Vào những ngày cuối năm, một vài tờ báo lớn trên thế giới thường bình chọn nhân vật của năm (Person of the Year) 

Đó có thể là một nhân vật hoạt động chính trị - xã hội nổi bật trong năm, người có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển tiến bộ của một đất nước. Đó cũng có thể là một tập thể gây ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa thế giới trong năm.

20210224

Nhân vật năm 2020 - Ảnh 2.

Trong đời sống văn chương, khái niệm "nhân vật" không chỉ áp dụng cho con người mà cả cho đồ vật và thú vật, chẳng hạn nhân vật chiếc giường trong truyện ngắn Xuân Diệu, những cái ghế trong kịch E. Ionesco, con chó sói trong tiểu thuyết Tch. Aitmatov… Các nhà văn có thể dựng nên những "nhân vật" có tính cách, tâm hồn từ những sự vật của thế giới hằng ngày có quan hệ trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống con người.

Hiểu theo nghĩa rộng, một trong những nhân vật - đồ vật xuất hiện xuyên suốt trong đời sống nhân loại năm 2020 chính là chiếc khẩu trang. Vốn chỉ thông dụng ở những xứ sở ô nhiễm môi trường hay trong những nơi làm việc độc hại, từ khi coronavirus khởi phát ở Vũ Hán - Trung Quốc rồi trở thành đại dịch, chiếc khẩu trang đồng hành với đời sống con người. Vượt qua những e ngại và thành kiến ban đầu, nay chiếc khẩu trang đã chinh phục tuyệt đại đa số nhân loại như là một "vị cứu tinh" trong đại dịch Covid-19, ít nhất là cho đến khi vắc-xin chủng ngừa căn bệnh này được sử dụng phổ biến trên toàn cầu.

Chiếc khẩu trang trước hết là một sản phẩm y tế nhằm bảo vệ sức khỏe con người. Đeo khẩu trang cũng là cách góp phần giảm gánh nặng của y, bác sĩ và nhân viên y tế trong tình trạng quá tải của các bệnh viện. Ở một số điểm du lịch nước ngoài, người ta còn đeo khẩu trang cho các pho tượng danh nhân để khuyến khích du khách làm theo.

Từ một sản phẩm y tế, chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng giao tiếp xã hội. Đeo khẩu trang là một cách thể hiện thái độ ứng xử với tha nhân, với không gian công cộng. Cũng là "mask" như cái mặt nạ trong hội hóa trang nhưng khẩu trang chỉ che miệng và mũi, vẫn còn để hở đôi mắt, vầng trán, mái tóc để nhận diện. Người ta vẫn có thể nhận ra nhau qua ánh mắt lấp lánh niềm vui để động viên nhau hay buồn rầu ứa lệ trước cảnh người thân bị cách ly, thậm chí lìa đời mà không thể tiễn đưa. Giao tiếp qua trung gian chiếc khẩu trang đòi hỏi những thay đổi nhất định: giọng nói tăng âm, ánh mắt biểu cảm, khoảng cách cần thiết, cử chỉ linh hoạt để thu hút người đối thoại… Cách đeo khẩu trang nói lên tính kỷ luật và ý thức cộng đồng của con người. Người cẩn trọng đeo khẩu trang chỉ chạm vào sợi dây, không chạm vào mặt vải và thay mới hằng ngày; người cẩu thả đeo cho lấy có, dùng một khẩu trang nhiều ngày liền mà không giặt sạch. Năm qua, nước ta thành công trong chống dịch, ngoài những biện pháp quyết liệt như giãn cách xã hội, cách ly tập trung, có phần nhờ nâng cao ý thức cá nhân trong việc sử dụng khẩu trang.

Chiếc khẩu trang trở thành một hiện tượng văn hóa, thể hiện tình đồng bào, tình nhân loại trong hoạn nạn. Nghe thành phố khan hiếm khẩu trang, một người cha từ quê đem vào thành phố cho con cháu một hộp khẩu trang mà vợ chồng ông mua để dành lâu nay. Bạn bè gặp nhau quanh bàn cà phê, khi về tặng nhau một hộp khẩu trang, thật là thương mến. Công đoàn cơ quan tìm cách liên hệ công ty may mặc mua khẩu trang giá chính thức để phân phối cho nhân viên. Người Việt định cư ở nước ngoài dành thì giờ may khẩu trang tặng người dân sở tại như một cách chia sẻ khó khăn. Khi một địa phương trở thành tâm dịch, ngành y tế các nơi khác sẵn lòng giúp đỡ bằng cách chi viện đội ngũ y bác sĩ, thuốc men, dụng cụ xét nghiệm và cả khẩu trang. Nước ta là nước đang phát triển, khó khăn đủ bề, nhưng trong đại dịch cũng cố gắng gửi sang các nước láng giềng, các đối tác - cường quốc những kiện khẩu trang như món quà thiết thực để bày tỏ tình nghĩa.

Năm qua, sản xuất khẩu trang đạt tiêu chuẩn quốc tế giúp tạo công ăn việc làm cho công nhân giữa lúc ngành may mặc lao đao vì xuất khẩu hạn chế. Chiếc khẩu trang trở thành tiêu điểm trong thương mại và kinh tế: những phi vụ xuất khẩu thành công, những cú "lật kèo" hợp đồng để kiếm lời, những tranh chấp hàng hóa giữa các công ty, thậm chí giữa các quốc gia. Sản xuất và tiêu thụ khẩu trang trở thành một lĩnh vực chứng tỏ mua ngay bán thật hay làm hàng giả, hàng dối trong tình cảnh khó khăn chung. Mấy tháng đầu năm, biết bao gia đình phải chạy đôn chạy đáo tìm mua khẩu trang, trong khi có những lô hàng khẩu trang đầu cơ tích trữ để nâng giá, những xe hàng khẩu trang phi mậu dịch lặng lẽ chuyển qua biên giới.

Điều thú vị nữa là chiếc khẩu trang trở thành một tác nhân của đời sống chính trị thế giới. Hơn một năm trước, không ai hình dung trong các hội nghị quốc tế long trọng, các nguyên thủ quốc gia phải phát biểu và che giấu nụ cười sau chiếc khẩu trang, ngay cả trước ống kính của hàng trăm nhà báo. Nước nào có chính sách đúng đắn, phù hợp trong việc sử dụng khẩu trang thì góp phần giảm thiểu số ca tử vong vì dịch bệnh và tăng thêm uy tín cho người lãnh đạo. Ở Mỹ, thời gian qua, khẩu trang trở thành phương tiện vận động bầu cử, khi trên mặt người đeo có hình lá cờ hay tên ứng cử viên.

Chiếc khẩu trang cho thấy sự đa dạng của xã hội loài người. Tùy khả năng tài chính và sở thích, người ta sử dụng khẩu trang y tế, khẩu trang một lớp hay nhiều lớp, khẩu trang dùng một lần hay nhiều lần. Để giảm nhẹ sự căng thẳng khi đeo khẩu trang, người ta có sáng kiến may vải bằng nhiều loại chất liệu và nhiều màu sắc khác nhau, lại trang trí bằng những bông hoa, những hình vẽ đẹp mắt. Mỹ học ứng dụng phát huy thế mạnh trong trường hợp sáng chế ra những "khẩu trang nghệ thuật" này.

Hai mặt khẩu trang là hai mặt của cuộc đời này: bề ngoài là nguy cơ, có thể bám đầy vi khuẩn; bề trong phải giữ cho sạch sẽ, an toàn. Nhưng cũng có thể ngược lại: bên trong là một ổ vi trùng phải cần có lá chắn để bảo vệ người tiếp xúc ở bên ngoài. Có một chuyện kỳ thú là một cộng đồng người ở Hasnon, miền bắc nước Pháp, đã treo khẩu trang hằng ngày như phơi áo quần lên các "cây chữa bệnh" để xua đuổi mầm bệnh như xua đuổi tà ma.

Sự lên ngôi của chiếc khẩu trang cũng có mặt tiêu cực, kéo theo những hệ lụy cho cuộc sống con người. Người có thu nhập thấp nay phải thêm một khoản chi phí trong ngân sách gia đình vì mua sắm khẩu trang. Chiếc khẩu trang tự nhiên làm lộ thêm ra sự phân hóa giàu nghèo. Rồi việc vất bỏ khẩu trang qua sử dụng phải tính thế nào, thu gom hay tiêu hủy như rác thải y tế, chai ni-lông, túi nhựa để không làm hủy hoại môi trường. Nghĩ vậy nên Hiệp hội Art of Change 21 kêu gọi đeo khẩu trang Maskbook làm từ vật liệu tái chế.

Ai cũng mong vắc-xin ngừa coronavirus sớm được phân phối cho tất cả mọi người để cái thời mà chiếc khẩu trang là nhân vật chính sẽ qua đi. Con người càng chung tay bảo vệ môi trường, cương quyết đóng cửa những chợ động vật hoang dã như ở Vũ Hán thì nguy cơ đại dịch sẽ giảm bớt. Chiếc khẩu trang trở lại vai nhân vật phụ, chỉ để tránh khói bụi ngoài đường. Hãy cho nó vào túi áo trong không gian trong lành nơi công viên, trường học, giáo đường, tự viện để "thở vào, tâm tĩnh lặng/ thở ra, miệng mỉm cười".

Biết đến bao giờ câu chuyện cái khẩu trang mới trở thành đề tài của thời xưa cũ, chỉ còn gặp trong bệnh viện hay trong phòng triển lãm "cổ vật" như bây giờ người ta triển lãm sổ gạo, phiếu thực phẩm của thời bao cấp?

GS -TS Huỳnh Như Phương; ảnh: Hoàng Triều

Nguồn: Người lao động, ngày 17.02.2021.

Những năm 1930, khi người dân Việt chỉ biết thư pháp viết bằng chữ Hán, các trí thức nặng lòng với tiếng Việt đã âm thầm nghiên cứu cách viết thư pháp bằng chữ quốc ngữ.

20210220 2

Bút tích của nhà thơ Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

Theo PGS.TS Võ Văn Nhơn, nguyên phó trưởng khoa văn học và ngôn ngữ, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH Quốc gia TP.HCM), nhiều văn nhân thời trước xem nhà thơ Đông Hồ (1906-1969) là người đặt những viên gạch đầu tiên xây dựng cách viết thư pháp bằng chữ Việt, theo bảng chữ cái Latin.

Từng dành nhiều năm nghiên cứu về nhà thơ Đông Hồ, cũng là tác giả cuốn sách Đông Hồ - Mộng Tuyết (NXB Hội nhà văn, 1992), ông Nhơn cho biết bạn cùng thời thường đến nhờ nhà thơ viết chữ. Thi sĩ Quách Tấn (1910-1992) từng "xin" chữ của Đông Hồ cho bức trướng treo trong nhà. 

Nhà văn Lê Văn Siêu (1911-1995) cũng có nhắc: "Mỗi lần Tết, Đông Hồ đều gửi cho anh em một tấm thiệp, có bài thơ mừng xuân". Tất cả đều là chữ quốc ngữ nhưng được viết bằng bút lông, mực tàu theo phong cách thư pháp Hán tự trước đây. 

Thời gian đầu, nhiều người thấy lạ mắt nhưng về sau khá thích thú khi nhận được chữ từ Đông Hồ. 

"Thêm nữa, bác lại có ý muốn gây một phong trào chơi câu đối viết bằng chữ quốc ngữ", nhà văn Lê Văn Siêu viết.

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 2.

Nhà thơ Đông Hồ - Ảnh tư liệu

ThS Nguyễn Hiếu Tín - hiện nay là Trưởng bộ môn du lịch, Trường ĐH Tôn Đức Thắng - cho biết bút tích của Đông Hồ hiện còn rất nhiều trong sách vở hay chùa chiền. 

Qua những cứ liệu, bút tích còn lại, thêm chuyện Đông Hồ là người cả đời tâm huyết vì sự phát triển của tiếng mẹ đẻ… nhiều người xem Đông Hồ như "ông tổ" trong giới thư pháp chữ Việt.

Chữ Việt vươn ra thế giới

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 3.

Kiến trúc sư Nguyễn Thanh Sơn trong chuyến đưa thư pháp chữ Việt ra thế giới - Ảnh: NVCC

Ngày nay, thư pháp chữ Việt ngày càng được nhiều người biết đến và yêu thích. Kiến trúc sư Nguyễn Thanh Sơn - một trong những người gầy dựng phong trào chơi thư pháp chữ Việt ở TP.HCM - cho biết ưu điểm của thư pháp chữ Việt là tính quốc tế hóa, tinh thần hội nhập.

Từ cách viết thư pháp chữ Việt, người viết có thể vận dụng sáng tạo cho những ngôn ngữ khác dùng chữ Latin như tiếng Anh, Đức, Tây Ban Nha… Đây là điều mà thư pháp chữ Hán rất khó tiếp cận.

Kiến trúc sư Thanh Sơn chia sẻ, muốn viết, trước hết phải thật sự tĩnh tâm, có lúc phải ngồi thiền mới bắt đầu cầm bút được. Bản thân ông, có những chữ ông viết đi viết lại nhiều lần, có khi mất một tháng mới ưng ý.

"Thư pháp chữ Việt là môn nghệ thuật công phu, đòi hỏi người viết phải khổ công luyện tập về nhiều phương diện mới có thể ít nhất viết được một chữ trọn vẹn", ông nói.

Tại TP.HCM hiện có câu lạc bộ những người yêu thích thư pháp (hoạt động ở Nhà văn hóa quận 1) do ông Sơn thành lập, hướng dẫn các anh em đam mê tập viết. Ông cũng nhiều lần được một số nước như Thụy Sĩ, Mỹ… mời xuất ngoại để triển lãm thư pháp chữ Việt.

Nhà thơ Đông Hồ tên thật là Lâm Tấn Phác, sinh ở làng Mỹ Đức (Hà Tiên). Vì tổ tiên nhiều đời sống ở ven Đông Hồ Ấn Nguyệt - một trong mười cảnh đẹp của đất Hà Tiên (Hà Tiên thập cảnh) - nên khi mới bắt đầu biết làm thơ, ông chọn bút danh Đông Hồ.

Giai đoạn 1926-1934, ông mở nhà nghĩa học bên bờ Đông Hồ Ấn Nguyệt, lấy tên là Trí Đức Học Xá. Ông tự mình đứng lớp dạy chữ quốc ngữ, lúc này vẫn còn ít phổ so với chữ Pháp hay chữ Hán. Đông Hồ từng thổ lộ, ông học theo lời dạy của nhà thơ Tagore (Ấn Độ): "Có học tiếng mẹ đẻ thì chúng ta mới vỡ trí khôn ra được".

Từ năm 1964 đến 1969, ông được mời dạy môn Văn học miền Nam tại Đại học Văn Khoa Sài Gòn. Là người rất lịch thiệp và cầu kỳ, những khi tiếp khách, những lúc ngâm thơ, Đông Hồ đều ăn mặc trang trọng và đốt trầm hương...

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 6.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hoa, cháu họ của nhà thơ Mộng Tuyết, và những hình ảnh, di bút của vợ chồng thi sĩ Đông Hồ được trưng bày tại nhà lưu niệm ở Kiên Giang - Ảnh: NGUYỄN TRIỀU

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 7.

Những nét chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 8.

Những nét chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

‘Ông tổ’ của nghệ thuật thư pháp chữ Việt - Ảnh 9.

Những nét chữ viết bằng bút lông, mực tàu của Đông Hồ - Ảnh: TRỌNG NHÂN chụp lại

Hoàng Thi

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 13.02.2021.

Đó là câu nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Câu này ở trong bài diễn thuyết bằng quốc văn đọc tại buổi lễ kỷ niệm Nguyễn Du nhân ngày mất của nhà thi hào (10.8 âm lịch) do Ban Văn học của Hội Khai Trí Tiến Đức tổ chức tại Hà Nội ngày 8.9.1924. Khách mời có đến 2.000 người.

Tác giả bài diễn thuyết là học giả Phạm Quỳnh (1892 - 1945) khi đó đang là Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức đồng thời là chủ bút báo Nam Phong. Ông đọc bài diễn thuyết của mình bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp để rất đông người Pháp đến tham dự buổi lễ có thể hiểu cùng lúc với người Việt.

Bài diễn thuyết đó và câu nói đó đã khơi mào một cuộc bút chiến tranh luận gay gắt dữ dội mà nội dung chính là mượn Truyện Kiều để đả kích phê phán Phạm Quỳnh. Cuộc chiến tư tưởng văn chương này đã nổ ra ngay năm 1924, được khơi lại vào đầu thập niên 1960, và vẫn còn dây dưa đến tận bây giờ.

Ta hãy lần lại lịch sử xem vì sao ca ngợi Truyện Kiều, đề cao tiếng Việt của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, mà Phạm Quỳnh lại bị “đánh” nặng nề và dai dẳng đến vậy.

Văn cảnh của câu nói

Mở đầu bài diễn thuyết Phạm Quỳnh nói lý do buổi lễ là nhân ngày giỗ cụ Tiên Điền Nguyễn tiên sinh, Ban Văn học Hội Khai Trí “đặt một cuộc kỷ niệm để nhắc lại cho quốc dân nhớ đến công nghiệp một người đã gây dựng cho quốc âm ta thành văn chương, để lại cho chúng ta một cái “hương hỏa” rất quý báu, đời đời làm vẻ vang cho cả giống nòi”. Một bậc có công với văn hóa nước nhà như thế thì không phải ông tổ riêng của một nhà một họ nữa mà là ông tổ chung của cả nước; ngày kỷ niệm này cũng không phải của một nhà một họ nữa mà là ngày kỷ niệm chung của cả nước. Dân Nam ai cũng đọc Kiều, nên ai cũng được hưởng công nghiệp của Nguyễn Du, vậy ai cũng phải nhớ đến cái ơn của Cụ tác thành cho tiếng nước nhà.

Ơn ấy thế nào? Phạm Quỳnh nêu cái địa vị, vai trò của Truyện Kiều đối với vận mệnh nước nhà: “Truyện Kiều là cái “văn tự” của giống Việt Nam ta đã “trước bạ” với non sông đất nước này.” Phạm Quỳnh ca ngợi Truyện Kiều “vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh thư Phúc âm của cả một dân tộc”, là “một thiên văn khế tuyệt bút”, là quốc hoa, quốc túy, quốc hồn của nước ta, để ta có thể “ngạo nghễ với non sông mà tự phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!..” (in nghiêng trong văn bản của Phạm Quỳnh).

20200926 10

Đại thi hào Nguyễn Du.

Theo ông, việc cụ Tiên Điền xuất thế, cụ Tiên Điền viết KiềuTruyện Kiều lưu truyền được đến nay - đó là “phúc duyên” cho nước nhà ta. Mà so ra thế giới, cụ thể với văn chương Tàu và văn chương Pháp, Truyện Kiều cũng lại không có gì sánh bằng. Truyện Kiều hơn các truyện Tàu ở sự “kết cấu” thành một toàn bức không thêm bớt được chút nào.

Truyện Kiều hơn các truyện Pháp ở sự “phổ thông”, người ngu kẻ khôn đều thích chí. Ngẫm ra thế, “Truyện Kiều cũng là một cái kỳ công có một trong cõi văn thế giới vậy”, mà kỳ công ấy lại do một người làm ra, không dựa trên một cái nền rộng rãi của nhiều người như ở các nền văn học khác, nên lại càng "dũ kỳ" (chữ của Phạm Quỳnh).

Kết thúc bài diễn thuyết, Phạm Quỳnh một lần nữa nhấn mạnh ý nghĩa cuộc kỷ niệm Nguyễn Du là để bày tỏ tấm lòng biết ơn thành thực của quốc dân đối với vị quốc sĩ của nước nhà. Nhưng hơn thế, đây cũng là dịp chiêu hồn quốc sĩ về chứng nhận cho lời thề của đồng nhân.

Thề rằng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu sinh xin dầu lòng dốc chí cố gia công trau chuốt lấy tiếng quốc âm nhà, cho quốc hoa ngày một rực rỡ, quốc hồn ngày một tỉnh táo, quốc bộ ngày một tấn tới, quốc vận ngày một vẻ vang, ngõ hầu khỏi phụ cái chí hoài bão của tiên sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây!” (1) (in nghiêng trong văn bản của Phạm Quỳnh).

Như vậy câu nói “Truyện Kiều còn…” được Phạm Quỳnh nói đến hai lần trong bài diễn thuyết kỷ niệm.

Bài diễn thuyết này nằm trong cả một chương trình kỷ niệm Nguyễn Du nhân ngày húy kị của nhà đại văn hào (10.8 Giáp Tý, 8.9.1924). Cuộc lễ được tổ chức kết hợp cũ mới, có đặt đỉnh trầm, bày hương án, có diễn thuyết ngâm thơ ca nhạc. Khách mời có cả người Nam và người Pháp. Mở đầu Phạm Quỳnh đọc bài diễn văn bằng hai thứ tiếng để cho người Pháp biết được Nguyễn Du là ai và Truyện Kiều là thế nào. Tiếp đến Trần Trọng Kim diễn thuyết một tiếng (bài nói này về sau được lấy làm lời tựa cho cuốn Kiều của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim soạn).

Tiếp nữa là kép Thịnh và đào Tuất kể Kiều. Sau cùng, một cô đào đứng hát bài kỷ niệm Nguyễn Du của Nguyễn Đôn Phục. Không khí buổi lễ được tường thuật lại trong bài viết đăng Nam Phong số 86: “Công chúng dự tới hai ngàn, chỉ trong mấy phút đồng hồ là khắp trong sân dưới nhà trên gác đông chật ních. Hội viên Tây và các bà đầm ước được ba bốn chục người. Có mấy bà giáo mới ở bên Tây sang. Khẩn khoản lại xem cho biết người An-nam tôn trọng một bậc danh sĩ trong nước thế nào. Ở Hà Thành ta từ xưa đến nay chỉ có tiệc trà đón quan toàn quyền Sarraut diễn thuyết ở Văn Miếu năm 1919 là họp được đông người đến thế” (2)

Mạch nguồn của câu nói

Cuộc lễ kỷ niệm Nguyễn Du và tán dương Truyện Kiều này không phải là ngẫu nhiên. Nó là đỉnh điểm của cả một phong trào viết về kiệt tác văn chương của dân tộc trên tờ nhật báo Nam Phong của chủ bút Phạm Quỳnh và nhiều tác giả (3). Phong trào này lại nằm trong chủ trương của Phạm Quỳnh muốn thực thi một cái chủ nghĩa quốc gia về văn hóa và giáo dục để đối lại sự xâm nhập văn hóa từ Pháp quốc.

Ngay tại Paris, trong bài diễn thuyết đòi một nền giáo dục cho giống nòi nước Nam trước các nhà trí thức Pháp tại Ban Khoa học, Luân lý và Chính trị, Viện Hàn lâm Pháp (22.7.1922), Phạm Quỳnh đã thẳng thắn tuyên bố: “Dân nước Nam không phải là một tờ giấy trắng; đó là một cuốn sách cổ chứa đầy những dòng chữ được viết bằng một thứ mực không thể tẩy xóa từ bao đời nay; không một chất thử nào có thể tẩy xóa chúng được hoàn toàn và người ta không thể tự do muốn viết gì vào đấy thì viết.” (4).

Ông là người học Pháp, làm việc cho Pháp nên ông biết cái xu thế không thể cưỡng lại là phải du nhập văn hóa Âu Tây, phải tiến hóa theo Âu châu. Ông nhận đó là một lẽ tất yếu, một vấn đề sinh tử. Nhưng ông cũng thấy “Tiến hóa không phải là đi từ chỗ không mà bước lên được. Ở chỗ gốc phải có cái gì đã. Cái gì đó là gồm cả cuộc ký vãng của dân tộc. Hiện tại và tương lai của dân tộc thế nào cũng là tùy thuộc ở đó” (5). Ông muốn khơi gợi, truyền bá cái vốn văn hóa dân tộc này. Đó là lựa chọn làm chính trị của ông trong hoàn cảnh nước nhà đã bị nước người đô hộ. Câu tuyên bố của ông “làm văn hóa không làm chính trị” chỉ là một cách nói, thực chất ông làm chính trị bằng văn hóa.

Tượng đài Đại thi hào Nguyễn Du tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du thuộc xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ảnh: TL

Truyện Kiều là kiệt tác của văn hóa dân tộc, là đỉnh cao của văn chương và tiếng nói dân tộc, nên lẽ tự nhiên theo chủ trương của mình ông tìm mọi cách đề cao, lấy đó làm lợi khí cho cuộc vận động văn hóa của mình. Trong bài nói chuyện tại Hội Đông phương Ái hữu (5.7.1922) trước cử tọa người Pháp về thơ nước Nam, Phạm Quỳnh đã dành nửa bài để nói về giá trị của Kiều và tác dụng của nó đối với tiếng nói dân tộc Việt Nam. Ông nói: “Nhà thơ Nguyễn Du của chúng tôi đã làm được cái điều là phục hồi lại ngôn ngữ nước Nam, và đã nâng nó lên địa vị một ngôn ngữ văn học đích thực.” (6)

Cả bài nói chuyện này ông chủ đích đề cao tiếng nói dân tộc, đòi cho nó được quyền sống trước âm mưu của những thế lực thực dân muốn triệt tiêu tiếng Nam để dành địa vị cho tiếng Pháp. Ông khẳng định quyết liệt: “Nếu một dân tộc sống bằng ngôn ngữ của mình thì chúng tôi quyết sống, tức là quyết bảo vệ sự vẹn toàn, quyết làm giàu thêm trong chừng mực có thể cái ngôn ngữ dân tộc của chúng tôi” (7). Chính từ chủ trương đó ta mới hiểu cái câu nổi tiếng ông thốt ra trong bài diễn thuyết kỷ niệm “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Cần phải đặt câu nói đó và cả bài diễn thuyết 1924 vào hệ thống cùng một bài khác Phạm Quỳnh viết về Truyện Kiều đăng Nam Phong số 30 năm 1919 thì mới hiểu đầy đủ, chính xác hơn. Trong bài này, ở mục hai - Lịch sử tác giả, Phạm Quỳnh đề cao Nguyễn Du đáng lưu danh thiên cổ vì đã lưu lại cho quốc văn một tác phẩm bất hủ; từ đó ông khuyên nên đổi lại lý tưởng xưa mà đặt lập ngôn lên trước lập đức, lập công.

Ông viết: “Lập ngôn chẳng là đem cuộc sinh tồn hữu hạn của một đời người mà đổ lộn vào cuộc sinh tồn vô hạn của một nòi giống, khiến cho mình nhờ nòi giống mà lưu danh mãi mãi, nòi giống cũng nhờ mình mà sống được vô cùng dư? Bao giờ trên bán đảo Đông Dương này còn có người An Nam ở, người An Nam còn biết nói tiếng An Nam, thì Truyện Kiều còn có người đọc, Truyện Kiều còn có người đọc thời cái hồn cụ Tiên Điền còn phảng phất mãi trong dòng máu đất Việt Nam không bao giờ mất được. Ôi! Linh hồn bất diệt, linh hồn bất diệt là nghĩa thế nào? <...>.

Thiết nghĩ đối với nhà thơ, nhà văn thời linh hồn bất diệt tức là cái công trước tác của mình; nếu công ấy đáng giá thời linh hồn mình tất cùng với núi sông, cùng với nòi giống lưu truyền mãi mãi, tưởng cũng có thể gọi là bất diệt được, vì người ta ai cũng là kết quả của một giống, giống mình còn mình cũng còn, mình với giống mình là một, còn kế trường sinh nào hơn nữa?...”. Có thể nghĩ ở đây có một dụng ý chính trị nào đấy, nhưng nội dung điều nói trên đâu có sai.

Kết thúc bài Phạm Quỳnh viết: “Những văn sĩ có tài xưa nay kết cấu ra một truyện gì cũng là tự diễn tâm sự một mình mà thôi, nhưng tâm sự ấy thiết tha thâm trầm, diễn ra được tức là diễn được cái nỗi lòng u âm sầu khổ của cả mọi người biết thương, biết nghĩ ở đời vậy. Cho nên người ta còn có cảm tình, có tư tưởng, thời đọc Truyện Kiều còn cảm động mãi, và tiếng An Nam còn có người nói, người học thời những lời ăn tiếng nói của cô Kiều còn phảng phất bên tai người nước Nam mãi mãi vậy” (8).

Trong bài đó, bằng phép phê bình khảo cứu của văn học phương tây, Phạm Quỳnh đã tìm tòi, phát hiện được một số điểm đáng chú ý cả về nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều chứ không phải “kỳ thực chỉ tán suông nhiều hơn là đi vào phân tích cụ thể” như nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Trung đã từng nói (“Trường hợp Phạm Quỳnh”, Nhà Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1975, trước thời điểm kết thúc chế độ Việt Nam Cộng hòa). Phạm Quỳnh cũng đã đưa ra đánh giá của mình về nàng Kiều.

Ông cho rằng "Thúy Kiều có cái đức nghiêm của người phụ nữ mà lại có cái vẻ phong tình của khách phong lưu, đức hạnh đủ khiến kính, tài tình đủ khiến yêu, giá trị đủ khiến quý, thân thể đủ khiến thương, vì cảnh ngộ mà nặng kiếp đào hoa, trọng tình ý vẫn người tiết nghĩa; ở nơi ô nhục mà vẫn giữ được tiết hạnh thanh cao, gặp gian nan mà không hề đắm đuối, Kiều nương thật là gồm được bấy nhiêu tư cách nên ai cũng phải kính, phải thương, phải yêu, phải trọng".

Bài viết về Truyện Kiều năm 1919 của Phạm Quỳnh là một bài nghiên cứu mà ông “phải dùng phép phê bình khảo cứu của văn học Thái Tây mới mong phát biểu được cái đặc sắc, bày tỏ được cái giá trị của một nền tuyệt tác trong quốc văn An Nam ta”. Và quả ông đã tìm tòi, phát hiện được một số điểm đáng chú ý về cả nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều chứ không phải “kỳ thực cũng chỉ tán suông nhiều hơn là đi vào phân tích cụ thể” như một nhà nghiên cứu đã từng nói (9). Một điều lý thú là chúng tôi tìm thấy có nhiều chỗ tương đồng ý tưởng giữa bài này của Phạm Quỳnh (1919) và bài “Nguyễn Du, một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn” của Hoài Thanh (1965). Xin dẫn ra làm thí dụ.

Phạm Quỳnh: “Xét trong Truyện Kiều lời văn rất luyện mà ý tứ rất sâu, lời văn luyện cho đến nỗi tưởng không ai có tài nào đặt hơn được nữa, và trong một câu không thể nào dịch đi một chữ, đổi lại một tiếng, giọng hồn nhiên như trong ống thiên lại mà ra” (10). Hoài Thanh: “Người đọc xưa nay vẫn xem Truyện Kiều như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi, thêm bớt tý gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung” (11).

Phạm Quỳnh: “Cái ngụ ý trong Truyện Kiều ấy tức là tiếng đàn của cô Kiều, tiếng não nùng ai oán, suốt truyện không đâu là không như văng vẳng nghe thấy bên tai...” (Sđd, tr.130). Hoài Thanh: “Dựng lên một con người, một cuộc đời như vậy là một cách Nguyễn Du phát biểu ý kiến của mình trước những vấn đề của thời đại. Lời phát biểu ấy trước hết là một tiếng kêu thương. Một tiếng kêu não nùng đau đớn, suốt trong quyển truyện không lúc nào không văng vẳng bên tai” (Sđd, tr.149).

Phạm Quỳnh còn thêm nhận xét: “Vẽ người đến thế là đã khéo lắm, nhưng đó là cái lối vẽ chính thức, còn lối vẽ phá bút, chỉ một vài câu, dăm ba chữ mà hình dung được cả nhân cách một người, như đánh dấu đến thiên cổ không bao giờ sai được... Mã Giám Sinh rõ ra anh lái buôn người làm ra mặt văn nhân đi kén vợ, Tú Bà thật là mụ mẹ giầu đáo để tai ác, Sở Khanh là thằng sỏ lá làm mặt hào hiệp”;  (Sđd, tr.136). Hoài Thanh: “Đối với bọn nhà chứa, ngòi bút Nguyễn Du không tò mò, Nguyễn Du ngại bới ra những gì quá dơ dáy, Nguyễn Du chỉ ghi vội vài nét. Nhưng chỉ vài nét cũng đủ khiến cả cái xã hội ghê tởm đó sống nhô nhúc dưới ngòi bút Nguyễn Du... Hơn nữa, Nguyễn Du đã thấu tận trong ruột chúng nó. Nếu không, không thể nào tóm đúng được thần thái gian tà của chúng như vậy” (Sđd, tr. 160-161).

Tranh Thúy Kiều của họa sĩ Lê Văn Đệ (1906 - 1966), thủ khoa khóa I Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương (1930). Ảnh: TL

Phạm Quỳnh: “Chỗ nào lời văn cũng là in với nghĩa truyện, ý tứ hợp với cảnh người, lời nào ý nào cũng thích với nhân tình thế cố, khiến cho nhiều câu trong Truyện Kiều đã thành những lời cách ngôn thiên cổ, dẫu người bình thường cũng biết dùng trong khi nói chuyện như dùng tục ngữ phương ngôn vậy”. (Sđd, tr.129). Hoài Thanh: “Cuộc đời diễn ra muôn màu, muôn vẻ... nhưng dưới ngòi bút Nguyễn Du thì đều dựng lên như thật, khiến bao nhiêu người xưa nay đọc Truyện Kiều, nghe Truyện Kiều, mỗi người trong những hoàn cảnh khác nhau mà không mấy khi không tìm được một ít câu nói đúng những điều mình muốn nói” (Sđd, tr.163).

Phạm Quỳnh: “Nói tóm lại thời trong Truyện Kiều thật là có đủ các lối văn chương, mà lối nào cũng tới cực điểm, mỗi lối một vẻ, mà lối nào cũng là “mười phân vẹn mười” vậy” (Sđd, tr.141). Hoài Thanh: “Chúng ta có thể nói rất nhiều về các loại văn trong Truyện Kiều, văn kể chuyện, văn gợi cảnh, dựng người, văn tự tình và cả văn kịch, văn đối thoại” (Sđd, tr.164).

Và cuối cùng, ngôn ngữ của Truyện Kiều, cái điểm Phạm Quỳnh bị công kích mạnh nhất, người trước người sau vẫn gặp gỡ tương đồng.

Phạm Quỳnh: “Lạ thay, tiếng An Nam ta nhiều người chê là nghèo nàn non nớt, thế mà Truyện Kiều thời rõ ra một áng văn chương lão luyện, tưởng có thể sánh với những hạng kiệt tác trong các văn chương khác mà không thẹn vậy. Đủ biết rằng tiếng ta cũng đủ phong phú, nếu khéo luyện tập cũng làm nên văn chương hay, chẳng kém gì tiếng nước khác, chứ không phải như nhiều người tưởng lầm là một thứ tiếng bán khai, đành lòng bỏ đi để đem công mà học văn chương nước khác. Lại lạ nữa là trước Truyện Kiều không có văn nôm gì hay bằng văn Kiều mà sau Truyện Kiều cũng không có văn nào hay bằng văn Kiều, đủ biết người nước ta xưa nay vẫn khinh thường văn quốc âm không chịu tập, bỏ phí mất cái lợi khí thiên nhiên của Tạo Vật đã phú dữ cho người mình để mở mang cho giống nòi được tiến hóa” (Sđd, tr.142). Hoài Thanh: “Nhưng chỉ xin nói vắn tắt một điều là về lời, về chữ thì chưa có một nhà văn, nhà thơ nào khác sánh kịp Nguyễn Du trong lịch sử văn học Việt Nam. Không ở đâu, tiếng nói Việt Nam lại dồi dào mà chính xác, tinh vi, trong trẻo, truyền đúng cái thần của sự vật và sự việc như ở đây” (Sđd, tr.164).

Rõ ràng, Phạm Quỳnh có một lòng yêu tiếng Việt và do đó ông yêu quý và đề cao Truyện Kiều. Theo chủ nghĩa quốc gia về văn hóa của mình, Phạm Quỳnh đã vận động để tiếng Việt và văn chương Hán Việt được giảng dạy trong nhà trường Pháp Việt. Trước những đòi hỏi kiên trì của ông và những biến động thời cuộc, tháng 7.1924 chính quyền Pháp đã đổi Trường Pháp luật và Hành chính Đông Dương thành Trường Cao đẳng Đông Dương trong đó có Khoa Ngữ học và Văn học Hán - Nôm mà Phạm Quỳnh được mời giảng dạy. Tại buổi giảng mở đầu sự ra đời Khoa này (ngày 25.10.1924, tức là hơn một tháng sau cuộc lễ kỷ niệm Nguyễn Du), Phạm Quỳnh đã một lần nữa khẳng định: “Tôi sẵn có thiên hướng đặc biệt đối với các nghiên cứu Hán-Nôm và có một tình yêu sâu nặng đối với tiếng mẹ đẻ của chúng ta.” (12)

Sự phê phán và biện minh cho câu nói

Như đã nói, bài diễn thuyết bằng quốc văn về Truyện Kiều trong có câu “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” của Phạm Quỳnh đã gây ra một cuộc bút chiến gay gắt, dữ dội ngay trong năm 1924. Cuộc chiến dấy lên bắt đầu từ bài viết của nhà nho Ngô Đức Kế, sau đó Phan Khôi, Huỳnh Thúc Kháng lên tiếng. Ông Ngô, ông Huỳnh cho là ông Phạm mượn Kiều để làm chính trị theo đường lối hại dân hại nước nên đã mạt sát Truyện Kiều và nàng Kiều một cách thậm tệ, vô tình xúc phạm đến cả cụ Nguyễn Du. Ông Phan đứng giữa làm quan ngự sử văn đàn, phê ông Phạm có thái độ “học phiệt”, nhưng cũng không tán thành thái độ của ông Ngô, ông Huỳnh mạt sát áng văn chương tuyệt tác của dân tộc. Sau mấy bài viết qua lại, cuộc chiến ngưng không có hồi kết.

