20170906 VHChuong

Ảnh: Chân dung nhà thơ Vũ Hoàng Chương

Ai đem giấu vàng trong gió thu.

Trần Dần

Trước năm 1945, ít ai nghĩ rằng thi sỹ Vũ Hoàng Chương lại có lúc bừng tỉnh dậy sau những cơn say để viết nên một bài thơ hay nhất về cuộc Cách mạng ngày 19 tháng 08 ở Hà Nội. Một bài thơ dù đôi lúc xưa cũ mà hào sảng, phóng khoáng, đầy chất kinh kỳ và đặc sắc nhất là những câu thơ về lá cờ Cách mạng với ngôi sao vàng năm cánh vang hồn nước bay trên phố phường thủ đô nghìn năm văn hiến. Như một phép lạ. Một tin lành. Một giọng điệu thi ca hào sảng mà bi tráng không thể nào tìm thấy được trong thơ Vũ Hoàng Chương cũng như thơ của phong trào Thơ Mới trước đó.

Họ Vũ đến với Thơ Mới có lẽ vào loại muộn mằn nhất. Mãi đến năm 1940, Vũ Hoàng Chương, theo như tâm sự của chính ông, mới buộc lòng cho in tập thơ đầu tay – Thơ Say, chỉ vì món nợ mà Lưu Trọng Lư không trả được, phải xin ông khấu trừ bằng giấy in thơ. Chẳng phải vì ham hố chuyện văn chương trước hết. Mặc dầu vậy, tháng 09 năm 1941, Hoài Thanh đã viết lời giới thiệu Thơ Say để đưa vào Thi Nhân Việt Nam, được xuất bản một năm sau đó. Chỉ nhìn qua một lượt Thơ say có 31 bài với sáu mục. Say – Mùa – Yêu – Cưới – Lỡ làng – Lại say và tên các bài thơ đầy tâm trạng mong thành sầu sụp đổ. Say đi em. Hờn dỗi. Đời còn chi. U tình. Lo sợ. Chậm quá rồi. Bạc tình. Chết nửa vời. Con tàu say. Sai lạc. Hơi tàn Đông Á…cũng đủ thấy hồn thơ họ Vũ chìm đắm trong say như thế nào rồi. Bởi thế, Hoài Thanh, trong Thi nhân Việt Nam đã viết: Người say đủ thứ: say rượu, say đàn, say ca, say tình đong đưa, say thuốc phiện, say nhảy đầm…Bấy nhiêu say sưa đều nuôi bằng say sưa to hơn mọi say sưa khác: say thơ…Cái say sưa của Vũ Hoàng Chương là một thứ say sưa có chừng mực, say sưa mà chưa hẳn đã trụy lạc, mặc dù từ say sưa đến trụy lạc chẳng dài chi. Giọng thơ họ Vũ chứa chất một niềm ngao ngán vị chua chát, hằn học và bi đát thật đặc biệt. Ông Hoài Thanh đã đúng. Cứ xem như Vũ Trọng Phụng viết phóng sự đủ loại từ Làm đĩ, Kỹ nghệ lấy tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì…tưởng đâu Phụng là người trụy lạc. Vậy mà ông là người hiếu thảo và trong sạch trong làng văn thuở ấy. Vũ có hơi khác đôi chút. Đời sống hàng ngày của ông trước 1945 cũng bi đát và nhọc nhằn không biết là bao nhiêu. Vào khoảng năm 1944, Vũ lấy vợ là chị gái của nhà thơ Đinh Hùng. Nhà trọ của họ chật hẹp ở gần phố chợ Hàng Da. Họa sỹ Tạ Tỵ một lần đến thăm, loay hoay tìm khoảng chiếu để ngồi mà không có. Đã hơn 9 giờ sáng rồi mà Chương vẫn chưa tỉnh. Thi sỹ của chúng ta vẫn nằm trên tấm nệm cũ. Toàn thân như dán xuống mặt nệm. Da mặt tái mét. Đôi mắt mở hé trễ xuống. Như còn muốn hút…Vâng, đúng là Vũ Hoàng Chương đấy. Vậy mà chỉ một năm sau. Ngày 19 tháng 08. Cách mạng đã đến với hàng chục vạn người từ khắp mọi ngõ ngách đường phố, từ những cuộc đời gió bụi đến tầng lớp trí thức thượng lưu, từ những mảng quá khứ đau thương và tủi nhục, từ những thân tàn ma dại chết đói rệu rã các ngả đường, cùng kề vai sát cánh mang theo cờ đỏ sao vàng đổ về quảng trường nhà hát lớn để làm một cuộc phục sinh. Cuộc hội ngộ vĩ đại ấy đã đưa số phận của dân tộc Việt Nam bước lên vũ đài lịch sử mới. Nó đã hóa thân hàng triệu kiếp người. Ngay cả vị vua cuối cùng của các triều đại phong kiến Việt Nam đã tự nguyện từ bỏ ngai vàng, trân trọng trao bảo kiếm và ngọc tỉ tượng trưng của vương quyền bao nhiêu thế kỷ qua cho Cách mạng và đã nói một câu hay nhất trong cuộc đời của ông ta: Thà làm dân một nước tự do còn hơn làm vua một nước nô lệ. Đến vua còn thay đổi như thế, huống chi là một thi sỹ tài năng và nhạy cảm như Vũ Hoàng Chương. Họ Vũ đã tham gia vào cuộc Cách mạng ấy theo cách riêng của mình. Ông đã viết nên một bài thơ về ngày 19 tháng 8 ấy như chưa bao giờ được viết. Hào sảng. Dõng dạc. Mang không khí sử thi – Bài Nhớ về Hà Nội vàng son viết năm 1947.

Trước Vũ Hoàng Chương, đã có hai thi sỹ nổi tiếng làm thơ về Cách mạng tháng 8. Xuân Diệu công bố trường ca Ngọn quốc kỳ vào ngày 30 tháng 11 năm 1945. Rất kịp thời. Không thể không nói Ngọn quốc kỳ là không hoành tráng. Nhưng tiếc thay. Có lẽ là do quá xúc động để cảm hứng thơ trào lên không kìm giữ được, nên mặc dù nhịp điệu thơ thật khẩn trương, không gian thơ mở rộng và tác giả của nó không kiệm lời trong việc ca ngợi ngọn quốc kỳ, song thiếu khái quát được những hình tượng thơ đặc sắc mang tính tượng trưng giàu sắc thái thẩm mĩ. Ngôn ngữ thơ chưa có điều kiện chọn lọc để phát ra những hiệu ứng lan tỏa của cái đẹp một cách cần thiết. Bởi thế, trường ca ra đời thật kịp thời và nó được viết ra bởi một nhà thơ mới nhất trong số các nhà thơ của phong trào Thơ Mới mà lại chưa tương xứng với những điều Xuân Diệu đã có. Nó chỉ minh chứng một điều: Ông là người ra quân sớm nhất trong cùng đội ngũ của ông. Và tỏ rõ thi ca có những quy luật riêng của nó.

So với Xuân Diệu, Tố Hữu có lợi thế hơn nhiều. Ông là một trong những người trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Huế và ông thường nói mình là nhà Cách mạng làm thơ. Không phải nhà thơ làm Cách mạng. Tố Hữu viết Huế Tháng Tám theo thể thơ 8 chữ, vốn có thế mạnh và phù hợp với điệu tráng ca. Tố Hữu nghiêng về dừng lại miêu tả hơn là để tâm tìm ra hình tượng biểu trưng. Ví như “ngập Huế đỏ cờ sao”, “vàng vàng bay, đẹp quá, sao sao ơi” mà chưa gắn được với bức phông toàn cảnh thật bi hùng ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh. Thổi phồng lên, tim bỗng hóa mặt trời. Người ta vẫn chưa hình dung được cụ thể hình tượng cờ đỏ sao vàng, biểu tượng của Cách mạng gắn với Huế trong những giờ phút trọng đại không thể mộng mơ theo cách cũ được nữa.

Hai năm sau. Năm 1947. Thi sỹ Vũ Hoàng Chương có đủ độ lùi cần thiết cho việc chiêm nghiệm, chọn lọc để viết: Nhớ về Hà Nội vàng son. Bài thơ kết hợp được việc mô tả không khí hào hùng của cả dân tộc bước vào một thời điểm lịch sử trọng đại, tư duy thơ đã gắn hiện thực với những tưởng tượng đầy sức mạnh đến độ trổ ra những câu thơ lộng lẫy và điều quan trọng nhất đã tìm thấy biểu trưng cho cuộc Cách mạng là ngôi sao vàng năm cánh xòe ra một cách đầy sức sống và lãng mạn giữa thủ đô Hà Nội 5 Cửa ô của đất Thăng Long nghìn năm cổ kính; khiến nhịp điệu trở nên trang trọng náo nức trong thể thơ 7 chữ với 8 khổ 32 dòng thơ. Bài thơ mở đầu bằng không khí trang nghiêm mà tự hào về thế đứng của đất nước trong ngày Cách mạng.

Ôi ngày mười chín ngày oanh liệt

Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương

Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt

Vang sang bờ nọ Thái Bình Dương.

Tiếp theo Vũ Hoàng Chương đã viết 4 câu thơ hay nhất về Cách mạng Tháng 8 ở Hà Nội. Nó ghi danh tên tuổi họ Vũ trong thi ca hiện đại. Gần một thế kỷ nay, chưa thi sỹ nào viết được về Hà Nội vào giây phút hào hùng ấy của tổng khởi nghĩa, rạng rỡ và trang trọng trong sự gắn bó giữa hiện thực và hình tượng biểu trưng. Hà Nội như được nhìn thấy từ một hành tinh khác bởi sự kết nối của 5 cánh sao vàng lãng mạn với 5 Cửa ô của hiện thực trường tồn. Đó là sự gặp gỡ giữa thời đại và lịch sử.

Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy

Là những nhành sông đỏ sóng cờ

Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại

Năm cánh xoè trên năm Cửa ô.

Vẻ đẹp của ngày Cách mạng được vẽ tiếp trong bức tranh thơ trùng điệp những đoàn người hành khúc từ tóc bạc, má hồng đến triệu chàng trai nước Việt cùng hát ra đi bảo toàn sông núi trong sự đồng tâm Một tấm lòng mang vạn tấm lòng.

Trong văn chương Việt Nam nửa sau thế kỷ 20, hình tượng Hồ Chí Minh trở nên quen thuộc trong thi ca. Có người gọi Hồ Chí Minh là đức vua, là thánh nhân, là cha già dân tộc, mà quen thuộc nhất là tên gọi Bác Hồ. Vũ Hoàng Chương đã mượn hình tượng trong một bài thơ viết 1945 của Tố Hữu để gọi Hồ Chí Minh là một người lính già tiêu biểu. Vũ Hoàng Chương vẽ chân dung Hồ Chí Minh trong ngày Cách mạng hào hùng ấy theo một phong cách mà sau này người ta đã vẽ trên tranh cổ động giản dị rất nổi tiếng thời chống Mỹ. Bài thơ như muốn nói lên một điều mà lịch sử đã xác định: Không có nhân dân Việt Nam, không có Hồ Chí Minh sẽ không có Cách mạng Tháng 8.

Hai khổ thơ sau cùng của Nhớ về Hà Nội vàng son như gợi mở và lý giải cờ hoa Hà Nội ngày 19 tháng 8 vốn đã tiềm ẩn và chắt chiu giữa lòng dân tộc, giữa kinh đô từ bao đời nay lắng hồn sông núi. Bởi vậy, ngày hôm đó là ngày mãi mãi.

Trả hôm mười chín mùa thu trước

Về cho mười chín thu mai đây.

Dường như sự hoàn hảo có lúc làm người ta tưởng như chau chuốt của Nhớ về Hà Nội vàng son là một minh chứng cho quan niệm của thi sỹ Trần Dần về Hiện thực vốn có ba tầng: thực + tưởng tượng + tượng trưng. Nhớ về Hà Nội vàng son là sự giao kết ba tầng của hiện thực ấy. Và đó cũng là con đường đi ngắn nhất của thi ca từ hiện thực đến siêu thực và ngược lại – để soi rọi những khía cạnh thẩm mỹ vốn tiềm ẩn trong đời sống, để xã hội yêu mến những liên tưởng đầy kỳ ảo của cảm xúc, để chúng ta mãi mãi nhìn thấy cái ánh chớp của biểu tượng năm cánh xòe trên năm Cửa ô của Hà Nội ngập tràn cờ sao mùa thu năm ấy. Và như thế chúng ta mới hiểu được rằng làm thi sỹ không phải bỗng dưng ai cũng làm được. Bởi vì làm thơ là quá trình giấu vàng trong gió thu.

Những chấn động của lịch sử đã làm rung chuyển mọi nền tảng của xã hội, mở ra một thời đại mới cho thi ca. Cách mạng Tháng 8 và sau đó là cuộc kháng chiến 9 năm chống Pháp đã đưa Thơ đến những biên độ phát triển mới. Mỗi một thời đại lịch sử cần những khúc hát của chính mình. Một nhịp điệu thơ đã cất lên và lan tỏa. Nhớ máu của Trần Mai Ninh – ngày 09 tháng 11 năm 1946. Nhớ về Hà Nội vàng son của Vũ Hoàng Chương – 1947. Nhớ của Hồng Nguyên – 1948. Tây tiến của Quang Dũng – 1948. Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm – 1948. Bài ca vỡ đất của Hoàng Trung Thông – 1948…Lịch sử đã mang lại một nhịp sống hồ hởi, hồn nhiên, phơi phới, tràn ngập niềm tin cho thi ca Việt Nam giữa lòng thế kỷ 20. Thế kỷ 21 đã đi qua gần 20 năm rồi, nhiều thi sỹ hôm nay nói với tôi rằng: họ thèm được sự hồn nhiên như thế ở trong thơ.

Tháng 4 năm 1960, Chế Lan Viên có bài nhân đọc Hoa Đăng – tập thơ mới của Vũ Hoàng Chương in ở Sài Gòn 1959. Tôi coi trọng nhất đoạn Chế Lan Viên cảm nghĩ Nhớ về Hà Nội vàng son. Ông coi đó là lúc đẹp nhất của đời người thi sỹ. Khẳng định nhà thơ họ Vũ còn nhớ mãi 5 Cửa ô trong cuộc đời. Năm Cửa Ô trong thơ. Năm cánh hoa trong hồn dân tộc.

Nhưng, lịch sử của một dân tộc còn có những khúc quanh huống chi là lịch sử của một thân phận con người. Sau 1954, Vũ di cư vào Nam. Ở đây ông tiếp tục làm nghề dạy học và làm thơ. Nhiều tập thơ đã được ra đời. Rừng phong – 1954. Hoa Đăng – 1959. Trời một phương – 1962. Ta đợi em tư ba mươi năm – 1970…Từng có lúc ông giữ chức Chủ tịch Hội văn bút Sài Gòn. Đã 4, 5 lần dự hội nghị quốc tế về thơ ở nước ngoài. Thơ ông được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức. Nhưng, người ta nói rằng suốt thời gian cư ngụ ở Sài Gòn từ 1954 đến khi mất vào ngày 06 tháng 09 năm 1976, Vũ trước sau chỉ là kẻ thuê nhà. Từ xóm Hòa Hưng đến chợ Vườn chuối và sau cùng chui rúc vào một vùng lúc đó còn đìu hiu lau lách gần bến Phạm Thế Hiển. Cái phần hòn ngọc viễn đông hoa lệ không phải dành cho ông mà chỉ là “cõi tạm” cho một cuộc di cư suốt đời ở trọ. Nói như thế để trân trọng hơn một người đã từng Đòi hoa Hà Nội sóng Long Biên không phải cho riêng mình hơn 70 năm về trước.

Nhà văn Thế Phong có viết trên tờ tạp chí Văn Hóa Á Châu xuất bản ở Sài Gòn năm 1960 rằng: thơ xuân Vũ Hoàng Chương sau năm 1954 vẫn chỉ hướng về mùa xuân dĩ vãng. Khai bút thơ xuân hôm nay mà chỉ nhắc lại xuân đã qua rồi. Có lần tôi gặp thơ họ Vũ một lúc bâng khuâng thế sự:

Ta còn để lại gì không

Kìa non đá lở này sông cát bồi.

Cảm thán trước một đời thi sỹ, tôi muốn nói với Vũ Hoàng Chương rằng: Ông để lại cho đời nhiều lắm. Ít nhất cũng là một phong cách thơ kỳ lạ của phong trào Thơ Mới vào lúc nó đã ở chặng cuối con đường và một bài thơ về Hà Nội 19/8 như một trong những phút giây đẹp nhất của khuôn mặt Thăng Long nghìn năm văn hiến. Và như thế mới gọi là lịch sử. Bởi vì lịch sử không chỉ là những bước đi khổng lồ đôi khi trừu tượng, những cuộc mít tinh tuần hành hàng vạn con tim cùng nhịp đập. Lịch sử còn mang trong mình nó biết bao nhiêu thân phận con người. Sống và chết, mưu cầu hạnh phúc, cày cấy, buôn bán tất tả ngược xuôi. Nhìn xuống chân mình để đọc những câu thơ nhân thế mà đất và trời ban tặng…Chính họ đã va đập vào bao nhiêu cái ngẫu nhiên để lịch sử tìm ra cái tất nhiên. Để họ cũng góp phần làm ra nó theo cách riêng của mình. Thi ca đi giữa hai bờ vực của cái ngẫu nhiên và cái tất nhiên ấy mà tìm ra kẻ đã giấu vàng trong gió thu làm con người nhiều khi không ngủ.

Tháng 8 năm 1992, nhân dịp kỷ niệm 60 năm phong trào Thơ Mới, NXB Hội nhà văn Việt Nam trân trọng in hai tập thơ Say (1940) và Mây (1943) với lời giới thiệu: Vũ Hoàng Chương dẫn Thơ Mới vào cõi sâu xa cá tính. Vũ chẳng giống ai trước mình và những người sau cũng chẳng ai bắt chước được. Vũ là một ngôi sao ở cuối bầu trời Thơ Mới.

Năm 1993 NXB Hội nhà văn Việt Nam tiếp tục in lại Ta đã làm chi đời ta, hồi ký của Vũ Hoàng Chương kể về nhiều câu chuyện vui buồn của anh em văn nghệ thời trước Cách mạng, trong đó có đoạn hoài niệm đám cưới của Hoàng và Oanh năm 1944. Nguyễn Tuân có tặng một tập giấy khổ vuông. Mỗi bề độ 2 gang tay. Ở bên mép giấy cách chừng độ một đốt ngón tay, in hai chữ Nguyễn Tuân – thủ bút của đương sự. Nguyễn dặn rằng: Giấy này để viết những trang bản thảo đắc ý. Tôi hi vọng Vũ Hoàng Chương đã viết Nhớ về Hà Nội vàng son trên những trang giấy ấy. Sau 30 tháng 4 năm 1975 họ Nguyễn vào Sài Gòn thăm Vũ Hoàng Chương. Quà tặng của họ Vũ cho ông Nguyễn lại chỉ là thủ bút của tác giả Nhớ về Hà Nội vàng son. Một nét thủ bút thôi mà biết bao ý nghĩa, sau bao năm chia cắt mới đoàn tụ trong cái nếp văn hóa nghèo mà sang của người Việt Nam. Tôi đã được thấy cái thủ bút ấy. Nó khắc khoải, đầy dằn vặt mà cũng ngang tàng lắm. Nhưng không hiểu sao tôi hơi ngạc nhiên cái ông thi sỹ Vũ Hoàng Chương hào hoa mà lãng tử trong thơ đến thế lại khác xa người đàn ông xưng danh là Hoàng được cầm tinh con Rồng (sinh năm 1916) có thời hưởng tuần trăng mật với nhiều buổi tối buồn tẻ đến hiu hắt ở căn gác hình ống tại Bến Thóc thành Nam Định lại hơi vụn vặt mà tầm thường trong thiên hồi ký không mấy hấp dẫn Ta đã làm chi đời ta. Tôi chờ đợi điều lớn hơn thế chiết ra từ cuộc đời dâu bể của ông – cái con người thời còn trẻ có khuôn mặt rất giống vua Bảo Đại, lúc về già lại giống ông cố đạo nghèo vùng Sơn Nam Hạ.

Đầu năm 2005 vào đêm nguyên tiêu ngày thơ Việt Nam 3/3, người ta trân trọng công bố tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám Hà Nội kết quả cuộc bầu chọn 100 bài thơ hay nhất của thế kỷ 20. Trong đó có bài Say đi em của Vũ Hoàng Chương. Tên tuổi của ông đứng bên cạnh những cái tên danh giá nhất của thi đàn Việt Nam hiện đại. Hàn Mặc Tử. Tố Hữu. Chế Lan Viên. Nguyễn Bính. Vũ Hoàng Chương. Huy Cận. Xuân Diệu. Hoàng Cầm. Quang Dũng.v.v.. Lịch sử đã không quên một ai khi ban tặng và vực dậy một người đang say để viết nên một thi phẩm nổi tiếng về ngày Cách mạng. Nhưng nếu không, nếu không có một tài thơ đã từng viết Say đi em thì cũng không thể đón nhận cái phút chốc chớp sáng của tưởng tượng khi 5 cánh sao sáng lòa trên 5 Cửa Ô kinh đô nghìn năm không ngủ.

Cả một thế hệ đã có lúc muốn đưa hồn say về tận cuối trời quên, có lúc bế tắc lũ chúng ta đầu thai nhầm thế kỷ, bị quê hương ruồng bỏ giống nòi khinh, sau 19/8 đã sống một cuộc đời khác. Vũ Hoàng Chương là một người trong số đó. Nhớ về Hà Nội vàng son không chỉ là nỗi nhớ của một giai đoạn lịch sử, mà là nỗi nhớ của nhiều thời đại về một ngày rực rỡ như chưa bao giờ rực rỡ như thế.

Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại

   Năm cánh xòe trên năm Cửa ô.

Lập thu – 2017.

Nguồn: báo Văn nghệ số 35+36 ngày 2/9/2017

--------

Nhớ về Hà Nội vàng son 

Vũ Hoàng Chương

(Từ điển văn học có một đoạn:

Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi,

Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời.

Nhị Thủy, Mê Giang trào sóng thẳng,

Hoành Sơn, Tản Lĩnh kết hoa tươi.)

 

Ôi ngày mười chín, ngày oanh liệt!

Sóng đỏ hoa vàng khắp bốn phương

Hà Nội tiếng reo hò bất tuyệt

Vang sang bờ nọ Thái Bình Dương.

 

Ba mươi sáu phố, ngày hôm ấy

Là những nhành sông đỏ sóng cờ

Chói lọi sao vàng, hoa vĩ đại

Năm cánh hoa xoè trên năm cửa ô.

 

Xôn xao hành khúc "Xây đời mới"

Tráng khúc du dương "Ngọn Quốc kỳ"

Tóc bạc má hồng mê vận hội

Cùng trai nước Việt hát "Ra đi"

 

Chen tiếng hoan hô, này khẩu hiệu

Muôn năm Chủ tịch Hồ Chí Minh!

Muôn năm người lính già tiêu biểu

Vì giang sơn quyết bỏ gia đình.

 

Ôi ngày mười chín, ngày sung sướng!

Vạn ước mong dồn một ước mong!

Ôi mùa thi ấy, mùa tin tưởng!

Một tấm lòng mang vạn tấm lòng.

 

Ba kỳ hỡi người dân Việt!

Mau võ trang cùng tiến bước lên

Cùng tiến bước mau! Thề một chết

Đòi hoa Hà Nội, sóng Long Biên.

 

Cho hoa kia nở vàng như cũ

Cho sóng này dâng đỏ gấp xưa…

Ôi lá cờ sao! Từng đã ngự

Giữa lòng dân tộc, giữa kinh đô!

 

Kinh đô ngàn thuở, đòi cho được

Và quét hôi tanh sạch đất này

Trả hôm mười chín mùa thu trước

Về cho mười chín thu mai đây.

1947

Nơi xuất bản: Nhà xuất bản Giáo dục, 2005 

 

Đoàn Trọng Huy (*)

Chế Lan Viên (1920 – 1989) là một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa tiêu biểu – mà cuộc đời và sự nghiệp thi ca gắn bó chặt chẽ với đời sống Dân tộc và sự nghiệp Cách mạng. Các sáng tác thơ và trước tác phê bình, tiểu luận trên nhiều phạm vi của ông có ảnh hưởng rộng rãi và có tác động tích cực đến đời sống văn học và văn hóa Việt Nam hiện đại.

Luôn sống hết mình với thời đại, Chế Lan Viên chính là người ca sĩ hào hùng hàng đầu của một thời lịch sử. Tiếng thơ của ông thật xứng đáng là tiếng nói nhân danh Dân tộc, Cách mạng và Chân lý  còn vang vọng mãi với thời gian.

                                               *

 Hành trình và vai trò nhà  thơ Chế Lan Viên là  rất tiêu biểu.

 Đó là hành trình từ Tháp ngà thi ca dấn thân mạnh  bước tới  Quảng trường xã hội nhân quần, “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui” .Bản thân nhà thơ đã vượt thoát cái mê cung bế tắc, cái tuyệt lộ siêu hình để nhận  ra cuộc đời hiện hữu, có thực của nhân dân. Cuộc tìm đường ấy đầy nhọc nhằn và dũng cảm như nhà thơ tự bạch: “Đi xa về hóa chậm/ Biết bao là nhiêu khê”

Cách mạng đến đã đổi đời và đổi thơ, đưa cả đội ngũ vào đại lộ cách mạng và con đường lớn của văn học nghệ thuật mới.

Chế Lan Viên đã mạnh dạn  dấn bước trên con đường lựa chọn và đã có cuộc hành trình gian nan, vất vả còn kéo dài suốt những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Nhà thơ đi thực tế chiến đấu từ khá sớm. Tuy nhiên, đầu óc còn u mê trong “hàng triệu nỗi buồn” hư ảo. Con người đã qua những cơn sốt vỡ da để thay da, đổi thịt, khỏe khoắn, lớn lên.

Ánh sáng và phù sa là dấu ấn rõ rệt về sự chín lại của một hồn thơ trong chế độ mới. Cuộc lên đường đầy  hứng thú và hào hùng.

Chế Lan Viên nhanh chóng đi vào đội ngũ những người mở đường mạnh mẽ , táo bạo, tạo ra một thời đại thi ca mới cách mạng.

Đặc biệt các tác phẩm những năm chống Mỹ đã nâng nhà thơ lên một tầm cao mới. Với những nỗ lực đổi mới và sáng tạo nghệ thuật, Chế Lan Viên đã vượt lên tuyến đầu, trở thành một trong những người dẫn đường xuất sắc cho thi ca đương thời.

Đó là hành trình mở đường và dẫn đường bền bỉ, quả cảm và sáng tạo của  nhà văn – chiến sĩ cách mạng, một hành trình vẻ vang rất đáng tự hào.

                                                                *

               Chế Lan Viên có thể  được vinh danh là ca sĩ hào hùng thời đại mới.

Cách mạng tháng Tám đã mở ra Kỷ nguyên mới cho dận tộc – Kỷ nguyên của Độc lập,Tự do.

Ba mươi năm ( 1945 – 1975) là một cuộc thử thách gay go, quyết liệt để bảo vệ nền độc lập, thống nhất, bảo vệ lý tưởng tự do, dân chủ và quyền sống hạnh phúc của người dân. Đây cũng chính là thời kỳ mà Dân tộc nhịp bước cùng Thời đại.

Thời đại mới – thời đại sôi động dữ dội của ba dòng thác cách mạng đã đào luyện con người dân tộc trở thành những chiến sĩ dũng cảm, kiên cường trong lao động sản xuất và chiến đấu. Đồng thời, thời đại mới cũng tạo nên nhân cách cao đẹp cho văn nghệ sĩ và chắp cánh ước mơ sáng tạo của họ.

Chế Lan Viên đã trở thành một nhân cách lớn mang tầm vóc vượt trội trong hoàn cảnh lịch sử thời đại.

Trước hết, nhà thơ có một con mắt nhìn lịch sử và nghe  tiếng nói thời đại : ViệtNam – Hồ Chí Minh “Và danh hiệu Hồ Chí Minh xuất hiện trên xứ sở trống đồng bốn nghìn năm như vậy đó/ Phải có những trống đồng mới, những hùng ca mới  thời đại ta ca vang công đức của Người” (Thời sự hè 72, bình luận)

.     Ca ngợi Hồ Chí Minh là ca ngợi thời đại mới- thời đại Hồ Chí Minh. Và đó cũng là sự tôn vinh Lãnh tụ biểu trưng cho Dân tộc, cho Đất nước trong thời đại.

 Hoa trước lăng Người gồm một số bài thơ viết về Bác từ 1954 – 1976, là tiếng thơ xuất sắc, rất tiêu biểu như một thể tụng ca mới cách mạng sáng tạo của Chế Lan Viên. Cũng như Tố Hữu, một đời Chế Lan Viên viết về lãnh tụ cũng là quá trình tự nâng mình lên: “Ta nhận vào ta phẩm chất của Người” để làm mình, xứng tầm một ca sĩ đủ ý thức và tâm huyết thấu hiểu tâm hồn nhân cách thời đại Hồ Chí Minh.

Cái Tôi trữ tình nhân danh cá nhân đã dần dần mang tư cách cộng đồng thế hệ và toàn dân. Giọng điệu từ Người thay đổi tôi, Người thay đổi thơ tôi có sự gắn kết riêng chung rõ rệt như  sự đối chiếu song hành  rất tự nhiên cá nhân với lãnh tụ.  Sau này, Ta bao trùm lên mỗi dòng thơ: “Và ta yên tâm đi trên trái đất này/ Có Bác bên mình, có Bác đâu đây” (Giờ phút chót), “Tiếng khóc lọc hồn ta như lửa chói ngời” (Tiếng khóc đúc Việt Nam thành một khối), “Nhận vào ta phẩm chất của Người/ Ngỡ như cả tâm hồn ta đổi khác” (Ta nhận vào ta phẩm chất của Người). Và ở rất nhiều bài khác nữa: Cách mạng, chương đầu; Đọc văn Người; Di chúc của Người; Lộc của đời; Người chẳng có gì riêng; Trận đánh của tình thương; Nếu quên thanh gươm, ta chẳng hiểu Người; Trong lăng và ở bên ngoài.

Chế Lan Viên đã quan sát, chiêm nghiệm lãnh tụ ở mọi vị thế, tư cách để tìm ra những nét phẩm cách đặc trưng, tiêu biểu – Người đi tìm Hình của Nước... Nhưng hôm nay, Bác là mặt trời chiến thắng... Trên tất cả. Bác là vị tướng… Có gì lạ? Bác chính là Tổ quốc…Còn như Người, Người đã hóa hương sen… Ngôi sao sáng đưa ta qua đêm trường thế kỷ/ Đã thành mặt trời chói lọi bình minh…”

Hồ Chí Minh đồng thời mang hai vị thế của xây dựng hòa bình và chiến đấu, chiến thắng trong nước, cũng như trên thế giới:

Trong thế giới bạo tàn này, Người là những bóng cây xanh

Trong thế giới bạo tàn này, Người cũng là vị tướng Hồ Chí Minh

 Chế Lan Viên là một trong những người xây dựng thành công nhất hình tượng toàn vẹn tuyệt vời Hồ Chí Minh – một con người đã trở thành huyền thoại của nhân loại “ Bác nằm kia như một sự kết tinh… Bác nằm kia, tinh khiết tuyệt vời (Ta nhận vào ta phẩm chất của Người).

Khuynh hướng của Chế Lan Viên, cũng như của Tố Hữu, là miêu tả cái vĩ đại nhưng kết hòa được nét phi thường trong cái bình thường.

Hình tượng Hồ Chí Minh trong thơ Chế Lan Viên tập trung vào việc thể hiện bậc thiên tài cách mạng lỗi lạc

Hồ Chí Minh – nhà tư tưởng đạo đức, bậc hiền triết:

                         … Đây cũng là nhà hiền triết hiểu chỗ đến, chỗ đi sự vật

                                      … Bác nghe bể và tìm ra quy luật

        … Ngôi sao sáng đưa ta qua đêm trường thế kỷ.

Hồ Chí Minh – hiện thân của chiến đấu và chiến thắng:

… Của trăm chiến trường, đây người chiến sĩ

                       Từng xông pha từ bão tuyết châu Âu đến tù ngục phương Đông

… Là chiến thắng huy hoàng trời Tổ quốc

Người hóa dựng xây, người hóa vun trồng

                        … Cánh phượng hoàng bão bùng của những trời cách mạng.

Hồ Chí Minh – ngọn cờ sáng láng của chủ nghĩa nhân văn cách mạng:

                                … Họ khóc một người Cha – một con người, người nhất

                              … Muôn vàn tình yêu thương trùm lên khắp quê hương

         … Bác nằm đây, lòng động đến trăm nơi.

Cùng với dư luận xã hội, tình cảm tôn vinh của nhân dân thế giới, Chế Lan Viên đã nâng lãnh tụ Hồ Chí Minh lên hàng vĩ nhân của lịch sử nhân loại, người góp phần tích cực và hiệu quả vào sự nghiệp giải phóng những phận Người cùng khổ, sáng tạo nên văn hóa, văn minh nhân loại.

Tuy nhiên, nhân vật huyền thoại Hồ Chí Minh vẫn là câu hỏi mở với dân tộc và nhân loại. Đó là tầm cao đặc hiệu của nhà thơ trí tuệ Chế Lan Viên:

Với đất nước sinh ra mình, Bác vẫn là điều bí mật

       Một thế hệ, vài thế hệ chúng ta chưa đủ hiểu hết Người

                      Cứ mỗi bước đi lên, dân tộc lại định nghĩa về Người từ bản chất

                            Đọc vào sự nghiệp, núi sông, Di chúc của Người và hỏi “Bác là ai”

                                                            Thời sự hè 72, bình luận

Nữ sĩ Ấn Độ Amrita Pritam cũng có chung ý tưởng ấy: “Đức vua ta nghe nói đó là ai? Thánh nhân đó là ai?... Đó là ai… Người yêu thương nhân loại là ai đó? Bậc hiền nhân đó là ai? (Hồ Chí Minh).

Tổ quốc là hình tượng nổi bật và bao trùm trong thơ Chế Lan Viên. Hình tượng ấy thường được vẽ nên bằng cảnh tượng mỹ lệ, kỳ vỹ và hào hùng từ Ánh sáng và phù sa lại sáng đẹp kỳ lạ trong những tập thơ tiếp theo. Qua đó là cảm quan lịch sử thật mạnh mẽ: “Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng/… Mỗi người dân đều được thấy Bác Hồ”.

Đặc biệt là vẻ đẹp thời đại, vẻ đẹp hiện tại của sự nghiệp thế kỷ: “Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”. Đó là Tổ quốc độc lập tự chủ, được xây đắp bằng xương máu thế hệ tiếp thế hệ: “Như Hồng Lĩnh tự mình xây núi lớn/ Cửu Long dài đảm nhiệm lấy phù sa” (Con mắt Bạch Đằng – Con mắt Đống Đa).

Hình tượng Tổ quốc thường gắn với hình tượng lãnh tụ: “Bác chính là Tổ quốc”, đồng thời gắn với con người dân tộc.

Con người Việt Nam trong thời đại cũng là một hình tượng tuyệt đẹp trong thơ Chế Lan Viên. Đó là nhân vật trung tâm của cuộc sống từ sau Cách mạng.

Đó là con người từ chân trời một người đến chân trời mọi người. Theo từng chặng đường lịch sử, đó là từ tôi đến ta rồi tôi – ta hay ta – tôi: con người của chủ nghĩa tập thể trong xã hội dân chủ tự do.

Sau đó, nổi bật trong thời chống Mỹ là con người của chủ nghĩa yêu nước anh hùng mới: con người thời đại – thời đại cách mạng hào hùng.

Trong tập Ánh sáng và phù sa, Tiếng hát con tàu là tiếng hát lên đường, tiếng hát xây dựng. Thực chất, đây là một thử thách hết sức mới mẻ của những người lao động trên các dặm đường, trên các công trường xây dựng Tổ quốc. Tàu đến, tàu đi là tiếng hát của người thợ mỏ, cũng là tiếng reo vui vủa con người trong cuộc sống hạnh phúc mới.

Cuộc đấu tranh để hòa hợp riêng – chung là một hiện trạng lịch sử. Tâm trạng riêng của nhà thơ cũng phần nào thể hiện với niềm chung.

Con người phải gạt bỏ mọi buồn đau, lo toan cũ để tìm niềm vui mới : “Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa/ Nay trở về ta lấy lại vàng ta”.Nhật ký một người chữa bệnh miêu tả những “ánh nắng vàng”, những “hương thơm” đầu tiên:

Khi được lúa ta được cả chim trời đến hót

Hạnh phúc khi trả về hạnh phúc hóa thành đôi.

Tuy nhiên, một cuộc chiến đấu mới lại diễn ra.

Chủ nghĩa yêu nước thiêng liêng được khơi dậy. Nhà thơ dõng dạc cất lên tiếng nói đầy quyền uy: “Yêu Tổ quốc là điều không thể giấu”. Chân lý dân tộc, cũng là lẽ phải của loài người: “Người bị giết phải vùng lên nổ súng”.

Hoa ngày thường, Chim báo bão là bản hùng ca khởi đầu cho thời chống Mỹ. Con người bất khuất tiến hành vũ trang tự giải phóng mình:

Hàng triệu anh hùng của chúng ta đang còn tại ngũ

Hàng triệu anh hùng mới lên đường, súng chắc trong tay

                                                Ở đâu? ở đâu? ở đất anh hùng

             Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng (1965), Con mắt Bạch Đằng – con mắt Đống Đa (1966) là tiếng gọi thôi thúc xung trận. Suy nghĩ 1966 gợi một hào khí truyền thống

… Thế của ta là thế cuộn sông Hồng

… Từ trận Hoa Lau, từ cọc Bạch Đằng

              Cho đến buổi hạ trăm nghìn “thần sấm sét”

Bài thơ kết thúc bằng ý chí quyết liệt:

Ôi! Hôm nay lòng ta như họng súng

       DIỆT MỸ LÀ CAO CẢ CỦA TÌNH YÊU

Những tập thơ chống Mỹ: Những bài thơ đánh giặc (1972), Đối thoại mới (1973), Ngày vĩ đại (1976) vang động chiến trận và chiến công. Cho đến tận Hái theo mùa (3/1977) vẫn còn âm hưởng hào hùng, kết thúc bằng hai bài thơ đậm chất anh hùng ca: Ngày vĩ đại (5/1975), Thơ bổ sung (19/5/1975) viết với khí thế Đại thắng mùa xuân 1975.

Nổi lên trên bình diện cuộc kháng chiến chống Mỹ thần thánh là hình ảnh nhân dân anh hùng, chiến sĩ anh hùng.

Lý tưởng Không có gì quý hơn độc lập, tự do ngời sáng qua những dòng thơ. Chủ nghĩa anh hùng như một hào khí mới của dân tộc trong thời đại.

              Việt Nam mang vị trí địa – lịch sử, đóng chốt “ngã ba máu” giữa các dòng đối địch, các lực lượng đối kháng về ý thức hệ, vì vậy phải gánh trọng trách có một không hai: “Lịch sử gọi “có mặt” thì Việt Nam có mặt” (Đường sáng tuyệt vời).

Lý tưởng chiến đấu rực sáng trong mỗi hồn người: “Ta xé mình ra ngang dọc chiến hào/ Cho Tổ quốc liền sông núi vạn đời sau”. Cao cả thay là nghĩa khí thiêng liêng:

                                         Việt Nam chịu vạn ngày lửa đạn

   Cho nghìn năm nhân loại ngẩng cao đầu

                        Thời sự hè 72, bình luận

“Phép lạ” Việt Nam được hiện hình qua đất nước, con người:

Mỗi gié lúa đều muốn thêm nhiều hạt

Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm

                                          Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt

   Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng

                                    Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?

Người lính đánh giặc không chút phân vân. Lòng quả cảm hy sinh bất chấp cả vũ khí hạt nhân: “Thần chiến thắng, là những người áo vải/ Những binh nhất, binh nhì mười tám tuổi”.

Anh hùng cách mạng là anh hùng quần chúng, vô cùng bình dị mà hết sức phi thường. Người dân đánh giặc còn vì sức mạnh vô hình của các truyền thống văn hóa dân tộc: “Đêm thắng giặc Bảo Ninh, mẹ Suốt ngâm Kiều” (Gửi Kiều em những năm đánh Mỹ).

Anh hùng và lạc quan: “Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng/ “Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại” 

Chủ nghĩa lạc quan Việt Nam cũng là nguồn sức mạnh chiến thắng. Con người chiến đấu tin tưởng và hy vọng mãnh liệt ở chiến thắng cuối cùng của chính nghĩa trên phi nghĩa, bạo tàn, văn minh trên dã man, hủy diệt: “Vành vạnh  Vầng – Trăng – Nghìn– Năm vẫn là Gương – Mặt – Việt – Nam cười/ Mặt tục ngữ, hò khoan bốn mùa trong suốt” (Suy nghĩ 1966).

Kết tụ trong chủ nghĩa anh hùng Việt Nam là trí tuệ siêu việt của “cái nỏ thần” chiến lược, chiến thuật. Dũng gắn với Trí trên cơ sở của Nhân – một tình yêu cao cả, lớn lao: “Ta đã yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ, bát ngát câu Kiều, bờ tre, mái rạ,…/ Mái đình cong như bàn tay em gái giữa đêm chèo,/ Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xẩm xoan, cò lả,/ Cái đôn hậu, nhân tình trong nét chạm chùa Keo” (Thời sự hè 72, bình luận.

Thơ Chế Lan Viên một thời đã làm biểu hiện hình ảnh sáng đẹp của Tổ quốc Việt Nam đồng thời với gương mặt và tâm hồn của Con người Việt Nam trong thời kỳ lịch sử mới: “Nay nhân loại gọi và ta nghe thời đại gọi”.

Việt Nam đã trở thành lương tri lương tâm thời đại.

Thơ Chế Lan Viên đã vượt lên nhiều thơ đương thời chính vì đã có sự cân bằng cần thiết của cả tình cảm và lý trí, giữa cái rực lửa và cái tươi xanh. Hoa ngày thường, Chim báo bão đã thể hiện khuynh hướng ấy, là những trang thơ làm dịu mát tâm hồn trong bão lửa chiến tranh.

Hồn thơ phong phú Chế Lan Viên đã nhập vào cơn bão lớn của thời cuộc. Tuy nhiên, hồn thơ ấy cũng rung động thiết tha sâu đằm với đời thường, với vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người.

Quan niệm thơ của ông cũng là ước nguyện chính đáng: thơ phải vừa là hầm chông giết giặc, lại vừa là cành hoa mát mắt cho đời. Có những xúc động trong tình cảm gia đình: Bé Thắm đàn, Con đi sơ tán, Súng bên bàn,… Những kỷ niệm không thể nào quên về cái bàn học năm xưa, quyển vở xưa,… nhưng nhìn khẩu AK dựng bên tường vẫn: “Giục con đi đến chiến hào/ Thiêng liêng nghe tiếng gọi đầu từ đây”.

Tình yêu đằm thắm, thủy chung, thiết tha, xao xuyến, thâm trầm trên những dòng thơ: Tình ca ban mai, Hoa đào nở sớm, Hoa trắng đỏ,…

Hùng ca xen lẫn với tình ca, vừa trí tuệ vừa trữ tình, tỉnh táo mà mê say… Đó là Hoa những ngày thường: “Lửa đạn, hoa mùa cứ nở… Yêu quá thành hoa chiến đấu”.

Thơ Chế Lan Viên như vượt qua thời gian, đã thể hiện được chân thật bộ mặt tinh thần con người Việt Nam yêu thương và chiến đấu một thời cho mãi mãi.

Chế Lan Viên có hai tập thơ giai đoạn sau này: Hoa trên đá (1984), Ta gửi cho mình (1986).

Đây là các tập thơ có những thay đổi quan trọng về tư tưởng và nghệ thuật, đi thẳng vào thế sự, mặc dù còn có âm hưởng sử thi. Khuynh hướng chính luận đã chuyển sang triết luận với suy tư, chiêm nghiệm về đời và thơ. Ba tập Di cảo thơ, trong đó hơn 300 bài vào mấy năm cuối đời được gom lại, công bố và đặc biệt, được nhận giải thưởng Hội Nhà văn năm 1994.

Nhà thơ phác họa thêm một số nét về con người nhân tình thế thái, trong đó có cả sự lưu giữ những tính cách tốt đẹp và những biểu hiện mới của tiêu cực xã hội thời kỳ hậu chiến vào đêm trước Đổi mới.

Chế Lan Viên vẫn mạnh dạn suy tư, sớm thay đổi nhận thức, dám “nghĩ lại”, “suy nghiệm lại” nhiều vấn đề lớn về cuộc đời liên quan đến chiến tranh, xây dựng. Đan lồng tự  nghiệm bản thân, nhà thơ tiếp tục phê phán những điều đáng phê phán, phủ định những cái đáng phủ định và khẳng định lý tưởng hướng tới tương lai.

Trước sau Chế Lan Viên vẫn là một nhà thơ kiên định, can trường và trung thành với lý tưởng cao đẹp, xứng đáng với vai trò lịch sử là người ca sĩ hào hùng của thời đại mới cách mạng

                                            *

Chế Lan Viên là một ngọn cờ cách tân của thơ ca hiện đại Việt Nam

Cuộc đấu tranh, vận động tự thân của Chế Lan Viên là một quá trình đầy quả cảm. .Khi đã có hướng rồi, nhà thơ bước hẳn vào quỹ đạo nghệ thuật mới và trang bị cho mình những quan niệm mới như vũ khí hiệu nghiệm để vào cuộc đấu tranh cho thắng lợi nghệ thuật cách mạng.

Trước hết là biểu hiện khuynh hướng đổi mới nghệ thuật Chế Lan Viên trong chặng đường thơ từ 1945 – 1975.

Thơ mang khuynh hướng chính trị nổi bật và bao trùm sáng tác. Đó là thơ lấy cảm hứng sáng tạo trực tiếp từ những sự kiện chính trị, đặc biệt là nổi lên trong thời đánh Mỹ

Thơ đồng thời thể hiện một quan niệm nghệ thuật mới về con người, về thế giới và lịch sử.Từ con người phi chính trị, con người cô đơn, siêu thoát trong thơ trước 1945 đến con người chính trị ­‑ nhân vật của thời đại mới là một sự phát hiện lớn lao, kỳ diệu.

Gửi các anh nhận ra con người quần chúng cách mạng. Ánh sáng và phù sa phát hiện con người lý tưởng tập thể. Những năm chống Mỹ, sáng tác thơ Chế Lan Viên nhận diện và tôn vinh con người khí phách dân tộc qua chủ nghĩa yêu nước anh hùng.

Thi pháp mới thể  hiện  qua cảm quan không gian và thời gian, nghệ thuật mới đa dạng, phong phú, linh hoạt, sinh động.

Tư duy thơ đảo lộn cách mạng: từ hướng nội chuyển qua hướng ngoại. Cái tôi khép kín đã bung ra,  hướng thẳng vào những vấn đề trọng tâm của dân tộc và thời đại. Đã có sự hòa hợp hai con người riêng – chung trong tâm hồn thơ. Ngôn ngữ thơ, giọng điệu thơ cũng thay đổi, biến hóa, đa âm sắc và  phức điệu hơn.

Âm hưởng chung là trữ tình cá nhân hòa lẫn trữ tình sử thi. Tài hoa qua trí tuệ, tâm tình gắn triết lý. Hùng ca hào sảng nổi lên vang dội, nêu bật lý tưởng dân tộc trong thời đại:..

Khuynh hướng vận động của thơ Chế Lan Viên từ sau 1975 đi vào một bước ngoặt mới.Chế Lan Viên từ khai thác lịch sử dân tộc chuyển về hướng thế sự - đạo đức trên thể tài trữ tình chính trị đã có đổi khác.Vẫn có âm hưởng của chiến đấu, nhưng là tái hiện chiến tranh, qua đó là sự chiêm nghiệm trên một tầm cao triết lý mới trên cơ sở nhận thức rõ đời sống đa đoan, đa sự, chuyện đời tưởng như bình thường mà có cả phức tạp, dữ dội.

Khuynh hướng tư duy hướng nội như sự đảo chiều với hướng ngoại .Nổi lên trong thơ là những triết luận nhân sinh. Ngôn ngữ mới mang chất đời hơn. Giọng trầm đã thay cho giọng cao. Nhà thơ vẫn hát ca mạnh mẽ nhưng sâu lắng, trầm tĩnh. Thực chất, đó là sự chuyển biến điệu  tâm hồn thi sĩ

.

Nhìn chung lại,có thể ghi nhận công lao và vai trò Chế Lan Viên trên một số phương diện nổi trội

            Thể tài trữ tình chính trị - trữ tình công dân ngày càng trở nên phổ biến.có đóng góp tích cực của Chế Lan Viên.

Khuynh hướng chính luận, triết luận đặc biệt nổi bật thời chống Mỹ là công lao dẫn đầu của nhà thơ trí tuệ giàu suy tưởng.

Cũng nổi bật là khuynh hướng hiện đại hóa thơ của Chế Lan Viên có ảnh hưởng sâu rộng trong phát triển thơ ca trên một số phương diện. Đặc biệt  là định hướng dân chủ hóa nhằm khai mở cho thơ tự do một sản phẩm đã định hình trên thi đàn mang đặc hiệu Chế Lan Viên.Thể nghiệm thơ văn xuôi cùng với thơ tự do thơ điệu nói mới. Đó là sự biến hóa của phú, cảo hịch thời văn học trung đại. Vẫn mang nét cổ điển, nhưng đã có thêm nét hiện đại được thể hiện đặc sắc trên thể thơ. Tứ tuyệt của Chế Lan Viên cũng bốn câu, nhưng chấp nhận cả 7,8 và tự do  .

Sau cùng mà cũng chính là trước hết, phong cách nghệ thuật thơ mang nét cơ bản trí tuệ suy tưởng tân kỳ đã và đang có ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều thế hệ đương đại.

***

Đời thơ Chế Lan Viên có ba ngọn tháp lớn - cụm tác phẩm đỉnh cao - ứng với ba thời kỳ: Điêu tàn Thơ không tên trước 1975; Ánh sáng và phù sa với Hoa ngày thường Chim báo bão và cụm thơ chống Mỹ (1955 – 1975), Di cảo thơ (3 tập).

Nhìn chung lại, nhà thơ hiện lên như một Ngọn tháp kỳ quan đồ sộ thi ca hiện đại.

Sự nghiệp thơ còn gắn liền với văn trước tác nghiên cứu, lý luận, phê bình đã khẳng định vị trí chắc chắn của nhà thơ lớn trong lịch sử văn học dân tộc.

Chế Lan Viên là nhà thơ tiêu biểu của thế kỷ - thế kỷ XX  bi tráng, anh dũng của dân tộc cũng là nhà thơ của những thế kỷ tương lai.

                                                     CHÚ THÍCH

(*) PGS.TS Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

                                          TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đoàn Trọng Huy (2006), Nghệ thuật thơ Chế Lan Viên – Đại học Sư phạm.

[2] Đoàn Trọng Huy (2007), Chế Lan Viên – Tinh hoa văn thơ thế kỷ XX – Giáo dục.

[3] Đoàn Trọng Huy (2009), Ngọn tháp kỳ quan Chế Lan Viên – nhìn từ hôm nay – Tạp chí Hồn Việt số 24.

[4] Đoàn Trọng Huy (2014), Chế Lan Viên – nhà tư tưởng làm thơ – Tạp chí Hồn Việt số 82.

[5] Nhiều tác giả (2000), Chế Lan Viên – Về tác gia và tác phẩm – Giáo dục.

[6] Nhiều tác giả (2000), Chế Lan Viên giữa chúng ta – Giáo dục, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

Sắp kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh Liệt sĩ, nhớ đến nhà thơ-liệt sĩ Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Ca Lê Hiến - Lê Anh Xuân, tôi xin trích trong Hồi ký đoạn nói về câu chuyện xin về Nam tham gia chiến đấu rồi hy sinh của em.

                                                                                              Nguyễn Long Trảo  

...Còn đối với Ca Lê Hiến, một thanh niên trí thức, một nhà thơ trẻ thì cái gì đã thôi thúc em đi “B”?

Từ một cậu bé sớm giác ngộ cách mạng, tham gia kháng chiến khi còn ở tuổi 12, theo cơ quan tập kết ra Miền Bắc lúc 14 tuổi, được nhà nước nuôi ăn học, sau khi tốt nghiệp phổ thông thi đổ vào đại học, tốt nghiệp hạng ưu, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, sau đó được cử đi nghiên cứu sinh ở Liên Xô nhưng em từ chối và xin được vào Nam tham gia chiến đấu.

   Ca Lê Hiến đã sống 10 năm trên một nửa nước độc lập tự do, trong khi quê hương Miền Nam ruột thịt, nơi chôn nhau cắt rốn của em vẫn bị chia cắt và đang ngập chìm trong máu lửa. Sống và làm việc trên đất Bắc, gắn bó thương yêu Miền Bắc bao nhiêu thì Ca Lê Hiến cũng thương nhớ và xót xa với những nỗi khổ đau của đồng bào Miền Nam bấy nhiêu, tình cảm và ý thức trách nhiệm đối với quê hương luôn thôi thúc, vẩy gọi em về:

        

        “Quê hương đang nước sôi lửa bỏng

Lẽ nào ta lại sống bình yên

Ôi ta thèm được tay cầm khẩu súng 

Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè

Nằm chờ giặc trên quê hương anh dũng

Ta say nồng mùi lá rụng bờ tre”.

     Cuộc sống ngày Bắc đêm Nam đã được giải tỏa khi theo lời kêu gọi của Đảng, Ca Lê Hiến đã đi đến một quyết định có thể nói là trọng đại trong cuộc đời: em từ chối việc được cử đi làm nghiên cứu sinh ở nước ngoài và làm đơn đề đạt với tổ chức xin được lên đường về Nam. Với quyết định này, em chấp nhận chia tay với tất thảy những gì thân thiết nhất: Cha mẹ, anh em bạn bè, thầy cô, kể cả người vợ chưa cưới thân yêu của em, người mà bóng hình được em giữ mãi trong tim suốt các năm dài.

 Đây là đoạn ghi nguyện vọng mà Hiến đã gửi lên đề đạt với tổ chức, kiên quyết và thiết tha được trở về Miền Nam tham gia chiến đấu:

 “Nguyện vọng và quyết tâm của tôi là được về Nam bộ tham gia kháng chiến cùng bà con quê hương trong ấy. Hiện nay chuyên môn của tôi là giảng dạy môn lịch sử thế giới cổ đại ở trường Đại học Tổng hợp, nhưng về miền Nam tôi có thể giảng dạy các môn khoa học xã hội cả Văn, Sử... Ngoài chuyên môn ra tôi có khả năng tham gia công tác báo chí hoặc sáng tác thơ. Ngoài công tác giáo dục tôi rất muốn được tham gia công tác về văn học nghệ thuật ở miền Nam. Tôi có thể đi đến bất cứ nơi nào Đảng cần đến. Nguyện vọng và quyết tâm của tôi là được về miền Nam, về lại quê hương tôi”.( Tờ 25-Hồ sơ 1429-Uỷ ban Thống nhất Chính phủ-Trung tâm lưu trữ Quốc gia III).

Trong lý lịch cán bộ, phần kê khai về gia đình, Ca Lê Hiến còn ghi rõ: “Tôi có vợ chưa cưới tên là Bùi Xuân Lan hiện đang học năm thứ ba Học viện Kinh tài Thượng Hải ( Trung Quốc ).”

Với tất cả sự nổ lực và quyết tâm ấy, đề nghị của em đã được tổ chức chấp thuận. Sau một thời gian khổ luyện hành quân trên đất Phú Thọ, ngày 22/12/1964 Hiến lên đường đi “B” với cái tên mới là Lê Lan Xuân, ghép chữ  Lê Hiến và Xuân lan - đảo ngược thành Lan Xuân; sau này vào chiến trường em lấy bút danh là Lê Anh Xuân. Riêng bút danh này tôi đoán có lẽ là chữ lót của tên 3 người: Lê của Lê Hiến, Anh của nhà văn Anh Đức- là anh ruột của Xuân Lan và là người đã nâng bước em trên con đường văn học nghệ thuật từ những ngày đầu và được em hết sức quí trọng, còn Xuân thì chắc chắn là của Xuân Lan rồi.

Đường hành quân vào Nam là thử thách đầu tiên đối với Ca Lê Hiến. Nếu như ngày nay, đi Hà Nội – TP.HCM bằng đường hàng không ta chỉ mất có 1 giờ 45 phút, còn đi bằng xe hơi thì cũng chỉ mất 2 ngày 2 đêm, thì hồi ấy cuộc vượt Trường Sơn phải kéo dài trong 3 tháng, hành quân vác nặng, trèo đèo lội suối, cơm vắt lá rừng, hiểm nguy chết chóc luôn cận kề. Với vóc dáng thư sinh, chân lại bị tê thấp, lòng bàn chân nứt nẻ, nhưng Ca Lê Hiến quyết chí đi đến cùng vì miền Nam ruột thịt, đi với “tinh thần anh Trỗi” như Ca Lê Hiến sau này từng kể lại với chị Quyên:

“...Ngay từ lúc còn ở trên Miền Bắc tôi đã đắm đuối nhìn tấm ảnh của anh Trổi in trên báo với tất cả lòng thương yêu và kính phục, tấm gương anh Trỗi làm tôi hết sức xúc động. Một tháng sau tôi làm một cuộc hành quân dài 3 tháng trường đi suốt từ Bắc vào Nam. Chính tôi đã đi với sức mạnh của anh Trỗi. Những lúc mệt quá, leo núi cao, hình ảnh của anh Trỗi đã tăng thêm sức mạnh cho tôi và tôi đã đi đến nơi!” ( Văn nghệ một thời để nhớ-Bảo Định Giang).

Vừa đặt chân đến Nam bộ, Ca Lê Hiến đã hứng chịu một trận bom và càn quét kinh hoàng. Em đã kể lại chuyện này trong bức thư gửi nhà thơ Chế Lan Viên:

“Lần đầu tiên vào Nam bộ, em chịu ngay một trận bom và phải chạy càn suốt bốn năm ngày liền. Có những giếng bom sâu bằng cái ao con, chính em trông thấy những đàn trực thăng rà sát trên đầu mà lúc ở ngoài ấy em cứ phải tưởng tượng”.

Nhưng Ca Lê Hiến đã hòa nhập rất nhanh vào không khí sôi sục chiến đấu và bắt tay ngay vào công việc. Đó là việc tham dự và viết về Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua Miền Nam lần thứ nhất, với kết quả là sự ra đời của tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người Anh hùng quân đội Miền Nam – liệt sĩ Nguyễn Văn Tư. “Giữ đất” là một trong hai tập văn xuôi hay nhất viết về Đại hội này, đã được Nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành năm 1966.

Cũng chính lần dự Đại hội này mà em đã ghi chép được biết bao câu chuyện về các anh hùng, chiến sĩ thi đua của lực lượng vũ trang giải phóng Miền Nam, làm tư liệu sống cho những bài thơ sáng tác sau này như: “Gặp những anh hùng”, “Không đâu như ở Miền Nam”, “Chào các anh, những người chiến thắng”,“Ánh đuốc”, “Anh đứng giữa Tháp Mười”, “ Qua Ấp Bắc” vv...Em cũng đã đúc kết được những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ giải phóng quân trong đó có một điểm sáng chói là ý chí tiến công tuyệt vời mà em đã ghi lại trong nhật ký: “Chủ lực: Liên tục tấn công với tinh thần cách mạng, đạp lên sắt thép, đạp lên đầu thù, đạp lên đầu địch tấn công, hy sinh còn tấn công, hy sinh với tư thế tấn công” ( Nhật ký Lê Anh Xuân- ngày 14/9/1967).

Và phải chăng cũng từ cảm nhận đó mà sau này, khi bắt gặp hình ảnh người chiến sĩ đặc công Nguyễn Văn Mao đã anh dũng hy sinh trong trận đánh vào sân bay Tân Sơn Nhất vẫn với tư thế đang đứng bắn, em đã cảm xúc viết nên bài thơ bất tử “Dáng đứng Việt Nam”, ca ngợi lòng dũng cảm tuyệt vời của người chiến sĩ Giải phóng quân:

         “...Bởi anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

           Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.”

    Những tháng ngày về thâm nhập thực tế chiến trường tại quê hương Bến Tre, em đã ngày đêm lặn lội đi khắp các xóm ấp để tìm hiều từng người thật, việc thật, cần mẫn ghi chép vào nhật ký hầu như không sót một điều gì mà em bắt gặp hoặc nghe thấy để chuẩn bị tư liệu cho các sáng tác của mình. Có thể kể một số bài:

-“Gửi anh Tư” ( tức anh hùng liệt sĩ Nguyễn Văn Tư), gởi lòng thương nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng chân đất.

- “ Cô gái đưa đò” ca ngợi gương dũng cảm và mưu trí của cô giao liên trên sông An Hóa, bất chấp hiểm nguy và mưu trí thay nhiều màu áo để kẻ địch không nhận biết được bóng dáng con người cô.

- “ Lão du kích”, một điển hình về lão du kích nông dân miền Nam anh dũng và mưu trí dánh giặc.

- “ Người mẹ trồng bông” sớm chiều yêu thương và âm thầm chăm sóc nghĩa trang liệt sĩ.

- “ Qua cầu” tặng 12 cô gái Bến Tre đã lấy vai làm cầu đỡ cho bộ đội đi qua.

- “ Cây chông tre” với hình ảnh cỏ cây cũng tham gia giết giặc.

- “ Đuốc lá dừa” nói về một cô giáo dũng cảm, dám lao vào lửa bom na-pan cứu các em bé và hy sinh.

- “ Cô xã đội” ( Út Tiết), nghe ca nông còn bịt tai, nhưng đã tay không lấy bót giặc.

- “ Bông trang đỏ” kể về một bà mẹ kiên trì anh dũng, mưu trí, nuôi giấu cán bộ, bị địch bắt đánh mù cả hai mắt vẫn tiếp tục tham gia chiến đấu và đã hy sinh anh dũng.

