Không chỉ là sự thay đổi phong cách phát triển từ nghệ thuật Siêu thực thập niên 40 - 50 của thế kỷ XX, các tác phẩm của Dali dường như còn dự báo về một cuộc cách mạng mới trong hội họa: Nghệ thuật song hành với khoa học. Tác phẩm Crucifixion vẽ năm 1954 nổi tiếng nhất cho những nghiên cứu khởi đầu của Dali giai đoạn này.

Crucifixion, sơn dầu của Dali, kích thước 194,3 x 123,8cm, đang lưu giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York, Mỹ

Đóng đinh trên thập giá là một chủ đề tôn giáo phổ biến trong nghệ thuật phương Tây nhiều thế kỷ. Chỉ từ cuối thế kỷ XIX khi vai trò của nhà thờ bắt đầu suy giảm, những tác phẩm tranh tôn giáo như thế ít được đặt hàng hơn. Dẫu vậy, đề tài này vẫn trở đi trở lại trong các sáng tác hiện đại và đương đại nhưng với lý tưởng hoàn toàn khác. Ở bức tranh này của Dali cũng vậy. Một không gian hiện đại được mở ra, Chúa Jesus bị đóng đinh trên thập giá dường như lơ lửng giữa không trung. Phía xa là vịnh cảng Lligat ở Catalonia, Tây Ban Nha. Nền gạch của những ô bàn cờ đen trắng phía dưới chân và Đức bà Magdalene đang đứng cầu nguyện.

Dường như không có gì đặc biệt khi người ta đã quá quen với tư duy Siêu thực của Dali trong việc tạo dựng các hình ảnh đầy chất hư cấu trong một không gian dẫu thấu thị mà vẫn hết sức hư cấu. Tuy nhiên, so với phần lớn những tác phẩm sáng tác trước đó thì bức tranh này đã trở thành biểu tượng khởi đầu cho lý thuyết “hạt nhân thần bí” do Dali khởi xướng năm 1951. Ông tuyên bố, nghệ thuật hiện đại phải là sự kết hợp của những lý tưởng Công giáo, toán học và khoa học. Do đó Crucifixion (Đóng đinh câu rút) đã hướng tới chủ nghĩa cổ điển rất rõ ràng. Hình tượng Jesus đã được vẽ ra như một mẫu mực về hình họa, tỷ lệ, hướng nhìn cũng như ánh sáng một chiều. Quan sát kỹ hơn, người ta còn có thể thấy cả những mạch máu, gân tay cũng như đầu gối, bắp chân đầy chuẩn mực như bậc thầy Phục hưng Michelange cách đấy 4 thế kỷ từng đạt đến. Chỉ có điểm khác biệt duy nhất, đồng thời cũng là điểm mấu chốt của tác phẩm này so với phần lớn các tác phẩm cùng chủ đề đóng đinh trên thập giá thông thường, là khối lập phương đa diện. Cũng có thể xem khối chữ thập đó giống như một Tesseract trong toán học hình học, biến đổi và chuyển động qua các diện. Ở đây chính sự nhân lên của các khối vuông mà kiến tạo nên nền cảnh cho chữ thập. Có lẽ vậy mà cái tên ban đầu của bức tranh là Corpus Hypercubus (Thể chuyển động khối).

Có quá nhiều ngữ nghĩa được thể hiện trong hình tượng mà thoạt nhìn người ta chỉ thấy tinh thần tôn giáo hiện đại. Dali cho rằng việc ông sử dụng khối lập thể như vậy là sự đồng nhất hóa giữa bản chất siêu việt của Thiên Chúa và khoa học. Và không gian không điểm tựa của hình tượng giữa bao la trời đất càng như tôn vinh tinh thần cao cả của người. Dường như không hề tĩnh lặng, khối hình chữ thập đã để lại dấu ấn riêng trên những ô bàn cờ bên dưới, khiến cho người xem mường tượng như có sự vút lên với kỹ xảo tạo ra đường chân trời thấp ở phía quá xa.

Khuôn mặt Jesus dường như ngoảnh đi hoàn toàn. Mũ gai của người cũng không được mô tả. Những vết máu thường thấy trên ngực, chân và tay cũng bị giản lược để tạo nên vẻ đẹp có phần lạnh lùng. Nó được liên tưởng tới tâm trạng hậu chiến ở một thái cực khác. Đó là sự cô độc đến rợn ngợp mà hình tượng Magdalene nhỏ bé đứng dưới chân đức chúa Trời là một thị hiện về sự lạc lõng đó. Magdalene được lấy nguyên mẫu từ vợ ông là Gala - cũng là một biểu tượng siêu thực được ông tạo dựng trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, đến tác phẩm này, hình ảnh đó vẫn tồn tại nhưng lại mang nhiều ngữ nghĩa hơn về sự đoạn tuyệt với Siêu thực. Ông muốn thiết lập nên xu hướng hoàn toàn mới mà ông cho rằng đó là con đường tất yếu của nghệ thuật. Hạt nhân, nguyên tử sẽ làm “nổ tung” nghệ thuật để bắt nó đi theo con đường khác của khoa học. Và quả vậy, nghệ thuật sau Dali, các nghệ sĩ đã tiến những bước rất dài trong việc đưa khoa học vào nghệ thuật.

Trang Thanh Hiền

Nguồn: Báo Đại biểu nhân dân, ngày 14.12.2015.

PGS.TS.Nohira Munehiro

Cái hại của học thuật tay ngang

(Lời phi lộ cho bài “Một giả thiết khác về hành trình đi sứ của Nguyễn Du năm 1813 - 1814” của TS.Nohira Munehiro)

Gần đây có loạt bài viết của tác giả tên là Phạm Trọng Chánh về việc Nguyễn Du từng đi Trung Quốc trước chuyến đi sứ 1813-1814. Ông ấy cho rằng Nguyễn Du đã "vân du" đến nhiều nơi khác ngoài con đường đi sứ ra. Ông nói khơi khơi vậy, cứ làm như ngày xưa muốn đi thì đi dễ dàng. Cụ Nguyễn không thèm biết tiếng Hoa, đường đi Trung Quốc xa xôi dặm thẳm, tiền không có, mà chẳng có "công ty du lịch" nào biết đến cụ để đưa cụ đi chơi miễn phí, thế thì cụ đi làm sao? Câu chuyện hoang đường ấy của Phạm Trọng Chánh thế mà được khối người tin, nhất là nghiên cứu sinh, học viên cao học. Có cả tờ báo giấy, báo mạng đăng nữa, làm cái hại càng thêm hại. Tìm thông tin tác giả Phạm Trọng Chánh trên mạng, tôi thấy ông ấy chẳng liên quan gì đến nghề nghiên cứu văn sử, ông làm nghề khác, có lẽ giờ về hưu đâm rảnh rỗi, nghiên cứu tay ngang. Văn bản Bắc hành tạp lục ông không tìm hiểu kỹ, hàng mấy chục luận văn, luận án, bài nghiên cứu của học giới Trung Quốc về con đường đi sứ của sứ bộ Việt Nam ông không tham khảo. Chữ Nôm chữ Hán ông không rành, không biết ông có tự học không và tự học tới cỡ nào mà nói toàn chuyện động trời. Tôi đang lo các nhà xuất bản thích sách giật gân sẽ in sách của ông thì cái hại còn nhân lên ghê gớm và cơ hồ không xoá được nữa (tương tự như câu chuyện hão về Quang Trung mặt choắt 80 tuổi đích thân vào chầu Càn Long mà có ông nào đấy tung lên hôm trước, được một NXB bập vào, in hàng chục đầu sách).

Để chứng minh con đường đi sứ Trung Quốc của Nguyễn Du không giống như cố học giả Đào Duy Anh nói, một nhà nghiên cứu người Nhật: PGS.TS. Nohira Munehiro, từng làm việc lâu năm ở Trung Quốc, đã phải tham bác bao sách địa chí, tra cứu bao bản đồ. Và kết quả nghiên cứu của anh thật bất ngờ: Nguyễn Du không hề đến mộ Nhạc Phi ở Hàng Châu, và con đường đi sứ của Nguyễn Du khá khác với con đường mà các học giả Việt Nam hình dung.

Xin trân trọng giới thiệu bài viết của anh ở đây, cũng là nhắc nhở các nhà nghiên cứu tay ngang, các nhà báo, nhà xuất bản tay ngang thích giật gân, in tạp!

 

(Facebook Đoàn Lê Giang)

1. Nguyễn Du có tạt xuống Lâm An hay không?

Khi nghĩ về cuộc hành trình của sứ bộ Nguyễn Du vào năm 1813-1814 và sắp xếp lại các bài thơtrongBắc hành tạp lụctheo hành trình đi sứ, theo chúng tôi, vấn đề lớn nhất là: Nguyễn Du có tạt xuống Lâm An (Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang hiện nay) hay không, bởi việc Nguyễn Du có ghé qua Lâm An hay không sẽ ảnh hưởng đến sự suy đoán các địa điểm Nguyễn Du làm thơ.Khi soạn lại tập thơ ấy, Đào Duy Anh và Mai Quốc Liên đềuđoán rằng Nguyễn Du đến Lâm An. Nhưng ở đây, chúng tôi đặt vấn đề: sự suy đoán ấy có đúng không?

Trong bài “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc” đăng trên Tạp chí Văn học số 11, năm 1964, Nguyễn Văn Hoàn giới thiệu nội dung tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du gửi vua nhà Nguyễn tâu trình về công việc của sứ bộ. Xem nội dung ấy, chúng ta xác nhận được rằng khi về nước, Nguyễn Du đi qua các tỉnh Sơn Đông, An Huy, Hồ Bắc và Quảng Tây, chứ không nói là ghé qua Lâm An[1]. Trong khi đó, Nguyễn Văn Hoàn lại nói rằng “một số bài thơ chứng tỏ rằng Nguyễn Du có đến Hàng-châu”. Một trong “một số bài thơ” ấy chắc là bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” tức là Mộ Nhạc Vũ Mục, Mộ Nhạc Phi.

Bây giờ chúng ta hãy xem bản chép tay Bắc hành tạp lục, ký hiệu A.1494 bảo tồn ở Viện nghiên cứu Hán Nôm. Trong phần “Lời giới thiệu” của sách Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Trương Chính khẳng định rằng cách sắp xếp các bài trong bản chép tay này đã ổn[2]. Chúng tôi cũng đồng ý với nhận xét này, nhưng theo chúng tôi, nói chính xác hơn thì các bài thơ trên đường đi Bắc Kinh khá ổn, song các bài thơ làm khi về nước thì bị mất trật tự sắp xếp. Theo đó, xem thử bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” nằm ở đâu, nằm giữa những bài nào trong bản chép tay A.1494 thì có thể trình bày như bảng dưới đây:

 
Số thứ tự các bài theo bản chép tay A.1494

北行雑録
BẮC HÀNH TẠP LỤC

bản chép tay A.1494

Nơi viết (suy đoán)

62 比干墓
TỈ CAN MỘ
河南, 衛輝府 
phủ Vệ Huy, Hà Nam
63 阻兵行
TRỞ BINH HÀNH
河南 
Hà Nam
64 嵇侍中祠
KÊ THỊ TRUNG TỪ
河南, 湯隂縣
huyện Thang Âm, Hà Nam
65 岳武穆塋
NHẠC VŨ MỤC HUỲNH
 
66 秦檜像
TẦN CỐI TƯỢNG
 
67 王氏像
VƯƠNG THỊ TƯỢNG
 
68 銅雀臺
ĐỒNG TƯỚC ĐÀI
河北, 鄴
Nghiệp, Hà Bắc
69 七十二疑冢
THẤT THẬP NHỊ NGHI TRỦNG
河北,  鄴錦城
thành Nghiệp Cẩm, Hà Bắc

Dựa vào thứ tự các bài trong bản chép tay này, chúng ta xác nhận được rằng bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” (và các bài “Tần Cối tượng”, “Vương thị tượng”) nằm giữa những bài viết ở miền bắc Hà Nam và những bài viết ở miền nam Hà Bắc, trên đường đi Bắc Kinh, chứ không phải trên đường về như Đào Duy Anh đã suy đoán. Nếu theo dõi cuộc hành trình đi sứ của Nguyễn Du thì chúng tôi có thể đoán rằng mộ của Nhạc Phi ở Hà Nam hoặc Hà Bắc, và Nguyễn Du ghé qua mộ ấy trên đường đi Bắc Kinh.

Sách Minh nhất thống chí, địa chí Trung Quốc, xác nhậnrằng ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam, tức là nơi sinh của Nhạc Phi, có ngôi miếu của Nhạc Phi: 「岳飛廟 在湯隂縣治西南飛宋將本朝建賜額精忠勅有司春秋致祭」(『明一統志』巻二十八)[3].Nơi đấy cũng gần ngôi miếu của Kê Thị Trung(「嵇紹廟 在湯隂縣西南」(『明一統志』巻二十八)、「嵇紹墓 在湯隂縣境内」), gần chỗ mà Nguyễn Du viết bài thơ “Kê Thị Trung từ”đặt trước bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”trong bản chép taynày.