Vào đầu những năm 1960 trên tập san Nghiên Cứu Văn Học của Viện Văn Học một số nhà nghiên cứu đã quay lại tìm hiểu thực chất cuộc tranh luận về Kiều này, cũng tức là trở lại việc đánh giá Phạm Quỳnh trên lịch sử văn học. Vấn đề được xới lên từ một nhận định của các tác giả nhóm Lê Quý Đôn trong sách Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, xuất bản năm 1957, như sau: “Cuộc tranh luận chung quanh Truyện Kiều là một sự kiện quan trọng trong lịch sử phê bình nước ta. Phe chống Kiều gồm có các nhà ái quốc Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, và một số nhà nho bảo thủ. Họ nhận xét Truyện Kiều như là nhận xét một quyển sách luân lý. Tuy vậy họ đã nắm chắc chân lý khi họ vạch dã tâm của bọn cầm đầu phong trào sùng bái Kiều và tác hại của một phong trào như thế đối với thanh niên.

Phe tán dương Kiều đông hơn, do Phạm Quỳnh cầm đầu thì nặng về tầm chương trích cú. Do thái độ đối với cuộc sống mới hơn, nghĩa là khoan dung rộng rãi đối với cá nhân hơn, do thông cảm với yêu cầu tình cảm của con người, họ tán thành nội dung Truyện Kiều từ đầu chí cuối nhưng tán thành theo cảm tính chứ không có lý luận gì. Và họ để công sức vào sự tìm hiểu kỹ thuật. Về phương diện này, họ đã phát giác được nhiều điều đáng kể” (tr. 199, chỗ nhấn mạnh của tôi - PXN).

Nhận định này tuy vẫn thắt buộc ở phần đầu theo quan niệm chính trị của một thời, nhưng ở phần sau có “mở” hơn một chút khi nói về cách nhìn nhận Truyện Kiều của Phạm Quỳnh. Tuy nhiên ngay một chút “mở” dè dặt đó cũng không được chấp nhận. Từ nhận định của nhóm Lê Quý Đôn, một cuộc tranh luận về cuộc tranh luận Truyện Kiều giữa Phạm Quỳnh và các nhà nho lại diễn ra với âm điệu chung là phản bác nhận định của nhóm Lê Quý Đôn và luận tội cho Phạm Quỳnh. Tham gia cuộc này có các nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Chú, Vũ Ngọc Khánh, Nguyễn Văn Hoàn và một số người khác.

Năm 1975, trước thời điểm chế độ Việt Nam Cộng Hòa sụp đổ, giáo sư Nguyễn Văn Trung có cho xuất bản ở Sài Gòn cuốn sách Trường hợp Phạm Quỳnh. Trước đó ông đã có cuốn Chủ đích Nam Phong. Cả hai cuốn sách đều được tác giả viết ra theo tinh thần giải thực tinh thần (décolonisation mentale), sau khi Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết (1.1973). Cái nhìn của Nguyễn Văn Trung đối với quan điểm về Kiều của Phạm Quỳnh thể hiện trong hai chuyên khảo cũng gần với ý kiến của các nhà nghiên cứu trao đổi trên tập san Nghiên Cứu Văn Học.

Ông viết: “Phạm Quỳnh nhằm những chủ đích chính trị thâm độc do các học giả thực dân mớm cho khi giới thiệu đề cao quốc ngữ, văn chương Việt Nam. Như chúng tôi đã trình bày trong chương hai tập Chủ đích Nam Phong, Phạm Quỳnh chủ trương một thứ “chủ nghĩa quốc gia về ngôn ngữ”. Đó là quan điểm coi việc bảo vệ duy trì được tiếng nói của dân tộc qua những tuyệt tác văn chương như một đường lối yêu nước, cứu nước thích hợp hơn cả. Chủ trương trên lừa bịp ở chỗ đáng lẽ chỉ có thể coi văn chương như phương tiện khêu gợi ý thức dân tộc đưa đến hành động tranh đấu thực sự để cứu nước thì lại coi chỉ yêu văn chương tiếng nói là đủ, khỏi phải hành động tranh đấu gì cả vì Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn, mà tiếng ta còn, thì nước ta còn” (13).

Rốt cục cả cuộc tranh luận ngoài Bắc đầu thập niên 1960 lẫn hai cuốn sách trong Nam giữa thập niên 1970 chỉ lại thêm một lần đánh mạnh vào Phạm Quỳnh trong câu chuyện về Truyện Kiều.

Trong khi các nhà nho, các nhà nghiên cứu mác xít phê phán nặng nề Phạm Quỳnh về một bài diễn thuyết, một câu nói về Truyện Kiều thì lại có những tiếng nói khác đồng tình, khẳng định ý kiến của học giả họ Phạm.

Trong suốt gần 100 năm kể từ khi Phạm Quỳnh thốt lên câu nói nổi tiếng “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, bên cạnh những lời phê phán, chỉ trích nặng nề, vẫn còn những những tiếng nói khác đồng tình với ông và khẳng định giá trị câu nói của ông.

Nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ sau khi khảo cứu công phu cuộc bút chiến năm 1924 đã kết luận: “Công bình mà nói, bọn ông Quỳnh, ông Vĩnh hồi đó đem Truyện Kiều phiên dịch, bình luận, tán dương (ngay ở cả bên Pháp nữa), chẳng phải là để làm tay sai cho Pháp, để truyền bá văn chương dâm ô. Họ chỉ thật tình và ngay tình nắm lấy một khí giới văn hóa để có thể nói chuyện với Pháp, hoặc ít nhất vin lấy một giá trị để tự an ủi mình”. (14)

Cụ Vương Hồng Sển, một học giả miền Nam đã hiểu đúng ý Phạm Quỳnh. Khi được hỏi về câu: “Truyện kiều còn tiếng ta còn...”, cụ đáp: “Câu này chỉ có nghĩa là tiếng nói của mình chải chuốt hay ho được như Kiều thì đạt tới trình độ tương đối rồi và tiếng của ta mà mất, để các tiếng ngoại quốc xâm nhập tức là tới lúc nước mất. “Tiếng nói là chìa khóa mở bất kỳ cánh cửa nào” (15) (nhấn mạnh của cụ Vương Hồng Sển). Ý kiến cụ Vương vẫn còn tính thời sự hiện nay, lúc này, khi ta đang bàn về tiếng Việt trong Truyện Kiều giữa lúc tiếng ta đang bị xâm lấn dữ dội bởi các thứ tiếng ngoại lai.

Nhà phê bình văn học Hoài Thanh khi kết lại bài tiểu luận “Một thời đại trong thi ca” ở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” (1942) nói về bi kịch mất lòng tin của một thế hệ văn chương giữa thời loạn Á - Âu đã tìm thấy ở câu nói của Phạm Quỳnh một điểm tựa để vững lòng. Ông viết:

Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nẩy mầm hy vọng.

Chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam Phong (Phạm Quỳnh): “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”.

Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên cứ không sao tiêu diệt.

Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai” (16) (in nghiêng của tôi - PXN).

Những lời này của Hoài Thanh viết ra mười bảy năm sau câu nói phát ra của Phạm Quỳnh đã đủ chứng thực cho giá trị câu nói đó và tấm lòng của người nói ra câu đó. Câu nói đã được khắc tại mộ Phạm Quỳnh ở Huế: Truyện kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn.

Phạm Xuân Nguyên - Nhà nghiên cứu văn học, Hội Kiều học Việt Nam.

Hà Nội 7.2020

Nguồn: Người đô thịngày 06.9.2020.

________________

(1) Phạm Quỳnh, “Bài diễn thuyết bằng quốc văn”, Nam Phong, số 86 (8.1924). Dẫn theo: Tuyển tập phê bình văn học Việt Nam, tập 1, Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Nxb Văn Học, 1997, tr. 270-277.

(2) Dẫn theo: Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Văn học hiện đại (1862 - 1945), Quốc học Tùng thư xuất bản, Sài Gòn, tr. 153.

(3) Bài viết đầu tiên của Phạm Quỳnh đăng Nam Phong cuối năm 1919. Ở bài đó ông vận dụng phương pháp phê bình văn học của Thái Tây để phân tích Truyện Kiều về cốt truyện, nhân vật, tâm lý và nghệ thuật. Từ đó Nam Phong tiếp tục đăng bài về Kiều của nhiều học giả mới cũ như Nguyễn Đôn Phục, Nguyễn Trọng Thuật, Vũ Đình Long, Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Triệu Luật… Đến số 75 (1923) Nam Phong lại có mục “Bàn góp về Truyện Kiều”.

(4) Phạm Quỳnh. Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932, Nxb Tri Thức & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, H. 2007, tr. 406.

(5) Dẫn theo: Phạm Thế Ngũ, sđd, tr. 144.

(6) Phạm Quỳnh. Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932, Sđd, tr. 57.

(7) Phạm Quỳnh. Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932, Sđd, tr. 61.

(8) Những chỗ nhấn mạnh là của tôi - P.X.N.

(9) Nguyễn Văn Hoàn. “Sơ kết cuộc trao đổi ý kiến về vấn đề tranh luận “Truyện Kiều” năm 1924”, Tạp chí “Nghiên Cứu Văn Học”, số 6/1962.

(10) Phạm Quỳnh. Thượng Chi văn tập, tập III, Éditions Alexandre de Rhodes Hanoi, tr. 128.

(11) Hoài Thanh, "Nguyễn Du một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn". Dẫn theo: Kỷ niệm hai trăm năm sinh Nguyễn Du, Sđd, tr. 141-168. Các trích dẫn Hoài Thanh đều lấy theo nguồn này.

(12) Phạm Quỳnh. Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 – 1932, Sđd, tr. 490.

(13) Nguyễn Văn Trung. Trường hợp Phạm Quỳnh. Tủ sách tìm về dân tộc, Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1975, tr. 125.

(14) Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Văn học hiện đại (1862 – 1945), Sđd, tr. 159.

(15) Dẫn theo: Nguyễn Văn Trung. Trường hợp Phạm Quỳnh. Nam Sơn xuất bản, Sài Gòn 1975, tr. 70.

(16) Hoài Thành - Hoài Chân. Thi nhân Việt Nam, Nxb Văn Học, 1992, tr. 52.

20210215

Thầy giáo N. K. Ghei và học trò năm 1990

Những bông tuyết đầu mùa rơi nhẹ trên sân bay Sheremetievo-2 ngày đầu tiên tôi đến Moskva. Từ sân bay về trung tâm thành phố, tuyết vẫn bay lửng lơ trên bầu trời ban mai mù xám, bám vào cửa kính xe buýt và những mái nhà trầm lặng hai bên đường trước khi tan chảy.

Sau một ngày tạm trú ở trạm đón tiếp, chúng tôi được chuyển về ký túc xá của Viện Hàn lâm, thường được gọi là Đôm 5 (nhà số 5), ở góc ngã tư đường D. Ulianov và N. Vavilov. Kéo cánh cổng nặng nề để vào bên trong tòa nhà, tôi biết mình sẽ “tu” ở đây suốt 4 năm ròng. Đó là một tòa nhà 7 tầng, có cấu trúc chữ L nhìn ra hai mặt đường của ngã tư; thang máy, phòng ốc đều cũ kỹ nhưng ấm áp nhờ hai lớp cửa kính, lò sưởi và hệ thống nước nóng cung cấp thường xuyên. So với ký túc xá ở nhiều nơi khác, nơi đây thật tiện lợi: có hội trường, thư viện, phòng chơi bóng bàn, mỗi tầng đều có nhà bếp; nhà ăn ở tầng trệt mở cửa từ sáng đến tối với giá cả rất mềm; trạm xe buýt, xe điện và sạp báo ngay trước cổng; bên kia đường là hiệu sách Akademkniga; đi bộ một đoạn ngắn gặp cửa hàng thực phẩm và tạp hóa, đi thêm một trạm xe là bách hóa tổng hợp Moskva cung cấp khá đủ các mặt hàng thiết yếu dù lúc đó nước Nga bước vào thời kỳ đình trệ về kinh tế.

Sau này, khi kinh tế mở cửa, người Việt ở Nga bung ra kinh doanh, Đôm 5 bị ít nhiều sự cố, còn thời tôi ở mọi sinh hoạt đều tương đối ổn định, ai làm việc nấy, không va chạm gì nhau. Ban quản lý và các bạn nghiên cứu sinh đến từ các nước cộng hòa đối xử với chúng tôi ân cần và tử tế. Thời gian đầu tôi ở với Nariman đến từ Baku, nhờ anh mà tôi cải thiện được vốn tiếng Nga của mình. Do quan hệ của hai cơ quan nghiên cứu, số người đi học ở đây chủ yếu từ các viện của Hà Nội, nhóm nghiên cứu sinh đi từ miền Nam sống chan hòa với các đồng môn cùng thế hệ ở miền Bắc, hầu như chưa bao giờ xung đột về quan niệm hay lối sống và vẫn còn giữ liên lạc thân tình cho đến bây giờ. Xuất thân từ ngành Văn, những người đến nghiên cứu hay thực tập cùng thời ở Viện Hàn lâm sau này đều chuyên tâm và có nhiều đóng góp cho nghề nghiệp: Nguyễn Thị Huế, Trần Nho Thìn, Trần Ngọc Vương, Trịnh Khắc Mạnh, Vũ Thanh (văn học dân gian và cổ điển); Phan Trọng Thưởng, Vũ Tuấn Anh, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Bích Thu, Tôn Thảo Miên (lý luận và văn học hiện đại); Lê Sơn và Lê Tây (văn học nước ngoài); Mai Văn Hai, Mai Quỳnh Nam, Vũ Phạm Nguyên Thanh (xã hội học)… Thành ra, đây như là một “viện nghiên cứu” thu nhỏ: trong thời chưa có internet và điện thoại di động, không dễ liên lạc thường xuyên với thầy giáo hướng dẫn, đang viết mà cần kiểm tra kiến thức gì thì chỉ cần gõ cửa phòng chuyên gia sẽ được giải đáp. Những đổi mới về đời sống xã hội ở nhà, nhất là sinh hoạt văn hóa văn học, đều được Đôm 5 cập nhật thông tin nhanh nhất. Do sự dễ dãi của nội quy ở đây so với những nơi khác mà Đôm 5 cũng là nơi gặp gỡ họp mặt của các bậc thầy, bậc đàn anh và văn nghệ sĩ từ trong nước sang tham quan hay công tác ở Moskva.

Tôi đã sống qua 4 mùa đông trên nước Nga. Những bông tuyết thơ mộng ngày đầu rồi sẽ thành những tảng băng dày trên lối đi làm trượt bước chân, những cơn gió tuyết quất vào mặt ở trạm chờ xe buýt. Mũ lông, áo bành tô, giày da được trang bị kỹ đến mức nào cũng không ngăn nổi cái rét thấm vào da thịt những người phương Nam chỉ quen nắng ấm. Cùng với đó là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương không lúc nào nguôi. Có lúc tôi đã tự trách mình, sao lại nông nổi chọn chuyến đi dài ngày này, vì một chút danh vọng hão huyền, để mẹ già và vợ con ở nhà thời đất nước khó khăn. Nhiều khi đi giữa đường phố Moskva mà lòng quặn thắt nhớ câu hát trong bài Thuyền viễn xứ (thơ Huyền Chi, nhạc Phạm Duy): Chiều nay gửi tới quê xưa/ Biết là bao thương nhớ cho vừa/ Trời cao chìm rơi xuống đời/ Biết là bao sầu trên xứ người.

Để nguôi nỗi nhớ quê, mỗi năm đến Tết âm lịch, khi Việt Nam đón giao thừa thì cùng lúc ấy, 8 giờ tối Moskva, đơn vị nghiên cứu sinh, thực tập sinh chúng tôi tổ chức một bữa liên hoan hoành tráng ở nhà ăn Đôm 5 mừng năm mới. Chúng tôi vào rừng tìm những cành cây khô, gắn giấy màu thành những nụ hoa đào. Khách mời là các thầy cô giáo và một số bạn bè ở Viện Hàn lâm và trong ký túc xá. Bánh chưng, dưa hành củ kiệu, thịt kho, súp gà nấu măng khô, rượu sâm banh, những bài hát Nga – Việt và vài phong pháo lẻ gợi nhớ không khí quê nhà, giúp quên đi nỗi buồn xa xứ.

Nước Nga cưu mang nhiều người Việt, nhưng thú thật một số người mình cũng làm phiền dân sở tại không ít. Thật may mắn, cho đến ngày rời xứ sở bạch dương, bản thân tôi chưa gặp phải một biểu hiện kỳ thị nào. Ngày đầu nhập học, bước qua khoảng sân đầy tuyết của Viện Văn học thế giới, thường gọi tắt là IMLI, có tượng ông M. Gorky vai phủ tuyết nghiêng đầu nhìn xuống nhân gian, tôi được dành một chỗ ngồi trong căn phòng nhỏ, nơi những tên tuổi trước chỉ nghe danh, nay mới gặp mặt – những nhà nghiên cứu uy tín trong nghề: N. Ghei, Yu. Borev, G. Belaya, V. Kozhinov, S. Botcharov… Trừ dịp về phép, suốt 4 năm, tôi không bỏ một buổi sinh hoạt khoa học thứ ba hàng tuần nào. Mỗi lần họp như thế là một cuộc thảo luận sôi nổi, có khi dẫn đến tranh luận, nhưng đều mở rộng tầm nhìn trong nghề nghiệp mà tôi theo đuổi. Có những hôm họp xong, thầy trưởng ban A. Mikhailov mời mọi người qua tầng hầm trụ sở Hội Nhà văn Liên Xô uống cà phê tiếp tục câu chuyện văn chương.

Thầy giáo N. K. Ghei nay 98 tuổi

Thầy giáo hướng dẫn tôi là giáo sư Nikolai Konstantinovitch Ghei, từng tham gia chiến tranh vệ quốc, sau làm việc ở Viện, đồng thời dạy ở Trường Đại học quốc gia Moskva, đã qua Việt Nam và vào thăm TP. Hồ Chí Minh. Thầy bảo thầy có ấn tượng sâu sắc với văn hóa Việt Nam khi đi thăm các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh nước ta. Thầy thường nhắc tôi nên liên hệ những vấn đề lý thuyết hiện đại với văn học dân gian và cổ điển Việt Nam và chê tôi viết luận án theo văn phong phê bình hơn là văn phong nghiên cứu vốn đòi hỏi sự điềm tĩnh, chân phương. Mỗi lần được thầy thông qua một chương luận án, tôi lại tự thưởng cho mình một buổi chiều lang thang trên phố Arbat gần Viện, với một ly kvac kèm thịt nướng sau khi dạo xem các cửa hàng đồ cổ và sách cũ hai bên con đường lát đá như còn in dấu chân của các nhân vật trong tiểu thuyết Những đứa con phố Arbat của A. Rybakov.

Tác giả Huỳnh Như Phương trên phố Arbat năm 1990

Hàng năm, vào cuối tháng tư, tuyết bắt đầu tan, trên các ngả đường thành phố người ta trồng hoa mới trong các bồn hoa, dọc các vỉa hè. Trong rừng Nga cây đâm chồi và xanh lên từng ngày, vạn vật như sống lại trong màu áo mới. Anh Trần Nho Thìn và tôi cặm cụi trong phòng đọc của Viện Thông tin Khoa học xã hội, nơi mượn sách nhanh và có chỗ ngồi thuận tiện hơn Thư viện Quốc gia. Bên ngoài, gần quảng trường J. Tito, là vườn hoa rực rỡ trong nắng xuân. Lo viết luận án không kịp, chúng tôi ngắm hoa qua cửa kính và chỉ rời trang sách trong giờ ăn trưa.

Sang hè, tôi kịp nộp luận án và làm thủ tục đúng hạn để chờ bảo vệ. Phòng quản lý nghiên cứu sinh thưởng cho tôi một phiếu đi nghỉ ở thành phố Sochi bên bờ Biển Đen. Nhưng tôi xin đổi món quà đó để lấy một giấy phép mời vợ và hai con sang thăm nước Nga. Đó là một chuyến đi nhiều kỷ niệm đẹp của gia đình tôi. Sau đó ít lâu, bảo vệ xong, tôi giã từ xứ sở bạch dương cũng vào một ngày tuyết đầu mùa rơi nhẹ nhàng nhưng sân bay thì hỗn loạn, báo hiệu những biến động sắp xảy đến trên đất nước Nga.

Ba mươi năm qua, tôi vẫn giữ liên lạc với những người thầy và bạn Nga ngày ấy. Anh Bùi Mạnh Nhị và tôi có dịp tiếp giáo sư N. Nikulin, nhà Việt Nam học hàng đầu, ở Thành phố Hồ Chí Minh trong chuyến đi Việt Nam cuối cùng trước khi ông từ trần. Thầy N. Ghei nay đã 97 tuổi, ngoài những chuyên khảo sâu sắc về nghệ thuật ngôn từ, thầy còn công bố một tác phẩm tự truyện mà thầy gọi là “tiểu thuyết – tưởng niệm”, viết về số phận con người qua những biến thiên lịch sử. Bà Inessa Zimonina, người làm luận văn về Chinh phụ ngâm và đã nhiều lần sang thăm Việt Nam, dịch giả tài năng đã chuyển ngữ tác phẩm của Khái Hưng, Thạch Lam, Nam Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Đoàn Giỏi, Thu Bồn… sang tiếng Nga nay đã cùng gia đình định cư ở Tây Âu. Người bạn chung thủy với văn học Việt Nam, anh Anatoly Sokolov, chuyên gia về Phan Bội Châu, vẫn tiếp tục nghiên cứu về giao lưu văn hóa Nga – Việt và có những phát hiện thú vị về những người Nga đầu tiên đến Sài Gòn. Hầu như tháng nào anh cũng gửi email và gọi điện thoại cho tôi. Trong một lá thư gần đây, anh viết: “Tôi vừa nghe tin ở Việt Nam xuất hiện lại một số ca nhiễm coronavirus trong cộng đồng nhưng đã kịp thời kiểm soát được và không phải áp dụng biện pháp giãn cách xã hội. Thật mừng cho đất nước anh. Ở Nga số ca nhiễm Covid-19 vẫn còn nhiều, nhưng rất may là trước khi mùa đông đến, vaccine đã được sản xuất kịp thời để ưu tiên chủng ngừa cho những người có nguy cơ cao như bác sĩ, y tá, thầy giáo. Tôi đã chuyển ra ngoại thành ở hẳn với mẹ tôi để chăm sóc cho bà, lúc nào cần mới vào thành phố để đến Viện Đông phương học. Tôi vẫn theo dõi thường xuyên sinh hoạt văn hóa ở Việt Nam và tìm đọc thông tin về sách mới xuất bản. Gần đây tôi có hứng thú đọc truyện trinh thám Việt Nam và dự định sẽ viết một khảo luận về đề tài này…”. Mỗi lần nhận thư Tolia tôi lại thấy nước Nga như gần lại, dù đã 30 năm xa.

Ra Hà Nội, thỉnh thoảng tôi được bạn cũ Đôm 5 mời ăn ở quán Nga để nhớ lại hương vị xalát, xúc xích và súp bắp cải Nga thời đi học. Đến Nha Trang và ngay ở Sài Gòn vẫn có thể tìm thấy những nhà hàng ẩm thực Nga rất ngon. Chỉ có những bông tuyết là không thể nào tìm lại được.

Nhưng những bông tuyết đầu mùa năm ấy vẫn bay hoài trong trí nhớ.

Huỳnh Như Phương
Tuần Báo Văn Nghệ TP.HCM số Xuân 2021

2020 là năm buồn vui đan xen trong đời tôi.

Buồn là người mẹ thọ 103 tuổi của tôi đã ra đi mãi mãi vào ngày 13 tháng 5. Tình cảm mẹ con suốt 75 năm, sự ra đi của mẹ, lòng đau đớn mãi không vơi. Mỗi khi trở về Bích Sơn, không còn được thấy bóng dáng mẹ hiền, chỉ thấy di ảnh và bài vị của bà, niềm thương cảm trong lòng khó thốt nên lời. Muốn viết chút gì đó để kỷ niệm mẹ, nhưng bất chợt chẳng biết bắt đầu từ đâu, thật thẹn với ơn dưỡng dục 75 năm của mẹ. Nhưng tôi tin đây chỉ là tạm thời, vì mẹ mãi sống trong tim tôi, cho dù không thể viết lại cuộc đời tuyệt vời của bà, nhưng ít nhất có thể kể chút ít về cuộc đời bà. Vì vậy, tôi để đó thai nghén rồi sẽ viết sau, chắc rằng mẹ quá cố sẽ không trách con bất hiếu.

Vui là vì Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập (陳長慶短篇小說集), phiên bản song ngữ Trung - Việt, do Trung tâm dịch vụ liên hợp Kim Mã - Viện Hành chính xuất bản phát hành, và có những buổi ra mắt sách tổ chức tại Bảo tàng Văn học Quốc lập Đài Loan ở Đài Nam (National Museum of Taiwan Literature) ngày 18.7, tại Thư viện Văn học trường Duệ Hữu ở Kim Môn (金門睿友文學館) ngày 25.

Cuốn sách này có bản dịch tiếng Việt, trước hết cần cảm ơn sự kết nối của Giáo sư Trần Ích Nguyên, Viện trưởng Viện khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc lập Kim Môn, đã mời PGS.TS. Lê Quang Trường, Trưởng khoa Văn học của trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM, cùng nhóm dịch giả Phan Thu Vân, Nguyễn Hoàng Yến, Hoàng Thị Thu Thủy, Nguyễn Đông Triều, Hồ Ngọc Minh, chuyển ngữ sáu truyện ngắn. Sau đó, Đại học Quốc lập Kim Môn kết hợp với Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM và Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ của Việt Nam ấn hành.

Tại phiên khai mạc của “Hội thảo quốc tế Giao lưu văn hóa, tư tưởng Việt Nam và Đông Á” do Khoa Văn học trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM chủ trì tổ chức ngày 8 tháng 11 năm 2019, ban tổ chức đã có buổi giới thiệu bản tiếng Việt của Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập. Hội thảo có sự tham dự của gần 200 nhà khoa học, trong đó có các học giả Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài Loan. Tôi nhận được lời mời tham dự nhưng vì lý do cá nhân nên không thể góp mặt, đành phải từ chối. Nhưng Viện trưởng Trần Ích Nguyên đã giúp tôi quay một clip cảm ơn, phát tại hội trường hội thảo. Đại ý là:

Hôm nay lòng tôi phấn chấn vô cùng, vì tác phẩm Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập của tôi đã được giới thiệu tại quý trường. Với tư cách tác giả sách này, đáng lý phải đến góp mặt, đồng thời tỏ lòng cảm kích và cảm ơn quý vị, nhưng vì lý do cá nhân, không thể đích thân có mặt, cảm thấy áy náy vô cùng, những xin quý vị lượng thứ.

Quyển sách này được dịch sang tiếng Việt và xuất bản phát hành ở Việt Nam, trước hết tôi cần phải cảm ơn hai trường đã hợp tác để xuất bản quyển sách này; như vậy, đối với một ông lão chỉ mới học qua một năm trung học cơ sở mà nói, càng thêm ý nghĩa đặc biệt. Cho nên, tôi đặc biệt cảm kích và cảm tạ đối với hai nhà trường và Viện trưởng Trần Ích Nguyên.

Kế nữa, tôi muốn cảm ơn Trưởng khoa Lê Quang Trường của Khoa Văn học, trường Đại học KHXH&NV, ĐHQG-HCM, nếu không có ông và quý vị dịch giả, dịch từng câu từng chữ trong tác phẩm của tôi sang tiếng Việt, thì quyển sách này vẫn không thể nào hiện diện trước mắt bạn đọc Việt Nam. Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất với trái tim nồng ấm đến toàn thể quý vị.”

Dù Việt Nam và Trung Quốc là hai quốc gia khác nhau, nhưng trong lịch sử và văn hóa, giữa hai nước lại có rất nhiều điểm tương đồng. Trong tác phẩm của tôi, để làm nổi bật sắc thái địa phương của đảo Kim Môn, tôi thường cài vào một vài phong tục dân tình và tục ngữ bản địa, lại còn có một số từ vựng chuyên dùng trong quân đội, cho nên cũng gây ít nhiều trở ngại cho việc dịch. Nhưng Trưởng khoa Lê Quang Trường và các vị dịch giả đã khắc phục được và chuyển tải được nguyên ý của chúng, khiến tôi khâm phục.

Quyển sách này được xuất bản và phát hành ở Việt Nam, có thể nói là niềm vinh dự lớn nhất trong hơn năm mươi năm sáng tác văn học của tôi. Dù rằng tôi không hiểu tiếng Việt, nhưng trong thâm tâm phấn khởi không sao tả xiết, hy vọng thông qua sự ra mắt của quyển sách này, có thể giúp độc giả và bạn bè Việt Nam, hiểu được đầy đủ hơn văn hóa lịch sử và phong tục dân tình của Kim Môn.

Các truyện ngắn của tôi còn nhận được sự trọng thị của các nhà phê bình văn học ở Việt Nam như Giáo sư Huỳnh Như Phương, Giáo sư Nguyễn Thu Hiền, PGS Trần Lê Hoa Tranh, Nguyễn Đình Minh Khuê, qua các bài viết, khiến tôi cảm thấy rất vinh dự. Tác phẩm của tôi được dịch sang tiếng Việt, được độc giả và học giả Việt Nam đón nhận, trước hết là nhờ Viện trưởng Trần Ích Nguyên. Nếu chẳng có ông nối nhịp cầu, thì quyển sách này chẳng có cơ hội ra mắt ở Việt Nam.

Ngay sau khi bản tiếng Việt được học giả và độc giả Việt Nam đón nhận, Viện trưởng Trần Ích Nguyên nhận ra ở Đài Loan có rất nhiều người Việt Nam sinh sống, gồm mười mấy vạn người kết hôn ở Đài Loan, cùng với tám chín vạn người lao động và du học sinh, tiếng mẹ đẻ của họ là tiếng Việt; rồi con cái của những gốc Việt nhập tịch, cha mẹ chúng đọc được tiếng Việt, thế là viện trưởng lại có ý tưởng xuất bản bản song ngữ Trung - Việt của quyển sách này cho nhóm độc giả này. Ngay khi ông đề xuất ý tưởng này, đã nhận được sự xem trọng của ngài Ông Minh Chí, trưởng chấp hành Trung tâm Dịch vụ liên hợp Kim Mã - Viện hành chính, và sự ủng hộ của Nghị sĩ Phạm Yến Yến. Vậy là nhờ sự vận động của Viện trưởng Trần Ích Nguyên, mấy tháng sau bản song ngữ Trung - Việt của Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập đã được Trung tâm Dịch vụ liên hợp Kim Mã - Viện hành chính xuất bản. Quyển sách dày hơn 400 trang, thật là một kỷ lục cực kỳ đáng quý trong cuộc đời sáng tác hơn 50 năm của tôi.

Kế đó buổi họp báo giới thiệu sách đầu tiên được Bảo tàng Văn học Quốc lập Đài Loan tổ chức, cho dù trước đó Viện trưởng Trần Ích Nguyên có hỏi ý tôi muốn mời những ai tham gia. Nhưng vì mẹ tôi vừa mới qua đời, chữ hiếu mang nặng, thật không tiện ra mặt mời bất cứ một ai đến tham gia, cho nên hết thảy theo ý viện trưởng. Viện trưởng cũng hiểu cho tâm tình của tôi, không chút miễn cưỡng, ông tự lên danh sách rồi đích thân gọi điện khách mời. Có điều nhân viên bảo tàng cho biết vì lý do dịch bệnh, không cho phép tập trung quá tám mươi người; trong khi danh sách khách mời của Viện trưởng cho tôi đã hơn cả trăm, đó là chưa kể trợ lý Trung văn của Đại học Thành Công, rồi đồng nghiệp công tác trong bảo tàng.

Khách mời và bạn bè xuất thân khác nhau, có người ở cơ quan chính phủ, đơn vị học thuật, đoàn thể nhân dân, cho đến thông dịch người Việt, tu nữ, giáo sư, du học sinh, dân gốc Việt nhập tịch và con cái của họ... vân vân. Trong đó, Bảo tàng Văn học Quốc lập Đài Loan ngoài Tô Thạc Bân, Giám đốc đương nhiệm của bảo tàng ra, còn có ba cựu giám đốc bảo tàng là Trịnh Bang Trấn, Lý Thụy Đằng, Trần Ích Nguyên tham dự; nhà văn nổi tiếng, giáo sư thỉnh giảng của Đại học Thành Công là Tô Vĩ Trinh cũng bớt thì giờ đến tham gia; Cố vấn phủ tổng thống, nhà thơ Ngô Thạnh cũng tranh thủ đến; Hoàng Mỹ Nga – Trưởng ban nghiên cứu văn học Đại học Đài Loan, Tôn Quốc Khâm – Chủ nhiệm Sở dịch vụ Đài Bắc huyện Kim Môn, Lã Khôn Hòa – Cựu Cục trưởng Cục văn hóa Kim Môn, Dương Trúc Quân – Tổng biên tập Kim Môn văn nghệ (金門文藝), luật sư Trần Vân..., cũng đi từ Đài Bắc xuống; Hầu Minh Phúc – Hội trưởng, Ngô Xuân Phúc – Chủ tịch Quỹ Văn hóa nghệ thuật Phủ Thành Quan Hưng, Trần Thụy Hoa – Tổng thư ký Hội đồng hương Kim Môn thành phố Đài Nam, cùng với phó tổng thư ký Hà Bách Đình, cũng đến chúc mừng. Không khí buổi họp báo náo nhiệt, sinh động, thật khiến cho tôi đây hồi hộp.

Khi buổi họp báo chưa bắt đầu, Bảo tàng Văn học Đài Loan sắp đặt nghi thức trao tặng văn vật. Tôi không dám nói thứ mình trao tặng là văn vật, vì còn phải trải qua một trình tự nhất định, chờ bảo tàng mời chuyên gia thẩm định rồi mới có thể chính thức đăng ký là Văn vật. Nhưng những thứ này đối với tôi mà nói khá là quan trọng, két sắt của người khác có lẽ thường là vàng bạc châu báu, còn két nhà tôi thì chứa những thứ mà đối với tôi còn quý hơn nhiều.

Phần liên quan đến Văn nghệ Kim Môn

1. Hành chính viện Tân văn cục Xuất bản sự nghiệp Đăng ký chứng (số 0049, bản tháng 9 năm 1962, cục trưởng Tiền Phúc)

2. Kim Môn huyện chính phủ doanh lợi sự nghiệp đăng ký chứng (số 1711, ngày 10 tháng 4 năm 1965, huyện trưởng Đàm Thiệu Bân)

3. Trung Hoa dân quốc tạp chí sự nghiệp hiệp hội hội viên chứng thư (số 0408, ngày 6 tháng 5 năm 1970, chủ tịch Nhậm Trác Tuyên)

4. Kim Môn văn nghệ, kỳ 1 đến kỳ 7, bản lần thứ nhất (kỳ thứ 7 loại hình báo giấy)

5. Kim Môn văn nghệ bản mới, kỳ 1 đến kỳ 4, bản lần thứ nhất (kỳ thứ 4 là loại hình báo giấy)

Phần cá nhân:

1. Chứng nhận tác quyền tác phẩm Gửi người con gái xa quê (số 5939, tháng 11 năm 1962, trưởng bộ Nội chính Lâm Kim Sinh)

2. Công hàm bộ Nội chính (số công văn: 62.11.20, số hiệu 548132, bộ trưởng Lâm Kim Sinh)

3. Gửi người con gái xa quê bản lần thứ nhất (ngày 20 tháng 6 năm 1961, Đài Bắc lâm mạch xuất bản xã xuất bản, người phát hành: Lâm Phật Nghê)

4. Chứng nhận tác quyền tác phẩm Đom đóm (số 6202, tháng 2 năm 1963, Bộ trưởng Nội chính Lâm Kim Sinh)

5. Công hàm Bộ Nội chính (Số công hàm, 63.2.6, số hiệu 562276, Bộ trưởng Lâm Kim Sinh)

6. Đom đóm, bản in lần 1 (ngày 20 tháng 5 năm 1962, Đài Bắc lâm bạch xuất bản xã xuất bản, người phát hành: Lâm Phật Nghê)

7. Bản thảo viết tay tác phẩm Mùa xuân đã mất dày 330 trang

8. Bản in lần thứ nhất tác phẩm Mùa xuân đã mất (tháng 7 năm 1986, Đài Bắc đại triển xuất bản xã xuất bản, người phát hành: Thái Sâm Minh)

9. Bản in lần thứ nhất tác phẩm Mùa xuân đã mất (năm 92, chính quyền huyện Kim Môn xuất bản, người phát hành: Lý Trụ Phong, Đài Bắc liên kinh xuất bản công ty in lại/phát hành)

10. Bản thảo viết tay tác phẩm Thu liên, 184 trang

11. Bản in lần đầu tác phẩm Thu liên (秋蓮) (tháng 10 năm 1987, Đài Bắc đại triển xuất bản xã xuất bản, người phát hành: Thái Sâm Minh)

Việc trao tặng văn vật này xuất phát từ việc nhiều lần nhận được sự động viên của Viện trưởng Trần Ích Nguyên, thêm nữa bản thân tôi cũng có nhận thức như vầy, so với việc đem những thứ này cất vào két sắt, rồi để lại cho con cháu sau này, chi bằng đem trao tặng cho bảo tàng văn học quốc gia để bảo quản, còn có ý nghĩa thực chất hơn. Vì vậy, tôi hoàn toàn không bàn bạc với ai, tự ý gửi hòm văn vật này cho Giám đốc bảo tàng Tô Thạc Bân. Hôm nay nhân buổi họp báo ra mắt bản song ngữ quyển Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập này, nhóm chuyên môn đã chủ ý thực hiện nghi thức trao tặng này, đồng thời Giám đốc bảo tàng đích thân trao cho tôi thư cảm ơn. Sự trọng thị của Bảo tàng văn học Đài Loan đối với văn vật, sự tôn trọng đối với người trao tặng, thật đáng mừng.