- “ Ánh lửa trên sông” nói về em giao liên tên Trì, đã anh dũng nhảy qua tàu địch, tự cho nổ bộc phá, làm cháy tàu và cháy cả thân mình.

 vv....đều là những con người bình dị nhưng rất đỗi anh hùng.

    Trong thời gian gần 4 năm về tham gia chiến đấu ở miền Nam, Ca Lê Hiến đã sáng tác 37 bài thơ được in trong tập “Hoa Dừa” dày khoảng 100 trang, một bài “Trường ca Nguyễn Văn Trổi” với khoảng 1500 câu thơ và tập văn xuôi “Giữ đất” nói về người anh hùng Nguyễn Văn Tư ở Bến Tre. Chính những sáng tác thơ, văn đã đưa em vào hàng ngũ những văn nghệ sĩ tên tuổi đương đại, và đất nước cũng đã ghi công em bằng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

 Các bài thơ của em, càng đọc càng thấy thích đọc, người đọc không có cảm giác như đọc một bài thơ đã được làm sẵn, mà như nghe em đang tâm tình, khơi gợi, với giọng mê say trong trẻo, nhỏ nhẹ chân tình, rót sâu vào tâm tư tình cảm. Tôi đã đọc đi đọc lại nhiều lần những bài thơ Lê Anh Xuân viết khi trở về chiến đấu ở Miền Nam, nhất là trong thời gian ở Bến Tre, có những bài hầu như tôi đã thuộc lòng. Rất tiếc vì trang in có hạn không thể ghi lại tất cả để mọi người cùng đọc, cùng thưởng thức vì nó rất đáng. Thôi thì cứ lấy ra mấy bài, tuy không phải là đặc sắc nhất, nhưng mỗi bài là một câu chuyện chứa chan tình cảm yêu thương:

                                        

                           BÔNG TRANG ĐỎ

                Dừa Bến Tre bốn mùa xanh mát

                Sông Hàm Luông ca hát sớm chiều

                Hát rằng: Hỡi mẹ kính yêu

                Cuộc đời mẹ đẹp như màu bông trang.

 

                Nhà mẹ đó một gian nhà nhỏ

                Mẹ cắm bông trang nhỏ mà thờ

                Phải chăng mẹ nhớ bóng cờ

               Các con tập kết bao giờ về đây?

 

               Trên bàn thờ khói bay hương tỏa

               Dưới bàn thờ ai có biết chăng?

               Mẹ nuôi cán bộ dưới hầm

               Mẹ nuôi hy vọng, mẹ mong có ngày...

 

              Ôi quê hương đêm dài tang tóc

              Lũ chó săn rình rập bên hè

             Mà lòng bà mẹ Bến Tre

             Là nơi cán bộ đi về sớm hôm.

 

             Một tay mẹ nấu cơm, kho cá

             Nuôi các con, nuôi cả phong trào

            Có lần quân giặc ập vào

            Mâm cơm vừa dọn, giấu đâu bây giờ?

 

            Mẹ bình tỉnh giả đò thổi lửa

            Rồi bưng mâm đặt giữa bàn thờ

            Lâm râm mẹ khấn nhỏ to

            Hương nhang thơm cả bàn thờ tổ tiên.

 

            Lời mẹ khấn: nhắn tin con biết

            Vừa cầu mong con được bình an

            Lắng nghe lũ giặc xa dần

            Bưng mâm nhìn các con ăn, mẹ cười.

 

           Đêm không ngủ, mẹ ngồi mẹ gác

          Nghe tàu dừa xào xạc ngoài hiên

          Giật mình đau nhói trong tim

          Tưởng đâu quân giặc nửa đêm ập vào.

 

          Đêm ấy...mưa đổ rào như thác

          Chồng vừa đi công tác ghé về

          Mẹ mừng mẹ khép cửa tre

          Bỗng đâu súng giặc bốn bể nổ ran.

 

         Ôi lòng mẹ ngổn ngang trăm mối!

         Mười năm sau mẹ lại mất con

         Xác con mẹ vớt bên cồn

         Nửa đêm bó chiếu lén chôn sau nhà.

 

       “ Chồng tao chết oán thù chưa hết

         Nay con tao cũng chết, vì ai?

         Thù xưa lại đến thù nay

         Tây đi, Mỹ đến một bầy sói lang”.

 

            Mẹ ngồi gác mịt mùng đêm tối

            Vết thương xưa đau nhói từng cơn

            Nhìn bông trang đỏ như son

            Nhớ con đã khuất, thương con bây giờ.

 

            Có các con mẹ như trẻ lại

            Nuôi các con – nuôi mãi niềm tin

            Mẹ ngồi gác giữa đêm đen

            Nghe gà gáy sáng, bốn bên rạng dần.

 

            Ôi mùa xuân, mùa xuân đồng khởi

            Tiếng mõ vang, lửa nổi xa, gần

            Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?

            Rừng dừa lộng gió, Hàm Luông sóng gầm.

 

            Chúng con bật nắp hầm đứng dậy

            Bọn ác ôn run rẩy đầu hàng

            Mẹ ơi! Mẹ có thấy chăng?

            Thù xưa đã trả cho chồng, cho con.

 

            Nhưng mắt mẹ chẳng còn nhìn thấy

            Một bữa kia mẹ tới Mỏ Cày

            Tại thằng phản bội cung khai

            Quân thù bắt mẹ, mấy ngày khảo tra.

 

            Giặc đánh mẹ, mẹ la, mẹ chửi

            Phun bã trầu vào bọn ác ôn

            Không khai, mẹ cố chịu đòn

            Mắt già giặc đánh mấy hôm đã mù.

 

            Đêm Đồng khởi lòng già mừng quá

            Đánh mõ tre, đánh cả vào tay

            Mắt mù lòng mẹ vẫn say

            Tay đau chẳng nhớ, đêm dài chẳng quên.

 

            Con thương mẹ mắt nhìn đêm tối

            Khi bình minh mẹ đã mù rồi

            Mẹ ơi! Ánh mắt mặt trời

            Mặt sân dừa rụng biết bao oán hờn.

 

             Mẹ khuất rồi cỏ non xanh mộ

             Nước hố bom gợn sóng rừng dừa

             Mẹ nằm  năm tháng gió mưa

             Mà bông trang đỏ vẫn chưa phai màu.”

                                                     12-1965

                     

                             NGƯỜI MẸ TRỒNG BÔNG

                 Tôi gặp mẹ ở nghĩa trang An Thới

                 Tay nhẹ nhàng mẹ xới, mẹ vun

                 Mẹ ngồi giữa những hàng cúc trắng

                 Tóc mẹ và bông gió thổi rung.

 

                Chỗ mẹ ngồi xưa là nền bót

                Giặc bắn, giặc đâm xác chất thành cồn

                Đêm đêm cùng bà con trong ấp

                Mẹ vượt rào khiêng xác đem chôn.

 

                Những nấm mộ chôn thầm, chôn lén

                Không có bia, không một cành bông

                Nghĩa trang chính là lòng của mẹ

                Nơi anh hùng yên nghỉ có mùi hương.

 

                 Hôm nay đồn giặc không còn nữa

                 Trời thênh thang, đồng lúa chín vàng

                 Mẹ ngồi giữa hàng bông rực rỡ

                Cỏ mùa xuân xanh mướt nghĩa trang.

 

                 Mẹ nhớ rõ tên từng ngôi mộ

                 Mộ Giải phóng quân cạnh Vệ quốc đoàn

                 Ôi các anh đã khuất rồi nằm đó

                 Mà vẫn thẳng hàng như một đoàn quân.

 

                 Mẹ kể, đã mấy lần phản lực

                 Mang đạn bom trút xuống nghĩa trang

                 Mẹ cùng với bà con trong ấp

                 Đã mấy lần dập lửa na-pan.

 

                 Và hôm nay chiều nghĩa trang rất đẹp

                Mộ anh hùng nắng dát vàng tươi

                Bông mẹ trồng không sợ gì sắt thép

                Đã vươn cao thơm mát cả da trời.

 

                 Bông mẹ trồng là lòng mẹ, mẹ ơi!

                          

                                                          11-1965

                        ÁNH LỬA TRÊN SÔNG

                Hoàng hôn thuyền đậu bến sông

                Chờ khi đêm xuống vượt dòng Cổ Chiên

 

                 Em Trì, em nhỏ giao liên

                 Dáng trai  nhanh nhẹn, mắt đen hay cười

                 Em đang té nước nghịch chơi

                 Giật mình cá nhảy thơm mùi phù sa

                 Sáng chiều như có khói nhòa

                 Một vùng man mác bao la nước trời

                 Bần như rặng liễu xanh tươi

                 Bóng soi nước biếc, sóng dồi thiết tha

                 Hỏi em, em đã mất cha

                 Cha ra đánh Pháp thường qua sông này

                  Bây giờ đánh Mỹ con thay

                  Lại làm liên lạc ra  tay chống chèo

                  Mịn màng đêm xuống trong veo

                  Từng chùm đom đóm vàng treo trên cành

                  Ấy là lúc sóng réo quanh

                  Hiên ngang thuyền nhỏ băng mình trong đêm

                  Ấy là lúc trước mũi thuyền

                   Bóng em khắc đậm giữa nền trời sao

                   Vai em ướt đẵm sóng trào

                   Lặng im em vẫn dõi vào đêm khuya

                   Mắt em ngắm, tai em nghe

                   Từng cơn sóng cuộn, từng bè lá trôi

                   Ở đây tàu Mỹ ngược xuôi

                   Máu người còn đấy, xác người còn đây

                    Thù xưa cùng với thù nay

                    Nén trong thủ pháo hai tay em cầm

                    Thuyền đi máy vẫn rì rầm

                     Dịu dàng lòng trẻ vẫn thầm ước mong:

                   “Bình yên thuyền cập bến sông

                     Thì em mừng lắm, còn mừng nào hơn

                     Qua sông nguy hiểm chẳng sờn

                      Đạn bom em vượt, sóng cồn em qua”

                      Bỗng đâu một ánh đèn pha

                      Như thanh kiếm vụt chói lòa mắt em

                      Đạn tàu vây đỏ quanh thuyền

                      Tay cầm thủ pháo ngực em phập phồng

                       -“Dẫu em có chết giữa dòng

                       Mấy anh còn sống thì lòng em vui”

                       Tàu thù vừa ập đến nơi

                       Em Trì tôi đã ngang trời đứng lên

                       Giọng em vút ngọn sóng rền

                       Thanh thanh như tiếng chim chuyền cành xanh:

                        -“Bác Hồ ơi, cháu hy sinh!”

                        Nói rồi em vụt lao nhanh qua tàu

                        Sông bừng lửa đỏ, thuyền chao

                        Cổ Chiên dồn dã sóng gào không nguôi

                         Em trì hỡi! Em có vui?

                         Đáy sông xác giặc chìm rồi em nghe

                         Thôi em ở lại anh đi

                         Giết xong giặc Mỹ anh về thăm em

                         Thôi em ở lại Cổ Chiên

                         Quê hương, sóng vỗ ru em bốn mùa

                         Bình yên thuyền đã đến bờ

                         Xa còn thấy bóng em thơ giữa dòng

                         Sáng ngời anh lửa trên sông.

                                                                 10-1967

    Nói thật là khi đọc và chép lại các bài thơ về Bến Tre của Hiến bao nhiêu lần mắt tôi bị nhòe vì xúc cảm, mỗi bài thơ là một câu chuyện lay động lòng người, là một tấm gương anh hùng người thật việc thật, không hề hư cấu. Cũng nghĩ rằng đây đâu phải là những câu chuyện chỉ riêng có ở Bến Tre thuở quê hương Miền Nam đang còn ngập chìm trong máu lửa.

Tôi vẫn cứ chép tiếp:

                        

                       EM GÁI ĐƯA ĐÒ

               Em mười tám tuổi giao liên

               Trên sông An Hóa ngày đêm đưa đò

               Khi trưa nắng, lúc chiều mưa

               Đò em vẫn nối hai bờ dừa xanh.

 

                Một lần trời mới bình minh

                Em đưa lực lượng biểu tình qua sông

                Vì sao giặc bắn, giặc ngăn

                Qua sông em chẳng ngại ngần vì sao?

 

                Em nghe đạn rít qua đầu

                Mà em vẫn đứng bóng cao giữa trời

                Mái chèo giặc bắn gãy đôi

                Buông chèo thoăn thoắt em bơi bằng dầm

 

                Qua sông, đò vẫn qua sông

                Tìm em, quân giặc đừng hòng tìm em

                Áo em như có phép tiên

                Đò qua mấy chuyến áo em mấy màu

                Lúa vàng, vàng rực như sao

                Lúa xanh, xanh biếc như màu tóc em

                Lửa hồng như máu trong tim

                Trái tim dũng cảm vượt trên đầu thù

                Lúc đen, màu áo chiến khu

                Lúc em trắng áo học trò thương yêu

                Lúc như hoa tím trời chiều

                Thủy chung màu áo, trong veo tâm hồn.

 

                 Trên sông súng vẫn nổ giòn

                  Đò em vẫn lướt sóng dồn hai bên

                  Trùng trùng người chật như nêm

                  Đội quân “đầu tóc” xông lên ào ào

                  Đò xong, em vội cắm sào

                   Bóng em thoắt đã nhập vào đoàn quân

                   Hỡi em – cánh én mùa xuân

                   Hòa trong muôn vạn anh hùng Miền Nam

 

                   Vẫy vùng một chiếc đò ngang.

                                                           

                                                              10-1965

                                                                     

                                   QUA CẦU    

                                    

                    Sao anh lại bước ngập ngừng

                 Vai em dù nặng đâu bằng vai anh

                 Một đêm dưới nước ngâm mình

                 Tụi em lạnh ít, mấy anh lạnh nhiều

                 Hỡi anh giải phóng thân yêu

                 Thương anh khi sớm, khi chiều hành quân

                 Vai anh khiêng súng tím bầm

                 Đường xa mưa ướt mấy lần, anh ơi!

                 Gốc tràm chân bật máu tươi

                 Thương anh lội nước Tháp Mười mênh mông

                 Đi đi, anh cứ qua sông

                 Đừng lo cầu nổi bềnh bồng, anh nghe!

                 Vai em đỡ, tay em ghì

                 Em kềm thật chắc, anh đi yên lòng

                 Đi đi, anh cứ qua sông

                Kịp giờ nổ súng, em mừng, em vui

                Dưới sông ngực đập bồi hồi

                Mười hai cô gái, mười hai nhịp cầu

                Mặt sông ánh một trời sao

                 Mắt em lấp lánh, sao nào đẹp hơn?

 

                 Hành quân lòng bỗng bồn chồn

                 Qua cầu lại nhớ vai tròn của em.

                                                       10-1966

                                          LÃO DU KÍCH

Tuổi lão ngoài sáu mươi                       Vóc người còn khỏe lắm

Lão nói chuyện rất vui                          Giọng lão cười sang sảng.

 

Cả ngày lão ở trần                                 Ngang lưng lận bao thuốc

Đầu bịt chiếc khăn rằn                          Tay lão cầm mác vót.

 

   Cuộc đời lão thuở xưa                          Kể hoài không hết khổ

Lão như chiếc lá khô                            Hận thù cao hơn núi.

 

Năm ba mươi, bốn mươi                       Lão có treo cờ đỏ

Trống đình thúc liên hồi                       Chính một tay lão đó.

 

Dạo đánh Pháp chín năm                      Lão vô chân “ tự vệ”

Sau mỗi trận thắng càn                         Lão hoa tay hát bộ.

 

Bây giờ lão ngồi đây                            Vót mũi chông bén ngọt

Mỗi lần nghe máy bay                          Lão vung cây mác vót:

 

-“Mặc phản lực lộn nhào                      Lão đây đâu có sợ

Chỉ gãy vài cây cau                              Lão vót làm chong đó”.

 

Rồi lão kể tôi nghe                               Chuyện đánh ong vò vẽ

Mặt thằng Mỹ sưng vù                         Giọng lão cười rất khỏe.

 

Nào chuyện đắp pháo đài                    Lão đòi lên pháo kích

Lũ trẻ nhìn lão cười                           -“Ngắm súng phải mang kiếng”

 

Chuyện lão cùng thằng con                Căng dây chì trên lộ

Chờ lũ xe ác ôn                                  Vướng dây rơi xuống hố.

 

Nghe chuyện tôi hình dung                Tay lão cầm mác vót

Vỗ đùi nhảy lên đường                       Bắt bảo an sát bót.

 

Lão nói lão già rồi                              Mỗi lần đi đánh giặc

Lão chỉ cần ít thôi:                              Rượu trắng xin vài hớp.

 

Thấy tôi nhìn ngôi nhà                       Cột kèo trây đất sét

Lão khoái chí gật gù                           Rồi ôn tồn giải thích:

 

“Mỹ dội bom na-pan                          Lão trị bằng cách ấy

Đưng, lá cháy mấy lần                       Nhưng cột kèo không cháy”.

 

Tôi bỗng thấy lạ lùng                         Một ngôi nhà lá nhỏ

Ôi bùn đất Việt Nam                          Mạnh hơn bom đạn Mỹ.

 

Tôi nhìn kỹ ngôi nhà                          Rồi nhìn lão ngồi đó:

Lưỡi mác lóe trời xa                           Râu dài rung trắng xóa.

 

                                                                                    1-1966

Và còn rất nhiều bài nữa, mà mỗi bài là một gương chiến đấu anh dũng của những người con của mảnh đất Miền Nam anh hùng. Trong đó không thể không nhắc đến bài thơ bất hủ “ Dáng đứng Việt Nam” tạc hình người chiến sĩ giải phóng quân Việt Nam bình dị mà anh hùng, tạc hình đất nước Việt Nam là đất nước anh hùng của thế kỷ; một bài thơ đã đưa tên tuổi em vào những trang sử sáng chói của nền văn học Việt Nam hiện đại.

                       DÁNG ĐỨNG VIỆT NAM

                        ----------------

“Anh ngả xuống trên đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và anh chết trong tư thế đang đứng bắn

Máu anh phun theo lửa  đạn cầu vòng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công.

Anh tên gì hỡi anh yêu quý

Anh đứng lặng im như bức tường đồng

Như đôi dép dưới chân anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong.

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.

Tên anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

5-1968

   Nhưng Ca Lê Hiến vẫn chưa mãn nguyện với những trang thơ đã viết, em vẫn cảm thấy cần phảỉ có mặt ngay giữa cuộc chiến đấu đang rất ác liệt để có thể nói lên nhiều hơn nữa những điều kỳ diệu về con người Việt Nam, về đất nước Việt Nam. Đây là bức thư ngắn của em gởi cho Viễn Phương, với lời lẽ hết sức tha thiết xin được ra mặt trận:

“ Chúng em đã xuống đây rồi, không thể nào trở về không cho được. Xin các anh cho chúng em đi một chuyến ngắn, một chuyến rất ngắn, chỉ vài ngày thôi để biết hơi thở của chiến trường rồi chúng em sẽ trở về căn cứ. Không đi xuống vùng sâu thì không thể nào chúng em có được tác phẩm tốt về cuộc tổng công kích lịch sử này. Chúng em vẫn bám trụ ở đây, và chờ các anh cho người qua đón”.

Nguyện vọng được chấp thuận, em hăng hái quảy ba lô lên đường. Nhưng đâu có ai ngờ rằng đây lại là chuyến đi định mệnh, em đã hy sinh vài ngày sau đó, và hành trình thơ của em cũng phải dừng lại với bao dự định sáng tác đang còn ấp ủ. Đó là lần xuống chiến trường tham gia đợt II cuộc Tổng tiến công Mậu Thân, trong ba lô còn nguyên vẹn quyển nhật ký được em ghi chép đều đặn từ khi bước chân ra đi trên đất Bắc cho đến 24-5-1968 là ngày hy sinh của em, vào độ tuổi  28 xuân xanh.

Được tin em hy sinh, người vợ chưa cưới của em - Xuân Lan, khi đó đang ở Hà Nội, đã nói lên lòng mình bằng những dòng thơ sau đây:

                             MỐT CUỘC ĐỜI

Mười chín tuổi, tôi gặp lại anh

Không kịp nghĩ gì mà như không còn gì để nghĩ

Ngoài một cảm xúc rộn ràng bỡ ngỡ

Muốn nhìn anh, muốn đến bên anh

Không, cũng không hẵn là như thế

Bởi ánh mắt anh sao như mời gọi:

 “Đến với anh đi. Hãy đến bên anh”

Hai chúng tôi đã cùng đến.

 

Rất  ngắn và cũng rất dài

Mọi vật như ngưng lại

Đất trời như chưa tồn tại bao giờ

Chúng tôi đã đến bên nhau như thế

Giản dị, thiêng liêng, tràn dâng như sóng bể

Vui sướng, yêu thương, hạnh phúc ngập tràn

Cả hai rạng rỡ như chưa bao giờ rạng rỡ

Như thế...và cũng chỉ là thế

Bởi chúng tôi quá trẻ, quá khát khao

Cuộc sống hôm nay, cho cả mai sau

Không một lời, mà ánh mắt đã trao:

Hảy chờ nhau!

 

Hai ngày sau

Tôi và anh, mỗi người một phương xa lắc

Tôi bay lên bắc, anh vượt về nam

Đường tôi đi thênh thang rộng mở

Trong bình yên, tôi được nuôi dưỡng nên người

Từng tháng năm đằng đẵng trôi

Cũng từng tháng năm đong đầy thương nhớ!

Trong khắc khoải, tôi mong ước đợi chờ

Tôi vẫn sống, đã sống như triệu người đang sống

Mà tim vẫn vang vọng gọi người:

“Anh đang ở đâu? Anh ở đâu?”

 

Bởi đường vô Nam, anh đi trong lửa đạn

Đói rét, ốm đau, bệnh tật

Chết sống cận kề trong gang tấc

Anh cứ đi và vẫn sống những ngày như thế

Vẫn cùng đồng đội súng trong tay

Cùng vẽ lên những trang sử hùng oai

Cùng viết lên những vần thơ cháy bỏng

Ca ngợi con người, ca ngợi cuộc sống.

 

Anh vẫn đi tiếp bước về phía trước

Mãi đi như thế, anh cứ đi

Cho đến khi tim anh ngừng đập

Một cuộc đời chỉ hăm tám năm thôi

Mà sao đáng sống như người đã sống

Và anh đã nằm sâu trong lòng đất

Đã hiến dâng cho Tổ quốc bình yên:

Cả cuộc đời

Một khối óc

Một trái tim.

                                               XUÂN LAN

                                      Hà Nội tháng 12-1968

                         ( Được tin anh hy sinh ngày 24-5-1968)

  

Và cũng suốt mấy mươi năm từ ngày đất nước được giải phóng, năm nào cũng như năm nào, cứ đến Tết và ngày giổ của Ca Lê Hiến, cho dù đã có gia đình riêng nhưng Xuân Lan luôn có những bó hoa đẹp nhất đem đặt trước mộ Hiến với những giọt nước mắt âm thầm, lặng lẽ...

1.

       Thiền sư Nhất Hạnh là một tác gia lớn của văn hóa Việt Nam. Ông cũng là một nhà thơ hiện diện trong đời sống văn học đã hơn sáu thập niên. Ngoài ba tập thơ xuất bản thời trẻ mà trước đây ít người được biết (Tiếng địch chiều thu, NXB Long Giang, Sài Gòn, 1949; Ánh xuân vàng, ký bút danh Hoàng Hoa, NXB Long Giang, Sài Gòn, 1950; Thơ ngụ ngôn, ký bút danh Hoàng Hoa, NXB Đuốc Tuệ, Sài Gòn, 1950); trước năm 1975, thơ Nhất Hạnh chủ yếu công bố trên các tạp chí Phật học (Phật Giáo Việt Nam, Hải Triều Âm, Thiện Mỹ, Liên Hoa, Hướng Thiện, Giữ Thơm Quê Mẹ…), và hai tập thơ đặc sắc là Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiện (NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1965) và Tiếng đập cánh loài chim lớn (NXB Lá Bối, Sài Gòn, 1967). Cả hai tập đều ấn hành không có giấy phép của chính quyền Việt Nam Cộng hòa: tập đầu in nhiều lần, phổ biến rộng rãi; tập sau, do một trận hỏa tai, gần như tuyệt bản.

       Thơ Nhất Hạnh còn đi vào công chúng bằng con đường âm nhạc của Phạm Duy, Phạm Thế Mỹ và chính tác giả cũng phổ nhạc cho lời thơ của mình. Nhiều bài thơ của Nhất Hạnh được dịch ra tiếng Anh, tiếng Pháp, thậm chí phổ biến qua những thư ngỏ quảng bá hoạt động từ thiện. Ở nước ngoài, cùng với tuyển tập Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt (NXB Lá Bối, Walnut Creek, California, 1996) được ấn hành, ông đã có bảy tập thơ được chuyển ngữ: Vietnam Poems (Unicorn Press, Santa Barbara, Hoa Kỳ, 1967); The Cry of Vietnam (Unicorn Press, Santa Barbara, Hoa Kỳ, 1968); Le Témoin reste (Phái đoàn Phật giáo Việt Nam tại Paris xuất bản, Pháp, 1970); Zen Poems (Unicorn Press, Greensboro, Hoa Kỳ,1976); De Schreeuwvan Vietnam (Uitgeverij Ten Have, Baarn, Hà Lan, 1995); Call me by my true name (Parallax, San Francisco, Hoa Kỳ, 1995); En passant le pont (La Boi Editeur, Walnut Creek, California, 2002)[1].

         40 năm sau ngày hòa bình và 10 năm sau chuyến trở về nước lần đầu của tác giả, thơ Nhất Hạnh mới chính thức trở lại với đời sống văn học trong nước qua trọn bộ bốn tập gồm Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt, Tiếng đập cánh loài chim lớn, Truyền đăng tục diệm, Thơ học trò (NXB Hội Nhà văn và Phương Nam Book, 2015). Sự tái xuất hiện này có thể nói là khá muộn màng so với nhiều nhà thơ ở miền Nam khác (Nguyên Sa, Bùi Giáng, Phạm Thiên Thư, Hoài Khanh, Phạm Công Thiện, Trụ Vũ, Viên Linh, Tuệ Sỹ, Du Tử Lê, Hoàng Trúc Ly…), ngay cả so với những sáng tác và trước tác khác của chính Nhất Hạnh, như Bông hồng cài áo, Nói với tuổi hai mươi, Nẻo về của Ý… và hàng loạt sách về Phật học.

         Khi chuẩn bị viết bài này, tôi chủ ý tìm đọc những bài viết về thơ Nhất Hạnh và nhận thấy những nghiên cứu về thơ ông, tuy có những ý tưởng sâu sắc như của Morgan Gibson[2], Đặng Tiến[3]…, nhưng chưa thật tương xứng so với tầm vóc của tác phẩm. Sự quan tâm bàn luận dành cho hành trạng và sự nghiệp lập ngôn về Phật học của Nhất Hạnh - thiền sư nhiều hơn là dành cho tiếng nói nghệ thuật của Nhất Hạnh - thi sĩ. Cuốn sách quan trọng giúp bạn đọc hiểu được bối cảnh sáng tác và thông điệp của thơ Nhất Hạnh là Thử tìm Dấu chân trên cát của Chơn Không Cao Ngọc Phượng (NXB Lá Bối, 1980). Ở miền Nam trước 1975, Thế Uyên Nguyễn Kim Dũng là soạn giả đầu tiên và duy nhất đưa tác phẩm văn xuôi của Nhất Hạnh vào sách giáo khoa. Cũng vì tái xuất hiện muộn màng mà thơ Nhất Hạnh chưa thành đối tượng nghiên cứu trong các trường đại học và chưa được nhắc đến nhiều trong không gian học thuật.

        Tôi cố gắng tìm câu trả lời về nguyên nhân của tình hình đó. Và trong khi tìm câu trả lời, tôi cũng rút ra cho mình mấy nét phác thảo về đặc trưng thơ Nhất Hạnh khiến ông trở thành một cõi thơ riêng, giữ một vị trí khác biệt trong thơ ca Việt Nam hiện đại, mà có lẽ sự dè dặt từ phía những nhà phê bình không chỉ vì lý do chính trị.

2.

        Là sáng tạo của một thiền sư, thơ Nhất Hạnh không nằm ngoài truyền thống thơ Thiền Việt Nam khởi đi từ thời Lý – Trần với Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Mãn Giác… Những công trình khảo cứu của ông (Việt Nam Phật giáo sử luận, Thả một bè lau…) cho thấy một trí huệ sâu sắc và uyên áo về truyền thống Thiền học trong văn chương cổ điển Việt Nam. Đối với thơ hiện đại, ông thật tinh nhạy khi chọn ra để bình giải những câu thơ mang đẫm chất Thiền vị của Quách Thoại, Trụ Vũ… Và với tư chất thi sĩ, cảm hứng Thiền học là một nguồn cảm hứng lớn của thơ ông. Những bài thơ Sở y (“Nương tựa vào đâu/ Pháp trần hình thành/ Trên sắc thanh hương vị xúc/ Nét chữ xóa đi trong bản nháp tưởng tượng/ Xóa đi hay không cần xóa đi/ Nương tựa/ Tìm đâu chốn về?/ Ưng vô sở trụ”), Đại trượng phu (“Cửa tùng đôi cánh khép/ Một mũi tên sáng loáng lìa dây cung/ Lao vút tới/ Mặt trời nổ tung/ Đầy sân hoa cam rụng/ Phảng phất bóng vô cùng”), Padmapani (“Mười bông hoa trên trời/ Mười bông hoa dưới đất/ Sen nở trên mi Bụt/ Sen nở trong tim người/ Bồ tát cầm đóa sen/ Dáng nghiêng trời nghệ thuật/ Trên cánh đồng sao mọc/ Nụ cười trăng mới lên/ Tàu lá dừa màu ngọc/ Vắt ngang lưng trời khuya/ Tâm đi trong tĩnh mặc/ Bắt gặp chân như về”) là những bài thơ Thiền không lẫn vào đâu được. Đó là những bài thơ Thiền thuần túy nằm trong các tập Dấu chân trên cát, Chắp tay nguyện cầu cho bồ câu trắng hiệnTiếng đập cánh loài chim lớn. Nhất Hạnh còn có ba tập thơ Thiền trọn vẹn là Tích môn bản môn, Truyền đăng tục diệmNến ngọc. Ít nhiều có tính chất minh họa cho kinh Phật, ba tập thơ này đòi hỏi người đọc phải có kiến thức sâu sắc về Phật học mà bản thân chúng tôi tự thấy chưa đủ sự chuẩn bị để tiếp nhận.

        Nhưng sẽ thiếu sót nếu chỉ đi tìm chất Thiền trong những bài thơ thuần khiết đó. Bởi một trong những nét độc đáo của thơ Nhất Hạnh là chất Thiền hòa kết nhuần nhị với chất Đời. Nếu đạo Phật đi vào cuộc đời là hành trình xuyên suốt của tư tưởng Nhất Hạnh, thì thơ Thiền rút từ tinh chất của đời sống và trở về với đời sống là một hệ quả tất yếu. Nhất Hạnh nhiều lần dạy chúng ta tập thở như một phương pháp trị liệu (Thở vào, tâm tĩnh lặng/ Thở ra, miệng mỉm cười…): thơ ông là hơi thở tại thế mà cũng là hơi thở tự thiền môn.

        Nói thơ Thiền gắn liền với đời sống như trên cũng là cách nói sách vở, như muốn chứng minh cho một nguyên lý văn học: năng tri không tách rời sở tri. Nhất Hạnh có những bài thơ vượt lên trên cả năng tri và sở tri, khi sự chưng cất đạt đến độ viên mãn thành những khái quát nghệ thuật mà không phải là minh họa cho Phật học. Một dẫn chứng tiêu biểu là bài thơ Đề Thiền Duyệt Thất ông gửi lại cho Hòa thượng Thanh Từ trước ngày giã từ Phương Bối Am: Gối nhẹ mây đầu núi/ Nghe gió thoảng hương trà/ Thiền Duyệt tâm bất động/ Rừng cây dâng hương hoa/ Một sáng ta thức dậy/ Sương lam phủ mái nhà/ Hồn nhiên cười tiễn biệt/ Chim chóc vang lời ca/ Đời đi về muôn lối/ Quan san mộng hải hà/ Chút lửa hồng bếp cũ/ Ấm áp bóng chiều sa/ Đời vô thường vô ngã/ Người khẩu Phật tâm xà/ Niềm tin còn gửi gắm/ Ta vui lòng đi xa/ Thế sự như đại mộng/ Quên tuế nguyệt ta đà/ Tan biến dòng sinh tử:/ Duy còn Ngươi với Ta.

3.

         Làm thơ từ lúc 12 tuổi, khi còn là một chú tiểu, Nhất Hạnh đã cảm nghiệm và chứng thực tất cả những khổ đau của dân tộc và kiếp người (Này bạn hỡi, hãy cùng tôi đi viếng/ Những cảnh đời u uất dưới trần gian/ Những đau thương rền rĩ cháy tâm can/ Trên mặt đất thương tâm còn diễn tả…, Con đường thoát khổ). Thơ Việt Nam hiện đại không hiếm những tác phẩm tái hiện những bước đi trầm luân của đất nước và con người, nhưng có lẽ Nhất Hạnh là tác giả làm chứng bền bỉ nhất, mạnh mẽ nhất, bằng ngôn ngữ thơ ca, những khổ nạn trên quê hương, do chiến tranh và thiên tai ập đến những mái tranh nghèo, những gầm cầu xó chợ và những phận người trôi dạt.

         Trong hoàn cảnh cực đoan, những thăng trầm lịch sử, những bi kịch đau xót, dù chỉ gợi lên như những nét vẽ của tâm cảnh, cũng không tránh được sự cắt nghĩa từ những chỗ đứng khác nhau, thậm chí xung đột với nhau. Thơ văn Nhất Hạnh từng rơi vào vòng xoáy đó và đã gây ra không ít ngộ nhận về thế đứng của ông trong cuộc chiến tương tàn trước đây. Cả công cuộc vận động cho hòa bình Việt Nam của ông cũng gây ra không ít ngộ nhận, khi đứng trước phán xét: có lợi cho ai? Đối thoại – cánh cửa hòa bình, Hoa sen trong biển lửa, In search of the enemy of man (addressed to Martin Luther King) với ngôn ngữ chính luận, từng bị phán xét như vậy. Huống chi là ngôn ngữ hàm súc của thơ, với những phân vân mơ hồ giữa “ngữ thái” và “ngữ ý”, khiến cho những câu thơ như “con rắn hổ mang uống xong giọt sương khuya trên đầu ngọn cỏ, bỗng cảm thấy tiêu tan nọc độc trên lưỡi mình/ và những mũi tên tẩm thuốc của loài ma nở thành bông hoa khi bay đến” từng bị xem như những ẩn dụ mang dụng ý chính trị[4]. Tác phẩm Nhất Hạnh từng bị chỉ trích từ cả hai phía trong cuộc tranh chấp, thậm chí vào năm 1980 có người đã viết: “Tập thể Phật tử bây giờ mà mất Nhất Hạnh thì cũng như không mất gì” (!).

         Việc phân tích và đánh giá thơ Nhất Hạnh không thể thoát khỏi hoàn cảnh cực đoan đó, hoàn cảnh chưa phải đã được hóa giải cho đến bây giờ. Người bình luận thơ Nhất Hạnh có thể vẫn còn mắc vào những tình huống gây ngộ nhận từ công chúng, bởi vì không dễ gì có sự đồng thuận giữa người viết và người đọc, để cùng vượt lên những từ ngữ mà vươn tới chất thơ như kết tinh của văn hóa, như vượt qua ngón tay để hướng tới mặt trăng. Sự dè dặt, cho đến lúc này, là điều dễ hiểu.

4.

        Nhất Hạnh không chỉ là nhà thơ, cũng không chủ yếu là một nhà thơ. Ông là nhà tư tưởng, là cây bút chính luận triết học và Phật học, là nhà văn xuôi nghệ thuật, nhà hoạt động văn hóa và xã hội, người tham gia sáng lập Trường Đại học Vạn Hạnh, nhà xuất bản Lá Bối, các tạp chí Phật giáo, Dòng tu Tiếp Hiện, Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội, cơ sở tu trì Làng Mai… Ông là thiền sư mà cũng là giáo chủ một môn phái.

        Đánh giá thơ Nhất Hạnh là đánh giá triết thuyết của ông và đụng chạm đến những tư cách ngoài tư cách nghệ sĩ của ông, đụng chạm đến cả những người tán thảnh, cổ vũ hay phản đối, nghi kỵ môn phái của ông. Sự ngần ngại, e dè càng có thêm lý do của nó.

        Mặt khác, muốn cảm và hiểu thơ Nhất Hạnh, phải đặt trong toàn bộ sáng tác và trước tác của ông, đặc biệt là những sách bàn về Thiền học, về duy thức học… Đó là cả một khối lượng công trình đồ sộ. Nhất Hạnh cần có một cây bút chuyên nghiệp viết tiểu sử và khảo sát toàn bộ tác phẩm của ông, nay đã vượt con số trăm. Những tác gia văn học có sự nghiệp lớn lao như vậy ở nước ta rất hiếm (Tô Hoài, Nguyễn Hiến Lê…), có ảnh hưởng ở tầm mức thế giới như ông lại càng hiếm.

        Cũng như những tác phẩm thơ ca đích thực, thơ Nhất Hạnh vừa kỵ sự lý giải bằng những lý thuyết, lại vừa cần sự phân tích để nối dài ý nghĩa của những văn bản đa nghĩa. Trong văn bản nghệ thuật của Nhất Hạnh có nhiều yếu tố liên văn bản cần được soi sáng để tìm mối tương quan: với Kinh Phật, với văn hóa dân gian, với Truyện Kiều, cả với Kinh Thánh… Mượn cách nói của Nguyễn Ngọc Lan, một người bạn cùng lý tưởng hòa bình thuở hàn vi của ông, thế giới nghệ thuật của Nhất Hạnh không phải là những “pháo đài”, mà là những con đường mở về những chân trời của văn hóa.

5.

        Trong kho tàng trước tác của Nhất Hạnh, duy thức học là lãnh vực có liên quan sâu sắc và mật thiết với sáng tác thơ ca của ông. Có thể nói Nhất Hạnh cùng trong dòng khảo cứu duy thức học, một bộ môn độc đáo, uyên áo và khó hiểu nhất của tư tưởng Phật học, với các Hòa thượng Trí Độ, Trí Quang, Thiện Siêu, Thiện Hoa… Nhất Hạnh đã đưa duy thức học đến với công chúng bằng cách diễn đạt sáng rõ và dễ tiếp thu nhất có thể, qua những cuốn sách: Nẻo vào Thiền học, Vấn đề nhận thức trong duy thức học, Giảng luận duy biểu học… Ông còn khai triển duy thức học bằng ngôn ngữ hình tượng, như khi viết một chương trong Nẻo về của Ý, tái hiện hình ảnh người thiền sư đứng trước khu vườn trong một đêm sương, thấy mình nhập thân vào cỏ cây hoa lá.

          Thật thú vị, khi hơn một lần, Nhất Hạnh xác nhận sự gặp gỡ của duy thức học Phật giáo với hiện tượng luận của Husserl. Mở đầu cuốn Vấn đề nhận thức trong duy thức học, tác giả viết:

“Duy thức học (Vijnànavàda) là một cánh cửa hiện tượng luận mở nhìn vào vấn đề thực tại tuyệt đối, tức là vấn đề chân như (tathatà). Chữ hiện tượng luận ở đây có thể hiểu đúng theo nghĩa mà Husserl đã dùng. Người ta thường cho thức (Vijnàna)   là sự hiểu biết, là sự lĩnh hội, là tâm hay là ý thức. Nhưng trong khi dùng những tiếng ấy, người ta cứ có khuynh hướng nghĩ rằng thứcchủ thể nhận thức, chủ thể tư duy, là một thực thể tâm lý tồn tại độc lập ngoài đối tượng, Tuy nhiên, theo duy thức học, thức không phải là cái chủ thể nhận thức hay là chủ thể tư duy ấy. Duy thức học cho rằng một thực thể tâm lý không thể tồn tại độc lập với đối tượng của nó được. Thức bao hàm cả chủ thể nhận thức lẫn đối tượng nhận thức. Quan niệm này, tuy thế, không phải là nền tảng của một khách quan duy tâm luận. Nhận thức bao giờ cũng là nhận thức một cái gì, vì vậy không thể có thứ “thức” thuần chủ thể. Ta phải nhớ điều căn bản này nếu muốn đi sâu vào duy thức học”[5].

          Ở đây, có thể suy nghĩ về vấn đề này trên mấy khía cạnh:

          Một, như vậy là duy thức học gần với quan niệm về tính ý hướng của Franz Brentano và Edmund Husserl: ý thức là ý thức về một đối tượng và đối tượng là đối tượng cho một ý thức. Năng tri là năng tri về một sở tri, nó ban phát ý nghĩa cho sở tri; ngược lại, sở tri là sở tri trong tương quan với năng tri, nó mang tính ý hướng của năng tri. Đó là quan hệ giữa Noèse và Noème (corrélation noético-noématique) theo tinh thần hiện tượng luận. Trong viễn cảnh một triết học chủ toàn, duy thức học và hiện tượng luận xóa nhòa ranh giới giữa chủ và khách, ngã và tha, căn và cảnh. Trong Nẻo về của Ý, Nhất Hạnh viết:

“Trong lòng đêm thâu hay trong lòng nhận thức cũng vậy, khóm trúc, cây hoa đại đang đóng vai trò đối tượng sở duyên, chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức không thể rời nhau. Và ngoài kia, núi sông, trời đất, những ngôi sao lớn nhất, và thực hữu, và mặt trời của tôi cũng chỉ nằm trong lòng nhận thức. Đột nhiên thời gian và khoảng cách tự tiêu diệt, tan biến. Đột nhiên năng và sở tan biến. Đột nhiên diệt và sinh tan biến. Dù em có xa cách muôn vạn do tuần thì muôn vạn do tuần ấy cũng được nối liền trong một lần hư trần. Dù cho bách thiên vạn kiếp thì bách thiên vạn kiếp ấy cũng trở về nối liền với hiện tại trong một sát na. Hiện hữu của em tự nhiên trở về bừng hoa nơi nhận thức tôi. […] Tôi biết là em còn đó vì tôi còn đây và tôi biết tôi còn đây vì em còn đó. Nếu có thì năng duyên và sở duyên cùng có, nếu không thì năng duyên và sở duyên cùng không”[6].

          Hai, hiện tượng luận kêu gọi “giản lược”, épochè, chế ngự phán đoán có sẵn, tạm gác vấn đề, cho vào ngoặc đơn để đưa sự vật trở về với sự vật và xuất hiện như một hiện tượng, nghĩa là cái bày ra trước ý thức và được ý thức chứng nghiệm. Duy thức học cũng kêu gọi “phá chấp”, nghĩa là xóa bỏ những thiên kiến và ảo tưởng, để đón nhận sự vật như nó tự biểu hiện ra. Không phải ngẫu nhiên mà đến một tác phẩm sau, Nhất Hạnh gọi duy thức học bằng tên mới là “duy biểu học”. Ông nhắc lại: “Chủ thể nhận thức là năng duyên hay là năng tri hoặc là kiến phần. Năng duyên là phần chủ thể. Cũng vậy nếu không có tướng phần của thức thì không có chủ thể của nhận thức. Vì vậy khi hiển hiện ra thì sở duyên là điều kiện tất yếu của thức”[7].

          Ba, những gì mà Franz Brentano, Edmund Husserl, Theodor Lipps… khám phá và khẳng định vào cuối thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, thì duy thức học Phật giáo đã đề cập từ trong Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa; từ tư tưởng của Huyền Trang,  Chân Đế… Hơn nữa, duy thức học không dừng lại ở sự kết nối giữa năng tri và sở tri, mà quan trọng là kết nối tâm, ý và thức để phóng chiếu lên sự vật, đồng thời với việc sự vật hồi chiếu lên tâm, ý và thức của ta. Đó chính là sự tương tức của tâm và cảnh, nội giới và ngoại giới, không phải như hai thực thể biệt lập mà như hai mặt của một thực thể toàn vẹn.

          Như vậy, duy thức học/ duy biểu học Phật giáo không chỉ bao hàm nhận thức luận triết học mà còn đặt nền tảng cho một viễn tượng lý thuyết về sáng tạo và tiếp nhận nghệ thuật, trong đó có sáng tạo và tiếp nhận thi ca.

6.

         Trong tinh thần đó, duy thức học có thể giúp ta phần nào cảm thấy dễ hiểu hơn một số hình tượng, cấu tứ và ngôn từ trong thơ Nhất Hạnh. Trong Trường ca Avril, ông viết: Em không phải là Tạo Sinh mà chỉ là Biểu Hiện, nghĩa là em không tự mình mà có, em “chỉ là một phần của hiện hữu vô thỉ vô chung” và em chỉ là em trong phút giây này khi “Avril về trong rừng cây trang nghiêm”. Bài Phổ nhập triển khai ý tưởng về tương quan giữa “tôi” và thế giới: Mặt trời đã đi vào trong tôi/ Mặt trời đã đi vào với đám mây và dòng suối/ Tôi đã đi vào dòng suối/ Tôi cũng đã rủ mặt trời cùng đi/ Chúng ta không lúc nào không tương nhập/ Trước khi mặt trời đi vào trong tôi/ Tôi đã có mặt trời/ Tôi đã có đám mây và dòng suối/ Trước khi tôi đi vào dòng suối/ Dòng suối đã có sẵn tôi/ Chúng ta không lúc nào không tương tức/ Bởi vậy chừng nào em còn thở/ Thì em đừng bảo là tôi không có trong em. Bài Vòng tay nhận thức là một cách thi hóa chương sách trong Nẻo về của Ý đã nói trên kia: Tôi biết là em còn đó, vì tôi còn đây/ Vòng tay nhận thức, vô lượng do tuần, nối liền diệt sinh năng sở/ Và tôi đã thấy/ Trong lòng đêm thâu hay trong lòng bao la nhận thức/ Của em, cũng như của vườn hoa lá/ Tôi đã tự bao giờ, vẫn là duyên thân sở duyên/ Diệu hữu lời ca chân không mầu nhiệm.

         Nếu thử làm một thống kê từ vựng học, thì có lẽ trong thơ Nhất Hạnh, ngoài những từ xưng hô, hai từ xuất hiện với tần số dày nhất là “thương yêu” và “mầu nhiệm”. Tình thương yêu tự nó là sự mầu nhiệm. Nhưng mầu nhiệm cũng tỏa sáng trên nhiều hiện tượng của trần gian, trong đó có sự tương tức, phổ nhập và hóa thân. Bởi vì trăng không có ngã/ Và bởi vì người ngắm trăng không có ngã/ Cho nên cả trăng và người ngắm trăng đều là thực tại nhiệm mầu (Ngắm trăng). Tôi là con phù du thoát hình trên mặt nước/ Và là con chim sơn ca mùa xuân về trên sông đón bắt phù du/ Tôi là con ếch bơi trong hồ thu/ Và cũng là con rắn nước trườn đi/ Tìm cách nuôi thân bằng thân ếch nhái/ Tôi là em bé nghèo Ouganda bao xương sườn đều lộ ra, hai bàn chân bằng hai ống sậy/ Tôi cũng là người chế tạo bom đạn/ Để cung cấp kịp thời cho các dân tộc Á Phi (Hãy gọi đúng tên tôi). Tôi hóa thân vào vạn vật và vạn vật hóa thân vào tôi, vậy tôi là một với thế gian này, cho nên tôi chịu trách nhiệm với tất cả.

7.

          Nhất Hạnh bắt đầu làm thơ khi thi ca Việt Nam có sự chuyển biến về thi pháp để tìm cách thay đổi hình thức của Thơ Mới đã dần cạn nguồn sinh lực. Ông vẫn làm thơ lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ, thơ vắt dòng, nhưng tỉ lệ thơ tự do ngày càng tăng. Ông đưa ngôn ngữ Phật học vào thơ, làm thơ văn xuôi, thơ triết lý. Những yếu tố cách tân về thể thơ và ngôn ngữ xuất hiện trong thơ Nhất Hạnh không muộn hơn thơ Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên, Quách Thoại, Nguyên Sa… là mấy; nhưng tại sao khi nói đến sự cách tân trong thơ ca Việt Nam hiện đại, người ta nhắc đến những nhà thơ này hơn là Nhất Hạnh? Phải chăng vì Nhất Hạnh vẫn được xem là thiền sư hơn là thi sĩ, thơ ông như là cái bóng của tư tưởng Thiền học và gần với đạo đức, văn hóa hơn là nghệ thuật?

         Vậy Nhất Hạnh là thi sĩ hay thiền sư, hay thiền sư – thi sĩ? Phải chăng ông là thiền sư hóa thân vào thi sĩ. Có lẽ thơ ông là sự hóa thân mầu nhiệm của Thiền học vào văn chương, của lịch sử vào nghệ thuật, của văn xuôi vào thơ ca, của biểu hiện vào thông điệp, của hiện hữu vào ngôn thuyết.

         Tôi đọc thơ Nhất Hạnh từ năm 14 tuổi. Hồi học lớp 9, tôi đã trích dẫn thơ ông trong một bài báo Xuân in ronéo ở Trường Trung học Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Từ ấy đến nay tôi vẫn thuộc và yêu những câu thơ đẹp một cách giản dị đó: Mười năm vườn xưa xanh tốt/ hai mươi năm nắng dọi lều tranh/ mẹ tôi gọi tôi về/ bên bếp nước rửa chân/ hơ tay trên bếp lửa hồng/ đợi cơm chiều khi màn đêm buông xuống (Bướm bay vườn cải hoa vàng). Tôi biết có những nhà nghèo/ nhưng trấu hồng ngún cháy ngày đêm/  trong bếp hồng âm ỉ/ tôi sẽ nhớ lời em không quấy động bếp lành/ một nắm rơm đặt vào/ đợi khói tỏa màu xanh/ em nhìn xem: chỉ một hơi thở nhẹ của hồn tôi thôi/ cũng đủ gọi về lửa đỏ (Xóm Mới). Từ ấy đến nay tôi vẫn tâm nguyện viết một bài trọn vẹn về thơ Nhất Hạnh, nhưng bây giờ thì tôi biết mình không viết nổi. Sau gần nửa thế kỷ, tôi đã học được nhiều lý thuyết văn nghệ, nhưng nếu có ai hỏi vì sao đối với tôi đó là những câu thơ hay, thì tôi cũng đành im lặng.

  HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

 


[1] Ghi lại theo sách Nhất Hạnh (1996): Thơ từng ôm và mặt trời từng hạt, NXB Lá Bối, Walnut Creek, California, tr. 6.

[2] Morgan Gibson (1996): “Lời Bụt cất lên từ vùng đất đau thương” (Tịnh Thủy dịch), in trong Nhất Hạnh: Sđd, tr. 323-328.

[3] Dang Tien (2002): “Préface”, in trong Thich Nhat Hanh (2002): En passant le pont, La Boi Editeur, Walnut Creek, California, tr. 3-5.

[4] Xem Chơn Không Cao Ngọc Phượng (1980): Thử tìm Dấu chân trên cát, NXB Lá Bối, tr. 103.

[5] Nhất Hạnh (1969): Vấn đề nhận thức trong duy thức học, NXB Lá Bối, Sài Gòn, tr. 10.

[6] Nhất Hạnh (1972): Nẻo về của Ý, NXB An Tiêm, Sài Gòn, t. 176.

[7] Nhất Hạnh (không ghi năm xuất bản): Giảng luận duy biểu học, NXB Lá Bối, tr. 258.

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Xuân Đinh Dậu.

KỶ NIỆM 30 NĂM NGÀY MẤT NGUYỄN TUÂN

Đoàn Trọng Huy (*)

Đã có nhiều ý kiến bàn luận về Nguyễn Tuân và cái đẹp [5, tr 179 – 185, tr 219 – 226]. Nhà văn lớn Nguyễn Tuân được mệnh danh là “Người săn tìm cái đẹp” (Nguyễn Thành), hoặc “Người đi tìm cái đẹp, cái thật” (Nguyễn Đình Thi) [5].

Các nhà thơ lớn, nhà văn lớn thường có hẳn một hệ thống quan niệm thẩm mỹ, mang nét độc đáo. Vì vậy, để thấu đáo trong dư luận văn đàn, có thể và cần bàn về mỹ học của Nguyễn Tuân. Nói cách khác, cần xem xét kỹ về chủ thể thẩm mỹ với các phạm trù biểu hiện và đối tượng thẩm mỹ với đặc tính và các phạm trù của nó trong sáng tác của Nguyễn Tuân.

YYY

I/ HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM LÝ TƯỞNG THẨM MỸ CỦA NGUYỄN TUÂN

Sự đổi đời, đời sống và đời nghệ thuật của văn nghệ sĩ thời tiền chiến có một “trục bản lề” lịch sử – Cách mạng tháng Tám 1945.

Nguyễn Tuân cũng không phải là ngoại lệ. Ông quan niệm cái mốc lịch sử ấy đã tạo ra sự Lột xác kỳ diệu của bản thân.

Hành trình nghệ thuật của Nguyễn Tuân được xác định một cách đại thể là từ Nghệ thuật vị nghệ thuật đến Nghệ thuật vị nhân sinh.

Tuy nhiên, như giới nghệ sĩ đã nhận định: Nguyễn Tuân là một “hiện tượng” phức tạp. Do đó, con đường đi từ “nghệ thuật cũ” đến “nghệ thuật mới” cũng phức tạp, không hề đơn giản. Có lúc thẳng tắp, trơn chu cũng có lúc quanh co, gập ghềnh.

Lột xác ( tên cũ là Vô đề ,Tạp chí Văn mới, 1945) là tâm sự chân thành rất mực, tuy nhiên không tránh khỏi nét bồng bột, cực đoan. Quả lắc đồng hồ tâm lý phải khuynh tả một chút trong cơn dao động thời cuộc...: “Mày huỷ diệt hết những con người cũ ở trong mày đi – những con người mà mày mệnh danh là cố nhân... Đào thải chưa đủ. Phải tàn sát. Giết, giết hết. Thò đứa nào ở dĩ vãng hiện về đòi hỏi bất cứ một tí gì của mày bây giờ, là mày phải giết ngay. Mày phải tự hoại nội tâm mày đi đã” [4, tr 343].

Đây là cái gìờ nghiêm trọng của đời Nguyễn trong không khí: “Ngoài đường, cuộc Cách mệnh đang bước dài trên khắp ngả phố”. Đó là giờ khắc tuyệt giao giữa Mới và Cũ. Ở Chùa Đàn vẫn còn là lưu luyến với một cái đẹp hư ảo trong mối xung đột giả tưởng: “Cho tới ngày nay, chưa có cuộc Cách mệnh nào của Con Người mà bỏ được tiếng hát” [4, tr 404].

Dù sao, đây mới là tâm sự và chuyển biến nghệ thuật của nhà văn trong buổi đầu khi tiếp xúc và tiếp nhận cách mạng.

Chặng thứ hai tiếp sau mới là chặng Đường vui.

Cách mạng dần dần giải thoát tâm hồn nghệ thuật cho Nguyễn Tuân, đưa nhà văn đến với nhân dân và cuộc sống chiến đấu. Tuy nhiên, quá trình chuyển biến cũng diễn ra không hẳn là đơn giản, dễ dàng.

Có thể nói – từng bước, từng bước trên đại lộ của cuộc đời mới và nghệ thuật mới, Nguyễn Tuân dần dần tiếp cận, và nhận ra được cái đẹp chân chính thật sự tiến bộ. Ý thức thẩm mỹ được hoàn thiện cùng với sự kiên định lý tưởng thẩm mỹ mới.

Từng là một nhà duy mỹ có hạng, môn đệ trung thành của thuyết Nghệ thuật vị nghệ thuật, chuyển sang quan điểm nghệ thuật và quan niệm thẩm mỹ mới tiến bộ ngày nay, Nguyễn Tuân đã thực sự tiến hành một cuộc “cách mệnh” bản thân khổ ải như một trận “Lột xác”. Căn bệnh cũ, đã bằng cách nào hay cách khác, chỉ rình rập, tái phát, phải mất bao công phu, phòng ngừa và chữa trị mới có thể tiệt nọc!

Thật là chông chênh giữa hoài cổ với tôn sùng nét văn hoá truyền thống, cũng mong manh là giới hạn giữa thưởng thức tinh tế hương vị, cảnh sắc quê hương, đất nước với thứ nhấm nháp dư vị cổ xưa. Nhưng nguy hiểm hơn cả, là sự trỗi dậy của một cái tôi cá nhân vị kỷ, kênh kiệu và ngông ngạo trên sự đời, và tình người, để “khinh thế ngạo vật” như anh chàng Nguyễn ngày nào. Cũng rất vất vả là sự dấn thân để tìm ra những cái đẹp chân thật, quý giá trên đời bằng tấm lòng thành thực và trí tuệ sắc sảo.

Chỉ từ những năm 60, đặc biệt là những năm chống Mỹ, nhà văn mới bước vào thời kỳ chuyển biến thực sự trên hành trình nghệ thuật theo  lý tưởng thẩm mỹ mới. Ấy là do kết quả của những trải nghiệm thực tế, thực tâm đi vào đời sống lao động, sản xuất và cả tiếp cận với hoạt động chiến đấu qua cuộc kháng chiến hào hùng vào bậc nhất của lịch sử dân tộc.

Tuy nhiên, trên dư luận văn đàn, đã từng có những luồng ý kiến nhận xét và đánh giá chưa thật thấu đáo và thoả đáng về nhà văn.

Đó là khuynh hướng đơn giản, có phần nào phiến diện khi đánh giá hành trình chuyển biến nghệ thuật của Nguyễn Tuân là triệt để, thông thuận, hoặc nhấn mạnh về một vài phương diện nào đó trong thể hiện lý tưởng thẩm mỹ hoàn chỉnh. Như nặng về công lao, nhà văn tìm kiếm, phát hiện mà nhẹ phần cống hiến sáng tạo cái đẹp. Hoặc như tôn vinh cái đẹp, cái thật chưa tương xứng với cái tốt.

Một khuynh hướng gây nhiều hệ luỵ và cả phản ứng với chính nhà văn là giáo điều, áp đặt. Những ý kiến đánh giá kiểu này thường thiếu cả lý và tình, có định kiến, xơ cứng, máy móc ảnh hưởng của xã hội học dung tục. Có bạn văn viết về Cảnh sắc và hương vị đất nước trong văn Nguyễn Tuân, đã nhận xét: “... tác động của xu thế phê bình văn học một thời làm ông chột dạ” [5, tr 218]. Thực ra, Nguyễn Tuân rất dị ứng với lốphê bình ấy.

II/ VỀ CHỦ THỂ THẨM MỸ

Nói một cách tóm tắt theo lý luận văn học, thì chủ thể thẩm mỹ là chủ thể xã hội, có khả năng hưởng thụ, sáng tạo và đánh giá thẩm mỹ. Chủ thể thẩm mỹ là các nghệ sĩ, các nhà văn và cả những ai có tiềm ẩn những năng lực thẩm mỹ như cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ và có hoạt động thẩm mỹ ngoài nghệ thuật. Và như vậy, là hết sức đa dạng, phong phú.

Nguyễn Tuân là một chủ thể thẩm mỹ đặc biệt. Bởi vì, nhà văn lớn có thể ví  là “chủ thể của chủ thể”, có vai trò và vị thế của chủ thể thưởng thức và sáng tạo, đánh giá và định hướng thẩm mỹ. Trong chừng mực nhất định, ông còn bao quát cả biểu hiện thẩm mỹ và tổng hợp nhiều năng lực thẩm mỹ. Ấy là vì, trên tất cả, nhà văn có cốt cách và năng lực của một nghệ sĩ tài hoa, một nhà văn hoá đầy bản lĩnh.

Nguyễn Tuân quả là một nhà nghệ thuật đa tài trên phương diện văn chương, ngôn ngữ và cả biểu diễn. Riêng về văn thì đã hội đủ chất văn thơ, nhạc hoạ và cả kịch, phim – rất hiện đại nữa.

Nguyễn Đình Thi đã tôn vinh Nguyễn Tuân là “một bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ”. Còn Tố Hữu thì nói đại ý, coi nhà văn là người “thợ kim hoàn” về chữ nghĩa.

Am hiểu nghệ thuật và dấn thân cả trong nghệ thuật âm thanh, ánh sáng và diễn xuất, Nguyễn Tuân được mệnh danh là con người tài hoa: Tuân tài tử màn ảnh và sân khấu (Thiên Trường), “Nhà văn – diễn viên Nguyễn Tuân” (Trương Quân), Nguyễn Tuân - diễn viên sân khấu (Đình Quang), Hát ả đào đêm xuân (Hoàng Cầm),... [5]. Dù là nghệ sĩ trên trang viết, hay tài tử trên sàn diễn, cả hai đều nhất quán trong một ngôn ngữ nghệ thuật đặc trưng.

Nguyễn Tuân là người có ý thức thẩm mỹ đầy đủ và sâu sắc bậc nhất,. Đó là ý thức như một hệ thống hoàn chỉnh các thành tố cảm xúc thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ, và nhất là quan niệm và lý tưởng thẩm mỹ.

Nhà văn có đầy đủ các trạng thái rung động một cách trực tiếp và cảm tính trước các hiện tượng thiên nhiên, đời sống và nghệ thuật – tức có được một cảm xúc thẩm mỹ mạnh mẽ. Qua đó, nhà văn đã khám phá ra vẻ đẹp của thế giới và con người và cái đẹp khách thể  và của chính mình.

Từ Vang bóng một thời, ta như thấy được sự khám phá vẻ đẹp xưa – đến các tác phẩm ký, tuỳ bút trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ chính là sự phát hiện vẻ đẹp chân chính và tiến bộ ngày nay (Tuỳ bút kháng chiến và hoà bình, tập I – II; Sông Đà; Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi; Cảnh sắc và hương vị đất nước;...), Nguyễn Tuân đã thể hiện một biệt tài về tìm kiếm và thể hiện cái đẹp muôn hình, vạn trạng để dâng hiến cho đời. Đối tượng thẩm mỹ kích thích cảm xúc thẩm mỹ của chủ thể, nhưng lại có sự nhập cảm của ý thức chủ thể vào đối tượng.

