thẩm Thệ Hà dạy Việt văn ở các trường trung học Nguyễn Văn Khuê, Chi Lăng, Tân Thanh, Đặng Văn Trước, Đức Trí, Dân Trí, Trần Hưng Đạo. Năm 1966, cùng với Tô Nguyệt Đình (1920 - 1988) thành lập nhà xuất bản Lá Dâu. Hai nhà xuất bản Tân Việt Nam và Lá Dâu đã in được nhiều tác phẩm văn chương có khuynh hướng đấu tranh cách mạng. Trước 1975, Thẩm Thệ Hà từng viết bài cộng tác và biên tập các báo và tạp chí Văn hóa, Việt bút, Đại chúng, Lẽ sống, Tiếng chuông, Tin sớm, Ánh sáng, Dân tộc, Tin lửa, Nhân loại, Tiểu thuyết thứ bảy; phụ trách mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) giới thiệu cả những tác giả miền Bắc đương thời như Huy Cận, Thanh Tịnh, Ngân Giang, Yến Lan, Lưu Trọng Lư. Sau 1975, ông cộng tác với các báo và tạp chí Văn, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Bách khoa văn học, Sân khấu, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, Giác ngộ. Ông là hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh khóa đầu tiên và hội viên Hội Văn nghệ Tây Ninh. Qua một thời gian đau yếu, ông mất ngày 20/6/2009 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 88 tuổi.

2. Sự nghiệp văn chương

Nghiệm sinh trên cõi đời 88 năm tuổi trời và 63 năm tuổi văn, Thẩm Thệ Hà đã để lại hàng chục tác phẩm dài ngắn khác nhau, bao gồm nhiều bộ môn chuyên ngành, nhiều thể loại và thể tài, nhiều hình thức và phương thức sáng tác. Trên thực tế, số lượng tác phẩm của Thẩm Thệ Hà phân chia theo thể loại có 7 tiểu thuyết (1 tiểu thuyết còn ở dạng bản thảo), 14 truyện ngắn, 14 truyện viết cho thiếu nhi, 2 vở kịch, 2 tập thơ (di cảo), 3 tác phẩm dịch, 2 tập khảo cứu, 5 bộ sách giáo khoa, 1 tập hồi ký, nhiều bài phê bình văn học đăng báo…

Thẩm Thệ Hà đến với văn chương khi còn học trung học. Năm 1937, với bút hiệu Thành Kỉnh, ông đã có thơ đăng trên Phổ thông bán nguyệt san ở Hà Nội và các báo ở Sài Gòn như Đồng trinh, Chúa nhật, Thanh niên, Điện tín. Các bài thơ được độc giả biết đến và mang lại chút tiếng tăm cho tác giả như Trịnh Đán, Rồi mỗi chiều xuân, Dòng mơ chung thủy, Xuân thanh sắc,… Sau Cách mạng tháng Tám có các bài Trời nổi phong yên, Việt Nam mến yêu, Tống biệt hành, Khóe mắt u hoài, Trường thành sông Đua,… Thơ của ông được tập hợp thành hai tập chưa xuất bản là Thâm thúy (Thơ trước 1945) và Trời nổi phong yên (Thơ sau 1945). Về văn xuôi có các bộ ngựa cầu thu (Tân Việt - 1949), Gió biên thùy (Tân Việt - 1949), Người yêu nước (Tân Việt Nam - 1949), Đời tươi thắm (Lá Dâu - 1956), Hoa trinh nữ (Sống mới - 1957), Bạc áo hào hoa (Miền Nam - 1969), Tủi phấn thẹn hồng (bản thảo chưa in),…; các truyện ngắn Nàng Phượng tóc thề (1960), Ai nghe lòng đất quặn đau (1961), Tình yêu và lý tưởng (1989), Thằng đưa đám (1990), Lửa tình (1991), Nhan sắc tàn phai (1991), Cánh hồng lưu luyến (1993), Duyên dáng Quỳnh Như (1994), Tổ ấm chim bay (1994), Thanh mai trúc mã (1994), Nhà sư dị thường (1996),…; truyện viết cho thiếu nhi Bài học thương nhau, Con chim xanh, Tàn giấc mơ tiên, Tiểu anh hùng, Thần điểu và hoa hồng, Thiên tài lạc lối, Nhân ngư công chúa, Ngọc tuyền thảm sử,…; biên khảo Việt Nam trên đường cách mạng tân văn hóa (1949); dịch tiểu thuyết Con đường cứu nước (Maroussia của P. J. Satahn, Nam Việt - 1947) và Mũi tên đen (The Black Arrow của S. L. Stevenson, Sống mới - 1965).

Với những đóng góp quan trọng cho văn học và Cách mạng giải phóng dân tộc, Thẩm Thệ Hà được ghi nhận là “một nghệ sĩ đa năng” (Hoàng Tấn, trong Thanh Việt Thanh: Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.12), “Một cấy bút khả kính” (Trần Hữu Tá, Một cây bút khả kính, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9 - 2003, ra ngày 9 - 3 - 2003, tr. 24), tác phẩm của ông có mặt trong một số chuyên luận và tuyển tập như Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Thơ mùa giải phóng (Nxb Sống chung), Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn Sâm, Tuyển tập thơ, truyện ngắn Thành phố Hồ Chí Minh (Kỉ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh), Thẩm Thệ Hà - thân thế và sự nghiệp của Thanh Việt Thanh, Nhìn lại một chặng đường văn học của Trần Hữu Tá, Từ điển Văn học (bộ mới) của nhiều tác giả, Văn học nơi miền đất mới của Nguyễn Q. Thắng,… Điều đó cho thấy tác giả xứng đáng có một chỗ đứng trong lịch sử văn học, đặc biệt là văn học Nam Bộ.

Lĩnh vực để lại nhiều dấu ấn nhất của Thẩm Thệ Hà chính là văn xuôi và những tác phẩm có giá trị nhất tập trung chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1945 - 1954, ông sáng tác tổng cộng 3 bộ tiểu thuyết: ngựa cầu thu, Gió biên thùy, Người yêu nước. Ba bộ tiểu thuyết này đều được xuất bản năm 1949. Tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà sở dĩ được hoan nghênh vì “chủ đề rất tập trung, nhất quán: sự trăn trở và động viên nhau tìm đến với lý tưởng cứu quốc của thế hệ thanh niên trong một bối cảnh không gian xác định (miền Nam Việt Nam) và trong một thời gian cụ thể (Những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 và những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp)”1.

Vó ngựa cầu thu là một trong những tiểu thuyết biểu của Thẩm Thệ Hà viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám. Sơn sinh ra trong một gia đình trưởng giả và sớm có tư tưởng cách mạng. Chàng từng theo một chiến sĩ Quốc dân đảng sang Trung Quốc và học Trường võ bị Hoàng Phố. Sơn xót xa vì những nghĩa sĩ của phong trào phải lên đoạn đầu đài. Từ nước ngoài, chàng và những người đồng chí nhận thấy các quan niệm quốc gia cổ truyền của ta không còn hợp nữa. Sơn và người đồng chí tên là Thái vượt biên giới về nước gây cơ sở phong trào trong nước.

Sơn và Thái tạm chia tay nhau vì Thái có việc riêng gia đình. Trên đường đi, Sơn tình cờ ngụ trong nhà của một cụ già yêu nước muốn lập lại chế độ phong kiến. Cụ từng có liên hệ với các sĩ phu trong phong trào Cần vương. Sống với cụ có hai người cháu là Phương Lan và Phượng Nhi. Phương Lan - người cháu lớn, nết na xinh đẹp chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần phục cổ của cụ. Ba tháng sống trong không khí thân tình, đùm bọc của ba ông cháu nhà chí sĩ, Sơn có cơ hội hướng tâm hồn Phương Lan theo cách suy nghĩ và hành động phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước. Tình yêu bắt đầu nảy nở giữa Sơn và Lan. Thế nhưng, vì đất nước, Sơn phải chia tay ông cháu Phương Lan để cùng Thái thi hành nhiệm vụ bí mật.

Trên đường lên Bắc Sơn, Sơn và Thái bị bắt giam. Họ đang tìm cách vượt ngục thì có người đến cứu thoát. Trên đường chạy trốn Sơn tự nghĩ mình đừng nên mơ tưởng về Phương Lan nữa. Nhưng không ngờ, chính Phương Lan là người cứu sống chàng và Thái, sau đó nàng bị truy đuổi và hi sinh. Phương Lan đã giác ngộ theo con đường của Sơn. Trước khi nhắm mắt trong vòng tay của Sơn, Phương Lan đã xúc động “từ ngày nghe được lời anh em đã giác ngộ. Em đã theo hai anh từng bước, tiếc thay em không phải là một chiến sĩ có tài... Chết vì nghĩa vụ là danh dự của người chiến sĩ, được chết trên tay anh là diễm phúc của em rồi”.

Nội dung Vó ngựa cầu thu cho thấy dự đồ sáng tạo của tác giả: viết về những con người trẻ tuổi đi theo cách mạng. Không khí truyện khiến chúng ta nghĩ đến phong trào khởi nghĩa Yên Bái. Tiếng vọng của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cùng sự hi sinh của các nhà cách mạng có tác động ít nhiều đến ngòi bút Thẩm Thệ Hà. Thế nhưng, về mặt hình tượng văn chương, Sơn và Thái là sự tiếp nối các hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn: có nhiều sự đồng cảm với nhân dân, sẵn sàng quăng mình vào gió bụi. Tuy vậy, khác với các nhân vật Dũng, Thái, Tạo trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, các nhân vật của Thẩm Thệ Hà đã có những ý hướng, lý tưởng cụ thể trong hành động. Nổi bật trong Vó ngựa cầu thu chính là mối tình giữa Sơn và Lan. Tình yêu của họ được ngòi bút tác giả thể hiện theo kiểu tình yêu trong các cuốn tiểu thuyết theo khuynh hướng lãng mạn, có kết thúc buồn. Hình ảnh Sơn và Lan đi chơi Tùng Lâm rồi suối Ngọc Tuyền đã là một dự cảm buồn cho kết cục một cuộc tình. Cốt truyện Vó ngựa cầu thu nhẹ nhàng, không phức tạp, ít có những xung đột. Tác giả tỏ ra khéo léo trong việc mô tả tâm trạng của Sơn và Lan, những cung bậc tình cảm của hai người đang yêu trong một không gian truyện cổ kính.

Nếu Vó ngựa cầu thu viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám thì Người yêu nước viết về không khí của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Người yêu nước viết về những trí thức trên đường đến với cách mạng. Ngay lời phi lộ, tác giả đã cho biết mình chủ trương viết theo khuynh hướng “Văn chương tranh đấu”. Viết về những trí thức thành thị hẳn Thẩm Thệ Hà có nhiều thuận lợi. Công việc dạy học và sinh hoạt ở thành thị đã cung cấp cho ông những trải nghiệm quý báu khi viết về những con người này. Vũ, nhân vật chính của truyện, sinh ra trong gia đình giàu có, thích đọc sách tư tưởng và làm thơ, con quan tri phủ. Phượng, người bạn gái của Vũ, xinh đẹp, từ thuở nhỏ đã say mê nghệ thuật. Bão, sinh ra trong gia đình nghèo khó và là bạn học của Vũ. Từ khi chia tay Vũ ở trường học, Bão giác ngộ và đi theo cách mạng nhờ sự hướng đạo của giáo sư T và các bạn trong tù. Họ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bão bị bắt và tạm giam nơi dinh thự của quan tri phủ. Cuộc gặp gỡ nơi hầm tối nhà giam đã làm thay đổi cuộc đời của Vũ. Những cuộc tiếp xúc với Bão đã làm chàng hiểu được vẻ đẹp của lý tưởng cách mạng. Từ một người sống mộng mơ, làm thơ ủy mị và ít có mối liên hệ với quần chúng, Vũ từ bỏ gia đình và cuộc sống sung túc để bước vào con đường hoạt động cách mạng. Hành động cao đẹp và tình yêu trong sáng của Vũ đã giác ngộ Phượng đi theo lý tưởng cách mạng. Và cũng chính cô đã giác ngộ cho cha mình con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc. Phượng trở thành cán bộ chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng bên cạnh Vũ và Bão. Trong một trận đánh, cô bị bắt giam nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Phượng bị thực dân kết án tử hình. Nhờ sự can thiệp của một người Pháp, trước đây thọ ơn cha con cô trong cuộc bố ráp của hiến binh Nhật, Phượng được giảm xuống án chung thân. Trong tù, Phượng viết cho Vũ một bức thư thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng.

Người yêu nước ra đời được báo chí tiến bộ đương thời đánh giá rất cao. Dương Tử Giang (1918 - 1956) nhà văn cùng thế hệ với Thẩm Thệ Hà đã viết trên Nguồn sống (số 3): “Người yêu nước có lẽ là quyển truyện dài khá nhất đã xuất bản từ sau chiến tranh đến ngày truyện ấy ra đời”; Nguyễn Bảo Hóa (bút hiệu Tô Nguyệt Đình) viết trên báo Ánh sáng (số 346-347): “Sáng tác được một tác phẩm như Người yêu nước chẳng phải là một việc dễ. Tác giả đã tỏ ra sự cố gắng trong lúc ghi chép những phản ảnh của thời đại, nó đánh dấu một biến chuyển lớn lao của nền văn hóa nước nhà”; Việt báo (số 4) cũng nhận định: “Hành văn trong sáng và linh hoạt. Cốt truyện cảm động và ý nhị. Có thể nói đó là tác phẩm đặc sắc nhất của tác giả, và Thẩm Thệ Hà đã thành công ở công cuộc biểu dương nền ‘văn chương tranh đấu’ với tác phẩm này”.

Người yêu nước viết về cuộc sống xã hội của những con người, đặc biệt là những thanh niên trí thức, trước cách mạng tháng Tám và những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vũ là nhân vật tiêu biểu cho lớp thanh niên trí thức thành thị, sống sung sướng, những ngày đầu cuộc kháng chiến còn bỡ ngỡ, hoài nghi. Sau khi được Bão giác ngộ, Vũ đi theo cách mạng và cảm thấy ngạc nhiên với sự thay đổi của mình. Chàng lặn lội khắp các vùng quê hẻo lánh và đem những hiểu biết của mình dạy cho những người dốt nát. Vũ nhận ra rằng cách mạng chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Điều kiện đủ chính là sự hưởng ứng nhiệt liệt của quần chúng nhân dân lao động. Bởi “cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân”, “dân là gốc” là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong Người yêu nước ta thấy xuất hiện một kiểu nhân vật tương đối gần gũi với kiểu nhân vật mà sau này trở thành phổ biến trong các tác phẩm văn xuôi giai đoạn chống Mỹ cứu nước: nhân vật “người Đảng”. Nhân vật “người Đảng” là nhân vật đã giác ngộ và đi theo cách mạng rồi quay trở lại tác động, giác ngộ cho những nhân vật khác. Trong Người yêu nước: Bão giác ngộ cho Vũ; Vũ giác ngộ cho Phượng; Phượng lại giác ngộ cho cha mình. Trong tiểu thuyết Vó ngựa cầu thu, nhân vật Sơn cũng có một kiểu thức như vậy. Sơn đã giác ngộ cho Lan Phương. Những nhân vật như Vũ, Sơn có những nét gần gũi với A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Thế trong Đất nước đứng lên và Quyết trong Rừng xà nu của Nguyên Ngọc, Chị Ba Dương trong Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái,… đó là nhân vật xuất hiện để giác ngộ quần chúng đi theo cách mạng. Với họ, tình yêu của cá nhân, nhiệm vụ đối với gia đình đành tạm gác lại và dành tất cả sức lực, trí tuệ cho nhiệm vụ cứu nước. Họ đến với cách mạng với tinh thần tự nhiệm. Hình ảnh của Vũ khiến chúng ta không thể không liên tưởng đến nhân vật Dũng trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh (1905 - 1963). Cũng như Dũng, Vũ cảm thấy khổ sở và dằn vặt trước đời sống sung túc của mình và muốn làm một điều gì đó có ích cho giới cần lao. Và cuộc “tìm đường” của Vũ cũng khiến ta nhớ đến những trí thức tìm đường và nhận đường trong Đôi mắt của nhà văn Nam Cao (1915 - 1951). Người yêu nước có nhiều trường đoạn về sự triết lý con đường giải phóng dân tộc của những người trí thức. Cũng có lúc họ dao động, mất niềm tin vào “đám cần lao, cùng khổ, thất học” nhưng rồi chính họ lại tự đánh tan ngờ vực và thấy ở khối người đó có sức mạnh to lớn. Nguyễn Văn Sâm có lý khi cho rằng Người yêu nước đã thể hiện một “diễn trình ý thức cách mạng”2 của tác giả. Người yêu nước là tác phẩm có chiều sâu nhất của Thẩm Thệ Hà: giọng kể thay đổi linh hoạt khi thì ngôi thứ nhất, khi thì ngôi thứ ba; cuộc sống và cách mạng được thể hiện qua điểm nhìn từ nhiều phía của các nhân vật. Nó xứng đáng được xem là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất trong văn nghiệp của nhà văn.

3. Thẩm Thệ Hà và con đường cách mạng tân văn hoá

Viết về chân dung phê bình văn học Thẩm Thệ Hà trước 1954 cần tập trung vào cuộc bút chiến trao đổi giữa nhóm Chân trời mới Tân Việt Nam trên Việt bútTiếng chuông.