Buổi họp báo được Tiến sĩ Triệu Khánh Hoa của Bảo tàng văn học Đài Loan tuyên bố mở màn, sau đó được Viện trưởng Trần Ích Nguyên đích thân chủ trì. Nhờ học thức uyên thâm, nghiên cứu sâu rộng, kinh nghiệm sáng tác, khả năng hùng biện của mình, Viện trưởng đã giúp cho buổi họp báo vốn dĩ khô khan trở nên thoải mái vừa có chiều sâu vừa có chiều rộng, khiến quan khách và bạn bè cảm thấy tự nhiên. Đầu tiên, ngài Ông Minh Chí thay mặt đơn vị xuất bản phát biểu chào mừng, Giám đốc bảo tàng với tư cách chủ nhà cũng phát biểu chào mừng; kế đó là một loạt các quan khách, chức sắc địa phương lên bày tỏ sự động viên khích lệ đối với lão già tôi, cũng như ủng hộ tác phẩm được dịch ra tiếng nước ngoài.

Buổi họp báo còn chào đón hiệu trưởng và học sinh vốn là con em của những người gốc Việt nhập tịch Đài Loan, tổng cộng có gần 30 người, càng khiến cho buổi họp báo mang sắc thái Việt Nam. Người chủ trì họp báo còn nói vui: người Việt Nam đến dự còn đông hơn cả người Kim Môn.

Đến lượt tôi phát biểu, tôi không thể dùng những lời hoa lệ để nói hết tấm lòng mình đối với khách quý, nhưng sâu trong tâm muốn cảm ơn rất nhiều: cảm ơn Đại học Quốc lập Kim Môn và Đại học KHXH&NV - ĐHQG-HCM đã xuất bản bản tiếng Việt; cảm ơn Trung tâm Dịch vụ liêm hợp Kim Mã - Viện hành chính đã xuất bản bản song ngữ Trung - Việt; cảm ơn Thư viện văn học quốc lập Đài Loan đã tổ chức cho tôi buổi họp báo giới thiệu sách mới; cảm ơn quan khác và các bạn Việt Nam ở Đài Loan đã đến dự. Cuối cùng, cảm ơn Viện trưởng Trần Ích Nguyên, người đã lao tâm khổ tứ giúp tôi giới thiệu tác phẩm này đến bạn đọc.

Thật tình mà nói, lão già cổ hủ này chỉ là một vô danh tiểu tốt trên văn đàn, đa số khách mời đều xa lạ với tôi, vậy mà buổi họp báo lại có thể long trọng sôi động như vậy, hết thảy đều nhờ họ nể mặt Viện trưởng Trần Ích Nguyên mà đến, tôi đây thực lòng hiểu được. Đặc biệt cảm ơn phu nhân của Viện trưởng, cô Lâm Du Văn, đã đón tiếp nồng hậu chu đáo chúng tôi trong suốt quá trình ở Đài Nam. Thưa cô, vất vả cho cô quá, xin cảm ơn!

Ngày 25, tại quảng trường Kim Môn, Thư viện Văn học Duệ Hữu tổ chức họp báo giới thiệu sách, dù nóng bức lại ở ngoài trời, nhưng khách đến dự đông vượt mong đợi. 130 túi quà tặng đựng Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập bản in lần thứ nhất song ngữ Trung - Việt do Đại học Quốc lập Kim Môn chuẩn bị, cùng quạt giấy in mục lục của quyển sách này, trong nháy mắt đã không còn. Cuộc họp báo lần này vẫn do Viện trưởng Trần Ích Nguyên chủ trì. Khách đến dự có nhiều thành phần khác nhau, trong đó phải kể đến những người Việt Nam tại Đài Loan. Đặc biệt, Đại học Quốc lập Thành Công đã mời cô Trịnh Thùy Trang, nghiên cứu sinh khoa Trung văn đến biểu diễn ca khúc Để gió cuốn đi của Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ nổi tiếng Việt Nam.

Dù nhiều người dự họp báo không hiểu tiếng Việt, mới đầu chỉ cảm nhận được giai điệu uyển chuyển du dương, tiếng ca trong trẻo như chim oanh của người hát, nhưng sau khi được Trịnh Thùy Trang dịch lời ca sang tiếng Trung, mọi người mới hiểu thì ra tình cảm của bài hát lại phong phú, lời bài hát lại xúc động đến vậy.

Sống trong đời sống cần có một tấm lòng

Để làm gì em có biết không?

Để gió cuốn đi, để gió cuốn đi...

Gió cuốn đi cho mây qua dòng sông

Ngày vừa lên hay đêm xuống mênh mông

Ôi trái tim đang bay theo thời gian...

Tôi cảm động sâu sắc với lời bài hát, nên khi nói lời đáp từ sau buổi họp báo, bất giác tôi buột miệng: “Đời này tôi nguyện làm người kể câu chuyện đắng cay của Kim Môn!” Câu nói này không chỉ là lời hứa với mảnh đất này, mà còn là lời giải thích hay nhất cho tác phẩm của tôi.

Tôi gửi lời cảm ơn đến các báo đài, ngoài Kim Môn nhật báo ra, còn có Trung Quốc thời báo, Trung Hoa nhật báo, Kim Môn tiền phong báo, Việt Nam thanh niên báo. Các trang mạng điện tử như CNA, www.greatnews.com.tw, www.crt.org.tw, www.ccsn0405.com. Đài phát thanh truyền hình Giáo dục Quốc lập cũng đưa tin với tiêu đề Trần Trường Khánh đoản thiên tiểu thuyết tập nối liền Kim Môn với Việt Nam. Ngoài ra còn nhiều bài viết, lời giới thiệu, đàm luận về quyển sách. Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn tất cả.

Trần Trường Khánh

Hồ Ngọc Minh lược dịch

(Bài viết do tác giả gửi đến Khoa Văn học).

Một số nhà khoa học như Heine, Nietzche và Trompf cho rằng lịch sử cũng giống như giấy dán tường hay một mảnh vải vậy. Chúng luôn có xu hướng lặp lại (Historic Recurrence). Những họa tiết nhìn kỹ thì thay đổi trong khuôn khổ vài phân hay thậm chí vài chục phân, nhưng khi ta lùi một bước ra xa, những motif thật ra lặp đi lặp lại. Chúng ta mắc rất nhiều sai lầm giống nhau, từ các xung đột chiến tranh hay sự sụp đổ của các đế chế, cho đến những thứ nhỏ nhặt hằng ngày như quay trở lại với một món ăn đã từng khiến ta đau bụng, hay thậm chí nghiêm trọng hơn là quay trở lại sống chung với chính người tình đã làm ta đớn đau.

20210211 3

Những câu truyện cổ tích vẫn trường tồn hàng ngàn năm, người thời nào đọc cũng thấy như chuyện của mình được phản ánh trong đó. Ấy là bởi lịch sử luôn có xu hướng lặp lại.Tượng truyện cổ tích khổng lồ tại Disneyland, Pháp.

1. Ta không cảm nhận được quá khứ nhưng sẽ cảm nhận được tương lai

Lý do đầu tiên cho hiện tượng này là việc con người có xu hướng ghẻ lạnh với quá khứ và thiên vị tương lai (future bias). Hãy thử tưởng tượng với một thí nghiệm của Derek Parfit. Bạn tỉnh dậy sau hôn mê trong bệnh viện và bác sĩ thông báo rằng có một nhầm lẫn phần giấy tờ, nhưng bạn rơi vào hai trường hợp: một là bạn đã có một cuộc phẫu thuật dài 4 tiếng hôm qua và hai là bạn sẽ có một cuộc phẫu thuật 1 tiếng ngày mai. 

Hầu hết chúng ta sẽ hy vọng vào tình huống thứ nhất. Cuộc phẫu thuật 4 tiếng hẳn là nghiêm trọng hơn và dễ để lại hậu quả nặng nề hơn cuộc phẫu thuật 1 tiếng. Nhưng ít nhất là nó đã xảy ra. Chúng ta không nhớ đến sự đau đớn của cuộc phẫu thuật 4 tiếng ngày hôm qua. Tương tự, chúng ta thiếu khả năng cảm nhận được trọn vẹn nỗi đau đồng loại từng chịu đựng trong quá khứ. Hướng đến tương lai, dù là một tương lai bao gồm cả di chứng nghiêm trọng của quá khứ, vẫn là một lựa chọn dễ chịu hơn. 

2. Ta không thay đổi được quá khứ nhưng có thể thay đổi tương lai

Lý do thứ nhất về thiên kiến tương lai cũng giải thích tại sao chúng ta có thể bằng sống bằng chết, hy sinh mọi giá, chấp nhận mọi tổn thất để đạt mục tiêu, lặp lại vô vàn những lỗi lầm kinh điển trong quá khứ để trở thành kẻ chiến thắng. Đó chính là lý do thứ hai khiến lịch sử liên tục lặp lại. Tương lai, dù có chắc chắn mang thương tật của quá khứ, cũng là một tương lai mà chúng ta có nhiều quyền năng thay đổi hơn. Nhất là khi đó là một tương lại gần với những lợi nhuận gần có thể vươn tay mà với tới. Đây là lý do thiên nhiên vẫn liên tục bị tàn phá, bất kể sự thật là chúng ta ai cũng đều biết hậu quả của việc làm này, cả trong quá khứ lẫn trong tương lai xa. 

3. Ta thay đổi khi thấy có lỗi thay vì hổ thẹn 

Lý do thứ ba khiến chúng ta liên tục mắc những lỗi lầm từng có trong quá khứ là cách ta cảm nhận vấn đề. Cụ thể hơn, ta cảm thấy hổ thẹn (shame) hay có lỗi (guilt)? Cảm giác có lỗi mang tính ngoại vi, định hướng vào hành động sai lầm chứ không bao trùm lên cả nhân cách. Ví dụ, bạn là người thành thực, khi nói dối, bạn thấy có lỗi. Điều này khiến bạn nhìn nhận vấn đề khách quan hơn, có khả năng sửa lỗi nhiều hơn. 

Ngược lại, sự hổ thẹn không bó gọn trong hành động mà bao trùm lên cả tư cách con người. Rất khó để hổ thẹn với chính mình, bởi đó là cảm giác tội lỗi. Sự hổ thẹn đúng theo định nghĩa là khi ta đặt mình trong mối quan hệ với cộng đồng và sự đánh giá khắt khe của họ lên tư cách của chính mình. Cộng đồng sẽ không dễ dàng phân biệt một hành động có lỗi và một con người hư hỏng. Điều này khiến ta mất đi khả năng chủ động nhìn nhận vấn đề và dễ đổ lỗi cho hoàn cảnh. Thay đổi một hành động dễ hơn nhiều thay đổi tư cách, bản chất và danh tính của một con người. 

Nghiên cứu của Tangney (2014) cho thấy những tù nhân có cảm giác tội lỗi tái hòa nhập và tái phạm tội ít hơn những tù nhân có cảm giác hổ thẹn. Một nghiên cứu nổi tiếng khác cho thấy những bác sĩ mổ tim mắc lỗi khi phẫu thuật và cảm thấy hổ thẹn không hề khá hơn trong những cuộc phẫu thuật sau, họ tiếp tục mắc lỗi y như cũ. Đó là vì những bác sĩ này không thể tách biệt hành động và nội hàm con người của chính mình. Thay vì tìm hiểu tại sao cuộc phẫu thuật không thành công, họ đi tìm những lý do ngoại biên như bệnh nhân già, hay có tiền sử bệnh nặng. Ngược lại, những bác sĩ quan sát và rút ra bài học từ các lỗi đó có tỉ lệ thành công cao hơn, do họ không có cảm giác hổ thẹn. 


Chúng ta có nhiều quyền năng thay đổi tương lai hơn là quá khứ. Nhất là khi tương lai đó lại gắn liền với những lợi nhuận trước mắt. Đó là lí do ta tiếp tục tàn phá thiên nhiên, dù hiểu những hậu quả trước mắt. 

Điều này cũng đúng với một cộng đồng. Chúng ta sẽ học được những bài học từ quá khứ nếu đi kèm với nó là khả năng tách biệt hành động và bản chất của một dân tộc. Đó là lý do tại sao các phong trào cực hữu, chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa thượng đẳng khiến ta có thể trở nên mù lòa với quá khứ. Việc tự cho mình bản chất là cao quý hơn kẻ khác, dân tộc mình ưu việt hơn kẻ khác khiến ta mặc nhiên chấp nhận những hành động sai trái đi kèm với danh tính đó (Đức Quốc xã, phát xít Nhật, các phong trào da trắng thượng đẳng whitesupremacy). Sự trỗi dậy của các phong trào cực đoan, bất kể tôn giáo, chính trị, hay văn hóa đều ít nhiều được xây dựng trên nền móng của việc định vị bản chất của chính mình khác biệt, cao quý hơn so với đồng loại. Đương nhiên, đi kèm với nó là việc bôi đen bản chất của cộng đồng khác: người da đen bản chất là bạo lực; người da vàng bản chất là không cởi mở; người latin bản chất là lười biếng;  người theo đạo Hồi bản chất là cực đoan. Điều này cũng đúng với kỳ thị vùng miền trong cùng một dân tộc. Việc người Do Thái bị gán cho bản chất xảo quyệt luôn là lý do xâu xa để cộng đồng này bị kỳ thị qua nhiều giai đoạn của lịch sử.  

Ngược lại, điều này cũng đúng với các nạn nhân, nhất là khi ta tự vận vào mình. Một danh tính cộng đồng, một danh tính văn hóa, thậm chí là một danh tính gia đình đều có thể ảnh hưởng sâu sắc đến cách ta suy nghĩ và hành động. Đó là khi một người da màu nghĩ rằng đằng nào thì người da màu cũng sẽ bị phân biệt đối xử, vậy cố gắng đấu tranh để làm gì, và thế là lịch sử lặp lại. Đó là khi một phụ nữ nghĩ rằng, đằng nào thì cũng phải ở nhà chăm con, vậy học để làm gì, và lịch sử lặp lại.

4. Thói quen khiến ta bỏ qua quá khứ

Lý do thứ tư để lịch sử liên tục lặp lại là sự vận hành vô thức của thói quen. Về mặt cá nhân, thói quen khiến ta dù thấy rõ ràng hậu quả của hành vi nhưng không thể hoặc khó có thể dứt bỏ. Từ việc hút thuốc, ăn uống không điều hòa, lười vận động, cho đến cách dạy con bằng quát tháo, cách điều hành công ty bằng đe dọa, hay cách trao đổi với gia đình bằng sự cộc cằn. Biết là sai mà khó sửa. Thói quen vì vậy là kẻ tội đồ của rất nhiều những lỗi lầm mà ta liên tục mắc đi mắc lại, cho đến khi ta tự nhủ rằng, thôi Trời sinh ra thế, hoặc tử vi bảo thế. 

Tương tự, với một cộng đồng, thói quen văn hóa là phương cách tự động xử lý tình huống, kể cả khi phương cách đó dẫn đến hậu quả nghiêm trọng. Ví dụ, người Nhật thừa biết là việc coi thường phụ nữ tại công sở và gán việc nhà cho phụ nữ khiến họ không thiết tha đi làm và sinh con, đẩy dân số và kinh tế đến bờ vực nguy hiểm. Tuy nhiên, thói quen văn hóa khiến những chính sách về phụ nữ chậm gây tác dụng. Một ví dụ khác, chúng ta lao vào các cuộc chiến tranh khi bị kích động, ăn miếng trả miếng khi bị lừa phỉnh, trả thù khi dân mình bị hại. Ai cũng biết  kết quả của sự leo thang nhưng việc đi ngược lại thói quen tâm lý và văn hóa đòi hỏi ý chí cao độ mà không phải lãnh đạo và cộng đồng nào cũng có được. 

5. Cái tôi và quyền lực khiến ta bỏ qua quá khứ

Cuối cùng, sự khao khát muốn thỏa mãn cái tôi và cám dỗ của quyền lực khiến những bài học trong quá khứ trở nên vô nghĩa. Để bảo vệ cái tôi của chính mình, ta có thể chịu đau đớn, thiệt thòi, thậm chí hy sinh bản thân và gia đình. Đó là khi sự suy xét đúng sai không quan trọng bằng danh dự của chính mình hoặc cộng đồng. Nếu cộng đồng ấy chịu ảnh hưởng của những cá nhân cùng suy nghĩ và khát khao quyền lực, ta sẽ thấy lịch sử lặp lại những motif cả vinh quang lẫn đau thương. Ví dụ rõ nhất là khi người dân Đức cảm thấy danh dự bị tàn phá bởi thua trận sau Thế chiến thứ nhất, và Hitler lên nắm quyền với lời hứa sẽ làm đất nước hùng mạnh trở lại. Kết quả là Thế chiến hai còn thảm khốc và khiến nước Đức thua đau đớn hơn cả Thế chiến thứ nhất. 

Như vậy, với mỗi cá nhân cũng như cộng đồng, việc chúng ta lặp lại những lỗi lầm trong quá khứ có thể giải thích bởi năm lý do trên. Ta thường quên nỗi đau trong quá khứ, và ta thiên vị tương lai vì tương lai có thể đổi thay còn quá khứ coi như đã xong. Ta cũng lặp lại lỗi lầm khi đánh đồng hành động với bản chất. Ta bị ràng buộc bởi thói quen dù biết điều mình làm quá khứ đã chứng minh là sai. Và cuối cùng, danh dự cũng như quyền lực có thể làm lu mờ ý chí và cách nhìn nhận khách quan với quá khứ. 

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa chúng ta là những học trò vô vọng. Thế giới chưa bao giờ an toàn như ngày nay, con người ngày càng văn minh hơn, khỏe mạnh và sống lâu hơn. Có lẽ chúng ta đã và đang tiến bộ một cách chậm rãi, đôi khi đi thụt lùi, nhưng về tổng thể, may thay, loài người không hoàn toàn giống như chiếc chăn con công - nhìn gần thì đa dạng, nhìn xa thì chỉ là những con công giống hệt nhau con sau nối chân con trước. 

Chính vì thế, lịch sử và khả năng phán xét phân tích lịch sử khiến chuyên ngành này xứng đáng có một chỗ đứng quan trọng hơn nhiều trong cuộc sống hiện đại của loài người. □

Nguyễn Phương Mai

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 04.02.2021.
------
Tác giả là PGS.TS. Đại học Khoa học Ứng dụng Amsterdam, Hà Lan 
Tài liệu tham khảo
Parfit, Derek. (1984). Reasons and Persons. Oxford: Oxford University Press.
Tangney, J. P., Stuewig, J., & Martinez, A. G. (2014). Two faces of shame: The roles of shame and guilt in predicting recidivism. Psychological science, 25(3), 799-805.

Với người Việt, bệnh tật và tuổi già đôi khi là một trải nghiệm. Người Việt chuẩn bị cho những nấc bậc trên con đường cuộc đời tương đối rành mạch. Sự đối diện với các mối đe dọa sức khỏe của người Việt vừa thực tế, vừa thấm một tinh thần lạc quan.

Tâm trí người Việt cho đến thập niên thứ hai của thế kỷ XXI vẫn dành nhiều cảm thức về tháng Bảy âm lịch, tháng mà theo quan niệm xưa là khoảng thời gian kiêng các việc đại sự. Người ta nhất định tin vào những điều như không xây nhà vào tháng Bảy vì là “tháng cô hồn”, tháng xá tội vong nhân, tháng của những rủi ro, bất trắc. Điều này có từ một phức cảm mang tính văn hóa: quan niệm về chặng cuối của cuộc đời.

Nói về bệnh tật và tuổi già, quan niệm nhân sinh của người Việt xưa nay dành nhiều trọng lượng cho “lão” và “bệnh”. Chúng chiếm đến một nửa vòng đời người như trong câu “sinh, lão, bệnh, tử” mà người Việt quen thuộc. Phần không mong muốn này của kiếp nhân sinh được đối diện tùy vào vùng văn hóa tín ngưỡng và khung triết lý mỗi con người trải nghiệm. Họ đón nhận chúng như thế nào?

Dấu ấn từ chương nhắc đến bệnh tật sớm nhất có lẽ là bài thơ Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) của Mãn Giác, thiền sư đời Lý. Thực tế, nó là một loại lời trăng trối để lại cho môn đệ của vị cao tăng. Bài thơ tràn đầy tinh thần đã sẵn sàng đón nhận kết cục cuộc đời, coi bệnh tật là một trải nghiệm mà tạo hóa ban cho, tựa như cây cỏ trời đất tuần hoàn lẽ sinh rồi diệt.

Điểm khác biệt mà cũng rất thông thường là đôi câu cuối, khi tác giả nối dài sự có mặt của mình bằng hình ảnh: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai (bản dịch Ngô Tất Tố).  

20200905 3

Đốt hình nhân thế mạng - tranh khắc gỗ, Henri Oger, 1915.

Cảm xúc mang tính siêu hình về bệnh tật và cái chết chủ yếu liên quan đến sự hóa giải những phiền não, những bí thuật cứu khổ cứu nạn, những dấu ấn của một vài tôn giáo. Người Việt hay gắn cuộc đời với số mệnh. “Lão” và “bệnh” do đó nằm trong một trật tự số đếm trên con đường dẫn tới số cuối cùng là cái chết. 

Nỗi suy tư về trật tự này thật ra không nhuốm màu ảo não hay hư vô như trong một số nền văn hóa khác. Với người Việt, bệnh tật và tuổi già đôi khi là một trải nghiệm. Người Việt chuẩn bị cho những nấc bậc trên con đường cuộc đời tương đối rành mạch. Họ dành vài ngày đặc biệt trong năm cho những nghi thức cúng bái mong những điều tốt đẹp kiểu “phúc lộc mãn đường”, chẳng hạn những ngày mồng một, ngày rằm, ngày trùng; từ tiết Hàn thực (3.3) đến tết Đoan ngọ (5.5) hay lễ Vu lan vào rằm tháng Bảy.

Người Việt gán cho những ngày này một vai trò quan trọng, ứng với những nhận thức có được qua kinh nghiệm sống gắn với thiên nhiên hàng nghìn năm. Chẳng hạn họ đặt cho ngày 5.5 âm lịch cái tên “Tết diệt sâu bọ”. Nhiều người giải thích do thời điểm này ứng với lúc tiết trời ấm áp, sâu bọ sinh sôi nảy nở cùng lúc hoa quả đầu mùa bói dịp cuối xuân sang hè, nên nghi thức sinh ra tục lấy lá ngón nhuộm móng tay hay cúng các thức quả đầu mùa, rượu nếp… mong tránh bệnh tật.

Cúng xong thì những đồ ăn thức uống là những món “thời trân thức thức sẵn bày”, ai nấy thụ hưởng với niềm tin gửi gắm vào nghi lễ đã hoàn tất. Sự đối diện với các mối đe dọa sức khỏe của người Việt vừa thực tế, vừa thấm một tinh thần lạc quan.

Song, tháng Bảy âm lịch mới là tháng quan trọng hơn cả trong phức cảm của người Việt khi đối diện với những bất trắc. Họ dành ít nhất vài ngày, mồng một, trùng thập (7.7) hay ngày rằm để lo liệu cúng bái, trong đó ngày rằm còn có tên lễ “Xá tội vong nhân” (còn có tên lễ Vu lan) dành tưởng niệm những linh hồn cơ nhỡ, không ai hương khói. Dữ liệu ấy đậm nét đến độ át hẳn sự tích Ngưu Lang - Chức Nữ cũng vào mùa mưa ngâu tháng Bảy. Nếu như các ngày lễ tiết khác họ cầu cúng tổ tiên, thì những ngày lễ trong tháng Bảy, còn mang tên “Tháng cô hồn”, có lẽ là thời khắc mà người Việt nghĩ về kẻ khác. 

Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người…
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây phương

(Văn tế thập loại chúng sinh - Nguyễn Du)

Những lời “văn chiêu hồn” như lời an ủi vỗ về các vong hồn tìm được sự bình an dưới lăng kính đạo Phật, thực tế là một cách đối diện với nỗi đau thể xác và tinh thần. Đối diện với các linh hồn là để chuẩn bị cho một cái chết về sau, nối dài niềm tin về thế giới bên kia. 

Ở một chiều khác, nhiều cư dân châu thổ Bắc bộ từ các thế kỷ cận đại có một cách hóa giải khác những lo lắng về tương lai. Họ thực hành các hành vi tín ngưỡng dân gian một cách say mê, như các nghi thức hầu đồng và hát văn cầu cúng các thần linh trong hệ thống đạo Mẫu.

Chẳng hạn, nhân vật gắn với tháng Bảy âm lịch - ông hoàng Bảy thờ ở đền Bảo Hà nơi biên giới Lào Cai - lại tượng trưng cho những lạc thú như cờ bạc, tổ tôm (thậm chí hiện đại như “lô đề”) hay tính đào hoa, trăng gió, cho dù xuất phát điểm của vị thần này là một nhân vật có công bảo vệ biên cương. Người ta cúng những thứ phục vụ các sở thích phóng túng của vị thần và người ta nhấm nháp cảm giác chạm tới cõi siêu nhiên của một tháng Bảy âm lịch trong nhang khói và điệu hát chầu văn thay vì lo sợ quỷ thần quấy nhiễu.

Người Việt có tục đốt hình nhân thế mạng, cúng cháo lá đa, bỏng gạo cho các cô hồn vất vưởng (ma đói) được ăn và thậm chí có tục cướp cháo cúng vong. Cho dù thực tế chẳng có cơ sở thực chứng nào, những nghi thức ấy bảo lưu một niềm tin sâu sắc về sự giao hòa giữa hai thế giới của người Việt.  

Bàn thờ ngày kỵ - tranh khắc gỗ, Henri Oger, 1915.

Những cách ứng xử không sa vào phiền não cũng như sự mê say các hoạt động tín ngưỡng thông qua nhân vật ông hoàng Bảy cung cấp cho con nhang đệ tử một niềm khuây khỏa rằng kiếp phù sinh cũng là đáng nếm trải. Lòng mê tín hòa trộn với những khao khát trần tục về sự phù hoa, khoái lạc có xu hướng khiến trải nghiệm như phương thuốc giúp tâm trí con nhang đệ tử vượt qua những thử thách về bệnh tật hay cái chết.

Sự có mặt tinh vi của niềm tin về vòng tuần hoàn “sinh, lão, bệnh, tử” len lỏi trong nhiều đồ vật cúng bái. Người Việt quan niệm vòng tuần hoàn này thể hiện một trật tự tuần tự cho quá trình sinh ra và chết đi, vì vậy họ ưa lựa chọn số lượng các món đồ chia 4 dư 1, để sao cho số dư ấy đồng nghĩa với sự bắt đầu một quá trình mới. Chẳng hạn việc cắm hoa cúng hoặc biện trái cây, luôn có số lượng bông hoa hay thức quả là số lẻ như 5 hay 9. Dấu vết rõ nhất là tên gọi “mâm ngũ quả”, thứ mặc nhiên định nghĩa nhận thức về vòng tuần hoàn trong kho từ vựng người Việt. 

Thật ra không chỉ các hành vi tín ngưỡng mới bận tâm đến trật tự của “sinh, lão, bệnh, tử”. Nhiều hành vi đời sống phản chiếu sâu đậm ý thức này. Chẳng hạn câu thành ngữ trên có mặt trong cách người ta bận tâm đến các số đo xây dựng nhà cửa, nhất là số đếm bậc cầu thang. Người ta luôn tính số bậc sao cho chia cho 4 còn dư 1 để bậc cuối cùng lên tầng trên rơi vào chữ “sinh”, chẳng hạn với chiều cao thông thường, số bậc lý tưởng thường là 17, 21 khi bậc cuối cùng rơi vào cung “sinh”. Cho dù nhà nhiều tầng là sản phẩm của thời hiện đại dưới ảnh hưởng của làn sóng thuộc địa hóa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, song nó mau chóng bị các quan niệm tín ngưỡng bản địa xâm nhập sâu sắc. Nó là hiện thân của sự bản địa hóa một hình thái toàn cầu hóa, mà ngày nay ngành nghiên cứu xã hội nhân văn dùng thuật ngữ glocalisation (ghép từ local/địa phương và globalisation/toàn cầu hóa) để gọi tên. 

Mối bận tâm về số lẻ dư 1 là một ví dụ len lỏi trong hành vi thường nhật, tạo ra một phức cảm về việc tránh phạm phải húy kỵ về sự đau ốm và cái chết. Như vậy, nhiều thứ cả truyền thống cũ lẫn “truyền thống mới” đều được phủ bóng bởi hệ giá trị về vòng đời con người.

* * *

Câu hỏi bật ra là thời hiện đại, liệu cái nhìn về “lão, bệnh” có biến đổi gì không? Dĩ nhiên các thành quả của khoa học, nhất là trong lĩnh vực y tế đem lại khả năng khác về trật tự vòng đời. Con người có tuổi thọ lâu hơn, song điều đó cũng đồng nghĩa với khoảng thời gian của quá trình lão hóa dài hơn và khả năng nhiễm bệnh cũng cao hơn. Con người thời hiện đại du nhập thêm những ý niệm triết học, song cũng từ phút ấy họ nghiệm ra, những ý niệm đó cũng góp phần làm cho khối cầu đá mà nhân vật Sisyphus cả đời lăn ngược lên dốc mà chính họ hóa thân, mỗi lúc nặng hơn. 

Làm sao em biết bia đá không đau” - câu hát nổi tiếng bậc nhất của Trịnh Công Sơn chính là một nhận diện mỹ cảm của nhạc sĩ về nỗi đau trần thế, về bệnh tật, tuổi già và cái chết. Ca từ Trịnh Công Sơn đem lại cho người Việt một mỹ cảm về “lão, bệnh”, điều phần đông cho rằng chúng là sự suy thoái của sự sống. Ít ai tìm đến nỗi đau thể chất và ám ảnh tuổi tác dưới những mỹ ngữ huyền ảo trong những bài ca đại chúng như vậy.

“Làm sao em biết bia đá không đau” - bìa nhạc Trịnh Công Sơn

Để bù vào khoảng vắng của những trước tác phổ thông trong đề tài này, nhạc Trịnh phơi bày và thậm chí, suy nghiệm về những cơn đau - thứ đại diện cho những căn bệnh tác động lên cơ thể xác thịt: Cơn đau nung hồng thèm tuổi hồn nhiên ngồi nhìn trời xanh; Trong trái tim con chim đau nằm yên, ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu; Trên hai tay cơn đau dài, người nằm xuống nghe tiếng ru, cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ... Sự đối diện với cơn đau của bệnh tật giống như một trải nghiệm về cái tôi khác. Cái tôi ấy hướng về ai, khi cơn đau là riêng mình trải qua? 

Một nhà thơ nữ, Xuân Quỳnh, trong cuộc đời viết những bài thơ giản dị, đã dành bài thơ cuối cùng về bệnh tật để trả lời câu hỏi ấy: Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng/ Trái tim buồn sau lần áo mỏng/ Từng đập vì anh vì những trang thơ… Còn hiện tại của em là nỗi nhớ/ Thời gian ơi sao không đổi sắc màu (Thời gian trắng, 6.1988). Xuân Quỳnh đã trả lời: là nỗi nhớ, là lời âu yếm sẻ chia. Trên con đường tuần tự đáng sợ “sinh, lão, bệnh, tử”, hành trang như vậy giúp họ bớt cô đơn. Thi ca hiện đại đã bớt viện đến cõi siêu nhiên, cho dù vẫn bất lực trước sự bất lường của bệnh tật, các tác giả có quyền năng của kẻ sáng tạo, bởi chính cảm xúc hướng đến kẻ khác nơi họ.

Bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười (1984) của đạo diễn Đặng Nhật Minh từng được CNN chọn vào số 18 phim châu Á hay nhất, là một cách đối diện với mất mát hy sinh. Truyện phim kể về việc Duyên, vợ một người lính chiến đấu ở mặt trận biên giới Tây Nam, đã giấu gia đình về cái chết của chồng, cốt để không gây cú sốc quá lớn cho tuổi già của người bố chồng. Cô đã nhờ thầy giáo Khang, người dạy ở ngôi trường làng, thay chồng mình viết những lá thư giả gửi về. Câu chuyện không thể giữ kín mãi, và người thầy giáo cũng có cảm tình với Duyên…

Sức ép của sự hy sinh vô cùng khủng khiếp ở một xã hội mà sự đối diện với mất mát kéo theo vô vàn hệ lụy. Thực tế bộ phim có khả năng gợi ra một suy tư khác, nó là sức ép của một xã hội chưa đủ sức đối diện với bệnh tật và tuổi già một cách an nhiên. 

Cảnh phim "Bao giờ cho đến tháng Mười" (đạo diễn Đặng Nhật Minh, 1984).

Trong một trường đoạn giúp cho bộ phim đạt tới chiều sâu cảm xúc, Duyên lạc vào phiên chợ âm dương đêm rằm tháng Bảy. Ở phiên chợ xóa nhòa ranh giới thực ảo này, Duyên gặp chồng mình, cô nói vẫn tin anh còn sống và mong anh trở về. Người chồng đáp lại: “Anh chỉ muốn những người sống được hạnh phúc. Chỉ có những người đang sống mới làm được điều đó. Cái còn lại mãi mãi thì không thể nhìn thấy được”.

Câu trả lời của người chồng chính là một thông điệp bất biến có khả năng hóa giải sức ép thực tế hơn là những nghi thức mê tín. Trải nghiệm “lão” và “bệnh” thực ra là cần thiết để ta biết làm sao “sống được hạnh phúc”. Mỗi một sự sáng tạo như các tác phẩm thi ca, phim ảnh vừa nêu có sức mạnh đáng kể trong hoàn cảnh con người phải đối diện với những chương khắc nghiệt của cuộc đời. 

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 21.8.2020.

Biết những gì xảy ra trong quá khứ xa xưa dường như là mơ ước muôn đời của con người. Bởi trong cuộc sống mỗi ngày chúng ta đi tới, đi tới; bước đi những bước mà chưa biết sẽ ra sao. Tương lai thì chưa chắc chắn, còn quá khứ lại vô cùng mù mịt.

20210211 6

Chơi Tết âm lịch trên đường Charner 1902 (nay là đường Nguyễn Huệ).

Cũng như các bạn, tôi cũng có những mơ ước như vậy.

Nhân ngày Tết này, chúng ta hãy cùng quay về ngày Tết ở Sài Gòn trăm năm trước coi ra sao? Những ngày ấy có giống với những ngày chúng ta đang sống không? Dĩ nhiên là Sài Gòn trăm năm trước không có xe cộ ồn ào, không bụi bặm mù trời, không có những buổi karaoke ồn ào suốt ngày đêm của hàng xóm…

Nhà báo Ng Thành đã ghi nhận lại không khí Tết ở Sài Gòn cách nay 104 năm.

 

Cuộc ăn tết năm nay

(Tân Đợi Thời Báo số 36 ngày 2.3.1912)

Cuộc ăn tết năm nay sánh với mấy năm trước, thì thua kém hơn nhiều. Y cựu lệ, chợ bữa 27, 28 và 29 Annam; tiền chỗ gia tăng bằng hai đặng trừ bì ba bữa 30, mồng một và mồng hai thì miễn thuế.

