Với người Việt, bệnh tật và tuổi già đôi khi là một trải nghiệm. Người Việt chuẩn bị cho những nấc bậc trên con đường cuộc đời tương đối rành mạch. Sự đối diện với các mối đe dọa sức khỏe của người Việt vừa thực tế, vừa thấm một tinh thần lạc quan.

Tâm trí người Việt cho đến thập niên thứ hai của thế kỷ XXI vẫn dành nhiều cảm thức về tháng Bảy âm lịch, tháng mà theo quan niệm xưa là khoảng thời gian kiêng các việc đại sự. Người ta nhất định tin vào những điều như không xây nhà vào tháng Bảy vì là “tháng cô hồn”, tháng xá tội vong nhân, tháng của những rủi ro, bất trắc. Điều này có từ một phức cảm mang tính văn hóa: quan niệm về chặng cuối của cuộc đời.

Nói về bệnh tật và tuổi già, quan niệm nhân sinh của người Việt xưa nay dành nhiều trọng lượng cho “lão” và “bệnh”. Chúng chiếm đến một nửa vòng đời người như trong câu “sinh, lão, bệnh, tử” mà người Việt quen thuộc. Phần không mong muốn này của kiếp nhân sinh được đối diện tùy vào vùng văn hóa tín ngưỡng và khung triết lý mỗi con người trải nghiệm. Họ đón nhận chúng như thế nào?

Dấu ấn từ chương nhắc đến bệnh tật sớm nhất có lẽ là bài thơ Cáo tật thị chúng (Có bệnh bảo mọi người) của Mãn Giác, thiền sư đời Lý. Thực tế, nó là một loại lời trăng trối để lại cho môn đệ của vị cao tăng. Bài thơ tràn đầy tinh thần đã sẵn sàng đón nhận kết cục cuộc đời, coi bệnh tật là một trải nghiệm mà tạo hóa ban cho, tựa như cây cỏ trời đất tuần hoàn lẽ sinh rồi diệt.

Điểm khác biệt mà cũng rất thông thường là đôi câu cuối, khi tác giả nối dài sự có mặt của mình bằng hình ảnh: Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết/ Đêm qua sân trước một nhành mai (bản dịch Ngô Tất Tố).  

20200905 3

Đốt hình nhân thế mạng - tranh khắc gỗ, Henri Oger, 1915.

Cảm xúc mang tính siêu hình về bệnh tật và cái chết chủ yếu liên quan đến sự hóa giải những phiền não, những bí thuật cứu khổ cứu nạn, những dấu ấn của một vài tôn giáo. Người Việt hay gắn cuộc đời với số mệnh. “Lão” và “bệnh” do đó nằm trong một trật tự số đếm trên con đường dẫn tới số cuối cùng là cái chết. 

Nỗi suy tư về trật tự này thật ra không nhuốm màu ảo não hay hư vô như trong một số nền văn hóa khác. Với người Việt, bệnh tật và tuổi già đôi khi là một trải nghiệm. Người Việt chuẩn bị cho những nấc bậc trên con đường cuộc đời tương đối rành mạch. Họ dành vài ngày đặc biệt trong năm cho những nghi thức cúng bái mong những điều tốt đẹp kiểu “phúc lộc mãn đường”, chẳng hạn những ngày mồng một, ngày rằm, ngày trùng; từ tiết Hàn thực (3.3) đến tết Đoan ngọ (5.5) hay lễ Vu lan vào rằm tháng Bảy.

Người Việt gán cho những ngày này một vai trò quan trọng, ứng với những nhận thức có được qua kinh nghiệm sống gắn với thiên nhiên hàng nghìn năm. Chẳng hạn họ đặt cho ngày 5.5 âm lịch cái tên “Tết diệt sâu bọ”. Nhiều người giải thích do thời điểm này ứng với lúc tiết trời ấm áp, sâu bọ sinh sôi nảy nở cùng lúc hoa quả đầu mùa bói dịp cuối xuân sang hè, nên nghi thức sinh ra tục lấy lá ngón nhuộm móng tay hay cúng các thức quả đầu mùa, rượu nếp… mong tránh bệnh tật.

Cúng xong thì những đồ ăn thức uống là những món “thời trân thức thức sẵn bày”, ai nấy thụ hưởng với niềm tin gửi gắm vào nghi lễ đã hoàn tất. Sự đối diện với các mối đe dọa sức khỏe của người Việt vừa thực tế, vừa thấm một tinh thần lạc quan.

Song, tháng Bảy âm lịch mới là tháng quan trọng hơn cả trong phức cảm của người Việt khi đối diện với những bất trắc. Họ dành ít nhất vài ngày, mồng một, trùng thập (7.7) hay ngày rằm để lo liệu cúng bái, trong đó ngày rằm còn có tên lễ “Xá tội vong nhân” (còn có tên lễ Vu lan) dành tưởng niệm những linh hồn cơ nhỡ, không ai hương khói. Dữ liệu ấy đậm nét đến độ át hẳn sự tích Ngưu Lang - Chức Nữ cũng vào mùa mưa ngâu tháng Bảy. Nếu như các ngày lễ tiết khác họ cầu cúng tổ tiên, thì những ngày lễ trong tháng Bảy, còn mang tên “Tháng cô hồn”, có lẽ là thời khắc mà người Việt nghĩ về kẻ khác. 

Thương thay thập loại chúng sinh
Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người…
Tiết đầu thu lập đàn giải thoát
Nước tĩnh bình rưới hạt dương chi
Muôn nhờ đức Phật từ bi,
Giải oan, cứu khổ, hồn về Tây phương

(Văn tế thập loại chúng sinh - Nguyễn Du)

Những lời “văn chiêu hồn” như lời an ủi vỗ về các vong hồn tìm được sự bình an dưới lăng kính đạo Phật, thực tế là một cách đối diện với nỗi đau thể xác và tinh thần. Đối diện với các linh hồn là để chuẩn bị cho một cái chết về sau, nối dài niềm tin về thế giới bên kia. 

Ở một chiều khác, nhiều cư dân châu thổ Bắc bộ từ các thế kỷ cận đại có một cách hóa giải khác những lo lắng về tương lai. Họ thực hành các hành vi tín ngưỡng dân gian một cách say mê, như các nghi thức hầu đồng và hát văn cầu cúng các thần linh trong hệ thống đạo Mẫu.

Chẳng hạn, nhân vật gắn với tháng Bảy âm lịch - ông hoàng Bảy thờ ở đền Bảo Hà nơi biên giới Lào Cai - lại tượng trưng cho những lạc thú như cờ bạc, tổ tôm (thậm chí hiện đại như “lô đề”) hay tính đào hoa, trăng gió, cho dù xuất phát điểm của vị thần này là một nhân vật có công bảo vệ biên cương. Người ta cúng những thứ phục vụ các sở thích phóng túng của vị thần và người ta nhấm nháp cảm giác chạm tới cõi siêu nhiên của một tháng Bảy âm lịch trong nhang khói và điệu hát chầu văn thay vì lo sợ quỷ thần quấy nhiễu.

Người Việt có tục đốt hình nhân thế mạng, cúng cháo lá đa, bỏng gạo cho các cô hồn vất vưởng (ma đói) được ăn và thậm chí có tục cướp cháo cúng vong. Cho dù thực tế chẳng có cơ sở thực chứng nào, những nghi thức ấy bảo lưu một niềm tin sâu sắc về sự giao hòa giữa hai thế giới của người Việt.  

Bàn thờ ngày kỵ - tranh khắc gỗ, Henri Oger, 1915.

Những cách ứng xử không sa vào phiền não cũng như sự mê say các hoạt động tín ngưỡng thông qua nhân vật ông hoàng Bảy cung cấp cho con nhang đệ tử một niềm khuây khỏa rằng kiếp phù sinh cũng là đáng nếm trải. Lòng mê tín hòa trộn với những khao khát trần tục về sự phù hoa, khoái lạc có xu hướng khiến trải nghiệm như phương thuốc giúp tâm trí con nhang đệ tử vượt qua những thử thách về bệnh tật hay cái chết.

Sự có mặt tinh vi của niềm tin về vòng tuần hoàn “sinh, lão, bệnh, tử” len lỏi trong nhiều đồ vật cúng bái. Người Việt quan niệm vòng tuần hoàn này thể hiện một trật tự tuần tự cho quá trình sinh ra và chết đi, vì vậy họ ưa lựa chọn số lượng các món đồ chia 4 dư 1, để sao cho số dư ấy đồng nghĩa với sự bắt đầu một quá trình mới. Chẳng hạn việc cắm hoa cúng hoặc biện trái cây, luôn có số lượng bông hoa hay thức quả là số lẻ như 5 hay 9. Dấu vết rõ nhất là tên gọi “mâm ngũ quả”, thứ mặc nhiên định nghĩa nhận thức về vòng tuần hoàn trong kho từ vựng người Việt. 

Thật ra không chỉ các hành vi tín ngưỡng mới bận tâm đến trật tự của “sinh, lão, bệnh, tử”. Nhiều hành vi đời sống phản chiếu sâu đậm ý thức này. Chẳng hạn câu thành ngữ trên có mặt trong cách người ta bận tâm đến các số đo xây dựng nhà cửa, nhất là số đếm bậc cầu thang. Người ta luôn tính số bậc sao cho chia cho 4 còn dư 1 để bậc cuối cùng lên tầng trên rơi vào chữ “sinh”, chẳng hạn với chiều cao thông thường, số bậc lý tưởng thường là 17, 21 khi bậc cuối cùng rơi vào cung “sinh”. Cho dù nhà nhiều tầng là sản phẩm của thời hiện đại dưới ảnh hưởng của làn sóng thuộc địa hóa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, song nó mau chóng bị các quan niệm tín ngưỡng bản địa xâm nhập sâu sắc. Nó là hiện thân của sự bản địa hóa một hình thái toàn cầu hóa, mà ngày nay ngành nghiên cứu xã hội nhân văn dùng thuật ngữ glocalisation (ghép từ local/địa phương và globalisation/toàn cầu hóa) để gọi tên. 

Mối bận tâm về số lẻ dư 1 là một ví dụ len lỏi trong hành vi thường nhật, tạo ra một phức cảm về việc tránh phạm phải húy kỵ về sự đau ốm và cái chết. Như vậy, nhiều thứ cả truyền thống cũ lẫn “truyền thống mới” đều được phủ bóng bởi hệ giá trị về vòng đời con người.

* * *

Câu hỏi bật ra là thời hiện đại, liệu cái nhìn về “lão, bệnh” có biến đổi gì không? Dĩ nhiên các thành quả của khoa học, nhất là trong lĩnh vực y tế đem lại khả năng khác về trật tự vòng đời. Con người có tuổi thọ lâu hơn, song điều đó cũng đồng nghĩa với khoảng thời gian của quá trình lão hóa dài hơn và khả năng nhiễm bệnh cũng cao hơn. Con người thời hiện đại du nhập thêm những ý niệm triết học, song cũng từ phút ấy họ nghiệm ra, những ý niệm đó cũng góp phần làm cho khối cầu đá mà nhân vật Sisyphus cả đời lăn ngược lên dốc mà chính họ hóa thân, mỗi lúc nặng hơn. 

Làm sao em biết bia đá không đau” - câu hát nổi tiếng bậc nhất của Trịnh Công Sơn chính là một nhận diện mỹ cảm của nhạc sĩ về nỗi đau trần thế, về bệnh tật, tuổi già và cái chết. Ca từ Trịnh Công Sơn đem lại cho người Việt một mỹ cảm về “lão, bệnh”, điều phần đông cho rằng chúng là sự suy thoái của sự sống. Ít ai tìm đến nỗi đau thể chất và ám ảnh tuổi tác dưới những mỹ ngữ huyền ảo trong những bài ca đại chúng như vậy.

“Làm sao em biết bia đá không đau” - bìa nhạc Trịnh Công Sơn

Để bù vào khoảng vắng của những trước tác phổ thông trong đề tài này, nhạc Trịnh phơi bày và thậm chí, suy nghiệm về những cơn đau - thứ đại diện cho những căn bệnh tác động lên cơ thể xác thịt: Cơn đau nung hồng thèm tuổi hồn nhiên ngồi nhìn trời xanh; Trong trái tim con chim đau nằm yên, ngủ dài lâu mang theo vết thương sâu; Trên hai tay cơn đau dài, người nằm xuống nghe tiếng ru, cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ... Sự đối diện với cơn đau của bệnh tật giống như một trải nghiệm về cái tôi khác. Cái tôi ấy hướng về ai, khi cơn đau là riêng mình trải qua? 

Một nhà thơ nữ, Xuân Quỳnh, trong cuộc đời viết những bài thơ giản dị, đã dành bài thơ cuối cùng về bệnh tật để trả lời câu hỏi ấy: Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng/ Trái tim buồn sau lần áo mỏng/ Từng đập vì anh vì những trang thơ… Còn hiện tại của em là nỗi nhớ/ Thời gian ơi sao không đổi sắc màu (Thời gian trắng, 6.1988). Xuân Quỳnh đã trả lời: là nỗi nhớ, là lời âu yếm sẻ chia. Trên con đường tuần tự đáng sợ “sinh, lão, bệnh, tử”, hành trang như vậy giúp họ bớt cô đơn. Thi ca hiện đại đã bớt viện đến cõi siêu nhiên, cho dù vẫn bất lực trước sự bất lường của bệnh tật, các tác giả có quyền năng của kẻ sáng tạo, bởi chính cảm xúc hướng đến kẻ khác nơi họ.

Bộ phim Bao giờ cho đến tháng Mười (1984) của đạo diễn Đặng Nhật Minh từng được CNN chọn vào số 18 phim châu Á hay nhất, là một cách đối diện với mất mát hy sinh. Truyện phim kể về việc Duyên, vợ một người lính chiến đấu ở mặt trận biên giới Tây Nam, đã giấu gia đình về cái chết của chồng, cốt để không gây cú sốc quá lớn cho tuổi già của người bố chồng. Cô đã nhờ thầy giáo Khang, người dạy ở ngôi trường làng, thay chồng mình viết những lá thư giả gửi về. Câu chuyện không thể giữ kín mãi, và người thầy giáo cũng có cảm tình với Duyên…

Sức ép của sự hy sinh vô cùng khủng khiếp ở một xã hội mà sự đối diện với mất mát kéo theo vô vàn hệ lụy. Thực tế bộ phim có khả năng gợi ra một suy tư khác, nó là sức ép của một xã hội chưa đủ sức đối diện với bệnh tật và tuổi già một cách an nhiên. 

Cảnh phim "Bao giờ cho đến tháng Mười" (đạo diễn Đặng Nhật Minh, 1984).

Trong một trường đoạn giúp cho bộ phim đạt tới chiều sâu cảm xúc, Duyên lạc vào phiên chợ âm dương đêm rằm tháng Bảy. Ở phiên chợ xóa nhòa ranh giới thực ảo này, Duyên gặp chồng mình, cô nói vẫn tin anh còn sống và mong anh trở về. Người chồng đáp lại: “Anh chỉ muốn những người sống được hạnh phúc. Chỉ có những người đang sống mới làm được điều đó. Cái còn lại mãi mãi thì không thể nhìn thấy được”.

Câu trả lời của người chồng chính là một thông điệp bất biến có khả năng hóa giải sức ép thực tế hơn là những nghi thức mê tín. Trải nghiệm “lão” và “bệnh” thực ra là cần thiết để ta biết làm sao “sống được hạnh phúc”. Mỗi một sự sáng tạo như các tác phẩm thi ca, phim ảnh vừa nêu có sức mạnh đáng kể trong hoàn cảnh con người phải đối diện với những chương khắc nghiệt của cuộc đời. 

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 21.8.2020.

Tìm hiểu sức sống di sản văn học vĩ đại của Nguyễn Du trong bối cảnh thời đại văn hóa đại chúng, theo chúng tôi, là một câu chuyện có ý nghĩa. Vận dụng cơ sở lí luận và các lí thuyết cần thiết, đồng thời tham khảo kinh nghiệm một số nước trên thế giới, bài viết này phân tích thành tựu, phương hướng xúc tiến du lịch văn học và các thiết chế văn hóa liên quan trong bảo tồn, phát huy di sản Nguyễn Du.

Dù ghi chép sớm nhất về những chuyến thăm các địa điểm liên quan tác giả, tác phẩm văn học của các du khách thuộc giới tinh hoa châu Âu xuất hiện từ thế kỉ XV, và đến thế kỉ XIX, hình thức du lịch này đã dần mở rộng trong du khách đại chúng, nhưng nghiên cứu lí luận về du lịch văn học với tư cách một loại hình chuyên biệt thì mới chỉ bắt đầu từ khoảng những năm 1980.

Du lịch văn học có ý nghĩa khá quan trọng trong bảo tồn, phát huy di sản. Trong bài nghiên cứu “Du lịch văn học như người quảng bá di sản văn hóa” (Literary tourism as a promoter of cultural heritage), L.Ghetau & L.V.Esanu viết một cách hình tượng rằng: “Văn chương là một hình thức du lịch tinh thần, trong khi du lịch là mực để viết nó ra”. Du lịch văn học tạo cơ hội cho du khách tiếp xúc gần hơn, cảm nhận cụ thể, sinh động, và có thể có những suy tư thấm thía, sâu sắc hơn về tác giả, tác phẩm văn học với tư cách những giá trị văn hóa phi vật thể. Do đó, truyền thống văn học được tiếp tục gìn giữ và chuyển giao.

20200817 5

Khu di tích Nguyễn Du tại Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ảnh: TL.

Hiện nay, du lịch liên quan di sản văn học Nguyễn Du hầu như chỉ có một điểm đến đáng kể, đó là Nghi Xuân, quê hương nhà thơ, nơi có khu di tích Nguyễn Du (bắt đầu tiến hành quy hoạch năm 1965 nhân kỉ niệm 200 năm ngày sinh nhà thơ, được công nhận Di tích quốc gia đặc biệt năm 2012). Bên cạnh các di tích về họ Nguyễn Tiên Điền (đàn tế và bia đá tưởng niệm dòng họ, hai cây cổ thụ do ông nội nhà thơ trồng, nhà Tư văn - nơi thờ Khổng Tử và bình thơ văn, đền thờ và mộ cha của nhà thơ, đền thờ chú của nhà thơ…), liên quan trực tiếp cuộc đời cá nhân nhà thơ, có nhà thờ Nguyễn Du (do con cháu lập năm 1824, Hội khai trí Tiến Đức hỗ trợ xây năm 1940), mộ Nguyễn Du (xây năm 1990), phòng trưng bày “Di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều” (khai trương năm 2015, nhân kỉ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du). 

Phòng trưng bày được công bố có gần 1000 ấn phẩm, tư liệu, ảnh và hiện vật, vẫn còn khá nghèo nàn, mới chỉ giới thiệu sơ lược cuộc đời, sự nghiệp nhà thơ. Liên quan đến tác phẩm Truyện Kiều, chỉ có một số bản sách đã được in ấn, dịch và xuất bản trong nước và nước ngoài (nổi bật là cuốn sách Thư pháp Truyện Kiều cỡ lớn) và một số bức tranh minh họa tác phẩm. Như vậy, khu di tích ở Nghi Xuân chủ yếu đặt trọng tâm ở tác giả (kiểu thức Authorial - Placing the Author) hơn là chú ý đến tác phẩm nghệ thuật (kiểu thức Fictive - Locating the Fictive).

Và về tác giả thì phương diện Being (gia tộc nhiều đời tài năng, vinh hiển) dường như được nhấn mạnh hơn phương diện Doing (thành tựu sự nghiệp của cá nhân nhà thơ). Cuốn sách Họ Nguyễn Tiên Điền và khu di tích Nguyễn Du của Đinh Sỹ Hồng đưa yếu tố dòng họ lên trước trong nhan đề, mở đầu với cảm hứng “Bao giờ Ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước họ này hết quan”, và viết về dòng họ với số trang nhiều gần gấp đôi số trang về nhà thơ (tỉ lệ 46 tr /26 tr). Văn bản thuyết minh khu di tích cũng tương tự như vậy.

Nói về điểm đến đặt trọng tâm trên tác phẩm thì ta có thể đề cập “vườn Kiều” mà cụ Nguyễn Bá Khoát bắt đầu xây dựng từ năm 1996 ở phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Trên bức tường rào dài 200 mét là 20 tác phẩm phù điêu thể hiện 20 cảnh trong Truyện Kiều. Trong vườn, có phòng thờ với tượng Nguyễn Du, xung quanh là các loại cây cối, hoa lá được nhắc đến trong Truyện Kiều, một số bức tượng các nhân vật, một số công trình kiến trúc thể hiện lầu Ngưng Bích “khóa xuân” nàng Kiều, Quan Âm các - nơi Kiều bị Hoạn Thư “giam lỏng”.

Vườn Kiều hướng tới tạo dựng không gian và thế giới nhân vật của tác phẩm hư cấu, tuy nhiên, hoàn toàn chỉ do hứng thú cá nhân, kinh phí của cá nhân, tự thiết kế và xây dựng, nên điểm đến này hết sức khiêm tốn cả về quy mô lẫn trình độ nghệ thuật. “Vườn Kiều” chưa được nhiều du khách biết đến, ngay cả những người quan tâm đặc biệt đối với văn học.

Ở Việt Nam, mới chỉ có khu di tích Nguyễn Du là điểm đến du lịch văn học đáng kể. Điểm đến này, hiện nay, chủ yếu đặt trọng tâm ở cuộc đời tác giả. Liên quan cuộc đời tác giả, đúng như Trần Nho Thìn đã viết, Nghệ Tĩnh - nơi nhà thơ trải “mười năm gió bụi” - có ý nghĩa quan trọng, tuy nhiên, bên cạnh đó, chúng ta cần quan tâm đến những không gian văn hóa Nguyễn Du rất giàu ý nghĩa khác, như Thăng Long, nơi Nguyễn Du sinh ra, lớn lên và cả Trung Hoa, theo con đường đi sứ của nhà thơ năm 1813-1814.

Trong quyết định của Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh (kí ngày 6/5/2019) phê duyệt đầu tư tôn tạo khu di tích Nguyễn Du giai đoạn 1, chỉ một hạng mục liên quan trực tiếp đến nhà thơ (mộ), các hạng mục khác được ưu tiên tu bổ vẫn là của dòng họ, của địa phương (nhà bia, nhà Tư văn, chùa Trường Ninh, đền thờ - mộ Nguyễn Nghiễm, đền thờ - mộ Nguyễn Trọng). Khi xây dựng điểm đến liên quan cuộc đời tác giả, tham khảo kinh nghiệm các bảo tàng Pushkin, theo chúng tôi, cần đặt điểm nhấn nhiều hơn trên hoạt động sáng tác và thành tựu văn chương Nguyễn Du chứ không chỉ dòng dõi, nơi sinh, nơi mất.

Cần phát triển từ phòng trưng bày thành Bảo tàng “Nguyễn Du và Truyện Kiều”. Dùng mô hình hoặc tranh ảnh, phim tái hiện bối cảnh lịch sử thời đại cũng như cảnh quan vùng sông Lam núi Hồng ảnh hưởng đến cuộc đời, tư tưởng, cảm hứng và chất liệu sáng tác của Nguyễn Du. Dựa vào tư liệu thơ văn cũng có thể phục dựng hình ảnh Nguyễn Du trong các sinh hoạt văn hóa dân gian ở địa phương cũng như trong quan hệ giữa dòng họ Nguyễn Tiên Điền ở Nghi Xuân và dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu (Thác lời người con gái phường nón của Nguyễn Huy Quýnh, Thác lời người con trai phường vải của Nguyễn Du, thơ văn tặng đáp của Nguyễn Huy Vinh gửi cho Nguyễn Du và Nguyễn Hành).

Hiện vật gắn với đời sống của chính nhà thơ và gia đình nhà thơ có thể không còn giữ được bao nhiêu, nhưng di sản phi vật thể liên quan sáng tác của ông thì vô cùng phong phú. Trong bảo tàng có thể tổ chức các phòng/ tủ/ kệ trưng bày theo nhiều chuyên đề, kết hợp các màn hình tương tác, dựng mô hình, nghệ thuật sắp đặt… Chỉ khai thác từ các kỉ lục quốc gia và quốc tế của Truyện Kiều đã đủ đa dạng và hấp dẫn (tham khảo Phạm Đan Quế):

- Truyện Kiều và các truyện thơ Nôm.

- Các văn bản Truyện Kiều (mấy trăm lần xuất bản).

- Hơn 30 bản dịch Truyện Kiều ra các thứ tiếng.

- Các sách nghiên cứu, chú giải, luận án, luận văn về Nguyễn Du và Truyện Kiều (vài trăm cuốn).

- Các bài in báo, tạp chí về Truyện Kiều (hàng ngàn bài).

- Cuốn Kiều nặng nhất.

- Cuốn Kiều dài nhất.

- 7 tác phẩm Hậu Truyện Kiều.

- Bản Truyện Kiều đọc ngược.

- Các sách tập hợp các tác phẩm vịnh Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều.

- Sách tập hợp các giai thoại Truyện Kiều.

- Các bức tranh nghệ thuật về Nguyễn Du và Truyện Kiều, các bộ tranh minh họa Truyện Kiều (vài trăm bức tranh).

- Các phim chuyển thể tác phẩm Truyện Kiều, các phim tư liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều.

- Các tác phẩm sân khấu chuyển thể tác phẩm Truyện Kiều.

- Các tác phẩm âm nhạc về Truyện Kiều.

- Nguyễn Du và các danh nhân văn hóa thế giới được vinh danh cùng năm với ông.

Ngay ở khu di tích Nguyễn Du, cần đầu tư xây dựng chẳng hạn công viên “chủ đề Kim Kiều” thể hiện thế giới nhân vật cùng câu chuyện của họ, rạp phim, nhà hát, gallery, quán sách, thư viện chuyên đề Nguyễn Du và Truyện Kiều. Xa hơn, cũng có thể nghĩ đến một “thành phố văn học” ở Hà Tĩnh, gắn kết từ Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ, các văn nhân dòng họ Nguyễn Huy cho đến Huy Cận, Xuân Diệu…

Trong thực tế, hoạt động của du khách khi đến khu di tích Nguyễn Du cũng như đến “vườn Kiều” nhìn chung còn khá nghèo nàn, đơn điệu, chỉ là thăm viếng, nghe thuyết minh (hoặc trò chuyện cùng chủ nhân ngôi vườn). Lần gần nhất chúng tôi điền dã khu di tích Nguyễn Du giữa tháng 5/2019, ngoài ba người trong nhóm chúng tôi chỉ thấy lác đác dăm bảy người ghé thăm. Phỏng vấn cô hướng dẫn viên thì được biết trong năm học thường có học sinh, sinh viên các trường đến sinh hoạt ngoại khóa, tìm hiểu tác gia văn học có trong chương trình phổ thông và chương trình các khoa văn ở đại học và cao đẳng.

Website của khu di tích tuyên bố nhiệm vụ chính trị “phục vụ công tác nghiên cứu, tham quan học tập ” (http: //www.nguyendu.com.vn), không thấy thống kê số khách tham quan hàng năm, mục “Tin tức - Sự kiện” chỉ thỉnh thoảng post tin các tổ chức, đoàn thể chính quyền, kiều bào, nhà văn nước ngoài… thăm di tích. Năm 2015, trong dịp kỉ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du, một số đoàn lãnh đạo Đảng và Nhà nước, lãnh đạo địa phương, các nhà nghiên cứu về viếng mộ Nguyễn Du, dâng hương tại tượng đài, làm lễ giỗ tại nhà thờ Nguyễn Du.

Nghĩa là các hoạt động có vẻ hành chính, tưởng nhớ Nguyễn Du theo tín ngưỡng thờ cúng tiền nhân được tổ chức ở khu di tích. Còn lễ kỉ niệm với chương trình biểu diễn nghệ thuật khá phong phú, hấp dẫn thì được tổ chức tại quảng trường trung tâm thành phố Hà Tĩnh. Có thể cảm nhận hoạt động của khu di tích Nguyễn Du chưa nỗ lực hướng tới tăng sức thu hút du lịch đối với đông đảo đại chúng.

Để các hoạt động du lịch văn học có hiệu quả hơn nữa trong bảo tồn, phát huy di sản Nguyễn Du, trước hết, cần tìm kiếm những giá trị vĩnh cửu của Nguyễn Du và Truyện Kiều. Nếu đồng tình với nhận định nổi tiếng của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, chúng ta có thể gắn kết di sản Nguyễn Du với vẻ đẹp ngôn ngữ, thơ ca dân tộc.

Nhớ đến lời của Lưu Trọng Lư: “Truyện Kiều là một sự không cùng. Hôm qua nó là của Phạm Quý Thích, của Chu Mạnh Trinh “Ngàn liễu rung rinh sóng gợn tình”. Hôm nay là của chúng tôi. Ngày mai là của các bạn. Và mãi mãi là của các mẹ, các chị, các em. Truyện Kiều sẽ nối lại những thế hệ tuổi hoa”, chúng ta sẽ tìm ở di sản Nguyễn Du chủ nghĩa trữ tình, chủ nghĩa nhân văn, nguyên lí nữ tính tràn đầy tình yêu thương, vị tha của tâm hồn dân tộc.

Trên cơ sở đó, có thể đa dạng hóa các hoạt động du lịch văn học mở ra cơ hội rộng lớn cho du khách không chỉ tham quan mà còn thưởng thức và trải nghiệm, tham gia các nghệ thuật phong phú gắn với Truyện Kiều (thư pháp, hội họa, điêu khắc, điện ảnh, ca múa nhạc, sân khấu, đọc/ ngâm thơ, hát ru…).

Đặc biệt, Truyện Kiều đã sản sinh ra quanh nó một nền văn hóa giàu có và sống động, cả các dạng thức văn hóa tinh hoa lẫn văn hóa dân gian, hoàn toàn có thể tràn đầy phấn hứng khi kết hợp với sức mạnh của văn hóa đại chúng và truyền thông trong những nghi thức, những trò chơi, những sinh hoạt vô cùng thú vị, hấp dẫn: vịnh Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều, đố Kiều, bói Kiều… Những “lễ hội Truyện Kiều” chắc chắn sẽ tìm được vô số con đường để chinh phục tất cả những ai yêu mến tác giả và tác phẩm.

Việt Nam là một dân tộc yêu văn học và có di sản văn học giàu có, nhiều ý nghĩa. Một số nhà nghiên cứu đã có những suy nghĩ bước đầu về hướng khai thác nguồn tài nguyên này cho du lịch, tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu chuyên sâu và có hệ thống. Dựa trên khung lí luận và lí thuyết của thế giới, đồng thời tham khảo kinh nghiệm thực tiễn của Nga (đối với di sản Pushkin) và Hàn Quốc (đối với di sản Xuân Hương truyện), qua phân tích trường hợp khu di tích Nghi Xuân, chúng tôi bước đầu đề xuất phương hướng xây dựng và phát triển du lịch văn học trong quan hệ với bảo tồn, phát huy di sản Nguyễn Du.

Theo đó, cần tái cắt nghĩa, kiến tạo thông điệp của di sản nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, của dân tộc hôm nay, trên cơ sở đó, xây dựng những điểm đến cũng như tổ chức hoạt động du lịch văn học. Trong các hoạt động này, rất cần lưu ý nắm bắt xu hướng quốc tế của du lịch văn học đang chuyển từ dạng thức cuộc đời Tác giả (Authorial) sang dạng thức Tác phẩm hư cấu (Fictive), từ chú ý Không gian (Location) đến nhấn mạnh Trải nghiệm (Experience), từ chú mục vào Văn bản (Text) thành Sống (Living) với nghĩa tham gia vào các hoạt động thưởng thức, sáng tạo văn chương. Đó là con đường phong phú, sinh động để phát huy hơn nữa di sản vĩ đại của Nguyễn Du.

Phan Thị Thu Hiền

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 13.8.2020.

TTCT - Trận dịch có tên Cái chết đen (The Black Death) càn quét châu Âu vào giữa thế kỷ 14 đã làm chết hàng chục triệu người. Nhưng có một số vùng trong khu vực này gần như bị đại dịch bỏ qua.

Việc nhìn lại những nơi có tỉ lệ tử vong thấp trong thời gian xảy ra trận dịch “Cái chết đen” có thể giúp hậu thế tìm được phương cách hiệu quả để chống lại dịch cúm SARS-CoV-2 cũng như dự đoán được những hệ quả to lớn nếu không kìm hãm được dịch bệnh.

Làm chết một nửa dân số

20200404

Bức tranh vẽ năm 1349 trong thời gian dịch “Cái chết đen” mô tả cảnh người dân thành phố Tournai - nay thuộc Bỉ - đang mang quan tài bệnh nhân đi chôn. Đây là một trong những tài liệu bằng hình cổ nhất nói về dịch bệnh nằm trong quyển từ điển bách khoa toàn thư thế kỷ 14 có tên Omne Bonum.

“Cái chết đen” là một kẻ giết người tàn nhẫn. Nó làm người ta sưng viêm và chết trong đau đớn. May mắn thì được chết nhanh chóng, may mắn hơn nữa thì “trưa đi ăn với bạn bè, rồi tối đi ăn với ông bà tổ tiên trên thiên đường”, theo ngôn từ của nhà văn Giovanni Boccaccio, người đã sống qua đợt dịch đầu tiên càn quét nước Ý trong những năm 1340.

Bệnh dịch tấn công gần hết châu Âu trong một quãng thời gian tương đối ngắn, làm chết 2/3 số bệnh nhân. Ước tính chỉ trong vòng 5 năm (1347-1352), khoảng 25-30 triệu người, tức 1/3 dân số châu Âu thiệt mạng. Thủ đô Paris của Pháp vào đỉnh dịch mỗi ngày chôn 800 người chết. Một trong những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất là những vùng nay thuộc Ý, nơi các thành phố phồn vinh như Venice và Pisa mất đến 3/4 dân số, Florence thời điểm đó mất 50.000-85.000 dân.

Không được giải thích về bệnh dịch và không được chữa trị kịp thời, người dân châu Âu đã quay sang cầu xin Chúa Trời cứu giúp. Khi nhà nước và nhà thờ bất lực trước dịch bệnh, lòng tin vào các thể chế chính trị và tôn giáo này suy giảm và các cộng đồng mất phương hướng quay sang đổ lỗi cho các sắc dân ngoại lai là nguồn gây dịch bệnh. Bị quy là những kẻ truyền nhiễm, người Do Thái đã bị thiêu sống như nhà sử học người Pháp đương thời Gilles Li Muisis mô tả trong một quyển sách lịch sử.

Nguồn lây lan còn bí ẩn

Phải mất đến 200 năm, châu Âu mới phục hồi mức dân số như trước khi xuất hiện bệnh dịch. Nhưng cho đến nay, nguyên nhân gây nên dịch “Cái chết đen” vẫn chưa được xác định rõ ràng. Các ghi chép đương thời cho thấy người chết trong trận dịch có những triệu chứng như sưng hạch, xuất huyết và viêm phổi. Điều này dẫn đến các kết luận rằng đây là sự lây lan của bệnh dịch hạch với ba thể thường thấy là thể bạch huyết, thể phổi và thể nhiễm khuẩn máu.

Được công bố vào năm 2010-2011, kết quả phân tích các mẫu tủy răng của những bộ hài cốt tìm thấy trong nhiều hố chôn tập thể thế kỷ 14 ở miền Bắc, Nam và Trung Âu đã cho thấy dấu vết của khuẩn gây bệnh dịch hạch Yersinia pestis. Năm 2014, các phân tích DNA lấy từ 25 bộ xương từ thế kỷ 14 khai quật tại khu vực Charterhouse Square ở London còn cho thấy những người Trung cổ này chết vì một chủng Yersinia pestis rất giống với chủng đã từng tấn công đảo Madagascar năm 2013.

Từ đó nhiều nhà khoa học chấp nhận giả thiết rằng mầm bệnh dịch hạch được những con chuột mang từ Trung Á sang châu Âu trên các chuyến hàng giao thương từ những năm 1330. Lây nhiễm bắt đầu khi bọ chét nhiễm Yersinia pestis từ chuột trở nên hung hăng và cắn người rồi làm bệnh dịch bùng phát. Tuy nhiên, thiếu các bằng chứng khảo cổ về xương chuột thế kỷ 14, giả thiết “Cái chết đen” là một đợt lây lan dịch hạch vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục giới khoa học.

Cũng trong quyển Omne Bonum có bức tranh minh họa cho cảnh mà nhà sử học Pháp Gilles Li Muisis từng mô tả về việc cư dân của một thị trấn Pháp thiêu sống những người Do Thái, bị quy cho là nguồn lây dịch “Cái chết đen”.

Những thay đổi lịch sử

Trận dịch thế kỷ 14 đã để lại ở Na Uy nhiều địa danh gọi là Ødegård (trang trại bỏ hoang) còn tồn tại đến ngày nay. Trên toàn châu Âu, “Cái chết đen” còn gây ra các tác động sâu rộng hơn nhiều: tử vong quá cao đã khiến nhân lực thiếu hụt trầm trọng, buộc giới chủ phải tăng lương để thuê người. Đặc biệt, trong lĩnh vực nông nghiệp, nông dân thay vì phải trả tiền cho địa chủ để có đất ở và canh tác như trong suốt hàng thế kỷ trước, nay đã bắt đầu đòi được trả công cho việc trồng trọt.