Trong bài viết Tâm sự của nhà phê bình trước thềm năm mới, Thẩm Thệ Hà tâm sự về công việc giữ mục “Phê bình sách mới” trên tạp chí Phổ thông: “Tôi rất ái ngại khi nhận phụ trách mục “Phê bình sách mới”. Nhiều nhà phê bình đã than phiền với tôi rằng: “phê bình thẳng thắn thường hay bị đụng chạm. Nhà phê bình bị oán ghét nhiều hơn là được khích lệ”. Chính tôi cũng công nhận điều nhận xét ấy: phê bình thiên lệch, ca ngợi vì tình cảm cá nhân sẽ bị độc giả khinh bỉ; phê bình khách quan, chỉ trích thẳng tay sẽ bị nhà văn, nhà thơ ác cảm. Vậy thì nhà phê bình biết trọng thiên chức, sứ mạng của họ thật khó khăn và bạc bẽo biết bao. Tôi thường nghĩ: “sinh hoạt văn nghệ thiếu phê bình sẽ trở nên tẻ nhạt. Phê bình rất cần để đem lại sinh khí mới mẻ cho vườn hoa nghệ thuật” vì vậy tôi không ngại sứ mạng khó khắn và bạc bẽo, vui vẻ cầm bút phê bình sách mới cho tạp chí Phổ thông” (Tâm sự của nhà phê bình trước thềm năm mới, Tạp chí Phổ thông, số 120, 1964). Đó là tâm sự của một người có “thâm niên” trong lĩnh vực phê bình văn học trước 1954.

Nhóm Chân trời mới chủ trương Văn chương tả chân xã hội (tức văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa), còn nhóm Tân Việt Nam và nhiều nhà văn độc lập khác chủ trương Văn chương tranh đấu. Nhóm Chân trời mới đại diện là Thiên Giang và Thê Húc, “phủ nhận văn chương tranh đấu” (lời Thẩm Thệ Hà), vì vậy xảy ra cuộc bút chiến hàng mấy tháng trời trong năm 1948 trên các báo Việt bút, Tiếng chuông giữa Thẩm Thệ Hà và Thiên Giang, Thê Húc. Các bài viết trên Việt bútTiếng chuông về sau được tập hợp và biên tập thành cuốn Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá.

Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá có tác động đối với đời sống văn học và định hình thiên hướng của gương mặt phê bình Thẩm Thệ Hà trong đường hướng: đọc văn chương như một hoạt động văn hoá để bảo vệ dân tộc. Trong tác phẩm này, ông đã viết: “Sau khi phong trào giải phóng bột khởi, văn hoá Việt Nam bước qua một giai đoạn mới: văn hoá là một lợi khí sắc bén để tranh đấu cho sự mất còn của một dân tộc. Văn chương là một hoạt động của văn hoá, lẽ tức nhiên cũng góp phần nào vào cuộc tranh đấu ấy. Trước ngày giải phóng, văn chương là một lợi khí vị nhân sinh, nay vì lẽ tồn vong của nước nhà mà chuyển thành một lợi khí tranh đấu” (Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá, Tân Việt, 1949, tr.40). Tinh thần ấy cũng được tác giả nhắc lại trong lời tựa tiểu thuyết Người yêu nước (1949).

Thẩm Thệ Hà viết phê bình có quan điểm và sứ mệnh rõ ràng. Giữa quan điểm phê bình và ý hướng sáng tác của ông là khá thống nhất. Ông viết nhiều bài phê bình sau 1954 khi phụ trách chuyên mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ. Nhìn chung, tác giả vẫn giữ được phong cách và quan niệm về phê bình trên Việt bútTiếng chuông.

Nghiên cứu phê bình văn học, Thẩm Thệ Hà thiên về phương pháp phê bình lịch sử xã hội. Trong các bài viết, ông cho thấy sự bao quát lịch sử xã hội đồng thời là sự cảm thụ tinh tế. Cần chú ý, bên cạnh những bài phê bình văn học, các sách nghị luận, giảng văn (chủ yếu sau 1954) cũng cho thấy rõ xu hướng thẩm bình của ông.

Tác giả là cây bút sở trường văn xuôi đồng thời lại có khả năng thẩm định thơ tinh tế (tác giả cũng là một người làm thơ, bắt đầu bước vào con đường văn nghệ bằng những vần thơ).

Phong cách chuẩn mực nơi ngòi bút Thẩm Thệ Hà có lẽ do ảnh hưởng từ học vấn và nghề nghiệp (ông sống chủ yếu bằng nghề dạy học), ông đặc biệt yêu thích và tỏ ra tinh tế nơi những tác phẩm gắn với môi trường giáo dục?

4. Tạm kết

Có thể thấy, so với thời kỳ trước 1954, văn phong của Thẩm Thệ Hà không mấy thay đổi, có chăng là trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực cuộc sống. Trước đây văn ông đầy chất lãng mạn, lạc quan thì nay lại thêm dư vị đắng cay, đôi chút đượm buồn. Các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà dù được viết sau 1945 nhưng nhiều nhân vật vẫn mang hơi thở của các nhân vật thời tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Những Sơn và Lan (Vó ngựa cầu thu), Vũ và Phương (Người yêu nước), Thúy (Đời tươi thắm) dù sống trong thời chiến nhưng họ vẫn mang những tâm tình lãng mạn, có lúc họ mơ mộng viển vông, chìm đắm trong những nỗi buồn vô cớ. Thế nhưng, điểm làm cho người đọc yêu thích nhân vật của Thẩm Thệ Hà chính là nhờ vào quá trình thay đổi nhận thức của họ trước thời cuộc. Con người trong tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà được miêu tả sẵn sàng hi sinh tình yêu riêng tư cho hạnh phúc chung của toàn dân tộc. Tình yêu nhiều khi đóng vai trò là động lực tinh thần giúp cá nhân vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ đối với đất nước.

Nhận xét về các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cho rằng: “Thời gian qua đi, giờ đây đọc lại người đọc dễ thấy những khiếm khuyết của tác giả về phương diện dựng truyện, khắc họa tính cách tâm lý… nhưng vẫn không thể không xúc động: người viết đã gửi vào trang sách của mình một tấm lòng nặng tình với đất nước”. Cái làm nên tầm vóc Thẩm Thể Hà đúng là qua trang sách tác giả đã thể hiện được tấm lòng “nặng tình với đất nước” và chúng tôi xinh nhấn mạnh thêm điểm quan trọng khác chính là ở sự chân thật trong ngòi bút và nhân cách trí thức của nhà văn(3).

 

Chú thích:

  1. Nhiều tác giả: Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr.1643.
  2. Nguyễn Văn Sâm: Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xb, Sài Gòn, 1969, tr.150.
  3. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ đề tài mã số 2013B-18b-05.

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
  2. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, tập III, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  3. Trần Tuấn Kiệt (1967), Thi ca Việt Nam hiện đại 1880 - 1965, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn.
  4. Võ Văn Nhơn (1997), “Văn xuôi yêu nước và tiến bộ trong các thành thị bị tạm chiếm (1945 - 1954)”, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn, số 5.
  5. Trần Hữu Tá (2003), “Một cây bút khả kính”, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9, ra ngày 9 /3/2003.
  6. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Thanh Việt Thanh (1993), Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  8. Nguyễn Q. Thắng (2008), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
  9. Nguyễn Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xuất bản, Sài Gòn.
  10. Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950, Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn.
  11. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1998), Nhìn lại văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1945-1954), In trong Bình luận văn học, niên giám 1997, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí khoa học Văn hóa và Du lịch, số 2&3 (82&83), tháng 3&5/2016

KỶ NIỆM 30 NĂM NGÀY MẤT NGUYỄN TUÂN

Đoàn Trọng Huy (*)

Đã có nhiều ý kiến bàn luận về Nguyễn Tuân và cái đẹp [5, tr 179 – 185, tr 219 – 226]. Nhà văn lớn Nguyễn Tuân được mệnh danh là “Người săn tìm cái đẹp” (Nguyễn Thành), hoặc “Người đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình Thi) [5].

Các nhà thơ lớn, nhà văn lớn thường có hẳn một hệ thống quan niệm thẩm mỹ, mang nét độc đáo. Vì vậy, để thấu đáo trong dư luận văn đàn, có thể và cần bàn về mỹ học của Nguyễn Tuân. Nói cách khác, cần xem xét kỹ về chủ thể thẩm mỹ với các phạm trù biểu hiện và đối tượng thẩm mỹ với đặc tính và các phạm trù của nó trong sáng tác của Nguyễn Tuân.

YYY

I/ HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM LÝ TƯỞNG THẨM MỸ CỦA NGUYỄN TUÂN

Sự đổi đời, đời sống và đời nghệ thuật của văn nghệ sĩ thời tiền chiến có một “trục bản lề” lịch sử – Cách mạng tháng Tám 1945.

Nguyễn Tuân cũng không phải là ngoại lệ. Ông quan niệm cái mốc lịch sử ấy đã tạo ra sự Lột xác kỳ diệu của bản thân.

Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Tuân được xác định một cách đại thể là từ Nghệ thuật vị nghệ thuật đến Nghệ thuật vị nhân sinh.

Tuy nhiên, như giới nghệ sĩ đã nhận định: Nguyễn Tuân là một “hiện tượng” phức tạp. Do đó, con đường đi từ “nghệ thuật cũ” đến “nghệ thuật mới” cũng phức tạp, không hề đơn giản. Có lúc thẳng tắp, trơn chu cũng có lúc quanh co, gập ghềnh.

Lột xác ( tên cũ là Vô đề ,Tạp chí Văn mới, 1945) là tâm sự chân thành rất mực, tuy nhiên không tránh khỏi nét bồng bột, cực đoan. Quả lắc đồng hồ tâm lý phải khuynh tả một chút trong cơn dao động thời cuộc...: “Mày huỷ diệt hết những con người cũ ở trong mày đi – những con người mà mày mệnh danh là cố nhân... Đào thải chưa đủ. Phải tàn sát. Giết, giết hết. Thò đứa nào ở dĩ vãng hiện về đòi hỏi bất cứ một tí gì của mày bây giờ, là mày phải giết ngay. Mày phải tự hoại nội tâm mày đi đã” [4, tr 343].

Đây là cái gìờ nghiêm trọng của đời Nguyễn trong không khí: “Ngoài đường, cuộc Cách mệnh đang bước dài trên khắp ngả phố”. Đó là giờ khắc tuyệt giao giữa Mới và Cũ. Ở Chùa Đàn vẫn còn là lưu luyến với một cái đẹp hư ảo trong mối xung đột giả tưởng: “Cho tới ngày nay, chưa có cuộc Cách mệnh nào của Con Người mà bỏ được tiếng hát” [4, tr 404].

Dù sao, đây mới là tâm sự và chuyển biến nghệ thuật của nhà văn trong buổi đầu khi tiếp xúc và tiếp nhận cách mạng.

Chặng thứ hai tiếp sau mới là chặng Đường vui.

Cách mạng dần dần giải thoát tâm hồn nghệ thuật cho Nguyễn Tuân, đưa nhà văn đến với nhân dân và cuộc sống chiến đấu. Tuy nhiên, quá trình chuyển biến cũng diễn ra không hẳn là đơn giản, dễ dàng.

Có thể nói – từng bước, từng bước trên đại lộ của cuộc đời mới và nghệ thuật mới, Nguyễn Tuân dần dần tiếp cận, và nhận ra được cái đẹp chân chính thật sự tiến bộ. Ý thức thẩm mỹ được hoàn thiện cùng với sự kiên định lý tưởng thẩm mỹ mới.

Từng là một nhà duy mỹ có hạng, môn đệ trung thành của thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật, chuyển sang quan điểm nghệ thuật và quan niệm thẩm mỹ mới tiến bộ ngày nay, Nguyễn Tuân đã thực sự tiến hành một cuộc “cách mệnh” bản thân khổ ải như một trận “Lột xác”. Căn bệnh cũ, đã bằng cách nào hay cách khác, chỉ rình rập, tái phát, phải mất bao công phu, phòng ngừa và chữa trị mới có thể tiệt nọc!

Thật là chông chênh giữa hoài cổ với tôn sùng nét văn hoá truyền thống, cũng mong manh là giới hạn giữa thưởng thức tinh tế hương vị, cảnh sắc quê hương, đất nước với thứ nhấm nháp dư vị cổ xưa. Nhưng nguy hiểm hơn cả, là sự trỗi dậy của một cái tôi cá nhân vị kỷ, kênh kiệu và ngông ngạo trên sự đời, và tình người, để “khinh thế ngạo vật” như anh chàng Nguyễn ngày nào. Cũng rất vất vả là sự dấn thân để tìm ra những cái đẹp chân thật, quý giá trên đời bằng tấm lòng thành thực và trí tuệ sắc sảo.

Chỉ từ những năm 60, đặc biệt là những năm chống Mỹ, nhà văn mới bước vào thời kỳ chuyển biến thực sự trên hành trình nghệ thuật theo  lý tưởng thẩm mỹ mới. Ấy là do kết quả của những trải nghiệm thực tế, thực tâm đi vào đời sống lao động, sản xuất và cả tiếp cận với hoạt động chiến đấu qua cuộc kháng chiến hào hùng vào bậc nhất của lịch sử dân tộc.

Tuy nhiên, trên dư luận văn đàn, đã từng có những luồng ý kiến nhận xét và đánh giá chưa thật thấu đáo và thoả đáng về nhà văn.

Đó là khuynh hướng đơn giản, có phần nào phiến diện khi đánh giá hành trình chuyển biến nghệ thuật của Nguyễn Tuân là triệt để, thông thuận, hoặc nhấn mạnh về một vài phương diện nào đó trong thể hiện lý tưởng thẩm mỹ hoàn chỉnh. Như nặng về công lao, nhà văn tìm kiếm, phát hiện mà nhẹ phần cống hiến sáng tạo cái đẹp. Hoặc như tôn vinh cái đẹp, cái thật chưa tương xứng với cái tốt.

Một khuynh hướng gây nhiều hệ luỵ và cả phản ứng với chính nhà văn là giáo điều, áp đặt. Những ý kiến đánh giá kiểu này thường thiếu cả lý và tình, có định kiến, xơ cứng, máy móc ảnh hưởng của xã hội học dung tục. Có bạn văn viết về Cảnh sắc và hương vị đất nước trong văn Nguyễn Tuân, đã nhận xét: “... tác động của xu thế phê bình văn học một thời làm ông chột dạ” [5, tr 218]. Thực ra, Nguyễn Tuân rất dị ứng với lốphê bình ấy.

II/ VỀ CHỦ THỂ THẨM MỸ

Nói một cách tóm tắt theo lý luận văn học, thì chủ thể thẩm mỹ là chủ thể xã hội, có khả năng hưởng thụ, sáng tạo và đánh giá thẩm mỹ. Chủ thể thẩm mỹ là các nghệ sĩ, các nhà văn và cả những ai có tiềm ẩn những năng lực thẩm mỹ như cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ và có hoạt động thẩm mỹ ngoài nghệ thuật. Và như vậy, là hết sức đa dạng, phong phú.

Nguyễn Tuân là một chủ thể thẩm mỹ đặc biệt. Bởi vì, nhà văn lớn có thể ví  là “chủ thể của chủ thể”, có vai trò và vị thế của chủ thể thưởng thức và sáng tạo, đánh giá và định hướng thẩm mỹ. Trong chừng mực nhất định, ông còn bao quát cả biểu hiện thẩm mỹ và tổng hợp nhiều năng lực thẩm mỹ. Ấy là vì, trên tất cả, nhà văn có cốt cách và năng lực của một nghệ sĩ tài hoa, một nhà văn hoá đầy bản lĩnh.

Nguyễn Tuân quả là một nhà nghệ thuật đa tài trên phương diện văn chương, ngôn ngữ và cả biểu diễn. Riêng về văn thì đã hội đủ chất văn thơ, nhạc hoạ và cả kịch, phim – rất hiện đại nữa.

Nguyễn Đình Thi đã tôn vinh Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ”. Còn Tố Hữu thì nói đại ý, coi nhà văn là người “thợ kim hoàn” về chữ nghĩa.

Am hiểu nghệ thuật và dấn thân cả trong nghệ thuật âm thanh, ánh sáng và diễn xuất, Nguyễn Tuân được mệnh danh là con người tài hoa: Tuân tài tử màn ảnh và sân khấu (Thiên Trường), “Nhà văn – diễn viên Nguyễn Tuân” (Trương Quân), Nguyễn Tuân - diễn viên sân khấu (Đình Quang), Hát ả đào đêm xuân (Hoàng Cầm),... [5]. Dù là nghệ sĩ trên trang viết, hay tài tử trên sàn diễn, cả hai đều nhất quán trong một ngôn ngữ nghệ thuật đặc trưng.

Nguyễn Tuân là người có ý thức thẩm mỹ đầy đủ và sâu sắc bậc nhất,. Đó là ý thức như một hệ thống hoàn chỉnh các thành tố cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, và nhất là quan niệm và lý tưởng thẩm mỹ.

Nhà văn có đầy đủ các trạng thái rung động một cách trực tiếp và cảm tính trước các hiện tượng thiên nhiên, đời sống và nghệ thuật – tức có được một cảm xúc thẩm mỹ mạnh mẽ. Qua đó, nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp của thế giới và con người và cái đẹp khách thể  và của chính mình.

Từ Vang bóng một thời, ta như thấy được sự khám phá vẻ đẹp xưa – đến các tác phẩm ký, tuỳ bút trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ chính là sự phát hiện vẻ đẹp chân chính và tiến bộ ngày nay (Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình, tập I – II; Sông Đà; Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi; Cảnh sắc và hương vị đất nước;...), Nguyễn Tuân đã thể hiện một biệt tài về tìm kiếm và thể hiện cái đẹp muôn hình, vạn trạng để dâng hiến cho đời. Đối tượng thẩm mỹ kích thích cảm xúc thẩm mỹ của chủ thể, nhưng lại có sự nhập cảm của ý thức chủ thể vào đối tượng.

Con sông thơ mộng và dữ dội đã trở thành dòng chảy huyền thoại, người lái đò vật lộn thác lũ đã trở thành dũng sĩ – nghệ sĩ nhờ ngòi bút tài hoa của nhà văn (Sông Đà). Đừng vui, Bài ca trên mặt phần đường hay chính đó là khúc hát tâm hồn của tác giả ? Cánh B.52 rụng xuống một thôn hoa Hà Nội  phải chăng, là luận đề minh triết về sự đối lập giữa thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, là hình ảnh tượng trưng kỳ thú về đối chứng “huỷ diệt” và “tái sinh”, về sự sống trên cái chết của nhà mỹ học uyên thâm. Nhà văn tham gia đóng phim Chị Dậu của Ngô Tất Tố, hứa sẽ đóng một vai người  Hà Nội trong phim Luỹ Hoa của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng qua những cảnh tượng của núi sông, miền biên giới hay giới tuyến, nhà văn cũng đã tạo ra những  cận cảnh, những đoạn dựng – montage – như điện ảnh.

