Khi Tô Hoài nằm xuống, chúng ta tưởng như một cánh cửa đã đóng lại, niêm hẳn một thời dài mà Ông là chứng nhân đặc biệt.
Thật vậy, có ai được thọ tuổi đời, được nhiều trang viết, được đi qua bao triều đại, bão giông, mà vẫn minh mẫn, tinh tường, tràn đầy cảm hứng, ngồn ngộn chất sống như Tô Hoài?
Mùa hè năm ngoái, trước thời khắc này mười hai ngày, Tô Hoài vĩnh biệt chúng ta. Trước đó một năm, chúng tôi chạy đua với thời gian trong bộn bề công việc, trong hoài thai, sinh nở để mong có thêm một luận văn nhỏ tổng kết về đời văn Tô Hoài, cây đại thụ của ngôi làng văn học Việt Nam, nhưng đã muộn.
Nhà văn đã không chờ một người nghiên cứu trẻ ở phương Nam tìm đến gặp, xin được hầu chuyện văn chương và trình lên sản phẩm nghiên cứu đầu tay của mình, Ông đã ra đi ở tuổi chín mươi tư.
Hôm nay, thầy trò chúng tôi cùng may mắn có mặt ở đây để tưởng niệm Tô Hoài, nói với Ông về những điều chúng tôi nhận được từ di sản của Ông.
Chúng tôi muốn thưa với Tô Hoài rằng, chọn con đường giảng dạy và nghiên cứu văn chương, chúng tôi mỗi ngày như được nuôi dưỡng bằng chất sống là tác phẩm. Tô Hoài đã cung cấp cho chúng tôi dưỡng chất ấy, nhiều và bền bỉ, lặng thầm như nước mội nuôi cây.
Đã nửa thế kỷ qua, từ ngày tôi được cầm trên tay Dế mèn phiêu lưu ký, O chuột, Quê người, Xóm Giếng ngày xưa...Ký ức của cô bé mười tuổi thuở ấy còn nguyên vẹn tiếng gù của vợ chồng đôi gi đá (Đôi gi đá); mùi hương của đóa ngọc lan anh Hời ném vào ô cửa hẹn hò với Ngây, cảm giác kinh sợ và xót xa với bà cụ Vạng mù mớm cơm cho cháu (Quê người); hình ảnh của anh cu Lặc vỗ bụng hát ông ổng khi no và không dám ăn canh miến vì “ăn ló tơn tơn quá, chưa luốt đã tụt vào củ tỉ” (Cu Lặc)...
Bắc Bộ xa xôi hiện lên đầy ám ảnh và trở nên thân thuộc, nhờ Ông.
Từ thuở ấy, những chân trời mở ra, những con người gặp gỡ, Việt Nam, Đất nước, Dân tộc trở thành một thực thể ruột rà ăm ắp yêu thương.
Nhưng Tô Hoài có nói gì to tát đâu, Ông chỉ mải miết nhìn và mải miết ghi, nhẩn nha và gấp gáp, nghiêm trang và hài hước, hồn hậu và tinh quái, càng ngày càng lão thực trong đời sống và lão luyện trong nghề văn.
Dù không thần bí hóa văn chương, tôi vẫn không thể không thích thú với ý nghĩ rằng bản mệnh của Tô Hoài gắn với thần Hermès (Mercury)[1]: Tính cách linh hoạt, trải nghiệm thẳm sâu, phong cách lão luyện. Ở Ông, cái bẩm sinh gắn liền với cái chuyên nghiệp, cái chữ nghĩa gắn liền với cái đời thường.
Đó là tính trời. Còn nết đất?
Sẽ phải có nhiều ngày, nhiều suy tư, nhiều trang viết để nói về một Hà Nội làm nên Tô Hoài. Ở đây, tôi muốn nhấn mạnh đến sự kết tụ và kết tinh, âm thầm, tiềm tàng, kiên nhẫn qua bao năm tháng: phù sa văn hóa mà vùng đất này có được. Phù sa ấy được bồi đắp theo một nhịp vận hành hài hòa tự nhiên, không thủy điện, không cơ giới. Tô Hoài đã may mắn sinh ra và lớn lên nơi ấy, hút đậm phù sa từ thuở thiếu thời. Mảnh đất ven đô cho ông điểm nhìn từ cái giáp ranh của đời: Ông thấm vào mình cái hơi thở tĩnh lặng của đất đai làng mạc đồng thời lại nhạy cảm với cái nhịp đập hối hả, cái tâm thế xao xác của thị dân.
Xuất hiện vào thập kỷ cuối của giai đoạn văn học 1932-1945, Tô Hoài đến muộn, trong cái làng văn khá nhiều chữ nghĩa đang khát khao khối tri thức sang trọng hiện đại của trời Tây. Ông là con nhà thợ cửi, là dân làng dệt. Về phương diện nghề nghiệp, Ông không có cái lợi thế của con nhà dòng dõi, của trí thức trường lớp. Từ cái giáp ranh của nghề, Tô Hoài bước vào trung tâm đời sống văn chương, định vị mình bằng con đường tự học (luôn quan sát, đọc và ghi chép lại), bằng việc tiếp tục khai thác cái tình thế đặc biệt của mình (làm nhiều việc khác nhau tất cả đều có thể trở thành vỉa quặng cho trang viết của Tô Hoài).

Như vậy đó, cái nội lực văn hóa của miền đã kết hợp với thiên hướng và hoàn cảnh cá nhân của Tô Hoài. Nhưng chưa đủ, tôi muốn nói đến cái nội lực văn hóa của thời mà Ông đã sống.
Thời mà Tô Hoài đi qua, chỉ còn 5 năm nữa là vừa chẵn 100 năm. Ông đã trải một thời dài, quá nhiều biến cố mà hiếm có nhà văn nào có được. Ai trong chúng ta thâm cảm nó bằng Ông? Ngày Ông biết nhìn, biết nhớ, nó đã là thuộc địa. Xã hội Việt Nam hiện đại hóa trong khổ nhục. Văn minh phương Tây áp vào quê hương Ông tạo ra những biến thiên chưa từng thấy. Và khát vọng ra đi đạp đất đội trời (Dế mèn phiêu lưu ký, 1941), ước muốn từ một cái tôi cá nhân biết có những chân trời. Và Xóm Giếng êm đềm trở thành cái của ngày xưa, trong xu thế đô thị hóa của kinh tế thị trường. Và những kiếp người nhao nhác trong mưu sinh, trong loạn lạc, sống đắp đổi, tạm bợ như những mảnh bèo trôi (Cỏ dại, Quê người, Chuyện cũ Hà Nội). Và rồi hai cuộc chiến tranh trong dẫn dắt của ý thức hệ cộng sản, những phong trào, những “đổi đời” lớn lao từ núi rừng (Mười năm, Truyện Tây Bắc) đến thủ đô (Những ngõ phố), những trải nghiệm không tưởng nổi một thời ở vùng nông thôn Bắc Bộ (Ba người khác) và những ký ức chi chít về đời sống văn chương (Cát bụi chân ai, Chiều chiều)...
Lực hút của thời cuộc đã đưa Tô Hoài đứng giữa giòng, đi nhiều nơi, thấu cảm nhiều cảnh ngộ. Ông có hơn nửa thế kỷ giữ nhiều trọng trách xã hội bên cạnh việc cúi mình trên trang viết. Và chính lực hút của chữ nghĩa chiếm ưu thế mạnh hơn trong ông, đã giúp Ông biến thời cuộc thành nội lực văn hóa của thời. Với Ông, thời cuộc cũng là một phần của đời sống. Thời cuộc ẩn sâu trong sinh hoạt, tâm tư, lời ăn tiếng nói của con người chứ không nhảy lên thành công thức, không khuôn mình thành luận đề. Luôn cúi mình lắng nghe tiếng rì rầm của xã hội của tự nhiên, thế giới văn chương của Tô Hoài nổi lên theo lực hút của đám đông, một đám đông như cỏ, nhỏ nhoi, cộng sinh, thuận theo tự nhiên. Một đám đông không mờ mờ nhân ảnh mà rõ rành, sắc nét từng cá thể, bởi vì họ sống thực, sống tự nhiên cuộc đời của họ. Và Tô Hoài luôn bị hấp dẫn bởi cái thực, mộc và tự nhiên đó...
Thuận thiên, và yêu cái tự nhiên, hình như ấy là cốt cách sống và quan niệm nghệ thuật mà Tô Hoài đã có và thể hiện trong suốt cuộc đời mình, từ những trang viết đầu tay cho đến trang viết cuối cùng. Nếu nghĩ kỹ, thật khó xếp Tô Hoài vào một trào lưu nào: hiện thực hay lãng mạn? xã hội hay phong tục? Không ngả sang duy mỹ, không trau chuốt ngôn từ theo trào lưu lãng mạn thời 1932-1945; tránh được phần lớn lối khái quát hóa của trào lưu hiện thực và xu hướng sử thi, hình như Tô Hoài vượt ra ngoài các khung định sẵn.
Các cốt truyện của Ông thường không chặt chẽ, ít mang tính luận đề như rất nhiều tác phẩm văn học Việt Nam thế kỷ XX. Khả năng vượt khung này hình như cũng vừa là tính cách, vừa là phong thổ. Có thể nhớ đến hai khuôn mặt tiêu biểu của văn chương Hà Nội: Tô Hoài và Nguyễn Tuân. Cả hai đều xuất hiện muộn (những năm 40 của thế kỷ XX), đời văn dài, đều giỏi nhặt nhạnh những điều cụ thể, tài hoa trong chi tiết và giọng kể. Nhưng đó là hai phong cách hoàn toàn khác nhau, nếu không muốn nói là đối nghịch: Một neo giòng/ một hoài cổ; một ngồn ngộn đời thường/ một chạm khắc kỳ khu; một dõi theo muôn mặt chúng sinh trong kiếp đời lao khổ/ một hứng thú với những nhân dáng đặc biệt, những tình huống đắt, ngợi ca cái đẹp và thú vui; một dung dị, thản nhiên, thoáng giễu cợt khiêm nhường/ một cầu kỳ, nghiêm trang mà ngông nghênh, kịch tính. Nhưng “Anh hùng đoán giữa trần ai mới già” (Truyện Kiều), Nguyễn Tuân có lúc bảo là Tô Hoài mới là người có méthode.[2]
Từ truyện ngắn, tiểu thuyết đến tạp văn, Tô Hoài duy trì được cái cách kể kề cà xộc xệch rất hiện đại, phả được tiếng rì rầm phồn tạp và cái nhịp điệu tự nhiên của đời sống. Những mở đầu và kết thúc thường lửng lơ, đột ngột. Phần lớn các nhan đề của Ông cũng toát lên cái dung dị tự nhiên ấy. Này đây không gian: Quê nhà, Quê người, Những ngõ phố, Chuyện cũ Hà Nội, Cát bụi chân ai; này đây thời gian: Chiều chiều..; này đây muôn mặt chúng sinh: Mẹ mìn bố mìn, Kẻ cướp bến Bỏi, Giấc mộng ông thợ dìu, Ba người khác... Càng về già, ngôn ngữ văn chương của Tô Hoài càng trĩu nặng phù sa văn hóa sông Hồng. Ông cứ nói miên man từ chuyện này sang chuyện kia, cấu trúc câu ngoắt ngoéo với tầng tầng lớp lớp từ ngữ mới/ cũ, của đường phố/ làng quê, của đối thoại/ độc thoại: Tô Hoài say kể và chúng ta say nghe, chăm chú mà nhẹ nhõm...
Đặc biệt, ngay từ những trang viết đầu tay của tuổi đôi mươi, như Cỏ dại, đã hằn lên một phong cách quan sát và tự quan sát cực kỳ tinh tế và một khả năng biểu hiện cực kỳ rõ rành, tỉnh táo, không ve vuốt, không nương nhẹ. Ở đó Tô Hoài đã thể hiện khả năng tự phân tích, tự phê phán và tự giễu nhại. Nhân vật tôi xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm của Tô Hoài, đi cùng với các nhân vật đám đông của Ông, dân dã và đôi khi nhếch nhác, di chuyển và trò chuyện trong giòng chảy của lịch sử, trong các biến thiên của thời cuộc. Nhưng ở đó nhà văn không kêu lên tha thiết: “Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi. Cùng đổ mồ hôi cùng sôi giọt máu” (Xuân Diệu, Những đêm hành quân) mà thường nói thật cái chút lưỡng lự, chút tính toán tinh ranh nhỏ bé trong mình, trong người, và thường tự giễu mình, giễu người, trong mỗi khi chọn lựa. Đứng giữa giòng mà vẫn chăm chú với cái ngoại vi, dấn mình vào cõi nhân sinh mà vẫn thiết tha với thế giới tự nhiên. Tô Hoài như vậy hiện đại và dân chủ. Từ xu thế chung, Vũ Ngọc Phan và Vương Trí Nhàn cho Ông là có cái nhìn khinh bạc và hư vô. [3]
Nhưng văn chương Tô Hoài sẽ còn mãi, xanh biếc theo thời gian. Vì nó lưu giữ cho chúng ta đời sống. Vì nó phả lại nhịp đập của lịch sử. Vì nó nói lên câu chuyện muôn đời của kiếp nhân sinh. Sẽ còn có ai sau Tô Hoài làm công việc ấy cho thời này của chúng ta hôm nay?
Nhớ đến Tô Hoài hôm nay, là nhớ đến một người văn và một đời văn tủm tỉm nụ cười. Nụ cười ấy vừa trẻ thơ láu lỉnh vừa lão thực trầm tư. Ông không mang lại cái nhìn ngạc nhiên, Ông ít tạo nên kịch tính vậy mà trang viết của Ông vẫn cứ tươi mới, vẫn cứ đầy ắp những giao cảm âm thầm. Bằng cuộc đời và trang viết, Tô Hoài như nói với chúng ta rằng: “Cuộc đời là như vậy đấy. Ai gắn bó và yêu thương nó thực thà, sẽ luôn tràn đầy cảm hứng.”

SG, 5-7-2015
NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
[1] Theo thần thoại Hy Lạp, “thần Hermès là thần bảo hộ cho kẻ trộm, người du lịch, các sứ thần, mục đồng và chăn nuôi, người thuyết trình, thương nghiệp, khoa học kỹ thuật, văn chương và thơ, các đơn vị đo lường, điền kinh, thể thao, sự khôn ngoan, lanh trí, và các phát minh, sáng chế, ngôn ngữ...” nguồn: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hermes
Dẫn nguồn ngày 5-7-2015.
-Tô Hoài sinh ra trong một gia đình thợ thủ công, từng dạy học, bán hàng, kế toán hiệu buôn, phóng viên, chủ nhiệm báo Cứu Quốc, Tổng thư ký Hội nhà văn Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội...
[2] Theo lời kể của Vương Trí Nhàn trong "Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du": “Hồi sinh thời Nguyễn, có lần tôi đánh bạo hỏi, thì được cụ trả lời: – Mình làm việc có mê-tót gì đâu! Có mê-tót, phải là sừ Tô Hoài”. Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/to-hoai-va-nhung-nghiem-chinh-…/, dẫn ngày 5-7-2015.
[3] Vũ Ngọc Phan (1960) Nhà văn hiện đại , Nxb. Thăng Long, Sài Gòn, tr.1118: “Về sau, người ta thấy những truyện ngắn của ông trong Tiểu thuyết Thứ Bảy hơi đá giọng trào lộng và khinh bạc...”
Vương Trí Nhàn, Bđd: “Có một thoáng gì đó, như là một chút hư vô trong con người thực dụng Tô Hoài chăng? Một nhận xét như thế là đầy mâu thuẫn, nhưng biết sao được, con người mỗi chúng ta trong những năm này bị bao sức mạnh xâu xé, kể sao cho xiết! Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/to-hoai-va-nhung-nghiem-chinh-…/, dẫn ngày 5-7-2015.