Từ đó, chế độ nông nô chấm dứt và một lực lượng lao động mới ra đời độc lập hơn, cơ động hơn. Sau trận dịch, các cuộc nổi dậy lớn của nông dân đòi cải thiện điều kiện sống và làm việc xuất hiện khắp châu Âu, như ở Paris vào năm 1358, Florence vào năm 1378, London vào năm 1381. Dù không đạt được tất cả yêu sách, những cuộc bạo loạn này đã khiến tầng lớp quý tộc châu Âu phải đánh giá lại về tầng lớp dưới, chế độ phong kiến cũ phải nhường chỗ cho một hệ thống mới công bằng hơn.

Dân số giảm sau dịch “Cái chết đen” cũng làm giảm các cạnh tranh về đất đai và tài nguyên. Nhờ đó phúc lợi và sự sung túc của nông dân lại tăng lên. Đặc biệt là phụ nữ bắt đầu giành thêm được một số quyền về sở hữu tài sản mà trước đây họ chưa hề được hưởng. Chẳng hạn như ở một số vùng tại xứ England của Anh, những phụ nữ mất chồng đã được phép giữ đất của mình cho đến khi tái hôn, thậm chí có nơi cho phép phụ nữ tái hôn vẫn được giữ tài sản của người chồng quá cố.

Chú giải cho bản đồ: 

Năm 1347, dịch Cái chết Đen tấn công Tiểu Á, các đảo Sicily, Sardinia và Corsica, các mũi thương cảng của Châu  u như Marseilles ở Pháp, Calabria ở Ý, và mạn Nam của đất Turkish Thrace phần lãnh thổ thuộc châu Au của Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay.

Năm 1348, dịch bệnh đã lan rộng ở Châu  u, đến tận các thủ đô như Madrid của Tây Ban Nha và Paris của Pháp.

Đầu năm 1349, dịch lan tràn ở London, Frankfurt, và đe dọa Vienna, Bucharest. Đến cuối năm thì lan đến những vùng xa xôi hơn như Ireland, Na Uy.

Năm 1350, dịch không ngừng tiến về phía Bắc, tân công Lübeck và Copenhagen, rồi hướng lên phía Bắc của Na Uy. 

Năm 1351 và các năm sau đó dịch hạch càn quét hết các vùng còn lại ở phía Bắc và "thống trị" gần như toàn bộ châu Âu.

Bài học về dịch tễ

“Cái chết đen” không tấn công đồng đều trên khắp châu Âu. Một số ít nơi có tỉ lệ tử vong thấp hơn bình thường, chẳng hạn như những vùng nhỏ giữa Pháp và Tây Ban Nha trên sườn của rặng núi Pyrenees; một khu vực quanh thành phố Bruges nay thuộc Bỉ; một khu vực rộng lớn ở Đông Âu kéo dài từ Magdeburg cho đến Warsaw, nay phần lớn thuộc lãnh thổ Ba Lan; một khu vực ở Ý với Milan là trung tâm, chỉ mất khoảng 15% dân số trong trận dịch.

Một trong những điều giúp cho Ba Lan thoát khỏi việc bị tấn công trên diện rộng là do vua Ba Lan đương thời, Casimir Đại đế, đã quyết định đóng biên giới, cô lập Ba Lan với thế giới bên ngoài và cô lập các khu dân cư nhỏ trong nước với nhau. Tuy nhiên, cách thức cách ly tàn nhẫn của nước này không thể áp dụng cho ngày nay: xây gạch bít hết cửa nhà của các gia đình bị nhiễm bệnh để người bệnh chết trong nhà.

Một trong những yếu tố tự nhiên khác là từ Praha đến Krakow mất tám ngày đi ngựa, trong khi một người nhiễm bệnh chỉ mất 24-72 giờ để phát bệnh và chết. Vì vậy, những người có bệnh đều không thể sống nổi đến lúc tiến đến biên giới Ba Lan. Song song với giả thiết về dịch hạch đã gây ra trận dịch “Cái chết đen”, có giả thiết cho rằng việc mèo được nuôi phổ biến ở Ba Lan hơn các nơi khác ở châu Âu đã góp phần hạn chế số chuột và các ca lây nhiễm.

Giống như Ba Lan, khu vực Pháp - Tây Ban Nha tương ứng với Vương quốc Navarre lúc bấy giờ cũng có các biện pháp cách ly nghiêm ngặt và nhờ đó tránh được sự càn quét khốc liệt của bệnh dịch. Nhưng vì sao vùng quanh Bruges khi đó là một thương cảng sầm uất kết nối với Địa Trung Hải lại không bị bệnh dịch tấn công, cho đến nay đó vẫn còn là một điều bí ẩn. Dù vậy, bài học dịch tễ lớn nhất có thể rút ra từ việc nhìn lại một trận dịch kinh hoàng của thế kỷ 14 vẫn là phong tỏa biên giới và cách ly nghiêm ngặt. ■

(Nguồn: BigThink, Ancient History Encyclopedia)

Mai Hương

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 30.03.2020.

TTCT - Nhà khoa học có lẽ là đã mở đầu cho khoa học hiện đại cũng phải sống sót, làm việc và kết nối với gia đình theo những cách hoàn toàn mới vì một đại dịch.

20200817 4

Galileo Galilei (1564–1642), ảnh tư liệu của Hulton Archive.

Virus corona chủng mới đã đảo lộn thế giới của chúng ta suốt vài tháng qua, buộc người ta phải làm việc theo những cách hoàn toàn mới. Cụ thể với các nhà khoa học, Isaac Newton đã luôn được coi là hình mẫu lao động hiệu quả trong thời kỳ dịch hạch vì ông đã dành cả năm 1666 - “năm của những phép mầu” - ở vùng đồng quê nước Anh để tránh dịch và phát triển những ý tưởng của mình về lực hấp dẫn, quang học và phép tính vi tích phân.

Nhưng sự cô độc và suy tưởng trong tĩnh lặng chỉ tạo nên một hình mẫu của khoa học trong những thời kỳ dịch hạch và là một hình mẫu mà rất ít người chúng ta có thể làm theo.

Galileo Galilei - nhà thiên văn học, vật lý học và toán học, người đã biến kính viễn vọng thành một dụng cụ khoa học và đặt ra nền tảng cho một vật lý mới của chuyển động - cho chúng ta thấy một hình mẫu nghiên cứu khoa học đầy cảm hứng và gần gũi hơn trong thời kỳ khủng hoảng.

Thực tế, vài năm hoạt động công khai và đầy biến động trong đời Galileo đã diễn ra trong thời kỳ dịch hạch bùng phát mạnh giữa các năm 1630 - 1633.

Những mối đe dọa của dịch hạch

Galileo sinh năm 1564, thời thơ ấu của ông ở Florence cũng là thời điểm bệnh dịch hạch bùng phát mạnh ở Ý trong những năm 1575-1577, tàn phá miền bắc Ý và tước đi mạng sống của khoảng 50.000 người ở Venice - một phần ba tổng dân số. Là sinh viên ngành y ở Đại học Pisa, nơi Galileo bắt đầu hành trình học thuật của mình, ông chắc chắn biết được nhiều hơn về căn bệnh khét tiếng này.

Mặc dù không lâu sau đó đã không làm theo ước nguyện của người cha là theo đuổi nghề y mà chuyển sang nghiên cứu toán học và thiên văn học, Galileo vẫn tiếp tục đọc và bàn về bệnh dịch hạch.

Tới năm 1592, Galileo đã có được một vị trí danh giá ở Đại học Padua và năm 1610 ra mắt cuốn Starry Messenger (Thông điệp của các vì sao). Cuốn sách mỏng này trình bày những khám phá của ông với kính viễn vọng: những ngôi sao chưa từng được quan sát trước đó sáng bừng qua các trang sách, những ngọn núi vút lên khỏi bề mặt Mặt trăng và những “ngôi sao Medici” mới (thực ra là các Mặt trăng) - ban đầu được đặt tên theo người bảo trợ tương lai của ông - quay quanh Mộc tinh.

Cùng năm đó, một người bạn là Ottavio Brenzoni gửi cho Galileo bản luận thuyết mà ông này mới công bố về bệnh dịch hạch, điều mà giờ nghĩ lại, có thể coi như lời nhắc nhở rằng những khám phá của Galileo trên trời cao không bao giờ tách biệt hoàn toàn với những gì diễn ra nơi mặt đất trần tục.

Thư tín của Galileo đều đặn nhắc tới những đợt bùng phát dịch hạch ở Tuscany, bắt đầu vào năm 1630. Chúng ta đọc được lời biện minh của Vicenzo, con trai Galileo, sau khi ông trốn chạy tới một thị trấn nhỏ ven Prato, bỏ lại người cha và em trai của mình: “Trước tiên, tôi xin nói rằng tôi tới đây để cứu lấy mạng sống của mình, không phải để giải trí hay thay đổi gió”.

Chúng ta thông cảm với sự hài hước đầy cay đắng của môn đệ của Galileo, Niccolò Aggiunti, giáo sư toán học tại Pisa, người đã quay lại với cha mình ở Florence khi trường đại học đóng cửa và than thở về cảnh lại bị cha mẹ rầy rà: “Tôi muốn sống tốt… nhưng cha lại muốn tôi chết an lành… Ông sẽ rất vui lòng nếu tôi chết đói, chứ không phải chết do dịch bệnh”.

Nhìn lại cuộc đời chính mình vài tháng qua, chúng ta mới hiểu được ý nhà toán học Benedetto Castelli, người bạn thân nhất của Galileo, khi ông suy tưởng đầy mỏi mệt năm 1631 rằng như thể “cả nghìn năm đã qua” kể từ lúc Galileo còn ở Rome với ông.

John Mitton tới thăm Galileo Galilei - Tranh của Solomom Alekxander Hart, 1847.

Đại dịch: Thách thức và cơ hội

Dịch hạch cũng trở thành một trở ngại và cơ hội cho xuất bản phẩm nổi tiếng nhất và gây tranh cãi nhất của Galileo. Ông đã ở Rome vào mùa xuân năm 1630 để cố gắng thu xếp hòng xuất bản cuốn Dialogue concerning the Two Chief World Systems (Đối thoại giữa hai hệ thống thế giới chính). Sách phải được xuất bản qua hội khoa học của ông, Accademia dei Lincei, và xin được giấy phép xuất bản sau quy trình kiểm duyệt của Vatican.

Tuy nhiên, trong mùa hè đó, dịch hạch xuất hiện ở Florence và Galileo quyết định in cuốn sách của mình tại địa phương, điều khiến thủ tục kiểm duyệt thông thường trở nên phức tạp hơn rất nhiều. Nhiều phần cuốn Đối thoại... bị giới chức ở Rome kiểm duyệt và những mục khác, bao gồm cả bản in cuối, được xử lý ở Florence với sự phê chuẩn miễn cưỡng của Rome.

Quá trình kiểm duyệt tách biệt của nhiều người, ở hai thành phố, thực ra đã tạo ra không gian để cấu trúc lập luận của ông thuyết phục hơn rất nhiều hòng khẳng định Trái đất chuyển động chứ không đứng yên, so với những gì lẽ ra ông được cho phép.

Tháng 2-1632, cuốn Đối thoại... của Galileo hoàn thiện ở Florence. Mặc dù thư từ giữa Florence và Rome thường chỉ mất vài ngày, đợt bùng phát dịch hạch khiến hai thành phố siết chặt kiểm soát giao thông và vận chuyển hàng hóa vì lý do y tế.

Hệ quả là chỉ hai bản cuốn Đối thoại... tới được Rome vào tháng 6 và thêm sáu bản vào tháng 7. Càng nhiều bản in đến nơi thì sự chú ý vào nội dung và các luận điểm của nó càng tăng. Khi cuốn sách đến được tay giới tinh hoa Công giáo của Rome, giáo hoàng Urban VIII và các linh mục dòng Jesuit đã ngay lập tức bày tỏ sự giận dữ của họ với sự tự do mà Galileo có trong thời dịch bệnh. Trong vòng một tuần, cuốn sách bị cấm. Tháng 9-1632, Galileo được triệu tập tới Rome để trình diện trước Tòa án dị giáo Rome. Đại dịch đang dần kết thúc và vụ xử Galileo chuẩn bị bắt đầu.

Giờ đây, chính những trì hoãn đã cản trở thư từ và việc xuất bản cũng như phát hành cuốn sách của Galileo lại dường như có lợi với ông, khi ông bào chữa cho sự vô tội của mình và xin được chuyển vụ xử về quê nhà, thành phố Florence.

“Và cuối cùng, tóm lại,” ông viết trong đoạn kết một bức thư dài gửi người bạn của mình đồng thời là cháu trai của giáo hoàng, hồng y và quan tòa tòa án dị giáo Francesco Barberini: “Nếu không bởi tuổi tác cao, không bởi nhiều tình trạng thể chất, không bởi những ưu phiền trong tâm trí, không bởi độ dài của hành trình trong thời điểm bệnh dịch hiện tại... thì tôi sẽ thực hiện hành trình này”.

Tòa án dị giáo Rome đáp lại dứt khoát: Galileo phải tới Rome, hoặc ông sẽ bị bắt giữ và phải đến đó trong xiềng xích.

Ngày 20-1-1633, Galileo bắt đầu hành trình, kéo dài hơn ba tuần lễ và bao gồm cả kiểm dịch bắt buộc. Sáu tháng sau, phiên tòa xử ông khép lại. Galileo thừa nhận những sai sót của mình, từ bỏ công trình của ông trước Tòa án dị giáo Roma và bắt đầu hành trình từ Rome về Siena, tới biệt thự của ông ở Arcetri, ngoại ô Florence, nơi ông sống chín năm cuối đời trong một ngôi nhà bị quản thúc.

Tình yêu của gia đình

Trong khi hầu hết những người quan sát vụ chỉ trích và xét xử Galileo quan tâm tới những ý tưởng của ông, con gái ông, xơ Maria Celeste, nữ tu dòng Thánh Clare Hèn mọn, dù ở xa, lại chú ý hơn tới sức khỏe của cha mình.

Galilei Galileo (1564-1642) và con gái Maria Celeste, một nữ tu (1600-1634)

Phía sau những bức tường tu viện, Maria Celeste chuẩn bị thức ăn và các phương thuốc cho ông để ngăn chặn bệnh dịch. Cùng một lá thư đề tháng 11-1630, Maria Celeste còn gửi kèm hai thứ thuốc - thuốc trộn mật ong - để bảo vệ sức khỏe cho cha bà. “Cái không có nhãn dán có thành phần là sung, các loại hạt, cửu lý hương và muối” và trộn lẫn bằng mật ong. Bà khuyên ông “uống mỗi sáng, trước khi ăn, với liều bằng một quả óc chó, ngay sau đó là chút rượu vang Hi Lạp hoặc một loại vang ngon nào đó, và người ta nói rằng nó tạo ra sức đề kháng kỳ diệu [trước bệnh dịch hạch]”.

Loại thuốc thứ hai được sử dụng tương tự, nhưng Maria Celeste đã cảnh báo rằng nó có vị cay hơn. Dẫu vậy, bà hứa với cha là bà có thể cải tiến công thức, dù ông muốn tiếp tục uống loại nào. Năm mà dịch bệnh bùng phát và vụ xét xử Galileo diễn ra đó cũng là câu chuyện về lòng hiếu thảo, sự chăm sóc của con cái dành cho cha mẹ từ xa, khi Maria Celeste nỗ lực từ bên trong những bức tường tu viện để cậy nhờ tới các phương thuốc và phép chữa trị tinh thần hòng giúp sức cho người cha bà hằng yêu mến.

Giữa những lo lắng về uy tín của cha, Maria Celeste và các thành viên khác của gia đình Galileo thường xuyên gửi thư cho ông trong hành trình trở về quê nhà, cập nhật cho ông về các ca bệnh trong vùng. Những bức thư của họ có cả những đồn đoán về dịch tễ, số lượng các ca nhiễm mới và câu chuyện về số phận của những người đã phục hồi hoặc không qua khỏi.

Gia đình Galileo theo dõi tiến trình bùng phát của bệnh dịch đồng thời với việc theo dõi hành trình trở về để chịu quản thúc của ông. Khi có thể bị chia cắt với những người thân yêu, chúng ta hãy nhớ cách gia đình tận tụy của Galileo chăm sóc cho ông từ xa trong suốt thời gian náo động ấy.

Những năm tháng dịch hạch hoành hành trong đời Galileo giúp chúng ta hiểu hơn về những thực tế của nghiên cứu khoa học trong một thế giới đầy thách thức. Thách thức của việc khám phá khoa học mới mẻ mâu thuẫn với dòng chính trị và tôn giáo chủ lưu. Thách thức về việc tiếp tục một chương trình khoa học mang tính quốc tế suốt gần một thập niên bị cô lập và giam hãm. Và tất nhiên, thách thức của cuộc sống trong một thời kỳ bị bệnh dịch tàn phá.

Khi chúng ta vật lộn với việc làm thế nào để tiếp tục nghiên cứu khoa học trước mối đe dọa của đại dịch corona, tôi đề xuất chúng ta hãy noi gương Galileo, một tấm gương về làm khoa học thời dịch bệnh. Mối quan hệ của ông với gia đình và được bạn bè ủng hộ cùng với việc khỏe mạnh hơn nhờ những liều thuốc từ hoa quả khô và mật ong, cuộc đời của Galileo dạy cho chúng ta rằng việc theo đuổi khoa học chưa bao giờ là dễ dàng và rõ ràng trong thời của đại dịch và dẫu vậy, chúng ta vẫn phải bền chí tiến lên.■

Hannah Marcus

Nguyễn Duy Khánh (dịch, theo Scientific American)

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 12.8.2020.

Các dự án nghệ thuật cộng đồng ngày càng nở rộ và đóng góp nhiều ý nghĩa thiết thực. Đáng chú ý, những người mở đường tâm huyết với các dự án này đa phần là gương mặt trẻ trung, đầy năng lượng, mang nhiều dấu ấn đổi mới.

Có thể hiểu nôm na nghệ thuật cộng đồng là hoạt động nghệ thuật phi lợi nhuận lấy công chúng làm trọng tâm, phục vụ cho lợi ích lâu dài của cộng đồng. Vài năm trở lại đây, nghệ thuật cộng đồng phát triển mạnh ở nước ta, đặc biệt là dự án của các nghệ sĩ đương đại. Các loại hình nghệ thuật ngày càng đa dạng, đa hình thái và pha trộn nhiều lĩnh vực. “Phố bên đồi”, “Nhóm bạn yêu nhạc cổ điển Sài Gòn”, “Yume Art Project”, “Vẽ về hát bội”… là các chương trình nghệ thuật cộng đồng nổi bật.

“Phố bên đồi” do họa sĩ – nhà thiết kế Nguyễn Trung Hiền khởi xướng năm 2016. Đây là dự án nghệ thuật cộng đồng đa hình thái diễn ra thường niên tại Đà Lạt. Lần đầu tổ chức, dự án chỉ quy tụ vỏn vẹn hơn 10 họa sĩ cùng một triển lãm tranh nho nhỏ. Về sau, dự án biến thành chuỗi hoạt động sôi nổi với rất nhiều gương mặt đam mê hội họa, thiết kế, kiến trúc, thậm chí cả giới làm phim, âm nhạc... cũng tham gia đóng góp.

20200322 2

Dự án nghệ thuật “Phố bên đồi” khoác áo mới cho dốc Nhà Làng, TP Đà Lạt.

Mỗi năm, chương trình “Phố bên đồi” được thực hiện tại một địa điểm với không gian độc đáo khác nhau dựa trên các giá trị về văn hoá, lịch sử, kiến trúc… tại TP Đà Lạt. Năm 2019, dốc Nhà Làng là nơi được các nghệ sĩ khoác áo mới.

Với sự hợp tác của cư dân bản địa, con dốc trở nên cuốn hút, nổi bật nhờ các tác phẩm thể hiện theo phong cách pop art, pop surrealism... Bằng nghệ thuật đương đại, nghệ sĩ Nguyễn Trung Hiền và các cộng sự mong muốn làm sống dậy một không gian xưa cũ, khơi gợi ký ức, cảm xúc, suy ngẫm về thành phố sương mù, đồng thời nâng cao nhận thức về bảo tồn di sản, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.

Để nâng cao trình độ cảm thụ nghệ thuật cho lớp khán giả trẻ, đồng thời giúp mỗi cá nhân tham gia dự án có thể phát triển tiềm năng nghệ thuật bên trong mình, TS Đào Lê Na (Trưởng bộ môn Sáng tác và Phê bình Sân khấu - Điện ảnh, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP Hồ Chí Minh ) đã sáng lập “Yume Art Project” - dự án phát triển nghệ thuật và sáng tạo cho cộng đồng.

Dự án gồm có “Yume Courses” và “Yume Fund”. “Yume Courses” là những khóa học chia sẻ kiến thức nghệ thuật chuyên sâu từ các chuyên gia (mỹ học, triết học, nghiên cứu văn hóa, điện ảnh, âm nhạc…) và cung cấp những kỹ năng sáng tác cho học viên. Phần học phí thu từ khóa học này sẽ đưa vào quỹ “Yume Fund” nhằm tổ chức hoặc hỗ trợ phát triển nghệ thuật và sáng tạo để phục vụ cộng đồng. Đến nay quỹ đã hỗ trợ cho các hoạt động như chiếu phim miễn phí, in ấn sách nghệ thuật, talk show, dạy nghệ thuật miễn phí cho bệnh nhi và trẻ em khuyết tật...

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm cải lương, “Yume Art Project” còn phối hợp với Hội đồng Anh tổ chức dự án “Tiếp bước trăm năm” dành cho giới trẻ. Dự án tập trung đào tạo khán giả cho cải lương để họ hiểu được linh hồn và giá trị của di sản cải lương, từ đó nâng cao ý thức giữ gìn và phát huy vốn quý của dân tộc, lan tỏa nó đến cộng đồng, bạn bè.

Ở lĩnh vực sân khấu kịch, nghệ sĩ đương đại Nguyễn Bích Trà có dự án “The Run - A Theater Project” với những bứt phá mới lạ, mở ra hướng thực hành liên kết đa ngành cho sân khấu Việt Nam. Dự án từng trình diễn vở kịch “The Run” và mới đây nhất là vở “Flaw – Cú chót”.

Hai vở kịch này mang rất nhiều tính thể nghiệm, trừu tượng kết hợp giữa nghệ thuật thị giác lẫn biểu diễn hình thể, âm thanh...  Để hỗ trợ các bạn trẻ trong lĩnh vực này, dự án còn  triển khai loạt hoạt động như thảo luận về thực hành sân khấu, phân tích các lý thuyết về loại hình sáng tác chuyên biệt cho biểu diễn, độc thoại, dựng kịch ngắn...

Điểm chung ở những chương trình nghệ thuật cộng đồng này chính là ban tổ chức đang dần thay đổi cách tiếp cận với khán giả, đa dạng hóa thành phần tham dự để đạt được hiệu ứng tốt nhất. Điều này khiến khái niệm cộng đồng được định nghĩa lại theo cách rộng hơn. Nếu các dự án nghệ thuật cộng đồng của nhà nước vẫn mang tính một chiều thì dự án của nghệ sĩ đương đại lại mang tính tương tác đa chiều rất cao.

Một cảnh trong vở “The Run” thuộc dự án “The Run - A Theater Project”.

Nghệ sĩ Nguyễn Bích Trà cho biết: “Chúng tôi thống nhất khi đã tham gia vào dự án thì ai cũng có vai trò ngang nhau. Nghệ sĩ hay đơn vị tổ chức không còn khoác lớp áo trịnh trọng, đặt cái Tôi của mình lên đầu rồi coi như mình là người định hướng và ban phát tác phẩm cho khán giả. Khán giả cũng không còn là người thụ động tiếp nhận. Tham gia vào một sản phẩm nghệ thuật cộng đồng, nghệ sĩ cũng là khán giả và khán giả cũng là nghệ sĩ. Tất cả cùng chung tay để tạo ra một tác phẩm nghệ thuật hữu ích”.

Chính vì tiêu chí này nên dự án “The Run - A Theater Project” kết hợp giữa việc xem kịch, phê bình làm một. Trước buổi biểu diễn, khán giả được phát bảng câu hỏi kèm toàn bộ kịch bản để thu thập đóng góp của họ về khía cạnh nghệ thuật của tác phẩm.

Sau buổi biểu diễn, đạo diễn, biên kịch ngồi lại cùng các nhà phê bình và khán giả để trực tiếp thảo luận, phản biện mặt được và chưa được của vở kịch. Điều này không chỉ giúp khán giả hiểu sâu hơn về vở kịch mà còn giúp ekip hình thành các ý tưởng mới cho tác phẩm hoàn thiện, đậm chiều sâu hơn. Đồng thời, dự án cũng dựa vào đóng góp của công chúng, nhà phê bình để hoàn chỉnh dần mô hình hỗ trợ cho nghề viết kịch và sản xuất kịch sân khấu.

Tương tự, dự án nghệ thuật cộng đồng “Yume Art Project” cũng đào tạo khán giả dựa trên sự tiếp nhận thông tin hai chiều. “Chúng tôi không tổ chức các hội thảo để bàn về giải pháp cho bộ môn nghệ thuật đó mà tổ chức các buổi đối thoại mở với người trẻ. Chỉ có lắng nghe tiếng nói của người trẻ, nắm bắt được tâm tư nguyện vọng của các bạn trẻ thì chúng tôi mới biết cách nên làm gì để bộ môn nghệ thuật đó đến gần họ. Chúng ta không thể dùng cách giáo điều để ép họ phải hiểu, cảm thụ nghệ thuật mà hãy hướng dẫn để người trẻ cảm nhận và phát huy theo cách của họ, đầy tự nguyện và hào hứng” – TS Đào Lê Na nói.

Chính sự tương tác mở này giúp các chương trình nghệ thuật cộng đồng ngày càng thu hút nhiều đối tượng và đạt hiệu ứng tích cực. Nghệ sĩ Nguyễn Trung Hiền hồ hởi khoe: “Năm 2018, nhân dịp kỷ niệm 125 thành lập TP Đà Lạt, chính quyền đã mời “Phố bên đồi” đóng góp vào nội dung chính trong chuỗi hoạt động kỷ niệm. Giờ đây, “Phố bên đồi” không còn gói gọn với các nghệ sĩ trong nước mà đã lôi kéo nhiều nghệ sĩ quốc tế tham gia, tạo thành một sự kiện đáng chú ý của thành phố ngàn hoa”.

Nghệ sĩ Nguyễn Bích Trà từng tâm sự rằng những người khởi xướng dự án nghệ thuật cộng đồng một cách táo bạo không khác gì kẻ đốt đuốc tìm đường giữa rừng sâu. Ban đầu, họ đều phải “tự bơi”, tự bỏ tiền túi để thỏa mãn niềm đam mê và giúp ích cho số đông. Số khác nhạy bén hơn thì kêu gọi gây quỹ cộng đồng. Việc tiếp cận với các cơ quan quản lý văn hóa để chương trình được cấp phép hay gõ cửa xin tài trợ cũng không hề dễ dàng.

Đã vậy chị lo ngại những hoạt động mình làm sẽ khó tiếp cận công chúng. Tuy nhiên, thực tế đã chứng minh ngược lại. Trái với lo ngại vở diễn kén khán giả, các đêm diễn của “The Run - A Theater Project” luôn chật cứng khán phòng. Sự tương tác thú vị, xem mọi thành phần tham gia đều sáng tạo nên tác phẩm đã cuốn hút những người yêu nghệ thuật đỉnh cao.

“Thật ra, tâm lý mình cứ lo sợ như thế nhưng mình cứ kiên trì gõ mười cánh cửa thì ít nhất sẽ có một cách cửa mở ra. Điều quan trọng là dự án phải thật có ích, hoàn toàn vì cộng đồng thì mình sẽ không bao giờ cô đơn trên hành trình tìm kiếm cộng sự. Tôi tin rằng chúng ta cứ đi rồi sẽ thành đường thôi” – nghệ sĩ Nguyễn Trung Hiền nhận định.

Hiện nay, rất nhiều bạn trẻ ấp ủ dự án nghệ thuật vì cộng đồng. Họ thừa đam mê và sự nhiệt huyết, song lại thiếu nguồn kinh phí và loay hoay không biết bắt đầu từ đâu. Để hiện thực hóa giấc mơ của họ, dự án “Yume Art Project” mở một cuộc thi tìm kiếm các dự án thú vị. Những bạn trẻ chiến thắng sẽ được Yume hỗ trợ kinh phí và đồng hành trên con đường đưa dự án của mình ra thực tế, thúc đẩy vai trò thủ lĩnh cho các dự án nghệ thuật vì cộng đồng của các bạn trẻ, nhất là học sinh, sinh viên. 

Mai Quỳnh Nga

Nguồn: Văn nghệ Công an, ngày 21.03.2020.

Thế giới đang gồng mình đối phó với “làn sóng thứ hai” của đại dịch COvid-19. Trong khi đẩy nhanh việc chế tạo vaccine cho chủng virus nham hiểm đang đột biến, nhân loại còn phải đương đầu với câu hỏi lớn: Làm gì khi vẫn chưa biết cần phải… làm gì? TTCT giới thiệu bài trả lời phỏng vấn của nữ khoa học gia nổi tiếng Nga T. Chernigovskaya cho báo chí Nga.

20200806 2

Ảnh:listim.com

Thế giới hoang dã mới: virus corona và cuộc khủng hoảng của nền văn minh

* Bất ngờ chúng ta rơi vào một thế giới mới - điều đó có nghĩa là gì với chúng ta?

- Điều đó có nghĩa một thách thức rất nghiêm trọng: đang ập đến việc phải đánh giá lại hoàn toàn các giá trị trong xã hội. Và một điều rất rõ ràng là không có đường quay lại. Tôi nghĩ thiên nhiên, hay tạo hóa, đơn giản là đã phát chán cách chúng ta hành xử. Khi tôi học trung học, trong lớp chúng tôi treo khẩu hiệu: “Chúng ta không thể chờ đợi sự ưu ái của thiên nhiên. Bắt lấy chúng từ thiên nhiên - nhiệm vụ của chúng ta”. Ký tên: Michurin (*).

Về nhà tạo giống này có một chuyện tiếu lâm như sau: “Biết Michurin chết cách nào không? Té xuống từ ngọn dâu, và bị anh đào chôn kín”. Dĩ nhiên đó là chuyện cười, nhưng cốt truyện thú vị.

Chúng ta quá mải mê với ý niệm rằng con người là toàn năng. Chúng ta đã bay cao trong sự phát triển của mình đến độ không quan tâm tới bất cứ điều gì: dời núi lấp biển, trồng ngô ở nơi chỉ mọc được cỏ tháp bút. Và đấy, chúng ta đã được chỉ cho thấy: ai thật sự là chủ. Con virus corona nhỏ bé này đã nhấn nút tạm dừng cả thế giới.

* Bây giờ ta chỉ muốn nhấn nút “tua nhanh” về phía trước...

- Không thể: đâu ai biết chính xác nó (virus) hoạt động thế nào, vaccine chưa có. Dĩ nhiên, vaccine sẽ có, nhưng không sớm, và thực tế là con virus này đến lúc đó sẽ biến đổi. Vậy thì giờ chúng ta phải làm gì? Bởi đây là câu hỏi về sự sống và cái chết. Không chỉ việc sống chết của một cá thể, mà cả một nền văn minh. Hãy đồng ý với tôi đi, cả một nền văn minh!

* Tôi lo âu! Vậy chúng ta sẽ làm gì?

- Để bắt đầu, dĩ nhiên, phải nhận thức rằng bác sĩ là một trong những nghề chính trên hành tinh này. Bác sĩ không phải là những ai mà ta có thể xù lông hoặc trả cho họ ba rúp. Những người cứu chúng ta đang ở ngoài mặt trận, mà lại ngay trên tuyến đầu, có thể bị nhiễm bệnh và trở thành người mang virus.

Các nhà khoa học nữa, dĩ nhiên. Trong cuộc chiến với cái ác này cần có kiến thức chuyên môn ở cấp cao nhất. Và không chỉ các nhà dịch tễ học và virus học. Trong khi họ quyết định phải điều trị thế nào, chúng ta hỏi một câu hỏi khác: phải học thế nào?

* Học từ xa?

- Vâng, tất cả các sinh viên của chúng tôi đã chuyển sang học từ xa mà hóa ra, mất gần gấp đôi thời gian cho tất cả. Tưởng ra đó chỉ là bật Zoom lên và học, nhưng đâu đơn giản vậy. Tất cả đều bức xúc. Giáo viên đưa nhiều bài tập để bù đắp việc thiếu giao tiếp trực tiếp.

Còn những sinh viên tội nghiệp - buồn nhớ tương tác thực, họ đã viết cho tôi những bức thư cảm động như vậy - nhận một lượng khổng lồ tài liệu mà đơn giản là họ không thể xử lý hết. Nhưng không sao, cứ để họ lao động, cũng chẳng hại gì. Những ai đến trường vì mưu cầu kiến thức chứ không phải để khoe quần áo, điều đó thậm chí còn có lợi.

* Học trực tuyến hóa ra không hiệu quả sao?

- Không phải vậy. Cũng như trong bất cứ việc nào, hiệu quả phụ thuộc vào chất lượng của việc chuẩn bị. Ví dụ, tới 39.220 người đã đăng ký khóa học trực tuyến song ngữ miễn phí của chúng tôi “Ngôn ngữ học thần kinh” trên nền tảng Coursera! Thật tốt khi chúng tôi kịp hoàn thành nó ngay trước kỳ nghỉ bắt buộc.

Lúc đầu tôi đã lo sốt vó bởi ý tưởng thực hiện một khóa học như vậy, bởi tôi biết phải tiêu tốn bao nhiêu công sức cho việc thực hiện một dự án như thế. Nhưng tôi hài lòng với kết quả vì chúng tôi đã chuẩn bị bài bản...

...Nhưng dĩ nhiên cũng có mặt trái của việc học từ xa - bởi sự phấn khích không giống như khi giao tiếp cá nhân. Đặc biệt với những giáo viên như... tôi, những người cư xử sinh động. Sự sinh động này khó có thể truyền tải từ xa.

Tôi đã thấy điều đó thế nào trên giảng đường: tất cả như đều bị nhiễm bệnh! Một loại virus hữu ích: những đôi mắt bùng cháy, những cảm xúc vượt tràn khuôn khổ - điều đó không thực hiện được từ xa. Mà với hứng thú đó sinh viên mới bắt tay vào nghiên cứu, tiến hành các thí nghiệm trong các lab đến mỏi mắt - bởi họ làm những việc nghiêm túc chứ chẳng phải đùa.

Ảnh: Seldom.news

Sự ngạo mạn đã đưa chúng ta đến với virus corona.

* Chúng ta đã rơi vào thế giới mới này ra sao?

- Trong thế giới của chúng ta bắt đầu thống trị quyền của kẻ mạnh, quyền của sân chơi: nắm đấm của ai to hơn, kẻ đó sẽ thắng. Phát triển cả một nền văn minh nhân loại vĩ đại, được tạo nên bằng những kiệt tác không thể tưởng tượng, để cuối cùng kết thúc bằng việc rằng “ta là ông chủ, bởi bây giờ ta sẽ cho mi một đấm ngay trán”?! Điều này xảy ra cho quan hệ giữa con người với nhau cũng như giữa những đất nước với nhau.

Không thể sống được một thế giới mà trong đó, các chính trị gia cao cấp đã đàm phán được gì đó, và sáng hôm sau báo rằng họ đã nghĩ lại. Phải có luật lệ. (Nhà văn hóa, nhà ký hiệu học Nga - Xô viết) Yuri Mikhalovich Lotman đã viết: “Văn hóa - đó là một hệ thống các cấm đoán”.

Từ những chuyện đơn giản như “không xì mũi trong bữa trưa” và “không huých cùi chỏ” cho đến những nguyên tắc đạo đức phức tạp. Những nguyên tắc đạo đức này đã bị phá vỡ. Nắm đấm chống lại văn hóa. Nếu giá trị của thế giới cũ nằm ở chỗ ai có thỏi son đắt giá hơn sẽ quan trọng hơn, thì có bị như thế cũng là đáng kiếp.

* Vậy thì giờ đây chúng ta nên nhắm tới học gì? Các triết gia chẳng hạn, từng đề cập đến thời hoàng kim. Nó từng có hay chưa?

- Có đầy những chỉ dấu, nhiều thứ trong đó đang nằm trên các kệ sách của tôi: văn học vĩ đại, triết học vĩ đại, âm nhạc tuyệt vời, điện ảnh tuyệt vời, hội họa tuyệt vời. Cần nghiên cứu tất cả những thứ đó. (Nhà khoa học vật lý Nga - Xô viết) Sergey Petrovich Kapitsa mà tôi may mắn được trò chuyện trong một thời gian dài, từng khẳng định: giáo dục nên chuyển từ việc ghi nhớ sang hiểu biết - khi đó tất cả những ý nghĩa mới sẽ được mở ra.

Còn nhà đồng sáng lập trường gymnasium cổ điển của Saint Petersburg Lev Lurie đã giải thích tại sao học sinh của họ được dạy tiếng Latin và Hi Lạp, cho dù chúng không nghiên cứu văn học hoặc lịch sử cổ đại: đó là học sinh được dạy suy nghĩ và các quy tắc để chúng tuân thủ các luật lệ này.

Còn đối với thời hoàng kim thì tôi sẽ nói thế này: luôn có tất cả mọi thứ. Cùng lúc luôn tồn tại cái tốt và cái xấu. Thí dụ người Sparta: từ một phía, đó là xã hội của những người chiến thắng, nhưng mặt khác, họ ném khỏi vách đá những đứa trẻ nào không phù hợp với những thông số cứng nhắc được đưa ra.

