1. Trong các tác gia văn xuôi vùng đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, Bình Nguyên Lộc là nhà văn có số lượng tác phẩm đã viết và đã xuất bản thuộc vào hạng nhiều nhất. Các sáng tác của ông ít nhiều đã có ảnh hưởng tích cực đến đời sống sáng tác và con người Nam Bộ trước đây cũng như bây giờ.

Xuan DungNguyễn Thị Xuân Dung sinh năm 1985, sinh viên lớp  Cử nhân tài năng chuyên ngành Văn học, Khoa Văn học và Ngôn ngữ, khóa 2003 – 2007. Hiện đang học Cao học chuyên ngành Văn học Việt Nam tại Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Công tác tại Đại học Văn Lang.

 

 

Chiến tranh tàn phá về vật chất, gây nên những mất mát đau thương trên thân thể, trong tâm hồn, nhưng trước hết và trên hết, nó đã làm ức chế, tước đoạt những nhu cầu tự nhiên nhất của bản năng con người.

 

l

              Rất tiếc do binh lửa, thiên tai nên quyển luận thuyết triết lý Thiền tông chỉ nam không còn. Hiện chỉ còn lại bài Tựa của sách mà người đời sau khắc in chung trong Khoá hư lục của cùng tác giả. Không hiểu tại sao trong cuốn sử Phật giáo viết bằng tiếng Pháp Le Bouddhisme en Annam des origines au XIIIe siècle của Trần Văn Giáp và sau đó ít lâu trong cuốn Việt Nam Phật giáo sử lược (1942) của Mật Thể đều khẳng định “sách còn truyền đến ngày nay”. Việc sách còn hay mất không thuộc phạm vi bài viết này (dù cho đến nay vẫn chưa tìm thấy). Có điều, tài liệu cũ cho biết người xưa đã đánh giá rất cao “Ôi! Tâm của các Đức Phật ở cả trong này, sao không in thành sách để chỉ dạy cho hậu thế” như lời của Trúc Lâm đại sa môn mà tác giả sách có ghi lại trong bài Tựa; hay như Mật Thể đã xem nó là “báu vật trong vườn Thiền Việt Nam” (Việt Nam Phật giáo sử lược).

Nguyen TraiXưa nay người ta nói nhiều về thơ Nôm của Nguyễn Trãi, nổi bật vẫn là hình ảnh mùa xuân hiện ra thật phong phú, tươi trẻ và sống động. Nếu trong thơ Nôm Nguyễn Trãi “mùa xuân được cảm nhận như là biểu tượng của vẻ đẹp hoàn mỹ, hoàn chỉnh, phổ biến” thì còn một mùa xuân suy tư và ẩn ức, có vẻ già cỗi hơn, riêng tư hơn, chất chứa những nỗi niềm sâu lắng bàng bạc trong dòng thơ chữ Hán của ông.

Hoang Hung

1. “Người thơ phong vận như thơ ấy” - hành trình thơ và đời Hoàng Hưng

Ròng rã suốt một năm đi dọc sông Dương Tử để quên đi bệnh tật và lo âu, Cao Hành Kiện đã hoàn tất Linh Sơn, kiệt tác đưa ông đến giải thưởng Nobel danh giá. Trước đó gần ba trăm năm, lang thang trên con đường sâu thẳm tìm kiếm vẻ đẹp tinh thần Nhật Bản, Basho trở thành hành giả - thi nhân, người mà đến nay vẫn được xem là biểu tượng cho sức sống kỳ diệu của thơ Haiku, của hồn thiền Nhật Bản.

Lễ tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần tại trụ sở Báo Giác Ngộ - Ảnh: Quảng Đạo
Lễ tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần tại trụ sở Báo Giác Ngộ - Ảnh: Quảng Đạo

Giáo sư Huỳnh Như Phương là người viết bài tựa giới thiệu tác phẩm sau cùng của Giáo sư Cao Huy Thuần, “Im lặng như lời chia tay”, xuất bản trong nước cuối năm 2022. Sau đây là nội dung bài phát biểu của ông trong lễ tưởng niệm Giáo sư Cao Huy Thuần tại Báo Giác Ngộ ngày 14-7 vừa qua, trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả.

***

Giáo sư Cao Huy Thuần (1937-2024) qua đời vừa tròn một thất. Ngày mai 15-7-2024, tang lễ giáo sư sẽ được tổ chức ở Paris. Theo đề nghị của Thượng tọa Tổng Biên tập Báo Giác Ngộ, từ xa xôi, với tư cách là một độc giả của giáo sư, tôi viết những dòng này tưởng niệm và đưa tiễn nhà hoạt động văn hóa - giáo dục đầy tâm huyết và tài năng của đất nước.

Là kẻ hậu sinh, tôi được gặp Giáo sư Cao Huy Thuần rất muộn sau nhiều năm đọc sách của ông. Đó là dịp hội thảo kỷ niệm 50 năm pháp nạn Phật giáo, tổ chức ở Bình Dương năm 2013. Sau đó là những lần gặp gỡ ở chùa Linh Thái với Hòa thượng Thích Trung Hậu, ở lễ trao Giải thưởng Văn hóa Phan Châu Trinh, ở Đại học Hoa Sen, vui nhất là cuộc giao lưu ở Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM trong không khí thân tình, cởi mở.

20240815Giáo sư Huỳnh Như Phương phát biểu cảm nghĩ về Giáo sư Cao Huy Thuần tại trụ sở Báo Giác Ngộ ngày 14-7-2024 - Ảnh: Quảng Đạo

Nói chuyện với ông, tôi mới biết là ông sinh ra ở làng Phú Lộc, huyện Bình Sơn, quê hương Quảng Ngãi của tôi, lúc thân phụ ông dạy học ở đó, và đến năm 1946, khi lên chín, ông theo gia đình chuyển về quê mẹ Quảng Trị, rồi một năm sau mới về lại nguyên quán Thừa Thiên. 

Những lần gặp gỡ đó đều ở chỗ đông người, mà tôi thì có nhiều nỗi phân vân muốn giãi bày riêng với ông, một bậc tiền bối từng chứng kiến những biến cố lịch sử đã gián cách qua thời gian. Nhờ có internet, qua những email tôi có thể trình bày với ông những hoài nghi và lo âu của mình về hôm qua và hôm nay. Tôi muốn tìm ở ông những gợi ý để ứng xử với những nghịch lý của thời thế. Có những điều ông trả lời trực tiếp, có điều ông trả lời bằng ẩn dụ, có điều ông im lặng để tôi tự suy nghĩ.

Không có nỗi buồn nào dai dẳng như nỗi buồn xa xứ. Nhưng email của người-hoài-hương-Cao-Huy-Thuần thường truyền cho tôi niềm vui, nỗi hy vọng, và đôi khi không tránh khỏi nhuốm màu ảo vọng. Điều hạnh phúc, là qua email của ông, tôi được kết nối về tinh thần với những người đồng cảm. Khi viết xong một bài văn tâm đắc hay có một thông tin quý giá, bao giờ ông cũng chia sẻ cho những bạn văn phương xa mà ông quý mến. Đó những bài báo được đăng trên Giác NgộLiễu Quán và Văn Hóa Phật Giáo; thông điệp hòa bình của Thiền sư Thích Trí Quang gần 60 năm trước; luận án công phu của Tiến sĩ Nguyễn Thùy An mới bảo vệ tháng 5 năm ngoái. Ông không giấu nỗi băn khoăn khi bài phỏng vấn về báo Lập Trường thực hiện đã ba năm mà không được công bố; rồi lại bày tỏ sự mãn nguyện khi nội dung đó được thể hiện trong tham luận của PGS.Nguyễn Dịu Hương tại một cuộc hội thảo ở Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Berkeley mới tổ chức tháng 4 vừa rồi.

Bài học lớn mà tôi học được ở Giáo sư Cao Huy Thuần là sự hòa ái và trân quý đối với con người, đặc biệt với tuổi trẻ; trân quý đối với sự sống, với từng cành cây, ngọn cỏ, bông hoa. Hồi tôi hướng dẫn sinh viên Lâm Ninh Quốc Hương làm khóa luận tốt nghiệp về tản văn của Cao Huy Thuần, tôi giới thiệu cô liên lạc với ông và những trao đổi giữa hai người cách xa nhau về tuổi tác, danh vọng thật là dân chủ. Khóa luận bảo vệ thành công rồi, nhưng nghe tôi nhận xét là vẫn chưa được như kỳ vọng, thì ông bảo “người tuổi đôi mươi bây giờ mà chịu khó ngồi đọc kỹ mấy tập sách của tôi, rồi suy nghĩ, phân tích, bình luận một cách chân thành như vậy, thì anh còn đòi hỏi gì nữa”.

Khi Im lặng như lời chia tay ra mắt, nghe ông bảo đó là cuốn sách cuối cùng của ông, tôi nhắc ông còn hai món nợ nữa: một cuốn sách ghi lại những hồi ức và một tập truyện ngắn. Ông trả lời là không định viết hồi ký nhưng ngạc nhiên về sự quan tâm của tôi đối với những văn bản hư cấu của ông. Thật bất ngờ, năm ngoái chúng tôi nhận tin bộ sách giáo khoa “Kết nối tri thức với cuộc sống” đã chọn văn bản truyện Cây diêm cuối cùng của Cao Huy Thuần đưa vào chương trình giảng dạy cho học sinh lớp 11. Và mới đây, báo Vietnam News đã dịch ra tiếng Anh truyện ngắn Kể cho nhau nghe của ông để giới thiệu với độc giả nước ngoài.

Cho phép tôi nói thêm một chút về truyện ngắn Cây diêm cuối cùng. Truyện này Cao Huy Thuần viết đã lâu, khi nghe tin diễn ra cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng có cùng đường biên giới trên dãy Hy Mã Lạp Sơn. Truyện kể rằng, sau trận đánh, một người lính lạc đơn vị trong bão tuyết mịt mù, đánh rơi hết vũ khí và quân trang, bỗng tìm thấy chỗ trú ẩn trong một ngôi chùa nhỏ dựa lưng vào núi. Thiếp đi vì kiệt sức, khi tỉnh dậy anh đối diện với một tình thế hiểm nghèo: từ một góc chùa, một người lính của phe địch đang cầm súng chĩa thẳng về phía anh.

Thời gian trôi qua, nếu không biết cách tự cứu, chắc cả hai rồi sẽ cùng chết cóng trong đêm. Dưới họng súng đe dọa của kẻ thù, anh đi tìm tấm ván mục, cành cây khô và con dao chẻ củi để nhóm lên một bếp lửa. Nhưng cái bật lửa của anh đã rơi mất rồi. Kẻ địch, vẫn ghìm chắc tay súng, ném cho anh một bao diêm nhỏ và một tờ giấy đang viết dở làm mồi lửa. Que diêm thứ nhất, thứ hai, thứ ba rồi thứ tư vừa bật cháy đều tắt ngúm dưới bàn tay run của anh. Chỉ còn que diêm cuối cùng quyết định số phận của cả hai. Ngay lúc đó, người lính bên kia nhảy đến giật con dao trên tay anh, giành lấy bao diêm và đốt sáng lên ngọn lửa. Khi đống củi bùng cháy tỏa ấm ngôi chùa thì cả thân người anh ta gập xuống vì mất máu do vết thương quá nặng không được cứu chữa. Trong túi áo của anh ta có tờ giấy ghi một bài thơ vừa sáng tác.

Sau chiến tranh, người lính may mắn thoát chết đã trở lại chiến trường xưa, bỏ công tu tạo ngôi chùa hoang; chùa không đặt tượng và chuông mõ, chỉ có bài vị là bài thơ của người lính - thi sĩ đã chết.

Đêm qua tôi đọc lại truyện ngắn này, bỗng tưởng tượng mùa đông vừa rồi ở đâu đó trên thế giới, ở Ucraina hay ở Dải Gaza bất hạnh, trong một đền thờ hay một thánh đường bị tàn phá, cũng có thể diễn ra tình cảnh những người lính đối địch như hai người trong truyện Cây diêm cuối cùng. Và tôi nghĩ, Cao Huy Thuần là nhà văn tôn vinh văn hóa dân tộc mà cũng là nhà văn của tình nhân loại.

Trong email viết ngày 1-5-2024, Giáo sư Cao Huy Thuần báo tin: “Tôi có ý định dùng ngày tháng ít ỏi còn lại để dịch một cuốn sách. Chỉ mong là đừng bỏ dở nửa chừng. Cuốn gì ư? Anh cho tôi giữ ‘bí mật’ một thời gian nữa đã, chưa chắc làm được nên chưa dám nói đó thôi. Nhưng anh biết bụng tôi rồi: nếu làm được thì tôi sẽ gửi bản thảo cho anh. Như anh nói đó, dịch là một cách để giữ cái minh mẫn. Mà cũng là cách để quên, quên đi nỗi buồn, quên đi tất cả. Chỉ mong rằng cuộc chuyện trò còn dài dài…”. 

Kính thưa Anh Cao Huy Thuần, cuốn sách Anh dịch xong chưa hay vẫn còn dang dở khi cuộc chuyện trò đã dứt? Nhưng cây diêm thì đã cháy hết mình và ngọn lửa vẫn còn sưởi ấm tâm hồn chúng tôi, những người ở lại.

TP.Hồ Chí Minh, 14-7-2024

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Báo Giác Ngộ, ngày 14.8.2024.

1. Trịnh Hoài Đức (1765-1825), thuở nhỏ tên An, tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, người gốc Trung Quốc, một trong ba nhà thơ nổi tiếng của đất Gia Định. Ông cùng Nhữ Sơn Ngô Nhân Tĩnh, Tri Chỉ Lê Quang Định được đời tôn vinh là Gia Định tam gia. Tác phẩm của Trịnh Hoài Đức hiện nay còn Gia Định thành thông chí Cấn Trai thi tập cùng một số bài văn bia chép trong Đại Nam anh nhã tiền biên.

20240807 4Immanuel Kant (1724-1804). Chân dung năm 1768

Ngày 22 tháng 4, năm 2024 đánh dấu sự kiện quan trọng: kỷ niệm đúng 300 năm nhà triết học khai sáng vĩ đại Immanuel Kant. Tôi xin phép trình bày một số ý tưởng của ông từ sự hiểu biết khiêm tốn của tôi.