Nhiều tác phẩm có những tiềm năng lớn cho chuyển thể thành những đoạn phim. Từ “cái biển hoa ấy đong đưa hương lộng... lũng hoa kỳ diệu” để nói lên tâm hồn Á Đông qua câu thơ của Nguyễn Du: “Hương gây mùi nhớ” (Hương hồng Bungari). Rồi, giữa trời Âu lại làm dậy lên cái hương thơm ngào ngạt của đặc sản dân tộc – Phở. Đây cũng là cái biệt tài độc đáo của nhà văn – nghệ sĩ từng một đời say mê với thanh sắc và hương vị, mà tâm hồn tràn đầy năng lực mỹ cảm.

Nguyễn Tuân từ khi “tập làm bài” (Lời của Nguyễn trong Lột xác), đến lúc “làm bài” đã dần xác định một quan niệm thẩm mỹ chính xác và tiến bộ.

Trên các bình diện, thì quan niệm thẩm mỹ thiên về tư tưởng, trong khi cảm xúc thẩm mỹ thiên về tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ lại thiên về sở thích.

Tuy nhiên, theo Hégel trong công trình Mỹ học (1835), coi hoạt động thẩm mỹ là một trong những hoạt động cao nhất của trí tuệ, thì sự thật điều thiện được liên kết chặt chẽ trong cái đẹp...

Như vậy, Chân – Thiện – Mỹ  có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau.

Mỹ học của Hégel mới được quan niệm trong phạm vi nghệ thuật, được quan niệm là triết học cũa nghệ thuật. Giờ đây, mỹ học hiện đại được quan niệm ở phạm vi phổ quát – cả về nghệ thuật và tự nhiên. Quan niệm thẩm mỹ có quan hệ với quan niệm nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật được coi là hạt nhân của quan hệ thẩm mỹ – vừa là kết quả, vừa có tác động đến sự chuyển biến đối với quan niệm thẩm mỹ, và còn ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học.

Nguyễn Tuân đã trải qua cuộc tranh luận nghệ thuật khởi phát từ năm 1935, và sau này  ông nhận ra sai lầm một cách chân thành là đã theo phái vị nghệ thuật :   “ Mình phải nhận cái tội của mình như thế” [5, tr 161].

Nêu luận đề “Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp”, hoặc “Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp và cái thật” là để nhấn mạnh mỹ cảm mãnh liệt như đam mê một đời của ông. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ hơn, ta có thể thấy rằng, khi cầm bút, tuy còn có phần chưa thật đầy đủ và sâu sắc, nhưng nhà văn đã thể hiện được trách nhiệm nhất là lương tâm của người viết.

Chữ người tử tù (Tạp chí Tao đàn số 1, 1/3/1939) có lúc đã được coi là một ví dụ điển hình của cảm xúc duy mỹ, tập trung miêu tả cái đẹp của hoa tay – tức cái đẹp thiên về hình thức. Khi đọc kỹ, ta sẽ thấy điều gần như ngược lại. Ở đây, nhà văn ca ngợi cái đẹp của lòng người. Nổi bật trên tất cả là hai chữ thiên lương. Ý tưởng viết rất rõ.

Qua con mắt “biệt nhỡn” của viên quản ngục, Huấn Cao hiện rõ là thuộc hạng người khí phách: “chọc trời khuấy nước”, những dòng chữ đẹp “nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Hầu như tất cả đất trời tôn “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giời không định”. Và mọi âm thanh phức tạp của cuộc đời như “bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị, muốn từ biệt vũ trụ”.

Quả là những lời ca ngợi tuyệt vời về sự ra đi của một con người chính nhân quân tử, một chính khách hiệp sĩ. Chúng ta đều biết – Huấn Cao, đây cũng chính là bóng dáng tượng hình của Cao Bá Quát – một bậc Thánh Văn, và người hùng tham gia vào khởi nghĩa nông dân, chống lại triều đình đương thời với chính sách hà khắc, gây bất công xã hội làm con người đau  khổ.

Lời khuyên nhủ như bừng sáng, soi rọi con đường giải thoát cho những tâm hồn còn u mê: “Ở đây lẫn lộn... Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững, và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.

Bữa rượu máu là tác phẩm trong tạp chí Tao đàn số 4 – 1939 (in trong Vang bóng một thời ,1940, sau đổi tên là Chém treo ngành). Đây là một ví dụ khác, tả về cuộc hành quyết những tử tù  “của dư đảng giặc Bãi Sậy”. Khởi nghĩa Bãi Sậy, thực chất là khởi nghĩa thuộc phong trào Cần Vương – phong trào chống thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX.

Kết thúc trang văn, còn có một chi tiết nói lên tất cả dụng ý sâu xa – như “một tấc lòng của nhà văn: “Lúc quan Công Sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn đính vào da cổ người chết quỳ sân pháp trường sắp giải tán, bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh... Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi, và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc dữ dội lật, rơi xuống bãi cỏ, lăn lộn mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan Thủ hiến và thì thào...”.

Sở kiểm duyệt lúc ấy ngu dốt, vẫn để đoạn văn này. Mà rất lâu sau, giới phê bình cũng chưa phát hiện ra thâm ý đó: “Ch đó! có mắt mà không biết đọc” – đó là phản ứng của Nguyễn Tuân khi nói chuyện với sinh viên Khoa Văn trường Đại học Sư phạm vào những năm 60 của thế kỷ XX.

Trong “trận gió lốc xoáy” ở pháp trường ấy, có quấn quyện cơn giận dữ của đất trời và cái phẫn nộ của lòng người, kể cả của nhà văn. Chính Nguyễn Tuân chứ không phải ai khác, bằng trí tưởng tượng của mình, đã tạo ra trận gió oan khốc, kỳ dị ấy để nói lên nỗi đau xót và thương cảm đối với nghĩa quân yêu nước bị hành hình, và tỏ rõ sự căm giận, oán hờn sẽ hành quyết những kẻ thủ ác – đại diện bọn xâm lược và tay sai – “hai quan Thủ hiến” thời ấy.

Quả nhiên, chỉ mấy năm sau thôi, trận gió thần kỳ  của cách mạng đã “làm giông làm tố”, cuốn phăng đi tất cả những phận đời nô lệ oan khổ  cho lồng lộng một đất trời giải phóng.

Đã từ lâu, Nguyễn Tuân là con người có lòng yêu nước âm thầm.

Năm 1939, khi còn là học sinh, ông đã tham gia bãi khoá, phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam. Trốn ra nước ngoài để thoát cảnh tù túng, ngột ngạt, lại bị bắt giam và chịu quản thúc ở Thanh Hoá. Tác giả Vang bóng một thời đã bị liệt vào loại “thành tích bất hảo”, bị đưa đi trại tập trung ở Vụ Bản, Nho Quan, Ninh Bình, và tiếp tục bị quản thúc.

Một con người vốn đã sẵn máu phản kháng, “nổi loạn” ấy, làm sao có thể viết văn xa rời những vấn đề chính trị – xã hội và đạo đức có tính chất chuẩn mực, lý tưởng?

Lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân có chiều sâu của ý thức xã hội. Ông đi tìm đồng thời cả cái đẹp cái thật trong cái tốt. Nói cách khác, đó là lý tưởng thẩm mỹ kết hợp được với lý tưởng xã hội lý tưởng đạo đức.

III/ ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ - SỰ  KHÁM PHÁ VÀ SÁNG TẠO CÁI ĐẸP

Là nghệ sĩ có tư tưởng nghệ thuật ban đầu không thuần nhất, có những mâu thuẫn nội tại, Nguyễn Tuân đã trải qua những bước đi ban đầu rất khó nhọc. Hành trình đi tìm cái đẹp – có lúc thông thuận, mạnh bạo, nhưng cũng có lúc ngập ngừng, dè dặt.

Xét trong căn cốt từ buổi đầu và trong thời gian khá dài, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân không hoàn toàn là vị nghệ thuật, không hẳn chỉ có duy mỹ thuần tuý kiểu phương Tây. Đó là vì đời sống thực tại, cái hồn thiêng dân tộc còn tác động vào và gây ảnh hưởng đến tâm thức của người viết.

Là người có khát vọng nhân văn, Nguyễn Tuân không thể có chủ nghĩa duy mỹ phi nhân bản. Ông nặng lòng với “đời sống đầy mâu thuẫn, oan khiên và tủi khuất”, bất mãn với “một đời thật tại, mong muốn giúp đẹp, góp tốt và làm vui cho cuộc đời” [2, tr 53, tr 117], và kỳ vọng nghệ thuật là “ánh sáng, là “đốm lửa để làm bừng dậy lòng người [3(1), tr 81].

Trên hành trình khám phá thẩm mỹ, Nguyễn Tuân đã gặp những sự trái khoáy, nghịch lý – cái đẹp thì không thật, và cái thật thì không đẹp. Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như sau: “Cách mạng là sự đổi đời đối với Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời” [5, tr 547]. Còn những dằn vặt, bức xúc vì những bóng tối, vì những cái vô lý nhưng cái lẽ lớn ấy không bao giờ thay đổi.

Một đời khát khao, mê đắm vì cái đẹp, cái thật, và cái tốt, nhà văn đã đi tìm kiếm để tạo thành những trang nghệ thuật cho đời.

Trong đời sống ấy, có biết bao cái đẹp ta thường tiếp xúc: cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội, cái đẹp trong bản thân con người, và cái đẹp của nghệ thuật.

Cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hùng là những phạm trù thẩm mỹ tích cực; còn cái xấu, cái thấp hèn, cái hài là các phạm trù thẩm mỹ tiêu cực.

Cái đẹp nằm ở vị trí trung tâm. Cái bi là cái đẹp khi thất bại, bị huỷ hoại. Cái xấu là đảo ngược giá trị của cái đẹp. Cái hài là sự phá bỏ tính  hài hoà của cái đẹp.

Cái đẹp là một đối tượng thẩm mỹ có phẩm chất nội tại, nhưng có ý nghĩa khách quan, và cũng phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ. Bởi, có những cái đẹp lướt qua dưới ánh mắt, tầm nhìn của người vô tình, mà cũng có cái đẹp ẩn khuất – vì tinh tế mà náu mình giữa cái phồn tạp hư ảo của trần gian.

Phải biết khám phá cái đẹp bằng “con mắt xanh” và “tấm lòng vàng”. Văn học nghệ thuật có nhiệm vụ huớng dẫn con người trên con đường khám phá cái đẹp. Nhà văn và nghệ sĩ là người khám phá và sáng tạo cái đẹp trong tác phẩm của mình. Nguyễn Tuân là người đã thực hiện một cách xuất sắc và độc đáo thiên chức này.

Cảm quan thiên nhiên, đất nước thiết tha, mạnh mẽ hiếm có đã giúp Nguyễn Tuân vẽ nên một “bản đồ Việt Nam” bằng ngôn từ thật đặc sắc.

Đất nước như trải dài theo mỗi bước chân của nhà văn. Từ Mũi Lũng Cú tột Bắc tới Huyện đảo nơi biển khơi. Nghe Gió Than Uyên Vẫn nghe tiếng dội Cà Mau ấy. Nhật ký lên Mèo, lại có trang viết Về thăm đất lửa Quảng Trị. Cảnh vật hiện ra với vẻ đẹp hiền hoà, thơ mộng, cùng với vẻ khắc nghiệt, dữ dội, có những nét hiện thực trần trụi và cả những nét mơ màng, hư ảo.

Xưa kia, trong hoàn cảnh mất nước, ta có thể thấy được cái tâm trạng bơ vơ, day dứt của Thiếu quê hương. Nhà văn chỉ thể hiện trạng thái: “thầm n mà yêu thương, mà ngợi ca đất nước muôn vẻ, muôn hình của mình” (Cầu ma). Giờ đây, đất trời đã hoàn toàn giải phóng, nhà văn thoả thuê, thả sức miêu tả, thể hiện quê hương, đất nước với vẻ đẹp như công trình nghệ thuật thiên tạo và cả: “Sức mạnh của đất nước luôn luôn hiện hình trên từng tấc gang đường xa” (Đường vui).

Nguyễn Tuân đi và viết với nhiều tư cách: nhà du lịch, tham quan địa lý, nhà khảo sát địa chất, nhà quan sát xã hội, nhà nghiên cứu lịch sử và văn hoá,... Chính vì vậy, mà bạn đọc có điều kiện thưởng ngoạn, và cảm nhận được nhiều điều thú vị ở những góc nhìn, những phương diện quan sát phong phú, đa dạng.

Có những địa phương nằm trong những vùng thẩm mỹ đặc biệt, cũng là vùng thâm canh sáng tác, mà nhà văm trở đi trở lại nhiều lần, và có thời gian lưu trú, “cắm rễ” khá lâu để có thể quan sát, miêu tả một cách kỹ lưỡng.

Đó là vùng Tây Bắc, và vùng giới tuyến. Hà Nội đất kinh kỳ, nơi chôn rau cắt rốn của tác giả, vì thế, dĩ nhiên là được gắn bó máu thịt suốt một đời tài hoa.Tuy xưa kia từng đặt chân đến Huế, Sài Gòn nhưng mấy mươi năm đất nước bị tạm thời chia cắt , nhà văn chỉ vô Nam trongta6m tưởng. Sau ngày thống nhất, cùng với các bạn văn, Nguyễn Tuân làm những chuyến xuyên Việt lý thú – qua Huế, vào tận Minh Hải. Rồi Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên,... Từ vùng biên giới Tây Nam đến các đảo, gồm cả Côn Đảo, Cà Mau,... Nguyễn Tuân từng cầm chén rượu đón bình minh trên biển Năm Căn, và từng ngồi bên rừng đước với gió, nắng, và cả đêm trăng Cà Mau ngắm mênh mông ngập tràn sóng biển…

Cảnh thường có nhiều người, người luôn trong cảnh, và nổi bật lộng lẫy trên nền phông cảnh. Đó là những con người Đi mở đường với những Bài ca trên mặt phần đường. Đó là khung cảnh Than Quỳnh Nhai mới khai thác, công nhân nhóm lửa thùng phuy luyện than cốc, là cảnh tượng vật lộn chèo chống với dòng thác của Người lái đò Sông Đà.

Nguyễn Tuân như người hoạ sĩ tài năng, có nhiều bút pháp linh hoạt, đã tạo nên những tuyệt tác mỹ thuật đầy màu sắc mà lung linh, huyền ảo. Có những trang viết lại giàu chất tạo hình, bài trí, phối cảnh như của nhà điêu khắc và đạo diễn điện ảnh.

Tóc chị Hoài là một sự đặc tả cận cảnh, con sông lại là sự liên tưởng kỳ diệu từ mái tóc mây thiếu nữ: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, “Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn, vạn vạn sải,... (Người lái đò Sông Đà).

Đây lại là cái nhìn từ tít cao, như từ “chín tầng mây” dọi xuống, mà ẩn hiện cái bồng bềnh, kỳ ảo như miền cổ tích.

Sự tương tác thể loại, và nghệ thuật ngôn từ đã đem lại cho văn Nguyễn Tuân những vẻ đẹp đặc sắc. Trong ký có truyện, tuỳ bút mà có những trang đầy chất tiểu thuyết, những trang văn đậm chất thơ: cảnh, người, việc, sự kiện tâm tình được tượng hình trên trang viết. Trong xưa có nay, hôm nay mà thắm bóng thời xưa, hiện thực đấy mà bay bổng xa vời thăm thẳm trong cái lãng mạn mù khơi…

Có thể nói, những trang văn của Nguyễn Tuân hội tụ được cả sự hiện thực hoá của lý tưởng thẩm mỹ.

Lịch sử, văn hoá, truyền thống là một cội nguồn cảm xúc thẩm mỹ của nhà văn lớn. Câu chuyện hôm nay vẫn thấp thoáng cái đẹp xưa, nhưng là cái đẹp đã thăng hoa, hiện đại hoá.

Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có cái say của rượu tân hôn, kỳ vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật. Mỹ cảm với cảm xúc thẩm mỹ của nhà văn như là vô tận. Luôn luôn đổi mới  cảm giác, nhận thức như phương châm cảm thụ cái đẹp của Nguyễn Tuân. Đời là những  “ Trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng nghệ thật mới.

Cáu đẹo văn hoá là một phương diện rất được lưu ý của nhà văn trong đó có văn hoá ẩm thực đặc sắc. Đặc biệt là ứng xử văn hoá đã tạo ra phong cách sống đẹp nổi tiếng hào hoa, lịch thiệp, tinh tế Nguyễn Tuân.

  Cái đẹp, cái cao cả, cái hùng tráng là những giá trị thẩm mỹ tự thân thường được miêu tả, thể hiện tập trung, sáng tỏ. Tuy nhiên, cũng trong phạm trù thẩm mỹ tích cực này có sự đan xen giữa cái bicái hùng để tạo nên cái bi mang sắc thái bi tráng.

Đào cộng sản, Đất cũ Sơn La ( Sông Đà ) là những điển hình về đất và người, về sự và tình. Cái bi thương lại gợi bao thương cảm: Xoè. Đó là cấu trúc nội tại một tập tuỳ bút. Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi là tập ký loại kiệt tác cũng đan xen, đối sánh cái cao cả. cái hào hùng như phẩm chất  cao của cái đẹp, với cái hài  thật sắc bén, giàu sức mạnh của nụ cười đả kích sự xấu xa, thấp hèn, sự ác độc, tàn nhẫn của kẻ thù. Biệt tài của nhà văn còn ở sự đan cài chồng chéo, đối sánh hai bình diện bi tráng và bi thương. Ở Đám cưới giữa trận địa pháo hiển hiện hai hình ảnh hạnh phúc trong chiến tranh : đám cưới của nữ pháo thủ ở trận địa pháo và đám tang có đặt tấm thiệp cưới ngày Noel  trong áo quan của nữ bác sĩ bệnh viện Bạch Mai thiệt mạng trong trận bom B.52. Còn ở Cánh B. 52  rụng xuống một thôn hoa Hà Nội ta có được hai nụ cười cùng lúc: nụ cười sảng khoái, thoả thuê chiến thắng và nụ cười khinh bỉ, hả hê với thảm bại nhục nhã của kẻ thù, bi tráng và hài hước qua một niềm lạc quan  tin tưởng xen lẫn lòng căm giận, hận thù

YYY

Nguyễn Tuân  xứng đáng được tôn vinh là nhà văn – nghệ sĩ một đời săn tìm, thể hiện và sáng tạo cái đẹp cho nghệ thuật. Đó là nhà Duy mỹ chân chính vì cái đẹp lý tưởng  của Con Người trong cuộc đời đi lên theo ánh sáng văn minh hiện đại.