Tôi chưa bao giờ đếnđó,nhưng trên mạng Internet có những trang giới thiệu miếu Nhạc Phi ở Thang Âm, tỉnh Hà Nam và cũng xác nhận rằngở miếu đó có tượng Tần Cối và tượng Vương thị[4]. Có điều, chỗ ấy là ngôi miếu chứ không phải là ngôi mộ. Nhưng điều quan trọng là Nguyễn Du coi ngôi miếu ấy là ngôi mộ của Nhạc Phi. Việc miếu ấy có phải là mộ thật sự của Nhạc Phi hay không, ở đây không quan trọng.

Hơn nữa, khi xem kĩ nội dung bài thơ, chúng tôi có thể khẳng định rằng chính lúc ở cách xa Lâm An, Nguyễn Du mới viết được bài này. Ở cuối bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” có câu: “悵望臨安舊陵廟” (Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu - Buồn trông về lăng miếu cũ ở Lâm An). Ở đây, chúng ta hãy chú ý đến 2 chữ “trướng vọng 悵望”. Ở phần chú thích bài ấy, Lê Thước và Trương Chính viết rằng: “Có người dựa vào câu bảy: ‘Trướng vọng Lâm An cựu lăng miếu’ mà nói Nguyễn Du không đi đến Lâm An. Đứng xa nhìn nên mới nói ‘vọng’”[5]. Chúng tôi cũng hoàn toàn đồng ý với chú thích này. Ở ngay Lâm An thì không thể nói “trướng vọng Lâm An” được, không tự nhiên. Chữ Hán “vọng” có nghĩa: từ xa mà nhìn, nên có lẽ phải ở cách xa Lâm An, theo bài thơ này thì là ở Hà Nam, tác giả mới nói là “trướng vọng Lâm An” được.

Như vậy, chúng tôi tạm kết luận rằng Nguyễn Du viết bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh” ở Hà Nam chứ không ở Lâm An. Cũng có thể suy đoán rằng hai bài thơ “Tần Cối tượng” và “Vương thị tượng” được Nguyễn Du viết tại miếu Nhạc Phi ở Hà Nam.

2. Xem xét lại một số địa điểm Nguyễn Du làm thơ trên đường về

Nếu giả thuyết nói trên của chúng tôi đúng thì các nơi Đào Duy Anh và Mai Quốc Liên đã suy đoán cũng phải xem xét lại, bởi vì ngoài bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”, hai giáo sư còn cho rằng một số bài thơ khác được Nguyễn Du viết ở Lâm An, hoặc những nơi gần Lâm An, nhưng theo giả thuyết của chúng tôi thì Nguyễn Du không đến Lâm An. Vì hạn chế nên chúng tôi chỉ xem xét lại địa điểm viết các bài: “Chu Lang mộ”, “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài” và “Tổ Sơn đạo trung”.

2.1. Mộ Chu Lang

Đào Duy Anh nghĩ rằng mộ Chu Lang ở Nam Kinh[6]. Nhưng xem sách địa chí Trung Quốc thì có 2 địa điểm mộ Chu Lang ở tỉnh An Huy:

1) Tại huyện Lư Giang, phủ Lư Châu (tỉnh An Huy):「周瑜墓 在廬江縣東一十里安豐郷瑜三國時呉將又見安慶府」(『明一統志』巻十四). 

2) Tại huyện Túc Tòng, phủ An Khánh (tỉnh An Huy):「周瑜墓 在宿松縣北三十五里」(『明一統志』巻十四). 

2.2. Núi [Ngũ] Tổ Sơn

Đào Duy Anh cho rằng Tổ Sơn ở tỉnh Chiết Giang[7]. Nhưng khi xem kỹ bản chép tay A.1494, chúng tôi nhận thấy bản chép tay ghi tên bài thơ là “Ngũ Tổ Sơn đạo trung” chứ không phải là “Tổ Sơn đạo trung”. Núi Tổ Sơn nằm ở phía bắc Hàng Châu như Đào Duy Anh viết, nhưng núi Ngũ Tổ Sơn lại nằm ở nơi khác, đó là huyện Hoàng Mai, tỉnh Hồ Bắc: 「五祖山 在黄梅縣東北三十里」(『明一統志』巻六十一).

2.3. Thạch đài của Chiêu Minh Thái tử

Đào Duy Anh suy đoán thạch đài nằm ở hoặc giữa Nam Kinh và Hàng Châu. Nhưng theo sách địa chí Trung Quốc thì ngoài Lâm An, ở huyện Túc Tòng, tỉnh An Huy cũng có một địa điểm được tương truyền là thạch đài:

「分經臺在宿松縣北五十里有石高百餘丈梁昭明太子金剛經於此宋嘉泰間建法華亭」(『江南通志』巻三十四). 「法華寺〔宿松〕縣五十里北全舉禪師道塲有昭明太子分經臺」(『江南通志』巻四十七)「分經臺在宿松縣北五十里有石臺相傳梁昭明太子嘗於此金剛經為三十二分」(『大清一統志』巻七十六).

Có thể tóm tắt các địa điểm Nguyễn Du đến để làm 3 bài thơ trên như sau: Sau khi qua tỉnh Sơn Đông, chắc Nguyễn Du chỉ đi qua miền Bắc tỉnh Giang Tô như Từ Châu thôi, sau đó đi vào tỉnh An Huy như tờ bẩm và viết 2 bài “Chu Lang mộ và “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”, sau đó đi vào tỉnh Hồ Bắc, viết bài “Ngũ Tổ Sơn đạo trung”, chứ không đi xuống Nam Kinh, tỉnh Giang Tô, hay Lâm An, tỉnh Chiết Giang.

3. Xem xét lại một số địa điểm khác

Ngoài 3 địa điểm vừa bàn ra, cũng có một số địa điểm hình như chưa chính xác, nên chúng tôi muốn xem xét lại ở đây.

3.1. “Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ” (nơi Vinh Khải Kỳ mót lúa)

Lê Thước, Trương Chính và Mai Quốc Liên cho rằng núi Đông Sơn được nhắc đến trong bài “Vinh Khải Kỳ thập tuệ xứ” nằm ở Chiết Giang[8]. Tuy nhiên, chúng tôi đoán núi Đông Sơn được nói tới trong bài thơ này là núi Thái Sơn hoặc núi Đông Mộng Sơn ở tỉnh Sơn Đông, vì câu chuyện giữa Khổng Tử và Vinh Khải Kỳ diễn ra ở tỉnh Sơn Đông nên như vậy sẽ hợp lý hơn.

3.2. “Tây Hà dịch” (Trạm Tây Hà)

Ngoài ra, chúng tôi cũng muốn xem xét lại trạm Tây Hà ở đâu, bởi vì trong 2 bài thơ “Tây Hà dịch” và “Sở kiến hành”, Nguyễn Du có nhắc đến địa điểm Tây Hà, nhưng việc nó nằm ở đâu vẫn chưa được làm sáng tỏ.

Đào Duy Anh viết rằng “Tây Hà: không rõ trạm ở chỗ nào. Có lẽ là trên đường An Huy đi Hồ Bắc”[9]. Lê Thước, Trương Chính và Mai Quốc Liên nghĩ “Tây Hà ở tỉnh Sơn Tây[10]”, tuy nhiên, nếu đối chiếu với cuộc hành trình của Nguyễn Du thì thấy nơi ấy không hợp lý. Sách địa lý Trung Quốc cho biết trạm Tây Hà nằm ở Kỳ Châu (蘄州):

「西河驛 在蘄州北五十里」(『大清一統志』巻二百六十四)

Chỗ ấy cũng gần Quảng Tế mà Nguyễn Du đã nói đến trong bài thơ “Quảng Tế ký thắng”. Cho nên, chúng tôi đồng ý với Đào Duy Anh và có thể đoán rằng trạm Tây Hà nằm ở Kỳ Châu, miền Nam Hồ Bắc.

4. Tạm kết

Chúng tôi đã xem xét lại một số địa điểm mà Nguyễn Du làm thơ trên đường đi sứ về. Dĩ nhiên, điều quan trọng nhất là nội dung các bài thơ mà Nguyễn Du để lại cho thế hệ sau. Ví dụ, đọc bài “Lương Chiêu Minh Thái tử phân kinh thạch đài”, bản thân tôi rất xúc động và kinh ngạc trước tư tưởng sâu sắc của Nguyễn Du. Nhưng trước khi tìm hiểu nội dung, chúng ta cũng cần nghiên cứu thêm về phần cơ sở một cách khách quan, một cách khoa học một lần nữa, cần phải đối chiếu lại với sách địa chí Trung Quốc một lần nữa, ít nhất cá nhân tôi nghĩ như vậy. Bởi vì việc suy đoán Nguyễn Du làm thơ ở đâu sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến cách giải thích thơ như chúng tôi đã bàn về bài “Nhạc Vũ Mục huỳnh”. Ngoài ra, giả thuyết của chúng tôi có lẽ sẽ đóng góp một phần nào đó để bác bỏ giả thuyết quá nhiều tưởng tượng[11].

Chúng tôi đã lập luận giả thuyết của mình căn cứ vào 2 tài liệu chính: (1) bản chép tay Bắc hành tạp lục A.1494, (2) tờ bẩm của sứ bộ Nguyễn Du được giới thiệu trong bài “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc” của Nguyễn Văn Hoàn. Chúng tôi phải thú thật rằng nếu 2 tài liệu này có vấn đề gì thì giả thuyết của chúng tôi cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Nếu có bằng chứng chứng minh một cách khách quan rằng Nguyễn Du đã đến Lâm An thì chúng tôi sẵn sàng từ bỏ giả thuyết của mình. Nhưng khi chưa có bằng chứng khách quan nào phản bác lại điều đó thì phải chăng vẫn có quyền bàn luận thêm về giả thuyết của chúng tôi?

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Văn Hoàn. “Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc”. Tạp chí Văn học, số 11. 1964.

2. Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. In lại theo bản 1965. Nxb Văn học và Công ty Sách Thời đại. Hà Nội. 2012.

3. Đào Duy Anh (sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. 1988.

4. Mai Quốc Liên (biên soạn). Nguyễn Du toàn tập, tập I. Nxb Văn học. 1996.

5. Viện nghiên cứu Văn Sử - Đại học Phúc Đán, Trung Quốc & Viện nghiên cứu Hán Nôm, Việt Nam (hợp biên). Việt Nam Hán văn Yên hành văn hiến tập thành, tập 10. Nxb Đại học Phúc Đán. Thượng Hải. 2010.

(中国・復旦大学文史研究院、越南・漢喃研究院(合編)『越南漢文燕行文献集成』(越南所蔵編)第十冊. 復旦大学出版社. 上海. 2010)

6.『文淵閣四庫全書』原文電子版、武漢大学.

(Nguồn: kỷ yếu Di sản văn chương đại thi hào Nguyễn Du 250 năm nhìn lại, Viện Văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015, tr.283 - 290) 


*PGS.TS., ĐH Ngoại ngữ Tokyo, Nhật Bản


[1]Tờ bẩm chép: “Ngày 22 lại nhận được công văn thay đổi đường đi, theo một dãy các tỉnh Trực-lệ, Sơn-đông, An-Huy, Hồ-bắc mà về Quảng Tây” (Nguyễn Văn Hoàn.“Giới thiệu một số tư liệu về Nguyễn Du mới sưu tầm được ở Trung Quốc”. Tạp chí Văn học, số 11. 1964. Tr.46).

[2]Lê Thước, Trương Chính (biên soạn). Thơ chữ Hán Nguyễn Du. In lại theo bản 1965. Nxb Văn học & Công ty Sách Thời đại. Hà Nội. 2012. Tr.15.

[3]Tôi tra cứu sách địa lý Trung Quốc và trích dẫn nguyên văn, có tham khảo bản điện tử Tứ khố toàn thư 電子版『四庫全書』.

[4]Ví dụ: http://www.keyunzhan.com/knews-99919.

[5]Lê Thước, Trương Chính. Sđd.Tr.308.

[6]Đào Duy Anh (sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích). Chú thích 107. Thơ chữ Hán Nguyễn Du. Nxb Văn học. Hà Nội. 1988. Tr.435.

[7]Đào Duy Anh. Chú thích 109. Sđd. Tr.437.

[8]Mai Quốc Liên (biên soạn). Chú thích 3. Nguyễn Du toàn tập (tập I). Nxb Văn học. Hà Nội. 1996. Tr.508.

Lê Thước, Trương Chính. Chú thích 4. Sđd. Tr.367.

[9]Đào Duy Anh. Chú thích 121. Sđd. Tr.440.

[10]Mai Quốc Liên. Chú thích 1. Sđd. Tr.564.

Lê Thước, Trương Chính. Chú thích. Sđd. Tr.381.