* Những người Sparta và các nhà nghiên cứu bộ gen người dường như có nhiều điểm chung. Các nhà khoa học di truyền đang đặt ra những câu hỏi đạo đức khó cho chúng ta mà chúng ta không biết trả lời sao. Hay chúng ta đã biết?

- Chúng ta đã trải qua điều này. Có một khoa học - ưu sinh học, mà ý tưởng ban đầu của nó là cải thiện bộ gen người, có nghĩa giúp nhân loại loại bỏ những gen xấu. Nhưng kết cục là nó biến thành một thí nghiệm quái dị. Hãy nhìn xem điều gì đang diễn ra: một bộ gen của người nào đó ghi rằng anh ta có khả năng bị tâm thần phân liệt, chúng ta leo vào, đào bới một chút và anh ta sẽ không bị tâm thần phân liệt gì...

Sự ngạo mạn của chúng ta, thứ đúng là đã đưa chúng ta tới với virus corona, tin chắc rằng chúng ta biết mọi thứ về bộ gen này. Đâu phải vậy, sửa một mẩu này, chúng ta có thể gây ra một thứ khác! Bạn có chắc rằng leo vào thế giới vi mô với cái búa tạ chúng ta sẽ không làm hỏng bất cứ thứ gì ở đó không? Có thể, chúng ta nên cư xử khiêm tốn hơn chăng?■

 

Tường Anh

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuầnngày 05.8.2020.

(*) Trích dịch từ www.sobaka.ru.

(*) Ivan Vladimirovich Michurin (1955-1935): Nhà sinh vật học và nhà tạo giống xuất sắc người Nga, tác giả của nhiều loại cây ăn trái và quả mọng. Tuy nhiên, thái độ thờ ơ của Muchurin với tôn giáo đã khiến giáo hội và giới tư sản Nga thời đó xem ông là một kẻ kiêu ngạo và có hại.

Tatiyana Chernigovskaya, sinh năm 1947, là chuyên gia sinh học, nhà ngôn ngữ học và ký hiệu học, người sáng lập chuyên ngành “Ngôn ngữ học thần kinh” trên cơ sở khoa ngôn ngữ của Đại học Tổng hợp S. Petersburg.

 

TTCT - Tiến bộ có giá của nó, thế giới chưa bao giờ tốt đẹp hơn hôm nay và một phần các bất an là giá phải chấp nhận. Tương lai không được xây dựng bởi những kẻ chắn đường, mà bởi người mở đường.

20200318

Một tác phẩm của nghệ sĩ Banksy.

Tôi mải sắp đồ vào vali nên tuy có nghe mà cố lờ đi tiếng chuông di động. Tôi vội. Còn chính xác 27 tiếng nữa là cất cánh, trực chỉ Paris - từng mang tên Kinh thành ánh sáng nhưng hôm nay tăm tối vì mái nhà Notre-Dame cháy thành than và cũng là ổ corona số 2 châu Âu với lệnh cấm mọi hoạt động với số người quá 5.000, rồi sau đó tới Đức với Hội chợ sách Leipzig - niềm vui lung linh nhất của lũ mọt sách trong năm.

Nhưng khi hồi chuông thứ tư nhẫn nại réo lên thì tôi phải bắt máy, để rồi nhận tin: Chuyến đi bị cắt vô thời hạn vì coronavirus. Thế giới vốn đã đầy bất an, nay bắt tôi chịu thêm một bất an nữa.

Greta Thunberg (sao các người dám ?)

Vì đích đến là nước Đức - đất tổ của ôtô, nên xin bắt đầu với chuyện ôtô. Chắc ai nấy còn nhớ vụ bê bối liên quan tới khí thải độc hại của động cơ chạy dầu diesel mà một số kẻ ma mãnh như Volkswagen, Audi, BMW, Mercedes, Porsche... dùng phần mềm thao túng để qua mắt kiểm định kỹ thuật. Nhân thể, người ta quyết định sẽ cấm toàn bộ động cơ diesel theo lộ trình nhất định. Nó bị coi là thủ phạm chính thải ra nhiều carbon dioxide, làm tăng hiệu ứng nhà kính.

Con người ngày nào cũng hít thở thán khí đó, không ít thì nhiều, sau khi phát hiện vụ bê bối trên thì nhao nhao đòi đưa lũ lừa đảo ra vành móng ngựa. Nhưng người ta quên rằng núi lửa, vi sinh vật lên men hoặc tệ nhất là xăng pha chì (hay không pha chì) cũng đồng lõa.

Một sát thủ vô hình mà gần đây mới được chú ý, đó là bụi mịn và siêu mịn (từ pm 2.5 đến 1.0). Nó có mặt ở xứ ta và toàn thế giới, nguy hiểm hơn cả khí thải từ ôtô, nhà máy hay bếp than tổ ong. Các nghiên cứu mới nhất cho thấy: bụi mịn từ má phanh và lốp xe bào mòn trên đường, kể cả xe máy và xe đạp, còn nhiều hơn từ ống xả và ống khói!

Liệu có cấm hết được khoảng một tỉ ôtô và vài tỉ xe hai bánh trên thế giới? Liệu có trám được miệng 1.900 núi lửa còn âm ỉ? Liệu có đập bỏ ngay được hàng vạn bếp than ở mỗi khu dân cư? Những người đòi bỏ xe cơ giới có biết khí thải từ ống khói của 17 chiếc tàu viễn du lớn nhất thế giới cũng nhiều như từ 750 triệu ôtô?

Con người thường vội vã với những lời trách cứ, bất kể vì nợ công, vì nguy cơ vỡ quỹ hưu trí, vì hàng xóm hát karaoke thâu đêm hay vì không mua được khẩu trang. Nhưng dường như không hoặc chưa ai muốn biết thấu đáo mọi nguyên nhân sâu xa.

Cô bé Thụy Điển 16 tuổi Greta Thunberg tại một diễn đàn UNO với thuyết trình đẫm nước mắt “How dare you?” (Con người trên thế giới đang phải chịu đau thương, họ đang chết dần. Hệ sinh thái đang sụp đổ. Chúng ta sắp diệt vong. Vậy mà các người chỉ nói về tiền, về tăng trưởng kinh tế. Sao các người dám làm vậy?) là một tia sáng trong khung cảnh bi quan hôm nay, cho dù vẫn nên giảm nhẹ khía cạnh hùng biện và tu từ của bản “cáo trạng”. Vì ở mức độ toàn cầu, sự bất an thực tế luôn hiện hữu.

Cái chết đen (và những bóng ma khác của nhân loại)

Châu Âu ở thời kỳ từ năm 1346-1353 dâng cho Thần chết chừng 25 triệu mạng người, hơn gấp đôi toàn bộ số người ở Vũ Hán hôm nay hay một phần ba dân số toàn thế giới ngày ấy, nguyên nhân là một dịch hạch đi vào lịch sử với danh hiệu Cái Chết Đen.

Cho đến nay không bao giờ thế giới chứng kiến thêm một đại dịch khác ở quy mô tương tự nữa, nhưng âm thầm và đều đặn mỗi năm lại có một vài thảm họa dịch tễ xuất hiện ở mọi châu lục: Ebola, bệnh bò điên, H5N1, SARS, sốt Chikungunya, và hiện tại là COVID-19.

Khác với hôm nay, khi nguyên nhân của bệnh tật được khám phá trong vòng vài ngày, thời xưa con người cho rằng các thảm họa là sự trừng phạt của thánh thần và đổ xô đến những nơi thờ cúng, khiến bệnh tật càng lan tỏa dễ dàng hơn.

Do không có y học phát triển, ngày trước người ta tìm cách thoát khỏi các vùng có dịch như biện pháp cứu rỗi duy nhất. Nhìn từ góc độ hôm nay, Cái Chết Đen do các thương thuyền từ Trung Á đem tới và phát tán.

Trong bụng tàu chứa vô số chuột bọ mang mầm bệnh và đi tìm vật chủ mới chưa phát triển cơ chế đề kháng. Cho đến tận bây giờ, bệnh dịch hạch vẫn chưa được trừ khử hoàn toàn ở một phần châu Á và châu Phi, đặc biệt ở Madagascar.

Với giao thông và thương mại thuận tiện như chưa bao giờ có, ổ dịch nào cũng phát tán nhanh hơn tốc độ mà ngành y tế có thể phản ứng. Dĩ nhiên dịch nào cũng đáng sợ, nhưng cũng nên biết một mùa cúm “bình thường” đến hẹn lại lên, ví dụ ở Hoa Kỳ, cũng cướp đi vài vạn sinh mạng mỗi năm, nghe chừng còn nguy hiểm gấp mấy corona hôm nay.

Bên cạnh các thảm họa nhân tạo ấy, thiên nhiên không phải lúc nào cũng ưu đãi con người. Lụt lội, hạn hán, cháy rừng, nạn châu chấu triệt hạ mùa màng... không năm nào không có. Sẽ nhẫn tâm khi nói thảm họa tự nhiên là hiện tượng thường ngày, nhưng đó là sự thật hiển nhiên.

Thậm chí xét về luật nhân quả thì con người ngạo mạn đôi khi cưa cái cành mình đang ngồi như đốt rẫy cưa rừng, nắn lại dòng chảy của sông, tàn phá chính môi trường sống của mình.

Hồn nhiên tàn phá (và cái giá phải trả)

Tôi còn nhớ những ngày đầu đi du học ở châu Âu, vài đứa sáng nào dậy cũng chảy máu cam. Thoạt tiên, ai cũng nghĩ do không quen không khí lạnh và hanh khô. Cho đến khi chúng tôi đủ chữ để nghe các thầy cô giải thích và chính mình cũng lờ mờ nhận ra: cứ sáng sớm là hàng vạn ống khói lò sưởi đốt than nâu (than non) nhả khói ngạt thở, mấy lạch nước nho nhỏ chảy qua thành phố đục ngầu và tanh mùi hóa chất, mặt nước đầy những tảng bọt và rều rác từ các nhà máy gần đó thải ra.

Nói chuyện với các bạn địa phương, chúng tôi thường có thái độ “tự an ủi” một cách dốt nát: Nước chúng tao không có công nghiệp phát triển đến mức đủ làm hại môi trường. Giờ thì chúng tôi biết thực tế đã trừng phạt thói ếch ngồi đáy giếng đó ra sao.

Nhưng không chỉ các nước đang phát triển mới có quan điểm hi sinh môi sinh cho phát triển kinh tế. Các vết thương mà Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil gây ra cho thiên nhiên đã thành ví dụ điển hình cho phát triển nóng đầy hệ lụy. Song ngay một quốc gia được xem là kiểu mẫu về lối sống thường nhật và phát triển kinh tế như Nhật Bản cũng có những tử huyệt không đáng có.

Sau thập niên 1970 với những thảm họa nhiễm độc thủy ngân và kim loại nặng trong nước biển, Nhật Bản có cố gắng vượt bậc và ngày nay được coi là có môi trường đáng sống. Tokyo đã từng tuyên bố sẽ bỏ rơi châu Âu trong lĩnh vực bảo vệ khí hậu.

Du khách đến đây và định vứt chai nước rỗng hay que kem sẽ học được một kinh nghiệm lạ lẫm: rất khó tìm được thùng rác công cộng. Người Nhật sạch sẽ không xả rác bậy bạ, do đó họ cho vào túi đem về nhà. Ở đó, rác được phân loại như giấy, nilông, đồ ăn thừa. Một ngày ở Nhật bắt đầu bằng việc đem rác tới chỗ thu gom gần nhà trước 8 giờ.

Ban ngày có những xe tải nhỏ chạy khắp phố, phát loa thu gom miễn phí đồ điện cũ hỏng. Người dân gấp và buộc thành chồng báo ngăn nắp, phân chai lọ theo màu, thậm chí tã giấy của con nít cũng phải làm sạch “nội dung”.

Nhưng sau đó thì sao? Do thiếu đất nên người Nhật tái chế rác khá triệt để, chỗ còn lại đem đốt, thậm chí một số trường học lớn có lò đốt rác riêng. Hệ thống phin lọc ngăn khí độc thải vào khí quyển, tuy nhiên không ngăn được CO2, và thế là kỳ vọng giảm trừ thán khí của Nhật thành công cốc.

Bất an không làm ta bi quan (thế giới vẫn tươi đẹp mà!)

Truyền thông góp phần quan trọng định hình quan điểm người đọc, về lý thuyết thì ta biết rồi. Nhưng người đọc thông minh, nhất là trong thế giới ngập ngụa đủ thứ thông tin như trong thời Internet hiện tại, nên biết báo chí chỉ ưa giật tít, tức nêu lên những gì lệch khỏi quỹ đạo bình thường, đại khái là những vụ chó cán xe. Không thì sẽ thấy mọi bất an của thế giới là bình thường.

Cô bé Greta hỏi: Sao các người dám? Và tôi quý cô bé, tôi vui mừng vì giải Hòa bình cho trẻ em được trao cho cô bé can trường ấy. Còn chúng ta dĩ nhiên phạm nhiều lỗi, quan trọng là cái thế giới mà chúng ta chung sống đang tự hoàn thiện mình.

Không ai tạo ra thế giới này như nó đang hiện diện hôm nay, mà nó trải qua hàng trăm, hàng ngàn năm phát triển, với sự chuyển biến bởi hàng tỉ người đủ mọi sắc tộc và thế hệ trong một quá trình phức hợp, phức hợp hơn một cô bé 16 tuổi dũng cảm có thể hình dung ra.

Quá trình đó tên là lịch sử. Từ cái máy hơi nước hữu dụng đầu tiên của Thomas Newcomen lắp hồi 1712, băng qua Cách mạng công nghiệp, cái thời mà không ai đoán được kỹ thuật rồi sẽ phát triển tới đâu, hôm nay chúng ta có một nền kinh tế thế giới nối mạng chặt chẽ đến mức khó tin.

Một giáo sư kinh tế học nổi tiếng nửa đùa nửa thật trên mạng: toàn cầu hóa là sự bảo đảm hòa bình vững chắc nhất. Một tỉ phú Saudi Arabia có mấy nhà chọc trời tại New York và cảng London nằm trong tay chủ sở hữu Trung Quốc - đó là lý do không ai ném bom New York và London cả, vì cổ phiếu sẽ sụt giá ngay!

Châu Âu đang sống trong chu kỳ hòa bình hơn 70 năm, dài nhất lịch sử, và đủ sức để thuận ứng một Brexit. Nền kinh tế thế giới ấy cũng gây ra đủ vấn đề, nhưng nó đạt được những thành tựu lịch sử không thể không thừa nhận: khoa học y tế tiên tiến, tuổi thọ gấp đôi hồi trước Cách mạng công nghiệp, đời sống vật chất thịnh vượng cho hàng tỉ người.

Câu hỏi của Greta, một cô bé lớn lên ở xứ Bắc Âu giàu có, sẽ xuôi tai hơn nếu được nêu lên bởi một đứa nhỏ 10 tuổi đang đào quặng ở mỏ Volfram Nam Mỹ, nhưng ta không nên khắt khe quá. Tương lai nhân loại đang và sẽ phức tạp vì hình dung về hạnh phúc của người Tây Tạng khác người Eskimo và người Việt Nam, nhưng việc xóa bàn cờ để chơi ván khác chỉ xảy ra trên chõng tre hay màn hình computer, và giả sử làm được thì cũng đồng nghĩa với chấp nhận một nửa nhân loại bị xóa sổ bởi Ebola, HIV, SARS...

Tiến bộ có giá của nó, thế giới chưa bao giờ tốt đẹp hơn hôm nay và một phần các bất an là giá phải chấp nhận. Tương lai không được xây dựng bởi những kẻ chắn đường, mà bởi người mở đường.

Tôi ngồi xuống trước màn hình máy tính. Bạn bè bên Đức kể chuyện những kệ bán thuốc sát khuẩn trống trơn. Seoul cân nhắc bắt giáo chủ Tân Thiên Địa. Vatican đóng cửa nhà thờ, làm lễ lưu động. Công nghiệp Trung Quốc đe dọa tụt xuống mức thấp nhất kể từ năm 2004.

Amazon Mỹ báo đến tháng 4 mới có đợt bán khẩu trang tiếp. Nhưng tôi quyết định chỉ lùi vé vài hôm để bay đi hội chợ sách, vẫn kịp lễ khai trương. Và vào phút cuối trước khi bài viết này lên khuôn in, tôi nhận tin Hội chợ sách Leipzig bị đóng cửa !■

Lê Quang

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 09.03.2020.

Tính đến năm 1959, khi Quốc hội khóa I thông qua Luật hôn nhân và gia đình, đàn ông Việt ở miền Bắc mới coi như chấm dứt chế độ đa thê. Năm 1978, Luật hôn nhân và gia đình của đất nước thống nhất đã chính thức khép lại một lịch sử của cảnh chồng chung.

20200607

"Đánh ghen", tranh dân gian Đông Hồ

Vì vậy, về lý mà nói, việc một người đàn ông mang tiếng ngoại tình bị coi như phạm pháp là sản phẩm của tư duy hiện đại. Còn trong tâm thế xã hội ngày nay, không ai dám chắc quán tính lối nghĩ “đàn ông năm thê bảy thiếp là thường” đã tiệt nọc. Ngoại tình bị coi là đối cực của hôn nhân, song lắm khi lại nửa như một “sản phẩm phụ” của hôn nhân. Thậm chí, nó còn được khoác lên những biệt danh vui vẻ: phòng nhì, phở, cơ sở 2. Một phần nào đó những biệt danh ấy ám chỉ rằng, ngoại tình dễ chịu, tựa một thú chơi.

Năm 1958, cũng trong khoảng thời gian công bố dự thảo quy định đàn ông không được lấy vợ lẽ, vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ được Hàn Thế Du chỉnh lý và xuất bản. Vở chèo có gốc là một truyện thơ Nôm dài 578 câu thể lục bát, thuần túy là một diễn ngôn tụng ca đức hạnh hi sinh theo quan niệm Nho giáo: Hai người bạn học Lưu Bình và Dương Lễ mười năm đèn sách, Dương Lễ đỗ cao ra làm quan, Lưu Bình thi hỏng sinh ra thất chí, sang nhà bạn nhờ giúp đỡ song bị tránh mặt. Tự ái, chàng bỏ đi, giữa đường gặp một nàng vừa đẹp vừa biết liên tài, rồi nàng xin theo về nguyện nâng khăn sửa túi cho đến khi thi đỗ.

Lưu Bình đâu biết nàng chính là Châu Long, “dì hầu” (thiếp) của Dương Lễ, được chồng sai đi nuôi bạn. Khóa thi sau cách ba năm, nghĩa là ba năm nàng “khuyên sớm khuyên trưa, anh chưa thi đỗ thì chưa động phòng”:

…Nàng thời riêng mở một hiên

Cửi canh cần mẫn vui miền nữ công

Đêm ngày lòng những nhủ lòng

Tuy ngoài cười cợt nhưng trong giữ gìn

…Bảng vàng rồi sẽ đuốc hoa vội gì

Y hẹn, Lưu Bình đỗ bảng vàng vinh quy thì Châu Long đã về nhà với Dương Lễ lúc nào. Tất nhiên là bộ ba gặp lại nhau trong cảnh đoàn viên, đức hi sinh được đền đáp, chí công danh nam nhi được thỏa, đạo vợ chồng giữ trọn, tình bạn được nối lại. Đó là những gì truyện thơ và vở chèo ngợi ca.

Trang tên truyện thơ Nôm "Lưu Bình - Dương Lễ tân truyện",

bản chép tay của Maurice Durand theo bản khắc in năm 1919, thư viện Đại học Yale

Vấn đề đáng nói ở chỗ Châu Long là “dì hầu” (trong vở chèo được gọi là vợ ba) của Dương Lễ. Nghĩa là có nhường Châu Long thì ông quan Dương Lễ vẫn còn phu nhân chính thất (hoặc hai bà vợ lớn) ở nhà. Tất nhiên hoàn toàn có thể cô vợ bé này trẻ đẹp và đang được yêu vì, nên hẳn ông chồng cũng phải cân nhắc nhiều, vả lại thế mới có “tích” để “dịch nên trò”.

Trong truyện thơ, người vợ chính thất được hỏi ý kiến đầu tiên, bà ta đáp lại chẳng vui vẻ gì: “ông dạy lắm câu nực cười”, “coi thời ngứa mắt nghe thời trái tai”, và bảo rằng mình còn bận tề gia, “xin ông việc ấy nhường cho dì hầu”. Màn dùng dằng cắt cử người đi nuôi bạn hiền chiếm đến hơn 40 câu lục bát, con số đáng kể so với toàn truyện. Người nghe truyện thơ và xem chèo hàng trăm năm có lẽ đã sống với sự thật như vậy.

Tất nhiên, nhìn ở khía cạnh hôn nhân hiện đại, vợ lẽ là một tàn dư của chế độ đa thê phong kiến. Bởi vậy, việc “chỉnh sửa” mối quan hệ hôn nhân trong một vở chèo cổ trước hết là nhu cầu khẳng định sự thắng thế của quan điểm mới, mà như nhiều người đã nêu ý kiến một lãnh đạo rằng sửa như vậy thì việc nhường vợ duy nhất mới là thành thật vì bạn, mới là đáng quý. Nhưng dường như ý kiến này lại cho thấy vở chèo chỉnh lý tỏ ra cố gắng “nâng cấp” sự rộng lượng của người đàn ông khi nhường vợ cho bạn để cân bằng với đức hi sinh của người phụ nữ được cắt cử đi làm nhiệm vụ “ngoại tình hợp pháp”.

Nhiều độc giả và khán giả ngày nay cảm thấy không ổn, không phải ở việc Châu Long hóa ra chỉ là một cô vợ trong số nhiều cô vợ, cũng không phải việc nàng chấp thuận sự sai phái của chồng để sống chung một nhà với bạn anh ta, cũng chẳng hẳn việc các bên kiềm chế dục vọng đến phi lý, mà là thái độ họ lúc đoàn viên.

Châu Long khi lên đường rõ ràng là lo lắng mình “lửa gần rơm cũng ngại ngần lắm thay”, ba năm chung sống biết cách “nói năng ra tứ lẳng lơ phong tình”, biết ra lời thống thiết như bất cứ một chị em nào thời nhất sĩ nhì nông: “Tham về cái bút cái nghiên/ Nâng khăn sửa túi thiếp xin đỡ đần”. Vậy mà khi trở về với Dương Lễ, nàng không bợn một chút gì luyến tiếc hoặc tỏ ra xao xuyến về thời gian làm vợ Lưu Bình. Chồng nàng cũng không hề có một câu hồ nghi hoặc lo lắng về sự thủy chung của cô vợ bé. Nhưng đáng ngạc nhiên nhất là phản ứng của Lưu Bình khi phát hiện ra nhân thân của người con gái mình say mê và yêu thương ba năm qua: 

Chàng Lưu nhìn mặt rõ ràng

Nàng chào chưa dứt ý chàng đã hay

Tức thì lạy xuống trình bày

Rằng ơn quan bác biết ngày nào quên

Chàng còn ngay lập tức tôn Châu Long là chị: “Nhờ ơn anh chị công trình” và xin xí xóa luôn những yêu thương ngày cũ: “Vô tình nọ ấy dám xin thứ tình”. Trong khi chính chàng ta mới ngày trước đó còn rầu rĩ, “Mối tương tư biết bao giờ gỡ xong”! Như thể tâm trí Lưu Bình là một cái công tắc, bật một phát là tình cảm đảo chiều và được chế ngự ngay tức khắc. Tác giả câu chuyện không dành cho chàng ta một chút nào vướng bận tiếc nuối, sự đam mê bị bổn phận hạ đo ván.

Bìa bản nhạc Quán gấm đầu làng (Giao Tiên – Vinh Sử), in năm 1974,

nội dung ca ngợi đức hạnh Châu Long và tình bạn Lưu Bình-Dương Lễ

Rõ ràng, câu chuyện gián tiếp kết luận rằng con người biết kiềm chế dục vọng thì sẽ đạt được chính quả: Dương Lễ hi sinh lạc thú riêng tư thì giúp được bạn, Châu Long kìm nén sự cám dỗ nên qua được thử thách, còn Lưu Bình vì phẫn chí mà quyết tu tỉnh, không phân tâm sắc dục để thi đỗ. Câu chuyện có happy-ending là nhờ các nhân vật giữ vững khuôn khổ đạo đức. Châu Long trở thành một giá trị đức hạnh siêu phàm, như một đại diện của “ngoại tình hợp pháp” đối nghịch với những người phụ nữ trót sa vào để rồi bị tội “gọt đầu bôi vôi”, “bỏ rọ trôi sông”.

Câu chuyện nổi tiếng của trường hợp sau cũng trong một vở chèo, chính là chuyện Thị Màu chửa hoang đổ vấy cho Tiểu Kính, vốn là một người vợ bị nghi ngờ hãm hại chồng vì có tình ý khác. Việc phụ nữ ngoại tình gây chấn động những cộng đồng nhỏ bé, giống như tiếng mõ tai ương bêu riếu “chiềng làng chiềng chạ”, bởi nó đe dọa lề thói gia trưởng vốn luôn có nhu cầu giữ gìn hệ thống tôn ti trong làng ngoài họ.

Lưu Bình Dương Lễ tân truyện chịu ảnh hưởng rất rõ của văn chương Truyện Kiều, nhiều câu chữ hoặc điển cố mượn trực tiếp từ tác phẩm của Nguyễn Du, nhưng cùng vốn chữ đó, câu chuyện ngược chiều nhau. Cho dù Kim Trọng có xác nhận Kiều sau mười lăm năm lưu lạc “làm vợ khắp người ta” là “trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”, chàng cũng chẳng thể ngăn được sự tự ý thức của Kiều khi ngoái lại quãng đời đã trải “chữ trinh còn một chút này/ Chẳng cầm cho vững lại giày cho tan”.

Trong mối quan hệ tay ba, nàng như kẻ đến sau trong khung cảnh “một nhà phúc lộc gồm hai” của Kim Trọng và em gái nàng. Trong khi đó, Châu Long trở về đoàn viên với chồng để tìm kiếm một sự ghi nhận tối hậu: “Cương thường hai chữ thiếp không dám rời”  “Dám xin có bóng mặt trời chứng minh”. Dường như với sự khẩn khoản ấy, nếu không được Dương Lễ xác nhận, Châu Long trắng tay. Kiều thì khác, nàng bình thản nhuốm màu vô vi với mọi sự khi trở về.

Một bản tiểu thuyết hóa truyện Lưu Bình – Dương Lễ in năm 1939

Nhưng đâu là thái độ thực sự của phụ nữ thời ấy về chuyện “trinh bạch”? Câu chuyện về bộ ba đức hạnh xuất hiện trong một phiên bản văn xuôi của truyện thơ Lưu Bình - Dương Lễ mang tên Tùng bách thuyết thoại trong tập Truyền kỳ tân phả của một tác giả nữ: Đoàn Thị Điểm.

Tương truyền, bà được coi là người đã dịch Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn ra thơ Nôm ở thể song thất lục bát. Liệu có gì mâu thuẫn khi chính một tác giả nữ thường được gắn với thái độ bảo vệ nhu cầu tình cảm riêng tư của người phụ nữ, lại viết ra một câu chuyện đặc phẩm chất “tam cương ngũ thường”, mà trong đó hạnh phúc của người phụ nữ tì thiếp là vun vén cho sự mãn nguyện của đàn ông?

Có lẽ vì thông điệp đạo đức của truyện này quá khác những câu chuyện giàu màu sắc nổi loạn như Vân Cát thần nữ hay Bích Câu kỳ ngộ trong cùng tập sách mà một số nhà nghiên cứu đã không đồng tình Đoàn Thị Điểm lại đóng vai một phán quan đạo đức gia trưởng.

Nhưng mong muốn một tác giả nữ hay một nhân vật nữ phải nổi loạn, phải phong tình, chẳng phải cũng là một mong muốn rất gia trưởng đó sao? Những biện giải như “Xét trong tội nghiệp Thúy Kiều/ Mắc điều tình ái khỏi điều tà dâm” là một cách mặc cả với khung khổ chật hẹp của đạo đức xã hội, phản ánh một sự pha loãng những dục vọng của một xứ sở chưa đủ phù hoa để nuôi dưỡng những mộng tưởng tình tứ hoang đường nhất.

Xứ Việt thời trung đại không sản sinh ra một Kim Bình Mai hay Hồng Lâu Mộng, nơi những nữ nhân vật dám ngoại tình nồng nhiệt chẳng kém những tiểu thuyết phóng túng Pháp thế kỷ 18 như Những mối quan hệ nguy hiểm hoặc quen thuộc với người Việt hơn – “Mai nương Lệ cốt” (Manon Lescaut). Nhưng chỉ sau một thế kỷ, cuốn truyện vừa “Thầy Lazaro Phiền” của Nguyễn Trọng Quản in năm 1887, dấu ấn văn xuôi thể loại hư cấu đầu tiên của văn học Việt Nam, đã kể về một vụ án liên quan ngoại tình.

Truyện Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản, bản in năm 1934

Thông ngôn Phiền được một cô vợ quan Tây mê, song chàng cự tuyệt. Cô ta viết thư nặc danh tố cáo vợ Phiền ngoại tình với người bạn của chàng (cũng lại là một người bạn đèn sách!). Phiền nổi cơn ghen, giết cả bạn lẫn vợ. Chán đời, chàng bỏ đi tu. Mười một năm sau, vị linh mục nhận được thư của cô vợ quan Tây, bà ta thú nhận đã dựng chuyện. Phiền ân hận mà chết.

Non 50 năm sau, người đàn ông Việt Nam biết vợ ngoại tình thì làm những gì? Ông ta khẩn khoản tìm cách được tuyên bố: “Tôi là một người chồng mọc sừng”! Câu nói này của nhân vật ông Phán, chồng cô Hoàng Hôn, trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, được viết ra với cảm thức giễu nhại, thuộc về một loại câu thoại thoạt tiên có vẻ rỗng nghĩa, như những câu “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi” hay “Em chã”, song là những nét nhận diện nhân vật sinh động.

“Mọc sừng” là một phép ẩn dụ ngoại lai nhập khẩu từ Pháp, mà người đọc truyền thống với Xuân Tóc Đỏ là đại diện, dĩ nhiên cần được “khai hóa” khái niệm này: “Xin ngài hiểu cho rằng nói thế là nói bóng gió. Còn muốn nói cho dễ hiểu thì thế nghĩa là: vợ tôi đi ngủ với giai”.

Biếm họa người chồng mọc sừng của Pháp

Tất nhiên Vũ Trọng Phụng mượn hình ảnh nhân vật ông Phán mọc sừng mang tính cường điệu để châm chọc xã hội đô thị mà theo ông đầy sự nhố nhăng kệch cỡm, nơi mà những quan hệ tình ái nhiều phần xuất phát từ dục vọng không được cương tỏa. Hơn thế nữa, tình dục và ngoại tình của các nhân vật lại được họ sẵn sàng triển lãm ra, như những bộ trang phục Âu hóa phô bày phần dục tính của con người. Vũ Trọng Phụng cho đó là những loại bệnh lý cần được giáo dục và chữa chạy. Về một phương diện nào đó, tác giả Số đỏ và Làm đĩ lại khá gần gũi các nhà đạo đức sáng tác nên thiên truyện đề cao phẩm hạnh Lưu Bình - Dương Lễ.

Khi vở chèo Lưu Bình - Dương Lễ chỉ còn lại một nhân vật nữ duy nhất trong những ngôi nhà của hai người đàn ông, câu chuyện mất dần tính hiện thực mang màu sắc cổ điển mà ngả sang địa hạt của chủ nghĩa lãng mạn, khi lý tưởng hóa chức phận của mỗi con người. Cách xóa mờ mối quan hệ đa thê xem ra lại phản ánh một tâm thức áp đặt khi chúng ta cứ muốn diễn giải tình cảm con người theo hướng trùng với năng lực cảm xúc của mình.

May mà Truyện Kiều chỉ xây dựng mối quan hệ trung tâm giữa ba nhân vật Kim-Vân-Kiều, chứ nếu đúng kiểu truyền thống Việt Nam thì Kim Trọng khi làm quan, chắc gì đã có mỗi Thúy Vân làm vợ mà phải có vài nàng hầu dì thiếp nữa. Thật tình cờ, Nguyễn Du xây dựng các mối quan hệ của Kiều với các người đàn ông trong đời nàng đều không bị cạnh tranh với các bà vợ khác, trừ Hoạn Thư vợ chính thất của Thúc Sinh. Kiều bị Hoạn Thư đánh ghen cũng là vì sự ngoại tình của anh chồng gan thỏ mà chị ta không thể trút bạo lực lên anh ta, người mà về lý có quyền kiếm thêm vợ lẽ nàng hầu. Hoạn Thư thực ra khá hiện đại khi bào chữa cho mình: “Chồng chưa chưa dễ ai chiều cho ai!”. Kiều đã chẳng thể báo oán chị ta vì lẽ này.

Tôi vẫn nghi ngờ tính phổ quát của những câu chuyện đạo đức mà những vở chèo Quan Âm Thị Kính hay Lưu Bình - Dương Lễ đã xướng lên. Bằng chứng là cùng lúc, trong dân gian có những câu ca dao hay dân ca phải chăng hơn về chuyện ái tình “lạc đường”. 

Nhị tình em ở nhất tâm

Sao anh ăn ở với em nhị tình

Ai ơi nhất lý nhị tình

Vì ai xúi giục cho mình nhị tâm…

Đoạn ca dao trên mở đầu cho một bài bản có mặt trong rất nhiều loại hình diễn xướng dân gian, từ xẩm đến chèo, ca trù cho đến quan họ. Để trách móc một người tình nhân đã ăn ở hai lòng, cho dù bàng bạc nỗi cay đắng, lời ca vẫn có cái vẻ khuyên lơn nhẹ nhàng, chưa đến mức hàm ý chọn biện pháp cực đoan như kiểu Hoạn Thư mắng chửi “ra phường mèo mả gà đồng” hoặc dùng bạo lực “trúc côn ra sức đập vào”. Những vốn chữ nghĩa trên là sáng tạo của Nguyễn Du, song cũng như cụm từ “Sư tử Hà Đông” để chỉ những người vợ dữ tướng kiểu Hoạn Thư, những cơn ghen lôi đình quen thuộc quá đỗi để người Việt chẳng nề hà nhận luôn đất Hà Đông đấy là của nước mình, cho dù cái tên tỉnh Hà Đông mới có từ năm 1904.

Thế mới biết, những tên gọi đến rất muộn, trong khi chuyện đã có lâu rồi…

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 18.5.2020.

TTO - Cuối năm, nghe mùi Tết rộn ràng trên các báo. Người ta nói về thịt cá, rau quả, bánh mứt, người ta thông báo về vé tàu xe ngày về quê hay các chuyến du xuân, trong tôi cứ hiện lên thấp thoáng một cái bếp, những cái bếp đâu đó trong đời.

20200201 2

Ảnh: TỰ TRUNG

Lạ chưa, bếp đỏ lửa, tắt lửa từng ngày trong từng nhà của chúng ta, phải đâu chỉ có với mùa Xuân?

Nhưng mùa Xuân là mùa của phút giây nghỉ ngơi đón mừng năm mới, mùa của sum vầy gia đình, mùa của lòng tưởng nhớ tổ tiên, dường như ai cũng muốn trở về náu mình trong căn nhà đã ấp yêu mình, nơi ngọn lửa ấm áp từ ấu thơ bập bùng réo gọi.

Vì vậy, trong một liên tưởng nào đó, có thể nói bếp cũng có mùa. Mùa ấy gắn với con người, nhưng ngẫm kỹ mà xem, mùa ấy cũng bắt nguồn từ tự nhiên, vì ở đó lửa là nhân vật chính.

Mùa Xuân, Tết đến, lửa bừng thức trong gian bếp của muôn nhà, nói với chúng ta về "cái bản nguyên" (Héraclite) đã sinh thành vạn vật, mang lại cho con người biết bao năng lượng tinh thần và vật chất: sự giác ngộ, thanh tẩy, tái sinh trong ánh sáng và nhiệt lượng.

Tôi đã trải qua rất nhiều niềm vui với bếp, hồn nhiên và chiêm nghiệm. Ám ảnh nhất là những gian bếp của tuổi thơ.

Những sáng sớm mùa đông, lén dậy chui vào bếp, thu người ngồi trên chiếc đòn tre bên người dì, lùa những lọn rơm vàng vào bếp, nghe tiếng nổ của lúa sót và mùi hương cốm nổ ngọt ngào, những lời hát nho nhỏ và tiếng thì thầm kể chuyện miên man.

Những mùa hè, chạy ra chạy vào, nhặt củ khoai lùi, hít hà mùi lá thông khô do hai dì cháu đi hốt dưới nổng cát về, nồng nàn lan tỏa.

Mùa bão lụt, nước ngập nhà, mẹ đưa bếp lên bàn đun nấu. Chiếc bàn gỗ thô hình chữ nhật vững chãi mãi mãi in một vết cháy tròn như vết chàm trên mặt, sẫm màu than, rạn gỗ, là kỷ niệm khó phai.

Bếp nhà nội, gian nhà sau rộng, xây bằng đá tổ ong, có cửa sổ chống cánh nhìn ra vườn. Từ khi nào khói đã ám muội đen kịt trên trần và vách. Ba bốn cái kiềng sắt lớn, vừa những thanh củi gộc to mùa giỗ chạp.

Thỉnh thoảng tôi mơ thấy mình ngồi một mình trong gian bếp ấy với các nồi đồng to sôi sùng sục. Những sóng chén san sát chén đĩa xưa và các hũ muối hạt óng ánh màu tinh thể. Những chiếc gióng mây to nhỏ lơ lửng trên đầu, đựng đồ khô, đường bát và rau củ.