Bằng cuộc đời đẹp như hoa, Nguyễn Tuân đã hiến cho đời những Trang hoa, những Tờ hoa vì mãi mãi tương lai nghệ thuật..

CHÚ THÍCH

(*) PGS. TS Trường ĐHSP Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đoàn Trọng Huy (2007), Nguyễn Tuân, in trong Tinh hoa văn thơ thế kỷ XX, Giáo dục.

[2] Nguyễn Tuân (1999), Nguyễn Tuân – Bàn về văn học nghệ thuật, Hội Nhà văn.

[3] Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân – Toàn tập (1, 2, 3, 4, 5), Văn học.

[4] Nguyễn Tuân (2005)       , Nguyễn Tuân – Tuyển tập (1, 2, 3), Văn học.

[5] Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Tuân – Về tác gia và tác phẩm, Giáo dục.

“Cuốn Thơ văn Lý-Trần, Tập II, Quyển Thượng do Nguyễn Huệ Chi làm chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành tại Hà Nội vào năm 1988.

[…] Theo tôi tìm hiểu thì bộ này hiện được giới nghiên cứu văn học, nhất là sinh viên chọn làm sách tham cứu tư liệu văn học Lý-Trần đáng tin cậy. Bản thân chúng tôi cũng rất trân trọng bộ sách này và nghĩ rằng phải lâu về sau mới có một bộ khác cùng thể loại có giá trị tốt hơn. Công của nhóm Nguyễn Huệ Chi đối với nền văn học nước nhà nói chung và văn học Lý-Trần nói riêng thật đáng quý. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm thì bộ sách này vẫn còn những chỗ sơ sót cần phải góp ý để cho viên ngọc bích còn có chút gợn được hoàn toàn bóng láng. Vì lý do sức khỏe nên chúng tôi mới góp ý cho Quyển Thượng, Tập II bộ Thơ văn Lý-Trần (và cũng chưa góp ý trọn vẹn, tạm dừng ở trang 548). Hy vọng khi sức khỏe hồi phục, chúng tôi sẽ góp ý tiếp. Việc làm của chúng tôi chỉ là thành toàn giá trị cho viên ngọc bích mà thôi. Những kiến giải góp bàn của chúng tôi chỉ là những hiểu biết chủ quan, mong ông Nguyễn Huệ Chi và các bậc thạc học túc Nho vui lòng chỉ dạy lại để tôi có dịp học tập và sửa chữa lỗi lầm. Hân hạnh thay!”

Bài viết của Hậu học Song Hào Lý Việt Dũng. Xin xem toàn văn trong tập tin đính kèm.

Khi Tô Hoài nằm xuống, chúng ta tưởng như một cánh cửa đã đóng lại, niêm hẳn một thời dài mà Ông là chứng nhân đặc biệt.
Thật vậy, có ai được thọ tuổi đời, được nhiều trang viết, được đi qua bao triều đại, bão giông, mà vẫn minh mẫn, tinh tường, tràn đầy cảm hứng, ngồn ngộn chất sống như Tô Hoài?
Mùa hè năm ngoái, trước thời khắc này mười hai ngày, Tô Hoài vĩnh biệt chúng ta. Trước đó một năm, chúng tôi chạy đua với thời gian trong bộn bề công việc, trong hoài thai, sinh nở để mong có thêm một luận văn nhỏ tổng kết về đời văn Tô Hoài, cây đại thụ của ngôi làng văn học Việt Nam, nhưng đã muộn.
Nhà văn đã không chờ một người nghiên cứu trẻ ở phương Nam tìm đến gặp, xin được hầu chuyện văn chương và trình lên sản phẩm nghiên cứu đầu tay của mình, Ông đã ra đi ở tuổi chín mươi tư.
Hôm nay, thầy trò chúng tôi cùng may mắn có mặt ở đây để tưởng niệm Tô Hoài, nói với Ông về những điều chúng tôi nhận được từ di sản của Ông.
Chúng tôi muốn thưa với Tô Hoài rằng, chọn con đường giảng dạy và nghiên cứu văn chương, chúng tôi mỗi ngày như được nuôi dưỡng bằng chất sống là tác phẩm. Tô Hoài đã cung cấp cho chúng tôi dưỡng chất ấy, nhiều và bền bỉ, lặng thầm như nước mội nuôi cây.
Đã nửa thế kỷ qua, từ ngày tôi được cầm trên tay Dế mèn phiêu lưu ký, O chuột, Quê người, Xóm Giếng ngày xưa...Ký ức của cô bé mười tuổi thuở ấy còn nguyên vẹn tiếng gù của vợ chồng đôi gi đá (Đôi gi đá); mùi hương của đóa ngọc lan anh Hời ném vào ô cửa hẹn hò với Ngây, cảm giác kinh sợ và xót xa với bà cụ Vạng mù mớm cơm cho cháu (Quê người); hình ảnh của anh cu Lặc vỗ bụng hát ông ổng khi no và không dám ăn canh miến vì “ăn ló tơn tơn quá, chưa luốt đã tụt vào củ tỉ” (Cu Lặc)...
Bắc Bộ xa xôi hiện lên đầy ám ảnh và trở nên thân thuộc, nhờ Ông.
Từ thuở ấy, những chân trời mở ra, những con người gặp gỡ, Việt Nam, Đất nước, Dân tộc trở thành một thực thể ruột rà ăm ắp yêu thương.
Nhưng Tô Hoài có nói gì to tát đâu, Ông chỉ mải miết nhìn và mải miết ghi, nhẩn nha và gấp gáp, nghiêm trang và hài hước, hồn hậu và tinh quái, càng ngày càng lão thực trong đời sống và lão luyện trong nghề văn.
Dù không thần bí hóa văn chương, tôi vẫn không thể không thích thú với ý nghĩ rằng bản mệnh của Tô Hoài gắn với thần Hermès (Mercury)[1]: Tính cách linh hoạt, trải nghiệm thẳm sâu, phong cách lão luyện. Ở Ông, cái bẩm sinh gắn liền với cái chuyên nghiệp, cái chữ nghĩa gắn liền với cái đời thường.
Đó là tính trời. Còn nết đất?
Sẽ phải có nhiều ngày, nhiều suy tư, nhiều trang viết để nói về một Hà Nội làm nên Tô Hoài. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến sự kết tụ và kết tinh, âm thầm, tiềm tàng, kiên nhẫn qua bao năm tháng: phù sa văn hóa mà vùng đất này có được. Phù sa ấy được bồi đắp theo một nhịp vận hành hài hòa tự nhiên, không thủy điện, không cơ giới. Tô Hoài đã may mắn sinh ra và lớn lên nơi ấy, hút đậm phù sa từ thuở thiếu thời. Mảnh đất ven đô cho ông điểm nhìn từ cái giáp ranh của đời: Ông thấm vào mình cái hơi thở tĩnh lặng của đất đai làng mạc đồng thời lại nhạy cảm với cái nhịp đập hối hả, cái tâm thế xao xác của thị dân.
Xuất hiện vào thập kỷ cuối của giai đoạn văn học 1932-1945, Tô Hoài đến muộn, trong cái làng văn khá nhiều chữ nghĩa đang khát khao khối tri thức sang trọng hiện đại của trời Tây. Ông là con nhà thợ cửi, là dân làng dệt. Về phương diện nghề nghiệp, Ông không có cái lợi thế của con nhà dòng dõi, của trí thức trường lớp. Từ cái giáp ranh của nghề, Tô Hoài bước vào trung tâm đời sống văn chương, định vị mình bằng con đường tự học (luôn quan sát, đọc và ghi chép lại), bằng việc tiếp tục khai thác cái tình thế đặc biệt của mình (làm nhiều việc khác nhau tất cả đều có thể trở thành vỉa quặng cho trang viết của Tô Hoài).

Như vậy đó, cái nội lực văn hóa của miền đã kết hợp với thiên hướng và hoàn cảnh cá nhân của Tô Hoài. Nhưng chưa đủ, tôi muốn nói đến cái nội lực văn hóa của thời mà Ông đã sống.
Thời mà Tô Hoài đi qua, chỉ còn 5 năm nữa là vừa chẵn 100 năm. Ông đã trải một thời dài, quá nhiều biến cố mà hiếm có nhà văn nào có được. Ai trong chúng ta thâm cảm nó bằng Ông? Ngày Ông biết nhìn, biết nhớ, nó đã là thuộc địa. Xã hội Việt Nam hiện đại hóa trong khổ nhục. Văn minh phương Tây áp vào quê hương Ông tạo ra những biến thiên chưa từng thấy. Và khát vọng ra đi đạp đất đội trời (Dế mèn phiêu lưu ký, 1941), ước muốn từ một cái tôi cá nhân biết có những chân trời. Và Xóm Giếng êm đềm trở thành cái của ngày xưa, trong xu thế đô thị hóa của kinh tế thị trường. Và những kiếp người nhao nhác trong mưu sinh, trong loạn lạc, sống đắp đổi, tạm bợ như những mảnh bèo trôi (Cỏ dại, Quê người, Chuyện cũ Hà Nội). Và rồi hai cuộc chiến tranh trong dẫn dắt của ý thức hệ cộng sản, những phong trào, những “đổi đời” lớn lao từ núi rừng (Mười năm, Truyện Tây Bắc) đến thủ đô (Những ngõ phố), những trải nghiệm không tưởng nổi một thời ở vùng nông thôn Bắc Bộ (Ba người khác) và những ký ức chi chít về đời sống văn chương (Cát bụi chân ai, Chiều chiều)...
Lực hút của thời cuộc đã đưa Tô Hoài đứng giữa giòng, đi nhiều nơi, thấu cảm nhiều cảnh ngộ. Ông có hơn nửa thế kỷ giữ nhiều trọng trách xã hội bên cạnh việc cúi mình trên trang viết. Và chính lực hút của chữ nghĩa chiếm ưu thế mạnh hơn trong ông, đã giúp Ông biến thời cuộc thành nội lực văn hóa của thời. Với Ông, thời cuộc cũng là một phần của đời sống. Thời cuộc ẩn sâu trong sinh hoạt, tâm tư, lời ăn tiếng nói của con người chứ không nhảy lên thành công thức, không khuôn mình thành luận đề. Luôn cúi mình lắng nghe tiếng rì rầm của xã hội của tự nhiên, thế giới văn chương của Tô Hoài nổi lên theo lực hút của đám đông, một đám đông như cỏ, nhỏ nhoi, cộng sinh, thuận theo tự nhiên. Một đám đông không mờ mờ nhân ảnh mà rõ rành, sắc nét từng cá thể, bởi vì họ sống thực, sống tự nhiên cuộc đời của họ. Và Tô Hoài luôn bị hấp dẫn bởi cái thực, mộc và tự nhiên đó...
Thuận thiên, và yêu cái tự nhiên, hình như ấy là cốt cách sống và quan niệm nghệ thuật mà Tô Hoài đã có và thể hiện trong suốt cuộc đời mình, từ những trang viết đầu tay cho đến trang viết cuối cùng. Nếu nghĩ kỹ, thật khó xếp Tô Hoài vào một trào lưu nào: hiện thực hay lãng mạn? xã hội hay phong tục? Không ngả sang duy mỹ, không trau chuốt ngôn từ theo trào lưu lãng mạn thời 1932-1945; tránh được phần lớn lối khái quát hóa của trào lưu hiện thực và xu hướng sử thi, hình như Tô Hoài vượt ra ngoài các khung định sẵn.
Các cốt truyện của Ông thường không chặt chẽ, ít mang tính luận đề như rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam thế kỷ XX. Khả năng vượt khung này hình như cũng vừa là tính cách, vừa là phong thổ. Có thể nhớ đến hai khuôn mặt tiêu biểu của văn chương Hà Nội: Tô Hoài và Nguyễn Tuân. Cả hai đều xuất hiện muộn (những năm 40 của thế kỷ XX), đời văn dài, đều giỏi nhặt nhạnh những điều cụ thể, tài hoa trong chi tiết và giọng kể. Nhưng đó là hai phong cách hoàn toàn khác nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch: Một neo giòng/ một hoài cổ; một ngồn ngộn đời thường/ một chạm khắc kỳ khu; một dõi theo muôn mặt chúng sinh trong kiếp đời lao khổ/ một hứng thú với những nhân dáng đặc biệt, những tình huống đắt, ngợi ca cái đẹp và thú vui; một dung dị, thản nhiên, thoáng giễu cợt khiêm nhường/ một cầu kỳ, nghiêm trang mà ngông nghênh, kịch tính. Nhưng “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già” (Truyện Kiều), Nguyễn Tuân có lúc bảo là Tô Hoài mới là người có méthode.[2]
Từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến tạp văn, Tô Hoài duy trì được cái cách kể kề cà xộc xệch rất hiện đại, phả được tiếng rì rầm phồn tạp và cái nhịp điệu tự nhiên của đời sống. Những mở đầu và kết thúc thường lửng lơ, đột ngột. Phần lớn các nhan đề của Ông cũng toát lên cái dung dị tự nhiên ấy. Này đây không gian: Quê nhà, Quê người, Những ngõ phố, Chuyện cũ Hà Nội, Cát bụi chân ai; này đây thời gian: Chiều chiều..; này đây muôn mặt chúng sinh: Mẹ mìn bố mìn, Kẻ cướp bến Bỏi, Giấc mộng ông thợ dìu, Ba người khác... Càng về già, ngôn ngữ văn chương của Tô Hoài càng trĩu nặng phù sa văn hóa sông Hồng. Ông cứ nói miên man từ chuyện này sang chuyện kia, cấu trúc câu ngoắt ngoéo với tầng tầng lớp lớp từ ngữ mới/ cũ, của đường phố/ làng quê, của đối thoại/ độc thoại: Tô Hoài say kể và chúng ta say nghe, chăm chú mà nhẹ nhõm...
Đặc biệt, ngay từ những trang viết đầu tay của tuổi đôi mươi, như Cỏ dại, đã hằn lên một phong cách quan sát và tự quan sát cực kỳ tinh tế và một khả năng biểu hiện cực kỳ rõ rành, tỉnh táo, không ve vuốt, không nương nhẹ. Ở đó Tô Hoài đã thể hiện khả năng tự phân tích, tự phê phán và tự giễu nhại. Nhân vật tôi xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Tô Hoài, đi cùng với các nhân vật đám đông của Ông, dân dã và đôi khi nhếch nhác, di chuyển và trò chuyện trong giòng chảy của lịch sử, trong các biến thiên của thời cuộc. Nhưng ở đó nhà văn không kêu lên tha thiết: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi. Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu” (Xuân Diệu, Những đêm hành quân) mà thường nói thật cái chút lưỡng lự, chút tính toán tinh ranh nhỏ bé trong mình, trong người, và thường tự giễu mình, giễu người, trong mỗi khi chọn lựa. Đứng giữa giòng mà vẫn chăm chú với cái ngoại vi, dấn mình vào cõi nhân sinh mà vẫn thiết tha với thế giới tự nhiên. Tô Hoài như vậy hiện đại và dân chủ. Từ xu thế chung, Vũ Ngọc Phan và Vương Trí Nhàn cho Ông là có cái nhìn khinh bạc và hư vô. [3]
Nhưng văn chương Tô Hoài sẽ còn mãi, xanh biếc theo thời gian. Vì nó lưu giữ cho chúng ta đời sống. Vì nó phả lại nhịp đập của lịch sử. Vì nó nói lên câu chuyện muôn đời của kiếp nhân sinh. Sẽ còn có ai sau Tô Hoài làm công việc ấy cho thời này của chúng ta hôm nay?
Nhớ đến Tô Hoài hôm nay, là nhớ đến một người văn và một đời văn tủm tỉm nụ cười. Nụ cười ấy vừa trẻ thơ láu lỉnh vừa lão thực trầm tư. Ông không mang lại cái nhìn ngạc nhiên, Ông ít tạo nên kịch tính vậy mà trang viết của Ông vẫn cứ tươi mới, vẫn cứ đầy ắp những giao cảm âm thầm. Bằng cuộc đời và trang viết, Tô Hoài như nói với chúng ta rằng: “Cuộc đời là như vậy đấy. Ai gắn bó và yêu thương nó thực thà, sẽ luôn tràn đầy cảm hứng.”

SG, 5-7-2015
NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
[1] Theo thần thoại Hy Lạp, “thần Hermès là thần bảo hộ cho kẻ trộm, người du lịch, các sứ thần, mục đồng và chăn nuôi, người thuyết trình, thương nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn chương và thơ, các đơn vị đo lường, điền kinh, thể thao, sự khôn ngoan, lanh trí, và các phát minh, sáng chế, ngôn ngữ...” nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hermes
Dẫn nguồn ngày 5-7-2015.
-Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, từng dạy học, bán hàng, kế toán hiệu buôn, phóng viên, chủ nhiệm báo Cứu Quốc, Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội...
[2] Theo lời kể của Vương Trí Nhàn trong "Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du": “Hồi sinh thời Nguyễn, có lần tôi đánh bạo hỏi, thì được cụ trả lời: – Mình làm việc có mê-tót gì đâu! Có mê-tót, phải là sừ Tô Hoài”. Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/to-hoai-va-nhung-nghiem-chinh-…/, dẫn ngày 5-7-2015.
[3] Vũ Ngọc Phan (1960) Nhà văn hiện đại , Nxb. Thăng Long, Sài Gòn, tr.1118: “Về sau, người ta thấy những truyện ngắn của ông trong Tiểu thuyết Thứ Bảy hơi đá giọng trào lộng và khinh bạc...”
Vương Trí Nhàn, Bđd: “Có một thoáng gì đó, như là một chút hư vô trong con người thực dụng Tô Hoài chăng? Một nhận xét như thế là đầy mâu thuẫn, nhưng biết sao được, con người mỗi chúng ta trong những năm này bị bao sức mạnh xâu xé, kể sao cho xiết! Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/to-hoai-va-nhung-nghiem-chinh-…/, dẫn ngày 5-7-2015.