[11]Xem Phạm Trọng Chánh. Nguyễn Du, từ Thái Nguyên sang Vân Nam cuối năm 1787. Truy cập tại: http://chimviet.free.fr/vanhoc/phamtrongchanh/PhamTrongChanh_ND_01SangVanNam.html

Được gặp gỡ và làm việc với GS Phan Huy Lê là sự may mắn của nhiều học trò, đồng nghiệp. Ông ra đi để lại khoảng trống không thể lấp đầy với người yêu lịch sử.

GS Phan Huy Lê - một trong "tứ trụ" sử học Việt Nam - vừa qua đời chiều 23/6.

Nhiều nhà khoa học và những người yêu lịch sử đã bày tỏ sự nuối tiếc, đau xót trước sự ra đi của một người thầy, một nhân cách lớn của nền sử học nước nhà.

Bộ Quốc sử còn dang dở

Trong những năm tháng cuối đời, dù sức khỏe thất thường, chuyển biến xấu, GS Phan Huy Lê vẫn cố gắng làm việc với tập thể nhà khoa học hàng đầu của Việt Nam để hoàn thành bộ Quốc sử 25 tập do ông làm tổng chủ biên.

Đây không chỉ là nhiệm vụ được giao phó, mà còn là tâm nguyện cuối cùng của ông. GS Phan Huy Lê đã ra đi khi tâm nguyện hoàn thành bộ Quốc sử vẫn còn dang dở.

 
Giáo sư Phan Huy Lê (giữa) trong một lần công tác ở TP.HCM vào tháng 4 vừa qua. Ảnh: Trần Trung Hiếu.

Nhà sử học Dương Trung Quốc, Tổng thư ký hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, chia sẻ: “Tôi đang đi công tác xa, cũng vừa nhận được tin thầy mất. Quả thực rất buồn, thầy ra đi là sự mất mát rất lớn đối với những học trò như chúng tôi và cả với nền sử học nước nhà”.

Ông Dương Trung Quốc cho hay dù không được GS Phan Huy Lê đào tạo từ đầu như nhiều người khác, ông được thầy chỉ dạy rất nhiều về nghề, cách sống, lối sống trong thời gian công tác ở Hội Sử học.

Lễ viếng và truy điệu GS Phan Huy Lê sẽ được tổ chức hồi 7h30 đến 10h ngày 27/6 (tức ngày 14 tháng 5 năm Mậu Tuất) tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội.

Lễ an táng tổ chức tại công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng, Hà Nội lúc 13h cùng ngày.

“Thầy đã đóng góp rất nhiều cho nền sử học nước nhà, không chỉ bằng kiến thức chuyên môn hay những tác phẩm để lại. Thầy còn có công đào tạo nhiều người nghiên cứu sử học, trong đó có tôi. Với tôi, GS Phan Huy Lê không chỉ là người thầy lớn, mà còn là nhân cách mẫu mực về tấm lòng yêu nước, nặng nợ với dân tộc”, ông Dương Trung Quốc nói.

Thạc sĩ Trần Trung Hiếu, giáo viên dạy Sử ở Nghệ An - một trong những người có nhiều thời gian gặp gỡ và gần gũi với GS Phan Huy Lê - tâm sự trong công việc khoa học, viết lách và các hội thảo khoa học, thầy Lê luôn tạo nên sự hấp dẫn đến lạ kỳ về phong thái lịch thiệp, cẩn trọng, chỉn chu, rõ ràng, nhẹ nhàng, sâu sắc.

Ngoài đời, thầy có lối sống bình dị, mộc mạc, khiêm nhường, luôn tôn trọng quan điểm, ý kiến góp ý, phản biện khi trò chuyện với đồng nghiệp và các thế hệ học trò.

Lần cuối cùng ông Hiếu được gặp GS Phan Huy Lê là tại hội thảo khoa học quốc gia về 40 năm cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam tháng 4 vừa qua.

“Cùng ngồi với thầy trên ôtô, sau đó là cano đi tham quan rừng Sác - Cần Giờ, tôi không ngờ đó là lần cuối cùng may mắn được gặp thầy”, ông Hiếu nói.

Luôn đau đáu về Trường Sa, Hoàng Sa

Theo lời GS Phạm Hồng Tung, khi đảm nhiệm vai trò tổng chủ biên bộ Quốc sử có 25 tập chính sử và 5 tập biên niên, GS Phan Huy Lê luôn canh cánh việc làm sao đưa được Hoàng Sa, Trường Sa vào sách.

Trước khi mất, ông nhất quyết ra thăm Trường Sa. Biết sức khỏe ông yếu, gia đình và các học trò đều khuyên ngăn nhưng không vượt qua được quyết tâm của ông. Cách đây một tháng, GS Phan Huy Lê đặt chân đến Trường Sa đúng như ước nguyện.

Trở về sau chuyến đi, ông rất vui mừng, sung sướng với tình cảm của các chiến sĩ ngoài đảo. Những ngày đầu từ Trường Sa về, ông không có dấu hiệu mệt mỏi. Vài ngày sau, sức khỏe của giáo sư yếu đi, gia đình đưa đi khám thì phát hiện tim của ông có vấn đề. Ông được điều trị tại bệnh viện cho đến khi mất.

"Rất xúc động khi biết rằng trước khi mất thầy vẫn lo cho công việc chung. Trước khi rơi vào mê man kéo dài 17 ngày rồi ra đi vĩnh viễn, thầy nói chuyện với con gái và bảo 'bố không tắt được máy tính'. Trong tình trạng nửa tỉnh nửa mê, thầy vẫn nghĩ mình đang làm việc", ông Tung kể.

GS Tung cho biết dù rất uyên thâm về lịch sử Việt Nam cổ - trung đại, GS Phan Huy Lê là người hiện đại. Ông dùng máy tính tốt và thích dùng smartphone, luôn yêu cầu học trò cập nhật thông tin trên thế giới. Ông cổ vũ lớp trẻ nói, viết về lịch sử theo cách riêng của họ.

GS Lê có sự dung hòa giữa sự dung dị, gần gũi nhưng vẫn giữ nét tinh hoa, quý tộc. Ông rất thích món bánh khúc dân dã của miền Bắc, thuộc lòng những món ăn quê nhà của 3 miền. Ông cũng tinh thông văn hóa quý tộc của ta và cả các nước trên thế giới.

"Đi Pháp, thầy chỉ chúng tôi uống rượu vang ở đâu và uống như thế nào. Thầy nhắc chúng tôi đi nước ngoài nói vừa phải, đủ nghe thôi, đừng lớn tiếng", GS Tung nói.

Người thầy lớn của nhiều nhà nghiên cứu sử học

Không chỉ là người thầy của những nhà nghiên cứu sử học Việt Nam, học trò của GS Phan Huy Lê còn đến từ nhiều nơi trên thế giới. 

Giáo sư Phạm Hồng Tung - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học Phát triển (ĐH Quốc gia Hà Nội) - cho biết một số học trò quốc tế của thầy Lê đã đưa tin thầy mất từ Nhật, sang Pháp đến Mỹ. Dù xa xôi, họ sẽ đến Việt Nam để tiễn thầy đoạn đường cuối cùng.

 
GS Phan Huy Lê trong một lần trả lời phóng vấn báo chí. Ảnh: Quyên Quyên.

Trên trang cá nhân, GS Philippe Papin - trường Cao học Thực hành thuộc ĐH Sorbonne (Pháp) - một học trò của thầy Phan Huy Lê viết: "Với tôi, đây là tổn thất vô cùng to lớn, bởi các bạn đều biết tôi từng gắn bó với thầy biết nhường nào. GS Phan Huy Lê không những là người thầy mẫu mực, tấm gương để noi theo, mà còn là người bạn tôi yêu mến, trân trọng".

Nói về giáo sư Phan Huy Lê, GS Trần Văn Nhung, Tổng thư ký Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước cho rằng ông là một trong những nhà nghiên cứu lịch sử xuất sắc của Việt Nam, có uy tín cao trên trường quốc tế.

Ông là một trong "tứ trụ" Lâm, Lê, Tấn, Vượng của sử học Việt Nam.

Có một điều thú vị, dù học và nghiên cứu sử học, GS Phan Huy Lê rất thích toán học, vật lý và con rể của ông cũng chính là GS.TSKH Phạm Thế Long, nguyên Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam trong nhiều năm.

GS, Nhà giáo Nhân dân Phan Huy Lê (23/2/1934) là một trong những chuyên gia về lịch sử Việt Nam, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: Khóa II (1990-1995), khóa III (1995-2000), khóa IV (2000-2005, khóa V (2005-2010) và khóa VI (2010-2015), Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học năm 2016. 

Ông sinh ra tại xã Thạch Châu, huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh; là hậu duệ cùng họ với thượng thư, nhà ngoại giao Phan Huy Ích, nhà bác học Phan Huy Chú, thượng thư - nhà văn hóa Phan Huy Vịnh.

Cụ thân sinh là tiến sĩ Nho học Phan Huy Tùng, từng làm quan trong triều đình Huế.

Mẹ ông là người dòng họ Cao Xuân giàu truyền thống khoa bảng với các danh nhân như Cao Xuân Dục, Cao Xuân Tiếu, Cao Xuân Huy.

Nguồn: https://news.zing.vn/vinh-biet-cay-dai-thu-nganh-su-hoc-phan-huy-le-post854097.html

Một trong những kỳ tích vĩ đại nhất chưa được giải thích trong lịch sử nhân loại đó là triết học văn bản ra đời độc lập từ những nơi khác nhau trên thế giới gần như cùng một lúc. Nguồn gốc của triết học Ấn Độ, Trung Hoa và Hy Lạp cổ đại, cũng như đạo Phật, tất cả đều có thể truy nguyên về một thời kỳ kéo dài khoảng 300 năm, bắt đầu vào thế kỷ thứ 8 trước Công nguyên.

20181110 Khong Tu 

Khổng Tử (551-479 Trước Công Nguyên).


Nhưng, với tất cả những truyền thống triết học đa dạng và phong phú trên khắp thế giới, triết học phương Tây mà tôi đã nghiên cứu trong hơn 30 năm – dựa hoàn toàn vào những văn bản kinh điển của phương Tây – được giới thiệu như thứ triết học phổ quát, là sự chất vấn cuối cùng về hiểu biết của nhân loại. Triết học so sánh – nghiên cứu hai hoặc nhiều truyền thống triết học – gần như bị bỏ lại hoàn toàn cho những người làm việc trong ngành nhân học hoặc nghiên cứu văn hóa. Việc những nhà nghiên cứu triết học từ chối quan tâm đến vấn đề này thể hiện quan điểm cho rằng triết học so sánh chỉ có thể giúp chúng ta hiểu các nền văn hóa trí tuệ của Ấn Độ, Trung Hoa hay thế giới Hồi giáo, chứ không phải về thân phận con người. Gần đây và thật muộn, tôi mới khám phá các nền triết học cổ điển vĩ đại ở phần còn lại của thế giới, du hành qua các lục địa để tiếp xúc với chúng. Đó là hành trình tri thức bổ ích nhất cuộc đời tôi.

Hành trình triết học ấy đã thuyết phục tôi rằng chúng ta không thể hiểu bản thân mình nếu không hiểu người khác. Để hiểu người khác đòi hỏi một người phải lường trước được nguy hiểm kép đó là quá đề cao những điểm chung giữa mình và hay quá coi trọng những điểm khác biệt giữa họ và mình. Những giá trị nhân văn và những vấn đề muôn thuở trong đời sống mà loài người cùng chia sẻ khiến chúng ta luôn có thể học hỏi và đồng cảm với những suy nghĩ và việc làm của người khác, bất kể ban đầu họ có thể kỳ dị đến đâu. Đồng thời, chúng ta đều có thể có những khác biệt rất sâu sắc hoặc tinh tế trong cách tư duy. Nếu chúng ta vội giả định rằng mình có thể nhìn mọi thứ từ điểm nhìn của người khác, thì rốt cuộc chúng ta chỉ thấy họ từ một bản tùy biến của chính chúng ta mà thôi.

Du hành khắp các nền triết học của thế giới là một cơ hội để thách thức các niềm tin và cách thức tư duy mà chúng ta vốn có. Bằng cách thu nhận thêm hiểu biết về cách suy nghĩ của người khác, chúng ta có thể trở nên bớt chắc chắn về tri thức mà chúng ta có, vốn luôn là bước đầu tiên để hiểu rộng hơn.

Lấy ví dụ về thời gian. Trên khắp thế giới ngày nay, thời gian là tuyến tính, được sắp xếp theo thứ tự quá khứ, hiện tại, tương lai. Ngày tháng của chúng ta được tổ chức dựa vào vòng quay của kim đồng hồ, hay tóm gọn lại trong ngắn và trung hạn bằng lịch và nhật ký, lịch sử theo dòng thời gian được tính bằng đơn vị thiên niên kỷ.