Con sông thơ mộng và dữ dội đã trở thành dòng chảy huyền thoại, người lái đò vật lộn thác lũ đã trở thành dũng sĩ – nghệ sĩ nhờ ngòi bút tài hoa của nhà văn (Sông Đà). Đừng vui, Bài ca trên mặt phần đường hay chính đó là khúc hát tâm hồn của tác giả ? Cánh B.52 rụng xuống một thôn hoa Hà Nội  phải chăng, là luận đề minh triết về sự đối lập giữa thiện và ác, chính nghĩa và phi nghĩa, là hình ảnh tượng trưng kỳ thú về đối chứng “huỷ diệt” và “tái sinh”, về sự sống trên cái chết của nhà mỹ học uyên thâm. Nhà văn tham gia đóng phim Chị Dậu của Ngô Tất Tố, hứa sẽ đóng một vai người  Hà Nội trong phim Luỹ Hoa của Nguyễn Huy Tưởng, nhưng qua những cảnh tượng của núi sông, miền biên giới hay giới tuyến, nhà văn cũng đã tạo ra những  cận cảnh, những đoạn dựng – montage – như điện ảnh.

Nhiều tác phẩm có những tiềm năng lớn cho chuyển thể thành những đoạn phim. Từ “cái biển hoa ấy đong đưa hương lộng... lũng hoa kỳ diệu” để nói lên tâm hồn Á Đông qua câu thơ của Nguyễn Du: “Hương gây mùi nhớ” (Hương hồng Bungari). Rồi, giữa trời Âu lại làm dậy lên cái hương thơm ngào ngạt của đặc sản dân tộc – Phở. Đây cũng là cái biệt tài độc đáo của nhà văn – nghệ sĩ từng một đời say mê với thanh sắc và hương vị, mà tâm hồn tràn đầy năng lực mỹ cảm.

Nguyễn Tuân từ khi “tập làm bài” (Lời của Nguyễn trong Lột xác), đến lúc “làm bài” đã dần xác định một quan niệm thẩm mỹ chính xác và tiến bộ.

Trên các bình diện, thì quan niệm thẩm mỹ thiên về tư tưởng, trong khi cảm xúc thẩm mỹ thiên về tình cảm, thị hiếu thẩm mỹ lại thiên về sở thích.

Tuy nhiên, theo Hégel trong công trình Mỹ học (1835), coi hoạt động thẩm mỹ là một trong những hoạt động cao nhất của trí tuệ, thì sự thật điều thiện được liên kết chặt chẽ trong cái đẹp...

Như vậy, Chân – Thiện – Mỹ  có mối quan hệ mật thiết hữu cơ với nhau.

Mỹ học của Hégel mới được quan niệm trong phạm vi nghệ thuật, được quan niệm là triết học cũa nghệ thuật. Giờ đây, mỹ học hiện đại được quan niệm ở phạm vi phổ quát – cả về nghệ thuật và tự nhiên. Quan niệm thẩm mỹ có quan hệ với quan niệm nghệ thuật. Quan niệm nghệ thuật được coi là hạt nhân của quan hệ thẩm mỹ – vừa là kết quả, vừa có tác động đến sự chuyển biến đối với quan niệm thẩm mỹ, và còn ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học.

Nguyễn Tuân đã trải qua cuộc tranh luận nghệ thuật khởi phát từ năm 1935, và sau này  ông nhận ra sai lầm một cách chân thành là đã theo phái vị nghệ thuật :   “ Mình phải nhận cái tội của mình như thế” [5, tr 161].

Nêu luận đề “Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp”, hoặc “Nguyễn Tuân là người đi tìm cái đẹp và cái thật” là để nhấn mạnh mỹ cảm mãnh liệt như đam mê một đời của ông. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ hơn, ta có thể thấy rằng, khi cầm bút, tuy còn có phần chưa thật đầy đủ và sâu sắc, nhưng nhà văn đã thể hiện được trách nhiệm nhất là lương tâm của người viết.

Chữ người tử tù (Tạp chí Tao đàn số 1, 1/3/1939) có lúc đã được coi là một ví dụ điển hình của cảm xúc duy mỹ, tập trung miêu tả cái đẹp của hoa tay – tức cái đẹp thiên về hình thức. Khi đọc kỹ, ta sẽ thấy điều gần như ngược lại. Ở đây, nhà văn ca ngợi cái đẹp của lòng người. Nổi bật trên tất cả là hai chữ thiên lương. Ý tưởng viết rất rõ.

Qua con mắt “biệt nhỡn” của viên quản ngục, Huấn Cao hiện rõ là thuộc hạng người khí phách: “chọc trời khuấy nước”, những dòng chữ đẹp “nói lên những cái hoài bão tung hoành của một đời con người”. Hầu như tất cả đất trời tôn “một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn tụt xuống phía chân giời không định”. Và mọi âm thanh phức tạp của cuộc đời như “bay cao lần lên khỏi mặt đất tối, nâng đỡ lấy một ngôi sao chính vị, muốn từ biệt vũ trụ”.

Quả là những lời ca ngợi tuyệt vời về sự ra đi của một con người chính nhân quân tử, một chính khách hiệp sĩ. Chúng ta đều biết – Huấn Cao, đây cũng chính là bóng dáng tượng hình của Cao Bá Quát – một bậc Thánh Văn, và người hùng tham gia vào khởi nghĩa nông dân, chống lại triều đình đương thời với chính sách hà khắc, gây bất công xã hội làm con người đau  khổ.

Lời khuyên nhủ như bừng sáng, soi rọi con đường giải thoát cho những tâm hồn còn u mê: “Ở đây lẫn lộn... Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững, và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cái đời lương thiện đi.

Bữa rượu máu là tác phẩm trong tạp chí Tao đàn số 4 – 1939 (in trong Vang bóng một thời ,1940, sau đổi tên là Chém treo ngành). Đây là một ví dụ khác, tả về cuộc hành quyết những tử tù  “của dư đảng giặc Bãi Sậy”. Khởi nghĩa Bãi Sậy, thực chất là khởi nghĩa thuộc phong trào Cần Vương – phong trào chống thực dân Pháp vào cuối thế kỷ XIX.

Kết thúc trang văn, còn có một chi tiết nói lên tất cả dụng ý sâu xa – như “một tấc lòng của nhà văn: “Lúc quan Công Sứ ra về, khi lướt qua mười hai cái đầu lâu còn đính vào da cổ người chết quỳ sân pháp trường sắp giải tán, bỗng nổi lên một trận gió lốc xoáy rất mạnh... Trận gió xoắn, giật, hút cát bụi lên, xoay vòng quanh đám tử thi, và đuổi theo các quan đang ra về. Cái mũ trắng ở trên đầu quan Công sứ bị cơn lốc dữ dội lật, rơi xuống bãi cỏ, lăn lộn mấy vòng. Mọi người liếc trộm hai quan Thủ hiến và thì thào...”.

Sở kiểm duyệt lúc ấy ngu dốt, vẫn để đoạn văn này. Mà rất lâu sau, giới phê bình cũng chưa phát hiện ra thâm ý đó: “Ch đó! có mắt mà không biết đọc” – đó là phản ứng của Nguyễn Tuân khi nói chuyện với sinh viên Khoa Văn trường Đại học Sư phạm vào những năm 60 của thế kỷ XX.

Trong “trận gió lốc xoáy” ở pháp trường ấy, có quấn quyện cơn giận dữ của đất trời và cái phẫn nộ của lòng người, kể cả của nhà văn. Chính Nguyễn Tuân chứ không phải ai khác, bằng trí tưởng tượng của mình, đã tạo ra trận gió oan khốc, kỳ dị ấy để nói lên nỗi đau xót và thương cảm đối với nghĩa quân yêu nước bị hành hình, và tỏ rõ sự căm giận, oán hờn sẽ hành quyết những kẻ thủ ác – đại diện bọn xâm lược và tay sai – “hai quan Thủ hiến” thời ấy.

Quả nhiên, chỉ mấy năm sau thôi, trận gió thần kỳ  của cách mạng đã “làm giông làm tố”, cuốn phăng đi tất cả những phận đời nô lệ oan khổ  cho lồng lộng một đất trời giải phóng.

Đã từ lâu, Nguyễn Tuân là con người có lòng yêu nước âm thầm.

Năm 1939, khi còn là học sinh, ông đã tham gia bãi khoá, phản đối mấy giáo viên Pháp nói xấu người Việt Nam. Trốn ra nước ngoài để thoát cảnh tù túng, ngột ngạt, lại bị bắt giam và chịu quản thúc ở Thanh Hoá. Tác giả Vang bóng một thời đã bị liệt vào loại “thành tích bất hảo”, bị đưa đi trại tập trung ở Vụ Bản, Nho Quan, Ninh Bình, và tiếp tục bị quản thúc.

Một con người vốn đã sẵn máu phản kháng, “nổi loạn” ấy, làm sao có thể viết văn xa rời những vấn đề chính trị – xã hội và đạo đức có tính chất chuẩn mực, lý tưởng?

Lý tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Tuân có chiều sâu của ý thức xã hội. Ông đi tìm đồng thời cả cái đẹp cái thật trong cái tốt. Nói cách khác, đó là lý tưởng thẩm mỹ kết hợp được với lý tưởng xã hội lý tưởng đạo đức.

III/ ĐỐI TƯỢNG THẨM MỸ - SỰ  KHÁM PHÁ VÀ SÁNG TẠO CÁI ĐẸP

Là nghệ sĩ có tư tưởng nghệ thuật ban đầu không thuần nhất, có những mâu thuẫn nội tại, Nguyễn Tuân đã trải qua những bước đi ban đầu rất khó nhọc. Hành trình đi tìm cái đẹp – có lúc thông thuận, mạnh bạo, nhưng cũng có lúc ngập ngừng, dè dặt.

Xét trong căn cốt từ buổi đầu và trong thời gian khá dài, quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Tuân không hoàn toàn là vị nghệ thuật, không hẳn chỉ có duy mỹ thuần tuý kiểu phương Tây. Đó là vì đời sống thực tại, cái hồn thiêng dân tộc còn tác động vào và gây ảnh hưởng đến tâm thức của người viết.

Là người có khát vọng nhân văn, Nguyễn Tuân không thể có chủ nghĩa duy mỹ phi nhân bản. Ông nặng lòng với “đời sống đầy mâu thuẫn, oan khiên và tủi khuất”, bất mãn với “một đời thật tại, mong muốn giúp đẹp, góp tốt và làm vui cho cuộc đời” [2, tr 53, tr 117], và kỳ vọng nghệ thuật là “ánh sáng, là “đốm lửa để làm bừng dậy lòng người [3(1), tr 81].

Trên hành trình khám phá thẩm mỹ, Nguyễn Tuân đã gặp những sự trái khoáy, nghịch lý – cái đẹp thì không thật, và cái thật thì không đẹp. Nguyễn Đình Thi đã nhận xét như sau: “Cách mạng là sự đổi đời đối với Nguyễn Tuân, vì ông thấy cái có thật bây giờ đẹp và cái đẹp bây giờ có thật trong cuộc đời” [5, tr 547]. Còn những dằn vặt, bức xúc vì những bóng tối, vì những cái vô lý nhưng cái lẽ lớn ấy không bao giờ thay đổi.

Một đời khát khao, mê đắm vì cái đẹp, cái thật, và cái tốt, nhà văn đã đi tìm kiếm để tạo thành những trang nghệ thuật cho đời.

Trong đời sống ấy, có biết bao cái đẹp ta thường tiếp xúc: cái đẹp của tự nhiên, cái đẹp của xã hội, cái đẹp trong bản thân con người, và cái đẹp của nghệ thuật.

Cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hùng là những phạm trù thẩm mỹ tích cực; còn cái xấu, cái thấp hèn, cái hài là các phạm trù thẩm mỹ tiêu cực.

Cái đẹp nằm ở vị trí trung tâm. Cái bi là cái đẹp khi thất bại, bị huỷ hoại. Cái xấu là đảo ngược giá trị của cái đẹp. Cái hài là sự phá bỏ tính  hài hoà của cái đẹp.

Cái đẹp là một đối tượng thẩm mỹ có phẩm chất nội tại, nhưng có ý nghĩa khách quan, và cũng phụ thuộc vào năng lực thẩm mỹ của chủ thể thẩm mỹ. Bởi, có những cái đẹp lướt qua dưới ánh mắt, tầm nhìn của người vô tình, mà cũng có cái đẹp ẩn khuất – vì tinh tế mà náu mình giữa cái phồn tạp hư ảo của trần gian.

Phải biết khám phá cái đẹp bằng “con mắt xanh” và “tấm lòng vàng”. Văn học nghệ thuật có nhiệm vụ huớng dẫn con người trên con đường khám phá cái đẹp. Nhà văn và nghệ sĩ là người khám phá và sáng tạo cái đẹp trong tác phẩm của mình. Nguyễn Tuân là người đã thực hiện một cách xuất sắc và độc đáo thiên chức này.

Cảm quan thiên nhiên, đất nước thiết tha, mạnh mẽ hiếm có đã giúp Nguyễn Tuân vẽ nên một “bản đồ Việt Nam” bằng ngôn từ thật đặc sắc.

Đất nước như trải dài theo mỗi bước chân của nhà văn. Từ Mũi Lũng Cú tột Bắc tới Huyện đảo nơi biển khơi. Nghe Gió Than Uyên Vẫn nghe tiếng dội Cà Mau ấy. Nhật ký lên Mèo, lại có trang viết Về thăm đất lửa Quảng Trị. Cảnh vật hiện ra với vẻ đẹp hiền hoà, thơ mộng, cùng với vẻ khắc nghiệt, dữ dội, có những nét hiện thực trần trụi và cả những nét mơ màng, hư ảo.

Xưa kia, trong hoàn cảnh mất nước, ta có thể thấy được cái tâm trạng bơ vơ, day dứt của Thiếu quê hương. Nhà văn chỉ thể hiện trạng thái: “thầm n mà yêu thương, mà ngợi ca đất nước muôn vẻ, muôn hình của mình” (Cầu ma). Giờ đây, đất trời đã hoàn toàn giải phóng, nhà văn thoả thuê, thả sức miêu tả, thể hiện quê hương, đất nước với vẻ đẹp như công trình nghệ thuật thiên tạo và cả: “Sức mạnh của đất nước luôn luôn hiện hình trên từng tấc gang đường xa” (Đường vui).

Nguyễn Tuân đi và viết với nhiều tư cách: nhà du lịch, tham quan địa lý, nhà khảo sát địa chất, nhà quan sát xã hội, nhà nghiên cứu lịch sử và văn hoá,... Chính vì vậy, mà bạn đọc có điều kiện thưởng ngoạn, và cảm nhận được nhiều điều thú vị ở những góc nhìn, những phương diện quan sát phong phú, đa dạng.

Có những địa phương nằm trong những vùng thẩm mỹ đặc biệt, cũng là vùng thâm canh sáng tác, mà nhà văm trở đi trở lại nhiều lần, và có thời gian lưu trú, “cắm rễ” khá lâu để có thể quan sát, miêu tả một cách kỹ lưỡng.

Đó là vùng Tây Bắc, và vùng giới tuyến. Hà Nội đất kinh kỳ, nơi chôn rau cắt rốn của tác giả, vì thế, dĩ nhiên là được gắn bó máu thịt suốt một đời tài hoa.Tuy xưa kia từng đặt chân đến Huế, Sài Gòn nhưng mấy mươi năm đất nước bị tạm thời chia cắt , nhà văn chỉ vô Nam trongta6m tưởng. Sau ngày thống nhất, cùng với các bạn văn, Nguyễn Tuân làm những chuyến xuyên Việt lý thú – qua Huế, vào tận Minh Hải. Rồi Long Xuyên, Châu Đốc, Hà Tiên,... Từ vùng biên giới Tây Nam đến các đảo, gồm cả Côn Đảo, Cà Mau,... Nguyễn Tuân từng cầm chén rượu đón bình minh trên biển Năm Căn, và từng ngồi bên rừng đước với gió, nắng, và cả đêm trăng Cà Mau ngắm mênh mông ngập tràn sóng biển…

Cảnh thường có nhiều người, người luôn trong cảnh, và nổi bật lộng lẫy trên nền phông cảnh. Đó là những con người Đi mở đường với những Bài ca trên mặt phần đường. Đó là khung cảnh Than Quỳnh Nhai mới khai thác, công nhân nhóm lửa thùng phuy luyện than cốc, là cảnh tượng vật lộn chèo chống với dòng thác của Người lái đò Sông Đà.

Nguyễn Tuân như người hoạ sĩ tài năng, có nhiều bút pháp linh hoạt, đã tạo nên những tuyệt tác mỹ thuật đầy màu sắc mà lung linh, huyền ảo. Có những trang viết lại giàu chất tạo hình, bài trí, phối cảnh như của nhà điêu khắc và đạo diễn điện ảnh.

Tóc chị Hoài là một sự đặc tả cận cảnh, con sông lại là sự liên tưởng kỳ diệu từ mái tóc mây thiếu nữ: “Con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”, “Sông Đà như một áng tóc mun dài ngàn ngàn, vạn vạn sải,... (Người lái đò Sông Đà).

Đây lại là cái nhìn từ tít cao, như từ “chín tầng mây” dọi xuống, mà ẩn hiện cái bồng bềnh, kỳ ảo như miền cổ tích.

Sự tương tác thể loại, và nghệ thuật ngôn từ đã đem lại cho văn Nguyễn Tuân những vẻ đẹp đặc sắc. Trong ký có truyện, tuỳ bút mà có những trang đầy chất tiểu thuyết, những trang văn đậm chất thơ: cảnh, người, việc, sự kiện tâm tình được tượng hình trên trang viết. Trong xưa có nay, hôm nay mà thắm bóng thời xưa, hiện thực đấy mà bay bổng xa vời thăm thẳm trong cái lãng mạn mù khơi…

Có thể nói, những trang văn của Nguyễn Tuân hội tụ được cả sự hiện thực hoá của lý tưởng thẩm mỹ.

Lịch sử, văn hoá, truyền thống là một cội nguồn cảm xúc thẩm mỹ của nhà văn lớn. Câu chuyện hôm nay vẫn thấp thoáng cái đẹp xưa, nhưng là cái đẹp đã thăng hoa, hiện đại hoá.

Nguyễn Tuân từng muốn mỗi ngày đều có cái say của rượu tân hôn, kỳ vọng mỗi trang đời là một trang nghệ thuật. Mỹ cảm với cảm xúc thẩm mỹ của nhà văn như là vô tận. Luôn luôn đổi mới  cảm giác, nhận thức như phương châm cảm thụ cái đẹp của Nguyễn Tuân. Đời là những  “ Trang hoa” luôn mở dưới ánh sáng nghệ thật mới.

Cáu đẹo văn hoá là một phương diện rất được lưu ý của nhà văn trong đó có văn hoá ẩm thực đặc sắc. Đặc biệt là ứng xử văn hoá đã tạo ra phong cách sống đẹp nổi tiếng hào hoa, lịch thiệp, tinh tế Nguyễn Tuân.

  Cái đẹp, cái cao cả, cái hùng tráng là những giá trị thẩm mỹ tự thân thường được miêu tả, thể hiện tập trung, sáng tỏ. Tuy nhiên, cũng trong phạm trù thẩm mỹ tích cực này có sự đan xen giữa cái bicái hùng để tạo nên cái bi mang sắc thái bi tráng.

Đào cộng sản, Đất cũ Sơn La ( Sông Đà ) là những điển hình về đất và người, về sự và tình. Cái bi thương lại gợi bao thương cảm: Xoè. Đó là cấu trúc nội tại một tập tuỳ bút. Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi là tập ký loại kiệt tác cũng đan xen, đối sánh cái cao cả. cái hào hùng như phẩm chất  cao của cái đẹp, với cái hài  thật sắc bén, giàu sức mạnh của nụ cười đả kích sự xấu xa, thấp hèn, sự ác độc, tàn nhẫn của kẻ thù. Biệt tài của nhà văn còn ở sự đan cài chồng chéo, đối sánh hai bình diện bi tráng và bi thương. Ở Đám cưới giữa trận địa pháo hiển hiện hai hình ảnh hạnh phúc trong chiến tranh : đám cưới của nữ pháo thủ ở trận địa pháo và đám tang có đặt tấm thiệp cưới ngày Noel  trong áo quan của nữ bác sĩ bệnh viện Bạch Mai thiệt mạng trong trận bom B.52. Còn ở Cánh B. 52  rụng xuống một thôn hoa Hà Nội ta có được hai nụ cười cùng lúc: nụ cười sảng khoái, thoả thuê chiến thắng và nụ cười khinh bỉ, hả hê với thảm bại nhục nhã của kẻ thù, bi tráng và hài hước qua một niềm lạc quan  tin tưởng xen lẫn lòng căm giận, hận thù

YYY

Nguyễn Tuân  xứng đáng được tôn vinh là nhà văn – nghệ sĩ một đời săn tìm, thể hiện và sáng tạo cái đẹp cho nghệ thuật. Đó là nhà Duy mỹ chân chính vì cái đẹp lý tưởng  của Con Người trong cuộc đời đi lên theo ánh sáng văn minh hiện đại.

Bằng cuộc đời đẹp như hoa, Nguyễn Tuân đã hiến cho đời những Trang hoa, những Tờ hoa vì mãi mãi tương lai nghệ thuật..

CHÚ THÍCH

(*) PGS. TS Trường ĐHSP Hà Nội.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đoàn Trọng Huy (2007), Nguyễn Tuân, in trong Tinh hoa văn thơ thế kỷ XX, Giáo dục.

[2] Nguyễn Tuân (1999), Nguyễn Tuân – Bàn về văn học nghệ thuật, Hội Nhà văn.

[3] Nguyễn Tuân (2000), Nguyễn Tuân – Toàn tập (1, 2, 3, 4, 5), Văn học.

[4] Nguyễn Tuân (2005)       , Nguyễn Tuân – Tuyển tập (1, 2, 3), Văn học.

[5] Nhiều tác giả (1999), Nguyễn Tuân – Về tác gia và tác phẩm, Giáo dục.

20170828. Kinh thi Viet Nam

Học giả, nhà văn Trương Tửu (1913-1999) còn có bút danh: Nguyễn Bách Khoa, Hoàng Canh, Mai Viên, T.T….; nguyên quán làng Bồ Đề, xã Phúc Viên, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh (nay là một phường thuộc quận Long Biên, Hà Nội).

Trương Tửu từng viết cho các báo: Đông Tây tuần báo, Loa, Ích Hữu, Tiếng Trẻ, Hà Nội báo, Tân Thiếu Niên, Thời Thế, Quốc Gia, Văn Mới, Mùa Gặt Mới…; làm giám đốc văn chương Nhà xuất bản Hàn Thuyên và tập san Văn Mới; lãnh đạo Nhóm Hàn Thuyên (Nhóm Tân văn hoá). Ông là giáo sư văn học nổi tiếng ở Trường Dự bị đại học trong kháng chiến, Đại học Sư phạm, Đại học Văn Khoa Hà Nội trong hoà bình. Năm 1957, Trương Tửu được phong giáo sư cùng đợt với các học giả Đào Duy Anh, Đặng Thai Mai, Trần Văn Giàu, Nguyễn Mạnh Tường. Năm 1958, ông bị buộc thôi giảng dạy vì viết trên Giai phẩm mùa thuGiai phẩm mùa đông (không viết báo Nhân văn). Từ sau đó, ông chuyển qua nghiên cứu, hành nghề Đông y và mất ở Hà Nội.

Trương Tửu được biết đến như một trong những người viết phê bình theo tinh thần mác xít đầu tiên ở Việt Nam. Sự nghiệp của ông để lại có hai mảng quan trọng là sáng tác văn chương và phê bình nghiên cứu văn học, sử học. Các tác phẩm tiêu biểu: sáng tác văn xuôi: Thanh niên S.O.S (1937), Một chiến sĩ (1938), Khi chiếc yếm rơi xuống (1939), Khi người ta đói (1940), Một cổ đôi ba tròng (1940), Thằng Hóm (1940?), Một kiếp đoạ đày (1941), Tráng sĩ Bồ Đề (1943), Năm chàng hiệp sĩ (1944)…; nghiên cứu văn học và sử học: Những thí nghiệm của ngòi bút tôi (1938), Uống rượu với Tản Đà (1938), Kinh thi Việt Nam (1940), Nguyễn Du và Truyện Kiều (1943), Nhân loại tiến hoá sử (1943), Nguồn gốc văn minh (1943), Văn minh sử (1943), Nguyễn Công Trứ (1944), Văn chương Truyện Kiều (1944), Tương lai văn nghệ Việt Nam (1945), Đại quan về 40 năm văn học Việt Nam hiện đại 1905-1945 (1948), Phương pháp phê bình văn học (1948), Văn nghệ bình dân Việt Nam (1952), Truyện Kiều và thời đại Nguyễn Du (1956), Chỉnh huấn là gì? (1955), Chống văn hoá nô dịch (1956), Mấy vấn đề văn học sử Việt Nam (1958)…[1]

Sáng tác của Trương Tửu in đậm tính luận đề và chất dã sử, được Vũ Ngọc Phan xếp vào nhóm các nhà tiểu thuyết xã hội. Trong các tác phẩm, ông thường đứng về phía người nghèo, số đông giai cấp vô sản. Khuynh hướng tư tưởng này đã đưa Trương Tửu đến với tư tưởng triết học Mác, đặc biệt thể hiện sinh động, nhất quán và hệ thống trong các công trình phê bình, nghiên cứu văn học và sử học. Nhân viết về phê bình xã hội, giáo sư Nguyễn Văn Trung cho rằng: “Thời tiền chiến, Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu) là người đầu tiên và độc nhất đã đưa ra một quan niệm phê bình rõ rệt và áp dụng nó một cách có hệ thống với một lối văn lôi cuốn. Chưa xét quan niệm phê bình mác xít đúng hay không đúng, chỉ xét phương diện có chủ thuyết và viết thành hệ thống hẳn hoi, thì phải nhận Nguyễn Bách Khoa đã thành công hơn tất cả những nhà phê bình trước ông và hiện nay cũng khó tìm ra một Nguyễn Bách Khoa khác”[2]. Giáo sư Thanh Lãng nhận xét: “Cùng với các nhà văn trong Nhóm Tân văn hoá, Nguyễn Bách Khoa đã khai mở hẳn một kỷ nguyên mới trong lịch sử văn học Việt Nam: phê bình dựa vào biện chứng pháp duy vật”[3]. Nguyễn Hữu Sơn nhận định: “Cuộc đời Trương Tửu là một chuỗi những thăng trầm, những cuộc dấn thân với một tinh thần trung thực, tranh đấu vì học thuật và lẽ phải”.

Trương Tửu là trí thức có tầm hiểu biết sâu rộng, đặc biệt là lý thuyết mác xít, hăm hở vận dụng lý thuyết ấy vào nghiên cứu văn học, sử học. Dù đây đó, sự vận dụng ấy chưa thật nhuần nhuyễn như các nhà nghiên cứu chỉ ra, nhưng nhìn chung hầu hết những công trình ông để lại đều có giá trị nhất định về mặt nhận thức, lý luận và tư liệu. Và quan trọng, qua hoạt động văn hoá, ông đã cho thấy một tinh thần trung thực và dấn thân của người trí thức Việt Nam hiện đại trong việc kích động tiến trình dân chủ hoá xã hội. Tinh thần ấy đưa ông trở thành một trong những nhân vật quan trọng của Nhóm Hàn Thuyên, nhóm trí thức có tầm ảnh quan trọng trong việc canh tân nền văn hoá Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Trương Tửu và Nhóm Hàn Thuyên

Hàn Thuyên là một nhà xuất bản tư nhân do Trương Tửu dày công sáng lập năm 1941, do anh vợ là Nguyễn Xuân Tái làm chủ. Trương Tửu làm giám đốc văn chương (tương tự tổng biên tập). Tập hợp xung quanh nhà xuất bản Hàn Thuyên (còn gọi là Hàn Thuyên xuất bản cục) là nhóm trí thức có cùng mục đích lý tưởng như Trương Tửu, Nguyễn Đức Quỳnh, Lê Văn Siêu,… do vậy, thường được gọi là Nhóm Hàn Thuyên. Nhóm chủ trương đề xướng xây dựng nền “tân văn hoá” Việt Nam, mong sẽ “kiến thiết được một hệ thống văn hoá mới để làm kim chỉ nam cho hoạt động tiến thủ”. Đó là lý do họ gọi nhóm của mình là Nhóm Tân văn hoá. Các tác phẩm được in ở Hàn Thuyên trong chủ trương của nhóm, ngoài bìa sách thường có dòng chữ “Tủ sách Tân văn hoá” hoặc “Tủ sách Tân văn hoá Hàn Thuyên”. Nhà xuất bản Hàn Thuyên ngoài việc in sách của các thành viên trong nhóm Tân Văn hoá còn in của các tác giả ngoài nhóm thuộc mọi xu hướng (dân tộc, dân chủ, quốc gia, cộng sản và các tác giả tự chịu trách nhiệm…) miễn phù hợp với mục đích canh tân nền văn hoá Việt Nam. Thực hiện tủ sách Tân văn hoá, nhóm Hàn Thuyên đề ra chủ trương: 1. Mở rộng con mắt mới, nhìn sự kiện lịch sử cũ, để nói lên những nhận định trào sôi máu hận của mình; 2. Học lấy những tiến hoá cuối cùng của người, nhưng cũng phải nhìn rõ cảnh thế của mình khi tính chuyện áp dụng để đuổi theo các nước tiên tiến”[4]. Hoạt động được hơn một năm, để tránh mất thời gian kiểm duyệt đối với bản thảo in sách (đối với báo, tạp chí in xong mới trình kiểm duyệt), nhà xuất bản Hàn Thuyên chuyển các ấn phẩm sang dạng các số tạp chí, lấy tên là Văn Mới với phụ đề “Tạp chí phổ thông giáo dục” từ giữa năm 1942. Tháng 5-1945, Trương Tửu bị hiến binh Nhật lùng bắt phải bỏ trốn và tập san Văn Mới bị tịch thu. Trong một khoảng thời gian tương đối ngắn, Hàn Thuyên đã công bố hơn một trăm đầu sách thuộc nhiều thể loại: sáng tác văn học; sách kinh tế; sách dạy rèn luyện sinh lực và trí tuệ; sách nghiên cứu lịch sử; sách nghiên cứu văn học,… của nhiều cây bút nổi tiếng ở các lĩnh vực như Trương Tửu (Nguyễn Bách Khoa, Mai Viên), Nguyễn Đức Quỳnh (Thiên Hạ Sĩ), Lê Văn Siêu, Lương Đức Thiệp, Nguyễn Tế Mỹ, Nguyễn Đổng Chi, Đặng Thai Mai, Nguyễn Tuân, Đồ Phồn, Chu Thiên, Nguyễn Đình Lạp, Vi Huyền Đắc, Đàm Quang (Nguyễn Huy Tưởng), Phạm Ngọc Khuê, Nguyễn Hải Âu, Hồ Hữu Tường. Trong đó có nhiều tác phẩm quan trọng của nền văn hoá Việt Nam hiện đại trong thế kỷ XX: Chiếc lư đồng mắt cua của Nguyễn Tuân, Bút nghiên của Chu Thiên, Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguyễn Đình Lạp, Kinh thi Việt Nam, Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du và Truyện Kiều của Trương Tửu, Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, Việt Nam cổ văn học sử của Nguyễn Đổng Chi…

Có thể thấy, Trương Tửu chính là linh hồn kết nối các thành viên của nhóm Hàn Thuyên. Trong diễn văn đọc vào dịp hoả táng Nguyễn Đức Quỳnh, nhà văn Lê Văn Siêu đã cho biết không khí làm việc và tình cảm của anh em trong nhóm: “Tôi nhớ ông hồi nào cùng tôi và Trương Tửu, ba anh em chia nhau một ổ bánh mì để thức suốt đêm sửa ấn cảo và kèm thợ in chạy báo cho hằng kịp phát hành sáng hôm sau”[5]. Nhận xét về Trương Tửu, Lê Văn Siêu viết: “Trương Tửu đáo để, thông minh, phản ứng nhanh, học rộng, nhiều sáng kiến và rất nguyên tắc, làm giám đốc văn chương thì như linh hồn nhà xuất bản, đã nghĩ ngày nghĩ đêm, thảo hoạch chương trình xuất bản, phân phối việc viết sách báo cho anh em, bàn bạc hằng ngày với anh em để hướng dẫn lập luận của sách cho không chệch ra ngoài định hướng chung”[6].

Ngoài công việc chính là xuất bản, nhóm Hàn Thuyên đã có những hoạt động khác như: tổ chức Tuần lễ văn nghệ tại Hà Nội ngay sau ngày 19-8-1945; tổ chức đoàn Chấn hưng sân khấu; tổ chức nhà tổng phát hành sách báo Phương Đông (bao gồm tất cả các nhà xuất bản ở Hà Nội, tổ chức thành một cơ quan phát hành chung, sửa soạn đưa sách vào thị trường miền Nam); tổ chức những buổi hội thảo về văn nghệ.

Nhóm Hàn Thuyên ngừng hoạt động vào cuối năm 1946. Nhiều trí thức của nhóm đã tham gia cách mạng. Nhà in được chuyển ra vùng kháng chiến và hiến cho cách mạng.

Kinh thi Việt Nam – tác phẩm quan trọng của Trương Tửu

Kinh thi Việt Nam có một vị trí quan trọng trong sự nghiệp của Trương Tửu bởi đây là tác phẩm nghiên cứu bề thế của ông trước Cách mạng tháng Tám, gắn với bút danh Trương Tửu và đánh dấu sự định hình phong cách nghiên cứu phê bình theo tinh thần mác xít. Nhà nghiên cứu Văn Tân cho rằng: “Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa là một trong những cây bút ở Việt Nam sớm vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp khoa học này khiến ông khá thành công ở một số sách biên khảo sử học, nhất là trong tác phẩm nghiên cứu văn học dân gian chứa đựng không ít tổng kết chính xác có ích lâu dài: Kinh thi Việt Nam[7].

Kinh thi Việt Nam được Hàn Thuyên xuất bản lần đầu năm 1940. Tác phẩm này phát hành được ba tháng thì bị mật thám Pháp ra quyết định cấm lưu hành. Cũng trong năm này, Trương Tửu có viết truyện Thằng Hóm nhưng cũng bị tịch thu ngay tại nhà in. Bút danh Trương Tửu cũng bị cơ quan kiểm duyệt gây khó dễ, buộc tác giả phải đổi bút danh thành Nguyễn Bách Khoa. Cái tên này không phải là một “sự vỗ ngực tự cho mình là tài giỏi, bách khoa” như một số người gán ghép khi phê bình Trương Tửu. Theo Lê Văn Siêu, một trong những trụ cột của nhóm Hàn Thuyên: “Cái tên Nguyễn Bách Khoa phù hợp với mộng ước mà chúng tôi đã nuôi từ 1935 khi thấy các nhà văn tiền phong của Pháp: d'Alembert, Diderot, Voltaire, Montesquieu, v.v… viết bộ sách Bách Khoa ở thế kỷ 18, tập hợp những người có tư tưởng tự do, có ý muốn cải tiến xã hội để thảo hoạch những nguyên tắc xây dựng xã hội mới, ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc cách mạng 1789”[8].

Đến năm 1945, Kinh thi Việt Nam được tái bản trang trọng trong khuôn khổ của tập san Văn Mới (số 53, ngày 5-7-1945, 242 trang bằng giấy dó). Ở miền Nam, tác phẩm này được tái bản tới 2 lần: Liên Hiệp tái bản, Sài Gòn, 1950, 246 trang và Hoa Tiên tái bản, Sài Gòn, 1974, 222 trang. Cho thấy phần nào giá trị của Kinh thi Việt Nam.

Viết Kinh thi Việt Nam, Trương Tửu đã xuất phát từ sự định giá nguồn gốc, tác dụng của Kinh thi Trung Quốc. Trước khi đề xuất nghiên cứu Kinh thi Việt Nam, Trương Tửu đặt vấn đề: Vì lẽ gì Khổng Tử san định Kinh thi? Ông cho rằng, “Khổng Tử tin nghệ thuật là sản vật của tình cảm. Cái tin tưởng nầy trong Khổng giáo có giá trị như một chân lý tuyệt đối. Tất cả phương pháp giáo hoá của Khổng Tử đều xây trên chân lý ấy”[9]. Ông đã chỉ ra điểm then chốt của quan niệm Khổng giáo về mối quan hệ giữa con người và xã hội:

Trong Khổng giáo, tất cả triết lý chính trị đều dựng trên nhận định này: con người là một động vật sống trong xã hội. Không có xã hội thì không có Khổng giáo. Đạo của Khổng Tử là một hệ thống triết lý chỉ có thể xuất hiện trong một xã hội đã tổ chức, hơn nữa một xã hội nông nghiệp đang ở thời kỳ hỗn độn của chế độ phong kiến có xu hướng tiến đến thời kỳ trật tự của chế độ quân quyền. Bởi phát sinh từ cội rễ ấy nên Khổng giáo mới coi con người sống trong xã hội là con người muôn thuở và mới tin ở sức mạnh cùng cực của chế độ chính trị trong việc cải tạo con người[10].

Khổng giáo đã có những điểm gặp gỡ với quan niệm của Mác về mối quan hệ giữa con người và xã hội. Và Trương Tửu đã biện luận để đi đến trả lời cho vấn đề đã đặt ra rằng vì lẽ gì Khổng Tử san định Kinh thi: “Cái khởi điểm giáo hoá của Khổng Tử là chỉnh lại nền tình cảm của con người. Muốn chỉnh lại nền tình cảm của con người, ngài cho học thi và thơ chính là tiếng nói của tình cảm. (…) Khổng Tử đã chủ tâm bày cho người cầm quyền biết rằng nghệ thuật cũng là một lợi khí chính trị rất hiệu nghiệm”[11].

Tiếp theo, Trương Tửu xét “Kinh thi như một tài liệu xã hội học”: đánh dấu sự xuất hiện của văn tự; là bức hoạ chân xác của những tín ngưỡng, tư tưởng, chính pháp, phong tục trong một xã hội; nó điểm chỉ cho nhà xã hội học những vết tích của một cuộc sinh hoạt kinh tế.

Nghiên cứu ca dao Việt Nam, Trương Tửu cho rằng chúng ta không chỉ phác thảo lại được đời sống kinh tế xã hội của cha ông ta từ ngàn xưa đến thời cận đại. Sự kết tinh của ca dao còn cho thấy được cái tinh thần chống Nho giáo rất mạnh của dân chúng Việt Nam (chống lại hệ thống đạo đức cổ hủ của Nho gia, chế độ phụ quyền chèn ép người phụ nữ, giải phóng tình cảm và bản năng). Ca dao còn cho thấy “nổi lên cái tinh thần độc lập của dân ta và cái nỗ lực liên tiếp của tổ tiên ta đã thực hành trong bao nhiêu thế kỷ để tránh nạn Trung Quốc hoá. Nhờ sự nỗ lực phi thường này mà hiện giờ chúng ta có thể tự hào rằng chúng ta vẫn giữ được trong cõi ý thức một tinh tuý Việt Nam cái tinh tuý mà văn hoá Trung Quốc chỉ đã kết tinh lại chứ không thể nào thôn tính được”[12]. Vì vậy, đọc ca dao là chúng ta tìm đến cội rễ tinh thần của dân chúng Việt Nam. Ca dao Việt Nam ngoài là những tài liệu xã hội học quan trọng, còn có giá trị nghệ thuật không kém giá trị nghệ thuật của bất kỳ nền văn nghệ bình dân ở một dân tộc nào trên thế giới. Chúng ta có một Kinh thi quý giá không kém gì Kinh thi của người Trung Quốc. Bổn phận chúng ta ngày nay là phải ghi chép nó, san định nó, chú thích nó.

Trong công trình Kinh thi Việt Nam, Trương Tửu đã đề xuất và thảo luận hai vấn đề lớn mang tính khoa học và thực tiễn: mối quan hệ giữa văn nghệ và chính trị; văn nghệ là sản phẩm của xã hội phản ánh cá tính riêng của tác giả và tâm lý dân tộc. Nhiều luận điểm ông đưa ra được đúc kết từ tư liệu thực tế đến nay còn có giá trị tham khảo. Viết Kinh thi Việt Nam, Trương Tửu mong muốn:

Đọc Kinh thi Việt Nam bây giờ sẽ là tìm trong quá khứ của dân chúng Việt Nam cái sức mạnh để đảm bảo cho lòng tin của chúng ta ở tương lai của dân chúng Việt Nam. Đọc nó sẽ còn tìm đến cái hay, cái đẹp, cái khéo của âm điệu và tiếng nói Việt Nam là tìm đến cái hương hoả văn chương của cha ông để lại, do đó mà kiến thiết nền thi ca Việt Nam hiện đại. Đọc nó còn là tìm cho mình một gốc rễ tinh thần, một lạc thú tinh thần hiếm có” [13].

            Tìm đến ca dao, Trương Tửu đã nhận thấy trong đó một sức mạnh tinh thần phản kháng mạnh mẽ của dân tộc. Và ông đã tin tưởng, dấn thân, khơi mào vào việc kích hoạt tinh thần ấy qua ngả nghiên cứu và phê bình văn học dân tộc. Chúng ta không ngạc nhiên khi Kinh thi Việt Nam bị cấm lưu hành, cũng như mấy năm sau đó tập san Văn Mới bị tịch thu và bản thân Trương Tửu bị hiến binh Nhật lùng bắt.

PHM.



[1] Tác phẩm Trương Tửu gần đây đã được tập hợp in lại gần như trọn vẹn trong các tuyển tập: Trương Tửu: Tuyển tập nghiên cứu phê bình, (Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn), Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2007; Trương Tửu: Tuyển tập văn xuôi, (Nguyễn Hữu Sơn sưu tầm và biên soạn), Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2009; và tới đây, tuyển tập về “Những vấn đề văn hoá” cũng sẽ được xuất bản.

[2] Nguyễn Văn Trung: Lược khảo văn học, tập 3: nghiên cứu và phê bình văn học, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn, 1968, tr.191-192.

[3] Thanh Lãng: Phê bình văn học thế hệ 1932, tập 2, Phong trào Văn hoá xuất bản, Sài Gòn, 1974, tr.395.

[4] Lê Văn Siêu: Văn học sử thời kháng Pháp (1858-1945), Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn, 1974, tr.365

[5] Lê Văn Siêu: Về nhóm Hàn Thuyên và Nguyễn Đức Quỳnh, Bách khoa, số 411, ngày 13-7-1974, tr.71.

[6] Lê Văn Siêu: Về nhóm Hàn Thuyên và Nguyễn Đức Quỳnh, Bách khoa, số 411, ngày 13-7-1974, tr.72-73.

[7] Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (cb): Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế Giới, Hà Nội, 2004, tr.1865.

[8] Lê Văn Siêu: Văn học sử thời kháng Pháp (1858-1945), Trí Đăng xuất bản, Sài Gòn, 1974, tr.363.

[9] Trương Tửu: Kinh Thi Việt Nam, Hoa Tiên tái bản, Sài Gòn, 1974, tr.31.

[10] Trương Tửu: Sđd, tr.32.

[11] Trương Tửu: Sđd, tr.31-36.

[12] Trương Tửu: Sđd, tr.19.

[13] Trương Tửu: Sđd, tr.222.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013

Khi Tô Hoài nằm xuống, chúng ta tưởng như một cánh cửa đã đóng lại, niêm hẳn một thời dài mà Ông là chứng nhân đặc biệt.
Thật vậy, có ai được thọ tuổi đời, được nhiều trang viết, được đi qua bao triều đại, bão giông, mà vẫn minh mẫn, tinh tường, tràn đầy cảm hứng, ngồn ngộn chất sống như Tô Hoài?
Mùa hè năm ngoái, trước thời khắc này mười hai ngày, Tô Hoài vĩnh biệt chúng ta. Trước đó một năm, chúng tôi chạy đua với thời gian trong bộn bề công việc, trong hoài thai, sinh nở để mong có thêm một luận văn nhỏ tổng kết về đời văn Tô Hoài, cây đại thụ của ngôi làng văn học Việt Nam, nhưng đã muộn.
Nhà văn đã không chờ một người nghiên cứu trẻ ở phương Nam tìm đến gặp, xin được hầu chuyện văn chương và trình lên sản phẩm nghiên cứu đầu tay của mình, Ông đã ra đi ở tuổi chín mươi tư.
Hôm nay, thầy trò chúng tôi cùng may mắn có mặt ở đây để tưởng niệm Tô Hoài, nói với Ông về những điều chúng tôi nhận được từ di sản của Ông.
Chúng tôi muốn thưa với Tô Hoài rằng, chọn con đường giảng dạy và nghiên cứu văn chương, chúng tôi mỗi ngày như được nuôi dưỡng bằng chất sống là tác phẩm. Tô Hoài đã cung cấp cho chúng tôi dưỡng chất ấy, nhiều và bền bỉ, lặng thầm như nước mội nuôi cây.
Đã nửa thế kỷ qua, từ ngày tôi được cầm trên tay Dế mèn phiêu lưu ký, O chuột, Quê người, Xóm Giếng ngày xưa...Ký ức của cô bé mười tuổi thuở ấy còn nguyên vẹn tiếng gù của vợ chồng đôi gi đá (Đôi gi đá); mùi hương của đóa ngọc lan anh Hời ném vào ô cửa hẹn hò với Ngây, cảm giác kinh sợ và xót xa với bà cụ Vạng mù mớm cơm cho cháu (Quê người); hình ảnh của anh cu Lặc vỗ bụng hát ông ổng khi no và không dám ăn canh miến vì “ăn ló tơn tơn quá, chưa luốt đã tụt vào củ tỉ” (Cu Lặc)...
Bắc Bộ xa xôi hiện lên đầy ám ảnh và trở nên thân thuộc, nhờ Ông.
Từ thuở ấy, những chân trời mở ra, những con người gặp gỡ, Việt Nam, Đất nước, Dân tộc trở thành một thực thể ruột rà ăm ắp yêu thương.
Nhưng Tô Hoài có nói gì to tát đâu, Ông chỉ mải miết nhìn và mải miết ghi, nhẩn nha và gấp gáp, nghiêm trang và hài hước, hồn hậu và tinh quái, càng ngày càng lão thực trong đời sống và lão luyện trong nghề văn.
Dù không thần bí hóa văn chương, tôi vẫn không thể không thích thú với ý nghĩ rằng bản mệnh của Tô Hoài gắn với thần Hermès (Mercury)[1]: Tính cách linh hoạt, trải nghiệm thẳm sâu, phong cách lão luyện. Ở Ông, cái bẩm sinh gắn liền với cái chuyên nghiệp, cái chữ nghĩa gắn liền với cái đời thường.
Đó là tính trời. Còn nết đất?
Sẽ phải có nhiều ngày, nhiều suy tư, nhiều trang viết để nói về một Hà Nội làm nên Tô Hoài. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến sự kết tụ và kết tinh, âm thầm, tiềm tàng, kiên nhẫn qua bao năm tháng: phù sa văn hóa mà vùng đất này có được. Phù sa ấy được bồi đắp theo một nhịp vận hành hài hòa tự nhiên, không thủy điện, không cơ giới. Tô Hoài đã may mắn sinh ra và lớn lên nơi ấy, hút đậm phù sa từ thuở thiếu thời. Mảnh đất ven đô cho ông điểm nhìn từ cái giáp ranh của đời: Ông thấm vào mình cái hơi thở tĩnh lặng của đất đai làng mạc đồng thời lại nhạy cảm với cái nhịp đập hối hả, cái tâm thế xao xác của thị dân.
Xuất hiện vào thập kỷ cuối của giai đoạn văn học 1932-1945, Tô Hoài đến muộn, trong cái làng văn khá nhiều chữ nghĩa đang khát khao khối tri thức sang trọng hiện đại của trời Tây. Ông là con nhà thợ cửi, là dân làng dệt. Về phương diện nghề nghiệp, Ông không có cái lợi thế của con nhà dòng dõi, của trí thức trường lớp. Từ cái giáp ranh của nghề, Tô Hoài bước vào trung tâm đời sống văn chương, định vị mình bằng con đường tự học (luôn quan sát, đọc và ghi chép lại), bằng việc tiếp tục khai thác cái tình thế đặc biệt của mình (làm nhiều việc khác nhau tất cả đều có thể trở thành vỉa quặng cho trang viết của Tô Hoài).

Như vậy đó, cái nội lực văn hóa của miền đã kết hợp với thiên hướng và hoàn cảnh cá nhân của Tô Hoài. Nhưng chưa đủ, tôi muốn nói đến cái nội lực văn hóa của thời mà Ông đã sống.
Thời mà Tô Hoài đi qua, chỉ còn 5 năm nữa là vừa chẵn 100 năm. Ông đã trải một thời dài, quá nhiều biến cố mà hiếm có nhà văn nào có được. Ai trong chúng ta thâm cảm nó bằng Ông? Ngày Ông biết nhìn, biết nhớ, nó đã là thuộc địa. Xã hội Việt Nam hiện đại hóa trong khổ nhục. Văn minh phương Tây áp vào quê hương Ông tạo ra những biến thiên chưa từng thấy. Và khát vọng ra đi đạp đất đội trời (Dế mèn phiêu lưu ký, 1941), ước muốn từ một cái tôi cá nhân biết có những chân trời. Và Xóm Giếng êm đềm trở thành cái của ngày xưa, trong xu thế đô thị hóa của kinh tế thị trường. Và những kiếp người nhao nhác trong mưu sinh, trong loạn lạc, sống đắp đổi, tạm bợ như những mảnh bèo trôi (Cỏ dại, Quê người, Chuyện cũ Hà Nội). Và rồi hai cuộc chiến tranh trong dẫn dắt của ý thức hệ cộng sản, những phong trào, những “đổi đời” lớn lao từ núi rừng (Mười năm, Truyện Tây Bắc) đến thủ đô (Những ngõ phố), những trải nghiệm không tưởng nổi một thời ở vùng nông thôn Bắc Bộ (Ba người khác) và những ký ức chi chít về đời sống văn chương (Cát bụi chân ai, Chiều chiều)...
Lực hút của thời cuộc đã đưa Tô Hoài đứng giữa giòng, đi nhiều nơi, thấu cảm nhiều cảnh ngộ. Ông có hơn nửa thế kỷ giữ nhiều trọng trách xã hội bên cạnh việc cúi mình trên trang viết. Và chính lực hút của chữ nghĩa chiếm ưu thế mạnh hơn trong ông, đã giúp Ông biến thời cuộc thành nội lực văn hóa của thời. Với Ông, thời cuộc cũng là một phần của đời sống. Thời cuộc ẩn sâu trong sinh hoạt, tâm tư, lời ăn tiếng nói của con người chứ không nhảy lên thành công thức, không khuôn mình thành luận đề. Luôn cúi mình lắng nghe tiếng rì rầm của xã hội của tự nhiên, thế giới văn chương của Tô Hoài nổi lên theo lực hút của đám đông, một đám đông như cỏ, nhỏ nhoi, cộng sinh, thuận theo tự nhiên. Một đám đông không mờ mờ nhân ảnh mà rõ rành, sắc nét từng cá thể, bởi vì họ sống thực, sống tự nhiên cuộc đời của họ. Và Tô Hoài luôn bị hấp dẫn bởi cái thực, mộc và tự nhiên đó...
Thuận thiên, và yêu cái tự nhiên, hình như ấy là cốt cách sống và quan niệm nghệ thuật mà Tô Hoài đã có và thể hiện trong suốt cuộc đời mình, từ những trang viết đầu tay cho đến trang viết cuối cùng. Nếu nghĩ kỹ, thật khó xếp Tô Hoài vào một trào lưu nào: hiện thực hay lãng mạn? xã hội hay phong tục? Không ngả sang duy mỹ, không trau chuốt ngôn từ theo trào lưu lãng mạn thời 1932-1945; tránh được phần lớn lối khái quát hóa của trào lưu hiện thực và xu hướng sử thi, hình như Tô Hoài vượt ra ngoài các khung định sẵn.
Các cốt truyện của Ông thường không chặt chẽ, ít mang tính luận đề như rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam thế kỷ XX. Khả năng vượt khung này hình như cũng vừa là tính cách, vừa là phong thổ. Có thể nhớ đến hai khuôn mặt tiêu biểu của văn chương Hà Nội: Tô Hoài và Nguyễn Tuân. Cả hai đều xuất hiện muộn (những năm 40 của thế kỷ XX), đời văn dài, đều giỏi nhặt nhạnh những điều cụ thể, tài hoa trong chi tiết và giọng kể. Nhưng đó là hai phong cách hoàn toàn khác nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch: Một neo giòng/ một hoài cổ; một ngồn ngộn đời thường/ một chạm khắc kỳ khu; một dõi theo muôn mặt chúng sinh trong kiếp đời lao khổ/ một hứng thú với những nhân dáng đặc biệt, những tình huống đắt, ngợi ca cái đẹp và thú vui; một dung dị, thản nhiên, thoáng giễu cợt khiêm nhường/ một cầu kỳ, nghiêm trang mà ngông nghênh, kịch tính. Nhưng “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già” (Truyện Kiều), Nguyễn Tuân có lúc bảo là Tô Hoài mới là người có méthode.[2]
Từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến tạp văn, Tô Hoài duy trì được cái cách kể kề cà xộc xệch rất hiện đại, phả được tiếng rì rầm phồn tạp và cái nhịp điệu tự nhiên của đời sống. Những mở đầu và kết thúc thường lửng lơ, đột ngột. Phần lớn các nhan đề của Ông cũng toát lên cái dung dị tự nhiên ấy. Này đây không gian: Quê nhà, Quê người, Những ngõ phố, Chuyện cũ Hà Nội, Cát bụi chân ai; này đây thời gian: Chiều chiều..; này đây muôn mặt chúng sinh: Mẹ mìn bố mìn, Kẻ cướp bến Bỏi, Giấc mộng ông thợ dìu, Ba người khác... Càng về già, ngôn ngữ văn chương của Tô Hoài càng trĩu nặng phù sa văn hóa sông Hồng. Ông cứ nói miên man từ chuyện này sang chuyện kia, cấu trúc câu ngoắt ngoéo với tầng tầng lớp lớp từ ngữ mới/ cũ, của đường phố/ làng quê, của đối thoại/ độc thoại: Tô Hoài say kể và chúng ta say nghe, chăm chú mà nhẹ nhõm...
Đặc biệt, ngay từ những trang viết đầu tay của tuổi đôi mươi, như Cỏ dại, đã hằn lên một phong cách quan sát và tự quan sát cực kỳ tinh tế và một khả năng biểu hiện cực kỳ rõ rành, tỉnh táo, không ve vuốt, không nương nhẹ. Ở đó Tô Hoài đã thể hiện khả năng tự phân tích, tự phê phán và tự giễu nhại. Nhân vật tôi xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Tô Hoài, đi cùng với các nhân vật đám đông của Ông, dân dã và đôi khi nhếch nhác, di chuyển và trò chuyện trong giòng chảy của lịch sử, trong các biến thiên của thời cuộc. Nhưng ở đó nhà văn không kêu lên tha thiết: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi. Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu” (Xuân Diệu, Những đêm hành quân) mà thường nói thật cái chút lưỡng lự, chút tính toán tinh ranh nhỏ bé trong mình, trong người, và thường tự giễu mình, giễu người, trong mỗi khi chọn lựa. Đứng giữa giòng mà vẫn chăm chú với cái ngoại vi, dấn mình vào cõi nhân sinh mà vẫn thiết tha với thế giới tự nhiên. Tô Hoài như vậy hiện đại và dân chủ. Từ xu thế chung, Vũ Ngọc Phan và Vương Trí Nhàn cho Ông là có cái nhìn khinh bạc và hư vô. [3]
Nhưng văn chương Tô Hoài sẽ còn mãi, xanh biếc theo thời gian. Vì nó lưu giữ cho chúng ta đời sống. Vì nó phả lại nhịp đập của lịch sử. Vì nó nói lên câu chuyện muôn đời của kiếp nhân sinh. Sẽ còn có ai sau Tô Hoài làm công việc ấy cho thời này của chúng ta hôm nay?
Nhớ đến Tô Hoài hôm nay, là nhớ đến một người văn và một đời văn tủm tỉm nụ cười. Nụ cười ấy vừa trẻ thơ láu lỉnh vừa lão thực trầm tư. Ông không mang lại cái nhìn ngạc nhiên, Ông ít tạo nên kịch tính vậy mà trang viết của Ông vẫn cứ tươi mới, vẫn cứ đầy ắp những giao cảm âm thầm. Bằng cuộc đời và trang viết, Tô Hoài như nói với chúng ta rằng: “Cuộc đời là như vậy đấy. Ai gắn bó và yêu thương nó thực thà, sẽ luôn tràn đầy cảm hứng.”

SG, 5-7-2015
NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
[1] Theo thần thoại Hy Lạp, “thần Hermès là thần bảo hộ cho kẻ trộm, người du lịch, các sứ thần, mục đồng và chăn nuôi, người thuyết trình, thương nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn chương và thơ, các đơn vị đo lường, điền kinh, thể thao, sự khôn ngoan, lanh trí, và các phát minh, sáng chế, ngôn ngữ...” nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hermes
Dẫn nguồn ngày 5-7-2015.
-Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, từng dạy học, bán hàng, kế toán hiệu buôn, phóng viên, chủ nhiệm báo Cứu Quốc, Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội...
[2] Theo lời kể của Vương Trí Nhàn trong "Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du": “Hồi sinh thời Nguyễn, có lần tôi đánh bạo hỏi, thì được cụ trả lời: – Mình làm việc có mê-tót gì đâu! Có mê-tót, phải là sừ Tô Hoài”. Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/to-hoai-va-nhung-nghiem-chinh-…/, dẫn ngày 5-7-2015.
[3] Vũ Ngọc Phan (1960) Nhà văn hiện đại , Nxb. Thăng Long, Sài Gòn, tr.1118: “Về sau, người ta thấy những truyện ngắn của ông trong Tiểu thuyết Thứ Bảy hơi đá giọng trào lộng và khinh bạc...”
Vương Trí Nhàn, Bđd: “Có một thoáng gì đó, như là một chút hư vô trong con người thực dụng Tô Hoài chăng? Một nhận xét như thế là đầy mâu thuẫn, nhưng biết sao được, con người mỗi chúng ta trong những năm này bị bao sức mạnh xâu xé, kể sao cho xiết! Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/to-hoai-va-nhung-nghiem-chinh-…/, dẫn ngày 5-7-2015.

Tài liệu tham khảo:
1.Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb. Thăng Long, Sài Gòn.
2. Vương Trí Nhàn (2005), Cây bút, đời người [Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du] Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

Nguồn: Tham luận tại hội thảo do Hội nhà văn Hà Nội tổ chức, kỷ niệm một năm ngày mất của Tô Hoài (2015).

1. Dẫn nhập

            Lý thuyết hậu thuộc địa (hậu thực dân) được hình thành từ cuối thập niên 90 của thế kỷ XX. Lý thuyết này nhằm giải thích những biểu hiện đặc biệt trong nền văn học của các nước cựu thuộc địa, điều mà phương Tây không thể lý giải nổi bằng những lý thuyết đã có. Một trong những biểu hiện tiêu biểu của văn học hậu thuộc địa là tính nước đôi. Đó là trạng thái giằng co giữa khước từ và tiếp nhận, kháng cự và tuân phục, căm ghét và ngưỡng mộ,… ở chủ thể thuộc địa / chủ thể hậu thuộc địa. Theo Lê Thị Lan Anh: “Thay vì cho rằng có những chủ thể thuộc địa “tiếp tay” (complicit) và có những chủ thể thuộc địa “chống đối” lại thực dân, thuật ngữ tính chất nước đôi đã diễn tả sự thích ứng – chống đối tồn tại và chuyển hoá liên tục ngay trong chính một chủ thể thuộc địa”[1].

Sự giằng co này có thể được thể hiện trong tâm lý, trong tư tưởng hoặc trong diễn ngôn của chủ thể; và những biểu hiện đó được xem như cách giúp chủ thể thuộc địa vượt thoát khỏi tình trạng bị lệ thuộc.

            Trong bài viết này, chúng tôi muốn tìm hiểu tính nước đôi trong một trường hợp cụ thể, truyện ngắn Con thú tật nguyền của Ngụy Ngữ, một tác phẩm thuộc dòng văn học yêu nước ở các đô thị miền Nam 1954-1975. Nguỵ Ngữ tên thật là Nguyễn Văn Ngữ, sinh năm 1947 tại Huế. Trước năm 1975 ông cộng tác với nhiều tạp chí (Đối Diện, Đất Nước, Trình Bầy, Ý Thức,…), đặc biệt là cộng tác với tạp chí Việt – do sinh viên yêu nước chủ trương. Con thú tật nguyền là truyện ngắn được Ngụy Ngữ sáng tác năm 1969.

            Khi viết truyện ngắn Con thú tật nguyền, Ngụy Ngữ có lẽ không thật sự ý thức được thế nào là hậu thuộc địa hay tính nước đôi (vì lý thuyết hậu thuộc địa mới hình thành từ thập niên 90 của thế kỷ trước, và chỉ mới được quan tâm nghiên cứu ở Việt Nam những năm gần đây). Nhưng tác giả không có khái niệm về một lý thuyết nào đó không có nghĩa là người đọc không thể tìm thấy biểu hiện của vấn đề đó trong tác phẩm. Bởi tâm thế hậu thuộc địa là tâm thế được hình thành một cách tự nhiên, do sự quy định của hoàn cảnh lịch sử, mà miền Nam khi ấy có thể xem là hoàn cảnh lịch sử khá điển hình. Lịch sử Việt Nam có nhiều trang bi tráng về những cuộc chiến tranh liên miên, về nhiều lần bị đô hộ, bị lệ thuộc, những chấn thương dai dẳng ấy rõ ràng không phải sau 1954 mới có, và không chỉ có ở riêng miền Nam. Chính vì thế, ở miền Nam sau 1954, nhất là trong khoảng thời gian 1965-1975 (khi Mỹ lộ rõ hành vi xâm lược bằng việc đổ quân ào ạt vào miền Nam), con người vừa mang những chấn thương hậu thuộc địa của quá khứ, vừa mang những chấn thương hiện tại. Hoàn cảnh đó đã tạo nên tâm thế thuộc địa và hậu thuộc địa ở nhân dân miền Nam, trong đó có các văn nghệ sĩ. Như vậy có thể xác định biểu hiện nước đôi trong tác phẩm này là xuất phát từ tâm thức của tác giả chứ không phải từ ý thức về lý thuyết, nghĩa là Nguỵ Ngữ không viết truyện ngắn này dưới ánh sáng lý thuyết hậu thuộc địa.