Tài liệu tham khảo:
1.Vũ Ngọc Phan (1960), Nhà văn hiện đại, Nxb. Thăng Long, Sài Gòn.
2. Vương Trí Nhàn (2005), Cây bút, đời người [Tô Hoài và những nghiêm chỉnh của kiếp phù du] Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

Nguồn: Tham luận tại hội thảo do Hội nhà văn Hà Nội tổ chức, kỷ niệm một năm ngày mất của Tô Hoài (2015).

Tôi gặp anh lần đầu tiên vào đầu năm 1974 ở căn cứ Xuyên Trà (Quảng Nam), lúc đó tôi là một đứa học trò lớp 11 đang tham gia hoạt động cách mạng bí mật ở Đà Nẵng, thỉnh thoảng lên chiến khu nhận nhiệm vụ. Anh thì vừa ở tù Côn Đảo về trong đợt trao trả ở Lộc Ninh, từ cơ quan Khu ủy 5 xuống, chân vẫn đi khập khiễng do bị bắn gãy hồi Mậu Thân và bị tra tấn trong tù, mặt thì thâm đen do sốt rét. Bài học chính trị đầu tiên tôi được học là từ Phan Duy Nhân. Đó là thứ chính trị được nói bằng cả tâm hồn, trí não và thân xác, thỉnh thoảng sùi bọt mép, nó hào sảng bay bổng như thi ca. Từ lâu tôi không còn được nghe thứ chính trị hấp dẫn như thế nữa.

Lần đó tôi được kết nạp vào Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng, về lại thành phố mang theo cái huy hiệu Đoàn nhét trong lai áo và bản hùng ca sùi bọt mép của anh trong tim. Lúc đó mà vì cách mạng phải đi vào chỗ chết thì còn sung sướng hơn lên thiên đường. Cuối năm đó, tôi bị lộ phải thoát ly. Ngày 30 Tết, anh từ căn cứ của Khu băng rừng xuống, anh bảo xuống cho kịp giao thừa để mừng tôi lên chiến khu, nhưng đến nơi thì trời đã sáng. Anh tặng tôi một bó hoa rừng.

Khi Đà Nẵng giải phóng, tôi cùng làm việc với anh một đoạn, còn gặp gỡ thì nhiều. Trong đợt thi tú tài đầu tiên do chính quyền cách mạng tổ chức năm 1975, anh bảo tôi nộp đơn thi, tôi không chịu, nói cách mạng cần thực học chứ cần gì bằng cấp, anh mắng tôi nói bậy, bảo làm gấp hồ sơ để anh mang đi nộp, còn thi hay không thì tùy. Tôi nói tôi không có giấy tờ gì hết, khai sinh trước đây đi học thì khai nhỏ đi 1 tuổi, đối với cách mạng không dùng thứ giấy tờ “gian” ấy được. Anh hỏi tôi sinh ngày nào năm nào, tôi nói tôi biết năm chứ không biết ngày tháng. Anh đã tự tay làm cho tôi một giấy khai sinh, ghi đúng năm tôi nói, còn ngày tháng thì anh tự đặt. Tôi chính thức có ngày sinh tháng đẻ kể từ đó.

Những ngày đầu sau giải phóng, anh ăn ngủ cùng tôi ở cơ quan, đến khi giải phóng Sài Gòn anh mới đón vợ anh là chị Dương Thị Ngân Hà và con gái Phan Dương Triều Tân khi ấy 9 tuổi về đoàn tụ. Đối với đám “trẻ con” chúng tôi theo cách mạng hồi ấy, Phan Duy Nhân là thần tượng. Anh chắp cánh cho những tâm hồn ngây thơ trong trẻo của chúng tôi. Từ anh mà ngay cả việc lãnh lương hàng tháng chúng tôi cũng thấy mình không trong sáng. Và cũng vì sự ngây thơ trong trẻo dài lâu ấy mà trong chúng tôi, nhiều người tiếp tục cầm súng ra biên giới sẵn sàng hy sinh để giữ nước, những người còn lại đều “lên bờ xuống ruộng” và dù có “lên bờ xuống ruộng” vẫn tiếp tục “cố thủ” sự trong trẻo ngây thơ của mình.

Anh là một thi sĩ, tất nhiên rồi. Anh còn có học vấn uyên bác và là nhà chính trị đầy mưu lược, nhưng trên hết anh là con người hào hiệp, tinh tế và quật cường. Năm 1966, trong sự kiện nhân dân Đà Nẵng làm chủ thành phố 76 ngày, anh giữ vai trò như là một “chính ủy”, sự kiện đó được Bí thư thứ nhất Đảng Lao động VN Lê Duẩn tổng kết làm bài học nhân dân nổi dậy giành chính quyền.

Năm 1968, anh từ chiến khu xuống Đà Nẵng dẫn đầu cuộc biểu tình lớn, bị cảnh sát chính quyền Sài Gòn bắn gãy chân. Họ bắt anh vào tù, rồi cầm cái chân gãy của anh quay tít để tra tấn, nhưng mỗi lần hỏi cung, anh chỉ đáp lại một bài thơ kiên trung bất khuất. Anh bị đày ra Côn Đảo 6 năm, cho đến khi được trao trả, người còn đầy những vết tra tấn.

Giải phóng xong anh vẫn ở cơ quan Khu, khi Khu giải thể anh mới về tỉnh. Tôi biết ông Hồ Nghinh, Bí thư Tỉnh ủy QN-ĐN lúc đó nhiều lần đề nghị đưa anh vào vị trí này vị trí kia của tỉnh, nhưng tỉnh không dung nạp. Người ta đưa anh về làm cán bộ Mặt trận của thành phố Đà Nẵng, lúc đó chỉ là cấp huyện. Trong một cuộc họp về tôn giáo vận của Trung ương anh được cử đi dự, sau khi nghe anh phát biểu, những ý kiến sắc sảo và có tầm cỡ của anh về tôn giáo đã lọt vào “mắt xanh” ông Nguyễn Văn Linh, lúc đó là Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Dân vận Trung ương.

Ông Nguyễn Văn Linh đã “xin” anh về Ban Dân vận Trung ương, tỉnh không “cho”, nhưng lập tức rút anh lên bổ nhiệm làm Phó ban Dân vận Tỉnh ủy. Khi ông Nguyễn Văn Linh lên làm Tổng bí thư, anh được điều ra Hà Nội làm Phó ban Tôn giáo Chính phủ, rồi Quyền Trưởng ban. Lúc Thủ tướng ký quyết định bổ nhiệm làm Trưởng ban Tôn giáo chính phủ thì “phát hiện” một đơn tố cáo anh có chuyện này chuyện khác lúc còn ở tù, Chính phủ đã tạm dừng cái quyết định đó lại để điều tra, sau 1 năm rưỡi điều tra, kết luận nhân vật bị tố là một người khác, chỉ trùng tên với anh thôi. Trong thời gian điều tra, Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ được giao cho một người khác. Những chuyện như vậy không làm cho anh bận tâm, anh đứng cao hơn các chức tước.

Ngày xưa anh có nhiều bạn bè là các văn nghệ sĩ nổi tiếng ở miền Nam. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường là người được anh “kéo” đi tham gia cách mạng, tôi biết chuyện đó vì có lần anh viết một cái giấy xác nhận nhờ tôi đánh máy giúp.

Nhà văn Phan Nhật Nam, tác giả “Mùa hè đỏ lửa”, là bạn thân của anh, cùng với Trần Dạ Từ, Nhã Ca và nhiều người có tiếng tăm khác. Vào năm 1970, khi anh đang bị tù ở Côn Đảo, ông Phan Nhật Nam đang là sĩ quan quân đội VNCH, viết cuốn sách “Ải trần gian”, ghi ngay trang đầu: “Tặng Phan Duy Nhân, kẻ hào kiệt”. Bộ Thông tin chiêu hồi VNCN đã yêu cầu ông Nam đục bỏ dòng chữ đó trước khi in, nhưng ông nhất định không chịu.

Chính ông Phan Nhật Nam đã kể lại chuyện đó trong một bài viết hơn 10 năm trước. Nhưng cũng trong bài viết này, ông Phan Nhật Nam lại nói những điều không hay mấy về anh sau ngày hòa bình, những chuyện mà ông Nam nghe kể lại tam sao thất bổn, trong đó có thái độ của anh đối với viên cảnh sát từng tra tấn mình và chuyện tài sản của anh khi làm ở Ban Tôn giáo chính phủ. Vì anh thường nói với tôi những lời tốt đẹp về ông Phan Nhật Nam, nên tôi có hỏi anh đọc bài đó chưa, anh bảo anh đọc rồi và nói “do nó hiểu nhầm” thôi, chẳng thấy anh bực tức. Phan Duy Nhân không bao giờ thuộc hạng tiểu khí.

Về câu chuyện đối với viên cảnh sát, chính tôi là người chứng kiến. Anh đã vô tình gặp lại người này tại nơi tập trung tù binh sau giải phóng, anh chỉ đến bắt tay như bắt tay một người quen, chẳng hề tỏ ra một chút gì là kiêu ngạo của người chiến thắng. Sau khi người này đi học tập về, anh có đến thăm và cùng ăn một bữa cơm. Còn chuyện tài sản, tôi là người biết đến tận đáy những gì anh có. Anh suốt đời đi mây về gió, khi hòa bình rồi, một tay chị Ngân Hà lo cho cả gia đình, gồm cha già và người mẹ mắc bệnh điên của anh. Phần lớn tiền lương của anh gửi về phụ giúp gia đình, anh sống kham khổ như một thầy tu.

Khi còn làm Quyền Trưởng ban Tôn giáo Chính phủ, lúc đó tôi sống ở Hà Nội, thỉnh thoảng anh đến nhà tôi chơi, ngủ lại trên một chiếc ghế. Có lần anh hỏi xin tôi 700 ngàn đồng để giúp một người quen đang gặp cảnh ngặt nghèo, đến bây giờ tôi vẫn còn ân hận vì lúc đó tôi cũng nghèo rớt mồng tơi, phải rất là lâu tôi mới tìm được cho anh số tiền đó.

Biết anh khó khăn, những lần anh gửi thơ đăng trên báo Thanh Niên, anh Nguyễn Công Khế dặn phải chấm nhuận bút cho anh với mức cao nhất. Sau khi anh về hưu, một thời gian khá dài anh đến ở chùa Non Nước nuôi mẹ, thỉnh thoảng mới về nhà, cho đến khi mẹ qua đời thì anh không còn mạnh khỏe nữa. Lâu lâu chúng tôi lại san sẻ cho anh một chút nhuận bút để anh phụ vào khoản thuốc men khi đau ốm. Anh Nguyễn Công Khế thỉnh thoảng cũng gửi cho anh một ít tiền, nhiều bạn bè khác cũng vậy. Tôi phải nói những điều không nên nói như thế này để những ai có ác ý không nên nói những gì mình không biết.

Trước đây tôi có viết loạt bài về thiền sư Lê Mạnh Thát đăng trên báo Thanh Niên, là do anh “xúi”. Thầy Thát cùng với thầy Tuệ Sĩ từng bị chế độ mới kết án tử hình, sau đó giảm án xuống còn chung thân và thụ án 14 năm tù. Anh nói, luật pháp hồi đó không kết án tử hình không được, nhưng khi tuyên án rồi thì lãnh đạo cao nhất của Đảng yêu cầu phải tổ chức vận động xin giảm án cho hai thầy.

Thầy Thát sau này được ông Võ Văn Kiệt rất coi trọng, thường cùng nhau đàm đạo nhiều chuyện lớn, tôi thường xuyên đến chỗ ông Võ Văn Kiệt nên biết rõ. Việc tổ chức thành công Đại hội Phật giáo thế giới tại Việt Nam (Vesak) là công lớn của thầy Thát. Anh dắt tôi đến gặp thầy Thát nhiều lần, tôi thấy giữa họ là tri âm tri kỷ. Vị thiền sư này từng là một nhân vật “nhạy cảm” đối với báo chí, anh bảo nhân việc thầy Thát chủ trì tổ chức sự kiện Vesak mà giới thiệu những công trình nghiên cứu của thầy là tốt nhất, nó chỉ có lợi cho đất nước mà thôi.

Anh 3 lần dắt tôi đến gặp Hòa thượng Thích Trí Quang ở chùa Già Lam. Ban đầu tôi rất ngạc nhiên khi thấy thầy Trí Quang dịu dàng coi anh như người thân. Có lần anh và tôi đến sau khi anh mổ tim, thầy Trí Quang đưa anh một gói nghệ, bảo đây là nghệ núi rất tốt cho sức khỏe, rồi hướng dẫn anh chi li về liều lượng và cách dùng. Thầy Trí Quang ẩn trong chùa từ năm 1966. Sau năm 1975 thầy giữ thái độ trung tính với chế độ mới, không ủng hộ cũng không chống đối và không để các đệ tử của mình tham gia chống đối.

Sự kiện 76 ngày năm 1966, thầy Trí Quang là người “kích ngòi nổ” phong trào đấu tranh của Phật giáo. Về phía cách mạng, Phan Duy Nhân là người khai thác “ngòi nổ” này để đẩy thành cao trào. Hai người biết rõ nhau từ hồi đó, lòng họ đủ rộng để có thể dung nạp nhau. Các vị chức sắc các tôn giáo khác, có thể có những khác biệt về chính kiến, nhưng tôi biết hầu hết đối với anh đều trọng thị.

Tôi rất thích thơ anh, anh chép thơ đưa cho tôi rất là nhiều. Có khi tôi đang ngủ, anh dựng dậy tìm kính tròng vào mắt tôi để tôi xem bài thơ anh vừa viết. Anh chưa bao giờ có ý định đi theo nghiệp văn chương thơ phú, có lẽ anh làm thơ để tự cân bằng cuộc sống của mình. Nhiều bạn bè của anh bảo họ chỉ thích anh làm thơ, không thích anh làm chính trị. Tôi thì nghĩ khác. Thơ anh là con người anh, chính trị cũng là con người anh, hai thứ đó cộng lại mới thành cuộc đời anh.

Nghe tim đập ở Nam Hà

Lẻ loi tiếng đục giao hòa tiếng trong

Sau mình gặp lại nhau không

Thương câu mái đẩy mềm trong điệu chèo…

(Bồi hồi qua Huế nhớ quê – PDN)

Thơ anh sau này mượt mà như thế đó. Nhưng thoạt kỳ thủy là thơ buồn: “Con mèo đen bò qua cửa sổ/Nỗi buồn leo lên tương lai”. Khoảng giữa là thơ tình nổi trôi cùng vận nước. Thơ trong tù là khí phách nhưng không giấu khát vọng bình thường của một chàng trai trẻ: “Em ơi chiều đó dầm chân xuống/Dòng nước sông Tranh mát rợi người/Những nụ hôn thầm trong gió núi/Gửi về có tới được xa xôi…”.  Mấy chục năm sau hòa bình là thơ mông lung: “Chưa lau sạch chân em vào áo trận/Để giữa lầm than em hóa được thiên thần”. Đôi lúc còn phảng phất súng gươm xen mùi kinh kệ: “Thuở trước thiền sư làm chính ủy/Câu thơ đến giờ còn mang gươm”. Nói chung, thơ anh sau hòa bình đa tình, đa mang, day dứt, bất định.