Tài liệu tham khảo:
1.Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb. Thăng Long, Sài Gòn.
2. Vương Trí Nhàn (2005), Cây bút, đời người [Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du] Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

Nguồn: Tham luận tại hội thảo do Hội nhà văn Hà Nội tổ chức, kỷ niệm một năm ngày mất của Tô Hoài (2015).

Trong bối cảnh từ sau thời đổi mới, văn học Việt Nam chứng kiến những thay đổi khá bất ngờ. Đặc biệt bước vào thời hội nhập, toàn cầu hóa từ cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, không gian sáng tác ngày nay không chỉ giới hạn ở một quốc gia, một vùng lãnh thổ. Chúng tôi gọi là những sáng tác “xuyên quốc gia” (transnational). Việc miêu tả cuộc sống không chỉ trong quá khứ mà thường là những tiến trình đang xảy ra, vì những quan hệ xuyên quốc gia càng ngày càng phổ biến, nếu không muốn nói chúng đã biến thành kinh nghiệm phổ quát của đa số con người trên mặt đất ở thế kỷ chúng ta. Chuyện du lịch, làm việc, định cư tại một nước khác không còn là chuyện xa lạ hay thiểu số để trở thành một đề tài mang tính chất bi kịch nữa.

Tôi gặp anh lần đầu tiên vào đầu năm 1974 ở căn cứ Xuyên Trà (Quảng Nam), lúc đó tôi là một đứa học trò lớp 11 đang tham gia hoạt động cách mạng bí mật ở Đà Nẵng, thỉnh thoảng lên chiến khu nhận nhiệm vụ. Anh thì vừa ở tù Côn Đảo về trong đợt trao trả ở Lộc Ninh, từ cơ quan Khu ủy 5 xuống, chân vẫn đi khập khiễng do bị bắn gãy hồi Mậu Thân và bị tra tấn trong tù, mặt thì thâm đen do sốt rét. Bài học chính trị đầu tiên tôi được học là từ Phan Duy Nhân. Đó là thứ chính trị được nói bằng cả tâm hồn, trí não và thân xác, thỉnh thoảng sùi bọt mép, nó hào sảng bay bổng như thi ca. Từ lâu tôi không còn được nghe thứ chính trị hấp dẫn như thế nữa.

Lần đó tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, về lại thành phố mang theo cái huy hiệu Đoàn nhét trong lai áo và bản hùng ca sùi bọt mép của anh trong tim. Lúc đó mà vì cách mạng phải đi vào chỗ chết thì còn sung sướng hơn lên thiên đường. Cuối năm đó, tôi bị lộ phải thoát ly. Ngày 30 Tết, anh từ căn cứ của Khu băng rừng xuống, anh bảo xuống cho kịp giao thừa để mừng tôi lên chiến khu, nhưng đến nơi thì trời đã sáng. Anh tặng tôi một bó hoa rừng.

Khi Đà Nẵng giải phóng, tôi cùng làm việc với anh một đoạn, còn gặp gỡ thì nhiều. Trong đợt thi tú tài đầu tiên do chính quyền cách mạng tổ chức năm 1975, anh bảo tôi nộp đơn thi, tôi không chịu, nói cách mạng cần thực học chứ cần gì bằng cấp, anh mắng tôi nói bậy, bảo làm gấp hồ sơ để anh mang đi nộp, còn thi hay không thì tùy. Tôi nói tôi không có giấy tờ gì hết, khai sinh trước đây đi học thì khai nhỏ đi 1 tuổi, đối với cách mạng không dùng thứ giấy tờ “gian” ấy được. Anh hỏi tôi sinh ngày nào năm nào, tôi nói tôi biết năm chứ không biết ngày tháng. Anh đã tự tay làm cho tôi một giấy khai sinh, ghi đúng năm tôi nói, còn ngày tháng thì anh tự đặt. Tôi chính thức có ngày sinh tháng đẻ kể từ đó.

Những ngày đầu sau giải phóng, anh ăn ngủ cùng tôi ở cơ quan, đến khi giải phóng Sài Gòn anh mới đón vợ anh là chị Dương Thị Ngân Hà và con gái Phan Dương Triều Tân khi ấy 9 tuổi về đoàn tụ. Đối với đám “trẻ con” chúng tôi theo cách mạng hồi ấy, Phan Duy Nhân là thần tượng. Anh chắp cánh cho những tâm hồn ngây thơ trong trẻo của chúng tôi. Từ anh mà ngay cả việc lãnh lương hàng tháng chúng tôi cũng thấy mình không trong sáng. Và cũng vì sự ngây thơ trong trẻo dài lâu ấy mà trong chúng tôi, nhiều người tiếp tục cầm súng ra biên giới sẵn sàng hy sinh để giữ nước, những người còn lại đều “lên bờ xuống ruộng” và dù có “lên bờ xuống ruộng” vẫn tiếp tục “cố thủ” sự trong trẻo ngây thơ của mình.

Anh là một thi sĩ, tất nhiên rồi. Anh còn có học vấn uyên bác và là nhà chính trị đầy mưu lược, nhưng trên hết anh là con người hào hiệp, tinh tế và quật cường. Năm 1966, trong sự kiện nhân dân Đà Nẵng làm chủ thành phố 76 ngày, anh giữ vai trò như là một “chính ủy”, sự kiện đó được Bí thư thứ nhất Đảng Lao động VN Lê Duẩn tổng kết làm bài học nhân dân nổi dậy giành chính quyền.

Năm 1968, anh từ chiến khu xuống Đà Nẵng dẫn đầu cuộc biểu tình lớn, bị cảnh sát chính quyền Sài Gòn bắn gãy chân. Họ bắt anh vào tù, rồi cầm cái chân gãy của anh quay tít để tra tấn, nhưng mỗi lần hỏi cung, anh chỉ đáp lại một bài thơ kiên trung bất khuất. Anh bị đày ra Côn Đảo 6 năm, cho đến khi được trao trả, người còn đầy những vết tra tấn.

Giải phóng xong anh vẫn ở cơ quan Khu, khi Khu giải thể anh mới về tỉnh. Tôi biết ông Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy QN-ĐN lúc đó nhiều lần đề nghị đưa anh vào vị trí này vị trí kia của tỉnh, nhưng tỉnh không dung nạp. Người ta đưa anh về làm cán bộ Mặt trận của thành phố Đà Nẵng, lúc đó chỉ là cấp huyện. Trong một cuộc họp về tôn giáo vận của Trung ương anh được cử đi dự, sau khi nghe anh phát biểu, những ý kiến sắc sảo và có tầm cỡ của anh về tôn giáo đã lọt vào “mắt xanh” ông Nguyễn Văn Linh, lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Dân vận Trung ương.

Ông Nguyễn Văn Linh đã “xin” anh về Ban Dân vận Trung ương, tỉnh không “cho”, nhưng lập tức rút anh lên bổ nhiệm làm Phó ban Dân vận Tỉnh ủy. Khi ông Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư, anh được điều ra Hà Nội làm Phó ban Tôn giáo Chính phủ, rồi Quyền Trưởng ban. Lúc Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm làm Trưởng ban Tôn giáo chính phủ thì “phát hiện” một đơn tố cáo anh có chuyện này chuyện khác lúc còn ở tù, Chính phủ đã tạm dừng cái quyết định đó lại để điều tra, sau 1 năm rưỡi điều tra, kết luận nhân vật bị tố là một người khác, chỉ trùng tên với anh thôi. Trong thời gian điều tra, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ được giao cho một người khác. Những chuyện như vậy không làm cho anh bận tâm, anh đứng cao hơn các chức tước.

Ngày xưa anh có nhiều bạn bè là các văn nghệ sĩ nổi tiếng ở miền Nam. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người được anh “kéo” đi tham gia cách mạng, tôi biết chuyện đó vì có lần anh viết một cái giấy xác nhận nhờ tôi đánh máy giúp.

Nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả “Mùa hè đỏ lửa”, là bạn thân của anh, cùng với Trần Dạ Từ, Nhã Ca và nhiều người có tiếng tăm khác. Vào năm 1970, khi anh đang bị tù ở Côn Đảo, ông Phan Nhật Nam đang là sĩ quan quân đội VNCH, viết cuốn sách “Ải trần gian”, ghi ngay trang đầu: “Tặng Phan Duy Nhân, kẻ hào kiệt”. Bộ Thông tin chiêu hồi VNCN đã yêu cầu ông Nam đục bỏ dòng chữ đó trước khi in, nhưng ông nhất định không chịu.

Chính ông Phan Nhật Nam đã kể lại chuyện đó trong một bài viết hơn 10 năm trước. Nhưng cũng trong bài viết này, ông Phan Nhật Nam lại nói những điều không hay mấy về anh sau ngày hòa bình, những chuyện mà ông Nam nghe kể lại tam sao thất bổn, trong đó có thái độ của anh đối với viên cảnh sát từng tra tấn mình và chuyện tài sản của anh khi làm ở Ban Tôn giáo chính phủ. Vì anh thường nói với tôi những lời tốt đẹp về ông Phan Nhật Nam, nên tôi có hỏi anh đọc bài đó chưa, anh bảo anh đọc rồi và nói “do nó hiểu nhầm” thôi, chẳng thấy anh bực tức. Phan Duy Nhân không bao giờ thuộc hạng tiểu khí.

Về câu chuyện đối với viên cảnh sát, chính tôi là người chứng kiến. Anh đã vô tình gặp lại người này tại nơi tập trung tù binh sau giải phóng, anh chỉ đến bắt tay như bắt tay một người quen, chẳng hề tỏ ra một chút gì là kiêu ngạo của người chiến thắng. Sau khi người này đi học tập về, anh có đến thăm và cùng ăn một bữa cơm. Còn chuyện tài sản, tôi là người biết đến tận đáy những gì anh có. Anh suốt đời đi mây về gió, khi hòa bình rồi, một tay chị Ngân Hà lo cho cả gia đình, gồm cha già và người mẹ mắc bệnh điên của anh. Phần lớn tiền lương của anh gửi về phụ giúp gia đình, anh sống kham khổ như một thầy tu.

Khi còn làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, lúc đó tôi sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng anh đến nhà tôi chơi, ngủ lại trên một chiếc ghế. Có lần anh hỏi xin tôi 700 ngàn đồng để giúp một người quen đang gặp cảnh ngặt nghèo, đến bây giờ tôi vẫn còn ân hận vì lúc đó tôi cũng nghèo rớt mồng tơi, phải rất là lâu tôi mới tìm được cho anh số tiền đó.

Biết anh khó khăn, những lần anh gửi thơ đăng trên báo Thanh Niên, anh Nguyễn Công Khế dặn phải chấm nhuận bút cho anh với mức cao nhất. Sau khi anh về hưu, một thời gian khá dài anh đến ở chùa Non Nước nuôi mẹ, thỉnh thoảng mới về nhà, cho đến khi mẹ qua đời thì anh không còn mạnh khỏe nữa. Lâu lâu chúng tôi lại san sẻ cho anh một chút nhuận bút để anh phụ vào khoản thuốc men khi đau ốm. Anh Nguyễn Công Khế thỉnh thoảng cũng gửi cho anh một ít tiền, nhiều bạn bè khác cũng vậy. Tôi phải nói những điều không nên nói như thế này để những ai có ác ý không nên nói những gì mình không biết.

Trước đây tôi có viết loạt bài về thiền sư Lê Mạnh Thát đăng trên báo Thanh Niên, là do anh “xúi”. Thầy Thát cùng với thầy Tuệ Sĩ từng bị chế độ mới kết án tử hình, sau đó giảm án xuống còn chung thân và thụ án 14 năm tù. Anh nói, luật pháp hồi đó không kết án tử hình không được, nhưng khi tuyên án rồi thì lãnh đạo cao nhất của Đảng yêu cầu phải tổ chức vận động xin giảm án cho hai thầy.

Thầy Thát sau này được ông Võ Văn Kiệt rất coi trọng, thường cùng nhau đàm đạo nhiều chuyện lớn, tôi thường xuyên đến chỗ ông Võ Văn Kiệt nên biết rõ. Việc tổ chức thành công Đại hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam (Vesak) là công lớn của thầy Thát. Anh dắt tôi đến gặp thầy Thát nhiều lần, tôi thấy giữa họ là tri âm tri kỷ. Vị thiền sư này từng là một nhân vật “nhạy cảm” đối với báo chí, anh bảo nhân việc thầy Thát chủ trì tổ chức sự kiện Vesak mà giới thiệu những công trình nghiên cứu của thầy là tốt nhất, nó chỉ có lợi cho đất nước mà thôi.

Anh 3 lần dắt tôi đến gặp Hòa thượng Thích Trí Quang ở chùa Già Lam. Ban đầu tôi rất ngạc nhiên khi thấy thầy Trí Quang dịu dàng coi anh như người thân. Có lần anh và tôi đến sau khi anh mổ tim, thầy Trí Quang đưa anh một gói nghệ, bảo đây là nghệ núi rất tốt cho sức khỏe, rồi hướng dẫn anh chi li về liều lượng và cách dùng. Thầy Trí Quang ẩn trong chùa từ năm 1966. Sau năm 1975 thầy giữ thái độ trung tính với chế độ mới, không ủng hộ cũng không chống đối và không để các đệ tử của mình tham gia chống đối.

Sự kiện 76 ngày năm 1966, thầy Trí Quang là người “kích ngòi nổ” phong trào đấu tranh của Phật giáo. Về phía cách mạng, Phan Duy Nhân là người khai thác “ngòi nổ” này để đẩy thành cao trào. Hai người biết rõ nhau từ hồi đó, lòng họ đủ rộng để có thể dung nạp nhau. Các vị chức sắc các tôn giáo khác, có thể có những khác biệt về chính kiến, nhưng tôi biết hầu hết đối với anh đều trọng thị.

Tôi rất thích thơ anh, anh chép thơ đưa cho tôi rất là nhiều. Có khi tôi đang ngủ, anh dựng dậy tìm kính tròng vào mắt tôi để tôi xem bài thơ anh vừa viết. Anh chưa bao giờ có ý định đi theo nghiệp văn chương thơ phú, có lẽ anh làm thơ để tự cân bằng cuộc sống của mình. Nhiều bạn bè của anh bảo họ chỉ thích anh làm thơ, không thích anh làm chính trị. Tôi thì nghĩ khác. Thơ anh là con người anh, chính trị cũng là con người anh, hai thứ đó cộng lại mới thành cuộc đời anh.

Nghe tim đập ở Nam Hà

Lẻ loi tiếng đục giao hòa tiếng trong

Sau mình gặp lại nhau không

Thương câu mái đẩy mềm trong điệu chèo…

(Bồi hồi qua Huế nhớ quê – PDN)

Thơ anh sau này mượt mà như thế đó. Nhưng thoạt kỳ thủy là thơ buồn: “Con mèo đen bò qua cửa sổ/Nỗi buồn leo lên tương lai”. Khoảng giữa là thơ tình nổi trôi cùng vận nước. Thơ trong tù là khí phách nhưng không giấu khát vọng bình thường của một chàng trai trẻ: “Em ơi chiều đó dầm chân xuống/Dòng nước sông Tranh mát rợi người/Những nụ hôn thầm trong gió núi/Gửi về có tới được xa xôi…”.  Mấy chục năm sau hòa bình là thơ mông lung: “Chưa lau sạch chân em vào áo trận/Để giữa lầm than em hóa được thiên thần”. Đôi lúc còn phảng phất súng gươm xen mùi kinh kệ: “Thuở trước thiền sư làm chính ủy/Câu thơ đến giờ còn mang gươm”. Nói chung, thơ anh sau hòa bình đa tình, đa mang, day dứt, bất định.

Phan Duy Nhân trọn đời không làm điều gì để phải ân hận, để phải sám hối phải phản tỉnh. Anh không để lại tài sản gì cho con cháu ngoài niềm kiêu hãnh làm người. Con gái lớn Phan Dương Triều Tân có gia đình ở riêng, vợ chồng con gái út Phan Dương Hồng Chuyên sống cùng ba mẹ và trực tiếp chăm sóc ba mẹ cho đến ngày cuối cùng.

Khi chị Ngân Hà mất, toàn bộ số tiền phúng điếu được khoảng 100 triệu đồng, cháu Hồng Chuyên đã mang 80 triệu đồng góp vào quỹ học bỗng Nguyễn Thái Bình của báo Thanh Niên, số còn lại giúp cho trẻ em khuyết tật.

Từ lâu nay cháu Hồng Chuyên vẫn cùng các bạn bè của mình thầm lặng giúp đỡ, chia sẻ với những cuộc đời bất hạnh, cháu là niềm tự hào của anh chị. Chị Hà mới mất cách đây mấy tháng, hơn 1 năm trước cô con gái giữa Phan Dương Hải Triều cũng đã ra đi. Vì anh bệnh nặng khi tỉnh khi mê nên không ai cho anh biết hai cái tang quá lớn đó, đến khi biết thì anh không còn gượng dậy được nữa…

Hoàng Hải Vân

Nguồn: http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri-c-80/vinh-biet-anh-phan-duy-nhan-66733.html

Theo tin từ nhà báo Vũ Kim Hạnh, nhà thơ Việt Phương - tác giả tập thơ Cửa Mở nổi tiếng một thời - vừa qua đời tại Hà Nội lúc 8g50 sáng nay, 6-5-2017.

Nhà thơ Việt Phương sinh năm 1928, tên thật là Trần Quang Huy, đậu tú tài thời Pháp thuộc. Năm 17 tuổi, ông tham gia hoạt động bí mật chống thực dân Pháp, từng bị bắt giam.

Ông là thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ năm 19 tuổi.

Chúng ta biết rằng, năm 1945 – 1946, Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam gắn liền với tạp chí Tiên phong (24 số từ 10.11.1945 đến 1.12.1946) còn Hội Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi có bán nguyệt san Tiến hóa (số 1, 15.11.1946). Cũng như Tiên phong, Tiến hóa là chứng từ bước đầu hình thành không gian văn nghệ của thời vận mới.