 

2. Sự giằng co về mặt văn hoá

            Con thú tật nguyền của Ngụy Ngữ kể về Bình, một người lính quốc gia; người kể là “tôi”, là đồng hương và đồng đội của Bình. Câu chuyện đời Bình được tái hiện trong dòng suy nghĩ của “tôi” khi đưa xác Bình về quê. Ở tuổi thanh niên, Bình vào dân vệ xã, rồi vì căm giận người chị làm nghề bán thân mà đốt nhà, bỏ đi, đăng vào lính Prou, sau đó chết trong một trận Việt cộng công đồn, được chị và bạn đưa trở về quê, được người ở quê đón nhận. Câu chuyện đời Bình éo le nhưng không cá biệt trong hoàn cảnh bấy giờ, và tâm trạng của Bình, cũng như của “tôi”, có lẽ cũng là tiêu biểu cho nhiều thanh niên lớn lên trong hoàn cảnh ấy.

            Từ mùa hè 1965, Mỹ can thiệp trực tiếp bằng cách ào ạt đổ quân vào miền Nam Việt Nam. Hàng triệu lính Mỹ và đồng minh tham chiến ở miền Nam, cộng với những rạn nứt từ trước trong xã hội đã tác động mạnh mẽ đến đời sống của nhiều lớp người. Thanh niên khi ấy như một miếng mồi của những biến thiên, những rạn nứt, những xâu xé ngoài xã hội và trong cuộc chiến. Họ lớn lên từ cái nôi của quê nhà, nhưng lại bị tác động dữ dội bởi chiến tranh và những yếu tố ngoại lai, từ tư tưởng cho đến hành vi, từ tinh thần cho đến vật chất. Họ trở thành “chủ thể thuộc địa” với những dằn vặt, mâu thuẫn, trải nghiệm, lựa chọn và trả giá. Họ không chỉ đơn giản chọn một trong hai thái độ: “tiếp tay” hay “chống đối” Mỹ và chính quyền Sài Gòn, mà trong rất nhiều người có sự trộn lẫn của cả hai thái độ đó. Một mặt họ kháng cự hoàn cảnh, chống đối hoàn cảnh, nhưng mặt khác họ lại tiếp nhận, cố thích ứng với hoàn cảnh ấy; và hai điều này không phải lúc nào cũng dứt khoát mà thường xuyên đan xen lẫn nhau. Chính sự giằng co đó đã tạo nên ở họ những chấn thương, có khi trầm trọng và tức thời, cũng có khi thầm lặng mà dai dẳng. Ngụy Ngữ đã khắc hoạ những hình tượng thanh niên mang đậm dấu ấn của chủ thể thuộc địa, vì vậy ở họ cũng chứa tính chất nước đôi khá điển hình.

Trước hết, tính nước đôi thể hiện ở sự giằng co về mặt văn hoá, sự giằng co giữa truyền thống và “phản truyền thống” – hay nói cách khác, có thể xem đó là tính nước đôi đối với quê nhà, một trạng thái phức tạp của chủ thể thuộc địa trong hoàn cảnh bị lệ thuộc. Đó là tính chất nước đôi giữa chấp nhận và khước từ, giữa truyền thống và ngoại lai, giữa cũ và mới… Hành động Bình đuổi đánh chị Nga, và sau đó đốt nhà, là sự giằng co giữa truyền thống và phản truyền thống, tất nhiên trong đó có bao hàm nghĩa cũ và mới, tốt và xấu. Việc đánh chị phần nào chứng tỏ sự trong sáng ở nhân cách của Bình lúc ấy. Cậu thấy việc chị mình làm đĩ là ô nhục, không thể chấp nhận được. Đó là phần trong sáng, là đạo đức, là truyền thống ăn rễ sâu trong nhân cách cậu, nó vùng lên xung đột quyết liệt với sự ảnh hưởng của lối sống Mỹ mà chị cậu vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm. Sự xung đột, giằng co giữa tốt và xấu, giữa truyền thống và phản truyền thống đã khiến chàng trai ấy không đủ sức chống đỡ. Nó tạo nên một chấn thương không dễ lành trong tâm hồn Bình. Hành động đánh chị, đốt nhà vừa là sự phản ứng quyết liệt, lại vừa là biểu hiện sự thất bại của Bình.

Ở một góc độ khác, người đọc có thể cảm nhận rõ sự lạc lõng, bơ vơ của Bình ngay trong chính ngôi nhà của mình. Ngôi nhà là mái ấm, là nơi yêu thương, là chỗ dựa bình yên… tất cả những định nghĩa đó đã không còn đúng với chị em Bình, và có lẽ với nhiều thanh niên miền Nam giai đoạn đó. Cha Bình bước ra từ cuộc kháng Pháp với thân thể (và có lẽ cả tâm hồn) không nguyên vẹn. Rồi cha mất vì té xuống ao (không biết vô tình hay cố ý), mẹ mất khi đang kể dở dang câu chuyện, em vào dân vệ, chị làm đĩ. Gia đình vỡ vụn. Chính sự vỡ vụn đó đã khơi nguồn cho cảm giác mất mát, hụt hẫng, chia lìa, thương tổn ở Bình. Quê hương, ngôi nhà là nơi cậu lớn lên, chị Nga là người thân ruột thịt còn lại của cậu. Nhưng giờ đây cậu không muốn (và không thể) gắn bó với ngôi nhà đó, người chị đó, kỷ niệm đó, và cả quê hương đó nữa, vì vậy cậu đánh chị, cậu giẫm nát chiếc chõng, cậu đốt nhà, và cậu bỏ xứ mà đi. Những chấn thương dữ dội khiến Bình vùng vẫy, bỏ đi, tưởng như chiến thắng nhưng thật ra con đường đó lại chính là con đường khiến cậu thảm bại. Cậu đánh chị Nga vì cho rằng chị cậu đã không giữ được nhân phẩm – như là một nét đẹp văn hoá của phụ nữ Việt; nhưng đồng thời chính cậu lại quay ra nguyền rủa nguồn cội, dứt áo ra đi – hành động trái ngược với đạo lý truyền thống. Quê nhà đối với cậu vừa thân yêu nhưng lại vừa xa lạ, đau đớn. Bình đốt nhà, nguyền rủa quê hương và ra đi – đó là hành động điển hình biểu thị trạng thái mất cội rễ của chủ thể thuộc địa. Ngày ra đi, Bình mang một tâm trạng thù hằn dữ dội. Đối với quê hương khi đó, Bình là “đứa con hận thù (…) đã ngang ngược khạc nhổ, bỏ đi”. Bình phủ nhận cội rễ, từ chối nguồn gốc, Bình như cái cây tự “bật rễ” (uproot) khỏi đất mẹ. Bình quyết tâm không trở về, kể cả khi đã chết: “Mẹ, để rồi mày xem, tao đã nói rồi mà, tao không trở về, tao chết mày bỏ mìn vào bụng bấm cho tung bét cả đi”.

Lời dặn ghê rợn đó là bằng chứng cho trạng thái cô đơn tột cùng, cho tình cảnh không nơi bấu víu của Bình. Cậu thậm chí không có nguyện vọng được về với đất mẹ, chỉ muốn thân thể mình biến mất, không làm bận tâm ai, không cho ai “nhìn mặt lần cuối”. Đó là kết quả của những chấn thương dồn dập đối với cậu.

Như vậy, có thể thấy tính nước đôi ở truyện ngắn này trước hết là tính nước đôi đối với quê nhà, là sự giằng co về mặt văn hoá, giữa truyền thống và phản truyền thống, giữa cũ và mới. Nhân vật không chịu nổi sự giằng co ấy nên buộc phải chọn một bên, chỉ có điều khi tưởng như là chọn truyền thống, chính nhân vật lại quay lưng với truyền thống. Bình đã rơi vào sự giằng co, có lẽ phức tạp hơn cậu tưởng. Cậu tưởng bỏ đi là xong, gạt chị Nga ra một bên là hết. Nhưng tình chị em của Bình, gia đình của Bình lại là mối quan hệ gắn bó từ máu thịt, dù máu thịt ấy có “không còn sinh khí” (chữ dùng của Lê Thị Vân Anh) nhưng cậu cũng không thể nào dứt bỏ nổi. Chúng ta có thể thấy ở đây không có một ranh giới rõ ràng giữa đúng và sai, giữa tốt và xấu. Bình hiện ra như một kẻ phản bội văn hoá, dù hành động của cậu ban đầu là nhằm bảo vệ truyền thống văn hoá vốn ăn sâu trong tâm thức cậu. Tình trạng nước đôi của Bình là vừa bảo vệ truyền thống, vừa đạp đổ nó; vừa quyết liệt loại trừ cái phản truyền thống, vừa tự mình lún sâu vào. Đó cũng chính là tình trạng của nhiều thanh niên miền Nam thời kỳ đó, là bi kịch đau đớn mà có khi bề mặt chiến tranh dễ làm nhiều người bỏ qua nó, xem nhẹ nó. Ở cuối tác phẩm, tiếng tụng kinh vẳng trên sông cùng với tiếng khóc dành cho Bình như là biểu tượng của sự bao dung, an ủi, xoa dịu cả người chết lẫn kẻ sống. Và đó có lẽ cũng là dụng ý của tác giả. Nghi lễ mang tính truyền thống ấy chính là sự đón nhận trở lại kẻ đã phản bội văn hoá, và là điều giúp “tôi” dễ dàng hơn trong quyết định ở lại quê hương của mình.

 

3. Sự giằng co trong việc lựa chọn đường đi, xác định thân phận

            Sự giằng co thứ hai ở Bình, cũng đau đớn không kém, là giằng co trong việc lựa chọn đường đi, xác định thân phận của mình. Các chủ thể thuộc địa thường mang chấn thương, hoang mang trong việc xác định thân phận mình là ai, mình nên đi đâu, làm gì. Trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt như miền Nam 1965 – 1975, sự giằng co này càng quyết liệt hơn.

Như nhiều thanh niên khác, Bình phải lựa chọn một con đường, và cậu đã chọn vào dân vệ, với lời kêu gọi của chính quyền Sài Gòn: “Bạn muốn làm gì cho nước – hãy vào dân vệ xã”. Hành động đó bề ngoài như một sự “tiếp tay” cho thực dân, nhưng thực ra đó có thể chỉ đơn giản là sự ngộ nhận của không ít thanh niên thời kỳ ấy, hệ quả của những luận điệu giả dối mà Mỹ và chính quyền Sài Gòn thường xuyên tiêm nhiễm vào đầu họ. Khi rủ “tôi” vào dân vệ, có lẽ Bình đã thực sự nghĩ rằng đó là con đường tốt để một thanh niên như cậu có thể giúp ích cho xã hội, cho đất nước. Đó là khao khát cống hiến thường thấy ở thanh niên. Nhưng khi con đường đi không phải được lựa chọn bằng lý tưởng, và khi đã đi vào con đường đó mà vẫn chưa tìm thấy lý tưởng, người ta càng dễ trở nên hoang mang. Có thể Bình có khao khát cống hiến nhưng cậu đã không thể nhận rõ mục đích của mình là gì, vì vậy không khó hiểu khi cậu dễ dàng cáu bẳn với xung quanh. Ở đây người đọc có thể nhận thấy trạng thái cô đơn rất điển hình của chủ thể thuộc địa. Họ vẫn sống giữa nhiều người nhưng luôn có cảm giác không ai đồng hành, luôn muốn thoát khỏi tình trạng bức bối hiện tại. Sự mất phương hướng tạm thời đó ở Bình lại bị tác động bởi một yếu tố khác: chị cậu trở thành gái điếm. Việc đó như một giọt nước làm tràn cái ly phẫn uất, lạc lõng trong Bình. Việc Bình bỏ dân vệ, đăng lính Prou là kết quả của sự giằng co dữ dội đó. Người thanh niên ở một nước thuộc địa trong hoàn cảnh ấy tự mình đi sâu vào mâu thuẫn của số phận mình. Một mặt cậu thấy việc chị làm (do xã hội tác động) là xấu, là cần loại bỏ, mặt khác chính cậu lại bất lực và thấy mình phải tham gia vào xã hội ấy, để trả thù đời, hay chỉ đơn giản là để bứt khỏi nơi mà cậu đã chịu quá nhiều chấn thương. Như vậy có thể thấy ở nhân vật Bình sự giằng co cả về mặt văn hoá, nguồn cội lẫn sự lựa chọn đường đi cho thân phận mình.

Nhìn từ bên ngoài, chấn thương của Bình xuất phát từ gia đình (như đã phân tích ở trên). Nhưng từ sâu bên trong, nguồn gốc sâu xa của nó lại chính là từ thân phận thuộc địa của Bình, của “tôi”, của nhiều thanh niên miền Nam thời kỳ đó. Họ hoang mang, đau đớn, ám ảnh, tìm cách giải thoát, họ từ chối nguồn gốc để ra đi, để tìm kiếm, nhưng họ không bao giờ tìm thấy cái mà họ tưởng là sẽ gặp. Họ vùng vẫy hết sức để chứng minh sự tồn tại của mình. Họ đã chạm lên tay hàng chữ “Ra đi vì đời”. Ít nhất đó là mong muốn của họ, khát vọng của họ trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm thoát khỏi tình trạng mâu thuẫn hiện tại. Nhưng mãi đến khi đưa thi thể không còn nguyên vẹn của Bình trở về, “tôi” vẫn còn dằn vặt hỏi Bình:

Mày đã dẫm nát chiếc chõng, ném lửa vào căn nhà, nhổ máu lên vùng đất này, ra đi. Ra đi vì đời. Có phải cuộc đời mà vì nó mày ra đi là cuộc đời đang vây quanh đây không, cuộc đời đang hiện lên những khuôn mặt già yếu, giá lạnh, đốt nến thắp nhang, đòi hỏi lá cờ. Có phải? Hay còn những cuộc đời nào?

và tự hỏi mình:

Cuộc đời mà Bình chửi có phải là cuộc đời đang thu gọn lại bằng hình ảnh một đứa con trai và một đứa con gái uống cà phê, hút thuốc chuyện trò ngặt nghẽo cười, áo quần đúng mốt, tiếng nói thì thầm. Cuộc đời mà chúng ta không thể nào tham dự vào được, phải không Bình? Chị Nga đã chạy theo, bị loại ngay từ vòng thứ nhất đầu ngày con gái và chúng tôi không biết làm gì hơn là chọn một thứ kẻ thù, bất lực, tàn bạo, vô vị, rồi từ đó lao đầu vào chiến tranh, bị đánh đổ xuống, giương mắt trợn trừng, trút xuống họng lắc lưởng.

Những thanh niên ấy đã “bật rễ” ra đi và đã trở về như thế, vẫn với sự hoang mang ban đầu. Khi “ra đi vì đời”, họ chưa biết cuộc đời đó là thế nào, nhưng ít nhất có lẽ họ cũng mong nó tốt đẹp hơn cuộc đời mà họ đã từ bỏ. Nhưng họ đã thất vọng, và thất bại. Hoá ra cuộc đời mà Bình chửi mắng ngày ra đi vẫn còn hiện hữu, mà Bình thì chỉ có thể quay về trong thinh lặng với một thi thể không nguyên vẹn. Mà không phải chỉ Bình. Bạn bè của Bình, những Ý, những Vân, cũng đã trở về nằm dưới đất mẹ như thế. Hoá ra, cả người đã chết như Bình, Ý, Vân; cả người còn sống như “tôi”, Thi, tất cả những thanh niên như họ, chưa bao giờ tham dự được vào cuộc đời đó. Họ như những kẻ ngoài rìa, lạc lõng với đầy những chấn thương. Đó là con đường và là bi kịch thường thấy của chủ thể thuộc địa khi tìm cách “hoà nhập” với thực dân. Nếu may mắn, họ có thể có cảm giác mình được “trọng dụng” một lúc nào đó, nhưng thực chất họ chỉ là những kẻ ngoài rìa, là “hạ đẳng” trong cái nhìn của thực dân. Số phận Bình, cuộc đời Bình là sự giằng co giữa chối bỏ và chấp nhận, giữa vùng vẫy và bất lực trên con đường xác nhận thân phận mình, tìm ra “căn cước” (identity) của chính mình. Nhìn từ bề ngoài, hành động của Bình rất khó chấp nhận. Trong chúng ta đã ăn sâu ý nghĩ, dù là ai, dù vì lý do gì, kẻ phỉ nhổ quê hương chỉ có thể là kẻ bỏ đi. Và trong chiến tranh, khi cần cái nhìn rạch ròi nhất, chúng ta dễ cho rằng cái chết của Bình chính là cái giá mà cậu nhất định phải trả, xứng đáng và không có gì phải bàn cãi, cũng không cách nào để biện minh. Nhưng Ngụy Ngữ đã cho người đọc một suy nghĩ khác. Cuộc đời Bình cũng chỉ là một bi kịch đáng thương, bi kịch không phải chỉ do cậu gây ra. Không ai biện hộ “trắng án” được cho cậu, nhưng cũng không nên chỉ xem cậu như kẻ tội đồ. Tình trạng bơ vơ, lạc lõng, mất phương hướng, lựa chọn sai lầm và trả giá cho sai lầm đó không phải là tình trạng của riêng Bình, trong bối cảnh miền Nam trước 1975.

 

4. Sự giằng co giữa ra đi và trở về

Sự giằng co thứ ba thể hiện tính chất nước đôi ở tác phẩm này chính là giằng co giữa việc tiếp tục đi lính hay trở về của nhân vật “tôi”. Ở Bình cũng có ra đi và trở về, nhưng sự trở về của Bình là hoàn toàn thụ động, và cậu cũng không có cơ hội nhận thức được tình cảnh của mình. Còn “tôi” lại có cơ hội nhận thức, và chính vì có cơ hội nhận thức nên sự dằn vặt, giằng co ở “tôi” càng quyết liệt.

“Tôi” đã ra đi cùng Bình, có lẽ cũng cùng tâm thế mất cội rễ, muốn “bật rễ” như Bình; cũng cùng suy nghĩ “ra đi vì đời” như Bình. Đến ngày đưa xác Bình về quê, “tôi” đã cay đắng nhận ra sự vô nghĩa của việc ra đi: “Ra đi vì đời. Vì đời, vì cái gì? (…) Vì, không vì gì cả”.

Không có lý tưởng, họ đã dứt bỏ quê hương ra đi với một niềm tin mơ hồ: “ra đi vì đời”. Và “tôi”, trong muộn màng kết cục đời Bình, đã nhận ra rằng những thanh niên “bật rễ” khỏi quê hương như họ hoá ra chẳng vì cái gì cả. Cuộc đời Bình, kết cục của Bình được nhận thức một cách sâu sắc không phải bởi Bình, mà chính bởi “tôi”. Trong sự giằng co về mặt văn hoá, giằng co giữa ở lại quê hương và “ra đi vì đời”, Bình đã chọn ra đi. Ngày về của Bình, “tôi” đã nhận ra điều tưởng chừng quá bình thường nhưng lại vô cùng quan trọng: “Bình sứt đã về… Tất cả mọi ngọn lá đều rụng về cội. Tất cả mọi ngọn lá đều có cội, không có ngọn nào dưới lỗ nẻ đục lên cả”.

Đó là nguồn cội thân thương, đơn giản nhưng thiêng liêng. Nguồn cội đó không chung chung, mơ hồ mà hiện lên thật cụ thể ngày Bình trở về: “Bình sứt cũng có tổ quốc, có xóm làng, có người thân yêu như ngày nào rủ tôi vào dân vệ xã”.

Trong bối cảnh xã hội miền Nam lúc ấy, những lời trên có giá trị khơi gợi nhận thức ở thanh niên: nhận thức về nguồn cội, về tổ quốc, xóm làng, về những người thân yêu. Đó mới là nơi chốn bình yên của họ, mới là những người giang tay đón họ trở về. Ngày cuối của họ chỉ còn lại những điều ấy, chứ không phải (và không hề có) cái hào quang lấp lánh mà ai đó đã vẽ ra cho họ ngày họ vào lính. Điều giản dị ấy, chua xót thay, “tôi” chỉ nhận ra khi đã đi hết một vòng đau thương và quay về, chỉ nhận ra khi chính mình là chứng nhân cho kết cục thật bi thảm của Bình:

“Cánh tay lẻ loi nằm trên miệng hố đất, hàng chữ chạm nguệch ngoạc, cái đầu cháy đen, từng mảng da tróc bày sọ trắng, chút cuống họng dính vào phía dưới. Cuối cùng, đời thằng Bình chỉ còn lại chừng đó cho ngày tôi đưa hắn về. Thằng Bình thù hằn bỏ đi năm nào đã trở về quê cũ (…) Mày tung bét ra và tao buồn rầu nhặt nhạnh xếp vào áo quan mang về nơi mày đã nguyền rủa bỏ đi, nơi chôn nhau cắt rốn của mày…”.

Bi kịch của Bình là bi kịch của sự nhầm lẫn. Bình đã nhầm khi chọn con đường trong sự giằng co của đời mình, và cậu không có cơ hội nhận thức, sửa chữa sai lầm đó. Còn “tôi” thì có, dù chưa biết sẽ dẫn đến đâu. “Tôi” đau vì cái chết của bạn nhưng cũng không biết chính mình (và những người khác như mình) rồi sẽ ra sao:

“Còn tôi, tôi đang sống, tôi về đây và tôi sẽ ra sao trong chiều nay, trong ngày mai?”.

Đó không phải chỉ là sự lo lắng cho tương lai, cho số phận mà còn là những trăn trở về cuộc đời, về lẽ sống của thanh niên. “Tôi” đã nhận ra, cuối cùng thì họ cũng chỉ là những kẻ bên lề cuộc đời, những con người không được cuộc đời thừa nhận. Chị Nga bị loại ngay từ đầu, bởi cái nghề của chị, cho người ta niềm vui trong chốc lát, còn mình nhận lại tất cả khinh bỉ, hắt hủi của đời, kể cả của đứa em ruột thịt. Bình đã bị loại một cách thê thảm, thân xác không toàn vẹn mà không có ai dành một lời nào để cho linh hồn Bình – nếu có linh hồn – biết rằng cậu đã “hy sinh” vì “lý tưởng”. Còn “tôi”, chứng kiến tất cả, nhận thức được tất cả, tưởng chừng như “tôi” có cơ hội tuyệt vời để thay đổi kết cục đời mình. Nhưng không dễ như thế. Chính quyền và quân đội Sài Gòn không dễ để “tôi” quay về khi vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng quan trọng nhất là, những chấn thương khủng khiếp mà cậu phải mang không dễ để yên cho cậu “làm lại cuộc đời”, dù cậu đã quyết tâm: “Chúng ta đang mang nhau về đây. Phải trở về lại vùng đất này, dù muốn dù không. Tất cả đã hết rồi. Chúng ta là những con thú tật nguyền khốn đốn mang vết thương về, lặng lẽ liếm vết máu mình, đợi giờ rũ chết”.

Ngụy Ngữ đã chọn một hình ảnh hết sức ấn tượng – con thú tật nguyền – như một sự tổng kết cho những gì mà các nhân vật phải chịu đựng. Sự giằng co ngoài xã hội, giằng co trong chính bản thân họ - giữa cũ và mới, giữa đi và ở, giữa quê hương và thực dân,…- đã tạo nên quá nhiều chấn thương cho họ: “Chúng ta đã ra đi từ nơi này và giờ đang mang nhau về. Chúng ta đã đi hết một vòng mệnh kiếp của mình. Tất cả đã hết, đã rồi, và tao chỉ còn lại một mình với cả ngày mai mênh mông không toan liệu. Biết làm sao đây!”.

“Biết làm sao đây!” – không phải câu hỏi mà là một câu cảm thán. Không hỏi, vì chính mình còn không biết thì ai có thể trả lời giúp mà hỏi? Câu ấy chỉ như một lời cảm thán, một tiếng nói bất lực của chủ thể.

Như vậy, có thể thấy các nhân vật trong Con thú tật nguyền đã trải qua những dằn vặt, những quăng quật của cuộc đời, đã lãnh chịu những vết thương ghê gớm cho chính sự lựa chọn của mình. Sau tất cả, họ mới nhận ra mình chỉ là những con thú tật nguyền, không chỉ tật nguyền vì bị giằng co, xâu xé, mà còn tật nguyền vì chính sự lựa chọn sai lầm, vì đã ruồng bỏ quê hương mà đi. Bất kỳ ai chửi rủa, nhổ máu lên nơi chôn nhau cắt rốn cũng đều là kẻ tật nguyền trong tâm hồn. Người đọc có thể trách họ, nhưng trên tất cả vẫn là tình thương và sự cảm thông. Đằng sau bi kịch của họ là những chấn thương tiềm ẩn từ lâu của chủ thể thuộc địa, của người dân một đất nước đã trải qua quá nhiều cuộc chiến tranh. Ai cũng muốn mình có một lựa chọn rõ ràng, dứt khoát và đúng đắn trong hoàn cảnh lịch sử như thế, nhưng điều đó đâu phải dễ dàng. Ngụy Ngữ - có lẽ nhờ “ưu thế” của người trong cuộc, từng là lính quân đội Sài Gòn – đã nhận ra tình trạng nước đôi đầy bi kịch của các nhân vật.

 

5. Thủ pháp thể hiện tính nước đôi

Về mặt thủ pháp, tính nước đôi thường được bộc lộ trong những nghịch lý, trong cái mơ hồ, biểu tượng hoặc trong giọng kể. Với Con thú tật nguyền, Nguỵ Ngữ không viết dưới ánh sáng hậu thực dân nhưng việc thể hiện những giằng xé, bế tắc của nhân vật đã khiến tác giả đưa vào tác phẩm những nghịch lý, kèm theo đó là một số yếu tố nghệ thuật phù hợp như điểm nhìn trần thuật, giọng điệu.

Về nghịch lý trong tác phẩm, Bình và “tôi” đều ở trong hoàn cảnh đầy nghịch lý. Họ chạm lên tay dòng chữ Ra đi vì đời nhưng chính họ cũng không biết đó là cuộc đời nào, cho đến tận ngày Bình chết và “tôi” trở về trong hoang mang, tuyệt vọng. Họ vì đời nhưng cuộc đời không đón nhận họ, họ thậm chí còn không bước chân được vào cuộc đời ấy. Họ ruồng bỏ quê hương nhưng cuối cùng chỉ có quê hương là nơi đón họ trở về. Bình nguyền rủa chị Nga hư hỏng nhưng Bình lại phản bội nguồn cội (một dạng hư hỏng khác). Bình thù hằn chị Nga, thù hằn quê hương, bỏ ra đi, nhưng ngày Bình về cả chị Nga lẫn làng xóm đều đón Bình bằng sự bao dung. Những nghịch lý trên xuất hiện do mâu thuẫn giữa nhân vật và hoàn cảnh, hoặc giữa nhân vật với chính bản thân nó, càng làm cho tình trạng nước đôi ở nhân vật thêm đậm nét.

Về điểm nhìn trần thuật, tác giả chủ yếu sử dụng điểm nhìn bên trong. Người kể câu chuyện này là “tôi”, một trong hai nhân vật chính, vì vậy trước hết câu chuyện mà “tôi” kể là từ cái nhìn của người trong cuộc, kể về mình. Nhưng mặt khác, “tôi” không chỉ kể chuyện của mình, thật ra cũng không cốt ý kể chuyện của mình, mà là chuyện của Bình – có nghĩa là người khác kể về nhân vật chính, với điểm nhìn bên ngoài. Một câu chuyện đan xen giữa hai điểm nhìn, khi thì “tôi” đóng vai người ngoài kể lại đời Bình (khi Bình đốt nhà, đánh chị Nga, trả súng, đăng lính,…), khi thì “tôi” là người trong cuộc, cùng lựa chọn, cùng số phận, cùng bi kịch như Bình (tâm trạng của “tôi” khi đưa Bình về). Không có sự phân định rạch ròi giữa hai điểm nhìn đó. Điều này làm cho bi kịch đời Bình được kể lại một cách khách quan (từ “tôi”), nhưng đồng thời tính nước đôi, tình trạng bối rối, hoang mang, hỗn loạn trong suy nghĩ và hành động của nhân vật được biểu thị chân thực và sinh động hơn bởi cái nhìn của người trong cuộc.

Về giọng điệu, có lẽ đây chính là một trong những yếu tố nghệ thuật thể hiện rõ nhất tính nước đôi trong Con thú tật nguyền. Trước hết là sự đan xen nhiều giọng trong lời trần thuật. “Tôi” là người trần thuật nhưng trong truyện không chỉ có giọng của “tôi” mà còn có giọng của Bình, xen lẫn nhau, chồng lấn nhau. Trong dòng hồi ức về quá khứ và suy tư về hiện tại của “tôi” có cả những lời Bình từng nói, nhưng những lời đó không được thể hiện dưới hình thức lời đối thoại thông thường, không xuống dòng – không gạch đầu dòng, và cũng không ngoặc kép. Những đoạn trần thuật hiện thực xen lẫn hồi tưởng quá khứ, đối thoại của Bình xen lẫn độc thoại của “tôi” hướng về Bình, về xung quanh, và về chính mình. Chẳng hạn đoạn văn sau:

Mẹ, để rồi mày xem, tao đã nói rồi mà, tao không trở về, tao chết mày bỏ mìn vào bụng bấm cho tung bét cả đi. Và mày nổ tung ra, mày biết thế không Bình? Mày tung bét ra và tao buồn rầu nhặt nhạnh xếp vào áo quan mang về (…). Còn tôi, tôi đang sống, tôi về đây và tôi sẽ ra sao trong chiều nay, trong ngày mai?

Chỉ có 4 câu văn, nhưng lại gồm nhiều giọng. Câu thứ nhất là lời Bình dặn “tôi” (trong quá khứ, khi Bình còn sống), chứa đựng sự bất cần (thật ra là bế tắc, tuyệt vọng). Câu 2 và 3 là lời “tôi” nói với Bình, trong hiện tại, khi Bình đã chết. Câu thứ 4 là câu độc thoại, tôi tự nói với mình, hướng về một tương lai cũng mù mịt và tuyệt vọng không kém quá khứ và hiện tại. Rất nhiều chỗ trong tác phẩm Nguỵ Ngữ đã đan xen giọng kể như thế. Thủ pháp này làm cho tất cả quá khứ, hiện tại, lời nói – suy nghĩ của Bình, của “tôi” hoà trộn vào nhau, cũng khó tách bạch như chính tình thế bế tắc, chính tâm trạng rối bời của người trần thuật.

Bên cạnh đó, giọng kể trong Con thú tật nguyền rất buồn, chứa đầy sự phân vân, lưỡng lự, hoang mang. Điều đó thể hiện qua hàng loạt câu hỏi trong truyện. Ở đây chúng tôi loại trừ những câu hỏi mang tính hỏi – đáp giữa các nhân vật, cả dưới dạng tường thuật trực tiếp lẫn gián tiếp. Chúng tôi lưu ý đến những câu hỏi không cần hoặc không có câu trả lời, chủ yếu xuất hiện trong dòng độc thoại nội tâm của “tôi”. Trong 18 trang sách (khổ nhỏ) có 18 câu hỏi như thế, hướng tới nhiều đối tượng khác nhau. Đó những câu hỏi “tôi” hướng tới Bình (Và mày nổ tung ra, mày biết thế không, Bình? Có phải cuộc đời mà vì nó mày ra đi là cuộc đời đang vây quanh đây không, cuộc đời đang hiện lên những khuôn mặt già yếu, giá lạnh, đốt nến thắp nhang, đòi hỏi lá cờ. Có phải? Hay còn những cuộc đời nào? Cuộc đời mà chúng ta không thể nào tham dự vào được, phải không Bình?). Đó là câu hỏi hướng tới chị Nga (Chị khóc cho ai bây giờ.). Đó là những câu hỏi hướng tới người xung quanh nhưng không phải một đối tượng cụ thể nào (Có ai tên Bình giữa đám người vây quanh không. Con Nga làm đĩ, chị của thằng Bình sứt đấy, có ai biết không, có còn ai nhớ không). Và nhiều nhất là những câu hỏi tự vấn của “tôi” (Vì đời, vì cái gì? Còn tôi, tôi đang sống, tôi về đây và tôi sẽ ra sao trong chiều nay, trong ngày mai? Vết tích nào còn lại trong thịt da u ám này, nơi tiếng khóc vang ầm ầm rời rã, tiếng gọi tức tưởi đang vang vẳng ra. Sao tao không khóc được ngày mang mày về. Có phải có một thứ số mệnh khắc nghiệt áp đặt sẵn để, từ đó, đời sống được dựng lên, cho những kẻ này sinh ra là để hạnh phúc, để chuyện trò thầm thì, ngặt nghẽo cười đùa, và những kẻ khác sinh ra đời là để chịu những khổ đau, tàn bạo, miệng mồm hoặc chỉ để cầu xin khóc lóc hoặc chỉ để la hét, chửi thề. Cho đến ngày hôm nay tôi mới nhận thế sao?...). Tất cả những câu hỏi đó không mong được trả lời, hỏi chỉ như một cách bày tỏ ẩn ức trong lòng, và quan trọng hơn, như một cách để xác định thân phận của chính mình: mình là ai, việc mình đã làm là vì cái gì, và mình rồi sẽ ra sao. Như vậy, sự hoà trộn nhiều giọng và sự xuất hiện nhiều câu hỏi trong tác phẩm đã thể hiện tình trạng đặc thù của chủ thể thuộc địa: lưỡng lự, hoang mang, bế tắc trên con đường xác định căn cước của chính mình, trong sự va chạm với thực dân. Việc “tôi” lựa chọn sẽ ở lại, không đi lính nữa chính là kết quả của quá trình trải nghiệm và nhận thức đầy khó khăn này.

Về kết cấu tác phẩm, Ngụy Ngữ xuất phát từ hiện tại, nhưng diễn tiến không phải một chiều hướng tới tương lai. Mở đầu tác phẩm là hình ảnh chuyến xe chở quan tài Bình trở về. Trong khi vẫn kể những diễn biến tiếp theo, tác giả đã xen vào những chi tiết về xuất thân, về những biến cố trong đời Bình, về chị Nga, và cả về “tôi” – người kể chuyện. Hiện tại và quá khứ đan cài vào nhau, rối rắm như chính tình trạng hoang mang cực độ của nhân vật “tôi”. Điều này, theo chúng tôi, rất có ý nghĩa. Bình, “tôi”, chị Nga,… đều đã thất bại trong việc sắp xếp đời mình một cách logic. Họ mắc kẹt giữa những biến cố đời mình. Bình chết khi chưa thể giải quyết thỏa đáng câu hỏi mình đã ra đi vì cái gì, nếu là vì đời thì cuộc đời đó là gì. “Tôi” và chị Nga may mắn còn sống, nhưng họ như con cá mắc lưới, vùng vẫy một cách tuyệt vọng, không biết sự vùng vẫy đó sẽ giải thoát họ hay sẽ khiến họ càng mắc sâu vào đống lưới hỗn độn. Cách kết cấu đó thực sự tạo nên sự ám ảnh đối với người đọc, và hơn hết, biểu thị được tình trạng nước đôi đầy bi kịch của các nhân vật.

 

6. Kết luận

Có thể khi viết Con thú tật nguyền, Ngụy Ngữ không thật sự xuất phát từ lý thuyết hậu thuộc địa, nhưng những gì tác giả thể hiện đã đem lại cho người đọc nhiều suy nghĩ về tâm thế và bi kịch của chủ thể thuộc địa trong hoàn cảnh bị lệ thuộc. Điều đáng quý là tác giả đã tránh được cái nhìn một chiều khi đánh giá hiện thực, một hiện thực đang sinh thành và hết sức nhạy cảm như xã hội miền Nam 1965-1975. Hiện thực mà tác giả đem vào tác phẩm vừa đủ để làm một lời cảnh báo đối với những thanh niên chọn đi lính như một giải pháp xóa bỏ quá khứ, lãng quên nguồn cội; đồng thời lại cũng vừa đủ để cất lên tiếng nói cảm thông với tình trạng cô đơn không nơi bấu víu, sự hoang mang và tính chất nước đôi trong những người lính quân đội Sài Gòn. Chính những giá trị này đã giúp Con thú tật nguyền vượt khỏi khuôn khổ một tác phẩm tuyên truyền nhất thời, đem lại cho người đọc nhiều suy ngẫm khi “nhìn lại một chặng đường văn học” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá) đặc biệt: văn học ở các đô thị miền Nam 1954-1975.

BTT.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

           

Tiếng Việt

  1. Lê Thị Vân Anh, Tính chất nước đôi của chủ thể hậu thuộc địa trong Vu khống của Linda Lê, http://www.tienve.org/home/literature/
  2. Huỳnh Như Phương (2008), Những nguồn cảm hứng trong văn học, Nxb Văn nghệ, TP.HCM
  3. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb TP. Hồ Chí Minh
  4. Trần Thức (chủ biên) (2005), Viết trên đường tranh đấu, Nxb Thuận Hoá, Huế

Tiếng Anh

  1. Raman Selden, Peter Widdowson, Peter Brooker (1985), A Reader’s Guide to Contemporary Literary Theory, Prentice Hall/ Harvester Wheatsheaf, England.

[1] Lê Thị Vân Anh, “Tính chất nước đôi của chủ thể hậu thuộc địa” trong Vu khống của Linda Lê, http://www.tienve.org/home/literature/

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013

Tôi gặp anh lần đầu tiên vào đầu năm 1974 ở căn cứ Xuyên Trà (Quảng Nam), lúc đó tôi là một đứa học trò lớp 11 đang tham gia hoạt động cách mạng bí mật ở Đà Nẵng, thỉnh thoảng lên chiến khu nhận nhiệm vụ. Anh thì vừa ở tù Côn Đảo về trong đợt trao trả ở Lộc Ninh, từ cơ quan Khu ủy 5 xuống, chân vẫn đi khập khiễng do bị bắn gãy hồi Mậu Thân và bị tra tấn trong tù, mặt thì thâm đen do sốt rét. Bài học chính trị đầu tiên tôi được học là từ Phan Duy Nhân. Đó là thứ chính trị được nói bằng cả tâm hồn, trí não và thân xác, thỉnh thoảng sùi bọt mép, nó hào sảng bay bổng như thi ca. Từ lâu tôi không còn được nghe thứ chính trị hấp dẫn như thế nữa.

Lần đó tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, về lại thành phố mang theo cái huy hiệu Đoàn nhét trong lai áo và bản hùng ca sùi bọt mép của anh trong tim. Lúc đó mà vì cách mạng phải đi vào chỗ chết thì còn sung sướng hơn lên thiên đường. Cuối năm đó, tôi bị lộ phải thoát ly. Ngày 30 Tết, anh từ căn cứ của Khu băng rừng xuống, anh bảo xuống cho kịp giao thừa để mừng tôi lên chiến khu, nhưng đến nơi thì trời đã sáng. Anh tặng tôi một bó hoa rừng.

Khi Đà Nẵng giải phóng, tôi cùng làm việc với anh một đoạn, còn gặp gỡ thì nhiều. Trong đợt thi tú tài đầu tiên do chính quyền cách mạng tổ chức năm 1975, anh bảo tôi nộp đơn thi, tôi không chịu, nói cách mạng cần thực học chứ cần gì bằng cấp, anh mắng tôi nói bậy, bảo làm gấp hồ sơ để anh mang đi nộp, còn thi hay không thì tùy. Tôi nói tôi không có giấy tờ gì hết, khai sinh trước đây đi học thì khai nhỏ đi 1 tuổi, đối với cách mạng không dùng thứ giấy tờ “gian” ấy được. Anh hỏi tôi sinh ngày nào năm nào, tôi nói tôi biết năm chứ không biết ngày tháng. Anh đã tự tay làm cho tôi một giấy khai sinh, ghi đúng năm tôi nói, còn ngày tháng thì anh tự đặt. Tôi chính thức có ngày sinh tháng đẻ kể từ đó.

Những ngày đầu sau giải phóng, anh ăn ngủ cùng tôi ở cơ quan, đến khi giải phóng Sài Gòn anh mới đón vợ anh là chị Dương Thị Ngân Hà và con gái Phan Dương Triều Tân khi ấy 9 tuổi về đoàn tụ. Đối với đám “trẻ con” chúng tôi theo cách mạng hồi ấy, Phan Duy Nhân là thần tượng. Anh chắp cánh cho những tâm hồn ngây thơ trong trẻo của chúng tôi. Từ anh mà ngay cả việc lãnh lương hàng tháng chúng tôi cũng thấy mình không trong sáng. Và cũng vì sự ngây thơ trong trẻo dài lâu ấy mà trong chúng tôi, nhiều người tiếp tục cầm súng ra biên giới sẵn sàng hy sinh để giữ nước, những người còn lại đều “lên bờ xuống ruộng” và dù có “lên bờ xuống ruộng” vẫn tiếp tục “cố thủ” sự trong trẻo ngây thơ của mình.

Anh là một thi sĩ, tất nhiên rồi. Anh còn có học vấn uyên bác và là nhà chính trị đầy mưu lược, nhưng trên hết anh là con người hào hiệp, tinh tế và quật cường. Năm 1966, trong sự kiện nhân dân Đà Nẵng làm chủ thành phố 76 ngày, anh giữ vai trò như là một “chính ủy”, sự kiện đó được Bí thư thứ nhất Đảng Lao động VN Lê Duẩn tổng kết làm bài học nhân dân nổi dậy giành chính quyền.

Năm 1968, anh từ chiến khu xuống Đà Nẵng dẫn đầu cuộc biểu tình lớn, bị cảnh sát chính quyền Sài Gòn bắn gãy chân. Họ bắt anh vào tù, rồi cầm cái chân gãy của anh quay tít để tra tấn, nhưng mỗi lần hỏi cung, anh chỉ đáp lại một bài thơ kiên trung bất khuất. Anh bị đày ra Côn Đảo 6 năm, cho đến khi được trao trả, người còn đầy những vết tra tấn.

Giải phóng xong anh vẫn ở cơ quan Khu, khi Khu giải thể anh mới về tỉnh. Tôi biết ông Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy QN-ĐN lúc đó nhiều lần đề nghị đưa anh vào vị trí này vị trí kia của tỉnh, nhưng tỉnh không dung nạp. Người ta đưa anh về làm cán bộ Mặt trận của thành phố Đà Nẵng, lúc đó chỉ là cấp huyện. Trong một cuộc họp về tôn giáo vận của Trung ương anh được cử đi dự, sau khi nghe anh phát biểu, những ý kiến sắc sảo và có tầm cỡ của anh về tôn giáo đã lọt vào “mắt xanh” ông Nguyễn Văn Linh, lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Dân vận Trung ương.

Ông Nguyễn Văn Linh đã “xin” anh về Ban Dân vận Trung ương, tỉnh không “cho”, nhưng lập tức rút anh lên bổ nhiệm làm Phó ban Dân vận Tỉnh ủy. Khi ông Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư, anh được điều ra Hà Nội làm Phó ban Tôn giáo Chính phủ, rồi Quyền Trưởng ban. Lúc Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm làm Trưởng ban Tôn giáo chính phủ thì “phát hiện” một đơn tố cáo anh có chuyện này chuyện khác lúc còn ở tù, Chính phủ đã tạm dừng cái quyết định đó lại để điều tra, sau 1 năm rưỡi điều tra, kết luận nhân vật bị tố là một người khác, chỉ trùng tên với anh thôi. Trong thời gian điều tra, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ được giao cho một người khác. Những chuyện như vậy không làm cho anh bận tâm, anh đứng cao hơn các chức tước.

Ngày xưa anh có nhiều bạn bè là các văn nghệ sĩ nổi tiếng ở miền Nam. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người được anh “kéo” đi tham gia cách mạng, tôi biết chuyện đó vì có lần anh viết một cái giấy xác nhận nhờ tôi đánh máy giúp.

Nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả “Mùa hè đỏ lửa”, là bạn thân của anh, cùng với Trần Dạ Từ, Nhã Ca và nhiều người có tiếng tăm khác. Vào năm 1970, khi anh đang bị tù ở Côn Đảo, ông Phan Nhật Nam đang là sĩ quan quân đội VNCH, viết cuốn sách “Ải trần gian”, ghi ngay trang đầu: “Tặng Phan Duy Nhân, kẻ hào kiệt”. Bộ Thông tin chiêu hồi VNCN đã yêu cầu ông Nam đục bỏ dòng chữ đó trước khi in, nhưng ông nhất định không chịu.

Chính ông Phan Nhật Nam đã kể lại chuyện đó trong một bài viết hơn 10 năm trước. Nhưng cũng trong bài viết này, ông Phan Nhật Nam lại nói những điều không hay mấy về anh sau ngày hòa bình, những chuyện mà ông Nam nghe kể lại tam sao thất bổn, trong đó có thái độ của anh đối với viên cảnh sát từng tra tấn mình và chuyện tài sản của anh khi làm ở Ban Tôn giáo chính phủ. Vì anh thường nói với tôi những lời tốt đẹp về ông Phan Nhật Nam, nên tôi có hỏi anh đọc bài đó chưa, anh bảo anh đọc rồi và nói “do nó hiểu nhầm” thôi, chẳng thấy anh bực tức. Phan Duy Nhân không bao giờ thuộc hạng tiểu khí.

Về câu chuyện đối với viên cảnh sát, chính tôi là người chứng kiến. Anh đã vô tình gặp lại người này tại nơi tập trung tù binh sau giải phóng, anh chỉ đến bắt tay như bắt tay một người quen, chẳng hề tỏ ra một chút gì là kiêu ngạo của người chiến thắng. Sau khi người này đi học tập về, anh có đến thăm và cùng ăn một bữa cơm. Còn chuyện tài sản, tôi là người biết đến tận đáy những gì anh có. Anh suốt đời đi mây về gió, khi hòa bình rồi, một tay chị Ngân Hà lo cho cả gia đình, gồm cha già và người mẹ mắc bệnh điên của anh. Phần lớn tiền lương của anh gửi về phụ giúp gia đình, anh sống kham khổ như một thầy tu.

Khi còn làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, lúc đó tôi sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng anh đến nhà tôi chơi, ngủ lại trên một chiếc ghế. Có lần anh hỏi xin tôi 700 ngàn đồng để giúp một người quen đang gặp cảnh ngặt nghèo, đến bây giờ tôi vẫn còn ân hận vì lúc đó tôi cũng nghèo rớt mồng tơi, phải rất là lâu tôi mới tìm được cho anh số tiền đó.

Biết anh khó khăn, những lần anh gửi thơ đăng trên báo Thanh Niên, anh Nguyễn Công Khế dặn phải chấm nhuận bút cho anh với mức cao nhất. Sau khi anh về hưu, một thời gian khá dài anh đến ở chùa Non Nước nuôi mẹ, thỉnh thoảng mới về nhà, cho đến khi mẹ qua đời thì anh không còn mạnh khỏe nữa. Lâu lâu chúng tôi lại san sẻ cho anh một chút nhuận bút để anh phụ vào khoản thuốc men khi đau ốm. Anh Nguyễn Công Khế thỉnh thoảng cũng gửi cho anh một ít tiền, nhiều bạn bè khác cũng vậy. Tôi phải nói những điều không nên nói như thế này để những ai có ác ý không nên nói những gì mình không biết.

Trước đây tôi có viết loạt bài về thiền sư Lê Mạnh Thát đăng trên báo Thanh Niên, là do anh “xúi”. Thầy Thát cùng với thầy Tuệ Sĩ từng bị chế độ mới kết án tử hình, sau đó giảm án xuống còn chung thân và thụ án 14 năm tù. Anh nói, luật pháp hồi đó không kết án tử hình không được, nhưng khi tuyên án rồi thì lãnh đạo cao nhất của Đảng yêu cầu phải tổ chức vận động xin giảm án cho hai thầy.

Thầy Thát sau này được ông Võ Văn Kiệt rất coi trọng, thường cùng nhau đàm đạo nhiều chuyện lớn, tôi thường xuyên đến chỗ ông Võ Văn Kiệt nên biết rõ. Việc tổ chức thành công Đại hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam (Vesak) là công lớn của thầy Thát. Anh dắt tôi đến gặp thầy Thát nhiều lần, tôi thấy giữa họ là tri âm tri kỷ. Vị thiền sư này từng là một nhân vật “nhạy cảm” đối với báo chí, anh bảo nhân việc thầy Thát chủ trì tổ chức sự kiện Vesak mà giới thiệu những công trình nghiên cứu của thầy là tốt nhất, nó chỉ có lợi cho đất nước mà thôi.

Anh 3 lần dắt tôi đến gặp Hòa thượng Thích Trí Quang ở chùa Già Lam. Ban đầu tôi rất ngạc nhiên khi thấy thầy Trí Quang dịu dàng coi anh như người thân. Có lần anh và tôi đến sau khi anh mổ tim, thầy Trí Quang đưa anh một gói nghệ, bảo đây là nghệ núi rất tốt cho sức khỏe, rồi hướng dẫn anh chi li về liều lượng và cách dùng. Thầy Trí Quang ẩn trong chùa từ năm 1966. Sau năm 1975 thầy giữ thái độ trung tính với chế độ mới, không ủng hộ cũng không chống đối và không để các đệ tử của mình tham gia chống đối.

Sự kiện 76 ngày năm 1966, thầy Trí Quang là người “kích ngòi nổ” phong trào đấu tranh của Phật giáo. Về phía cách mạng, Phan Duy Nhân là người khai thác “ngòi nổ” này để đẩy thành cao trào. Hai người biết rõ nhau từ hồi đó, lòng họ đủ rộng để có thể dung nạp nhau. Các vị chức sắc các tôn giáo khác, có thể có những khác biệt về chính kiến, nhưng tôi biết hầu hết đối với anh đều trọng thị.

Tôi rất thích thơ anh, anh chép thơ đưa cho tôi rất là nhiều. Có khi tôi đang ngủ, anh dựng dậy tìm kính tròng vào mắt tôi để tôi xem bài thơ anh vừa viết. Anh chưa bao giờ có ý định đi theo nghiệp văn chương thơ phú, có lẽ anh làm thơ để tự cân bằng cuộc sống của mình. Nhiều bạn bè của anh bảo họ chỉ thích anh làm thơ, không thích anh làm chính trị. Tôi thì nghĩ khác. Thơ anh là con người anh, chính trị cũng là con người anh, hai thứ đó cộng lại mới thành cuộc đời anh.

Nghe tim đập ở Nam Hà

Lẻ loi tiếng đục giao hòa tiếng trong

Sau mình gặp lại nhau không

Thương câu mái đẩy mềm trong điệu chèo…

(Bồi hồi qua Huế nhớ quê – PDN)

Thơ anh sau này mượt mà như thế đó. Nhưng thoạt kỳ thủy là thơ buồn: “Con mèo đen bò qua cửa sổ/Nỗi buồn leo lên tương lai”. Khoảng giữa là thơ tình nổi trôi cùng vận nước. Thơ trong tù là khí phách nhưng không giấu khát vọng bình thường của một chàng trai trẻ: “Em ơi chiều đó dầm chân xuống/Dòng nước sông Tranh mát rợi người/Những nụ hôn thầm trong gió núi/Gửi về có tới được xa xôi…”.  Mấy chục năm sau hòa bình là thơ mông lung: “Chưa lau sạch chân em vào áo trận/Để giữa lầm than em hóa được thiên thần”. Đôi lúc còn phảng phất súng gươm xen mùi kinh kệ: “Thuở trước thiền sư làm chính ủy/Câu thơ đến giờ còn mang gươm”. Nói chung, thơ anh sau hòa bình đa tình, đa mang, day dứt, bất định.

Phan Duy Nhân trọn đời không làm điều gì để phải ân hận, để phải sám hối phải phản tỉnh. Anh không để lại tài sản gì cho con cháu ngoài niềm kiêu hãnh làm người. Con gái lớn Phan Dương Triều Tân có gia đình ở riêng, vợ chồng con gái út Phan Dương Hồng Chuyên sống cùng ba mẹ và trực tiếp chăm sóc ba mẹ cho đến ngày cuối cùng.

Khi chị Ngân Hà mất, toàn bộ số tiền phúng điếu được khoảng 100 triệu đồng, cháu Hồng Chuyên đã mang 80 triệu đồng góp vào quỹ học bỗng Nguyễn Thái Bình của báo Thanh Niên, số còn lại giúp cho trẻ em khuyết tật.

Từ lâu nay cháu Hồng Chuyên vẫn cùng các bạn bè của mình thầm lặng giúp đỡ, chia sẻ với những cuộc đời bất hạnh, cháu là niềm tự hào của anh chị. Chị Hà mới mất cách đây mấy tháng, hơn 1 năm trước cô con gái giữa Phan Dương Hải Triều cũng đã ra đi. Vì anh bệnh nặng khi tỉnh khi mê nên không ai cho anh biết hai cái tang quá lớn đó, đến khi biết thì anh không còn gượng dậy được nữa…

Hoàng Hải Vân

Nguồn: http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri-c-80/vinh-biet-anh-phan-duy-nhan-66733.html

20170818. Hoa Nghiem kinh

Ảnh: Trích đoạn Hoa Nghiêm Kinh

1. Đặt vấn đề

Mỗi bài thơ Thiền là một thế giới cao thâm, chứa đựng bao bí ẩn. Thơ Thiền Việt Nam, thơ Thiền Lý – Trần nói riêng nhiều về số lượng, sâu sắc về tư tưởng. Từng từ, từng câu thơ Thiền vốn rất phức tạp, khó hiểu.

Truyền thống Thiền Việt Nam có nguồn gốc từ Ấn Độ, chịu ảnh hưởng Thiền học Trung Hoa nhưng lại có bản sắc riêng và nhất là rất chú trọng đến kinh điển Phật giáo. Nhìn lại lịch sử Thiền Việt Nam, các phái Thiền đều có sử dụng kinh điển làm phương tiện mặc dù vẫn tôn trọng truyền thống “dĩ tâm truyền tâm” (lấy tâm truyền tâm), “bất lập văn tự” (không chú trọng ngôn ngữ)… Những bộ kinh được cho là có ảnh hưởng đến thơ Thiền Việt Nam là “Kinh Hoa Nghiêm”, “Kinh Kim Cương” (chứa đựng “Bát Nhã tâm kinh), “Kinh Pháp Hoa”, “Kinh Viên giác”, “Kinh Pháp Bảo Đàn”…

-       “Kinh Hoa nghiêm”: Cứu Chỉ (phái Vô Ngôn Thông) sử dụng “Vô nhị pháp môn” của “Hoa Nghiêm”… Đại Xã (phái Vô Ngôn Thông) dùng yếu chỉ “Hoa nghiêm” thuyết “Niết bàn sinh tử mặc che lồng”. Khánh Hỷ (phái Tỳ -ni – đa – lưu –chi) thuyết: “Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung” (Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong)…

-       “Kinh Kim cương” (chứa đựng “Bát Nhã tâm kinh): Cảm Thành (phái Vô Ngôn Thông) đã từng viết “Yếu chỉ Kim Cương”, Trần Thái Tông chú giải “Kim Cương tam muội”, Tuệ Trung thượng sĩ từng viết “Đoán tri “không”, “hữu” bất tương sa”…

-       “Kinh Pháp Hoa”: Chân Không (phái Tỳ -ni – đa – lưu –chi) nghe “Pháp Hoa” mà ngộ, Ngộ Ấn (phái Vô Ngôn Thông) tinh thông “Pháp Hoa”…

-       “Kinh Viên giác”:  Viên Chiếu (phái Vô Ngôn Thông)  đã tán tụng “Kinh Viên Giác”, Tính Học (phái Vô Ngôn Thông) chuyên tụng kinh “Kinh Viên Giác”…

-       “Kinh Pháp Bảo Đàn”: Tuệ Trung thượng sĩ có bài “Định huệ” tương tự phẩm “Định huệ” trong “Kinh Pháp Bảo Đàn”… 

Trong các kinh điển, “Kinh Hoa nghiêm”, “Kinh Kim Cương” (chứa đựng “Bát Nhã tâm kinh) là hai nguồn mạch quan trọng có thể giải thích nội dung ngôn ngữ trong thơ Thiền Việt Nam… Trước khi đi sâu vào vấn đề này, chúng ta cần quan tâm đến những tư tưởng quan trọng của “Kinh Hoa nghiêm”, “Bát Nhã tâm kinh).

2. Vài tư tưởng quan trọng trong “Kinh Hoa nghiêm”, “Bát Nhã tâm kinh)

2.1. Vài tư tưởng quan trọng trong “Bát Nhã tâm kinh”

    2.1.1.Sắc

“Sắc”: “Sự vật hiện tượng có hình tướng” (Thích Duy Lực), “hình hài của ta” (Thích Nhất Hạnh)…

     2.1.2.“Không”:

“Không”: Phiên âm chữ Hán của chữ sūnyatā (Ấn Độ), có thể dịch là Chân không diệu hữu, bản thể, Phật tánh, chân như,… (Đừng nhầm là chữ “không” (trống rỗng) của tiếng Việt. Chũ “Không” của tiếng việt đồng nghĩa với “vô” (無)của tiếng Hán.

      Tham khảo thêm “Từ điển Phật học”: “Trong Tiểu thừa, tính Không nhằm nói về thể tính của con người và được sử dụng như một tính từ (s: śūnya). Ðại thừa đi thêm một bước nữa, sử dụng Không như một danh từ (s: śūnyatā), xem Không là vạn sự, vạn sự là Không, tức mọi hiện tượng thân tâm đều không hề có tự tính (s: svabhāva). Mọi pháp đều chỉ là những dạng trình hiện (呈現; e: appearance; g: erscheinung), chúng xuất phát từ tính Không, là không. Tính Không vừa chứa tất cả mọi hiện tượng, vừa xuyên suốt các trình tự phát triển sự vật”.

(Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách, Từ điển Phật học, Nxb Thuận Hóa, Huế, 1995).

2.1.3.“Sắc tức thị không”:

(Tức thị: Không khác gì).

“Sự vật có hình tướng” hoặc “thân thể này” chẳng khác gì cái chân không diệu hữu, bản thể, Phật tánh, chân như,…

2.1.4.“Không tức thị sắc”: Cái diệu hữu, bản thể, Phật tánh, chân như,… không khác gì sự vật có hình tướng hoặc thân thể này.

2.2. Vài tư tưởng quan trọng trong “Kinh Hoa nghiêm”

      Đây là bộ kinh đồ sộ, cao thâm. Chúng ta có thể đi vào nó thông qua tác phẩm độc đáo nhỏ gọn: “Yếu chỉ Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh” (Duy Tắc thiền sư) (Thích Duy Lực dịch).

      Theo Duy Tắc Thiền sư cũng như truyền thống triết học Phật giáo, bản thể và mỗi sự vật hiện tượng thường được miêu tả từ ba phương diện: Thể (mặt bản thể) (tánh), Tướng (mặt hiện tương, biểu hiện), Dụng (mặt ứng dụng, hoạt động). Trong tác phẩm “Yếu chỉ Đại phương quảng Phật Hoa Nghiêm kinh”, có 4 vấn đề cần quan tâm (theo kiến giải của Duy Tắc thiền sư):

2.2.1. Sự sự vô ngại

Sự sự vô ngại là tư tưởng quan trọng. Sự sự vô ngại: tất cả giới hạn, phân cách của sự vật xứng với tánh dung thông, một tức nhiều, nhiều tức một, lớn vào nhỏ, nhỏ vào lớn, trùng trùng vô tận, nên gọi là "sự sự vô ngại pháp giới".

2.2.2. Đồng thời cụ túc

     Tất cả sự vật hiện tượng đồng thời đầy đủ trong một  sự vật hiện tượng, mỗi sự vật hiện tượng đều có sự tương trợ lẩn nhau.

2.2.3. Nhất đa tương dung

Một sự vật hiện tượng dung nạp nhiều sự vật hiện tượng, nhiều sự vật hiện tượng ở trong một sự vật hiện tượng, mỗi sự

vật hiện tượng chẳng đồng mà đồng, đồng mà chẳng đồng.

2.2.4. Chư pháp tương tức

Tất cả sự vật hiện tượng vốn chẳng có khác, nên sự vật hiện tượng kia tức sự vật hiện tượng này, sự vật hiện tượng này tức sự vật hiện tượng kia, tương tức với nhau.

Có thể tóm lược chìa khóa các ý vừa nêu đối với  “Kinh Hoa Nghiêm” là “Ý niệm về tương tức và tương nhập”(Cái này là cái kia, cái này trong cái kia…) (Nhất Hạnh, Trái tim của Bụt, Nxb Tôn giáo, H. 2005).

Từ những tư tưởng từ hai bộ kinh điển nổi tiếng này, chúng ta có phương tiện để đi vào thế giới thơ Thiền. Khảo sát “Thiền uyển tập anh”, “Thơ văn Lý Trần” (tập I, II) chúng ta thấy dấu vết tư tưởng hai bộ kinh này trong thơ Thiền Việt Nam đồng thời từ đây ta có cơ sở tìm hiểu thơ Thiền.

3. Vận dụng tư tưởng Bát Nhã và Hoa Nghiêm khám phá thơ Thiền Lý –Trần

3.1. Thiền phái Tì- ni – đa – lưu- chi

1. Thị đệ tử - Vạn Hạnh thiền sư
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh, thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
Dịch:

Dạy đệ tử

Thân như bóng chớp có rồi không
Cây cối xuân tươi, thu não nùng
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

            Sắc (thân thề) từ biểu hiện sang ẩn tàng, trở về bản thể (chân không diệu hữu).