Phan Duy Nhân trọn đời không làm điều gì để phải ân hận, để phải sám hối phải phản tỉnh. Anh không để lại tài sản gì cho con cháu ngoài niềm kiêu hãnh làm người. Con gái lớn Phan Dương Triều Tân có gia đình ở riêng, vợ chồng con gái út Phan Dương Hồng Chuyên sống cùng ba mẹ và trực tiếp chăm sóc ba mẹ cho đến ngày cuối cùng.

Khi chị Ngân Hà mất, toàn bộ số tiền phúng điếu được khoảng 100 triệu đồng, cháu Hồng Chuyên đã mang 80 triệu đồng góp vào quỹ học bỗng Nguyễn Thái Bình của báo Thanh Niên, số còn lại giúp cho trẻ em khuyết tật.

Từ lâu nay cháu Hồng Chuyên vẫn cùng các bạn bè của mình thầm lặng giúp đỡ, chia sẻ với những cuộc đời bất hạnh, cháu là niềm tự hào của anh chị. Chị Hà mới mất cách đây mấy tháng, hơn 1 năm trước cô con gái giữa Phan Dương Hải Triều cũng đã ra đi. Vì anh bệnh nặng khi tỉnh khi mê nên không ai cho anh biết hai cái tang quá lớn đó, đến khi biết thì anh không còn gượng dậy được nữa…

Hoàng Hải Vân

Nguồn: http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri-c-80/vinh-biet-anh-phan-duy-nhan-66733.html

Theo tin từ nhà báo Vũ Kim Hạnh, nhà thơ Việt Phương - tác giả tập thơ Cửa Mở nổi tiếng một thời - vừa qua đời tại Hà Nội lúc 8g50 sáng nay, 6-5-2017.

Nhà thơ Việt Phương sinh năm 1928, tên thật là Trần Quang Huy, đậu tú tài thời Pháp thuộc. Năm 17 tuổi, ông tham gia hoạt động bí mật chống thực dân Pháp, từng bị bắt giam.

Ông là thư ký của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từ năm 19 tuổi.

Chúng ta biết rằng, năm 1945 – 1946, Hội Văn hóa Cứu quốc Việt Nam gắn liền với tạp chí Tiên phong (24 số từ 10.11.1945 đến 1.12.1946) còn Hội Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi có bán nguyệt san Tiến hóa (số 1, 15.11.1946). Cũng như Tiên phong, Tiến hóa là chứng từ bước đầu hình thành không gian văn nghệ của thời vận mới.

Thông tin về tờ Tiến hoa khá lờ mờ. Từ điển thư tịch báo chí Việt Nam của Nguyễn Thành (2001) miêu thuật vài chi tiết, nơi xuất bản, cơ quan chủ quản, chủ nhiệm và năm xuất bản. Chỉ vậy thôi. May mắn tôi được nhà sưu tập Tạ Thu Phong (Hà Nội) chụp giúp ấn ảnh tờ Tiến hóa số 2 (1.12.1946). Từ một số báo duy nhất không đủ để khảo tả trọn vẹn diện mạo tờ báo nhưng tạm thời có thể hình dung dáng nét của tờ báo tuổi đời khá ngắn ngủi, chỉ chừng hai ba số là cùng. 

Hình: Tiến hóa số 2 (1.12.1946).

Trước hết là kể đến trang bìa. Măng-sét gồm quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm thứ 2” bên trên, tên tờ báo “TIẾN HÓA” chính giữa, tên cơ quan chủ quản “Cơ quan Vận động Văn hóa mới” bên dưới. Giữa trang, mục lục nội dung bài vở bên trái, số “2” đi cùng ngày tháng phát hành “1.12.1946” bên phải. Phần dưới cùng chạy dòng chữ “Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi xuất bản”.

Và ở trang 2 chi tiết hơn: “(...) ra ngày ngày 1 và 16 mỗi tháng. Nguyễn Tấn Đức chủ nhiệm, Nguyễn Hóa thư ký tòa soạn [và kiêm quản lý]”. Ban biên tập gồm: Nguyễn Viết Lãm (Hạnh Đàn), Nguyễn Hoằng (Vĩnh Mai), Nguyễn Văn Châu, Võ Thủ Tịnh, Hoàng Vinh, Trực Ngôn, Mai Xuân Cảnh, Xuân Lộc, Trần Mai Ninh, Lê Văn Nhiễu, Lao Tùng, Tuệ Bình, Hồ Văn Điềm, Hoàng Phúc và cô Võ Thị Như Lệ. Trình bày Lao Tùng và Dương Đức Sơn. Và đường lối cũng như tôn chỉ tờ báo: “Là nơi gặp gỡ của tất cả của những cây bút thiết tha với công cuộc giải phóng dân tộc – Xây dựng một nền văn hóa mới – TIẾN HÓA chờ đợi sự cộng tác của tất cả các nhà văn hóa xa gần”.

Hình: Trang 2 Tiến hóa số 2 (1.12.1946), 16 trang, tương đương khổ A4, In tại Nhà in Ngô Tử Hạ, Huế.

Thứ nữa là đến ”Thể lệ cuộc thi văn hóa 1947” do Hội Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi tổ chức. Giải văn học dành cho tác phẩm thuộc lĩnh vực trước tác, dịch thuật, khảo cứu và Giải học sinh với các thể loại truyện ngắn, thơ, kịch.

Nơi đề mục “Sau ngày ký thỏa hiệp 14.9”, Nguyễn Viết Lãm dừng kỹ hơn ở Nhiệm vụ cấp thiết của văn hóa.

Ở c huyên mục“Sinh hoạt văn hóa ở Quảng Ngãi” là bài tường thuật Một đêm văn nghệ của Sóng Biển (Sẽ trở lại chi tiết hơn ở phần sau).

Và đến hai bài thơ Giòng thiêng của Văn Diễn(1)Anh, ngày mai của Lý Hoàng Phúc. Xin dẫn bài thứ hai để thấy nhịp điệu và mẫu người thời đại trong quỹ đạo chung của văn nghệ kháng chiến: Nỗi cơm áo đâu mòn mỏi lòng trẻ/Tay nắm chặt! anh dồn thêm sức khỏe/Của người anh giục lửa sống bùng lên/Anh vui chăng? No ấm vững lòng tin .Mấy câu xếp vần chắp chữ hướng về quần chúng, tô vẽ niềm tin phấp phới và cuộc sống màu nhiệm quanh đây. Giọng điệu kêu vang mà không chút sâu lắng ấy tẻ nhạt hay rung động thực sự?

Trong chủ đề “Nhân vấn đề sáng tác tại Đại hội Văn hóa Toàn quốc lần thứ 2” là bài Sáng tác cho ai của Nguyễn Hóa(2) thiết lập lằn ranh tuyệt đối giữa nhân sinh và nghệ thuật. Bài viết mở đầu: (...) chỉ có thể có một quan niệm nghệ thuật: “Nghệ thuật vị nhân sinh”. Và kết thúc: “(...) nhà văn nghệ phải sáng tác cho người xung quanh chứ không thể công nhiên nói rằng “sáng tác vì mình”.

Kế đó, chuyển sang lĩnh vực ”Nhân đời sống mới” có bài Đám ma ông Xã của Võ Tuệ Bình cổ vũ dân chúng xây dựng cuộc sống mới. Tác giả phàn nàn ma chay thật phiền phức và lôi thôi, nếu không muốn nói là ti tiện. Cảnh tượng nhộn nhịp. “Bao nhiêu màu sắc pha lẫn vào nhau thành một bức tranh hổ lốn, buồn cười”. Thông điệp gởi tới người đọc là cải cách hình thức ma chay trì trệ, phản tiến hóa.

Ngoài ra còn có Thanh niên trước thời đại của Hoàng Vinh và Dựng nước của Thủ Tịnh(3).

Cuối cùng, chuyên mục Tin văn hóa đưa tin triển lãm giáo dục, đêm văn nghệ tại Quảng Ngãi, Hội nghị của Ban Văn hóa Tỉnh đoàn Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi và Văn hóa Cứu quốc Quảng Ngãi góp một phần ngân quỹ và sách vở để thiết lập thư viện cho tỉnh.

Chưa hết, cũng cần nhắc đến dòng chữ chạy dưới chân trang là hai câu khẩu hiệu “HOAN HÔ CHÍNH PHỦ MỚI” (trang 15) và “HỒ CHỦ TỊCH MUÔN NĂM” (trang 16).

Tôi muốn dừng lại bài “Một đêm nghệ thuật” của Sóng Biển ghi chép cuộc gặp gỡ các văn nghệ sĩ tại nhà Nguyễn Viết Lãm vào đêm 8.11.1946: Nguyễn Sơn, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, Chánh án Nguyễn Duy Bình, Chủ tịch Tỉnh đoàn Văn hóa Nguyễn Tấn Đức cùng các văn nghệ sĩ từ Hà Nội vào Nguyễn Tuân, Nguyễn Hồng (Nguyên Hồng (?), tác giả Bỉ vỏ, Những ngày thơ ấu), Nguyễn Đình Lạp, Nguyễn Văn Tý, Nguyễn Sỹ Ngọc...

Những nào Nguyễn Tuân trình diễn đích đến trên con đường sáng tạo: Đại chúng hóa nghệ thuật. Nhà văn thành tâm lột xác và minh định lập trường, từ ”vị nghệ thuật” nghiễm nhiên tiến thẳng vào ”vị nhân sinh” không một chút e dè: (...) đại chúng như một tảng ngọc lớn. Nghệ sĩ phải đến gần tảng ngọc ấy, phải tự tay mình mân mê nó để tìm những đường gân vết mạch có ở chỗ nào, rồi mới có thể dùng tảng ngọc làm tài liệu tạo thành những vật quý.

Rồi thì Nguyễn Hồng phá cách và đi ngược tôn chỉ “vị nhân sinh” mà hầu hết mọi người đều thấu suốt, kể cả tướng Nguyễn Sơn. Ông ngóng theo nỗi niềm “vị nghệ thuật” và tin tưởng vào khuynh hướng “sáng tác cho mình”. Sóng Biển lặng nghe chất dư ba: “Người gây được nhiều cảm tình nhất là anh Nguyễn Hồng (...) đã thành thật đã khiến cho tôi tưởng anh là một hiện thân của niềm thống khổ, của một lớp người mà xã hội từ trước hắc hủi”.

Ngay từ năm 1946, Nguyễn Tuân đã dứt khoát ”nhận đường” còn Nguyễn Hồng đang loay hoay trên khúc quanh hướng đến chân trời văn hóa mới. Tiếc là bài tường thuật đặc sắc ấy không ghi nhận tâm thế của các văn nghệ sĩ còn lại. Họ ý nhị im lặng? Lửng lửng lơ lơ rất khó xét đoán? Bến bờ này đã đoạn tuyệt với bến bờ kia? Tán thành hay phản đối trước tuyên ngôn nghệ thuật là tuyên truyền và tuyên truyền là nghệ thuật?

Bẵng đi những 71 năm, ngần ấy tư liệu phảng phất là cái thời khí trên khung nền văn hóa xã hội những năm tháng ấy, đồng thời cũng thành cứ liệu thêm vào khoảng trống văn học sử chứ không còn của riêng ai nữa.   

                                                                                 3.2017

-----------------------------

(1) Giáo sư Pháp văn Nguyễn Văn Diễn (thường ghi là Nguyễn Diễn, 1921 – 1995), tác giả tập thơ Đường về làng Thi (1971) ký tên Nhan Thùy Diên. Bài Giòng thiêng đăng Tiến hóa này cũng được in lại trong tập thơ vừa kể.

(2) Tác giả Tìm hiểu triết học luân lý (1957), Trái đất kiến thức phổ thông (1999), Triết học cổ Hy Lạp giản yếu (2004)... với bút danh Hào Nguyên Nguyễn Hóa.

(3) Tức nhà nghiên cứu Võ Thu Tịnh (1920 – 2010), tác giả Văn học Việt Nam thế kỷ 19 – phần cổ văn (cùng với Lê Kim Ngân, Nguyễn Tường Minh, 1962), Tình tự dân tộc: Qua thơ văn truyền khẩu và chữ Nôm (1999)...

---------------------

      Nguyễn Duy Long

(Cẩm Thành. 2017. 96: 104 – 7)

Là nữ thi sĩ, thật tự nhiên, Xuân Quỳnh có một quan niệm riêng về giá trị cũng như hạnh phúc của người nữ, trong cái nhìn tổng quan của chị về những giá trị sống, giá trị thơ ca, cũng như cuộc đời. Không vờ như không biết tới vị thế giới nữ của mình để hướng tới một cảm quan chung chung về con người, một tinh thần nhân loại quan liêu, Xuân Quỳnh thông qua những vui buồn day dứt của một người phụ nữ Việt Nam để khắc họa sâu xa hơn những giá trị mà chị cho là tinh tuý của con người. Cá tính cứng cỏi, mạnh mẽ, trái tim độ lượng vị tha và một thẩm mỹ cổ điển nhưng luôn cởi mở, hướng tới sự khai phóng, đã kết tinh trong thơ Xuân Quỳnh dòng cảm hứng nữ quyền tự nhiên, vừa gần gũi với những tiêu chí nữ quyền đương đại đồng thời mang vẻ đẹp riêng tư sâu sắc.

Nhà văn kiêm nhà báo tài năng Nhất Linh (1905 – 1963) hiện được an táng đâu?

Những tư liệu khả tín cho biết: năm 2001, di cốt Nhất Linh đã được chuyển từ Sài Gòn về chôn ở Hội An.

Kỳ lạ thay, từ ấy tới nay, tôi mấy lần ghé phố cổ bên bờ sông Hoài, hỏi thăm nhiều người địa phương, kể cả các cán bộ ngành văn hoá, thì họ đều trả lời:

– Hội An không có mộ Nhất Linh!

Nhất Linh qua nét vẽ của Nguyễn Gia Trí

Nhất Linh mang họ tên Nguyễn Tường Tam, chào đời năm 1905 (Ất Tị) tại thị trấn Cẩm Giàng, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, em ruột của Nhất Linh là Nguyễn Thị Thế viết trong Hồi ký họ Nguyễn Tường (NXB Sóng, Sài Gòn, 1974) rằng thẻ căn cước của anh mình ghi ngày sinh 1-2-1905 do Nhất Linh từng làm lại giấy khai sinh nhằm đủ tuổi dự thi, chứ thực tế năm sinh lại là 1906 (Bính Ngọ). Năm 2010, Nguyễn Tường Thiết – con trai của Nhất Linh – chú thích bài Hai vẻ đẹp của Nhất Linh rằng ngày sinh chính xác của cha là 25-7-1906. Cần thêm rằng nguyên quán của Nhất Linh là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam; hiện thời là phường Cẩm Phô, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam.

Thời học sinh trường Bưởi ở Hà Nội, Nguyễn Tường Tam đã đăng thơ trên báo Trung Bắc Tân Văn và đăng bài bình luận Truyện Kiều trên tạp chí Nam Phong. Năm 1923, thi đỗ tiểu học, rồi kết hôn với Phạm Thị Nguyên, quê làng Phượng Dực (1). Năm 1924, học y lẫn mỹ thuật ở Hà Nội, nhưng chỉ thời gian ngắn thì bỏ. Năm 1926, vào miền Nam, đoạn qua Cao Miên tức Campuchia. Năm 1927, sang Pháp, nghiên cứu nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, tốt nghiệp cử nhân khoa học giáo khoa chuyên ngành lý hoá tại Pháp.