Các nia ngả ra, bày lá chuối, sắp xôi và thịt, nơi mọi người quây quần làm ram. Các đòn gỗ rất thấp, ngồi in những dáng người thu lu trên tường, nhảy múa trong ánh lửa sớm mai. Lặng lẽ làm, lặng lẽ quẹt mồ hôi trên trán, lặng lẽ bưng và xếp thành từng mâm chồng lên nhau trên bàn thờ.

Bếp của mẹ, ngày ngôi nhà lớn bị giải tỏa, mẹ ở trong căn nhà hộp diêm một mình. Trong gian bếp nhỏ tí, mọi cái đều gọn gàng, bảo tôi ngồi bên chiếc bàn tròn, mẹ từ tốn làm từng món chay rất khéo, bày ra trên khay và rồi hai mẹ con vừa ăn vừa chuyện trò khe khẽ. Ngoài kia, trời chuyển mùa, tiếng người mua bán rộn ràng.

Bếp của tôi, nhiều lần đổi dời. Ngày còn ở trọ, khẽ khàng đi xuống cầu thang gỗ, nấu nướng rón rén thật nhẹ nhàng khi mọi người đã lên phòng.

Ngày có ngôi nhà đầu tiên của đời vợ chồng, bếp nằm sau một khoảng sân, tường và bệ bếp loang màu nước thấm, nấu củi và dầu, khói và mùi ẩm thấp, bữa ăn ngoài sân ngồi trên nong lớn rộn ràng, có tiếng ổi rơi bộp bộp và hương ổi ngọt ngào.

Những ngày hè oi ả, tôi ước ao một cái bếp có khung cửa thật rộng, có thể vừa đứng nấu vừa nhìn ra vườn có cây lá xanh tươi, nhớ thời tuổi nhỏ.

Bếp là nơi đón Tết sớm nhất. 23 tháng chạp, cá chép lượn trong thau và chè trôi nước vàng au trong chén, người dong xe tìm đoạn sông vắng để đưa ông Táo về trời.

Mùa của bếp lại về, đón Tết với bao ước vọng. Có lẽ ước vọng đơn sơ, cụ thể mà ai ai cũng đều nghĩ đến trong ngày đầu năm là bếp ấm, bếp sạch.

Nuôi dưỡng lửa, giữ gìn cái bếp ấy từng ngày trong mái nhà của mình, ấy là con người nối kết được với mạch sống của vũ trụ, bảo toàn được một nhịp đập an hòa trong thế giới của mình: hạnh phúc khi được sống với và sống chung, nơi tình yêu và tương thông luôn có mặt.

Mấy lần chuyển nhà, những gian bếp dần dần hiện đại, sáng sủa hơn. Đời đô thị đã làm tôi rời xa gian bếp củi, than. Thay đổi nhưng bếp vẫn là không gian chứng nhân, đã lắng nghe hết những tiếng to, tiếng nhỏ, tiếng cười, tiếng khóc đời thường trong bất kỳ căn nhà nào.

Nguyễn Thị Thanh Xuân

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 25.01.2020.

Lạ chưa, bếp đỏ lửa, tắt lửa từng ngày trong từng nhà của chúng ta, phải đâu chỉ có với mùa Xuân?

Nhưng mùa Xuân là mùa của phút giây nghỉ ngơi đón mừng năm mới, mùa của sum vầy gia đình, mùa của lòng tưởng nhớ tổ tiên, dường như ai cũng muốn trở về náu mình trong căn nhà đã ấp yêu mình, nơi ngọn lửa ấm áp từ ấu thơ bập bùng réo gọi.

Vì vậy, trong một liên tưởng nào đó, có thể nói bếp cũng có mùa. Mùa ấy gắn với con người, nhưng ngẫm kỹ mà xem, mùa ấy cũng bắt nguồn từ tự nhiên, vì ở đó lửa là nhân vật chính.

Mùa Xuân, Tết đến, lửa bừng thức trong gian bếp của muôn nhà, nói với chúng ta về "cái bản nguyên" (Héraclite) đã sinh thành vạn vật, mang lại cho con người biết bao năng lượng tinh thần và vật chất: sự giác ngộ, thanh tẩy, tái sinh trong ánh sáng và nhiệt lượng.

Tôi đã trải qua rất nhiều niềm vui với bếp, hồn nhiên và chiêm nghiệm. Ám ảnh nhất là những gian bếp của tuổi thơ.

Những sáng sớm mùa đông, lén dậy chui vào bếp, thu người ngồi trên chiếc đòn tre bên người dì, lùa những lọn rơm vàng vào bếp, nghe tiếng nổ của lúa sót và mùi hương cốm nổ ngọt ngào, những lời hát nho nhỏ và tiếng thì thầm kể chuyện miên man.

Những mùa hè, chạy ra chạy vào, nhặt củ khoai lùi, hít hà mùi lá thông khô do hai dì cháu đi hốt dưới nổng cát về, nồng nàn lan tỏa.

Mùa bão lụt, nước ngập nhà, mẹ đưa bếp lên bàn đun nấu. Chiếc bàn gỗ thô hình chữ nhật vững chãi mãi mãi in một vết cháy tròn như vết chàm trên mặt, sẫm màu than, rạn gỗ, là kỷ niệm khó phai.

Bếp nhà nội, gian nhà sau rộng, xây bằng đá tổ ong, có cửa sổ chống cánh nhìn ra vườn. Từ khi nào khói đã ám muội đen kịt trên trần và vách. Ba bốn cái kiềng sắt lớn, vừa những thanh củi gộc to mùa giỗ chạp.

Thỉnh thoảng tôi mơ thấy mình ngồi một mình trong gian bếp ấy với các nồi đồng to sôi sùng sục. Những sóng chén san sát chén đĩa xưa và các hũ muối hạt óng ánh màu tinh thể. Những chiếc gióng mây to nhỏ lơ lửng trên đầu, đựng đồ khô, đường bát và rau củ.

Các nia ngả ra, bày lá chuối, sắp xôi và thịt, nơi mọi người quây quần làm ram. Các đòn gỗ rất thấp, ngồi in những dáng người thu lu trên tường, nhảy múa trong ánh lửa sớm mai. Lặng lẽ làm, lặng lẽ quẹt mồ hôi trên trán, lặng lẽ bưng và xếp thành từng mâm chồng lên nhau trên bàn thờ.

Bếp của mẹ, ngày ngôi nhà lớn bị giải tỏa, mẹ ở trong căn nhà hộp diêm một mình. Trong gian bếp nhỏ tí, mọi cái đều gọn gàng, bảo tôi ngồi bên chiếc bàn tròn, mẹ từ tốn làm từng món chay rất khéo, bày ra trên khay và rồi hai mẹ con vừa ăn vừa chuyện trò khe khẽ. Ngoài kia, trời chuyển mùa, tiếng người mua bán rộn ràng.

Bếp của tôi, nhiều lần đổi dời. Ngày còn ở trọ, khẽ khàng đi xuống cầu thang gỗ, nấu nướng rón rén thật nhẹ nhàng khi mọi người đã lên phòng.

Ngày có ngôi nhà đầu tiên của đời vợ chồng, bếp nằm sau một khoảng sân, tường và bệ bếp loang màu nước thấm, nấu củi và dầu, khói và mùi ẩm thấp, bữa ăn ngoài sân ngồi trên nong lớn rộn ràng, có tiếng ổi rơi bộp bộp và hương ổi ngọt ngào.

Những ngày hè oi ả, tôi ước ao một cái bếp có khung cửa thật rộng, có thể vừa đứng nấu vừa nhìn ra vườn có cây lá xanh tươi, nhớ thời tuổi nhỏ.

Bếp là nơi đón Tết sớm nhất. 23 tháng chạp, cá chép lượn trong thau và chè trôi nước vàng au trong chén, người dong xe tìm đoạn sông vắng để đưa ông Táo về trời.

Mùa của bếp lại về, đón Tết với bao ước vọng. Có lẽ ước vọng đơn sơ, cụ thể mà ai ai cũng đều nghĩ đến trong ngày đầu năm là bếp ấm, bếp sạch.

Nuôi dưỡng lửa, giữ gìn cái bếp ấy từng ngày trong mái nhà của mình, ấy là con người nối kết được với mạch sống của vũ trụ, bảo toàn được một nhịp đập an hòa trong thế giới của mình: hạnh phúc khi được sống với và sống chung, nơi tình yêu và tương thông luôn có mặt.

Mùa hè năm 1786, hơn nghìn chiến thuyền từ Phú Xuân tiến ra Bắc, điểm đến là kinh thành Thăng Long của nhà Lê-Trịnh. Tham gia trực tiếp đồng thời ‘’đạo diễn’’ cuộc tấn công này là Nguyễn Hữu Chỉnh – một trong những người Nghệ An có ảnh hưởng nhất ở thế kỷ XVIII. Người đương thời gọi ông là con ‘’cắt nước’’, một nhà vô địch thủy chiến (Hoàng Lê Nhất thống chí). Sự kiện này chỉ là một chi tiết trong câu chuyện về thủy quân và ngai vàng ở Việt Nam cuối thế kỷ XVIII.


Mô hình chiến thuyền Tây Sơn (Bảo tàng Tây Sơn, Bình  Định).

Bắc Hà sẽ giao hết sức mạnh thủy quân cho viên danh tướng Hàm Giang lừng danh Đinh Tích Nhưỡng nhằm tổ chức một trận quyết chiến ở cửa Luộc. Nhưỡng lấy hết tàu thuyền chặn ngang cửa sông thành hình chữ nhất, sau đó dùng pháo bắn vào thuyền Tây Sơn. Hoàng Lê Nhất thống chí chép, quân Bắc Hà “bắn một tiếng đầu, thuyền giặc [Tây Sơn] đứng yên không động. Nhưỡng sai bắn phát thứ hai, bên thuyền giặc buồm đều cuộn lại. Chư quân đều mừng, cho là giặc có ý sợ. Nhưỡng sai bắn luôn ba phát nữa, bấy giờ bên giặc mới nổ một phát đại bác tiếng to như sét, một chồi cổ thụ trúng đạn, bị gãy làm đôi.” Quân Lê-Trịnh, cả thủy bộ, sợ hãi, tan vỡ. Thư cấp báo về tới triều đình, quan lại chỉ lo chạy vợ con, cất giấu của cải, không ai dám nhận việc đánh giặc.

Cánh cửa thành Thăng Long mở toang.

Trong một tháng, đạo quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy sẽ làm sụp đổ di sản 253 năm của chính quyền Lê-Trịnh. 

Truyền thống thủy quân của người Việt

Người Việt có lịch sử thủy chiến lâu dài với truyền thống thủy quân sử dụng các thuyền nhỏ, cơ động, đưa các hạm thuyền lớn của kẻ thù vào những khu vực nước nông, không gian chặt hẹp hoặc địa hình phức tạp mà chúng không thông thuộc. Tại đó, thủy quân tổ chức mai phục dựa địa hình và tận dụng lợi thế cơ động của thuyền nhỏ khi các tàu lớn của địch mất khả năng linh hoạt tại vùng nước nông hay lòng sông hẹp. 

Sông Bạch Đằng là một cái bẫy hoàn hảo như thế. Đó là tuyến đường thủy tối ưu cho một cuộc tiếp cận đường sông vào lãnh thổ Đại Việt. Thực tế, nếu bạn muốn kéo quân từ phía Bắc xuống thì đây cũng là đường vận tải lương thực hoàn hảo. Nhưng đó cũng là một nơi  hoàn hảo để tiến hành chặn đánh du kích trên sông, điều người Việt đã làm vào năm 938, 981, 1075-77, và 1288. Sau đó, nhà Minh và nhà Thanh đã phải thay đổi chiến lược, tập trung tiến quân đường bộ. 

Vào cuối thế kỷ XVIII, Nguyễn Huệ cũng sẽ đẩy quân Siam vào tình thế tương tự khi chọn khúc sông Rạch Gầm-Xoài Mút, nơi có nhiều Cù Lao và nhánh rẽ, nơi ông sẽ đặt phục binh cả trên bờ, trên các doi đất và trên sông nhánh để diệt gọn toàn bộ hạm đội của người Thái. 

Chiến thuật này cũng giúp người Việt giành thắng lợi trước hạm đội 3 tàu của người Hà Lan năm 1643, trong một diễn biến quân sự ít người biết tới. Hè năm 1642, các con tàu này đánh chiếm duyên hải Quảng Ngãi, đốt 500-600 ngôi nhà và bắt đi 38 người. Tuy nhiên có vẻ như người Hà Lan đã chọn nhầm đối thủ. Vào lúc đó, thủy quân của chúa Nguyễn có khoảng 230-240 tàu được trang bị vũ khí. Mùa hè năm 1643, hạm đội Hà Lan quay lại và nhanh chóng bị 60 tàu của chúa Nguyễn vây đánh tại cửa sông Gianh, làm cho một chiếc bị nổ tung, giết chết toàn bộ thủy thủ và hai chiếc còn lại hư hỏng nặng (Hoang Anh Tuan, Silk for Silver, 2007).

Chúng ta sẽ không biết điều gì xảy ra nếu như các hạm thuyền phương Bắc "chịu khó" đi xa hơn về phía Nam và tiếp cận Thăng Long bằng đường sông Hồng. Lịch sử có thể đã diễn biến khác. Đó cũng là cách các hạm đội Champa trở thành nỗi "khiếp đảm" của nhà Trần vào thế kỷ XIV. Thủy quân của Chế Bồng Nga đã hơn một lần đốt cháy Thăng Long và khiến vua quan nhà Trần tháo chạy qua bên kia sông Hồng (Đại Việt sử ký toàn thư). Cuối cùng thì người Việt vẫn giỏi đánh du kích, dù là trên bộ hay trên sông.

Chuyển dịch sân khấu chiến tranh cuối thế kỷ XVIII

Sau ba thế kỷ mở rộng lãnh thổ về phía Nam, sân khấu chiến tranh ở Việt Nam cũng dịch chuyển theo:

Chiến tranh Địa bàn chủ yếu
Chiến tranh Nam-Bắc triều, 1533-1593 Từ Nghệ An tới thăng Long
Chiến tranh Trịnh-Nguyễn, 1627-1672 Nghệ An, Quảng Bình
Chiến tranh Tây Sơn-Nguyễn 1771-1802

Hạ lưu Mekong

Duyên hải Quy Nhơn tới Quảng Bình

Từ thế kỷ XVII, thủy quân đã lên ngôi khi trung tâm của chiến tranh chính là mặt nước sông Gianh. Chúa Nguyễn sẽ phải thúc đẩy hàng hải và thủy quân, không chỉ chống lại phía Bắc mà còn thúc đẩy việc mở rộng ảnh hưởng vào phía Nam, và tiến hành các chiến dịch quân sự vùng hạ lưu Mekong.

Tới cuộc chiến Tây Sơn-Nguyễn, thủy quân trở thành lực lượng chính và có ý nghĩa chiến lược tới toàn bộ cuộc chiến. Đó là cuộc chiến giữa hai vùng biên mới được khai mở của không gian người Việt. Sân khấu chính là một vùng duyên hải trải dài từ Quảng Bình tới Phú Quốc với nhiều cửa sông, vũng vịnh, đầm phá, hải cảng và căn cứ quân sự ven biển. Từ sau khi Nguyễn Ánh lấy lại được Gia Định thì hành lang từ Nha Trang tới Nghệ An đóng vai trò quyết định tới vận mệnh của một Việt Nam thống nhất. Chạy dọc theo dãy Trường Sơn gần 1000 km, khu vực này có chiều ngang hẹp, từ 40 tới 120 km và các con sông nhỏ chảy từ Tây sang Đông. Dọc duyên hải có nhiều vũng, vịnh, đầm phá ăn sâu vào đất liền… Ở đó, có thể dùng thủy quân để khống chế, chia cắt, tập kích quân bộ. Và chúng ta sẽ thấy dưới đây, Nguyễn Phúc Ánh đã dùng thủy quân để tiêu diệt nhà Tây Sơn. 

Thủy quân Tây Sơn

Thành công của Tây Sơn không chỉ tới từ tài năng của các chỉ huy quân sự, khả năng di chuyển thần tốc, tính năng động của một đạo quân đa dạng, voi chiến và các khẩu pháo mới mà còn từ việc tổ chức thủy quân và kết hợp các cuộc tiến công thủy bộ. 

Nguyễn Huệ tận dụng ưu thế của hai lực lượng hàng hải người Chăm và người Hoa, trong đó có hai viên chỉ huy Lí Tài và Tập Đình, những người được cho là góp một nửa thủy quân Tây Sơn. Ở giai đoạn đầu, họ cắt Phú Xuân ra khỏi các vùng cung cấp lương thực phía Nam, như ghi chép của các giáo sĩ, cho tới khi chúa Nguyễn chạy vào Gia Định. Nguyễn Huệ sẽ tiến hành một loạt chiến dịch truy kích ở hạ lưu Mekong, tiêu diệt các chúa Nguyễn và đẩy Nguyễn Phúc Ánh cùng một nhóm tùy tùng ra các hòn đảo trong vịnh Thailand. 

20200524 2Tàu chiến Đàng Ngoài thế  kỷ XVIII (bức vẽ của Samuel Baron, khoảng 1680).

Quy mô hạm thuyền và kỹ thuật trên các thuyền chiến Tây Sơn là rất đáng chú ý. Sử nhà Nguyễn ghi chép rằng các con tàu Tây Sơn án ngữ tại Thị Nại trang bị 35 đến 40 khẩu pháo.

Chiến dịch Rạch Gầm-Xoài Mút và chiến dịch Bắc Hà năm 1786 cho thấy khả năng điều phối thủy bộ của Nguyễn Huệ, một viên tướng có tầm nhìn bao quát và khả năng điều phối chiến lược trên một không gian địa lý rộng, tác chiến phức tạp. Khi phạm vi của triều Quang Trung được mở rộng, một lực lượng mới gia nhập, góp phần quan trọng vào sức mạnh của Tây Sơn là hải tặc Trung Quốc. Các sử gia George Dutton, Dian Murray và Robert Antony đã trình bày nhiều nghiên cứu công phu về vai trò của ‘hải tặc Trung Quốc’ trong quân Tây Sơn. Bản dụ của vua Gia Khánh nhà Thanh ngày 5/2/1797 gợi ý về quy mô của các nhóm này: “Nay theo lời khai của bọn phỉ là di là La Á Tam: Tàu Ô An Nam có 12 tổng binh, hơn 100 hiệu thuyền, và căn cứ vào giấy tờ bắt được có ấn triện, thì bọn cướp Tàu Ô đều nhận hiệu phong của quốc vương.” (Minh Thực lục, Hồ Bạch Thảo dịch, 2019). 

Bốn năm sau, khi nhà Tây Sơn bị truy kích, nhiều người trong số họ đầu hàng nhà Thanh. Một trong số đó là Trần Thiêm Bảo. Lời dụ ngày 19/12/1801 của Gia Khánh: “Theo lời tâu của bọn Cát Khánh, tên cướp biển Trần Thiêm Bảo mang cả gia quyến nội phục, và trình nạp sắc ấn của An Nam cấp cho. Tờ tâu nói: “Trần Thiêm Bảo đánh cá gặp bão vào năm Càn Long 48 [1783] bị Nguyễn Quang Bình [Nguyễn Huệ] bắt được, phong chức tổng binh’’. Có thể thấy trong nhiều năm hải tặc quấy phá đều do An Nam chứa chấp gây ra. Lúc Nguyễn Quang Bình còn sống, bắt người của nội địa [Trung Quốc], gia phong ngụy tước hiệu, rồi tung ra biển cướp phá.” (Thanh thực lục). 

Trước khi qua đời, Quang Trung còn dự định tổ chức một cuộc viễn chinh lớn vào vùng hạ lưu Mekong. Tuy nhiên không chỉ kế hoạch này bất thành mà triều đại của ông cũng sụp đổ bởi sự tan vỡ của hệ thống tổ chức quân sự Tây Sơn. Nguyên nhân tới từ việc họ để mất sức mạnh thủy quân.

Sự chia rẽ của Tây Sơn là một thảm họa, không chỉ từ góc độ chính trị mà còn từ khung cảnh chiến lược và chiến thuật quân sự. Nếu Nguyễn Huệ có thể tự do điều hành hệ thống quân sự từ Gia Định tới Thăng Long ở buổi đầu thì việc chia ba vương quốc: Hạ lưu Mekong (Nguyễn Lữ), Bình Thuận tới Quảng Nam (Nguyễn Nhạc), từ Quảng Nam ra Bắc (Nguyễn Huệ) đã phá vỡ không gian tác chiến này, khiến cho việc phối hợp, yểm trợ lẫn nhau của quân thủy dọc theo hơn 3000 km bờ biển hầu như không thể thực hiện được. 

Sự phối hợp tác chiến giữa Quy Nhơn, Quảng Nam và Phú Xuân là ví dụ. Chúng từng tạo ra một tuyến phòng thủ nhiều lớp vững chắc, bảo vệ lẫn nhau cả đường bộ và đường biển, nơi mà các trung tâm quân sự, thành trì đều gần biển, cảng và dễ dàng tiếp cận từ cửa sông. Tuy nhiên việc chia cắt này đã đặt Quy Nhơn thành một "tiền đồn chơ vơ" ở phía Nam. Đặc biệt là khi Nguyễn Phúc Ánh, dựa vào hệ thống phòng thủ tự nhiên của vịnh Cam Ranh, chiếm Diên Khánh (1793), Quy Nhơn đã nằm trong tầm ngắm thường trực. Thị Nại là một căn cứ mạnh, nhưng giờ đây trở nên đơn độc. Chính vào lúc đó, Nguyễn Nhạc đã không còn cách nào khác là cầu cứu cháu mình, Quang Toản. Toản sẽ giải cứu Quy Nhơn, nhưng chiếm luôn thành trì và Nguyễn Nhạc tức giận đến chết. 

Tàu chiến Mông Đồng, hình khắc trên cửu đỉnh (Huế).


Với ý nghĩa đó, thất bại lớn nhất của Tây Sơn là chưa tạo ra một bản đồ tác chiến, một bản đồ chiến lược, và một bản đồ hậu cần thống nhất cho toàn Việt Nam. Để có được và vận hành một nước Việt Nam hình chữ S là không hề đơn giản. 

Các cuộc viễn chinh gió mùa

Các cuộc viễn chinh theo mùa gió đã mang về cho Nguyễn Phúc Ánh ngai vàng của nước Việt Nam hiện đại. Ông là người đầu tiên gắn kết hạ lưu Mekong vào cuộc tranh giành địa chính trị trên lãnh thổ Việt Nam, và đã thành công. Thủy quân sẽ giúp ông biến dự án chính trị đó trở thành hiện thực. 

Vùng đất mà ông chiếm giữ là một trong những trung tâm đóng tàu lớn nhất của Đông Nam Á lục địa thế kỷ XVIII. Gỗ từ vùng thượng nguồn Tây Ninh và truyền thống sông nước, hàng hải nhanh chóng đưa thủy quân thành trụ cột của các chiến dịch quân sự của Gia Định. Nói cách khác, hệ thống quân sự của Nguyễn Phúc Ánh vận hành dựa trên thủy quân. 

Hà Tiên, Phú Quốc, Long Xuyên, An Giang, và xưởng đóng tàu ở Gia Định được cho là kéo dài tới 1,5km dọc bờ sông, là những nguồn cung cấp tàu thuyền quan trọng nhất. Từ năm 1789, Đại Nam thực lục thường xuyên ghi chép về các yêu cầu đóng tàu của vị chúa Nguyễn, mỗi năm vài trăm chiếc. Từ những năm 1790 đến 1821, tổng số tàu thuyền được đóng là 3.190 chiếc lớn nhỏ. Một thống kê khác của Thực lục cũng cho biết riêng thời Nguyễn Phúc Ánh (1778-1820), đã có 235 ghe bàu, 460 thuyền sai, 490 thuyền chiến, 77 thuyền chiến lớn, 60 thuyền buồm kiểu ây, 100 thuyền Ô, 60 thuyền Lê được đóng, trong tổng số 1482 thuyền (Li Tana, Thuyền và kỹ thuật đóng thuyền, 2002). 

Con số tàu thuyền này phong phú tới mức Nguyễn Phúc Ánh không chỉ cung cấp cho quân đội mà còn gửi tặng vua Siam (đổi sắt, thuốc súng, súng), hay bán cho Macao và Manila. 

Nguyễn Phúc Ánh cũng chú trọng cải tiến kỹ thuật đóng thuyền theo mô hình tàu chiến phương Tây. John Barrow nói rằng nhà vua có 300 tàu chiến, 5 thuyền buồm và một tàu chiến kiểu phương Tây (1792-1793).  

Và đó là lúc cuộc chiến giành ngai vàng ở Việt Nam bước vào giai đoạn quyết định.

Sẽ mất 7 năm để các chiến dịch gió mùa (1792-1799) làm thay đổi cục diện chiến trường bằng cách bao vây, cô lập và tiêu hao các căn cứ quân sự Tây Sơn dọc theo duyên hải. Việc chiếm thành Diên Khánh, cách Thị Nại 200 km, là một bước ngoặt vì nó đặt các cửa sông, cảng biển Tây Sơn vào tầm ngắm thường trực của Gia Định, nơi họ có thể khai thác điểm yếu hậu cần, phân tán địa hình, và khoảng trống giữa quân bộ và quân thủy Tây Sơn. 

Hệ quả là Tây Sơn buộc phải dồn lực lượng hải quân vào Thị Nại, nơi họ bị tấn công và phá hủy nhiều lần. Thực tế, Nguyễn Phúc Ánh đã lấy sự cơ động của thủy quân để đánh lại quân bộ Tây Sơn giờ đây buộc phải vận động chiến dọc theo một miền duyên hải có địa hình phức tạp. Từ sau 1795, Nguyễn Phúc Ánh mở rộng hoạt động thủy quân, yểm trợ và kết hợp với quân bộ và quân tượng vây đánh Quy Nhơn. Chiến dịch năm 1796 chẳng hạn, huy động 600 thuyền, vận chuyển cả một đạo quân 40.000 binh lính trên hải trình 1000 km. 

Khả năng điều phối thủy quân của quân Nguyễn nhanh chóng áp đảo quân Tây Sơn vốn dựa trên sự kết hợp của nhiều nhóm khác nhau. Các tướng lĩnh giỏi nhất của họ như Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng, Nguyễn Văn Tuyết, Bùi Thị Xuân… đều tập trung cho bộ binh và tượng binh. Trong khi họ bị cầm chân bởi Lê Chất, Lê Văn Duyệt, Nguyễn Đức  Xuyên, Nguyễn Văn Thành thì Nguyễn Văn Trương, Võ Di Nguy, Võ Tánh… chia cắt và cô lập hệ thống phòng thủ Tây Sơn bằng cách đánh phá và kiểm soát cửa biển và sông ngòi, đặc biệt là giữa Quy Nhơn và Phú Xuân. 

Tây Sơn bị đẩy vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Không có đủ thuyền, không có khả năng kiểm soát và giữ liên lạc thủy bộ dọc theo duyên hải. Vận tải và hành quân đường bộ giữa Phú Xuân-Quy Nhơn là một quãng đường khó khăn, dễ dàng bị tập kích ở các cửa sông và cảng biển. Nỗ lực cuối cùng của họ giúp hậu cần cho Quy Nhơn bằng đường biển là vào năm 1800, khi mà 150 tàu vận tải bị quân Nguyễn đánh tan. 

Không còn cách nào khác, Tây Sơn dồn toàn lực biến Thị Nại thành cánh cổng sắt phía Nam của vương triều nhằm chặn đứng quân Gia Định.

Đó là một canh bạc nguy hiểm.

Vùng đầm phá rộng 5000 ha này từng bị quân Nguyễn tấn công vào năm 1792, 1793, 1796, 1799. Tuy nhiên, Thị Nại và thành Quy Nhơn là một hệ thống không thể tách rời, và nó không thể bị mất. Tư liệu phương Tây cho biết Diệu và Dũng sẽ đưa về đây 500 chiến thuyền và 50.000 lính. Họ dùng 100 chiến thuyền để án ngữ cửa vào vịnh. Sử nhà Nguyễn nói Tây Sơn có 1.800 thuyền và 6.000 khẩu pháo ở Thị Nại. Sau trận đánh kéo dài 16 giờ (27 đến 28/02/1802), “pháo nổ rung trời, đạn bay như mưa,” quân Tây Sơn bỏ lại 20.000 người chết. Toàn bộ căn cứ thủy quân lớn nhất của họ bị phá hủy. Quân Gia Định trả giá cho chiến thắng với 4000 lính. 

Một ngày nào đó, có lẽ các nhà làm phim Việt Nam sẽ chú ý tới trận đánh này: một trang sử sẽ không bao giờ bị người Việt lãng quên. 

Trận Thị Nại đưa lịch sử Việt Nam sang chương mới. Tây Sơn hoàn toàn mất quyền kiểm soát thủy quân và hệ thống quân sự bị cắt làm nhiều mảnh nhỏ. Ngay lập tức, Phú Xuân bị đe dọa và điều duy nhất Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng có thể làm là rút lên vùng thượng đạo và chạy ra Bắc. 

Lịch sử sẽ không cho họ cơ hội thứ hai. 

Cuối cùng, các học giả Việt Nam chú ý nhiều tới các cuộc chiến tranh chống xâm lược mà ít chú ý tới nội chiến. Tuy nhiên hình thái chiến tranh và các vấn đề liên quan trong giai đoạn 1770-1802 có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì chúng phản ánh những thách thức và các thể nghiệm của người Việt trong việc tổ chức chiến tranh thời sơ kỳ hiện đại. Kỷ nguyên của những con cắt biển là một dấu ấn của lịch sử Việt Nam, giai đoạn sẽ thai nghén nên hình hài của nước Việt Nam hiện đại và một chứng nhân cho những lao tâm khổ tứ, máu và nước mắt của tiền nhân để tạo ra dân tộc này. □

 

Vũ Đức Liêm

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 18.05.2020.