Từ thời Trung cổ cho đến thế kỷ 17, các nhà thần học đã thống trị tư tưởng trí thức châu Âu. Các trưởng lão trong Giáo hội giải thích các hiện tượng tự nhiên phù hợp với học thuyết tôn giáo. Nhưng rồi dần dần một thiên hà các nhà khoa học xuất hiện: Francis Bacon và Nicolaus Copernicus, Galilei, Kepler và Newton, với những ý tưởng táo bạo muốn tìm những lời giải thích hợp lý cho các sự kiện tự nhiên rối rắm trên trời. Họ áp dụng phương pháp khoa học mới để khám phá các quy luật tự nhiên, soi sáng bầu trời, bất chấp hiểm nguy chờ đợi họ. Thế rồi khoa học hiện đại cuối cùng ra đời không thể tranh cãi được. Thành tựu vĩ đại của họ đã truyền cảm hứng mạnh mẽ cho phong trào khai sáng châu Âu sau đó, trong niềm tin rằng, phương pháp khoa học cũng có thể soi sáng những vấn đề rối rắm ở dưới đất. Nhà triết học Ernst Cassirer, một người chịu ảnh hưởng lớn của Kant, đã khắc họa bức tượng khoa học như sau:

Khoa học là bước cuối cùng trong sự phát triển tinh thần của con người và nó có thể được coi là thành tựu cao nhất và đặc trưng nhất của văn hóa nhân loại. Nó là một sản phẩm rất muộn và tinh tế, không thể phát triển ngoại trừ dưới những điều kiện đặc biệt. […] Chiến thắng của khoa học dường như đã trọn vẹn và không thể tranh cãi. Không có sức mạnh thứ hai nào trong thế giới hiện đại của chúng ta có thể so sánh được với sức mạnh của tư tưởng khoa học. Nó được coi là đỉnh cao và hoàn thiện của mọi hoạt động của con người, chương cuối cùng trong lịch sử nhân loại và là chủ đề quan trọng nhất của triết lý con người.” (Ernst Cassirer)

Tác phẩm đầu tay của Immanuel Kant trước khi trở thành nhà triết học có chủ đề về vũ trụ học và vât lý vũ trụ: “Lịch sử Tự nhiên phổ quát và Lý thuyết của Bầu trời” (Allgemeine Naturgeschichte und Theorie des Himmels” năm 1755. Cũng tương tự, Adam Smith trước khi trở thành nhà triết học đạo đức học và nhà kinh tế chính trị học, đã có bài nghiên cứu sâu rộng về Lịch sử thiên văn học. Nói chung, bầu trời và khoa học Newton, nói như Kant,  đã “chiếm ngự tâm tư” của các nhà khoa học, triết học, khai sáng thời bấy giờ.

[1]

Thời đại của phê phán

Immanuel Kant diễn tả sự biến đổi Copernic này trong tác phẩm đầu tay ông, Phê phán lý tính thuần túy, như một nhu cầu giông bão và thôi thúc, Sturm und Drang:

Thời đại của chúng ta là thời đại đích thực của sự phê phán mà mọi thứ đều phải phục tùng. Tôn giáo qua sự thánh thiện của nó, và lập pháp qua sự uy nghiêm của nó thường muốn trốn tránh nó. Nhưng rồi, họ chỉ khơi dậy sự nghi ngờ chống lại chính họ và không thể nào đòi hỏi sự tôn trọng chân thật mà lý tính chỉ dành cho những gì có thể chịu được sự giám sát tự do và công khai của chúng. (Phê phán lý tính thuần túy)

Cần xác định lại cái gì là nhận thức, cái gì chỉ là một ý kiến (Meinung), hay quan niệm (Konzept). Phê phán giúp phân biệt giữa cái đúng, có giá trị, và cái sai, hoặc không chính đáng: Cái gì có thể được chứng minh, đứng vững trước phê phán của lý tính, mới được tôn trọng và chấp nhận cho đến khi có cái gì mới thay thế.

Kant nói, “Điều này là chắc chắn: bất cứ ai đã từng nếm trải phê phán sẽ luôn chán ghét tất cả những lời giáo điều mà trước đây anh ta chấp nhận vì cần thiết, vì lý tính của anh ta cần một cái gì đó và không thể tìm thấy điều gì tốt hơn cho anh ta.” Ông nói tiếp: “Mối tương quan giữa phê phán với siêu hình học kinh viện, là cũng giống như mối quan hệ giữa hóa học đối với thuật giả kim, hay như thiên văn học với chiêm tinh học bói toán.” (Prolegomena)

Tại sao con người phải đi tìm nhận thức đúng đắn? Theo Pythagoras, nếu không có sức mạnh của khoa học, mọi thứ sẽ vẫn mù mờ và rối rắm, và chúng ta sẽ không sống trong một thế giới sự thật, mà trong một thế giới của sự lừa dối và ảo tưởng. Chỉ có bằng khoa học, chúng ta mới tìm thấy một thế giới có thể hiểu được.

Phê phán lý tính thuần túy của Kant là tác phẩm đầu tiên sau mười hai năm nghiên cứu và được xuất bản năm 1781 có danh từ “phê phán” (Kritik, critique), thể hiện tinh thần phê phán toàn diện của Kant dựa trên khoa học, phê phán cả chính nó là lý tính, cũng như phê phán siêu hình học, không phải để loại bỏ cái này, mà để xây dựng nó lại mới trên nền tảng khoa học. Kritik, kết hợp với Vernunft, Lý tính, đã gây ấn tượng mạnh mẽ, và tạo ra một “trào lưu” sau đó của các tác phẩm bắt đầu bằng Kritik. Bản thân Kant sẽ có thêm các quyển Phê phán lý tính thực hành (1788) và Phê phán năng lực phán đoán (1790). Tiếp theo là Phê phán mọi sự mặc khải, Kritik aller Offenbarung, của Fichte năm 1792. Quyển Tư bản luận của Marx cũng có phụ đề Phê phán kinh tế chính trị. Danh mục của Thư viện Quốc gia Đức hiện có hơn 20.000 ấn phẩm với từ “phê phán” trong tiêu đề.

[2]

Khai sáng là gì?

Một tiểu luận rất nổi tiếng của Kant có tên Was ist Aufklärung? – Khai sáng là gì? – nhằm trả lời cho cùng câu hỏi được nhóm khai sáng Berlin đặt ra trên tạp chí Berlinische Zeitschrift. Tuy nó được công bố tháng 12 năm 1784, tức là lúc gần cuối thế kỷ ánh sáng, nhưng đã khắc họa được bản chất của Khai sáng một cách sắc nét và toàn diện:

Khai sáng là sự thoát ra (giải phóng) của con người khỏi sự chưa trưởng thành tự chuốc lấy của mình. Sự chưa trưởng thành là sự bất lực sử dụng trí năng của mình mà không có sự dẫn dắt của một người khác. Lười biếng và hèn nhát là những nguyên nhân tại sao một bộ phận rất lớn con người vẫn muốn không trưởng thành suốt đời, sau khi họ được tự nhiên giải phóng khỏi sự dẫn dắt từ bên ngoài; và đó là lý do tại sao người khác dễ dàng giả đóng vai làm người giám hộ của họ. Không trưởng thành đối với họ là một điều thoải mái. (Hết trích dẫn)

Vì thế khẩu hiệu của ông là „Sapere aude!“, nghĩa là „Hãy dám biết!“, và ông kêu gọi „Hãy can đảm sử dụng trí tuệ của chính bạn“, „Habe den Mut, dich deines eigenen Verstandes zu bedienen!“

Kant tin rằng Khai sáng cần tự do như con người cần khí trời: „Con người tự lao động để đưa mình dần ra khỏi tình trạng thô thiển, nếu người ta không cố ý ngăn cản một cách giả tạo để giữ họ lại trong đó.“ Đó là lộ trình phát triển tất yếu của con người. „Một công chúng có thể tự khai sáng, đó là điều có thể; vâng, nếu người ta chỉ để cho họ tự do, thì khai sáng gần như là điều không thể tránh khỏi.” và “Khai sáng không đòi hỏi gì khác hơn là tự do”, là loại theo ông ‘vô hại’. Chúng ta biết, Kant là công chức nhà nước, là giáo sư ở Đại học Königsberg, nhưng suốt đời ông truyền bá cho khai sáng.

Đối với Kant, để thay đổi tư duy đã bám rễ lâu đời vào truyền thống, cải cách thực ra thích hợp hơn cách mạng:

Bằng một cuộc cách mạng, một chế độ chuyên chính cá nhân có thể biến mất, cũng như sự áp bức có tính hám lợi hay tham quyền, nhưng không bao giờ có một cuộc cải cách đích thực về lề lối tư duy. Những định kiến mới sẽ phục vụ những nguyên tắc chủ đạo của đám đông không suy nghĩ, cũng giống như những cái cũ đã từng làm. (Hết trích dẫn)

Định kiến sẽ dễ dàng sinh sôi nảy nở, có thể còn tồi tệ hơn, nếu cách mạng không đi kèm với cải cách lề lối tư duy phù hợp.

Trước sự bùng nổ của thế giới tri thức ở thế kỷ 18, Kant „bình tĩnh“ suy nghĩ như một nhà triết học, không chạy theo số lượng kiến thức, mà đối với Kant, Khai sáng quan trọng nằm ở chỗ „biết tự suy tư“ (selbst nachzudenken), nằm ở „phương châm biết tự tư duy mọi lúc“ (jederzeit selbst zu denken). Khai sáng không dạy chân lý có sẵn, mà dạy tư duy thế nào để khám phá chân lý. Khai sáng là một phần trong triết lý giáo dục quan trọng của Kant, để làm con người trở thành người, và có tính tự chủ. Kant cho rằng, điều mà sinh viên học ở ông không phải là triết học, Philosophie, mà luận bàn về triết học, philosophieren. Lối giáo dục này là sự tiếp nối lối giáo dục khai phóng của các đại học Trung cổ, ở đó, sinh viên thi tốt nghiệp không phải trả bài mà phải tranh luận với các thầy hướng dẫn. (Xin xem thêm quan điểm giáo dục của Kant mà tôi không thể trình bày ở đây, nhưng trong số Kỷ yếu Immanuel Kant sắp tới)

[3]

Khai sáng và Phồn vinh

Người ta tự hỏi: Khai sáng cuối cùng để làm gì? Để ý thức, và tự chọn lựa con đường đi tìm hạnh phúc của mình mà không bị cản trở. “Đi tìm hạnh phúc”, pursuit of happiness, là tiếng gọi của công chúng và của các nhà khai sáng ở thế kỷ 18. Đó là khẩu hiệu nhiều nhà khai sáng đưa ra, từ Francis Bacon, Leibniz, Thomas Jefferson, John Locke đến Turgot và Adam Smith. Hạnh phúc bây giờ và ở đây, đó là mệnh lệnh, không phải chờ đến kiếp sau, bất chấp những khiếm khuyết của con người, và của cuộc sống trần thế. Turgot, nhà kinh tế học và chính khách Pháp, đã phát biểu tại Sorbonne năm 1750 như sau: “Tự nhiên đã ban cho toàn thể nhân loại quyền được hạnh phúc: nhu cầu, đam mê và một lý tính, là sức mạnh mà tự nhiên đã trao cho nhân loại để đạt được mục tiêu này.”

Thế kỷ 18 đang sống trong không khí cuộc cách mạng công nghiệp Anh sôi sục tạo nên sự bứt phá kinh tế và quyền lực. Trong khi đó, Adam Smith cũng đưa ra mô hình kinh tế chính trị toàn diện để tạo phồn vinh cho đông đảo dân chúng trên quy mô quốc gia và thế giới. Nó nằm ở tự do hoạt động trao đổi và sản xuất hàng hóa của các cá nhân, sự không can thiệp của nhà nước hay các nhóm lợi ích vào sự vận hành của thị trường, sự “phân công lao động”, tức là công nghiệp, như động lực mạnh mẽ để gia tăng năng suất và đổi mới sáng tạo, để tăng cường thương mại; sự công nhận quyền tư hữu chính đáng và sự bảo vệ nó bằng luật pháp. Thế giới bước vào giai đoạn thương mại và sản xuất công nghiệp. Cá nhân và quốc gia thức tỉnh đi tìm lại hạnh phúc của mình đã mất.

Học giả kinh tế Joel Mokyr viết trong quyển From Poverty to Prosperity (Từ nghèo khổ đến phồn vinh) về mối tương quan, correlation, giữa khai sáng và phồn vinh như sau:

Nếu bạn nhìn vào các quốc gia nơi khai sáng đã có tác động, họ là những quốc gia thành lập câu lạc bộ phồn vinh năm 1914. Họ là những quốc gia vào thời điểm đó đã được công nghiệp hóa, đô thị hóa, tinh vi về mặt công nghệ. Và những quốc gia nơi khai sáng đã không thành công, thì ở đó quá trình này đã đi một con đường rất khác. Một số đã thành công, như Tây Ban Nha; một số thì không, như Montenegro, Serbia hay Bulgaria. Lúc nào đó thì họ có thể, nhưng vấn đề là, nếu bạn nhìn vào Scandinavia hoặc Hòa Lan hay Thụy Sĩ, những nơi Khai sáng đã một lần thành công, bằng cách này hay cách khác, và đến năm 1914, họ đã trở nên những quốc gia giàu có.

[4]

Triết học nhận thức luận

Trong triết học nhận thức luận, câu hỏi sau đây đóng một vai trò vô cùng quan trọng: Tư duy thuần túy có thể cung cấp tri thức gì một cách độc lập với kinh nghiệm giác quan? Có kiến thức nào như vậy hay không? Nếu không thì mối quan hệ chính xác giữa tri thức của chúng ta và nguyên liệu thô được cung cấp bởi các cảm giác-giác quan là gì? Trong buổi bình minh của triết học, người ta thường tin rằng có thể nhận thức được mọi thứ bằng suy tưởng thuần túy. Nhưng đó là một ảo tưởng. Đối cực của ảo tưởng quý phái này là ảo tưởng bình dân hơn về chủ nghĩa hiện thực ngây thơ, theo đó mọi thứ “là” như chúng được chúng ta cảm nhận thông qua các giác quan của chúng ta.

Con người có một khao khát mãnh liệt tri thức chắc chắn. Nhưng David Hume đã phá tan niềm hy vọng: Nguyên liệu thô của giác quan, nguồn kiến thức duy nhất của chúng ta, thông qua thói quen, có thể dẫn chúng ta đến niềm tin và kỳ vọng, chứ không phải đến tri thức và càng không dẫn đến hiểu biết về các mối quan hệ có tính quy luật. Chính chủ nghĩa hoài nghi này của Hume đã kéo Kant ra khỏi “giấc ngủ giáo điều”, như ông thừa nhận. Nhưng Kant đi tiếp:

Do đó, nếu chúng ta có tri ​​thức được bảo đảm là chắc chắn thì tri ​​thức đó phải được xây dựng trên nền tảng của chính lý tính (Vernunft, reason). Có thể nói, những loại tri ​​thức này và một số loại kiến ​​thức khác là một phần của công cụ tư duy và do đó trước đây không cần phải thu lượm được từ dữ liệu giác quan (tức chúng là tri ​​thức “tiên nghiệm”, a priori). Điều đó đúng một phần, nhưng Einstein cho rằng, điều sau đây có vẻ đúng trong nhận xét của Kant, là trong khi tư duy, chúng ta sử dụng, với một sự “chính đáng” nhất định, một số khái niệm mà người ta không thể tiếp cận được từ các chất liệu của trải nghiệm giác quan, nếu nhìn sự việc từ quan điểm logic.

Einstein khẳng định: rằng các khái niệm nảy sinh trong suy nghĩ của chúng ta – khi được nhìn một cách logic – đều là những sáng tạo tự do (freie Schöpfung) của tư duy mà không thể thu hoạch được một cách quy nạp từ kinh nghiệm giác quan.