Thông tin về tờ Tiến hoa khá lờ mờ. Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam của Nguyễn Thành (2001) miêu thuật vài chi tiết, nơi xuất bản, cơ quan chủ quản, chủ nhiệm và năm xuất bản. Chỉ vậy thôi. May mắn tôi được nhà sưu tập Tạ Thu Phong (Hà Nội) chụp giúp ấn ảnh tờ Tiến hóa số 2 (1.12.1946). Từ một số báo duy nhất không đủ để khảo tả trọn vẹn diện mạo tờ báo nhưng tạm thời có thể hình dung dáng nét của tờ báo tuổi đời khá ngắn ngủi, chỉ chừng hai ba số là cùng. 

Hình: Tiến hóa số 2 (1.12.1946).

Trước hết là kể đến trang bìa. Măng-sét gồm quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm thứ 2” bên trên, tên tờ báo “TIẾN HÓA” chính giữa, tên cơ quan chủ quản “Cơ quan Vận động Văn hóa mới” bên dưới. Giữa trang, mục lục nội dung bài vở bên trái, số “2” đi cùng ngày tháng phát hành “1.12.1946” bên phải. Phần dưới cùng chạy dòng chữ “Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi xuất bản”.

Và ở trang 2 chi tiết hơn: “(...) ra ngày ngày 1 và 16 mỗi tháng. Nguyễn Tấn Đức chủ nhiệm, Nguyễn Hóa thư ký tòa soạn [và kiêm quản lý]”. Ban biên tập gồm: Nguyễn Viết Lãm (Hạnh Đàn), Nguyễn Hoằng (Vĩnh Mai), Nguyễn Văn Châu, Võ Thủ Tịnh, Hoàng Vinh, Trực Ngôn, Mai Xuân Cảnh, Xuân Lộc, Trần Mai Ninh, Lê Văn Nhiễu, Lao Tùng, Tuệ Bình, Hồ Văn Điềm, Hoàng Phúc và cô Võ Thị Như Lệ. Trình bày Lao Tùng và Dương Đức Sơn. Và đường lối cũng như tôn chỉ tờ báo: “Là nơi gặp gỡ của tất cả của những cây bút thiết tha với công cuộc giải phóng dân tộc – Xây dựng một nền văn hóa mới – TIẾN HÓA chờ đợi sự cộng tác của tất cả các nhà văn hóa xa gần”.

Hình: Trang 2 Tiến hóa số 2 (1.12.1946), 16 trang, tương đương khổ A4, In tại Nhà in Ngô Tử Hạ, Huế.

Thứ nữa là đến ”Thể lệ cuộc thi văn hóa 1947” do Hội Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi tổ chức. Giải văn học dành cho tác phẩm thuộc lĩnh vực trước tác, dịch thuật, khảo cứu và Giải học sinh với các thể loại truyện ngắn, thơ, kịch.

Nơi đề mục “Sau ngày ký thỏa hiệp 14.9”, Nguyễn Viết Lãm dừng kỹ hơn ở Nhiệm vụ cấp thiết của văn hóa.

Ở c huyên mục“Sinh hoạt văn hóa ở Quảng Ngãi” là bài tường thuật Một đêm văn nghệ của Sóng Biển (Sẽ trở lại chi tiết hơn ở phần sau).

Và đến hai bài thơ Giòng thiêng của Văn Diễn(1)Anh, ngày mai của Lý Hoàng Phúc. Xin dẫn bài thứ hai để thấy nhịp điệu và mẫu người thời đại trong quỹ đạo chung của văn nghệ kháng chiến: Nỗi cơm áo đâu mòn mỏi lòng trẻ/Tay nắm chặt! anh dồn thêm sức khỏe/Của người anh giục lửa sống bùng lên/Anh vui chăng? No ấm vững lòng tin .Mấy câu xếp vần chắp chữ hướng về quần chúng, tô vẽ niềm tin phấp phới và cuộc sống màu nhiệm quanh đây. Giọng điệu kêu vang mà không chút sâu lắng ấy tẻ nhạt hay rung động thực sự?

Trong chủ đề “Nhân vấn đề sáng tác tại Đại hội Văn hóa Toàn quốc lần thứ 2” là bài Sáng tác cho ai của Nguyễn Hóa(2) thiết lập lằn ranh tuyệt đối giữa nhân sinh và nghệ thuật. Bài viết mở đầu: (...) chỉ có thể có một quan niệm nghệ thuật: “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Và kết thúc: “(...) nhà văn nghệ phải sáng tác cho người xung quanh chứ không thể công nhiên nói rằng “sáng tác vì mình”.

Kế đó, chuyển sang lĩnh vực ”Nhân đời sống mới” có bài Đám ma ông Xã của Võ Tuệ Bình cổ vũ dân chúng xây dựng cuộc sống mới. Tác giả phàn nàn ma chay thật phiền phức và lôi thôi, nếu không muốn nói là ti tiện. Cảnh tượng nhộn nhịp. “Bao nhiêu màu sắc pha lẫn vào nhau thành một bức tranh hổ lốn, buồn cười”. Thông điệp gởi tới người đọc là cải cách hình thức ma chay trì trệ, phản tiến hóa.

Ngoài ra còn có Thanh niên trước thời đại của Hoàng Vinh và Dựng nước của Thủ Tịnh(3).

Cuối cùng, chuyên mục Tin văn hóa đưa tin triển lãm giáo dục, đêm văn nghệ tại Quảng Ngãi, Hội nghị của Ban Văn hóa Tỉnh đoàn Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi và Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi góp một phần ngân quỹ và sách vở để thiết lập thư viện cho tỉnh.

Chưa hết, cũng cần nhắc đến dòng chữ chạy dưới chân trang là hai câu khẩu hiệu “HOAN HÔ CHÍNH PHỦ MỚI” (trang 15) và “HỒ CHỦ TỊCH MUÔN NĂM” (trang 16).

Tôi muốn dừng lại bài “Một đêm nghệ thuật” của Sóng Biển ghi chép cuộc gặp gỡ các văn nghệ sĩ tại nhà Nguyễn Viết Lãm vào đêm 8.11.1946: Nguyễn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, Chánh án Nguyễn Duy Bình, Chủ tịch Tỉnh đoàn Văn hóa Nguyễn Tấn Đức cùng các văn nghệ sĩ từ Hà Nội vào Nguyễn Tuân, Nguyễn Hồng (Nguyên Hồng (?), tác giả Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu), Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sỹ Ngọc...

Những nào Nguyễn Tuân trình diễn đích đến trên con đường sáng tạo: Đại chúng hóa nghệ thuật. Nhà văn thành tâm lột xác và minh định lập trường, từ ”vị nghệ thuật” nghiễm nhiên tiến thẳng vào ”vị nhân sinh” không một chút e dè: (...) đại chúng như một tảng ngọc lớn. Nghệ sĩ phải đến gần tảng ngọc ấy, phải tự tay mình mân mê nó để tìm những đường gân vết mạch có ở chỗ nào, rồi mới có thể dùng tảng ngọc làm tài liệu tạo thành những vật quý.

Rồi thì Nguyễn Hồng phá cách và đi ngược tôn chỉ “vị nhân sinh” mà hầu hết mọi người đều thấu suốt, kể cả tướng Nguyễn Sơn. Ông ngóng theo nỗi niềm “vị nghệ thuật” và tin tưởng vào khuynh hướng “sáng tác cho mình”. Sóng Biển lặng nghe chất dư ba: “Người gây được nhiều cảm tình nhất là anh Nguyễn Hồng (...) đã thành thật đã khiến cho tôi tưởng anh là một hiện thân của niềm thống khổ, của một lớp người mà xã hội từ trước hắc hủi”.

Ngay từ năm 1946, Nguyễn Tuân đã dứt khoát ”nhận đường” còn Nguyễn Hồng đang loay hoay trên khúc quanh hướng đến chân trời văn hóa mới. Tiếc là bài tường thuật đặc sắc ấy không ghi nhận tâm thế của các văn nghệ sĩ còn lại. Họ ý nhị im lặng? Lửng lửng lơ lơ rất khó xét đoán? Bến bờ này đã đoạn tuyệt với bến bờ kia? Tán thành hay phản đối trước tuyên ngôn nghệ thuật là tuyên truyền và tuyên truyền là nghệ thuật?

Bẵng đi những 71 năm, ngần ấy tư liệu phảng phất là cái thời khí trên khung nền văn hóa xã hội những năm tháng ấy, đồng thời cũng thành cứ liệu thêm vào khoảng trống văn học sử chứ không còn của riêng ai nữa.   

                                                                                 3.2017

-----------------------------

(1) Giáo sư Pháp văn Nguyễn Văn Diễn (thường ghi là Nguyễn Diễn, 1921 – 1995), tác giả tập thơ Đường về làng Thi (1971) ký tên Nhan Thùy Diên. Bài Giòng thiêng đăng Tiến hóa này cũng được in lại trong tập thơ vừa kể.

(2) Tác giả Tìm hiểu triết học luân lý (1957), Trái đất kiến thức phổ thông (1999), Triết học cổ Hy Lạp giản yếu (2004)... với bút danh Hào Nguyên Nguyễn Hóa.

(3) Tức nhà nghiên cứu Võ Thu Tịnh (1920 – 2010), tác giả Văn học Việt Nam thế kỷ 19 – phần cổ văn (cùng với Lê Kim Ngân, Nguyễn Tường Minh, 1962), Tình tự dân tộc: Qua thơ văn truyền khẩu và chữ Nôm (1999)...

---------------------

      Nguyễn Duy Long

(Cẩm Thành. 2017. 96: 104 – 7)

Là nữ thi sĩ, thật tự nhiên, Xuân Quỳnh có một quan niệm riêng về giá trị cũng như hạnh phúc của người nữ, trong cái nhìn tổng quan của chị về những giá trị sống, giá trị thơ ca, cũng như cuộc đời. Không vờ như không biết tới vị thế giới nữ của mình để hướng tới một cảm quan chung chung về con người, một tinh thần nhân loại quan liêu, Xuân Quỳnh thông qua những vui buồn day dứt của một người phụ nữ Việt Nam để khắc họa sâu xa hơn những giá trị mà chị cho là tinh tuý của con người. Cá tính cứng cỏi, mạnh mẽ, trái tim độ lượng vị tha và một thẩm mỹ cổ điển nhưng luôn cởi mở, hướng tới sự khai phóng, đã kết tinh trong thơ Xuân Quỳnh dòng cảm hứng nữ quyền tự nhiên, vừa gần gũi với những tiêu chí nữ quyền đương đại đồng thời mang vẻ đẹp riêng tư sâu sắc.

Nhà văn kiêm nhà báo tài năng Nhất Linh (1905 – 1963) hiện được an táng đâu?

Những tư liệu khả tín cho biết: năm 2001, di cốt Nhất Linh đã được chuyển từ Sài Gòn về chôn ở Hội An.

Kỳ lạ thay, từ ấy tới nay, tôi mấy lần ghé phố cổ bên bờ sông Hoài, hỏi thăm nhiều người địa phương, kể cả các cán bộ ngành văn hoá, thì họ đều trả lời:

– Hội An không có mộ Nhất Linh!

Nhất Linh qua nét vẽ của Nguyễn Gia Trí

Nhất Linh mang họ tên Nguyễn Tường Tam, chào đời năm 1905 (Ất Tị) tại thị trấn Cẩm Giàng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, em ruột của Nhất Linh là Nguyễn Thị Thế viết trong Hồi ký họ Nguyễn Tường (NXB Sóng, Sài Gòn, 1974) rằng thẻ căn cước của anh mình ghi ngày sinh 1-2-1905 do Nhất Linh từng làm lại giấy khai sinh nhằm đủ tuổi dự thi, chứ thực tế năm sinh lại là 1906 (Bính Ngọ). Năm 2010, Nguyễn Tường Thiết – con trai của Nhất Linh – chú thích bài Hai vẻ đẹp của Nhất Linh rằng ngày sinh chính xác của cha là 25-7-1906. Cần thêm rằng nguyên quán của Nhất Linh là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; hiện thời là phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Thời học sinh trường Bưởi ở Hà Nội, Nguyễn Tường Tam đã đăng thơ trên báo Trung Bắc Tân Văn và đăng bài bình luận Truyện Kiều trên tạp chí Nam Phong. Năm 1923, thi đỗ tiểu học, rồi kết hôn với Phạm Thị Nguyên, quê làng Phượng Dực (1). Năm 1924, học y lẫn mỹ thuật ở Hà Nội, nhưng chỉ thời gian ngắn thì bỏ. Năm 1926, vào miền Nam, đoạn qua Cao Miên tức Campuchia. Năm 1927, sang Pháp, nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, tốt nghiệp cử nhân khoa học giáo khoa chuyên ngành lý hoá tại Pháp.

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam dạy học tại các trường Thăng Long và Gia Long ở Hà Nội. Năm 1932, làm giám đốc báo Phong Hoá. Năm 1933, thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm bản thân Nhất Linh và Khái Hưng (Trần Khánh Giư còn gọi Nhị Linh), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Sau, Tự Lực Văn Đoàn thêm Xuân Diệu và Trần Tiêu (2). Năm 1936, tờ Phong Hoá bị đóng cửa, tờ Ngày Nay kế tục phong trào.

Năm 1938, Nhất Linh lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên thành Đảng Đại Việt Dân Chính. Từ ấy, Tự Lực Văn Đoàn công khai chống Pháp. Năm 1941, tờ Ngày Nay bị đóng cửa. Năm 1942, Nhất Linh dạt qua Quảng Châu, Trung Hoa, bị bắt giam 4 tháng, hoạt động trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách. Năm 1945, Nhất Linh trở về nước, ở Hà Giang thời gian ngắn liền quay lại Trung Hoa, chỉ đạo Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách tục bản báo Ngày Nay tại Hà Nội. Tháng 5-1945, tại Trùng Khánh, Trung Hoa, Nhất Linh sáp nhập Đảng Đại Việt Dân Chính và Đảng Việt Nam Quốc Dân thành Đảng Đại Việt Quốc Dân, gọi tắt là Việt Quốc.

Đầu năm 1946, trở về Hà Nội, Nhất Linh ra báo Việt Nam, giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, và được đặc cách tham gia Quốc hội khoá 1 mà khỏi cần bầu cử. Cũng năm đó, dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, Nhất Linh làm trưởng đoàn Việt Nam đàm phán với Pháp. Được cử đứng đầu phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng Nhất Linh không đi mà trốn qua Trung Hoa, tham gia thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Việt Nam nhằm ủng hộ Bảo Đại.

Năm 1951, Nhất Linh về nước, mở Nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn. Năm 1954, sang Pháp chữa bệnh.

Năm 1955, lên Đà Lạt sống, Nhất Linh mê sưu tập phong lan. Năm 1958, xuống Sài Gòn, Nhất Linh trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội Văn bút Việt Nam. Cũng tại Sài Gòn, từ năm 1958, Nhất Linh thực hiện giai phẩm Văn Hoá Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản.

Năm 1960, Nhất Linh thành lập Mặt trận Quốc dân đoàn kết, ủng hộ đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông đảo chính nhằm lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Ngày 11-11-1960, cuộc đảo chính thất bại, chính quyền đương thời giam lỏng Nhất Linh trong nhà riêng gần chợ An Đông, dự định đưa ra toà án xét xử ngày 8-7-1963. Noi gương hoà thượng Thích Quảng Đức, Nhất Linh dùng độc dược pha vào rượu uống để tự tử ngày 7-7-1963, lưu lại những dòng tuyệt mệnh:

“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả.”

Thơm danh liệt sĩ – nổi tiếng văn hào

Nhất Linh trút hơi thở cuối, để lại người vợ thân yêu Phạm Thị Nguyên cùng 7 con gồm 5 nam Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thái, Nguyễn Tường Thiết, và 2 nữ Nguyễn Thị Kim Thư, Nguyễn Thị Kim Thoa.

Nhất Linh còn lưu cho đời cả loạt tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị, bao gồm các tập truyện ngắn Nho phong, Người quay tơ, Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng), Đi Tây, Hai buổi chiều vàng, Thế rồi một buổi chiều, Thương chồng, các tiểu thuyết Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng), Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng), Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng, Xóm cầu mới, Giòng sông Thanh Thuỷ, tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, cả bản dịch Đỉnh gió hú của Emily Brontë.

Ngay sau khi Nhất Linh tự huỷ mình, nhà cầm quyền thuở ấy lập tức ra lệnh chôn ông gấp trong nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp vào sáng thứ bảy 13-7-1963 mà không chờ đợi con trai cả của người vừa khuất là Nguyễn Tường Việt từ Pháp về phục tang.

Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ bệ, lễ truy điệu Nhất Linh được tổ chức rất trọng thể tại sân Tao Đàn ở Sài Gòn. Bấy giờ, vang vọng áng văn tế Nhất Linh do thi sĩ Vũ Hoàng Chương soạn ngày 5-1-1964 mà đây là đoạn kết:

Hỡi ơi!

Tố Đoạn tuyệt thành hồ đoạn tịch, mộng dẫu chơi vơi nửa cuộc, sử còn thơm danh liệt sĩ Tường Tam;

Phượng Nhất Linh hề thiên nhất phương, lầu tuy ngơ ngác bên sông, gió vẫn nổi tiếng văn hào họ Nguyễn.

Năm 1975, tại Sài Gòn, Nguyễn Tường Thạch hoả thiêu di cốt cha, đoạn gửi bình tro trong chùa Kim Cương trên đường Trần Quang Diệu, quận 3.

Năm 1981, quả phụ Phạm Thị Nguyên từ Việt Nam sang Pháp đoàn tụ với các con. Bà mất năm đó, được an táng trong một nghĩa trang tại thủ đô Paris.

Năm 2001, toàn gia quyết định di dời hài cốt mẹ Phạm Thị Nguyên từ Paris và cha Nhất Linh từ Sài Gòn về Hội An. Sự kiện này được Phạm Phú Minh tường thuật trong bài Nấm cỏ đưa về tấc đất xuân đăng tạp chí Thế Kỷ XXI số tháng 7 năm 2002, và Khúc Hà Linh ghi nhận trong bài 12 năm cuối đời của người đứng đầu Tự Lực Văn Đoàn đăng báo Tiền Phong 24-2-2008 rồi in trong sách Anh em Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam: ánh sáng & bóng tối (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2008).