20200105 bao xuan

Đến ngày hôm nay, báo Xuân các loại đã bắt đầu phát hành ra sạp. Báo Xuân ngày nay với kỹ thuật vi tính đẹp tực rỡ khác xa thời họa sĩ vẽ trên giấy “can” và được in bằng kỹ thuật thô sơ từ hơn nửa thế kỷ trước. Thời đó, dù khó khăn, các họa sĩ rất chăm chút tranh bìa, minh họa của mình cho các tờ báo Xuân luôn rực rỡ.
HỌA SĨ LÊ MINH, SỐNG THOẢI MÁI NHỜ VẼ MINH HỌA TRÊN BÁO
Họa sĩ Lê Minh tên thật là Lê Ngọc Minh, sinh 1937, tốt nghiệp trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định năm 1957, bắt đầu vẽ bìa sách đầu tiên là bìa cuốn Tiếng suối Sao Len, truyện đường rừng của Nguyễn Ngọc Mẫn, một cây viết đường rừng đầu thập niên 1960.
Sau đó, ông vẽ tranh minh họa cho loạt truyện “Hoa Lư động chúa” đăng trên nhật báo Dân Ta của Nguyễn Vỹ. Đây là dạng truyện feuilleton, mỗi ngày ra một kỳ kèm minh họa. Sau đó ông vẽ truyện tranh, lấy cốt truyện là những truyện lịch sử hay truyện xưa như “Người con gái Nam Xương” trong Truyền Kỳ Mạn Lục hay Hòn Vọng Phu,… và cả truyện tranh nhiều kỳ (mỗi kỳ vẽ 5 cột báo) dựa trên cốt truyện của Bồ Tùng Linh.
Thuở ban đầu, ông vẽ truyện tranh khá cực nhọc, vẽ bằng mực tàu và bút sắt lá tre. Bản kẽm lúc đó còn làm trên gỗ, khắc từng chi tiết, rất kỳ công. Sau, theo kỹ thuật in typo, một miếng kẽm để trên máy in nhỏ 65x50, máy pedal. Hồi đó in bìa báo bốn màu bằng bản kẽm typo, in các màu vàng - đỏ - xanh - đen. Cliché Dầu phải làm bốn bản kẽm cho từng màu. Kỹ thuật này khiến cho họa sĩ và cho nhà in luôn vất vả. Bản kẽm già quá, hay non quá thì không chuẩn. Họa sĩ khi vẽ phải canh màu, phải biết kỹ thuật in để hình dung bức tranh mình gồm bốn màu in chồng lên nhau thế nào mà vẽ cho ra từng màu thuần chất, không dùng màu ửng ửng khó tách màu.
Họa sĩ Lê Minh về vẽ cho báo Sài Gòn Mới khoảng năm 1958, một năm sau khi ra trường. Ông làm họa sĩ thường trực, vẽ theo yêu cầu của Thư ký tòa soạn. Lương họa sĩ thường trực hằng tháng là 4 ngàn đồng, trong khi lương sĩ quan quân đội cấp bậc thiếu úy chưa tới 3 ngàn. Bà Bút Trà có các người con làm báo Phụ Nữ Diễn Đàn, Phụ Nữ Ngày Mai đều nhờ ông vẽ minh họa, biếm họa, vẽ truyện tranh. Việc nhiều, giấy vẽ Calson của Pháp mua một lần cả cuộn chứ không mua lẻ, mang về nhà cho vợ lọc ra thành từng tờ. Thu nhập của ông lên tới 6 ngàn đồng một tháng, chưa kể tiền “súp” được ông quản lý trả khi làm thêm những công việc ngoài hợp đồng. Với số lương đó, ông sống thoải mái, sau vài năm đã có thể mua được xe hơi.
Tại báo Sài Gòn Mới, ngoài Lê Minh là họa sĩ thường trực lúc đó còn có họa sĩ Hoàng Lương vẽ cộng tác, thường đến giao tranh rồi đi. Ông này vẽ truyện tranh “Bàn tay máu” của nhà văn ăn khách Phi Long. Trong những công việc của Lê Minh, việc quan trọng không thể thiếu sót là mỗi ngày vẽ một bức hí họa ở trang nhất. Có lần, ông vẽ trong đêm, mệt quá ngủ gục, tay quơ khiến lọ mực Tàu đổ lên tranh. Đến sáng, không có tranh đưa đi làm kẽm, thư ký tòa soạn là ông Chi Lăng phải soạn ngay một tin kiểu “xe cán chó” để trám vào ngay. Rất may, tiệm Cliché Dầu biết kẽm cần gấp của Sài Gòn Mới nên lập tức làm ngay mới kịp để in báo ra buổi trưa.
Lê Minh cộng tác với Sài Gòn Mới cho đến khi báo bị đóng cửa năm 1963, sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ và tờ báo bị cho là thân với nhà Ngô. Anh em trong tòa báo tan tác, đi sang các báo Ngôn Luận, Độc Lập. Sau đó là giai đoạn vẽ bìa sách, mà đáng nhớ nhất là vẽ bìa truyện chưởng Kim Dung.
Họa sĩ Lê Minh đã mất tháng 10 năm 2019.
HỌA SĨ PHAN PHAN
Họa sĩ Phan Phan, tốt nghiệp trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định năm 1959 đã sớm cộng tác vẽ truyện tranh cho một số báo khi còn đang đi học. Ông tên thật là Phan Đắt Trưởng, sinh năm 1933 tại Bến Tre. Đầu thập niên 1960, ông chuyển sang làm họa sĩ thiết kế sân khấu, trở nên sáng giá và theo nghề cho đến nay, khi đã 84 tuổi, đoạt nhiều giải thưởng và được phong danh hiệu Nghệ sĩ nhân dân.
Bộ truyện tranh đầu tiên nhận nhuận bút khi đang là học sinh Mỹ nghệ thực hành Gia Định vượt ngoài ước mơ của ông. Lúc đó, tiền tòa báo trả cho họa sĩ một ô tranh 8cm vuông là 45 đồng. Một đợt tranh vẽ trong một tuần phải xong 100 ô tranh, lãnh 4.500 đồng. Cơm tháng 450 đồng, chỉ bằng một phần mười tiền nhuận bút. Lúc đó, còn đi học, ông rất sung sướng vì tự làm ra tiền bằng chính năng khiếu và sở thích của mình. Ông biết gia đình không muốn ông theo nghề vẽ, nhưng nhờ ý kiến người cậu: “Cho nó học một năm biết Sài Gòn với người ta, xong bắt về cũng không muộn!” mà ông có mặt ở đây. Thành công ban đầu khiến ông quyết ở lại, đến kỳ nghỉ hè cũng không về nhà, nhận vẽ truyện tranh cho các báo.
Vẽ tranh cộng tác với báo là để có tiền trang trải chuyện học, nên ông và nhiều họa sĩ khác lúc đó không coi trọng và cũng không có ý thức về tác quyền nên chẳng ký tên vào tranh. Bút danh Phan Phan, tòa báo cũng đặt cho ông một cách tình cờ. Số là sau khi được nhận tranh, ông mừng rỡ quay lưng ra về thì bị gọi giật lại, đòi cho biết tên để ghi tác giả. Ông trả lời “Khoan, khoan!”, định về nhà nghĩ cho mình một bút danh. Nào ngờ, nhân viên tòa báo nghe ba chớp ba nháng, viết tên ông là “Phan Phan”. Từ đó chết tên luôn!
Sau này, do cơ duyên, họa sĩ Phan Phan chuyển sang thiết kế sân khấu từ rất sớm nên không tiếp tục theo nghề vẽ tranh hí họa. Nhưng nhờ vào làng tranh biếm, ông gặp được người ngưỡng mộ bấy lâu là họa sĩ Lê Trung.
Do ông rời làng báo từ sớm nên không tìm thấy được nhiều tranh minh họa và biếm họa của ông.
Họa sĩ Phan Phan đã mất tháng 5 năm 2019.
HỌA SĨ HƯNG HỘI
Hai họa sĩ Lê Minh và Phan Phan, đều trên tám mươi tuổi, khi nói về họa sĩ Hưng Hội đều thừa nhận ông Hưng Hội vẽ minh họa và hí họa rất đẹp, đường nét diễn tả gọn, sắc sảo và sinh động.
Trong hai năm sống gần rạp Văn Hoa Đa kao, họa sĩ Phan Phan thường cùng họa sĩ Hưng Hội uống cà phê ở góc đường Trần Quang Khải – Hai Bà Trưng. Ông còn lưu chút ký ức về họa sĩ này.
Hưng Hội là họa sĩ lớp trước cũng xuất thân từ trường Mỹ nghệ thực hành Gia Định, đã vẽ cho Nam Kỳ tuần báo từ rất sớm. Hưng Hội là bút danh, không ai biết tên thật của ông là gì và đến giờ không để lại tấm ảnh nào. Khoảng cuối thập niên 1950, Hưng Hội sống trong căn nhà ở Khánh Hội cùng vợ con. Tính cách ông hiền hòa, bề ngoài bình dị, ăn mặc khá lèng xèng, đi xe đạp. Tuy bên ngoài như vậy, tranh của ông sắc sảo, hoa mỹ, cứng tay nghề. Nhờ vậy, ông được mời vẽ trên nhiều báo như Tin Điển, Thần Chung, Sài Gòn Mới... vừa biếm họa, minh họa, truyện tranh, ăn tiền từng sản phẩm chứ không ăn lương họa sĩ thường trực. Giống như các họa sĩ khác, ông vẽ bằng bút sắt, thứ nét mịn chấm trong lọ mực của Pháp, rồi đưa tòa báo để duyệt xong chuyển làm bản kẽm. Từ những bức tranh vẽ còn sơ sài trên Nam Kỳ tuần báo, Hưng Hội đã có những bức minh họa và biếm họa rất đẹp trên nhiều báo rất được anh em trong giới khen ngợi.
Sau năm 1975, bạn bè làm báo không thấy Hưng Hội đâu nữa.
HỌA SĨ NGÂN HÀ
Sinh năm 1918 tại Hoa Lư, Ninh Bình. Ông vào Nam năm 1954, cộng tác trình bày báo Xuân cho một số Nhật báo. Sau chuyển sang vẽ biếm họa. Các báo ông cộng tác là Chuông Mai của cụ Huỳnh Hoài Lạc, Tuổi Xanh của Nguyễn Thạch Kiên, Sài Gòn Mới của bà bút Trà, và các tờ khác như Trắng Đen, Phụ Nữ Ngày mai… Năm 1965, ông là nhân viên Phòng phối trí Đài Truyền hình Việt Nam 9 ở Sài Gòn đến năm 1973. Ông mất năm 2003 tại Sài Gòn.
HỌA SĨ VIVI, THẦN TƯỢNG CỦA NHIỀU LỨA HỌC SINH MIỀN NAM
Họa sĩ ViVi tên thật là Võ Hùng Kiệt, sinh năm 1945 tại Vĩnh Long. Từ nhỏ ông đã có năng khiếu về hội họa, bắt đầu đăng truyện tranh đầu tiên trên báo Tuổi Xanh năm 13 tuổi (1958), do sự khuyến khích của chủ bút, ông Bùi Văn Bảo. Năm 1964, ông đậu vào trường Quốc gia Cao đẳng Mỹ thuật Sài Gòn và cũng bắt đầu vẽ cho nguyệt san Tuổi Hoa với bút hiệu ViVi, ghép từ hai chữ đầu Việt Nam và Vĩnh Long. Ông tốt nghiệp Cao đẳng Mỹ thuật năm 1968, gia nhập quân ngũ nhưng vẫn tiếp tục vẽ bìa báo, minh họa, biếm họa, truyện tranh cho nhiều sách, báo và minh họa sách giáo khoa cho một số nhà xuất bản. Đến năm 1971, ông bắt đầu cộng tác với tuần báo Thiếu Nhi và tạo nên dấu ấn đậm nét.
Họa sĩ ViVi còn vẽ tem cho bưu điện khi đang học năm thứ nhất trường Cao đẳng Mỹ thuật cho đến năm 1975, nhận được khoảng 40 giải thưởng về bưu hoa.
Họa sĩ ViVi vẽ chủ yếu bằng chất liệu màu nước và sơn dầu. Nhiều họa phẩm của ông trên các bìa sách, báo, tem thư được ngưỡng mộ cho đến tận hôm nay vì kỹ thuật tả thực xuất sắc, sinh động và có cảm xúc. Rất nhiều độc giả báo chí thời trước 1975 thích tranh của ông, có người gần như là “tín đồ”, khi tranh được thể hiện ở những ấn phẩm hay, lành mạnh dành cho thiếu nhi mà họ đã từng mê say đọc hồi còn đi học.
Thời gian cộng tác với tuần báo Thiếu Nhi là một trong hai phần việc của ông được độc giả ưa thích nhất vì khi vẽ cho tờ báo này suốt bốn năm, tay cọ của ông đang độ chín, tranh của ông ngày càng mượt mà, giàu cảm xúc (phần việc thứ hai được nhắc nhiều với sự hâm mộ là vẽ những tranh bìa rất đẹp, nên thơ cho Tủ sách Tuổi Hoa do ông Nguyễn Trường Sơn làm chủ biên). Họa sĩ ViVi cho biết trước kia, tranh minh họa hay biếm họa được họa sĩ vẽ nét đen trên giấy, tòa báo hay nhà xuất bản gửi nhờ nhà làm bản kẽm (như công ty Cliché Dầu) chụp ra phim, cho khắc trên một miếng kim loại chì pha nhôm, gắn trên một miếng gỗ rồi xếp vào trang chữ (chữ cũng bằng chì), kỹ thuật này gọi là in Typo. Khi vẽ tranh bìa tuần báo Thiếu Nhi các số Xuân, chủ nhiệm Nguyễn Hùng Trương, vợ chồng nhà văn Nhật Tiến - Đỗ Phương Khanh (chủ biên và trị sự) cũng anh em biên tập bàn bạc với ông rất kỹ về chủ đề. Bức tranh bìa báo Xuân 1972 với cảnh gia đình đón xuân đầm ấm, sum họp với ông bà cha mẹ con cháu, câu đối đỏ, cây nêu, bánh chưng xanh, hoa đào... được thể hiện đẹp và tự nhiên là một bìa báo được độc giả nhớ lâu. Khi nhận thực hiện bìa báo Xuân Thiếu Nhi Tết Quý Sửu 1973, cũng đang lúc Tổng Nha Bưu Chính Sài Gòn gửi lời mời cho các họa sĩ trong và ngoài nước gửi mẫu tranh dự thi đề tài Con Trâu. Để có hình ảnh thực tế, ông ra ngoại thành Hóc Môn và Thủ Đức, vừa chụp hình vừa ký họa trâu cổ trâu nái và trâu nghé các góc cạnh tư thế cho sinh động và chính xác để vừa vẽ tem vừa vẽ bìa báo.
Trên báo Thiếu Nhi, ngoài việc vẽ bìa và minh họa, họa sĩ ViVi thỉnh thoảng có vẽ biếm họa, rất sinh động, tự nhiên, tiếc là ông không đi theo con đường này. Ông cho biết thời gian đó, mỗi ngày ông phải vẽ một băng truyện vui “Gia Đình Nàng Hương” trên nhật báo Dân Chủ, truyện tranh trên Nhật báo Độc Lập, minh họa sách giáo khoa, còn lo vẽ bìa cùng minh họa cho hai tờ báo Tuổi Hoa và Thiếu Nhi nên ít thời giờ để vẽ tranh biếm họa.
Hiện nay ông sống tại Hoa Kỳ và vẫn tiếp tục sáng tác tranh và điêu khắc.
ĐINH TIẾN LUYỆN, HỌA SĨ CỦA TRƯỜNG PHÁI “MẮT TO”
Trước 1975, tuần báo Tuổi Ngọc xuất hiện và nhanh chóng được tuổi mới lớn, giới học sinh sinh viên miền Nam yêu thích. Tờ báo như một làn gió mát lành thổi vào tâm hồn tuổi mới lớn mơ mộng, bằng nhiều sáng tác văn, thơ hay, giàu cảm xúc và có nhiều chuyên mục hấp dẫn, sát với đời sống giới trẻ. Bên cạnh đó, sức hút quan trọng của tờ báo chính hình thức tờ báo, thể hiện qua những bức tranh làm bìa báo và tranh minh họa rất đẹp.
Thư ký tòa soạn báo Tuổi Ngọc, nhà văn cũng là họa sĩ Đinh Tiến Luyện cho rằng điều này có được từ nguyên do tờ báo được “xây dựng với tâm huyết của những người yêu nghề, mến nghiệp”. Khi được hỏi về việc vẽ bìa và minh họa trên báo, ông nhớ lại: “Làm báo tay viết thì nhiều nhưng tay vẽ thì không sẵn, nên cũng như làm “đầu bếp”, tôi phải biết xào nấu sao cho thường xuyên có món bày bàn, ngon hay dở, cũng phải chủ động cho đúng kỳ hạn. Chỉ mê vẽ thôi, là một tay ngang không có bài bản, nhưng có cơ hội, không “có ai trồng khoai đất này” nên vẽ bìa là tôi và minh họa trang trong cũng là tôi. Viết về tuổi học trò mới lớn nên nét vẽ của tôi cũng chở theo hồn ấy. Nếu có gì gọi là riêng biệt thì đó là vì làm báo Tuổi Ngọc”.
Lúc đó, ông chỉ minh họa và làm bìa cho báo Tuổi Ngọc. Có lúc vẽ cho sách của Nhà xuất bản Tuổi Ngọc. Do nét vẽ ngày càng được ưa thích, một lần khi ông được giới thiệu là họa sĩ, một người thầy nhiều học vị hỏi: “Theo trường phái nào?”. Người đứng ra giới thiệu, chủ nhiệm báo Tuổi Ngọc lúng túng nhưng cũng “phăng” ngay ra câu trả lời: “Trường phái “mắt to”.
“Không đụng hàng. Không có tự điển. Tôi vẽ cái gì tôi thích”, họa sĩ Đinh Tiến Luyện tự nhận. Có cá tính riêng trong suy nghĩ và thể hiện nét vẽ, phải chăng điều đó khiến tranh ông được nhớ lâu?.
Khi được hỏi rằng kỹ thuật in ấn lúc đó liên quan đến kỹ thuật vẽ tranh minh họa trang trong và vẽ bìa báo, họa sĩ Đinh Tiến Luyện cho biết rất chi tiết: “Khi có computer thì ngành in ấn thay đổi rất mạnh. Làm báo nhưng đồng thời cũng làm nhà in nên tôi rất rõ chuyện này. Một phần quan trọng của nhà in là công việc xếp chữ. Nếu có được kho chữ cả ngàn fonts và fontsize hầu như vô tận từ chiếc computer như ngày nay thì nhà in, riêng khu vực xếp chữ cũng phải có tòa nhà hàng trăm tầng. Kỹ thuật in ấn thời thủ công, bên cạnh nhà in còn có nhà đúc chữ và nhà làm cliché (bản kẽm). Hình vẽ được chụp phim và làm thành bản khắc trên kẽm để sau đó chèn vào trang xếp những con chữ li ti bằng chì. Nhiều công và tốn phí như vậy nên minh họa trên báo cũng hạn chế, có một bản kẽm xài đi xài lại cả chục lần. Riêng bìa màu thì phức tạp hơn. Nếu không in offset thì có khi người thiết kế bìa phải tự tách màu ra từng bản và chọn màu (typo thường không quá 3 màu). Những chữ trên bìa nếu muốn đặc biệt theo ý mình thường phải kẻ riêng bằng tay (thường không bén nét). Tôi hay sưu tập những sách báo cũ nước ngoài để tìm kiểu chữ lạ. Có khi mua một cuốn báo dày cộm chỉ để lấy hàng chữ đem về cắt ra dán vào bìa làm tựa cho một cuốn sách. Người thiết kế bìa báo hay bìa sách không hoàn toàn chủ động cho đến khi ấn phẩm được in ra, có khi còn đợi… hên xui của kỹ thuật nhà in (vì thế cũng có đôi kỳ làm bìa báo tôi đã tự mình làm lấy những công đoạn chuyên môn của nhà in). Tôi rất ham làm ra các ấn phẩm nên khi có chiếc computer đầu tiên là tôi cài photoshop và say mê với nó. Ngày nay với một thiết kế ấn phẩm nó có thể chui từ máy nhà mình, phóng thẳng tới nhà in và chạy ra một ấn phẩm hoàn toàn theo ý muốn, phong phú cả màu sắc lẫn chữ nghĩa. Tất cả dễ dàng hơn rất nhiều so với thời kỳ làm báo theo lối thủ công. Tranh dùng để làm bìa báo hay bìa sách thường là những hình vẽ nhỏ hoặc đôi khi lấy ra từ một bức tranh, tự chụp qua máy riêng. Có khi những bìa báo xuân này là từ những bức sơn dầu trên vải, có tấm khổ khá lớn, được đem thẳng tới nhà in để trực tiếp qua máy tách phim bốn màu của kỹ thuật ấn loát”.
Việc vẽ bìa và minh họa trên báo Tuổi Ngọc với họa sĩ Đinh Tiến Luyện là một kỷ niệm đẹp thời trai trẻ của ông. Ông bộc bạch: “Tôi mê vẽ trước khi mê viết. Làm báo, lại là giữ chân Thư ký tòa soạn nên có dịp “tung hoành” (cũng có khi là bất đắc dĩ). Tôi biết có nhiều tay vẽ tay viết cừ khôi hơn tôi nhiều lần nhưng vì không có cơ hội nên vẫn ẩn danh đó thôi. Cám ơn Tuổi Ngọc vì đã tạo cơ hội để tôi thể hiện được đam mê của mình một thời. Thêm sự cổ vũ của bạn đọc nữa, chính họ đã định danh định hướng và dựng cho tôi cái “nhà” dù tôi chỉ xứng ở một góc mọn nào trong cái nhà ấy. Như anh Duyên Anh, người bạn vong niên của tôi, người Anh Cả của những cây viết Tuổi Ngọc môt thời, chúng tôi không quan tâm mình đã có đóng góp như thế nào cho nền văn học, để đáng kể xướng danh và được đứng trong cái nền vinh dự ấy. Chúng tôi chỉ mong thể hiện hết đam mê của mình, cái thật mà mình có. Cái cống hiến cụ thể thấy được là số lượng ấn bản được in ra và sự đón nhận của độc giả. Làm báo có thể không thành công, nhưng làm xuất bản nhóm Tuổi Ngọc luôn có tác phẩm bestseller trong thời gian dài”.
Phạm Công Luận

Thắt lưng, đai lưng, giải rút… thuộc loại nhỏ nhất trong số các món phục sức, nhưng chiếm một vị trí nổi bật trên tổng thể trang phục. Quy ra khối lượng vật chất thì chẳng bao nhiêu, nhưng thiếu cái thắt lưng, cả bộ quần áo làm nên vẻ ngoài dường như chưa hoàn thiện.

Nếu có thể ví vẻ ngoài như một phong cảnh, thì thắt lưng là đường chân trời. Mắt chúng ta chẳng phải luôn dựa vào chân trời để biết trường nhìn của mình nông hay sâu đó sao? Vậy cái thắt lưng có giúp ta nhìn gì về con người đối diện?

Cái thắt lưng đã trở thành một vạch phân chia cơ thể thành hai phần đối sánh nhau cả về hình thái lẫn biểu tượng.

Thắt cạp quần, tranh khắc gỗ, sách Kỹ thuật của người An Nam. Henri Oger (1909). Ảnh: TL


Trước hết là đàn ông, khi có quần áo đi công chuyện, cái thắt lưng ngay ngắn thể hiện sự chỉnh tề. Những ngạn ngữ kiểu “đánh dưới thắt lưng” có gốc từ môn đấm bốc hay đàn ông đầu óc “nghĩ toàn chuyện dưới thắt lưng” ám chỉ tình dục nhập cảng từ Tây về đã thành vốn văn hóa bản địa.

Phụ nữ thì thuộc lòng câu “thắt lưng buộc bụng” có từ tổ tiên nghèo khó ở một đất nước lo cái ăn triền miên nhiều thế kỷ. Lo cái ăn là thế, nhưng cũng đồng thời là lo cái mặc. Nhìn vào lối thắt lưng, người ta cho rằng biết được không chỉ sự tháo vát mà còn đức hạnh của người đàn bà. Thắt lưng, kỳ lạ thay, cân xứng ý nghĩa cho cả hai giới.

Bức tranh vẽ Nguyễn Trãi, người nổi tiếng vì nỗi lo sao cho muôn dân có ăn có mặc, “để nơi thôn cùng xóm vắng không có tiếng oán hận sầu than”, thờ ở làng Nhị Khê quê ông, có phiên bản trưng bày trong Bảo tàng Lịch sử, cho thấy tay ông đang giữ một cái thắt lưng. Những bức ảnh chụp quan lại Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 cũng thể hiện mỗi viên quan tay cầm một binh khí, cái quạt hoặc đỡ lấy cái đai lưng to bản, có người dường như còn gài được những tấm thẻ hay vài đồ dùng cá nhân vào đó.

 

Chân dung Nguyễn Trãi trong Bảo tàng Lịch sử quốc gia Việt Nam, bản phục chế từ tranh thờ của đền thờ Nguyễn Trãi, làng Nhị Khê, Thường Tín, Hà Nội. Ảnh: TL


Nhìn chung thắt lưng có một vị thế khá nên thơ khi trở thành điểm nhấn trong bức tranh hoài niệm. Vốn dĩ thắt lưng khá thiết thực đối với loại áo giao lĩnh, khi hai vạt áo mở phía trước cần một dải thắt lại ở eo lưng. Chiếc thắt lưng thậm chí là tiêu điểm của trang phục:

Khỏi lũy tre làng tôi nhận thấy

Bắt đầu là cái thắt lưng xanh

(Mùa xuân xanh – thơ Nguyễn Bính)

Màu của thắt lưng ngày thường không lộng lẫy, nhưng vào mùa lễ hội được dùng những màu nổi bật như hoa lý, hoa hiên. Thắt lưng các vị bô lão kỳ hào trong lễ hội có màu đỏ. “Thầy theo sau cưỡi ngựa/ Thắt lưng dài đỏ hoe” (Chùa Hương – thơ Nguyễn Nhược Pháp). Màu rực rỡ là điểm nhấn trên những bộ trang phục thiên về màu trầm, nền nã. Những dải màu tươi ôm ngang lưng cơ thể con người như một tín hiệu thẩm mỹ của thời đại sự gọn gàng được duy trì đơn giản bằng một dải lụa – thời mà lụa và các thứ hàng dệt tay là vật liệu chủ đạo.

20200510 4

Tượng Bà Trắng, chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh), ngực trần, đeo thắt lưng, gỗ phủ sơn, khoảng thế kỷ 18.


Làm thắt lưng thậm chí từng trở thành một nghề được thống kê từ trước 1945. Tạp chí Khoa Học vài số cuối năm 1938 đã liệt kê ở ven đô Hà Nội, có hẳn làng Triều Khúc thuộc tỉnh Hà Đông cũ chuyên làm các phụ kiện từ dây giày tây đến thắt lưng.

Khi áo dài cả hai giới phát triển theo hướng cách tân bằng cách có cúc cài hay khuy bấm ở bên cạnh thì chiếc thắt lưng đã không còn tác dụng, và đến loại áo dài tân thời thì chúng đã biến mất. Thắt lưng là thứ bị thừa ra cho tới lúc quần âu thành phổ biến.

Tuy nhiên trước cả khi áo dài đi kèm quần dài là trang phục “truyền thống” của đàn ông người Kinh thì họ cùng với nhiều dân tộc anh em trên dải đất Việt Nam đã mặc duy nhất một thứ thắt ngang trên mình: cái khố.

Tượng Ngọc Nữ và Kim Đồng chùa Dâu (Thuận Thành, Bắc Ninh) đeo thắt lưng, gỗ phủ sơn, thế kỷ 18.


Câu chuyện nổi tiếng nhất về cái khố chính là sự tích liên quan một trong bốn vị thần Tứ bất tử của người Việt – Chử Đồng Tử. Cái nghèo của người Việt xưa đã được mượn để kể câu chuyện cha con Chử Đồng Tử túng đến nỗi chung nhau một cái khố, thứ mà vốn dĩ vừa đóng vai một chiếc quần lót vừa như một cái thắt lưng tiện cho các công việc lặn lội vùng sông nước.

Chiếc “thắt lưng cổ” này mách bảo đời sau đọc ra bối cảnh sinh hoạt của cư dân Việt vài nghìn năm trước và là một đạo cụ ẩn dụ cho sự che đậy khía cạnh trần tục từ góc nhìn lễ giáo. Việc Chử liệm người cha bằng chiếc khố khi ông qua đời có lẽ thể hiện ảnh hưởng của đạo lý Nho gia, song cũng khéo tạo ra cái cớ dẫn đến tình huống Chử náu mình trong bãi cát để tránh bị thuyền rồng của công chúa Tiên Dung gặp phải.

Tất nhiên dân gian thông minh không kém các đạo diễn điện ảnh thời nay, cho Tiên Dung quây màn tắm tại đúng nơi Chử Đồng Tử náu mình. Đôi bên không mảnh vai che thân, chuyện gì đến đã phải đến, Tiên Dung còn cho đó là trời định: “…cùng ở trần với nhau trong một hố, đó chính là do trời xui khiến vậy” (Lĩnh Nam chích quái, truyện Nhất Dạ Trạch). Kho tàng truyện cổ dân gian sau này dường như không còn những tình huống gợi cảm lãng mạn như vậy nữa. Chúng tràn ngập những cái thắt lưng kín đáo của lễ giáo. Chúng được thay bằng một cái áo bỏ quên trên cành hoa sen, một cái nón qua cầu ngả trao nhau, một chiếc hài đánh rơi ngỏ ý về một sự khêu gợi nhẹ nhàng.

Đàn ông đóng khố đuôi lươn

Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh

Chiếc yếm thường có hai dải dài, người mặc cũng thắt thành một búi như dây lưng (“bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”, các cô gái xưa quả bạo dạn nhưng cũng đầy chất thơ!). Trong câu ca dao trên, bên cạnh yếm gợi ý một phục trang gợi cảm của phụ nữ, tựa như chiếc áo lót, thì hiển nhiên việc lấy cái khố làm đối sánh đã cho thấy người xưa ý thức về nhục cảm của món đồ này.

Thiếu nữ Hải Phòng mặc yếm đeo thắt lưng, ảnh đầu thế kỷ 20. Ảnh sưu tập Dieulefils


Tất nhiên một người đàn ông cường tráng phô bày cơ bắp, trên người chỉ có đóng một chiếc khố, mãi cho đến thời thẩm mỹ phương Tây du nhập vào mới trở thành một vẻ đẹp theo tư duy mỹ thuật Hy-La. Trên tâm lý xã hội Việt Nam, chiếc khố đã gắn với ẩn dụ về sự nghèo nàn, lam lũ, thậm chí sự kém văn minh. Câu chuyện “Trần Minh khố chuối” hay được lấy làm biểu tượng đối lập với sự đỗ đạt hiển hách. Cũng anh chàng lấy lá chuối làm khố đó đi thi đậu trạng nguyên, khoác lên mình mũ áo cân đai sánh vai cùng tiểu thư. Chiếc khố giống như một thử thách hơn là một phục sức hữu dụng.

Nông dân đóng khố đi cày, ảnh đầu thế kỷ 20. Ảnh sưu tập Dieulefils


Tiếp nối phép ẩn dụ Nho giáo, chiếc khố rơi tiếp vào phép ẩn dụ của lối quan sát phân biệt nhà quê và thành thị thời Pháp thuộc.

Dưới cái nhìn nhân học thuộc địa, cái khố hàm ý được xem như biểu tượng của tình trạng sống chưa được “khai hóa” của những người dân tộc thiểu số - những người đàn ông quanh năm lấy khố làm trang phục bình thường. Khi những chiếc trống đồng Ngọc Lũ hay Đông Sơn được chọn làm hình tượng cổ xưa của dân tộc và đất nước thì hình những người Việt cổ đầu đội mũ lông chim, mình trần đóng khố bỗng nhiên được nhìn nhận lại. Cái khố lại có màu huyền thoại, nhưng khi thanh niên Tây Nguyên chẳng còn thích đóng khố thì huyền thoại chỉ còn trong bảo tàng.

Cái thắt lưng trong không gian ảnh hưởng Nho giáo đi liền với những bộ áo dài tứ thân, năm thân, giống như rất nhiều thứ bén rễ ở đồng bằng Bắc Bộ trong nhiều thế kỷ, đã trở thành một quy ước về y phục truyền thống. Màu sắc của chúng nổi bật trong không gian ấy, như một màu xanh phiếm chỉ:

Hỡi cô thắt bao lưng xanh

Có về làng Mái với anh thì về

Làng Mái có lịch có lề

Có sông tắm mát có nghề làm tranh.

Làng Mái là tên khác của làng tranh Đông Hồ. Ở một ngôi làng có nghề sống với màu sắc, hẳn màu xanh của chiếc thắt lưng phải bật hẳn lên trong không gian trữ tình lẫn thực địa để những cư dân đọng lại một ấn tượng nhận diện y phục. Chiếc thắt lưng bao xanh, loại thắt lưng kiêm ruột tượng để phụ nữ đựng vài món đồ cá nhân khi đi ra đường, gồng gánh chạy chợ hay đi hội… hằn trong tâm trí cộng đồng, trải qua bao biến cố vẫn còn kịp đi vào thơ ca cuối thập niên 1970:

Con sông Cầu làm bao xanh

Ngang lưng làng quan họ xanh xanh

(Làng quan họ quê tôi – nhạc Nguyễn Trọng Tạo, thơ Nguyễn Phan Hách)

Từ chiếc thắt lưng xanh đập vào mắt chàng trai trong thơ Nguyễn Bính đến dòng sông uốn quanh làng là nơi người xa xứ Nguyễn Phan Hách trở về nhìn thấy, là cả một truyền thống dãi dề huê tình.

Đánh ghen - tranh dân gian Đông Hồ. Hai người phụ nữ có dải dây lưng hoặc dải yếm rất nổi bật.


Trên thực tế, thắt lưng của ngày thường lại gợi cảm giác nai nịt gọn gàng, chuẩn bị cho một sự bận bịu. Quan niệm “Những người thắt đáy lưng ong/ Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con”, thắt lưng gợi ý về một chức phận của đời người. Nó còn phản chiếu quan niệm bản sắc: “Nào đâu cái yếm lụa sồi/ Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân… Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa” (Chân quê – thơ Nguyễn Bính). Thật trùng hợp khi bất kể dân tộc, thắt lưng tôn lên cái eo người con gái, gián tiếp dẫn đến một ẩn ức nhục cảm: “Anh lê bước về nhà mà hồn còn ngủ nơi thắt lưng em” (dân ca Mông).

Ở phương diện khác, chiếc thắt lưng cũng đại diện cho một sự trói buộc. Trong thiên truyện Vợ chồng A Phủ mà học sinh Việt Nam nào cũng phải học, khi Tô Hoài cho nhân vật A Sử trói Mị vào cột nhà, trói tay vợ bằng cái thắt lưng để cô không đi chơi được, ông cũng tiết lộ hắn đeo một cái thắt lưng xanh. Thắt lưng giống như sợi lạt cuối cùng gói chặt một cái bánh chưng, như một cái khóa khóa kín tất cả những gì thuộc về bản thể và đến lượt nó đại diện cho chính bản thể. Thắt lưng trở thành thân phận.

Một nữ giáo viên trường Albert Sarraut (Hà Nội) trong bộ váy có đeo thắt lưng khoảng thập niên 1940.


Sự nai nịt gọn gàng cũng lại chuẩn bị cho một thực tế khác của lịch sử: những cuộc chiến tranh. Con người trong chiến tranh đương nhiên ý thức thắt lưng là nơi trung tâm cơ thể, chỗ nhiều bộ phận cần bảo vệ và vì thế, là yếu huyệt của mỗi cá thể. Cuộc chiến tranh du kích đem lại một vài thuật ngữ sống còn như “Bám thắt lưng địch mà đánh”, nghĩa là đánh ở sát cạnh địch, ngay chỗ chúng không ngờ tới và đúng điểm huyệt của đối phương.

Thắt lưng của người vũ trang là nơi gài vũ khí, vừa tầm cữ bàn tay rút lựu đạn, con dao hay khẩu súng lục. Thắt lưng vừa mới là biểu tượng lãng mạn tình tứ, thoắt đã có thể là nơi tập trung công cụ bạo lực.

Tuy thế, truyền thống thi ca vẫn kịp trữ tình hóa cái thắt lưng thời chiến: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” (Việt Bắc – thơ Tố Hữu). Ở một vùng sơn cước, người kháng chiến vẫn kịp ghi lại “hình dung một chiếc thắt lưng xanh, một chiếc khăn màu trắng trắng, với nụ cười nàng quá xinh” (Nụ cười sơn cước – nhạc Tô Hải).

Các nhà thơ và nhạc sĩ ngẫu nhiên tiếp nối một hình ảnh đã có trong diễn xướng tâm linh: “Lưng đai xanh bồ đậy dao quai/ Trên đầu lược dắt trâm cài” (hát văn Chầu Bé Bắc Lệ, Hữu Lũng, Lạng Sơn). Người ta đọc thấy chiếc thắt lưng lấp lánh ánh đuốc của miền rừng cất giấu những khả năng sinh tồn của con người.

Quảng cáo làm thắt lưng da ở phố Hàng Gai (Hà Nội), báo Cứu Quốc 7.8.1946.

 

Những cuộc binh lửa đi qua cũng kịp gieo cấy cái nhìn lãng mạn về phẩm chất nam tính qua những phụ kiện thắt lưng giắt súng “côn bạt” hay loại thắt lưng gài băng đạn “xanh tuya”.  

…Nhưng ai nấy hầu như vương vấn nhiều về thị xã Tuyên Quang, cái Hà Nội tha hương của chúng tôi.

Thường ra thị xã chơi, ai đi những đâu, chiến dịch lên biên giới, chuyển công tác khu 3, khu 4, có khi vào tận miền Nam rồi trở lại đây, Trọng Hứa, Dương Bích Liên, Nguyễn Sáng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Tuân và những trang hảo hán ngựa hồng súng côn bạt từ mặt trận về hậu phương, lạnh lùng làm điệu ném cương ngựa vắt lên cửa quán ven đường.

…Giờ đây như nhau, chiếc mũ ca lô dạ tím, đôi giầy có cổ, chiếc thắt lưng trễ tràng một điệu kiểu cách cố ý với bên hông khẩu súng lục, con dao găm.

(Những gương mặt – Tô Hoài)

Thời chiến tranh đi qua, chiếc thắt lưng nhà binh bằng da thuộc nâu sẫm, nhựa ép màu nâu gạch hay vải dù màu cỏ úa nhường chỗ cho những thắt lưng hàng hiệu đủ màu sắc. Đàn ông thời hiện đại có lẽ sẽ hãnh diện khi đeo một cái thắt lưng Hermes da cá sấu có mặt khóa chữ H bằng hợp kim trắng giá hơn 4000 đôla Mỹ.

Chúng dĩ nhiên đẹp, cái đẹp của một thời đại tiêu dùng đảm bảo bằng chữ tín của thương hiệu. Chữ H lấp lánh ở trước bụng người đàn ông xem ra có khả năng đem lại sự tin cậy của tiền bạc, khác nào một cái bao súng lục sĩ quan đeo ngang hông thời chiến làm thổn thức nhiều em gái hậu phương?

Tuy nhiên, chữ H hay bao súng cũng chỉ đẹp khi anh đàn ông đeo mấy thứ đó có vòng bụng khiêm tốn. Chiếc thắt lưng giờ đây lại có hơi hướng phù phiếm, kiểu cách. Nó bị gắn với ám ảnh vòng hai và cơn cuồng bụng sáu múi, phần nào mách bảo về điều kiện sống và sức khỏe của chủ nhân.

Những người Pháp làm ra những cái thắt lưng đắt đỏ nọ cũng là chủ nhân câu ngạn ngữ “Thắt lưng càng dài cuộc đời càng ngắn”, không lẽ muốn tiết kiệm da cá sấu làm thắt lưng?

Nguyễn Trương Quý

Nguồn: Người đô thị, ngày 17.4.2020.

GS Hà Văn Tấn để lại một di sản được các thế hệ học trò đánh giá là “của một người khổng lồ” trong nghiên cứu lịch sử, khảo cổ học, văn hóa học và Phật giáo Việt Nam.

20191130 Ha Van Tan

Từ phải sang: Các cố giáo sư Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn, Đinh Xuân Lâm, Trần Quốc Vượng cùng cố giáo sư Trần Văn Giàu. Ảnh: Nguyễn Đình Toán.

Người cuối cùng trong tứ trụ “Lâm, Lê, Tấn, Vượng” (các giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng) của ngành sử học Việt Nam, giáo sư Hà Văn Tấn đã qua đời ngày 27/11/2019. Trao đổi với phóng viên Tia Sáng về sự mất mát to lớn này của giới nghiên cứu KHXH&NV khi đang khai quật tại Quảng Ngãi, TS Nguyễn Tiến Đông, Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam “chưa thể viết gì lúc này về thầy”, bởi vì “thực sự là những đóng góp của thầy quá lớn và các học trò chỉ có thể nói về một khía cạnh nào đó thôi”.

Học trò khác của GS Hà Văn Tấn như TS Mai Thanh Sơn, Viện KHXH vùng Trung Bộ, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam đều đồng tình “ông là người khổng lồ” đầy thông tuệ và minh triết, và “thật khó có thể đánh giá được hết những đóng góp của ông cho nghiên cứu Lịch sử học, Khảo cổ học, Văn hoá học, Phật giáo học”. “Sau ông chưa ai có thể nghiên cứu vừa rộng vừa sâu được như ông”, TS Nguyễn Tiến Đông nói.

Là thế hệ học trò của các nhà trí thức lớn như Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Cao Xuân Huy..., các ông Lâm, Lê, Tấn, Vượng đã cùng với GS Trần Văn Giàu xây dựng, định hình các hướng nghiên cứu cho Khoa Lịch sử của trường Tổng hợp (thuộc Đại học KHXH&NV Hà Nội sau này) và đào tạo nhiều thế hệ cán bộ các Viện Sử học, Viện Khảo cổ học. 

“Người khổng lồ” 

Không chỉ là nhà khoa học có bút lực dồi dào, sức làm việc phi thường, GS Hà Văn Tấn còn là bậc kỳ tài với khả năng tự học. Hết lớp 9, ông bắt đầu rời quê ở xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh ra Hà Nội học đại học trong vòng 2 năm và ở lại Khoa Lịch sử làm tập sự trợ lý cho GS Đào Duy Anh (nên sau này ông vẫn thường nhắc “tôi học phổ thông 9 năm, học đại học 2 năm, có thể nói chính xác trình độ của tôi là 9+2”). Thế nhưng ở tuổi 21, ông đã hiệu đính và làm chú dẫn bản dịch “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi (do cụ cử Phan Duy Tiếp dịch). Bản dịch có chú dẫn ấy đã làm nhiều người phải sửng sốt, ngay cả nhà nghiên cứu Nguyễn Vinh Phúc cũng phải thốt lên “cứ ngỡ đây là bậc túc nho, một cụ cử cụ tú già, thông kim bác cổ. Ai ngờ người soạn Chú dẫn lại là một chàng trai chỉ mới 21 tuổi!... tiếng là chú thích, dẫn giải nhưng dài gấp bốn lần chính văn. Thực ra, 115 trang này đích thị là một cuốn địa lý lịch sử khảo về duyên cách, núi sông… Việt Nam từ cổ đại đến thế kỷ XV, công phu và uyên bác. Để làm công việc này, một công việc mà trước đó chưa ai làm, tác giả đã dẫn dụng tới 30 bộ sách của các tác giả Trung Quốc và 16 bộ sách Việt Nam! Tất cả dĩ nhiên đọc trực tiếp từ nguyên văn chữ Hán [1]".

Sau này được GS Trần Văn Giàu phân công nghiên cứu giảng dạy lịch sử Việt Nam từ buổi đầu cho đến hết thời nhà Hồ, GS Hà Văn Tấn đã tự học thêm hàng loạt các kiến thức chuyên ngành khác, từ nhân học hình thể cho tới ứng dụng phương pháp thống kê để đi sâu nghiên cứu về thời kỳ tiền sử và sơ sử của đất nước. Không chỉ dừng lại điều tra và khai quật nhiều di chỉ văn hóa Phùng Nguyên, Đông Sơn, Sa Huỳnh và công bố mà ông còn thu thập tài liệu, tìm hiểu về bối cảnh rộng lớn hơn là khảo cổ học Đông Nam Á và Trung Quốc mà như ông nói sau này “khi viết về các vấn đề khảo cổ học Việt Nam, tôi thấy vững tâm hơn vì đặt được trong bối cảnh Đông Nam Á” [2]. 



Bức ảnh được chụp tại nhà GS Đào Hùng khoảng năm 2000 sau khi GS Đào Duy Anh được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho cụm Công trình Lịch sử và Văn hoá Việt Nam. Từ trái sang phải: GS Trần Quốc Vượng, GS Đinh Xuân Lâm, GS Hà Văn Tấn, Nhà văn hóa Phan Ngọc, Nhà sử học Dương Trung Quốc, GS Phan Huy Lê, Nhà sử học Đào Hùng, GS Đào Thế Tuấn. Nguồn: Trung tâm di sản các nhà khoa học Việt Nam.