Một điều nguy hiểm là, một khi đã chấp nhận Hume, người ta dễ dàng loại bỏ ra khỏi tư duy tất cả những khái niệm và mệnh đề nào không thể suy ra từ nguyên liệu thô giác quan và xem chúng như những loại “siêu hình”. Einstein nhận xét, “Hume không chỉ thúc đẩy triết học một cách quyết định mà còn – dù không phải lỗi của ông ta – đã tạo ra nguy cơ cho triết học ở chỗ, sau sự phê phán của ông, một ‘nỗi sợ hãi chết người về siêu hình học’ đã phát sinh và đã trở thành một căn bệnh hiểm nghèo cho triết học duy nghiệm đương đại; căn bệnh này là phần đối lập với loại triết lý trên mây trước đó, vốn tin rằng nó có thể xem thường và bỏ qua những gì giác quan cung cấp.” (Xin xem đầy đủ trong một bài sắp tới trên rosetta.vn)

[5]

Kết luận

Immanuel Kant là nhà triết học ảnh hưởng rất lớn lên thế giới, đặc biệt lên nước Đức trong thế kỷ 19, giai đoạn dựng nước sau khi bị Napoleon đánh bại vào đầu năm 1806. Các trí thức, công chức nhà nước, giới khoa học Đức, đều là những môn đệ của Kant. Chính giới công chức khai sáng này đã giúp Phổ lội ngược dòng để trở thành một cường quốc châu Âu cuối thế kỷ 19. Ý tưởng Đại học Berlin, mô hình đại học nghiên cứu Đức và được trao cho W. Humboldt thành lập năm 1810, nhằm “lấy sức mạnh tinh thần để bù đắp những tổn thất vật chất”, là công trình của giới công chức khai sáng, các nhà tân nhân văn và giới triết học Đức, không phải của những nhà giáo dục. Einstein cũng từng đọc Kant ở tuổi 14, và đọc nhiều lần cho đến khi ông hiểu ra. (Xem sách Nước Đức Thế kỷ XIXEinstein, và sách Đại Học)

Nếu ai hỏi, Việt Nam là đất nước được khai sáng hay chưa, như người ta từng hỏi Kant rằng thời đại của ông có phải là thời đại được khai sáng hay chưa, thì tôi xin phép có ý kiến như sau: Việt Nam đang sống trong một vùng có nhiều khai sáng phương Tây lẫn châu Á rất phong phú và mời gọi, đang có một số hạt giống khai sáng nhất định trong xã hội, nhưng thực sự chưa có một critical mass, một khối lượng đáng kể của giới tinh hoa khai sáng mà một cuộc chấn hưng đất nước đòi hỏi phải có nếu muốn thành công.

Muốn có khai sáng, cần phải có óc tò mò và tinh thần tự học, cần có văn hóa đọc và nghiên cứu phát triển, và tự sử dụng cái đầu của mình. Một quyển sách khai sáng hay mà hiện nay bán ra chỉ được vài nghìn bản, so với hàng vạn bản trong thời Tokugawa, hàng trăm nghìn, hay có khi tới hàng triệu bản trong thời Minh Trị Duy Tân với dân số lúc đó chỉ khoảng 1/3 dân số VN hôm nay, thì không thể đạt được mức độ Khai sáng cần thiết để đất nước có thể gọi là được khai sáng và hành động đổi mới thông minh. Đó là điều bứt bách. Tri thức là sức mạnh, Francis Bacon nói bốn thế kỷ trước. Khai sáng gắn liền với cuộc canh tân để đạt phồn vinh. Chúng ta không thể để mình bàng quang và xa lạ với tri thức để rồi mơ về một sự phồn vinh. Kinh tế thế giới từ rất lâu là kinh tế tri thức. Tri thức, “Sapere aude” phải là động cơ của chấn hưng, như người Nhật từng làm một cách mẫu mực mà nếu không có, chúng ta giống như người đi tìm hạnh phúc trong bóng tối.

Ngọn lửa Aufklärung của Kant vẫn còn cháy, và rất thời sự giữa một thế giới hỗn loạn của fake news và sự tuyên truyền vì lợi ích ích kỷ mà chà đạp lên lý tính. Nếu nhà triết học Đức Jürgen Habermas, một Kantianer chịu ảnh hưởng lớn của Kant, đã chỉ ra rằng người ta cần phải giữ vững Dự án Khai sáng của Kant sau những biến động tồi tệ nhất của thế kỷ 20, thì hôm nay thế giới lại càng phải làm như thế. Những đóng góp mang tính đột phá của Kant cho thời kỳ Khai sáng, những suy ngẫm của ông về đạo đức, sự giải phóng con người, nhận thức luận và luật pháp quốc tế vẫn được coi là những điểm tham chiếu cho các cuộc tranh luận mang tính định hướng ngày nay. Việt Nam lại càng có nhiều lý do để học hỏi.

 

Nguyễn Xuân Xanh

Tham luận được trình bày tại Hội thảo Kỷ niệm 300 Năm Immanuel Kant và Thời đại khai sáng - Con người, ảnh hưởng và di sản, tổ chức ngày 19.7.2024 tại trường Đại học Văn Lang, đăng lại tại website của tác giả, ngày 21.7.2024.

I. Hiện nay chúng ta chưa biết gì nhiều hơn về văn học viết Việt Nam trước thế kỷ thứ X (trước thời Lý Trần) ([1]) ngoài vài tác giả, tác phẩm mà cố GS. Nguyễn Đổng Chi, PGS. Trần Nghĩa, PGS. PTS. Nguyễn Đăng Na, học giả Lê Mạnh Thát đã giới thiệu ([2]).

'Anh nhớ thương đất nước và thương yêu tuổi trẻ, dành hết tâm tình, hy vọng cho tuổi trẻ', ông Bùi Văn Nam Sơn nói với Tuổi Trẻ khi nghe tin GS Cao Huy Thuần qua đời vào đêm 7-7 ở Pháp. 

20240711GS Cao Huy Thuần

Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn và GS Cao Huy Thuần có "tình anh em thân thiết đậm đà" vì ông Thuần là bạn học của anh trai ruột ông Sơn. 

Lúc Tuổi Trẻ liên hệ, ông Sơn "mới biết tin anh Thuần mất được 15 phút" và ông đã lặng người không biết nói gì.

Ông Sơn kể vì sức khỏe nên lâu rồi ông Thuần không về thăm quê. Hai anh em thường phải trao đổi thư từ qua email. Ông chính là người viết lời tựa cho cuốn sách Thấy Phật của ông Thuần.

"Những công trình về giáo dục, văn hóa của anh Cao Huy Thuần dành hết cho quê hương và tuổi trẻ. Ở đó, tình yêu dành cho tuổi trẻ là biểu hiện cụ thể nhất của tình yêu quê hương đất nước."

- Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn

"Dành hết tâm tình và hy vọng cho tuổi trẻ"

 Ông Bùi Văn Nam Sơn nói hành trình của GS Cao Huy Thuần là hành trình của một nhà trí thức dấn thân, chân chính và hiếm có. Trong lòng ông Sơn, ông anh "là một người uyên bác, nhẹ nhàng và thấu hiểu tuổi trẻ".

"Vì có nhiều chờ đợi với tuổi trẻ, nên giai đoạn về sau, những tác phẩm của anh như các tập nhật ký viết ra dành riêng cho tuổi trẻ", ông Sơn nói.

Theo ông Sơn, "dường như anh Thuần luôn nhớ thời tuổi trẻ giai đoạn ở Huế. Vì thế, anh dành hết tâm tình và hy vọng cho tuổi trẻ, mong các bạn trẻ sống có ích, yêu đời, hướng thượng và đóng góp cho đất nước".

Ông Sơn đánh giá GS Cao Huy Thuần là một trí thức dấn thân, không phải là một học giả đơn thuần: "Khi còn ở Việt Nam, anh đấu tranh cho hòa bình, dân chủ, bình đẳng tôn giáo. Sang nước ngoài, tâm tình dành cho đất nước ngày càng mãnh liệt".

"Báo Tuổi Trẻ là nơi hợp nhất để nhấn mạnh thông điệp dành cho tuổi trẻ. Đó là tâm nguyện cuối của anh Thuần cũng như thế hệ trí thức lớn tuổi chúng tôi - những người sinh những năm 1930, trưởng thành ở Việt Nam mà vì nhiều lý do phải xa quê nhưng vẫn một lòng hướng về và đóng góp cho đất nước", ông Bùi Văn Nam Sơn nói.

GS Cao Huy Thuần (áo trắng, ngồi giữa) trong một lần giao lưu với khoa văn học Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM  - Ảnh: GS Huỳnh Như Phương cung cấp

GS Cao Huy Thuần (áo trắng, ngồi giữa) trong một lần giao lưu với khoa văn học Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM - Ảnh: GS Huỳnh Như Phương cung cấp

Văn chương ấy vĩnh cửu hóa vẻ đẹp quê nhà

GS Huỳnh Như Phương tâm sự với Tuổi Trẻ, ông từng có một thuở thiếu niên tìm cách kết nối với tuổi thanh niên bùng nổ của thế hệ GS Cao Huy Thuần qua những lời kể trong đời hay trong sách báo.

Ông tìm đọc lại những bài báo của GS Cao Huy Thuần, thấy ở đó những lời sôi động, cuộn trào của một người thuộc thế hệ đàn anh ít nhiều vẫn còn xa cách. 

"Nhưng đến Nắng và hoaKhi tựa gối khi cúi đầuChuyện tròNhật ký sen trắngSợi tơ nhệnSen thơm nắng hạ quê mình..., hình như tôi gặp Cao Huy Thuần trong sự đồng cảm văn chương trước khi gặp ông ngoài đời", GS Huỳnh Như Phương kể.

Theo ông, GS Cao Huy Thuần viết văn xuôi bằng ngôn ngữ thi ca. Văn ông có nhiều khoảng trống mời gọi người đọc liên tưởng. Văn chương ấy không làm nở những bông hoa, làm tươi những giọt nắng, nhưng có thể vĩnh cửu hóa màu nắng hạ và mùi thơm của bông sen quê nhà.

Ông Thuần và ông Phương thường trao đổi thư từ qua email. Những năm gần đây, sức khỏe ông Cao Huy Thuần yếu đi nhiều, thường phải vào bệnh viện nhưng ông vẫn gửi email thường xuyên (dẫu viết ngắn dần).

Năm 2022, GS Cao Huy Thuần nhờ ông Phương viết lời tựa cho cuốn Im lặng như lời chia tay. "Anh Thuần nói có thể cuốn sách là lời từ giã của anh tới bạn đọc", GS Huỳnh Như Phương nhớ lại.

Im lặng như lời chia tay như là cuốn sách từ giã bạn đọc của GS Cao Huy Thuần

Im lặng như lời chia tay như là cuốn sách từ giã bạn đọc của GS Cao Huy Thuần

Trong một lá thư GS Cao Huy Thuần gửi cho ông có tâm sự:

"Như một cái hoa, tôi đã im lặng nở. Như một cái hoa, tôi nghĩ sẽ im lặng tàn.

Từ đó, trong im lặng và cô đơn, cùng với bước chân đi dần đến điểm hẹn cuối cùng, điểm hẹn với im lặng cuối cùng, tôi tìm chút vui với thơ văn để viết về im lặng...

Mơ mộng hơn một chút, tôi nghĩ về im lặng của cánh hoa rụng: trong im lặng, chắc nó cũng biết chia tay với bao nhiêu cánh bướm.

Tôi cũng phải chia tay với bao nhiêu bạn bè. Và như vậy, tôi viết về im lặng trong thơ văn, như một lá thư mỏng, như một lời chia tay..." (trích thư ngày 4-10-2022).

"Các bạn trẻ vẫn có cơ hội gặp gỡ GS Cao Huy Thuần qua những lời tâm tình của ông trong những trang viết đầy chất suy tưởng về xã hội và con người, về lý tưởng, ước mơ và hoài bão của tuổi trẻ", GS Phương nói.

Bởi những ngày cuối đời, nhận tin vui về truyện ngắn Cây diêm cuối cùng của ông được đưa vào sách giáo khoa lớp 11, GS Cao Huy Thuần đã gửi về cho một bạn văn trong nước những văn liệu mà ông chưa công bố với hy vọng đó cũng là những ánh lửa của cái đẹp và điều thiện muốn truyền lại cho những thế hệ tiếp nối truyền thống văn hóa của dân tộc.

GS Cao Huy Thuần (1937 - 2024) là tác giả của nhiều đầu sách về văn hóa, giáo dục và triết học ở trong nước như Nắng và hoaThế giới quanh taThấy Phật, Khi tựa gối khi cúi đầuChuyện tròNhật ký sen trắngSen thơm nắng hạ quanh mìnhIm lặng như lời chia tayĐến với Phật cùng tôi...

Chia tay mà không biệt ly

Khi anh Cao Huy Thuần gửii tôi tập Im lặng như lời chia tay, tôi nghĩ: chắc là “Im lặng thở dài…” đây rồi! “Tôi đang lắng nghe tôi đang lắng nghe im lặng đời mình” (Trịnh Công Sơn)? Nhưng không. Cao Huy Thuần nói về “chia tay mà không biệt ly.

Dẫn bài thơ Feuille morte (Lá chết) của Hermann Hess, anh "phát hiện" một điều thú vị: người Việt không ai nói "lá chết" mà nói "lá khô", "lá rụng".

Quét lá rụng, quét lá khô, không ai nói quét lá chết như ngôn ngữ Pháp, Đức. Bởi vì lá không bao giờ chết. Nó khô, nó rụng, rồi nó tái sinh thành lá búp, lá non.

Ký họa Cao Huy Thuần do Đỗ Hồng Ngoc vẽ

Chân lý" ấy bắt nguồn từ hai con sên của nhà thơ Jacques Prévert trên đường đi dự đám tang một chiếc lá chết, tựa Bài ca hai con sên đi dự đám tang.

"Hai con sên đi đưa/ Đám tang chiếc lá chết/... Hỡi ôi khi chúng đến/ Mùa xuân đã đến rồi/ Bao nhiêu lá chết xong/ Tất cả đều lại sống...".

Tiễn mùa thu thì gặp mùa xuân. Tiễn cái chết thì gặp sự sống. Tiễn ảm đạm thì gặp tưng bừng. Hai con sên chia tay mà chẳng biết biệt ly là gì! (Im lặng). Cao Huy Thuần nói: "Chúng chẳng có cả khái niệm...".

Dĩ nhiên, Cao Huy Thuần đang nói về Kinh Kim Cang!

Khi ta mà biết sống "ly niệm", khi ta không còn bám chấp vào khái niệm... thì "trí bất đắc hữu vô". Thong dong. Tự tại.

Anh Cao Huy Thuần thân mến, nếu thỉnh thoảng ta mà vào được Tam muội Phổ Hiền, sống trong Như Lai tạng thì ta cũng có thể nhận ra cái "vô tướng" - bỗng "hiện tướng"... đùa vui giữa chốn ta bà chút vậy thôi.

Khi con chim bay, nó không cần biết trời là gì, đâu là giới hạn. Nó chỉ bay. Trong bầu trời vô tận. Cao Huy Thuần đang bay. Đường bay của hạnh phúc. Lấp lánh ánh vàng!

Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

(Ký họa Cao Huy Thuần do Đỗ Hồng Ngoc vẽ")

Đậu Dung

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 09.7.2024.