Ban đêm ở xa thì thấy chợ thắp đèn điển khí sáng trưng, coi rất đẹp mắt, mà chừng bước chơn [chân] vào chợ, mắt lại ngẩn ngơ, ngống [ngóng] qua ngống lại, dường như là tiềm [tìm] kiếm giống chi, vì lòng đã mất thửa sự mong vọng. Tượng gặp cuộc buôn bán rần rần rộ rộ thạnh vượng như đã từng thấy mấy năm trước tại chợ cũ Sài Gòn và lối dẫy (dãy) Chà Và bán vải, nào hay đâu gặp bề thương mãi bơ thờ, thiên hạ thưa thớt! Có khi tại chợ mới cất lớn quá cho nên bao nhiêu người ta cũng không đủ choán khấp [khắp] cho hết chỗ, hoặc bởi chợ ở một nơi, Chà Và bán vải ở một nơi, nên kẻ mua bán phải chia ra làm hai tốp, làm cho mất sự đông đảo xưa đi.

Đốt pháo Tết trong một sân chùa ở Chợ Lớn 1905.

Tại chợ mới bán vật thực đủ món cùng là hoa quả đủ thứ như mấy năm trước, giá cả không mắc mỏ gì hơn. Duy có cam tàu được rẻ hơn một ít, ngặc [ngặt] dưa hấu thất mùa, nhỏ trái mà lạt, lại bán mắc quá; đường phổ năm nay sơ sài không đúng mùi vị; có muốn “ăn thật” đường phổi, thì phải mua đường Biên Hòa, màu nó thâm thâm, còn đường bán tại Saigon thì trắng xác.

Vòng chợ ngoài phía mặt tiền, có bày nhiều hàng bông hoa đủ thứ, phía bên tay hữu lại có bày viết liễn, viết thiệp. Thấy tại đó có nhiều tay tả tự rất xảo lại sẵn thuộc làu mấy câu sách, nên hễ đặt viết xuống, thì quây (quay) như “rồng bay phượng múa”. Ấy là mấy tay tả tự bậc nhứt. Còn bực nhì thì viết chậm chậm, lại có kềm sẵn sách bên tay.

Lăng Ông Bà Chiểu.

Liễn viết xong rồi, người nào cũng lật đật đem về, dán đen đỏ trong nhà ba bữa tết. Có nhà kia mắc bán buôn không hở tay mà dán liễn. Qua ngày mồng một, ai nấy trong nhà rảnh việc, mới nhắm trước nhắm sau, chừng ngó lên mấy cây cột, thấy liễn dán trở đầu xuống đất hết! Xong chưa! Lanh thiệt!

Nội trong mấy tay tả tự, cũng có vài sư tăng đua chen với thế viết liễn cầu tài, tiếng người tu hành mặc dầu, chớ chữ viết tầm thường.

Khách trú [người Hoa] năm nay ăn tết sớm lắm. Bữa hai mươi tám đã thượng xong cờ ngũ hành, cây nào cũng to lớn, còn màu sắc thì thâm đậm, coi ra lạ con mắt. Cũng có chen lộn theo ít cây cờ tam sắc của Đại Pháp.

Sài Gòn năm 1915. Cả hai hình đều chụp ở trước Nhà hát thành phố hiện nay dưới hai góc độ khác nhau.

Đêm ba mươi và trọn ngày mồng một, pháo nổ liên thinh, ấy là tục người Annam trừ năm cũ và ăn mừng năm mới, “bộc trúc nhứt thinh trừ cựu”. Tối ba mươi, tất nhiên có nhiều kẻ ngủ không an giấc, hoặc mắc thao thức bàn soạn quần áo, vòng vàng đặng rạng ngày có ăn mặc với người ta, hoặc bị pháo nổ rùm tai phải giựt mình ngồi dậy, nhưng vậy mà rồi nhớ sực qua ngày mai là Tết cũng nhộn nhực trong lòng.

Trong ba bữa tết người lớn kẻ nhỏ đều vui đồng. Trẻ em thì lo ăn cam ăn hồng, đốt pháo lãnh “lì xì”, còn người lớn thì lo thăm viếng, làm tuổi ông bà và cầu chúc cho bà con cô bác, bậu bạn đặng vạn sự hanh tường. Có kẻ khác lại lo dụm năm dụm bảy mà đổ bác.

Đừng nói con nít ham đốt pháo chớ người lớn cũng ham đốt pháo vậy; qua mồng bốn lối bửng tưng, đã thấy có ông già kia nhắm hướng nhà thương thí mà phăng lần đến. Quan lương y khán [khám] bịnh xong, liền ra toa mà đề chứng bịnh như vầy “bàn tay hữu bị tách chè hẻ, vì… ham đốt pháo tre! Nguyễn Thạnh Phước, 56 tuổi!!” (Ông nầy đầu năm lót chữ ‘thạnh’ mà bộ hết thạnh nên tới suy!).

Xưa sao nay vậy tái đi tái lại, thì cũng thịt hầm dưa giá, thịt kho cá kho, nem, bì, tỏi, ớt, kiệu, bánh tét, bánh chưng. Chứa tinh những đồ ăn phá bụng.

Ngoài xe lửa chật như nêm. Trừ ra xe lửa Mỹ Tho, còn bao nhiêu, nào là xe lửa Biên Hòa, xe lửa nhỏ, xe lửa Chợ Lớn bộ hành lên xuống không ngớt. Khách trú đi chật xe mặc y phục langsa, bỏ dẹp áo dài xưa xùng xình. Lải rải còn thấy một ít lão mặc áo dài châu xá, che dù đi cung hỉ, ngặc… dang đầu trần ra giữa trời nắng! Khá thương cho á xúc!

Cầu Khánh Hội.

Còn xe lửa Biên Hòa chạy lối miệt Gò Vấp, Bình Lợi, thì bộ hành trên xe thấy dọc theo đàng, có vài nhà chưng dọn có thắt lá dừa và treo đèn lồng giấy, trong nhà khác lại thấy người dụm năm dụm bảy chật một ván mà đánh bài. Nghe xe lửa hú, ngảnh cổ lên ngó, rồi cười. Kẻ trên xe thấy trếu làm vậy, liền đưa ta ra hoắc [ngoắc], người trong nhà lại cười hơn nữa, xa xa thấy bày hàm răng… đen! Nhằm ngày xuân nhựt, người đông vui là vậy đó.

Xe cộ ngày tết, nhứt là bữa mồng một, mắc lắm, giá cả bằng hai, mà cũng không đủ cho người ta đi.

Qua bữa mồng hai, pháo đốt nghe lải rải, bước qua mồng ba nghe càng vắng bặt, chiều lại nghe lộp bộp ít tiếng đưa ông bà rồi… hết tết.

Tết năm nay dân sự thủ phận an thường, chẳng chút nào vi phạm mặt luật; ấu đả cũng không, cướp giựt trộm bối cũng không ngoại trừ tại Vĩnh Long có xảy ra một việc mất của mà thôi. Có ả kia bữa mồng một đi khỏi, giao nhà lại cho con tớ gái; chừng về coi lại thì vòng vàng đã mất hết nhiều, độ giá chừng năm ngàn bạc ngoài. Số là cô ấy lúc dấu (giấu) chìa khóa tủ ở dưới gối, thì có con ở ngó thấy. Việc nầy còn đang tra hỏi.

Múa rồng: Con rồng trong ảnh dài khoảng 50m với trên 25 người múa, đã được chụp trước năm 1905.

Tại Saigon, có chú lính mã tà, cũng trong ngày tết cầm dao mà quyên sinh lấy mình. Nay còn nằm nhà thương. Không rõ cớ chi mà chú nầy đành tự vận như vậy? Hay là thua lắm?… Hay là vấn vương tình nợ? Khó biết được, quan còn đương tra.

Năm nay tết nhứt coi hình cuộc không lấy gì làm vui cho lắm. Có lẽ tại mẩu quốc hữu sự nên chúng dân chẳng đành lòng an vui như mấy năm trước.

 

Xuân nhựt thi

Lễ tết năm nay chút gọi là;
Cờ treo, liễn đánh với người ta;
Giáp Dần đã đặng bề thong thả,
Ất Mẹo từ đây sướng lắm a!

Thắp đèn, đốt pháo với người chơi;
Ăn tết năm nay thiệt thảnh thơi,
Ắt đặng từ rày và sắp tới;
Lộc cao, phước lớn, sống lâu đời!

Mấy ngày tết nhứt sướng bon bon;
Rượu thịt đủ mùi rất ngọt ngon;
Cúng kiến (kiếng) hẳn hòi, thành tín một,
Đất trời phò hộ cả bà con.

NG THÀNH “Khiêm Hòa”
Secretaire à l’Inspection d’Hà Tiên

Trần Nhật Vy

Nguồn: Doanh nhân Plus, ngày 06.02.2021.

Tìm hiểu sức sống di sản văn học vĩ đại của Nguyễn Du trong bối cảnh thời đại văn hóa đại chúng, theo chúng tôi, là một câu chuyện có ý nghĩa. Vận dụng cơ sở lí luận và các lí thuyết cần thiết, đồng thời tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, bài viết này phân tích thành tựu, phương hướng xúc tiến du lịch văn học và các thiết chế văn hóa liên quan trong bảo tồn, phát huy di sản Nguyễn Du.

Dù ghi chép sớm nhất về những chuyến thăm các địa điểm liên quan tác giả, tác phẩm văn học của các du khách thuộc giới tinh hoa châu Âu xuất hiện từ thế kỉ XV, và đến thế kỉ XIX, hình thức du lịch này đã dần mở rộng trong du khách đại chúng, nhưng nghiên cứu lí luận về du lịch văn học với tư cách một loại hình chuyên biệt thì mới chỉ bắt đầu từ khoảng những năm 1980.

Du lịch văn học có ý nghĩa khá quan trọng trong bảo tồn, phát huy di sản. Trong bài nghiên cứu “Du lịch văn học như người quảng bá di sản văn hóa” (Literary tourism as a promoter of cultural heritage), L.Ghetau & L.V.Esanu viết một cách hình tượng rằng: “Văn chương là một hình thức du lịch tinh thần, trong khi du lịch là mực để viết nó ra”. Du lịch văn học tạo cơ hội cho du khách tiếp xúc gần hơn, cảm nhận cụ thể, sinh động, và có thể có những suy tư thấm thía, sâu sắc hơn về tác giả, tác phẩm văn học với tư cách những giá trị văn hóa phi vật thể. Do đó, truyền thống văn học được tiếp tục gìn giữ và chuyển giao.

20200817 5

Khu di tích Nguyễn Du tại Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ảnh: TL.

Hiện nay, du lịch liên quan di sản văn học Nguyễn Du hầu như chỉ có một điểm đến đáng kể, đó là Nghi Xuân, quê hương nhà thơ, nơi có khu di tích Nguyễn Du (bắt đầu tiến hành quy hoạch năm 1965 nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh nhà thơ, được công nhận Di tích quốc gia đặc biệt năm 2012). Bên cạnh các di tích về họ Nguyễn Tiên Điền (đàn tế và bia đá tưởng niệm dòng họ, hai cây cổ thụ do ông nội nhà thơ trồng, nhà Tư văn - nơi thờ Khổng Tử và bình thơ văn, đền thờ và mộ cha của nhà thơ, đền thờ chú của nhà thơ…), liên quan trực tiếp cuộc đời cá nhân nhà thơ, có nhà thờ Nguyễn Du (do con cháu lập năm 1824, Hội khai trí Tiến Đức hỗ trợ xây năm 1940), mộ Nguyễn Du (xây năm 1990), phòng trưng bày “Di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều” (khai trương năm 2015, nhân kỉ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du). 

Phòng trưng bày được công bố có gần 1000 ấn phẩm, tư liệu, ảnh và hiện vật, vẫn còn khá nghèo nàn, mới chỉ giới thiệu sơ lược cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ. Liên quan đến tác phẩm Truyện Kiều, chỉ có một số bản sách đã được in ấn, dịch và xuất bản trong nước và nước ngoài (nổi bật là cuốn sách Thư pháp Truyện Kiều cỡ lớn) và một số bức tranh minh họa tác phẩm. Như vậy, khu di tích ở Nghi Xuân chủ yếu đặt trọng tâm ở tác giả (kiểu thức Authorial - Placing the Author) hơn là chú ý đến tác phẩm nghệ thuật (kiểu thức Fictive - Locating the Fictive).

Và về tác giả thì phương diện Being (gia tộc nhiều đời tài năng, vinh hiển) dường như được nhấn mạnh hơn phương diện Doing (thành tựu sự nghiệp của cá nhân nhà thơ). Cuốn sách Họ Nguyễn Tiên Điền và khu di tích Nguyễn Du của Đinh Sỹ Hồng đưa yếu tố dòng họ lên trước trong nhan đề, mở đầu với cảm hứng “Bao giờ Ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước họ này hết quan”, và viết về dòng họ với số trang nhiều gần gấp đôi số trang về nhà thơ (tỉ lệ 46 tr /26 tr). Văn bản thuyết minh khu di tích cũng tương tự như vậy.

Nói về điểm đến đặt trọng tâm trên tác phẩm thì ta có thể đề cập “vườn Kiều” mà cụ Nguyễn Bá Khoát bắt đầu xây dựng từ năm 1996 ở phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trên bức tường rào dài 200 mét là 20 tác phẩm phù điêu thể hiện 20 cảnh trong Truyện Kiều. Trong vườn, có phòng thờ với tượng Nguyễn Du, xung quanh là các loại cây cối, hoa lá được nhắc đến trong Truyện Kiều, một số bức tượng các nhân vật, một số công trình kiến trúc thể hiện lầu Ngưng Bích “khóa xuân” nàng Kiều, Quan Âm các - nơi Kiều bị Hoạn Thư “giam lỏng”.

Vườn Kiều hướng tới tạo dựng không gian và thế giới nhân vật của tác phẩm hư cấu, tuy nhiên, hoàn toàn chỉ do hứng thú cá nhân, kinh phí của cá nhân, tự thiết kế và xây dựng, nên điểm đến này hết sức khiêm tốn cả về quy mô lẫn trình độ nghệ thuật. “Vườn Kiều” chưa được nhiều du khách biết đến, ngay cả những người quan tâm đặc biệt đối với văn học.

Ở Việt Nam, mới chỉ có khu di tích Nguyễn Du là điểm đến du lịch văn học đáng kể. Điểm đến này, hiện nay, chủ yếu đặt trọng tâm ở cuộc đời tác giả. Liên quan cuộc đời tác giả, đúng như Trần Nho Thìn đã viết, Nghệ Tĩnh - nơi nhà thơ trải “mười năm gió bụi” - có ý nghĩa quan trọng, tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cần quan tâm đến những không gian văn hóa Nguyễn Du rất giàu ý nghĩa khác, như Thăng Long, nơi Nguyễn Du sinh ra, lớn lên và cả Trung Hoa, theo con đường đi sứ của nhà thơ năm 1813-1814.

Trong quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (kí ngày 6/5/2019) phê duyệt đầu tư tôn tạo khu di tích Nguyễn Du giai đoạn 1, chỉ một hạng mục liên quan trực tiếp đến nhà thơ (mộ), các hạng mục khác được ưu tiên tu bổ vẫn là của dòng họ, của địa phương (nhà bia, nhà Tư văn, chùa Trường Ninh, đền thờ - mộ Nguyễn Nghiễm, đền thờ - mộ Nguyễn Trọng). Khi xây dựng điểm đến liên quan cuộc đời tác giả, tham khảo kinh nghiệm các bảo tàng Pushkin, theo chúng tôi, cần đặt điểm nhấn nhiều hơn trên hoạt động sáng tác và thành tựu văn chương Nguyễn Du chứ không chỉ dòng dõi, nơi sinh, nơi mất.

Cần phát triển từ phòng trưng bày thành Bảo tàng “Nguyễn Du và Truyện Kiều”. Dùng mô hình hoặc tranh ảnh, phim tái hiện bối cảnh lịch sử thời đại cũng như cảnh quan vùng sông Lam núi Hồng ảnh hưởng đến cuộc đời, tư tưởng, cảm hứng và chất liệu sáng tác của Nguyễn Du. Dựa vào tư liệu thơ văn cũng có thể phục dựng hình ảnh Nguyễn Du trong các sinh hoạt văn hóa dân gian ở địa phương cũng như trong quan hệ giữa dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân và dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu (Thác lời người con gái phường nón của Nguyễn Huy Quýnh, Thác lời người con trai phường vải của Nguyễn Du, thơ văn tặng đáp của Nguyễn Huy Vinh gửi cho Nguyễn Du và Nguyễn Hành).

Hiện vật gắn với đời sống của chính nhà thơ và gia đình nhà thơ có thể không còn giữ được bao nhiêu, nhưng di sản phi vật thể liên quan sáng tác của ông thì vô cùng phong phú. Trong bảo tàng có thể tổ chức các phòng/ tủ/ kệ trưng bày theo nhiều chuyên đề, kết hợp các màn hình tương tác, dựng mô hình, nghệ thuật sắp đặt… Chỉ khai thác từ các kỉ lục quốc gia và quốc tế của Truyện Kiều đã đủ đa dạng và hấp dẫn (tham khảo Phạm Đan Quế):

- Truyện Kiều và các truyện thơ Nôm.

- Các văn bản Truyện Kiều (mấy trăm lần xuất bản).

- Hơn 30 bản dịch Truyện Kiều ra các thứ tiếng.

- Các sách nghiên cứu, chú giải, luận án, luận văn về Nguyễn Du và Truyện Kiều (vài trăm cuốn).

- Các bài in báo, tạp chí về Truyện Kiều (hàng ngàn bài).

- Cuốn Kiều nặng nhất.

- Cuốn Kiều dài nhất.

- 7 tác phẩm Hậu Truyện Kiều.

- Bản Truyện Kiều đọc ngược.

- Các sách tập hợp các tác phẩm vịnh Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều.

- Sách tập hợp các giai thoại Truyện Kiều.

- Các bức tranh nghệ thuật về Nguyễn Du và Truyện Kiều, các bộ tranh minh họa Truyện Kiều (vài trăm bức tranh).

- Các phim chuyển thể tác phẩm Truyện Kiều, các phim tư liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều.

- Các tác phẩm sân khấu chuyển thể tác phẩm Truyện Kiều.

- Các tác phẩm âm nhạc về Truyện Kiều.

- Nguyễn Du và các danh nhân văn hóa thế giới được vinh danh cùng năm với ông.

Ngay ở khu di tích Nguyễn Du, cần đầu tư xây dựng chẳng hạn công viên “chủ đề Kim Kiều” thể hiện thế giới nhân vật cùng câu chuyện của họ, rạp phim, nhà hát, gallery, quán sách, thư viện chuyên đề Nguyễn Du và Truyện Kiều. Xa hơn, cũng có thể nghĩ đến một “thành phố văn học” ở Hà Tĩnh, gắn kết từ Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, các văn nhân dòng họ Nguyễn Huy cho đến Huy Cận, Xuân Diệu…

Trong thực tế, hoạt động của du khách khi đến khu di tích Nguyễn Du cũng như đến “vườn Kiều” nhìn chung còn khá nghèo nàn, đơn điệu, chỉ là thăm viếng, nghe thuyết minh (hoặc trò chuyện cùng chủ nhân ngôi vườn). Lần gần nhất chúng tôi điền dã khu di tích Nguyễn Du giữa tháng 5/2019, ngoài ba người trong nhóm chúng tôi chỉ thấy lác đác dăm bảy người ghé thăm. Phỏng vấn cô hướng dẫn viên thì được biết trong năm học thường có học sinh, sinh viên các trường đến sinh hoạt ngoại khóa, tìm hiểu tác gia văn học có trong chương trình phổ thông và chương trình các khoa văn ở đại học và cao đẳng.

Website của khu di tích tuyên bố nhiệm vụ chính trị “phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập ” (http: //www.nguyendu.com.vn), không thấy thống kê số khách tham quan hàng năm, mục “Tin tức - Sự kiện” chỉ thỉnh thoảng post tin các tổ chức, đoàn thể chính quyền, kiều bào, nhà văn nước ngoài… thăm di tích. Năm 2015, trong dịp kỉ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du, một số đoàn lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo địa phương, các nhà nghiên cứu về viếng mộ Nguyễn Du, dâng hương tại tượng đài, làm lễ giỗ tại nhà thờ Nguyễn Du.

Nghĩa là các hoạt động có vẻ hành chính, tưởng nhớ Nguyễn Du theo tín ngưỡng thờ cúng tiền nhân được tổ chức ở khu di tích. Còn lễ kỉ niệm với chương trình biểu diễn nghệ thuật khá phong phú, hấp dẫn thì được tổ chức tại quảng trường trung tâm thành phố Hà Tĩnh. Có thể cảm nhận hoạt động của khu di tích Nguyễn Du chưa nỗ lực hướng tới tăng sức thu hút du lịch đối với đông đảo đại chúng.

Để các hoạt động du lịch văn học có hiệu quả hơn nữa trong bảo tồn, phát huy di sản Nguyễn Du, trước hết, cần tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều. Nếu đồng tình với nhận định nổi tiếng của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, chúng ta có thể gắn kết di sản Nguyễn Du với vẻ đẹp ngôn ngữ, thơ ca dân tộc.

Nhớ đến lời của Lưu Trọng Lư: “Truyện Kiều là một sự không cùng. Hôm qua nó là của Phạm Quý Thích, của Chu Mạnh Trinh “Ngàn liễu rung rinh sóng gợn tình”. Hôm nay là của chúng tôi. Ngày mai là của các bạn. Và mãi mãi là của các mẹ, các chị, các em. Truyện Kiều sẽ nối lại những thế hệ tuổi hoa”, chúng ta sẽ tìm ở di sản Nguyễn Du chủ nghĩa trữ tình, chủ nghĩa nhân văn, nguyên lí nữ tính tràn đầy tình yêu thương, vị tha của tâm hồn dân tộc.

Trên cơ sở đó, có thể đa dạng hóa các hoạt động du lịch văn học mở ra cơ hội rộng lớn cho du khách không chỉ tham quan mà còn thưởng thức và trải nghiệm, tham gia các nghệ thuật phong phú gắn với Truyện Kiều (thư pháp, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, ca múa nhạc, sân khấu, đọc/ ngâm thơ, hát ru…).

Đặc biệt, Truyện Kiều đã sản sinh ra quanh nó một nền văn hóa giàu có và sống động, cả các dạng thức văn hóa tinh hoa lẫn văn hóa dân gian, hoàn toàn có thể tràn đầy phấn hứng khi kết hợp với sức mạnh của văn hóa đại chúng và truyền thông trong những nghi thức, những trò chơi, những sinh hoạt vô cùng thú vị, hấp dẫn: vịnh Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, bói Kiều… Những “lễ hội Truyện Kiều” chắc chắn sẽ tìm được vô số con đường để chinh phục tất cả những ai yêu mến tác giả và tác phẩm.

Việt Nam là một dân tộc yêu văn học và có di sản văn học giàu có, nhiều ý nghĩa. Một số nhà nghiên cứu đã có những suy nghĩ bước đầu về hướng khai thác nguồn tài nguyên này cho du lịch, tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống. Dựa trên khung lí luận và lí thuyết của thế giới, đồng thời tham khảo kinh nghiệm thực tiễn của Nga (đối với di sản Pushkin) và Hàn Quốc (đối với di sản Xuân Hương truyện), qua phân tích trường hợp khu di tích Nghi Xuân, chúng tôi bước đầu đề xuất phương hướng xây dựng và phát triển du lịch văn học trong quan hệ với bảo tồn, phát huy di sản Nguyễn Du.

Theo đó, cần tái cắt nghĩa, kiến tạo thông điệp của di sản nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, của dân tộc hôm nay, trên cơ sở đó, xây dựng những điểm đến cũng như tổ chức hoạt động du lịch văn học. Trong các hoạt động này, rất cần lưu ý nắm bắt xu hướng quốc tế của du lịch văn học đang chuyển từ dạng thức cuộc đời Tác giả (Authorial) sang dạng thức Tác phẩm hư cấu (Fictive), từ chú ý Không gian (Location) đến nhấn mạnh Trải nghiệm (Experience), từ chú mục vào Văn bản (Text) thành Sống (Living) với nghĩa tham gia vào các hoạt động thưởng thức, sáng tạo văn chương. Đó là con đường phong phú, sinh động để phát huy hơn nữa di sản vĩ đại của Nguyễn Du.

Phan Thị Thu Hiền

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 13.8.2020.

Trước tiên, khi thử nhìn lại con đường của Mẹ - Đạo Mẫu-, tôi lại muốn đánh dấu chéo gạch bỏ những khái niệm “Đạo Mẫu”, Tiên Thánh Liễu Hạnh, Thánh Cô và một loạt những nhân vật được tôn sùng cho sức mạnh, thế lực hàng đầu của nữ giới Việt, thường được hóa thánh, sùng thượng một thời.

20210130

Bức “Gia đình” của danh họa Lê Phổ. Nguồn: Sotheby’s

Làm chuyện này tôi nghĩ mình không phạm thượng, và tin chắc người mỉm cười đầu tiên với tôi là bà chúa Liễu, bởi vì bà là vị nữ nhân đã thấu hiểu hơn ai thể chất đích thực của “đàn bà”, nói chung và phụ nữ Việt nới riêng: không thần tiên, không đúc tượng mà sống chân thực ở đời bằng khúc dạ của mình Câu chuyện tiên hạ giới vào gia đình thường dân, làm con đôi vợ chồng phúc đức, lớn lên, lấy chồng sinh con rồi… chết, rồi ước nguyện tái sinh, chỉ để… lấy chồng, sinh con, làm trọn chức năng đàn bà, rồi lại… chết nhưng… trở thành bất tử. Ba lần trở về hạ giới cũng chỉ vì một chữ “tình”, tình yêu đất, tình yêu người - vị được phong “Mẹ của muôn dân”-, “Thánh mẫu” ấy trở nên bất tử, bất tử trong nghĩa hầu như vẫn còn hiển hiện đâu đây nơi những hình hài nữ nhi, chưa một lần hiển thánh vĩnh viễn, còn mãi trong kiếp “đàn bà”. Liễu Hạnh đã biểu hiện giới tính Việt nữ không ở đâu khác hơn là chính ở trong bản chất “Hóa Thân”. Khác hẳn với nam giới hầu như đồng dạng, và đồng điệu (monotonne), người nữ có thể hiện thân muôn vẻ, như những cánh bướm muôn màu, như những… nàng tiên hạ giới. Tiên phải chăng là hình hài của bướm, của hoa hóa thân, hóa kiếp và đã là tiên ắt phải đẹp?

Câu chuyện mẫu hệ Việt Nam có thật trong lịch sử từ khi mảnh đất chữ S có lá sen, lá chuối, chiếc nón đi về, trong khi huyền thoại tiên bướm là khởi đầu cuộc hóa thân sáng tạo của Mẹ muôn loài. Hóa thân không ngừng trong dòng đời, trong muôn nghìn ức vạn thế hệ, để sinh và dưỡng muôn người. Sinh thành, nuôi dưỡng, giữ gìn, hình hài người phụ nữ Việt in bóng trên dải đất chữ S đã uyển chuyển đi những đường nét đậm tình nhân ái, sáng tạo, chân tình và bi ai. Đi, biến đổi, trở thành, người phụ nữ Việt linh động ảo hóa, dù gian nan đọa đày, ma chiết trắc trở. Từ bà Trưng bà Triệu, Nhà mẹ Lê, Mẹ Hồ Dzếnh, chị Dậu, ngay cả Thị Nở như những số phận hẩm hiu, cho đến Thuận Thiên, Ỷ Lan, Từ Dũ Thái hậu, hay Huyền Trân, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, nàng Kiều, Chinh phụ, bà mẹ Cúc Hoa… để nêu ra một vài tiêu biểu những con người với thiên chức đàn bà, người phụ nữ không ngừng tảo tần, không ngừng hóa kiếp với bầu sữa ngọt, với cảm hứng sáng tạo từ trái tim và đôi bàn tay sẵn sàng biến cải, đổi khác, nhào nặn từng hình hài, tạo dựng cuộc sống, gầy dựng mô hình xã hội yêu thương bằng cấu trúc gia đình.

Không ngạc nhiên chút nào khi “Gia huấn ca” của Nguyễn Trãi, tác phẩm thành văn về giáo dục con người Việt thực hiện đạo làm người, ở thế kỷ 14  đã dành 15 trong toàn thể 16 chương của  tác phẩm, về việc giáo dục người phụ nữ trong gia đình, bởi vì gia đạo nằm chính trong sự cầm cương nảy mực của người phụ nữ: làm con, làm em, làm chị, làm mẹ, làm dâu, làm bà, đối với bà con, vợ lẽ, bạn bè của chồng, đối với người ngoài trong xã hội, đối với người cơ hàn thấp kém, đối với gia đình, thờ cúng tổ tiên…đến điều chi li với mọi chi tiết cách ăn ở đứng ngồi, công dung ngôn hạnh, bởi vì mọi phẩm chất đời sống của mỗi một con người được sinh ra và lớn lên đều bắt nguồn từ cái kén đức hạnh của người đàn bà. Con tằm nhả tơ cuộc sống, như lời hát ru “cocon de soie, source de vie”, con tằm biết sống theo đạo tằm nhả tơ, đức hạnh nằm trong nhả tơ, không phải trong thần tượng.

Bức “Đời sống gia đình” của danh họa Lê Phổ. Nguồn: Sotheby’s

Điều kiện sống và hành vi sống của người đàn bà là nguồn gốc của con người, của xã hội, đến nỗi, không lạ, một thời xa xưa, mẫu hệ là hình thức tổ chức xã hội đi trước phụ quyền và cũng không lạ khi J. J. Bachofen với tác phẩm "Das Mutterrecht" (“Mẫu quyền”) năm 1861 đã làm xôn xao giới nghiên cứu trí thức của thế kỷ 19, trong đó lời trao tặng cao quý nhất dành cho Mẹ “Bao lâu còn sống trên đời con sẽ không ngừng nói về phẩm hạnh tốt và lòng tin yêu của Mẹ” (Solange ich lebe, werde ich nie aufhören, von Deiner Güte und Deinem Vertrauen zu sprechen), với niềm đam mê chứng minh “mẫu quyền là nguồn gốc của xã hội”, đã đánh đỗi mọi tham vọng thế lực khoa học mang tính hàn lâm trí thức của thời ông. .

“Mẹ” đi trước muôn loài. Mẹ là cốt tủy của tâm tình nước non từ khi sóng vỗ bên bờ Kreta (Hy lạp), Đại Tây Dương, Thái Bình Dương, Trung Hải, Biển Đông. Mẹ Kreta cầm rìu hai lưỡi, mẹ Liễu Hạnh tiên hóa bướm, đều là những khởi đầu của khởi sự “con người”.

Có thể nói trước mọi quyển huấn ca, mỗi người con đã đọc Mẹ từ khi còn nằm trong bụng Mẹ. Quyển sách đời nằm trong những nét Mẹ viết CON, vẽ CON, bừng sáng trên từng khoảnh khắc, không phải chỉ trong hạnh phúc mà ngay trong gian khổ bi ai. Con đường mẹ đi, mẹ dẫn con đi, đi theo cách nào đi nữa, gian nan, khổ ải, đắng cay, ngọt bùi nhung lụa, vẫn là con đường “gia đạo”, con đường đi và quay về tổ ấm, hợp quần nhân loại, con đường nâng bước chân người đến gần với nhau vì thương nhau, như mẹ thương con. Trên con đường ấy, sáng tạo hiện sinh mang ý nghĩa nhân quần, nhân tính của mái nhà yêu thương, của tụ hợp, quây quần bên nhau, từ đó con người trở thành người, không còn là những thú giữ gầm thét, cấu xé nhau. Hàng mấy mươi thế kỷ bể dâu, thương hải tang điền, mẫu gia đình biến đổi theo cấu trúc xã hội, mẫu quyền rồi phụ quyền, nhưng gia đạo thì chỉ có một, một con đường đi do người phụ nữ khai phá và đảm trách, bền bỉ, hiện diện nơi từng nhịp thở của con, trên đó người đàn ông khó có thể thay thế để gầy dựng nên.

Bức “Thiên chức làm mẹ” của danh họa Lê Phổ. Nguồn: Sotheby’s

Mẹ có thể dịu dàng như cánh bướm mà cũng có thể sắc bén như cây rìu hai lưỡi. Là rìu để bảo vệ con người, là bướm để làm đẹp nhân tính. Cả hai đều là biểu tượng nữ phái và sự quân bằng nằm ở trái tim nhân ái, rộng lòng biết thương “lòng ái từ như bể như non”. Gia đạo của người phụ nữ nằm trong hành trình mang nhiều chữ “thương”, thương chồng, con, cháu, nuôi lớn khôn, tạo bền vững, vun trồng hợp nhất. Gia đạo dù gian nan, Mẹ vẫn sắt son nhẫn nại tô bồi “Vườn xuân một cửa để bia muôn đời”. Nỗi mong ước hóa thân của Liễu Hạnh, người mẹ của muôn dân mang ý nghĩa chuyển hóa trên “đường đi”, làm cho “con” trở nên người trưởng thành và đứng vững trong xã hội. “Con” trở nên “Người”, từ dã tính trở nên nhân tính, mỗi lúc một được cải thiện đạo đức hơn và trở nên con người của hoàn vũ, của nhân loài. Đức hạnh của Mẹ nằm trong sự chuyển hóa, chuyển hóa bằng hơi ấm và trái tim sẵn sàng hi sinh.


Khác với chế độ phụ quyền nổi trên bề mặt ở các nước Âu cũng như Á, và cũng khác với cấu trúc mẫu quyền chuyên chế của thời xa xưa, trong đó người phụ nữ hoăc bị khinh rẻ như nô lệ, hay độc đoán bạo động như nam giới, phụ nữ Việt đã có một vị trí cao trong gia đình và được mọi phần tử trong gia đình tôn trọng như là bà tổ của gia tộc: người phụ nữ là “nội tướng”, là phên dậu của cái nhà, và người đàn ông trong gia đình vẫn chỉ là “đứa con” lớn nhất, dù là con trời, trong tổ chức do người phụ nữ xếp đặt nên. Gia đạo bền vững nơi nhịp đong đưa giữa êm ái và sắt gan của người phụ nữ “Liễu Hạnh”, ở đạo hạnh nữ phái mềm mỏng mà trung kiên. Gương bền bỉ, can trường, sẵn sàng chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam trong việc giữ gìn gia đạo của thế hệ trước vẫn còn ấm trong văn chương và ấm trái tim của những người con nay đã trở nên già. Làm sao quên được hình ảnh của Bà, của Mẹ, đầy thương yêu mà cũng đầy sức mạnh chống đỡ, lèo lái gia đình trong những lúc hoạn nạn, khi thì mất chồng, khi mất con, khi chiến tranh, khi đói khát lao khổ? Làm sao quên được bà Tú Xương vẫn tươi cười nuôi con khi chồng dài lưng tốn vải? Làm sao quên được cảnh Bà nội tôi vẫn ngâm thơ và ru con trong lúc gạo châu củi quế, phải nhịn bụng dành tiền cho con trai đi học, như mẹ Hồ Dzếnh một thời? Cũng không thể quên được cảnh Bà ngoại tôi ôm con của vợ lẽ vào lòng, nuôi nấng và che chở khỏi những cơn giận dữ của Ông tôi, công dung ngôn hạnh hơn cả tứ đức tam tòng vì tất cả đến từ trái tim đơn giản.

Đối với mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của mẹ của… mẹ của con thì hóa bao nhiêu kiếp cũng sẵn lòng, độ lượng mười phương tám hướng, vẫn lồng lộng đi về bên con như Cúc Hoa hiển hiện, nâng con thành người của người. Cánh bướm của Liễu Hạnh vẫn còn đập mềm mại như cơn mộng ru con, dệt tơ nhân ái, và đôi tay vẫn chuyên cần thoăn thoắt như hai cánh dũa sắt của chiếc rìu sẵn sàng bảo vệ mọi đe dọa hiểm nguy xâm hại phẩm chất con người, dành tin yêu cho đàn con mai sau. Cầm rìu cũng như cầm kim thêu hay cầm bút viết, người phụ nữ Việt có thừa năng lực và trí tuệ để chuyển hóa chính mình và người trong cuộc hành trình nhân thế- cuộc giải phóng khỏi áp lực định kiến xã hội bên ngoài vẫn còn đằng đẳng, cho nên đức hạnh người phụ nữ nằm chính trong năng lực sáng tạo hóa thân mộng đời thành hiện thực bằng chân tình Mẹ Con, luôn chảy không ngừng, không dừng một giây để đừng hóa đá, dù là hóa đá chờ người thương…

Thái Kim Lan

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 14.01.2021.

TTCT - Nhà khoa học có lẽ là đã mở đầu cho khoa học hiện đại cũng phải sống sót, làm việc và kết nối với gia đình theo những cách hoàn toàn mới vì một đại dịch.

20200817 4

Galileo Galilei (1564–1642), ảnh tư liệu của Hulton Archive.

Virus corona chủng mới đã đảo lộn thế giới của chúng ta suốt vài tháng qua, buộc người ta phải làm việc theo những cách hoàn toàn mới. Cụ thể với các nhà khoa học, Isaac Newton đã luôn được coi là hình mẫu lao động hiệu quả trong thời kỳ dịch hạch vì ông đã dành cả năm 1666 - “năm của những phép mầu” - ở vùng đồng quê nước Anh để tránh dịch và phát triển những ý tưởng của mình về lực hấp dẫn, quang học và phép tính vi tích phân.