Thời gian tuyến tính khớp với quan điểm cho rằng toàn bộ lịch sử nhân loại đều tiến về một phán xét cuối cùng. Điều đó giải thích tại sao, dần dần, nó trở thành một cách nhìn nhận phổ biến về thời gian trong phần lớn người theo đạo Thiên Chúa phương Tây. Khi Thiên Chúa sáng tạo ra thế giới, ông bắt đầu với một câu chuyện về một khởi đầu, diễn biến, và một kết thúc. Như Sách Khải Huyền đã ghi, trong khi tiên đoán về những thời khắc kết thúc của nhân loại, Jesus chính là “Alpha và Omega, khởi đầu và kết thúc, đầu tiên và cuối cùng” của sử thi.  

Thời gian tuần hoàn

Nhưng luôn có những cách tư duy khác về thời gian. Rất nhiều trường phái tư tưởng tin rằng khởi đầu và kết thúc luôn là một bởi vì về bản chất thời gian là tuần hoàn. Đây là một cách tư duy đúng đắn và trực quan nhất về sự vĩnh cửu. Khi chúng ta hình dung thời gian như một đường thẳng, cuối cùng ta lại thấy lạc lối: chuyện gì xảy ra trước khi thời gian bắt đầu? Làm thế nào một đường thẳng kéo dài tới vô tận? Một đường tròn cho phép chúng ta hình dung về quá trình lui lại và tiến lên liên tục vĩnh viễn, không có một điểm nhất định nào là khởi đầu hay kết thúc.

Tư duy về thời gian tuần hoàn đặc biệt có ý nghĩa trong các xã hội tiền hiện đại, nơi chỉ có ít đổi mới sáng tạo xuyên suốt nhiều thế hệ và người ta sống một cuộc đời rất giống với ông mình, cụ mình và nhiều thế hệ trước trong gia đình. Không có thay đổi, thì tiến triển là việc không thể tưởng tượng nổi. Bởi thế ý nghĩa cuộc đời chỉ có thể được tìm thấy trong việc đón nhận chu kỳ của sự sống và cái chết và làm tốt nhất có thể với vai trò của mình.

Có lẽ đó là lý do cho việc thời gian tuần hoàn có vẻ như là một sự mặc định của con người. Người Maya, Inca và Hopi đều nhìn thời gian theo cách này. Rất nhiều truyền thống phi-Tây-phương chứa các yếu tố về tư duy về thời gian tuần hoàn, có lẽ rõ ràng nhất trong triết học cổ điển Ấn Độ. Triết gia kiêm chính khách Sarvepalli Radhakrishnan đã viết: “Tất cả những hệ thống [chính thống] đều chấp nhận quan điểm tiết tấu vĩ đại của thế giới. Những thời kì dài cho sáng thế, duy trì và biến mất tiếp nối nhau liên hồi vô tận.” Chẳng hạn, một đoạn trong kinh Vệ đà nói về Dyaus và Prithvi (Thiên đường và Trái đất) như sau: “Cái gì có trước, cái gì có sau? Chúng sinh ra thế nào? Này các hiền nhân, ai phân biệt được chứ? Chính chúng chứa đựng tất cả những gì từng tồn tại. Ngày và đêm tiếp nối nhau như trên một vòng quay.”

Triết học Đông Á bắt rễ rất sâu trong chu kỳ của các mùa, cũng một phần của một chu kỳ tồn tại lớn hơn. Chuyện này càng rõ ràng trong Đạo Lão, và được minh họa sống động nhờ sự hân hoan đáng kinh ngạc của triết gia Đạo Lão thế kỷ thứ 4 TCN Trang Tử khi tất cả mọi người nghĩ rằng ông ấy nên đau buồn vì người vợ đã khuất. Đầu tiên, ông đã giải thích rằng mình cũng khốn khổ như bất cứ ai. Sau đó ông nghĩ xa hơn về sự khởi đầu của chính thời gian: “Trong tất cả những cái khác thường và rối rắm, có gì đó đã thay đổi và có khí. Khí đã thay đổi, và hình cũng vậy. Hình thay đổi và cô ấy có sự sống. Hôm nay lại có sự thay đổi khác và cô ấy qua đời. Chuyện cũng giống như vòng tròn bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông vậy.”

Trong tư tưởng Trung Hoa, tri thức và sự thật là vĩnh cửu, và chúng ta không cần phải tiến lên để học, chỉ cần nắm bắt những gì mình đang có mà thôi. Như nhà Hán học người Scotland ở thế kỷ 19, James Legge, đã nói, Khổng Tử không nghĩ rằng mục tiêu của ông là “thông báo bất cứ sự thật mới lạ, hay khởi đầu bất kỳ nền kinh tế mới nào. Ông chỉ ngăn những gì từng được biết đến khỏi sự mất mát.” Tương tự như vậy, Mạnh Tử, đã phê bình những vị hoàng đế ở thời kỳ của ông bởi vì “họ không làm theo lối của những vị hoàng đế xưa.” Mạnh Tử cũng đã nói, trong chương áp chót của cuốn tuyển tập những cuộc đối thoại của ông cũng mang tên Mạnh Tử, gần với phần kết luận của cuốn sách: “Bậc đại nhân đơn giản là tìm lại những chuẩn tắc bất biến, và, nếu tìm đúng, thì thiên hạ được đánh thức trước đức hạnh.” Chương cuối cùng lập đồ thị các thời kỳ giữa các vị vua và triều đại vĩ đại.

Du hành khắp các nền triết học của thế giới là một cơ hội để thách thức các niềm tin và cách thức tư duy mà chúng ta vốn có. Bằng cách thu nhận thêm hiểu biết về cách suy nghĩ của người khác, chúng ta có thể trở nên bớt chắc chắn về tri thức mà chúng ta có, vốn luôn là bước đầu tiên để hiểu rộng hơn.

Một thứ lai giữa thời gian tuần hoàn và tuyến tính hoạt động trong các dải tư duy Hồi giáo. “Khái niệm của Hồi giáo về thời gian về căn bản dựa trên quá trình trẻ hóa tuần hoàn của lịch sử nhân loại qua sự xuất hiện của các lời tiên tri khác nhau,” Seyyed Hossein Nasr, giáo sư danh dự Hồi giáo học của Đại học George Washington nói. Tuy nhiên, mỗi chu kỳ đều đưa nhân loại tiến lên, với mỗi lần mặc khải dựng lên từ cái cũ – tiếng gọi của Qu’ran tới Muhammad trở thành lời tuyên bố hoàn thiện, tối hậu của Chúa Trời – cho tới khi cuối cùng chuỗi những chu kỳ này kết thúc với sự xuất hiện của Mahdi, người trị vì trong suốt 40 năm trước ngày phán xét cuối cùng.

Thời gian không thể tách khỏi nơi chốn

Bởi thế, sự phân biệt giữa thời gian tuyến tính và tuần hoàn không phải lúc nào cũng rõ ràng. Giả thiết về một song đề sai đã dẫn nhiều người tới việc giả định rằng những truyền thống triết học truyền miệng chỉ đơn giản là khái niệm thời gian tuần hoàn. Thực tế phức tạp hơn thế. Ví dụ như các triết học của người bản địa Úc. Không có những người Úc đơn lẻ đầu tiên nào khởi xướng một văn hóa tập thể, nhưng có đủ những điểm chung giữa họ trên khắp đất nước cho phép tổng quát hóa thử một số ý tưởng chung hay có ảnh hưởng chính. Nhà nhân loại học quá cố David Maybury-Lewis đã đặt ra giả thuyết rằng thời gian trong văn hóa Úc bản địa vừa không tuyến tính vừa không tuần hoàn; thay vào đó, nó giống với không-thời gian của vật lý hiện đại. Thời gian được gắn kết chặt chẽ với địa điểm trong cái mà ông gọi là “thời-gian-mơ-tưởng” của “quá khứ, hiện tại, tương tai đều tất thảy hiện hữu ở địa điểm này”.

“Người ta sống ở một địa điểm hơn là một thời gian,” là cách mà Stephen Muecke viết trong cuốn sách Ancient and Modern: Time, Culture and Indigenous Philosophy (Cổ đại và Hiện đại: Thời gian, Văn hóa và Triết học Bản địa). Quan trọng hơn sự phân biệt giữa thời gian tuyến tính hay thời gian tuần hoàn là liệu thời gian tách biệt hay gắn kết chặt chẽ với địa điểm. Chẳng hạn, xét xem chúng ta nhận thức thế nào về cái chết. Ở phương Tây ngày nay, cái chết nói chung được nhìn nhận như sự tắt thở của một cá nhân, với thân thể như địa điểm và vị trí của thân thể đó thì không quan trọng. Trái lại, Muecke nói: “Rất nhiều câu chuyện bản địa về cái chết của một cá nhân đều không mấy liên quan đến sự chết của thân thể mà là sự trả về năng lượng cho nơi nguồn cội mà với đó nó tái xác định.”

Cách tư duy như vậy là đặc biệt kỳ lạ với phương tây hiện đại, nơi sự theo đuổi tính khách quan đã hạ thấp một cách có hệ thống vai trò của một địa danh rõ ràng, cụ thể. Trong một câu mang tính khiêu khích và khơi gợi, Muecke nói: “Tôi cho rằng sự nhìn xa trông rộng là một dạng thiển cận triết học của châu Âu và rằng các phiên bản khác của triết học, như của những người bản địa chẳng hạn, có kết nối sinh động và sâu sắc hơn hơn đến các xã hội loài người và cách họ nói về mình”

Muecke trích dẫn quan điểm hàn lâm của Tony Swain rằng khái niệm về thời gian tuyến tính là một thứ tách rời khỏi địa điểm. “Tôi cảm tưởng rằng vật lý hiện đại đã tách những chiều kích này (thời gian, không gian) khỏi nhau và nghiên cứu trên đó, vì thế chúng ta tạo ra thời gian như đã biết thông qua rất nhiều hoạt động lý thuyết và thực nghiệm,” Muecke nói với tôi. “Nếu bạn không tách biệt những chiều kích này ở dạng khái niệm và thực nghiệm, thì chúng sẽ có xu hướng trôi cùng nhau.” Những người bạn bản địa của anh ta ít nói về thời gian và địa điểm một cách độc lập, mà nói nhiều hơn về các sự kiện có địa điểm xác định. Câu hỏi quan trọng về thời gian không phải là “Chuyện này đã xảy ra khi nào vậy?” mà là “Chuyện này liên quan gì đến các sự kiện khác?”

Từ “liên quan” rất quan trọng. Thời gian và không gian đã trở thành những khái niệm trừu tượng về mặt lý thuyết trong vật lý hiện đại, nhưng trong văn hóa của con người thì chúng là những thực tế cụ thể. Không có gì tồn tại thuần túy như một điểm trên bản đồ hay một thời khắc trong thời gian: mọi thứ đều nằm trong mối liên kết với những thứ khác. Vì vậy, để hiểu thời gian và không gian trong các truyền thống triết học truyền miệng, chúng ta phải nhìn chúng như những khái niệm sống thay vì những khái niệm trừu tượng trong các lý thuyết siêu hình, là bộ phần của một cách hiểu rộng hơn về thế giới – một thứ khởi sinh từ sự liên quan. Hirini Kaa, giảng viên ở Đại học Auckland, nói rằng “trụ cột quan trọng của tư tưởng của Maori là mối quan hệ máu mủ, sự kết nối giữa nhân loại, giữa người này người khác, giữa môi trường tự nhiên.”

David Mowaljarlai, người từng là Chấp pháp trưởng lão của bộ tộc Ngarinyin ở Tây Úc, gọi đây là nguyên lý của sự kết nối “tư duy mô thức”. Tư duy mô thức ngập tràn thế giới tự nhiên và thế giới xã hội, mà, sau cùng, theo cách tư duy này, chúng chỉ là một phần của cùng một thứ. Như Muecke đã viết, “Khái niệm liên kết là cơ sở của tất cả các hệ thống họ hàng […] Kết hôn, trong trường hợp này, không chỉ là kết đôi, mà theo một cách nhìn khác, nó là sự sẻ chia bản thân mình cho nhau.”

Từ địa phương đến phổ quát, từ phổ quát đến địa phương

Sự nhấn mạnh vào tính kết nối và địa điểm dẫn tới một cách thức tư duy đi ngược với chủ nghĩa phổ quát trừu tượng đã phát triển tới một mức độ nhất định trong tất cả các kiệt tác triết học phương Tây. Muecke mô tả điều này như một trong “những nguyên lý trường tồn [Úc Bản địa]” mà “một hình thức tồn tại sẽ đặc trưng cho nguồn lực và nhu cầu ở tại một thời gian cũng như nơi chốn và rằng cách cư xử của một người sẽ gắn với trách nhiệm đặc trưng của nơi đó” Đây không phải là thuyết tương đối “sao cũng được”, mà là một sự nhận biết rằng các quyền, trách nhiệm và giá trị chỉ tồn tại trong văn hóa con người, và dạng thức đích thực của chúng sẽ phụ thuộc vào bản chất của các tình huống.