“Lang thang trên các nẻo đường khác của khoa học”

Không chỉ để lại các công trình khảo cổ học đặt nền móng cho các thế hệ học trò tiếp tục khám khá, mà ông vẫn “lang thang trên các nẻo đường khác của khoa học” (như ông tự nói) và để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong nghiên cứu lịch sử Việt Nam giai đoạn thế kỷ X đến thế kỷ XI cũng như lịch sử Phật giáo Việt Nam. "Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông" (viết chung với PGS.TS Phạm Thị Tâm) là một cuốn sách rất nổi tiếng, được đánh giá là hấp dẫn bởi nhiều tư liệu quý hiếm và sinh động, “lần đầu tiên tôi được đọc cuốn này khi đang là học sinh cấp III (1978). Một cuốn sách hút hồn người đọc từ trang đầu đến trang cuối. Và đọc xong, thấy tự hào vì mình là người Việt”, TS Mai Thanh Sơn nói. Cách viết của GS Hà Văn Tấn có “nhiều phân tích sáng sủa, chặt chẽ, tái hiện được không khí lịch sử” như nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy nhận xét, cuốn sách này “cùng với ‘Khởi nghĩa Lam Sơn’ của Phan Huy Lê, ‘Thiên tài quân sự Nguyễn Huệ’ của Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng đã từng làm say mê tuổi thơ tôi” [3]. 

Nhìn chung, “các công trình nghiên cứu của GS. Hà Văn Tấn vừa rộng, vừa sâu và luôn được trình bày bằng một văn phong lịch lãm nhưng chặt chẽ, logic”, TS Mai Thanh Sơn nói. 

Dù chủ yếu thông qua con đường tự học trong bối cảnh hết sức biệt lập của nền KHXH&NV nước ta nhưng GS Hà Văn Tấn luôn trăn trở với vấn đề lý thuyết, phương pháp luận cập nhật với các cuộc thảo luận về lý thuyết và phương pháp trên thế giới. “Khi bắt tay vào nghiên cứu phương pháp luận sử học, tôi mới thấy có lắm vấn đề. Đọc lại sách nước ngoài, nhất là sách của các nước xã hội chủ nghĩa trước đây, tôi mới vỡ nhẽ rằng chẳng có quyển nào trình bày phương pháp luận sử học một cách hoàn chỉnh”, ông từng viết. Không chỉ dừng lại ở đó, ông còn có tham vọng “ngoài giáo trình phương pháp luận sử học, còn nhiều môn học bổ trợ cho sử học cũng chưa có giáo trình như sử liệu học, văn bản học, ấn chương học, cổ văn tự học, minh văn học… Ôi, còn nhiều điều phải truyền thụ cho lớp trẻ!”.

Có lẽ, một trong các kinh điển của ông để lại cho giới nghiên cứu KHXH&NV là tiểu luận “làng, liên làng và siêu làng” vẫn là tài liệu gối đầu giường cho hầu hết các thế hệ học trò ngành sử, văn hóa, dân tộc học sau này để nghiên cứu “làng như một vi vũ trụ (microcosmos) qua đó ảnh xạ đặc điểm xã hội và lịch sử Việt Nam”. Dù tiểu luận ngắn, nhưng nó khái lược các cách tiếp cận quan trọng trong nghiên cứu làng xã Việt Nam và đưa ra những khái niệm mang tính định hình trong nghiên cứu gồm “liên làng”, “siêu làng”, các mối quan hệ bên trong và bên ngoài cấu trúc của làng.

Tuy nhiên, đang ở độ chín của sự nghiệp thì năm 2001 GS Hà Văn Tấn bị đột quỵ, khiến nhiều dự định nghiên cứu chưa thể thực hiện như mong đợi. Điều ông để lại đến hôm nay là “gợi ra hàng ngàn ý tưởng đột phá trong khoa học” với sự “nhạy bén, sắc sảo và thông tuệ của mình”, như TS Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á viết, sẽ tiếp tục được các học trò viết tiếp. Như lời GS Hà Văn Tấn từng bộc bạch sau 40 năm (1957-1997) miệt mài giảng dạy và nghiên cứu khoa học: “Ngày xưa, nhà thơ Đường Trần Tử Ngang đã viết: Tiền bất kiến cổ nhân/ Hậu bất kiến lai giả/ Niệm thiên địa chi du du/ Độc sảng thiên nhi thế hạ” (Nhìn về trước, thấy đâu người cổ/ Nhìn về sau, chẳng có một ai/Mênh mông giữa cõi đất trời/ Đau thương dòng lệ tuôn dài cô đơn). Còn tôi, 40 năm qua, tôi đã tìm được dấu người xưa và thấy cả một lớp người sau đang hào hứng đi tới” [4].


Cuốn sách "Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông" rất nổi tiếng của GS Hà Văn Tấn.

 

Sinh thời, cố GS Hà Văn Tấn công tác chủ yếu tại Khoa Lịch sử, trường ĐH KHXH&NV Hà Nội và Viện Khảo cổ học, Viện Hàn lâm Khoa học Việt Nam. Ông từng làm chủ nhiệm Bộ môn Phương pháp luận sử học, Khoa Lịch sử (1982 - 2009), Viện trưởng Viện Khảo cổ học (1988-2008).
Một số công trình tiêu biểu của ông:
Lịch sử chế độ cộng sản nguyên thuỷ ở Việt Nam. Nxb Giáo dục. 1960.
Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, tập 1. Nxb Giáo dục, 1960; tái bản 1963.
Dư địa chí: Giới thiệu, hiệu chính và chú thích. Nxb Sử học, 1960; In lại trong “Nguyễn Trãi toàn tập”. Nxb Khoa học Xã hội, 1969; tái bản 1976.
Sơ yếu khảo cổ học nguyên thuỷ Việt Nam. Nxb Giáo dục. 1961. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên Mông thế kỉ XIII. Nxb Khoa học Xã hội, 1968; tái bản: 1970, 1972, 1975.
Lịch sử Phật giáo Việt Nam (Phần thứ hai: Phật giáo từ Ngô đến Trần (thế kỉ X-XIV)). Nxb Khoa học Xã hội, 1988.
Chùa Việt Nam. Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 1993.
Tư tưởng thời kì tiền sử và sơ sử. Lịch sử tư tưởng Việt Nam. tập I. Khoa học Xã hội. 1993 (phần thứ nhất).
Văn hoá Đông Sơn ở Việt Nam (chủ biên). Nxb Khoa học Xã hội. 1994.
Triết học Ấn Độ cổ đại. Tập bài giảng Lịch sử Triết học, tập I. Nxb Chính trị Quốc gia. 1994.
Góp phần nghiên cứu văn hoá Việt Nam (chủ biên). tập II. Nxb Khoa học Xã hội. 1996.
Đình Việt Nam (viết chung). Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 1998. Khảo cổ học Việt Nam.
Thời đại đá, Viện Khoa học Xã hội. H. 1998
Một số vấn đề lý luận sử học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2007.
Theo dấu các văn hoá cổ. Nxb Khoa học Xã hội. H. 1997.
Buổi đầu giữ nước - Thời Hùng Vương (chủ biên), Lịch sử Quân sự Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, H., 1999.
Giải thưởng khoa học tiêu biểu: Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ năm 2000 cho công trình Theo dấu các văn hoá cổ.Nguồn: Đại học KHXH&NV Hà Nội.
Chú thích:
[1] Dẫn theo Đỗ Lai Thúy, GS. Hà Văn Tấn, vị giáo sư khảo cổ học và hành trình theo dấu văn hoá, sách 100 năm Đại học Quốc gia Hà nội. Nguồn: http://100years.vnu.edu.vn/BTDHQGHN/Vietnamese/C1778/C1779/2006/05/N7890/
[2] Hà Văn Tấn, 40 năm học tập và nghiên cứu, https://khoalichsu.ussh.vnu.edu.vn/40-nm-hc-tp-va-nghien-cu-gs-ha-vn-tn/
[3] Đỗ Lai Thúy, đã dẫn.
[4] Hà Văn Tấn, đã dẫn.
 

Bảo Như

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 28.11.2019.

TTO - Tippi Hedren nổi tiếng trên màn ảnh Hollywood khi được mệnh danh là "mỹ nhân tóc vàng cuối cùng" của Alfred Hitchcock - ông vua phim kinh dị của điện ảnh thế giới.

20200504 2

Tippi Hedren (phải) và diễn viên Kiều Chinh - Ảnh: NVCC

Thế nhưng, với cộng đồng người Việt tại hải ngoại, bà được biết đến nhiều hơn khi được coi là "mẹ đỡ đầu của ngành làm móng".

Người phụ nữ vừa bước sang tuổi 90 này cũng là người bảo trợ cho nữ diễn viên Kiều Chinh gia nhập Hollywood sau năm 1975...

"Người đẹp tóc vàng" cuối cùng của Alfred Hitchcock

Vóc dáng khá nhỏ bé (chỉ cao 1,63m), nhưng nhờ gương mặt xinh đẹp và mái tóc vàng rực rỡ, Tippi Hedren khởi nghiệp với vai trò người mẫu tại New York trước khi lấn sân vào ngành công nghiệp giải trí của Hollywood.

Năm 1962, khi xem Tippi đóng trong một quảng cáo trên truyền hình của Đài NBC, đạo diễn huyền thoại Alfred Hitchcock đã cho trợ lý của mình liên hệ với bà và ngay lập tức ký hợp đồng để Tippi Hedren đóng vai chính trong bộ phim kinh dị The birds (Đàn chim dữ), quay vào cuối năm 1962 và trình chiếu vào năm 1963.

Trong bộ phim The birds, Tippi Hedren đóng vai Melanie Daniels - cô con gái xinh đẹp của một chủ báo giàu có ở San Francisco. Khi bị tay luật sư chơi khăm trong một cửa hàng bán chim cảnh, Melanie quyết định lái xe đến vịnh Bodega (phía bắc của San Francisco) để trả đũa.

Nhưng tình cờ, cô và những người dân trong thị trấn này trở thành nạn nhân của một đàn chim dữ vô cớ tấn công bất cứ người nào chúng nhìn thấy ngoài đường... Từ một cô gái trẻ đến thị trấn để trả đũa kẻ chơi khăm mình, Melanie trở thành người phụ nữ mưu trí và dũng cảm cứu giúp nhiều đứa trẻ vô tội - nạn nhân của đàn chim dữ.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 2.

Tippi Hedren trong phim The Birds

Thời điểm đầu thập niên 1960, khi kỹ xảo điện ảnh chưa phát triển nhưng Alfred Hitchcock vẫn biến The birds trở thành một bộ phim kinh dị rùng rợn và hồi hộp, đặc biệt ở những cảnh đàn chim dữ hàng ngàn con lao xuống tấn công thường dân. Bộ phim thành công vang dội về doanh thu và đến nay vẫn được xem là một trong những kiệt tác điện ảnh của Alfred Hitchcock.

Ngay từ vai diễn trong bộ phim đầu tay, Tippi Hedren đã thành công và nổi tiếng nhanh chóng. Hitchcock khen ngợi Tippi có một vai diễn mang tính đột phá, đồng thời cũng giúp bà nhận được giải thưởng Quả cầu vàng và Photoplay cho diễn viên mới xuất sắc nhất.

Vai diễn Melanie Daniels trong The birds của Tippi Hedren cũng được tạp chí uy tín Premiere bình chọn là 1 trong 100 nhân vật điện ảnh vĩ đại nhất mọi thời đại.

Nhờ thành công ấn tượng này, Tippi tiếp tục được mời đóng vai chính trong bộ phim tiếp theo của Hitchcock là Marnie (1964), đóng chung với ngôi sao người Scotland là Sean Connery, người cũng vừa thành công với vai diễn trong bộ phim James Bond đầu tiên (Dr. No năm 1962).

Tuy nhiên, mối quan hệ công việc giữa Hitchcock và Hedren đổ vỡ và kết thúc sau bộ phim này do một số bất đồng trong quá trình quay phim.

Sự nghiệp điện ảnh sau đó của Tippi Hedren lên xuống thất thường, trong đó có lần hợp tác thất bại với Charles Chaplin trong bộ phim A countess from Hongkong (1967) hay bộ phim bom tấn về thế giới động vật hoang dã có tên là Roar (1981) mà bà đóng vai chính kiêm sản xuất. Tippi Hedren tiếp tục xuất hiện trong các bộ phim, sân khấu và cả truyền hình.

Ở tuổi ngoài 70, bà vẫn tham gia đóng các vai nhỏ trong các bộ phim hài với những diễn viên trẻ như phim Citizen Ruth (1996) của đạo diễn Alexander Payne hay I Heart Huckabees (2004)...

Những đóng góp của bà cho điện ảnh đã được vinh danh với nhiều giải thưởng, trong đó có giải Thành tựu trọn đời tại Liên hoan phim The Beauvais Cinemalia năm 1994 ở Pháp.

Bà cũng từng được xuất hiện trên Đại lộ danh vọng (Walk of Fame) bên cạnh con gái (Melanie Griffith - cũng là diễn viên nổi tiếng từng đoạt Oscar) và cháu ngoại là Dakota Johnson (nữ diễn viên chính trong bộ ba phim 50 sắc thái).

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 3.

Tippi Hedren trong phim The birds

Mẹ đỡ đầu ngành công nghiệp làm móng của người Việt

Di sản của Tippi Hedren không chỉ trong lĩnh vực điện ảnh mà còn cả những hoạt động nhân đạo và môi trường, đặc biệt là với cộng đồng người Việt tại Mỹ - nơi bà được xem là "mẹ đỡ đầu" cho ngành công nghiệp làm móng (nail) có trị giá hơn 8 tỉ USD.

Hiện nay hơn 80% thợ làm móng ở Nam California, 51% tính trên khắp các tiểu bang của nước Mỹ là người Việt. Rất nhiều người thợ làm móng ngày nay tại Mỹ là hậu duệ của 20 người phụ nữ Việt làm móng đầu tiên mà Tippi Hedren nhận bảo trợ và đào tạo vào tháng 6-1975.

Thời điểm đó, Tippi Hedren và bác sĩ Larry Ward - một nhà nhân đạo của tổ chức phi lợi nhuận Food for the Hungry - đã mở Hope Village (Ngôi làng Hi vọng) tại California với mục đích thành lập một trung tâm tái định cư để giúp đỡ người di cư ổn định cuộc sống sau chiến tranh nơi đất khách quê người.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 4.

Tippi Hedren và Kiều Chinh trong trạng phục áo dài Việt Nam - Ảnh: NVCC

Không chỉ giúp đỡ người Việt Nam có nơi sinh sống tạm thời, Tippi Hedren còn đào tạo và giúp họ có công việc mới trên đất Mỹ: làm móng (nail). Nhận thấy sự khéo léo và chăm chỉ của phụ nữ Việt Nam, Tippi Hedren đã mời chuyên gia về đào tạo nghề làm móng cho 20 phụ nữ Việt Nam tại Hope Village.

Đây được coi là bước đầu tiên cho sự bùng nổ các tiệm nail do người Việt sở hữu sau này và dần dần trở thành một ngành công nghiệp hàng tỉ đôla tại Mỹ. Vì vậy Tippi Hedren còn được cộng đồng người Việt tại Mỹ gọi là "mẹ đỡ đầu của nghề làm móng" của người Việt khắp năm châu.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 5.

Tippi Hedren (giữa) nhờ thợ làm móng Dusty Cootes dạy nghề cho nhóm 20 phụ nữ Việt Nam vào năm 1975 - Ảnh từ phim tài liệu Nailed It của Adele Free Phạm

Mối thâm tình giữa Tippi & Kiều Chinh

Trong chuyến đến Mỹ công tác cho dự án khảo cứu điện ảnh của Sài Gòn trước 1975 do Hội đồng Anh tại Việt Nam tài trợ, tôi đã đến nhà riêng của nữ diễn viên Kiều Chinh để phỏng vấn bà.

Trong căn phòng làm việc của Kiều Chinh, nơi diễn ra cuộc phỏng vấn kéo dài suốt 6 tiếng đồng hồ, tôi nhận thấy có khá nhiều bức hình chụp bà với Tippi Hedren và được bà cho biết đó là người bảo trợ và ân nhân của mình sau năm 1975.

Kiều Chinh cho biết bà gặp Tippi Hedren lần đầu tiên vào năm 1965 khi nữ diễn viên của Hollywood sang miền Nam Việt Nam cho các hoạt động nhân đạo của bà. Sau ngày 30-4-1975, Kiều Chinh định cư tại Canada.

Và từ một nữ diễn viên hàng đầu tại miền Nam Việt Nam, có hãng phim riêng và từng đóng phim với các tài tử Hollywood, Philippines, Ấn Độ; Kiều Chinh phải bắt đầu cuộc sống mới tại Canada với nghề... dọn dẹp chuồng gà để kiếm sống. Bà làm công việc vất vả cực nhọc này với số tiền 2 đôla một giờ.

Không thể tiếp tục công việc nặng nhọc này, Kiều Chinh quyết định dùng số tiền ít ỏi kiếm được để gọi điện thoại đường dài sang Mỹ nhờ người quen giúp đỡ.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 6.

Tippi Hedren và "ông vua" phim kinh dị Hitchcock

Sau nhiều cuộc điện thoại bất thành với những tài tử Hollywood nổi tiếng từng đóng chung phim với bà như Burt Reynolds, Glenn Ford và William Holden; Kiều Chinh quyết định dùng 15 đôla cuối cùng để gọi cho một người mà bà chỉ gặp một lần ngắn ngủi cách đó hơn 10 năm: nữ diễn viên Tippi Hedren.

Rất may mắn là Tippi Hedren nhận được cuộc gọi của Kiều Chinh và cũng là lúc mà bà vừa thành lập Hope Village. Kiều Chinh cho biết hai ngày sau, bà nhận được điện tín của Tippi, kèm thư và vé máy bay của tổ chức Food for the Hungry mời nữ diễn viên Kiều Chinh sang Mỹ, dự lễ khánh thành Hope Village ở Sacramento (California).

Sau một thời gian ngắn ở Hope Village để ổn định cuộc sống mới, Tippi Hedren còn đưa Kiều Chinh về ở cùng nhà, ở căn phòng của cô con gái là Melanie Griffith (lúc đó mới ra riêng ở với bạn trai) và lo giấy tờ giúp Kiều Chinh được ở lại Mỹ để tiếp tục hoạt động điện ảnh.

Tippi cũng giúp Kiều Chinh vào Hiệp hội Diễn viên Mỹ (Screen Actor Guild) nhờ những hoạt động điện ảnh ấn tượng trước đó tại miền Nam Việt Nam trước 1975 và đặt những bước chân đầu tiên để bà tiến vào Hollywood.

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 7.

Tippi Hedren và Sean Connery trên poster phim Marnie

Hai năm sau, Kiều Chinh có vai chính đầu tiên trong một tập phim của bộ phim truyền hình thành công nhất tại Mỹ trong thập niên 1970: M.A.S.H, đóng chung với nam diễn viên kỳ cựu Alan Alda - người đoạt rất nhiều giải Emmy và Quả cầu vàng nhờ bộ phim này.

Từ đó đến nay, Kiều Chinh vẫn tiếp tục hoạt động tại Hollywood và có thêm hàng chục vai diễn lớn nhỏ, trong đó thành công nhất phải kể đến bộ phim The Joy Luck Club (Phúc Lạc Hội) năm 1993 - bộ phim mà bà đóng một trong những vai chính và rất thành công về doanh thu và nghệ thuật.

Tippi Hedren dành những lời ưu ái và chân thành về Kiều Chinh trong một cuốn sách vinh danh sự nghiệp điện ảnh kéo dài gần sáu thập niên của bà: "Kiều Chinh là một trong những phụ nữ mạnh mẽ, giàu nghị lực và thanh lịch nhất mà tôi từng gặp trong đời".

Tippi Hedren - Người đẹp tóc vàng -  ân nhân của  nhiều người Việt ở Mỹ - Ảnh 8.

Tippi Hedren và Kiều Chinh trong sự kiện vinh danh nghề làm nail của người Việt tại Mỹ - Ảnh: NVCC

Nhà hoạt động nhân đạo tích cực

Nhờ quá trình thâm nhập thực tế trong suốt 11 năm để thực hiện bộ phim Roar, Tippi Hedren trở thành một nhà hoạt động tích cực về môi trường và động vật hoang dã. Bà trở thành nhà sáng lập và điều hành của tổ chức The Roar Foundation.

Trong những năm của thập niên 1970, 1980, Tippi Hedren đi khắp thế giới và dành nhiều thời gian cho các hoạt động nhân đạo và từ thiện.

Bà là điều phối viên cứu trợ quốc tế cho tổ chức Food for the Hungry và thiết lập các chương trình cứu trợ cho nạn nhân sau động đất, bão lũ, nạn đói và chiến tranh. Nhờ những hoạt động không mệt mỏi này, bà đã nhận được vô số giải thưởng nhà hoạt động nhân đạo của thế giới.

Lê Hồng Lâm

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 26.4.2020.

Cái đẹp là gì? Chúng ta chưa có một ý niệm nào về cách thức mà bộ não của chúng ta nhận biết cái đẹp của tạo hóa. Chẳng những thế, chúng ta còn ít có khả năng hơn khi nói đến cái đẹp bằng từ ngữ thật chính xác. Và vì thế cũng thật là mạo hiểm khi nói đến cái đẹp trong lĩnh vực khoa học. Nhưng đó lại chính là điều tôi muốn nói ở đây.

Thiên nhiên rất đẹp

Người ta thường coi hoạt động khoa học là một công việc thuần túy lý tính. Nó loại trừ mọi cảm xúc. Vật lý là một môn khoa học cụ thể và chính xác, ở đó mọi tình cảm thẩm mỹ đều bị loại trừ. Những phán xét về giá trị đều không có chỗ đứng. Chỉ có những sự kiện lạnh lùng và khách quan mà thôi. Tuy vậy, nhà khoa học cũng như người nghệ sĩ đều nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhiều cuộc công du đến các đài thiên văn đã không hề làm suy giảm sự thích thú luôn luôn mới lạ của tôi khi đứng trước những thắng cảnh với một vẻ đẹp kỳ vĩ, cách rất xa ánh sáng của nền văn minh. Tôi cũng luôn cảm thấy choáng ngợp trước cảnh tượng lộng lẫy, khô cằn mà hoành tráng của hoang mạc Arizona, ở đó, trên ngọn núi lửa Mauna Kea (Hawai) đã tắt, nơi mà những ống kính thiên văn cỡ lớn mọc lên như nấm, đài thiên văn Kit Peak hiện lên sừng sững giữa một cảnh tượng như trên cung trăng, trơ trụi chẳng có một loài cây cỏ nào. Tôi luôn cảm thấy hồi hộp khi thấy những cánh tay hình xoắn ốc của một thiên hà nào đó, ở cách xa hàng tỉ năm ánh sáng, hiện trên màn hình nối với ống kính thiên văn.

Những bức ảnh về khoa học nhưng không kém phần nghệ thuật của Giải thưởng Wellcome Image

20191123 khoa hoc

Nếu thiên nhiên rất đẹp thì lý gì các lý thuyết diễn tả nó lại không đẹp như thế? Nhà khoa học cũng như nhà thơ, tại sao họ lại không thể để cho các cảm xúc về cái đẹp bổ sung cho những nhận xét lý tính của mình? Các nhà bác học vĩ đại nhất đã trả lời rất rõ ràng câu hỏi này. Nhà toán học Pháp H.Poincaré (1854-1912) nói: “Nhà khoa học không nghiên cứu Tự nhiên vì mục đích vị lợi. Ông ta nghiên cứu vì tìm thấy trong công việc sự thích thú và tìm thấy sự thích thú bởi Tự nhiên rất đẹp. Nếu Tự nhiên không đẹp thì nó không đáng được nghiên cứu, và cuộc sống cũng không đáng để sống nữa”. Poincaré còn bổ sung cho định nghĩa về cái đẹp như sau: tôi nói đến cái đẹp thầm kín nảy sinh từ sự hài hòa giữa các bộ phận mà một trí tuệ thuần khiết có thể cảm nhận được”. Nhà vật lý người Đức Werner Heisenberg (1901-1976), một trong những cha đẻ của môn vật lý lượng tử, đã đáp lại tiếng nói từ đáy lòng của Poincarré, ông nói: “Nếu Tự nhiên dẫn dắt chúng ta đến các hình thức toán học hết sức đơn giản và đẹp đẽ - bằng từ “hình thức” tôi muốn nói đến các hệ thống nhất quán các giả thuyết, các tiên đề... - mà trước đó chưa có một ai nhận thấy, thì chúng ta không thể không nghĩ rằng đó là những cái có thực, rằng chúng hé lộ khía cạnh hiện thực của Tự nhiên... Bạn chắc cũng đã cảm thấy điều đó: tính đơn giản đáng kinh ngạc và toàn bộ mối liên hệ chằng chịt mà Tự nhiên đột nhiên bày ra trước mắt chúng ta, và đối với những cái đó chúng ta chưa thật sẵn sàng”. Chính Albert Einstein (1879-1955) cũng đã ít ở đoạn cuối bài báo về Thuyết tương đối rộng rằng: “Tất cả những ai hiểu về lý thuyết này sẽ không thoát khỏi ma lực của nó”. “Trật tự hài hòa”, “Tính đơn giản”, “Sự nhất quán”, “Ma lực”. Đó tất cả những gì để định nghĩa “cái đẹp” trong khoa học.

Tính tương đối của cái đẹp

Cái đẹp mà nhà vật lý nói đến rất khác với cái đẹp mà người nhạc sĩ cảm nhận khi nghe bản sonata của Mozart hay bản fuga của Bach, hoặc cái đẹp mà người yêu nghệ thuật tìm thấy... - đứng trước các bức họa: Những vũ nữ của Degas (1834 – 1917), Những quả táo của Cézanne (1839-1906) hay Những cây hoa súng của Monet (1840 -1926). Cái đẹp đó cũng không giống và cái đẹp mà người đàn ông cảm nhận ở người đàn bà ngồi cạnh. 
Những cảm nhận về cái đẹp cũng rất khác nhau trong các nền văn hóa khác nhau. Những quy ước của hội họa thể hiện qua bức tranh của Hokusai (1760 - 1849) về núi Phú Sĩ không giống với các quy ước của Cézanne khi ông vẽ núi Saint-Victoire. Vẻ đẹp khôn tả của ngôi đền Taj Mahal (Ấn Độ) hoàn toàn khác với vẻ đẹp lộng lẫy của nhà thờ Chartres. Vì vậy, nếu ai đó muốn định nghĩa thế nào là cái đẹp thì thật là táo gan. Giống như tình yêu và sự căm ghét, người ta chỉ cảm nhận được nó khi mà những tình cảm ấy xâm chiếm tâm hồn bạn, song cũng khó có thể mô tả bằng lời.
Nếu như không có những tiêu chí khách quan để đánh giá cái đẹp trong sự sáng tạo của con người, thì liệu chúng ta có thể hy vọng nêu ra được một tiêu chí về cái đẹp trong các công trình khoa học hay không? Liệu chúng ta có thể xây dựng một hệ thống mỹ học trong khoa học để đánh giá cái đẹp của tự nhiên, của sự xếp đặt có tổ chức của nó? Có thể đưa ra một câu trả lời khẳng định bởi vì trái ngược với vẻ đẹp của phụ nữ và của đồ vật, vẻ đẹp của một lý thuyết vật lý không phải là tương đối mà mang tính phổ quát. Vẻ đẹp đó có thể được đánh giá bởi một nhà khoa học ở bất cứ đâu, thuộc bất kỳ nền văn hóa nào. Một nhà vật lý học Việt Nam có thể ca ngợi giá trị của thuyết tương đối rộng cũng sắc sảo như một nhà vật lý người Pháp vậy.

Albert Einstein cũng đã ít ở đoạn cuối bài báo về Thuyết tương đối rộng rằng: “Tất cả những ai hiểu về lý thuyết này sẽ không thoát khỏi ma lực của nó”. “Trật tự hài hòa”, “Tính đơn giản”, “Sự nhất quán”, “Ma lực”. Đó tất cả những gì để định nghĩa “cái đẹp” trong khoa học.

Mặc dù đã có những lời khích lệ của triết gia Schopenhauer (1788-l860) nói rằng hãy gạt lý lẽ sang một bên và để mặc cho trực giác nắm bắt cái đẹp, tôi sẽ thử thực hiện cái việc khá nguy hiểm là khoanh khái niệm về cái đẹp trong một lý thuyết vật lý. Tôi sẽ không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào vì việc làm đó chắc chắn sẽ thất bại. Tôi chỉ xin liệt kê và minh họa một danh mục những đặc tính mà một lý thuyết khoa học đẹp cần phải có.
Cái đẹp trong khoa học

Trước hết từ “Đẹp” ở đây không hề liên quan với cái đẹp tạo hình của dãy các phương trình được viết ra bởi một bàn tay nắn nót trên trang giấy trắng. Phải thú nhận rằng tôi chỉ nhìn thấy ở đó một cái đẹp trừu tượng, cũng hệt như khi đứng trước những trang giấy đầy ắp chữ Hán do một nhà thư pháp Trung Hoa viết lên một cách tài hoa. Nhà thơ và cũng là họa sĩ Henri Michaux (1899- 1984) đã sử dụng một cách có ý thức vẻ đẹp tạo hình ấy của chữ Hán trong thư pháp của mình. Cái đẹp ở đây cũng không liên quan với khái niệm “tao nhã” mà các nhà vật lý và toán học thường nói tới. Một chứng minh toán học hoặc một kết quả vật lý là tao nhã bởi vì chúng đã đạt được qua một số tối thiểu các bước… Một lý thuyết có thể rất đẹp mà không còn có những lời giải tao nhã. Lý thuyết tương đối rộng của Einstein, theo ý kiến của tất cả các chuyên gia, là một tòa lâu đài trí tuệ hài hòa nhất mà trí tuệ con người đã xây dựng nên. Lý thuyết đó không có những lời giải tao nhã, ngoại trừ những trường hợp đơn giản nhất. Trong lý thuyết đó, toán học hết sức phức tạp. Tuy nhiên, đó là lý thuyết đẹp nhất.

20191123 khoa hoc 2
Một lý thuyết được gọi là đẹp bởi vì nó có vẻ không thể nào khác được. Đó cũng là cảm giác mà bạn nhận thấy khi nghe một bản fuga của Bach, trong đó không có một nốt nhạc nào có thể thay thế được, bởi vì nếu thay thế dù chỉ một nốt thôi, thì sự hài hòa của bản nhạc sẽ bị phá vỡ. Hoặc khi nhìn bức họa La Joconde của Leonard de Vinci (1452-1519) thì không một nhát cọ nào có thể quệt khác được, nếu không sự cân bằng của bức tranh sẽ không còn nữa. Đối với một lý thuyết đẹp cũng vậy. Chính Einstein đã viết về Thuyết tương đối rộng: “Sức hấp dẫn chủ yếu của lý thuyết là ở chỗ nó đủ cho chính nó. Chỉ cần một trong số những kết luận của nó không đúng là toàn bộ lý thuyết sẽ bị vứt bỏ. Làm thay đổi nó mà không phá hủy toàn bộ cấu trúc là không thể được”. 
Đặc tính không thể khác được và tính tất yếu của một lý thuyết đẹp thể hiện ở chỗ, khi nó ra đời, các nhà vật lý thường rất ngạc nhiên không hiểu sao nó hiển nhiên như thế mà lại không xuất hiện sớm hơn.

Trái ngược với vẻ đẹp của phụ nữ và của đồ vật, vẻ đẹp của một lý thuyết vật lý không phải là tương đối mà mang tính phổ quát. Vẻ đẹp đó có thể được đánh giá bởi một nhà khoa học ở bất cứ đâu, thuộc bất kỳ nền văn hóa nào.

Đặc tính thứ hai của một lý thuyết đẹp là ở chỗ nó rất đơn giản. Ở đây không phải là sự đơn giản của các phương trình trong lý thuyết được đo bằng số lượng của các ký hiệu, mà là số lượng các ý tưởng làm cơ sở cho lý thuyết đó. Ví dụ, để xây dựng lý thuyết hấp dẫn của mình, Isaac Newton (1642-1727) chỉ cần 3 phương trình tương ứng với ba chiều không gian, trong khi lý thuyết tương đối rộng cần đến 14 phương trình. Tuy nhiên, lý thuyết đẹp nhất là lý thuyết của Einstein, bởi vì nó dựa trên những ý tưởng cơ bản đơn giản hơn. Vũ trụ Copecnic lấy Mặt trời làm trung tâm, trong đó các hành tinh cần mẫn đi theo các quỹ đạo hình elip xung quanh Mặt trời, đơn giản hơn vũ trụ lấy Trái đất làm trung tâm của Ptoleme, trong đó Trái đất là trung tâm và các hành tinh di chuyển theo đường tròn mà tâm của các đường tròn ấy lại chuyển động trên các đường tròn khác. Một lý thuyết đơn giản chỉ cần một số lượng tối thiểu giả thuyết mà thôi. Nó không bị vướng vào các thứ điểm tô vô bổ. Nó thỏa mãn tiên đề về tính đơn giản của Occam (1349): “Tất cả những thứ không cần đều vô ích”.

Sự tương hợp với cái toàn thể

Đặc tính cuối cùng của một lý thuyết và theo tôi cũng là đặc tính quan trọng nhất, là nó phải thích ứng với những đường viền quanh co của Tự nhiên và làm cho cái đẹp trùng khớp với chân lý. Thực tế, một lý thuyết vật lý không có chỗ đứng, nếu không hé mở cho chúng ta thấy những mối liên hệ mới trong Tự nhiên, mà ta có thể kiểm chứng được bằng những quan sát hoặc thực nghiệm trong phòng thí nghiệm, nếu nó không phơi bày trước mắt chúng ta “sự đơn giản đáng kinh ngạc và toàn bộ mối quan hệ chằng chịt của Tự nhiên”, như Wamer Heisenberg đã từng nói. Một lý thuyết mà người ta không thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm thì không thuộc lĩnh vực khoa học mà thuộc lĩnh vực siêu hình. Những tư biện trí tuệ đều là vô bổ chừng nào chúng không dựa vào các Hình thái của Tự nhiên. Heisenberg đã định nghĩa cái đẹp như nó đã được cảm nhận trong nền văn minh cổ đại như sau: “Cái đẹp là sự tương hợp của các bộ phận, giữa bộ phận này với bộ phận kia và với toàn thể. Thuyết tương đối rất đẹp bởi vì nó đã kết nối và thống nhất được cái khái niệm cơ bản của vật lý mà cho đến lúc đó vẫn hoàn toàn tách rời nhau: thời gian, không gian, vật chất và chuyển động. Vật chất làm cong không gian, và sự cong của không gian quy định chuyển động. Mặt trăng đi theo một quỹ đạo cong (hình elip) xung quanh Trái đất bởi vì khối lượng của Trái đất làm cong không gian bao quanh nó. Đến lượt mình chuyển động lại kiểm soát sự hoạt động của cặp thời gian- không gian. Một hạt cơ bản chuyển động với tốc độ gần bằng tốc độ ánh sáng sẽ thấy thời gian dài ra và không gian co lại. Sự chậm lại của thời gian - cái phép mầu cải lão hoàn đồng tưởng như vô vọng - thì bây giờ không còn là một điều không tưởng nữa: các hạt được phóng hết tốc lực trong các máy gia tốc hạt, như máy gia tốc của CERN (Trung tâm nghiên cứu hạt nhân châu Âu) đặt tại Geneve, sống lâu hơn là các hạt đứng yên. Còn về sự cong của không gian do vật chất tạo ra, thì những quan sát cho thấy ánh sáng của các vì sao đều bị lệch hướng khi đi qua gần Mặt trời, đúng như Mặt trời đã làm cong không gian bao quanh nó.
Một lý thuyết sẽ càng đẹp nếu nó phát hiện ra những mối liên hệ bất ngờ ở mỗi một bước ngoặt mới, trong quá trình các nhà nghiên cứu khám phá ngày một sâu hơn cấu trúc của nó. Thuyết tương đối rộng thỏa mãn đến độ cao nhất các chuẩn mực ấy. Lý thuyết này không ngừng làm cho chúng ta phải ngạc nhiên bởi sự phong phú không lường trước được của nó. Einstein là người đầu tiên bị bất ngờ khi ông phát hiện ra rằng các phương trình của ông đã áp đặt một vũ trụ đang vận động. Giống như một hòn đá khi ném ra không thể đứng lại trong không khí, vũ trụ không thể ở trạng thái tĩnh: nó phải hoặc là giãn nở hoặc là tự nó co nhỏ lại. Thế nhưng những quan sát thiên văn ở vào thời của ông (1915) lại chỉ ra rằng vũ trụ là tĩnh. Và Einstein đã điều chỉnh các phương trình của mình để phù hợp với trạng thái tĩnh này một hành động mà Einstein xem là “sai lầm lớn nhất trong cuộc đời ông”, khi biết nhà thiên văn học Mỹ Edwin Hubble (1889-1953) phát hiện ra sự giãn nở của vũ trụ vào năm 1929.
Einstein đã không có đủ niềm tin vào vẻ đẹp và sức sống của chính các phương trình của mình. Từ đó Thuyết tương đối rộng đã không ngừng phát hiện ra những kho báu đến lạ lùng. Nó đã trở thành trụ cột của lý thuyết Big-Bang. Nó đã cho phép các nhà vũ trụ học đi ngược dòng thời gian và mô tả các bước tiến hóa của vũ trụ, bắt đầu từ một vụ nổ lớn- vụ nổ đã sinh ra cả không-thời gian. Nó cũng đã thúc đẩy chúng ta nghĩ đến các vùng trong không gian có lực hấp dẫn rất mạnh và không gian cong lại tới mức mà ánh sáng cũng không thể thoát ra được: đó là những lỗ đen. Chưa hết. Lý thuyết đó còn nói rằng có những vùng, ở đó các thiên hà có khối lượng cực lớn làm cong không gian và làm lệch hướng đi của ánh sáng phát ra từ các thiên thể ở xa, tạo ra các ảo ảnh vũ trụ. Các nhà thiên văn gọi các thiên hà này là những “thấu kính hấp dẫn”, bởi vì giống như thủy tinh thể của mắt, chúng làm lệch hướng và tụ tiêu ánh sáng.
Không thể khác, đơn giản và tương hợp với toàn thể- đó là những nét đặc trưng của một lý thuyết đẹp. Chính sự thích thú vẻ đẹp của sự tương hợp với cái toàn thể đã kích thích những cố gắng của các nhà vật lý trong suốt hai thế kỷ qua để tìm ra một Lý thuyết của Tất cả, một lý thuyết có khả năng liên kết tất cả các hiện tượng vật lý của vũ trụ và thống nhất bốn lực cơ bản của Tự nhiên thành một lực duy nhất. 