 

I. “ĐẠC NGỰA BÒ VÀNG” LÀ CHUYỆN CÓ THẬT VÀ DIỄN RA Ở NGAY KINH ĐÔ

Uy Viễn tướng công Nguyễn Công Trứ được nhà soạn tuồng, nhà thơ Đào Tấn yêu quý đặt cho biệt danh  là “Hoàng Độc Thi Nhân” (nhà thơ cưỡi bò vàng). Người đời vẫn truyền tụng giai thoại cụ Thượng Trứ sau khi về hưu, đi đâu cũng thường cưỡi con bò cái vàng, đeo nhạc ngựa, sau đít bò có đeo cái mo cau, ai hỏi thì cụ kêu là để “che miệng thế gian”. Trong bài thơ nổi tiếng làm sau khi về hưu của Cụ là Bài ca ngất ngưởng cũng có nhắc đến chuyện cưỡi bò:

Nổi bật nhất trong thơ Đinh Hùng là về tình yêu, về người yêu. Người yêu trong thế giới mầu nhiệm, huyền ảo và người yêu trong thế giới thực đều được vẽ ra với trí tưởng tượng siêu việt, với biểu hiện độc đáo, tân kỳ.

Trước khi đi Nhật du học đầu tháng 4.1968, tôi có khoảng nửa năm học ở Văn khoa thuộc Đại học Sài Gòn. Nhưng do một ngẫu nhiên có tính cách định mệnh và do vài lý do khác, tôi hầu như chỉ tham dự vài buổi giảng của vài giáo sư và không còn giữ sách vở, tư liệu gì cho thấy mình là một sinh viên Văn khoa thời đó, ngoài tập vở chép thơ Đinh Hùng. Bút tích ghi ở cuối mỗi bài thơ cho thấy hầu hết chép ở thư viện Văn khoa Sài Gòn.

Sau khi học xong trung học ở miền Trung, mùa thu 1967 tôi vào Sài Gòn xin ghi danh học Văn khoa, dự định sau một năm lấy chứng chỉ dự bị để thi vào Đại học Sư phạm Sài Gòn, mục tiêu trở thành thầy giáo dạy văn ở một trường trung học đệ nhị cấp (cấp III bây giờ). Nhưng rồi không có tâm trí và thì giờ để học tập nghiêm chỉnh. Tháng đầu ở Sài Gòn phải lo chuyện đi làm thêm. Tìm được một chân dạy văn và sử ở một trường tư trung học đệ nhất cấp (cấp II) là lo chuẩn bị các bài giảng.

Thế rồi một buổi chiều, buổi chiều định mệnh, ngẫu nhiên đi xe đạp trên đường Lê Thánh Tôn, ngang qua Bộ Quốc gia Giáo dục tôi thấy nhiều người đứng xem thông cáo. Dừng xe xem thử mới biết Đại sứ quán Nhật sắp tổ chức kỳ thi tuyển sinh viên nhận học bổng sang Nhật du học. Thấy mình có đủ tiêu chuẩn nêu trong thông cáo nên về làm đơn xin dự thi. Chuẩn bị thi, thi đỗ là lo chuẩn bị đi Nhật, trước khi đi du học về miền Trung thăm nhà gặp biến cố Tết Mậu Thân kẹt ở Đà Nẵng gần ba tuần... Kết cuộc hầu như không có thì giờ cho việc học ở Văn khoa.

Những ngày có thì giờ đến Văn khoa nếu không có lớp học các môn đã đăng ký, tôi thường vào thư viện mượn sách đọc hoặc mượn các thi tập chép những bài thơ mình ưa thích. Thơ chép vào cuốn sổ khổ A5 giấy tốt và dày gần 300 trang. Sau hơn nửa thế kỷ, hiện nay nhiều trang bị đứt rời khỏi vị trí cũ nhưng chữ viết của mọi trang trong cuốn sổ không bị hoen ố, vẫn đọc được rất rõ. Có bài thơ ngắn nằm gọn trong một trang, có bài thơ dài đến 4-5 trang. Những bài thơ tôi cho là hay của Huy Cận, Chế Lan Viên, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu, Vũ Hoàng Chương, Nguyên Sa... được chép lại ở đây. Nhưng mỗi tác giả này chỉ được chọn một hoặc hai bài thơ, còn tuyệt đại đa số là thơ Đinh Hùng. Đinh Hùng chiếm tới hơn phân nửa số trang trong cuốn sổ chép thơ của tôi.

20240626

Giáo sư Trần Văn Thọ thăm lại Văn khoa Sài Gòn. Cây bồ đề ở sân trường vẫn như xưa. Ảnh do Giáo sư văn học Huỳnh Như Phương chụp trong lúc hướng dẫn tác giả thăm lại trường xưa, 12.4.2023.


Bây giờ tôi không nhớ tại sao thơ Đinh Hùng lại chiếm một vị trí rất đặc biệt như vậy. Có thể một phần chịu ảnh hưởng từ bài giảng của GS. Phạm Việt Tuyền ở Văn khoa. Ông bình thơ và nói nhiều về Đinh Hùng, một nhà thơ mà sau này tôi biết là vừa mất (ngày 24.8.1967) vài tháng trước khi tôi bắt đầu học ở Văn khoa. Cũng có thể tôi tìm thấy thơ Đinh Hùng rất tân kỳ về ý tưởng, về vần điệu, tứ thơ và thể thơ mà mình có ấn tượng mạnh và đồng cảm.   

Đinh Hùng sinh năm 1920 tại Hà Nội, làm thơ, viết báo từ thời còn rất trẻ. Ông thuộc nhà thơ thời tiền chiến. Mới hai mươi tuổi đã kết thân với Thạch Lam, hơn Đinh Hùng cả 10 tuổi, người ở cùng khu ngoại ô Yên Phụ. Qua Thạch Lam, Đinh Hùng có nhiều dịp uống rượu, trò chuyện với các bậc đàn anh trên văn đàn như Nhất Linh, Khái Hưng, Thế Lữ... Năm 1954, Đinh Hùng cùng gia đình di cư vào Nam và ngay sau đó giữ chuyên mục Tao Đàn cho Đài Phát thanh Sài Gòn. Ông bị bệnh ung thư và mất ở tuổi 47. 

Đám ma tôi (Nhà xuất bản Tân Việt ấn hành năm 1943) là tập thơ đầu tay của Đinh Hùng nhưng ít người biết. Đinh Hùng nổi tiếng với hai tập thơ Mê hồn ca và Đường vào tình sửMê hồn ca phát hành năm 1954 (NXB Tiếng Phương Hồng) gồm những bài thơ ông viết trong thập niên 1940 và đầu những năm 1950. Đường vào tình sử được Nam Chi xuất bản năm 1961. Tiếng ca bộ lạc là tập thơ cuối cùng do Lửa Thiêng xuất bản 1972, sau khi Đinh Hùng mất. Ngoài ra Đinh Hùng còn có hai tập bút ký: Ngày đó có em: Những bóng dáng đàn bà trong đời Bích Khê (Giao Điểm xuất bản năm 1967, NXB Văn Học tái bản năm 2018) và Đốt lò hương cũ (gồm những bài Đinh Hùng viết chủ yếu để phát trên Đài Phát thanh Sài Gòn ở mục Tao Đàn do ông phụ trách; sau khi ông mất NXB Lửa Thiêng phát hành năm 1971 và NXB Đà Nẵng tái bản 2018 với lời bạt của Phạm Xuân Nguyên).

Thơ Đinh Hùng trong cuốn sổ tôi chép phần lớn đọc từ tập Đường vào tình sử và một số ít hơn từ Mê hồn ca. Gần đây có dịp đọc hai tập bút ký nói trên và bài bình luận của Phạm Việt Tuyền (trong tập Tôi đọc thơ, Phong trào Văn hóa xuất bản 1973) tôi biết thêm nhiều giai thoại về Đinh Hùng và hiểu thơ ông nhiều hơn.

Thơ Đinh Hùng xoay quanh các chủ đề tình yêu, kỷ niệm, nhớ cố hương, ca tụng nghệ thuật, thiên nhiên... Nét độc đáo chung nhất có lẽ là ngoài những bài thơ đưa người đọc vào thế giới ảo huyền, nhiệm mầu, phần lớn là những tình ca gây cho ta thấy lâng lâng trong kích thước hoành tráng của không gian và cái sâu thẳm, cái vô cùng tận của thời gian. Ngay cả trong bài thơ cảm xúc, tự hào, ngưỡng mộ hai nữ anh hùng dân tộc, Đinh Hùng chẳng những cho ta theo cánh chim huyền diệu bay ngược vào quá khứ hai ngàn năm mà còn kêu gọi đất trời cùng ta chứng kiến một kỳ tích oai hùng: 

Ngàn năm, ôi bóng Trưng Vương!
Cánh chim huyền diệu đưa đường về xưa
Nước non còn đẹp dáng thơ:
Bàn tay Nương Tử ngọn cờ Châu Phong
Hỡi non cao, biển muôn trùng
Còn say hương phấn má hồng Mê Linh?
(Hương phấn Mê Linh)

Bài thơ sầu tha hương, nhớ quê, luyến tiếc thời thơ ấu cũng gây cảm xúc lâng lâng, sâu lắng về quá khứ nhưng kéo tầm mắt ta ra một không gian rộng lớn:

Sầu lên Bến Cát rưng rưng
Mây Trường Sơn lại vượt rừng tới đâu?
Người đi đồi sắn, nương dâu
Buồn quan san một con tàu về xa
Nhớ xuân từ độ còn hoa
Nhớ em từ độ thướt tha suối thề
Xa trời lưu lạc hồn quê
Có phai xin để ngày về hãy phai
Viễn phương mái tóc bay dài
Nghiêng vai sương lạnh thương hoài vầng trăng
(Mái tóc viễn phương)

Nổi bật nhất trong thơ Đinh Hùng là về tình yêu, về người yêu. Người yêu trong thế giới mầu nhiệm, huyền ảo và người yêu trong thế giới thực đều được vẽ ra với trí tưởng tượng siêu việt, với biểu hiện độc đáo, tân kỳ. Hầu hết những nhà thơ lớn viết về tình yêu thường có trải nghiệm về một thời với những người con gái họ đã từng yêu. Những người con gái đó được thể hiện như thế nào trong thơ Đinh Hùng? Đọc tập bút ký Ngày đó có em, ta biết được quan niệm của Đinh Hùng về vấn đề này.

Tiêu đề phụ của tập ký là Những bóng dáng đàn bà trong đời Bích Khê. Bích Khê là bạn thân của Hàn Mặc Tử. Nhiều người bình luận thơ Hàn Mặc Tử thường nhắc đến Mộng Cầm, Thương Thương, Mai Đình, những cô gái, những người đàn bà đã để lại dấu ấn trong cuộc đời và trong thơ của thi sĩ vắn số. Đinh Hùng cũng làm chuyện tương tự là bình luận thơ Bích Khê qua việc phân tích bóng dáng của những người con gái đã đi qua cuộc đời thi sĩ này.

Tác giả chép bài thơ của Đinh Hùng tại thư viện Văn khoa Sài Gòn ngày 5.1.1968 (toàn bài dài 
4 trang trong cuốn sổ chép thơ)


Trong phần “Thay lời giới thiệu” của tập ký, Đinh Hùng viết: “... những trang giai nhân đó cũng là một phần linh hồn của nhà thơ..., họ đã hóa thân trở nên những hình tượng, những ý niệm, những khuôn mặt điển hình..., bóng dáng của họ từ đó đi vào tình sử... Những con người phàm tục một thời từng được thi nhân hoán thai, đoạt cốt để làm thành những công chúa, hoàng hậu, nữ vương của ân tình trọn kiếp; mà cũng có thể là hồ ly, ma nữ, yêu tinh..." .

Như vậy theo Đinh Hùng, các nhà thơ đã biến hóa những người con gái đi qua đời họ bằng hai mẫu hình hài trái ngược. Thơ của chính Đinh Hùng cũng vậy. Hình ảnh nàng thơ trong Mê hồn ca là hồ ly, ma nữ, yêu tinh, còn trong Đường vào tình sử phảng phất bóng dáng công chúa, hoàng hậu, nữ vương.

Đây là tâm cảm đầy huyền bí của Đinh Hùng đối với người yêu đã mất:

Trời cuối thu rồi - Em ở đâu?
Nằm bên đất lạnh chắc em sầu?
Thu ơi! Đánh thức hồn ma dậy,
Ta muốn vào thăm nấm mộ sâu
Em mộng về đâu?
Em mất về đâu?
Từng đêm tôi nguyện, tôi cầu
Đấy màu hương khói là màu mắt xưa
Em đã về chưa?
Em sắp về chưa?
Trăng sao tắt, ngọn đèn mờ,
Ta nằm rỏ lệ đọc thơ gọi hồn.
...
Ta gởi bài thơ anh linh
Hỏi người trong mộ có rùng mình?
Nắm xương khô lạnh còn ân ái?
Bộ ngực bi thương vẫn rợn tình?
Hỡi hồn tuyết trinh!
Hỡi người tuyết trinh!
Mê em, ta thoát thân hình
Nhập hồn cây cỏ, đa tình mỗi đêm…
(Gửi người dưới mộ)

Đinh Hùng đã đi vào mộ huyệt để tìm người mình yêu. Trên thực tế, năm 20 tuổi Đinh Hùng có người yêu tên Liên mất vì bệnh phổi. Có lẽ tình yêu tha thiết đã làm nhà thơ tưởng tượng về thế giới bên kia và mơ gặp lại người mình yêu ở đó. Về bài thơ này, Phạm Việt Tuyền trong Tôi đọc thơ có nhận xét là “tử thần đã mạnh mà tình yêu càng mạnh hơn”. Tin tưởng có thế giới bên kia cũng được Đinh Hùng bộc lộ trong tập bút ký Đốt lò hương cũ. Trong bài tưởng niệm Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu và Phan Thanh Giản, Đinh Hùng viết: “Ba nhà thơ tiền bối của chúng ta bước vào thiên cổ chính là để sống vĩnh cửu trong không - thời gian và sống tự do phơi phới ngoài vật lý... Không cần chúng ta cầu nguyện, hương hồn các vị cũng đã lâng lâng bay lên những vùng trời siêu thoát...”. 

Riêng tôi thì thích mẫu hình tiên nữ, công chúa hơn là người ở cõi chết trong thơ Đinh Hùng. Có lẽ vì thế mà trong tập vở chép thơ, tôi chỉ chọn vài bài trong Mê hồn ca, còn lại là thơ trong Đường vào tình sử.

Người yêu là nàng tiên tận nghìn xưa nhập vào ánh trăng chuyển bước đến thư phòng, nhưng người yêu chợt đến rồi chợt đi, chỉ còn là mộng:

Em tự nghìn xưa chuyển bước về,
Thuyền trao sóng mắt dẫn trăng đi,
Những dòng chữ lạ buồn không nói
Nét lửa bay dài giấc ngủ mê
(Gặp em huyền diệu I)

Em đến vầng trăng bỗng tỏa hương,
Quen nhau, ngờ chuyện rất hoang đường
Trang thư xõa tóc cười e lệ,
Nét chữ thu gầy, vóc ngậm sương
...
Trắng nuốt tâm linh vạt áo sầu
Canh gà chưa rụng đã xa nhau
Thương cho xác bướm hai lần mộng
Đành hẹn bài thơ gửi kiếp sau
(Gặp em huyền diệu II)

Tình yêu trong thơ Đinh Hùng đắm đuối say mê, đẹp như thơ và trong như mộng, đầy thương nhớ và cảm hoài sâu lắng cùng với dĩ vãng và trải dài theo không gian xa: 

Vầng trăng vừa ngả bóng chung đôi
Em đã xa như dĩ vãng rồi
Tình cũng quan san từ đáy mắt
Một hàng mi lặng, mấy trùng khơi
Nghe động bàn chân nắng tỏa hương,
Mong manh từng gợn sóng còn vương
Em đi, nửa gối hoa tàn mộng
Thương nhớ bay cùng mây viễn phương
        (Bao giờ em lấy chồng)

Mộng ơi! Thuyền có trao đầu sóng,
Xin nở tươi mầu hoa đại dương,
Biển biếc, cù lao dài ánh mắt,
Ngàn khơi, mơ bóng nguyệt hoang đường
(Buồn Á Đông xưa)

Hôm qua gặp người yêu, hôm nay người yêu không đến, có cách diễn tả nào tâm tình của người mong đợi hay hơn bốn câu thơ toàn vần bằng đầy nghệ thuật này?