Trở về nước, Nguyễn Tường Tam dạy học tại các trường Thăng Long và Gia Long ở Hà Nội. Năm 1932, làm giám đốc báo Phong Hoá. Năm 1933, thành lập Tự Lực Văn Đoàn gồm bản thân Nhất Linh và Khái Hưng (Trần Khánh Giư còn gọi Nhị Linh), Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long), Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân), Tú Mỡ (Hồ Trọng Hiếu), Thế Lữ (Nguyễn Thứ Lễ). Sau, Tự Lực Văn Đoàn thêm Xuân Diệu và Trần Tiêu (2). Năm 1936, tờ Phong Hoá bị đóng cửa, tờ Ngày Nay kế tục phong trào.

Năm 1938, Nhất Linh lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên thành Đảng Đại Việt Dân Chính. Từ ấy, Tự Lực Văn Đoàn công khai chống Pháp. Năm 1941, tờ Ngày Nay bị đóng cửa. Năm 1942, Nhất Linh dạt qua Quảng Châu, Trung Hoa, bị bắt giam 4 tháng, hoạt động trong Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội, gọi tắt là Việt Cách. Năm 1945, Nhất Linh trở về nước, ở Hà Giang thời gian ngắn liền quay lại Trung Hoa, chỉ đạo Hoàng Đạo, Khái Hưng, Nguyễn Gia Trí và Nguyễn Tường Bách tục bản báo Ngày Nay tại Hà Nội. Tháng 5-1945, tại Trùng Khánh, Trung Hoa, Nhất Linh sáp nhập Đảng Đại Việt Dân Chính và Đảng Việt Nam Quốc Dân thành Đảng Đại Việt Quốc Dân, gọi tắt là Việt Quốc.

Đầu năm 1946, trở về Hà Nội, Nhất Linh ra báo Việt Nam, giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao trong Chính phủ Liên hiệp kháng chiến, và được đặc cách tham gia Quốc hội khoá 1 mà khỏi cần bầu cử. Cũng năm đó, dự Hội nghị trù bị Đà Lạt, Nhất Linh làm trưởng đoàn Việt Nam đàm phán với Pháp. Được cử đứng đầu phái đoàn Việt Nam dự Hội nghị Fontainebleau nhưng Nhất Linh không đi mà trốn qua Trung Hoa, tham gia thành lập Mặt trận Quốc gia Thống nhất Việt Nam nhằm ủng hộ Bảo Đại.

Năm 1951, Nhất Linh về nước, mở Nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực Văn Đoàn. Năm 1954, sang Pháp chữa bệnh.

Năm 1955, lên Đà Lạt sống, Nhất Linh mê sưu tập phong lan. Năm 1958, xuống Sài Gòn, Nhất Linh trở thành chủ tịch đầu tiên của Hội Văn bút Việt Nam. Cũng tại Sài Gòn, từ năm 1958, Nhất Linh thực hiện giai phẩm Văn Hoá Ngày Nay, phát hành được 11 số thì bị đình bản.

Năm 1960, Nhất Linh thành lập Mặt trận Quốc dân đoàn kết, ủng hộ đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông đảo chính nhằm lật đổ chế độ độc tài Ngô Đình Diệm. Ngày 11-11-1960, cuộc đảo chính thất bại, chính quyền đương thời giam lỏng Nhất Linh trong nhà riêng gần chợ An Đông, dự định đưa ra toà án xét xử ngày 8-7-1963. Noi gương hoà thượng Thích Quảng Đức, Nhất Linh dùng độc dược pha vào rượu uống để tự tử ngày 7-7-1963, lưu lại những dòng tuyệt mệnh:

“Đời tôi để lịch sử xử. Tôi không chịu để ai xử tôi cả.”

Thơm danh liệt sĩ – nổi tiếng văn hào

Nhất Linh trút hơi thở cuối, để lại người vợ thân yêu Phạm Thị Nguyên cùng 7 con gồm 5 nam Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Triệu, Nguyễn Tường Thạch, Nguyễn Tường Thái, Nguyễn Tường Thiết, và 2 nữ Nguyễn Thị Kim Thư, Nguyễn Thị Kim Thoa.

Nhất Linh còn lưu cho đời cả loạt tác phẩm văn học nghệ thuật giá trị, bao gồm các tập truyện ngắn Nho phong, Người quay tơ, Anh phải sống (viết chung với Khái Hưng), Đi Tây, Hai buổi chiều vàng, Thế rồi một buổi chiều, Thương chồng, các tiểu thuyết Gánh hàng hoa (viết chung với Khái Hưng), Đời mưa gió (viết chung với Khái Hưng), Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Đôi bạn, Bướm trắng, Xóm cầu mới, Giòng sông Thanh Thuỷ, tiểu luận Viết và đọc tiểu thuyết, cả bản dịch Đỉnh gió hú của Emily Brontë.

Ngay sau khi Nhất Linh tự huỷ mình, nhà cầm quyền thuở ấy lập tức ra lệnh chôn ông gấp trong nghĩa trang chùa Giác Minh ở Gò Vấp vào sáng thứ bảy 13-7-1963 mà không chờ đợi con trai cả của người vừa khuất là Nguyễn Tường Việt từ Pháp về phục tang.

Sau khi tổng thống Ngô Đình Diệm bị hạ bệ, lễ truy điệu Nhất Linh được tổ chức rất trọng thể tại sân Tao Đàn ở Sài Gòn. Bấy giờ, vang vọng áng văn tế Nhất Linh do thi sĩ Vũ Hoàng Chương soạn ngày 5-1-1964 mà đây là đoạn kết:

Hỡi ơi!

Tố Đoạn tuyệt thành hồ đoạn tịch, mộng dẫu chơi vơi nửa cuộc, sử còn thơm danh liệt sĩ Tường Tam;

Phượng Nhất Linh hề thiên nhất phương, lầu tuy ngơ ngác bên sông, gió vẫn nổi tiếng văn hào họ Nguyễn.

Năm 1975, tại Sài Gòn, Nguyễn Tường Thạch hoả thiêu di cốt cha, đoạn gửi bình tro trong chùa Kim Cương trên đường Trần Quang Diệu, quận 3.

Năm 1981, quả phụ Phạm Thị Nguyên từ Việt Nam sang Pháp đoàn tụ với các con. Bà mất năm đó, được an táng trong một nghĩa trang tại thủ đô Paris.

Năm 2001, toàn gia quyết định di dời hài cốt mẹ Phạm Thị Nguyên từ Paris và cha Nhất Linh từ Sài Gòn về Hội An. Sự kiện này được Phạm Phú Minh tường thuật trong bài Nấm cỏ đưa về tấc đất xuân đăng tạp chí Thế Kỷ XXI số tháng 7 năm 2002, và Khúc Hà Linh ghi nhận trong bài 12 năm cuối đời của người đứng đầu Tự Lực Văn Đoàn đăng báo Tiền Phong 24-2-2008 rồi in trong sách Anh em Nhất Linh – Nguyễn Tường Tam: ánh sáng & bóng tối (NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2008).

__Hội An với nấm mồ Nhất Linh

Sau khi tiếp nhận các nguồn tin trên, tôi mấy lần ghé Hội An, hỏi một số người địa phương về nấm mồ Nhất Linh, đều nghe đáp:

– Ở Hội An có từ đường Nguyễn Tường, chứ không có mộ Nhất Linh.

Mùa hè 2010, lại về thăm phố cổ, tôi quyết định dành thời gian tìm kiếm âm phần thủ lĩnh của Tự Lực Văn Đoàn, người từng chủ trương: “Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có chí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ”. Thoạt tiên, tôi liên hệ với một số cơ quan chức năng tại đây. Giám đốc Trung tâm Văn hoá – Thể thao thành phố Hội An là Võ Phùng cho biết:

– Chắc chắn không có mộ Nhất Linh ở Hội An.

Công tác tại Trung tâm kia, lại dành nhiều thời gian nghiên cứu về cuộc đời lẫn sự nghiệp Nhất Linh, song nhà thơ Phùng Tấn Đông vẫn nhấn mạnh:

– Chưa hề dời mộ Nhất Linh từ Sài Gòn ra Hội An. 

Giám đốc Trung tâm Quản lý bảo tồn di tích Hội An là Nguyễn Chí Trung nói:

– Hội An không có mộ Nhất Linh. Nhân vật nổi tiếng vậy mà chôn ở Hội An thì dân địa phương biết liền chứ. Tuy nhiên, anh thử tìm hiểu thêm, biết đâu…

Trần Tuấn – trưởng phòng kỹ thuật Palm Garden Beach Resort & Spa ở Cửa Đại – vừa lái xe đưa tôi đi, vừa cười:

– Chẳng khác mò kim đáy bể, anh Phanxipăng ạ!

Từ đường phái nhì Quảng Nam của dòng họ Nguyễn Tường trên đường Lê Quý Đôn, toạ lạc giữa các di tích đã được Nhà nước xếp hạng là Khổng miếu và lăng ngài Tham tri Trần Ngọc Dao (3). Tôi tạt vào từ đường, gặp chị Nguyễn Thị Quyên. Chị tươi cười:

– Mộ nhà văn Nhất Linh cùng vợ và con gái Nguyễn Thị Kim Thư đã được gia quyến cải táng về Hội An ngày 28-4-2001. Dạo đó, các con của Nhất Linh gồm Nguyễn Tường Việt, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Thị Kim Thoa cùng đến đất này lo hiếu sự.

Trong từ đường, gian phía tây có thờ chân dung Nhất Linh.

Chị Quyên nhiệt tình đưa tôi ra xã Cẩm Hà, tới Nghĩa trang nhân dân thành phố Hội An, bước vào khu âm phần dành cho tộc Nguyễn Tường. Trông thấy mộ vợ chồng Nhất Linh, ngay lập tức, Trần Tuấn thảng thốt:

– Hỡi ôi! Mộ Nhất Linh dời về đây từ năm 2001, lẽ nào người Hội An lâu nay mù tịt? Mộ bậc tài danh lẫy lừng mà sao nhỏ nhắn quá, bị chìm khuất quá, khó tìm kiếm quá!

Nội dung bia mộ Nhất Linh đan xen Hán tự phồn thể lẫn giản thể và Việt ngữ.

Chữ Hán:

錦江

阮祥门第十世

顯考号一灵阮府君之佳域 (4)

Phiên âm:

Cẩm Giàng

Nguyễn Tường môn đệ thập thế

Hiển khảo hiệu Nhất Linh Nguyễn phủ quân chi giai vực

Nghĩa:

Cẩm Giàng

Họ Nguyễn Tường, đời thứ 10

Mộ thân phụ có hiệu Nhất Linh của chúng tôi

Chữ Việt:

Sinh năm 1906

Mất năm 1963

Nam: Tường Việt, Triệu, Thạch, Thiết, nữ: Kim Thoa, cháu nội: Tường Anh, Phong, Thao phụng lập 4-2001

Chị Quyên cất tiếng:

– Nghe tin tỉnh Hải Dương đang xúc tiến tạo dựng Khu lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn. Đúng không anh Phanxipăng?

Quả đúng vậy. Tại thị trấn Cẩm Giàng thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương, hội thảo Bảo tồn và phát huy di sản cố trạch của Tự Lực Văn Đoàn đã được tổ chức ngày 9-5-2008. Ngày 17-12-2008, UBND tỉnh Hải Dương ban hành công văn chỉ đạo quy hoạch khu vực cố trạch của Tự Lực Văn Đoàn tại thị trấn đó. Tháng 4-2009, UBND huyện Cẩm Giàng lập ban chỉ đạo quy hoạch; và theo kế hoạch thì giai đoạn 1 tạo dựng Khu lưu niệm Tự Lực Văn Đoàn đạt diện tích 1,2ha, trong đó có công viên văn hoá, thư viện, nhà khách.

Thế thì với ngôi mộ của vị chủ soái Tự Lực Văn Đoàn là nhà văn kiêm nhà báo Nhất Linh, thành phố Hội An nên sớm trù hoạch và triển khai biện pháp tôn tạo khả thi nhằm mở thêm chốn giao lưu văn hoá bổ ích, đồng thời là điểm du lịch thú vị thừa khả năng cuốn hút đông đảo tao nhân mặc khách muôn phương. ♥

 ____________

(3)   Có thể tham khảo bài Phó bảng của Phanxipăng đã đăng tạp chí Thế Giới Mới 868 (11-1-2010) rồi truyền lên một số trang web, trong đó có weblog này:

https://phanxipang.wordpress.com/2012/08/26/pho-bang-i/

https://phanxipang.wordpress.com/2012/08/27/pho-bang-ii/

(4)   Bút hiệu / bút danh chính của Nguyễn Tường Tam 阮祥叄 là Nhất Linh vẫn được ghi kiểu kép 壹零 nhưng bia lại khắc kiểu đơn 一灵. Qua bài Nấm cỏ đưa về tấc đất xuân, Phạm Phú Minh phê bình tấm bia này: “Riêng chữ thứ 9 từ trên xuống, có lẽ do thợ khắc sai, không có nghĩa, được đoán là chữ chi”. Kỳ thực, chữ 之 chi cũng được thể hiện theo dạng “thượng sơn, hạ nhị” như vậy, chẳng hạn bia nơi mộ Tăng Bạt Hổ trong khu di tích lưu niệm Phan Bội Châu ở Bến Ngự, Huế.

Phanxipăng

Đã đăng trên các tạp chí:

  • Thế Giới Mới 912 (29-11-2010)
  • Kiến Thức Ngày Nay 731 (1-12-2010)
  • Tài Hoa Trẻ 869 (9-10-2013)

__________

(1)   Phượng Dực hiện là 1 trong 3 làng thuộc xã cùng tên ở huyện Phú Xuyên, TP. Hà Nội. Xưa, Đồng Khánh dư địa chí ghi nhận rằng “xã Phượng Dực thuộc tổng Phượng Dực, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Nội”. Năm 1888, Pháp lập tỉnh Hà Đông, có phủ Thường Tín gồm 3 huyện Thanh Đàm, Thượng Phúc, Phú Xuyên.

(2)   Qua bài Phải chăng Trần Tiêu là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn? đăng tạp chí Nghiên Cứu Văn Học 7-2008, Cù Huy Hà Vũ cho rằng Trần Tiêu chưa bao giờ là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.

Mỗi lần có hội sách văn chương Nam bộ xưa, người ta lại thấy ban tổ chức tìm cách liên lạc với một cụ già ở Cai Lậy Tiền Giang, nhờ tìm sách để trưng bày, đó là nhà sưu tập Trương Ngọc Tường – người đang giữ nhiều tư liệu quý giá về một nền văn chương tiên phong từng bị hậu thế quên lãng.

20170709.nguyenchanhsat

Xu hướng đại chúng hoá văn học là mảnh đất nuôi dưỡng và phát triển văn học đại chúng nói chung và tiểu thuyết đại chúng nói riêng. Mục tiêu hướng về đại chúng quy định và chi phối sâu sắc đặc điểm nội dung, hình thức của văn học đại chúng.

Đại chúng hoá ở khu vực văn học Nam Bộ trước 1930 là xu hướng tất yếu, mang tính lịch sử, tuy đã được rải rác đề cập đến trong một số bài viết, chuyên luận. Nhưng hiện vẫn chưa được nghiên cứu thấu đáo. Đó là lý do để thực hiện bài viết này.