            Cây cỏ trong tiết xuân đâm chồi nẩy lộc. Đến mùa thu , cỏ cây rụng lá, héo úa theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ mỗi năm.

            Có thể xem xuân đến thu là vòng thịnh suy của cỏ cây trong năm. Ở đây chúng ta có thể hiểu là vòng thịnh suy của đời người (sinh – lão – bệnh – tử).

            Vì thiền sư hiểu lẽ tuần hoàn này là trở về với bản thể (triết lý của Bát Nhã tâm kinh) (không phải trở về cái trống rỗng hay hư vô!) nên không sợ hãi.

            “Không” là “diệu hữu”, không hình tướng nhưng là dạng tồn tại của bản thể (Tánh). Xét từ phương diện Tướng (có hình sắc, thấy được), qua cái nhìn trần thế thì có sinh (tồn tại), từ (không tồn tại). Nhưng qua cái nhìn “Bát Nhã tâm kinh” thì “sắc” (“sắc” ở đây là thân thể của mỗi người) và “không” là một, tồn tại trong nhau. Mất – còn, sinh - tử tồn tại tương ứng trong nhau. Mất là để trở về bản thể.

            Thạnh suy như vậy không đáng sợ hãi. Nó chỉ như hạt sương ở đầu ngọn cỏ vào buổi sớm. Hạt sương long lanh, sáng chói vào buổi sớm. Khi mặt trời lên, nó trở về với hơi nước, với nước (nước là chất liệu cơ bản như đất, nước, gió, lửa,…), hòa vào không khí rồi có cơ hội lại trở về theo cơn mưa, theo dòng sông…

            Vì vậy, bài thơ nhẹ nhàng, lạc quan, trong trẻo… Giọt sương ở đây cũng chứa cả thế giới: Gồm nước, mặt trời, nhận thức của người đang bàn luận về nó… (theo triết lý Hoa Nghiêm”).

2. Chân Không thiền sư

Lại hỏi: Sắc thân hư nát rồi thì sao?

Sư đáp lời vị tăng hỏi đạo:

Xuân đến xuân đi ngờ xuân hết

Hoa nở, hoa tàn, ấy vẫn xuân.

(Xuân lai, xuân khứ, nghi xuân tận

Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân).

Vị tăng còn nghĩ ngợi, thiền sư Chân Không quát…

            Xuân đến – xuân đi theo nhịp “sắc” – “không”. Xuân không tận (hết) mà nó vẫn tồn tại, “vẫn là xuân”. Vì tuần hoàn của thời tiết vẫn nằm trong thế giới bản thể vũ trụ. Nó vẫn là hiện hữu.

            Đó là cái nhìn ở phương diện bản thể. Còn ở phương diện “tướng” (biểu hiện) của mùa xuận: có đến, có đi, chấm hết (tận).

            Còn phương diện “dụng” (hoạt động, tác dụng) của mùa xuân: Mùa xuân tươi đẹp đi qua làm cho lòng người đau buồn, nhớ tiếc. Tuổi xuân đi qua, con người nhớ tiếc, tuồi già đến làm con người sợ hãi…

            Bài thơ giúp con người giác ngộ đạo lý sinh tử, không sợ hãi mà vẫn lạc quan trên những đợt sóng sinh tử.

3. Khánh Hỷ thiền sư (Tăng thống):

Lao sinh hưu vấn sắc kiêm không

Học đạo vô qua phỏng tổ tông

Thiên ngoại mịch tâm nan địch thế

Nhân gian thực quế khởi thành tùng

Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung

Đại dụng hiền tiền quyền tại thủ

Thùy tri phàm thánh dữ tây đông?

           

Dịch:

Uổng công thôi hỏi sắc cùng không

Học đạo gì hơn phỏng Tổ tông

Ngoài trời tìm tâm thật khó thấy

Thế gian trồng quế đâu thành tòng

Đầu lông trùm cả càn khôn thảy

Hạt cải bao gồm nhật nguyệt trong

Đại dụng hiện tiền tay nắm vững

Ai phân phàm thánh với tây đông”

(Bản dịch của Thiền sư Thích Thanh Từ)

            Bài thơ có 4 câu đầu chịu ảnh hưởng Bác Nhã tâm kinh, 4 câu sau chịu ảnh hưởng của Hoa Nghiêm.

Bốn câu đầu: Người nghi hoặc, người hỏi đạo đi tìm đạo quyết tâm phá cửa “Sắc” – “Không”, nhưng chi hoài công. Vì triết lý này không chỉ được hiểu qua câu trả lời, qua ngôn ngữ mà cần sự thể nghiệm.

Bốn câu sau là sự kiến giải đạo lý dựa vào kinh “Hoa Nghiêm”. Qua tính tương tức – tương nhập (cái này đi vào cái kia, hàm chưa cái kia, và là cái kia) mà ngộ được “tánh” (bản thể). Khi có thì ai cần bỏ phàm tìm thánh hay bỏ Đông độ tìm Tây phương (nhận thức nhị nguyên).

Bản thể trong trường hợp này là Chân không diệu hữu. Tướng – Thể - Dụng dung thông, tương tức – tương nhập nhau. Được Thể nhưng không lìa, không bỏ Tướng và Dụng. Tướng và Dụng (thậm chí “đại dụng”) ở đây là sinh hoạt đời thường trong hiện tại (hiện tiền).

Bài thơ là khúc hợp tấu cao siêu, tuyệt vời của tư tưởng “Bát nhã’ và “Hoa Nghiêm”.     

3.2. Thiền phái Vô Ngôn Thông

1. Cáo tật thị chúng - Mãn Giác thiền sư

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

            Dịch:

Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai.

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

            Bài thơ này được nhiều người biết đến, kể cả chương trình đại học, thậm chí trung học…

            Hai câu đầu: Sự tuần hoàn dịch biến (tương tự như thơ của Vạn Hạnh thiền sư).

            Vận động của vũ trụ, của những nhân duyên trùng trùng lên nhau: Cái già (lão) – tử - cái chết gây phiền não khổ đau.

            Xuân tàn – “hoa lạc tận”, những cành hoa mai trên cõi nhân gian đều rã rời.

            Nhưng hiện lên “nhất chi mai” (một cành mai). Một cành mai tương tức – tương nhập với tất cả những cành mai. Một trong tất cả- tất cả trong một (Triết lý Hoa Nghiêm).

            Cành mai trước sân là Tướng của mùa xuân, nó tương thông với tất cả những cành mai trong trời đất, nó cũng tương thông với tất cả vũ trụ (trong đó có cả Mãn Giác thiền sư, có cả chúng ta và nhiều người khác…). Nó cũng tương thông với vẻ đẹp (mai) và niềm hạnh phúc, sức sống của vũ trụ (xuân)…

            Bài thơ đẹp, đáng yêu, đầy sinh khí. Người tiếp nhận đi từ hai cả hai phương tiện là bát Nhã và Hoa Nghiêm sẽ dễ hiểu hơn.

2. Thị tịch – Ngộ Ấn thiền sư

Diệu tính hư vô bất khả phan,
Hư vô tâm ngộ đắc hà nan.
Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,
Liên phát lô trung thấp vị can.

Dịch:

Hư vô tính diệu khó vin noi
Riêng bụng hư vô hiểu được thôi
Trên núi ngọc thiêu màu vẫn nhuận
Trong lò sen nở sắc thường tươi

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

            Hai câu đầu: “Diệu tính hư vô” chính là Chân không diệu hữu. Đều này được trình bày ở bát Nhã tâm kinh nhưng hành giả phải được ngộ hơn là hiểu nên khó “vin noi”. Chỉ có tự ngộ ở mỗi cá nhân mới nhận thức rõ “diệu tính” này. 

Hai câu sau: “Phần’, “lô trung”: Thiêu cháy, trong lò lửa. Ta có thể liên hệ thiền sư Chân Không “Hỏa kiếp đỗng nhiên hào mạt tận; thanh sơn y cựu bạch vân phi - Lửa kiếp thiêu tàn sạch mảy mai, non xanh như cũ mây trắng bay” (Đáp đệ tử diệu đạo chi vấn).

            Lửa ở đây là lửa kiếp, lửa tam muội (ta có thể liên hệ lửa trong nạn hồng thủy trên trái đất). Lửa này ẩn dụ cho sự chuyển hóa từ mê sang ngộ. Dù có “buông tay từ đầu sao trăm thước” (theo cách nói của thiền chỉ sự đốn ngộ) thì mỗi sự vật trong thế giới này vẫn không thay đổi).

            Đây là diễn tả quá trình chuyển đổi quyết liệt từ mê sang ngộ trong khoảnh khắc triệt ngộ. Từ nhận thức mới, hành giả nhìn lại thế giới trần thế này. Thế giới trần thế có những phiền não, khổ đau đang thiêu đốt tâm hồn.

Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc, 
Lửa cùng thông như đúc buồng gan

                        (Cung oán ngâm khúc)

            Trong cái nhìn sau chứng đạo (hậu đắc trí), ngọc vẫn sáng đẹp, sen vẫn nở tươi.

            Bài thơ an nhiên trong những phiền lụy, khổ đau, sinh tử…

  1. Bản Tịnh thiền sư:

Huyễn thân bản tự không tịch sinh

Do như kính trung xuất hình tượng.

            Dịch:

Tự nơi không tịch có thân mình

Mường tượng trong gương bóng với hình

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

            Huyễn thân (sắc), “tự không” (vốn là chân không diệu hữu). Tuy vắng lặng như đó là Thể của bản thể.

            Sắc – không: không lìa cũng không rời, cả hai là một.

            Nhận thức này có thể ví dụ hình bóng trong gương. Gương không lưu giữ hình bóng (vô chấp). Gương phản chiếu tất cả sự vật hiện tượng. Gương ví dụ cho tâm, sự vật hiện tượng muông hình vạn trạng là Tướng. Tâm thâu nhiếp sự vật hiện tượng, tương tức- tương nhập sự vật hiện tượng.

            Bài thơ là những ví dụ, ẩn dụ để biểu đạt triết lý sắc – không, triết lý bản thể.

 

3.3. Thiền phái Thảo Đường

1. Hoa điệp (Thị tật) – Giác Hải thiền sư

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.

Dịch:

Xuân sang hoa bướm khéo quen thì

Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ

Nên biết bướm hoa đều huyền ảo

Thây hoa mặc bướm, để lòng chi.

(Bản dịch của Ngô Tất Tố)

Xuân lai: Tướng của bản thể.

Hoa bướm: Tướng của bản thể.

Hoa bướm: Biểu hiện của bản thể.

Huyễn: Không có tự tánh riêng biệt, luôn vận động biến đổi (vô thường). Đó là tính chất của bản thể. 

Bài thơ nhấn mạnh tinh thần vô chấp, không bận lòng. Tác giả bài thơ chấp không chăng?

3.4. Thiền phái Trúc lâm và những sáng tác liên quan

1. Tự tại - Tuệ trung thượng sĩ

Đằng thử vô đoan tiệm tiệm xâm,
Quy lai chung lão ký sơn lâm.
Sài môn mao ốc cư tiêu sái,
Vô thị vô phi tự tại tâm.

Nanh chuột giây bìm cứ lấn xâm,
Về thôi, già gửi chốn sơn lâm.
Nhà tranh cửa liếp phong quang chán,
Phải trái đều không, tự tại tâm.

(Bản dịch của Đào Phương Bình)

Hai câu đầu: Cái già đến gặm nhấm đời người.

Câu 3: về nơi ẩn dật.

Bài thơ là vẻ đẹp đơn sơ và tấm lòng ung dung tự tại vì: Phải (Tướng), Trái (Tướng) cũng là “không” (Thể).

2. Đốn tỉnh - Tuệ Trung thượng sĩ

Đoán tri không hữu bất tương sa (sai),
Sinh tử nguyên tòng nhất phái ba.
Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt,
Tân niên hoa phát cố niên hoa.
Tam sinh thúc hốt chân phong chúc,
Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma.
Hoặc vấn như hà vi cứu cánh,
Ma-ha bát nhã tát-bà-ha.

Dịch:

Biết rằng "không", "có" chẳng cách xa,
"Sống", "chết" nguyên từ đợt sóng ra.
Trăng rọi tối nay: trăng tối trước,
Hoa cười năm mới: hoa năm qua.
Ba sinh: gió thổi, đuốc lòe tắt,
Chín cõi: cối vần, kiến nhẩn nha.
Muốn hỏi thế nào là cứu cánh,
Ma-ha bát nhã, tát-bà-ha!

(Bản dịch của Huệ Chi)

Câu 1, 2: Từ Bát Nhã tâm kinh. Ví dụ thường gặp trong kinh sách Phật giáo: Nước (bản thể) (tánh)  – sóng (hiện tượng) (tướng).

Câu 3,4: Từ Hoa Nghiêm.

Câu 5,6: Cõi đời chuyển biến.

Câu 7: Câu hỏi phổ biến của người tìm đạo.

Câu 8: Trích nguyên văn trong Bát Nhã tâm kinh.

3. Kệ vân trong Cư trần lạc đạo (Trần Nhân Tông)

Cư trần lạc đạo thả tuỳ duyên,
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên.
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch,
Đối kính vô tâm mạc vấn thiền.

Dịch:

Cõi trần vui đạo, hãy tuỳ duyên,
Đói cứ ăn no, mệt ngủ yên.
Báu sẵn trong nhà, thôi khỏi kiếm,
Vô tâm trước cảnh, hỏi gì Thiền.

(Bản dịch của Huệ Chi)

Câu 1, 2: Cái dụng của đạo; Tùy duyên.

Câu 3: Tâm không vướng mắc vì biết rõ Chân không diệu hữu.

Không cần hỏi (mạc vấn thiền) vì ngôn ngữ không diễn tả hết (Ngôn ngữ đạo đoạn), chỉ cần trải nghiệm thực tế. Trở về thực tại (đối cảnh). Cảnh là biểu hiện của bản thể, tương tức – thẩm thấu với bản thể, cảnh chính là bản thể…

Vì vậy không cần phải hỏi Thiền, luận Thiền.

Bài thi kệ ung dung tự tại, đôn hậu, luôn đem đến niềm vui, niềm hạnh phúc cho người đọc.

Bài kệ có ảnh hưởng đến thanh phong của Thiền phái Trúc lâm. Ngày nay chúng ta vẫn còn gặp bài kệ này như sức sống bất diệt trong khói lửa chiến tranh qua tác phẩm ‘Đội gạo lên chùa” (Nguyễn Xuân Khánh)…

Có nhiều phương thức, cấp độ nghiên cứu thơ Thiền Việt Nam. Kết hợp tư tưởng “Bát Nhã” và “Hoa Nghiêm” là một trong rất nhiều phương tiện đi vào thơ Thiền. Với hai phương tiện này, những bài thơ Thiền khác hứa hẹn sẽ có cách lý giải tương đối dễ hiểu. Đây chỉ là một đề xuất, rất mong những chỉ giáo của những bậc tôn túc, các bậc tiền bối…

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Chân Nguyên – Nguyễn Tường Bách (1995), Từ điển Phật học, Nxb Thuận Hóa, Huế.
  2. Nhất Hạnh (2005), Trái tim của Bụt, Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
  3. Nguyễn Công Lý (2002), Văn học Phật giáo thời Lý Trần diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG Tp. HCM.
  4. Yếu chỉ Đại phương quảng Phật Hoa nghiêm kinh (Duy Tắc thiền sư) (Thích Duy Lực dịch):

http://www.tosuthien.com/kinh-sach/chu-kinh-tap-yeu/yeu-chi-kinh-hoa-nghiem/yeu-chi-kinh-hoa-nghiem

  1. Giả Đề Thao, Đàn Kinh tinh hoa trí tuệ, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
  2. Thiền uyển tập anh (2014) (Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga dịch), Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
  3. Thích Thanh Từ (1992), Kinh Kim Cang giảng giải, Nxb Tổng hợp, Tp. HCM.
  4. Đoàn Thị Thu Vân (1981), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ Thiền Việt Nam Thế kỷ XI - XIV, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nxb Văn học, Hà Nội.
  5. Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý, Trần  (T1), Nxb  KHXH, Hà Nội.
  6. Viện Văn học (1988), Thơ văn Lý, Trần (T2, Q Thượng), Nxb KHXH, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận Văn học, Niên san 2015

Chúng ta biết rằng, năm 1945 – 1946, Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam gắn liền với tạp chí Tiên phong (24 số từ 10.11.1945 đến 1.12.1946) còn Hội Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi có bán nguyệt san Tiến hóa (số 1, 15.11.1946). Cũng như Tiên phong, Tiến hóa là chứng từ bước đầu hình thành không gian văn nghệ của thời vận mới.

Thông tin về tờ Tiến hoa khá lờ mờ. Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam của Nguyễn Thành (2001) miêu thuật vài chi tiết, nơi xuất bản, cơ quan chủ quản, chủ nhiệm và năm xuất bản. Chỉ vậy thôi. May mắn tôi được nhà sưu tập Tạ Thu Phong (Hà Nội) chụp giúp ấn ảnh tờ Tiến hóa số 2 (1.12.1946). Từ một số báo duy nhất không đủ để khảo tả trọn vẹn diện mạo tờ báo nhưng tạm thời có thể hình dung dáng nét của tờ báo tuổi đời khá ngắn ngủi, chỉ chừng hai ba số là cùng. 

Hình: Tiến hóa số 2 (1.12.1946).

Trước hết là kể đến trang bìa. Măng-sét gồm quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm thứ 2” bên trên, tên tờ báo “TIẾN HÓA” chính giữa, tên cơ quan chủ quản “Cơ quan Vận động Văn hóa mới” bên dưới. Giữa trang, mục lục nội dung bài vở bên trái, số “2” đi cùng ngày tháng phát hành “1.12.1946” bên phải. Phần dưới cùng chạy dòng chữ “Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi xuất bản”.

Và ở trang 2 chi tiết hơn: “(...) ra ngày ngày 1 và 16 mỗi tháng. Nguyễn Tấn Đức chủ nhiệm, Nguyễn Hóa thư ký tòa soạn [và kiêm quản lý]”. Ban biên tập gồm: Nguyễn Viết Lãm (Hạnh Đàn), Nguyễn Hoằng (Vĩnh Mai), Nguyễn Văn Châu, Võ Thủ Tịnh, Hoàng Vinh, Trực Ngôn, Mai Xuân Cảnh, Xuân Lộc, Trần Mai Ninh, Lê Văn Nhiễu, Lao Tùng, Tuệ Bình, Hồ Văn Điềm, Hoàng Phúc và cô Võ Thị Như Lệ. Trình bày Lao Tùng và Dương Đức Sơn. Và đường lối cũng như tôn chỉ tờ báo: “Là nơi gặp gỡ của tất cả của những cây bút thiết tha với công cuộc giải phóng dân tộc – Xây dựng một nền văn hóa mới – TIẾN HÓA chờ đợi sự cộng tác của tất cả các nhà văn hóa xa gần”.

Hình: Trang 2 Tiến hóa số 2 (1.12.1946), 16 trang, tương đương khổ A4, In tại Nhà in Ngô Tử Hạ, Huế.

Thứ nữa là đến ”Thể lệ cuộc thi văn hóa 1947” do Hội Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi tổ chức. Giải văn học dành cho tác phẩm thuộc lĩnh vực trước tác, dịch thuật, khảo cứu và Giải học sinh với các thể loại truyện ngắn, thơ, kịch.

Nơi đề mục “Sau ngày ký thỏa hiệp 14.9”, Nguyễn Viết Lãm dừng kỹ hơn ở Nhiệm vụ cấp thiết của văn hóa.

Ở c huyên mục“Sinh hoạt văn hóa ở Quảng Ngãi” là bài tường thuật Một đêm văn nghệ của Sóng Biển (Sẽ trở lại chi tiết hơn ở phần sau).

Và đến hai bài thơ Giòng thiêng của Văn Diễn(1)Anh, ngày mai của Lý Hoàng Phúc. Xin dẫn bài thứ hai để thấy nhịp điệu và mẫu người thời đại trong quỹ đạo chung của văn nghệ kháng chiến: Nỗi cơm áo đâu mòn mỏi lòng trẻ/Tay nắm chặt! anh dồn thêm sức khỏe/Của người anh giục lửa sống bùng lên/Anh vui chăng? No ấm vững lòng tin .Mấy câu xếp vần chắp chữ hướng về quần chúng, tô vẽ niềm tin phấp phới và cuộc sống màu nhiệm quanh đây. Giọng điệu kêu vang mà không chút sâu lắng ấy tẻ nhạt hay rung động thực sự?

Trong chủ đề “Nhân vấn đề sáng tác tại Đại hội Văn hóa Toàn quốc lần thứ 2” là bài Sáng tác cho ai của Nguyễn Hóa(2) thiết lập lằn ranh tuyệt đối giữa nhân sinh và nghệ thuật. Bài viết mở đầu: (...) chỉ có thể có một quan niệm nghệ thuật: “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Và kết thúc: “(...) nhà văn nghệ phải sáng tác cho người xung quanh chứ không thể công nhiên nói rằng “sáng tác vì mình”.

Kế đó, chuyển sang lĩnh vực ”Nhân đời sống mới” có bài Đám ma ông Xã của Võ Tuệ Bình cổ vũ dân chúng xây dựng cuộc sống mới. Tác giả phàn nàn ma chay thật phiền phức và lôi thôi, nếu không muốn nói là ti tiện. Cảnh tượng nhộn nhịp. “Bao nhiêu màu sắc pha lẫn vào nhau thành một bức tranh hổ lốn, buồn cười”. Thông điệp gởi tới người đọc là cải cách hình thức ma chay trì trệ, phản tiến hóa.

Ngoài ra còn có Thanh niên trước thời đại của Hoàng Vinh và Dựng nước của Thủ Tịnh(3).

Cuối cùng, chuyên mục Tin văn hóa đưa tin triển lãm giáo dục, đêm văn nghệ tại Quảng Ngãi, Hội nghị của Ban Văn hóa Tỉnh đoàn Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi và Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi góp một phần ngân quỹ và sách vở để thiết lập thư viện cho tỉnh.

Chưa hết, cũng cần nhắc đến dòng chữ chạy dưới chân trang là hai câu khẩu hiệu “HOAN HÔ CHÍNH PHỦ MỚI” (trang 15) và “HỒ CHỦ TỊCH MUÔN NĂM” (trang 16).

Tôi muốn dừng lại bài “Một đêm nghệ thuật” của Sóng Biển ghi chép cuộc gặp gỡ các văn nghệ sĩ tại nhà Nguyễn Viết Lãm vào đêm 8.11.1946: Nguyễn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, Chánh án Nguyễn Duy Bình, Chủ tịch Tỉnh đoàn Văn hóa Nguyễn Tấn Đức cùng các văn nghệ sĩ từ Hà Nội vào Nguyễn Tuân, Nguyễn Hồng (Nguyên Hồng (?), tác giả Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu), Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sỹ Ngọc...

Những nào Nguyễn Tuân trình diễn đích đến trên con đường sáng tạo: Đại chúng hóa nghệ thuật. Nhà văn thành tâm lột xác và minh định lập trường, từ ”vị nghệ thuật” nghiễm nhiên tiến thẳng vào ”vị nhân sinh” không một chút e dè: (...) đại chúng như một tảng ngọc lớn. Nghệ sĩ phải đến gần tảng ngọc ấy, phải tự tay mình mân mê nó để tìm những đường gân vết mạch có ở chỗ nào, rồi mới có thể dùng tảng ngọc làm tài liệu tạo thành những vật quý.

Rồi thì Nguyễn Hồng phá cách và đi ngược tôn chỉ “vị nhân sinh” mà hầu hết mọi người đều thấu suốt, kể cả tướng Nguyễn Sơn. Ông ngóng theo nỗi niềm “vị nghệ thuật” và tin tưởng vào khuynh hướng “sáng tác cho mình”. Sóng Biển lặng nghe chất dư ba: “Người gây được nhiều cảm tình nhất là anh Nguyễn Hồng (...) đã thành thật đã khiến cho tôi tưởng anh là một hiện thân của niềm thống khổ, của một lớp người mà xã hội từ trước hắc hủi”.

Ngay từ năm 1946, Nguyễn Tuân đã dứt khoát ”nhận đường” còn Nguyễn Hồng đang loay hoay trên khúc quanh hướng đến chân trời văn hóa mới. Tiếc là bài tường thuật đặc sắc ấy không ghi nhận tâm thế của các văn nghệ sĩ còn lại. Họ ý nhị im lặng? Lửng lửng lơ lơ rất khó xét đoán? Bến bờ này đã đoạn tuyệt với bến bờ kia? Tán thành hay phản đối trước tuyên ngôn nghệ thuật là tuyên truyền và tuyên truyền là nghệ thuật?

Bẵng đi những 71 năm, ngần ấy tư liệu phảng phất là cái thời khí trên khung nền văn hóa xã hội những năm tháng ấy, đồng thời cũng thành cứ liệu thêm vào khoảng trống văn học sử chứ không còn của riêng ai nữa.   

                                                                                 3.2017

-----------------------------

(1) Giáo sư Pháp văn Nguyễn Văn Diễn (thường ghi là Nguyễn Diễn, 1921 – 1995), tác giả tập thơ Đường về làng Thi (1971) ký tên Nhan Thùy Diên. Bài Giòng thiêng đăng Tiến hóa này cũng được in lại trong tập thơ vừa kể.

(2) Tác giả Tìm hiểu triết học luân lý (1957), Trái đất kiến thức phổ thông (1999), Triết học cổ Hy Lạp giản yếu (2004)... với bút danh Hào Nguyên Nguyễn Hóa.

(3) Tức nhà nghiên cứu Võ Thu Tịnh (1920 – 2010), tác giả Văn học Việt Nam thế kỷ 19 – phần cổ văn (cùng với Lê Kim Ngân, Nguyễn Tường Minh, 1962), Tình tự dân tộc: Qua thơ văn truyền khẩu và chữ Nôm (1999)...

---------------------

      Nguyễn Duy Long

(Cẩm Thành. 2017. 96: 104 – 7)

20170814. Nguyen Minh Chau

1. Đời sống tâm linh - một nét văn hóa đặc sắc của làng xã miền Trung - được Nguyễn Minh Châu tâm huyết thể hiện trong tác phẩm của mình. Nhà văn đã mang lại cho người đọc những trang viết rất tinh tế và sâu sắc về tín ngưỡng, phong tục cùng những trạng thái tâm lí, tinh thần đầy bí ẩn của con người vùng đất quê hương.

Trong sách Văn hóa tâm linh [1] của Nguyễn Đăng Duy, đời sống tâm linh chính là đời sống hướng về những giá trị tinh thần thuần khiết, thiêng liêng, cao cả được đúc kết qua lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc và nhân loại. Hướng đến thế giới tâm linh dường như là một nhu cầu trong đời sống tinh thần của con người, đồng thời là một trong những cách để con người sống lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Có thể nói, lọc bỏ những yếu tố có màu sắc thần bí và mê tín dị đoan, phần tinh tuý, trong sáng của đời sống tâm linh sẽ hiện ra, đó là những giá trị văn hoá đầy bản sắc và chứa đựng ý nghĩa nhân văn.

Quan tâm khai thác con người tâm linh là một trong những phương diện đổi mới của quan niệm nghệ thuật về con người của văn học thời kì đổi mới. Chúng ta đều biết rằng trước 1975, do yêu cầu lịch sử, từ quan điểm phản ánh luận, văn học thường chỉ quan tâm đến con người hiện thực, con người giai cấp, con người cộng đồng, con người hành động, con người phi thường; phần con người tự nhiên, con người cá thể, con người đời thường, đặc biệt là con người tâm linh ít được chú ý thích đáng. Có thể nói, con người tâm linh là một phương diện rất quan trọng trong sự khám phá về con người. Quan tâm khai thác chiếm lĩnh đời sống tâm linh sẽ giúp nhà văn soi chiếu, khơi lật những phương diện chân thật, tinh tế mang chiều sâu bản chất nhất của con người và đời sống. Bằng trực giác nhanh nhạy, sắc bén của “người mở đường tài hoa và tinh anh”, với việc quan tâm khai thác thế giới tâm linh trong con người, Nguyễn Minh Châu đã góp phần làm cho chiều sâu phản ánh và cảm nhận cuộc sống của văn chương tiệm cận gần hơn với sự đa diện, đa thẩm mĩ trong việc đi sâu khám phá cuộc sống và con người thời hậu chiến.

2. Những góc nhìn khám phá đời sống tâm linh

2.1. Văn xuôi nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đã cho thấy trong tâm thức của người miền Trung nói riêng, của người Việt nói chung, những người chết vì nghĩa cả bao giờ cũng được ngưỡng mộ, tôn kính. Vì thế, những người có công với dân, với nước, những người làm ích nước lợi dân đều được lập bàn thờ. Họ trở thành thần thánh. Không chỉ những bậc anh hùng được thành kính tôn sùng, những người đã hy sinh vì nghĩa cả trong cuộc kháng chiến anh dũng của dân tộc cũng đã được hóa thân, trở thành thiêng liêng. Nguyễn Minh Châu đã miêu tả cảnh cả làng Hiền An (Mảnh đất tình yêu) hướng về ngày giỗ trận. Nhà văn đã thể hiện sự giao cảm giữa người sống và người chết, giữa cõi dương và cõi âm qua sự “trở về” của tất cả bà con làng Hiền An nhân ngày giỗ trận: “Sáng ngày ra vừa mở mắt, làng đã đầy ắp người đã chết… Từ khắp gò đống, tha ma, ngổn ngang kéo lên hàng trăm ngàn vị khách của làng lũ lượt đi trên đường làng” [2]. Văn hóa tâm linh ăn sâu trong nếp cảm nếp nghĩ của mỗi con người miền Trung, trở thành dấu ấn văn hóa vừa thiêng liêng vừa gần gũi của vùng đất này. Trong tâm thức của họ, dường như không có ranh giới giữa cõi âm và cõi dương: “... theo quan niệm của “dân kẻ bể” làng tôi thì cõi âm và cõi dương cũng như hai nhà bố mẹ và con cái, bước qua một cái “bờ rào” là sang nhà nhau được.” [3]. Cậu bé Quy đã tận mắt chứng kiến ông ngoại “nói chuyện” với người cha đã hy sinh của mình: “Tôi cố lắng tai nghe thử xem ông tôi nói với bố tôi những gì nhưng chỉ nghe được mấy tiếng lí nhí… Tôi biết đó là thứ ngôn ngữ nói chuyện với người chết...” [4]. Ở đây, sự gặp gỡ giữa người sống và người chết trong khi thờ cúng chính là cội nguồn của cái thiêng trong đời sống tâm linh. Người Việt thường nói “có thờ có thiêng”. Cho nên cái linh thiêng ấy bao trùm lên cả sự sống và cái chết, nó nối cái tâm của người sống với tổ tiên ông bà, với người đã khuất. Thực chất, bằng trực giác nhạy bén của mình, Nguyễn Minh Châu đưa vào tác phẩm những cảnh này để nói lên tình cảm ruột rà máu thịt, tình cảm bà con, làng xóm rất gần gũi thân thuộc và thiêng liêng. Các thế hệ gắn kết với nhau, đùm bọc, truyền cho nhau niềm tin, nghị lực để giữ gìn và xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, hướng về những điều mơ ước mà vì nó bao thế hệ nối tiếp nhau cùng theo đuổi, cùng chịu gian khó, hy sinh để thực hiện: “Những lớp người đã chết nhưng những điều mơ ước còn lại mãi mãi” [5]. Đây cũng chính là cốt lõi giá trị của đời sống văn hóa tâm linh.

Trong tác phẩm Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, việc ngưỡng vọng với những người lính hi sinh lại đến trong sự xúc động thật thiêng liêng, thành kính. Khi kiểm tra hành trang của các sĩ tử trong hang đá, Quỳ tình cờ gặp chính mình trên những trang nhật kí của các chiến sĩ trẻ đã hi sinh, chị đã xúc động “nghĩ đến những chữ vô cùng trừu tượng thiêng liêng như Đất nước, Tổ quốc...” [6]. Nhưng hơn thế, Tổ quốc thiêng liêng, lớn lao tan chảy trong huyết mạch mỗi người để rồi trong hình bóng các anh chính là hình ảnh thân thương của quê hương, làng xóm: “Tôi lại còn hình dung thấy làng quê của từng anh với những người thân sống chung dưới một mái nhà, những bờ đê, một khúc sông ngầu phù sa chảy qua làng, một lối ngõ, tiếng tre kẽo kẹt và màu hoa xoan tím rắc li ti trên vạt đất ẩm, và chiếc gầu sắt tây chạm vào thành giếng kêu lanh canh” [7]. Thật khó để tìm ra gianh giới giữa cái Thiêng và cái Thực. Tất cả dường như tan hòa để chỉ còn đọng lại là cảm giác thân thương, bình dị, ấm áp của hai tiếng Quê hương.

Trên trang viết của Nguyễn Minh Châu, ta còn bắt gặp cách nghĩ, cách đánh giá về sự hy sinh, mất mát gắn với tâm thức truyền thống của người Việt. In đậm trong tiềm thức của Quỳ là hình ảnh những người lính trong trung đoàn K đã hy sinh vì độc lập của Tổ quốc, vì tự do hạnh phúc của nhân dân. Họ xứng đáng được ngưỡng mộ và tôn kính. Hiểu như thế ta mới cắt nghĩa được sự xúc động của Quỳ trước sự hy sinh của những người trẻ tuổi trong cuộc kháng chiến vừa qua. Trên đường đi công tác, khi ngang qua một ngôi chùa, bắt gặp pho tượng “ngàn tay ngàn mắt”, Quỳ đã nghĩ đến tập thể những người lính trong trung đoàn K: “Tôi đứng ngẩn ngơ trước bức tượng hồi lâu, rồi y như có một thứ tâm linh nào đó mách bảo cho tôi biết, lập tức tôi liền nghĩ ngay đến trung đoàn K. và anh ấy đang ở một nơi rất xa xôi, cả hai như vừa hoà chung vào nhau trong hình ảnh một con người có ngàn mắt ngàn tay” [8].

Đi theo hành trình tâm tưởng, hành trình suy tư của Quỳ người đọc được lắng mình trong sự đa diện của thế giới tâm linh như gương mặt “giàu sắc thái biểu cảm” của chị. Quỳ cảm nhận rất rõ: “Trên đường về, nhìn lên vách đá hay lá cây, tôi đều thấy một khuôn mặt người lính vừa đi khuất phía sau”. Tâm linh vốn là phần thiêng liêng trong ý thức, chính vì thế khi gặp những hoàn cảnh thiêng liêng, điều tâm niệm ăn sâu vào tiềm thức được bật ra. Quỳ đã thức dậy mối giao cảm thiêng liêng với những người lính đã đi xa để khiến chị luôn cảm nhận các anh vẫn ở bên, đang đồng hành trên mỗi chặng đường. 

Trong những năm chiến tranh chia cắt, Quảng Trị trở thành tuyến lửa. Nơi đây, bao nhiêu người con quê hương đã ngã xuống. Họ chiến đấu và hy sinh cho đất nước được trường tồn, do vậy trong tâm thức những người còn sống, họ không bao giờ mất đi mà ngược lại, họ hóa thân, siêu thăng để hòa quyện vào đất cát quê nhà. Lê Bá Dương đã viết về sự siêu thăng đó bằng những áng thơ bi tráng:

Đò lên Thạch Hãn, ơi… chèo nhẹ

Đáy sông còn đó, bạn tôi nằm

Có tuổi hai mươi thành sóng nước

Vỗ yên bờ, mãi mãi nghìn năm

Và các anh mãi còn đó trong ca khúc Cỏ non Thành Cổ của nhạc sĩ Tân Huyền. Viết về vùng đất thiêng, truyện ngắn Cỏ lau của Nguyễn Minh Châu đã tìm đến những cơ tầng của thế giới tâm linh sâu thẳm đó. Hai biểu tượng đầy ám gợi chạy dọc suốt thiên truyện dài là: núi Đợi và cỏ lau. Biểu tượng tạo cho người đọc những dòng suy tưởng, những thức nhận sâu xa về sự hóa thân, sự trường tồn của linh hồn dân tộc…..

Có thể nói, cảm xúc ngưỡng vọng, thành kính với những người hi sinh vì Tổ quốc đã tạc dựng nên bức tượng đài thiêng liêng trong tâm thức mỗi người. Đây chính là giá trị văn hóa cao đẹp neo giữ lòng người hướng đến cội rễ của truyền thống dân tộc.

2.2. Trong đời sống tâm linh của người Việt nói chung, người miền Trung nói riêng, việc thờ cúng tổ tiên đã trở thành thuần phong mỹ tục và được gìn giữ lưu truyền qua nhiều thế hệ. Với Cỏ lau, nhà văn cũng đã chạm đến vẻ đẹp gốc rễ, sự thiết tha với cội nguồn, luôn khắc khoải hướng vọng về quá khứ của những con người miền Trung. Nơi đây, tục thờ cúng trở thành một truyền thống có ý nghĩa trường tồn và đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống mỗi gia đình. Nơi vùng núi Đợi với thế giới cỏ lau bạt ngàn ta gặp những con người đang “sống về mồ về mả”, sống với sự giao cảm tâm linh đầy huyền nhiệm. Thai trong suốt mười sáu năm trời đã sống bằng dưỡng chất từ những kí ức tình yêu với Lực, dù chị đã trở thành vợ của người khác. Đi bất cứ nơi đâu chị cũng đem theo phần mộ của anh như để tìm một sự trú ẩn cho linh hồn nhiều khổ đau của chị. Chẳng năm nào chị quên ngày giỗ của anh, ngày thường lại càng chăm cúng “cúng ở nhà xong lại còn ra đồng cúng” - như lời đứa con gái chị hồn nhiên nói với “ông khách”. Hình ảnh Thai trong những ngày chạy di tản, dù đang ở cữ mới được nửa tháng nhưng vẫn tất tả lo cúng giỗ cho Lực, gieo vào lòng người đọc những cảm xúc đầy trân trọng, thiêng liêng, thành kính. Mất anh, điều đó cũng có nghĩa chị đã mất tất cả, chỉ còn lẽ sống duy nhất duy trì nghị lực sống trong chị ấy là sự nối kết với linh hồn anh qua những lần cúng giỗ. Với Phi Phi cũng thế, dù lẫn trong đám đàn bà “ăn sương” buôn bán, phe phẩy ở ngã ba đường nhưng chính sự ngưỡng vọng, tha thiết hướng về người tình chết trận khiến chị luôn tiềm ẩn vẻ đẹp tâm hồn thuần khiết, thanh cao. Phi Phi luôn ý thức về sự khinh bỉ của người đời đối với hạng đàn bà như chị nhưng với chị điều đó chẳng có ý nghĩa gì: “tôi giả lại cái vinh dự, vinh quang với lại những gì gì cho các ông, tôi chỉ thiết có một chút nắm xương của người tình của tôi đang bị lẫn lộn với đất ở đây” [9]. Chị đã cùng đám bạn thân thiết lăn lộn nơi vùng núi Đợi tìm bằng được phần hài cốt của Phi. Có thể nói đức tin cùng mối giao cảm tâm linh đã trở thành nguồn sức mạnh tinh thần, thành sợi dây vô hình gắn kết người sống với người đã chết. Cũng như thế, bao người dân nơi vùng núi Đợi sau chiến tranh đã tìm về lại mảnh đất quê hương. Đối với họ, quê hương không chỉ là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi chở che, nuôi lớn con người mà hơn hết đó chính là phần máu thịt, thiêng liêng trong tâm hồn mỗi người. Quê hương gắn với cốt nhục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ; quê hương còn là sự hy sinh của biết bao anh em bộ đội giải phóng…. Quay về lại mảnh đất quê hương chính là hành trình trở về nguồn cội, là sự tìm về nguồn sức mạnh tinh thần vô giá. Vì thế trong những ngày đầu khai hoang phải sống trong cảnh màn trời chiếu đất, dù chưa có gì để bày cỗ cúng bái nhưng nhà nào cũng mang theo bát hương cùng mấy thẻ hương để đốt lên cho người đã khuất. Tục thờ cúng người chết, với người miền Trung nói riêng, người Việt nói chung, đã trở thành một đạo lí sống tốt đẹp, giúp con người ta không bao giờ dứt lìa khỏi mối liên hệ với quá khứ và nhất là đem lại cho con người nguồn sức mạnh tinh thần vô giá.

Niềm tin thiêng liêng cùng những điều huyền nhiệm từ thế giới tâm linh luôn có tác dụng bao bọc con người trong một lẽ sống  thấm đẫm những giá trị văn hóa tốt đẹp. Có thể nói trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, đức tin cùng sự thành kính, ngưỡng vọng với những người đã khuất của người dân miền Trung đã trở thành một giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của vùng đất này. Trong khoảnh khắc hồi tưởng hay sự tự vấn của người sống với người đã chết, những kí ức, những kỉ niệm, kỉ vật ngày thường khi chia xa bỗng được trân trọng đến thành thiêng liêng hóa. Khúng (Phiên chợ Giát) khi mất đi đứa con trai thân yêu, nỗi đau khiến lão như tê liệt và trong hoàn cảnh đau đớn đó lão chỉ biết ôm lấy “cái kỉ vật vô cùng quý báu” mà con lão để lại, dù đó là cái ba lô bẩn thỉu, rách rưới, chẳng khác gì “chiếc đẫy của đứa ăn mày”. Trong cơn say của nỗi đau đớn tuyệt vọng, lão mân mê trên tay đôi đũa vót dở của con những mong tìm được chút hơi ấm còn sót lại. Khoảnh khắc Lực (Cỏ lau) tự vấn lương tâm mình về cái chết của Phi gieo vào lòng người đọc những ám ảnh da diết về sự tồn tại đầy quyền uy của thế giới tâm linh trong đời sống con người. Bởi nếu không thế thì Lực đã không phải day dứt về những tội lỗi trong quá khứ của mình với người đã khuất. Chiến tranh đã đi qua, cỏ lau đã mọc lên tươi tốt, phủ kín trận địa ngày nào trong một màu xanh bạt ngàn. Tuy nhiên, mặc cảm tội lỗi trong Lực thì không một cánh rừng cỏ lau nào có thể che phủ được.

2.3. Cũng có khi niềm tin tâm linh không gắn với những gì huyền nhiệm, thiêng liêng của linh hồn người đã khuất mà gắn với hiện thực trong sự day trở, cắn rứt của lương tâm con người. Phần thiêng liêng trong ý thức đã khiến nhân vật họa sĩ (Bức tranh) phải tự mở ra biết bao phiên tòa lương tâm để phán xét chính mình: “Ít hôm tôi lại đạp xe trở lại ngôi quán đó, nhưng vừa chớm đến nơi thì tôi đã cắm cổ đạp thật nhanh, cố giấu mặt đi. Mỗi lần đạp vụt qua khỏi cái quán cắt tóc ấy, tôi phóng hẳn sang một đoạn phố khác, cứ sợ đôi mắt người thợ cắt tóc nhìn theo” [10]. Rõ ràng đời sống tâm linh ở đây có tác dụng giáo dục nhân cách, thanh lọc tâm hồn con người, hướng họ đến việc tu dưỡng nhân cách sống có văn hóa.

Khám phá con người từ góc nhìn bên trong, bằng trực giác nhạy bén, Nguyễn Minh Châu không chỉ cho thấy thế giới tâm linh gắn với những điều huyền nhiệm, thiêng liêng hay với niềm tin mãnh liệt... mà ông còn cho người đọc thấy vẻ đẹp tâm linh con người trong những biểu hiện tưởng chừng bản năng, đời thường nhất. Đọc Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành người đọc ấn tượng bởi tình yêu đam mê, mãnh liệt của Quỳ và trung đoàn trưởng Hòa. Chính vì yêu Hòa tha thiết nên khi Hòa mất đi, Quỳ đã chìm sâu trong nỗi đớn đau của sự cô độc: “Như một con chim đã mất bạn... Đến bây giờ tôi mới hiểu được trong tất cả mọi sự mất mát, thì mất một con người là không có gì bù đắp được, không sao lấy lại được” [11]. Sự ra đi của Hòa đã mang theo một phần đời của Quỳ để rồi mãi mãi trong quãng đời còn lại của chị, khoảng trống thiếu anh đã khiến chị rơi vào những giấc mơ của sự hoang tưởng. Đây chính là phần bản năng thiêng liêng của tình yêu mãnh liệt.

Quỳ mang bức chân dung đa diện của người đàn bà đẹp và người đọc cứ đi từ ấn tượng này đến ấn tượng khác: vẻ đẹp thiên tính nữ, cá tính, sự quyết liệt, độc đáo, phi thường... Thật khó để lí giải về “con mắt và tâm hồn nữ giới” khi nghe câu chuyện chị kể về tiểu đội nữ lái xe của chị với hành động vượt ra ngoài khả năng và sự tượng tưởng: “Làm sao một đám đàn bà con gái có thể đưa anh em thương binh qua lọt cái cửa tử S. Trong khi...các chiến sĩ lái xe nam giới sừng sỏ đang phải ôm nhau nằm lại bên ngoài cái trọng điểm hoặc rải rác trên dọc đường” [12]. Chỉ có thể lí giải bằng bản năng thiên phú của người đàn bà là bản năng chở che, nuôi dưỡng, vun trồng sự sống: “Tôi đã trông thấy, trong một phút, tất cả cái phần sâu thẳm như một thứ thiên phú riêng của tâm hồn những người đàn bà chúng tôi: Đó là bản năng chăm lo, bảo vệ lấy sự sống của con người - do chính chúng tôi mang nặng đẻ đau sinh ra” [13]. Chính ở chi tiết này, Nguyễn Minh Châu đã đụng đến vùng sâu thẳm nhất, nơi chất chứa những điều vừa thiêng liêng vừa cao cả là cõi tâm linh.

Đến với Phiên chợ Giát, người đọc lại thấy được những nét bản năng rất chân thực của người nông dân lao động. Ở Khúng, đó là vẻ đẹp thiêng liêng của bản năng sinh tồn, bản năng của tình phụ tử... hay cả bản năng cảnh giác trước những người có chức có quyền vốn dường như là nét tâm lí cố hữu của người nông dân cũng được Nguyễn Minh Châu tinh tế khơi lật trên trang viết: “Về phần lão Khúng, mặc dầu ông Bời lúc nào cũng tỏ ra thân mật, bình đẳng, nhưng riêng lão Khúng bao giờ cũng để một khoảng cách với kẻ bề trên” [14].  Nhân vật Khúng gây ấn tượng với người đọc bởi sự thô nhám, gai góc, xù xì nhưng cũng chính ở nhân vật này toát lên mạnh mẽ nhất sức sống của người nông dân lao động. Nguyễn Minh Châu luôn rất tinh tế trong mỗi góc nhìn cuộc sống, đặc biệt khi viết về con người. Nhà văn luôn mang đến sự chân thật đến từng chân tơ kẽ tóc khi khai thác vẻ đẹp thanh khiết, chân thực từ phần bản năng trong mỗi con người.

2.4. Trong sự gắn bó thiết thân với miền Trung, Nguyễn Minh Châu dành sự “si mê” đặc biệt với Quảng Trị - vùng đất được mệnh danh là “quê hương của chiến tranh và khổ ải”. Nơi đây có vẻ đẹp phong phú của đời sống tâm linh của người Việt nói chung, lại có vẻ đẹp sâu sắc, thâm trầm của vùng đất hứng chịu quá nhiều những đau thương, mất mát. Vẻ sâu sắc, thâm trầm không chỉ được in dấu trong thế giới tâm hồn mỗi con người mà còn hiện hữu nơi nơi, đến cả đáy sông, bãi cỏ… Chẳng thế mà với Nguyễn Minh Châu, cỏ lau dường như đã thực sự trở thành một-thế-giới chứa đựng bao huyền nhiệm tâm linh. Đây là nét riêng trong đời sống tinh thần của vùng đất này, cũng là nét riêng trong sự khám phá của Nguyễn Minh Châu về đất và người miền Trung nói riêng, dân tộc Việt Nam nói chung.

Hiểu tầm quan trọng của thiên nhiên đối với con người nhất là trên lĩnh vực tinh thần, Nguyễn Minh Châu đã khai thác thế giới tâm linh của con người qua mối giao hòa với thiên nhiên. Trong những tác phẩm như Mảnh đất tình yêu, Phiên chợ Giát, Cỏ lau,… người đọc bắt gặp hình ảnh con người trò chuyện tâm tình với các loài cây cỏ, với đất mẹ, hay cảm nhận về sự tồn tại của những giá trị vĩnh hằng trong cuộc sống con người. Các nhân vật tìm về với thiên nhiên như tìm về với thế giới tâm linh của mình. Ở đó, họ có thể đạt được sự bình an trong tâm hồn, có thể tìm được trạng thái cân bằng cho đời sống tinh thần. Người ông ngoại của Quy có một khả năng kì lạ, ấy là tài nói chuyện với cây cỏ muông thú: “Ông tôi có thể ngồi nói chuyện suốt ngày với biển cả, thậm chí có thể trò chuyện tâm sự thân mật với cả con dã tràng” [15]. Có lẽ chỉ với những con người miền Trung với cuộc sống như đánh đu cả số phận, cả cuộc đời mình với thiên nhiên mới có được khả năng thần diệu đó. Sự giao cảm đem lại cho con người những khoảnh khắc bình an và nhất là giúp con người có thể lắng nghe, có thể thấu hiểu tâm tính của thiên nhiên đặng mà biết cách ứng xử cho phù hợp. “Cửa” Hiền An vốn nổi tiếng là một cái cửa “hỗn” nhất, tàu thuyền khó vô, khó ra nhất. Đội tàu đánh cá của Phan đã bao phen gặp phải khó khăn khi ra vào cửa biển “khó chịu” này. Những kinh nghiệm mà ông ngoại Quy trong phút hấp hối truyền lại cho Phan là những lời khuyên về sự gần gũi, hòa thuận với thiên nhiên: “Hãy thành tâm kiên nhẫn tìm hiểu, hỏi han nó. Rồi nó khắc bảo cho mà biết cái quy củ của nó.” [16]. Chỉ có sự thành tâm kiên nhẫn tìm hiểu thiên nhiên con người mới tìm được sự bình yên cho cuộc sống của mình.

3. Quan tâm đến phần sâu kín trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân miền Trung, Nguyễn Minh Châu đã nói được điều mà ông tâm đắc: nơi những làng quê miền Trung khô cằn, lam lũ, hoang tàn luôn ăm ắp tràn trào một đời sống tinh thần phong phú. Những phong tục, tập quán, tín ngưỡng của con người nơi đây luôn gắn với vẻ đẹp căn cốt, bền vững của một đời sống tâm linh thuần khiết, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt.

            Đời sống tâm linh cùng những nét văn hóa cổ truyền của làng quê miền Trung đã làm nên “tầng đời nền móng” vững chắc cho vùng đất và con người nơi đây. Soi vào bề dày văn hóa ấy, người đọc vừa thấy được bản sắc riêng của vùng văn hóa miền Trung, vừa thấy được sự hòa điệu trong dòng chảy chung của văn hóa dân tộc. Đặc sắc và tài năng của Nguyễn Minh Châu chính là ở chỗ đó.

Chú thích

[1] Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

[2]  Nguyễn Minh Châu (2001), Mảnh đất tình yêu, (trích từ Nguyễn Minh Châu toàn tập, Tập 2), Nxb Văn học, Hà Nội, tr.1008.

[3] [4] [5] Nguyễn Minh Châu (2001), Mảnh đất tình yêu, Sđd, tr. 1007, tr. 855, tr.1010.

 [6] [7] [8]  Nguyễn Minh Châu (2010), Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 208, tr.355, tr.195.

[9] Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, tr. 513.

[10] [11] [12] [13] [14] Nguyễn Minh Châu (2010), Truyện ngắn, Sđd tr.50, tr.192, tr.217, tr. 218, tr. 120.

 [15] [16] Nguyễn Minh Châu (2001), Mảnh đất tình yêu, Sđd tr. 763, tr. 879.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Toan Ánh (2002), Văn hoá Việt Nam - những nét đại cương, Nxb Văn học.

2. Trần Lê Bảo (2009), “Giải mã văn hóa trong tác phẩm văn học”, Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, Số 2-2009.

3. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

 

ThS. Thái Thị Phương Thảo, Trường Đại học Khánh Hòa

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2016

Nhà văn kiêm nhà báo tài năng Nhất Linh (1905 – 1963) hiện được an táng đâu?

Những tư liệu khả tín cho biết: năm 2001, di cốt Nhất Linh đã được chuyển từ Sài Gòn về chôn ở Hội An.

Kỳ lạ thay, từ ấy tới nay, tôi mấy lần ghé phố cổ bên bờ sông Hoài, hỏi thăm nhiều người địa phương, kể cả các cán bộ ngành văn hoá, thì họ đều trả lời:

– Hội An không có mộ Nhất Linh!

Nhất Linh qua nét vẽ của Nguyễn Gia Trí

Nhất Linh mang họ tên Nguyễn Tường Tam, chào đời năm 1905 (Ất Tị) tại thị trấn Cẩm Giàng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, em ruột của Nhất Linh là Nguyễn Thị Thế viết trong Hồi ký họ Nguyễn Tường (NXB Sóng, Sài Gòn, 1974) rằng thẻ căn cước của anh mình ghi ngày sinh 1-2-1905 do Nhất Linh từng làm lại giấy khai sinh nhằm đủ tuổi dự thi, chứ thực tế năm sinh lại là 1906 (Bính Ngọ). Năm 2010, Nguyễn Tường Thiết – con trai của Nhất Linh – chú thích bài Hai vẻ đẹp của Nhất Linh rằng ngày sinh chính xác của cha là 25-7-1906. Cần thêm rằng nguyên quán của Nhất Linh là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; hiện thời là phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Thời học sinh trường Bưởi ở Hà Nội, Nguyễn Tường Tam đã đăng thơ trên báo Trung Bắc Tân Văn và đăng bài bình luận Truyện Kiều trên tạp chí Nam Phong. Năm 1923, thi đỗ tiểu học, rồi kết hôn với Phạm Thị Nguyên, quê làng Phượng Dực (1). Năm 1924, học y lẫn mỹ thuật ở Hà Nội, nhưng chỉ thời gian ngắn thì bỏ. Năm 1926, vào miền Nam, đoạn qua Cao Miên tức Campuchia. Năm 1927, sang Pháp, nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, tốt nghiệp cử nhân khoa học giáo khoa chuyên ngành lý hoá tại Pháp.

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam dạy học tại các trường Thăng Long và Gia Long ở Hà Nội. Năm 1932, làm giám đốc báo Phong Hoá. Năm 1933, thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm bản thân Nhất Linh và Khái Hưng (Trần Khánh Giư còn gọi Nhị Linh), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Sau, Tự Lực Văn Đoàn thêm Xuân Diệu và Trần Tiêu (2). Năm 1936, tờ Phong Hoá bị đóng cửa, tờ Ngày Nay kế tục phong trào.

Năm 1938, Nhất Linh lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên thành Đảng Đại Việt Dân Chính. Từ ấy, Tự Lực Văn Đoàn công khai chống Pháp. Năm 1941, tờ Ngày Nay bị đóng cửa. Năm 1942, Nhất Linh dạt qua Quảng Châu, Trung Hoa, bị bắt giam 4 tháng, hoạt động trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách. Năm 1945, Nhất Linh trở về nước, ở Hà Giang thời gian ngắn liền quay lại Trung Hoa, chỉ đạo Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách tục bản báo Ngày Nay tại Hà Nội. Tháng 5-1945, tại Trùng Khánh, Trung Hoa, Nhất Linh sáp nhập Đảng Đại Việt Dân Chính và Đảng Việt Nam Quốc Dân thành Đảng Đại Việt Quốc Dân, gọi tắt là Việt Quốc.

Đầu năm 1946, trở về Hà Nội, Nhất Linh ra báo Việt Nam, giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, và được đặc cách tham gia Quốc hội khoá 1 mà khỏi cần bầu cử. Cũng năm đó, dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, Nhất Linh làm trưởng đoàn Việt Nam đàm phán với Pháp. Được cử đứng đầu phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng Nhất Linh không đi mà trốn qua Trung Hoa, tham gia thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Việt Nam nhằm ủng hộ Bảo Đại.

Năm 1951, Nhất Linh về nước, mở Nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn. Năm 1954, sang Pháp chữa bệnh.

Năm 1955, lên Đà Lạt sống, Nhất Linh mê sưu tập phong lan. Năm 1958, xuống Sài Gòn, Nhất Linh trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội Văn bút Việt Nam. Cũng tại Sài Gòn, từ năm 1958, Nhất Linh thực hiện giai phẩm Văn Hoá Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản.

Năm 1960, Nhất Linh thành lập Mặt trận Quốc dân đoàn kết, ủng hộ đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông đảo chính nhằm lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Ngày 11-11-1960, cuộc đảo chính thất bại, chính quyền đương thời giam lỏng Nhất Linh trong nhà riêng gần chợ An Đông, dự định đưa ra toà án xét xử ngày 8-7-1963. Noi gương hoà thượng Thích Quảng Đức, Nhất Linh dùng độc dược pha vào rượu uống để tự tử ngày 7-7-1963, lưu lại những dòng tuyệt mệnh:

“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả.”

Thơm danh liệt sĩ – nổi tiếng văn hào

Nhất Linh trút hơi thở cuối, để lại người vợ thân yêu Phạm Thị Nguyên cùng 7 con gồm 5 nam Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thái, Nguyễn Tường Thiết, và 2 nữ Nguyễn Thị Kim Thư, Nguyễn Thị Kim Thoa.

Nhất Linh còn lưu cho đời cả loạt tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị, bao gồm các tập truyện ngắn Nho phong, Người quay tơ, Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng), Đi Tây, Hai buổi chiều vàng, Thế rồi một buổi chiều, Thương chồng, các tiểu thuyết Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng), Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng), Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng, Xóm cầu mới, Giòng sông Thanh Thuỷ, tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, cả bản dịch Đỉnh gió hú của Emily Brontë.

Ngay sau khi Nhất Linh tự huỷ mình, nhà cầm quyền thuở ấy lập tức ra lệnh chôn ông gấp trong nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp vào sáng thứ bảy 13-7-1963 mà không chờ đợi con trai cả của người vừa khuất là Nguyễn Tường Việt từ Pháp về phục tang.

Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ bệ, lễ truy điệu Nhất Linh được tổ chức rất trọng thể tại sân Tao Đàn ở Sài Gòn. Bấy giờ, vang vọng áng văn tế Nhất Linh do thi sĩ Vũ Hoàng Chương soạn ngày 5-1-1964 mà đây là đoạn kết:

Hỡi ơi!

Tố Đoạn tuyệt thành hồ đoạn tịch, mộng dẫu chơi vơi nửa cuộc, sử còn thơm danh liệt sĩ Tường Tam;

Phượng Nhất Linh hề thiên nhất phương, lầu tuy ngơ ngác bên sông, gió vẫn nổi tiếng văn hào họ Nguyễn.

Năm 1975, tại Sài Gòn, Nguyễn Tường Thạch hoả thiêu di cốt cha, đoạn gửi bình tro trong chùa Kim Cương trên đường Trần Quang Diệu, quận 3.

Năm 1981, quả phụ Phạm Thị Nguyên từ Việt Nam sang Pháp đoàn tụ với các con. Bà mất năm đó, được an táng trong một nghĩa trang tại thủ đô Paris.

Năm 2001, toàn gia quyết định di dời hài cốt mẹ Phạm Thị Nguyên từ Paris và cha Nhất Linh từ Sài Gòn về Hội An. Sự kiện này được Phạm Phú Minh tường thuật trong bài Nấm cỏ đưa về tấc đất xuân đăng tạp chí Thế Kỷ XXI số tháng 7 năm 2002, và Khúc Hà Linh ghi nhận trong bài 12 năm cuối đời của người đứng đầu Tự Lực Văn Đoàn đăng báo Tiền Phong 24-2-2008 rồi in trong sách Anh em Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam: ánh sáng & bóng tối (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2008).

__Hội An với nấm mồ Nhất Linh

Sau khi tiếp nhận các nguồn tin trên, tôi mấy lần ghé Hội An, hỏi một số người địa phương về nấm mồ Nhất Linh, đều nghe đáp:

– Ở Hội An có từ đường Nguyễn Tường, chứ không có mộ Nhất Linh.

Mùa hè 2010, lại về thăm phố cổ, tôi quyết định dành thời gian tìm kiếm âm phần thủ lĩnh của Tự Lực Văn Đoàn, người từng chủ trương: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”. Thoạt tiên, tôi liên hệ với một số cơ quan chức năng tại đây. Giám đốc Trung tâm Văn hoá – Thể thao thành phố Hội An là Võ Phùng cho biết:

– Chắc chắn không có mộ Nhất Linh ở Hội An.

Công tác tại Trung tâm kia, lại dành nhiều thời gian nghiên cứu về cuộc đời lẫn sự nghiệp Nhất Linh, song nhà thơ Phùng Tấn Đông vẫn nhấn mạnh:

– Chưa hề dời mộ Nhất Linh từ Sài Gòn ra Hội An. 

Giám đốc Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An là Nguyễn Chí Trung nói:

– Hội An không có mộ Nhất Linh. Nhân vật nổi tiếng vậy mà chôn ở Hội An thì dân địa phương biết liền chứ. Tuy nhiên, anh thử tìm hiểu thêm, biết đâu…

Trần Tuấn – trưởng phòng kỹ thuật Palm Garden Beach Resort & Spa ở Cửa Đại – vừa lái xe đưa tôi đi, vừa cười:

– Chẳng khác mò kim đáy bể, anh Phanxipăng ạ!

Từ đường phái nhì Quảng Nam của dòng họ Nguyễn Tường trên đường Lê Quý Đôn, toạ lạc giữa các di tích đã được Nhà nước xếp hạng là Khổng miếu và lăng ngài Tham tri Trần Ngọc Dao (3). Tôi tạt vào từ đường, gặp chị Nguyễn Thị Quyên. Chị tươi cười:

– Mộ nhà văn Nhất Linh cùng vợ và con gái Nguyễn Thị Kim Thư đã được gia quyến cải táng về Hội An ngày 28-4-2001. Dạo đó, các con của Nhất Linh gồm Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Thị Kim Thoa cùng đến đất này lo hiếu sự.