Chuyện như thế chắc đã đủ rõ ràng. Nhưng các truyền thống của triết học phương tây, nói riêng, đã cố đạt đến tính phổ quát đòi hỏi sự phân biệt rõ ràng giữa thời gian và địa điểm. Chẳng hạn, từ “university” (đại học) còn có chung từ nguyên với “universal” (phổ quát). Trong những cơ sở đào tạo này, “chân lý không có biên giới quốc gia” như một người bình luận nhận xét. Địa điểm không hề quan trọng trong triết học phương tây tới mức khi tôi khám phá ra rằng đó là chủ đề của Hội thảo Triết gia Đông-Tây diễn ra 5 năm một lần vào năm 2016, tôi đã tự hỏi mình có gì đó để nói trước hội thảo hay không. (Tôi đã quyết định rằng chính sự thiếu vắng nơi chốn trong triết học phương Tây đáng được cân nhắc)

“Tư duy mô thức” của Maori và các triết học Úc Bản địa có thể chỉnh lý lại cho giả định rằng các giá trị của chúng ta là các giá trị phổ quát còn các giá trị khác thì đều lầm lạc. Nó lý giải một cách mạch lạc và thuyết phục ý tưởng cho rằng triết học luôn gắn liền với địa điểm và những tư tưởng chẳng hề gắn với một nơi chốn cụ thể thì sẽ sớm lụi tàn và chết.

Tuy nhiên những hồ nghi về tính phổ quát chỉ có thể dừng lại ở đó. Chí ít thì vẫn có một mâu thuẫn khi nói rằng không có chân lý phổ quát nào, bởi vì đây cũng là một khẳng định mang tính phổ quát về chân lý.  Quan điểm đúng đắn có lẽ nằm đâu đó giữa các khẳng định của những người theo thuyết phổ quát ngây thơ và những người theo thuyết địa phương đầy hoài nghi. Có cảm giác là ngay cả khát khao mang tính phổ quát phải có nguồn gốc từ một thứ gì đó đặc thù hơn. T. S. Eliot được cho là đã nói rằng: “Mặc dù quá dễ để người viết trở nên địa phương mà không bị phổ quát, tôi nghi ngờ rằng một nhà thơ hay tiểu thuyết gia sẽ chẳng thể trở nên phổ quát nếu thiếu đi tính địa phương.” Thuần túy phổ quát nghĩa là ta đang nương náu trong một vũ trụ trừu tượng tách biệt hoàn toàn khỏi thực tế. Nhưng, cũng giống một tiểu thuyết gia có thể chạm tới những điều phổ quát về thân phận con người qua một vài nhân vật và một câu chuyện cụ thể, những truyền thống triết học địa phương khác, mặc dù được tiếp cận từ góc nhìn riêng của người bản địa, cũng có thể đưa những chân lý triết học phổ quát ra ánh sáng.

Chúng ta không nên sợ hãi rồi mắc cạn trong truyền thống của chính chúng ta, mà cũng không nên bị chúng hạn chế. Như Gandhi đã rất thơ khi viết: “Tôi không muốn nhà mình bị các bức tường bao tứ phía, và các cửa sổ thì đóng chặt. Tôi muốn nền văn hóa của tất cả các vùng đất ùa vào nhà tôi tự do hết sức có thể. Nhưng tôi từ chối bị bất cứ thứ gì thổi bay. Tôi từ chối sống trong những ngôi nhà của người khác như một kẻ không mời mà đến, một kẻ ăn mày hay một tên nô lệ.”

Những cách thức khác nhau mà các truyền thống triết học đã dùng để nhận thức thời gian hóa ra lại định hình cách ta nghĩ về cả vị trí đương thời của ta trong lịch sử và mối liên hệ của chúng ta với vị trí vật lý mà ta đang sống. Nó là một trong những ví dụ dễ nhất và rõ ràng nhất cho việc làm thế nào mà việc mượn cách tư duy khác lại có thể mang lại một góc nhìn mới mẻ về thế giới. Đôi khi, đơn giản nhờ việc thay đổi khung tranh mà cả bức vẽ có thể trông hoàn toàn khác biệt.

Julian Baggini

* Nhà triết học người Anh, tác giả của nhiều cuốn sách triết học cho đại chúng

Hoàng Mai lược dịch (các tít trong bài viết là do tòa soạn đặt)
Nguồn bài và ảnh: https://www.theguardian.com/news/2018/sep/25/about-time-why-western-philosophy-can-only-teach-us-so-much?CMP=share_btn_fb
-----------
Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 4.11.2018.

Năm 2016, Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh cho ra mắt bạn đọc quyển sách nhan đề Giở lại một nghi án lịch sử “Giả Vương nhập cận” – Có thực người sang Trung Hoa là vua Quang Trung giả hay không? của học giả Nguyễn Duy Chính. Tác giả là người rất đam mê khám phá lịch sử Việt Nam thời cổ. Với vốn ngoại ngữ (Anh, Pháp) thành thạo và khả năng Hán học vững vàng, Nguyễn Duy Chính đã dành nhiều tâm sức tìm hiểu, làm rõ một số khía cạnh của lịch sử Việt Nam thời trung đại, đặc biệt là giai đoạn cuối thế kỷ XVIII liên quan đến vương triều Tây Sơn. Quá trình tìm hiểu, khám phá sử Việt của ông được cụ thể hóa thành nhiều bài viết đăng trên Tạp chí Xưa&Nay, được xuất bản thành nhiều đầu sách khác nhau. Đó là điều đáng trân trọng về một người đầy tâm huyết với khoa học lịch sử, có ý thức tìm về cội nguồn, dụng tâm soi sáng các vấn đề lịch sử bằng những nguồn tài liệu mới và hiếm quý.

Trở lại quyển sách nói trên. Thông qua nhan đề, tác giả đã nêu rõ dụng ý muốn nhìn nhận lại một vấn đề lớn trong lịch sử vương triều Tây Sơn dưới thời Quang Trung, một vấn đề có ý nghĩa đối với nền hòa bình và sự phát triển đất nước sau cuộc vệ quốc chống Thanh thắng lợi, một vấn đề đã được nhất loạt khẳng định từ lâu và tưởng như không cần băn khoăn hay bàn luận gì thêm. Đó là có đúng người sang Trung Hoa năm 1790 là Quang Trung giả hay chính là Quang Trung thật? Cách đặt vấn đề rồi tìm cách giải đáp trong toàn bộ công trình đã thể hiện quyết tâm lớn của tác giả, không ngần ngại đương diện với quan điểm chính thống trước nay cho rằng vua Quang Trung sang nhà Thanh chỉ là giả vương.

Như vậy, vấn đề học giả Nguyễn Duy Chính đưa ra là một vấn đề khoa học lớn, có khả năng ảnh hưởng đến nhận thức xã hội và các kết luận khoa học hiện tồn về vương triều Tây Sơn – Quang Trung, nếu không giải quyết triệt để sẽ gây hoang mang, nghi ngờ, thậm chí làm đảo loạn cách tiếp cận, sự nhìn nhận của người đương thời về quá khứ đất nước, đi xa hơn dẫn đến sự nghi ngờ không cần thiết đối với tính khách quan, chân xác của các công trình sử học chuyên sâu về thời Tây Sơn thuộc nền khoa học lịch sử Việt Nam hiện đại. Xuất phát từ nhận thức này, trên tinh thần góp ý xây dựng, chúng tôi muốn trao đổi một vài ý kiến phản biện với học giả Nguyễn Duy Chính sau khi đọc công trình của ông.

Đền thờ nhà Tây Sơn Tam Kiệt ở Tây Sơn, Bình Định

Trong toàn sách, tác giả đã đưa ra nhiều chứng cứ và lí lẽ để đặt lại/nghi ngờ vấn đề Quang Trung giả. Có thể tóm lược như sau:

– Hệ thống hành chính và giám sát, truyền tin của nhà Thanh rất chặt chẽ, Phúc Khang An không thể tự chuyên và qua mặt triều đình về việc xếp đặt với Tây Sơn để đưa một người đóng giả Quang Trung sang triều kiến.

– Nhóm người Lê Chiêu Thống đang ở Trung Hoa, nhiều người biết mặt Nguyễn Huệ, nếu giả sẽ lộ ngay.

– Người đóng giả Quang Trung, theo một số sử sách là Phạm Công Trị hoặc Ngô Văn Sở, đều có mặt trong phái đoàn sang Thanh và phía nhà Thanh biết hai người này.

– Dư luận Việt Nam đương thời nhầm lẫn phái bộ Nguyễn Quang Hiển với phái đoàn Quang Trung. Từ chỗ lan truyền tin Nguyễn Quang Hiển không phải là cháu Quang Trung dẫn đến chỗ hiểu lầm Quang Trung sang Thanh là giả.

– Trong thời gian Quang Trung sang Trung Hoa, Thái tử Quang Toản thay cha quản lý triều chính. Hai trong số văn kiện thời Tây Sơn năm 1790 thể hiện điều này, không văn kiện nào chứng tỏ Quang Trung ở trong nước. Bên cạnh đó, còn có những dấu chỉ khác là thư từ giao thiệp giữa Quang Trung với Nguyễn Thiếp dường như bị gián đoạn trong năm 1790; thái độ hân hoan của các sứ thần Đại Việt khi sang Thanh năm này.

– Trong các tác phẩm của những người trong phái đoàn năm 1790 ấy, không có dòng, đoạn nào nhắc đến việc người sang Trung Hoa là Quang Trung giả.

– Tác giả còn dẫn một đoạn trong Khâm định An Nam kỷ lược nói đến chuyện Quang Trung về nước và phải đối diện với tin đồn không hay liên quan đến việc ông sang Trung Hoa.

– Nhà Nguyễn sau này viết về Tây Sơn đã bêu xấu Quang Trung phải “ôm gối” vua Thanh và hợp thức hóa tin đồn giả vương để làm giảm hào quang của triều Tây Sơn.

– Ghi chép của các bộ sử Trung Quốc là Việt Nam tập lược (nửa sau thế kỷ XIX), Thanh sử cảo và Thanh sử (đầu thế kỷ XX) tuy khăng định người sang Trung Hoa là Quang Trung giả nhưng không nói rõ dựa vào tư liệu nào, có thể do nghe được từ phía Việt Nam.

Từ những điều kể trên, Nguyễn Duy Chính đi đến kết luận: Người sang nhà Thanh chính là Quang Trung. Kết luận này làm nền dẫn đến các nhận định tiếp theo (trực tiếp hoặc ngụ ý):

– Bác bỏ toàn bộ tính xác thực trong ghi chép của các thư tịch cổ Việt Nam có đề cập đến vấn đề giả vương. Xem những ghi chép về sự kiện này của sách vở trong nước là không đúng.

– Nhà Nguyễn (cụ thể là vua Minh Mạng) đã chỉ đạo hợp thức hóa tin đồn giả vương, biến nó thành sự thật.

– Phủ nhận những ghi chép của các bộ sử Trung Quốc về vấn đề “giả vương”.

– Quang Trung sang Trung Hoa là một sự kiện trọng đại đương thời, đã nâng cao quốc thể và uy tín của nước Việt trong bối cảnh “Trung Hoa đang là một đế chế thịnh trị bậc nhất trong thiên hạ [hay người ta nghĩ thế] mà mọi quốc gia đều thèm khát có quan hệ ngoại giao, còn nước ta khi đó chỉ là ba tiểu quốc qua phân, trên uy tín quốc tế chưa mấy nơi biết đến” (trích Phi Lộ của sách).

Tuy nhiên, khi xem xét các cứ liệu cùng lập luận trong sách, có thể nhận thấy tác giả đã đi từ chỗ đoán định đến khẳng định và nâng lên thành kết luận chính thức trong khi còn nhiều vấn đề chưa được chứng minh rõ ràng, “rốt ráo”. Cụ thể:

Thứ nhất, tác giả luôn nói tin đồn Quang Trung giả là do nhầm lẫn từ tin đồn Nguyễn Quang Hiển là giả. Tin này lan rộng trong nước khiến mọi người tin như vậy và một số sách vở cũng chép theo hướng đó. Nhưng xét kĩ, ngoài việc chứng minh có tin đồn Nguyễn Quang Hiển không phải là cháu Quang Trung thì tác giả không đưa ra được cứ liệu chắc chắn nào để xác nhận người thời bấy giờ đã lẫn lộn Nguyễn Quang Hiển giả với Quang Trung giả.

Thứ hai, đâu là căn cứ để bác bỏ toàn bộ ghi chép của thư tịch Việt Nam về chủ trương đưa giả vương sang Trung Hoa thay Quang Trung? Hay chỉ dựa vào một số chi tiết đại loại như ghi chép bất nhất của các sách về tên nhân vật thế thân để rút ra nhận định? Những tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí, Lê quý dật sử, Nghệ An kí, Phan gia thế tự lục… đều sống cách sự kiện 1790 không quá xa, ít nhiều nắm thông tin về sự kiện này rõ hơn chúng ta ngày nay.