Nhưng sự cô độc và suy tưởng trong tĩnh lặng chỉ tạo nên một hình mẫu của khoa học trong những thời kỳ dịch hạch và là một hình mẫu mà rất ít người chúng ta có thể làm theo.

Galileo Galilei - nhà thiên văn học, vật lý học và toán học, người đã biến kính viễn vọng thành một dụng cụ khoa học và đặt ra nền tảng cho một vật lý mới của chuyển động - cho chúng ta thấy một hình mẫu nghiên cứu khoa học đầy cảm hứng và gần gũi hơn trong thời kỳ khủng hoảng.

Thực tế, vài năm hoạt động công khai và đầy biến động trong đời Galileo đã diễn ra trong thời kỳ dịch hạch bùng phát mạnh giữa các năm 1630 - 1633.

Những mối đe dọa của dịch hạch

Galileo sinh năm 1564, thời thơ ấu của ông ở Florence cũng là thời điểm bệnh dịch hạch bùng phát mạnh ở Ý trong những năm 1575-1577, tàn phá miền bắc Ý và tước đi mạng sống của khoảng 50.000 người ở Venice - một phần ba tổng dân số. Là sinh viên ngành y ở Đại học Pisa, nơi Galileo bắt đầu hành trình học thuật của mình, ông chắc chắn biết được nhiều hơn về căn bệnh khét tiếng này.

Mặc dù không lâu sau đó đã không làm theo ước nguyện của người cha là theo đuổi nghề y mà chuyển sang nghiên cứu toán học và thiên văn học, Galileo vẫn tiếp tục đọc và bàn về bệnh dịch hạch.

Tới năm 1592, Galileo đã có được một vị trí danh giá ở Đại học Padua và năm 1610 ra mắt cuốn Starry Messenger (Thông điệp của các vì sao). Cuốn sách mỏng này trình bày những khám phá của ông với kính viễn vọng: những ngôi sao chưa từng được quan sát trước đó sáng bừng qua các trang sách, những ngọn núi vút lên khỏi bề mặt Mặt trăng và những “ngôi sao Medici” mới (thực ra là các Mặt trăng) - ban đầu được đặt tên theo người bảo trợ tương lai của ông - quay quanh Mộc tinh.

Cùng năm đó, một người bạn là Ottavio Brenzoni gửi cho Galileo bản luận thuyết mà ông này mới công bố về bệnh dịch hạch, điều mà giờ nghĩ lại, có thể coi như lời nhắc nhở rằng những khám phá của Galileo trên trời cao không bao giờ tách biệt hoàn toàn với những gì diễn ra nơi mặt đất trần tục.

Thư tín của Galileo đều đặn nhắc tới những đợt bùng phát dịch hạch ở Tuscany, bắt đầu vào năm 1630. Chúng ta đọc được lời biện minh của Vicenzo, con trai Galileo, sau khi ông trốn chạy tới một thị trấn nhỏ ven Prato, bỏ lại người cha và em trai của mình: “Trước tiên, tôi xin nói rằng tôi tới đây để cứu lấy mạng sống của mình, không phải để giải trí hay thay đổi gió”.

Chúng ta thông cảm với sự hài hước đầy cay đắng của môn đệ của Galileo, Niccolò Aggiunti, giáo sư toán học tại Pisa, người đã quay lại với cha mình ở Florence khi trường đại học đóng cửa và than thở về cảnh lại bị cha mẹ rầy rà: “Tôi muốn sống tốt… nhưng cha lại muốn tôi chết an lành… Ông sẽ rất vui lòng nếu tôi chết đói, chứ không phải chết do dịch bệnh”.

Nhìn lại cuộc đời chính mình vài tháng qua, chúng ta mới hiểu được ý nhà toán học Benedetto Castelli, người bạn thân nhất của Galileo, khi ông suy tưởng đầy mỏi mệt năm 1631 rằng như thể “cả nghìn năm đã qua” kể từ lúc Galileo còn ở Rome với ông.

John Mitton tới thăm Galileo Galilei - Tranh của Solomom Alekxander Hart, 1847.

Đại dịch: Thách thức và cơ hội

Dịch hạch cũng trở thành một trở ngại và cơ hội cho xuất bản phẩm nổi tiếng nhất và gây tranh cãi nhất của Galileo. Ông đã ở Rome vào mùa xuân năm 1630 để cố gắng thu xếp hòng xuất bản cuốn Dialogue concerning the Two Chief World Systems (Đối thoại giữa hai hệ thống thế giới chính). Sách phải được xuất bản qua hội khoa học của ông, Accademia dei Lincei, và xin được giấy phép xuất bản sau quy trình kiểm duyệt của Vatican.

Tuy nhiên, trong mùa hè đó, dịch hạch xuất hiện ở Florence và Galileo quyết định in cuốn sách của mình tại địa phương, điều khiến thủ tục kiểm duyệt thông thường trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Nhiều phần cuốn Đối thoại... bị giới chức ở Rome kiểm duyệt và những mục khác, bao gồm cả bản in cuối, được xử lý ở Florence với sự phê chuẩn miễn cưỡng của Rome.

Quá trình kiểm duyệt tách biệt của nhiều người, ở hai thành phố, thực ra đã tạo ra không gian để cấu trúc lập luận của ông thuyết phục hơn rất nhiều hòng khẳng định Trái đất chuyển động chứ không đứng yên, so với những gì lẽ ra ông được cho phép.

Tháng 2-1632, cuốn Đối thoại... của Galileo hoàn thiện ở Florence. Mặc dù thư từ giữa Florence và Rome thường chỉ mất vài ngày, đợt bùng phát dịch hạch khiến hai thành phố siết chặt kiểm soát giao thông và vận chuyển hàng hóa vì lý do y tế.

Hệ quả là chỉ hai bản cuốn Đối thoại... tới được Rome vào tháng 6 và thêm sáu bản vào tháng 7. Càng nhiều bản in đến nơi thì sự chú ý vào nội dung và các luận điểm của nó càng tăng. Khi cuốn sách đến được tay giới tinh hoa Công giáo của Rome, giáo hoàng Urban VIII và các linh mục dòng Jesuit đã ngay lập tức bày tỏ sự giận dữ của họ với sự tự do mà Galileo có trong thời dịch bệnh. Trong vòng một tuần, cuốn sách bị cấm. Tháng 9-1632, Galileo được triệu tập tới Rome để trình diện trước Tòa án dị giáo Rome. Đại dịch đang dần kết thúc và vụ xử Galileo chuẩn bị bắt đầu.

Giờ đây, chính những trì hoãn đã cản trở thư từ và việc xuất bản cũng như phát hành cuốn sách của Galileo lại dường như có lợi với ông, khi ông bào chữa cho sự vô tội của mình và xin được chuyển vụ xử về quê nhà, thành phố Florence.

“Và cuối cùng, tóm lại,” ông viết trong đoạn kết một bức thư dài gửi người bạn của mình đồng thời là cháu trai của giáo hoàng, hồng y và quan tòa tòa án dị giáo Francesco Barberini: “Nếu không bởi tuổi tác cao, không bởi nhiều tình trạng thể chất, không bởi những ưu phiền trong tâm trí, không bởi độ dài của hành trình trong thời điểm bệnh dịch hiện tại... thì tôi sẽ thực hiện hành trình này”.

Tòa án dị giáo Rome đáp lại dứt khoát: Galileo phải tới Rome, hoặc ông sẽ bị bắt giữ và phải đến đó trong xiềng xích.

Ngày 20-1-1633, Galileo bắt đầu hành trình, kéo dài hơn ba tuần lễ và bao gồm cả kiểm dịch bắt buộc. Sáu tháng sau, phiên tòa xử ông khép lại. Galileo thừa nhận những sai sót của mình, từ bỏ công trình của ông trước Tòa án dị giáo Roma và bắt đầu hành trình từ Rome về Siena, tới biệt thự của ông ở Arcetri, ngoại ô Florence, nơi ông sống chín năm cuối đời trong một ngôi nhà bị quản thúc.

Tình yêu của gia đình

Trong khi hầu hết những người quan sát vụ chỉ trích và xét xử Galileo quan tâm tới những ý tưởng của ông, con gái ông, xơ Maria Celeste, nữ tu dòng Thánh Clare Hèn mọn, dù ở xa, lại chú ý hơn tới sức khỏe của cha mình.

Galilei Galileo (1564-1642) và con gái Maria Celeste, một nữ tu (1600-1634)

Phía sau những bức tường tu viện, Maria Celeste chuẩn bị thức ăn và các phương thuốc cho ông để ngăn chặn bệnh dịch. Cùng một lá thư đề tháng 11-1630, Maria Celeste còn gửi kèm hai thứ thuốc - thuốc trộn mật ong - để bảo vệ sức khỏe cho cha bà. “Cái không có nhãn dán có thành phần là sung, các loại hạt, cửu lý hương và muối” và trộn lẫn bằng mật ong. Bà khuyên ông “uống mỗi sáng, trước khi ăn, với liều bằng một quả óc chó, ngay sau đó là chút rượu vang Hi Lạp hoặc một loại vang ngon nào đó, và người ta nói rằng nó tạo ra sức đề kháng kỳ diệu [trước bệnh dịch hạch]”.

Loại thuốc thứ hai được sử dụng tương tự, nhưng Maria Celeste đã cảnh báo rằng nó có vị cay hơn. Dẫu vậy, bà hứa với cha là bà có thể cải tiến công thức, dù ông muốn tiếp tục uống loại nào. Năm mà dịch bệnh bùng phát và vụ xét xử Galileo diễn ra đó cũng là câu chuyện về lòng hiếu thảo, sự chăm sóc của con cái dành cho cha mẹ từ xa, khi Maria Celeste nỗ lực từ bên trong những bức tường tu viện để cậy nhờ tới các phương thuốc và phép chữa trị tinh thần hòng giúp sức cho người cha bà hằng yêu mến.

Giữa những lo lắng về uy tín của cha, Maria Celeste và các thành viên khác của gia đình Galileo thường xuyên gửi thư cho ông trong hành trình trở về quê nhà, cập nhật cho ông về các ca bệnh trong vùng. Những bức thư của họ có cả những đồn đoán về dịch tễ, số lượng các ca nhiễm mới và câu chuyện về số phận của những người đã phục hồi hoặc không qua khỏi.

Gia đình Galileo theo dõi tiến trình bùng phát của bệnh dịch đồng thời với việc theo dõi hành trình trở về để chịu quản thúc của ông. Khi có thể bị chia cắt với những người thân yêu, chúng ta hãy nhớ cách gia đình tận tụy của Galileo chăm sóc cho ông từ xa trong suốt thời gian náo động ấy.

Những năm tháng dịch hạch hoành hành trong đời Galileo giúp chúng ta hiểu hơn về những thực tế của nghiên cứu khoa học trong một thế giới đầy thách thức. Thách thức của việc khám phá khoa học mới mẻ mâu thuẫn với dòng chính trị và tôn giáo chủ lưu. Thách thức về việc tiếp tục một chương trình khoa học mang tính quốc tế suốt gần một thập niên bị cô lập và giam hãm. Và tất nhiên, thách thức của cuộc sống trong một thời kỳ bị bệnh dịch tàn phá.

Khi chúng ta vật lộn với việc làm thế nào để tiếp tục nghiên cứu khoa học trước mối đe dọa của đại dịch corona, tôi đề xuất chúng ta hãy noi gương Galileo, một tấm gương về làm khoa học thời dịch bệnh. Mối quan hệ của ông với gia đình và được bạn bè ủng hộ cùng với việc khỏe mạnh hơn nhờ những liều thuốc từ hoa quả khô và mật ong, cuộc đời của Galileo dạy cho chúng ta rằng việc theo đuổi khoa học chưa bao giờ là dễ dàng và rõ ràng trong thời của đại dịch và dẫu vậy, chúng ta vẫn phải bền chí tiến lên.■

Hannah Marcus

Nguyễn Duy Khánh (dịch, theo Scientific American)

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 12.8.2020.

SVVN - Tốt nghiệp trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG TP. HCM) chuyên ngành Hán Nôm (khoa Văn học), Trương Thị Mỹ Dung là đồng sáng lập và điều hành dự án Ruy Băng Tím, giúp mọi người phòng chống các bệnh ung thư. Dự án từng xuất bản đầu sách “Ung thư Tin đồn và Sự thật 1” lọt top những sách bán chạy trên thị trường năm 2019. Mỹ Dung đồng thời cũng là tác giả của nhiều đầu sách cho thiếu nhi.

Tìm đam mê từ thiện nguyện

Dung đã từng làm biên tập viên tạp chí, copywriter cho công ty truyền thông. Dung cũng đã kinh qua vai trò quản lý Nội dung rồi quản lý bộ phận Nội dung và Truyền thông mạng xã hội của các công ty khác nhau. Năm 2017, Dung từng làm Giám đốc điều hành một startup về công nghệ.

Từ chuyên ngành Hán Nôm, công việc đầu tiên mà Dung nhận được là vào học kỳ II của năm thứ 4, đó là dịch sổ bộ cho một dự án nghiên cứu của Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II. Sau khi tốt nghiệp, Dung làm biên tập viên cho một tạp chí liên quan về văn hóa - học thuật. Nhưng sau đó nữa, Dung dần chuyển sang lĩnh vực truyền thông và tự học hỏi, phát triển bản thân dựa vào công việc thực tế mà mình đảm nhiệm. Hiện tại, lĩnh vực sở trường của Dung là sản xuất nội dung và truyền thông mạng xã hội. “Dù nhìn từ bề ngoài thấy công việc mình đang làm không liên quan đến ngành học đại học trước đây, nhưng bản thân mình nhận thấy, ngành Hán Nôm đã cho mình một nền tảng vững chắc về chữ nghĩa, văn hóa lịch sử Việt Nam. Chính nhờ vậy mà mình gặp nhiều thuận lợi trong quá trình thích nghi và phát triển bản thân trong ngành truyền thông. Đồng thời, bên cạnh việc hoàn thành công việc của mình, bản thân có thể góp thêm chút ít trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc”, Mỹ Dung chia sẻ.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 1Ban Quản trị Ruy Băng Tím ngày đầu thành lập. Từ trái qua: ThS. Nguyễn Cao Luân, Trương Thị Mỹ Dung và BS Đặng Phước Hưng

Dung cho biết, việc tham gia những dự án xã hội và định vị được bản thân trên hành trình hoạt động cộng đồng cũng là một hành trình thú vị mà cô đã trải nghiệm.

Ban đầu, ở trường, Dung tham gia vào Liên chi hội sinh viên, rồi các câu lạc bộ như CLB Văn học, CLB Thư pháp… sau đó, ra trường Dung hay tham gia vào những chương trình thiện nguyện do thầy cô ở trường đại học tổ chức hoặc do công ty tổ chức. “Mình thực hiện điều này một cách rất tự nhiên, không suy tính cũng chẳng đắn đo. Có lẽ vì từ thuở nhỏ, mình đã sống trong một môi trường gia đình mà việc cho đi hay giúp đỡ người khác là chuyện hiển nhiên”, Dung tâm sự.

Cũng trong những chuyến đi thiện nguyện đó, Dung bắt đầu quan sát và đặt ra nhiều câu hỏi: Làm sao để những chuyến đi như thế này đạt hiệu quả cao nhất? Làm sao để những chuyến đi như thế này không còn là phong trào mà trở nên lâu dài? Làm sao thoát ra khỏi tâm lý xin - cho của việc làm từ thiện từ cả hai phía cho và nhận?...

20210117
Mỹ Dung trong vai trò chủ trì (host) trong talkshow "Hormone hạnh phúc" được Ruy Băng Tím thiết kế dành cho các bạn sinh viên trường ĐH Kinh tế - Tài chính TP. HCM (UEF) ngày 30/12/2020.

Rồi Dung tham gia CLB Bé Khỏe Bé Ngoan của ĐH Y Dược TP. HCM vào năm 2012 - 2013 với vai trò Trưởng ban Truyền thông. Đến cuối năm 2015, Mỹ Dung và ThS Nguyễn Cao Luân (Nghiên cứu sinh ngành Liệu pháp miễn dịch Ung thư, Trung tâm Nghiên cứu Ung thư Lowy, ĐH New South Wales, Sydney, Úc) lập nên dự án Ruy Băng Tím. Đây chính là thời điểm mà Dung cho rằng, mọi trăn trở của bản thân đã có câu trả lời.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 3Mỹ Dung và 5 bạn trong Ban Tổ chức talkshow của Ruy Băng Tím tại UEF. 

Trăn trở cùng “Ruy Băng Tím” 

Cho đến nay, Ruy Băng Tím đã hoạt động được hơn 5 năm và là dự án xã hội mà Dung xác định từ đầu sẽ theo lâu dài với tất cả tâm trí của mình. Ở Ruy Băng Tím, Dung và các cộng sự làm tất cả để nâng cao nhận thức của cộng đồng về bệnh ung thư, cung cấp thông tin, kiến thức hữu ích dưới nhiều hình thức khác nhau để mọi người hiểu được cách phòng bệnh, nắm được những phương pháp điều trị chính thống, không bị dắt mũi bởi những kẻ lừa đảo, đặc biệt là nắm được kỹ năng phân biệt tin thật - giả liên quan đến sức khỏe, đặc biệt là ung thư. “Chuyên mục làm nên thương hiệu của Ruy Băng Tím 5 năm qua là “Ung thư - tin đồn & sự thật”. Ở chuyên mục này, các chuyên gia của Ruy Băng Tím chuyên viết bài tổng hợp các nghiên cứu và phân tích những vấn đề nổi cộm, những tin đồn liên quan đến phòng ngừa và điều trị ung thư như kiềm hóa cơ thể để chữa ung thư, uống nước đun sôi để nguội gây ung thư, lá đu đủ chữa ung thư, lò vi sóng gây ung thư… Cuốn sách đã tổng hợp những bài viết có sẵn trong chuyên mục này lại, rồi biên soạn lại theo một cấu trúc rõ ràng và dễ tiếp cận hơn, văn phong cũng được điều chỉnh cho phù hợp với loại hình thể hiện mới là sách. Cách trình bày cũng được quan tâm với nhiều hình ảnh minh họa, in màu để mọi người cảm thấy không nặng nề với những nội dung về y - khoa học mà sách chuyển tải”, Dung cho biết.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 4Talkshow offline đầu tiên của Ruy Băng Tím tổ chức vào ngày 08/01/2017.

Vượt ngoài mong đợi, cuốn sách tạo nên một hiện tượng trong lĩnh vực sức khỏe nửa cuối năm 2019 và cuốn sách đã tạo đà để Dung và các cộng sự của Ruy Băng Tím đã thực hiện những sổ tay sức khỏe năm 2020 và ấp ủ những dự án sách sức khỏe tiếp theo trong năm 2021.

Mê viết cho thiếu nhi

Dung có thiên hướng văn chương từ bé và bắt đầu viết lách rất sớm. Ngay từ lúc đi học Dung đã có tác phẩm được đăng báo và thậm chí có năm còn đoạt giải, được ra Hà Nội để nhận thưởng. Lúc đó Dung hay viết tản văn và truyện ngắn. Lên đại học, lại được học trong khoa Văn học với CLB Văn học quy tụ nhiều cây bút cá tính, Dung như cá gặp nước, được viết nhiều hơn. Tuy nhiên, đến khi ra trường, thì Dung lại viết ít lại mà dành thời gian cho sự trải nghiệm. “Bước ngoặt đến với mình vào năm 2014, khi được tham gia Hội thảo sáng tác do Room to Read - một tổ chức phi chính phủ về giáo dục tổ chức. Ở đó, mình được biết đến loại hình sách tranh dành cho thiếu nhi, chú trọng vào phát triển trí tưởng tượng và ước mơ cho trẻ nhỏ, việc cung cấp thông tin, kiến thức được thực hiện một cách tinh tế và nhẹ nhàng, khiến cho các bạn nhỏ hứng thú và khơi dậy trí tò mò với cuộc sống. Từ hội thảo cho đến dự án sách tranh đầu tiên với Room to Read, mình đã có được kiến thức nền tảng về việc viết cho thiếu nhi. Những bài học đạo đức chưa cần xuất hiện dưới dạng những lời khuyên mà chỉ cần thấp thoáng đâu đó giữa những câu chuyện và tự các em sẽ rút ra được những điều thú vị cho bản thân mình. Mình cũng biết cách làm việc với họa sĩ để có được những cuốn sách tranh đẹp và hấp dẫn”, Dung nhớ lại cơ duyên viết sách thiếu nhi của mình.

Trương Thị Mỹ Dung - ảnh 5Một số đầu sách tranh dành cho thiếu nhi của Mỹ Dung.

Cho đến nay, Dung đã kết hợp với các nhà xuất bản được một số đầu sách tranh: Su đi lấy nước, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2019; Kiến đen tìm mè, sách tranh, NXB Kim Đồng, 2018 (thuộc bộ sách Từ những hạt mầm); Hột điều của Sóc, sách tranh, NXB Kim Đồng, 2018 (thuộc bộ sách Từ những hạt mầm); Sớm mai, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2017 (Giải thưởng White Ravens); Gà Trống muốn ngủ nướng, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2016; Cậu có lấy hạt của tớ không?, sách tranh, Room to Read, NXB Văn học, 2015.

Trong năm nay, Dung đang ấp ủ hai dự án sách tranh mới. “Đây là những dự án sách được mình dành rất nhiều tâm huyết từ nội dung cho đến hình thức, cả những ý tưởng tương tác với bạn đọc nhí để đem đến cho các bạn nhiều hứng thú hơn khi đọc sách. Qua đó, mình mong rằng sẽ góp phần nuôi dưỡng được tình yêu và thói quen đọc sách từ lúc còn thơ bé cho các bạn nhỏ”, Dung phấn khởi chia sẻ.

Thời sinh viên Dung từng giành giải Ba Euréka lần thứ 8 năm 2011 do Thành Đoàn TP. HCM trao tặng, với chủ đề “Sưu tầm, nghiên cứu và phiên dịch di sản Hán Nôm trên địa bàn quận Ngũ Hành Sơn, TP. Đà Nẵng”.

Hà Chi

Nguồn: Sinh viên Việt Nam, ngày 13.01.2021.

Thế giới đang gồng mình đối phó với “làn sóng thứ hai” của đại dịch COvid-19. Trong khi đẩy nhanh việc chế tạo vaccine cho chủng virus nham hiểm đang đột biến, nhân loại còn phải đương đầu với câu hỏi lớn: Làm gì khi vẫn chưa biết cần phải… làm gì? TTCT giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của nữ khoa học gia nổi tiếng Nga T. Chernigovskaya cho báo chí Nga.

20200806 2

Ảnh:listim.com

Thế giới hoang dã mới: virus corona và cuộc khủng hoảng của nền văn minh

* Bất ngờ chúng ta rơi vào một thế giới mới - điều đó có nghĩa là gì với chúng ta?

- Điều đó có nghĩa một thách thức rất nghiêm trọng: đang ập đến việc phải đánh giá lại hoàn toàn các giá trị trong xã hội. Và một điều rất rõ ràng là không có đường quay lại. Tôi nghĩ thiên nhiên, hay tạo hóa, đơn giản là đã phát chán cách chúng ta hành xử. Khi tôi học trung học, trong lớp chúng tôi treo khẩu hiệu: “Chúng ta không thể chờ đợi sự ưu ái của thiên nhiên. Bắt lấy chúng từ thiên nhiên - nhiệm vụ của chúng ta”. Ký tên: Michurin (*).

Về nhà tạo giống này có một chuyện tiếu lâm như sau: “Biết Michurin chết cách nào không? Té xuống từ ngọn dâu, và bị anh đào chôn kín”. Dĩ nhiên đó là chuyện cười, nhưng cốt truyện thú vị.

Chúng ta quá mải mê với ý niệm rằng con người là toàn năng. Chúng ta đã bay cao trong sự phát triển của mình đến độ không quan tâm tới bất cứ điều gì: dời núi lấp biển, trồng ngô ở nơi chỉ mọc được cỏ tháp bút. Và đấy, chúng ta đã được chỉ cho thấy: ai thật sự là chủ. Con virus corona nhỏ bé này đã nhấn nút tạm dừng cả thế giới.

* Bây giờ ta chỉ muốn nhấn nút “tua nhanh” về phía trước...

- Không thể: đâu ai biết chính xác nó (virus) hoạt động thế nào, vaccine chưa có. Dĩ nhiên, vaccine sẽ có, nhưng không sớm, và thực tế là con virus này đến lúc đó sẽ biến đổi. Vậy thì giờ chúng ta phải làm gì? Bởi đây là câu hỏi về sự sống và cái chết. Không chỉ việc sống chết của một cá thể, mà cả một nền văn minh. Hãy đồng ý với tôi đi, cả một nền văn minh!

* Tôi lo âu! Vậy chúng ta sẽ làm gì?

- Để bắt đầu, dĩ nhiên, phải nhận thức rằng bác sĩ là một trong những nghề chính trên hành tinh này. Bác sĩ không phải là những ai mà ta có thể xù lông hoặc trả cho họ ba rúp. Những người cứu chúng ta đang ở ngoài mặt trận, mà lại ngay trên tuyến đầu, có thể bị nhiễm bệnh và trở thành người mang virus.

Các nhà khoa học nữa, dĩ nhiên. Trong cuộc chiến với cái ác này cần có kiến thức chuyên môn ở cấp cao nhất. Và không chỉ các nhà dịch tễ học và virus học. Trong khi họ quyết định phải điều trị thế nào, chúng ta hỏi một câu hỏi khác: phải học thế nào?

* Học từ xa?

- Vâng, tất cả các sinh viên của chúng tôi đã chuyển sang học từ xa mà hóa ra, mất gần gấp đôi thời gian cho tất cả. Tưởng ra đó chỉ là bật Zoom lên và học, nhưng đâu đơn giản vậy. Tất cả đều bức xúc. Giáo viên đưa nhiều bài tập để bù đắp việc thiếu giao tiếp trực tiếp.

Còn những sinh viên tội nghiệp - buồn nhớ tương tác thực, họ đã viết cho tôi những bức thư cảm động như vậy - nhận một lượng khổng lồ tài liệu mà đơn giản là họ không thể xử lý hết. Nhưng không sao, cứ để họ lao động, cũng chẳng hại gì. Những ai đến trường vì mưu cầu kiến thức chứ không phải để khoe quần áo, điều đó thậm chí còn có lợi.

* Học trực tuyến hóa ra không hiệu quả sao?

- Không phải vậy. Cũng như trong bất cứ việc nào, hiệu quả phụ thuộc vào chất lượng của việc chuẩn bị. Ví dụ, tới 39.220 người đã đăng ký khóa học trực tuyến song ngữ miễn phí của chúng tôi “Ngôn ngữ học thần kinh” trên nền tảng Coursera! Thật tốt khi chúng tôi kịp hoàn thành nó ngay trước kỳ nghỉ bắt buộc.

Lúc đầu tôi đã lo sốt vó bởi ý tưởng thực hiện một khóa học như vậy, bởi tôi biết phải tiêu tốn bao nhiêu công sức cho việc thực hiện một dự án như thế. Nhưng tôi hài lòng với kết quả vì chúng tôi đã chuẩn bị bài bản...

...Nhưng dĩ nhiên cũng có mặt trái của việc học từ xa - bởi sự phấn khích không giống như khi giao tiếp cá nhân. Đặc biệt với những giáo viên như... tôi, những người cư xử sinh động. Sự sinh động này khó có thể truyền tải từ xa.

Tôi đã thấy điều đó thế nào trên giảng đường: tất cả như đều bị nhiễm bệnh! Một loại virus hữu ích: những đôi mắt bùng cháy, những cảm xúc vượt tràn khuôn khổ - điều đó không thực hiện được từ xa. Mà với hứng thú đó sinh viên mới bắt tay vào nghiên cứu, tiến hành các thí nghiệm trong các lab đến mỏi mắt - bởi họ làm những việc nghiêm túc chứ chẳng phải đùa.

Ảnh: Seldom.news

Sự ngạo mạn đã đưa chúng ta đến với virus corona.

* Chúng ta đã rơi vào thế giới mới này ra sao?

- Trong thế giới của chúng ta bắt đầu thống trị quyền của kẻ mạnh, quyền của sân chơi: nắm đấm của ai to hơn, kẻ đó sẽ thắng. Phát triển cả một nền văn minh nhân loại vĩ đại, được tạo nên bằng những kiệt tác không thể tưởng tượng, để cuối cùng kết thúc bằng việc rằng “ta là ông chủ, bởi bây giờ ta sẽ cho mi một đấm ngay trán”?! Điều này xảy ra cho quan hệ giữa con người với nhau cũng như giữa những đất nước với nhau.

Không thể sống được một thế giới mà trong đó, các chính trị gia cao cấp đã đàm phán được gì đó, và sáng hôm sau báo rằng họ đã nghĩ lại. Phải có luật lệ. (Nhà văn hóa, nhà ký hiệu học Nga - Xô viết) Yuri Mikhalovich Lotman đã viết: “Văn hóa - đó là một hệ thống các cấm đoán”.

Từ những chuyện đơn giản như “không xì mũi trong bữa trưa” và “không huých cùi chỏ” cho đến những nguyên tắc đạo đức phức tạp. Những nguyên tắc đạo đức này đã bị phá vỡ. Nắm đấm chống lại văn hóa. Nếu giá trị của thế giới cũ nằm ở chỗ ai có thỏi son đắt giá hơn sẽ quan trọng hơn, thì có bị như thế cũng là đáng kiếp.

* Vậy thì giờ đây chúng ta nên nhắm tới học gì? Các triết gia chẳng hạn, từng đề cập đến thời hoàng kim. Nó từng có hay chưa?

- Có đầy những chỉ dấu, nhiều thứ trong đó đang nằm trên các kệ sách của tôi: văn học vĩ đại, triết học vĩ đại, âm nhạc tuyệt vời, điện ảnh tuyệt vời, hội họa tuyệt vời. Cần nghiên cứu tất cả những thứ đó. (Nhà khoa học vật lý Nga - Xô viết) Sergey Petrovich Kapitsa mà tôi may mắn được trò chuyện trong một thời gian dài, từng khẳng định: giáo dục nên chuyển từ việc ghi nhớ sang hiểu biết - khi đó tất cả những ý nghĩa mới sẽ được mở ra.

Còn nhà đồng sáng lập trường gymnasium cổ điển của Saint Petersburg Lev Lurie đã giải thích tại sao học sinh của họ được dạy tiếng Latin và Hi Lạp, cho dù chúng không nghiên cứu văn học hoặc lịch sử cổ đại: đó là học sinh được dạy suy nghĩ và các quy tắc để chúng tuân thủ các luật lệ này.

Còn đối với thời hoàng kim thì tôi sẽ nói thế này: luôn có tất cả mọi thứ. Cùng lúc luôn tồn tại cái tốt và cái xấu. Thí dụ người Sparta: từ một phía, đó là xã hội của những người chiến thắng, nhưng mặt khác, họ ném khỏi vách đá những đứa trẻ nào không phù hợp với những thông số cứng nhắc được đưa ra.

* Những người Sparta và các nhà nghiên cứu bộ gen người dường như có nhiều điểm chung. Các nhà khoa học di truyền đang đặt ra những câu hỏi đạo đức khó cho chúng ta mà chúng ta không biết trả lời sao. Hay chúng ta đã biết?

- Chúng ta đã trải qua điều này. Có một khoa học - ưu sinh học, mà ý tưởng ban đầu của nó là cải thiện bộ gen người, có nghĩa giúp nhân loại loại bỏ những gen xấu. Nhưng kết cục là nó biến thành một thí nghiệm quái dị. Hãy nhìn xem điều gì đang diễn ra: một bộ gen của người nào đó ghi rằng anh ta có khả năng bị tâm thần phân liệt, chúng ta leo vào, đào bới một chút và anh ta sẽ không bị tâm thần phân liệt gì...

Sự ngạo mạn của chúng ta, thứ đúng là đã đưa chúng ta tới với virus corona, tin chắc rằng chúng ta biết mọi thứ về bộ gen này. Đâu phải vậy, sửa một mẩu này, chúng ta có thể gây ra một thứ khác! Bạn có chắc rằng leo vào thế giới vi mô với cái búa tạ chúng ta sẽ không làm hỏng bất cứ thứ gì ở đó không? Có thể, chúng ta nên cư xử khiêm tốn hơn chăng?■

 

Tường Anh

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuầnngày 05.8.2020.

(*) Trích dịch từ www.sobaka.ru.

(*) Ivan Vladimirovich Michurin (1955-1935): Nhà sinh vật học và nhà tạo giống xuất sắc người Nga, tác giả của nhiều loại cây ăn trái và quả mọng. Tuy nhiên, thái độ thờ ơ của Muchurin với tôn giáo đã khiến giáo hội và giới tư sản Nga thời đó xem ông là một kẻ kiêu ngạo và có hại.

Tatiyana Chernigovskaya, sinh năm 1947, là chuyên gia sinh học, nhà ngôn ngữ học và ký hiệu học, người sáng lập chuyên ngành “Ngôn ngữ học thần kinh” trên cơ sở khoa ngôn ngữ của Đại học Tổng hợp S. Petersburg.

 

Có lần, tôi được một người bạn sống ở nước ngoài tặng vài món quà nhỏ, trong đó có hũ thủy tinh đựng nến thơm, một món đồ xinh xắn không có gì đặc biệt. Một buổi tối mất điện, tôi mang hũ nến ra đốt và dần cảm nhận một mùi thơm thoang thoảng, không phải mùi hương hoa mà là một thứ mùi lạ lùng lại rất thân quen, gợi nhớ một điều gì rất xưa cũ.

Lúc đó tôi mới nhìn lại nhãn dán trên hũ nến. Đó là loại nến có mùi hương của … sách bọc bìa da thuộc, loại sách quý được đóng bằng kỹ thuật kinh điển, thường nằm trong các tủ sách giới thượng lưu hoặc là loại sách cổ lưu truyền nhiều đời trong một gia đình bình thường. Nhà tôi chỉ có vài cuốn sách như vậy, bằng tiếng Pháp, để lại từ thời ông ngoại còn làm ở sở Hỏa xa Đông Dương trước năm 1945. Mùi hương đó có mùi giấy cũ, mùi da thuộc và một chút mùi vani, mùi trà cũ… là những gì tôi cảm nhận. 

20210102 4

Việc nghiên cứu và kinh doanh mùi hương của sách ở nước ta nghe có vẻ lạ lẫm, nhưng thế giới, nhất là phương Tây, đã đi rất xa trong chuyện này. Ở Anh có một viện mang tên “Viện Số hóa khảo cổ học” đã làm chuyện độc đáo là thu lại mùi từ những cuốn sách cổ thế kỷ XIII tại hai thư viện của Anh và Mỹ rồi tổ chức triển lãm cho khách đến thăm ngửi mùi.

Họ lấy mùi bằng cách đặt sách trong hộp kín 72 giờ, thổi khí tinh khiết vào và thu mùi hương, xong phân tích thành phần hóa học của nó rồi mô phỏng lại. Một số công ty nước hoa và làm nến thơm nắm bắt ngay ý tưởng này, cho ra lò các sản phẩm của mình cho dân “mọt” ngửi mùi sách.  Có nơi còn tạo mùi hương lấy cảm hứng từ một tác giả cụ thể, như một người ở Mỹ kể rằng đã được mẹ anh tặng cho một cây nến  Charles Dickens  có mùi quýt, mùi cây bách xù và đinh hương. Tất nhiên, anh ta là một con mọt sách sống ở một đất nước nhiều người thích đọc sách.

Hình ảnh người mua sách ấp cuốn sách vào mặt hít mùi sách mới rất dễ bắt gặp đâu đó ở nhà sách, đường sách. Vậy sách có mùi gì? Tôi nhớ sách thường có mùi thơm nhẹ như vani, có khi có mùi chua nhẹ. Người ta nghiên cứu rằng giấy làm từ gỗ có chứa chất clignin, một hóa chất có liên quan mật thiết với vanillin là hợp chất tạo ra hương vani.

Ở Anh, từ một cuốn sách cổ xuất bản năm 1928, người ta ngửi thấy một phần của cuốn sách này là một trong tám mùi không xác định, bao gồm mùi sô cô la, mùi lửa than, mùi... nhà trọ cũ, mùi chợ cá, mùi vải lanh, bã cà phê, nước xốt và cà ri. Ở nhiều nơi, người ta cảm thấy mùi sôcôla là phổ biến nhất. Sau đó là mùi cà phê, mùi cà ri, gỗ và mùi than củi. Sách trong một nhà thờ ở Anh có mùi gỗ, khói, đất, vani, mùi mốc, hạnh nhân, mùi cay nồng, dược liệu, hoa, trái cây, mùi bánh mì, cam quýt, mùi chua, và mùi kem...

Chắc chắn mùi của sách ở châu Âu khác mùi sách ở xứ nhiệt đới. Cuốn sách trong căn nhà ẩm thấp hay thiếu vệ sinh dễ hình thành mùi của sách. Sách càng cũ càng có mùi riêng. Mùi sách có được còn từ những thói quen của người đọc sách. Có ai ăn vặt khi đọc không? Có ai đã làm đổ rượu, hút tẩu, hay vừa đọc vừa nấu bếp đốt bằng củi? Có cuốn sách nào được dùng đế... chống chân ghế hoặc đập con ruồi, con muỗi hay con gián không? Có ai ép lá thuộc bài, cánh hoa hồng hay cánh hoa phượng không? Tất cả đều tạo nên hương của sách.