Trịnh Xuân Thuận

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 22.11.2019.

Sự tương phản giữa người phụ nữ thế kỷ 18 đọc sách và một cô cậu trẻ tuổi dán mắt vào điện thoại cho thấy những cách thức khác nhau chúng ta kiến tạo bản sắc thông qua việc đọc.

Frank Furedi là nhà xã hội học và nhà bình luận xã hội, cựu giáo sư xã hội học tại Đại học Kent ở Canterbury, ông đã viết nhiều sách, cuốn mới nhất là How Fear Works (2018). Ông hiện nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và tác động của khủng hoảng bản sắc. Bài viết dưới đây của ông do dịch giả Ngân Xuyên chuyển ngữ.

Hôm đó là thứ Bảy, 1/11/2014, tôi đang tìm sách ở hiệu sách Barnes and Noble trên Đại lộ thứ 5 ở New York City thì chợt thấy một chồng sách được làm rất đẹp. Nhìn kĩ hơn tôi nhận ra những sách đó là một phần của cái gọi là bộ sách cổ điển bọc da. Một nhân viên cho tôi biết những mẫu đẹp này là để giúp “trang điểm cho bộ sưu tập sách của bạn”.

Từ cuộc trao đổi đó, tôi vẫn hay nhớ rằng với tư cách một biểu tượng chứng tỏ sự tinh tế văn hóa, sách thực sự quan trọng. Và dù chúng ta đang sống trong thời đại số, ý nghĩa biểu tượng của sách vẫn là một sự đánh giá văn hóa. Đấy là lý do mà thường khi phải trả lời phỏng vấn tại nhà hay tại phòng làm việc ở trường, tôi thường đứng trước giá sách và vờ như đang đọc một cuốn sách.

Đọc sách tinh tế và đọc sách khoe mẽ

Kể từ khi phát minh ra thứ chữ hình nêm ở Lưỡng Hà khoảng năm 3500 trước Công nguyên (TCN) và thứ chữ tượng hình ở Ai Cập khoảng năm 3150 TCN, người đọc sách nghiêm túc đã được coi là có văn hóa. Những tấm bảng đất sét trên có ghi các ký hiệu được coi là thứ đồ vật quý và đôi khi là thiêng. Khả năng đoán giải các biểu tượng và ký hiệu được xem là một việc làm phi thường.

Sự tương phản giữa người phụ nữ thế kỷ 18 đọc sách và một cô cậu trẻ tuổi dán mắt vào điện thoại cho thấy những cách thức khác nhau chúng ta kiến tạo bản sắc thông qua việc đọc.

Frank Furedi là nhà xã hội học và nhà bình luận xã hội, cựu giáo sư xã hội học tại Đại học Kent ở Canterbury, ông đã viết nhiều sách, cuốn mới nhất là How Fear Works (2018). Ông hiện nghiên cứu về lịch sử tư tưởng và tác động của khủng hoảng bản sắc. Bài viết dưới đây của ông do dịch giả Ngân Xuyên chuyển ngữ.
Hôm đó là thứ Bảy, 1/11/2014, tôi đang tìm sách ở hiệu sách Barnes and Noble trên Đại lộ thứ 5 ở New York City thì chợt thấy một chồng sách được làm rất đẹp. Nhìn kĩ hơn tôi nhận ra những sách đó là một phần của cái gọi là bộ sách cổ điển bọc da. Một nhân viên cho tôi biết những mẫu đẹp này là để giúp “trang điểm cho bộ sưu tập sách của bạn”.Từ cuộc trao đổi đó, tôi vẫn hay nhớ rằng với tư cách một biểu tượng chứng tỏ sự tinh tế văn hóa, sách thực sự quan trọng. Và dù chúng ta đang sống trong thời đại số, ý nghĩa biểu tượng của sách vẫn là một sự đánh giá văn hóa. Đấy là lý do mà thường khi phải trả lời phỏng vấn tại nhà hay tại phòng làm việc ở trường, tôi thường đứng trước giá sách và vờ như đang đọc một cuốn sách.Đọc sách tinh tế và đọc sách khoe mẽKể từ khi phát minh ra thứ chữ hình nêm ở Lưỡng Hà khoảng năm 3500 trước Công nguyên (TCN) và thứ chữ tượng hình ở Ai Cập khoảng năm 3150 TCN, người đọc sách nghiêm túc đã được coi là có văn hóa. Những tấm bảng đất sét trên có ghi các ký hiệu được coi là thứ đồ vật quý và đôi khi là thiêng. Khả năng đoán giải các biểu tượng và ký hiệu được xem là một việc làm phi thường.
 
Thieu nu the ky 18 doc sach khac gi co gai doc smartphone thoi nay? hinh anh 1 sach_7_jpjd.jpg
Tử thư Ai Cập. Ảnh tư liệu
Hệ chữ tượng hình Ai Cập được cho là có sức mạnh ma thuật và cho đến tận ngày nay nhiều độc giả vẫn xem sách là phương tiện trung gian để có được kinh nghiệm tâm linh. Vì sách có ý nghĩa biểu tượng lớn như vậy nên việc mọi người đọc gì và đọc như thế nào được coi là một nét bản sắc quan trọng của họ. Việc đọc sách luôn là một dấu ấn của tính cách, đó là lý do tại sao mọi người trong suốt lịch sử đã đầu tư nguồn lực văn hóa và cảm xúc đáng kể vào việc nuôi dưỡng bản sắc như những người yêu sách.Ở Lưỡng Hà cổ đại, nơi chỉ một nhóm nhỏ các viên thư lại mới có thể giải mã các tấm bảng ghi thứ chữ hình nêm, người diễn giải được các ký hiệu rất có uy tín. Chính ở thời điểm này chúng ta có được những gợi ý sớm nhất về sức mạnh biểu tượng và đặc quyền mà người đọc sách có. Bằng cách hạn chế việc tiếp cận đến kiến thức ma thuật của họ, các viên thư lại đã ra sức bảo vệ quyền uy văn hóa của họ với tư cách là những độc giả.Vào thời La Mã, bắt đầu từ thế kỷ thứ hai trước Công nguyên, những cuốn sách được hạ từ trời xuống đất, nơi chúng được xem là những hàng hóa xa xỉ đem lại cho những người chủ giàu có của chúng uy tín văn hóa. Nhà triết học La Mã Seneca sống ở thế kỷ thứ nhất đã công kích thói trưng bày nhiều sách để khoe khoang khi ông phàn nàn “nhiều người không đi học ở trường dùng sách không phải như một công cụ học tập mà như vật trang trí cho phòng khách”.Nói về một nhà sưu tập những cuộn sách giấy để phô trương, ông viết rằng “bạn có thể thấy toàn bộ tác phẩm của các nhà hùng biện và các nhà sử học chất trên giá cao đến tận trần nhà, bởi vì cũng như phòng tắm, phòng sách đã trở thành vật trang trí cho căn nhà giàu có".Sự căm ghét của Seneca đối với kiểu nhà sưu tập sách có tính khoe khoang có thể do sự ác cảm của ông đối với chứng “cuồng đọc” trước chỗ đông người lây lan mạnh ở Đế chế La Mã thời kỳ đầu. Thời đó đã thấy nổi lên hiện tượng recitatio: Việc các tác giả và các nhà thơ đọc thơ văn trước công chúng khiến các công dân giàu có coi đấy là cơ hội chứng tỏ mình..Sau sự sụp đổ của Đế chế La Mã vào thế kỷ thứ năm, người Âu có sự giàu có vật chất nhưng thiếu sự thanh lịch và tinh tế của những kẻ thượng lưu trong xã hội đã tạo ra những thư viện tư để được tiếng là thanh lịch. Quả thật, đối với nhiều người việc có được một thư viện sắp xếp tốt là một mục đích tự thân.
20200430 4

Tranh Trường học Athens của Raphael


Vào các thế kỷ 14 và 15, kiểu độc giả kiêu căng, khoa trương nổi lên. Bài tiểu luận Philobiblon của Richard de Bury viết năm 1345 nhưng công bố năm 1473 được coi là “bản luận văn sớm nhất ở Anh về niềm vui đọc văn chương”. Nhưng Philobiblon nói rất ít về kinh nghiệm đọc sách thực tế của Bury. Ông là nhà mê sách kiểu cổ điển chỉ ham thu thập sách hơn là đọc.Người viết tiểu sử ông là William de Chambre nói rằng sách vây quanh mọi chỗ trong nhà ông và “phòng ngủ nhà ông cũng đầy sách đến mức khó mà đi đứng được nếu không trèo lên chúng”. De Bury chắc đã đoán trước được rằng cái thú sưu tập sách hám lợi của mình sẽ là mục tiêu của sự phê phán, châm chích nên ông đã tự vệ cho mình khỏi sự thái quá bằng cách viết trong đoạn Mở đầu của Philobiblon rằng “tình yêu mê mẩn” với sách đã khiến ông “quên nghĩ đến mọi thứ khác trên đời”.Mục đích viết Philobiblon là để hậu thế hiểu ý định của ông và “ngăn chặn vĩnh viễn những cái miệng lưỡi ngang ngạnh của những kẻ buôn chuyện”; ông hy vọng câu chuyện về niềm đam mê của ông sẽ “làm cho tình yêu sách của chúng ta sạch khỏi sự thái quá”.Nhưng nhà thần học nhân văn Đức Sebastian Brant đã không nhận được thông điệp này. Bản văn châm biếm của ông Ship of Fools (1494) vẽ ra 112 kiểu người điên khác nhau. Và kẻ điên đầu tiên leo lên tàu là "điên sách", kẻ thu thập sách và đọc chỉ để làm màu. Brant để gã nói:Nếu trên con tàu này tôi là số mộtẤy là vì những lý do đặc biệt mà tôi được thế,Vâng, ở đây tôi là người thứ nhất, anh thấy đấyBởi vì tôi thích cái tủ sách của tôi.Những cuốn sách tuyệt vời tôi sở hữu không cùng,Nhưng tôi chỉ hiểu được in ít;Tôi quý những cuốn sách qua nhiều thời đạiVà giữ không cho ruồi đậu vào các trang.Nơi chứa đựng nghệ thuật và khoa họcTôi nói: Ở nhà tôi là người hạnh phúc nhất,Có sách ở bên mìnhLà tôi hài lòng hơn cả.Sự châm biếm của Brant được lan truyền rộng và nhanh chóng được dịch từ tiếng Đức sang tiếng Latin, tiếng Pháp và tiếng Anh. Nhưng những kẻ yêu sách - hay nói cách khác là những kẻ điên -sách - vẫn không nhụt chí. Đến thế kỷ 16 sự lý tưởng hóa thế tục “tình yêu sách” đã được coi là phương tiện để tự khám phá mình và để có hiểu biết tâm linh về các con đường của thế giới.Sách như biểu tượng thần linh, trí tuệTính biểu tượng của việc đọc có lẽ lớn hơn bản thân hành động đọc. Các cá nhân cố nắm bắt sự say mê sách của mình thông qua những bức họa vẽ họ đang mải đọc. Những bức họa vẽ người đọc sách và những bức chân dung người cầm sách trở nên phổ biến trong nghệ thuật Phục Hưng. Các bản thảo thời này “tràn ngập những hình ảnh không chỉ của sách mà còn của những người đọc sách” như Laura Amtower viết trong cuốn Engaging Words: The Culture of Reading in the Middle Ages (2000).Trong những thế kỷ tiếp theo, chân dung nhà nghệ sĩ bị quyến rũ bởi đặc điểm thần linh và trí tuệ của sách vẫn tiếp tục ôm lấy nó như một đặc tính nghệ sĩ quan trọng. Các bức họa về nhà thơ nhân văn Dante luôn vẽ ông đang trong tư thế đọc.

Thieu nu the ky 18 doc sach khac gi co gai doc smartphone thoi nay? hinh anh 3 958px_Dante03.jpg

Tranh Allegorical Portrait of Dante. Ảnh: Wikimedia

Bức tranh có tên Allegorical Portrait of Dante của họa sĩ thế kỷ 16 Agnolo Bronzino vẽ nhà thơ đang mở bản in khổ lớn cuốn Paradiso. Nó vừa nói về sách vừa nói về Dante. Xem cách đọc của Dante người xem nhớ lại địa vị của ông là một người đi trước về văn hóa và tinh thần.Thế kỷ 18, với sự mở rộng việc đọc sách trong dân chúng, giới trí thức đã tìm mọi cách củng cố địa vị vượt trội của mình bằng cách nhấn mạnh sự khác biệt giữa họ và những độc giả thấp kém hơn. Giờ đây, nhà phê bình văn học đã thay thế nhà châm biếm La Mã, ca ngợi những độc giả thực thụ là “người có học thức” trong khi phía đối lập về mặt đạo đức của họ được gọi là “vô học”.“Đọc sách không phải là một đức hạnh; nhưng biết đọc cho đúng là một nghệ thuật, và một nghệ thuật như thế chỉ sinh ra khi người đọc có thể chiếm lĩnh được nó”, nhà tiểu thuyết Edith Wharton khẳng định trong bài viết “The Vice of Reading”. Wharton viết rằng “người đọc máy móc” thiếu “năng khiếu bẩm sinh” và “năng lực đọc” nên không bao giờ chiếm lĩnh được nghệ thuật đọc.

Thiếu nữ thế kỷ 18 đọc sách khác gì cô gái dán mắt vào điện thoại thời nay?

Đến thế kỷ 20, việc đọc được nâng lên thành một hình thức nghệ thuật, giới trí thức vạch một giới tuyến trên cát. Một bên là cái gọi là độc giả vờ và bên kia là lớp tinh tú. Ngay nhà tiểu thuyết Virginia Woolf cũng bị mắc vào điều này. Trong bài “The Common Reader” (1925) bà mô tả độc giả trung bình như người “kém học thức” hơn nhà phê bình, một cá nhân không được trời phú cho năng khiếu “hào phóng” như đối tác sành sỏi của hắn.Theo Woolf, độc giả thông thường là người “vội vàng, thiếu chính xác, hời hợt” và tất nhiên “những sự thiếu hụt của hắn như một nhà phê bình là quá hiển nhiên khỏi phải nói nữa”. Viễn cảnh đã rõ: Độc giả tiếp tục bị phân loại và phán xét cho đến tận nay. Trong Pleasures of Reading (2011) nhà phê bình văn học Alan Jacobs còn dám phân biệt giữa những độc giả khoe khoang và “những người đọc” bậc thấp.Trong thực tế, hành động này đã trở nên có uy tín đến mức việc đọc cho trẻ em biểu thị năng lực của bố mẹ, ít nhất thì cũng là ưu thế đạo đức và văn hóa của họ. Một ông bố bà mẹ đọc sách cho con nơi công cộng là đã làm một tuyên bố với thế giới - và thật cao cả việc các bậc phụ huynh hiện nay đang giành nhiều thời gian và nguồn lực để khuyến khích trẻ thực sự cầm lấy quyển sách trong tay. Cho nên không có gì lạ khi thấy một đứa trẻ chập chững ngồi trên chiếc ghế trẻ con ở trong xe hơi cầm một cuốn sách nhỏ và ngó vào đó.Không lâu nữa, những đứa trẻ chập chững của thế kỷ 21 có thể sẽ từ bỏ cái sự phô trương việc đọc sách ở nơi công cộng để chấp nhận thói quen đều đặn tìm kiếm trên smartphone. Nếu Seneca hay Martial mà ở thời nay, chắc họ sẽ viết những bản văn châm biếm cái sự phô bày việc đọc tin nhắn ở chỗ đông người và hiển thị văn bản ngay trước mặt.Đọc sách thời đại số, cũng như đọc những cuộn giấy thời cổ, là một diễn ngôn quan trọng cho biết chúng ta là ai. Giống như các độc giả nơi công cộng ở Rome thời Martial, những độc giả chăm chăm đọc tin nhắn và các hình thức truyền thông xã hội khác hiện ra ở khắp nơi. Dù trong cả hai trường hợp sự diễn đọc đều không mệt mỏi cấu trúc nên hình ảnh bản ngã của họ thì cái bản sắc mà họ muốn xác lập cũng rất khác nhau.Những người trẻ ngồi trong quán bar kiểm tra các tin nhắn trên điện thoại không tạo nên diễn ngôn về thị hiếu văn học tinh tế của họ. Họ chỉ báo hiệu rằng họ đang kết nối và rằng - đây là điều quan trọng nhất - sự chú ý của họ là điều thường xuyên phải có.

Thieu nu the ky 18 doc sach khac gi co gai doc smartphone thoi nay? hinh anh 4 istockphoto_938982304_612x612.jpg

Công nghệ thay đổi thói quen đọc. Ảnh: istockphoto

Khi công nghệ số phát triển, sự diễn đọc đã thay đổi. Sự tương phản giữa người phụ nữ thế kỷ 18 đọc sách và một cô cậu trẻ tuổi dán mắt vào smarphone cho thấy những cách thức khác nhau chúng ta kiến tạo bản sắc thông qua việc đọc. Hiện nay, người tiêu dùng sành sỏi văn bản số đang cạnh tranh giành sự khẳng định về văn hóa với độc giả sách giấy, nhưng sự diễn đọc nào là đáng giá nhất?Đối với những người muốn tuyên bố trí tuệ của họ cho thế giới biết thì sự lựa chọn đã rõ ràng: Các văn bản số không phải là cái đánh dấu sự phân biệt văn hóa. Có lẽ vì thế nên bất chấp việc sử dụng rộng rãi máy tính bảng, việc bán sách giấy gần đây vẫn tăng lên.Khác với sách, máy tính bảng không phải là công cụ chứng tỏ thị hiếu và sự tinh tế. Vì vậy các nhà thiết kế nội thất đã dùng những giá sách để tạo ấn tượng thanh lịch và tinh tế cho căn phòng. Các doanh nghiệp tích cực cải thiện vẻ ngoài tinh tế bằng cách cung cấp những giá sách làm sẵn cho những người mua muốn tỏ ra có thị hiếu cao.“Books by the Foot”, một hãng bán hàng trực tuyến cam đoan đưa lại “một tủ sách phù hợp với cá tính của bạn và không gian nhà bạn”, hứa hẹn cung cấp những cuốn sách “dựa trên màu sắc, kiểu dáng, chủ đề, kích thước, chiều cao, và nhiều nữa để tạo ra một tủ sách trông thật vĩ đại”. Một doanh nghiệp trực tuyến khác phát đạt về việc bán các tủ sách theo yêu cầu khách hàng thì nói rằng, ngay cả vào thời đại số, tủ sách vẫn là biểu tượng của văn hóa cao.Những kẻ "điên sách" vẫn đang ở cạnh chúng ta, nhưng may là nhiều độc giả không còn thích việc diễn đọc. Họ vẫn đắm mình vào văn bản và vẫn thực sự yêu những câu chuyện họ đọc. Bất luận phương tiện nào, điều quan trọng ở đây là khát vọng rất con người muốn bước lên hành trình này. Không phải sự trình diễn cũng không phải cách nhìn là quan trọng, mà là sự trải nghiệm hành trình vào cõi chưa biết.

Frank Furedi , Ngân Xuyên dịch

Nguồn, Zing New, ngày 24.4.2020.

Lần ra Hà Nội vừa rồi trước ngày sinh nhà văn - nhà báo Vũ Trọng Phụng (20-10), tôi ghé thăm nhà lưu niệm ông.

Khi tôi bấm chuông, một người đàn ông ra mở cửa, cho biết: "Đây đúng là nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng nhưng mọi hiện vật đã chuyển đi nơi khác, nhà này đã thuộc về chủ mới. Phần mộ của nhà văn Vũ Trọng Phụng cũng được đưa về nghĩa trang Quán Dền (phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, TP Hà Nội; góc đường Lê Văn Lương).

Theo tìm hiểu của chúng tôi, từ nguyện vọng của gia đình cố nhà văn Vũ Trọng Phụng, với sự giúp đỡ của Hội Nhà văn Việt Nam, năm 1988, bà Vũ Mỵ Hằng (con gái nhà văn) cùng ông Nghiêm Xuân Sơn (con rể) đã xin phép chính quyền các cấp di chuyển phần mộ của ông từ nghĩa trang Quán Dền về ngay vườn nhà, nằm trong mảnh đất hiện nay con cháu ông đang sinh sống. Năm 1992, gia đình sửa lại nhà lưu niệm Vũ Trọng Phụng và xây đắp lại mộ phần bằng đá đỏ. Đến năm 1995, xây mới nhà lưu niệm và tôn tạo khu vực mộ. Từ đó, nhà lưu niệm và mộ cố nhà văn Vũ Trọng Phụng đã trở thành một địa chỉ văn hóa của các thế hệ cầm bút, của các bạn trẻ yêu thích văn học, của khách xa gần đến thăm viếng, tìm hiểu.

Tại nhà lưu niệm đã trưng bày những kỷ vật đơn sơ mà vô giá của Vũ Trọng Phụng, như thẻ nhà báo, sổ tay, giấy khai sinh và các ảnh chụp của nhà văn với bạn bè; các tác phẩm của ông được in qua các thời kỳ, các bài văn, bài báo viết về ông… Đó chính là công sức mà con gái và con rể nhà văn đã kỳ công sưu tầm gây dựng nên, biểu hiện cho tấm lòng hiếu kính mẹ cha.

20191024 VTP

Căn nhà này trước đây là nhà lưu niệm cố nhà văn Vũ Trọng Phụng. Ảnh: HUỲNH DŨNG NHÂN

Khu lưu niệm và mộ phần cố nhà văn Vũ Trọng Phụng có diện tích khoảng 300 m2 do ông Nghiêm Xuân Sơn xây dựng và giữ gìn. Ông Sơn đã có đơn đề nghị được xếp hạng di tích từ tháng 5-2004. Tháng 10-2004, Ban Quản lý Di tích và danh thắng (thuộc Sở Văn hóa và Thông tin Hà Nội) có công văn hồi đáp mang nội dung "hoan nghênh" và "sẽ tiếp tục nghiên cứu". Đến tháng 12-2009, ông tiếp tục "hành trình" đơn đề nghị. Các cấp có thẩm quyền và liên quan cũng đã có công văn ủng hộ hoặc đề nghị giải quyết cho nguyện vọng của gia đình. Tuy nhiên, mong ước của ông Sơn không trở thành hiện thực. Ông mất năm 2016, đến ngày nay thì nhà lưu niệm của Vũ Trọng Phụng cũng không còn.

Một người cháu của cố nhà văn Vũ Trọng Phụng cho biết hiện tại gia đình không còn giữ nhà lưu niệm và cũng không có ý định xây dựng lại nhà lưu niệm nữa. Phần đất trước đây là nhà lưu niệm đã chuyển đổi sang mục đích khác.

Ban Quản lý nghĩa trang Quán Dền thông tin: Trước đây, mộ phần cố nhà văn Vũ Trọng Phụng đã ở nghĩa trang Quán Dền nhưng sau đó gia đình muốn xây dựng nhà lưu niệm nên đã chuyển mộ phần về tư gia. Sau khi nhà lưu niệm không còn thì mộ phần Vũ Trọng Phụng lại được chuyển ra nghĩa trang Quán Dền hồi trước Tết Kỷ Hợi 2019.

Ông Đỗ Đình Việt, cán bộ Phòng Văn hóa Thông tin phường Nhân Chính (quận Thanh Xuân), cho biết phường và cá nhân ông đã khuyên con cháu ông Vũ Trọng Phụng nên giữ lại nhà lưu niệm vì rất quý nhưng họ không thể tiếp tục duy trì vì nhiều lý do khác nhau. Về lý do ông Nghiêm Xuân Sơn từng nhiều lần đề nghị xem xét cấp di tích cho nhà lưu niệm nhưng việc cấp phép chậm trễ dẫn đến không giữ được nhà, ông Việt giải thích do hồ sơ xin cấp phép không đầy đủ (!?).

Thật sự đây là điều đáng tiếc cho một tên tuổi lớn như Vũ Trọng Phụng và các thế hệ độc giả yêu quý những tác phẩm để đời của "Vua phóng sự đất Bắc".

Dũng Nhân - Thuận Vy
Nguồn: Người lao động, ngày 22.10.2019

20200426 4

Buổi sáng “cafe liên lục địa”, anh Đặng Châu Long cao hứng ngâm bài thơ “nhật ký Chinese Virus” của nhà thơ Nguyên Cẩn vừa sáng tác, ngôn ngữ như vẽ lên một bức tranh buồn và đầy lo ngại trên toàn thế giới:

…nhưng từ Milan qua Teheran chưa qua ngày u ám,

gió đưa mùi cồn hay tử khí bay xa.

khi bình yên là từ ngữ của hôm qua,

Cali hay New Delhi nỗi sầu lại mọc.

không thấy bóng trẻ thơ trên đường đi học..

Thì Ngọc Anh bất chợt hỏi :

... Khi bình yên là từ ngữ của hôm qua..., thế thì những ngày tới sẽ ra sao?

Câu hỏi trống không, nhưng tôi biết là cô em này đang muốn tôi trả lời.

Tôi ngồi trầm ngâm và nghĩ, thế giới đã thay đổi bao lần và sau mùa dịch chắc chắn cũng sẽ thay đổi nữa. Tất cả chúng ta rồi sẽ phải thích ứng với một cách sống khác, thay đổi cách nhìn, sản xuất hay làm việc. Tất nhiên, đây đó vẫn còn người tin rằng là khi mùa dịch đi qua thì rồi mọi thứ sẽ trở lại “bình thường”.

Nhưng bao giờ hết dịch? Chưa ai nói được điều gì và những con số lây nhiễm, chết chóc ở mọi nơi trên thế giới mỗi ngày mỗi tăng, như bản tin trong thời chiến.

Khi nhìn những con số, tôi cảm giác như mình đang ở trong thế chiến thứ ba: cuộc chiến chống lại một kẻ thù bé tí. Chiến tranh vi trùng: Chỉ trong vòng 2 tháng mà đã có 1 tỷ người bị cách ly, bị vô hiệu hóa trên toàn thế giới!

Nhiều người đã chết mà không có cái ân huệ là phút cuối được nhìn mặt người thân. Họ cô độc đi từ giường bệnh đến lò thiêu, có khi trên những chiếc xe quân đội!

Tất nhiên, ai rồi cũng phải chết. Nhưng đứng trước cơn đại dịch mạng người quá mong manh bởi một kẻ thù nhỏ bé, và điều này chắc sẽ làm chúng ta nhìn lại thái độ sống và ý thức của mình về những giá trị mà mình từng theo đuổi và chắc rồi cũng sẽ ngộ ra: không có gì quý hơn mạng sống, tình gia đình và tình đồng loại.

Tôi vừa từ Sài Gòn về trong tâm dịch vào những ngày toàn quốc cách ly ở Ý, trao đổi với bạn bè qua điện thoại và hiểu ra đang có một sự thay đổi tận gốc trong tâm họ. Hình như ai cũng biết là phải can đảm nhận lấy hậu quả của những sai lầm về một lối sống phản thiên nhiên. Sau bài học về Coronavirus chúng ta không thể nào quay về lối sống tiêu thụ vô tội vạ, gây ô nhiễm môi sinh và phung phí tài nguyên. Xưa nay chúng ta thường tự phụ, rằng con người là thượng đẳng, nên tha hồ hủy hoại thiên nhiên, giết chóc mọi loài hay giết chóc lẫn nhau. Nhân tai đã khiến vô số loài tuyệt chủng và trớ trêu thay, số phận giống loài "cao cấp" nhất hôm nay cũng đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề sinh tử.

Con người đã từng muốn thay đổi thế giới ư? Giờ là lúc vỡ lẽ là thế giới sẽ thay đổi con người. Và nếu không thay đổi, thiên nhiên sẽ mệt mỏi vì chúng ta. Trái đất sẽ nóng lên. Băng tan. Nước biển dâng. Hạn hán. Cháy rừng. Bão tố. Động đất. Dịch bệnh.

Vũ trụ, tự nhiên luôn có sự cân bằng hoàn hảo. Ai phá vỡ sự cân bằng đó đều phải trả giá. Từ xa xưa, triết gia Socrate cũng đã từng khẳng định: tất cả cái gì không cân bằng thì đều sụp đổ! Nhiều người biết, mà chẳng mấy quan tâm!

Những cường quốc số một số hai thế giới, vũ khí đầy kho, bạc tiền rủng rỉnh, tưởng hiểu biết về khoa học của mình là vạn năn, hôm nay đang ngỡ ngàng và bó tay trước một đối thủ vô cùng bé nhỏ. Nó, con Coronavirus có phải là giống loài đáng sợ? Không đâu, vì giống loài đáng sợ nhất chính là con người, là cái lòng tham vô đáy mà đạo Phật đã từng cảnh báo và đặt làm hàng đầu trong 3 vấn nạn: Tham, Sân, Si. Chỉ vì vô minh mà con người tàn phá mọi giống loài, hủy hoại nơi mình sống và tiêu diệt đồng loại.

Khi chị Hạnh nói hình như hiện nay cách duy nhất để cứu mình, cứu người là phải tự cô lập, giữ khoảng cách xã hội mới có thể ngăn chặn dịch. Nhưng về lâu phương thức này sẽ làm sụp đổ hệ thống y tế và nền kinh tế thế giới.

Giữa bốn bức tường nhà mà chúng ta phải tự cách ly, sau những phút chùn chân cuồng cẳng thì cuối cùng chúng ta cũng phải làm quen với hiện thực mà ta đang đối mặt. Và cái khái niệm “bình thường” rồi cũng phải thay đổi. Có thể nhờ tự nhốt mà chúng ta học được sự cảm thông, có thời gian dành cho người thân, lắng nghe những vấn đề, tâm sự về những điều quan tâm với các thành viên trong gia đình, thố lộ về những điều mà mình lo lắng hay hoảng sợ.

Chưa ai biết con coronavirus đến từ đâu. Nhưng, tôi nghĩ là nó không đến đây vì sự một tình cờ. Và không phải cái xấu nào cũng đều có hại.

Thế giới luôn chuyển biến và đó là quy luật. Chúng ta không thể biết hết tất cả các yếu tố tác động lên hành tinh, nhưng điều rõ nhất là dịch bệnh không phải là thiên tai như sóng thần hay động đất mà bởi chính bàn tay của con người. [1]

Chỉ mới sáng nay thôi, trên báo Coriere della sera có đưa tin là tại Venezia, thành phố đông khách du lịch nhất của Ý, trước đây bị than phiền là nước trong kênh ngầu đục thì giờ đây dòng nước xanh trong đã hiện ra, nhìn thấy đáy và từng đàn cá tung tăng bơi lội. Một tin khác là sau một thời gian đóng cửa các nhà máy, bầu trời Vũ Hán cũng đã trong xanh không còn smog hay đen kịt vì bụi khói.

Thế giới mà con người đang sống bị ô nhiễm trầm trọng.

Thời Colombo khám phá ra châu Mỹ, người ta có thể uống nước từ bất cứ dòng sông nào, và nếu chúng ta cũng sống như dân da đỏ thì nguồn nước đến giờ vẫn còn trong sạch. Vì Nước và Không khí đối với họ là thiêng liêng. Họ biết là khi nước và khí quyển bị xâm phạm thì trái đất sẽ phản ứng.

Nếu nhìn qua một góc khác, thì Coronavirus cũng có thể nhìn như một thiên sứ hơn là một kẻ thù. Nó đến để giúp con người nhận ra bài học mà họ cần phải học

Khi mà những kỳ thị chủng tộc, những tính ích kỷ và lòng tham của con người còn trỗi dậy thì virus sẽ còn ở lại. Và nếu cái phương thức sản xuất và tiêu thụ phản thiên nhiên chưa dừng lại thì con virus này chưa chịu để ta yên, nó sẽ còn nhân rộng để đạp đổ cái xã hội thuần kinh tế mà chúng ta đã tạo ra.

Chỉ khi nào chúng ta hiểu được “sứ mệnh” đó thì tự khắc virus này sẽ trở về nơi xuất phát.

Như thế coronavirus không phải là kẻ thù. Nó là một đồng minh, giúp chúng ta nhận thức và cho chúng ta sức mạnh để mang lại quân bình cho cái hệ thống mà chúng ta đã phá vỡ.

Ngọc Anh ơi, em hãy nhìn cao. Trên bầu trời không có chiếc máy bay nào và hãy cảm ơn bầu không khí trong lành mà ta đang hít thở. Hãy nhìn các hàng cây, nhìn ra biển, nhìn những dòng sông, em có nhận thấy là tất cả đang bắt đầu phục sinh đấy sao?

Không ai có thể sống an lành hay khỏe mạnh trong một môi trường bệnh hoạn!

Và anh tin rằng khi cơn bùng phát dịch này chấm dứt, loài người sẽ thoát ra thiện lành hơn vì ý thức được sự mỏng manh và yếu đuối của mình. Anh tin là loài người sẽ biết cách phân biệt điều gì quan trọng với những gì phù phiếm. Vì, sớm hoặc muộn gì thì cũng có lúc chúng ta phải tự hỏi và tự trả lời vì sao xưa nay mình đã sống như thế, vì sao phải từ bỏ hay thỏa hiệp hay đã không dám sống một cuộc đời mà mình thực sự là mình.

Và anh tin rằng khi tình trạng nguy hiểm trôi qua, nếu còn sống sót và có thể tung tăng trên đường chúng ta sẽ thấy mình để sống với những điều đơn giản và thấu hiểu ý nghĩa của tự do.

Khi tôi nói ra những ý nghĩ ấy thì Ngoc Anh đã lạc quan hơn: Em mong là cơn bão này sẽ qua nhanh, con người sẽ tồn tại, chúng ta sẽ sống sót nhưng trong một thế giới mà mọi ngươi đều biết tôn trọng và thương yêu trái đất.

Tôi không nói gì thêm, chỉ nhớ là khi ngồi trên máy bay về Ý đã có lúc mình nghĩ về ý tuởng của Erich Fromm về những thay đổi xã hội mà loài người rất cần. Chính nhà phân tâm học và triết học xã hội người Đức này đã đưa ra khái niệm về tự do và nhấn mạnh là xã hội ngày nay chỉ dựa vào kỹ thuật: lạnh lùng, vô cảm và không hạnh phúc.

 “Sản xuất kinh tế không thể chỉ có mục đích cho chính nó mà phải là phương tiện để mang đến một cuộc sống nhân bản hơn. Trong xã hội đó con người phải sống có phẩm giá chứ không phải là sở hữu hoặc tiêu thụ nhiều hơn. "

Ngọc Anh à, một ngày nào, khi dịch bệnh kết thúc, chúng ta sẽ dành nhiều thời gian cho nhau vì đã bao lâu rồi mình không được nắm tay nhau?

Trương Văn Dân

Milano 25/3/2020

 


[1] Một tài liệu của WWF, https://www.wwf.it/perdita_biodiversita.cfm, cho rằng rừng là một vành đai chống Virus tự nhiên mà loài người đang hồn nhiên tàn phá! 

Những nhà sách cũ, cổ xưa nếu được bảo tồn và lưu giữ như một bảo tàng sống động cũng là một điểm đến văn hóa thú vị cho khách du lịch trong và ngoài nước

Trong tâm thức của một người học văn, đã đọc biết bao nhiêu tác phẩm văn học Pháp và của bao nhiêu người yêu nghệ thuật khác, Pháp là niềm mơ ước, mơ mộng, lãng mạn của tuổi trẻ, là "kinh đô ánh sáng", là nơi tập trung tinh hoa của châu Âu và thế giới. Nên khi lần đầu sang Paris, người Việt nào cũng sẽ hỏi: Sông Sein đâu, cầu Mirabeau đâu, nhà thờ Đức Bà Paris đâu, vườn Luxembourg đâu, mộ của Victor Hugo, Balzac, Napoleon đâu, Khải Hoàn môn đâu, bảo tàng Lourve đâu, những quán cà phê mà Hemingway và nhiều nhà văn nhà thơ khác đã từng ngồi đâu… Rất nhiều những kỷ niệm về Pháp được người Việt Nam dệt qua những trang sách và mộng ước cho riêng mình. Riêng tôi, ngoài những địa danh đó, khi đến một nơi nào, để biết về văn hóa của một thành phố, tôi lại thường chọn đi hiệu sách.