Em đến, trăng rằm xanh bóng mây
Em đi, trăng hờn cong nét mày
Chiều qua, má hồng còn thơ ngây
Chiều nay, hàng mi sương xuống đầy
(Hờn giận)

Thơ Đinh Hùng gồm nhiều bài theo thể lục bát và thất ngôn nhưng không ít bài theo thể thơ mới, tự do biến hóa số chữ, số câu. Có nhiều bài đọc như văn xuôi mà vẫn hay, vẫn rất thơ. Chẳng hạn những đoạn thơ trong bài rất dài Đường vào tình sử:

Trên đường ta đi
Những đóa hoa nở mặt trời xích đạo
Những làn hương mang giông tố bình sa
Những sắc cầu vồng nghiêng cánh chim sa
Và dĩ vãng ngủ trong hồ cẩm thạch
Của đôi mắt sáng màu trăng mặc khách
...
Phơi phới thuyền ta vượt bến
Từ đêm hồng thủy ra đi
Lòng ta dao cắt
Chia đôi
Biên thùy
Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê.
...
Một bài thơ
Có tiếng thở dài đôi hồn tình tự
Vần điệu dìu nhau đi trong giấc mơ
Sông núi trập trùng lượn theo nét chữ
Những chữ thương yêu
Những chữ đợi chờ
Đẹp như
Dáng em e lệ chiều xưa.
....
Anh gặp em anh từ thuở nào?
Mênh mang sóng mắt
Ngờ biển dâu.
Núi non nhìn ta vừa nghiêng đầu
Hình như hội ngộ 
Từ ngàn thâu
Ta tỉnh hay mơ? Chiều nay trăng khép
Hàng mi sầu
Hay tà dương thu
Mưa rơi mau?
Em ơi! Vệt nắng phù kiều uốn mình ô thước,
Ta, suốt đời ngư phủ,
Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh.

...

Những ngày ở Văn khoa Sài Gòn nửa thế kỷ trước tôi đã đắm chìm trong thế giới thơ Đinh Hùng. Tập vở chép thơ trở thành vật gia bảo đặt ở chỗ trang trọng nhất trong thư phòng ở Tokyo. 

Trần Văn Thọ

Nguồn: Người đô thị, ngày 06.02.2024.

Nhà phê bình Hoài Thanh đã viết về Đông Hồ với những lời thật dễ thương:

“Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu đương. “Cô gái xuân” của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đều dễ thương, những lời tuồng như lả lơi mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cả cái êm dịu, cả cái mơn trớn, vuốt ve của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu. Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên bãi biển ta khó có thể không cùng nàng mơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam bát ngát của tình yêu dưới trăng thanh trong tiếng sóng.”

Trong rất nhiều sự kiện văn hóa lớn của năm 2023: Kỷ niệm tròn 80 năm ra đời của Đề cương về Văn hóa Việt Nam 1943; Kỷ niệm 80 năm Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chí Minh... chúng ta xúc động tưởng nhớ, ghi ơn sâu sắc một nghệ sĩrất lớn trong âm nhạc, hội họa, thơ ca của đất nước và nhân dân ta - đó là Văn Cao. Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, quê gốc Nam Định, lớn lên, đi vào con đường nghệ thuật, tham gia cách mạng tại thành phố biển luôn ầm ào, dữ dội Hải Phòng rồi ngược lên Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước ngàn năm qua.

20240410 3
Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) (Nguồn: Internet)

    Nghệ thuật ở Văn Cao, với Văn Cao, như là thiên bẩm, như là trời cho, nhưng mà trời đất, thần Phật đã ban cho ông một cách hào phóng, ăm ắp, tinh túy, đa thanh, đa sắc, đến độ kỳ tài, đặc biệt nổi trội, khác biệt. Nhưng chính cái kỳ tài ấy, có thể gọi là thiên tài ấy, còn là sự tự học, tự sáng tạo, tự đốt cháy mình, nó đưa ông lên tột đỉnh vinh quang và cũng có lúc gieo khổ đau, tai họa, cay đắng cho ông, đến mức “nước mắt không thể chảy ra ngoài được”. Cụ Nguyễn Du từng nói như là một sấm ký “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Điều đó vận đúng vào chính Cụ, gần ba trăm năm trước, và vận đúng vào một người cũng họ Nguyễn, là Văn Cao, gần ba trăm năm sau.

    Về “chữ tài”, trong âm nhạc, Văn Cao năm 16 tuổi viết Buồn tàn thu,rồi các ca khúc lãng mạn, trữ tình mới mẻ, ám ảnh, da diết cả nhạc và lời trước năm 1945 như Bến xuân, Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi, Thu cô liêu, Cung đàn xưa… Trong thơ, năm 17 tuổi, ông viết Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, rồi Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc… nặng nỗi buồn đau nhân thế, nặng trĩu ưu tư; ông còn viết thơ, văn, kịch ngắn đăng ở Tiểu thuyết thứ Bảy…Về hội họa, năm 19 tuổi, Văn Cao học dự thính tự do Trường Cao đẳng Mĩ thuật Đông Dương; năm 20 tuổi ông đã có các bức tranh gây chú ý như Cô gái dậy thì, Sám hối, Nửa đêm, Thái Hà ấp đêm mưa…, nhất là bức tranh Cuộc khiêu vũ của những người tự tử (Le Bal aux suicides). Những bản nhạc của ông được in ra đều do tự tay ông vẽ bìa, và như người bạn họa sĩ cùng thời Tạ Tỵ nhận định: tranh của ông “đi rất gần với trường phái lập thể”.

    Năm 21 tuổi - 1944, Văn Cao tham gia Việt Minh và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông viết bài hát lừng danh Tiến quân ca (ngay trong Cách mạng tháng Tám, năm sau trở thành Quốc ca Việt Nam). Đây là dấu mốc Văn Cao chuyển từ phong cách nghệ thuật lãng mạn, trữ tình và cả hiện thực phê phán sang phong cách nghệ thuật cách mạng-kháng chiến cả trong nhạc, họa và thơ. Từ năm 1945 trở đi, ông viết Bắc Sơn,rồi các ca khúc, hành khúc như là sự tiên tri kỳ lạ: Hải quân Việt Nam, Không quân Việt Nam, Công nhân Việt Nam, Chiến sĩ Việt Nam, Gò Đống Đa, Thăng Long hành khúc ca… tiếp đó là Làng tôi, Ngày mùa, Tiến về Hà Nội, đặc biệt là ca khúc Ca ngợi Hồ Chủ tịch và Trường ca Sông Lô… Ngoài ca khúc, sau này ông còn viết một số tác phẩm khí nhạc dành cho piano như Sông Tuyến, Biển đêm, Hàng dừa xa...; sáng tác nhạc phim cho phim truyện Chị Dậu (1980), tổ khúc giao hưởng cho phim tài liệu Anh bộ đội cụ Hồ của Xưởng phim Quân đội... Vì nhiều lý do, kể cả chiến tranh, những chuyển dời, dâu bể, trầm luân,rất nhiều sáng tác hội họa của Văn Cao đã không được giữ gìn, thưởng thức và được giới thiệu như các tác phẩm âm nhạc và thơ ca của ông. Chỉ có thể nêu một số tác phẩm như Dân công miền núi,Chợ vùng cao, Lớn lên trong kháng chiến, Người Mông dắt ngựa, Người Mông uống rượu, Cá, Người đàn bà dài vú nuôi con...

    Giai đoạn tiếp theo của Văn Cao, trong âm nhạc là tác phẩm đặc biệt nổi tiếng và duy nhất sau năm 1975 Mùa xuân đầu tiên...; trong hội họa là Chân dung bà Băng, Chân dung Đặng Thai Mai, Cổng làng, Phố Nguyễn Du, Ngựa, Cây đàn đỏ, Cô gái và đàn dương cầm, Chân dung tự họa… Ông vẽ hàng trăm bìa sách cho nhiều văn nghệ sĩ, hàng trăm bức minh họa, đồ họa khác cho Báo Văn nghệ và vài ba tờ báo khác. Trong thơ là Ba biến khúc tuổi 65, Thời gian, Phố Phái, Những bó hoa… Các bài thơ được tập hợp trong tập Lá và Tuyển tập thơ Văn Cao.

    Chỉ cần lấy ngẫu nhiên các tác phẩm âm nhạc như Thiên thai, Trương Chi, Tiến quân ca, Trường ca Sông Lô, Mùa xuân đầu tiên; trong hội họa là Cuộc khiêu vũ của những người tự tử, Chợ vùng cao, Uống rượu…; trong thơ là Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Giấc mơ… đã thấy những bảo chứng sinh động cho dấu ấn khai phá, mở lối, vượt lên chính mình, đặt nền móng rất quan trọng cho sự phát triển của nền tân nhạc, hội họa và thơ ca Việt Nam, từ lãng mạn, hiện thực đến cách mạng, kháng chiến cho đến thời khắc rất sớm của thời kỳ đổi mới; của ca khúc, hành khúc và trường ca trong nhạc, trong thơ. Nhận định về sự nghiệp văn nghệ đặc sắc của Văn Cao, nhiều người ca ngợi ông là nghệ sĩ đa tài, thích “lãng du” qua những “miền” nghệ thuật khác nhau về âm nhạc, hội họa, thơ ca. Dù không gắn bó liên tục và dài lâu với một loại hình nào, nhưng ở cả ba “miền” ấy, ông đều lưu dấu rất nhiều, rất ấn tượng sáng tạo mang tính khai phá - mở lối cho mình và cho những người cùng thời hoặc đến sau. Cụ thể và hiển nhiên nhất là thể loại tình ca, hùng ca, trường ca trong âm nhạc và trường ca trong thơ Việt Nam hiện đại; là sự tiệm cận với phong cách hội họa lập thể, trừu tượng, siêu thực, ấn tượng. Nhưng trước hết và trên hết, trong nhạc, họa và thơ ông, văn hóa Việt Nam, tâm hồn người Việt Nam, khát vọng Việt Nam luôn đậm đà, da diết và thống nhất.

    Trong lĩnh vực thi ca, dù viết không nhiều, nhưng những sáng tác của ông thể hiện sự coi trọng tính tư tưởng và chất suy tư trong ngôn ngữ và thi pháp nghệ thuật của người cầm bút. Văn Cao đã nhận ra tính tư tưởng là vấn đề cốt yếu nhất để thơ có thể trường tồn theo thời gian và thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Văn Cao đã tạo cho riêng mình một thế giới thơ bằng trí tưởng tượng phong phú và sự sắp đặt ngôn từ một cách tài hoa, đánh thức mọi giác quan của bạn đọc khitiếp nhận tác phẩm. Đó là nỗi đau đớn khi chứng kiến những bi kịch chất chồng của cõi nhân sinh, của những kiếp đời nô lệ trong các bài thơ Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Ngoại ô mùa đông 1946, Linh cầm tiến, Ly khách... Đó còn là sự nhạy cảm, sự trải đời của người nghệ sĩ chân chính khiến Văn Cao lựa chọn và chấp nhận dấn thân trên hành trình nghệ thuật, dám cất lên tiếng nói của lòng mình trước sự tha hóa, sự băng hoại đạo đức, phẩm giá của con người, cảnh báo sự xuất hiện nguy cơ đe dọa sự phát triển đất nước:

    “Đất nước đang lên da lên thịt
    Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày
    Ta muốn gói cuộc đời gọn gàng như trái vải
    Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống
    Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng
    Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang
    Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng
    Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người
    Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút
    Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men”
                                         (Những người trên cửa biển).

    “Đất nước đang lên da lên thịt Đất nước còn đang nhỏ máu ngày ngày Tamuốn gói cuộcđời gọn gàng nhưtrái vải Đã thấy loài sâu nằm tròn trong cuống Chúng muốn các em nhỏ mới biết đi phải rụng Mòn mỏi dần sức vỡ đất khai hoang Làm rỗng những con người, lùi dần niềm hi vọng Héo dần mầm sáng tạo, mất phẩm giá con người Chúng nó ở bên ta, trong ta, lẻn lút Đào rỗng từng kho tiền gạo, thuốc men” (Những người trên cửa biển).Nhiều nhà văn hóa lớn, các nhà lý luận, phê bình văn hóa, văn nghệ, các văn nghệ sĩ có tên tuổi đã từng được hỏi hoặc nếu được hỏi: Ở Việt Nam, thế kỷ XX, ai là nghệ sĩ lớn nhất, có nhiều sáng tạo mang tính đột phá, để lại dấu ấn đa dạng và sâu đậm nhất, có đóng góp rất quan trọng trên nhiều mặt cho nền văn hóa, văn nghệ nước nhà, thì chắc chắn phần đông trong số họ đều đồng thanh, đồng tâm nói rằng: Người nghệ sĩ đó là Văn Cao! Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích, tích hợp nhuần nhuyễn giữa tư duy, thẩm mĩ, bút pháp; giữa hiện thực đời sống, sự cảm nhận, tri nhận và nghệ thuật biểu đạt; giữa âm nhạc - hội họa - thơ văn, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng hết sức đặc biệt và hiếm có trong lịch sử văn nghệ Việt Nam hiện đại. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không có gì là quá lời. Không thiên tài sao được khi thập niên bốn mươi thế kỷ trước ông đã viết các kiệt tác âm nhạc Suối mơ, Thiên thai, Trương Chi..., đặc biệt là bản hùng ca bất hủ Tiến quân ca - Quốc ca Việt Nam. Năm 1945, ông viết như là dự cảm, dự báo, đúng hơn là tiên tri, về sự ra đời của các quân chủng “Hải quân Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”, là báo trước 5 năm (từnăm 1949),thời khắc quân và dân ta sẽ “Tiến về Hà Nội” giải phóng Thủ đô và cả Miền Bắc thân yêu năm 1954.

    Cuộc đời 72 năm sống, sáng tạo nghệ thuật của Văn Cao gắn bó trọn vẹn với thế kỷ XX nhiều biến động.Trên hành trình cuộc đời ấy, dẫu không ít chông gai, sóng gió, đau xót:

    “Có tuổi thanh niên
    Như cây mùa xuân mới mọc
    Bị tước dần vỏ non
    [...]
    Có lúc,
    Ban ngày nghe lá rụng sao hoảng hốt”…

    Nhưng vượt lên tất cả, lối sống khiêm nhường, bình dị, nhẫn nhịn, chấp nhận thua thiệt; tình yêu thương và trân trọng con người, cỏ cây, phố xá, làng quê, đất nước đã giúp ông vượt lên nỗi đau khổ, bất hạnh, luôn đồng hành cùng dân tộc, cùng nhân dân, sáng tạo nên những tác phẩm bất hủ sáng chói. 