Trong từ đường, gian phía tây có thờ chân dung Nhất Linh.

Chị Quyên nhiệt tình đưa tôi ra xã Cẩm Hà, tới Nghĩa trang nhân dân thành phố Hội An, bước vào khu âm phần dành cho tộc Nguyễn Tường. Trông thấy mộ vợ chồng Nhất Linh, ngay lập tức, Trần Tuấn thảng thốt:

– Hỡi ôi! Mộ Nhất Linh dời về đây từ năm 2001, lẽ nào người Hội An lâu nay mù tịt? Mộ bậc tài danh lẫy lừng mà sao nhỏ nhắn quá, bị chìm khuất quá, khó tìm kiếm quá!

Nội dung bia mộ Nhất Linh đan xen Hán tự phồn thể lẫn giản thể và Việt ngữ.

Chữ Hán:

錦江

阮祥门第十世

顯考号一灵阮府君之佳域 (4)

Phiên âm:

Cẩm Giàng

Nguyễn Tường môn đệ thập thế

Hiển khảo hiệu Nhất Linh Nguyễn phủ quân chi giai vực

Nghĩa:

Cẩm Giàng

Họ Nguyễn Tường, đời thứ 10

Mộ thân phụ có hiệu Nhất Linh của chúng tôi

Chữ Việt:

Sinh năm 1906

Mất năm 1963

Nam: Tường Việt, Triệu, Thạch, Thiết, nữ: Kim Thoa, cháu nội: Tường Anh, Phong, Thao phụng lập 4-2001

Chị Quyên cất tiếng:

– Nghe tin tỉnh Hải Dương đang xúc tiến tạo dựng Khu lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn. Đúng không anh Phanxipăng?

Quả đúng vậy. Tại thị trấn Cẩm Giàng thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản cố trạch của Tự Lực Văn Đoàn đã được tổ chức ngày 9-5-2008. Ngày 17-12-2008, UBND tỉnh Hải Dương ban hành công văn chỉ đạo quy hoạch khu vực cố trạch của Tự Lực Văn Đoàn tại thị trấn đó. Tháng 4-2009, UBND huyện Cẩm Giàng lập ban chỉ đạo quy hoạch; và theo kế hoạch thì giai đoạn 1 tạo dựng Khu lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn đạt diện tích 1,2ha, trong đó có công viên văn hoá, thư viện, nhà khách.

Thế thì với ngôi mộ của vị chủ soái Tự Lực Văn Đoàn là nhà văn kiêm nhà báo Nhất Linh, thành phố Hội An nên sớm trù hoạch và triển khai biện pháp tôn tạo khả thi nhằm mở thêm chốn giao lưu văn hoá bổ ích, đồng thời là điểm du lịch thú vị thừa khả năng cuốn hút đông đảo tao nhân mặc khách muôn phương. ♥

 ____________

(3)   Có thể tham khảo bài Phó bảng của Phanxipăng đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 868 (11-1-2010) rồi truyền lên một số trang web, trong đó có weblog này:

https://phanxipang.wordpress.com/2012/08/26/pho-bang-i/

https://phanxipang.wordpress.com/2012/08/27/pho-bang-ii/

(4)   Bút hiệu / bút danh chính của Nguyễn Tường Tam 阮祥叄 là Nhất Linh vẫn được ghi kiểu kép 壹零 nhưng bia lại khắc kiểu đơn 一灵. Qua bài Nấm cỏ đưa về tấc đất xuân, Phạm Phú Minh phê bình tấm bia này: “Riêng chữ thứ 9 từ trên xuống, có lẽ do thợ khắc sai, không có nghĩa, được đoán là chữ chi”. Kỳ thực, chữ 之 chi cũng được thể hiện theo dạng “thượng sơn, hạ nhị” như vậy, chẳng hạn bia nơi mộ Tăng Bạt Hổ trong khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu ở Bến Ngự, Huế.

Phanxipăng

Đã đăng trên các tạp chí:

  • Thế Giới Mới 912 (29-11-2010)
  • Kiến Thức Ngày Nay 731 (1-12-2010)
  • Tài Hoa Trẻ 869 (9-10-2013)

__________

(1)   Phượng Dực hiện là 1 trong 3 làng thuộc xã cùng tên ở huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội. Xưa, Đồng Khánh dư địa chí ghi nhận rằng “xã Phượng Dực thuộc tổng Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội”. Năm 1888, Pháp lập tỉnh Hà Đông, có phủ Thường Tín gồm 3 huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên.

(2)   Qua bài Phải chăng Trần Tiêu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn? đăng tạp chí Nghiên Cứu Văn Học 7-2008, Cù Huy Hà Vũ cho rằng Trần Tiêu chưa bao giờ là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.

20170709.nguyenchanhsat

Cuộc đời 78 năm của Nguyễn Chánh Sắt nằm trọn trong giai đoạn lịch sử bi hùng của vùng đất Nam kỳ Lục tỉnh. Ông sinh ra (1869) thì Nam Kỳ đã rơi vào tay thực dân Pháp và khi ông tạ thế (1947) là lúc nhân dân ở đây đang căng mình, dồn sức ngăn giặc tái xâm lăng. Đó là giai đoạn cam go thử thách đối với bản lĩnh của dân tộc, khí phách của người dân Nam Kỳ và nhân cách của tầng lớp trí thức. Nguyễn Chánh Sắt là một trí thức từng trải, đi nhiều nơi, làm nhiều nghề, cộng tác với nhiều người. Tuy chưa cầm vũ khí đứng lên chống giặc nhưng ông cũng chưa bao giờ cam tâm làm nô lệ, tay sai cho bọn thực dân. Ông có làm việc với vài cơ quan và cá nhân của Pháp nhưng chưa có tài liệu nào chứng tỏ ông một lòng một dạ phục vụ cho quan thầy hay quay lưng chống lại các phong trào yêu nước, tiến bộ. Hơn nữa, với những hoạt động kinh tế xã hội trong Nam Kỳ Kỹ nghệ công ty và những hoạt động báo chí, văn học trên Nông cổ mín đàm cũng đủ để ông có được một chỗ đứng xứng đáng trong lịch sử cận - hiện đại Việt Nam.

Về hoạt động văn học, Nguyễn Chánh Sắt không có được vị trí tiền phong - khai mở nền văn học mới như Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Nguyễn Trọng Quản (1865-1911); cũng chưa gặt hái được vinh quang như Hồ Biểu Chánh (1885-1958), nhưng ông luôn là người xuất hiện ở tâm điểm của các phong trào văn học sôi động trong ba thập niên đầu thế kỷ XX: phong trào dịch truyện Tàu ở thập niên thứ nhất và phong trào sáng tác “kim thời tiểu thuyết” ở hai thập niên sau. Đó cũng là hai mắc xích quan trọng của tiến trình hiện đại hoá văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ.

Từ cuối thế kỷ XIX ở Nam Bộ đã có một số tác phẩm Trung Hoa được dịch sang quốc ngữ La tinh. Nhưng phải kể đến ngày 11-8-1901, trên số đầu tiên của tờ Nông cổ mín đàm cho đăng truyện dịch Tam quốc diễn nghĩa thì phong trào dịch truyện Tàu ở Nam Bộ mới thực sự mở màn và ngày càng thu hút nhiều cây bút tham gia như Trần Phong Sắc, Nguyễn An Khương, Trần Hữu Quang, Huỳnh Hữu Trí… Nguyễn Chánh Sắt nhanh chóng trở thành nhân vật nổi bật của phong trào. Dịch phẩm đầu tiên của ông là truyện Tây Hớn (1901) do nhà xuất bản J.Nguyễn Văn Viết ấn hành. Sách bán rất chạy nên ông tiếp tục dịch truyện Đông Hớn và tự xuất bản. Tính đến năm 1910, Nguyễn Chánh Sắt đã dịch được hơn chục truyện Trung Hoa: Nhạc Phi (1905), Ngũ hổ bình Tây (1906), Thuyết Đường diễn nghĩa (1908), Chung Vô Diệm (1909), Kim cổ kỳ quan (1910), Càn Long du Giang Nam, Anh hùng náo Tam môn giai, Mạnh Lệ Quân, Thập nhị quả phụ…

Truyện dịch của Nguyễn Chánh Sắt thiên về loại có cốt truyện hành động, phiêu lưu, nội dung phù hợp với quan niệm đạo đức “khuyến thiện trừng ác” của dân gian, viết theo lối văn xuôi giống như lời nói thường ngày nên rất gần gũi và hấp dẫn đối với công chúng độc giả. Người đương thời coi Nguyễn Chánh Sắt và Nguyễn An Khương là hai dịch giả đặc sắc nhất. Nguyễn Liên Phong viết trong Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca (1909):

Truyện thơ hay dịch liền liền

An Khương, Chánh Sắt rõi truyền thêm hay.

Còn Ngươn Long trong bài Xem truyện của Nguyễn Chánh Sắt ta nhận thấy điều gì? cũng có lời khen ngợi lối văn dịch của ông: “Tác giả đã từng dụng ngòi viết mà dịch thuật ra nhiều bộ truyện Tàu mà đến nay khắp nơi cũng vẫn còn hoan nghinh (…). Lối văn dịch của tác giả rất giản dị (…). Lối văn ấy rất thích hạp với các vị ham đọc truyện Tàu và tất cả mọi người đều xem qua hiểu được rành rẽ”.

Dịch phẩm truyện Tàu của Nguyễn Chánh Sắt và của nhiều bậc thức giả đương thời còn có tác dụng tích cực trong việc truyền bá chữ quốc ngữ, chuẩn bị điều kiện về vật chất và tinh thần cho nền văn học mới ra đời.

Về sau phong trào dịch và xuất bản truyện Tàu tràn lan, chạy theo thị hiếu người đọc, sa dần vào những chuyện mê tín dị đoan, hoang đường ma quái đã gây sự phản ứng ngược lại đối với việc dịch truyện Tàu. Chính phản ứng này là động cơ thúc đẩy phong trào sáng tác truyện văn xuôi quốc ngữ - mà thời ấy mệnh danh là “kim thời tiểu thuyết” - phát triển.

Thực ra loại “kim thời tiểu thuyết” đã được xác lập từ Truyện thầy Lazaro Phiền (1887) của Nguyễn Trọng Quản. Nhưng đây là “một con chim lạ từ phương Tây đáp xuống một vùng đất còn vắng bóng đồng loại. Bởi lẽ đó, nó mới nổi lên như một ốc đảo chơi vơi sau thế kỷ XIX không riêng ở Nam Kỳ mà ở cả Việt Nam” [4, 303]. Phải đợi đến hơn 20 năm sau, khi Phan Yên ngoại sử (Tiết phụ gian truân, 1910) của Trương Duy Toản, Hoàng Tố Anh hàm oan (1910) của Trần Thiên Trung (Trần Chánh Chiếu) ra đời thì tiểu thuyết quốc ngữ mới có được bước tiến rõ rệt. Là người nhạy bén, không để thời cuộc bỏ rơi, lúc này, Nguyễn Chánh Sắt cũng bắt đầu bước sang địa hạt sáng tác tiểu thuyết. Tác phẩm đầu tiên của ông là cuốn Trinh hiệp lưỡng nữ (gia đình tiểu thuyết, 1915) được công chúng độc giả Nam Kỳ rất hâm mộ. Từ đó ông nổi danh như một cây bút tiểu thuyết sung sức và đa dạng trong những năm 1915-1930 với gần chục tác phẩm thuộc nhiều thể tài khác nhau: Nghĩa hiệp kỳ duyên (gia đình tiểu thuyết, 1920); Gái trả thù cha (trinh thám tiểu thuyết, 1920); Một đôi hiệp khách (nghĩa hiệp tiểu thuyết, 1920); Tình đời ấm lạnh (tâm lý tiểu thuyết, 1922); Lòng người nham hiểm (xã hội tiểu thuyết, 1925); Man hoang (kiếm hiệp tiểu thuyết, 1925); Tài mạng tương đố (tâm lý tiểu thuyết, 1926); Giang hồ nữ hiệp (võ hiệp tiểu thuyết, 1928); Việt Nam Lê Thái Tổ (dã sử tiểu thuyết, 1929); Tiểu hồng bào hải thoại (truyện, 1930)…

Nhìn chung ở Nguyễn Chánh Sắt gần như hội tụ được những phẩm chất của một kiểu người làm văn học tiêu biểu hồi đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ: rành tiếng Pháp, giỏi Hán văn, thông thạo quốc ngữ; vừa là nhà báo, nhà dịch thuật vừa là nhà sáng tác; linh hoạt và xông xáo; kịp thời đón bắt những đổi thay của đời sống xã hội và thị hiếu công chúng, góp phần làm nên diện mạo và chất lượng mới cho văn học. Kiểu người làm văn học như vậy sau này chỉ còn thấy ở Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Lý Văn Sâm, Trang Thế Hy, Trần Bạch Đằng…

Căn cứ số lượng và tên gọi tác phẩm mà Nguyễn Chánh Sắt để lại cho hậu thế, dễ dẫn đến nhận định rằng Nguyễn Chánh Sắt là cây bút đa dạng, thể nghiệm trên nhiều thể loại, thể tài văn xuôi. Nhận định ấy không phải không có lý.

Quá trình hiện đại hoá văn xuôi Nam Bộ diễn ra có lúc khẩn trương, có lúc khúc khuỷu trong ba thập niên đầu thế kỷ XX thực chất là quá trình thay đổi toàn diện về chất liệu, lối hành văn, kiểu nhà văn, trình tự sáng tạo, mẫu hình và hệ thống thể loại văn xuôi. Đó là quá trình đoạn tuyệt chữ Hán, chữ Nôm để sử dụng thuần chữ quốc ngữ la tinh; thoát ly lối văn biền ngẫu sang trọng, đăng đối để hướng tới lối văn dung dị mang hơi thở đời sống thường nhật; đi từ kiểu nhà văn nghiệp dư đến kiểu nhà văn chuyên nghiệp; “sản xuất” theo trình tự dịch thuật đến sáng tác; giã từ mẫu hình văn học Trung Hoa để tiếp nhận mẫu hình văn học phương Tây, chủ yếu là văn học Pháp; chuyển từ thể loại truyện chí đến thể loại tiểu thuyết và truyện ngắn. Sáng tác của Nguyễn Chánh Sắt là một minh chứng sống động cho quá trình ấy.

 Có thể xếp các cuốn Man hoang, Việt Nam Lê Thái Tổ vào loại truyện chí - loại tác phẩm viết theo lối tiểu thuyết chương hồi trong văn học trung đại Trung Hoa và Việt Nam như Tam Quốc chí, Hoàng Lê nhất thống chí. Tác phẩm được chia làm nhiều hồi, đầu mỗi hồi có một câu biền ngẫu giới thiệu nội dung, sự kiện chính. Loại truyện này có xu hướng đi vào các đề tài dã sử, lịch sử, kiếm hiệp. Cuốn Man hoang dài hơn 400 trang, kể về 12 anh hùng hảo hớn ở vùng Vân Nam, mỗi người một cảnh ngộ nhưng đều hành hiệp trượng nghĩa, diệt ác trừ gian, cứu nhân độ thế, sau này “lấy theo niên kỷ mà phân biệt ngôi thứ (…) kết bạn sanh tử có nhau (…) bõ lúc long đong, sum vầy một cửa”. Truyện gồm 40 hồi, mở đầu bằng sự kiện: “Báo oan cừu, dân Miêu sanh dị chí/ Đoạt bửu kiếm, đại hiệp trổ tài năng” và kết thúc ở chỗ: “Thi xảo kế, lũ cướp thọ hình/ Tế vong linh, chồng vợ đoàn viên”. Câu chuyện hoàn toàn hư cấu mà hấp dẫn, dễ gợi nhớ kiệt tác Thủy Hử truyện của Thi Nại Am. Cuốn Việt Nam Lê Thái Tổ kể lại công cuộc dựng nghiệp của người anh hùng áo vải Lê Lợi, từ lúc dấy binh ở Lam Sơn cùng Nguyễn Trãi và nhiều danh tướng, nghĩa sĩ khác cho đến ngày đánh lui quân xâm lược nhà Minh, thu bờ cõi về tay dân Việt. Tác giả một mặt bám sát các sự kiện có thực đã được ghi trong sử sách, mặt khác cũng mạnh dạn đưa vào những quan hệ đời thường giữa các nhân vật, hư cấu thêm vài chi tiết mang màu sắc huyền thoại (như nhân vật Thị Lộ là do con rắn biến hình mà báo thù Nguyễn Trãi), khiến câu chuyện trở nên sinh động, lôi cuốn, giàu chất văn xuôi. Cả hai cuốn Man hoangViệt Nam Lê Thái Tổ xét về mặt hình thức và lối viết rõ ràng còn chịu ảnh hưởng sâu đậm loại truyện Tàu.

Những sáng tác Nguyễn Chánh Sắt gọi là truyện “tâm lý”, “xã hội, “trinh thám” như Lòng người nham hiểm, Tài mạng tương đố, Tình đời ấm lạnh… chứa đựng nhiều yếu tố đặc trưng của thể loại tiểu thuyết - loại tác phẩm tự sự dài hơi, cực kỳ linh hoạt về nội dung và bút pháp của phương Tây, không cùng mẫu hình với loại truyện chí. Những sáng tác này hướng vào các vấn đề xã hội hiện đại, kết cấu và lời văn có nhiều chỗ mới mẻ hơn so với các sáng tác thuộc loại “kiếm hiệp, dã sử”. Cuốn Lòng người nham hiểm mở đầu ở thời hiện tại, bằng sự kiện Hoàng Hữu Chí bị xe ngựa của bà phủ và hai cô con gái nuôi là Xuân Lan và Thu Cúc đi vía Bà ở núi Điện (Tây Ninh) lấn đường, làm suýt ngã. Kế đó mạch truyện mở ra theo dòng “độc thoại” của Hoàng Hữu Chí về “cái buổi ưu thắng liệt bại” mà giở lại lai lịch, gốc gác, hành trạng của các nhân vật ở thời quá khứ. Rồi khi Lâm Xuân Kỳ xuất hiện thì câu trở về thời hiện tại với những mưu sâu, kế độc của nhân vật này nhằm hãm hại Hoàng Hữu Chí, chiếm đoạt Thu Cúc. Một câu chuyện đời thường với những mâu thuẫn, xung đột mang nội dung thế tục và được trình bày khá mạch lạc, tự nhiên… khiến tác phẩm có dáng dấp của một truyện vừa hiện đại.

Ngoài ra, ở Nguyễn Chánh Sắt còn gặp loại sáng tác có tính chất quá độ, trung gian giữa truyện chí và tiểu thuyết. Đó là những truyện được thể hiện thành nhiều đoạn, mỗi đoạn có một tiêu đề như thấy ở Nghĩa hiệp kỳ duyên, Một đôi hiệp khách, hoặc được phân làm nhiều “lớp” như thấy ở Gái trả thù cha (40 lớp). Hình thức, bố cục vẫn theo lối tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa nhưng đề tài, kết cấu, dụng văn lại theo lối tiểu thuyết phương Tây. Trong số đó, có lẽ Một đôi hiệp khách gần hơn với loại truyện chí, còn Nghĩa hiệp kỳ duyên nghiêng về loại tiểu thuyết. Điều này đã được các nhà nghiên cứu chú ý. Hoài Anh cho rằng “Truyện Một đôi hiệp khách (…) đã mô phỏng những truyện võ hiệp của Trung Hoa”[1, 1]. Bùi Đức Tịnh nhận xét Nghĩa hiệp kỳ duyên là “một tác phẩm tiêu biểu của bộ môn tiểu thuyết được hình thành bằng kết hợp những truyền thống về truyện có sẵn của văn học Việt Nam với những đặc tính của tiểu thuyết phương Tây” [7, 233].

Đi từ truyện chí đến tiểu thuyết, Nguyễn Chánh Sắt có chuyển biến trong cảm quan hiện thực của mình. Từ chỗ sáng tạo dựa trên kinh nghiệm (đọc, dịch truyện Tàu) và tưởng tượng, hư cấu, dần dần ông cũng ý thức đưa những “chuyện đời này, là sự thường có trước mắt” (Nguyễn Trọng Quản), những “việc trong xứ mình” (Trần Chánh Chiếu) vào các trang viết - sáng tạo dựa trên sự quan sát, cảm nhận về cuộc sống hiện tại. Thế giới nghệ thuật trong các truyện dã sử, kiếm hiệp của ông chỉ là hồi quang của lịch sử, được khơi gợi từ thực tế xã hội giông bão phũ phàng với xúc cảm mang màu sắc lãng mạn. Nội dung hiện thực rõ nét hơn trong những “kim thời tiểu thuyết”. Chuyện “Tại Tân Châu, có một người giàu có lớn là Trịnh Thế Xương, sự nghiệp đáng trăm muôn, vợ mất sớm, có để lại một đứa con gái (…) là Trịnh Phương Lang (…) lúc mới lên sáu tuổi bị hỏa tai nên lạc mất. Từ đó đến nay đã ngót 12 năm, biệt tích vắng tăm, không ai tìm được” (Nghĩa hiệp kỳ duyên). Chuyện ông quan huyện Nguyễn Trọng Luân ở Vĩnh An Hà “thanh liêm cang trực, giàu chẳng sợ, khó chẳng khi” vì “sự bảo lãnh liên can” phải “biến mãi gia sản để trừ cho đủ số nợ 5.000 đồng” mà thành ra nghèo túng, chật vật, con cái tha phương, gia đình ly tán; còn bạn ông là Phan Mẫn Đạt, “một nhà buôn bán rất to, vì một ngọn lửa vô tình mà trong giây phút phải hoá ra một đống tro tàn rất nên thê thảm” (Lòng người nham hiểm). Chuyện ông Đỗ Khắc Thới, một “hào hộ phú gia” ở Chợ Gạo “nhưng bởi tánh ông từ thiện, chẳng khổ khắc và sâu mọt của ai, mà ông chỉ bố thí ra hoài (…) lại thêm luôn mãi bốn năm trời, mùa màng thất bát, cho nên gia vận phải suy vi, lần lần ruộng đất tiêu mòn”, sau đó lâm trọng bệnh đành cầm nhà bán ruộng để thuốc thang mà vẫn không qua khỏi (Tài mạng tương đố)… Tất cả chuyện trên đều phản ánh một phương diện có thực của xã hội Nam Bộ vào những năm đầu thế kỷ XX - xã hội trong buổi giao thời, đang trên đường tư sản hoá đã làm đảo lộn cuộc sống nhiều gia đình, thay đổi nhiều thân phận, nhất là đối với tầng lớp quan lại, trung lưu. Nguyễn Chánh Sắt “ngậm ngùi, chép miệng than dài” về những nghịch lý trong xã hội: “Những kẻ có chí lo đời thường bị việc rủi ro, cho đến nỗi phải bại gia tán sản. Còn những kẻ khán tài nô cùng những phường công tử bột thì ăn sung mặc sướng, xuống ngựa lên xe, kẻ thì đem bạc vạn mà chôn theo mấy đám trăng hoa, người thì vác bạc muôn đi thua cờ bạc… vô ác bất vi”. Hiện thực ấy tuy chưa phong phú và rộng rãi so với vài tác phẩm cùng thời nhưng vẫn có giá trị nhận thức về lịch sử, có tác dụng khơi nguồn cho dòng văn học hiện thực phê phán sau này.

Bên cạnh khuynh hướng hiện thực, Nguyễn Chánh Sắt còn là nhà văn có khuynh hướng luân lý. Sáng tác của ông, dù ở thể tài nào cũng toát lên một tư tưởng chung rất nhất quán: phê phán bọn nhà giàu, quyền thế bất lương; bênh vực người nghèo khổ bị áp bức; đề cao khát vọng hạnh phúc gia đình; và đấu tranh cho công bằng xã hội. Tư tưởng ấy xuất phát từ lập trường đạo đức - một thứ đạo đức có tính chất nhị nguyên, vừa mang màu sắc phong kiến vừa mang màu sắc dân gian. Khuynh hướng đạo đức thể hiện ở cách đặt nhan đề tác phẩm (Nghĩa hiệp kỳ duyên, Một đôi hiệp khách, Tài mạng tương đố, Lòng người nham hiểm…); ở cách chọn tên nhân vật (người tốt gồm những Trọng Luân, Trọng Nghĩa, Hữu Chí, Chấn Quốc, Hạo Nhiên, Ngươn Kiệt; kẻ xấu là bọn Hữu Chanh, Tám Chĩnh, Câu Bảy, Thị Bườn, Phi Đáng; con gái đẹp nết, đẹp người được gọi Xuân Lan, Thu Cúc, Mộ Trinh, Lệ Dung…); ở lối kết thúc có hậu trong cảnh đại đoàn viên. Nhân vật chính trong tác phẩm Nguyễn Chánh Sắt, chính diện cũng như phản diện, thường được xây dựng với mục đích thuyết minh cho quan niệm:

                 Thiện ác đáo đầu chung hữu báo

                 Chỉ tranh lai tảo dữ lai trì

                                  (Nghĩa hiệp kỳ duyên)

Người hiền lương chính trực, làm điều thiện, việc nghĩa sẽ được đền bù xứng đáng về sau (ở hiền gặp lành); còn kẻ ác gian hiểm độc, hành động phi nghĩa, bất nhân sớm muộn cũng bị trừng phạt (ở ác gặp dữ). Khuynh hướng đạo đức làm cho nội dung tư tưởng tác phẩm Nguyễn Chánh Sắt lành mạnh, trong sáng, dung dị, dễ tiếp nhận đối với số đông công chúng bình dân. Nhưng nó cũng là rào cản ông trên đường đi tới chủ nghĩa hiện thực. Khuynh hướng đạo đức không phải là hiện tượng riêng biệt ở Nguyễn Chánh Sắt mà là khuynh hướng phổ biến của các nhà văn Nam Bộ vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, từ Nguyễn Đình Chiểu đến Hồ Biểu Chánh.

Một phương diện khác cũng khá đặc sắc ở Nguyễn Chánh Sắt là văn chương ông có phong vị Nam Bộ đậm đà. Cái phong vị đó bàng bạc khắp các tác phẩm, từ ngôn ngữ, khung cảnh, sinh hoạt, phong tục đến diện mạo tính cách, tâm lý nhân vật. Miêu tả hành động vội vã ông dùng những từ: “lật đật lưởi đưởi, lập cập lưởi cưởi, dấp dính dấp dưởi”; thể hiện trạng thái bực bội, uất ức ông có những từ “tấm tức tấm tưởi, bù xa bù xít, xầm xì xậm xịt”; nói đến cái nghèo tận đáy xã hội ông viết: “nghèo khô nghèo khiển”… Đó chính là từ ngữ và cách nói rất riêng của người bình dân Nam Bộ mà ngày nay vẫn còn được nghe thấy ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngôn ngữ đối thoại của ông rất giống lời nói cửa miệng quần chúng, đôi khi đạt trình độ cá thể hoá khá cao, thể hiện được nét tính cách nhân vật. Đào Phi Đáng là đứa trắc nết, lẳng lơ, giả dối nên dù cố tỏ ra ngây thơ thật thà đến mấy thì cái bản chất gian ngoan vẫn cứ bộc lộ qua khẩu khí, ngôn từ: “Tôi lúc ấy còn khờ dại quá, nghe nói đem về cho tía má tôi, thì mừng không khóc nữa. Chẳng dè họ chèo thẳng lên Nam Vang (…) mà bán tôi cho một người đầu gà đít vịt, mà người ấy lại thương tôi lắm, ban đầu tôi còn nhớ cha tôi mà khóc hoài, sau họ dỗ dành ngon ngọt tôi, cho tôi ăn mặc phủ phê, lần lần nguôi ngoai nên tôi không khóc nữa. Tôi ở làm con nuôi người ấy được ba bốn năm, rủi sao cha mẹ nuôi tôi lại bị xuông dịch mà chết hết, làm cho tôi côi cút một mình, khách địa bơ vơ” (Nghĩa hiệp kỳ duyên). Không cô gái đoan chính nào kể về tuổi thơ lưu lạc của mình bằng giọng điệu, ngôn từ vô cảm và thô tục như vậy. Còn đây, hình ảnh một bà mẹ Nam Bộ đôn hậu, chăm bẳm cho hạnh phúc con gái yêu, được thể hiện qua lời nói chứa đầy tâm trạng: “Này con, má thấy Đỗ Khắc Xương thiệt má thương nó quá; thằng sao tuổi tuy nhỏ mà phẩm hạnh đoan trang, cử chỉ đàng hoàng, nói năng nho nhã; ngặt vì nhà nó nghèo, mà tánh cha con thì khó quá chứ phải tánh cha con mà cũng được như tánh má đây vậy, chẳng cần sự giàu nghèo, miễn là tài đức cho vẹn toàn là đủ, thì má gả con cho nó để hầu sửa trấp nưng khăn, cho tròn ơn tròn nghĩa” (Tài mạng tương đố). Các nhân vật chính diện của Nguyễn Chánh Sắt thường có nét phẩm chất, tâm lý rất tiêu biểu cho bản sắc người Nam Bộ: hào hiệp, phóng khoáng, quảng giao, say mê nghĩa cả có khi còn pha chút khí vị anh hùng cá nhân. Các nhân vật Trần Trọng Nghĩa (Nghĩa hiệp kỳ duyên), Nguyễn Trọng Luân, Hoàng Hữu Chí, Phan Chấn Quốc (Lòng người nham hiểm ); Đỗ Khắc Xương, Nguyễn Hạo Nhiên (Tài mạng tương đố), Kế Xương, Ngươn Kiệt (Một đôi hiệp khách)… đều có dáng dấp của những Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Vương Tử Trực của Nguyễn Đình Chiểu trước đây và cũng không phải hoàn toàn xa lạ với những nhân vật của Sơn Nam, Lý Văn Sâm, Đoàn Giỏi, Nguyễn Thi, Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng sau này.

Nguyễn Chánh Sắt viết tiểu thuyết khi thể loại này mới bắt đầu xây dựng ở Việt Nam, chữ quốc ngữ chưa phổ cập, câu văn xuôi còn cọc cạch, nặng nề. Kinh nghiệm, kỹ thuật viết tiểu thuyết hãy còn là vấn đề mò mẫm, tập dượt, thậm chí bắt chước các nhà văn nước ngoài. Cho nên tác phẩm của ông khó tránh khỏi những hạn chế, nhất là về kỹ thuật và lối hành văn. Có lẽ do chăm chút chu đáo phần “đạo” mà xao lãng phần “đời” nên các tác phẩm có bố cục, kết cấu giống nhau và khá đơn điệu. Nhân vật phần lớn đều thuộc loại nhân vật chức năng, nhân vật loại hình cốt để minh hoạ cho tư tưởng, quan niệm, triết lý của tác giả. Thể tài tuy đa dạng nhưng là truyện đơn thanh được kể bởi một người và bằng một giọng. Tác phẩm nào cũng có một vài chi tiết dễ dãi, tự nhiên chủ nghĩa hoặc giả tạo khiên cưỡng; và không ít những câu văn hồn nhiên kiểu như: “gần chót, giờ lâu, chẳng thấy dạng nàng, anh ta buồn ý giở tờ nhựt báo xem chơi cho tiêu khiển” (Nghĩa hiệp kỳ duyên); “Ai ngờ là vừa tới thiên tĩnh, A Căn ở ngoài lật đật lưởi đưởi chạy a vào, đụng nhằm con Xuân Hỷ một cái rất mạnh, làm cho chén yến sào rớt xuống đất bể nát, mà yến sào cũng đổ hết” (Man hoang kiếm hiệp). Cuối cùng tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt còn là những chứng tích thú vị về mặt lịch sử, địa lý, ngữ âm, từ vựng, chính tả của An Giang, rộng ra là của Nam Bộ trong những năm đầu thế kỷ XX.

Khi nhìn lại các nhân vật trong quá khứ, Lênin có đưa ra một nguyên tắc đánh giá hết sức quan trọng: “Xét những đóng góp lịch sử không phải căn cứ vào chỗ những nhà hoạt động lịch sử đã không làm được cái gì so với những yêu cầu hiện tại, mà phải căn cứ vào chỗ họ đã làm được cái gì so với những người đi trước họ”. Vận dụng nguyên tắc này vào văn học, vào việc xác định phần thành công và hạn chế của Nguyễn Chánh Sắt, như vừa phân tích ở trên, rõ ràng ông “đã làm được” những điều rất có ý nghĩa so với những nhà văn trước đó cũng như so với một số nhà văn cùng thời. Chỉ riêng cuốn Nghĩa hiệp kỳ duyên của ông cũng đủ làm nên một hiện tượng đáng nhớ trong văn học Nam Bộ hồi đầu thế kỷ XX. Cuốn sách nổi tiếng đến mức tên nhân vật chính Chăng Cà Mum được độc giả đương thời yêu thích dùng để gọi tác phẩm. Nhiều người trước năm 1945 đã gọi phụ nữ Khmer hay người Khmer nói chung là Chăng Cà Mum. Thậm chí những bạn thân gửi thư cho Nguyễn Chánh Sắt chỉ cần đề ở phong bì “Monsieur Chăng Cà Mum, báo Nông cổ mín đàm” mà thư cũng đến. Với thành công của Nghĩa hiệp kỳ duyên, Nguyễn Chánh Sắt không chỉ xác lập được chỗ đứng riêng cho mình trong lòng độc giả mà còn góp công rất lớn vào việc thúc đẩy thể loại tiểu thuyết ở thời kỳ phôi thai tiến lên một bước.

Nhân hội thảo khoa học hôm nay về “Nhà văn, nhà báo Nguyễn Chánh Sắt”, tôi xin đề nghị các cơ quan hữu quan mà trước hết là Sở Văn hoá - Thể thao và Du lịch tỉnh An Giang nên có kế hoạch xúc tiến việc in một tuyển tập văn học của Nguyễn Chánh Sắt, gồm 6 truyện: Man hoang, Một đôi hiệp khách, Việt Nam Lê Tái Tổ, Nghĩa hiệp kỳ duyên, Lòng người nham hiểm Tài mạng tương đố. Đây là những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp trước tác của ông và của chung văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ trong những năm đầu thế kỷ XX. Với ý thức tôn trọng lịch sử, chúng ta cần giữ nguyên văn bản các tác phẩm như lần in đầu tiên. Chỉ những trường hợp sai chính tả quá rõ ràng thì phải sửa lại theo từ điển hiện nay. Có như vậy, các thế hệ độc giả hậu sinh mới có cơ hội làm quen với một cây bút “vang bóng một thời” của vùng đất Nam Bộ và cảm nhận được một phần thời thơ ấu trong sáng, hồn nhiên của văn xuôi Việt Nam hiện đại.

NVH.

 

* Bài viết này được sửa chữa, bổ sung từ bài Nguyễn Chánh Sắt trong hành trình văn xuôi quốc ngữ Nam Bộ đầu thế kỷ XX của cùng tác giả.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hoài Anh (1989), Lời giới thiệu Một đôi hiệp khách, Nxb TPHCM.
  2. Hoài Anh - Thành Nguyên - Hồ Sĩ Hiệp (1988), Văn học Nam Bộ từ đầu đến nửa thế kỷ XX (1900-1945), Nxb TPHCM.
  3. Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng - Nguyễn Công Bình (chủ biên) (1988), Địa chí Văn hoá TPHCM, tập II, Văn học, Nxb TPHCM.
  4. Bằng Giang (1992), Văn học quốc ngữ ở Nam Kỳ 1865-1930, Nxb Trẻ, TPHCM.
  5. Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời 1900-1930, Nxb ĐH&GDCN, Hà Nội.
  6. Mã Giang Lân (chủ biên) (2000), Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
  7. Bùi Đức Tịnh (1992): Những bước đầu của báo chí, tiểu thuyết và thơ mới, Nxb TPHCM.
  8. Huỳnh Văn Tòng (2000), Báo chí Việt Nam từ khởi thủy đến 1945, Nxb TP.HCM.
  9. Nguyễn Q. Thắng (1990), Tiến trình văn nghệ miền Nam, Nxb An Giang.
  10. Võ Văn Nhơn (2007), Văn học Quốc ngữ trước 1945 ở TP.HCM, Nxb Tổng Hợp TP.HCM.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên san 2013

20170709.nguyenchanhsat

Xu hướng đại chúng hoá văn học là mảnh đất nuôi dưỡng và phát triển văn học đại chúng nói chung và tiểu thuyết đại chúng nói riêng. Mục tiêu hướng về đại chúng quy định và chi phối sâu sắc đặc điểm nội dung, hình thức của văn học đại chúng.

Đại chúng hoá ở khu vực văn học Nam Bộ trước 1930 là xu hướng tất yếu, mang tính lịch sử, tuy đã được rải rác đề cập đến trong một số bài viết, chuyên luận. Nhưng hiện vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Đó là lý do để thực hiện bài viết này.

20170804. Nam ky tuan bao

1. Vị trí của Truyện Kiều và Nguyễn Du trên báo chí Quốc ngữ Nam Bộ

Giới làm văn, làm báo Nam Bộ thời ấy thường xuyên tổ chức kỷ niệm Nguyễn Du. Không cần đợi đến kỷ niệm chẵn năm sinh hay năm mất, Nguyễn Du vẫn thường được tưởng nhớ trên các trang báo. Kể từ sự kiện hội Khai Trí Tiến Đức ở Hà Nội tổ chức lễ kỷ niệm Nguyễn Du lần đầu tiên vào năm 1924, nhiều hội đoàn, toà báo ở đất Nam Bộ đã nghĩ đến việc cần phải kỷ niệm Nguyễn Du hằng năm. Tổ chức lễ quy mô lớn thì không phải năm nào và nơi nào cũng làm được, nhưng trong khả năng của mình, nhiều tờ báo vẫn nhắc về Nguyễn Du khi gần đến ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch hàng năm, vốn là ngày giỗ Nguyễn Du. Với số lượng hạn chế các tờ báo mà chúng tôi thu thập được, có thể thấy nhiều hoạt động đã được tổ chức để kỷ niệm Nguyễn Du ở miền Nam. Trên Nam kỳ tuần báo số 6/1942, Trúc Hà cho biết vào năm này, Nguyễn Du được kỷ niệm rầm rộ khắp trong Nam ngoài Bắc, các hội học đều tổ chức cuộc lễ. Hồ Biểu Chánh cũng cho rằng “lễ kỷ niệm thi sĩ Tiên Điền trần thiết từ Bắc chí Nam với một vẻ nồng nàn mà long trọng” (Nam kỳ tuần báo, số 5/1942, tr.5). Hội Khuyến học Nam Kỳ tổ chức diễn thuyết về Nguyễn Du tại rạp Nguyễn Văn Hảo vào ngày 24/9/1942, trong số các diễn giả có sự góp mặt của Thiếu Sơn. Trước đó vài ngày, ở Cần Thơ cũng có buổi diễn thuyết cùng chủ đề vào ngày 20/9 tại rạp hát bóng Casino Cần Thơ. Chủ toạ là bác sĩ Lê Văn Ngôn, diễn giả là hoạ sĩ Nguyễn Văn Mười – cũng là tác giả của nhiều bức tranh minh hoạ Truyện Kiều được triển lãm trong dịp này – cùng với giáo sư Nguyễn Văn Kiết và nhà báo Lê Chơn Tâm. Xen giữa nội dung diễn thuyết là các màn ngâm Kiều và sân khấu hoá một số trích đoạn Truyện Kiều. Phóng viên của Nam Kỳ tuần báo khi tường thuật lại buổi diễn thuyết này đã cho biết “Hầu hết cả Tây Đô thích văn và ham học đều có mặt trong buổi họp này” (Nam Kỳ tuần báo, số 5, 1942, tr. 9). Tờ Việt báo cho biết vào năm 1949, Nguyễn Du cũng được tưởng nhớ trước công chúng. Nhạc sĩ Trần Văn Khê khi ấy là du học sinh ở Paris gửi đăng ở Việt báo bài “Anh Nguyễn Văn Cổn nói về Truyện Kiều nhân ngày kỷ niệm cụ Nguyễn Du” tường thuật sự kiện kỷ niệm Nguyễn Du do hội Việt Kiều ái hữu ở Paris tổ chức.

Bên cạnh các buổi diễn thuyết, lễ kỷ niệm “rình rang” do các hội đoàn tổ chức, một số tờ báo kỷ niệm Nguyễn Du bằng những chuyên san. Năm 1935, báo Sống của Đông Hồ có chuyên san Nguyễn Du, trong đó ông chủ bút bày tỏ sự bất mãn vì Nguyễn Du đã bị lơ là trong nhiều năm liên tiếp không ai tổ chức lễ kỷ niệm. Vì vậy, ông lặng lẽ góp một số báo để tưởng nhớ bậc đại thi hào nhân ngày giỗ của cụ. Năm 1942, Nam kỳ tuần báo có số 3 là chuyên san Nguyễn Du và Truyện Kiều, hưởng ứng phong trào kỷ niệm rầm rộ trong cả nước. Mấy số liền kề sau đó tuy không phải là chuyên san, nhưng vẫn đều đặn có bài về Nguyễn Du. Năm 1943, Đại Việt tập chí ra số 22-23 cũng là chuyên san Nguyễn Du. Trong số báo này, Nguyễn Văn Hoài cũng cho biết “Cụ Nguyễn Du đã mất cách đây 123 năm, vào ngày mùng 10 tháng 8 năm 1820. Rồi từ ấy những nay, hễ mỗi lượt thu về, mỗi lần trăng mọc, người Việt Nam ta, vì ái mộ một văn nhơn thi sĩ mà hồn thơ vẫn còn sống mãi thới thời gian, lại mỗi lượt làm lễ kỷ niệm cụ”. (Đại Việt tập chí, số 22-23/1943, tr. 7).

Trên báo chí Quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20, Truyện Kiều và Nguyễn Du xuất hiện với tần số rất cao và được khai thác trên nhiều khía cạnh. Với số lượng rất ít ỏi các báo, tạp chí Quốc ngữ xuất bản ở Nam Bộ có trong tay, tôi đã thống kê được một số bài viết về chủ đề này, danh sách cụ thể được đưa vào mục tài liệu tham khảo, hy vọng có thể giúp ích về mặt tra cứu cho những nhà nghiên cứu khác trong quá trình tìm hiểu lịch sử nghiên cứu Truyện Kiều và Nguyễn Du. Lượng bài viết trên thực thế chắc hẳn phải gấp nhiều lần con số thống kê này. Trong danh mục nói trên, một số bài viết bàn về đời tư của Nguyễn Du hoặc ghi chép, tìm hiểu về quê hương, thân quyến của ông. Nhiều bài nghiên cứu khác quan tâm đến Truyện Kiều từ cả góc nhìn nội quan lẫn ngoại quan, từ văn bản đến hiệu ứng xã hội. Những nghiên cứu, bình luận này đôi khi phát triển thành những ý kiến trao đổi hoặc thậm chí bùng nổ thành những cuộc tranh luận. Một số tác giả lại bỏ công lược thuật lại tình hình tranh luận về truyện Kiều, từ đó thể hiện quan điểm tranh luận của mình. Đông Hồ trong bài “Phê bình về Truyện Kiều và cụ Tiên Điền” đăng trên báo Sống số 28 đã tóm tắt lại bốn quan điểm chính về Thuý Kiều của các ông Phạm Quỳnh, Ngô Đức Kế, Trần Trọng Kim và Trương Tửu, sau cùng chốt lại bằng ý kiến của riêng mình rằng “phê bình truyện Kiều, nên tìm xét cái bản tâm và chỗ dụng ý của tác giả trong khi viết quyển truyện” (Sống, số 28/1935, tr. 7). Ngạc Am trên Công luận báo năm 1934 có bài “Truyện Kiều từ cụ Nguyễn Du đến cụ Phạm Quỳnh, cụ Ngô Đức Kế, cụ Hoàng Thúc Kháng” đăng trên nhiều kỳ báo. Ngạc Am chỉ ra những điểm vô lý trong cách hành xử của Kiều và đi đến kết luận Kiều không có hiếu đến mức như mọi người vẫn nghĩ. Từ quan điểm đó của mình mà Ngạc Am tỏ ra bất bình với lời ca tụng của Phạm Quỳnh dành cho nàng Kiều và tác phẩm. Tuy nhiên, Ngạc Am cũng không về phe Ngô Đức Kế và Huỳnh (Hoàng) Thúc Kháng kết tội Kiều đĩ thoã. Ngược lại, ông mắng hai ông Ngô, Huỳnh (Hoàng) nặng lời: “Cụ Hoàng mạt sát truyện Kiều, tôi cũng mạt sát truyện Kiều, nhưng tôi không thể đồng ý với cái luận điệu của cụ, vì cái luận điệu ấy còn có cái khẩu khí của bọn hương nguyện, bọn học cứu, bọn hủ nho. […] Cái phái hủ nho ấy có cái thói quen, bất câu đối với vấn đề gì, không chịu xét cho đến nơi, cứ giở cái huy hiệu đạo đức, cùng vài câu cách ngôn thánh hiền ra rồi nạt đi cả” (Công luận báo, số 6453/1924, tr. 8).

Những tư liệu này đã góp thêm tiếng nói từ Nam Bộ vào cuộc tranh luận Truyện Kiều nổi tiếng năm 1924. Trong cuộc tranh luận ồn ào này, Phạm Quỳnh trước sau hoàn toàn im lặng. Sự im lặng của ông làm cho Phan Khôi nổi cáu, nhưng mãi đến năm 1932 mới lên tiếng trên Phụ nữ tân văn với giọng điệu chưa nguôi được sự bực bội: “Làm thinh thì tỏ ra hai dấu: một là bí, hết đường nói lại; hai là khinh người. Bí mà làm thinh, không nhận lỗi cách đường đường chánh chánh, thì thành ra mình không có can đảm, không biết phục thiện. Còn khinh người thì lại vô lý lắm, mình khinh người, người lại chẳng biết khinh mình sao?” (Phụ nữ tân văn, số 62/1932, tr. tr. 9). Tế Xuyên trên báo Đời mới nhắc lại chuyện Ngô Đức Kế mắng “con đĩ Kiều” không phải để ủng hộ quan điểm của cụ nghè Ngô, mà qua đó nói về cái “hùng” của người cầm bút, khi trông thấy dư luận có khả năng bị lôi kéo vì lời lẽ quá khích của một người thì nhà báo nói riêng và bậc trí thức nói chung có trách nhiệm thức tỉnh dân chúng khỏi cái mị của chữ nghĩa.

Ngoài những bài bình luận, phát biểu quan điểm, tranh luận… một số báo còn dành riêng cho Truyện Kiều những hoạt động kéo dài trên nhiều số báo. Đặc biệt, một số tờ báo còn bắt đầu chuỗi bài viết về Truyện Kiều ngay từ số đầu tiên. Báo Đời mới có hẳn một chuyên mục Để giúp học sinh: Tìm hiểu Truyện Kiều do Hoàng Lê phụ trách bắt đầu từ số 1 năm 1952. Cũng trên báo này, Vân Hạc Lê Văn Hoè chủ trương chuyên mục Mỗi tuần một chữ để hiểu truyện Kiều. Các bài viết trong chuyên mục này về sau được tập hợp và in thành sách Truyện Kiều chú giải xuất bản năm 1952. Phụ nữ tân văn ngay số đầu tiên năm 1929 đã mở “Cuộc thi Tuý Kiều” với câu hỏi “Kiều nên khen hay nên chê?” Tổng cộng 19 bài dự thi đã được ban biên tập tuyển chọn đăng trên nhiều số báo trong suốt 2 năm 1929 và 2930. Cuộc thi kết thúc bằng bài phân tích của ông Trần Trọng Kim, cho rằng không thể căn cứ vào đạo đức để chê khen Kiều được. Tờ Thế giới cũng đưa Kiều vào số mở đầu. Bằng Vân, Xuân Diệu, và Xuân Việt chỉ bình một đoạn thơ trong Truyện Kiều qua bài “Những hạt minh châu trong chuỗi ngọc”, nhưng bài dài đến nỗi phải đăng trên 7 số báo liền mới hết. Việc thực hiện các chuyên mục, chuyên đề về Truyện Kiều, và việc các chuyên đề ấy bắt đầu từ số đầu tiên của tờ báo đã cho thấy ban biên tập của những tờ báo này đã đặt Truyện Kiều ở một vị trí hết sức trang trọng, đồng thời chứng minh cho nguồn cảm hứng không hề vơi cạn mà Truyện Kiều có thể khơi gợi ở những người làm văn, làm báo đất Nam Bộ.

Nhìn chung, Truyện Kiều của Nguyễn Du có thể không được độc giả Nam Bộ đón nhận nồng nhiệt như ở đất Bắc, nhưng điều đó không có nghĩa là những người làm văn, làm báo Nam Bộ lại ít quan tâm đến kiệt tác văn học dân tộc này. Báo chí Nam Bộ quan tâm đến Nguyễn Du và Truyện Kiều một phần là nhờ không khí mà các học giả đất Bắc đã khởi xướng nên, cụ thể là cuộc kỷ niệm Nguyễn Du năm 1924 của hội Khai Trí Tiến Đức và những tranh luận xung quanh bài ca tụng của Phạm Quỳnh dành cho Kiều trên Nam Phong. Tuy nhiên, lý do quan trọng hơn là bởi Truyện Kiều là một kiệt tác, và thông qua viêc tiếp nhận tác phẩm này, các nhà văn, nhà báo có cơ hội bộc lộ quan điểm của mình về nhiều phương diện văn chương, xã hội, thời đại… Có thể thấy các nhà nghiên cứu, phê bình trên báo chí Nam Bộ đã đánh giá cô Kiều nói riêng và Truyện Kiều nói chung từ cả khía cạnh văn bản như nguồn gốc tác phẩm, nghệ thuật ngôn từ… lẫn khía cạnh ngoài văn bản như những yếu tố chi phối đến Nguyễn Du khi sáng tác Truyện Kiều, ý nghĩa đạo đức, tôn giáo, lịch sử, xã hội của tác phẩm. Vấn đề này sẽ được tìm hiểu kỹ hơn ở hai mục sau.

2. Truyện Kiều từ hướng tiếp cận ngoại quan

Tiếp cận ngoại quan là phân tích và đánh giá một tác phẩm văn học dựa trên những tác động và chuẩn mực nằm ngoài văn bản tác phẩm đó. Đó có thể là cách đánh giá nhân vật hoặc giá trị nội dung của tác phẩm căn cứ trên các quan niệm về đạo đức, hoặc diễn dịch ý nghĩa xã hội của tác phẩm trong những hoàn cảnh cụ thể. Kết quả của cách tiếp cận ngoại quan do đó thay đổi tuỳ thời điểm lịch sử và quan điểm riêng của người phê bình. Trên báo chí Quốc ngữ Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 20, Truyện Kiều chủ yếu được tiếp cận từ góc độ này.

Một trong những cách đọc Truyện Kiều khá thường thấy, không phải chỉ đến đầu thế kỷ 20 mà ngay từ khi Truyện Kiều mới ra đời, là cách đọc tri âm, tức là người đọc đi tìm kiếm sự đồng cảm sẻ chia với nhân vật, qua đó đồng cảm sẻ chia với tác giả. Đây cũng là cách đọc văn chương phổ biến trong thời trung đại. Sang thế kỷ 20, các nhà phê bình vẫn tiếp tục tìm cách giải mã nhân vật và tình tiết trong tác phẩm bằng những thông tin tiểu sử tác giả, từ đó tìm kiếm những nỗi niềm thầm kín mà tác giả gửi gắm trong tác phẩm. Kiểu phê bình này được gọi là phê bình tiểu sử. Trực Thần có bài “Hy vọng của Nguyễn Du” trên Nam Kỳ tuần báo (1942), Minh Tú phân tích “Mâu thuẫn của Từ Hải dưới ngòi bút Nguyễn Du: hay tâm trạng ép uổng đau đớn của tác giả Đoạn trường tân thanh” trên Nhân loại (1953), Doãn Quốc Sĩ viết “Vấn đề tâm sự Nguyễn Du qua Đoạn trường tân thanh” trên Gió mới (1958) đều đưa ra những quan điểm về việc có hay không nỗi niềm hoài Lê của Nguyễn Du trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh. Minh Tú cho rằng Nguyễn Du giết Từ Hải là vì mâu thuẫn trong lòng của một nhà Nho đã khiến ông phải giết chết một tên “tướng giặc”, dù tướng giặc ấy đại diện cho tất cả ước mơ mà ông xây đắp. Trực Thần lý giải ý nghĩa của cảnh đoàn viên cuối tác phẩm theo một hướng rất khác các quan niệm trước đó. Ông cho rằng cảnh đoàn viên không phải để bộc lộ triết lý nhân quả, cũng không phải để thưởng cho lòng hiếu thảo của nàng Kiều, mà nó kín đáo thể hiện khát vọng của cụ Nguyễn về sự phục quốc của nhà Lê, khát vọng về một kết thúc có hậu trong lòng một kẻ mang tâm sự di thần. Trong bài viết của mình, Doãn Quốc Sĩ tổng thuật lại các quan điểm khác nhau liên quan đến vấn đề này. Ông đi từ ý kiến của Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Nguyễn Bách Khoa, Hoài Thanh, Nguyễn Đức Quỳnh, Nguyễn Bỉnh Tuyên và đi đến kết luận của riêng mình là Nguyễn Du không còn thương nhớ gì nhà Lê nữa, mà đã thức tỉnh và thoát khỏi giới hạn chật hẹp của quan niệm trung quân-ái quốc. Có thể thấy, chỉ riêng việc tìm hiểu tâm sự Nguyễn Du đã cho ra những kết quả hoàn toàn trái ngược nhau, cho thấy nỗ lực tri âm người nghệ sĩ gần như không bao giờ có hồi kết.

Một khuynh hướng phê bình Truyện Kiều khác cũng rất phổ biến là phê bình đạo đức. Suốt mấy trăm năm từ lúc Truyện Kiều ra đời, cô Kiều và cả Nguyễn Du đã trở thành đối tượng chỉ trích của cả dư luận bác học lẫn dư luận bình dân căn cứ trên quan điểm phê bình đạo đức này. Nguyễn Công Trứ mắng Kiều là “đĩ thập thành”, dân gian cũng bảo “Đàn bà chớ kể Thuý Vân Thuý Kiều”. Sang thế kỷ XX, Kiều lại bị lôi ra nhiếc móc không thương tiếc. Những nhà phê bình ở phe đối lập đã dùng đủ mọi lập luận để bênh vực đạo đức cô Kiều. Các nhà viết báo ở Nam Bộ cũng không đứng ngoài cuộc tranh luận này. Báo Phụ nữ tân văn tổ chức hẳn một cuộc thi với đầu đề “Kiều nên khen hay nên chê?” Mười tám bài viết dự thi cuộc này đa phần đều chê Kiều thiếu tiết nghĩa đức hạnh, có khen chăng cũng là vớt vát một cách yếu ớt. Thạch Lan thẳng thừng:

Cô Kiều, tôi tiếc cho tài sắc của cô, mà tôi chê cái đạo lý của cô! Sao cô không biết quyết một thờ tần Danh Dự mà nỡ ép mình sống nhơ sống nhớp trong bao nhiêu lâu? Cô rước khách, cô giựt chồng người, cô ăn cắp, cô nói láo, cô ca hát cho kẻ giết chồng cô được nghe, cô còn dám trở lại với người ước nguyện ngày xưa. Người đàn bà đạo đức có như vậy sao? Đời cô thế là hỏng! (Phụ nữ tân văn, số 5, tr. 18).

Mạt sát đến mức này thì Uy Viễn Nguyễn Công Trứ hay cụ Nghè Ngô Đức Kế cũng phải nể. Phần đông những người lên án Kiều đều chỉ mắng Kiều là đĩ, nhưng tác giả trẻ này quy cho Kiều mọi tội lỗi xấu xa trên đời. Huỳnh Thúc Kháng trình làng một chuỗi 5 bài thơ mắng Kiều và chế giễu lễ kỷ niệm Nguyễn Du trên Đông Pháp thời báo số 557 (1927). Trúc Hà bênh vực Kiều bằng việc phân tích quan niệm của Kiều về chữ “trinh”. Về điểm này, ông không nương theo lập luận của Nguyễn Du qua lời Kim Trọng “Như nàng lấy hiếu làm trinh”, mà phân tích cảm xúc của Kiều từ điểm nhìn của chủ nghĩa cá nhân, chống lại những định kiến lễ giáo của tập thể, cộng đồng mà ông cho là cũ kỹ và cay nghiệt. Thiếu Sơn thể hiện niềm yêu mến, thông cảm với nàng Kiều thông qua một truyện ngắn kể về lại chuyện mộng thấy nàng Kiều như Kiều mộng thấy Đạm Tiên xưa. Không chỉ có Kiều mà Từ Hải cũng thường xuyên bị mang lên bàn cân đạo đức. Phan Bình Thái trên Nhân loại (1954) kết luận Từ Hải chết yểu là do kiêu ngạo, hữu dũng vô mưu, đã tạo nên cơ nghiệp để đời mà lại nghe những lời khuyên hàng vô lý của Kiều.

Nếu phê bình tiểu sử và phê bình đạo đức là những cách đọc Truyện Kiều đã có từ thời trung đại và được tô đậm thêm trong thế kỷ 20 thì khuynh hướng phê bình Kiều từ góc nhìn chính trị-xã hội một mặt vẫn phát triển những cách nhìn nhận đã có từ xưa, mặt khác mở ra một hướng mới. Các nhà phê bình sử dụng Kiều như một công cụ đấu tranh xã hội. Nâng Truyện Kiều trở thành một biểu tượng văn hoá cũng là cách nhà phê bình bảo vệ văn hoá dân tộc trong bão táp văn hoá thực dân. Nhiều tác giả tìm cách lý giải nội dung tác phẩm và tư tưởng của Nguyễn Du từ góc nhìn tôn giáo. Vân Hạc Lê Văn Hoè đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “Truyện Kiều là một dâm thư hay một Phật kinh” không nhằm bênh vực hay chê bai cô Kiều, mà tìm kiếm thứ triết lý chi phối quan điểm của Nguyễn Du trong quá trình sáng tạo. Trần Trọng Kim viết bài kết lại cuộc thi Kiều trên Phụ nữ tân văn đã cho rằng đề thi báo đưa ra là vô nghĩa lý, vì đó không phải là giá trị của tác phẩm. Trần Trọng Kim cho rằng đánh giá Truyện Kiều phải đi tìm triết lý và tư tưởng xã hội trong tác phẩm, cụ thể ở đây là triết lý Phật giáo và tư tưởng nhân quả. Nam Hưng tìm kiếm “Ảnh hưởng của triết lý Á Đông trong truyện Kiều” trên Văn hoá nguyệt san (số 5/1952) và rút ra kết luận Nguyễn Du là một trường hợp đặc biệt chịu ảnh hưởng và thấm nhuần triết lý của cả ba tôn giáo Nho, Phật, Đạo. Hoàng Lê phản ứng lại với kết luận này trên tờ Đời mới, cho rằng ảnh hưởng tư tưởng tam giáo không có gì lạ ở xử sở này, và Nguyễn Du cũng như Truyện Kiều chỉ là kết quả của tác động xã hội mà thôi. Trong bài viết của mình, Hoàng Lê thể hiện rất rõ cách đọc xã hội học văn học và trình bày các lý thuyết có liên quan.

Bên cạnh đó còn có những bài viết bàn về lịch sử tiếp nhận và ảnh hưởng xã hội của Truyện Kiều thông qua các hình thức truyền bá và sử dụng tác phẩm như lẩy Kiều, tập Kiều, chế Kiều, ca dao Kiều… cho thấy tầm ảnh hưởng và sức sống mạnh mẽ của kiệt tác này.

3. Truyện Kiều từ hướng tiếp cận nội quan

Tiếp cận Truyện Kiều từ hướng nội quan cũng khá phong phú trên báo chí Nam Bộ nhưng không gây chú ý bằng hướng tiếp cận ngoại quan cũng bởi nó ít khả năng gây tranh cãi. Có ba cách tiếp cận nội quan chủ yếu đối với Truyện Kiều: nghiên cứu nguồn gốc văn bản Truyện Kiều, phẩm bình nghệ thuật ngôn từ, và phân tích tình tiết, nhân vật căn cứ thuần tuý vào câu chữ.

Nhiều nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm đến lịch sử hình thành và vấn đề văn bản của tác phẩm Đoạn trường tân thanh. Bàn về kết thúc Truyện Kiều, Trực Thần thuật lại những phiên bản khác nhau của câu chuyện nàng Kiều. Ông nhắc lại Phạm Quỳnh với bài viết cho rằng Đoạn trường tân thanh được gợi hứng từ truyện ngắn trong Ngu sơ tân chí của Dư Hoài, trong đó truyện kết thúc ở chi tiết Kiều khi bị ép gả cho tù trưởng Vĩnh Thuận và trầm mình ở sông Tiền Đường, và cái kết thúc đoàn viên là sáng tạo của Nguyễn Du. Đào Duy Anh bác lại Phạm Quỳnh, cho rằng tác phẩm được phóng tác từ Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, và Nguyễn Du không có công sáng tạo ra cảnh đoàn viên. Tác giả B. T. trên Phụ nữ tân văn (1929) giới thiệu quyển Phong tình lục của Thanh Tâm Tài Nhân và đặc biệt là Tuyết Nguyệt Mai của Trần Lãng có kể về sự tích Từ Hải và Vương Thuý Kiều. Trong tuyển tập của Trần Lãng, Từ Hải nhảy xuống sông chết, còn Thuý Kiều dùng gươm tự sát chứ không trầm mình ở Tiền Đường, về sau được vua nhà Minh sắc phong là “Nghĩa liệt cung nhân” (Phụ nữ tân văn, số 39, tr. 23). Doãn Quốc Sỹ trong bài “Bản phường và bản kinh” đăng trên Gió mới cho biết văn bản truyện Kiều xa xưa nhất chỉ còn bản Kinh do vua Dực Tông chỉnh sửa lại cho in ở Huế, bản Phường do Phạm Quý Thích cho đem khắc và in ở phố Hàng Gai Hà Nội, và bản Phường gần nguyên tác hơn. Qua phân tích, tác giả cho thấy nhiều chỗ sửa của bản Kinh kém hay hơn rất nhiều, nhưng cũng có vài chỗ ông cho rằng lời chỉnh sửa hợp lý hơn. Tác giả này cũng bàn về thời điểm sáng tác Đoạn trường tân thanh, tổng thuật lại các quan điểm khác nhau, và đưa ra kết luận Nguyễn Du viết Kiều trước khi đi sứ, và chịu ảnh hưởng truyện Hoa Tiên nguyên tác của Nguyễn Huy Tự, nhưng sau đó Nguyễn Thiện nhuận sắc Hoa Tiên lại chịu ảnh hưởng từ Đoạn trường tân thanh.