 

Sự phân biệt về phương diện xã hội dành cho giới nam và giới nữ trong văn hóa Việt Nam truyền thống đã có ảnh hưởng lớn đến các biểu tượng về người nam và người nữ trong văn học Việt Nam từ văn học dân gian, qua văn học trung đại đến văn học đầu thế kỷ XX. Vấn đề này là đề tài cho một công trình nghiên cứu công phu, còn ở đây tôi chỉ xin phác thảo một số ý tưởng.

Cái chết của anh cái chết một nhà văn

Không bao giờ là cái chết.

Văn Cao.

 

Những người sinh ra ở giữa lòng thế kỉ trước, khi bước vào năm 1960 trở đi, họ chừng trên dưới 10 tuổi. Khi ấy ở miền Bắc, đặc biệt là vùng châu thổ sông Hồng, không ai không đọc Lá cờ thêu 6 chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng. Nó phổ cập đến nỗi, tất cả học sinh cấp 1, cấp 2, từ lớp 1 đến lớp 7, một tập hợp đến hàng triệu trẻ con nhớ vanh vách chuyện Trần Quốc Toản đứng ngoài cuộc họp ở hội nghị Bình Than bóp nát quả cam lúc nào không biết và tự mình thành lập đội quân với lá cờ thêu 6 chữ: phá cường địch - báo hoàng ân. Không ai trong số hàng triệu trẻ con vô lo vô nghĩ thời ấy biết rằng, chỉ sau đó vài năm, họ cũng đi ra chiến trường đem theo tinh thần phá cường địch ấy vào cuộc chiến sinh tử đuổi bầy giặc dữ.

Trong lịch sử văn chương Việt Nam thời hiện đại, ít ai sớm nhận ra ý nghĩa và thành công trong việc lấy cảm hứng từ các đề tài lịch sử và thậm chí viết theo cảm hứng ấy ở ngay cả các đề tài hiện đại để xây dựng thành các tác phẩm văn học có tầm vóc thuộc đủ các thể loại từ kịch, tiểu thuyết đến ký sự như Nguyễn Huy Tưởng. Và điều quan trong là cảm hứng ấy xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của ông, bắt đầu từ rất sớm, khi ông khởi sự cầm lấy việc bút nghiên và dấn thân vào cuộc đời văn sỹ sóng gió mà đầy thử thách. Năm 1942, khi ông 30 tuổi, Đêm hội Long Trì được đăng trên tạp chí Tri Tân. Chủ đề lịch sử tiếp tục được triển khai trong Cột đồng Mã Viện, An Tư, Vũ Như Tô… Những đề tài hiện đại được ông viết ra trong Bắc Sơn, Những người ở lại, Bốn năm sau, Sống mãi với thủ đô, Lũy hoa… Ngay cả Ký sự Cao Lạng, còn nóng hổi sự kiện và con người của chiến dịch biên giới 1950, bằng cảm hứng bi hùng. Phải chăng cảm hứng lịch sử như là nét nhạc chủ đạo của một đời văn đã làm nên vẻ đẹp đặc sắc nhất của văn chương Nguyễn Huy Tưởng. Ông đã ghi tên tuổi của mình lên cái giá sách vinh quang của văn đàn Việt Nam hiện đại bằng một phong cách tiềm ẩn sự ca vang của bi hùng mà hào hoa kỳ lạ. Sách Văn Tâm Điêu Long trong thiên Tri âm có viết: Người tính tình khảng khái thích văn chương hùng tráng. Người sâu sắc thích văn chương súc tích. Người phù phiếm thích văn chương hoa mĩ. Người hiếu kỳ thích văn chương quái lạ. Tôi nghĩ nhà văn họ Nguyễn Huy thuộc loại người thứ nhất. Ít ai bị Nguyên Huy Tưởng mê hoặc kéo đi theo văn chương của mình như trường hợp ông Nguyễn Tuân. Khi đọc bản thảo Sống mãi với thủ đô để viết lời giới thiệu, dường như Nguyễn Tuân bị ám, tựa hồ như ông không thoát ra được miên man chắp nối thêm cho ông Tưởng về cái nhát cuốc đầu tiên phá thành Hà Nội, bổ vào thân thành một sớm mùa thu 10-8-1894. Đến 6 tháng sau thì Hà Nội bắt đầu thắp điện. Năm 1902 làm xong cầu sắt xe lửa qua sông Hồng. Cứ như là Nguyễn Huy Tưởng đi trước, Nguyễn Tuân theo sau, dẫn người ta bước vào với Sống mãi với thủ đô, thấy ở ngày hôm nay Hà Nội vẫn gây gây mùi khói vấn vương ngàn năm Thăng Long chốn cũ. Nguyên Tuân đã giành cho người bạn văn của mình hai lần sang trọng.

Trong toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Huy Tưởng có nhiều tác phẩm nổi tiếng, nhưng kiệt tác đưa ông đứng vào hàng của một trong những vị trí dẫn đầu của làng văn hiện đại, không thể không kể đến Vũ Như Tô. Đúng như ông Nguyễn Tuân đã từng nói: cả một đời viết văn, với kịch Vũ Như Tô là yên tâm được rồi. Vũ Như Tô được viết từ năm 1943 và xuất bản lần đầu sau cách mạng tháng 8 – 1945 bởi Hội Văn hóa cứu quốc vào tháng 9 – 1946.

Đại Việt Sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, vị quan sử quán tu soạn thời Lê Thánh Tông biên khảo hồi cuối thế kỉ 15 vẻn vẹn chỉ có 3 đoạn ngắn nói về Vũ Như Tô. Gộp cả 3 đoạn ấy lại cũng chưa đầy một trang khổ sách bây giờ.

…Đại hạn, trong nước đói to.

Làm điện lớn hơn trăm nóc. Trước đây người thợ ở xã Minh Quyết huyện Cẩm Giàng là Vũ Như Tô (tức đô Nhạn) ở nhà lấy cây mía làm thành điện lớn trăm nóc, đến đây đem kiểu nhà ấy dâng lên khuyên vua xây dựng.

…Vua…sai bọn nữ sử cởi truồng, chèo (thuyền) ở hồ Tây, Vua cùng chơi, lấy làm thích lắm. Người thợ Vũ Như Tô làm điện hơn trăm nóc, hết kiệt tiền và sức dân trong nước,… Có chỗ đã làm xong lại đổi lại, đắp đổi lại, đắp lại mấy năm không cùng. Quân lính bị bệnh dịch đến một phần mười.

Võ sỹ tên là Hạnh cầm giáo đâm vua ngã ngựa rồi giết chết… giết chết Vũ Như Tô ở ngoài cửa kinh thành. Trước đây Vũ Như Tô xuất thân là thợ, lấy kỹ xảo mà mê hoặc vua, được lạm bổ đô đốc kiêm các sở bộ công giờ đương làm điện lớn trăm nóc chưa xong, dân gian ai cũng nghiến răng tức giận. Đến khi vua bị giết, Như Tô cũng bị bỏ xác ở chợ. Quan dân ai cũng chê cười hoặc có người nhổ vào xác…

Nếu chỉ dựa vào chừng ấy sử liệu và viết theo tinh thần của sử quan Ngô Sỹ Liên, chắc Nguyễn Huy Tưởng sẽ có được một vở kịch hay. Có điều tầm vóc tư tưởng và ý nghĩa nghệ thuật sẽ không thể vượt qua Đêm hội Long trì. Đó chỉ là một bức tranh sinh động về một chế độ chính trị suy tàn và phi luân mà lịch sử tuy không vô tình mà lại vô tình bởi sự đau đớn và nhục nhã phải đi qua. Nhưng tài năng của Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng được một tình huống kịch có điểm sáng nảy sinh từ xung đột giữa cái thiện, cái nhân bản của con người mà Vũ Như Tô, Đan Thiềm là đại diện, đối lập với mặt bên kia của mâu thuẫn đại diện cho các ác, cái phi nhân của thế lực vua quan thối nát là Lê Tương Dực, Trịnh Duy Sản… và không thể có bi kịch nếu không có sự éo le của lịch sử, khi cùng là xây dựng Cửu Trùng Đài, Lê Tương Dực chỉ mong có chốn ăn chơi sa đọa, còn Vũ Như Tô coi đó là điểm nhấn của Kinh thành lộng lẫy, đó là nơi thể hiện lương tâm, trách nhiệm, tài năng trước đất nước và thời cuộc. Không khí bi tráng khi xung đột được giải quyết; Cả Kinh thành và Cửu Trùng Đài rừng rực cháy bởi sự phẫn nộ của người dân và binh lính. Cửu Trùng Đài thiêu rụi sự mong muốn sa đọa của cái ác, nhưng cũng chưa hẳn soi sáng cho cái thiện vì việc lớn chưa thành. Bản lĩnh của Nguyễn Huy Tưởng không phải ở chỗ là một người chép sử, ông đã xây một Cửu Trùng Đài khác trong văn chương để chỉ ra cái quy luật muôn đời trong sự éo le của cái thiện, trong tình huống không bao giờ đồng thuận với cái ác, làm nên một trong những vở kịch mẫu mực của nền văn học kịch nói Việt Nam hiện đại.

Nguyễn Huy Tưởng đã chiêu tuyết cho Vũ Như Tô và phả vào lịch sử một tinh thần hoàn toàn mới, một mẫu thuẫn có tính phổ biến, mang ý nghĩa nhân loại và ông đã viết nên một khúc ca bi tráng về lương tâm của người nghệ sĩ trước đất nước và thời đại, và bi kịch của họ khi phụng sự trong một thời kì lịch sử suy tàn. Vũ Như Tô như là tiêu điểm của xung đột kịch khi được đặt trong tình huống ba lần bị giết bởi ý định có sẵn của vua, của quan và của lòng hận thù của dân bị cùng cực bởi Cửa Trùng Đài. Vũ Như Tô đâu muốn điều đó.

Vở bi kịch 5 hồi Vũ Như Tô mang vóc dáng và tầm cỡ của các vở bi kịch phương Tây, ngay từ đầu những năm 1940, đã đánh dấu sự trưởng thành vượt bậc của nền văn học kịch hiên đại. Có thể nói thể loại kịch xuất hiện ngay từ nửa đầu thế kỉ 20, cùng với phong trào thơ mới (1930-1945). Đó đều là sản phẩm của sự gặp gỡ giữa văn hóa phương Tây và phương Đông. Nhưng dường như thơ có sự bùng nổ đồng loạt và đông đảo hơn. Chỉ trong vòng 10 năm đã hình thành một thế hệ các nhà thơ mới. Ít nhất cũng là 44 người được đứng tên trong Thi nhân Việt Nam năm 1942. Ở thể loại kịch có khác. Cả thế kỷ 20 tính từ Tản Đà, Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ… đến những người viết kịch sau này như Lưu Quang Vũ, Nguyễn Huy Thiệp… chỉ vẻn vẹn có 43 người. Trong đó Nguyễn Huy Tưởng là một tác giả thuộc lớp các nhà văn đi tiên phong. Và trong số 43 tác giả kịch ấy, nếu được chọn ra 5 người ở lớp tiêu biểu nhất thì phải kể đến Nguyễn Huy Tưởng. Và truyền thống văn học trong quá khứ của dân tộc ta lại chủ yếu phát triển loại hình ca kịch - kịch hát. Nói lên điều đó càng thấy thêm sự đóng góp của Nguyễn Huy Tưởng cho văn học kịch hiện đại.

Điều đáng quý và đáng trân trọng nhất ở Nguyễn Huy Tưởng là sự thống nhất của lý tưởng xã hội, lý tưởng thẩm mĩ trong tác phẩm văn chương và nhân cách sống của ông. Trong lịch sử văn học không một nhà văn nào liên tục viết nhật ký 30 năm liền từ 1930, khi ông 18 tuổi, đến 1960, chỉ dừng lại 2 tháng trước khi ông mất. Cảm ơn bà quả phụ Trịnh Thị Uyên cùng người nối dõi tông đường nhà văn Nguyễn Huy Tưởng – anh Nguyễn Huy Thắng đã gìn giữ cẩn thận và đầy yêu thương hơn 40 cuốn sổ nhật ký được viết ra và theo chân nhà văn đi qua bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu vùng đất của xứ sở này. Họ đã gìn giữ tài liệu ấy từ năm 1960 để đến gần nửa thế kỷ sau, 46 năm sau, năm 2006, Nhật ký của Nguyễn Huy Tưởng đã được nhà xuất bản Thanh Niên công bố. Gồm 3 tập với khoảng 1500 trang sách. Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng là một tài liệu lịch sử quý giá. Biết bao nhiêu con người, sự kiện được tỏa sáng bởi tấm lòng trung thực, chân thành và mình bạch của một con tim yêu thương luôn luôn đập giữa lòng thời cuộc, thể hiện sâu sắc mà sinh động một nhân cách cao quý và bình dị trong làng văn hiện đại. Ớ đó ta bắt gặp một Nguyễn Huy Tưởng đời thường vô cùng hiếu đễ với bậc sinh thành, như nghe tiếng kêu dứt ruột của ông: Mẹ ơi, có thấu lòng con. Tôi nhớ mãi những đoạn nhật ký buồn thương được ghi vào tháng 12 – 1942 khi Nguyễn Huy Tưởng ngóng chờ và mong đợi nhuận bút của cuốn tiểu thuyết Đêm hội Long trì để làm quà dâng mẹ. Bà cụ lúc ấy đã ốm liệt giường và không ăn uống được gì nữa. Và những trang Nguyễn Huy Tưởng viết về bà Uyên, người vợ yêu quý của ông, vừa trang nhã vừa nồng thắm mà mỗi người đọc làm chồng như tìm được một phần mình trong đó. Nhưng nổi trội hơn cả là nỗi lo toan ưu thời mẫn thế luôn luôn thường trực và đau đáu trong ông. Đến cái ổ khóa nhà ông, ông cũng đặt theo năm Cách mạng Pháp 1789. Ngày 17/6/1960, già một tháng sau đấy thì ông mất, ông vẫn lo tình hình chính trị ở Á Châu…Trước những sai lầm của Cải cách ruộng đất làm cho xóm làng thêm xơ xác, ông đau đớn vô cùng. Ngày 16/6/1956 ông cho biết đã trực tiếp viết thư gửi Hồ Viết Thắng, một cán bộ cao cấp về công tác này để xin gặp. Nhưng Hồ Viết Thắng đã từ chối. Nếu cuộc gặp ấy xảy ra chắc chắn Nguyễn Huy Tưởng sẽ nói những điều ông viết trong Một ngày chủ nhật. Đức tính trung thực và ngay thẳng của Nguyễn Huy Tưởng trong tình bạn là biểu hiện cao quý nhân cách của một nhà văn, đặc biệt trong những giai đoạn sóng gió của thời cuộc. Ngày 14/12/1956: Tiền nong cho già đình thì thiếu, con lên sởi, lo vì công việc, lo cho bạn, không sao ngủ được. Cái nhóm Trần Lê Văn, Quang Dũng, Hữu Loan, Thanh Châu vắng vẻ chuyện trò. Ta nói thẳng với T.C… anh ta nói ta nặng vế trách Đảng. Nhưng có lo gì? Nghĩ thế nào nói thế. Anh em càng tin. Trước đó một ngày, nhật kí viết: Khi gặp đồng chí T.C, khi mình nói không nên có thành kiến với Nguyễn Hữu Đang, thì thiếu bình tĩnh ngay. Rồi quay sang vặc: Sao anh chỉ trách Đảng mà không trách bọn họ... Ta để việc này trôi đi ư?... Đã bao nhiêu người oan uổng vì những báo cáo không xác thực này. Thời gian đã đi qua 60 năm, bao nhiêu điều đã được nhận thức lại mà đọc những trang viết này vẫn cảm thấy nóng bỏng lòng trung thực, ngay thẳng của nhà văn. Nguyễn Huy Tưởng đâu phải chỉ bị thôi thúc tình cảm giữa con người với con người. Đó không chỉ là kinh nghiệm mà còn là bản lĩnh chính trị của ông. Nhà văn đã từng tham gia Hội truyền bá Quốc ngữ, Hội Văn hóa cứu quốc những năm trước Cách mạng, từng là một trong số những người đầu tiên xây dựng báo Tiền Phong bí mật từ tháng 6/1945. Người cất lên tiếng nói thẳng thắn ấy như vừa bước ra từ Hội trường quốc dân đại hội Tân Trào tháng 8/1945, từ Quốc hội khóa 1 năm 1946, từ những trang ký sự chiến trường rực lửa Thu đông 1947 và chiến dịch biên giới 1950. Biện chứng về truyền thống và thời đại, lịch sử và cách mạng dẫn dắt tư duy sáng tạo nghệ thuật của ông. Nhật kí Tết Mậu tuất 1958 viết: T.H nói ăn cơm bây giờ thì phải phục vụ bây giờ. Có biết đâu ăn cơm bây giờ nghĩa là ăn cơm của cả tổ tiên và của cả con cháu. Nói thẳng, nói thật, nói có tổ chức, vì sự sống còn của lợi ích chung là phong cách của Nguyễn Huy Tưởng. Nếu ông im lặng chắc cũng chẳng ai trách ông. Nhưng nhân cách nhà văn không cho phép ông làm điều đó. Ông đã từng viết: Phải cao quý, hỡi nhà văn.