    Bằng tài năng như là thiên bẩm, bằng sự tự học, tự rèn, đổi mới, sáng tạo, bứt phá, Văn Cao đã có những cống hiến to lớn đối với nền văn hóa, văn nghệ nước nhà ở cả ba lĩnh vực âm nhạc, thơ và hội hoạ. Ông được Nhà nước ta trao tặng các phần thưởng cao quý: Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật (đợt 1, năm 1996). Tên ông cũng được đặt cho nhiều đường phố ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định, Huế, Đà Nẵng...

    Văn Cao còn mãi với chúng ta. Các tác phẩm của ông như là những cột mốc yêu thương, hùng tráng, tha thiết của lịch sử, văn hóa, văn nghệ của nước nhà thế kỷ XX và lan tỏa, xao động, ám ảnh đến hôm nay và mai sau.

PGS. TS. Nguyễn Thế Kỷ 

Nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Chủ tịch Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương

Nguồn: Tạp chí điện tử Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 15.12.2023.

Cuộc xâm lăng của thực dân Pháp có tác động lớn đối với xã hội Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng. Cùng với việc thay đổi diện mạo văn hoá xã hội là sự thay đổi diện mạo của nền văn học. Những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XIX, nền văn học dân tộc chứng kiến sự tan rã của nhiều quan niệm văn học trung đại. Tuy thế, một quan niệm văn học cho thời kỳ cận hiện đại vẫn chưa được xác lập một cách vững chắc. Văn học đang dò dẫm tìm lối đi trước những ảnh hưởng mạnh mẽ của nền văn học Phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp, và một nền văn học không mấy xa lạ là văn học Trung Quốc. Song song với sự đổ vỡ của nền văn học cũ về nội dung, hình thức, thể loại, văn tự, là sự hình thành một quan niệm văn học mới. Tuyên ngôn của nền văn học mới, một chừng mực nào đó được phát biểu trong lời tựa cuốn tiểu thuyết viết bằng chữ quốc ngữ đầu tiên xuất hiện ở Nam Kỳ, Truyện thầy Lazarô Phiền, đã nói lên quan niệm nghệ thuật mới mẻ rất khác với tiểu thuyết trung đại về cuộc sống, xã hội và con người. “Đã biết rằng dân ta chẳng thiếu chi thơ văn phú truyện nói về những đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao trí cả rồi đó, mà những đấng thuộc về đời xưa, nay chẳng còn nữa. Bởi vì đó tôi mới dám bày đặt một chuyện đời nay là sự thường có trước mắt ta luôn như vậy sẽ có nhiều người lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, người thì cho đặng giải buồn một giây”(1)

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn. Có nguy cơ các làng nghề sẽ thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn.

Sài Gòn là một đô thị từ khi khởi lập. Tính chất đô thị của Sài Gòn không chỉ ở chức năng hành chính - chính trị mà còn là trung tâm kinh tế thương mại và tiểu thủ công nghiệp. Tài liệu lịch sử cho biết khoảng cuối thế kỷ XVIII ở Sài Gòn đã có tầng lớp thợ thủ công đông đảo nhiều ngành nghề, tập hợp trong các “ty thợ” của nhà nước. Có đến 62 ty thợ sản xuất hầu hết những sản phẩm phục vụ mọi mặt đời sống xã hội.  

Bên cạnh đó còn có hàng trăm “phường thợ” tập hợp những người sản xuất tự do trong những làng nghề khắp vùng Bến Nghé - Sài Gòn. Hệ thống địa danh ngành nghề được ghi lại trong sử sách phản ánh tính chuyên nghiệp trong sản xuất và tính thị trường cao trong lưu thông sản phẩm. Có thể kể đến những địa danh như Hàng Đinh, Xóm Chiếu, đường Thợ Tiện, cầu Muối, xóm Cốm, xóm Lá (buông), xóm Lò Rèn, xóm Câu, xóm Dầu, xóm Đệm Buồm, xóm Bột, xóm Đường, xóm Chỉ, xóm Lụa... 

Quá trình đô thị hóa từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay đã làm mất đi nhiều xóm nghề trong đô thị Sài Gòn - Chợ Lớn, đồng thời lại làm hình thành và phát triển một số “làng nghề” mới do nhu cầu thị trường và do luôn tiếp nhận luồng di dân cùng những kỹ thuật mới.

*

Bắt đầu xóm Lò Gốm với sản phẩm “gốm Sài Gòn”, ngày nay đây là loại cổ vật quý hiếm trong nhiều bộ sưu tập tư nhân và các bảo tàng. Cho đến nay vẫn còn những tên đường Lò Gốm, Lò Siêu, Xóm Đất, cầu Lò Chén, các chành lu, chành chén dọc bến Lò Gốm, rạch Lò Gốm, kênh Lò Gốm... ở khu vực quận 6, quận 8.

Quận 11 có khu lò gốm Cây Mai được người Pháp ghi nhận rất sớm, làm cho địa danh này trở thành tên gọi của một dòng gốm mỹ nghệ và trang trí kiến trúc tinh xảo, độc đáo. Dấu tích cuối cùng của “xóm lò gốm” là lò gốm cổ Hưng Lợi ở quận 8. Kết quả khai quật cho biết mức độ sản xuất và các loại hình sản phẩm của lò Hưng Lợi và nhu cầu tiêu dùng của xã hội thay đổi khá nhanh từ thế kỷ XVIII đến giữa thế kỷ XX.

20240311 2

Lò gốm khi được khai quật năm 1998. Ảnh Tư liệu


Đến cuối thế kỷ XX, khu vực xung quanh lò gốm cổ Hưng Lợi chỉ còn một xóm làm bếp lò ở gần đó. Thực ra chỉ có 7 - 8 gia đình làm nghề “nắn ông lò”, thợ chính là người trong nhà và mướn thêm một số thợ phụ là bà con hàng xóm. Thợ chính làm mọi khâu kỹ thuật cơ bản: xử lý nguyên liệu, tạo dáng và đốt lò nung. Thợ phụ làm công đoạn tạo miếng chắn lò, vận chuyển sản phẩm vào, ra lò, bọc thân lò bằng thiếc trước khi đưa ra thị trường. Sản phẩm có lúc bán ra tận Ninh Thuận, Bình Thuận; từ tháng 10 nhà nào cũng tăng thêm thợ vì nhu cầu bếp lò tăng nhanh vào dịp Tết. 

Nhiều năm nay dân cư thành phố và nhiều vùng nông thôn hầu như không còn sử dụng than, củi nữa nên nhu cầu bếp lò giảm nhiều. Cũng may vẫn còn một tục lệ rất hay khi năm hết Tết đến: ngày 23 tháng Chạp cúng ông Táo xong, ông lò cũ được cho ra vườn nghỉ ngơi bên gốc cây hay ven bờ kênh, gia đình mua ông lò mới về và đốt bếp mới cầu mong mọi sự bình an trong năm mới. Nhờ vậy chắc con cháu còn biết loại bếp “ông lò” và nghề gốm một thuở vang danh của đất Sài Gòn.

*

Trên đường Cách Mạng Tháng Tám - một trong hai con đường thiên lý xưa nhất của thành phố - có hai làng nghề nổi tiếng trong hai giai đoạn lịch sử. Từ quận 1 qua khỏi bùng binh ngã sáu Dân Chủ là đến khu vực Hòa Hưng. Nơi này có một làng nghề đúc đồng hình thành từ nửa sau thế kỷ XX. Khoảng năm 1954, một số người dân làng đúc đồng Ngũ Xá (Hà Nội) vào sinh sống ở khu vực này, họ cùng nhau mưu sinh bằng nghề truyền thống mang theo từ quê hương, dần dần hình thành làng nghề đúc đồng Hòa Hưng với sản phẩm chủ yếu là đồ đồng tam khí nổi tiếng và phổ biến ở phía Nam. Gần 70 năm qua làng nghề đúc đồng Hòa Hưng một thời hưng thịnh nay chỉ những người hoài cổ mới biết đến.  

Nghề gốm xuất hiện rất sớm trên đất Sài Gòn, từng vang danh cùng thời với nhiều lò gốm cổ trăm tuổi ở miền Tây. Ảnh: Giang Sơn Đông


Đây cũng là tình trạng của làng đúc đồng An Hội (Gò Vấp). Thời kỳ phát đạt, làng có đến hơn 40 lò đúc đồng. Những ngày cận Tết trong làng lúc nào cũng tấp nập người mua kẻ bán xe chở hàng đi khắp nơi. Sản phẩm nhiều loại nhưng nhiều nhất vẫn là đồ thờ cúng: lư hương, chân đèn, bát nhang... nhiều kiểu dáng truyền thống và độc đáo. Đến nay đồ thờ cúng đúc đồng thủ công với độ tinh xảo, “độc bản” thì giá cao nên khó cạnh tranh với đồ đồng sản xuất hàng loạt. Những nghệ nhân sống và gắn bó với làng đúc An Hội cả trăm năm đều rất trăn trở với việc giữ và truyền nghề vì không còn thợ trẻ và con cái cũng không theo nghề nữa. 

Cuối đường Cách Mạng Tháng Tám, qua khỏi bệnh viện Thống Nhất là đến vùng Bảy Hiền, nơi người Quảng vô Sài Gòn đã lập ra làng dệt Bảy Hiền nổi tiếng, nơi những người sành ăn thường ghé chợ Bà Hoa ở đây để thưởng thức mì Quảng và nghe giọng Quảng đậm đặc như chưa hề có vài chục năm xa quê. Vào thời hưng thịnh, làng dệt Bảy Hiền như một khu công nghiệp thật sự. Cả khu vực vang động tiếng máy dệt, mỗi năm sản xuất hàng triệu mét vải, có sức cạnh tranh rất mạnh so với vải của người Hoa ở Chợ Lớn hay vải nhập khẩu. 

Nhưng từ đầu những năm 2000, sản phẩm của làng dệt Bảy Hiền mất dần chỗ đứng trên thị trường do hàng ngoại tràn ngập lấn át về giá cả và mẫu mã. Làng dệt có “thương hiệu mạnh” một thời nay chỉ còn một số nghệ nhân duy trì vài máy dệt sản xuất nhỏ lẻ để giữ nghề truyền thống như giữ một giá trị văn hóa của đô thị Sài Gòn.

*

Trong vùng Chợ Lớn có một hội quán đặc biệt: Lệ Châu hội quán, nhà thờ tổ nghề thợ bạc tại Sài Gòn và cả Nam bộ. Hội quán ra đời sớm nhất và gắn liền với ngành sản xuất và kinh doanh kim hoàn của người Hoa tại đây, sau này phát triển ra nhiều tỉnh thành Nam bộ. Qua bao thăng trầm, ngày nay địa điểm này đã trở thành một trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, nơi hội ngộ và giao lưu kinh nghiệm của nhiều hội nhóm, nghiệp đoàn trong lĩnh vực kim hoàn.

Vào cuối thế kỷ XIX, tại khu vực Chợ Lớn nghề kim hoàn và chế tác nữ trang rất phát triển, lúc bấy giờ đã có hơn 30 lò thợ bạc hành nghề. Đến giữa thế kỷ XX, Chợ Lớn là một trung tâm thủ công nghiệp nói chung và nghề kim hoàn nói riêng. Chợ Thiếc là ngôi chợ truyền thống lâu đời chuyên mua bán các mặt hàng vàng bạc. Đặc biệt đây là chợ kim hoàn lớn nhất của thành phố, vừa là “công xưởng” chuyên chế tác, gia công, sửa chữa đồ trang sức, vừa là chợ mua bán vàng, bạc, đá quý, đồ trang sức với mức độ lớn. Đặc biệt ngay trên tầng một của chợ là một "trường học nghề" chuyên về mỹ nghệ - kim hoàn. Sự gắn bó, liên kết chặt chẽ từ nơi sản xuất, thị trường mua bán đến truyền nghề kim hoàn trong trường hợp Chợ Thiếc thể hiện một hình thái kinh tế khá độc đáo của đô thị Sài Gòn: nơi sản xuất và phố buôn bán sản phẩm đặc trưng liên kết thành một thể thống nhất. 

Khái niệm “làng nghề truyền thống” gắn sản xuất thủ công với làng cổ - hình thức cư trú truyền thống. Nhưng quá trình đô thị hóa đã biến các làng cổ thành phố phường, thợ sản xuất thành thị dân. Vì vậy sự hình thành và phát triển những “phố chuyên doanh” ở TP.HCM chính là sự tiếp nối “làng nghề” ở một hình thức mới để thích ứng và đáp ứng nhanh nhu cầu xã hội. Mối liên hệ này thúc đẩy và điều chỉnh quy mô sản xuất của làng nghề, mức độ nào đó góp phần bảo tồn nghề và sản phẩm thủ công truyền thống. Đặc biệt với nghề gốm, nghề đúc đồng, nghề mộc...  do sản phẩm dễ bị thay thế bởi chất liệu hiện đại, sản xuất hàng loạt nên khó tồn tại và phát triển. 

*

Hiện nay TP.HCM còn nhiều “làng nghề” truyền thống khác: làng nghề bánh tráng, làng nghề đan lát, làng nghề mành trúc, làng nghề làm lồng đèn, làng nghề đan giỏ trạc, làng nghề se nhang, làng nghề làm muối; nhiều cơ sở chế biến khô thủy sản... cả “phố đông y” Hải Thượng Lãn Ông cũng có thể coi là làng nghề sản xuất nhiều loại thuốc Bắc. Những “làng nghề” này đã có thị trường nhất định, nhưng TP.HCM là nơi nhiều nguồn hàng hóa đổ về, nếu “làng nghề truyền thống” không gắn liền với một khu vực “chuyên doanh” như đầu mối lớn nhất, các cơ sở sản xuất và ngành quản lý không tổ chức hình thức chuyên doanh và quảng bá mới thì tiêu thụ sản phẩm sẽ gặp khó khăn trong bối cảnh xã hội thay đổi nhanh chóng về mọi mặt, nhất là nhu cầu tiêu dùng cả về loại hình và chất liệu hàng tiêu dùng. Có nguy cơ các làng nghề sẽ thu hẹp sản xuất và mất dần nghề truyền thống, cũng là mất đi một loại hình di sản phi vật thể gắn liền và phản ánh quá trình lịch sử vùng đất Sài Gòn. 

Nguyễn Thị Hậu

Nguồn: Người đô thị, ngày 13.02.2024.

Là một trong số những nhà thơ làm thơ từ khi đất nước còn trong những năm tháng chiến tranh cho đến khi hòan tòan độc lập và chuyển mình thay đổi cùng thời cuộc, Nguyễn Duy luôn luôn trăn trở và luôn tìm cách đổi mới giọng điệu để thích hợp với hòan cảnh. Vốn từng “ca hát quá nhiều về tiềm lực”, lúc cần thiết phải thay đổi, Nguyễn Duy sẵn sàng trở thành người vận động mọi người “đánh thức tiềm lực”, sẵn sàng làm những “câu thơ tuẫn tiết” khi không còn “rưng rưng”, không thể “tình tang phiêu lưu”.

Biểu tượng rồng Đại Việt là biểu tượng rồng của các vương triều Đại Việt Đinh - Tiền Lê - Lý - Trần - Lê (thế kỷ 10 - 18). Cội nguồn và bản chất của biểu tượng đó là thần sông - nước, được đồng nhất với thần mưa của người Việt.

Thời xa xưa, nước từ sông suối biển cả và nước mưa từ trời đã luôn gắn với sự sống và cái chết của con người. Phần lớn nền văn minh lớn của loài người là văn minh bắt nguồn từ những dòng sông.