Vậy sách ở Việt Nam có mùi gì? 

Thập niên 1940, khi giấy in khan hiếm, người ta dùng giấy dó in sách, vậy sách bằng giấy dó có mùi gì? 

Sau năm 1975, giấy in sách dùng giấy tái chế có mùi gì? Trong trí nhớ, tôi nghĩ đó là mùi than củi khét, mùi cỏ khô, có đúng vậy chăng? Mùi sách in bằng giấy tái chế gắn chặt với thời bao cấp khốn khó, thèm đọc sách đến độ không thể tưởng tượng rằng mình có thể đọc được những cuốn sách giấy đen xỉn đến như vậy. Mua lại vài cuốn sách xưa như Đội săn của quốc vương Xtac hay Nhà nguyện Critxtốp, lại cảm thấy có mùi ẩm mốc và mùi bụi lâu năm không thoát được.  

Mùi sách gắn với những kỷ niệm. Tôi nhớ ba tôi thích vừa đọc sách vừa rít ống điếu (bây giờ gọi là tẩu). Khi giở mấy cuốn sách ba thường đọc đi đọc lại như bộ Con đường đau khổ của Alexey Tolstoi hay bộ Sông Đông êm đềm của Solokhov, thoảng qua mùi thuốc lá Gò Vấp. Tuy nhiên, khi giở ra bộ Tam Quốc Chí mà ông đọc thường xuyên thời trước 1975, lại có mùi thuốc lá nhồi Half and Half mà sau này tôi biết đó là mùi anh đào. 

Ảnh minh họa: Reuters

Những ngày hè mùa mưa tuổi nhỏ, không đi chơi được, tôi ôm bất cứ sách gì đang có để đọc. Ánh sáng ngày mưa ngoài cửa sổ không đủ nên sách được dí sát vào mắt.  Tôi nhớ nhiều cảm giác lúc đó với mùi sách ấm, hơi chua sát tận mũi. 

Tôi nghĩ, nếu có ai thích ngửi mùi sách, thật ra đó là tình yêu đối với sách mà mùi hương là chất dẫn truyền. Cuốn sách mới mua, nâng niu trên tay nhưng chưa đọc được ngay thì động tác ấp sách vào mặt để cảm nhận mùi hương là cách tiếp nhận ban đầu chóng vánh nhất. Đối với những cuốn sách xưa cũ, sách quý trong thư viện mới có, sách do người Pháp viết về Đông Dương, sách giấy dó của Tản Đà, sách L’art à Hue… mùi sách đôi khi ẩm mốc, đôi khi khô cứng hay bụi bặm…. tỏa ra mùi quá khứ, mùi thuộc địa, mùi  của những ngày xưa lạc hậu, lễ nghĩa cũ mòn… Ai đã cầm đến nhưng cuốn sách này: ông Tây thực dân? Cụ Vương Hồng Sển? Sơn Nam?... Nó đã nằm ở đây từ khi nào, lưu lạc vào Nam từ biến cố 1954, Huế 1968 hay được thu mua sau này?     

Người ta có thể đoán tuổi một cuốn sách dựa vào mùi giấy cũ in ra cuốn sách đó đang trong quá trình tự hoại dù rất chậm. Điều đó được giới bán sách cổ nghiên cứu kỹ. Trong số đó, vài người đã tìm cách làm sách cổ giả, ngoài hình thức cũ kỹ và tàn tạ bằng kỹ thuật in ấn, kỹ thuật đóng sách theo kiểu cổ điển và nhiều thủ thuật khác, họ bắt buộc cần phải tạo mùi mốc, ẩm lâu ngày, bụi và những mùi khác để đẩy tác phẩm giả mạo tinh vi của mình lên giá rất cao mà chỉ giới siêu giàu mới mua nổi. Đó là câu chuyện ở nước ngoài và biết đâu nó sẽ lan tới thị trường sách Việt!

Tôi nhớ mấy năm đầu thập niên 2000, thị trường sách khởi sắc do các công ty văn hóa tư nhân được làm sách liên kết. Sách tồn nhiều nên vài nơi bắt đầu bán sách giảm giá, đến tận kho chọn lựa. Cảm giác được bò dưới sàn xi măng lựa sách, lúc đó đã bề bộn không theo thứ tự nào, thật sung sướng. Mùi sách cũ lưu kho thoảng trong không khí, không giống lắm mùi của những tiệm sách cũ… kiểu gì cũng là những khoảnh khắc hạnh phúc, nhắc tôi nhớ tuổi nhỏ cùng anh đi mua sách ở mấy cái sạp gần khu vệ sinh công cộng trên đường Lê Lợi, và những lần tự đón đi xe lam ra chợ sách cũ Đặng Thị Nhu sau năm 1975... 

Phạm Công Luận

Nguồn: Người đô thị, ngày 08.10.2020.

Tính đến năm 1959, khi Quốc hội khóa I thông qua Luật hôn nhân và gia đình, đàn ông Việt ở miền Bắc mới coi như chấm dứt chế độ đa thê. Năm 1978, Luật hôn nhân và gia đình của đất nước thống nhất đã chính thức khép lại một lịch sử của cảnh chồng chung.

20200607

"Đánh ghen", tranh dân gian Đông Hồ

Vì vậy, về lý mà nói, việc một người đàn ông mang tiếng ngoại tình bị coi như phạm pháp là sản phẩm của tư duy hiện đại. Còn trong tâm thế xã hội ngày nay, không ai dám chắc quán tính lối nghĩ “đàn ông năm thê bảy thiếp là thường” đã tiệt nọc. Ngoại tình bị coi là đối cực của hôn nhân, song lắm khi lại nửa như một “sản phẩm phụ” của hôn nhân. Thậm chí, nó còn được khoác lên những biệt danh vui vẻ: phòng nhì, phở, cơ sở 2. Một phần nào đó những biệt danh ấy ám chỉ rằng, ngoại tình dễ chịu, tựa một thú chơi.

Năm 1958, cũng trong khoảng thời gian công bố dự thảo quy định đàn ông không được lấy vợ lẽ, vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ được Hàn Thế Du chỉnh lý và xuất bản. Vở chèo có gốc là một truyện thơ Nôm dài 578 câu thể lục bát, thuần túy là một diễn ngôn tụng ca đức hạnh hi sinh theo quan niệm Nho giáo: Hai người bạn học Lưu Bình và Dương Lễ mười năm đèn sách, Dương Lễ đỗ cao ra làm quan, Lưu Bình thi hỏng sinh ra thất chí, sang nhà bạn nhờ giúp đỡ song bị tránh mặt. Tự ái, chàng bỏ đi, giữa đường gặp một nàng vừa đẹp vừa biết liên tài, rồi nàng xin theo về nguyện nâng khăn sửa túi cho đến khi thi đỗ.

Lưu Bình đâu biết nàng chính là Châu Long, “dì hầu” (thiếp) của Dương Lễ, được chồng sai đi nuôi bạn. Khóa thi sau cách ba năm, nghĩa là ba năm nàng “khuyên sớm khuyên trưa, anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng”:

…Nàng thời riêng mở một hiên

Cửi canh cần mẫn vui miền nữ công

Đêm ngày lòng những nhủ lòng

Tuy ngoài cười cợt nhưng trong giữ gìn

…Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa vội gì

Y hẹn, Lưu Bình đỗ bảng vàng vinh quy thì Châu Long đã về nhà với Dương Lễ lúc nào. Tất nhiên là bộ ba gặp lại nhau trong cảnh đoàn viên, đức hi sinh được đền đáp, chí công danh nam nhi được thỏa, đạo vợ chồng giữ trọn, tình bạn được nối lại. Đó là những gì truyện thơ và vở chèo ngợi ca.

Trang tên truyện thơ Nôm "Lưu Bình - Dương Lễ tân truyện",

bản chép tay của Maurice Durand theo bản khắc in năm 1919, thư viện Đại học Yale

Vấn đề đáng nói ở chỗ Châu Long là “dì hầu” (trong vở chèo được gọi là vợ ba) của Dương Lễ. Nghĩa là có nhường Châu Long thì ông quan Dương Lễ vẫn còn phu nhân chính thất (hoặc hai bà vợ lớn) ở nhà. Tất nhiên hoàn toàn có thể cô vợ bé này trẻ đẹp và đang được yêu vì, nên hẳn ông chồng cũng phải cân nhắc nhiều, vả lại thế mới có “tích” để “dịch nên trò”.

Trong truyện thơ, người vợ chính thất được hỏi ý kiến đầu tiên, bà ta đáp lại chẳng vui vẻ gì: “ông dạy lắm câu nực cười”, “coi thời ngứa mắt nghe thời trái tai”, và bảo rằng mình còn bận tề gia, “xin ông việc ấy nhường cho dì hầu”. Màn dùng dằng cắt cử người đi nuôi bạn hiền chiếm đến hơn 40 câu lục bát, con số đáng kể so với toàn truyện. Người nghe truyện thơ và xem chèo hàng trăm năm có lẽ đã sống với sự thật như vậy.

Tất nhiên, nhìn ở khía cạnh hôn nhân hiện đại, vợ lẽ là một tàn dư của chế độ đa thê phong kiến. Bởi vậy, việc “chỉnh sửa” mối quan hệ hôn nhân trong một vở chèo cổ trước hết là nhu cầu khẳng định sự thắng thế của quan điểm mới, mà như nhiều người đã nêu ý kiến một lãnh đạo rằng sửa như vậy thì việc nhường vợ duy nhất mới là thành thật vì bạn, mới là đáng quý. Nhưng dường như ý kiến này lại cho thấy vở chèo chỉnh lý tỏ ra cố gắng “nâng cấp” sự rộng lượng của người đàn ông khi nhường vợ cho bạn để cân bằng với đức hi sinh của người phụ nữ được cắt cử đi làm nhiệm vụ “ngoại tình hợp pháp”.

Nhiều độc giả và khán giả ngày nay cảm thấy không ổn, không phải ở việc Châu Long hóa ra chỉ là một cô vợ trong số nhiều cô vợ, cũng không phải việc nàng chấp thuận sự sai phái của chồng để sống chung một nhà với bạn anh ta, cũng chẳng hẳn việc các bên kiềm chế dục vọng đến phi lý, mà là thái độ họ lúc đoàn viên.

Châu Long khi lên đường rõ ràng là lo lắng mình “lửa gần rơm cũng ngại ngần lắm thay”, ba năm chung sống biết cách “nói năng ra tứ lẳng lơ phong tình”, biết ra lời thống thiết như bất cứ một chị em nào thời nhất sĩ nhì nông: “Tham về cái bút cái nghiên/ Nâng khăn sửa túi thiếp xin đỡ đần”. Vậy mà khi trở về với Dương Lễ, nàng không bợn một chút gì luyến tiếc hoặc tỏ ra xao xuyến về thời gian làm vợ Lưu Bình. Chồng nàng cũng không hề có một câu hồ nghi hoặc lo lắng về sự thủy chung của cô vợ bé. Nhưng đáng ngạc nhiên nhất là phản ứng của Lưu Bình khi phát hiện ra nhân thân của người con gái mình say mê và yêu thương ba năm qua: 

Chàng Lưu nhìn mặt rõ ràng

Nàng chào chưa dứt ý chàng đã hay

Tức thì lạy xuống trình bày

Rằng ơn quan bác biết ngày nào quên

Chàng còn ngay lập tức tôn Châu Long là chị: “Nhờ ơn anh chị công trình” và xin xí xóa luôn những yêu thương ngày cũ: “Vô tình nọ ấy dám xin thứ tình”. Trong khi chính chàng ta mới ngày trước đó còn rầu rĩ, “Mối tương tư biết bao giờ gỡ xong”! Như thể tâm trí Lưu Bình là một cái công tắc, bật một phát là tình cảm đảo chiều và được chế ngự ngay tức khắc. Tác giả câu chuyện không dành cho chàng ta một chút nào vướng bận tiếc nuối, sự đam mê bị bổn phận hạ đo ván.

Bìa bản nhạc Quán gấm đầu làng (Giao Tiên – Vinh Sử), in năm 1974,

nội dung ca ngợi đức hạnh Châu Long và tình bạn Lưu Bình-Dương Lễ

Rõ ràng, câu chuyện gián tiếp kết luận rằng con người biết kiềm chế dục vọng thì sẽ đạt được chính quả: Dương Lễ hi sinh lạc thú riêng tư thì giúp được bạn, Châu Long kìm nén sự cám dỗ nên qua được thử thách, còn Lưu Bình vì phẫn chí mà quyết tu tỉnh, không phân tâm sắc dục để thi đỗ. Câu chuyện có happy-ending là nhờ các nhân vật giữ vững khuôn khổ đạo đức. Châu Long trở thành một giá trị đức hạnh siêu phàm, như một đại diện của “ngoại tình hợp pháp” đối nghịch với những người phụ nữ trót sa vào để rồi bị tội “gọt đầu bôi vôi”, “bỏ rọ trôi sông”.

Câu chuyện nổi tiếng của trường hợp sau cũng trong một vở chèo, chính là chuyện Thị Màu chửa hoang đổ vấy cho Tiểu Kính, vốn là một người vợ bị nghi ngờ hãm hại chồng vì có tình ý khác. Việc phụ nữ ngoại tình gây chấn động những cộng đồng nhỏ bé, giống như tiếng mõ tai ương bêu riếu “chiềng làng chiềng chạ”, bởi nó đe dọa lề thói gia trưởng vốn luôn có nhu cầu giữ gìn hệ thống tôn ti trong làng ngoài họ.

Lưu Bình Dương Lễ tân truyện chịu ảnh hưởng rất rõ của văn chương Truyện Kiều, nhiều câu chữ hoặc điển cố mượn trực tiếp từ tác phẩm của Nguyễn Du, nhưng cùng vốn chữ đó, câu chuyện ngược chiều nhau. Cho dù Kim Trọng có xác nhận Kiều sau mười lăm năm lưu lạc “làm vợ khắp người ta” là “trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”, chàng cũng chẳng thể ngăn được sự tự ý thức của Kiều khi ngoái lại quãng đời đã trải “chữ trinh còn một chút này/ Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan”.

Trong mối quan hệ tay ba, nàng như kẻ đến sau trong khung cảnh “một nhà phúc lộc gồm hai” của Kim Trọng và em gái nàng. Trong khi đó, Châu Long trở về đoàn viên với chồng để tìm kiếm một sự ghi nhận tối hậu: “Cương thường hai chữ thiếp không dám rời”  “Dám xin có bóng mặt trời chứng minh”. Dường như với sự khẩn khoản ấy, nếu không được Dương Lễ xác nhận, Châu Long trắng tay. Kiều thì khác, nàng bình thản nhuốm màu vô vi với mọi sự khi trở về.

Một bản tiểu thuyết hóa truyện Lưu Bình – Dương Lễ in năm 1939

Nhưng đâu là thái độ thực sự của phụ nữ thời ấy về chuyện “trinh bạch”? Câu chuyện về bộ ba đức hạnh xuất hiện trong một phiên bản văn xuôi của truyện thơ Lưu Bình - Dương Lễ mang tên Tùng bách thuyết thoại trong tập Truyền kỳ tân phả của một tác giả nữ: Đoàn Thị Điểm.

Tương truyền, bà được coi là người đã dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra thơ Nôm ở thể song thất lục bát. Liệu có gì mâu thuẫn khi chính một tác giả nữ thường được gắn với thái độ bảo vệ nhu cầu tình cảm riêng tư của người phụ nữ, lại viết ra một câu chuyện đặc phẩm chất “tam cương ngũ thường”, mà trong đó hạnh phúc của người phụ nữ tì thiếp là vun vén cho sự mãn nguyện của đàn ông?

Có lẽ vì thông điệp đạo đức của truyện này quá khác những câu chuyện giàu màu sắc nổi loạn như Vân Cát thần nữ hay Bích Câu kỳ ngộ trong cùng tập sách mà một số nhà nghiên cứu đã không đồng tình Đoàn Thị Điểm lại đóng vai một phán quan đạo đức gia trưởng.

Nhưng mong muốn một tác giả nữ hay một nhân vật nữ phải nổi loạn, phải phong tình, chẳng phải cũng là một mong muốn rất gia trưởng đó sao? Những biện giải như “Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều/ Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm” là một cách mặc cả với khung khổ chật hẹp của đạo đức xã hội, phản ánh một sự pha loãng những dục vọng của một xứ sở chưa đủ phù hoa để nuôi dưỡng những mộng tưởng tình tứ hoang đường nhất.

Xứ Việt thời trung đại không sản sinh ra một Kim Bình Mai hay Hồng Lâu Mộng, nơi những nữ nhân vật dám ngoại tình nồng nhiệt chẳng kém những tiểu thuyết phóng túng Pháp thế kỷ 18 như Những mối quan hệ nguy hiểm hoặc quen thuộc với người Việt hơn – “Mai nương Lệ cốt” (Manon Lescaut). Nhưng chỉ sau một thế kỷ, cuốn truyện vừa “Thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản in năm 1887, dấu ấn văn xuôi thể loại hư cấu đầu tiên của văn học Việt Nam, đã kể về một vụ án liên quan ngoại tình.

Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, bản in năm 1934

Thông ngôn Phiền được một cô vợ quan Tây mê, song chàng cự tuyệt. Cô ta viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền ngoại tình với người bạn của chàng (cũng lại là một người bạn đèn sách!). Phiền nổi cơn ghen, giết cả bạn lẫn vợ. Chán đời, chàng bỏ đi tu. Mười một năm sau, vị linh mục nhận được thư của cô vợ quan Tây, bà ta thú nhận đã dựng chuyện. Phiền ân hận mà chết.

Non 50 năm sau, người đàn ông Việt Nam biết vợ ngoại tình thì làm những gì? Ông ta khẩn khoản tìm cách được tuyên bố: “Tôi là một người chồng mọc sừng”! Câu nói này của nhân vật ông Phán, chồng cô Hoàng Hôn, trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, được viết ra với cảm thức giễu nhại, thuộc về một loại câu thoại thoạt tiên có vẻ rỗng nghĩa, như những câu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” hay “Em chã”, song là những nét nhận diện nhân vật sinh động.

“Mọc sừng” là một phép ẩn dụ ngoại lai nhập khẩu từ Pháp, mà người đọc truyền thống với Xuân Tóc Đỏ là đại diện, dĩ nhiên cần được “khai hóa” khái niệm này: “Xin ngài hiểu cho rằng nói thế là nói bóng gió. Còn muốn nói cho dễ hiểu thì thế nghĩa là: vợ tôi đi ngủ với giai”.

Biếm họa người chồng mọc sừng của Pháp

Tất nhiên Vũ Trọng Phụng mượn hình ảnh nhân vật ông Phán mọc sừng mang tính cường điệu để châm chọc xã hội đô thị mà theo ông đầy sự nhố nhăng kệch cỡm, nơi mà những quan hệ tình ái nhiều phần xuất phát từ dục vọng không được cương tỏa. Hơn thế nữa, tình dục và ngoại tình của các nhân vật lại được họ sẵn sàng triển lãm ra, như những bộ trang phục Âu hóa phô bày phần dục tính của con người. Vũ Trọng Phụng cho đó là những loại bệnh lý cần được giáo dục và chữa chạy. Về một phương diện nào đó, tác giả Số đỏ và Làm đĩ lại khá gần gũi các nhà đạo đức sáng tác nên thiên truyện đề cao phẩm hạnh Lưu Bình - Dương Lễ.

Khi vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ chỉ còn lại một nhân vật nữ duy nhất trong những ngôi nhà của hai người đàn ông, câu chuyện mất dần tính hiện thực mang màu sắc cổ điển mà ngả sang địa hạt của chủ nghĩa lãng mạn, khi lý tưởng hóa chức phận của mỗi con người. Cách xóa mờ mối quan hệ đa thê xem ra lại phản ánh một tâm thức áp đặt khi chúng ta cứ muốn diễn giải tình cảm con người theo hướng trùng với năng lực cảm xúc của mình.

May mà Truyện Kiều chỉ xây dựng mối quan hệ trung tâm giữa ba nhân vật Kim-Vân-Kiều, chứ nếu đúng kiểu truyền thống Việt Nam thì Kim Trọng khi làm quan, chắc gì đã có mỗi Thúy Vân làm vợ mà phải có vài nàng hầu dì thiếp nữa. Thật tình cờ, Nguyễn Du xây dựng các mối quan hệ của Kiều với các người đàn ông trong đời nàng đều không bị cạnh tranh với các bà vợ khác, trừ Hoạn Thư vợ chính thất của Thúc Sinh. Kiều bị Hoạn Thư đánh ghen cũng là vì sự ngoại tình của anh chồng gan thỏ mà chị ta không thể trút bạo lực lên anh ta, người mà về lý có quyền kiếm thêm vợ lẽ nàng hầu. Hoạn Thư thực ra khá hiện đại khi bào chữa cho mình: “Chồng chưa chưa dễ ai chiều cho ai!”. Kiều đã chẳng thể báo oán chị ta vì lẽ này.

Tôi vẫn nghi ngờ tính phổ quát của những câu chuyện đạo đức mà những vở chèo Quan Âm Thị Kính hay Lưu Bình - Dương Lễ đã xướng lên. Bằng chứng là cùng lúc, trong dân gian có những câu ca dao hay dân ca phải chăng hơn về chuyện ái tình “lạc đường”. 

Nhị tình em ở nhất tâm

Sao anh ăn ở với em nhị tình

Ai ơi nhất lý nhị tình

Vì ai xúi giục cho mình nhị tâm…

Đoạn ca dao trên mở đầu cho một bài bản có mặt trong rất nhiều loại hình diễn xướng dân gian, từ xẩm đến chèo, ca trù cho đến quan họ. Để trách móc một người tình nhân đã ăn ở hai lòng, cho dù bàng bạc nỗi cay đắng, lời ca vẫn có cái vẻ khuyên lơn nhẹ nhàng, chưa đến mức hàm ý chọn biện pháp cực đoan như kiểu Hoạn Thư mắng chửi “ra phường mèo mả gà đồng” hoặc dùng bạo lực “trúc côn ra sức đập vào”. Những vốn chữ nghĩa trên là sáng tạo của Nguyễn Du, song cũng như cụm từ “Sư tử Hà Đông” để chỉ những người vợ dữ tướng kiểu Hoạn Thư, những cơn ghen lôi đình quen thuộc quá đỗi để người Việt chẳng nề hà nhận luôn đất Hà Đông đấy là của nước mình, cho dù cái tên tỉnh Hà Đông mới có từ năm 1904.

Thế mới biết, những tên gọi đến rất muộn, trong khi chuyện đã có lâu rồi…

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 18.5.2020.

LTSNghệ thuật và tâm thức sáng tạo (Trịnh Lữ dịch, Nxb Dân trí và Đông A) là tác phẩm thứ hai của Graham Collier được dịch và xuất bản tại Việt Nam sau cuốn Hình, Không gian và Cách nhìn (Vương Tử Lâm, Phạm Long dịch, Phạm Văn Thiều hiệu đính, Nxb Mĩ thuật, 2017). VNQĐ số này giới thiệu bài trò chuyện giữa dịch giả Trịnh Lữ và tác giả Graham Collier xung quanh cuốn sách mà dịch giả hứng khởi chuyển ngữ; tiêu đề bài trò chuyện do BBT đặt. Bài trò chuyện này là sản phẩm chắt lọc từ những thư từ và điện thoại qua lại giữa dịch giả và tác giả, được dịch giả gom theo từng tiểu đề để bạn đọc tiện theo dõi. Câu chuyện với tác giả còn khơi gợi nhiều ý tưởng khác rất có ý nghĩa mà dịch giả hi vọng sẽ có dịp giãi bày thành những ghi chú về nghệ thuật dưới dạng nào đó để hầu bạn đọc.

 

Với bạn đọc Việt Nam

Dịch giả Trịnh Lữ (TL): Thưa cụ, tôi dịch cuốn Nghệ thuật và tâm thức sáng tạo là để cùng với cuốn Hình, Không gian và Cách nhìn của cụ sẽ thành một bộ sách về nghệ thuật tạo hình, giúp cho việc giảng dạy, học tập, phê bình cũng như thưởng ngoạn và sưu tập mĩ thuật ở Việt Nam có một dẫn đạo theo những câu hỏi chính đáng về nghệ thuật tạo hình.

20201229 2
Collier qua kí họa của Trịnh Lữ

Giáo sư Graham-Collier (GC): Nếu anh thấy những câu hỏi và nỗ lực giải đáp trong sách của tôi là chính đáng ở Việt Nam, thì tôi tin rằng tâm thức của người Việt vẫn còn chưa bị xa lạ với hiện thực đến mức tự coi mình chỉ là một ngẫu nhiên phi lí, hoặc chưa “tiến hóa” đến mức thấy mình là một đấng thượng tôn toàn năng; và nghệ thuật Việt Nam vẫn có cơ hội tránh thoát những năng lượng tiêu cực đã và đang chi phối nghệ thuật đương đại - ý tôi là ở phương Tây, và những nước vẫn coi phương Tây là mẫu mực.

TL: Vâng, tôi cũng hi vọng thế, vì bản thân cũng thấy vẫn còn nhiều người Việt Nam vẽ, làm tượng, làm kiến trúc, làm thơ... theo thôi thúc của một bản năng sinh dưỡng tâm linh. Vì vậy mà tôi quyết định dịch cuốn sách này của cụ, tin rằng hạt giống tư tưởng của nó sẽ gặp được luống đất tốt ở Việt Nam.

GC: Để tôi nghĩ xem nào... Có lẽ tôi xin nói thế này với bạn đọc Việt Nam mà tôi tin rằng đều là những người yêu nghệ thuật tạo hình và công việc của nghệ sĩ, rằng: Thôi thúc sáng tạo hình ảnh thị giác - bằng bất kì vật liệu gì - những hình ảnh phản ánh tâm ý và cảm giác sâu sắc về những trải nghiệm ngũ quan và tâm lí của mình về cuộc sống... nhờ vậy mà cho chúng có hình hài và được tồn trường, là một trong những thành tựu lớn lao của tâm thức nhân loại. Công việc của người nghệ sĩ đã đánh bại dòng chảy không thương tiếc của thời gian, bảo tồn những trải nghiệm trọng đại mà thoáng qua của cuộc sống. Chúc các nghệ sĩ Việt Nam luôn nghe theo thôi thúc tự nhiên nhất của chính mình. Rất mong bản tiếng Việt này sẽ đóng góp nuôi dưỡng cảm hứng sáng tạo của các bạn.

Hai nguyên tắc lí giải nghệ thuật tạo hình

TL: Trong phần giới thiệu cuốn sách của cụ, Viện sĩ Hàn lâm Pháp René Huyghe có viết rằng tâm lí học nghệ thuật đã giúp tác giả “có thể đi từ nghệ thuật cổ đại đến nghệ thuật hiện đại một cách khách quan, giải thích chúng với cùng những nguyên lí như nhau, và cho phép chúng hòa vào một liên tục sâu thẳm”. Theo chỗ tôi hiểu thì có hai nguyên lí như vậy: 1/ nguyên lí tưởng tượng: hoặc duy lí-cổ điển, hoặc trực giác-lãng mạn; và 2/ nguyên lí chiều hướng: hướng ngoại hoặc hướng nội - mối quan hệ như cầu bập bênh giữa tâm thức cá thể người nghệ sĩ và cảm xúc về ngoại giới của người đó. Cách hiểu của tôi có đúng không, thưa cụ?

GC: Đúng. Quả thực là hai nguyên tắc ấy có thể lí giải mọi hình thức nghệ thuật tạo hình từ xưa đến nay, và giúp ta nhận ra sự liên tục phi biên niên của nghệ thuật. Mọi phong cách và trường phái chỉ là hình thức bên ngoài, không có vai trò minh chứng cho cái gọi là “tiến hóa” hoặc “phát triển” của nghệ thuật. Hai nguyên tắc này đều có cơ sở ở mô hình la bàn tâm thức mà tôi đưa ra trong sách này, thể hiện mối quan hệ giữa nội giới với ngoại giới thông qua tâm thức.

TL: Thưa cụ, có thể gọi những luận điểm trong sách này là một lí thuyết về sáng tạo nghệ thuật được không?

GC: Tôi nghĩ là được. Mặc dù tôi không có ý lập thuyết.

Nghệ thuật đương đại

TL: Lí thuyết này có giải thích được những trào lưu hậu hiện đại không, thưa cụ, như pop, op, ý niệm, xếp đặt, trình diễn…

GC: Có chứ. Nhờ nó mà ta thấy hiện tượng nghệ thuật hậu hiện đại là sản phẩm của tâm thức nhân loại đang trong thời kì quá độ đến một cái gì đó hoàn toàn không biết, sau khi đã tàn phá mọi giá trị truyền thống từ sau Thế chiến II. Tâm trạng hậu hiện đại là giễu nhại và tự trào, châm biếm và chỉ trích. Những giá trị đã thường được mô tả là “biểu hiện”, “biểu tượng”, “siêu thực”, “tự nhiên chủ nghĩa”, vân vân, hiện nay không còn áp dụng được nữa. Những giá trị thẩm mĩ - thể hiện ở kĩ năng và kĩ thuật - cũng không còn được nhìn nhận trong một môi trường văn hóa nghệ thuật chỉ sôi sục toàn những nỗ lực “đánh dấu”. Như tôi có viết trong chương cuối, tâm trạng hậu hiện đại sinh ra nghệ thuật hậu hiện đại - cái hay của nó là tiếng kêu chống lại sự nông cạn của cuộc sống hiện đại, còn cái dở của nó là ngụy trang cho mọi tầm thường vụn vặt và giả dối trong nghệ thuật.

Alan Graham-Collier sinh năm 1923 tại Lancaster, Anh quốc, tốt nghiệp Trường Mĩ thuật Slate thuộc Đại học Luân Đôn, là họa sĩ chuyên vẽ chân dung và phong cảnh. Trong Thế chiến II, ông là phi đội trưởng oanh tạc của Không lực Hoàng gia Anh. Từ thập niên 1960, ông là giáo sư triết học nghệ thuật tại Đại học Georgia, và là thành viên Hội đồng tư vấn của Trường Davenport, Đại học Yale. Những cuốn sách của Graham-Collier chưa xuất bản ở Việt Nam gồm: War Night Berlin, Antarctic Odyssey, What the Hell are the Neurons Up To?

Hội họa hiện thực

TL: Năm 1974, hai năm sau khi cụ ra cuốn này, Bảo tàng nghệ thuật Đại học Yale có một triển lãm tranh của bảy họa sĩ hiện thực, nhan đề là Seven Realists. Trong bài viết về triển lãm, Hilton Kramer, cây bút phê bình gạo cội lúc đó của tờ New York Time, có nhận định rằng: “Hội họa hiện thực không thiếu gì đồng đảng, nhưng lại thiếu hẳn một lí thuyết có sức thuyết phục. Mà trong cuộc giao đãi có bản chất trí tuệ của chúng ta với các tác phẩm nghệ thuật, thì thiếu lí thuyết có sức thuyết phục là thiếu một thứ cốt tử - một phương tiện để trải nghiệm cá nhân của chúng ta về từng tác phẩm riêng lẻ nối được vào quá trình hiểu biết của chúng ta về những giá trị mà chúng biểu chỉ”. Tom Wolfe đã dùng câu này của Kramer để mở đầu cho cả một cuốn sách về chuyện hội họa đã trở thành văn học như thế nào - cuốn The Painted Word, cho đến giờ vẫn được tái bản. Theo ý cụ, hội họa hiện thực có cần một lí thuyết có sức thuyết phục để người xem có thể hiểu được giá trị của mình không?

GC: Tôi nghĩ bất kì lối vẽ nào có mục đích và cách vẽ thỏa đáng để đạt được mục đích đều tự nó đã có một “lí thuyết có sức thuyết phục”. Chỉ cần nói ra được mình vẽ gì, tại sao, và như thế nào, thì chính là lí thuyết rồi. Nhưng lí thuyết không phải là tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm phải thuyết phục đã, rồi muốn lí giải thế nào là chuyện khác. Những con bò vẽ trong hang thuyết phục ta ngay lúc nhìn thấy chúng, còn lí thuyết về chúng thì vô vàn, có ý nghĩa gì đâu.

Hội họa hiện thực, cũng như văn học hiện thực, ở châu Âu, ra đời cuối thế kỉ XIX như một phản kháng chống lại bất công xã hội và thẩm mĩ của giai cấp quý tộc và tăng lữ. Người ta vẽ và viết về người nghèo khổ, bị áp bức, những số phận hẩm hiu bi đát... và coi đó mới là hiện thực của xã hội, hiện thực của đa số. Giờ người ta hay gọi vẽ tả thực (representational) là hiện thực, tôi nghĩ là hơi dễ dãi. Tả thực chỉ là một lối nhìn lối vẽ, có thể gọi là một phong cách thôi, chưa phải là một chủ nghĩa bao gồm cả từ mục đích, chủ đề và phong cách. Mà bây giờ, với khái niệm “hiện thực” đang được dùng để nói từ hiện thực vật lí khách quan đến hiện thực ảo, rồi hiện thực nội tâm... thì vẽ theo lối gì người ta cũng có thể gọi là hiện thực được.

TL: Cụ là bạn với cụ Henry Moore, và đã dành cho cụ Moore một vị trí khá đặc biệt trong cuốn sách này. Nhưng tôi vẫn muốn xin cụ một vài lời riêng cho độc giả Việt Nam về nghệ thuật điêu khắc của Moore, vẫn rất được hâm mộ ở Việt Nam.

GC: Tác phẩm của Moore là những biến thể của hình thức Con Người, tất cả đều truyền đạt các thái độ và giá trị nhân bản bằng hình thức chắt lọc trừu tượng - đồng thời vẫn rất có ý nghĩa và giá trị thẩm mĩ tự thân.

Nghệ thuật và tiến hóa nhân loại

TL: Mệnh đề của cụ là tâm thức sáng tạo, cả duy lí và tưởng tượng, làm nên nghệ thuật. Trong cuốn The Philosophy of Modern Art (Triết học nghệ thuật hiện đại), cụ Herbert Read có bàn về nghệ thuật giúp con người nuôi dưỡng và nâng cao tâm thức. Có đoạn thế này: “Tôi tin rằng trong số những tác nhân hoặc công cụ tiến hóa của loài người, nghệ thuật là quan trọng bậc nhất. Tôi tin rằng chức năng thẩm mĩ vẫn là phương tiện để loài người có được tâm thức của mình, và khiến nó tinh tế mãi lên. Hình thức, kết quả của việc tổ chức các yếu tố hỗn loạn thành một hình có ý nghĩa, là sản phẩm của nhận thức. Nó có ở tất cả mọi kĩ năng - kĩ năng là bản năng để hình được lộ ra trong hành động. Qua khỏi mức tâm lí và bản năng này, bất kì một tiến bộ nào trong tiến hóa nhân loại đều luôn phụ thuộc vào việc hiện thực hóa các giá trị hình thức”. Cụ nghĩ thế nào về mệnh đề này?

GC: Tuyệt đối đúng. Mệnh đề này vừa là một định nghĩa của toàn bộ quá trình nghệ thuật, vừa là một triết lí sống.

TL: Tôi nghĩ nếu hiểu ý tưởng này của cụ Read theo khái niệm hình (form) của Plato, thì nó đúng cho cả quá trình khoa học nữa, nghĩa là đúng cho mọi quá trình tiến bộ của nhân loại; vì với Plato, form là cái ý tưởng cốt lõi của mọi hiện hữu. “Hiện thực hóa các giá trị hình thức” cũng chính là cốt lõi của quá trình khoa học.

GC: Tôi đồng ý với cách hiểu này của anh. Nhưng với Herbert thì ông chỉ đề cập đến quá trình nghệ thuật mà thôi.

TL: Vâng, tất nhiên rồi. Và tôi nghĩ “các giá trị hình thức” mà cụ Read nói ở đây, trong chu cảnh nghệ thuật tạo hình, đều đã được cụ bàn đến và phân tích khá đầy đủ trong sách này, phải không ạ?

GC: Lúc viết thì tôi không có ý ấy. Giờ anh nói ra, tôi thấy anh nói đúng. Mọi thành tố làm nên một tác phẩm nghệ thuật, cùng với những giá trị biểu hiện và biểu tượng của chúng, đều là những giá trị hình thức mà Herbert nhắc đến.

Phát hiện lại tâm thức

TL: Trong cuốn sách gần đây nhất của cụ - What the Hell are the Neurons up to? (Bọn Nơ-ron thần kinh đang định làm cái quái gì đây?) - tôi thấy cụ bàn về tâm thức, tâm trí và não bộ, thậm chí về tâm thức ngoài não bộ, động đến nhiều vấn đề của triết học tâm trí. Cụ có nghĩ tâm thức là sản phẩm của não bộ không?

GC: Không. Tôi nghĩ não phục vụ ngũ quan, cho ngũ quan có những phản xạ có ý thức với cái hiện thực có hình thức trong thời gian và không gian của chúng. Còn tâm thức thì cho những phản xạ ấy có ý nghĩa và giá trị - một hệ thống giá trị cho từng cá nhân, mà Jung gọi là tự thức.