Những bài viết phẩm bình nghệ thuật ngôn từ trong Truyện Kiều chiếm số lượng khá nhiều và được trình bày thành các chuyên mục kéo dài trong nhiều số báo. Vân Hạc Lê Văn Hoè mỗi tuần chú thích và bình một chữ trong Truyện Kiều trên báo Đời mới. Hoàng Lê phân tích Truyện Kiều theo kiểu phê bình giáo khoa, tức là đọc kỹ một vài chi tiết trong tác phẩm và hướng dẫn học sinh lý giải tác phẩm căn cứ trên văn bản. Bằng Vân, Xuân Diệu, Xuân Việt chỉ phân tích một trích đoạn ngắn trong Truyện Kiều nhưng có hẳn một bài báo dài 7 kỳ báo “Những hạt minh châu trong chuỗi ngọc” trên tờ Thế giới. Các tác giả phân tích câu chữ của trích đoạn theo kiểu phẩm bình truyền thống phương Đông, chỉ ra nghệ thuật sử dụng các biện pháp miêu tả tài tình của Nguyễn Du như phép non cao đối ngọn, đăng chiếc đảo ngàn, chim trốc dẫn bầy, đôi nhạn cùng bay… tạo nên khí thơ, hơi thơ biến hoá không cùng. Bài viết này chú trọng đến phong cốt văn chương mang đặc trưng phương Đông rõ nét, rất khác với kiểu phân tích đầy lý tính của phê bình phương Tây.

Những tác giả thường xuyên khai thác các chi tiết và vấn đề trong Truyện Kiều là Doãn Quốc Sỹ và Thế Viên, với các bài viết “Những vầng trăng theo rõi đời Kiều”, “Bốn mùa trong Truyện Kiều”, “Tiếng đàn của Kiều”, “Tình quê hương của Kiều qua mười lăm năm luân lạc”… Những chủ đề này có thể không mới, nhưng mỗi tác giả khi khai thác lại một chủ đề cũ vẫn có những cách nhìn, cách so sánh mới lạ. Chẳng hạn Thế Viên khi phân tích bốn mùa trong Truyện Kiều đã so sánh với những câu thơ tả mùa của phương Tây. Doãn Quốc Sỹ khi bàn về tiếng đàn của Kiều đã có lời trao đổi với Phạm Quỳnh liên quan đến ý kiến nhiều năm trước đó của cụ Phạm. Phạm Quỳnh cho rằng tiếng đàn đoàn viên của Kiều vẫn cũng một màu sầu thảm như những lần đàn trước, nhưng Doãn Quốc Sỹ lại cho rằng những âm thanh ấy vang lên tiếng lòng thanh thản sau những giông tố cuộc đời.

Tóm lại, báo chí Nam Bộ nửa đầu thế kỷ hai mươi, cũng như báo chí ở miền Bắc thời bấy giờ, rất quan tâm đến Truyện Kiều và Nguyễn Du vì nhiều lý do. Thứ nhất, Truyện Kiều là một kiệt tác không bao giờ vơi cạn khả năng khám phá. Thứ hai, việc tiếp thu các tư tưởng lý luận phê bình phương Tây đầu thế kỷ hai mươi đã thúc đẩy việc tìm hiểu Truyện Kiều từ nhiều góc nhìn khác nhau. Thứ ba, suy tôn Truyện Kiều và Nguyễn Du là một cách cổ vũ cho việc bảo tồn văn hoá dân tộc. Thứ tư, cuộc tranh luận Truyện Kiều trên Nam Phong đất Bắc đã lan ra khắp toàn quốc, và báo chí Nam Bộ vẫn còn bàn tán và đóng góp ý kiến về sự kiện này trong suốt nhiều năm. Đây không chỉ là cuộc tranh luận thuần tuý về một tác phẩm văn học, mà còn là sự xung đột giữa các quan điểm xã hội. Độc giả Nam Bộ vốn xem trọng giá trị đạo lý của tác phẩm văn chương, nên khi đọc Kiều họ cũng không tách mình khỏi quan niệm này. Cuộc thi phẩm bình đạo đức của Kiều trên Phụ nữ tân văn thu hút nhiều ý kiến cũng bởi vì lý do này, dù học giả đất Bắc Trần Trọng Kim cho rằng bản thân câu hỏi của đề bài không có giá trị. Những ý kiến về Truyện Kiều trên báo chí Nam Bộ có khuynh hướng thiên về truyền thống hơn so với miền Bắc cùng thời, hoặc thậm chí trước đó. Người đọc ở phương Nam không chỉ hướng về phê bình ngoại quan nhiều hơn, đọc Kiều để hiểu tâm sự Nguyễn Du, đánh giá Kiều trên chuẩn mực đạo đức, mà ngay cả phê bình nội quan cũng có khuynh hướng phẩm bình theo kiểu nắm thần bắt ý của phương Đông. Trong khuôn khổ báo chí, những bài phẩm bình hay ý kiến tranh luận thường không có điều kiện để đào sâu và đi vào chi tiết, nhưng đã tạo nên được không khí tranh luận, kỷ niệm sôi nổi, củng cố thêm vị trí của Truyện Kiều và đại thi hào Nguyễn Du trong lòng độc giả đất phương Nam và cả nước(*).

(*) Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ đề tài mã số 2013B-18b-05.

                           

Tài liệu tham khảo

  1. Ngạc Am (1934), “Truyện Kiều từ cụ Nguyễn Du đến cụ Phạm Quỳnh, cụ Ngô Đức Kế, cụ Hoàng Thúc Kháng”, Công luận báo (6451) tr.1, 8; (6452) tr.1, 8; (6453) tr.1, 8.
  2. Hồ Biểu Chánh (1942), “Tiểu thuyết gia đối với tác giả truyện Kiều”, Nam Kỳ tuần báo (5), tr.5.
  3. Trác Chi (1935), “Tiểu truyện cụ Nguyễn Du”, Sống (28), tr. 4-5.
  4. Đồ Đạc (1935), “Vườn xuân một cửa”, Sống (28), tr.18.
  5. Bùi Giáng (1954), “Nhân đọc Bản ngã cô Kiều của ông Nguyễn Sĩ Tế”, Đời mới, số 115 ngày 27/5-3/6/1954, tr.16-17; số 116 ngày 3-10/6/1954, tr.16-17; số 117 ngày 10-17/6/1954, tr.16,36.
  6. Trúc Hà (1942), “Quan niệm của Kiều về chữ trinh”, Nam Kỳ tuần báo (3), tr.6-7, 18.
  7. Trúc Hà (1942), “Ý nghĩ về cuộc lễ kỷ niệm Nguyễn Du”, Nam Kỳ tuần báo (6), tr.18-19, 31.
  8. Nguyễn Văn Hoài (1943), “Trình độ văn học của ta ngày nay”, Đại Việt tập chí (22-23), tr.7-10.
  9. Vân Hạc Lê Văn Hoè, (1952), “Mỗi tuần một chữ để hiểu Truyện Kiều: Cầm”, nghiên cứu, Đời mới, (26), tr. 35, 38.
  10. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1952), “Mỗi tuần một chữ để hiểu Truyện Kiều: Bạc”, nghiên cứu, Đời mới, (29), tr.43-45.
  11. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1952), “Mỗi tuần một chữ để hiểu Truyện Kiều: Bàn lại về nghĩa chữ Vời”, nghiên cứu, Đời mới, (30), tr.43-44.
  12. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1952), “Mỗi tuần một chữ để hiểu truyện Kiều: Bài”, nghiên cứu, Đời mới, (31), tr.48.
  13. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1952), “Mỗi tuần một chữ để hiểu truyện Kiều: Xuân”, nghiên cứu, Đời mới, (32), tr.43-44.
  14. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1953), “Nho giáo và Truyện Kiều”, nghiên cứu, Đời mới, (39), tr.24; (40), tr.24.
  15. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1952), “Tìm hiểu truyện Kiều: Thử vẽ chân dung Từ Hải”, nghiên cứu, Đời mới, (36), tr.19, 36.
  16. Vân Hạc Lê Văn Hoè (1953), “Xét lại triết lý truyện Kiều: sửa một điều làm từ Trần Trọng Kim, Dương Quảng Hàm… đến Nguyễn Bách Khoa: Truyện Kiều là một dâm thư hay một Phật kinh?”, Nhân loại, (20) tr.1, 3-5; (22) tr.4-5, 16, 21.
  17. Đông Hồ (1935), “Phê bình về Truyện Kiều và cụ Tiên Điền”, Sống (28), tr.6-8, 11.
  18. Hội Quảng Trị, Huế (1942), “Đài kỷ niệm Nguyễn Du”, Nam Kỳ tuần báo (16), tr.4.
  19. Đào Thinh Hương (1932), “Đáp lời ông Vân Hạc: Hãy còn nhiều người lầm chữ trong truyện Kiều”, Công luận báo (7189), tr.5.
  20. B. H., NG. TR., “Giai thoại về Truyện Kiều”, Sống (28), tr.2.
  1. Huỳnh Thúc Kháng (1927), “Thơ vịnh Kiều: 5 bài liên hoàn vịnh Kiều chế giễu việc kỷ niệm ông Nguyễn Du”, Đông Pháp thời báo (557), tr. 7.
  2. Trần Văn Khê (1949), “Anh Nguyễn Văn Cổn nói về Truyện Kiều nhân ngày kỷ niệm cụ Nguyễn Du”, Việt báo, (21), tr.22-23.
  3. Vương Quý Lê (1942), “Chạnh nhớ người xưa: Những ngày dừng bước bên làng Tiên Điền nơi thi hào Nguyễn Du ký gởi nắm xương tàn ngàn kiếp”, Nam Kỳ tuần báo (3), tr.3-4, 9.
  4. Bằng Vân, Xuân Diệu, Xuân Việt (1949), “Những hạt minh châu trong chuỗi ngọc (nhặt những câu thơ đẹp trong Truyện Kiều)”, Thế giới (1) tr.22-23; (2) tr.20-22; (3) tr.32-33; (4) tr.28-29; (5) tr.28-29; (6) tr.29, 33; (7) tr.20-21, 32.
  1. Trần Trọng Kim (1930), “Truyện Tuý Kiều: Một cái nghĩa mới về Truyện Kiều”, Phụ nữ tân văn (17), tr.9-10.
  2. Hoàng Lê (1952), “Ảnh hưởng triết lý Á Đông trong Truyện Kiều hay là mối tương quan giữa văn nghệ phẩm và xã hội”, nghiên cứu, Đời mới, (37), tr.18-20.
  3. Hoàng Lê (1952), “Cụ Nguyễn Du không hiểu nhạc Tàu hay dùng chữ sai? Cô Kiều giỏi đờn hay giỏi nhị?”, nghiên cứu, Đời mới, (4), tr.?, 44.
  4. Hoàng Lê (1952), “Để giúp học sinh: Tìm hiểu truyện Kiều”, Đời mới, (1), tr.13, 34; (2), tr.16, 44; (3), tr.24.
  1. Lỗ Trọng Liêng (1924), “Đồng thinh tương ứng: Lễ kỷ niệm một nhà đại thi hào nước ta: cụ Nguyễn Du), Đông Pháp thời báo, (139), tr. 1, 4.
  2. Ngô Quang Lý (1943), “Nhân ngày giỗ cụ Nguyễn Du: Minh oan cho Thuý Kiều”, Đại Việt tập chí (22-23), tr.11-21.
  3. Tô Mai (1935), “Thơ Kiều với ông Trương Tửu”, Sống (28), tr.3.
  4. N. K. T. B., (1942), “Diễn thuyết ở Cần thơ về Nguyễn Du và Truyện Kiều”, Nam Kỳ tuần báo (5), tr.9.
  5. Huyền Nga (1935), “Chơi Kiều”, Sống (28), tr.18.
  6. P. N. T. V. và độc giả (1929-1930), “Kiều nên khen hay nên chê?”, Phụ nữ tân văn (1) tr. 30; (3) tr.13; (4) tr.13; (5) tr.18; (6) tr.18; (7) tr.15-16; (8) tr.14-15; (9) tr.14-15; (10) tr.16.
  7. Châu Minh Phương (1954), “Tìm hiểu truyện Kiều: Đạm Tiên dưới ngòi bút của Tố Như”, nghiên cứu, Đời mới, (145), tr.26, 34.
  8. Trương Quang (1924), “Văn uyển: Thơ vịnh Kiều”, Đông Pháp thời báo (225), tr.1.
  9. Sống (1935), “Lễ kỷ niệm cụ Tiên Điền”, Sống (28), tr.1-2.
  10. Thiếu Sơn (1942), “Chiêm bao thấy Thuý Kiều”, Nam Kỳ tuần báo (3), tr.5, 8.
  11. Trần Việt Sơn (1951), “Để hiểu Nguyễn Du và để hiểu Truyện Kiều”, Điện báo (7), tr.6-7, 18.
  12. Lê Khánh Sum (1924), “Kim Vân Kiều tân giải (giải thích truyện Kiều), Đông Pháp thời báo (139-).
  13. Lê Sum (1924), “Văn Kim Vân Kiều”, Đông Pháp thời báo, (124), tr.1.
  14. Doãn Quốc Sỹ, (1958), “Khảo luận về Đoạn trường tân thanh: Những vừng trăng theo rõi đời Kiều”, Gió mới (28), tr.13-15.
  15. Doãn Quốc Sỹ, (1958), “Khảo luận về Đoạn trường tân thanh: Tình quê hương của Thuý Kiều qua mười lăm năm luân lạc”, Gió mới (29), tr.9-11, 34-35.
  16. Doãn Quốc Sỹ, (1958), “Khảo luận về Đoạn trường tân thanh: Tiếng đàn của Kiều”, Gió mới (30), tr.9-10.
  17. Doãn Quốc Sỹ, (1958), “Vấn đề tâm sự Nguyễn Du qua Đoạn trường tân thanh”, Gió mới (31), tr.7-8, 23-24.
  18. Doãn Quốc Sỹ, (1958), “Khảo luận về Đoạn trường tân thanh: bản phường và bản kinh”, Gió mới (32), tr.9-11.
  19. Doãn Quốc Sỹ, (1959), “Khảo luận về Đoạn trường tân thanh: Đoạn trường tân thanh sáng tác vào thời nào?”, Gió mới (33), tr.8, 23.
  20. Doãn Quốc Sỹ (1959), “Tìm hiểu hai làng Tiên Điền và Uy Viễn, làng của Nguyễn Du và Nguyễn Công Trứ”, Gió mới, (38), tr. 24-27.
  21. B. T. (1930), “Một cô Thuý Kiều nữa”, Phụ nữ tân văn (39), tr.22-23.
  22. Hoàng Tâm (1932), “Dẫn giải Kim Vân Kiều”, Đuốc nhà Nam, (773), tr.3.
  23. Phan Bình Thái (1954), “Độc thư lạc thú: Phải chăng Từ Hải chết yểu là vì tính khí kiêu ngạo của chàng?”, Nhân loại, (20), tr. 9, 11.
  24. Thanh (1952), “Ý kiến bạn đọc về bài Tìm hiểu một đoạn văn Kiều”, phân tích, Đời mới, số 38, ngày 27/12/1952, tr. 36-37.
  25. Trực Thần (1943), “Hy vọng của Nguyễn Du”, Nam Kỳ tuần báo (51), tr.7-8.
  26. Tiểu Mạnh Thường (1954), “Tìm hiểu truyện Kiều: Thuý Vân có ghen không?”, nghiên cứu, Đời mới, (14), tr. 22-23, 42.
  27. Minh Tú (1953), “Độc thư lạc thú: Mâu thuẫn của Từ Hải dưới ngòi bút Nguyễn Du: hai tâm trạng ép uổng đau đớn của tác giả Đoạn trường tân thanh”, Nhân loại, (13), tr.3, 14-15.
  28. Tế Xuyên (1952), “Rút kinh nghiệm của các ký giả đàn anh: Từ ngòi bút Ngô Đức Kế chửi “con đĩ Kiều” đến ngòi bút của thầy “cò” gây giông tố trong toà soạn”, nghị luận, Đời mới, (26), tr.18, 42.
  29. Tô Văn (1924), “Cũng là văn Kim Vân Kiều”, Đông Pháp thời báo, (129), tr.1.
  30. Thế Viên (1959), “Bốn mùa trong Truyện Kiều”, Gió mới, (34), tr.8-9, 23. 

Nguồn: Tạp chí KH Văn hóa và Du lịch, Vol.7, số 2-3 (82-83) tháng 3-5.2016

Nguyễn Quang Hưng

Trường THPT Hoàng Hoa Thám (Đà Nẵng)

Tóm tắt

Trong đời sống văn học, các thể loại luôn được đặt trong quan hệ đồng đẳng về giá trị. Hồi ký là một trong những thể loại đặc biệt trong diễn trình văn học Việt Nam. Ở hồi ký, bức tranh thời đại được đan dệt bằng một hệ thống sự kiện mang tính xác thực. Từ những thông tin cụ thể, những trang hồi ký không dừng lại ở những con số thống kê, những sự kiện khô khan mà là những trang đời, trang văn giàu tính thẩm mỹ và đậm giá trị nhân bản.

Từ khóa: Hồi ký, đặc trưng thể loại, cảm quan về hiện thực, tính xác thực

Đặt vấn đề

            Từ sau 1975, một trong những yếu tố quan trọng làm nên sự đa dạng hóa của đời sống văn học là sự vận động, đổi mới về mặt thể loại. Ở những giai đoạn trước, từ quan niệm của từng cộng đồng văn học, có những thể loại được xem là trụ cột, trung tâm, cũng có những thể loại chỉ nằm ở ngoại vi/cận văn học. Từ sau đổi mới, trong sự chuyển đổi tư duy nghệ thuật, “cái nhìn thể loại” cũng có sự thay đổi. Trong sự vận động tự thân của từng thể loại, sự bình đẳng thể loại ngày càng đậm rõ trong quan niệm, trong tâm thế tiếp nhận của công chúng độc giả. Theo Bakhtin: Trong đời sống văn học, các thể loại luôn được đặt trong quan hệ đồng đẳng về giá trị, song mỗi thể loại là sự thể hiện “một thái độ thẩm mỹ đối với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận, giải minh thế giới và con người” [1]. Hồi ký là một trong những thể loại đặc biệt trong diễn trình văn học Việt Nam. Đây là một tiểu loại của ký, xuất hiện muộn, một thể loại “trẻ” nhưng chủ thể sáng tạo “già”, là những tác giả đã trải qua một hành trình sáng tác lâu dài.

          Nhu cầu tự thân của thể loại, cùng với sự đa dạng hóa cũng như sự dung hợp thể loại đã tạo được một diện mạo hồi ký phong phú, làm nên một mảng sinh động, mới mẻ trong đời sống văn học. Nhiều tác phẩm hồi ký ra đời gây xôn xao dư luận và trở thành hiện tượng văn học, thể hiện rõ sự phát triển thể loại trong quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật. Mỗi thiên hồi ký là những bức tranh hiện thực của đất nước. Nhiều số phận, nhiều cảnh ngộ, nhiều vấn đề phức tạp của quá khứ được nhìn nhận lại từ điểm nhìn hiện tại theo hướng đa chiều, thấu tình, đạt lý. Nhiều thiên hồi ký tái hiện các giai đoạn lịch sử-xã hội-văn học qua các thời kỳ, giàu tính thẩm mỹ, được cộng đồng văn học đón nhận.  

Hiện thực lịch sử-xã hội_ Những thông tin về sự thật được mỹ hóa

            Nhìn từ đặc trưng thể loại, hồi ký nhằm thông tin sự thật, đòi hỏi tính chân xác. Tuy vậy, tác phẩm hồi ký không chỉ chú ý đến việc làm sao chuyển tải thông tin mà còn phải viết sao cho hay, cho hấp dẫn người đọc. Nghĩa là, hồi ký phải là những thông tin về sự thật được mỹ hóa qua cảm hứng của nhà văn. Trong sự tiếp nhận những lý thuyết mới mẻ của văn học toàn cầu, như một xu thế tất yếu, hồi ký cũng mang trong bản thân thể loại nhiều yếu tố hiện đại. Những tác phẩm hồi ký văn học từ sau 1975 không chỉ cung cấp những lượng thông tin phong phú, đa chiều mà còn đáp ứng được những khoái cảm thẩm mỹ trong tầm đón đợi của người đọc hiện đại. Sức hấp dẫn của những thiên hồi ký (Cát bụi chân ai, Hồi ký Song Đôi, Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương, Trong mưa núi…) là ở mỹ cảm nghệ thuật; ở nội dung đa dạng, phong phú; từ hình thức thể hiện mới mẻ, cũng như từ tấm lòng, trách nhiệm đối với cõi người, cõi nghề của nhà văn.    

            Hồi ký được xem là thể loại thời đại. Ở hồi ký, bức tranh thời đại được đan dệt bằng một hệ thống sự kiện mang tính xác thực. Tác giả hồi ký văn học thường là những nhà văn có hành trình sống và hành trình sáng tác lâu dài. Họ từng trải qua những trường đoạn cuộc đời, luôn trăn trở, nhìn lại, chiêm nghiệm về những năm tháng đã qua. Người kể chuyện quá khứ, qua hồi ức, với tư cách là nhân chứng, là người trong cuộc, đã tái hiện chân thực những sự kiện lịch sử- xã hội trọng đại của đất nước qua các thời kỳ.

Với hồi ký, việc “ghi chép” hiện thực một thời lại diễn ra trong hồi ức, là hiện thực được lựa chọn, và gây ấn tượng sâu sắc với người kể nên nó luôn ám ảnh, buộc phải viết ra, phải giải tỏa. Hiện thực ấy được tái hiện với một trạng thái cảm xúc riêng, được nhìn nhận, đánh giá lại bằng nhận thức chủ quan và bằng kinh nghiệm sống của người viết. Do vậy, người viết hồi ký khi tái hiện hiện thực không giữ thái độ khách quan như các sử gia. Hiện thực trong hồi ký cũng không thể so với các tư liệu gốc, các chứng tích mang tính lịch sử mà nó chỉ là một phần cơ sở để xác minh hiện thực trên phương diện lịch sử, xã hội. Điều quan trọng nhất, thông qua các sự kiện, các chi tiết liên quan đến tiểu sử, cũng như qua cách đánh giá, nhìn nhận, thái độ tình cảm trước những gì được kể đến, tác giả hồi ký gián tiếp bộc lộ mình trong tính khuôn khổ của sự thật lịch sử, qua đó làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, các nhà lý luận quan ngại rằng người viết hồi ký “do thời gian lùi xa, nhiều sự kiện nhớ không chính xác, nhớ nhầm hoặc tưởng tượng thêm mà không tự biết”; “Hồi ký chỉ thực sự có giá trị khi người viết tuyệt đối trung thực với chính mình và có trách nhiệm với xã hội... không tô vẽ cho mình và thêm thắt cho người khác” [4].

         Là tiểu loại của ký, với hồi ký tính xác thật của việc ghi chép các sự kiện là đặc trưng quan trọng. Từ điểm nhìn hiện tại, lùi về những thời kì lịch sử đã xa, các nhà văn viết hồi ký gặp gỡ nhau ở điểm chung là thiên về tái hiện những sự kiện trọng đại của đất nước. Đối với thế hệ nhà văn tiền chiến, đã từng sống và sáng tác trong những năm tháng trước cách mạng, ký ức về những tháng ngày gian khổ vẫn ám ảnh. Dẫu thuộc khuynh hướng lãng mạn (Anh Thơ, Huy Cận), hiện thực (Tô Hoài) hay trữ tình chính trị (Tố Hữu)… thì trong hồi ký của thế hệ nhà văn này đều in đậm hiện thực đen tối một thời. Trong nhiều trang hồi ký, hiện thực cuộc sống đương thời được tái hiện sống động đến từng chi tiết. Với cái tôi chứng kiến - hồi ức, các tác giả đã miêu tả sự kiện ở điểm nhìn khách quan, không phân tích hay bình luận mà cứ để người đọc tự cảm nhận (Hồi ký Song Đôi, Cát bụi chân ai, Nhớ lại một thời…). Với Cát bụi chân ai Chiều chiều, nhà văn Tô Hoài đã chứng tỏ bản lĩnh, cá tính, sự trải đời, tinh đời. Yếu tố chi tiết về đời tư đã mờ đi, thay vào đó là những vấn đề xã hội, thế sự được soi chiếu qua lăng kính của nhà văn người kể chuyện. Chuyện đời, chuyện nghề với mọi biểu hiện phức tạp, tinh vi nhất đã hiện lên khá cận cảnh. Đứng ở điểm nhìn cuối cuộc đời và cũng là ở cuối thế kỷ, tác phẩm của Tô Hoài thông qua những mảng hiện thực phong phú của cuộc sống đời thường đã tái hiện sinh động, sâu sắc bức tranh về những chặng đường lịch sử đầy biến cố lớn lao của dân tộc. Tô Hoài không đi vào diện rộng như các nhà sử học, những cái ông nắm bắt được là những vấn đề điển hình, là mang tính biểu trưng hoặc gây ấn tượng đặc biệt cho nhà văn.        

         Là nhà thơ cách mạng, chặng đường thơ của Tố Hữu trùng khít với những chặng đường lịch sử. Những sự kiện lớn nhỏ của đời, của đất nước đều in dấu ấn trong tập hồi ký Nhớ lại một thời. Tập hồi ký làm sống lại một thời hoạt động cách mạng và một thời thơ của Tố Hữu.

Về mặt lý thuyết, “xét từ gốc gác và bản chất, thì ký không nhằm thông tin thẩm mỹ, mà là thông tin sự thật” [3]; “Tìm mọi cách can dự trực tiếp vào đời sống, ký trở thành loại hình văn học thời sự, một thể văn xung kích theo sát các vấn đề nóng hổi, cấp bách của hiện thực mang ý nghĩa xã hội rộng lớn” [4]. Là tiểu loại của ký, hồi ký cũng mang trong bản thân nó những đặc trưng cơ bản của thể loại thiên về ghi chép xác thực. Tuy vậy, khác với ký ở “tính thời sự, tính can dự trực tiếp”, hồi ký cung cấp những tài liệu của quá khứ. Những thiên hồi ký văn học sau 1975… giàu lượng thông tin, những sự kiện lịch sử, những góc khuất của đời sống xã hội hiện ra cụ thể đến từng chi tiết, dẫu có những chi tiết các nhà văn nhấn mạnh, kể lại làm đau lòng.

Trong hồi ký sự kiện đóng vai trò quan trọng. Hệ thống sự kiện trong hồi ký được xâu chuỗi, kết hợp đậm nhạt khác nhau đã làm nên diện mạo đời sống những năm tháng khốc liệt. Trên con đường ký ức của các nhà văn, những sự kiện lịch sử tiêu biểu hiện ra như những thước phim quay chậm. Có những sự kiện được kể lướt qua nhưng cũng có khi, một sự kiện được nhà văn dừng lại miêu tả tỉ mỉ, công phu. Nhiều lúc, trong mạch trần thuật, nhà văn lắp ghép, đan lồng những tình huống, những khúc đoạn không đồng nhất về thời gian, không gian. Qua con đường ký ức, những sự kiện dẫu chắp vá, lắp ghép theo quy luật trí nhớ vẫn đủ độ xác thực. Đó là những đặc điểm nổi bật nhất của tác phẩm hồi ký. Mỗi nhà văn chọn một cách thể hiện riêng, nhưng trong hồi ức về những năm tháng không thể nào quên ấy được tái hiện sinh động. Hiện thực lịch sử- xã hội- con người khúc xạ qua thời gian và cảm xúc vẫn tươi mới trong những hồi ký của Tô Hoài, Hoàng Minh Châu, Đào Xuân Quý,….

Trong hồi ký Hoàng Minh Châu (Mất để mà còn) chiến tranh hiện ra trong những trang hồi ký không chỉ lấp lánh vẻ đẹp lãng mạn sử thi, mà còn là đau thương mất mát. Bức tranh đời sống chiến đấu trong hồi ký của Phan Tứ được tái hiện sinh động như không hề có độ lùi thời gian. Là nhà văn-chiến sĩ, từng xông pha giữa chiến trường bom đạn, Phan Tứ đã ghi lại một cách xác thực những sự kiện, sinh hoạt chiến trường (Trong mưa núi). Ma Văn Kháng hướng ngòi bút về miền núi, làm phong phú thêm một mảng hiện thực đa chiều (Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương). Cuốn hồi ký chuyển tải biết bao chuyện đời, đầy ắp chất liệu hiện thực đời sống, lịch sử, xã hội. Trong lớp lớp những câu chuyện quá khứ là gương mặt đất nước một thời vừa nhọc nhằn, ngổn ngang nhưng tươi đẹp; là số phận những con người bất hạnh, những chân dung biếm họa, những bạn bè gắn bó thân thiết trên những bước đường đời và những bạn văn mới, cũ thuộc nhiều thế hệ… Tất cả đều được Ma Văn Kháng kể tên, điểm diện. Có thể thấy qua những trang sách hiện lên rõ nét bức tranh của đời sống xã hội trải dài non một thế kỷ với chân dung phong phú các loại người xuất hiện trong mối quan hệ với tác giả hoặc trong sự quan sát chăm chú của ông theo góc nhìn của người viết văn. Theo nhà văn Hồ Anh Thái từ câu chuyện của một đời người, “từ số phận một cá thể, soi chiếu qua lịch sử, người đọc có thể hình dung ra một thời đại” [2]. 

            Thông thường, trong hồi ức về hiện thực đời sống xã hội, những bước ngoặt lịch sử không diễn ra theo thứ tự thời gian biên niên. Hiện thực trong hồi ký được tái dựng theo dòng thời gian từ quá khứ xa đến quá khứ gần thời điểm của nhà văn kể. Tuy nhiên, có thể thấy, do những dụng ý nghệ thuật của mỗi nhà văn mà dòng hồi ức về những quãng đời đã được tác giả có cách bố trí, sắp xếp các sự kiện hay các nhân vật có liên quan theo những trật tự nhất định theo logic của trí nhớ, cảm xúc hoặc của logic tư duy. Hiện thực đời sống những năm sau chiến tranh khơi gợi cảm hứng sáng tạo của nhà văn. Nguyễn Khải tâm sự: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng, màu đỏ với màu đen, đầy dẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật là mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thả sức khai vỡ” (Gặp gỡ cuối năm). Nhiều tác phẩm ra đời từ “cái hôm nay ngổn ngang bề bộn” và gây ấn tượng mạnh mẽ với lối đổi mới tư duy nghệ thuật và một cách tiếp cận hiện thực đa chiều.           

      Trong hồi ký, “cái hôm nay” không xuất hiện đồng thời trên những trang văn. Khác với “hiện tại chưa hoàn kết của tiểu thuyết”, thời gian trong hồi ký là thời gian quá khứ, nhưng dẫu qua độ lùi thời gian, độ lắng sâu của cảm xúc, hiện thực ngổn ngang đó vẫn tươi ròng sự sống. Dấu ấn những sự kiện chính diễn ra trên toàn đất nước, độ giao thoa giữa cũ và mới trong đời sống xã hội, những đột biến lớn lao trong đời sống tinh thần của từng cá nhân; sự lựa chọn của người trí thức trước sự chuyển đổi lịch sử… Tất cả những vấn đề lớn của cuộc sống sau chiến tranh đều được thể hiện trong hồi ký của các nhà văn đã trải qua một hành trình sáng tác gắn với từng chặng đường đổi thay của dân tộc.

Lấy “sự thật khách quan của đời sống và tính xác thực của đối tượng làm cơ sở”, nhiều tác giả hồi ký đã ghi chép một cách trung thực những sự kiện đã lùi vào quá khứ nhưng vẫn nóng bỏng, nhức nhối đối với một thế hệ nhà văn. Nhớ lại một thời, các tác giả hồi ký ghi lại cụ thể những mâu thuẫn nảy sinh bi kịch. Trải lòng mình trên trang hồi ký, các tác giả không ngần ngại ghi chép lại, phơi bày ra những sự thật trần trụi, đau lòng. Tuy vậy, những sự kiện được tái hiện trong những trang hồi ký không đơn thuần là ghi chép, thông tin mà thông qua những cuộc đời riêng, các nhà văn đã lý giải, đối thoại với quá khứ với tầm nhìn nhân bản, nhân đạo hơn. Nhiều trang hồi ký đã trở thành tấm gương phản chiếu chân thật một mảng khuất của quá khứ, qua đó bộc lộ những trăn trở, ngẫm suy đầy trách nhiệm của nhà văn, đặc biệt là thế hệ những nhà văn trong cuộc. Từ những thông tin cụ thể, những trang hồi ký văn học sau 1975 không dừng lại ở những con số thống kê, những sự kiện khô khan mà là những “thông tin về sự thực của các giá trị nhân sinh”, là những trang đời, trang văn giàu tính thẩm mỹ và đậm giá trị nhân bản.

Hiện thực đời người - Cảm hứng thế sự đời tư

Sự phát triển của thể hồi ký cũng chứng tỏ kinh nghiệm cá nhân đang trở nên có giá trị hơn và hồi ký chính là một cách nhìn trực diện vào cái tôi của người viết. Với cá nhân mỗi nhà văn, bằng hồi ức về cuộc đời mình, tác giả viết hồi ký chẳng cần phải tìm kiếm thế giới ở đâu xa mà ở chính trên gương mặt đầy dấu ấn thời gian của mình. Viết hồi ký cũng là cách sòng phẳng với quá khứ bởi dù có nhớ và quên, thật và giả, chủ quan và khách quan,… thì nhà văn cũng không thể lẫn tránh được chính mình. Có lẽ đấy là lý do chủ yếu để nhà văn thời đổi mới tìm đến thể hồi ký như tìm đến một cách tiếp cận không chỉ với hiện thực bề mặt mà còn với hiện thực bên trong đầy phức tạp và bí ẩn của con người.

Điểm chung của phần lớn các hồi ký là đều đề cập số phận con người trong những thời đoạn khốc liệt nhất của lịch sử. Bằng vài nét phác họa nhưng đầy ấn tượng, Tô Hoài dừng lại lâu hơn ở số phận của những người nông dân trong những cơn biến thiên lịch sử (Cát bụi chân ai). Đó là số phận của những con người, những gia đình trong cơn lốc của cơ chế thị trường (Chiều chiều). Phan Tứ quan tâm đến số phận của những người dân miền cao trong những năm tháng chiến tranh. Hồi ký Trong mưa núi chủ yếu viết về sinh hoạt chiến đấu của nhà văn và đồng bào dân tộc Ka Tu. Những con người chân chất, nghèo khổ nhưng trung thực trước sau như một. Ma Văn Kháng đặc biệt quan tâm đến số phận của người trí thức. Năm tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương là những trang tự bạch, trong đó nhà văn cúi xuống lòng mình để nói lên những mảnh đời trí thức trong một xã hội “bề bộn, ngổn ngang”. Trên những trang hồi ký, các tác giả đã đề cập đến bao số phận con người trước hiện thực cuộc sống từ thời bao cấp đến thời kinh tế thị trường rất chân thực, nhiều chiều, phơi mở cả những góc khuất bằng chính sự trải nghiệm, kinh nghiệm cá nhân của người viết. Vì vậy hồi ký văn học đã cho ta những cảm nhận và suy ngẫm về những vấn đề một thời thật chân thực và thấu đáo.

            Nhiều hồi ký đặt trọng tâm ở sự trăn trở “nhận đường”, “lên đường” của văn nghệ sĩ và những “số phận” không đồng hành. Trong hồi ký văn học từ sau 1975, song song việc tái hiện dòng chảy lịch sử Việt Nam qua các giai đoạn, dòng chảy văn chương, đời sống văn học nước nhà cũng được các tác giả tái hiện với cái nhìn cận cảnh, chân xác. Hai dòng chảy này được phản ánh trong mối quan hệ biện chứng, trong đó, cuộc đời nhà văn cũng bị chi phối và tác động bởi những biến thiên của lịch sử-xã hội. Với tư cách là người trong cuộc viết lại đời mình, một trong những sự kiện các tác giả hồi ký văn học quan tâm nhất là sự trăn trở, “nhận đường”, “lên đường” của các văn nghệ sĩ, đặc biệt là thế hệ nhà văn từng sáng tác trước 1945. Những trăn trở này đã trở thành cảm hứng trong sáng tác, đồng thời cũng là thước đo giá trị của sự nghiệp văn học của mỗi tác giả trong dòng chảy lịch sử. Nó đã trở thành tuyên ngôn nghệ thuật của một thế hệ văn nghệ sĩ đương thời, quan niệm văn nghệ và thái độ của người nghệ sĩ đối với thời cuộc. Với mỗi nhà văn, sự kiện “nhận đường” và “lên đường” trở thành dấu ấn sâu đậm trong hồi ức. Thời gian đã lùi xa hơn nửa thế kỷ. Thời gian đã giúp nhà văn nhìn nhận lại nhiều sự việc. Những trang hồi ký đã tái hiện lại biết bao số phận của con người trước thời cuộc. Công cuộc “nhận đường”, “lên đường” của các thế hệ văn nghệ sĩ là một cuộc kiếm tìm đầy khó khăn; là một hành trình để đổi thay, là một cuộc “lột xác” khiến bao người nghệ sĩ phải đau đớn, dằn vặt. Giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đối với các văn nghệ sĩ là nỗi trăn trở, day dứt “nhận đường”. Đau đớn, dằn vặt, nhưng rồi phải “lột xác”. Tâm trạng này là của cả một thế hệ. Dẫu hành trình dài ngắn, bằng phẳng chông chênh có khác nhau, nhưng rồi cái “tôi” cá nhân đã tìm được tiếng nói chung với cái “ta” cộng đồng. Cảm hứng hồi sinh lấp lánh trên những trang viết của văn nghệ sĩ một thời.

Từ sau 1975, đặc biệt sau đổi mới, trong môi trường xã hội - văn hóa được dân chủ hóa, ý thức và cá tính được tôn trọng, tâm lý tiếp nhận thay đổi, nhiều hiện tượng văn học được cộng đồng nhìn nhận, khẳng định. Trên xu hướng đó, hồi ký cũng góp phần thẩm định lại những tác phẩm trong quá khứ, qua cái nhìn của người trong cuộc, của chứng nhân. Nhiều tác phẩm hồi ký văn học đề cập những “vụ án” văn chương, mà một trong những hiện tượng gây chấn động bao thế hệ là Nhân văn giai phẩm. Những tác giả viết hồi ký ít nhiều đều là người trong cuộc, muốn hay không muốn, dư chấn Nhân văn giai phẩm vẫn còn ám ảnh. Chiều chiều, Nhớ lại… đã cho thấy cuộc đời của những người nghệ sĩ trong dòng lịch sử dân tộc với bao nỗi  nhọc nhằn của cuộc sống mưu sinh, của trăn trở với nghề hay những nghị lực phi thường.

            Nhìn chung, xuất phát từ nhu cầu đáp ứng những đòi hỏi của con người trong xã hội hiện đại luôn mong muốn được tiếp cận sự thật, nhận thức quá khứ, chiêm nghiệm cuộc sống thì tự thân hồi ký đã đảm trách được nhiệm vụ khai thác hiện thực ở bề rộng lẫn chiều sâu. Hơn thế nữa, nhu cầu người viết hồi ký không cần phải xây dựng cốt truyện một cách công phu, nhân vật với những tình huống lôi cuốn, hấp dẫn. Tất cả chỉ cần thành thật, sòng phẳng với quá khứ bằng những ấn tượng, tâm trạng của mình cũng như những cảm nhận còn lại sau năm tháng, những suy nghiệm được chắt lọc từ chính sự từng trải của bản thân mình.

            Từ đặc trưng thể loại, hồi ký mang tính chủ quan, hiện thực trong hồi ký văn học do tác giả là người trực tiếp tham gia hoặc chứng kiến, nhớ lại, cho nên những sự kiện dù có tính phổ quát vẫn đậm màu sắc cá nhân. Hiện thực trong hồi ký văn học đều gắn liền với một không gian, sự kiện, con người... rất cụ thể. Hiện thực nhớ lại, tái dựng trong hồi ký là hiện thực khúc xạ qua cảm xúc tâm trạng, đúc kết những trải nghiệm của người viết hơn là tạo lập một văn bản có tính hư cấu, hoặc đơn thuần ghi chép những sự kiện. Cảm quan về hiện thực trong hồi ký văn học vừa có tính chân xác theo lối điểm, vừa có bề sâu, mang đậm nhân cách văn hóa của người cầm bút.

Kết luận

         Hồi ký văn học Việt Nam từ sau 1975 đã khẳng định được vai trò thể loại với những biểu hiện phong phú về nội dung, những đổi mới về phương thức biểu đạt. Thành công đó khiến hồi ký không còn là tiếng nói cá nhân, tiếng nói của ngày hôm qua, mà chuyển tải được những vấn đề lớn có ý nghĩa khái quát cho mọi thời đại. Một trong những cơ sở làm nên giá trị của hồi ký giai đoạn này là bản thân nó hướng đến “cự ly gần” của sự thật, đáp ứng được xu hướng tiếp nhận văn học của công chúng. Và hồi ký đã thỏa mãn được hướng tiếp nhận từ nhiều góc độ: văn hóa, văn học, lịch sử, mỹ học...

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 [1]. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, NXB Bộ Văn hóa thông tin - thể thao -Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

[2]. Ma Văn Kháng (2010), “Con đường, hồi ức”, www.tienphong.vn/van.../ma-van-khang-con-duong-hoi-uc-174810.tpo.

[3]. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

[4]. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Lý luận văn học (tập 2), Tác phẩm và thể loại văn học, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

[5]. Lý Hoài Thu (2002), “Sự vận động của thể loại văn xuôi trong văn học thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 1.

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận văn học, Niên giám 2016, tr.49-54

20170728.hoa mai

Mộng mị và ảo giác cho đến nay vẫn chưa được lý giải tường minh, thống nhất. Trong văn chương, yếu tố văn hoá tâm linh kỳ bí này có vai trò và ảnh hưởng lớn. Các tác giả kể về giấc mơ, mượn mơ mộng để nói chuyện thực, mượn mộng ảo để giải toả bế tắc trong đời, lấy mộng để phúng dụ… Những bí hiểm của giấc mơ và các cách biến hoá giấc mơ, ảo giác cho ý đồ nghệ thuật của các tác giả đem đến cho văn chương mộng ảo một sức hấp dẫn rất riêng.

Sáng tác thơ chữ Hán của Cao Bá Quát có tới 162 bài[1] đưa người đọc vào thế giới mộng mị và ảo giác. Những bài thơ đó góp phần chứng tỏ Cao Bá Quát là một cây bút có nhiều ý tứ mới lạ, ấn tượng trong văn học Việt Nam trung đại.

1. Mộng mị trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát

Trong thơ chữ Hán, Cao Bá Quát 129 lần dùng từ “mộng”. Trong đó, có nhiều hình thái “mộng” khác nhau. Có “mộng” phù vân của Phật giáo: Mộng đáo chư thiên tối thượng đầu ([Có phải] mơ đến các cõi trời là trên hết cả chăng - Du Nam Tào sơn tự lâu thượng ký vọng đề bích trình Thúc Minh, kỳ nhị), Mộng thất yên hoa lãn tiệm tiên (Mất cái mộng yên hoa nên bệnh lười cũng dễ thích nghi - Dạ thoại túng bút đồng Phan Hành Phủ), có khi là giấc mộng Nam Kha hư ảo: Thí vấn cổ thần đàm mộng sự/ Bách niên lai vãng kỷ hoàng lương (Thử hỏi thần xưa nói chuyện mộng/ Trăm năm qua lại, kể đã mấy giấc hoàng lương rồi - Tống Thổ Khối Nguyễn Kinh Lịch Bắc hồi), có mộng là lý tưởng, khát vọng: Tiền đồ lịch lịch câu nhàn mộng (Con đường phía trước rõ là giấc mộng viển vông - Hoạ Thúc Minh lưu biệt Doãn Trai chi tác kiêm thứ kỳ vận), Bạch gian thanh toả mộng tương vương (Cái khoá xanh rõ như ban ngày kia còn mơ mộng hi vọng gì - Phạm Học Sĩ, Vũ Ninh Phủ tịnh kiến phỏng mạn bút thư tạ), Hồ hải thuỳ đồng mộng (Ai có cùng mộng hồ hải - Đồng Chí Đình, Minh Trọng phiếm chu du Ngũ Hành Sơn hoạ Minh Trọng thứ vận), có mộng là chỉ cảnh suýt chết trong lũ lụt hãi hùng, khiếp đảm của tác giả với hai người bạn: Tàn mộng do kinh cửu dạ phong (Ác mộng đã tàn mà vẫn còn hãi vì chín đêm gió lộng - Đồng Lê Ứng Khanh dạ ẩm), có mộng là chút mơ màng, lãng mạn: Khởi lai đắc đắc hương sinh mộng (Đứng dậy ngửi được mùi thơm sinh mơ mộng - Thử khốn hí ngoạ hà diệp đồng Phan Sinh, kỳ nhất)… Bài viết này đề cập tới “mộng” - những giấc ngủ mơ của tác giả.

Phần nhiều bài thơ có chữ “mộng” của Cao Bá Quát là viết về những giấc chiêm bao mộng mị của ông. Ông có 43 bài nói về giấc mơ của mình. Sự vật, hiện tượng, nỗi niềm xuất hiện trong mơ của ông rất phong phú. Có khi là nơi cửa tía, mây khói gắn liền với ước vọng công danh: Tử khuyết vân yên thường ngọ mộng (Cửa tía, mây khói thường chiêm bao giấc trưa - Phái vãng dương trình chu hành phó Đà Tấn, tẩu bút lưu biệt thân thức), Đỉnh huyễn tha niên mộng (Ngôi Tể tướng trong giấc mộng năm xưa - Dạ vũ thư sự)... Có khi là chuyện hư huyễn như Lý Bạch: Tạc dạ mộng hồn phi quá lĩnh/ Ách quân trực hạ nguyệt giang cao (Đêm qua hồn chiêm bao bay qua đỉnh núi/ Đường hẹp ông rơi thẳng xuống mé sông trăng - Ký Thượng Mão Nguyễn tứ tú tài Dưỡng Chính). Có khi là dư âm kỳ diệu của thơ ca: Tạc dạ ngâm thi thanh đáo hiểu/ Mộng trung thượng giác dư thanh nhiễu/ Khởi lai nhất bán hoặc xuân tâm/ Phi nhập khinh yên uất mộng liễu (Hôm qua ngâm thơ cho đến sáng/ Trong mộng còn biết dư âm quanh quẩn bên mình/ Tỉnh dậy ít nhiều còn ngờ vực lòng xuân/ Cơ sự ấy hoà vào khói mây, niềm u uất trong mộng được xua tan - Tân xuân thí bút, kỳ nhị)...

Tuy nhiên, trở đi trở lại trong những giấc mơ của Cao Bá Quát thường là những cảnh vật, con người gắn bó thân thiết trong cuộc sống đời thường, cá nhân của ông. Ông mơ về quê hương (thơ ông có 16 lần ông thổn thức trong giấc mơ quê): Quy mộng trở sơn xuyên (Giấc mộng về [quê nhà] cách trở núi sông - Đoan ngọ), Mộng nhiễu gia hương chỉ xích gian (Hồn mộng quẩn quanh nơi quê nhà trong gang tấc - Để ngụ bệnh trung giản chư hữu), Hương viên mộng trở tam thu lạo (Hồn mơ về quê nhà, bị nước lụt mùa thu ngăn cách - Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ), Lữ mộng kinh tiêu vũ (Mưa trên tàu lá chuối kinh động giấc mơ xa nhà - Châu Long tự ức biệt, kỳ nhất)... Ông mơ thấy bạn bè: Chỉ kim lai vãng thục/ Do tác mộng trung du (Như nay qua lại quen thuộc như thế/ Vẫn còn cùng nhau du thưởng như trong giấc chiêm bao - Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận (thập nhất thủ)- kỳ lục), Xuân phong mi vũ mộng lai tần (Nhiều lần mộng thấy dung nhan ân huệ đến - Thứ vận Thương Sơn công kiến ký)… Ông mơ thấy những đứa con đã mất (Mộng vong nữ, Thất tử)... Những giấc mộng ấy cho thấy Cao Bá Quát là người sống rất tình cảm. Thơ ông giàu nỗi niềm cảm xúc riêng tư của một con người cá nhân nồng hậu, thắm thiết.

Đương nhiên, những giấc mộng của Cao Bá Quát còn có nhiều điểm chung với các tác giả trước. Mơ về quê chẳng hạn. Nguyễn Trãi cũng từng có giấc chiêm bao về quê day dứt:

Kỷ thác mộng hồn tầm cố lí,

Không tương huyết lệ tẩy tiên doanh.

(Quy Côn Sơn chu trung tác)

 (Bao nhiêu lần nhờ hồn mộng mà tìm làng cũ,

Chỉ suông đem nước mắt pha máu mà rửa mộ tổ tiên) [4]

Sau Nguyễn Trãi, quê hương cũng hiện về trong giấc ngủ của Nguyễn Du:

Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ,

Ngũ canh tàn mộng tục hương quan.

(Thuỷ Liên đạo trung tảo hành)

(Tấm thân nhiều bệnh giao phó cho đường sá,

Trong giấc mộng tàn canh nằm vẫn còn mơ về quê hương) [3]

Vì lẽ, như các nhà nghiên cứu đã khẳng định, “Đối với người trung đại, gia đình, nguồn cội, quê hương là cái đảm bảo cho sự yên ổn, giá trị, mà một khi đã rời bỏ thì con người trở nên yếu đuối, trống rỗng như tự đánh mất mình” [7; tr.146]. Quê hương không chỉ là một mảnh đất, một ngôi nhà, hay những kỷ niệm, đó là biểu tượng của những giá trị muôn đời, là truyền thống gia đình và sự che chở của tiên tổ. Do vậy, khi phải sống xa quê, sống ngụ cư là một nỗi bất hạnh không thể bù đắp được. Với những giấc mơ về quê hương, nhà nho xưa rút khỏi thực tế không thoả mãn để tìm đến nơi thân thuộc bình yên trong mộng tưởng.

Đặc điểm ấn tượng, xúc động trong thơ Cao Bá Quát là những giấc mơ của ông thường hiện hữu những con người, cảnh vật, sự kiện... rất cụ thể, gắn bó mật thiết với đời sống tình cảm rất đỗi riêng tư của ông.

Trong những giấc mơ của Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, quê hương rất ít những hình ảnh chi tiết, thường chung chung, không giới hạn, không xác định. Các tác giả không miêu tả mà đa phần chỉ nhắc tới những giấc mơ khắc khoải về chốn chôn rau cắt rốn. Còn Cao Bá Quát, mơ về quê, ông mộng thấy món gỏi cá lô đặc sản, thân thuộc: Cố hương lô khoái mộng sơ hoàn (Trong mộng mới hiện về món gỏi cá lô ở quê cũ - Sơ thu vịnh Hoài Phủ, Minh Trọng nhị tri kỷ). Với giấc mộng này, tình yêu quê của Cao Bá Quát đúng là bắt nguồn từ lòng yêu những vật gần gũi, thân thương nhất! Sách xưa chép rằng, Trương Hàn đời Tấn làm quan xa; nhân một hôm gió thu bắt đầu thổi khiến ông nhớ canh rau thuần, gỏi cá lô (Thuần canh lô khoái) ở quê nhà, bèn than rằng: “Đời người ta quý nhất là được điều thích chí, sao có thể chịu trói mình vào chức quan nơi mấy ngàn dặm để cầu danh tước làm gì!” (Nhân sinh quý đắc thích chí, hà năng cơ hoạn sổ thiên lý, dĩ yêu danh tước hồ?). Đoạn ông sai thắng ngựa, rồi bỏ quan trở về. Từ đó, thành ngữ “Thuần canh lô khoái” được dùng để chỉ tấm lòng nhớ quê. Và cũng từ đó, hình ảnh rau thuần, cá lô[2] cũng trở thành biểu tượng của lòng nhớ quê, của phong vị nơi quê nhà.

Đặc điểm “thực”, chi tiết trong những giấc mơ của Cao Bá Quát được thể hiện rõ ở nhiều phương diện. Trong giấc mơ của Cao Bá Quát thường hiện lên những vùng đất, con người có tên riêng. Đó là những tên đất: Biệt lai bất trước Tô giang mộng (Từ khi xa nhau chẳng còn mộng thấy sông Tô Lịch nữa - Ký tiễn Hoan niết Nguyễn Nhân Trai phó lị, kỳ nhất), Hốt tác Giang Nam nhất mộng lai (Bỗng nằm mơ một giấc đến tận miền Giang Nam - Dư hốt ư mộng trung vãng thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã giả, nhân ký Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm tử, kỳ nhất)... Đó là những tên người: Tạc tiêu hốt hốt kiến Long Trân/ Kim nhật tương phùng mộng thị chân (Đêm qua bất ngờ mơ thấy Long Trân/ Hôm nay gặp nhau mơ là thực - Long Trân hốt lai kiến tầm dĩ biệt cáo, nhân ký tạc dạ sở mộng thư dĩ tống biệt), Mộng Ngô Dương Đình (Nằm mơ thấy Ngô Dương Đình - Mộng Ngô Dương Đình), Cao tử dạ mộng (Chàng Cao đêm nằm mơ - Thất tử)...

Cùng với những tên người tên đất ấy là những chi tiết về hình dung, hành động, nỗi niềm trong những cảnh huống xác định. Người con gái đã mất hiện lên trong giấc mơ của Cao Bá Quát y như lúc đứa bé còn sống:

Thân viễn ngô đương bệnh,
Tư nhi mỗi tiết ai.
Hốt nhiên trung dạ mộng,
Sậu kiến lệ như thôi.
Y phục hàn nhưng phá,
Dung nhan thảm bất khai.
Thái diêm bần vị khuyết,
Tân khổ nhữ quy lai!

(Mộng vong nữ)

(Nhà xa bệnh lại dày vò,
Nhớ con hằng nén xót chua nghẹn ngào.
Ðêm qua bỗng thấy chiêm bao,
Gặp con, giọt lệ tuôn dào như mưa.
Áo đơn lạnh lẽo xác xơ,
Ủ ê nét mặt, bơ phờ hình dung!
Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Ðắng cay con hãy về cùng với cha!)

 Giấc mơ của tác giả không có những hình ảnh mờ nhoè, pha tạp của nhiều hình ảnh. Chỉ có duy nhất chân dung đứa bé hiện lên như thực, rõ ràng, cụ thể với hai chi tiết: quần áo rách rưới và nét mặt ủ ê. Người cha mộng thấy đứa con gái của mình trong bộ đồ nó từng luôn mặc khi còn ở dương thế. Hình ảnh này gần như là nỗi ám ảnh trong tiềm thức người Việt bao đời nay. Tập quán đốt áo mũ, vải vóc, vật dụng (hàng mã) cho người chết nói lên điều đó. Ca dao cũng phản ánh tục cầu hồn, với sự vất vưởng, đói khát của hồn: Hồn rằng hồn chẳng có nhà/ Ở rào ở giậu cùng bờ là tre, hay Hồn rằng hồn thác ban đêm/ Thèm cơm thèm cháo, hồn đâm thác ngày… Hình ảnh đói cơm rách áo của đứa trẻ chân thật và thương tâm như cuộc sống nghèo khổ của cộng đồng từ bao đời! Đau xót hơn là chi tiết: nét mặt buồn bã, không tươi. Con trẻ gắn liền với sự thơ ngây, hồn nhiên, trong sáng. Nhưng ở đây, đói khổ đã làm đứa trẻ già nua, khắc khổ. Quần áo và tâm tư khiến nó trở nên tiều tuỵ, thảm não. Những hình ảnh ấy cứa vào tim gan của người cha. Bài thơ kết thúc bằng tiếng cầu xin thảng thốt:

Thái diêm bần vị khuyết,

Tân khổ nhữ quy lai!

(Tuy nghèo dưa muối đủ dùng,
Ðắng cay con hãy về cùng với cha!)

Tiếng gọi đau đớn này xuất phát từ sâu thẳm trái tim rất mực yêu con của cha. Nó tha thiết đến cháy lòng. Sau tiếng gọi thảng thốt, Cao Bá Quát bừng tỉnh giấc? Đó là lời ông cầu xin con trong lúc mê sảng hay khi đã sực tỉnh giấc chiêm bao? Khó xác định được. Người đọc nhận thấy mộng và thực đã không còn ranh giới. Thậm chí, cái ảo đã tan biến, chỉ còn lại nỗi đau tê tái thực của tác giả ứa máu trong từng dòng chữ!

Lần khác, giấc mơ tới con của Cao Bá Quát cũng xuất hiện rất “thực”:

Cao tử dạ mộng,

Hữu hài nhi tuỳ.

Cụ xưng thần ngôn,

Khẩu tạ thủ huy.

Bái đảo khung mân,

Hoằng ngã tích hi.

(Thất tử)

(Chàng Cao đêm nằm mơ,

Có đứa con đi theo.

Nói đủ lời thần bí,

Miệng tạ tay vẫy.

Cầu lạy cao dày,

Ban cho ta phúc lành.)

Ở giấc mộng này có yếu tố ảo: đứa con đi theo nói đủ lời thần bí, nhưng không nhiều. Vẫn là một chân dung như bằng xương bằng thịt với hành động: “miệng tạ tay vẫy”, “cầu lạy cao dày, ban cho ta phúc lành”. Những cử chỉ, hành động đáng yêu ấy thể hiện sự lễ phép và tình cảm hết mực yêu quý của đứa trẻ dành cho cha.

Lần khác, mộng về mái ấm gia đình, Cao Bá Quát kể về giấc mơ thấy điềm sinh con trai:

Ức dữ cố nhân ngôn,

Ngô dạ mộng hùng bi.

Chiêm chi viết sinh nam,

Môn hộ tương xanh chi.

(Tiểu nam sinh nhật)

(Nhớ [có] nói với bạn cũ,

Ta đêm chiêm bao thấy gấu.

 Xem thế bảo rằng sinh trai,

Cửa nhà sẽ được chống đỡ)

Giấc mơ ấy chạm khắc một nỗi niềm riêng tư. Đó là một khát vọng thành thực của người làm cha trong yêu cầu của thời đại bấy giờ: sinh được con trai nối dõi tông đường theo yêu cầu của chữ hiếu. Nó cho thấy trước khi người con ra đời, người cha rất đỗi hồi hộp, mong chờ. Sự thực ứng với điềm mộng khiến cho người cha bừng lên niềm vui sướng!

Có thể nói, những giấc mơ của Cao Bá Quát rất giàu chi tiết, giàu yếu tố thực. Điều đó khiến cho những giấc mộng của ông được tái hiện sống động. Những trải nghiệm trong mộng mị của ông không phải giả mà là chân. Nó như chứng minh cho quan niệm về giấc mơ dưới cái nhìn khoa học: mộng là hiện tượng khi ta ngủ có một số điểm của não hưng phấn không bị ức chế toàn diện và triệt để nên nó tiếp tục hoạt động mà sinh ra mộng. Chính những nhân tố của các điểm hưng phấn có liên quan đến tác dụng của những vết hằn do những kích thích quá mạnh của tri giác, cảm giác trước hiện thực khách quan trước đây của con người, cho nên những cảnh mộng nói chung có mối liên hệ nhất định với cảnh lao động, sinh hoạt,... thường ngày [5]. Có điều, đúng là Cao Bá Quát 127 lần dùng chữ “mộng” đều phản ánh hay nói đến bấy nhiêu lần ông nằm mơ hay không, thì điều đó nhất định là không chắc. Người nghệ sĩ một khi khó mà thực hiện điều mong nuốn trong đời thực, anh ta có thể mượn hình ảnh giấc mơ để tự do giải thoát qua tác phẩm văn chương. Giấc mơ đó, nói như Sigmund Freud, là “những giấc mơ trong khi thức”. “Những giấc mơ trong khi thức này sở dĩ được gọi như thế là vì trong những sự liên quan với đời thực chúng không có thực hơn gì những giấc mơ chính thức” [6; tr.113]. Ở đây, Cao Bá Quát mơ thấy món gỏi cá lư ở quê nhà như đã nói ở trên là một trường hợp như thế. Cũng theo Sigmund Freud, đó là sản phẩm của trí tưởng tượng. “Trong các giấc mơ trong khi thức này người ta nhận thấy thực chất của cái hạnh phúc tưởng tượng làm cho con người được hưởng mọi sự khoái lạc bất cần những thực tế của cuộc đời. Chúng ta biết những giấc mơ trong khi thức đó chính là trung tâm điểm và điển hình cho những giấc mơ ban đêm” [6; tr.443].

Với những giấc mơ, đời sống tình cảm của Cao Bá Quát được diễn tả sâu sắc, xúc động. Tình cảm ấy được diễn tả cao hơn so với nỗi nhớ (tư, tưởng). Nhớ gắn liền với ký ức, kỷ niệm đã là sự thanh lọc, đọng lại những ấn tượng lớn lao nhất, thẳm sâu nhất. Đi vào giấc mơ, tình cảm được ghi dấu ấn cả trong tiềm thức, trọn vẹn trong mọi thời gian, mọi hoạt động của con người, cả khi thức lẫn lúc ngủ.