Người Việt đã mất đi truyền thuyết khởi nguyên kể về một nạn hồng thủy hủy diệt loài người. Nhưng người Việt còn mãi truyền thuyết Sơn Tinh - Thủy Tinh kể về nạn lũ lụt do Thủy Tinh gây ra.

20240301

Hoa văn rắn trên thố dùng đựng nước cúng trong Văn hóa Phùng Nguyên.

Người Việt có câu "Nhất nước - nhì phân" nói lên tầm quan trọng của nước với nghề trồng lúa. Nhưng người Việt cũng có câu "Thủy, hỏa, đạo, tặc" nói lên mức độ tai họa do nước gây ra thế nào.

Từ nỗi kính - sợ sức mạnh của sông nước, người Việt kính sợ và thờ cúng thần sông nước với hiện thân xa xưa nhất là loài rắn nước vùng sông hồ, có thân uốn khúc tương đồng với hình dáng của dòng sông, với chuyển động của sóng nước cũng như với hình tia chớp trong cơn mưa. Tổ tiên người Việt xưa đã gọi vị thần sông - nước ấy bằng ngay từ chỉ sông hay nước. Ngôn ngữ học đã chứng minh từ “rồng” trong tiếng Việt cùng từ “long” trong tiếng Hán - Việt đều có gốc là từ chỉ sông klông hay krông trong tiếng Bách Việt cổ, hiện vẫn thấy trong tên một số con sông ở Tây Nguyên như Krông Pắc, Krông Nô, Krông Ana… Trong khi đó, từ chỉ rồng (neak) trong tiếng Khmer và (ngượk) trong tiếng Thái có gốc là một từ chỉ sông nước khác trong tiếng Bách Việt cổ, có họ hàng với từ nước trong tiếng Việt, từ Đác trong tên một số sông hồ ở miền Trung - Tây Nguyên như sông Đắc Krông (Quảng Trị), Hồ Lắk (Đắk Lắk), Đăk Bla (Kon Tum)…

Với mong muốn nhận được nhiều tình yêu thương, sự chở che phù hộ hơn từ thần sông - nước, người Việt xưa nhận thần là Ông Tổ của mình, tin mình có thể giao tiếp với thần qua các nghi lễ thờ cúng.

Bao đời nay, người Việt lưu giữ truyền thuyết cội nguồn có tên là Họ Hồng Bàng, tức những người có dòng dõi Chim Rồng với vị Thủy Tổ gần nhất là Lạc Long Quân hay Vua Rồng Lạc, tức Vua Rồng của người Lạc Việt.

Biểu tượng rồng sớm nhất trong văn hóa Việt Nam là hình rắn uốn khúc trên bình gốm ở Xóm Rền, Phú Thọ, một di chỉ sớm của văn hóa Đá mới Phùng Nguyên, 2.000-1.400 năm trước Công nguyên (TCN). Các nhà khảo cổ học thường gọi đó là "văn giun", nhưng đúng ra phải gọi là "hoa văn rắn" bởi nó thể hiện hình rắn uốn khúc khi bò hay bơi, một biểu tượng của sông nước và sự sống bất tận.

Chủ nhân của Văn hóa Phùng Nguyên là những người chủ yếu ở vùng sông nước, sống ở trên nước, nhờ nước và thờ vật tổ rắn nước. Họ là những người đầu tiên dùng từ nước hay đất nước để chỉ nơi mình sinh ra, lớn lên, yêu quý và bảo vệ.

Thời Đông Sơn, tức thời Hùng Vương - An Dương Vương - Hai Bà Trưng (thế kỷ 7 TCN - thế kỷ 1), thời của nhiều biến động dân cư, phân hóa xã hội, cũng là thời chứng kiến sự đa dạng của biểu tượng vật tổ rồng.

Thời các Vua Hùng (thế kỷ 7 - thế kỷ 3 TCN), rồng - rắn là vật tổ - biểu tượng của các Vua Hùng.

Cội nguồn của biểu tượng rồng Đại Việt -0
Hình rùa cách điệu ở giữa tấm đồng đính trên trang phục quý tộc Đông Sơn, sau hóa thành sừng hình omega ở trên đầu rồng thời Lý.

Hiện chúng ta chỉ có những bằng chứng gián tiếp về biểu tượng rồng - rắn thời các Vua Hùng. Đó là sự nổi trội của biểu tượng rắn trong văn hóa Điền ở Vân Nam, đặc biệt là hình đôi rắn cuốn trên cột lễ cầu mùa và hình rắn cuộn mình trên ấn vàng của vua Điền. Tư liệu khảo cổ học cho thấy Văn hóa Điền là nền văn hóa anh em với Văn hóa Đông Sơn. Còn tư liệu Dân tộc học cũng chỉ ra người Điền Việt thực chất là một nhóm Lạc Việt.

Thời Thục Phán - An Dương Vương (257 - 179 TCN), hiện thân cụ thể của rồng là rùa, là vật tổ - biểu tượng - thần bảo hộ cho hoàng tộc Âu Lạc. Bằng chứng là hình rùa thực và cách điệu trên khóa thắt lưng và tấm đồng - bùa thiêng đính trên trang phục quí tộc Đông Sơn; là ngôi nhà hình rùa mái cong lồi trên các trống Ngọc Lũ, Cổ Loa; và đặc biệt thần Rùa vàng trong truyền thuyết đã giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa - Thành Rùa...

Mặt khác, trên nhiều đồ đồng Đông Sơn như trống Hòa Bình, thạp Đào Thịnh, tấm đồng Ninh Bình, rìu Thiệu Dương... chúng ta lại thấy biểu tượng rồng - cá sấu (giao long), vật tổ của một số nhóm dân vùng ven biển. Tục xăm mình hình rồng được kể trong truyền thuyết chủ yếu gắn với các nhóm dân này. Hình thuyền trên trống Ngọc Lũ và thạp Đào Thịnh cũng là dạng thuyền đầu rồng - cá sấu, đuôi chim.

Vào cuối thời Đông Sơn, làng Vạc ở vùng miền núi Nghệ An thành một điểm hội tụ của nhiều nhóm quý tộc Điền từ Vân Nam tới tị nạn. Họ là chủ nhân của các đồ đồng có biểu tượng rồng - rắn, bằng chứng là hai thanh kiếm ngắn trên cán có tượng đôi rắn ngậm chân hổ và đôi rắn ngậm chân voi cùng các vòng tay hình rắn.

Cũng vào thời đó, sự phát triển của nghề thuần dưỡng voi dùng để kéo gỗ, đánh trận đã dẫn đến sự lan tỏa của tín ngưỡng thờ vật tổ voi tại vùng núi Thanh - Nghệ. Voi là con vật ưa nước, có thể dùng vòi hút và phun nước như mưa nên cũng là một biểu tượng của sông nước.

Từ đó, biểu tượng - vật tổ rồng - voi xuất hiện trên nhiều di vật Đông Sơn ở vùng này như chuông, kiếm ngắn và chân đèn. Hình voi nhà cũng nổi bật trên những trống đồng Đông Sơn cỡ lớn ở Indonesia được các nhóm quý tộc di cư từ Thanh - Nghệ vượt biển mang tới. Tượng voi cùng tượng ếch thể hiện thần mưa cũng xuất hiện trên mặt một số trống đồng muộn ở vùng núi Thanh Hóa, như trống Ngọc Liên và Hồi Xuân.

Cội nguồn của biểu tượng rồng Đại Việt -0
Vòng tay hình rắn làng Vạc.

Thời Đinh và Tiền Lê, dù dòng họ Đinh Bộ Lĩnh thờ vật tổ rái cá và dù nhà Đinh coi Phật giáo là quốc giáo, nhưng là Hoàng đế của một nhà nước quân chủ tập quyền, Vua Đinh và Vua Lê cũng đã tạo ra một biểu tượng rồng riêng cho vương triều và dân tộc mình tương tự và không kém biểu tượng rồng phương Bắc. Đáng tiếc, giờ đây chúng ta không có tư liệu về biểu tượng rồng của hai thời này.

Dù vậy, chúng ta vẫn có thể đoán định rằng biểu tượng rồng Đinh và Tiền Lê là rồng - rắn. Bằng chứng là hai vị thần sông - thần rắn nước có tên dân gian là Ông Dài - Ông Cụt ở vùng ven các sông Cà Lồ, sông Cầu, sông Thương đã được nhân hóa và lịch sử hóa thành hai anh em Trương Hống và Trương Hát. Theo truyền thuyết, hai ông vốn là hai vị tướng của Triệu Việt Vương (524 - 571). Khi vua mất, hai ông tự vẫn và trở thành thần thánh liên tiếp âm phù cho Ngô Quyền, Lê Hoàn và Lý Thường Kiệt đánh thắng giặc Nam Hán và giặc Tống, từ đó được phong là "Vua Thần hộ quốc". Việc Lý Thường Kiệt cho người đọc bài thơ "Thần" mở đầu với câu "Nam quốc sơn hà Nam Đế cư" từ đền thờ hai thần cũng cho thấy vai trò quan trọng tầm quốc gia của các vị thần này...

Rất có thể, hai vị thần rắn nước trên có mối liên hệ cội nguồn với đôi rắn ngậm chân voi hay chân hổ trong văn hóa Đông Sơn trước đó cũng như với đôi rắn thần gọi là Ông Lốt hay Thanh Xà - Bạch Xà của Đạo Mẫu Việt sau này.

Thời Lý là thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đại Việt gắn với sự phục hưng của nhiều truyền thống Đông Sơn. Các vua Lý cho đúc và ban phát trống đồng, thờ thần Trống Đồng như Minh chủ trong các hội thề của triều đình, mở hội Trung Thu có tục đua thuyền rồng và tục múa rối nước, phục hồi tục xăm mình hình rồng...

Biểu tượng rồng Lý ra đời, theo xu thế thời đại là sự tổng hòa các biểu tượng rồng Đại Việt, Ấn Độ và Trung Hoa. Hình rồng Lý sớm nhất và đẹp nhất được thể hiện ở chùa Phật Tích có đầu cá sấu, mắt ếch, vòi voi, sừng hình rùa cách điệu, thân, lưỡi, nanh rắn, tức tổng hòa các biểu tượng rồng Đông Sơn nhưng cốt lõi và thần thái là rồng - rắn. Từ đó, biểu tượng rồng Lý, dù trên kiến trúc Hoàng thành hay ở chùa đình các làng quê, vừa là một biểu tượng của vương quyền và thần quyền (Phật giáo) nhà Lý, vừa là một biểu tượng cho sức mạnh và vẻ đẹp của đất nước và dân tộc Đại Việt có kinh đô mang tên Thăng Long (rồng bay lên).

Các biểu tượng rồng thời Trần, Lê sau này, dù có những khác biệt, nhưng về cơ bản vẫn mang cốt cách và thần thái của biểu tượng rồng - rắn thời Lý.

Tạ Đức

Nguồn: An ninh thế giới, giữa và cuối tháng, ngày 27.01.2024.

 (Trích luận văn thạc sĩ)

Mở đầu

1. Chủ nghĩa siêu thực là sản phẩm của môi trường thẩm mỹ hiện đại, trong đó, tác phẩm không còn thẳng tắp, một chiều, không còn du dương, dễ nghe như trước, mà dung chứa sự phức tạp, đa chiều của một nhân loại bị đấu tranh sinh tồn ám ảnh. Người nghệ sĩ tìm đến sáng tạo nghệ thuật như là tìm một nơi trú ẩn trước đời sống hiện thực, trước sự tàn phá của trí tuệ và logic truyền thống. Vì vậy, muốn nắm bắt được tác phẩm siêu thực nói riêng, chủ nghĩa hiện đại nói chung, nên hiểu, nên quen với môi trường thẩm mỹ hiện đại.

20240209

       Mùa xuân Giáp Thìn 2024 này, Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ, Phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, sinh ngày 24-7-1924, đi trọn khánh niên bách tuế và bước qua tuổi “bách dư niên” trong cuộc đời. Gần 80 năm xuất gia, tu tập và hoằng dương chánh pháp, Hòa thượng đã thành lập, xây dựng, trùng tu và phát triển 175 thiền viện trong và ngoài nước, 110 đạo tràng, góp phần phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Từ quê hương Trà Ôn, Vĩnh Long nghèo khó, Ngài đã đặt chân đến các miền Tổ quốc và hơn mười quốc gia trên thế giới để giáo hóa, hướng dẫn tu tập, chứng pháp quy y cho hàng chục vạn Phật tử trong và ngoài nước.

      Cùng với những hoạt động Phật sự kiên trì, bền bỉ có ảnh hưởng tích cực trong đời sống văn hóa của dân tộc, Thiền sư Thích Thanh Từ còn cống hiến cho đời những công trình dịch thuật, biên khảo rất giá trị, xứng đáng có vị trí trân trọng trong tủ sách của những gia đình quan tâm đến Phật học.

      Theo một thống kê được cập nhật gần đây nhất, Hòa thượng Thích Thanh Từ có 103 công trình dịch thuật, giảng giải, luận bàn kinh Phật, khảo cứu về tư tưởng Thiền học, lịch sử Thiền tông, hành trạng và sự nghiệp của các thiền sư Việt Nam và Trung Hoa. Nổi bật trong số đó là bộ sách về kinh Bát Nhã, kinh Diệu Pháp Liên Hoa, kinh Kim Cang, kinh Lăng Già, kinh Viên Giác, kinh Pháp Bảo Đàn… Một trong những điểm đặc biệt thể hiện rõ nét tâm nguyện kế thừa, tiếp nối và phục hưng Thiền phái Trúc Lâm là việc Hòa thượng Thích Thanh Từ chuyên tâm dịch thuật, khảo luận các tác phẩm Thiền tông đời Lý - Trần, tiêu biểu là bộ sách Khóa Hư Lục giảng giải, Tam Tổ Trúc Lâm giảng giải, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục giảng giải, Tham Đồ Hiển Quyết và Thi tụng các Thiền sư đời Lý giảng giải

      Như vậy, trong tâm nguyện và hành động của Hòa thượng Thích Thanh Từ, phục hưng Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử không chỉ là khôi phục, tôn tạo những cơ sở tu trì mà quan trọng là làm sống lại tinh hoa của Thiền phái qua những kinh sách uyên áo do các thế hệ thiền sư để lại và lưu truyền vào tâm thức của đại chúng. Hai việc này phải tiến hành song song, có quan hệ và tương tác với nhau một cách mật thiết. Và xét cho cùng, không phải những cơ ngơi đồ sộ với tòa ngang dãy dọc mà chính tinh hoa, căn cốt tư tưởng Thiền học được củng cố, phát huy mới làm nên rường cột giữ cho Thiền phái phát triển vững bền và trường cửu.

      Mở đầu bản dịch Bích Nham Lục, một công trình do Thiền sư Viên Ngộ trước tác dựa theo nguyên tác của Thiền sư Tuyết Đậu (đời Tống), dịch giả Thích Thanh Từ viết: “BÍCH NHAM LỤC là tập sách rất quan thiết trong Thiền môn, cần phải được phiên dịch. Song nó rất khó dịch; vì cố gắng giúp phần nào cho người sau, buộc lòng chúng tôi phải dịch ra. Khi dịch, chúng tôi chia mỗi tắc thành năm phần hoặc bốn phần: Lời Dẫn (Thùy Thị), Công Án, Giải Thích, Tụng, Giải Tụng. Có tắc không có Lời Dẫn, chỉ còn bốn phần. Chúng tôi lược bớt lời giải ngắt quãng trong công án và trong bài tụng, để độc giả đọc công án và lời tụng mạch lạc hơn.