TL: Nghĩa là sản phẩm của não khác với sản phẩm của tâm thức?

GC: Tôi nghĩ vậy. Các sản phẩm trí tuệ nhân tạo hiện nay đã chứng minh não bộ là một hệ thống thu thập và xử lí thông tin tương tự như hệ thống computer. Nhưng tâm thức và sản phẩm của tâm thức thì khoa học vẫn chưa thể lí giải được. Người máy tinh vi nhất hiện nay vẫn chỉ có thể thay thế con người trong những lĩnh vực cần phải làm tốt hơn - optimizing works, nhưng không thể làm thay con người trong những việc cần đến sáng tạo và tình yêu. Tôi nghĩ tâm thức thuộc về chủ thể con người. Mà chủ thể thì không thể nghiên cứu chính mình được.

TL: Vâng. Nhưng hình như chính tâm thức lại bắt người ta không thể chấp nhận điều đó. Trong hai mươi năm trở lại đây, nhiều nhà triết học khoa học đã đặt vấn đề phải tìm lại tâm thức với nhiều cách tiếp cận khác nhau, trong đó có một cách mà tôi thấy rất gần với quan điểm Phật học, coi tâm thức là một cấu phần cốt lõi của cả vũ trụ - như thời gian và không gian. Với cách nhìn này, tâm thức cá nhân là một phần của tâm thức hoàn vũ, gắn với cả hiện hữu vật lí khách quan và hiện hữu tâm linh chủ thể. Mà nếu đã có cách nghiên cứu thời gian và không gian, thì sẽ có cách tìm hiểu tâm thức.

Homo Deus và nghệ thuật

GC: Khi viết sách này, gần năm mươi năm trước, tôi có nhận định tâm thức hậu hiện đại đang trong giai đoạn quá độ hoang mang không biết mình đang trôi dạt về một tương lai như thế nào. Nhưng giờ thì tôi cảm thấy rằng tương lai nhân loại đang tự hình thành từ năng lực tiến hóa của mình, chứ không còn dựa vào mơ ước như xưa. Giai đoạn quá độ hậu hiện đại có vẻ sắp chấm dứt, với sự thắng thế của tâm thức duy lí và quyền lực của khoa học.

TL: Vâng. Homo Sapien đang dần trở thành Homo Deus(1), thưa cụ. Người ta cũng đang bàn luận sôi nổi về hiện tượng này. Nhiều người sợ nhân loại sẽ bị hủy diệt bởi chính những sản phẩm trí tuệ nhân tạo của mình. Nhiều người khác thì cũng như cụ, tin rằng những sản phẩm trí tuệ nhân tạo không bao giờ có tâm thức người, do đó không bao giờ biết yêu, biết sáng tạo.

GC: Anh nghĩ loài Homo Deus này sẽ vẫn sáng tạo nghệ thuật chứ, hay là không?

TL: Tôi thích nghĩ rằng Homo Deus, dù có tạo ra những hình thức sống vô cơ có thể thay thế mình trong rất nhiều lĩnh vực; dù có sống trong những hệ thống xã hội, kinh tế và chính trị khác hẳn bây giờ, thì vẫn cứ có một thân phận giống như thân phận của các đấng sáng tạo trong truyền thuyết - đầy đủ mọi ái ố hỉ nộ; và sáng tạo nghệ thuật vẫn là một bản năng cá thể để tham dự và khẳng định cuộc sống, dù có thể có những hình thức hoàn toàn khác.

Khi tâm thức sáng tạo vẫn còn, thì nghệ thuật vẫn còn, khao khát tạo hình vẫn còn. Và cuốn sách này của cụ sẽ còn nguyên giá trị cốt lõi của nó.

Trịnh Lữ thực hiện

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 16.12.2020.

…………..

1. Homo Sapien (Người Khôn) và Homo Deus (Người Thượng đế) là hai cuốn sách của Yuval Noah Harari, và cuốn mới ra nữa của ông là 21 Lessons for the 21st Century (21 bài học cho thế kỉ 21); đều đang được bàn luận sôi nổi trên nhiều diễn đàn khoa học, lịch sử, triết học... Homo Sapien đã có bản tiếng Việt tại Việt Nam (Sapiens - lược sử về loài người, Nxb Tri thức, 2017).

Mùa hè năm 1786, hơn nghìn chiến thuyền từ Phú Xuân tiến ra Bắc, điểm đến là kinh thành Thăng Long của nhà Lê-Trịnh. Tham gia trực tiếp đồng thời ‘’đạo diễn’’ cuộc tấn công này là Nguyễn Hữu Chỉnh – một trong những người Nghệ An có ảnh hưởng nhất ở thế kỷ XVIII. Người đương thời gọi ông là con ‘’cắt nước’’, một nhà vô địch thủy chiến (Hoàng Lê Nhất thống chí). Sự kiện này chỉ là một chi tiết trong câu chuyện về thủy quân và ngai vàng ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.


Mô hình chiến thuyền Tây Sơn (Bảo tàng Tây Sơn, Bình  Định).

Bắc Hà sẽ giao hết sức mạnh thủy quân cho viên danh tướng Hàm Giang lừng danh Đinh Tích Nhưỡng nhằm tổ chức một trận quyết chiến ở cửa Luộc. Nhưỡng lấy hết tàu thuyền chặn ngang cửa sông thành hình chữ nhất, sau đó dùng pháo bắn vào thuyền Tây Sơn. Hoàng Lê Nhất thống chí chép, quân Bắc Hà “bắn một tiếng đầu, thuyền giặc [Tây Sơn] đứng yên không động. Nhưỡng sai bắn phát thứ hai, bên thuyền giặc buồm đều cuộn lại. Chư quân đều mừng, cho là giặc có ý sợ. Nhưỡng sai bắn luôn ba phát nữa, bấy giờ bên giặc mới nổ một phát đại bác tiếng to như sét, một chồi cổ thụ trúng đạn, bị gãy làm đôi.” Quân Lê-Trịnh, cả thủy bộ, sợ hãi, tan vỡ. Thư cấp báo về tới triều đình, quan lại chỉ lo chạy vợ con, cất giấu của cải, không ai dám nhận việc đánh giặc.

Cánh cửa thành Thăng Long mở toang.

Trong một tháng, đạo quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy sẽ làm sụp đổ di sản 253 năm của chính quyền Lê-Trịnh. 

Truyền thống thủy quân của người Việt

Người Việt có lịch sử thủy chiến lâu dài với truyền thống thủy quân sử dụng các thuyền nhỏ, cơ động, đưa các hạm thuyền lớn của kẻ thù vào những khu vực nước nông, không gian chặt hẹp hoặc địa hình phức tạp mà chúng không thông thuộc. Tại đó, thủy quân tổ chức mai phục dựa địa hình và tận dụng lợi thế cơ động của thuyền nhỏ khi các tàu lớn của địch mất khả năng linh hoạt tại vùng nước nông hay lòng sông hẹp. 

Sông Bạch Đằng là một cái bẫy hoàn hảo như thế. Đó là tuyến đường thủy tối ưu cho một cuộc tiếp cận đường sông vào lãnh thổ Đại Việt. Thực tế, nếu bạn muốn kéo quân từ phía Bắc xuống thì đây cũng là đường vận tải lương thực hoàn hảo. Nhưng đó cũng là một nơi  hoàn hảo để tiến hành chặn đánh du kích trên sông, điều người Việt đã làm vào năm 938, 981, 1075-77, và 1288. Sau đó, nhà Minh và nhà Thanh đã phải thay đổi chiến lược, tập trung tiến quân đường bộ. 

Vào cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Huệ cũng sẽ đẩy quân Siam vào tình thế tương tự khi chọn khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút, nơi có nhiều Cù Lao và nhánh rẽ, nơi ông sẽ đặt phục binh cả trên bờ, trên các doi đất và trên sông nhánh để diệt gọn toàn bộ hạm đội của người Thái. 

Chiến thuật này cũng giúp người Việt giành thắng lợi trước hạm đội 3 tàu của người Hà Lan năm 1643, trong một diễn biến quân sự ít người biết tới. Hè năm 1642, các con tàu này đánh chiếm duyên hải Quảng Ngãi, đốt 500-600 ngôi nhà và bắt đi 38 người. Tuy nhiên có vẻ như người Hà Lan đã chọn nhầm đối thủ. Vào lúc đó, thủy quân của chúa Nguyễn có khoảng 230-240 tàu được trang bị vũ khí. Mùa hè năm 1643, hạm đội Hà Lan quay lại và nhanh chóng bị 60 tàu của chúa Nguyễn vây đánh tại cửa sông Gianh, làm cho một chiếc bị nổ tung, giết chết toàn bộ thủy thủ và hai chiếc còn lại hư hỏng nặng (Hoang Anh Tuan, Silk for Silver, 2007).

Chúng ta sẽ không biết điều gì xảy ra nếu như các hạm thuyền phương Bắc "chịu khó" đi xa hơn về phía Nam và tiếp cận Thăng Long bằng đường sông Hồng. Lịch sử có thể đã diễn biến khác. Đó cũng là cách các hạm đội Champa trở thành nỗi "khiếp đảm" của nhà Trần vào thế kỷ XIV. Thủy quân của Chế Bồng Nga đã hơn một lần đốt cháy Thăng Long và khiến vua quan nhà Trần tháo chạy qua bên kia sông Hồng (Đại Việt sử ký toàn thư). Cuối cùng thì người Việt vẫn giỏi đánh du kích, dù là trên bộ hay trên sông.

Chuyển dịch sân khấu chiến tranh cuối thế kỷ XVIII

Sau ba thế kỷ mở rộng lãnh thổ về phía Nam, sân khấu chiến tranh ở Việt Nam cũng dịch chuyển theo:

Chiến tranh Địa bàn chủ yếu
Chiến tranh Nam-Bắc triều, 1533-1593 Từ Nghệ An tới thăng Long
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn, 1627-1672 Nghệ An, Quảng Bình
Chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn 1771-1802

Hạ lưu Mekong

Duyên hải Quy Nhơn tới Quảng Bình

Từ thế kỷ XVII, thủy quân đã lên ngôi khi trung tâm của chiến tranh chính là mặt nước sông Gianh. Chúa Nguyễn sẽ phải thúc đẩy hàng hải và thủy quân, không chỉ chống lại phía Bắc mà còn thúc đẩy việc mở rộng ảnh hưởng vào phía Nam, và tiến hành các chiến dịch quân sự vùng hạ lưu Mekong.

Tới cuộc chiến Tây Sơn-Nguyễn, thủy quân trở thành lực lượng chính và có ý nghĩa chiến lược tới toàn bộ cuộc chiến. Đó là cuộc chiến giữa hai vùng biên mới được khai mở của không gian người Việt. Sân khấu chính là một vùng duyên hải trải dài từ Quảng Bình tới Phú Quốc với nhiều cửa sông, vũng vịnh, đầm phá, hải cảng và căn cứ quân sự ven biển. Từ sau khi Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định thì hành lang từ Nha Trang tới Nghệ An đóng vai trò quyết định tới vận mệnh của một Việt Nam thống nhất. Chạy dọc theo dãy Trường Sơn gần 1000 km, khu vực này có chiều ngang hẹp, từ 40 tới 120 km và các con sông nhỏ chảy từ Tây sang Đông. Dọc duyên hải có nhiều vũng, vịnh, đầm phá ăn sâu vào đất liền… Ở đó, có thể dùng thủy quân để khống chế, chia cắt, tập kích quân bộ. Và chúng ta sẽ thấy dưới đây, Nguyễn Phúc Ánh đã dùng thủy quân để tiêu diệt nhà Tây Sơn. 

Thủy quân Tây Sơn

Thành công của Tây Sơn không chỉ tới từ tài năng của các chỉ huy quân sự, khả năng di chuyển thần tốc, tính năng động của một đạo quân đa dạng, voi chiến và các khẩu pháo mới mà còn từ việc tổ chức thủy quân và kết hợp các cuộc tiến công thủy bộ. 

Nguyễn Huệ tận dụng ưu thế của hai lực lượng hàng hải người Chăm và người Hoa, trong đó có hai viên chỉ huy Lí Tài và Tập Đình, những người được cho là góp một nửa thủy quân Tây Sơn. Ở giai đoạn đầu, họ cắt Phú Xuân ra khỏi các vùng cung cấp lương thực phía Nam, như ghi chép của các giáo sĩ, cho tới khi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Nguyễn Huệ sẽ tiến hành một loạt chiến dịch truy kích ở hạ lưu Mekong, tiêu diệt các chúa Nguyễn và đẩy Nguyễn Phúc Ánh cùng một nhóm tùy tùng ra các hòn đảo trong vịnh Thailand. 

20200524 2Tàu chiến Đàng Ngoài thế  kỷ XVIII (bức vẽ của Samuel Baron, khoảng 1680).

Quy mô hạm thuyền và kỹ thuật trên các thuyền chiến Tây Sơn là rất đáng chú ý. Sử nhà Nguyễn ghi chép rằng các con tàu Tây Sơn án ngữ tại Thị Nại trang bị 35 đến 40 khẩu pháo.

Chiến dịch Rạch Gầm-Xoài Mút và chiến dịch Bắc Hà năm 1786 cho thấy khả năng điều phối thủy bộ của Nguyễn Huệ, một viên tướng có tầm nhìn bao quát và khả năng điều phối chiến lược trên một không gian địa lý rộng, tác chiến phức tạp. Khi phạm vi của triều Quang Trung được mở rộng, một lực lượng mới gia nhập, góp phần quan trọng vào sức mạnh của Tây Sơn là hải tặc Trung Quốc. Các sử gia George Dutton, Dian Murray và Robert Antony đã trình bày nhiều nghiên cứu công phu về vai trò của ‘hải tặc Trung Quốc’ trong quân Tây Sơn. Bản dụ của vua Gia Khánh nhà Thanh ngày 5/2/1797 gợi ý về quy mô của các nhóm này: “Nay theo lời khai của bọn phỉ là di là La Á Tam: Tàu Ô An Nam có 12 tổng binh, hơn 100 hiệu thuyền, và căn cứ vào giấy tờ bắt được có ấn triện, thì bọn cướp Tàu Ô đều nhận hiệu phong của quốc vương.” (Minh Thực lục, Hồ Bạch Thảo dịch, 2019). 

Bốn năm sau, khi nhà Tây Sơn bị truy kích, nhiều người trong số họ đầu hàng nhà Thanh. Một trong số đó là Trần Thiêm Bảo. Lời dụ ngày 19/12/1801 của Gia Khánh: “Theo lời tâu của bọn Cát Khánh, tên cướp biển Trần Thiêm Bảo mang cả gia quyến nội phục, và trình nạp sắc ấn của An Nam cấp cho. Tờ tâu nói: “Trần Thiêm Bảo đánh cá gặp bão vào năm Càn Long 48 [1783] bị Nguyễn Quang Bình [Nguyễn Huệ] bắt được, phong chức tổng binh’’. Có thể thấy trong nhiều năm hải tặc quấy phá đều do An Nam chứa chấp gây ra. Lúc Nguyễn Quang Bình còn sống, bắt người của nội địa [Trung Quốc], gia phong ngụy tước hiệu, rồi tung ra biển cướp phá.” (Thanh thực lục). 

Trước khi qua đời, Quang Trung còn dự định tổ chức một cuộc viễn chinh lớn vào vùng hạ lưu Mekong. Tuy nhiên không chỉ kế hoạch này bất thành mà triều đại của ông cũng sụp đổ bởi sự tan vỡ của hệ thống tổ chức quân sự Tây Sơn. Nguyên nhân tới từ việc họ để mất sức mạnh thủy quân.

Sự chia rẽ của Tây Sơn là một thảm họa, không chỉ từ góc độ chính trị mà còn từ khung cảnh chiến lược và chiến thuật quân sự. Nếu Nguyễn Huệ có thể tự do điều hành hệ thống quân sự từ Gia Định tới Thăng Long ở buổi đầu thì việc chia ba vương quốc: Hạ lưu Mekong (Nguyễn Lữ), Bình Thuận tới Quảng Nam (Nguyễn Nhạc), từ Quảng Nam ra Bắc (Nguyễn Huệ) đã phá vỡ không gian tác chiến này, khiến cho việc phối hợp, yểm trợ lẫn nhau của quân thủy dọc theo hơn 3000 km bờ biển hầu như không thể thực hiện được. 

Sự phối hợp tác chiến giữa Quy Nhơn, Quảng Nam và Phú Xuân là ví dụ. Chúng từng tạo ra một tuyến phòng thủ nhiều lớp vững chắc, bảo vệ lẫn nhau cả đường bộ và đường biển, nơi mà các trung tâm quân sự, thành trì đều gần biển, cảng và dễ dàng tiếp cận từ cửa sông. Tuy nhiên việc chia cắt này đã đặt Quy Nhơn thành một "tiền đồn chơ vơ" ở phía Nam. Đặc biệt là khi Nguyễn Phúc Ánh, dựa vào hệ thống phòng thủ tự nhiên của vịnh Cam Ranh, chiếm Diên Khánh (1793), Quy Nhơn đã nằm trong tầm ngắm thường trực. Thị Nại là một căn cứ mạnh, nhưng giờ đây trở nên đơn độc. Chính vào lúc đó, Nguyễn Nhạc đã không còn cách nào khác là cầu cứu cháu mình, Quang Toản. Toản sẽ giải cứu Quy Nhơn, nhưng chiếm luôn thành trì và Nguyễn Nhạc tức giận đến chết. 

Tàu chiến Mông Đồng, hình khắc trên cửu đỉnh (Huế).


Với ý nghĩa đó, thất bại lớn nhất của Tây Sơn là chưa tạo ra một bản đồ tác chiến, một bản đồ chiến lược, và một bản đồ hậu cần thống nhất cho toàn Việt Nam. Để có được và vận hành một nước Việt Nam hình chữ S là không hề đơn giản. 

Các cuộc viễn chinh gió mùa

Các cuộc viễn chinh theo mùa gió đã mang về cho Nguyễn Phúc Ánh ngai vàng của nước Việt Nam hiện đại. Ông là người đầu tiên gắn kết hạ lưu Mekong vào cuộc tranh giành địa chính trị trên lãnh thổ Việt Nam, và đã thành công. Thủy quân sẽ giúp ông biến dự án chính trị đó trở thành hiện thực. 

Vùng đất mà ông chiếm giữ là một trong những trung tâm đóng tàu lớn nhất của Đông Nam Á lục địa thế kỷ XVIII. Gỗ từ vùng thượng nguồn Tây Ninh và truyền thống sông nước, hàng hải nhanh chóng đưa thủy quân thành trụ cột của các chiến dịch quân sự của Gia Định. Nói cách khác, hệ thống quân sự của Nguyễn Phúc Ánh vận hành dựa trên thủy quân. 

Hà Tiên, Phú Quốc, Long Xuyên, An Giang, và xưởng đóng tàu ở Gia Định được cho là kéo dài tới 1,5km dọc bờ sông, là những nguồn cung cấp tàu thuyền quan trọng nhất. Từ năm 1789, Đại Nam thực lục thường xuyên ghi chép về các yêu cầu đóng tàu của vị chúa Nguyễn, mỗi năm vài trăm chiếc. Từ những năm 1790 đến 1821, tổng số tàu thuyền được đóng là 3.190 chiếc lớn nhỏ. Một thống kê khác của Thực lục cũng cho biết riêng thời Nguyễn Phúc Ánh (1778-1820), đã có 235 ghe bàu, 460 thuyền sai, 490 thuyền chiến, 77 thuyền chiến lớn, 60 thuyền buồm kiểu ây, 100 thuyền Ô, 60 thuyền Lê được đóng, trong tổng số 1482 thuyền (Li Tana, Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền, 2002). 

Con số tàu thuyền này phong phú tới mức Nguyễn Phúc Ánh không chỉ cung cấp cho quân đội mà còn gửi tặng vua Siam (đổi sắt, thuốc súng, súng), hay bán cho Macao và Manila. 

Nguyễn Phúc Ánh cũng chú trọng cải tiến kỹ thuật đóng thuyền theo mô hình tàu chiến phương Tây. John Barrow nói rằng nhà vua có 300 tàu chiến, 5 thuyền buồm và một tàu chiến kiểu phương Tây (1792-1793).  

Và đó là lúc cuộc chiến giành ngai vàng ở Việt Nam bước vào giai đoạn quyết định.

Sẽ mất 7 năm để các chiến dịch gió mùa (1792-1799) làm thay đổi cục diện chiến trường bằng cách bao vây, cô lập và tiêu hao các căn cứ quân sự Tây Sơn dọc theo duyên hải. Việc chiếm thành Diên Khánh, cách Thị Nại 200 km, là một bước ngoặt vì nó đặt các cửa sông, cảng biển Tây Sơn vào tầm ngắm thường trực của Gia Định, nơi họ có thể khai thác điểm yếu hậu cần, phân tán địa hình, và khoảng trống giữa quân bộ và quân thủy Tây Sơn. 

Hệ quả là Tây Sơn buộc phải dồn lực lượng hải quân vào Thị Nại, nơi họ bị tấn công và phá hủy nhiều lần. Thực tế, Nguyễn Phúc Ánh đã lấy sự cơ động của thủy quân để đánh lại quân bộ Tây Sơn giờ đây buộc phải vận động chiến dọc theo một miền duyên hải có địa hình phức tạp. Từ sau 1795, Nguyễn Phúc Ánh mở rộng hoạt động thủy quân, yểm trợ và kết hợp với quân bộ và quân tượng vây đánh Quy Nhơn. Chiến dịch năm 1796 chẳng hạn, huy động 600 thuyền, vận chuyển cả một đạo quân 40.000 binh lính trên hải trình 1000 km. 

Khả năng điều phối thủy quân của quân Nguyễn nhanh chóng áp đảo quân Tây Sơn vốn dựa trên sự kết hợp của nhiều nhóm khác nhau. Các tướng lĩnh giỏi nhất của họ như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết, Bùi Thị Xuân… đều tập trung cho bộ binh và tượng binh. Trong khi họ bị cầm chân bởi Lê Chất, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức  Xuyên, Nguyễn Văn Thành thì Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy, Võ Tánh… chia cắt và cô lập hệ thống phòng thủ Tây Sơn bằng cách đánh phá và kiểm soát cửa biển và sông ngòi, đặc biệt là giữa Quy Nhơn và Phú Xuân. 

Tây Sơn bị đẩy vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Không có đủ thuyền, không có khả năng kiểm soát và giữ liên lạc thủy bộ dọc theo duyên hải. Vận tải và hành quân đường bộ giữa Phú Xuân-Quy Nhơn là một quãng đường khó khăn, dễ dàng bị tập kích ở các cửa sông và cảng biển. Nỗ lực cuối cùng của họ giúp hậu cần cho Quy Nhơn bằng đường biển là vào năm 1800, khi mà 150 tàu vận tải bị quân Nguyễn đánh tan. 

Không còn cách nào khác, Tây Sơn dồn toàn lực biến Thị Nại thành cánh cổng sắt phía Nam của vương triều nhằm chặn đứng quân Gia Định.

Đó là một canh bạc nguy hiểm.

Vùng đầm phá rộng 5000 ha này từng bị quân Nguyễn tấn công vào năm 1792, 1793, 1796, 1799. Tuy nhiên, Thị Nại và thành Quy Nhơn là một hệ thống không thể tách rời, và nó không thể bị mất. Tư liệu phương Tây cho biết Diệu và Dũng sẽ đưa về đây 500 chiến thuyền và 50.000 lính. Họ dùng 100 chiến thuyền để án ngữ cửa vào vịnh. Sử nhà Nguyễn nói Tây Sơn có 1.800 thuyền và 6.000 khẩu pháo ở Thị Nại. Sau trận đánh kéo dài 16 giờ (27 đến 28/02/1802), “pháo nổ rung trời, đạn bay như mưa,” quân Tây Sơn bỏ lại 20.000 người chết. Toàn bộ căn cứ thủy quân lớn nhất của họ bị phá hủy. Quân Gia Định trả giá cho chiến thắng với 4000 lính. 

Một ngày nào đó, có lẽ các nhà làm phim Việt Nam sẽ chú ý tới trận đánh này: một trang sử sẽ không bao giờ bị người Việt lãng quên. 

Trận Thị Nại đưa lịch sử Việt Nam sang chương mới. Tây Sơn hoàn toàn mất quyền kiểm soát thủy quân và hệ thống quân sự bị cắt làm nhiều mảnh nhỏ. Ngay lập tức, Phú Xuân bị đe dọa và điều duy nhất Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng có thể làm là rút lên vùng thượng đạo và chạy ra Bắc. 

Lịch sử sẽ không cho họ cơ hội thứ hai. 

Cuối cùng, các học giả Việt Nam chú ý nhiều tới các cuộc chiến tranh chống xâm lược mà ít chú ý tới nội chiến. Tuy nhiên hình thái chiến tranh và các vấn đề liên quan trong giai đoạn 1770-1802 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì chúng phản ánh những thách thức và các thể nghiệm của người Việt trong việc tổ chức chiến tranh thời sơ kỳ hiện đại. Kỷ nguyên của những con cắt biển là một dấu ấn của lịch sử Việt Nam, giai đoạn sẽ thai nghén nên hình hài của nước Việt Nam hiện đại và một chứng nhân cho những lao tâm khổ tứ, máu và nước mắt của tiền nhân để tạo ra dân tộc này. □

 

Vũ Đức Liêm

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 18.05.2020.

SVVN - Bùi Tiến Phúc (cựu sinh viên bộ môn Hán Nôm, khoa Văn học, trường ĐH KHXH&NV, ĐHQG TP. HCM) đã dành 10 năm tìm tòi, nghiên cứu để trở thành “bác sĩ sách” phục chế, tu bổ sách, văn bản Hán Nôm cổ.

20201130 5

Bén duyên với ngành Hán Nôm

Chàng trai miền núi Tánh Linh (Bình Thuận) Bùi Tiến Phúc được một thầy giáo dạy Ngữ văn định hướng cho con đường tương lai để đăng ký theo học bộ môn Hán Nôm tại khoa Văn học, trường ĐH KHXH&NV (ĐHQG TP. HCM). 

Thế rồi càng học, càng đi sâu ở chuyên ngành của mình, Phúc không khỏi xót xa trước sự nghiệt ngã của thời gian đã và đang hủy những di sản Hán Nôm quý giá như sắc phong, gia phả… ở các thư viện, đình, chùa, nơi anh có cơ hội tiếp xúc trong các đợt đi thực tập thực tế và nghiên cứu khoa học. Vì thế, sau khi tốt nghiệp năm 2012, Phúc vẫn tiếp tục công việc sưu tầm tài liệu Hán Nôm cho thư viện Huệ Quang (TP. HCM) cho đến năm 2014 rồi xin học bổng ngành Bảo tồn di sản văn hóa tại ĐH Phật Quang của Đài Loan.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 1Phúc tại phòng làm việc của thầy Ngô Triết Duệ, thành phố Tân Bắc (Đài Loan). (Ảnh: NVCC)

Mất hai năm nữa, Phúc tự tìm tòi và xin thực tập ở một bệnh viện sách Đài Loan trước khi được gặp các chuyên gia trong lĩnh vực này ở một khóa học tu bổ mở rộng do bệnh viện sách này tổ chức. “Từ năm 2016 cho đến khi về Việt Nam 12/2019, mình may mắn được học và thực hành được những kiến thức khác nhau trong lĩnh vực tu bổ, phục chế hiện vật giấy ở rất nhiều người thầy tại Đài Loan. Trong số này có ông Ngô Triết Duệ, cố vấn Hội Văn hiến TP. Đài Bắc - một trong những chuyên gia, nhà phục chế hiện vật giấy hàng đầu Đài Loan”, Tiến Phúc nhớ lại.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 2Thời gian làm việc tại tại phòng làm việc của thầy Ngô Triết Duệ, ở Tân Bắc (Đài Loan) đã cho Phúc thêm nhiều kiến thức trong nghề.

Một may mắn khác với Phúc trong quá trình học tập tại Đài Loan, năm 2017 anh gặp được Tuyền, người vợ hiện nay của anh. Ít ai ngờ cô gái nhỏ nhắn, hiền lành này đã có nhiều năm học mỹ thuật tại Mỹ, rồi say mê với chuyên ngành tu bổ, phục chế hiện vật giấy và quyết định gắn bó cuộc đời với một chàng trai Việt Nam như Phúc. Tuyền và gia đình sau đó đã ủng hộ, hỗ trợ cho Phúc rất nhiều trong cuộc sống và học tập, trước khi hai người chính thức kết hôn vào đầu năm 2020.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 3Phúc làm công việc tu bổ tại Malaysia.

Theo Phúc, để làm được công việc phục chế này hầu hết phải học trong thời gian dài, khoảng 6 - 7 năm, thậm chí 10 năm hoặc nhiều hơn nữa. Tuy vậy, thời gian theo học Phúc gần như bị gia đình mình ngăn cản bởi học nghề lâu năm nhưng vẫn không làm ra tiền. Tiền làm ra lại đầu tư vào việc học. Nhiều lần định bỏ nghề nhưng nhờ cơ duyên, cuối cùng Phúc vẫn quyết tâm theo đuổi đến cùng. “Khi rời Đài Loan, hành trang mà mình mang theo không chỉ là những kiến thức vô giá trong lĩnh vực tu bổ, phục chế hiện vật giấy mà còn rất nhiều tài liệu, dụng cụ liên quan mà mình chắc chắn không thể tìm thấy tại Việt Nam. Và điều hạnh phúc và may mắn với mình là sự sát cánh của người bạn đời, người cộng sự đặc biệt giỏi trong vẽ tranh và pha màu”, Phúc chia sẻ.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 4Phúc làm công việc tu bổ tại Hán Nôm Đường do vợ chồng Phúc thành lập.

Xưởng phục chế “Hán Nôm Đường”

Hán Nôm Đường (xưởng phục chế, tu bổ sách, văn bản Hán Nôm cổ) đã ra đời ngay sau khi Phúc trở về Việt Nam giữa bộn bề lo toan của chuyện cơm áo, gạo tiền, chuẩn bị cho đám cưới với Tuyền và mong muốn được góp một phần công sức vào việc bảo tồn hiện vật giấy giá trị. “Cô Nguyễn Ngọc Anh (Phó Giám đốc Thư viện quốc gia Việt Nam), người mà năm 2018 có đưa ra một lời khuyên để giúp mình quyết tâm theo đuổi con đường mình đã chọn. Đấy là mình nên thành lập một cơ sở tu bổ, phục chế riêng thay vì vào làm ở một cơ quan nhà nước, bởi khi có Hán Nôm Đường rồi mình có thể kết hợp với các trường, trung tâm bảo tàng mà vẫn thực hiện được các dự án có tài trợ bên ngoài”, Phúc cho biết.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 5Với Phúc, niềm vui vô bờ bến vì có bà xã cùng đồng hành, chia sẻ trong công việc.

Theo Phúc, thách thức cho anh và vợ lớn hơn những gì cả hai dự tính ban đầu nhưng anh vẫn luôn nói với vợ rằng, nếu để làm giàu, bản thân đã không về Việt Nam và cô cũng không cần phải theo anh về sinh sống tại quận 12, TP. HCM. Bởi với chuyên môn của mình, Phúc và Tuyền có thể giảng dạy, dịch sách hay làm phiên dịch cho các công ty với thu nhập cao gấp nhiều lần công việc hằng ngày tại Hán Nôm Đường. “Hán Nôm đã kết nối hai con người, mang hai dòng máu nhưng chung một tình yêu tư liệu cổ, nó đã khiến mình không còn cô độc trong hành trình dài này nữa”, Phúc tâm sự.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 6Một góc trưng bày tại Hán Nôm Đường.

Sắp tới, khi Hán Nôm Đường đi vào hoạt động ổn định, anh hy vọng có thể chia sẻ vai trò của một nghệ nhân, một người thợ mà mình đang đảm nhận cho những học trò mới để dành thêm thời gian cho việc truyền đạt kiến thức về công tác tu bổ, phục chế. Bên cạnh đó, Phúc cũng chú trọng đến việc sưu tầm, dịch những tài liệu liên quan đến nghề bởi trong khi chuyên ngành tu bổ, phục chế hiện vật giấy, tranh và sách rất phổ biến ở Nhật Bản, Trung Quốc hay Đài Loan thì tại Việt Nam, những tài liệu chuyên sâu như vậy gần như không có, khiến bất cứ ai muốn tìm hiểu đều gặp khó khăn.

Bùi Tiến Phúc - ảnh 7Đội ngũ của Hán Nôm Đường hiện tại chuyên làm công việc bảo tồn và phục chế tư liệu cổ.

Hà Chi

Nguồn: Sinh viên Việt Nam, ngày 03.11.2020.

Thắt lưng, đai lưng, giải rút… thuộc loại nhỏ nhất trong số các món phục sức, nhưng chiếm một vị trí nổi bật trên tổng thể trang phục. Quy ra khối lượng vật chất thì chẳng bao nhiêu, nhưng thiếu cái thắt lưng, cả bộ quần áo làm nên vẻ ngoài dường như chưa hoàn thiện.

Nếu có thể ví vẻ ngoài như một phong cảnh, thì thắt lưng là đường chân trời. Mắt chúng ta chẳng phải luôn dựa vào chân trời để biết trường nhìn của mình nông hay sâu đó sao? Vậy cái thắt lưng có giúp ta nhìn gì về con người đối diện?

Cái thắt lưng đã trở thành một vạch phân chia cơ thể thành hai phần đối sánh nhau cả về hình thái lẫn biểu tượng.

Thắt cạp quần, tranh khắc gỗ, sách Kỹ thuật của người An Nam. Henri Oger (1909). Ảnh: TL


Trước hết là đàn ông, khi có quần áo đi công chuyện, cái thắt lưng ngay ngắn thể hiện sự chỉnh tề. Những ngạn ngữ kiểu “đánh dưới thắt lưng” có gốc từ môn đấm bốc hay đàn ông đầu óc “nghĩ toàn chuyện dưới thắt lưng” ám chỉ tình dục nhập cảng từ Tây về đã thành vốn văn hóa bản địa.

Phụ nữ thì thuộc lòng câu “thắt lưng buộc bụng” có từ tổ tiên nghèo khó ở một đất nước lo cái ăn triền miên nhiều thế kỷ. Lo cái ăn là thế, nhưng cũng đồng thời là lo cái mặc. Nhìn vào lối thắt lưng, người ta cho rằng biết được không chỉ sự tháo vát mà còn đức hạnh của người đàn bà. Thắt lưng, kỳ lạ thay, cân xứng ý nghĩa cho cả hai giới.

Bức tranh vẽ Nguyễn Trãi, người nổi tiếng vì nỗi lo sao cho muôn dân có ăn có mặc, “để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than”, thờ ở làng Nhị Khê quê ông, có phiên bản trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử, cho thấy tay ông đang giữ một cái thắt lưng. Những bức ảnh chụp quan lại Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cũng thể hiện mỗi viên quan tay cầm một binh khí, cái quạt hoặc đỡ lấy cái đai lưng to bản, có người dường như còn gài được những tấm thẻ hay vài đồ dùng cá nhân vào đó.

 

Chân dung Nguyễn Trãi trong Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam, bản phục chế từ tranh thờ của đền thờ Nguyễn Trãi, làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội. Ảnh: TL


Nhìn chung thắt lưng có một vị thế khá nên thơ khi trở thành điểm nhấn trong bức tranh hoài niệm. Vốn dĩ thắt lưng khá thiết thực đối với loại áo giao lĩnh, khi hai vạt áo mở phía trước cần một dải thắt lại ở eo lưng. Chiếc thắt lưng thậm chí là tiêu điểm của trang phục:

Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy

Bắt đầu là cái thắt lưng xanh

(Mùa xuân xanh – thơ Nguyễn Bính)

Màu của thắt lưng ngày thường không lộng lẫy, nhưng vào mùa lễ hội được dùng những màu nổi bật như hoa lý, hoa hiên. Thắt lưng các vị bô lão kỳ hào trong lễ hội có màu đỏ. “Thầy theo sau cưỡi ngựa/ Thắt lưng dài đỏ hoe” (Chùa Hương – thơ Nguyễn Nhược Pháp). Màu rực rỡ là điểm nhấn trên những bộ trang phục thiên về màu trầm, nền nã. Những dải màu tươi ôm ngang lưng cơ thể con người như một tín hiệu thẩm mỹ của thời đại sự gọn gàng được duy trì đơn giản bằng một dải lụa – thời mà lụa và các thứ hàng dệt tay là vật liệu chủ đạo.

20200510 4

Tượng Bà Trắng, chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), ngực trần, đeo thắt lưng, gỗ phủ sơn, khoảng thế kỷ 18.


Làm thắt lưng thậm chí từng trở thành một nghề được thống kê từ trước 1945. Tạp chí Khoa Học vài số cuối năm 1938 đã liệt kê ở ven đô Hà Nội, có hẳn làng Triều Khúc thuộc tỉnh Hà Đông cũ chuyên làm các phụ kiện từ dây giày tây đến thắt lưng.