Tôi cho rằng một trong những nội dung quý giá nhất của Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng là những quan niệm của ông về sáng tác văn học cũng như trách nhiệm của người cầm bút. Ở đây hội tụ một chuỗi những suy tư, trăn trở mà Nguyễn Huy Tưởng đã chắt lọc từ trí tuệ, tâm hồn, máu và nước mắt của suốt một đời lao động nghệ thuật tràn trề say mê và đầy nghị lực của người nghệ sỹ. Những điều gan ruột ấy đã được ông viết ra từ rất sớm. Nhật ký ngày 24-12-1930, ông khao khát: làm chóng xong quyển truyện để tôi cống hiến cho quốc dân tôi, cho dân Việt Nam tôi, là dân mà tôi yêu một cách vô hồi, vô hạn. Nhật ký ngày 17-9-1931 viết: Corneille, Racine, Molière sở dĩ bất tử vì các nhà ấy phần lớn là nhà tâm lý học, thường trọng tình hơn trọng cảnh. Tả cảnh chỉ là cách làm cho sự tả tình đúng mà  thôi. Văn chương thuần tả cảnh không mấy lúc mà tiêu diệt. Dường như, toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Huy Tưởng đã làm ra theo tinh thần ấy. Nhật ký những năm kháng chiến chống Pháp nhiều lần đề cập đến quan niệm văn chương. Ngày 6-9-1949, bằng trực giác của mình, nhà văn đã sớm linh cảm thấy những điều chưa hiện rõ mặt đằng sau của cái mới: Ta muốn viết chế diễu một thứ bôn-sê-vích, đạo đức hẹp hòi, có cái vẻ Khổng Tử ngày xưa, xét nét về luân lý một cách chật hẹp. Nguyễn Huy Tưởng dường như đồng điệu với Nam Cao trong sự lo lắng người lãnh đạo không hiểu về Văn nghệ… Đến nhật ký ngày 6-7-1957, lo lắng này thể hiện càng rõ: Trong nội bộ Văn nghệ. T.H xem phim Anna, có hình ảnh người phụ nữ déscolletée (hở vai): bèn cấm! (…). Nhật ký ngày 2-2-1957 ông nhìn nhận đúng đắn vấn đề muôn thuở của sáng tạo văn học gắn bó với những vui buồn trăn trở của nhân loại mọi thời và vẻ đẹp vĩnh cửu của thi ca: Thơ Lý Bạch và cái hào khí của nhà thơ… Làm thơ tiễn bạn có phục vụ chính sách nào mà sao bây giờ truyền tụng? Ai truyền tụng những câu bảo vệ chính sách? Nên suy nghĩ nhiều về vấn đề này. Phải đến cuối thế kỷ 20, những năm đổi mới, tức là hơn 30 năm sau, chúng ta mới nhìn nhận toàn diện vấn đề ấy. Nhật ký ngày 28-2-1957 cho thấy Nguyễn Huy Tưởng đã nhìn xa trông rộng được nhiều vấn đề của mấy chục năm sau: Tổng kết đại hội (Văn Nghệ). T.H lại bốc. Vẫn cái luận điệu cũ. Rào trước đón sau. Nói cần phải đoàn kết nhưng thực sự có đoàn kết được đâu. Hẹp hòi đến thế, hỏi tranh thủ sao được văn nghệ sỹ miền Nam.

Trong cuộc sống đời thường, Nguyễn Huy Tưởng luôn bày tỏ sự đồng cam cộng khổ với các bạn văn. Ông lo lắng cho Nguyễn Sáng, một họa sĩ có tài, trong kháng chiến chống Pháp từng vẽ giấy bạc cho Chính Phủ, vậy mà hòa bình không có thuốc để vẽ. Ông chia sẻ cảnh ngộ của Bùi Xuân Phái, nghèo túng chỉ mong có được một commande nào đó để có tiền nuôi vợ nuôi con. Và ông đặt câu hỏi: chế độ ta cứ để cho những nhân tài ấy sống mai một đi ư?… Nguyên Hồng rất yêu quí ông Tưởng, thường hay gọi đùa Nguyễn Huy Tưởng theo tên gọi một nhà văn nổi tiếng nước ngoài nói lạc đi là Mao Thuỗn. Là con mõ già của văn hóa cứu quốc. Là ông Chánh Hòa. Hồi ký văn học Những nhân vật ấy đã sống với tôi, in năm 1978, Nguyên Hồng đã viết ngay ở những trang đầu: Ngày xưa có… Trương Chi chỉ là cái cớ. Nguyên Hồng giành phần trang trọng nhất cho ông Tưởng: Một buổi đạp xe trên quốc lộ 1, đi qua giữa vùng chợ Dầu và chợ Lim - ông Chánh Hòa… người rất chi đôn hậu, rất chi say viết, ngồi “cắn” bàn như bắt vít vào ghế được anh em rất mến, cho biết: Có một khúc của sông Tiêu Tương chảy qua đây và gốc chuyện Trương Chi là ở đấy… Nguyễn Huy Tưởng có ý định sau này sẽ về làm nhà ở trên quãng di tích sông Tiêu Tương ấy để sẽ viết thêm tiểu thuyết và kịch lịch sử.

Ước mộng này của nhà văn đã không biết trước phải đổi mặt với thách thức cuối cùng cay nghiệt nhất của đời ông. Trong một tờ giấy nhỏ bằng lòng bàn tay đã ố vàng tôi được nhìn thấy Nguyễn Huy Tưởng ghi chương trình tháng 4 - 1960 có 5 việc đánh rõ thứ tự a, b, c, d, e. Mặt sau của tờ giấy ghi bằng tiếng Pháp tên một nhà văn phương Tây và giá một số quyển sách. Lưu ý đó không phải là tên thuốc. Đó là chương trình làm việc cuối cùng của nhà văn được ông viết trên giường bệnh. Như thể ông không để ý đến cái gì sẽ xảy đến. Như thể ông cố làm hết những việc cần thiết nhất ở dương thế này. Đó cũng là thể hiện nhân cách của một nhà văn đã sống hết lòng vì đất nước và nhân dân mình. Ngày 25/7/1960 (tức 2 tháng 6 âm lịch), Nguyễn Huy Tưởng thở hơi thở cuối cùng trên giường bệnh. Nhưng như Văn Cao trong bài thơ của ông ấy có tiêu đề Nguyễn Huy Tưởng đã viết Cái chết của anh cái chết một nhà văn - không bao giờ là cái chết.

Tôi đã sống ở Hà Nội chừng nửa thế kỷ rồi, không biết bao nhiêu lần đi qua hồ Tây mà không sao tìm được cái cảm giác của ông Nguyễn Tuân nghe chuông chùa Trần Quốc bồi hồi bên hồ, lại muốn bóng hồ trả lại cho Hà Nội hôm nay cái bóng mái cong những chín tầng đài ngày nọ - Cửu Trùng Đài. Lịch sử cứ thầm lặng đi qua mà chẳng bao giờ trở lại được nữa. Nhưng Cửu Trùng Đài ngày xưa đã sụp đổ mà không còn dấu tích gì nữa trong bóng mây bóng nước mặt hồ. Biết bao nhiêu thăng trầm hưng vong, hoang phế cuộc đời tưởng đã đi vào quên lãng cùng với sự vô tâm của thế thái nhân tình. Nhưng không. Có một miền ký ức lóng lánh ánh vàng của thời gian trong tác phẩm văn học của những văn tài. Sự nghiệp văn học của Nguyễn Huy Tưởng mà những chữ Vũ Như Tô như được thêu bằng vàng của thời gian sẽ còn lại mãi mãi. Bởi vì đó là vẻ đẹp của tâm hồn Việt Nam. Nó nhắc nhở và đưa ra lời cảnh báo cho mọi thời đại về những gì kỳ vĩ sẽ bị thiêu rụi nếu không vì những giá trị căn bản của con người. Nó chỉ ra bi kịch không thể tránh khỏi của những nhân tài, trong một xã hội suy tàn, mạt pháp và phi luân. Nhà văn không chỉ là chứng nhân của lịch sử mà còn là lương tâm của thời đại. Điều đó thật rõ ràng trong trường hợp của Nguyễn Huy Tưởng. Hơn thế nữa, ông còn là nhà văn hóa tiêu biểu của thời ông đã sống.

Nguyễn Huy Tưởng sinh 1912, con một người hàn sĩ ở xử Kinh Bắc; Mấy khóa thi đều hỏng cả, sớm phải về cõi âm, để lại Huy Tưởng khi mới lên 7 tuổi. Rồi cậu bé phải sớm lang bạt xứ người ở đất Hải Phòng. Cái mảnh đất mà Claude Bourrin, trong cuốn Bắc Kỳ xưa - một cuốn sách khảo cứu về sân khấu, thể thao, đời sống đô thị từ 1884 đến 1893 đã ca ngợi: khi đổ bộ xuống một xứ sở mới, người Anh chỉ biết xây dựng một ngân hàng thì người Pháp xây rạp hát. Và thành phố Cảng là nơi đầu tiên nền kịch nói phương Tây đổ bộ vào. Chính ở cái thành phố hoa lệ mà đầy những cạm bẫy người ấy, nhà văn của chúng ta đã học hành một cách nghiêm cẩn và thành người lớn ở đây. Ít nhất là cũng khác so với thời còn bé ở quê. Thời đó cậu bé quê làng Dục Tú còn rụt rè và thích làm thơ, thỉnh thoảng cùng người cháu họ trốn nhà đi Lý Nhân, Mai Động xem và chính ông cũng nhảy vào hát ống. Một thứ văn nghệ bình dân 100%. Ống sữa bò dán da ếch 2 đầu, giữa giăng dây chỉ. Trai gái hát đối với nhau, thường là những đêm trăng nông thôn Việt Nam bình dị quê mùa. Có lẽ cái chất hào hoa trong văn chương Nguyễn Huy Tưởng là sự hợp lưu của 3 dòng chảy văn hóa Kinh Bắc - thành phố Cảng và Thăng Long Hà Nội âm thầm hòa quyện vào nhau.

Sau năm 1960, không hiểu Nguyễn Huy Tưởng có về làm nhà trên đất huyện Tiên Du - một vùng lúa xanh rời rợi có sông Tiêu Tương chảy ngầm dưới đất như có lần ông nói với Nguyên Hồng hay không? Ở đó ông tiếp tục nghĩ suy và mách bảo một người nào đó trong số chúng ta ở thời đại bây giờ tiếp tục viết trên cảm hứng lịch sử về những chủ đề quá khứ cũng như hiện đại? Ai mà biết được? Tháng 10/1996, Nguyễn Huy Tưởng cùng với Văn Cao, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng… và nhiều người khác đến nơi trang trọng nhất của đất nước này để nhận giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật. Lúc ấy Cửu Trùng Đài còn chưa tắt lửa sau lưng họ.

Tháng 5/2017

Nguồn: Tạp chí Văn nghệ số 23 ngày 8-6 2017

 Không có nhiều hiện tượng nổi bật như 15 năm cuối thế kỷ 20: Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, văn xuôi Việt Nam mười lăm năm đầu của thế kỷ 21 đi vào tiếng rì rầm của đời thường, cạnh tranh với các lĩnh vực nghệ thuật khác trong chinh phục công chúng. Đời sống mạng, dồn dập thông tin, người viết và người đọc như ngập trong biển lớn. Một số nhà văn trẻ Việt Nam viết theo xu hướng giải trí. Các quầy sách tràn ngập các bản in mới, đa dạng và bắt mắt về hình thức. Đã có một số nhà văn chuyên nghiệp. Văn học Việt Nam trở lại con đường hiện đại hóa và hội nhập một cách chậm chạp, sau hai cuộc chiến tranh. Một nền văn học chịu nhiều phân tán, ngập ngừng, nhiều lần mở, khép. Một nền văn học dung hợp cả các yếu tố truyền thống, hiện đại và hậu hiện đại.

1. Tiểu sử tác giả

Tác gia Thẩm Thệ Hà tên thật là Tạ Thành Kỉnh, sinh ngày 9/3/1923 tại làng Gia Lộc, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh. Cha ông là Tạ Thành Tàu, mẹ là Nguyễn Thị Tám. Sinh trưởng trong một gia đình trung lưu. Thẩm Thệ Hà học tiểu học ở Trảng Bàng, trung học ở Sài Gòn, đỗ tú tài Pháp và lập gia đình năm 22 tuổi. Ông tham gia Cách mạng từ 1945, hoạt động trong Ban điệp báo Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Năm 1949, cùng với Vũ Anh Khanh (1926 - 1956) thành lập nhà xuất bản Tân Việt Nam. Từ 1952, để kiếm sống và hoạt động trong vùng tạm chiếm, Thẩm Thệ Hà dạy Việt văn ở các trường trung học Nguyễn Văn Khuê, Chi Lăng, Tân Thanh, Đặng Văn Trước, Đức Trí, Dân Trí, Trần Hưng Đạo. Năm 1966, cùng với Tô Nguyệt Đình (1920 - 1988) thành lập nhà xuất bản Lá Dâu. Hai nhà xuất bản Tân Việt Nam và Lá Dâu đã in được nhiều tác phẩm văn chương có khuynh hướng đấu tranh cách mạng. Trước 1975, Thẩm Thệ Hà từng viết bài cộng tác và biên tập các báo và tạp chí Văn hóa, Việt bút, Đại chúng, Lẽ sống, Tiếng chuông, Tin sớm, Ánh sáng, Dân tộc, Tin lửa, Nhân loại, Tiểu thuyết thứ bảy; phụ trách mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ (1912 - 1971) giới thiệu cả những tác giả miền Bắc đương thời như Huy Cận, Thanh Tịnh, Ngân Giang, Yến Lan, Lưu Trọng Lư. Sau 1975, ông cộng tác với các báo và tạp chí Văn, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, Bách khoa văn học, Sân khấu, Sài Gòn giải phóng thứ bảy, Giác ngộ. Ông là hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh khóa đầu tiên và hội viên Hội Văn nghệ Tây Ninh. Qua một thời gian đau yếu, ông mất ngày 20/6/2009 tại TP. Hồ Chí Minh, hưởng thọ 88 tuổi.