Thứ ba, tư liệu xác tín nào nào chứng minh việc nhà Nguyễn chỉ đạo biến vấn đề Quang Trung thật thành giả vương? Nếu chỉ đoán rằng nhà Nguyễn bôi nhọ Quang Trung bằng cách gán lễ “ôm gối” thay vì “bão kiến thỉnh an” cho ông và cách viết khinh miệt, hạ thấp Quang Trung như kiểu dùng chữ Cô (姑) trong sử sách nhà Nguyễn thì chưa chứng minh được vấn đề đã nêu, có chăng chỉ là cho thấy thái độ hằn học của triều Nguyễn với Tây Sơn. Không thể qua các chi tiết đó để đoán rằng nhà Nguyễn đã chỉ đạo các sử thần dàn dựng chi tiết, xác thực tin đồn (vốn không có thật – như quan điểm xuyên suốt của tác giả) và chính thức đưa mệnh đề giả vương vào quốc sử.

Thứ tư, trong khi chưa tìm cách xác minh được nguồn tư liệu mà Việt Nam tập lược, Thanh sử hay Thanh sử cảo sử dụng để dẫn các sách này đến khẳng định người sang Trung Hoa là Quang Trung giả, đã cho rằng chúng không đáng tin. Các tác giả của hai bộ sách trên là người Trung Quốc, sống cách sự kiện không phải là quá xa nên có thể tiếp cận nhiều nguồn tài liệu mà bên ngoài chưa dễ khai thác được. Vì vậy, nếu không có tư liệu khả tín để chứng minh các sách này viết sai thì không nên cho rằng thông tin chúng cung cấp là không xác thực.

Thứ năm, các thư tịch của nhà Thanh dưới thời Càn Long đương nhiên không thể ghi rằng đó là Quang Trung giả. Các ghi chép của người Việt Nam trong phái đoàn năm 1790 cũng vậy. Nếu cho rằng sử tịch nhà Thanh không ghi, các sứ thần Đại Việt không nói đến, để suy ngược vấn đề thật – giả là cách làm không khoa học. Trong bối cảnh lúc ấy, nếu quả thật đó là Quang Trung giả thì vì thể diện, nhà Thanh không bao giờ dám tiết lộ. Các sứ thần Đại Việt cũng không dại gì đưa vào thơ văn khi họ còn phục vụ dưới triều đại Tây Sơn; kể cả sau này, khi Tây Sơn không còn thì họ cũng không có lí do gì để nói lại một vấn đề mà trong dân gian đều biết Quang Trung không hề sang nhà Thanh.

Thứ sáu, nếu lấy Đại Việt quốc thư làm một bằng cớ để cho rằng Quang Trung đã sang nhà Thanh thì cũng không thuyết phục. Người thay Quang Trung vẫn có quyền xem mình chính là Quang Trung để thư từ qua lại với nhà Thanh, thậm chí “chỉ đạo” từ xa một số công việc trong nước. Đó là cách làm quyền biến có thể chấp nhận vào lúc ấy.

Thứ bảy, vẫn biết các văn kiện thời Quang Trung nay không còn nhiều, nhưng liệu tác giả đã tiếp cận hết chưa hay chỉ dựa vào hai văn kiện được gửi đến Quang Toản hay có đóng dấu của Quang Toản vào thời gian phái đoàn sang Thanh để cho rằng Quang Trung lúc ấy không ở nhà? Việc xây kinh đô mới ở Nghệ An đến khi Quang Trung mất vẫn chưa hoàn thành, nên không có gì chắc chắn để nói trong năm 1790 hễ không có thư từ qua lại giữa Quang Trung với Nguyễn Thiếp (hay việc xây kinh đô tạm dừng lại) thì đó là một chỉ báo của việc Quang Trung đang vắng mặt. Thêm nữa, sau chiến thắng, phái đoàn Đại Việt sang Thanh và được đối thủ tiếp đón trọng thị như vậy thì ai lại không hân hoan, phấn khích trong lòng?

Thứ tám, xuyên suốt công trình, tác giả không thể đưa ra những sử liệu đủ mạnh để bác bỏ hoàn toàn quan niệm giả vương và khẳng định hai năm rõ mười vấn đề “thật vương”. Thao tác nghiên cứu từ đầu đến cuối là nêu nghi vấn rồi suy diễn – đoán định qua một số tư liệu của nhà Thanh và đi đến khẳng định quan điểm. Muốn bác bỏ A để khẳng định B nhưng không chứng minh chắc chắn được B, mà chỉ đưa ra vài điểm bất hợp lí của A để khẳng định B. Đó chưa phải là cách làm khách quan, khoa học trên cơ sở thu thập, xử lí, giám định và phân tích tư liệu vốn dĩ rất chặt chẽ của khoa học lịch sử.

Như trên đã nói, vấn đề học giả Nguyễn Duy Chính đặt ra là một vấn đề khoa học lớn. Vì vậy, muốn thay đổi nhận thức vốn đã định hình về nó là điều không dễ dàng, đòi hỏi sự nỗ lực cao của nhà nghiên cứu, dựa trên hệ thống các nguồn tư liệu được khai thác và phân tích thấu đáo, chặt chẽ với một phương pháp nghiên cứu đúng đắn, khách quan và toàn diện. Ở đây, chúng tôi muốn nhấn mạnh tinh thần thận trọng trong các công bố khoa học hay phát hiện khoa học mới. Trong công trình của mình, học giả Nguyễn Duy Chính đã công bố nhiều tư liệu có thể nói là mới mẻ về thời đại Tây Sơn. Tuy nhiên, khi còn nhiều điều chưa chứng minh rõ ràng, tác giả đã vội vàng khẳng định theo hướng đảo chiều các kết luận và nhận thức xưa nay (mặc dù ông từng nói đã tìm hiểu vấn đề trên 15 năm). Điều này rõ ràng đã khiến dư luận xã hội có phần hoang mang, nhất là khi trong một số buổi nói chuyện và bài viết về sau, tác giả mỗi khi nhắc đến Quang Trung sang nhà Thanh đều cho rằng đó là Quang Trung thật, xem như vấn đề ông đặt ra đã được xác quyết và nhận thức xã hội cũng dần phải điều chỉnh theo hướng như vậy. Đó cũng chưa phải là cách làm nghiêm túc, thận trọng của một nhà nghiên cứu có trách nhiệm đối với xã hội và khoa học lịch sử.

Cuối cùng, chúng tôi muốn lưu ý rằng, các nghiên cứu của tác giả nên được đặt trong bối cảnh đặc thù với những thông lệ, quan điểm nhất quán của nền bang giao Việt Nam đối với Trung Hoa dưới thời phong kiến. Trong quan hệ với nhà nước phong kiến Trung Hoa thời trung đại, các triều đại quân chủ Việt Nam luôn quán triệt sâu sắc chiến lược ngoại giao được lịch sử gọi là “thần phục giả vờ, độc lập thật sự”. Vì vậy, trong những tình huống bang giao phức tạp nhất, kể cả giai đoạn đối trí ngoại giao cam go và quyết liệt dưới triều Trần giữa hai cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất và thứ hai, chưa hề có vị quân chủ nào của nước Việt (đương nhiên không tính đến việc Lê Chiêu Thống sang nhà Thanh cầu viện) thân hành sang Trung Hoa để chầu hầu Hoàng Đế phương Bắc. Với ý thức tự tôn dân tộc rất cao, luôn xem Nam bang là nước văn hiến, cùng phương Bắc “mỗi bên hùng cứ một phương”, cac Đế Vương và tầng lớp chính trị tinh hoa, rộng hơn là toàn bộ các giai tầng trong nước đều mặc nhiên xem việc một vị vua nước Nam tự mình sang Trung Hoa là biểu hiện của thái độ quy phục thật sự. Đó là điều không thể chấp nhận và xúc phạm nghiêm trọng đến niềm tự hào dân tộc trong bối cảnh lịch sử Việt Nam thời trung đại, khi tư tưởng “vô tốn Trung Hoa”, ý thức tự cường luôn hiện hữu trong lòng dân tộc như một phương sách hằng xuyên để tự thức, tự lập và tự chủ trước một quốc gia to lớn cạnh bên luôn lăm le chờ đợi cơ hội để tiến chiếm nước Việt bé nhỏ.

Ở cuối thế kỉ XVIII, nhận thức xã hội về chiến lược bang giao với Trung Hoa chưa có những thay đổi rõ ràng về cấu trúc cùng chiều sâu, nên việc một vị Hoàng Đế nước Việt đã giành được vinh quang chiến thắng trước Bắc quốc lại tự động sang chúc thọ hoàng đế nhà Thanh là điều không thể chấp nhận trong tư tưởng, tình cảm của xã hội rộng lớn, càng không thể cho đó là sự kiện giúp nâng tầm hình ảnh và vị thế của nước Đại Việt. Khi nhà Thanh vẫn luôn xem Đại Việt là thuộc quốc, là chư hầu thì cũng không thể nói với việc Quang Trung đích thân sang Trung Hoa sẽ đánh dấu một bước ngoặt hệ trọng trong mối bang giao giữa hai nước. Đó là chưa kể, Quang Trung và đội ngũ dưới quyền không thể không tính đến những nguy hiểm tiềm tàng cho bản thân ông khi sang triều kiến nhà Thanh – kẻ chiến bại trước đó chưa lâu. Với hoàn cảnh lúc ấy, không có lí do đủ lớn khiến Quang Trung hành động như vậy. Cho nên, phương án dùng người đóng thế với tất cả sự công phu, tinh tế và sắp đặt kĩ càng của nó là giải pháp hợp thời hơn cả.

Trước lịch sử, sự thật việc Quang Trung sang Trung Hoa chỉ có một và rất đáng được nhận hiểu kỹ càng, chân xác thông qua hệ thống các tư liệu có độ tin cậy cao, giàu sức thuyết phục. Vậy nên, chúng tôi cho rằng trước khi chứng minh đầy đủ vấn đề thì bất kỳ ai, dù tâm huyết đến mấy, chỉ nên dừng lại ở góc độ quan điểm cá nhân hoặc đặt thành giả thuyết khoa học chứ không nên công bố rộng rãi như một thành tựu đáng ghi nhận. Chúng tôi cũng hi vọng học giả Nguyễn Duy Chính có thể từ chỗ đặt giả thuyết đi đến giải quyết thấu đáo các lỗ hổng hay sơ hở còn tồn tại để chiếu rọi, làm minh xác vấn đề đặt ra một cách thuyết phục và khoa học nhất, góp phần “trả lại một sự thật cho lịch sử” như ông tâm nguyện.
Nguồn: Xưa và Nay – Số 491 (01/2018)

Lịch sử Việt Nam nếu nhìn từ thân phận đàn bà thì đó là những tiếng nói vô thanh, tức là không có (hoặc rất ít) giọng nói cất lên từ phía phụ nữ, mà chỉ là những tiếng lồng đa thanh của những kẻ đàn ông cho những khuôn mặt đàn bà đã phôi pha theo dòng chảy thời gian. Hình tượng Thái hậu Dương Vân Nga trong lịch sử là một trong những điển hình cho điều đó. Trong khi Đinh Tiên Hoàng hiện lên như là một biểu tượng đa năng, như là câu chuyện của những đại tự sự với những xu hướng chính trị cùng chiều; thì Dương hậu được kiến tạo như là một hình ảnh phụ bị cuốn theo và phụ họa cho những giọng nói của đàn ông. Trong khi, các sử gia Nho giáo chỉ coi Dương hậu như là một bài học cho sự vi phạm đạo vợ chồng, phê phán để làm gương cho các bậc hoàng đế và vương hậu đời sau; thì các nghiên cứu trong thế kỷ 20 lại lấy bà như là một biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam biết hy sinh hạnh phúc cá nhân để giữ gìn sự thống nhất và bảo vệ nền độc lập dân tộc.

20181022 Duong Van Nga

Nghệ sĩ Bạch Tuyết trong vai diễn Thái hậu Dương Vân Nga trong vở kịch cùng tên.

Sử liệu về Dương Vân Nga

Dương hậu hay Dương Vân Nga, được biết đến nhiều vì liên quan một lúc đến cả ba họ Ngô- Đinh- Lê. Cho đến nay, người ta vẫn không hết tranh luận bà là một người hai hay người. Nhưng dù là một hay hai người thì đây vẫn gương mặt phụ nữ kỳ lạ nhất của thế kỷ X, và cũng là một/ hai người phụ nữ đáng nhớ nhất trong lịch sử Việt Nam trung đại. Nếu bà là một người, thì bà vừa là cháu của một ông Tiết độ sứ (Dương Đình Nghệ) và một ông vua (Bình Vương), là vợ của 3 vị vua (Ngô Xương Văn, Đinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn), là mẹ của 2 ông vua nữa (An Vương Ngô Nhật Khánh, và Vệ Vương Đinh Toàn), cuối cùng bà còn là mẹ vợ của hoàng đế Lý Công Uẩn (như truyền thuyết). Nếu quả như thế thật thì sử liệu nào cho phép suy luận và vẽ ra một nhân vật tầm cỡ - thú vị đến như vậy?