Khi áo dài cả hai giới phát triển theo hướng cách tân bằng cách có cúc cài hay khuy bấm ở bên cạnh thì chiếc thắt lưng đã không còn tác dụng, và đến loại áo dài tân thời thì chúng đã biến mất. Thắt lưng là thứ bị thừa ra cho tới lúc quần âu thành phổ biến.

Tuy nhiên trước cả khi áo dài đi kèm quần dài là trang phục “truyền thống” của đàn ông người Kinh thì họ cùng với nhiều dân tộc anh em trên dải đất Việt Nam đã mặc duy nhất một thứ thắt ngang trên mình: cái khố.

Tượng Ngọc Nữ và Kim Đồng chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) đeo thắt lưng, gỗ phủ sơn, thế kỷ 18.


Câu chuyện nổi tiếng nhất về cái khố chính là sự tích liên quan một trong bốn vị thần Tứ bất tử của người Việt – Chử Đồng Tử. Cái nghèo của người Việt xưa đã được mượn để kể câu chuyện cha con Chử Đồng Tử túng đến nỗi chung nhau một cái khố, thứ mà vốn dĩ vừa đóng vai một chiếc quần lót vừa như một cái thắt lưng tiện cho các công việc lặn lội vùng sông nước.

Chiếc “thắt lưng cổ” này mách bảo đời sau đọc ra bối cảnh sinh hoạt của cư dân Việt vài nghìn năm trước và là một đạo cụ ẩn dụ cho sự che đậy khía cạnh trần tục từ góc nhìn lễ giáo. Việc Chử liệm người cha bằng chiếc khố khi ông qua đời có lẽ thể hiện ảnh hưởng của đạo lý Nho gia, song cũng khéo tạo ra cái cớ dẫn đến tình huống Chử náu mình trong bãi cát để tránh bị thuyền rồng của công chúa Tiên Dung gặp phải.

Tất nhiên dân gian thông minh không kém các đạo diễn điện ảnh thời nay, cho Tiên Dung quây màn tắm tại đúng nơi Chử Đồng Tử náu mình. Đôi bên không mảnh vai che thân, chuyện gì đến đã phải đến, Tiên Dung còn cho đó là trời định: “…cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là do trời xui khiến vậy” (Lĩnh Nam chích quái, truyện Nhất Dạ Trạch). Kho tàng truyện cổ dân gian sau này dường như không còn những tình huống gợi cảm lãng mạn như vậy nữa. Chúng tràn ngập những cái thắt lưng kín đáo của lễ giáo. Chúng được thay bằng một cái áo bỏ quên trên cành hoa sen, một cái nón qua cầu ngả trao nhau, một chiếc hài đánh rơi ngỏ ý về một sự khêu gợi nhẹ nhàng.

Đàn ông đóng khố đuôi lươn

Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh

Chiếc yếm thường có hai dải dài, người mặc cũng thắt thành một búi như dây lưng (“bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”, các cô gái xưa quả bạo dạn nhưng cũng đầy chất thơ!). Trong câu ca dao trên, bên cạnh yếm gợi ý một phục trang gợi cảm của phụ nữ, tựa như chiếc áo lót, thì hiển nhiên việc lấy cái khố làm đối sánh đã cho thấy người xưa ý thức về nhục cảm của món đồ này.

Thiếu nữ Hải Phòng mặc yếm đeo thắt lưng, ảnh đầu thế kỷ 20. Ảnh sưu tập Dieulefils


Tất nhiên một người đàn ông cường tráng phô bày cơ bắp, trên người chỉ có đóng một chiếc khố, mãi cho đến thời thẩm mỹ phương Tây du nhập vào mới trở thành một vẻ đẹp theo tư duy mỹ thuật Hy-La. Trên tâm lý xã hội Việt Nam, chiếc khố đã gắn với ẩn dụ về sự nghèo nàn, lam lũ, thậm chí sự kém văn minh. Câu chuyện “Trần Minh khố chuối” hay được lấy làm biểu tượng đối lập với sự đỗ đạt hiển hách. Cũng anh chàng lấy lá chuối làm khố đó đi thi đậu trạng nguyên, khoác lên mình mũ áo cân đai sánh vai cùng tiểu thư. Chiếc khố giống như một thử thách hơn là một phục sức hữu dụng.

Nông dân đóng khố đi cày, ảnh đầu thế kỷ 20. Ảnh sưu tập Dieulefils


Tiếp nối phép ẩn dụ Nho giáo, chiếc khố rơi tiếp vào phép ẩn dụ của lối quan sát phân biệt nhà quê và thành thị thời Pháp thuộc.

Dưới cái nhìn nhân học thuộc địa, cái khố hàm ý được xem như biểu tượng của tình trạng sống chưa được “khai hóa” của những người dân tộc thiểu số - những người đàn ông quanh năm lấy khố làm trang phục bình thường. Khi những chiếc trống đồng Ngọc Lũ hay Đông Sơn được chọn làm hình tượng cổ xưa của dân tộc và đất nước thì hình những người Việt cổ đầu đội mũ lông chim, mình trần đóng khố bỗng nhiên được nhìn nhận lại. Cái khố lại có màu huyền thoại, nhưng khi thanh niên Tây Nguyên chẳng còn thích đóng khố thì huyền thoại chỉ còn trong bảo tàng.

Cái thắt lưng trong không gian ảnh hưởng Nho giáo đi liền với những bộ áo dài tứ thân, năm thân, giống như rất nhiều thứ bén rễ ở đồng bằng Bắc Bộ trong nhiều thế kỷ, đã trở thành một quy ước về y phục truyền thống. Màu sắc của chúng nổi bật trong không gian ấy, như một màu xanh phiếm chỉ:

Hỡi cô thắt bao lưng xanh

Có về làng Mái với anh thì về

Làng Mái có lịch có lề

Có sông tắm mát có nghề làm tranh.

Làng Mái là tên khác của làng tranh Đông Hồ. Ở một ngôi làng có nghề sống với màu sắc, hẳn màu xanh của chiếc thắt lưng phải bật hẳn lên trong không gian trữ tình lẫn thực địa để những cư dân đọng lại một ấn tượng nhận diện y phục. Chiếc thắt lưng bao xanh, loại thắt lưng kiêm ruột tượng để phụ nữ đựng vài món đồ cá nhân khi đi ra đường, gồng gánh chạy chợ hay đi hội… hằn trong tâm trí cộng đồng, trải qua bao biến cố vẫn còn kịp đi vào thơ ca cuối thập niên 1970:

Con sông Cầu làm bao xanh

Ngang lưng làng quan họ xanh xanh

(Làng quan họ quê tôi – nhạc Nguyễn Trọng Tạo, thơ Nguyễn Phan Hách)

Từ chiếc thắt lưng xanh đập vào mắt chàng trai trong thơ Nguyễn Bính đến dòng sông uốn quanh làng là nơi người xa xứ Nguyễn Phan Hách trở về nhìn thấy, là cả một truyền thống dãi dề huê tình.

Đánh ghen - tranh dân gian Đông Hồ. Hai người phụ nữ có dải dây lưng hoặc dải yếm rất nổi bật.


Trên thực tế, thắt lưng của ngày thường lại gợi cảm giác nai nịt gọn gàng, chuẩn bị cho một sự bận bịu. Quan niệm “Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con”, thắt lưng gợi ý về một chức phận của đời người. Nó còn phản chiếu quan niệm bản sắc: “Nào đâu cái yếm lụa sồi/ Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân… Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa” (Chân quê – thơ Nguyễn Bính). Thật trùng hợp khi bất kể dân tộc, thắt lưng tôn lên cái eo người con gái, gián tiếp dẫn đến một ẩn ức nhục cảm: “Anh lê bước về nhà mà hồn còn ngủ nơi thắt lưng em” (dân ca Mông).

Ở phương diện khác, chiếc thắt lưng cũng đại diện cho một sự trói buộc. Trong thiên truyện Vợ chồng A Phủ mà học sinh Việt Nam nào cũng phải học, khi Tô Hoài cho nhân vật A Sử trói Mị vào cột nhà, trói tay vợ bằng cái thắt lưng để cô không đi chơi được, ông cũng tiết lộ hắn đeo một cái thắt lưng xanh. Thắt lưng giống như sợi lạt cuối cùng gói chặt một cái bánh chưng, như một cái khóa khóa kín tất cả những gì thuộc về bản thể và đến lượt nó đại diện cho chính bản thể. Thắt lưng trở thành thân phận.

Một nữ giáo viên trường Albert Sarraut (Hà Nội) trong bộ váy có đeo thắt lưng khoảng thập niên 1940.


Sự nai nịt gọn gàng cũng lại chuẩn bị cho một thực tế khác của lịch sử: những cuộc chiến tranh. Con người trong chiến tranh đương nhiên ý thức thắt lưng là nơi trung tâm cơ thể, chỗ nhiều bộ phận cần bảo vệ và vì thế, là yếu huyệt của mỗi cá thể. Cuộc chiến tranh du kích đem lại một vài thuật ngữ sống còn như “Bám thắt lưng địch mà đánh”, nghĩa là đánh ở sát cạnh địch, ngay chỗ chúng không ngờ tới và đúng điểm huyệt của đối phương.

Thắt lưng của người vũ trang là nơi gài vũ khí, vừa tầm cữ bàn tay rút lựu đạn, con dao hay khẩu súng lục. Thắt lưng vừa mới là biểu tượng lãng mạn tình tứ, thoắt đã có thể là nơi tập trung công cụ bạo lực.

Tuy thế, truyền thống thi ca vẫn kịp trữ tình hóa cái thắt lưng thời chiến: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” (Việt Bắc – thơ Tố Hữu). Ở một vùng sơn cước, người kháng chiến vẫn kịp ghi lại “hình dung một chiếc thắt lưng xanh, một chiếc khăn màu trắng trắng, với nụ cười nàng quá xinh” (Nụ cười sơn cước – nhạc Tô Hải).

Các nhà thơ và nhạc sĩ ngẫu nhiên tiếp nối một hình ảnh đã có trong diễn xướng tâm linh: “Lưng đai xanh bồ đậy dao quai/ Trên đầu lược dắt trâm cài” (hát văn Chầu Bé Bắc Lệ, Hữu Lũng, Lạng Sơn). Người ta đọc thấy chiếc thắt lưng lấp lánh ánh đuốc của miền rừng cất giấu những khả năng sinh tồn của con người.

Quảng cáo làm thắt lưng da ở phố Hàng Gai (Hà Nội), báo Cứu Quốc 7.8.1946.

 

Những cuộc binh lửa đi qua cũng kịp gieo cấy cái nhìn lãng mạn về phẩm chất nam tính qua những phụ kiện thắt lưng giắt súng “côn bạt” hay loại thắt lưng gài băng đạn “xanh tuya”.  

…Nhưng ai nấy hầu như vương vấn nhiều về thị xã Tuyên Quang, cái Hà Nội tha hương của chúng tôi.

Thường ra thị xã chơi, ai đi những đâu, chiến dịch lên biên giới, chuyển công tác khu 3, khu 4, có khi vào tận miền Nam rồi trở lại đây, Trọng Hứa, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân và những trang hảo hán ngựa hồng súng côn bạt từ mặt trận về hậu phương, lạnh lùng làm điệu ném cương ngựa vắt lên cửa quán ven đường.

…Giờ đây như nhau, chiếc mũ ca lô dạ tím, đôi giầy có cổ, chiếc thắt lưng trễ tràng một điệu kiểu cách cố ý với bên hông khẩu súng lục, con dao găm.

(Những gương mặt – Tô Hoài)

Thời chiến tranh đi qua, chiếc thắt lưng nhà binh bằng da thuộc nâu sẫm, nhựa ép màu nâu gạch hay vải dù màu cỏ úa nhường chỗ cho những thắt lưng hàng hiệu đủ màu sắc. Đàn ông thời hiện đại có lẽ sẽ hãnh diện khi đeo một cái thắt lưng Hermes da cá sấu có mặt khóa chữ H bằng hợp kim trắng giá hơn 4000 đôla Mỹ.

Chúng dĩ nhiên đẹp, cái đẹp của một thời đại tiêu dùng đảm bảo bằng chữ tín của thương hiệu. Chữ H lấp lánh ở trước bụng người đàn ông xem ra có khả năng đem lại sự tin cậy của tiền bạc, khác nào một cái bao súng lục sĩ quan đeo ngang hông thời chiến làm thổn thức nhiều em gái hậu phương?

Tuy nhiên, chữ H hay bao súng cũng chỉ đẹp khi anh đàn ông đeo mấy thứ đó có vòng bụng khiêm tốn. Chiếc thắt lưng giờ đây lại có hơi hướng phù phiếm, kiểu cách. Nó bị gắn với ám ảnh vòng hai và cơn cuồng bụng sáu múi, phần nào mách bảo về điều kiện sống và sức khỏe của chủ nhân.

Những người Pháp làm ra những cái thắt lưng đắt đỏ nọ cũng là chủ nhân câu ngạn ngữ “Thắt lưng càng dài cuộc đời càng ngắn”, không lẽ muốn tiết kiệm da cá sấu làm thắt lưng?

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 17.4.2020.

Đầu tháng 5 năm 1989, từ Moskva, nhà văn Vương Trí Nhàn rủ tôi đi thăm nhà giáo Trần Đình Sử (*) đang làm thực tập sinh cao cấp ở thủ đô Kiev của nước Cộng hòa Ucraina.

20201106 7

Ảnh: Từ trái qua phải: Vương Trí Nhàn, Trần Đình Sử, Huỳnh Như Phương trước nhà bảo tàng M. Bulgakov ở Kiev (1989).

Tôi mừng quá, vì ở nước Nga đã hơn ba năm mà tôi chỉ mới một lần ra khỏi Moskva đi Leningrad. Những năm tháng đó, quy định nghiêm ngặt, người nước ngoài muốn đi từ thủ đô Moskva đến thành phố khác phải có visa, nếu không có mà gặp kiểm tra, thì sẽ bị phạt tiền, thậm chí bị áp giải về nơi xuất phát. Nhiều người Việt Nam đánh liều, cứ đi khắp Liên bang Xô viết cũng chẳng sao; còn chúng tôi thì nhát gan, không dám phiêu lưu. Ông Nhàn và tôi phải đến cơ quan công an đợi một buổi sáng mới có visa cho phép.

Hai năm trước đó, tôi được ông Trần Đăng Suyền mời đến phòng gặp gỡ và dùng cơm với ông Trần Đình Sử lần đầu khi ông lên Moskva liên hệ công tác. Còn tên tuổi ông thì giới trẻ làm nghiên cứu văn học chúng tôi biết đến từ lâu, đặc biệt là sau khi ông bảo vệ luận án trở về và xuất hiện thật ấn tượng với hai bài viết về thi pháp Truyện Kiều trên tạp chí Văn học. Hồi đó trong đồng nghiệp hay có câu nói vui: “Ân - sử thi, Sử - thi pháp”. Ân là Lại Nguyên Ân, viết nhiều và sâu sắc về tiểu thuyết sử thi, văn học sử thi. Sử là Trần Đình Sử, người có công lớn trong việc đưa thi pháp học Nga vào khoa nghiên cứu văn học ở Việt Nam lúc đó còn bị ảnh hưởng nhiều bởi cách tiếp cận xã hội - lịch sử. Thời gian đầu khi sang Moskva học tập, tôi đã vào thư viện quốc gia đọc luận án của các bậc đàn anh để rút kinh nghiệm, trong đó có luận án của Trần Đình Sử: Thời gian như là nhân tố cấu thành của tác phẩm văn học (Trên tư liệu văn xuôi Xô viết về Lênin). Thì ra, ngay từ rất sớm, Trần Đình Sử đã tìm cách vận dụng thi pháp học Nga vào phân tích cấu trúc tác phẩm văn học, đặt những nền tảng bước đầu cho những công trình dài hơi của ông sau này như Thi pháp thơ Tố Hữu, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Thi pháp Truyện Kiều.

Chuyến đi đó thật vui. Kiev là một thành phố cổ kính, có truyền thống văn hóa lâu đời với nhiều di tích lịch sử nổi tiếng, nằm bên bờ sông Dnepr, thuộc địa bàn Đông Âu. Tàu hỏa đi về Kiev thời gian lâu hơn đi Leningrad, gần như theo hai hướng ngược nhau. Trần Đình Sử được Trường Đại học Tổng hợp dành cho một căn phòng khá rộng rãi trong ký túc xá. Ông đi mượn hai chiếc giường xếp cho ông Nhàn và tôi, chuẩn bị thức ăn để cùng nấu ăn trong ba ngày chúng tôi ở đó. Ông dành hết thời gian cả ba ngày để đưa chúng tôi đi thăm các thắng cảnh của Kiev, thăm nhà bảo tàng các danh nhân, uống cà phê, mua sách, chụp ảnh. Mùa hè thành phố cây lá xanh tươi, hoa nở khắp chốn, đứng trên đồi cao nhìn xuống dòng sông Dnepr lững lờ trôi, thấy đời sống thật thanh bình, dù mới ba năm trước nơi đây từng bị ảnh hưởng bởi một thảm họa môi trường nghiêm trọng là vụ nổ nhà máy điện nguyên tử Tchernobyl cách Kiev khoảng 110 km về phía bắc. Với những con đường dốc, những vỉa hè lát đá, những ngôi nhà cổ theo kiến trúc châu Âu, Kiev làm tôi nhớ Đà Lạt, tuy thành phố này hoành tráng hơn Đà Lạt rất nhiều.

Đời sống ở Kiev bình lặng chứ không chộn rộn như Moskva, tuy hơi buồn nhưng lại dễ tập trung cho chuyên môn. Tôi hiểu vì sao ông Sử thích trở lại nơi này và đã làm được nhiều việc như vậy trong thời gian ở đây. Nhưng hồi đó trông ông không được khỏe. Hình như bệnh suyễn làm ông dị ứng với mùi phấn hoa loang khắp các ngả đường thành phố. Có hôm ba chúng tôi đang nói chuyện văn chương rôm rả khi đi bộ qua một công viên, thì ông Nhàn và tôi chợt quay lại thấy ông Sử lạc đâu mất. Hoảng hồn, chúng tôi đi ngược trở lại mới thấy ông Sử ngồi một mình trên chiếc ghế đá bên đường vì khó thở, mệt đến nỗi không kêu được bạn đồng hành dừng lại chờ.

Nghĩ cũng lạ, chỉ vài năm sau là Liên Xô tan rã, Ucraina không còn phụ thuộc Moskva, trở thành thành viên của Cộng đồng các quốc gia độc lập, rồi thành nước có chủ quyền, vậy mà lúc đó chúng tôi không hề nhận ra một dấu hiệu gì báo trước. Chúng tôi vẫn nghĩ là công cuộc cải tổ sẽ giúp Liên Xô trụ vững. Theo dõi và nắm bắt những chuyển biến đầy nhạy cảm của trí thức Xô-viết nhưng không ai trong chúng tôi hình dung được những biến cố chính trị sẽ diễn ra vào cuối năm 1989 và những tháng sau đó. Lịch sử quả đã đi những bước không ngờ, bước đầu rón rén nhưng đến lúc thì đột biến.

Trong những câu chuyện kéo dài mấy đêm ở Kiev, chúng tôi chỉ bàn bạc xoay quanh văn chương chữ nghĩa mà không đụng gì đến thời cuộc, dù ai cũng hiểu rằng cái nghề của chúng tôi không thể nào tách rời khỏi thời cuộc. Chỉ một thời gian sau chuyến đi ngắn ngủi đến Kiev đó, ông Nhàn, ông Sử và tôi lần lượt giã từ Liên bang Xô-viết, trong những ngày sân bay Tsheremechievo rối loạn, trước khi thể chế hùng mạnh này sụp đổ.

Theo dõi tin tức về những thay đổi ở Ucraina gần đây, tôi thầm biết ơn hai ông Trần Đình Sử và Vương Trí Nhàn đã cho mình cơ duyên có chuyến đi quý giá đó trong đời, không dễ gì có được lần thứ hai. Và tôi vẫn luôn ngẫm nghĩ về những câu chuyện nghề nghiệp với hai nhà văn đàn anh trong lần gặp gỡ đó.

Lịch sử giao lưu văn hóa Xô - Việt đã tạo điều kiện cho mấy thế hệ người Việt mở cửa nhìn ra bên ngoài, dù chỉ là một phần thế giới. So với hoàn cảnh cấm vận thời hậu chiến ở nước mình, dù sao Liên Xô nói chung, nước Nga nói riêng vẫn có một số cái khác và cái mới. Tuy ở xứ sở này nhiều phương diện về xã hội và mức sống còn thua sút phương Tây, nhưng căn cốt văn hóa của họ, được xây nền đắp móng từ những thế kỷ trước, làm nên bản sắc và bề dày mà thế giới phải nể trọng. Không chỉ A. Pushkin, T. Shevchenko, L. Tolstoi, F. Dostoievsky... ở thế kỷ 19, I. Bunin, M. Bulgakov, B. Pasternak, A. Solzhenitsyn... ở thế kỷ 20 trên bình diện sáng tác; mà cả trường phái Hình thức Nga, A. Veselovsky, M. Bakhtin, Yu. Lotman... trên lĩnh vực lý luận - phê bình đã được dịch thuật, giới thiệu, nghiên cứu rộng rãi và sâu sắc trong học giới nước ngoài, có khi còn sớm sủa hơn trên chính quê hương của các tên tuổi ấy. Qua Pháp tôi thấy sách lý thuyết văn học nào cũng trình bày cặn kẽ về quan niệm mỹ học của trường phái Hình thức Nga và Bakhtin; không có hai di sản đỉnh cao này thì không có chủ nghĩa cấu trúc Pháp, Claude Lévi-Strauss, Tzvetan Todorov và Julia Kristeva. Có lần, ngay giữa Tp. Hồ Chí Minh, tôi đưa ông Trần Đình Sử tìm mua được bộ Toàn tập Bakhtin bằng tiếng Trung trong một hiệu sách ngoại văn trên Chợ Lớn.

Có thể nói sự đổi mới văn học ở Liên Xô không chỉ góp phần đem lại làn gió mới cho khoa nghiên cứu, phê bình văn học Việt Nam; mà còn chuẩn bị tâm thế cho thế hệ học giả trẻ kế tục tiếp thu thuận lợi hơn những thành tựu và kinh nghiệm của học giới phương Tây, khi đất nước đã mở rộng cánh cửa hội nhập với thế giới. Sự kết hợp hài hòa của hai nguồn ảnh hưởng này được nâng cao là đặc điểm của sự phát triển khoa học nhân văn Việt Nam những thập niên đầu thế kỷ 21.

Nhìn lại tấm ảnh chụp ba người chúng tôi trước nhà bảo tàng M. Bulgakov ở Kiev (in trong Tuyển tập Trần Đình Sử, tập 2, Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 2005, tr. 237), mới đó mà hơn 30 năm đã trôi qua. Sau chuyến đi đó, tôi có nhiều dịp cộng tác và gặp gỡ với giáo sư Trần Đình Sử, lúc ở Hà Nội, lúc ở Tp. Hồ Chí Minh. Qua những công trình mới của ông, những cuộc hội thảo khoa học, những đề tài nghiên cứu tập thể, tôi luôn học hỏi ở ông tinh thần lao động không mệt mỏi, kiên trì hướng đến những khám phá khoa học vừa đề cao tính nghệ thuật và đặc trưng thẩm mỹ, vừa tôn trọng chức năng xã hội và giá trị nhân văn của văn học; kết hợp tiếp thu tinh hoa văn học thế giới với nỗ lực phát huy phẩm chất văn hóa của dân tộc mình.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 378/08-2020.

........................................

(*) Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo nhân dân Trần Đình Sử sinh ngày 10/8/1940 tại thành phố Huế, nguyên quán thôn Phú Lễ, xã Quảng Phú, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ. Tác phẩm chính: Thi pháp thơ Tố Hữu, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Những thế giới nghệ thuật thơ, Lý luận và phê bình văn học, Dẫn luận thi pháp học văn học, Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Đọc văn - học văn, Văn học và thời gian, Thi pháp Truyện Kiều, Tuyển tập Trần Đình Sử (2 tập), Một nền lý luận văn học hiện đại (nhìn qua thực tiễn Trung Quốc), Trên đường biên của lý luận văn học, Giáo trình lý luận văn học (chủ biên, 2 tập), Tự sự học - lý thuyết và ứng dụng (chủ biên).

TTO - Tippi Hedren nổi tiếng trên màn ảnh Hollywood khi được mệnh danh là "mỹ nhân tóc vàng cuối cùng" của Alfred Hitchcock - ông vua phim kinh dị của điện ảnh thế giới.

20200504 2

Tippi Hedren (phải) và diễn viên Kiều Chinh - Ảnh: NVCC

Thế nhưng, với cộng đồng người Việt tại hải ngoại, bà được biết đến nhiều hơn khi được coi là "mẹ đỡ đầu của ngành làm móng".

Người phụ nữ vừa bước sang tuổi 90 này cũng là người bảo trợ cho nữ diễn viên Kiều Chinh gia nhập Hollywood sau năm 1975...

"Người đẹp tóc vàng" cuối cùng của Alfred Hitchcock

Vóc dáng khá nhỏ bé (chỉ cao 1,63m), nhưng nhờ gương mặt xinh đẹp và mái tóc vàng rực rỡ, Tippi Hedren khởi nghiệp với vai trò người mẫu tại New York trước khi lấn sân vào ngành công nghiệp giải trí của Hollywood.

Năm 1962, khi xem Tippi đóng trong một quảng cáo trên truyền hình của Đài NBC, đạo diễn huyền thoại Alfred Hitchcock đã cho trợ lý của mình liên hệ với bà và ngay lập tức ký hợp đồng để Tippi Hedren đóng vai chính trong bộ phim kinh dị The birds (Đàn chim dữ), quay vào cuối năm 1962 và trình chiếu vào năm 1963.

Trong bộ phim The birds, Tippi Hedren đóng vai Melanie Daniels - cô con gái xinh đẹp của một chủ báo giàu có ở San Francisco. Khi bị tay luật sư chơi khăm trong một cửa hàng bán chim cảnh, Melanie quyết định lái xe đến vịnh Bodega (phía bắc của San Francisco) để trả đũa.

Nhưng tình cờ, cô và những người dân trong thị trấn này trở thành nạn nhân của một đàn chim dữ vô cớ tấn công bất cứ người nào chúng nhìn thấy ngoài đường... Từ một cô gái trẻ đến thị trấn để trả đũa kẻ chơi khăm mình, Melanie trở thành người phụ nữ mưu trí và dũng cảm cứu giúp nhiều đứa trẻ vô tội - nạn nhân của đàn chim dữ.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 2.

Tippi Hedren trong phim The Birds

Thời điểm đầu thập niên 1960, khi kỹ xảo điện ảnh chưa phát triển nhưng Alfred Hitchcock vẫn biến The birds trở thành một bộ phim kinh dị rùng rợn và hồi hộp, đặc biệt ở những cảnh đàn chim dữ hàng ngàn con lao xuống tấn công thường dân. Bộ phim thành công vang dội về doanh thu và đến nay vẫn được xem là một trong những kiệt tác điện ảnh của Alfred Hitchcock.

Ngay từ vai diễn trong bộ phim đầu tay, Tippi Hedren đã thành công và nổi tiếng nhanh chóng. Hitchcock khen ngợi Tippi có một vai diễn mang tính đột phá, đồng thời cũng giúp bà nhận được giải thưởng Quả cầu vàng và Photoplay cho diễn viên mới xuất sắc nhất.

Vai diễn Melanie Daniels trong The birds của Tippi Hedren cũng được tạp chí uy tín Premiere bình chọn là 1 trong 100 nhân vật điện ảnh vĩ đại nhất mọi thời đại.

Nhờ thành công ấn tượng này, Tippi tiếp tục được mời đóng vai chính trong bộ phim tiếp theo của Hitchcock là Marnie (1964), đóng chung với ngôi sao người Scotland là Sean Connery, người cũng vừa thành công với vai diễn trong bộ phim James Bond đầu tiên (Dr. No năm 1962).

Tuy nhiên, mối quan hệ công việc giữa Hitchcock và Hedren đổ vỡ và kết thúc sau bộ phim này do một số bất đồng trong quá trình quay phim.

Sự nghiệp điện ảnh sau đó của Tippi Hedren lên xuống thất thường, trong đó có lần hợp tác thất bại với Charles Chaplin trong bộ phim A countess from Hongkong (1967) hay bộ phim bom tấn về thế giới động vật hoang dã có tên là Roar (1981) mà bà đóng vai chính kiêm sản xuất. Tippi Hedren tiếp tục xuất hiện trong các bộ phim, sân khấu và cả truyền hình.

Ở tuổi ngoài 70, bà vẫn tham gia đóng các vai nhỏ trong các bộ phim hài với những diễn viên trẻ như phim Citizen Ruth (1996) của đạo diễn Alexander Payne hay I Heart Huckabees (2004)...

Những đóng góp của bà cho điện ảnh đã được vinh danh với nhiều giải thưởng, trong đó có giải Thành tựu trọn đời tại Liên hoan phim The Beauvais Cinemalia năm 1994 ở Pháp.

Bà cũng từng được xuất hiện trên Đại lộ danh vọng (Walk of Fame) bên cạnh con gái (Melanie Griffith - cũng là diễn viên nổi tiếng từng đoạt Oscar) và cháu ngoại là Dakota Johnson (nữ diễn viên chính trong bộ ba phim 50 sắc thái).

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 3.

Tippi Hedren trong phim The birds

Mẹ đỡ đầu ngành công nghiệp làm móng của người Việt

Di sản của Tippi Hedren không chỉ trong lĩnh vực điện ảnh mà còn cả những hoạt động nhân đạo và môi trường, đặc biệt là với cộng đồng người Việt tại Mỹ - nơi bà được xem là "mẹ đỡ đầu" cho ngành công nghiệp làm móng (nail) có trị giá hơn 8 tỉ USD.

Hiện nay hơn 80% thợ làm móng ở Nam California, 51% tính trên khắp các tiểu bang của nước Mỹ là người Việt. Rất nhiều người thợ làm móng ngày nay tại Mỹ là hậu duệ của 20 người phụ nữ Việt làm móng đầu tiên mà Tippi Hedren nhận bảo trợ và đào tạo vào tháng 6-1975.

Thời điểm đó, Tippi Hedren và bác sĩ Larry Ward - một nhà nhân đạo của tổ chức phi lợi nhuận Food for the Hungry - đã mở Hope Village (Ngôi làng Hi vọng) tại California với mục đích thành lập một trung tâm tái định cư để giúp đỡ người di cư ổn định cuộc sống sau chiến tranh nơi đất khách quê người.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 4.

Tippi Hedren và Kiều Chinh trong trạng phục áo dài Việt Nam - Ảnh: NVCC

Không chỉ giúp đỡ người Việt Nam có nơi sinh sống tạm thời, Tippi Hedren còn đào tạo và giúp họ có công việc mới trên đất Mỹ: làm móng (nail). Nhận thấy sự khéo léo và chăm chỉ của phụ nữ Việt Nam, Tippi Hedren đã mời chuyên gia về đào tạo nghề làm móng cho 20 phụ nữ Việt Nam tại Hope Village.

Đây được coi là bước đầu tiên cho sự bùng nổ các tiệm nail do người Việt sở hữu sau này và dần dần trở thành một ngành công nghiệp hàng tỉ đôla tại Mỹ. Vì vậy Tippi Hedren còn được cộng đồng người Việt tại Mỹ gọi là "mẹ đỡ đầu của nghề làm móng" của người Việt khắp năm châu.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 5.

Tippi Hedren (giữa) nhờ thợ làm móng Dusty Cootes dạy nghề cho nhóm 20 phụ nữ Việt Nam vào năm 1975 - Ảnh từ phim tài liệu Nailed It của Adele Free Phạm

Mối thâm tình giữa Tippi & Kiều Chinh

Trong chuyến đến Mỹ công tác cho dự án khảo cứu điện ảnh của Sài Gòn trước 1975 do Hội đồng Anh tại Việt Nam tài trợ, tôi đã đến nhà riêng của nữ diễn viên Kiều Chinh để phỏng vấn bà.

Trong căn phòng làm việc của Kiều Chinh, nơi diễn ra cuộc phỏng vấn kéo dài suốt 6 tiếng đồng hồ, tôi nhận thấy có khá nhiều bức hình chụp bà với Tippi Hedren và được bà cho biết đó là người bảo trợ và ân nhân của mình sau năm 1975.

Kiều Chinh cho biết bà gặp Tippi Hedren lần đầu tiên vào năm 1965 khi nữ diễn viên của Hollywood sang miền Nam Việt Nam cho các hoạt động nhân đạo của bà. Sau ngày 30-4-1975, Kiều Chinh định cư tại Canada.

Và từ một nữ diễn viên hàng đầu tại miền Nam Việt Nam, có hãng phim riêng và từng đóng phim với các tài tử Hollywood, Philippines, Ấn Độ; Kiều Chinh phải bắt đầu cuộc sống mới tại Canada với nghề... dọn dẹp chuồng gà để kiếm sống. Bà làm công việc vất vả cực nhọc này với số tiền 2 đôla một giờ.

Không thể tiếp tục công việc nặng nhọc này, Kiều Chinh quyết định dùng số tiền ít ỏi kiếm được để gọi điện thoại đường dài sang Mỹ nhờ người quen giúp đỡ.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 6.

Tippi Hedren và "ông vua" phim kinh dị Hitchcock

Sau nhiều cuộc điện thoại bất thành với những tài tử Hollywood nổi tiếng từng đóng chung phim với bà như Burt Reynolds, Glenn Ford và William Holden; Kiều Chinh quyết định dùng 15 đôla cuối cùng để gọi cho một người mà bà chỉ gặp một lần ngắn ngủi cách đó hơn 10 năm: nữ diễn viên Tippi Hedren.

Rất may mắn là Tippi Hedren nhận được cuộc gọi của Kiều Chinh và cũng là lúc mà bà vừa thành lập Hope Village. Kiều Chinh cho biết hai ngày sau, bà nhận được điện tín của Tippi, kèm thư và vé máy bay của tổ chức Food for the Hungry mời nữ diễn viên Kiều Chinh sang Mỹ, dự lễ khánh thành Hope Village ở Sacramento (California).

Sau một thời gian ngắn ở Hope Village để ổn định cuộc sống mới, Tippi Hedren còn đưa Kiều Chinh về ở cùng nhà, ở căn phòng của cô con gái là Melanie Griffith (lúc đó mới ra riêng ở với bạn trai) và lo giấy tờ giúp Kiều Chinh được ở lại Mỹ để tiếp tục hoạt động điện ảnh.

Tippi cũng giúp Kiều Chinh vào Hiệp hội Diễn viên Mỹ (Screen Actor Guild) nhờ những hoạt động điện ảnh ấn tượng trước đó tại miền Nam Việt Nam trước 1975 và đặt những bước chân đầu tiên để bà tiến vào Hollywood.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 7.

Tippi Hedren và Sean Connery trên poster phim Marnie

Hai năm sau, Kiều Chinh có vai chính đầu tiên trong một tập phim của bộ phim truyền hình thành công nhất tại Mỹ trong thập niên 1970: M.A.S.H, đóng chung với nam diễn viên kỳ cựu Alan Alda - người đoạt rất nhiều giải Emmy và Quả cầu vàng nhờ bộ phim này.

Từ đó đến nay, Kiều Chinh vẫn tiếp tục hoạt động tại Hollywood và có thêm hàng chục vai diễn lớn nhỏ, trong đó thành công nhất phải kể đến bộ phim The Joy Luck Club (Phúc Lạc Hội) năm 1993 - bộ phim mà bà đóng một trong những vai chính và rất thành công về doanh thu và nghệ thuật.

Tippi Hedren dành những lời ưu ái và chân thành về Kiều Chinh trong một cuốn sách vinh danh sự nghiệp điện ảnh kéo dài gần sáu thập niên của bà: "Kiều Chinh là một trong những phụ nữ mạnh mẽ, giàu nghị lực và thanh lịch nhất mà tôi từng gặp trong đời".

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 8.

Tippi Hedren và Kiều Chinh trong sự kiện vinh danh nghề làm nail của người Việt tại Mỹ - Ảnh: NVCC

Nhà hoạt động nhân đạo tích cực

Nhờ quá trình thâm nhập thực tế trong suốt 11 năm để thực hiện bộ phim Roar, Tippi Hedren trở thành một nhà hoạt động tích cực về môi trường và động vật hoang dã. Bà trở thành nhà sáng lập và điều hành của tổ chức The Roar Foundation.

Trong những năm của thập niên 1970, 1980, Tippi Hedren đi khắp thế giới và dành nhiều thời gian cho các hoạt động nhân đạo và từ thiện.

Bà là điều phối viên cứu trợ quốc tế cho tổ chức Food for the Hungry và thiết lập các chương trình cứu trợ cho nạn nhân sau động đất, bão lũ, nạn đói và chiến tranh. Nhờ những hoạt động không mệt mỏi này, bà đã nhận được vô số giải thưởng nhà hoạt động nhân đạo của thế giới.

Lê Hồng Lâm

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 26.4.2020.

Thông tin truy cập

63704220
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
2314
22198
63704220

Thành viên trực tuyến

Đang có 246 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website