2. Sự nghiệp văn chương

Nghiệm sinh trên cõi đời 88 năm tuổi trời và 63 năm tuổi văn, Thẩm Thệ Hà đã để lại hàng chục tác phẩm dài ngắn khác nhau, bao gồm nhiều bộ môn chuyên ngành, nhiều thể loại và thể tài, nhiều hình thức và phương thức sáng tác. Trên thực tế, số lượng tác phẩm của Thẩm Thệ Hà phân chia theo thể loại có 7 tiểu thuyết (1 tiểu thuyết còn ở dạng bản thảo), 14 truyện ngắn, 14 truyện viết cho thiếu nhi, 2 vở kịch, 2 tập thơ (di cảo), 3 tác phẩm dịch, 2 tập khảo cứu, 5 bộ sách giáo khoa, 1 tập hồi ký, nhiều bài phê bình văn học đăng báo…

Thẩm Thệ Hà đến với văn chương khi còn học trung học. Năm 1937, với bút hiệu Thành Kỉnh, ông đã có thơ đăng trên Phổ thông bán nguyệt san ở Hà Nội và các báo ở Sài Gòn như Đồng trinh, Chúa nhật, Thanh niên, Điện tín. Các bài thơ được độc giả biết đến và mang lại chút tiếng tăm cho tác giả như Trịnh Đán, Rồi mỗi chiều xuân, Dòng mơ chung thủy, Xuân thanh sắc,… Sau Cách mạng tháng Tám có các bài Trời nổi phong yên, Việt Nam mến yêu, Tống biệt hành, Khóe mắt u hoài, Trường thành sông Đua,… Thơ của ông được tập hợp thành hai tập chưa xuất bản là Thâm thúy (Thơ trước 1945) và Trời nổi phong yên (Thơ sau 1945). Về văn xuôi có các bộ ngựa cầu thu (Tân Việt - 1949), Gió biên thùy (Tân Việt - 1949), Người yêu nước (Tân Việt Nam - 1949), Đời tươi thắm (Lá Dâu - 1956), Hoa trinh nữ (Sống mới - 1957), Bạc áo hào hoa (Miền Nam - 1969), Tủi phấn thẹn hồng (bản thảo chưa in),…; các truyện ngắn Nàng Phượng tóc thề (1960), Ai nghe lòng đất quặn đau (1961), Tình yêu và lý tưởng (1989), Thằng đưa đám (1990), Lửa tình (1991), Nhan sắc tàn phai (1991), Cánh hồng lưu luyến (1993), Duyên dáng Quỳnh Như (1994), Tổ ấm chim bay (1994), Thanh mai trúc mã (1994), Nhà sư dị thường (1996),…; truyện viết cho thiếu nhi Bài học thương nhau, Con chim xanh, Tàn giấc mơ tiên, Tiểu anh hùng, Thần điểu và hoa hồng, Thiên tài lạc lối, Nhân ngư công chúa, Ngọc tuyền thảm sử,…; biên khảo Việt Nam trên đường cách mạng tân văn hóa (1949); dịch tiểu thuyết Con đường cứu nước (Maroussia của P. J. Satahn, Nam Việt - 1947) và Mũi tên đen (The Black Arrow của S. L. Stevenson, Sống mới - 1965).

Với những đóng góp quan trọng cho văn học và Cách mạng giải phóng dân tộc, Thẩm Thệ Hà được ghi nhận là “một nghệ sĩ đa năng” (Hoàng Tấn, trong Thanh Việt Thanh: Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, 1993, tr.12), “Một cấy bút khả kính” (Trần Hữu Tá, Một cây bút khả kính, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9 - 2003, ra ngày 9 - 3 - 2003, tr. 24), tác phẩm của ông có mặt trong một số chuyên luận và tuyển tập như Thi nhân Việt Nam hiện đại của Phạm Thanh, Thi ca Việt Nam hiện đại của Trần Tuấn Kiệt, Thơ mùa giải phóng (Nxb Sống chung), Văn chương tranh đấu miền Nam của Nguyễn Văn Sâm, Tuyển tập thơ, truyện ngắn Thành phố Hồ Chí Minh (Kỉ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh), Thẩm Thệ Hà - thân thế và sự nghiệp của Thanh Việt Thanh, Nhìn lại một chặng đường văn học của Trần Hữu Tá, Từ điển Văn học (bộ mới) của nhiều tác giả, Văn học nơi miền đất mới của Nguyễn Q. Thắng,… Điều đó cho thấy tác giả xứng đáng có một chỗ đứng trong lịch sử văn học, đặc biệt là văn học Nam Bộ.

Lĩnh vực để lại nhiều dấu ấn nhất của Thẩm Thệ Hà chính là văn xuôi và những tác phẩm có giá trị nhất tập trung chủ yếu trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp. Trong giai đoạn 1945 - 1954, ông sáng tác tổng cộng 3 bộ tiểu thuyết: ngựa cầu thu, Gió biên thùy, Người yêu nước. Ba bộ tiểu thuyết này đều được xuất bản năm 1949. Tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà sở dĩ được hoan nghênh vì “chủ đề rất tập trung, nhất quán: sự trăn trở và động viên nhau tìm đến với lý tưởng cứu quốc của thế hệ thanh niên trong một bối cảnh không gian xác định (miền Nam Việt Nam) và trong một thời gian cụ thể (Những năm trước Cách mạng tháng Tám 1945 và những ngày đầu toàn quốc kháng chiến chống Pháp)”1.

Vó ngựa cầu thu là một trong những tiểu thuyết biểu của Thẩm Thệ Hà viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám. Sơn sinh ra trong một gia đình trưởng giả và sớm có tư tưởng cách mạng. Chàng từng theo một chiến sĩ Quốc dân đảng sang Trung Quốc và học Trường võ bị Hoàng Phố. Sơn xót xa vì những nghĩa sĩ của phong trào phải lên đoạn đầu đài. Từ nước ngoài, chàng và những người đồng chí nhận thấy các quan niệm quốc gia cổ truyền của ta không còn hợp nữa. Sơn và người đồng chí tên là Thái vượt biên giới về nước gây cơ sở phong trào trong nước.

Sơn và Thái tạm chia tay nhau vì Thái có việc riêng gia đình. Trên đường đi, Sơn tình cờ ngụ trong nhà của một cụ già yêu nước muốn lập lại chế độ phong kiến. Cụ từng có liên hệ với các sĩ phu trong phong trào Cần vương. Sống với cụ có hai người cháu là Phương Lan và Phượng Nhi. Phương Lan - người cháu lớn, nết na xinh đẹp chịu ảnh hưởng sâu sắc tinh thần phục cổ của cụ. Ba tháng sống trong không khí thân tình, đùm bọc của ba ông cháu nhà chí sĩ, Sơn có cơ hội hướng tâm hồn Phương Lan theo cách suy nghĩ và hành động phù hợp với tình hình hiện tại của đất nước. Tình yêu bắt đầu nảy nở giữa Sơn và Lan. Thế nhưng, vì đất nước, Sơn phải chia tay ông cháu Phương Lan để cùng Thái thi hành nhiệm vụ bí mật.

Trên đường lên Bắc Sơn, Sơn và Thái bị bắt giam. Họ đang tìm cách vượt ngục thì có người đến cứu thoát. Trên đường chạy trốn Sơn tự nghĩ mình đừng nên mơ tưởng về Phương Lan nữa. Nhưng không ngờ, chính Phương Lan là người cứu sống chàng và Thái, sau đó nàng bị truy đuổi và hi sinh. Phương Lan đã giác ngộ theo con đường của Sơn. Trước khi nhắm mắt trong vòng tay của Sơn, Phương Lan đã xúc động “từ ngày nghe được lời anh em đã giác ngộ. Em đã theo hai anh từng bước, tiếc thay em không phải là một chiến sĩ có tài... Chết vì nghĩa vụ là danh dự của người chiến sĩ, được chết trên tay anh là diễm phúc của em rồi”.

Nội dung Vó ngựa cầu thu cho thấy dự đồ sáng tạo của tác giả: viết về những con người trẻ tuổi đi theo cách mạng. Không khí truyện khiến chúng ta nghĩ đến phong trào khởi nghĩa Yên Bái. Tiếng vọng của cuộc khởi nghĩa Yên Bái cùng sự hi sinh của các nhà cách mạng có tác động ít nhiều đến ngòi bút Thẩm Thệ Hà. Thế nhưng, về mặt hình tượng văn chương, Sơn và Thái là sự tiếp nối các hình tượng người chiến sĩ cách mạng trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn: có nhiều sự đồng cảm với nhân dân, sẵn sàng quăng mình vào gió bụi. Tuy vậy, khác với các nhân vật Dũng, Thái, Tạo trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, các nhân vật của Thẩm Thệ Hà đã có những ý hướng, lý tưởng cụ thể trong hành động. Nổi bật trong Vó ngựa cầu thu chính là mối tình giữa Sơn và Lan. Tình yêu của họ được ngòi bút tác giả thể hiện theo kiểu tình yêu trong các cuốn tiểu thuyết theo khuynh hướng lãng mạn, có kết thúc buồn. Hình ảnh Sơn và Lan đi chơi Tùng Lâm rồi suối Ngọc Tuyền đã là một dự cảm buồn cho kết cục một cuộc tình. Cốt truyện Vó ngựa cầu thu nhẹ nhàng, không phức tạp, ít có những xung đột. Tác giả tỏ ra khéo léo trong việc mô tả tâm trạng của Sơn và Lan, những cung bậc tình cảm của hai người đang yêu trong một không gian truyện cổ kính.

Nếu Vó ngựa cầu thu viết về những năm trước Cách mạng tháng Tám thì Người yêu nước viết về không khí của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Người yêu nước viết về những trí thức trên đường đến với cách mạng. Ngay lời phi lộ, tác giả đã cho biết mình chủ trương viết theo khuynh hướng “Văn chương tranh đấu”. Viết về những trí thức thành thị hẳn Thẩm Thệ Hà có nhiều thuận lợi. Công việc dạy học và sinh hoạt ở thành thị đã cung cấp cho ông những trải nghiệm quý báu khi viết về những con người này. Vũ, nhân vật chính của truyện, sinh ra trong gia đình giàu có, thích đọc sách tư tưởng và làm thơ, con quan tri phủ. Phượng, người bạn gái của Vũ, xinh đẹp, từ thuở nhỏ đã say mê nghệ thuật. Bão, sinh ra trong gia đình nghèo khó và là bạn học của Vũ. Từ khi chia tay Vũ ở trường học, Bão giác ngộ và đi theo cách mạng nhờ sự hướng đạo của giáo sư T và các bạn trong tù. Họ gặp lại nhau trong một hoàn cảnh đặc biệt: Bão bị bắt và tạm giam nơi dinh thự của quan tri phủ. Cuộc gặp gỡ nơi hầm tối nhà giam đã làm thay đổi cuộc đời của Vũ. Những cuộc tiếp xúc với Bão đã làm chàng hiểu được vẻ đẹp của lý tưởng cách mạng. Từ một người sống mộng mơ, làm thơ ủy mị và ít có mối liên hệ với quần chúng, Vũ từ bỏ gia đình và cuộc sống sung túc để bước vào con đường hoạt động cách mạng. Hành động cao đẹp và tình yêu trong sáng của Vũ đã giác ngộ Phượng đi theo lý tưởng cách mạng. Và cũng chính cô đã giác ngộ cho cha mình con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc. Phượng trở thành cán bộ chỉ huy lực lượng vũ trang cách mạng bên cạnh Vũ và Bão. Trong một trận đánh, cô bị bắt giam nhưng vẫn giữ vững khí tiết của người chiến sĩ cách mạng. Phượng bị thực dân kết án tử hình. Nhờ sự can thiệp của một người Pháp, trước đây thọ ơn cha con cô trong cuộc bố ráp của hiến binh Nhật, Phượng được giảm xuống án chung thân. Trong tù, Phượng viết cho Vũ một bức thư thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng.

Người yêu nước ra đời được báo chí tiến bộ đương thời đánh giá rất cao. Dương Tử Giang (1918 - 1956) nhà văn cùng thế hệ với Thẩm Thệ Hà đã viết trên Nguồn sống (số 3): “Người yêu nước có lẽ là quyển truyện dài khá nhất đã xuất bản từ sau chiến tranh đến ngày truyện ấy ra đời”; Nguyễn Bảo Hóa (bút hiệu Tô Nguyệt Đình) viết trên báo Ánh sáng (số 346-347): “Sáng tác được một tác phẩm như Người yêu nước chẳng phải là một việc dễ. Tác giả đã tỏ ra sự cố gắng trong lúc ghi chép những phản ảnh của thời đại, nó đánh dấu một biến chuyển lớn lao của nền văn hóa nước nhà”; Việt báo (số 4) cũng nhận định: “Hành văn trong sáng và linh hoạt. Cốt truyện cảm động và ý nhị. Có thể nói đó là tác phẩm đặc sắc nhất của tác giả, và Thẩm Thệ Hà đã thành công ở công cuộc biểu dương nền ‘văn chương tranh đấu’ với tác phẩm này”.

Người yêu nước viết về cuộc sống xã hội của những con người, đặc biệt là những thanh niên trí thức, trước cách mạng tháng Tám và những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Vũ là nhân vật tiêu biểu cho lớp thanh niên trí thức thành thị, sống sung sướng, những ngày đầu cuộc kháng chiến còn bỡ ngỡ, hoài nghi. Sau khi được Bão giác ngộ, Vũ đi theo cách mạng và cảm thấy ngạc nhiên với sự thay đổi của mình. Chàng lặn lội khắp các vùng quê hẻo lánh và đem những hiểu biết của mình dạy cho những người dốt nát. Vũ nhận ra rằng cách mạng chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ. Điều kiện đủ chính là sự hưởng ứng nhiệt liệt của quần chúng nhân dân lao động. Bởi “cách mạng là ngày hội của quần chúng nhân dân”, “dân là gốc” là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của mọi cuộc cách mạng. Trong Người yêu nước ta thấy xuất hiện một kiểu nhân vật tương đối gần gũi với kiểu nhân vật mà sau này trở thành phổ biến trong các tác phẩm văn xuôi giai đoạn chống Mỹ cứu nước: nhân vật “người Đảng”. Nhân vật “người Đảng” là nhân vật đã giác ngộ và đi theo cách mạng rồi quay trở lại tác động, giác ngộ cho những nhân vật khác. Trong Người yêu nước: Bão giác ngộ cho Vũ; Vũ giác ngộ cho Phượng; Phượng lại giác ngộ cho cha mình. Trong tiểu thuyết Vó ngựa cầu thu, nhân vật Sơn cũng có một kiểu thức như vậy. Sơn đã giác ngộ cho Lan Phương. Những nhân vật như Vũ, Sơn có những nét gần gũi với A Châu trong Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, Thế trong Đất nước đứng lên và Quyết trong Rừng xà nu của Nguyên Ngọc, Chị Ba Dương trong Một chuyện chép ở bệnh viện của Bùi Đức Ái,… đó là nhân vật xuất hiện để giác ngộ quần chúng đi theo cách mạng. Với họ, tình yêu của cá nhân, nhiệm vụ đối với gia đình đành tạm gác lại và dành tất cả sức lực, trí tuệ cho nhiệm vụ cứu nước. Họ đến với cách mạng với tinh thần tự nhiệm. Hình ảnh của Vũ khiến chúng ta không thể không liên tưởng đến nhân vật Dũng trong Đoạn tuyệt của Nhất Linh (1905 - 1963). Cũng như Dũng, Vũ cảm thấy khổ sở và dằn vặt trước đời sống sung túc của mình và muốn làm một điều gì đó có ích cho giới cần lao. Và cuộc “tìm đường” của Vũ cũng khiến ta nhớ đến những trí thức tìm đường và nhận đường trong Đôi mắt của nhà văn Nam Cao (1915 - 1951). Người yêu nước có nhiều trường đoạn về sự triết lý con đường giải phóng dân tộc của những người trí thức. Cũng có lúc họ dao động, mất niềm tin vào “đám cần lao, cùng khổ, thất học” nhưng rồi chính họ lại tự đánh tan ngờ vực và thấy ở khối người đó có sức mạnh to lớn. Nguyễn Văn Sâm có lý khi cho rằng Người yêu nước đã thể hiện một “diễn trình ý thức cách mạng”2 của tác giả. Người yêu nước là tác phẩm có chiều sâu nhất của Thẩm Thệ Hà: giọng kể thay đổi linh hoạt khi thì ngôi thứ nhất, khi thì ngôi thứ ba; cuộc sống và cách mạng được thể hiện qua điểm nhìn từ nhiều phía của các nhân vật. Nó xứng đáng được xem là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất trong văn nghiệp của nhà văn.