__Hội An với nấm mồ Nhất Linh

Sau khi tiếp nhận các nguồn tin trên, tôi mấy lần ghé Hội An, hỏi một số người địa phương về nấm mồ Nhất Linh, đều nghe đáp:

– Ở Hội An có từ đường Nguyễn Tường, chứ không có mộ Nhất Linh.

Mùa hè 2010, lại về thăm phố cổ, tôi quyết định dành thời gian tìm kiếm âm phần thủ lĩnh của Tự Lực Văn Đoàn, người từng chủ trương: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”. Thoạt tiên, tôi liên hệ với một số cơ quan chức năng tại đây. Giám đốc Trung tâm Văn hoá – Thể thao thành phố Hội An là Võ Phùng cho biết:

– Chắc chắn không có mộ Nhất Linh ở Hội An.

Công tác tại Trung tâm kia, lại dành nhiều thời gian nghiên cứu về cuộc đời lẫn sự nghiệp Nhất Linh, song nhà thơ Phùng Tấn Đông vẫn nhấn mạnh:

– Chưa hề dời mộ Nhất Linh từ Sài Gòn ra Hội An. 

Giám đốc Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An là Nguyễn Chí Trung nói:

– Hội An không có mộ Nhất Linh. Nhân vật nổi tiếng vậy mà chôn ở Hội An thì dân địa phương biết liền chứ. Tuy nhiên, anh thử tìm hiểu thêm, biết đâu…

Trần Tuấn – trưởng phòng kỹ thuật Palm Garden Beach Resort & Spa ở Cửa Đại – vừa lái xe đưa tôi đi, vừa cười:

– Chẳng khác mò kim đáy bể, anh Phanxipăng ạ!

Từ đường phái nhì Quảng Nam của dòng họ Nguyễn Tường trên đường Lê Quý Đôn, toạ lạc giữa các di tích đã được Nhà nước xếp hạng là Khổng miếu và lăng ngài Tham tri Trần Ngọc Dao (3). Tôi tạt vào từ đường, gặp chị Nguyễn Thị Quyên. Chị tươi cười:

– Mộ nhà văn Nhất Linh cùng vợ và con gái Nguyễn Thị Kim Thư đã được gia quyến cải táng về Hội An ngày 28-4-2001. Dạo đó, các con của Nhất Linh gồm Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Thị Kim Thoa cùng đến đất này lo hiếu sự.

Trong từ đường, gian phía tây có thờ chân dung Nhất Linh.

Chị Quyên nhiệt tình đưa tôi ra xã Cẩm Hà, tới Nghĩa trang nhân dân thành phố Hội An, bước vào khu âm phần dành cho tộc Nguyễn Tường. Trông thấy mộ vợ chồng Nhất Linh, ngay lập tức, Trần Tuấn thảng thốt:

– Hỡi ôi! Mộ Nhất Linh dời về đây từ năm 2001, lẽ nào người Hội An lâu nay mù tịt? Mộ bậc tài danh lẫy lừng mà sao nhỏ nhắn quá, bị chìm khuất quá, khó tìm kiếm quá!

Nội dung bia mộ Nhất Linh đan xen Hán tự phồn thể lẫn giản thể và Việt ngữ.

Chữ Hán:

錦江

阮祥门第十世

顯考号一灵阮府君之佳域 (4)

Phiên âm:

Cẩm Giàng

Nguyễn Tường môn đệ thập thế

Hiển khảo hiệu Nhất Linh Nguyễn phủ quân chi giai vực

Nghĩa:

Cẩm Giàng

Họ Nguyễn Tường, đời thứ 10

Mộ thân phụ có hiệu Nhất Linh của chúng tôi

Chữ Việt:

Sinh năm 1906

Mất năm 1963

Nam: Tường Việt, Triệu, Thạch, Thiết, nữ: Kim Thoa, cháu nội: Tường Anh, Phong, Thao phụng lập 4-2001

Chị Quyên cất tiếng:

– Nghe tin tỉnh Hải Dương đang xúc tiến tạo dựng Khu lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn. Đúng không anh Phanxipăng?

Quả đúng vậy. Tại thị trấn Cẩm Giàng thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản cố trạch của Tự Lực Văn Đoàn đã được tổ chức ngày 9-5-2008. Ngày 17-12-2008, UBND tỉnh Hải Dương ban hành công văn chỉ đạo quy hoạch khu vực cố trạch của Tự Lực Văn Đoàn tại thị trấn đó. Tháng 4-2009, UBND huyện Cẩm Giàng lập ban chỉ đạo quy hoạch; và theo kế hoạch thì giai đoạn 1 tạo dựng Khu lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn đạt diện tích 1,2ha, trong đó có công viên văn hoá, thư viện, nhà khách.

Thế thì với ngôi mộ của vị chủ soái Tự Lực Văn Đoàn là nhà văn kiêm nhà báo Nhất Linh, thành phố Hội An nên sớm trù hoạch và triển khai biện pháp tôn tạo khả thi nhằm mở thêm chốn giao lưu văn hoá bổ ích, đồng thời là điểm du lịch thú vị thừa khả năng cuốn hút đông đảo tao nhân mặc khách muôn phương. ♥

 ____________

(3)   Có thể tham khảo bài Phó bảng của Phanxipăng đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 868 (11-1-2010) rồi truyền lên một số trang web, trong đó có weblog này:

https://phanxipang.wordpress.com/2012/08/26/pho-bang-i/

https://phanxipang.wordpress.com/2012/08/27/pho-bang-ii/

(4)   Bút hiệu / bút danh chính của Nguyễn Tường Tam 阮祥叄 là Nhất Linh vẫn được ghi kiểu kép 壹零 nhưng bia lại khắc kiểu đơn 一灵. Qua bài Nấm cỏ đưa về tấc đất xuân, Phạm Phú Minh phê bình tấm bia này: “Riêng chữ thứ 9 từ trên xuống, có lẽ do thợ khắc sai, không có nghĩa, được đoán là chữ chi”. Kỳ thực, chữ 之 chi cũng được thể hiện theo dạng “thượng sơn, hạ nhị” như vậy, chẳng hạn bia nơi mộ Tăng Bạt Hổ trong khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu ở Bến Ngự, Huế.

Phanxipăng

Đã đăng trên các tạp chí:

  • Thế Giới Mới 912 (29-11-2010)
  • Kiến Thức Ngày Nay 731 (1-12-2010)
  • Tài Hoa Trẻ 869 (9-10-2013)

__________

(1)   Phượng Dực hiện là 1 trong 3 làng thuộc xã cùng tên ở huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội. Xưa, Đồng Khánh dư địa chí ghi nhận rằng “xã Phượng Dực thuộc tổng Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội”. Năm 1888, Pháp lập tỉnh Hà Đông, có phủ Thường Tín gồm 3 huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên.

(2)   Qua bài Phải chăng Trần Tiêu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn? đăng tạp chí Nghiên Cứu Văn Học 7-2008, Cù Huy Hà Vũ cho rằng Trần Tiêu chưa bao giờ là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.

Mỗi lần có hội sách văn chương Nam bộ xưa, người ta lại thấy ban tổ chức tìm cách liên lạc với một cụ già ở Cai Lậy Tiền Giang, nhờ tìm sách để trưng bày, đó là nhà sưu tập Trương Ngọc Tường – người đang giữ nhiều tư liệu quý giá về một nền văn chương tiên phong từng bị hậu thế quên lãng.

20170709.nguyenchanhsat

Xu hướng đại chúng hoá văn học là mảnh đất nuôi dưỡng và phát triển văn học đại chúng nói chung và tiểu thuyết đại chúng nói riêng. Mục tiêu hướng về đại chúng quy định và chi phối sâu sắc đặc điểm nội dung, hình thức của văn học đại chúng.

Đại chúng hoá ở khu vực văn học Nam Bộ trước 1930 là xu hướng tất yếu, mang tính lịch sử, tuy đã được rải rác đề cập đến trong một số bài viết, chuyên luận. Nhưng hiện vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Đó là lý do để thực hiện bài viết này.

 

Sự phân biệt về phương diện xã hội dành cho giới nam và giới nữ trong văn hóa Việt Nam truyền thống đã có ảnh hưởng lớn đến các biểu tượng về người nam và người nữ trong văn học Việt Nam từ văn học dân gian, qua văn học trung đại đến văn học đầu thế kỷ XX. Vấn đề này là đề tài cho một công trình nghiên cứu công phu, còn ở đây tôi chỉ xin phác thảo một số ý tưởng.

Cái chết của anh cái chết một nhà văn

Không bao giờ là cái chết.

Văn Cao.

 

Những người sinh ra ở giữa lòng thế kỉ trước, khi bước vào năm 1960 trở đi, họ chừng trên dưới 10 tuổi. Khi ấy ở miền Bắc, đặc biệt là vùng châu thổ sông Hồng, không ai không đọc Lá cờ thêu 6 chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng. Nó phổ cập đến nỗi, tất cả học sinh cấp 1, cấp 2, từ lớp 1 đến lớp 7, một tập hợp đến hàng triệu trẻ con nhớ vanh vách chuyện Trần Quốc Toản đứng ngoài cuộc họp ở hội nghị Bình Than bóp nát quả cam lúc nào không biết và tự mình thành lập đội quân với lá cờ thêu 6 chữ: phá cường địch - báo hoàng ân. Không ai trong số hàng triệu trẻ con vô lo vô nghĩ thời ấy biết rằng, chỉ sau đó vài năm, họ cũng đi ra chiến trường đem theo tinh thần phá cường địch ấy vào cuộc chiến sinh tử đuổi bầy giặc dữ.

Trong lịch sử văn chương Việt Nam thời hiện đại, ít ai sớm nhận ra ý nghĩa và thành công trong việc lấy cảm hứng từ các đề tài lịch sử và thậm chí viết theo cảm hứng ấy ở ngay cả các đề tài hiện đại để xây dựng thành các tác phẩm văn học có tầm vóc thuộc đủ các thể loại từ kịch, tiểu thuyết đến ký sự như Nguyễn Huy Tưởng. Và điều quan trong là cảm hứng ấy xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông, bắt đầu từ rất sớm, khi ông khởi sự cầm lấy việc bút nghiên và dấn thân vào cuộc đời văn sỹ sóng gió mà đầy thử thách. Năm 1942, khi ông 30 tuổi, Đêm hội Long Trì được đăng trên tạp chí Tri Tân. Chủ đề lịch sử tiếp tục được triển khai trong Cột đồng Mã Viện, An Tư, Vũ Như Tô… Những đề tài hiện đại được ông viết ra trong Bắc Sơn, Những người ở lại, Bốn năm sau, Sống mãi với thủ đô, Lũy hoa… Ngay cả Ký sự Cao Lạng, còn nóng hổi sự kiện và con người của chiến dịch biên giới 1950, bằng cảm hứng bi hùng. Phải chăng cảm hứng lịch sử như là nét nhạc chủ đạo của một đời văn đã làm nên vẻ đẹp đặc sắc nhất của văn chương Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã ghi tên tuổi của mình lên cái giá sách vinh quang của văn đàn Việt Nam hiện đại bằng một phong cách tiềm ẩn sự ca vang của bi hùng mà hào hoa kỳ lạ. Sách Văn Tâm Điêu Long trong thiên Tri âm có viết: Người tính tình khảng khái thích văn chương hùng tráng. Người sâu sắc thích văn chương súc tích. Người phù phiếm thích văn chương hoa mĩ. Người hiếu kỳ thích văn chương quái lạ. Tôi nghĩ nhà văn họ Nguyễn Huy thuộc loại người thứ nhất. Ít ai bị Nguyên Huy Tưởng mê hoặc kéo đi theo văn chương của mình như trường hợp ông Nguyễn Tuân. Khi đọc bản thảo Sống mãi với thủ đô để viết lời giới thiệu, dường như Nguyễn Tuân bị ám, tựa hồ như ông không thoát ra được miên man chắp nối thêm cho ông Tưởng về cái nhát cuốc đầu tiên phá thành Hà Nội, bổ vào thân thành một sớm mùa thu 10-8-1894. Đến 6 tháng sau thì Hà Nội bắt đầu thắp điện. Năm 1902 làm xong cầu sắt xe lửa qua sông Hồng. Cứ như là Nguyễn Huy Tưởng đi trước, Nguyễn Tuân theo sau, dẫn người ta bước vào với Sống mãi với thủ đô, thấy ở ngày hôm nay Hà Nội vẫn gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ. Nguyên Tuân đã giành cho người bạn văn của mình hai lần sang trọng.

Trong toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều tác phẩm nổi tiếng, nhưng kiệt tác đưa ông đứng vào hàng của một trong những vị trí dẫn đầu của làng văn hiện đại, không thể không kể đến Vũ Như Tô. Đúng như ông Nguyễn Tuân đã từng nói: cả một đời viết văn, với kịch Vũ Như Tô là yên tâm được rồi. Vũ Như Tô được viết từ năm 1943 và xuất bản lần đầu sau cách mạng tháng 8 – 1945 bởi Hội Văn hóa cứu quốc vào tháng 9 – 1946.

Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, vị quan sử quán tu soạn thời Lê Thánh Tông biên khảo hồi cuối thế kỉ 15 vẻn vẹn chỉ có 3 đoạn ngắn nói về Vũ Như Tô. Gộp cả 3 đoạn ấy lại cũng chưa đầy một trang khổ sách bây giờ.

…Đại hạn, trong nước đói to.

Làm điện lớn hơn trăm nóc. Trước đây người thợ ở xã Minh Quyết huyện Cẩm Giàng là Vũ Như Tô (tức đô Nhạn) ở nhà lấy cây mía làm thành điện lớn trăm nóc, đến đây đem kiểu nhà ấy dâng lên khuyên vua xây dựng.

…Vua…sai bọn nữ sử cởi truồng, chèo (thuyền) ở hồ Tây, Vua cùng chơi, lấy làm thích lắm. Người thợ Vũ Như Tô làm điện hơn trăm nóc, hết kiệt tiền và sức dân trong nước,… Có chỗ đã làm xong lại đổi lại, đắp đổi lại, đắp lại mấy năm không cùng. Quân lính bị bệnh dịch đến một phần mười.

Võ sỹ tên là Hạnh cầm giáo đâm vua ngã ngựa rồi giết chết… giết chết Vũ Như Tô ở ngoài cửa kinh thành. Trước đây Vũ Như Tô xuất thân là thợ, lấy kỹ xảo mà mê hoặc vua, được lạm bổ đô đốc kiêm các sở bộ công giờ đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị giết, Như Tô cũng bị bỏ xác ở chợ. Quan dân ai cũng chê cười hoặc có người nhổ vào xác…

Nếu chỉ dựa vào chừng ấy sử liệu và viết theo tinh thần của sử quan Ngô Sỹ Liên, chắc Nguyễn Huy Tưởng sẽ có được một vở kịch hay. Có điều tầm vóc tư tưởng và ý nghĩa nghệ thuật sẽ không thể vượt qua Đêm hội Long trì. Đó chỉ là một bức tranh sinh động về một chế độ chính trị suy tàn và phi luân mà lịch sử tuy không vô tình mà lại vô tình bởi sự đau đớn và nhục nhã phải đi qua. Nhưng tài năng của Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một tình huống kịch có điểm sáng nảy sinh từ xung đột giữa cái thiện, cái nhân bản của con người mà Vũ Như Tô, Đan Thiềm là đại diện, đối lập với mặt bên kia của mâu thuẫn đại diện cho các ác, cái phi nhân của thế lực vua quan thối nát là Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản… và không thể có bi kịch nếu không có sự éo le của lịch sử, khi cùng là xây dựng Cửu Trùng Đài, Lê Tương Dực chỉ mong có chốn ăn chơi sa đọa, còn Vũ Như Tô coi đó là điểm nhấn của Kinh thành lộng lẫy, đó là nơi thể hiện lương tâm, trách nhiệm, tài năng trước đất nước và thời cuộc. Không khí bi tráng khi xung đột được giải quyết; Cả Kinh thành và Cửu Trùng Đài rừng rực cháy bởi sự phẫn nộ của người dân và binh lính. Cửu Trùng Đài thiêu rụi sự mong muốn sa đọa của cái ác, nhưng cũng chưa hẳn soi sáng cho cái thiện vì việc lớn chưa thành. Bản lĩnh của Nguyễn Huy Tưởng không phải ở chỗ là một người chép sử, ông đã xây một Cửu Trùng Đài khác trong văn chương để chỉ ra cái quy luật muôn đời trong sự éo le của cái thiện, trong tình huống không bao giờ đồng thuận với cái ác, làm nên một trong những vở kịch mẫu mực của nền văn học kịch nói Việt Nam hiện đại.

Nguyễn Huy Tưởng đã chiêu tuyết cho Vũ Như Tô và phả vào lịch sử một tinh thần hoàn toàn mới, một mẫu thuẫn có tính phổ biến, mang ý nghĩa nhân loại và ông đã viết nên một khúc ca bi tráng về lương tâm của người nghệ sĩ trước đất nước và thời đại, và bi kịch của họ khi phụng sự trong một thời kì lịch sử suy tàn. Vũ Như Tô như là tiêu điểm của xung đột kịch khi được đặt trong tình huống ba lần bị giết bởi ý định có sẵn của vua, của quan và của lòng hận thù của dân bị cùng cực bởi Cửa Trùng Đài. Vũ Như Tô đâu muốn điều đó.