Viết về giấc mơ, Cao Bá Quát đã thực hiện quyền của người nghệ sĩ và đem đến sự an ủi, đền bù cho cả bản thân lẫn độc giả những thiếu thốn trong tình cảm và khát vọng, như Sigmund Freud nói. “Nghệ sĩ còn có quyền lực bí ẩn nhào nặn các vật liệu để trở thành hình ảnh trung thành của trí tưởng tượng vô thức làm cho trí tưởng tượng này gây ra một nguồn khoái lạc đủ để che giấu hay huỷ bỏ, dù chỉ là tạm thời những sự dồn ép”. “Phạm vi của trí tưởng tượng ngông cuồng là con đường trung dung được mọi người trong thế giới quí mến và tất cả những người nào thiếu thốn một cái gì thường đến tìm ở đó những sự an ủi và đền bù” [6 ; tr.447].

2. Ảo giác trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát

Ảo giác của Cao Bá Quát trong thơ ông có nhiều dạng thức. Trước hết, Cao Bá Quát có niềm tin mãnh liệt rằng kiếp trước ông là một nhân vật đặc biệt của cõi thiêng. Có lúc ông cho rằng mình vốn là một danh nhân của lịch sử: Dạ gian ức đắc quy phi mộng/ Do ký tiền thân bản thị Chu (Ban đêm nghĩ đến giấc mơ bay về/ Còn nhớ ra rằng kiếp trước chính mình là chàng Trang Tử - Tiểu ẩm hí bút), Ngã thị Hậu Sơn bệnh cư sĩ (Ta là một kẻ cư sĩ Hậu Sơn[3] nằm dưỡng bệnh - Lạp mai thi đồng Thận Phu, Cung Trọng tác), Kim Túc tiền thân chứng (Kiếp trước từng là Phật Thóc Vàng[4] - Bất tri thuỳ thị trích tiên tài). Thậm chí, kiếp trước của ông là minh nguyệt: Tri ngã tiền thân thị minh nguyệt (Chính là minh nguyệt, tiền thân của ta đó - Quỳnh Cần Phạm Giám sinh vị dư tụng mỗ phụ nhân trung thu dạ thi, tình trí thê uyển, nhược hữu bất thăng li biệt chi cảm giả. Kỳ tình dâm cố kỳ từ ai dĩ thương. Lễ nghĩa quân tử sở bất dự dã. Nhiêu Khâu Ma, Trạch Bồ chi phong do kiến thái ư kinh, tư cố thủ nhi lục chi, kiêm thứ kỳ vận, dụng tắc Phạm tử, diệc dĩ chư hảo sự vân)... Có khi ông lại khẳng định mình từng giữ những chức mọn nơi thiên đình, tiên cảnh: Hư đạo Thượng Thanh hương án lại/ Hối lao Trường Cát cẩm nang đồng (Từng làm chức quan coi việc nhang đèn ở cõi Thượng Thanh[5]/ Hận vì đã nhọc thân làm tiểu đồng mang túi gấm cho Trường Cát[6] - Hoạ Nhữ Nguyên Lập giáo thụ ngũ thập tự thọ ngũ thủ thứ vận, kỳ tam), Tiền thân nguyệt phủ tu (Thân kiếp trước từng sửa búa trăng[7] - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), Khiếu xưng thần hữu hiệu Mẫn Hiên/ Ôi danh cựu trứ Hương án lại (Kêu rằng: - Bạn thần hiệu là Mẫn Hiên/ Chức danh hèn mọn là cựu Hương án lại[8] - Đắc vũ đồng Phan Hành Phủ mính ẩm hiệu Hàn thể), Nghi thị tiền thân thị Ngọc Hoàng (Ngờ rằng tiền thân ta đã hầu Ngọc Hoàng - Châu)... Nhiều hơn cả là sự tự nhận mình là một chàng tiên ở Cao Bá Quát. Ông “tưởng” mình là khách của nhà trời: Thuỳ liệu Ngọc kinh Thiên thượng khách (Ai ngờ rằng đây là khách nhà trời của chốn Ngọc kinh - Đáp niên gia Vũ Hoài Phủ kiến tặng thứ vận, kỳ nhất). Ông tự nhận mình là “tiên tử”: Kỵ lư tiên tử hạnh nan phùng (Tiên tử cưỡi lừa khó gặp mơ - Dạ túc Triệu Châu kiều), là “thi tiên”: Bắc Sơn thi tiên Mẫn Hiên ông (Ông tiên thơ Mẫn Hiên ở núi Bắc - Di Xuân dĩ Tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút, ca dĩ đáp chi), là “thiên tiên”, “ngoan tiên” bị biếm trích ở cõi trần: Phụ kinh sơ thí tiểu ngoan tiên (Người ta chỉ mới thử chàng tiên bướng xem có hối lỗi mà mang roi hay không đó thôi - Cửu nhật chiêu khách), Ngoan vân thâm xứ ngoạ ngoan tiên (Đám mây nhởn nhơ nơi sâu thẳm có ông tiên bướng bỉnh nằm ở đó - Tặng Trà Lũ cử nhân), Tiêu nhiên trích truỵ cổ ngoan tiên (Thản nhiên đày xuống trần gian vị tiên cổ bướng bỉnh - Dạ thoại túng bút đồng Phan Hành Phủ), Nhân bản thiên tiên trích (Người vốn là tiên trên trời bị đày xuống trần - Chúng tiên đồng nhật vịnh Nghê thường), Ký đắc thử bang tằng trích đoạ (Nhớ được chốn ấy từng [là nơi] bị biếm trích, đầy đoạ - Tàng Chân động)... Lối tự nhận gốc gác lai lịch thiêng này của Cao Bá Quát khiến thơ ông phảng phất hình bóng Lý Bạch, Nguyên Chẩn của Trung Quốc thời trước, và Tản Đà của Việt Nam thời sau. Với lai lịch ấy, Cao Bá Quát khẳng định mình khác người, vượt lên trên số đông trần tục. Đặc điểm “ngông” của Cao Bá Quát biểu lộ ở đây.

Không chỉ tin mình vốn thiêng, Cao Bá Quát còn thường xuyên đưa mình đến cõi mộng. Trong những phút giây ấy, cơ hồ như Cao Bá Quát có hiện tượng xuất thần, thân một nơi, hồn lạc vào những cõi miền khác nhau. Có hai loại không gian xuất hiện trong ảo giác của Cao Bá Quát: cõi trần và cõi hư.

Cõi trần gồm quán rượu và những cảnh nổi danh: Cơ như thân tại tửu gia lâu (Cơ hồ như ta đang ở quán rượu - Hoạ Lục Phóng Ông chinh nguyệt ngũ nhật xuất du), Tam Thanh, Bát Cảnh như truy tuỳ (Tưởng như Tam Thanh Bát Cảnh cũng theo mình đến - Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân), Hành, Nhạc, Thái Hàng thiên hạ sơn/ Hoàng Hà, Giang, Hán thiên hạ thuỷ/ Thuỳ khiển tam xích thằng sàng gian/ Điệp điệp trùng trùng kiến lưu trĩ/(...) Nhược thân ngô lịch túc ngô lý (Hành, Nhạc và Thái Hàng là những núi nổi tiếng trong thiên hạ/ Hoàng Hà và Giang Hán là những sông nổi tiếng trong thiên hạ/ Vì ai mà kẻ ở quanh cái võng ba thước này/ Lại được thấy cảnh sông núi trùng trùng, điệp điệp?/ (...) Tưởng như chính mình bước chân đến tận nơi ấy - Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu), Quải phàm hướng Thương Bột/ Nhất tiếu vọng Chi Phù (Căng buồm hướng về Thương Bột/ Cười một tiếng trông về núi Chi Phù - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)... Theo ảo giác, Cao Bá Quát thấy mình đến những miền đất xa xôi, nổi tiếng hoặc chính những miền đất ấy hội tụ, “theo” ông về!

Cõi hư là những cảnh thiên đình, cõi tiên của Đạo giáo hoặc những địa danh trong sách của nhà Phật: Hương Quốc, Dao Trì, Bồng Lai, Doanh Châu, núi Viên Kiểu, ngọn Phương Hồ, Nhị Châu, Tiên quế, bến Ngân Hà, Hoàng Cô, Thiên Tôn, đảo Lang Phong...: Hương Quốc quần tiên hội/ Hoa trường tuyển phật kỳ (Đông các tiên hội họp ở Hương Quốc/ Mong chọn được vị phật ở Hoa trường - Bất tri thuỳ thị trích tiên tài), Viên Kiểu vị câu lưu/ Hồi thủ Phương Hồ tức ([Nay] được núi Viên Kiểu bắt giữ lại/ Quay đầu đi tới ngọn Phương Hồ - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), Ngã hành tố Ngân Chử/ (...) Hoàng Cô diểu an cầu/ Thiên Tôn lộng vân cẩm/ (…) Hoàn khấu Lang Phong đảo/ (...) (Ta đi ngược lên bến Ngân Hà/ (...) Hoàng Cô[9] mịt mùng sao tìm được/ Thiên Tôn[10] còn đùa với gấm đẹp như mây/ (…) Lại gõ cửa đảo Lang Phong[11] - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)...

Trong những cõi phi thực ấy, Cao Bá Quát “gặp gỡ” với những con người đấng bậc, thần thiêng: Động Tân, Thái Bạch phân tống nghinh (Các ông tiên Động Tân[12], Lý Bạch rộn rã tiễn đưa - Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân), Thử trung vô số thánh, hiền, hào/ Dữ ngã lai vãng tận tri kỷ (Trong ấy có vô số các bậc hào kiệt/ Cùng đi lại với ta và thành tri kỷ cả - Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu), Lộ phùng Ngô tiên nhân (Trên đường gặp ông tiên họ Ngô[13] - Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân), Thượng Thanh chư tiên nhân/ Tiếu ngã thanh lang lang (Các nàng tiên cung Thượng Thanh/ Cười ta tiếng nghe lanh lảnh - Đàm thiên hành), Thượng Thanh chân nhân phi hạc mao/ Không trung di ngã lục ngọc trượng (Thượng Thanh chân nhân[14] xoã tóc bạc/ Trao ta gậy ngọc màu lục giữa không trung - Tự đề liễu yến trướng tử ca), Nam Đẩu Tinh Quân tiếu dư lão (Nam Đẩu Tinh Quân[15] lại cười ta già - Du Hưng Phúc tự đề bích)...

Cõi ấy bừng lên hoa ngọc, mây trời... với hương thơm, sắc thắm kỳ lạ: Dao thảo khai tam đảo/ Quỳnh hoa tuỵ thập châu (Cỏ dao phát triển trên ba đảo[16]/ Hoa quỳnh nở rộ trên mười châu[17] - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), San thụ sâm Bồng Đảo/ Ngân hoàng triệt Nhị Cung (San hô đầy rẫy nơi Bồng Đảo/ Bụi tre ngà giăng khắp cung Nhị Châu[18] - Chúng tiên đồng nhật vịnh Nghê thường), Thiên Tôn lộng vân cẩm/ Xán nhược tử ỷ cừu/ (...) Hải thị phú châu bội/ Yêu quang chiếu di mâu (Thiên Tôn còn đùa với gấm đẹp như mây/ Rực rỡ như lụa lông cừu màu tía/ (...) Ngọc trai hàng chuỗi tạo nên ảo ảnh/ Ánh sáng quỷ quái chiếu sáng khắp nơi - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên), Hoạ bình phiến thạch Thiên Thai san/ Tứ thời bát tiết sinh chi lan/ Ngọc giai trạc trạc thanh lang can/ Chi chi tiết tiết thuỳ châu hoàn/ Xuân vũ dục thấp xuân phong can/ Cô tư phiêu dật phi nhân hoàn (Bình phong vẽ bằng đá phiến núi Thiên Thai[19]/ Bốn mùa tám tiết sinh cỏ thơm chi lan/ Thềm ngọc lang can xanh bóng sạch sẽ/ Cành cành đốt đốt buông rũ hạt châu/ Mưa xuân muốn làm ướt, gió xuân liền lau khô/ Vẻ phiêu dật riêng không phải trong cõi người - Di Xuân dĩ Tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút, ca dĩ đáp chi)...

Diệu kỳ nhất và được Cao Bá Quát nhắc đến nhiều nhất là thi, nhạc -  những thanh âm, khúc nhạc du dương bao trùm, thấm đượm, tan hoà vào cảnh vật và những đấng bậc linh thiêng: Thử nhật Nghê Thường vịnh/ (...) Nhất khúc tấu Dao Trì (Ngày nay vịnh khúc nhạc Nghê Thường/ (...) Một khúc nhạc dâng lên ca ngợi cảnh Dao Trì - Bất tri thuỳ thị trích tiên tài), Đồng nhật Nghê Thường vịnh (Cả một ngày vịnh khúc Nghê Thường - Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du), Nghê Thường vịnh tối công/ Thanh bình tam điệp lộng/ Nhã Tụng nhất ban đồng/ (...) Thử khúc nghi thiên thượng/(...) Thanh tiêu âm tử tế/ Bích lạc vận đinh đông/ (...) Quỳnh bội hướng linh lung (Ca hát rất hay khúc Nghê Thường/ Vui ba lần láy lại điệu Thanh bình/ Sánh ngang với các phần Nhã, Tụng [trong kinh Thi]/ (...) Khúc hát này đáng loại ở trên trời/ (...) Âm thanh tề chỉnh vang trời xanh/ Làn điệu thánh thót trong khoảng không màu biếc/ (...) Đi hướng tới nơi đó, ngọc đeo trên người rộn ràng âm thanh - Chúng tiên đồng nhật vịnh Nghê Thường)... Những khúc nhạc kỳ ảo chỉ có ở chốn thần tiên, muôn đời đi vào huyền thoại (như Nghê thường vũ y khúc), hay điệu từ bất hủ ở chốn nhân gian (như Thanh bình điệu của thi tiên Lý Bạch), hay thơ ca đạt đến mức chuẩn mực trong kinh Thi… mới có thể dự vào đây cùng các đấng bậc thần tiên.

Nói chung, không gian ảo giác của Cao Bá Quát được tái hiện chủ yếu bằng các điển tích điển cố, phần nhiều là những điển về Đạo giáo. Cao Bá Quát chưa sáng tạo được những miền mộng siêu thực, tượng trưng như các nhà thơ mới Hàn Mặc tử, Bích Khê sau này. Song, thế giới cõi mộng của Cao Bá Quát cũng đã rất xa lạ với cảnh sắc của cuộc sống hàng ngày. Đó là một cõi huyền bí của thế giới cái đẹp. Nó khiến cho thơ ca Cao Bá Quát có thêm màu sắc mới mẻ, lãng mạn và kỳ ảo.

Con người Cao Bá Quát ở cõi miền tâm linh, mộng ảo ấy chỉ đôi lúc không còn ở trạng thái ý thức, mất mọi ràng buộc thể chất, đắm mình trong vô thức (khi say ở quán rượu để quên thực tại); còn lại, hầu hết được tác giả khắc hoạ với một niềm tin tuyệt đối. Thân hồn Cao Bá Quát như hoà nhập tột độ trong những ấn tượng và cảm giác ở thế giới hư ảo. Vậy nên, trong những vùng không tưởng ấy, tâm trạng, cảm xúc của Cao Bá Quát luôn dâng lên ở mức cao độ, vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý trí. Khi thì ngạc nhiên, phấn khích, thăng hoa:

Bệnh trung hốt toạ, toạ hốt khởi,

Hạp ngô lưỡng mục, bế ngô nhĩ.

Trừng thần địch lự mặc dĩ du,

Nhược thân ngô lịch, túc ngô lí.

Khởi dư giả thuỳ? Bùi sứ quân!

(...) Đốt đốt nam nhi chân khoái sự !

(Đề Sát viện Bùi công Yên đài anh ngữ khúc hậu)

(Rồi bỗng nhiên đang ốm, ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên,

Nhắm hai mắt lại, bịt hai tai lại.

Tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng, lặng lẽ cho tâm hồn giong ruổi,

Tưởng như chính mình bước chân đến tận nơi ấy.

Người làm cho ta phấn khởi như thế là ai? Là ông sứ họ Bùi!

(...) Chà chà! Làm trai như thế mới thực là khoái!)

Thủ pháp liệt lê một loạt hành động nhanh, gấp đã diễn tả thành công cảm giác kinh ngạc của chính tác giả khi đọc tác phẩm của ông sứ họ Bùi! Tác phẩm ấy khiến cho tác giả hồi sinh, khoẻ mạnh về thể chất, hết cả đau ốm, mệt mỏi (ngồi nhỏm dậy, đứng phắt lên). Hơn thế, nó làm thanh thản tâm hồn (tinh thần lắng xuống, ý nghĩ sạch lâng) và khai sáng nhận thức, đổi mới tư duy của tác giả.

Một lần khác, ảo giác thể hiện tâm trạng tê tái đến tột cùng trong nỗi đau mất con của Cao Bá Quát (Thất tử). Vì đau khổ, Cao Bá Quát không còn là một người bình thường nữa. Hỏi người đời không được giải đáp, ông tiến lên trời, hỏi Ngọc Hoàng, nghe câu trả lời của gã tóc đỏ - kẻ phát ngôn đại diện cho cõi trời. Ông dường như đang có tâm trạng của một kẻ điên khùng giống hệt hành xử và tâm lý của nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao sau này. Bên trong sự phi lý ở lối chất vấn của Cao Bá Quát và tiếng chửi của Chí Phèo có sự diễn tiến rất logic. Câu trả lời của gã tóc đỏ cũng được tác giả nghe và ghi lại đầy đủ, rất dài và chi tiết, mạch lạc. Điều đó cho thấy cả Cao Bá Quát lẫn Chí Phèo đều rất “tỉnh” trong cơn say, cơn điên loạn! Nỗi đau, vì thế được diễn tả ở mức thấm thía, xót xa cực độ!

Một lần khác, Cao Bá Quát cũng bị rơi vào trạng thái hoảng loạn khi chứng kiến văn minh, sức mạnh phương Tây, thấy hậu hoạ xâm lược của phương Tây với phương Đông, trong đó có cả đất nước mình, đang hiển hiện trước mắt. Hồn ông đi tìm phương án ngăn ngừa ở các cõi mộng. Đầu tiên, ông đến bến Ngân Hà, tìm hỏi Ngưu Lang - chàng chăn trâu vốn người trần mắt thịt nhưng ở trên trời. Rồi lại lặn lội đến đảo Lang Phong gặp Tây Vương Mẫu. Sau đó, đến Thương Bột, Chi Phù tiếp xúc với bầy chim Tinh Vệ. Chưa có câu trả lời, lại đến tận Bồng Lai... Như có phép mầu của Tôn Ngộ Không, Cao Bá Quát đi hết nơi này đến nơi khác, gặp gỡ đủ mọi đối tượng, từ kẻ trần đến người tiên, từ chàng làm nghề mọn chăn trâu cho đến nhân vật thống soái của chốn thiên đình, từ nam cho đến nữ, từ người cho đến cả động vật, sự vật... Tất cả đều không có lời giải đáp cho nỗi sợ hãi của tác giả. Trong thế giới Cao Bá Quát tưởng có thể tìm được câu trả lời ấy, Thiên Tôn đang mải chơi đùa với gấm mây, Tây Vương Mẫu chuẩn bị du hành, bầy chim Tinh Vệ tiếp tục lo trả thù cá nhân, lũ chim xanh lặng lẽ ăn tiệc... Mọi đối tượng đều có việc riêng của mình, thờ ơ, không quan tâm đến nỗi nhức nhối trong tâm can của hồn Cao Bá Quát. Chỉ có con chim đại bằng hỏi lại một câu: “Mưu tính đuổi bọn quân xâm lược phương Tây chần chừ ư?” thì lại chỉ “Nghiêng cánh nhìn mây đỏ”, không biết trả lời sao! Phải nói rằng, dùng yếu tố hoang đường, ngòi bút của Cao Bá Quát có tính ngụ ý. Nó phản ánh sự bế tắc, bi quan của Cao Bá Quát trước việc tìm ra một phương sách đối phó với hiểm hoạ mất nước trong tương lai gần. Đồng thời, nó gợi ra sự tương phản, đối lập giữa cá nhân Cao Bá Quát với những đấng bậc bề trên chịu trách nhiệm và có vai trò quyết định với vận mệnh non sông.

Điều đáng nói nữa là những bài thơ ảo mộng của Cao Bá Quát thường viết theo cấu trúc: thực - ảo - thực. Nếu chiêm bao của Cao Bá Quát gắn liền với sợi dây của đời sống tình cảm cá nhân thì những ảo giác của ông lại thường xuất hiện khi đột ngột chạm vào những sự kiện đặc biệt. Các bài thơ chủ yếu bắt đầu là không gian, sự kiện thực. Như Cao Bá Quát du chơi ở Côn Sơn là thực: Khách đạo: Côn Sơn chi thượng thanh thả u/ Dữ tử tương tương phỏng cổ du (Khách nói: Trên núi Côn Sơn vừa mát mẻ vừa tĩnh mịch/ Chúng ta hãy cùng nhau lên thăm những dấu tích xưa - Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân). Nhưng sau khi vượt lên khoảng trời cao xa trên núi Côn Sơn, cảnh vật chung quanh tựa như tiên cảnh, thì lúc này Tam Thanh, Bát Cảnh như thể cũng theo cùng[20], và [các vị tiên] Động Tân, Lý Bạch [mới nhân đó] rộn rã đón đưa. Hay Cao Bá Quát ngắm trăng sông Trà là cũng là chuyện thực: Trà giang nguyệt/ Kim dạ vị thuỳ thanh (Trăng sông Trà/ Đêm nay vì ai mà trong trẻo - Trà giang thu nguyệt ca)..., nhưng khi nhà thơ say sưa cùng ánh trăng, hoà mình cùng vũ trụ, thì ông mới tự nhận mình là “anh bộ binh gặp bước đường cùng trong bọn Trúc Lâm[21]”. Hoặc có khi Cao Bá Quát rơi vào những cảnh huống bất hạnh, trớ trêu: Cơ lưu lưỡng thiên thứ/ Thập kiến hải nguyệt viên (Bị giam cầm đã hai lần đổi chỗ/ Và đã mười lần thấy trăng tròn trên mặt bể - Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân). Dưới ánh trăng rằm trong cảnh ngục tù, ông thả hồn lên tận tầng mây tía, và đã gặp ông tiên họ Ngô “trên đường đi” kéo vào cung quế chuyện trò hồi lâu, ông toan hỏi trời nhưng không được, rồi cuối cùng trở về với cảnh ngục tù. Hoặc trong cảnh đau đớn tột cùng vì mất con: Cao tử bất hạnh/ Nhi vẫn quyết nhi (Cao tử bất hạnh/ Nên mất đứa con - Thất tử), Cao Bá Quát đã phân thân thành một nhân vật siêu phàm, bay lên tận trời xanh để hỏi trời... Hoặc từ một sự kiện “lịch sử” khác của đời mình, đi “Dương trình hiệu lực”, tác giả từ chỗ tận mắt chứng kiến cảnh Cổn cổn thế vị hưu (Thế hung hăng cuồn cuộn chưa dừng - Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên) của phương Tây mà phân thân bay ngược lên bến Ngân Hà để tìm Ngưu Lang, Chức Nữ...

Từ trong hiện thực cuộc sống, tác giả có khi ban đầu chỉ là “muốn” (dục) thoát ly, nhưng sau thì chìm vào ảo giác thực sự:

- Hạ hữu đại bằng tương cửu sồ,

Trắc thân ai minh thị thương mãng.

Ngã dục thừa chi phù dao thướng,

Phi khâm kiểu thủ vọng thiên nhưỡng.

Ngoan vân oanh hợp xương môn âm,

(Tự đề liễu yến trướng tử ca)

(Bên dưới có chim đại bằng đem chín con,

Nghiêng mình kêu thảm nhìn cỏ xanh rậm.

Ta muốn cưỡi nó bay vọt lên phía trên,

Áo lất phất ngẩng đầu trông trời đất.

Mây quấn giáp vòng cửa tiên râm mát)

- Ngã dục thừa vân ly,

Kiểu đầu khuy phù tang.

Hồi quy lãng phong điên,

Tức giá thu đồi quang.

Hốt truỵ xích ngọc tích,

Cánh cách Bồng Lai hương.

(Đàm thiên hành)

(Ta muốn cưỡi con vân li,

Cúi đầu trông xuống cây phù tang.

Bay về trong sóng gió điên cuồng,

Ngừng bay thu lại ánh sáng mờ đi.

Bỗng đánh rơi chiếc hài ngọc đỏ,

Lại cách xa quê xứ Bồng Lai)

- Ngã dục sáp song sí,

Phi bộ lăng tử yên.

Lộ phùng Ngô tiên nhân,

Ấp ngã quế thụ biên.

(Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân)

(Ta muốn chắp thêm đôi cánh,

Bay lên tận tầng mây tía.

Trên đường gặp ông tiên họ Ngô,

Kéo ta đến bên cây quế)

Có khi tác giả lập tức chuyển sang trạng thái hoang tưởng:

- Giải y phân thủ tản bộ hành,

Tùng đào vị ngã trữ viễn tình.

Tam Thanh, Bát Cảnh như truy tuỳ,

Động Tân, Thái Bạch phân tống nghinh

(Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác “Côn Sơn hành” vân)

(Phanh áo, giang tay bước đi thong thả,

Tiếng thông reo làm khuây cả nỗi lòng xa xôi.

Tưởng như Tam Thanh, Bát Cảnh cũng theo mình đến,

Và các ông Động Tân, Lý Bạch rộn rã tiễn đưa)

- Cử bôi thí yêu nguyệt,

Nguyệt nhập bôi trung hành.

Hàm bôi dục yết cánh phi khứ,

Chỉ hữu nhân ảnh tương tung hoành.

(Trà giang thu nguyệt ca)

(Cất chén thử mời trăng,

Trăng vào đi trong chén.

Ngậm chén toan uống thì trăng lại biến mất,

Chỉ còn có bóng người dọc ngang)

- Nãi hô vấn thiên,

Thiên viết: Bất tri

(Thất tử)

(Bèn kêu hỏi trời,

Trời rằng: chẳng hiểu)...

Những ảo giác ấy rồi cũng tan đi, cuối cùng tác giả lại trở về với hiện thực buồn thương, nghiệt ngã. Trước mắt tác giả chỉ còn là những hình ảnh nổi trôi, vô định (mây bay), tàn lụi (lá rụng, tuổi già đến):

Sơn tiêu phục hữu cao tùng tam lưỡng chi,

Phan trắc diếu bát hoang.

Minh vân thiên ngoại phi,

Chinh điểu tương dữ hoàn.

Lạc diệp phân phân nhi,

Du nhân quy bất quy?

(Dữ thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác “Côn Sơn hành” vân)

(Kìa trên đỉnh núi còn có đôi ba cành tùng cao,

Trèo cho tới nơi, nhìn ra tám cõi.

 Chỉ thấy những đám mây lờ mờ bay tận ngoài trời,

Chim đi xa đã rủ nhau về.

Lá cây rụng đang bay phất phới,

Khách du tử về hay không đây?)

Ông đau đớn cất lên lời than:

Ô hô! Nhất danh cơ bạn trường như thử!

Bạch phát, thanh bào, ngô lão hĩ!

(Đề Sát viện Bùi công “Yên đài anh ngữ” khúc hậu)

(Than ôi! Một chút danh cứ ràng buộc mãi thế này,

Bạc đầu với chiếc áo xanh. Ta già mất rồi!)

Và rốt cuộc, lại mượn rượu, thơ để quên đi nỗi đắng cay, u uất:

Quy lai nhất trường khiếu,

Bả tửu dục vấn thiên.

Thiên cao bất khả vấn,

Thả phú Tù sơn thiên.

(Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng ký chư cố nhân)

(Trở về ta huýt một hơi sáo dài,

Nâng chén rượu toan hỏi trời.

Trời cao không thể hỏi được,

Âu là ta cũng làm bài phú Tù sơn)

Kiểu kết cấu này gợi một vòng tròn luẩn quẩn, không lối thoát trong tâm hồn, tư tưởng tác giả. Nó kết lại nỗi đau tê dại, hoá đá trong lòng Cao Bá Quát.

Kết luận

Mộng mị và ảo giác tạo nên một ấn tượng đặc biệt cho thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Những giấc mơ, những cảm giác ảo của Cao Bá Quát vừa có yếu tố hiện thực vừa là bút pháp dùng ảo giác để phản ánh hiện thực, mượn mộng mơ nghệ thuật để hoá giải thực tại phũ phàng và nỗi niềm chua xót. Sự kết hợp thú vị giữa thực và ảo khiến thơ chữ Hán của Cao Bá Quát bắt đầu có sắc thái lãng mạn, siêu thực, tượng trưng của các tác giả Tản Đà, Hàn Mặc Tử, Bích Khê... sau này!

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Mai Quốc Liên chủ biên (2004), Cao Bá Quát toàn tập, Tập I, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

2. Mai Quốc Liên chủ biên (2012), Cao Bá Quát toàn tập, Tập II, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

3. Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa, chú thích (1996), Nguyễn Du toàn tập, Tập 1 và 2, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

4. Mai Quốc Liên chủ biên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Tập 1, 2 và 3, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học.

5. Nguyễn Thị Nhàn, “Yếu tố chiêm mộng trong truyện thơ Nôm”, http://www.pupuneko.net/tabid/330/itemid/4991/default.aspx

6. Sigmund Freud (1970), Phân tâm học nhập môn, Nguyễn Xuân Hiếu dịch, Nxb. Khai trí.

7. Trần Đình Sử (2003), Thi pháp Truyện Kiều, Nxb. Giáo dục.

8. Kim Cương Tử chủ biên (1998), Từ điển Phật học Hán-Việt, Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội.


[1] Căn cứ theo Cao Bá Quát toàn tập (Mai Quốc Liên chủ biên), hai tập, Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Tập I năm 2004, Tập II năm 2012. Toàn tập công bố 1212 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát. Các trích dẫn thơ Cao Bá Quát trong bài đều căn cứ theo sách này.

[2] Rau thuần, cá lô: Thuần là một loài rau mọc trong hồ nước, chỉ phần đọt non nhú lên khỏi mặt đất mới được hái làm rau. Lô, cũng đọc là lư, là một loài cá nước ngọt rất ngon, nhưng phông phải cá vược ở ta.

[3] Hậu Sơn Cư Sĩ là hiệu của Trần Sư Đạo (1053-1102), nhà thơ đời Tống, từng làm quan đến chức Giáo thụ Từ Châu, Giáo thụ Dĩnh Châu, suốt đời an bần lạc đạo. Trước tác có Hậu Sơn tiên sinh tập, Hậu Sơn từ…

[4] Phật Thóc Vàng: dịch chữ Kim Túc trong nguyên văn, chỉ Kim Túc Như Lai, được coi là tiền thân của cư sĩ Duy-ma. Vị cổ Phật này đã mượn thân cư sĩ giáng sinh cùng thời với đức Phật Thích-ca để ủng hộ Phật Pháp [8; tr.634]. Thi hào Lý Bạch trong bài Đáp Hồ Châu Ca Diệp tư mã vấn Bạch thị hà nhân tự nhận mình là “trích tiên” (tiên bị đày), và kiếp sau của ông sẽ là Kim túc Như Lai (Thanh Liên cư sĩ trích tiên nhân,… Kim Túc Như Lai thị hậu thân).

[5] Cõi Thượng Thanh: một trong 3 cõi Thanh (Tam Thanh) của Đạo giáo (gồm Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Tam Thanh), nơi ở của các đạo sĩ đắc đạo thành tiên.

[6] Trường Cát là tên tự của Lý Hạ (790-816), nhà thơ lớn đời Đường được mệnh danh là Thi Quỷ. Sách xưa chép rằng: Lý Hạ mỗi khi đi đâu thì cưỡi lừa, hễ nghĩ ra một câu thơ hay thì chép bỏ vào túi gấm do tiểu đồng mang theo hầu, tối về sửa lại thành bài.

[7] Búa trăng: dịch chữ nguyệt phủ có nghĩa là “búa để sửa trăng”. Theo truyện thần thoại Trung Quốc, mặt trăng là do 7 thứ báu vật (san hô, hổ phách, xà cừ, mã não, kim ngân, trân châu, lưu ly) hợp thành, và phải dùng tám vạn hai ngàn hộ để sửa nó.

[8] Hương án lại: tiên đồng phụ trách việc hương đèn ở nhà trời. Nguyên chú: Nguyên Chẩn thi, Ngã thị Ngọc Hoàng hương án lại (Thơ Nguyên Chẩn có câu: Ta vốn là viên quan coi việc hương án của Ngọc Hoàng). Bài thơ Dĩ châu trạch khoa ư Lạc Thiên của thi sĩ Nguyên Chẩn đời Đường có 2 câu cuối: Ngã thị Ngọc Hoàng hương án lại/ Trích cư do đắc trú Bồng Lai (Ta vốn là viên quan coi việc hương án của Ngọc Hoàng/ Bị đày đi còn ở chốn Bồng Lai).

[9] Hoàng Cô: tên gọi khác của sao Khiên Ngưu.

[10] Thiên Tôn: tên gọi khác của sao Chức Nữ.

[11] Lang Phong: tên núi, tương truyền là nơi ở của thần tiên.

[12] Động Tân: tức Lã (Lữ) Động Tân, cũng đọc Đỗng Tân, người đời Đường, một trong tám vị được gọi là Bát tiên.

[13] Ông tiên họ Ngô: chỉ Ngô Cương, người đời Hán, tu thành tiên, sau mắc lỗi, bị đày vào cung trăng đẵn cây quế.

[14] Chân nhân: giáo phẩm Đạo giáo dành cho giáo sĩ đắc đạo thành tiên.

[15] Nam Đẩu Tinh Quân: là sáu ngôi sao về phương Nam, coi việc thọ yểu trong nhân gian (theo Đạo giáo).

[16] Ba đảo: còn gọi là Tam thần sơn, đó là 3 đảo theo truyền thuyết là nơi thần tiên ở ngoài biển khơi, gồm Bồng Lai, Phương Trượng, Doanh Châu.

[17] Mười châu: Theo sách Thập châu ký của Đông Phương Sóc thời Tây Hán, đó là 10 đảo thần tiên ở, ngoài biển khơi, trong đó có Doanh Châu.

[18] Cung Nhị Châu: chữ Hán gọi là Nhị Cung, hay Nhị Châu Cung, là nơi tiên ở (theo Đạo giáo).

[19] Thiên Thai: tên núi ở Triết Giang, tương truyền có tiên ở, do đó thường dùng chỉ cảnh tiên hay cõi tiên.

[20] Tam Thanh, Bát Cảnh như thể cũng theo cùng: nguyên văn Tam Thanh Bát Cảnh như truy tuỳ. Tam Thanh Bát Cảnh ở đây theo chúng tôi là từ ngữ của Đạo giáo. Tam Thanh là từ chỉ chung 3 cõi Ngọc Thanh, Thượng Thanh và Thái Thanh như đã chú ở trên (chứ không phải chỉ 3 động Nhất Thanh, Nhị Thanh và Tam Thanh ở Lạng Sơn nước ta) và Bát Cảnh là chỉ 8 cảnh sắc đẹp (không phải chỉ 8 cảnh đẹp quanh Hồ Tây ở nước ta, hay “Tiêu tương bát cảnh” ở Trung Quốc). Câu thơ Cao Bá Quát lấy từ ý thơ Lưu Vũ Tích đời Đường: Tiên tâm tòng thử tại Dao Trì/ Tam Thanh Bát Cảnh tương truy tuỳ (Lòng tiên từ nay ở Dao Trì/ Tam Thanh Bát Cảnh cùng theo về - Tam Hương dịch lâu phục đổ).

[21] “anh bộ binh… trong bọn Trúc Lâm”: nguyên văn (Ngã thị) Trúc Lâm cùng đồ chi bộ binh, chính là Nguyễn Tịch đời Tấn, một trong “Trúc Lâm thất hiền”, tính phóng đạt, thường uống rượu say liên miên, từng xin vào làm Hiệu uý trong trại bộ binh để có dịp uống rượu ngon. 

Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn, Bình luận Văn học, Niên san 2015

Cái chết của anh cái chết một nhà văn

Không bao giờ là cái chết.

Văn Cao.

 

Những người sinh ra ở giữa lòng thế kỉ trước, khi bước vào năm 1960 trở đi, họ chừng trên dưới 10 tuổi. Khi ấy ở miền Bắc, đặc biệt là vùng châu thổ sông Hồng, không ai không đọc Lá cờ thêu 6 chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng. Nó phổ cập đến nỗi, tất cả học sinh cấp 1, cấp 2, từ lớp 1 đến lớp 7, một tập hợp đến hàng triệu trẻ con nhớ vanh vách chuyện Trần Quốc Toản đứng ngoài cuộc họp ở hội nghị Bình Than bóp nát quả cam lúc nào không biết và tự mình thành lập đội quân với lá cờ thêu 6 chữ: phá cường địch - báo hoàng ân. Không ai trong số hàng triệu trẻ con vô lo vô nghĩ thời ấy biết rằng, chỉ sau đó vài năm, họ cũng đi ra chiến trường đem theo tinh thần phá cường địch ấy vào cuộc chiến sinh tử đuổi bầy giặc dữ.

Trong lịch sử văn chương Việt Nam thời hiện đại, ít ai sớm nhận ra ý nghĩa và thành công trong việc lấy cảm hứng từ các đề tài lịch sử và thậm chí viết theo cảm hứng ấy ở ngay cả các đề tài hiện đại để xây dựng thành các tác phẩm văn học có tầm vóc thuộc đủ các thể loại từ kịch, tiểu thuyết đến ký sự như Nguyễn Huy Tưởng. Và điều quan trong là cảm hứng ấy xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông, bắt đầu từ rất sớm, khi ông khởi sự cầm lấy việc bút nghiên và dấn thân vào cuộc đời văn sỹ sóng gió mà đầy thử thách. Năm 1942, khi ông 30 tuổi, Đêm hội Long Trì được đăng trên tạp chí Tri Tân. Chủ đề lịch sử tiếp tục được triển khai trong Cột đồng Mã Viện, An Tư, Vũ Như Tô… Những đề tài hiện đại được ông viết ra trong Bắc Sơn, Những người ở lại, Bốn năm sau, Sống mãi với thủ đô, Lũy hoa… Ngay cả Ký sự Cao Lạng, còn nóng hổi sự kiện và con người của chiến dịch biên giới 1950, bằng cảm hứng bi hùng. Phải chăng cảm hứng lịch sử như là nét nhạc chủ đạo của một đời văn đã làm nên vẻ đẹp đặc sắc nhất của văn chương Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã ghi tên tuổi của mình lên cái giá sách vinh quang của văn đàn Việt Nam hiện đại bằng một phong cách tiềm ẩn sự ca vang của bi hùng mà hào hoa kỳ lạ. Sách Văn Tâm Điêu Long trong thiên Tri âm có viết: Người tính tình khảng khái thích văn chương hùng tráng. Người sâu sắc thích văn chương súc tích. Người phù phiếm thích văn chương hoa mĩ. Người hiếu kỳ thích văn chương quái lạ. Tôi nghĩ nhà văn họ Nguyễn Huy thuộc loại người thứ nhất. Ít ai bị Nguyên Huy Tưởng mê hoặc kéo đi theo văn chương của mình như trường hợp ông Nguyễn Tuân. Khi đọc bản thảo Sống mãi với thủ đô để viết lời giới thiệu, dường như Nguyễn Tuân bị ám, tựa hồ như ông không thoát ra được miên man chắp nối thêm cho ông Tưởng về cái nhát cuốc đầu tiên phá thành Hà Nội, bổ vào thân thành một sớm mùa thu 10-8-1894. Đến 6 tháng sau thì Hà Nội bắt đầu thắp điện. Năm 1902 làm xong cầu sắt xe lửa qua sông Hồng. Cứ như là Nguyễn Huy Tưởng đi trước, Nguyễn Tuân theo sau, dẫn người ta bước vào với Sống mãi với thủ đô, thấy ở ngày hôm nay Hà Nội vẫn gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ. Nguyên Tuân đã giành cho người bạn văn của mình hai lần sang trọng.

Trong toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều tác phẩm nổi tiếng, nhưng kiệt tác đưa ông đứng vào hàng của một trong những vị trí dẫn đầu của làng văn hiện đại, không thể không kể đến Vũ Như Tô. Đúng như ông Nguyễn Tuân đã từng nói: cả một đời viết văn, với kịch Vũ Như Tô là yên tâm được rồi. Vũ Như Tô được viết từ năm 1943 và xuất bản lần đầu sau cách mạng tháng 8 – 1945 bởi Hội Văn hóa cứu quốc vào tháng 9 – 1946.

Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, vị quan sử quán tu soạn thời Lê Thánh Tông biên khảo hồi cuối thế kỉ 15 vẻn vẹn chỉ có 3 đoạn ngắn nói về Vũ Như Tô. Gộp cả 3 đoạn ấy lại cũng chưa đầy một trang khổ sách bây giờ.

…Đại hạn, trong nước đói to.

Làm điện lớn hơn trăm nóc. Trước đây người thợ ở xã Minh Quyết huyện Cẩm Giàng là Vũ Như Tô (tức đô Nhạn) ở nhà lấy cây mía làm thành điện lớn trăm nóc, đến đây đem kiểu nhà ấy dâng lên khuyên vua xây dựng.

…Vua…sai bọn nữ sử cởi truồng, chèo (thuyền) ở hồ Tây, Vua cùng chơi, lấy làm thích lắm. Người thợ Vũ Như Tô làm điện hơn trăm nóc, hết kiệt tiền và sức dân trong nước,… Có chỗ đã làm xong lại đổi lại, đắp đổi lại, đắp lại mấy năm không cùng. Quân lính bị bệnh dịch đến một phần mười.

Võ sỹ tên là Hạnh cầm giáo đâm vua ngã ngựa rồi giết chết… giết chết Vũ Như Tô ở ngoài cửa kinh thành. Trước đây Vũ Như Tô xuất thân là thợ, lấy kỹ xảo mà mê hoặc vua, được lạm bổ đô đốc kiêm các sở bộ công giờ đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị giết, Như Tô cũng bị bỏ xác ở chợ. Quan dân ai cũng chê cười hoặc có người nhổ vào xác…

Nếu chỉ dựa vào chừng ấy sử liệu và viết theo tinh thần của sử quan Ngô Sỹ Liên, chắc Nguyễn Huy Tưởng sẽ có được một vở kịch hay. Có điều tầm vóc tư tưởng và ý nghĩa nghệ thuật sẽ không thể vượt qua Đêm hội Long trì. Đó chỉ là một bức tranh sinh động về một chế độ chính trị suy tàn và phi luân mà lịch sử tuy không vô tình mà lại vô tình bởi sự đau đớn và nhục nhã phải đi qua. Nhưng tài năng của Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một tình huống kịch có điểm sáng nảy sinh từ xung đột giữa cái thiện, cái nhân bản của con người mà Vũ Như Tô, Đan Thiềm là đại diện, đối lập với mặt bên kia của mâu thuẫn đại diện cho các ác, cái phi nhân của thế lực vua quan thối nát là Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản… và không thể có bi kịch nếu không có sự éo le của lịch sử, khi cùng là xây dựng Cửu Trùng Đài, Lê Tương Dực chỉ mong có chốn ăn chơi sa đọa, còn Vũ Như Tô coi đó là điểm nhấn của Kinh thành lộng lẫy, đó là nơi thể hiện lương tâm, trách nhiệm, tài năng trước đất nước và thời cuộc. Không khí bi tráng khi xung đột được giải quyết; Cả Kinh thành và Cửu Trùng Đài rừng rực cháy bởi sự phẫn nộ của người dân và binh lính. Cửu Trùng Đài thiêu rụi sự mong muốn sa đọa của cái ác, nhưng cũng chưa hẳn soi sáng cho cái thiện vì việc lớn chưa thành. Bản lĩnh của Nguyễn Huy Tưởng không phải ở chỗ là một người chép sử, ông đã xây một Cửu Trùng Đài khác trong văn chương để chỉ ra cái quy luật muôn đời trong sự éo le của cái thiện, trong tình huống không bao giờ đồng thuận với cái ác, làm nên một trong những vở kịch mẫu mực của nền văn học kịch nói Việt Nam hiện đại.

Nguyễn Huy Tưởng đã chiêu tuyết cho Vũ Như Tô và phả vào lịch sử một tinh thần hoàn toàn mới, một mẫu thuẫn có tính phổ biến, mang ý nghĩa nhân loại và ông đã viết nên một khúc ca bi tráng về lương tâm của người nghệ sĩ trước đất nước và thời đại, và bi kịch của họ khi phụng sự trong một thời kì lịch sử suy tàn. Vũ Như Tô như là tiêu điểm của xung đột kịch khi được đặt trong tình huống ba lần bị giết bởi ý định có sẵn của vua, của quan và của lòng hận thù của dân bị cùng cực bởi Cửa Trùng Đài. Vũ Như Tô đâu muốn điều đó.

Vở bi kịch 5 hồi Vũ Như Tô mang vóc dáng và tầm cỡ của các vở bi kịch phương Tây, ngay từ đầu những năm 1940, đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của nền văn học kịch hiên đại. Có thể nói thể loại kịch xuất hiện ngay từ nửa đầu thế kỉ 20, cùng với phong trào thơ mới (1930-1945). Đó đều là sản phẩm của sự gặp gỡ giữa văn hóa phương Tây và phương Đông. Nhưng dường như thơ có sự bùng nổ đồng loạt và đông đảo hơn. Chỉ trong vòng 10 năm đã hình thành một thế hệ các nhà thơ mới. Ít nhất cũng là 44 người được đứng tên trong Thi nhân Việt Nam năm 1942. Ở thể loại kịch có khác. Cả thế kỷ 20 tính từ Tản Đà, Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ… đến những người viết kịch sau này như Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp… chỉ vẻn vẹn có 43 người. Trong đó Nguyễn Huy Tưởng là một tác giả thuộc lớp các nhà văn đi tiên phong. Và trong số 43 tác giả kịch ấy, nếu được chọn ra 5 người ở lớp tiêu biểu nhất thì phải kể đến Nguyễn Huy Tưởng. Và truyền thống văn học trong quá khứ của dân tộc ta lại chủ yếu phát triển loại hình ca kịch - kịch hát. Nói lên điều đó càng thấy thêm sự đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng cho văn học kịch hiện đại.

Điều đáng quý và đáng trân trọng nhất ở Nguyễn Huy Tưởng là sự thống nhất của lý tưởng xã hội, lý tưởng thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương và nhân cách sống của ông. Trong lịch sử văn học không một nhà văn nào liên tục viết nhật ký 30 năm liền từ 1930, khi ông 18 tuổi, đến 1960, chỉ dừng lại 2 tháng trước khi ông mất. Cảm ơn bà quả phụ Trịnh Thị Uyên cùng người nối dõi tông đường nhà văn Nguyễn Huy Tưởng – anh Nguyễn Huy Thắng đã gìn giữ cẩn thận và đầy yêu thương hơn 40 cuốn sổ nhật ký được viết ra và theo chân nhà văn đi qua bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vùng đất của xứ sở này. Họ đã gìn giữ tài liệu ấy từ năm 1960 để đến gần nửa thế kỷ sau, 46 năm sau, năm 2006, Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng đã được nhà xuất bản Thanh Niên công bố. Gồm 3 tập với khoảng 1500 trang sách. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng là một tài liệu lịch sử quý giá. Biết bao nhiêu con người, sự kiện được tỏa sáng bởi tấm lòng trung thực, chân thành và mình bạch của một con tim yêu thương luôn luôn đập giữa lòng thời cuộc, thể hiện sâu sắc mà sinh động một nhân cách cao quý và bình dị trong làng văn hiện đại. Ớ đó ta bắt gặp một Nguyễn Huy Tưởng đời thường vô cùng hiếu đễ với bậc sinh thành, như nghe tiếng kêu dứt ruột của ông: Mẹ ơi, có thấu lòng con. Tôi nhớ mãi những đoạn nhật ký buồn thương được ghi vào tháng 12 – 1942 khi Nguyễn Huy Tưởng ngóng chờ và mong đợi nhuận bút của cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long trì để làm quà dâng mẹ. Bà cụ lúc ấy đã ốm liệt giường và không ăn uống được gì nữa. Và những trang Nguyễn Huy Tưởng viết về bà Uyên, người vợ yêu quý của ông, vừa trang nhã vừa nồng thắm mà mỗi người đọc làm chồng như tìm được một phần mình trong đó. Nhưng nổi trội hơn cả là nỗi lo toan ưu thời mẫn thế luôn luôn thường trực và đau đáu trong ông. Đến cái ổ khóa nhà ông, ông cũng đặt theo năm Cách mạng Pháp 1789. Ngày 17/6/1960, già một tháng sau đấy thì ông mất, ông vẫn lo tình hình chính trị ở Á Châu…Trước những sai lầm của Cải cách ruộng đất làm cho xóm làng thêm xơ xác, ông đau đớn vô cùng. Ngày 16/6/1956 ông cho biết đã trực tiếp viết thư gửi Hồ Viết Thắng, một cán bộ cao cấp về công tác này để xin gặp. Nhưng Hồ Viết Thắng đã từ chối. Nếu cuộc gặp ấy xảy ra chắc chắn Nguyễn Huy Tưởng sẽ nói những điều ông viết trong Một ngày chủ nhật. Đức tính trung thực và ngay thẳng của Nguyễn Huy Tưởng trong tình bạn là biểu hiện cao quý nhân cách của một nhà văn, đặc biệt trong những giai đoạn sóng gió của thời cuộc. Ngày 14/12/1956: Tiền nong cho già đình thì thiếu, con lên sởi, lo vì công việc, lo cho bạn, không sao ngủ được. Cái nhóm Trần Lê Văn, Quang Dũng, Hữu Loan, Thanh Châu vắng vẻ chuyện trò. Ta nói thẳng với T.C… anh ta nói ta nặng vế trách Đảng. Nhưng có lo gì? Nghĩ thế nào nói thế. Anh em càng tin. Trước đó một ngày, nhật kí viết: Khi gặp đồng chí T.C, khi mình nói không nên có thành kiến với Nguyễn Hữu Đang, thì thiếu bình tĩnh ngay. Rồi quay sang vặc: Sao anh chỉ trách Đảng mà không trách bọn họ... Ta để việc này trôi đi ư?... Đã bao nhiêu người oan uổng vì những báo cáo không xác thực này. Thời gian đã đi qua 60 năm, bao nhiêu điều đã được nhận thức lại mà đọc những trang viết này vẫn cảm thấy nóng bỏng lòng trung thực, ngay thẳng của nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng đâu phải chỉ bị thôi thúc tình cảm giữa con người với con người. Đó không chỉ là kinh nghiệm mà còn là bản lĩnh chính trị của ông. Nhà văn đã từng tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ, Hội Văn hóa cứu quốc những năm trước Cách mạng, từng là một trong số những người đầu tiên xây dựng báo Tiền Phong bí mật từ tháng 6/1945. Người cất lên tiếng nói thẳng thắn ấy như vừa bước ra từ Hội trường quốc dân đại hội Tân Trào tháng 8/1945, từ Quốc hội khóa 1 năm 1946, từ những trang ký sự chiến trường rực lửa Thu đông 1947 và chiến dịch biên giới 1950. Biện chứng về truyền thống và thời đại, lịch sử và cách mạng dẫn dắt tư duy sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhật kí Tết Mậu tuất 1958 viết: T.H nói ăn cơm bây giờ thì phải phục vụ bây giờ. Có biết đâu ăn cơm bây giờ nghĩa là ăn cơm của cả tổ tiên và của cả con cháu. Nói thẳng, nói thật, nói có tổ chức, vì sự sống còn của lợi ích chung là phong cách của Nguyễn Huy Tưởng. Nếu ông im lặng chắc cũng chẳng ai trách ông. Nhưng nhân cách nhà văn không cho phép ông làm điều đó. Ông đã từng viết: Phải cao quý, hỡi nhà văn.

Tôi cho rằng một trong những nội dung quý giá nhất của Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng là những quan niệm của ông về sáng tác văn học cũng như trách nhiệm của người cầm bút. Ở đây hội tụ một chuỗi những suy tư, trăn trở mà Nguyễn Huy Tưởng đã chắt lọc từ trí tuệ, tâm hồn, máu và nước mắt của suốt một đời lao động nghệ thuật tràn trề say mê và đầy nghị lực của người nghệ sỹ. Những điều gan ruột ấy đã được ông viết ra từ rất sớm. Nhật ký ngày 24-12-1930, ông khao khát: làm chóng xong quyển truyện để tôi cống hiến cho quốc dân tôi, cho dân Việt Nam tôi, là dân mà tôi yêu một cách vô hồi, vô hạn. Nhật ký ngày 17-9-1931 viết: Corneille, Racine, Molière sở dĩ bất tử vì các nhà ấy phần lớn là nhà tâm lý học, thường trọng tình hơn trọng cảnh. Tả cảnh chỉ là cách làm cho sự tả tình đúng mà  thôi. Văn chương thuần tả cảnh không mấy lúc mà tiêu diệt. Dường như, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã làm ra theo tinh thần ấy. Nhật ký những năm kháng chiến chống Pháp nhiều lần đề cập đến quan niệm văn chương. Ngày 6-9-1949, bằng trực giác của mình, nhà văn đã sớm linh cảm thấy những điều chưa hiện rõ mặt đằng sau của cái mới: Ta muốn viết chế diễu một thứ bôn-sê-vích, đạo đức hẹp hòi, có cái vẻ Khổng Tử ngày xưa, xét nét về luân lý một cách chật hẹp. Nguyễn Huy Tưởng dường như đồng điệu với Nam Cao trong sự lo lắng người lãnh đạo không hiểu về Văn nghệ… Đến nhật ký ngày 6-7-1957, lo lắng này thể hiện càng rõ: Trong nội bộ Văn nghệ. T.H xem phim Anna, có hình ảnh người phụ nữ déscolletée (hở vai): bèn cấm! (…). Nhật ký ngày 2-2-1957 ông nhìn nhận đúng đắn vấn đề muôn thuở của sáng tạo văn học gắn bó với những vui buồn trăn trở của nhân loại mọi thời và vẻ đẹp vĩnh cửu của thi ca: Thơ Lý Bạch và cái hào khí của nhà thơ… Làm thơ tiễn bạn có phục vụ chính sách nào mà sao bây giờ truyền tụng? Ai truyền tụng những câu bảo vệ chính sách? Nên suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Phải đến cuối thế kỷ 20, những năm đổi mới, tức là hơn 30 năm sau, chúng ta mới nhìn nhận toàn diện vấn đề ấy. Nhật ký ngày 28-2-1957 cho thấy Nguyễn Huy Tưởng đã nhìn xa trông rộng được nhiều vấn đề của mấy chục năm sau: Tổng kết đại hội (Văn Nghệ). T.H lại bốc. Vẫn cái luận điệu cũ. Rào trước đón sau. Nói cần phải đoàn kết nhưng thực sự có đoàn kết được đâu. Hẹp hòi đến thế, hỏi tranh thủ sao được văn nghệ sỹ miền Nam.

Trong cuộc sống đời thường, Nguyễn Huy Tưởng luôn bày tỏ sự đồng cam cộng khổ với các bạn văn. Ông lo lắng cho Nguyễn Sáng, một họa sĩ có tài, trong kháng chiến chống Pháp từng vẽ giấy bạc cho Chính Phủ, vậy mà hòa bình không có thuốc để vẽ. Ông chia sẻ cảnh ngộ của Bùi Xuân Phái, nghèo túng chỉ mong có được một commande nào đó để có tiền nuôi vợ nuôi con. Và ông đặt câu hỏi: chế độ ta cứ để cho những nhân tài ấy sống mai một đi ư?… Nguyên Hồng rất yêu quí ông Tưởng, thường hay gọi đùa Nguyễn Huy Tưởng theo tên gọi một nhà văn nổi tiếng nước ngoài nói lạc đi là Mao Thuỗn. Là con mõ già của văn hóa cứu quốc. Là ông Chánh Hòa. Hồi ký văn học Những nhân vật ấy đã sống với tôi, in năm 1978, Nguyên Hồng đã viết ngay ở những trang đầu: Ngày xưa có… Trương Chi chỉ là cái cớ. Nguyên Hồng giành phần trang trọng nhất cho ông Tưởng: Một buổi đạp xe trên quốc lộ 1, đi qua giữa vùng chợ Dầu và chợ Lim - ông Chánh Hòa… người rất chi đôn hậu, rất chi say viết, ngồi “cắn” bàn như bắt vít vào ghế được anh em rất mến, cho biết: Có một khúc của sông Tiêu Tương chảy qua đây và gốc chuyện Trương Chi là ở đấy… Nguyễn Huy Tưởng có ý định sau này sẽ về làm nhà ở trên quãng di tích sông Tiêu Tương ấy để sẽ viết thêm tiểu thuyết và kịch lịch sử.

Ước mộng này của nhà văn đã không biết trước phải đổi mặt với thách thức cuối cùng cay nghiệt nhất của đời ông. Trong một tờ giấy nhỏ bằng lòng bàn tay đã ố vàng tôi được nhìn thấy Nguyễn Huy Tưởng ghi chương trình tháng 4 - 1960 có 5 việc đánh rõ thứ tự a, b, c, d, e. Mặt sau của tờ giấy ghi bằng tiếng Pháp tên một nhà văn phương Tây và giá một số quyển sách. Lưu ý đó không phải là tên thuốc. Đó là chương trình làm việc cuối cùng của nhà văn được ông viết trên giường bệnh. Như thể ông không để ý đến cái gì sẽ xảy đến. Như thể ông cố làm hết những việc cần thiết nhất ở dương thế này. Đó cũng là thể hiện nhân cách của một nhà văn đã sống hết lòng vì đất nước và nhân dân mình. Ngày 25/7/1960 (tức 2 tháng 6 âm lịch), Nguyễn Huy Tưởng thở hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Nhưng như Văn Cao trong bài thơ của ông ấy có tiêu đề Nguyễn Huy Tưởng đã viết Cái chết của anh cái chết một nhà văn - không bao giờ là cái chết.

Tôi đã sống ở Hà Nội chừng nửa thế kỷ rồi, không biết bao nhiêu lần đi qua hồ Tây mà không sao tìm được cái cảm giác của ông Nguyễn Tuân nghe chuông chùa Trần Quốc bồi hồi bên hồ, lại muốn bóng hồ trả lại cho Hà Nội hôm nay cái bóng mái cong những chín tầng đài ngày nọ - Cửu Trùng Đài. Lịch sử cứ thầm lặng đi qua mà chẳng bao giờ trở lại được nữa. Nhưng Cửu Trùng Đài ngày xưa đã sụp đổ mà không còn dấu tích gì nữa trong bóng mây bóng nước mặt hồ. Biết bao nhiêu thăng trầm hưng vong, hoang phế cuộc đời tưởng đã đi vào quên lãng cùng với sự vô tâm của thế thái nhân tình. Nhưng không. Có một miền ký ức lóng lánh ánh vàng của thời gian trong tác phẩm văn học của những văn tài. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng mà những chữ Vũ Như Tô như được thêu bằng vàng của thời gian sẽ còn lại mãi mãi. Bởi vì đó là vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam. Nó nhắc nhở và đưa ra lời cảnh báo cho mọi thời đại về những gì kỳ vĩ sẽ bị thiêu rụi nếu không vì những giá trị căn bản của con người. Nó chỉ ra bi kịch không thể tránh khỏi của những nhân tài, trong một xã hội suy tàn, mạt pháp và phi luân. Nhà văn không chỉ là chứng nhân của lịch sử mà còn là lương tâm của thời đại. Điều đó thật rõ ràng trong trường hợp của Nguyễn Huy Tưởng. Hơn thế nữa, ông còn là nhà văn hóa tiêu biểu của thời ông đã sống.

Nguyễn Huy Tưởng sinh 1912, con một người hàn sĩ ở xử Kinh Bắc; Mấy khóa thi đều hỏng cả, sớm phải về cõi âm, để lại Huy Tưởng khi mới lên 7 tuổi. Rồi cậu bé phải sớm lang bạt xứ người ở đất Hải Phòng. Cái mảnh đất mà Claude Bourrin, trong cuốn Bắc Kỳ xưa - một cuốn sách khảo cứu về sân khấu, thể thao, đời sống đô thị từ 1884 đến 1893 đã ca ngợi: khi đổ bộ xuống một xứ sở mới, người Anh chỉ biết xây dựng một ngân hàng thì người Pháp xây rạp hát. Và thành phố Cảng là nơi đầu tiên nền kịch nói phương Tây đổ bộ vào. Chính ở cái thành phố hoa lệ mà đầy những cạm bẫy người ấy, nhà văn của chúng ta đã học hành một cách nghiêm cẩn và thành người lớn ở đây. Ít nhất là cũng khác so với thời còn bé ở quê. Thời đó cậu bé quê làng Dục Tú còn rụt rè và thích làm thơ, thỉnh thoảng cùng người cháu họ trốn nhà đi Lý Nhân, Mai Động xem và chính ông cũng nhảy vào hát ống. Một thứ văn nghệ bình dân 100%. Ống sữa bò dán da ếch 2 đầu, giữa giăng dây chỉ. Trai gái hát đối với nhau, thường là những đêm trăng nông thôn Việt Nam bình dị quê mùa. Có lẽ cái chất hào hoa trong văn chương Nguyễn Huy Tưởng là sự hợp lưu của 3 dòng chảy văn hóa Kinh Bắc - thành phố Cảng và Thăng Long Hà Nội âm thầm hòa quyện vào nhau.

Sau năm 1960, không hiểu Nguyễn Huy Tưởng có về làm nhà trên đất huyện Tiên Du - một vùng lúa xanh rời rợi có sông Tiêu Tương chảy ngầm dưới đất như có lần ông nói với Nguyên Hồng hay không? Ở đó ông tiếp tục nghĩ suy và mách bảo một người nào đó trong số chúng ta ở thời đại bây giờ tiếp tục viết trên cảm hứng lịch sử về những chủ đề quá khứ cũng như hiện đại? Ai mà biết được? Tháng 10/1996, Nguyễn Huy Tưởng cùng với Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng… và nhiều người khác đến nơi trang trọng nhất của đất nước này để nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Lúc ấy Cửu Trùng Đài còn chưa tắt lửa sau lưng họ.

Tháng 5/2017

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ số 23 ngày 8-6 2017

Thông tin truy cập

63705848
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
3942
22198
63705848

Thành viên trực tuyến

Đang có 439 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website