3. Thẩm Thệ Hà và con đường cách mạng tân văn hoá

Viết về chân dung phê bình văn học Thẩm Thệ Hà trước 1954 cần tập trung vào cuộc bút chiến trao đổi giữa nhóm Chân trời mới Tân Việt Nam trên Việt bútTiếng chuông.

Trong bài viết Tâm sự của nhà phê bình trước thềm năm mới, Thẩm Thệ Hà tâm sự về công việc giữ mục “Phê bình sách mới” trên tạp chí Phổ thông: “Tôi rất ái ngại khi nhận phụ trách mục “Phê bình sách mới”. Nhiều nhà phê bình đã than phiền với tôi rằng: “phê bình thẳng thắn thường hay bị đụng chạm. Nhà phê bình bị oán ghét nhiều hơn là được khích lệ”. Chính tôi cũng công nhận điều nhận xét ấy: phê bình thiên lệch, ca ngợi vì tình cảm cá nhân sẽ bị độc giả khinh bỉ; phê bình khách quan, chỉ trích thẳng tay sẽ bị nhà văn, nhà thơ ác cảm. Vậy thì nhà phê bình biết trọng thiên chức, sứ mạng của họ thật khó khăn và bạc bẽo biết bao. Tôi thường nghĩ: “sinh hoạt văn nghệ thiếu phê bình sẽ trở nên tẻ nhạt. Phê bình rất cần để đem lại sinh khí mới mẻ cho vườn hoa nghệ thuật” vì vậy tôi không ngại sứ mạng khó khắn và bạc bẽo, vui vẻ cầm bút phê bình sách mới cho tạp chí Phổ thông” (Tâm sự của nhà phê bình trước thềm năm mới, Tạp chí Phổ thông, số 120, 1964). Đó là tâm sự của một người có “thâm niên” trong lĩnh vực phê bình văn học trước 1954.

Nhóm Chân trời mới chủ trương Văn chương tả chân xã hội (tức văn chương hiện thực xã hội chủ nghĩa), còn nhóm Tân Việt Nam và nhiều nhà văn độc lập khác chủ trương Văn chương tranh đấu. Nhóm Chân trời mới đại diện là Thiên Giang và Thê Húc, “phủ nhận văn chương tranh đấu” (lời Thẩm Thệ Hà), vì vậy xảy ra cuộc bút chiến hàng mấy tháng trời trong năm 1948 trên các báo Việt bút, Tiếng chuông giữa Thẩm Thệ Hà và Thiên Giang, Thê Húc. Các bài viết trên Việt bútTiếng chuông về sau được tập hợp và biên tập thành cuốn Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá.

Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá có tác động đối với đời sống văn học và định hình thiên hướng của gương mặt phê bình Thẩm Thệ Hà trong đường hướng: đọc văn chương như một hoạt động văn hoá để bảo vệ dân tộc. Trong tác phẩm này, ông đã viết: “Sau khi phong trào giải phóng bột khởi, văn hoá Việt Nam bước qua một giai đoạn mới: văn hoá là một lợi khí sắc bén để tranh đấu cho sự mất còn của một dân tộc. Văn chương là một hoạt động của văn hoá, lẽ tức nhiên cũng góp phần nào vào cuộc tranh đấu ấy. Trước ngày giải phóng, văn chương là một lợi khí vị nhân sinh, nay vì lẽ tồn vong của nước nhà mà chuyển thành một lợi khí tranh đấu” (Việt Nam trên đường cách mạng Tân văn hoá, Tân Việt, 1949, tr.40). Tinh thần ấy cũng được tác giả nhắc lại trong lời tựa tiểu thuyết Người yêu nước (1949).

Thẩm Thệ Hà viết phê bình có quan điểm và sứ mệnh rõ ràng. Giữa quan điểm phê bình và ý hướng sáng tác của ông là khá thống nhất. Ông viết nhiều bài phê bình sau 1954 khi phụ trách chuyên mục “Phê bình sách mới” và “Những áng thơ hay” trên tạp chí Phổ thông (1958 - 1965) của Nguyễn Vỹ. Nhìn chung, tác giả vẫn giữ được phong cách và quan niệm về phê bình trên Việt bútTiếng chuông.

Nghiên cứu phê bình văn học, Thẩm Thệ Hà thiên về phương pháp phê bình lịch sử xã hội. Trong các bài viết, ông cho thấy sự bao quát lịch sử xã hội đồng thời là sự cảm thụ tinh tế. Cần chú ý, bên cạnh những bài phê bình văn học, các sách nghị luận, giảng văn (chủ yếu sau 1954) cũng cho thấy rõ xu hướng thẩm bình của ông.

Tác giả là cây bút sở trường văn xuôi đồng thời lại có khả năng thẩm định thơ tinh tế (tác giả cũng là một người làm thơ, bắt đầu bước vào con đường văn nghệ bằng những vần thơ).

Phong cách chuẩn mực nơi ngòi bút Thẩm Thệ Hà có lẽ do ảnh hưởng từ học vấn và nghề nghiệp (ông sống chủ yếu bằng nghề dạy học), ông đặc biệt yêu thích và tỏ ra tinh tế nơi những tác phẩm gắn với môi trường giáo dục?

4. Tạm kết

Có thể thấy, so với thời kỳ trước 1954, văn phong của Thẩm Thệ Hà không mấy thay đổi, có chăng là trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực cuộc sống. Trước đây văn ông đầy chất lãng mạn, lạc quan thì nay lại thêm dư vị đắng cay, đôi chút đượm buồn. Các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà dù được viết sau 1945 nhưng nhiều nhân vật vẫn mang hơi thở của các nhân vật thời tiểu thuyết Tự lực văn đoàn. Những Sơn và Lan (Vó ngựa cầu thu), Vũ và Phương (Người yêu nước), Thúy (Đời tươi thắm) dù sống trong thời chiến nhưng họ vẫn mang những tâm tình lãng mạn, có lúc họ mơ mộng viển vông, chìm đắm trong những nỗi buồn vô cớ. Thế nhưng, điểm làm cho người đọc yêu thích nhân vật của Thẩm Thệ Hà chính là nhờ vào quá trình thay đổi nhận thức của họ trước thời cuộc. Con người trong tiểu thuyết Thẩm Thệ Hà được miêu tả sẵn sàng hi sinh tình yêu riêng tư cho hạnh phúc chung của toàn dân tộc. Tình yêu nhiều khi đóng vai trò là động lực tinh thần giúp cá nhân vượt qua khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ đối với đất nước.

Nhận xét về các tiểu thuyết của Thẩm Thệ Hà, nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá cho rằng: “Thời gian qua đi, giờ đây đọc lại người đọc dễ thấy những khiếm khuyết của tác giả về phương diện dựng truyện, khắc họa tính cách tâm lý… nhưng vẫn không thể không xúc động: người viết đã gửi vào trang sách của mình một tấm lòng nặng tình với đất nước”. Cái làm nên tầm vóc Thẩm Thể Hà đúng là qua trang sách tác giả đã thể hiện được tấm lòng “nặng tình với đất nước” và chúng tôi xinh nhấn mạnh thêm điểm quan trọng khác chính là ở sự chân thật trong ngòi bút và nhân cách trí thức của nhà văn(3).

 

Chú thích:

  1. Nhiều tác giả: Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, 2004, tr.1643.
  2. Nguyễn Văn Sâm: Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xb, Sài Gòn, 1969, tr.150.
  3. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh (ĐHQG-HCM) trong khuôn khổ đề tài mã số 2013B-18b-05.

 

 

Tài liệu tham khảo

  1. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới.
  2. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh, tập III, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  3. Trần Tuấn Kiệt (1967), Thi ca Việt Nam hiện đại 1880 - 1965, Khai Trí xuất bản, Sài Gòn.
  4. Võ Văn Nhơn (1997), “Văn xuôi yêu nước và tiến bộ trong các thành thị bị tạm chiếm (1945 - 1954)”, Tập san Khoa học Xã hội & Nhân văn, số 5.
  5. Trần Hữu Tá (2003), “Một cây bút khả kính”, Tuổi trẻ chủ nhật, số 9, ra ngày 9 /3/2003.
  6. Trần Hữu Tá (2000), Nhìn lại một chặng đường văn học, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  7. Thanh Việt Thanh (1993), Thẩm thệ Hà - thân thế và sự nghiệp, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
  8. Nguyễn Q. Thắng (2008), Văn học Việt Nam nơi miền đất mới, Nxb Văn học, Hà Nội.
  9. Nguyễn Văn Sâm (1969), Văn chương tranh đấu miền Nam, Kỷ Nguyên xuất bản, Sài Gòn.
  10. Nguyễn Văn Sâm (1972), Văn chương Nam Bộ và cuộc kháng Pháp 1945 - 1950, Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn.
  11. Nguyễn Thị Thanh Xuân (1998), Nhìn lại văn học kháng chiến chống Pháp ở Nam Bộ (1945-1954), In trong Bình luận văn học, niên giám 1997, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí khoa học Văn hóa và Du lịch, số 2&3 (82&83), tháng 3&5/2016

Tóm tắt

Trong giai đoạn đầu của nền quốc văn, du ký quốc ngữ phát triển sôi nổi như một thể tài tiên phong mang nhiệm vụ tiếp biến nền văn học. Từ những tác phẩm khởi đầu với quy mô, tầm vóc lớn như “Sách sổ sang chép các việc” của Philipphê Bỉnh, “Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký đến hai du ký bằng thơ trường thiên của Trương Minh Ký, “Như Tây nhựt trình”, ‘Chư quấc thại hội”, du ký đã chứng minh được sự tiếp nối vững chắc của nền văn chương mới. Nhiệm vụ tiếp biến nền quốc văn của du ký xuất phát từ hiện thực lịch sử đất nước, biến động xã hội như nhu cầu đi để duy tân, tự cường, sự bế tắc của lớp nhà nho trước nhiệm vụ mới của lịch sử, sự phát triển của các điều kiện giao thông…

“Cuốn Thơ văn Lý-Trần, Tập II, Quyển Thượng do Nguyễn Huệ Chi làm chủ biên, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội ấn hành tại Hà Nội vào năm 1988.

[…] Theo tôi tìm hiểu thì bộ này hiện được giới nghiên cứu văn học, nhất là sinh viên chọn làm sách tham cứu tư liệu văn học Lý-Trần đáng tin cậy. Bản thân chúng tôi cũng rất trân trọng bộ sách này và nghĩ rằng phải lâu về sau mới có một bộ khác cùng thể loại có giá trị tốt hơn. Công của nhóm Nguyễn Huệ Chi đối với nền văn học nước nhà nói chung và văn học Lý-Trần nói riêng thật đáng quý. Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm thì bộ sách này vẫn còn những chỗ sơ sót cần phải góp ý để cho viên ngọc bích còn có chút gợn được hoàn toàn bóng láng. Vì lý do sức khỏe nên chúng tôi mới góp ý cho Quyển Thượng, Tập II bộ Thơ văn Lý-Trần (và cũng chưa góp ý trọn vẹn, tạm dừng ở trang 548). Hy vọng khi sức khỏe hồi phục, chúng tôi sẽ góp ý tiếp. Việc làm của chúng tôi chỉ là thành toàn giá trị cho viên ngọc bích mà thôi. Những kiến giải góp bàn của chúng tôi chỉ là những hiểu biết chủ quan, mong ông Nguyễn Huệ Chi và các bậc thạc học túc Nho vui lòng chỉ dạy lại để tôi có dịp học tập và sửa chữa lỗi lầm. Hân hạnh thay!”

Bài viết của Hậu học Song Hào Lý Việt Dũng. Xin xem toàn văn trong tập tin đính kèm.

Trần Phong Sắc (1873?-1928?)([1]) là nhà văn, soạn giả cải lương, dịch giả tiểu thuyết Trung Quốc nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Tên thật là Trần Đình Diệm, bút danh Đằng Huy, tự là Phong Sắc([2]). Người làng Tân An, tỉnh Tân An, nay thuộc thành phố Tân An, tỉnh Long An.

Trong bối cảnh từ sau thời đổi mới, văn học Việt Nam chứng kiến những thay đổi khá bất ngờ. Đặc biệt bước vào thời hội nhập, toàn cầu hóa từ cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, không gian sáng tác ngày nay không chỉ giới hạn ở một quốc gia, một vùng lãnh thổ. Chúng tôi gọi là những sáng tác “xuyên quốc gia” (transnational). Việc miêu tả cuộc sống không chỉ trong quá khứ mà thường là những tiến trình đang xảy ra, vì những quan hệ xuyên quốc gia càng ngày càng phổ biến, nếu không muốn nói chúng đã biến thành kinh nghiệm phổ quát của đa số con người trên mặt đất ở thế kỷ chúng ta. Chuyện du lịch, làm việc, định cư tại một nước khác không còn là chuyện xa lạ hay thiểu số để trở thành một đề tài mang tính chất bi kịch nữa.

 1. Trang Thế Hy, cây bút truyện ngắn quen thuộc

Trang Thế Hy (1924 – 2015), tên thật Võ Trọng Cảnh, là một trong những cây bút tiêu biểu thuộc hàng ngũ nhà văn yêu nước vùng đô thị miền Nam trước 1975, đồng thời là “cây cổ thụ của văn học Nam Bộ” (Ngô Thảo) thời kỳ hiện đại. Ngày 08-12-2015 vừa qua, tại quê nhà huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, “ông đầu bếp già” từng nấu cho thực khách văn chương nhiều món ngon nhớ đời ấy đã vĩnh viễn “đi chỗ khác chơi” (chữ của Trang Thế Hy) khi ở tuổi 91, để lại niềm tiếc thương cho bạn đọc nhiều thế hệ về một ngòi bút tinh tế, mẫn tiệp, thâm trầm, pha chút hài hước, hóm hỉnh.

Thông tin truy cập

66236813
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1411
19896
66236813

Thành viên trực tuyến

Đang có 638 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website