Vở bi kịch 5 hồi Vũ Như Tô mang vóc dáng và tầm cỡ của các vở bi kịch phương Tây, ngay từ đầu những năm 1940, đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của nền văn học kịch hiên đại. Có thể nói thể loại kịch xuất hiện ngay từ nửa đầu thế kỉ 20, cùng với phong trào thơ mới (1930-1945). Đó đều là sản phẩm của sự gặp gỡ giữa văn hóa phương Tây và phương Đông. Nhưng dường như thơ có sự bùng nổ đồng loạt và đông đảo hơn. Chỉ trong vòng 10 năm đã hình thành một thế hệ các nhà thơ mới. Ít nhất cũng là 44 người được đứng tên trong Thi nhân Việt Nam năm 1942. Ở thể loại kịch có khác. Cả thế kỷ 20 tính từ Tản Đà, Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ… đến những người viết kịch sau này như Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp… chỉ vẻn vẹn có 43 người. Trong đó Nguyễn Huy Tưởng là một tác giả thuộc lớp các nhà văn đi tiên phong. Và trong số 43 tác giả kịch ấy, nếu được chọn ra 5 người ở lớp tiêu biểu nhất thì phải kể đến Nguyễn Huy Tưởng. Và truyền thống văn học trong quá khứ của dân tộc ta lại chủ yếu phát triển loại hình ca kịch - kịch hát. Nói lên điều đó càng thấy thêm sự đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng cho văn học kịch hiện đại.

Điều đáng quý và đáng trân trọng nhất ở Nguyễn Huy Tưởng là sự thống nhất của lý tưởng xã hội, lý tưởng thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương và nhân cách sống của ông. Trong lịch sử văn học không một nhà văn nào liên tục viết nhật ký 30 năm liền từ 1930, khi ông 18 tuổi, đến 1960, chỉ dừng lại 2 tháng trước khi ông mất. Cảm ơn bà quả phụ Trịnh Thị Uyên cùng người nối dõi tông đường nhà văn Nguyễn Huy Tưởng – anh Nguyễn Huy Thắng đã gìn giữ cẩn thận và đầy yêu thương hơn 40 cuốn sổ nhật ký được viết ra và theo chân nhà văn đi qua bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vùng đất của xứ sở này. Họ đã gìn giữ tài liệu ấy từ năm 1960 để đến gần nửa thế kỷ sau, 46 năm sau, năm 2006, Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng đã được nhà xuất bản Thanh Niên công bố. Gồm 3 tập với khoảng 1500 trang sách. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng là một tài liệu lịch sử quý giá. Biết bao nhiêu con người, sự kiện được tỏa sáng bởi tấm lòng trung thực, chân thành và mình bạch của một con tim yêu thương luôn luôn đập giữa lòng thời cuộc, thể hiện sâu sắc mà sinh động một nhân cách cao quý và bình dị trong làng văn hiện đại. Ớ đó ta bắt gặp một Nguyễn Huy Tưởng đời thường vô cùng hiếu đễ với bậc sinh thành, như nghe tiếng kêu dứt ruột của ông: Mẹ ơi, có thấu lòng con. Tôi nhớ mãi những đoạn nhật ký buồn thương được ghi vào tháng 12 – 1942 khi Nguyễn Huy Tưởng ngóng chờ và mong đợi nhuận bút của cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long trì để làm quà dâng mẹ. Bà cụ lúc ấy đã ốm liệt giường và không ăn uống được gì nữa. Và những trang Nguyễn Huy Tưởng viết về bà Uyên, người vợ yêu quý của ông, vừa trang nhã vừa nồng thắm mà mỗi người đọc làm chồng như tìm được một phần mình trong đó. Nhưng nổi trội hơn cả là nỗi lo toan ưu thời mẫn thế luôn luôn thường trực và đau đáu trong ông. Đến cái ổ khóa nhà ông, ông cũng đặt theo năm Cách mạng Pháp 1789. Ngày 17/6/1960, già một tháng sau đấy thì ông mất, ông vẫn lo tình hình chính trị ở Á Châu…Trước những sai lầm của Cải cách ruộng đất làm cho xóm làng thêm xơ xác, ông đau đớn vô cùng. Ngày 16/6/1956 ông cho biết đã trực tiếp viết thư gửi Hồ Viết Thắng, một cán bộ cao cấp về công tác này để xin gặp. Nhưng Hồ Viết Thắng đã từ chối. Nếu cuộc gặp ấy xảy ra chắc chắn Nguyễn Huy Tưởng sẽ nói những điều ông viết trong Một ngày chủ nhật. Đức tính trung thực và ngay thẳng của Nguyễn Huy Tưởng trong tình bạn là biểu hiện cao quý nhân cách của một nhà văn, đặc biệt trong những giai đoạn sóng gió của thời cuộc. Ngày 14/12/1956: Tiền nong cho già đình thì thiếu, con lên sởi, lo vì công việc, lo cho bạn, không sao ngủ được. Cái nhóm Trần Lê Văn, Quang Dũng, Hữu Loan, Thanh Châu vắng vẻ chuyện trò. Ta nói thẳng với T.C… anh ta nói ta nặng vế trách Đảng. Nhưng có lo gì? Nghĩ thế nào nói thế. Anh em càng tin. Trước đó một ngày, nhật kí viết: Khi gặp đồng chí T.C, khi mình nói không nên có thành kiến với Nguyễn Hữu Đang, thì thiếu bình tĩnh ngay. Rồi quay sang vặc: Sao anh chỉ trách Đảng mà không trách bọn họ... Ta để việc này trôi đi ư?... Đã bao nhiêu người oan uổng vì những báo cáo không xác thực này. Thời gian đã đi qua 60 năm, bao nhiêu điều đã được nhận thức lại mà đọc những trang viết này vẫn cảm thấy nóng bỏng lòng trung thực, ngay thẳng của nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng đâu phải chỉ bị thôi thúc tình cảm giữa con người với con người. Đó không chỉ là kinh nghiệm mà còn là bản lĩnh chính trị của ông. Nhà văn đã từng tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ, Hội Văn hóa cứu quốc những năm trước Cách mạng, từng là một trong số những người đầu tiên xây dựng báo Tiền Phong bí mật từ tháng 6/1945. Người cất lên tiếng nói thẳng thắn ấy như vừa bước ra từ Hội trường quốc dân đại hội Tân Trào tháng 8/1945, từ Quốc hội khóa 1 năm 1946, từ những trang ký sự chiến trường rực lửa Thu đông 1947 và chiến dịch biên giới 1950. Biện chứng về truyền thống và thời đại, lịch sử và cách mạng dẫn dắt tư duy sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhật kí Tết Mậu tuất 1958 viết: T.H nói ăn cơm bây giờ thì phải phục vụ bây giờ. Có biết đâu ăn cơm bây giờ nghĩa là ăn cơm của cả tổ tiên và của cả con cháu. Nói thẳng, nói thật, nói có tổ chức, vì sự sống còn của lợi ích chung là phong cách của Nguyễn Huy Tưởng. Nếu ông im lặng chắc cũng chẳng ai trách ông. Nhưng nhân cách nhà văn không cho phép ông làm điều đó. Ông đã từng viết: Phải cao quý, hỡi nhà văn.

Tôi cho rằng một trong những nội dung quý giá nhất của Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng là những quan niệm của ông về sáng tác văn học cũng như trách nhiệm của người cầm bút. Ở đây hội tụ một chuỗi những suy tư, trăn trở mà Nguyễn Huy Tưởng đã chắt lọc từ trí tuệ, tâm hồn, máu và nước mắt của suốt một đời lao động nghệ thuật tràn trề say mê và đầy nghị lực của người nghệ sỹ. Những điều gan ruột ấy đã được ông viết ra từ rất sớm. Nhật ký ngày 24-12-1930, ông khao khát: làm chóng xong quyển truyện để tôi cống hiến cho quốc dân tôi, cho dân Việt Nam tôi, là dân mà tôi yêu một cách vô hồi, vô hạn. Nhật ký ngày 17-9-1931 viết: Corneille, Racine, Molière sở dĩ bất tử vì các nhà ấy phần lớn là nhà tâm lý học, thường trọng tình hơn trọng cảnh. Tả cảnh chỉ là cách làm cho sự tả tình đúng mà  thôi. Văn chương thuần tả cảnh không mấy lúc mà tiêu diệt. Dường như, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã làm ra theo tinh thần ấy. Nhật ký những năm kháng chiến chống Pháp nhiều lần đề cập đến quan niệm văn chương. Ngày 6-9-1949, bằng trực giác của mình, nhà văn đã sớm linh cảm thấy những điều chưa hiện rõ mặt đằng sau của cái mới: Ta muốn viết chế diễu một thứ bôn-sê-vích, đạo đức hẹp hòi, có cái vẻ Khổng Tử ngày xưa, xét nét về luân lý một cách chật hẹp. Nguyễn Huy Tưởng dường như đồng điệu với Nam Cao trong sự lo lắng người lãnh đạo không hiểu về Văn nghệ… Đến nhật ký ngày 6-7-1957, lo lắng này thể hiện càng rõ: Trong nội bộ Văn nghệ. T.H xem phim Anna, có hình ảnh người phụ nữ déscolletée (hở vai): bèn cấm! (…). Nhật ký ngày 2-2-1957 ông nhìn nhận đúng đắn vấn đề muôn thuở của sáng tạo văn học gắn bó với những vui buồn trăn trở của nhân loại mọi thời và vẻ đẹp vĩnh cửu của thi ca: Thơ Lý Bạch và cái hào khí của nhà thơ… Làm thơ tiễn bạn có phục vụ chính sách nào mà sao bây giờ truyền tụng? Ai truyền tụng những câu bảo vệ chính sách? Nên suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Phải đến cuối thế kỷ 20, những năm đổi mới, tức là hơn 30 năm sau, chúng ta mới nhìn nhận toàn diện vấn đề ấy. Nhật ký ngày 28-2-1957 cho thấy Nguyễn Huy Tưởng đã nhìn xa trông rộng được nhiều vấn đề của mấy chục năm sau: Tổng kết đại hội (Văn Nghệ). T.H lại bốc. Vẫn cái luận điệu cũ. Rào trước đón sau. Nói cần phải đoàn kết nhưng thực sự có đoàn kết được đâu. Hẹp hòi đến thế, hỏi tranh thủ sao được văn nghệ sỹ miền Nam.

Trong cuộc sống đời thường, Nguyễn Huy Tưởng luôn bày tỏ sự đồng cam cộng khổ với các bạn văn. Ông lo lắng cho Nguyễn Sáng, một họa sĩ có tài, trong kháng chiến chống Pháp từng vẽ giấy bạc cho Chính Phủ, vậy mà hòa bình không có thuốc để vẽ. Ông chia sẻ cảnh ngộ của Bùi Xuân Phái, nghèo túng chỉ mong có được một commande nào đó để có tiền nuôi vợ nuôi con. Và ông đặt câu hỏi: chế độ ta cứ để cho những nhân tài ấy sống mai một đi ư?… Nguyên Hồng rất yêu quí ông Tưởng, thường hay gọi đùa Nguyễn Huy Tưởng theo tên gọi một nhà văn nổi tiếng nước ngoài nói lạc đi là Mao Thuỗn. Là con mõ già của văn hóa cứu quốc. Là ông Chánh Hòa. Hồi ký văn học Những nhân vật ấy đã sống với tôi, in năm 1978, Nguyên Hồng đã viết ngay ở những trang đầu: Ngày xưa có… Trương Chi chỉ là cái cớ. Nguyên Hồng giành phần trang trọng nhất cho ông Tưởng: Một buổi đạp xe trên quốc lộ 1, đi qua giữa vùng chợ Dầu và chợ Lim - ông Chánh Hòa… người rất chi đôn hậu, rất chi say viết, ngồi “cắn” bàn như bắt vít vào ghế được anh em rất mến, cho biết: Có một khúc của sông Tiêu Tương chảy qua đây và gốc chuyện Trương Chi là ở đấy… Nguyễn Huy Tưởng có ý định sau này sẽ về làm nhà ở trên quãng di tích sông Tiêu Tương ấy để sẽ viết thêm tiểu thuyết và kịch lịch sử.

Ước mộng này của nhà văn đã không biết trước phải đổi mặt với thách thức cuối cùng cay nghiệt nhất của đời ông. Trong một tờ giấy nhỏ bằng lòng bàn tay đã ố vàng tôi được nhìn thấy Nguyễn Huy Tưởng ghi chương trình tháng 4 - 1960 có 5 việc đánh rõ thứ tự a, b, c, d, e. Mặt sau của tờ giấy ghi bằng tiếng Pháp tên một nhà văn phương Tây và giá một số quyển sách. Lưu ý đó không phải là tên thuốc. Đó là chương trình làm việc cuối cùng của nhà văn được ông viết trên giường bệnh. Như thể ông không để ý đến cái gì sẽ xảy đến. Như thể ông cố làm hết những việc cần thiết nhất ở dương thế này. Đó cũng là thể hiện nhân cách của một nhà văn đã sống hết lòng vì đất nước và nhân dân mình. Ngày 25/7/1960 (tức 2 tháng 6 âm lịch), Nguyễn Huy Tưởng thở hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Nhưng như Văn Cao trong bài thơ của ông ấy có tiêu đề Nguyễn Huy Tưởng đã viết Cái chết của anh cái chết một nhà văn - không bao giờ là cái chết.

Tôi đã sống ở Hà Nội chừng nửa thế kỷ rồi, không biết bao nhiêu lần đi qua hồ Tây mà không sao tìm được cái cảm giác của ông Nguyễn Tuân nghe chuông chùa Trần Quốc bồi hồi bên hồ, lại muốn bóng hồ trả lại cho Hà Nội hôm nay cái bóng mái cong những chín tầng đài ngày nọ - Cửu Trùng Đài. Lịch sử cứ thầm lặng đi qua mà chẳng bao giờ trở lại được nữa. Nhưng Cửu Trùng Đài ngày xưa đã sụp đổ mà không còn dấu tích gì nữa trong bóng mây bóng nước mặt hồ. Biết bao nhiêu thăng trầm hưng vong, hoang phế cuộc đời tưởng đã đi vào quên lãng cùng với sự vô tâm của thế thái nhân tình. Nhưng không. Có một miền ký ức lóng lánh ánh vàng của thời gian trong tác phẩm văn học của những văn tài. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng mà những chữ Vũ Như Tô như được thêu bằng vàng của thời gian sẽ còn lại mãi mãi. Bởi vì đó là vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam. Nó nhắc nhở và đưa ra lời cảnh báo cho mọi thời đại về những gì kỳ vĩ sẽ bị thiêu rụi nếu không vì những giá trị căn bản của con người. Nó chỉ ra bi kịch không thể tránh khỏi của những nhân tài, trong một xã hội suy tàn, mạt pháp và phi luân. Nhà văn không chỉ là chứng nhân của lịch sử mà còn là lương tâm của thời đại. Điều đó thật rõ ràng trong trường hợp của Nguyễn Huy Tưởng. Hơn thế nữa, ông còn là nhà văn hóa tiêu biểu của thời ông đã sống.

Nguyễn Huy Tưởng sinh 1912, con một người hàn sĩ ở xử Kinh Bắc; Mấy khóa thi đều hỏng cả, sớm phải về cõi âm, để lại Huy Tưởng khi mới lên 7 tuổi. Rồi cậu bé phải sớm lang bạt xứ người ở đất Hải Phòng. Cái mảnh đất mà Claude Bourrin, trong cuốn Bắc Kỳ xưa - một cuốn sách khảo cứu về sân khấu, thể thao, đời sống đô thị từ 1884 đến 1893 đã ca ngợi: khi đổ bộ xuống một xứ sở mới, người Anh chỉ biết xây dựng một ngân hàng thì người Pháp xây rạp hát. Và thành phố Cảng là nơi đầu tiên nền kịch nói phương Tây đổ bộ vào. Chính ở cái thành phố hoa lệ mà đầy những cạm bẫy người ấy, nhà văn của chúng ta đã học hành một cách nghiêm cẩn và thành người lớn ở đây. Ít nhất là cũng khác so với thời còn bé ở quê. Thời đó cậu bé quê làng Dục Tú còn rụt rè và thích làm thơ, thỉnh thoảng cùng người cháu họ trốn nhà đi Lý Nhân, Mai Động xem và chính ông cũng nhảy vào hát ống. Một thứ văn nghệ bình dân 100%. Ống sữa bò dán da ếch 2 đầu, giữa giăng dây chỉ. Trai gái hát đối với nhau, thường là những đêm trăng nông thôn Việt Nam bình dị quê mùa. Có lẽ cái chất hào hoa trong văn chương Nguyễn Huy Tưởng là sự hợp lưu của 3 dòng chảy văn hóa Kinh Bắc - thành phố Cảng và Thăng Long Hà Nội âm thầm hòa quyện vào nhau.

Sau năm 1960, không hiểu Nguyễn Huy Tưởng có về làm nhà trên đất huyện Tiên Du - một vùng lúa xanh rời rợi có sông Tiêu Tương chảy ngầm dưới đất như có lần ông nói với Nguyên Hồng hay không? Ở đó ông tiếp tục nghĩ suy và mách bảo một người nào đó trong số chúng ta ở thời đại bây giờ tiếp tục viết trên cảm hứng lịch sử về những chủ đề quá khứ cũng như hiện đại? Ai mà biết được? Tháng 10/1996, Nguyễn Huy Tưởng cùng với Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng… và nhiều người khác đến nơi trang trọng nhất của đất nước này để nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Lúc ấy Cửu Trùng Đài còn chưa tắt lửa sau lưng họ.

Tháng 5/2017

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ số 23 ngày 8-6 2017

 Không có nhiều hiện tượng nổi bật như 15 năm cuối thế kỷ 20: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, văn xuôi Việt Nam mười lăm năm đầu của thế kỷ 21 đi vào tiếng rì rầm của đời thường, cạnh tranh với các lĩnh vực nghệ thuật khác trong chinh phục công chúng. Đời sống mạng, dồn dập thông tin, người viết và người đọc như ngập trong biển lớn. Một số nhà văn trẻ Việt Nam viết theo xu hướng giải trí. Các quầy sách tràn ngập các bản in mới, đa dạng và bắt mắt về hình thức. Đã có một số nhà văn chuyên nghiệp. Văn học Việt Nam trở lại con đường hiện đại hóa và hội nhập một cách chậm chạp, sau hai cuộc chiến tranh. Một nền văn học chịu nhiều phân tán, ngập ngừng, nhiều lần mở, khép. Một nền văn học dung hợp cả các yếu tố truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại.

Thông tin truy cập

60771028
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
15198
10454
60771028

Thành viên trực tuyến

Đang có 597 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website