Sử liệu 1: ghi chép sự kiện tháng 10 âm năm 979, sau khi Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn bị ám sát. “Khi ấy Định quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, cùng Thập đạo Tướng quân Lê Hoàn rước Vệ Vương Toàn lên ngôi Hoàng đế, tôn gọi vua là Tiên Hoàng Đế, tôn mẹ đẻ [vua mới] là Dương thị làm Hoàng thái hậu. Rước linh cữu Tiên Hoàng Đế về táng ở sơn lăng Trường Yên”1.

Sử liệu 2: chép ở mục Phế Đế: “Vua nối ngôi khi mới 6 tuổi. Lê Hoàn nhiếp chính, làm công việc như Chu Công, tự xưng là Phó Vương. Bọn Định quốc công Nguyễn Bặc, ngoại giáp Đinh Điền, Phạm Hạp ngờ Hoàn sẽ làm điều bất lợi cho vua nhỏ, bèn cùng nhau dấy binh, chia hai đường thủy bộ, muốn tiến về kinh đô giết Hoàn, nhưng không đánh nổi, bị giết. Trước đó khi Điền và Bặc cất quân, Thái hậu nghe tin, lo sợ bảo Hoàn rằng: “Bọn Bặc dấy quân khởi loạn làm kinh động nước nhà ta. Vua còn nhỏ yếu chưa kham nổi nhiều nạn, các ông nên liệu tính đi chớ để tai họa về sau”. Hoàn nói: “Thần ở chức Phó Vương nhiếp chính, dù sống chết biến họa thế nào, đều phải đảm đương trách nhiệm”.

Sử liệu 3: Chép sự kiện cuối năm 979 về Ngô Nhật Khánh: “Phò mã Ngô Nhật Khánh dẫn thuyền quân Chiêm Thành hơn nghìn chiếc vào cướp, muốn đánh thành Hoa Lư, theo hai cửa biển Đại Ác và Tiểu Khang, qua một đêm, gặp gió bão nổi lên, thuyền đều lật đắm, Nhật Khánh cùng bọn người Chiêm đều chết đuối, chỉ có thuyền của vua Chiêm thoát trở về nước. Nhật Khánh là con cháu của Ngô Tiên chúa Quyền, trước xưng là An Vương, cùng 12 sứ quân mỗi người chiếm giữ một vùng. Tiên Hoàng dẹp yên, lấy mẹ Khánh làm hoàng hậu, lấy em gái Khánh làm vợ Nam Việt Vương Liễn, còn lo sinh biến, lại đem công chúa gả cho Khánh, ý muốn dập hết lòng oán vọng của hắn. Nhật Khánh bề ngoài cười nói như không, nhưng trong lòng vẫn bất bình, bèn đem cả vợ chạy sang Chiêm Thành, đến cửa biển Nam Giới rút đao ngắn xẻo má vợ kể tội rằng: “Cha mày lừa dối ức hiếp mẹ con ta, lẽ nào ta vì mày mà quên tội ác của cha mày hay sao? Cho mày trở về, ta đi đằng khác tìm kẻ có thể cứu ta”. Nói xong bèn đi. Đến đây nghe tin Tiên Hoàng băng, Khánh dẫn người Chiêm vào cướp.”2

Sử liệu 4: tháng 7 âm năm 980, nhà Tống nghe nói nhà Đinh có biến, bèn sai Hầu Nhân Bảo sang đánh Đại Cồ Việt. “Bấy giờ, Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, liền làm tờ tâu báo về. Thái hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đi đánh giặc, lấy người ở Nam Sách Giang là Phạm Cư Lạng làm Đại tướng quân. Khi [triều đình] đang bàn kế hoạch xuất quân, Cự Lạng cùng các tướng quân khác đều mặc áo trận đi thẳng vào Nội phủ, nói với mọi người rằng: “Thưởng người có công, giết kẻ trái lệnh là phép sáng để thi hành việc quân. Nay chúa thượng còn trẻ thơ, chúng ta dẫu hết sức liều chết để chặn giặc ngoài, may có chút công lao, thì có ai biết cho ? Chi bằng trước hãy tôn lập ông Thập đạo làm Thiên tử, sau đó sẽ xuất quân thì hơn”. Quân sĩ nghe vậy đều hô “vạn tuế!”. Thái hậu thấy mọi người vui lòng quy phục bèn sai lấy áo long cổn khoác lên người Lê Hoàn, mời lên ngôi Hoàng đế. Từ đó Hoàn lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc năm đầu [980], giáng phong vua làm Vệ Vương.”3

Sử liệu 5: Sau chiến thắng Nam Hán, năm 980, Lê Hoàn được bề tôi tôn xưng là Minh Càn Ứng Vận Thần Vũ Thăng Bình Chí nhân quảng Hiếu Hoàng Đế. Năm 981, “Lập Hoàng thái hậu nhà Đinh là Dương thị làm Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Hậu là vợ của Tiên Hoàng, mẹ đẻ của Vệ Vương Toàn. Khi vua lấy được nước, đem vào cung, đến đây lập làm Hoàng hậu, cùng với Phụng Càn Chí Lý Hoàng Hậu, Thuận Thánh Minh Đạo Hoàng Hậu, Trịnh Quấc Hoàng Hậu, Phạm Hoàng Hậu là 5 hoàng hậu (về sau, tục dân lập đền thờ, tô tượng hai vua Tiên Hoàng và Đại Hành và tượng Dương hậu cùng ngồi, hồi quốc sơ [đầu thời Lê] vẫn còn như thế. Sau An Phủ Sứ Lê Thúc Hiển mới bỏ)”.4

Các sử liệu trên trình bày rõ một hiện trường phong phú về bà trong bối cảnh chính trị cung đình thế kỷ X. Chúng ta thấy, lần đầu tiên trong lịch sử thế kỷ X, một người phụ nữ đã lên tiếng và được ghi vào chính sử, hoặc ít ra lần đầu tiên các sử quan để cho phái yếu được phát ngôn.

Dương Thái Hậu bảo Hoàn mà cũng là bảo cả những người theo phe mình: vua còn nhỏ dại, các ông cứ liệu tính chớ để di họa. Hoàn tự đáp với tư cách Phó vương, đương nhiên đó là trách nhiệm của mình. Một kịch bản mà có lẽ cả hai người đã tính toán rất kĩ trước khi ra chầu trước bách quan. Rồi trước nguy cơ chiến tranh với nhà Tống, trong thế “trứng đặt đầu đẳng”, lần thứ hai, người đàn bà quyền lực lên tiếng. Toàn thư ghi, Thái Hậu sai Lê Hoàn chọn dũng sĩ đánh giặc, chọn được Phạm Cự Lạng ở Nam Sách Giang5 làm Đại tướng quân. Cự Lạng về Hoa Lư chuẩn bị kế hoạch chống giặc. Nhưng trước tiên là phải ổn định triều chính. Thái Hậu và Lê Hoàn chọn Phạm Cự Lạng làm Đại Tướng Quân. Đại Tướng họ Phạm liền tấu thẳng giữa triều đình về việc tôn Hoàn làm Hoàng Đế. Ba lý do được đưa ra: Hoàng Đế thì trẻ mỏ; giặc Tống đã đến gần; xuất quận ra trận, nếu thắng thì ai biết cho mà ghi công. Hai ý cuối cùng đã đánh trúng tâm lý của tất cả những người đang ăn lộc triều đình. Điểm tinh tế ở chỗ, sử mô tả Đại Tướng Quân Phạm Cự Lạng vào triều lại “mặc nguyên giáp trụ đi thẳng vào Nội phủ” để bàn kế hoạch tôn Hoàn làm Thiên tử trước khi đánh giặc. Lạng nói xong thì quân sĩ đều hô vạn tuế. Vậy thì hiển nhiên, việc triều đình Hoa Lư đồng ý Lê Hoàn lên ngôi còn vì phải chịu dưới sức ép của lực lượng quân sự. Vở kịch diễn ra đúng như dự toán của đạo diễn Dương Thái Hậu, lúc này bà mới sai người mang áo long cổn đến khoác lên mình Lê Hoàn, mời ông lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thiên Phúc, và giáng ông con ruột 6 tuổi xuống làm Vệ Vương.

Dương Hậu – từ tấm gương “tày liếp” của đạo đức Nho giáo

Trong suốt chiều dài lịch sử sau này, chúng ta hãy cùng xem Ngô Hậu - Dương Hậu đã được hiện lên như thế nào dưới ngòi bút của các sử thần Nho gia.

Về Dương Hậu thời Đinh- Lê, Ngô Sĩ Liên đã phê bình từ góc độ đạo đức rằng: “Đạo vợ chồng là đứng đầu nhân luân, dây mối của vương hóa. Hạ kinh của Kinh Dịch nêu quẻ Hàm và quẻ Hằng lên đầu, là để tỏ cái ý lấy đàn bà tất phải chính đáng. Đại Hành thông dâm với vợ vua, đến chỗ nghiễm nhiên lập làm hoàng hậu, mất cả lòng biết hổ thẹn. Đem cái thói ấy truyền cho đời sau, con mình bắt chước mà dâm dật đến nỗi mất nước, há chẳng phải là mở đầu mối họa đó sau?”6 Ngô Thì Sĩ bàn thêm: “Đại Thắng Minh là tôn hiệu của Đinh Tiên Hoàng. Đại Hành dùng tôn hiệu của vua đã mất, làm tên hiệu cho Hoàng hậu của mình, không còn kiêng kị gì nữa. Thật là quá quắt”7. Ngô Sĩ Liên đã phê bình Dương Hậu và Lê Hoàn từ một bối cảnh thời đại mà Nho giáo đậm đặc hơn rất nhiều so với 500 năm trước đó. Ông phê phán Thập đạo Tướng quân lợi dụng chức vụ (ra vào cung cấm) thông dâm với vợ vua cũ và là mẹ vua mới (lại trong lúc tang gia bối rối, mẹ góa con côi), là không biết đến liêm sỉ, rồi “dâm dật đến nỗi mất nước”, đó là truyền lại cho con cháu cái thói dâm dật ấy. Mặc dầu, đây là một lối sử bình của một ông Nho thần dành cho một ông vua Nho giáo, nhưng ta vẫn thấy, thân phận người phụ nữ họ Dương!

Những phê phán ấy, từ chính sử, đi vào trong dân gian nhiều đời, với nhiều mức độ khác nhau. Nó trở thành một diễn ngôn sống động mà các sử thần đời sau, núp bóng quyền uy của ông vua đương thời, để mắng mỏ hoàng đế vương hậu triều trước như là các “tấm gương tày liếp” cho việc lỗi đạo vợ chồng, loạn mối nhân luân, đầu têu cho con cái và bách tính làm chuyện phản loạn. Toàn thư ghi việc thờ cúng ba vị Đinh Hoàng Đế - Dương Hậu – Lê Hoàng Đế đã tồn tại từ thời Lê sơ8. Sử quan cho rằng, đó là do tục lệ dân gian tự thờ cúng nên mới có sự “ngồi chung” bất chính như thế! Việc An phủ sứ Lê Thúc Hiển9 bãi bỏ việc thờ cúng theo kiểu “dâm từ” cho thấy quyền lực “vương hóa” của triều đình.

Đinh Tiên Hoàng hiện lên như là một biểu tượng đa năng như là câu chuyện của những đại tự sự với những xu hướng chính trị cùng chiều; thì Dương hậu được kiến tạo như là một hình ảnh phụ bị cuốn theo và phụ họa cho những giọng nói của đàn ông.

Ở một chiều hướng ngược lại, đầu thế kỷ 17, triều đình Lê - Trịnh (chính xác là Trịnh Kiểm) đã sai Quận công Bùi Thời Tung và bộ Công dốc tiền làm lại miếu thờ và tô tượng ba vị, nhưng tác làm hai đền thờ khác nhau. Bia Tạo tác Thánh tượng tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế bi ký tịnh minh (1611) ghi việc tạo 3 tượng thờ ở đền vua Lê gồm có: Lê triều Đại Hành Hoàng đế, Bảo Quang Hoàng thái hậu và Ngọa triều Hoàng đế10. Bảo Quang Hoàng Thái Hậu có lẽ chính là thụy hiệu/ miếu điều tra văn hóa từ những năm 1980, mỗi khi đến ngày kị Đinh Tiên Hoàng dân làng có làm nghi lễ rước tượng, tượng Dương Hậu được rước từ đền thờ vua Lê sang đền thờ vua Đinh rồi cúng xong lại trả “Bà” về. Nhưng có chi tiết quan trọng nhất của nghi lễ là lật đít tượng lên đánh mười roi trước khi cho về với ông chồng cũ11.