      “Bản dịch này chúng tôi y cứ theo bản Hán văn BÍCH NHAM LỤC trong tập THIỀN HỌC ĐẠI THÀNH và THIỀN HỌC TẬP THÀNH bổ túc cho nhau. Phần tựa đầu dịch đủ, phần hậu tự chúng tôi lược bớt.

     “Dám mong Thiền giả đọc nó cốt “đạt lý, đừng kẹt lời”, “ứng dụng tu hành không nói rỗng”, thế là mãn nguyện của chúng tôi”[1].

      Như vậy, trong quan niệm của Thiền sư Thích Thanh Từ, dịch thuật là cố đạt lý chứ không “mắc kẹt” trong văn tự, ngôn từ, như kinh Viên Giác khuyên ta hãy nương theo ngón tay để thấy mặt trăng. Điều đó không có nghĩa là xem nhẹ ngôn từ mà nhằm nhắc nhở đừng để ngôn từ cản trở cho sự lĩnh hội tư tưởng. Đọc các bản dịch của Hòa thượng Thích Thanh Từ, ta thấy ngôn ngữ giản dị mà không giản đơn, dễ thông hiểu và thông đạt đến mọi người - hình như đây cũng là văn phong của một vùng đất cởi mở, khoáng đạt trong tính cách con người.

      Giảng giải công phu những bộ sách “văn chương tuyệt hảo, lý đạo u huyền”, nhưng Hòa thượng Thích Thanh Từ luôn thể hiện đức khiêm cung: “Sự giảng giải của chúng tôi giá trị ở nhiệt tình, chớ không ở văn chương và sáng tỏ lý thiền. Bởi thiền là vô ngôn, chúng tôi dùng đa ngôn thì khó tránh khỏi sai lầm. Mong quý độc giả cảm thông tha thứ việc làm gắng gượng của chúng tôi”[2].

      Bộ sách Thiền sư Trung Hoa gồm 2 tập, được Hòa thượng Thích Thanh Từ soạn dịch từ ba bộ sách Cảnh Đức Truyền Đăng Lục, Chỉ Nguyệt LụcCao Tăng Truyện. Bộ sách này giới thiệu tiểu sử, hành trạng, đức hạnh và công tích của các vị thiền sư từ đời thứ nhất sau Lục Tổ Huệ Năng đến đời thứ tư là lúc bắt đầu chia tông phái (Tập 1), rồi từ đời thứ năm gồm năm tông (Tào Động, Lâm Tế, Qui Ngưỡng, Vân Môn, Pháp Nhãn) và bảy phái (Tông Lâm Tế lại chia thêm thành hai phái Huỳnh Long và Dương Kỳ) (Tập 2), gồm 144 vị.

      Trước khi vào sách, độc giả được soạn giả dặn dò: “Người tu theo Thiền tông cốt nhận được bản tâm, thấy được bản tánh của mình. Khi nhận được bản tâm, mới tin “tâm tức là Phật”. Khi thấy được bản tánh mới tin “tánh mình đầy đủ tất cả, xưa nay vẫn thanh tịnh”. Nhưng tâm tánh ở đâu, thế nào? Tất cả người tu Phật đều thắc mắc vấn đề này. Khi đặt câu hỏi tâm tánh ở đâu, thế nào, thì khác gì người cỡi trâu tìm trâu, vác Phật đi cầu Phật, biết bao giờ thấy được”[3].

      Lấy bản tâm làm chủ, Thiền tông hướng con người nhìn thấy “bản lai diện mục” của mình ngay chính nơi mình mà không cầu nơi nào khác, như Trần Nhân Tông viết: Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch (Trong nhà có sẵn của báu, đừng đi tìm nơi nào khác).

      Thiền sư Thanh Từ dặn tiếp: “Người tu Thiền phải dẹp sạch bản ngã, dù là bản ngã thánh cũng không còn. Nếu còn thấy sở đắc là còn bản ngã, giả sử thấy đắc quả thánh cũng là vị thánh tương đối, chớ chưa thật giải thoát. Chỗ giải thoát cứu cánh là tâm không còn dính mắc một chỗ nào”[4]

      Thiền tông Việt Nam có những điểm gặp gỡ với Thiền tông Trung Hoa mà cũng có những đặc trưng riêng do hoàn cảnh đặc thù của đất nước và văn hóa dân tộc. Điều này được phản ánh sinh động trong hai tác phẩm Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XXThiền sư Việt Nam của Hòa thượng Thích Thanh Từ.

       Được tác giả ấp ủ và thai nghén nhiều năm trước khi ra mắt, sách Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX khẳng định: “Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI đến nay đều là các thiền sư”. Theo tác giả, “Có lắm người Phật tử hâm mộ tu Thiền, song sự có mặt của nhiều lối tu Thiền ở Việt Nam làm họ không biết đâu tà đâu chánh. Nếu người dè dặt đành chịu chùn chân không biết theo ai. Nếu người nhiệt tình nóng bỏng nghe đâu theo đó, họ dễ bị lạc vào thiền tà ngoại. Đây là một khuyết điểm lớn lao do không có người giản trạch chánh tà cho họ. Người chịu trách nhiệm này chính là tăng ni. Tăng ni là người có bổn phận dẫn đường chỉ lối cho tín đồ tu học. Nếu chỗ sở mộ của Phật tử khác với đường lối hiện tu của mình, bổn phận mình phải chỉ cho họ nơi nào hợp với sở mộ mà đúng chánh pháp. […]. Chính đây là một trong những mục tiêu chúng tôi nhắm để viết quyển sách này”[5].

      Trong tinh thần đó, cuốn sách tập hợp những bài viết và bài giảng của tác giả có liên quan đến chủ đề Thiền tông: “Cội nguồn Thiền tông”, “Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX”, “Yếu chỉ Thiền tông”. “Vào cổng nhà Thiền”, “Vào cửa Không”, “Chỉ Ông chủ”. Đặc biệt trong phần “Yếu chỉ Thiền tông”, tác giả đã phân tích và bình luận những vấn đề quan yếu: “Chủ đích Thiền tông”, “Đức Phật qua cái nhìn của Thiền tông”, “Thiền tông với các kinh Đại thừa”, “Thiền tông với các môn thiền khác”, “Thiền tông không nặng hình thức tôn giáo”, “Đặc điểm Thiền tông”, “Những nghi vấn về Thiền tông”, “Những bệnh của người tu thiền”.

      Kết hợp với phần giảng giải, cuốn sách giới thiệu những bài kệ do chính tác giả phiên dịch, giúp bạn đọc dễ lĩnh hội và thẩm thấu những tư tưởng uyên áo của Thiền học. Chẳng hạn, đây là bản dịch bài kệ của Thiền sư Huệ Sinh đời Lý: Pháp gốc như không pháp/ Chẳng có cũng chẳng không/ Nếu người biết pháp ấy/ Chúng sanh cùng Phật đồng/ Trăng Lăng Già vắng lặng/ Thuyền Bát Nhã rỗng không/ Biết không, không giác có/ Chánh định mặc thong dong.

      Sách Thiền sư Việt Nam là một đóng góp lớn của Hòa thượng Thích Thanh Từ vào việc nghiên cứu Thiền tông trong bối cảnh văn hóa Phật giáo và dân tộc. Tác giả trình bày tiểu sử, hành trạng, đức hạnh và công tích của 127 vị hòa thượng, thiền sư, đại sư, thiền lão, quốc sư, trưởng lão, cư sĩ, ni sư, ni cô có vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển Thiền tông ở nước ta, mà những vị đặt nền móng ban đầu là Khương Tăng Hội, Thích Đạo Thiền, Thích Huệ Thắng, Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Cuốn sách còn cung cấp cho bạn đọc các đồ biểu phái Thiền tông ở Trung Hoa truyền sang Việt Nam, phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi, phái Thiền Vô Ngôn Thông, phái Thiền Thảo Đường, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, tông Tào Động, phái Lân Giác ở Bạch Mai, phái Nguyên Thiều - Siêu Bạch, phái Thiệt Diệu Liễu Quán; các sơ đồ truyền thừa của Hòa thượng Ẩn Sơn, Thiền sư Thiện Hiếu; phụ bản Tham Đồ Hiển Quyết, phụ bản Những dòng kệ các phái. Đây là những chỉ dẫn quý báu rất bổ ích cho những người học Phật.

       Nhìn lại những cuốn sách của Hòa thượng Thích Thanh Từ, có thể thấy những năm 90 thế kỷ trước là thời gian tác giả công bố nhiều công trình có tiếng vang nhất, hầu hết đều do Thành Hội Phật giáo TP Hồ Chí Minh và Thiền viện Thường Chiếu ấn tống. Mùa Xuân năm 1992, Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP Hồ Chí Minh có cơ duyên được Hòa thượng đến thăm và có một buổi thuyết giảng trầm ấm mà cuốn hút các giáo sư, giảng viên và sinh viên ngồi kín một giảng đường lớn. Đó cũng là dịp cuốn sách Xuân trong cửa Thiền, tập hợp những bài pháp thoại tinh tế và sâu sắc của Hòa thượng trong những buổi lễ tất niên hay giao thừa nhiều năm trước, vừa được xuất bản.

       Nghĩ về mùa Xuân Di Lặc, Hòa thượng Thích Thanh Từ nhắc đến bốn câu kệ của Thiền sư Bổn Tịnh (đời Đường):

                       Nhứt niên xuân tận nhứt niên xuân

                       Dã thảo sơn hoa kỷ độ tân

                       Thiên hiểu bất nhơn chung cổ động

                       Nguyệt minh phi vị dạ hành nhơn.

       Thầy dịch:

                       Một năm Xuân trọn một năm Xuân

                       Cỏ dại non hoa mấy độ tươi

                       Trời sáng chẳng do chuông trống động

                       Trăng trong đâu bởi khách đi đêm.

       Và Thầy bình luận: “Ở trên cuộc đời này có bao nhiêu người cứ theo cái mê lầm ảo tưởng của mình, chạy theo ngoại cảnh, bám vào ngoại cảnh cho là mình. Cho nên phải khổ đau theo dòng sinh diệt của ngoại cảnh. Như bao nhiêu người thấy cái gì cũng nói cái đó là của mình, lệ thuộc mình từ cái bản thân cho đến cái sự vật bên ngoài. Không có cái nào là không bám chặt vào mình. Bởi cái chấp ngã nặng nề đó cho nên con người phải khổ đau, khổ đau dằng dặc từ kiếp này đến kiếp khác. Đó là cái chấp ngã sở, tức là vật sở hữu của mình. […]. Bởi vì mình đặt chủ quan của mình vào sự vật, bắt sự vật lệ thuộc vào mình. Mình muốn lòng người đối với mình và sự vật thuộc về mình trường tồn vĩnh cửu. Cho nên khi có trạng thái biến đổi, xê dịch thì mình cảm thấy bất an, không vui rồi”[6].

      Theo giải thích của Hòa thượng Thích Thanh Từ, bài kệ của Thiền sư Bổn Tịnh truyền đi thông điệp rằng: “Nếu mình có cái nhìn khách quan, thì sẽ thấy ngoại cảnh là ngoại cảnh, không cái gì thuộc về mình hết. Trăng trong là trăng trong, không phải vì mình đi đêm mà trăng trong. Trời sáng là trời sáng chớ không phải vì chùa đánh chuông, đánh trống là trời sáng. Như hoa cỏ nó tươi nó nở là tới thời tiết nó tươi nó nở, chớ không phải vì cái gì mà nó tươi nó nở”[7].

       Nhưng phải chăng là cái nhìn khách quan đó sẽ cắt đứt mọi liên lạc giữa Ngã và Tha, giữa nội tâm và ngoại giới? Không phải, Thiền sư chỉ muốn nói rằng ta không nên có thái độ “chấp ngã sở” đối với ngoại giới mà phải dọn lòng để hòa hợp với ngoại giới. “Nếu trong lòng chứa đêm ba mươi, tức tối như mực thì cái gì cũng không xuân hết, cái gì cũng đen như mực. Sở dĩ ở ngoài đời nó đẹp là do trong lòng mình đẹp”[8].

       Để minh họa điều đó, Hòa thượng Thích Thanh Từ dẫn ra bài thơ của Thiền sư Phật Nhãn, hiệu Thanh Viễn (đời Tống): Xuân nhựt xuân sơn lý/ Xuân sự tận giai xuân/ Xuân quang chiếu xuân thủy/ Xuân khí kết xuân vân/ Xuân khách xuân tình động/ Xuân thì xuân cánh tân/ Duy hữu thức xuân nhơn/ Vạn kiếp nguyên nhứt xuân. Nghĩa là: Ngày xuân xuân trong núi/ Việc xuân thảy đều xuân/ Hồ xuân ánh xuân chiếu/ Khí xuân kết mây xuân/ Khách xuân lòng xuân động/ Thi xuân xuân càng tươi/ Chỉ có người biết xuân/ Muôn kiếp một mùa xuân. (Thích Thanh Từ dịch).                           

       Vậy làm sao để thành “người biết xuân” mà hưởng một “mùa xuân muôn kiếp”? Thầy Thanh Từ dạy ta năm điều: 1) Tùy hỷ: từ bỏ tật đố kỵ để phát tâm tuỳ hỷ theo việc tốt, việc lành của người khác; 2) Hỷ xả: vui vẻ mà buông bỏ hết những bực bội, cố chấp trong lòng; 3) Pháp hỷ hay pháp lạc: nghe chánh pháp mà tìm ra được lẽ thật, nguồn an ủi vui tươi, trong lòng thấy nhẹ nhàng thơ thới; 4) Thiền duyệt: niềm vui khi tọa thiền, thấy thân tâm an ổn, hơi thở nhẹ nhàng; 5) Tịch lạc: niềm vui cứu cánh, một niềm vui lặng lẽ khi đã thoát khỏi mọi vọng tưởng của sinh diệt[9].

       Đó là con đường tu tập kiên trì, bền bỉ, từ cái vui gần đến cái vui xa, để đạt đến mùa xuân bất tận, vĩnh cửu như nụ cười không bao giờ tắt của Đức Phật Di Lặc.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Nguyệt san Giác Ngộ Xuân Giáp Thìn 2024


[1] Bích Nham Lục (Thích Thanh Từ dịch), Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1995, tr. 5.

[2] Thích Thanh Từ: Tham Đồ Hiển Quyết và Thi tụng các Thiền sư đời Lý giảng giải, Thiền viện Thường Chiếu ấn hành, 1997, tr. 6.

[3] Thanh Từ (soạn dịch): Thiền sư Trung Hoa, tập 1, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1990, tr. 6.

[4] Thanh Từ: Sđd, tr. 11.

[5] Thích Thanh Từ: Thiền tông Việt Nam cuối thế kỷ XX, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1992, tr. 5, 7-8.

[6] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Thành Hội Phật Giáo TP. Hồ Chí Minh ấn hành, 1991, tr. 71, 72.

[7] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr. 76.

[8] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr. 202.

[9] Thích Thanh Từ: Xuân trong cửa Thiền, Sđd, tr. 181-203.

Thông tin truy cập

66254681
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
19279
19896
66254681

Thành viên trực tuyến

Đang có 273 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website