20190913 hieu sachTác giả đứng trước nhà sách Shakespeare and Company, Paris (Ảnh do tác giả cung cấp)

Niềm tự hào của người Paris

Điểm đầu tiên tôi nhận thấy là, các hiệu sách của châu Âu thường nằm ở trung tâm, nên không khó tìm. Hiệu sách tiếng Anh lại càng nhiều và phong phú. Sách châu Âu nhìn chung mắc so với giá cả các mặt hàng khác, so với túi tiền người Việt lại càng mắc. Trung bình một cuốn sách mỏng hơn 100 trang phải có giá trên 10 euro. Sách cũ thì rẻ hơn nhưng không rẻ bằng sách cũ ở Mỹ hay Úc.

Hình nhà văn Hemingway trước nhà sách Shakespeare and Company

Pháp là nơi ở lâu nhất nên tôi hay đi hiệu sách, có mấy hiệu sách lớn ở Pháp mà lại nằm ngay trên con đường đắt đỏ bậc nhất Paris (đại lộ Rivolli) đó là WHSmith và Galignani. Tôi đặc biệt ấn tượng với Galignani vì đây là nhà sách tiếng Anh đầu tiên tại Pháp, thành lập năm 1801 nhưng cội nguồn của nhà sách này là nhà xuất bản Galignani, đã có từ tận năm 1520 khi Simone Galignani xuất bản ở Venice một cuốn sách về ngữ pháp Latin. Tuy nhiên, cuốn sách thành công của họ là cuốn "Geografia" (Địa lý) xuất bản năm 1597, một cuốn sách "best seller" không thể tin được của cả thế kỷ XVI và XVII. Trải qua bốn lần chuyển địa điểm, năm 1856 thì tọa lạc ở số 224 đại lộ Rivolli. Nhà sách Galignani hiện nay không rộng, là một mặt bằng gồm một tầng trệt và một tầng lửng gỗ, không nhiều khách (hay tại tôi đi vào ngày thường), không khí trầm mặc, yên tĩnh, khẽ khàng trong một không gian thanh lịch và thoáng đãng, không nhiều phong vị hoài cổ. Có một cái thang nhôm cho ai muốn lấy sách ở các giá trên cao. Sách được phân loại theo từng khu vực: châu Á, châu Mỹ, châu Âu, theo từng tác giả lớn, theo từng thể loại sách (khoa học, tiểu thuyết, phê bình văn học,…). Có một vài cái ghế dựa cho khách nằm hay ngồi đọc sách thoải mái.

Bên trong nhà sách Galignani - Paris

Nếu muốn hoài cổ và tham quan hiệu sách như một bảo tàng nhiều hơn là mua sách thì có nhà sách Shakespeare and Company, ngay tại trung tâm Paris, cách nhà thờ Đức Bà vài bước chân, là một nơi cực kỳ nổi tiếng. Shakespeare and Company, thành lập năm 1919 (cách đây đúng 100 năm), là niềm tự hào của người Paris mà họ gọi là "Hiệu sách của người Paris" (Parisian Bookstore).

Tác giả trước nhà sách Galignani

Tại sao lại có tên là Shakespeare and Company? Ban đầu, đây là một hiệu sách do Sylvia Beach mở năm 1919, sau đó George Whitman vào những năm cuối 1950 sau khi Sylvia qua đời đã mở lại hiệu sách này đúng vào năm kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Shakespeare.

Vài suy nghĩ cho chúng ta

Muốn vào hiệu sách đôi khi bạn phải xếp hàng, bất kể ban ngày hay buổi tối, bất kể ngày thường hay cuối tuần, đều đông khách. Nếu quá đông khách thì vui lòng đứng ngoài chờ, khi bớt đông mới được vào. Đập vào mắt khách sẽ là kệ sách về Beat (tức Beat Generation: Beatnik: thế hệ đập phá của thập niên 1950). Sau đó là sách về Lost Generation (thế hệ lạc lối thập niên 1920). Hiệu sách là một ngôi nhà cũ kỹ, lên cầu thang bằng gác gỗ, ngoắt nghéo qua nhiều gian phòng nhỏ, đi có khi đụng trần nếu ai cao quá 1,8 m. Mỗi gian phòng trưng bày sách, chủ yếu là sách cũ (nhưng không rẻ). Cách sắp xếp sách cũng khá khoa học, ví dụ gian sách về Hemingway, về Shakespeare (dĩ nhiên), về chiến tranh thế giới 1 và 2, về nghệ thuật, về sinh học, về lịch sử…

Ở mỗi góc phòng, hay trên cầu thang, đều có nhiều hình ảnh ố vàng các nhà văn từng đến đây, ở đây, như E. Hemingway, F. Scott Fitzgerald, James Joyce, Henry Miller… Nhà sách chủ yếu để tham quan và đọc miễn phí, nhiều góc có ghế ngồi, dù đông nhưng rất yên tĩnh. Bên cửa sổ, cạnh chậu hoa, có một con mèo đang nằm, một cậu bé ngồi đọc Hamlet. Hiệu sách không cho chụp ảnh, nếu không, những khoảnh khắc như vậy đã vào ống kính của tôi.

Cách thức hoạt động của những nhà sách nổi tiếng của Pháp đem lại cho những khách Việt chúng ta không ít suy nghĩ. Những nhà sách cũ, cổ xưa nếu được bảo tồn và lưu giữ như một bảo tàng sống động có lẽ cũng là một điểm đến văn hóa thú vị cho khách du lịch trong và ngoài nước. Những ai đã từng đến cà phê Lâm Hà Nội có lẽ sẽ thú vị khi nhìn những bức tranh của các họa sĩ nổi tiếng. Tuy nhiên, hiện có đến hai cà phê Lâm và nhiều người không biết "Lâm" nào là Lâm chính gốc và giá mà có ý thức gìn giữ thì chúng ta còn nhiều địa chỉ văn hóa như thế nữa… 

Trần Lê Hoa Tranh

Nguồn: báo Người lao động, ngày 12.9.2019.

 

Cuộc khủng hoảng đa diện bắt đầu từ lĩnh vực sức khỏe - y tế này đã tác động nhanh đến kinh tế, tài chính, sản xuất và mọi mặt đời sống xã hội trên toàn cầu ở mức kỷ lục. Nhưng nó cũng khiến các chính phủ phải lựa chọn, đặt ra các giải pháp mới, mà có thể sẽ gây nên những hiệu ứng dây chuyền khác. Lúc này, các ngành KHXH&NV có thể giúp trả lời những câu hỏi gì?

20200408

Paris sau lệnh phong tỏa.

Có lẽ đây cũng là cuộc khủng hoảng mà bên cạnh những tư vấn về y khoa thì tiếng nói của ngành KHXH&NV thực sự được lắng nghe và tham chiếu để đưa ra các quyết định chính sách phù hợp. Kể từ khi lệnh cách ly và phong tỏa ban ra ở các quốc gia, những bài xã luận, bình luận và phỏng vấn các nhà nghiên cứu KHXH&NV (sử học, xã hội học, nhân chủng học, tâm lý học, kinh tế học, truyền thông…) lại xuất hiện đều đặn mỗi ngày trên các phương tiện truyền thông toàn cầu (Lidewij Edelkoort, chuyên gia dự đoán xu hướng (trend forecaster) người Hà Lan, Yuval Noah Harari, nhà sử học người Israel, nhà xã hội học và triết học người Pháp Dominique Méda, kinh tế gia người Pháp Thomas Piketty...). Đài báo giúp độc giả đọc và phân tích lại những công trình của ngành nhân chủng học để nhìn nhận lại tiến trình lịch sử nhân loại gắn mốc với những đại dịch, như Claude Lévi-Strauss về mối liên hệ giữa loài người và động vật gây nên dịch bệnh, Frédéric Keck và James Scott về mặt trái của các nền văn minh và toàn cầu hóa gây ra đại dịch…

Trong bối cảnh không đề phòng và chuẩn bị trước đại dịch này, một trong các biện pháp nước Pháp thi hành ngay là thiết lập một ủy ban khoa học (gồm 11 chuyên gia, bác sỹ và nhà nghiên cứu) cố vấn cho Tổng thống, Thủ tướng và Bộ trưởng Bộ Y tế. Lần đầu tiên, tại Pháp, KHXH&NV với đặc điểm đa và liên ngành được huy động để tham gia trận chiến này trong việc nhận định, đánh giá, phân tích, hướng dẫn và khuyến cáo các cơ quan công quyền trong việc xử lý khủng hoảng.
Ứng phó và quyết định trong tình huống chưa từng có tiền lệ

Chưa bao giờ số lượng người mắc dịch tăng mạnh, số lượng người tử vong tăng nhanh, chưa bao giờ có tình trạng cả một quốc gia hay nhiều thành phố của một quốc gia bị phong tỏa, nhiều biên giới quốc gia bị chặn cả đường bộ lẫn hàng không, chưa khi nào toàn bộ hệ thống trường học toàn quốc khép cổng, cũng chưa từng toàn bộ cơ quan công sở đóng cửa, cũng chưa từng xảy ra tình huống làm việc từ xa lên đến hàng chục triệu người…

Trong bối cảnh của những “chưa từng có tiền lệ” này, chính phủ và các thiết chế công quyền tại Pháp đồng lòng chung sức với các nhà khoa học. Nhưng mỗi bên phải giữ đúng vai trò của mình, tạo nên một phân giới giữa quyết định chính trị và chuyên môn khoa học, như vậy mới giữ được sự độc lập của khoa học và tính trách nhiệm của chính trị.

 

KHXH&NV đóng góp như thế nào?

Sau khi có bản phân tích của ủy ban khoa học, ngay tối ngày 24/3, Thủ tướng phát biểu tuyên bố xiết chặt lệnh phong tỏa: mọi công dân chỉ được ra khỏi nhà để mua nhu yếu phẩm hay chơi thể thao tối đa 1 tiếng và trong bán kính 1km², ra khỏi nhà phải mang theo giấy chứng nhận di chuyển nếu không cảnh sát sẽ phạt 135 euros, phải đứng cách xa nhau 1m tại các cửa hàng siêu thị, cấm họp chợ trời … Ảnh: Thụy Phương.

Tuy nhiên, cùng với sức khỏe cộng đồng thì hàng loạt các vấn đề xã hội như liên kết xã hội, bất bình đẳng, phân biệt chủng tộc, môi trường sinh thái, chính trị, quản trị, tín ngưỡng, lãnh thổ, lưu thông kinh tế... tức là gần như toàn bộ mọi mặt hoạt động của xã hội đang bị con virus này tác động và chất vấn. Và chỉ có các ngành KHXH&NV mới có thể đưa ra các kịch bản, tình huống, phân tích lẽ thiệt hơn, đánh giá tác động tới các nhóm để tư vấn cho chính phủ.

Cách ly và phong tỏa diện rộng đang và sẽ tác động đến vấn đề tâm lý và tinh thần của toàn dân từ trẻ nhỏ đến người gi: gây ra stress, lo lắng, sợ hãi, hoảng loạn…, tùy mức độ nặng nhẹ ở từng cá nhân. Tử vong nhanh và nhiều, ban đầu là những người vốn mắc bệnh, giờ đến cả người trẻ khỏe, khiến cho vấn đề tín ngưỡng, tâm linh và tôn giáo cũng cần được lưu tâm khi đại dịch đi qua. Còn ở trong cơn dịch thì việc cấp bách hơn là xử lý thi thể ra sao với dân sự (nhà lễ tang), quân đội (vận chuyển) và cả các nghi lễ tang (hỏa táng hay chôn cất)…

Nếu như các bác sỹ nói rằng phong tỏa là chiến thuật để ngăn chặn dịch thì các nhà xã hội học và tâm lý học lên tiếng ở phương diện khác về các hệ quả của chiến thuật này để chính phủ có cái nhìn toàn cảnh, điều chỉnh chính sách sao cho giảm bớt các hệ quả không đáng có. Phong tỏa là cần thiết nhằm chặn đứng Covid-19 nhưng cũng làm tăng lên bất bình đẳng xã hội giữa các tầng lớp dân chúng, tăng nguy cơ cho những người yếu thế (phụ nữ bị bạo hành, người khuyết tật, vô gia cư, người gia cô đơn, người nhập cư hay tù nhân…). Ngoài ra, bất bình đẳng không như nhau ở mỗi độ tuổi, mỗi giai tầng hay mỗi địa bàn sống. Vì vậy, các nhà xã hội học phải phân tích được sự tiếp nhận và phản ứng với Covid-19 ở trong dân chúng, về việc tán thành - tuân thủ hay không của họ trước các biện pháp của chính phủ. Các nhà khoa học xã hội cũng phải tính đến hệ quả tâm lý của các biện pháp đó. Ví dụ, hệ quả của phong tỏa sẽ như thế nào với mỗi cá nhân (đến tâm lý và công việc…), gia đình (trông trẻ, dạy trẻ, chơi với trẻ, trẻ nhỏ cũng khác với trẻ đang lớn…), các nhóm nghề nghiệp (y tế, tài chính, giao thông, dịch vụ…), quần chúng (tương trợ - đoàn kết láng giềng, giữa các thế hệ hay liên kết xã hội…). Từ đó để “đánh động” nhà cầm quyền trước khi những quyết định chính trị được ban ra: rằng biện pháp này hay biện pháp kia sẽ tác động đến từng bộ phận trong xã hội như thế nào?  

Đối với nhà xã hội học Antonio Casilli, việc phong tỏa này tác động hoàn toàn trái ngược nhau ở hai đối tượng lao động: những người làm việc tại gia và những người làm việc tại chỗ (thu ngân hay giao hàng…). Bất bình đẳng rất rõ khi một bên bạn thuộc tầng lớp trung lưu, có nguồn tài chính vững, căn hộ rộng 120m² ở thủ đô, hoặc có thêm ngôi nhà thứ hai ở nông thôn, vườn rộng 500m², thì làm việc tại gia với điện thoại smartphone và máy tính xách tay lại trở thành khoảng thời gian rút lui và giãn cách khỏi đời sống xã hội (social disconnection), giải trí và thư giãn bên người thân. Nhưng bên kia, nếu bạn thuộc tầng lớp bình dân, làm những nghề nằm ở cuối dây chuyền sản xuất và cung ứng (last miles jobs) như bán hàng, giao hàng, vận chuyển hàng thì trong tình cảnh này họ vẫn phải đi làm, khả năng lây và truyền bệnh vừa dễ vừa nhanh. Từ vài năm trở lại đây, đặc thù công việc đã biến họ trở thành người lao động tự do bấp bênh, bị “Uber hóa”. Giới công đoàn đã cảnh báo những tình huống thảm kịch có thể rơi vào đầu những người lao động này nếu mất việc, hết lương, không được hưởng quyền lợi của người lao động bình thường.

Đây là lần đầu tiên 43% dân số toàn cầu (7,8 tỉ dân) bị “giam lỏng” tại nhà. Đặc điểm căn bản nhất là sự cách ly nhóm, tức là theo từng hộ gia đình. Theo nhà triết học Olivier Remaud, sự cách ly này bắt buộc các thành viên phải thiết lập một trật tự mới, phải biết tương tác và có khả năng thương lượng. Tôn trọng, độ lượng và tương trợ là những tiêu chí cần có để duy trì sự chung sống khép kín sao cho êm ấm trong nhiều tuần. Nếu không, chỉ nêu ra ví dụ sau là chúng ta có thể thấy bất bình đẳng giới và bất bình đẳng xã hội đè nặng lên vai người phụ nữ. Phụ nữ vừa phải làm việc tại gia, vừa phải chăm con, cho con học bài, chợ búa, cơm nước… thì quãng thời gian cách ly này quả là cực hình. Sau tuần đầu tiên phong toả, các tổ chức nữ quyền ở Pháp cho biết tình trạng phụ nữ bị chồng đánh tăng 34%. Chính phủ đã chỉ thị hiệu thuốc (thay vì cảnh sát như mọi khi) tiếp nhận phụ nữ bị hành hung.

Theo nhà tâm lý học Catherine Tourette-Turgis, “cách ly lên quá 10 ngày có thể gây ra những hội chứng stress hậu chấn thương”, nghĩa là nó có thể biểu hiện thành những căng thẳng, lo lắng, chán nản, mất ngủ, rối loạn tiêu hóa, nghiện… Lúc đó, chúng ta cần được chăm sóc sức khỏe tinh thần nhờ bác sỹ tâm lý hoặc những trợ giúp xã hội trong và sau thời kỳ cách ly. Bản thân xã hội cũng điều chế ra “kháng thể” cho chính mình – cơ chế tự điều chỉnh để vượt qua khủng hoảng bằng tinh thần đoàn kết và tương trợ láng giềng và liên thế hệ. Các nhà sử học, nhân loại học, xã hội học, tâm lý học, kinh tế học với những chuyên ngành hẹp như xử lý và quản trị trong khủng hoảng, nhân đạo, tâm lý học đám đông, quản trị thiết chế, được huy động để lý giải và tìm ra giải pháp thoát khủng hoảng.

 

Hậu đại dịch: Điều gì sẽ tới?

Khi đại dịch đi qua, cơn stress kinh tế sẽ phủ ngay lên đầu tất cả chúng ta, từ người đi làm đến các ông chủ: phải lấy lại tiền, lợi nhuận, công suất đã bị giảm sụt hay mất đi trong nhiều tuần. Lúc đó, KHXH&NV, đặc biệt những chuyên ngành kinh tế học, chính trị học, truyền thông..., phải tiếp tục truy vấn và tư duy lại toàn bộ hệ thống để đối mặt với những cuộc khủng hoảng mới.

Phục hồi kinh tế là việc ưu tiên số một của các chính phủ khi đại dịch kết thúc. Chỉ riêng với nước Pháp, và chỉ tính riêng hai lĩnh vực, công nghiệp sản xuất ô tô và công nghiệp dược phẩm phụ thuộc rất lớn vào Trung Quốc. Theo nhà kinh tế học Thomas Piketty, đại dịch đi qua sẽ là lúc phải tìm ra những tiêu chí mới cho nền quản trị kinh tế toàn cầu. Sự phụ thuộc vào nguồn – nơi sản xuất, chuỗi vận chuyển hàng hóa, phương thức tiêu thụ buộc chúng ta phải nghĩ đến việc tái công nghiệp hóa, giải toàn cầu hóa (deglobalization) và tái lãnh thổ hóa dây chuyền sản xuất. Tiêu dùng và thói quen tiêu dùng cũng phải thay đổi, chí ít như mua và tiêu thụ sản phẩm địa phương, tại chỗ, hạn chế tiêu thụ đại trà. Sản xuất và tiêu dùng phải được đặt trong mối tương quan với môi trường và sinh thái. Công nghệ và truyền thông cũng sẽ thay đổi diện mạo và bước vào kỷ nguyên mới của riêng mình sau đại dịch Covid-19. Làm việc từ xa chắc chắn không còn là thể nghiệm mà trở nên đại trà và tạo nên thói quen làm việc mới. Giáo dục trực tuyến cũng sẽ được dân chủ hóa.

Nhiều năm trở lại đây, các nước dân chủ phương Tây phải đối mặt liên tục với khủng bố, xử lý khủng hoảng và tình thế cấp bách nên các chính phủ thiết chặt các quyền công dân và tăng quyền kiểm soát của công quyền. Giới trí thức và luật pháp nhìn thấy rõ những mối nguy về nhân quyền và dân chủ trong các biện pháp này vì nhà nước có thể viện cớ “chống khủng bố” hay “giải quyết khủng hoảng” để nhắm vào mục đích khác. Trong trận đại dịch này, nhiều phân tích của các nhà khoa học xã hội càng cho thấy nguy cơ đó rõ ràng hơn bao giờ hết. Như Harari đã chỉ ra, đây có thể là “thời cơ” ra đời rất nhiều giải pháp kiểm soát người dân nhân danh kiểm soát dịch bệnh, là cái cớ để các chính quyền tăng cường giám sát người dân. Do đó, để cứu lấy cái sinh thể xã hội thì quyền tranh luận, phản biện và tố giác của mọi công dân phải luôn được duy trì.

Các chính phủ, trong đại họa virus này, đều đang thấm thía một điều: phải đầu tư tài chính và cơ sở vật chất cho nền y tế công và nghiên cứu khoa học cơ bản. Nhưng nghiên cứu, không có nghĩa là chỉ hiểu được độc lực mạnh yếu của con virus mà còn phải hiểu được chính cái sinh thể xã hội này và hành vi con người, phải có cái nhìn toàn diện về xã hội. Đây không thể bị coi là hai ngành dịch vụ hay ngành sản xuất buộc phải đem lại kết quả tức thì và vì lợi ích trước mắt. Nếu không, nhân loại sẽ phải đối mặt với đại họa mới mang tính toàn cầu mà nhiều nhà khoa học đã dự báo trước: thảm họa khí hậu, hạn hán, cháy rừng, ngập lụt, hung bạo cũng không kém gì một con virus.

Nếu thiếu nghiên cứu để rút ra các bài học quản lý, loài người sẽ “lỡ hẹn” tiếp với Lịch sử! □

Paris, tháng 3/2020
--------

 

Nguyễn Thụy Phương

Phó giám đốc Mạng lưới Giáo dục - AVSE – Global

Nguồn: Tia sáng, ngày 04.04.2020.

              (Nhân trả lời Đài truyền hình Quốc hội Việt Nam  - quochoith.vn)

ĐOÀN TRỌNG HUY (*)

Nhân dịp kỷ niệm 129 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa qua (19/5/2019) , tôi đã trả lời     phỏng vấn của Dài Truyền hình Quốc hội và đã được   phát trên các kênh quochoith.vnbaomoi.com .Nay xin được nói lại và nói rõ thêm đôi điều.

1. TỪ CẢM NHẬN KÍNH YÊU LÃNH THỤ VĨ ĐẠI

Tôi sinh ngày 12 tháng 10 năm 1934 tại Hà Nội. Khi Cách mạng tháng 8/1945 bùng nổ tôi mới chưa đầy 11 tuổi. Vậy là sinh ra đã gặp thời: Một thời đại mới cách mạng. Còn nhỏ tuổi chưa đủ tiêm nhiễm nhieu  cái xấu của xã hội cũ lại may mắn đón nhận và tiếp thụ ngay tràn ngập những mới mẻ, tốt đẹp của cuộc đời mới cách mạng.

May mắn cũng là hạnh phúc kỳ diệu trong đời là cậu bé học sinh đã chứng kiến, hơn thế, tham dự những sự kiện lịch sử của Thủ đô vào những năm tháng ấy.

Đó là những ngày cùng cha anh đi dự mít tinh Tổng khởi nghĩa ngày 19/08/1945 và dự lễ Tuyên ngôn độc lập ngày 02/09/1945. Lần đầu tiên trong cuộc đời non nớt, cậu nhỏ đã biết ngóng trông từ xa, nghe vọng từ xa hình ảnh và tiếng nói vị anh hùng cứu quốc của dân tộc. Và cũng chỉ biết hô  vang như hét lên: “Ủng hộ Việt Minh”, “Việt nam độc lập muôn năm”, “Hồ Chí Minh muôn năm” cũng như hát vang bài Lãnh tụ ca buổi bình minh cách mạng: “Đuốc gươm thiêng vung cho nước nhà / Khiến dân Việt Nam thoát ách xưa / Hồ Chí Minh anh hùng bao năm luôn tranh đấu / Thắng gian nguy, ghi công đầu... Hồ Chí Minh muôn năm / Làm cho nước Việt Nam quang vinh” .

Khi lớn lên đi dạy học tôi được gặp Bác hai lần. Một lần ở Trại hè Giáo dục tại trường Chu Văn An, Hà Nội. Bác đến thăm bất chợt, nói chuyện ngắn và ra về trong niềm vui bàng hoàng của mọi người. Một lần khác, tại Hội nghị Giáo dục toàn quốc tại trường Nguyễn Trãi, phố Cửa Bắc. Bác thăm hổi các thầy cô giáo và căn dặn nhiều điều. Đó là hai lần được gặp Bác khi đã được làm người thầy giáo trẻ tuổi mới đi dạy tại trường Sư phạm sơ cấp khu Tây Bắc.

Về Hà Nội học và sau đó công tác giảng dạy tại Đại học Sư phạm, tôi lại may mắn một lần nữa được gặp Bác khi đến thăm và nói chuyện tại trường.

Thật là một diễm phúc trong đời vì tôi được gặp và nghe Người căn dặn những điều tâm huyết nhất, tuy giản dị và vắn tắt về công tác và nhiệm vụ cũng như đạo đức làm thầy. Những ngày mới bước vào nghề trên bục giảng đại học lại được tâm niệm nhớ đời lời Bác dạy: “Nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang”.

Từ đó tôi và thầy trò cả trường lại được phấn đấu để thực hiện cho được mục tiêu: “ Trường sư phạm phải là trường mô phạm”..

Khi  giảng dạy phần Văn học Việt Nam hiện đại tôi đã ra sức học hỏi về cuộc đời và sự nghiệp văn thơ Hồ Chí Minh để lên lớp truyền đạt cho thế hệ trẻ về chân dung tính cách và chân dung nghệ thuật của một con người vĩ đại.

Sự thấu hiểu và kính yêu vô hạn con người và thơ văn của Người là ngọn lửa nồng đượm trong truyền đạt tri thức và tình cảm cho lớp lớp sinh viên Ngữ Văn trong suốt thời gian hơn 40 năm.

2… ĐẾN Ý THỨC, CẢM HỨNG VIẾT VỀ NGƯỜI

Trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu ở đại học tôi đã được dự nhiều dịp kỷ niệm và hội thảo quốc gia và quốc tế về cuộc đời và văn thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Sự hiểu biết qua học tập, trải nghiệm cùng với tình cảm, lòng kính yêu, ngưỡng mộ và biết ơn vô hạn tự nhiên thúc đẩy tôi phải cầm bút viết về Người, viết thêm với cảm hứng văn chương ngoài những trang viết giáo trình.

Thực ra thời học Sư phạm Trung cấp (1951) tôi có làm thơ về Bác dự thi và đã được giải thưởng trong dịp sáng tác 19/05 tại Khu học xá Trung ương. Học ở Đại học Sư phạm Hà Nội, khoảng 1960, tôi cũng có sáng tác một bản trường ca  Hồ Chí Minh có dáng dấp Trường Ca Lênin của Maiacovxki. Sau đó tôi mạnh dạn gửi tặng nhà thơ Tố Hữu trong buổi đầu tiếp xúc với tư cách cán bộ giảng dạy trẻ của trường Đại học Sư phạm. Nghĩ lại, thấy việc tặng thơ khác nào “múa rìu qua mắt thợ” nhưng đó là một tình cảm hồn nhiên, vô tư.

Tôi không có khiếu sáng tác mà thấy có hứng thú và thiên hướng nghiên cứu, phê bình.

Vì vậy, viết về Hồ Chí Minh là một thách thức rất lớn với tmọi người cầm bút.

Rất nhiều tài liệu, sách báo xưa nay ở trong nước và nước ngoài đã viết về tác gia lớn Hồ Chí Minh.

Viết vấn đề gì và viết như thế nào được đặt ra trước tiên. Sau đó là sự thể hiện qua trang viết.

Hiểu biết là vô cùng nhưng tôi tự thấy đã tạm đủ. Tình cảm, ý thức thì tự tin là tràn đầy.

Đầu tiên là định hướng viết.

Hướng sáng tác . về văn xuôi, đã có đại biểu xuất sắc đáng khâm phục là nhà văn Sơn Tùng, từng nổi tiếng vớt tiểu thuyết Búp sen xanhBông sen vàng cùng nhiều sang tác khác.Ông cũng từng được mệnh danh là một “ Nhà Hồ Chí Minh học” trên cơ sở  các sản phẩm viết về Người. Hướng nghiên cứu, có  đại diên ưu tú rất đáng ngưỡng mộ là Giáo sư Hà Minh Đức đã có một số  công trình nghiên cứu tổng hợp  có giá trị về văn thơ Chủ tịch Hồ Chí Minh  được đánh giá cao qua các giải thưởng.

Tôi chọn một hướng khác.Đó là kết hợp nghiên cứu và sáng tác

Chính vì vậy , công trỉnh có cả nghiên cứu , phê bình tiểu luận  và xen kẽ tự nhiên sinh động với tản văn.Lý luận kết hợp với thực tiễn cuộc đời , sự nghiệp cách mạng và văn chương của Người.Có chuyện chính trị, xã hội và cả chuyện đời sống, chính sự và thế sự.Mục tiêu của công trình là làm nổi bật chân dung nghệ thuật cùng với chân dung tính cách của Người.Lý luận  vỉ vậy sẽ bớt tính hàn lâm kinh viện mà tang thêm được tính thực tiễn sinh đông .Chẳng hạn  đồng thời với đề xuất quan điểm văn hoá là những ứng xử văn hoá thực tiễn của Người.

Một vấn đề hệ trong hàng đầu là quan điểm viết.

Không thể nào khác là ngưới viết phải thể hiên minh bạch lập trương quan điểm chính trị, xã hội.

         Khi tôi cầm bút viết thì đã có một thực trạng là đang có sự xung đột của những luồng ý thức tư tưởng. Văn thơ, tiểu luận viết về Người trên luồng chính thống vẫn là tiếng nói nghiêm túc, thiết tha, hào sảng, tạo được sự đồng thuận. Nhưng lại có một bộ phận , dù hết sức nhỏ bé, lạc long  lại muốn “giải thiêng” nhân vật quyền uy bậc nhất. Đó thật sự là một sai lầm về nhận thức, quan niệm.

Một thời do ấu trĩ, có khuynh hướng sùng bái cá nhân, thần thánh hóa lãnh tụ cả trong chính trị và văn nghệ. Ngoài một số mắc sai lầm ở những mức độ khác nhau, có một số phản động, chủ yếu ở hải ngoại, đi vào hướng bôi nhọ, hạ bệ lãnh tụ.

Chống sùng bái, huyền thoại hóa, thần thánh hóa lãnh tụ là cần thiết nhưng không thể đi ngược là tầm thường hóa con người vĩ nhân. Khuynh hướng chính xác nhất, thuyết phục nhất vẫn là tôn vinh đúng mức đầy đủ, chính xác cái cao cả lớn lao phi thường, đồng thời những cái bình thường bình dị. Đúng ra là cái bình thường mà phi thường.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh là người chủ trương chống sùng bái cá nhân, thần thánh hóa con người với ý tưởng bất hủ: “Người ta không ai là thánh cả”. Tố Hữu từng kiến giải tư tưởng này của Bác: “Trời không có thiên thần / Đất không có thánh nhân / Chỉ có nhân dân – thần thánh”.

Vậy là phải viết về Bác với quan niệm đúng đắn ấy

 Khi miêu tả thể hiện Người qua cuộc đời và văn thơ đặc biệt phải nhấn mạnh phẩm chất nhân văn.

Hồ Chí Minh rất vĩ đại nhưng là con người rất người, có đủ tình cảm gia đình, hiếu thảo với cha mẹ, hiếu đễ với anh chị em, yêu mến bà con xóm giềng quê hương và thương cảm đồng bào, đồng chí.

Đặc biệt lòng nhân ái Hồ Chí Minh là bao la trời biển. Người mang cảm thức nhân loại sâu sắc khi bị giam hãm, tù đày thời hoạn nạn ở Trung Quốc (Nhật ký trong tù). Tóm lại phải thể hiện cái đại nhân, đại trí, đại dũng Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh có nhiều tư cách, nhiều vị thế xã hội. Người viết phải làm nổi bật điều đó : chính khách của thời đại, nhà tư tưởng lớn, nhà đạo đức cách mạng lớn. Đặc biệt Người còn là một nhà văn hóa, nhà giáo dục và nhà văn, nhà thơ lỗi lạc. Đó là cái nhìn ở nhiều góc độ, nhiều phương diện và những tầm ảnh hưởng lan tỏa khác nhau.

Tôi đã viết Hồ Chí Minh – Niềm thơ cao cả, in 1000 cuốn ( Thanh niên, 2015). Sau đó, sách đạt giải thưởng Tuyên giáo Trung ương, được Nhà nước đặt hàng in lần thứ 2,  3000 cuốn (Văn hóa Văn nghệ, 2018). Năm 2019, sách Hồ Chí Minh – Hồn cách mạng, hồn thơ được tiếp tục ra mắt vẫn do  Văn hóa Văn nghệ ấn hành.

Kết cấu nói chung là thống nhất tuy qui mô có khác nhau:

- Thân thế sự nghiệp Hồ Chí Minh.

- Văn thơ Hồ Chí Minh.

- Cảm nhận văn thơ Hồ Chí Minh.

Ba phần liên quan hữu cơ, soi chiếu cho nhau.

1/ Con người như lịch sử cuộc đời vẻ vang tỏa sáng.

2/ Con người được thể hiện một cách hồn nhiên qua văn thơ như bức tự họa sinh động.

3/ Con người được cảm nhận qua văn thơ như sự đồng cảm chia sẻ của người đọc.

Phần 1 như đã nói, là lịch sử chân thật về cuộc đời và sự nghiệp được xem xét ở nhiều vị thế.

Phần 2, con người nhân cách lớn qua sự bộc lộ hồn nhiên của chủ thể sáng tạo.

Phần 3, sự cảm thụ nhận thức sâu sắc thể hiện thành công nhất của các tác giả tiêu biểu.

Tôi chọn thêm  một hướng viết phái sinh từ ảnh hưởng lớn lao lan toả của Người.Đây cũng  là một cách viết khác về Người.

Hồ Chí Minh là một nhân vật đặc biệt hiếm có trên thế giới.Người vừa là lãnh tụ vĩ đại, chính khách tầm thế giới , vừa là một nhà văn hoá lỗi lạc của  thế giới .Như một nhan đề tác phẩm  ở nước ngoài, Hồ Chí Minh tên Người là cả một niềm thơ với nhân loại tiến bộ và văn nghệ dân tộc , có sức lan toả vô cùng mạnh mẽ.

Riêng trong nước, các nhà khoa học,văn nghệ sĩ  đã hoạt đông khoa học, văn nghệ theo ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Giải thưởng danh giá cao quý nhất  là mục tiêu phấn đấu của những trí tuệ và tâm hồn  tràn đầy khát vọng sáng tạo. Trong quá trình ấy nhiều người đã đạt Giải thưởng Hồ Chí Minh về  Khoa học Công nghệ và Văn học Nghệ thuật từ đợt 1 đến nay.

Tôi đã lựa chọn và giới thiệu 10 nhà văn được Giải thưởng Hồ Chí Minh từ đợt đầu qua công trình Tinh hoa văn thơ thế kỷ XX, Tập 1,Tập 2 (Nhà xuất bản  Giáo dục, 2006). Theo hướng này hiện đã đủ bản thảo cho 3 tập tiếp theo.cho các nhà văn được tặng thưởng  ở đợt gần đây nhất, 2017 (nâng tổng số lên 28 người ).

3. NHÌN LẠI VÀ TRÔNG TỚI

Vậy là, sơ kết cho tới nay, nếu kể từ 1951, từ nghiêm túc học tập, nghiên cứu và bước đầu cảm hứng cầm bút viết những vần thơ đầu tiên về Bác đến các công trình nhều công phu  cho đến nay, với nhữngtrang  giáo trình,  sách phê bình tiểu luận có qui mô đã có tới 60 năm.

Đã “60 năm cuộc đời(lời bài ca). Và, tất nhiên còn sẽ tiếp theo nhưng năm tháng tới.

Trong vòng  mươi năm qua hầu như tôi viết đều và nhiều về đề tài liên quan văn thơ Hồ Chí Minh  trên các phương tiện báo chí  truyền thông . Không kể các trang báo mạng,  có tới 34 bài/lượt được đăng báo  Trung bình 3,4 bài/năm. Có năm tới 7 bài (2015). Năm nay,vào dịp Tết Kỷ Hợi, tôi có bài trả lời phỏng vấn được phát vào đúng phút giao thừa thiêng liêng về  kỷ niệm 50 năm bài thơ  Chúc Tết  1969 của Bác Hồ: Đọc lại bài thơ Chúc Tết 1969 của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tôi cũng đã có bài gửi tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam  để kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc  của Người: Nhớ lời Di chúc theo chân Bác có thể sẽ công bố vào thời gian tới.Vậy là đã tự thắp sáng cho mình ngọn lửa đam mê viết về Chủ tịch  Hồ Chí Minh

Những bài viết , cuốn sách đã kể trên  đã được đánh giá cao trên công luận , đặc biệt của các nhà khoa học có học hàm, học vị  qua Tạp chí Khoa học các trường Đại học trong cả  nước  và các báo chí ( Văn nghệ quân đội, Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh…). Có cuốn đã được giải thưởng  như đã nêu. Điều đó là minh chứng cho kết quả của công sức và tâm huyết viết về Người , có ý nghĩa động viên rất lớn đối với tôi.

Viết về Người là một thách thức lớn, cũng  là một ý thức thôi thúc thường xuyên suốt đời. Lại  cũng là ham muốn và say mê vô hạn của tôi với những ý tưởng sáng tạo. Công việc sẽ được tiếp tục với ý thức và tình cảm công dân  và trách nhiệm của một nhà khoa học  nghiên cứu, phê bình văn học, từ trách nhiệm và trải nghiệm của người cầm bút.

Có thể tôi vẫn viết phê bình, tiểu luận hoặc cả sáng tác nữa (tùy bút, tản văn...) với những tìm tòi , sáng tạo mới

Rất mong được sự sẻ chia và góp ý chỉ bảo của bạn đọc rộng rãi.

CHÚ THÍCH

(*)PGS.TS Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.   

Thông tin truy cập

61016773
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
3448
11598
61016773

Thành viên trực tuyến

Đang có 160 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website