Nhân dân trước nay (trong cuối thế kỷ XX) vẫn coi tượng này là “Dương Vân Nga”. Tượng này có đặc điểm là tô mặt đỏ (một thủ pháp mới lạ so với các hệ thống tượng vương hậu thời này), mặt xoay về hướng đền thờ Đinh Tiên Hoàng, hàm ý biểu thị sự hổ thẹn vì đã thất tiết với chồng cũ12.  Rõ ràng, triều đình Lê Trịnh, trong quá trình xây dựng các thần điện cho các vua triều trước (như tiền lệ cho tính chính thống của triều đại mình), đã tái sử dụng “lưỡng triều Hoàng hậu” Dương thị để tiếp dục giáo dục xã hội về đạo đức của người phụ nữ. Cùng một biểu tượng, nhưng mỗi thời có cách xử lý khác nhau. Đầu thế kỷ XV, ba vị được thờ theo kiểu “táo công” dân gian, để người đời sau giễu nhại, một bà hai ông ngồi chung một bệ: miếu đông thẹn ngắm duyên bà già (Đông miếu tu khan lão phụ duyên”13. Sau năm 1436, Lê Thúc Hiển coi Dương Hậu không đủ tư cách ngồi chung với hai ông Hoàng đế vì chuyện mất đức làm vợ, và gạt bà ra khỏi thần điện của nước Đại Việt. Đến đầu thế kỷ XVII, triều đình lại đưa bà vào thờ nhưng có “siêu chỉnh” về cách thức tô tượng và hướng thờ. Việc nêu gương thất tiết không còn chỉ nằm trong chính sử mà lại được đưa vào trong tự điển quốc gia.

Sách Đại Nam quốc sử diễn ca ghi:

Nối sau Thiếu Đế thơ ngây,
Lê Hoàn tiếp chính từ rày dọc ngang.
Tiếm xưng là Phó quốc vương,
Ra vào cùng ả họ Dương chung tình.
14


Cuối thế kỷ 19, các huyền thoại đã phủ khắp dân gian, rồi lại tiếp tục đi ngược vào chính sử và quốc chí. Đại Nam nhất thống chí khi ghi về trấn cũ Vân Sàng thì có giải thích từ nguyên rằng: “tục truyền là cái giường (sàng) mây nước (vân) giao nhau vì Dương Hậu (bà phi của Đinh Tiên Hoàng) đặt giường trên sông để đón Lê Hoàn. Khi vua đến có mây ngũ sắc xuất hiện nên gọi là vân sàng”15.

... bị dân gian biếm họa

Trong khi các bộ sử quan phương và điển lễ triều đình nhấn mạnh về sự bất chính của Dương Hậu từ góc độ chính trị, thì dân gian lại xoáy thêm vào mặt tính dục của bà hoàng này. Sách Hoàn Vương ca tích sưu tầm ở đất Hà Nam mô tả vẻ đẹp của Dương Hậu như sau:  

“Môi son rừng rực, mặt hoa rờn rờn
Mắt kia sao mọc cờn cờn
Cổ kia đã trắng lại tròn hân hân”…
Ðồi đông điểm ngọc, đồi tây mây vàng
Suối trong tựa ánh nguyệt tràn
Mây ngồi xổm, cá lượn đàn lên mây
Chim kề mỏ, bướm xỏ mày
Bao nhiêu suối chảy thành cây đàn cầm.
16


Các ngữ liệu văn học vừa nêu trên trình bày một hiện trường hiển minh về quyền lực kiến tạo tri thức lịch sử của triều đình Nho giáo. Các tri thức lịch sử, và tính chất của các sự kiện đã hiện rõ chính – ngụy, thông qua các lời bao biếm của các sử quan, từ đó hệ tư tưởng Nho giáo lan tỏa đến các tầng lớp khác nhau. Những người biên soạn các tác phẩm văn học có chủ đề lịch sử (từ các nhà Nho vô danh, khuyết danh, cho đến các ông đồ làng xã, các vị quan lại lịch triều, các vị thân vương, đại thần), trên một hệ tư tưởng thống nhất về đạo đức, trinh tiết của phụ nữ, đã tiếp tục lan tỏa quan điểm của mình đến nhiều tầng lớp xã hội thông qua các tác phẩm văn học Nôm diễn ca lịch sử, các tác phẩm này là để cho phụ nữ (phần lớn là mù chữ) học thuộc lòng. Dung mạo của Dương Thái Hậu được mô tả với hình ảnh đầy chất đa tình. Tức là lý giải mối quan hệ bất chính của Dương Hậu có thể xuất phát từ góc độ sinh lý. Các loại động vật cũng được huy động để mô tả hành động: chim thì kề mỏ, bướm thì xỏ mày, mây thì ngồi xổm, cá thì lượn thành đàn trên mây. Rõ ràng ở đây, một tác giả dân gian (vô danh) đã không hề có một ý niệm về sự tôn kính đối với một vị Hoàng hậu- Hoàng Thái Hậu trong quá khứ đã xa. Ông (có lẽ vẫn là đàn ông) chỉ nhìn thấy hình tượng một người đàn bà quyền lực với câu chuyện tình sống động qua lời bình của sử sách.

Cho đến một Dương Thái Hậu – có huân lao với quốc dân

Sang đến đầu thế kỷ XX, khi hệ hình tư tưởng thay đổi, biểu tượng Dương Thái Hậu đã bắt đầu có những chuyển biến quan trọng, nhưng không ít trường hợp vẫn bảo lưu nội hàm Nho giáo xưa cũ. Những tranh luận, đối thoại trực tiếp giữa các tác giả cho thấy sự chuyển đổi ít nhiều về tư tưởng sử ngay trong tầng lớp trí thức nửa phong kiến nửa thực dân. Đến nửa sau thế kỷ XX, cùng với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc, và hệ tư tưởng mới, Dương Thái Hậu đã được cởi bỏ diễn ngôn đạo đức Nho giáo và khoác lên mình màu áo vàng son mới với các thuật ngữ mới về “quốc gia”, “dân tộc” và “chủ nghĩa yêu nước”.

Năm 1942, Tạp chí Tri Tân đã ra riêng một số chuyên đề về Đinh Tiên Hoàng, trong đó có bài của Song Cối với nhan đề “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, ông mở đầu như sau: “nói đến Dương thị, một vị Hoàng hậu trước đã đẹp duyên với Đinh Tiên Hoàng Đế, sau lại nối dây cầm sắt với vua Lê Đại Hành, nhiều người tin trí rằng bà là một gái phụ tình, một nàng dâm phụ; rồi vì thành kiến đã in sâu hàng nghìn năm nay, người ta vội cho ngay là một vết nhơ trên lịch sử. Cái án ấy quả có đúng không, công bằng không, ta nay cần phải lập một “tòa án công luận”, xét lại hồ sơ mà phúc xử mới được...”17. Tác giả đã giũ bỏ hoàn toàn quan niệm về Trung – Trinh, về tiết hạnh, về đạo phu phụ (nhân luân) của Nho giáo. Đàn bà (dù là Hoàng hậu) thì không nhất thiết phải thủ tiết với một đời chồng, nhất là khi chồng đã chết. Ông đã tiếp thu các tư tưởng duy vật của phương Tây để lý giải chuyện nam – nữ cũng chỉ là vấn đề sinh lý tự nhiên18, là nhu cầu tối thiểu như cơm ăn nước uống mà “thánh nhân” Nho giáo ngày xưa ai cũng có. Ông cho rằng nhu cầu tình dục (của đàn bà) cũng là “một quyền tự tồn của cá nhân”. Như thế, tác giả đã sử dụng “nhân quyền” để lên tiếng bảo vệ cho Dương Thái Hậu, với tư cách một người phụ nữ cũng có quyền tồn tại như những người đàn ông (ít nhất về thiên tính). Chẳng những thế, khi so sánh với “tình trạng hôn nhân của Đinh Tiên Hoàng”, ông cho rằng, đàn ông được đa thê, thế thì làm sao mà phụ nữ không được quyền tái giá. Ông đòi bình quyền cho nữ giới, và yêu cầu xã hội phải cải chính danh dự cho Dương Hậu.

Một biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc

Các bộ sử được viết trong nửa sau thế kỷ XX, thường chỉ nhấn mạnh đến vai trò của Lê Hoàn, và bỏ qua chi tiết Dương Thái Hậu khoác long bào cho Lê Hoàn, cũng như chuyện tình cảm cá nhân giữa hai người19. Cuốn Lịch sử Việt Nam mô tả “vận mệnh của cả dân tộc đang bị nạn ngoại xâm đe dọa nghiêm trọng. Chính quyền độc lập non trẻ đang đứng trước một thử thách lớn. Trong lúc đó, vua Đinh còn ít tuổi chưa đủ khả năng và uy tín để tổ chức và lãnh đạo cuộc kháng chiến. Vì sự nghiệp bảo vệ độc lập dân tộc, quân sĩ và một số quan lại liền suy tôn Lê Hoàn lên làm vua…”20
Sự biến mất của Dương Thái Hậu cũng là một chỉ số cho thấy, các sử gia chỉ quan tâm đến các đại tự sự, các biến cố lớn trên chính trường, và không quan tâm đến các chuyện cá nhân đan xen với chính trị, nhất là chuyện liên quan đến phụ nữ và tình cảm.

Cho đến năm 1971, Văn Tân là người đầu tiên trong giai đoạn mới, đã lên tiếng về Dương Thái hậu trong bài “Nhân dịp kỷ niệm 900 năm chiến thắng Chi Lăng lần thứ nhất (981), Thử tìm hiểu cống hiến của Lê Hoàn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ X”. Ông đã mô tả lại việc sử dụng lực lượng quân sự của Lê Hoàn và Phạm Cự Lạng để thực hiện cuộc chuyển ngôi từ Đinh sang Lê. Trong khi “triều đình còn đang lúng túng chưa biết xử trí ra sao, thì bà Dương Vân Nga tức Dương Thái Hậu, mẹ Đinh Toàn, lấy áo hoàng bào khoác vào Lê Hoàn và mời ông lên ngôi vua. Hành động mạnh dạn và sáng suốt của bà Dương Vân Nga mở một lối thoát cho triều đình, tạo cơ sở pháp lý cho Lê Hoàn để ông này có thể lên thay nhà Đinh mà vẫn không mang tiếng là cướp ngôi của vua nhà Đinh”21. Văn Tân đã lược bỏ các chi tiết tình ái đời tư giữa Dương Thái Hậu và Lê Hoàn, cũng như bỏ qua toàn bộ các kiểu phê phán của sử thần phong kiến. Ông cô lập hóa sự kiện để việc chuyển ngôi mang sắc thái trung tính và khách quan. Sự tái mô tả của Văn Tân là một hiện trường hiển minh cho quá trình con người chính trị (phe đàn ông) đã tái sử dụng hình ảnh của phụ nữ cho những gì mà thời đại mong muốn.

Năm 1981, Văn Tân tiếp tục phát biểu về Dương Thái Hậu với những ý vị mới. Ông viết: “tiếng nói của quân đội lúc này là tiếng nói của cả dân tộc trong lúc thế nước gặp gian nguy… Truyền thống yêu nước và đoàn kết của dân tộc Việt Nam nói chung và của phụ nữ Việt Nam nói riêng đã làm cho Dương Thái Hậu nhanh chóng tìm ra một lối đi phù hợp với lợi ích của dân tộc… Việc chủ động chuyển quyền hành của bản thân mình và của con mình cho Lê Hoàn, Dương Thái Hậu tỏ ra là một phụ nữ khôn ngoan, sáng suốt, dám lựa chọn sự hy sinh lớn khi cần phải lựa chọn. Hành động của bà rất đẹp đẽ, nó có tác dụng hàn gắn mọi rạn nứt trong lực lượng dân tộc nảy sinh ra từ cái chết đột ngột của Đinh Tiên Hoàng và con trai trưởng là Đinh Liễn.”22 Cách đánh giá về sự kiện Dương Thái Hậu như trên có một bước ngoặt quan trọng về hệ hình viết sử. Văn Tân đã đưa “dân tộc”- khái niệm quan trọng nhất của bối cảnh chính trị đương thời, vào trong hoạt động nghiên cứu lịch sử. “Dân tộc” là vấn đề trung tâm, “đoàn kết dân tộc” là hoạt động thiết thực của người làm chính trị, các “rạn nứt trong lực lượng dân tộc” là nguy cơ của việc phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc, dẫn đến việc giặc xâm lược, đe dọa đến độc lập dân tộc. Mà Độc lập là lợi ích sống còn của dân tộc. Dương Thái Hậu đã được đặt vào khung lý thuyết mới, hệ tư tưởng mới. Bà được đánh giá là người đã biết hy sinh lợi ích cá nhân để hàn gắn rạn nứt dân tộc, là người đã khôn ngoan tiến hành công tác đoàn kết dân tộc, thể hiện ý chí của toàn thể dân tộc.

Đến nửa sau thế kỷ XX, Dương Thái Hậu đã được cởi bỏ diễn ngôn đạo đức Nho giáo và khoác lên mình màu áo vàng son mới với các thuật ngữ mới về “quốc gia”, “dân tộc” và “chủ nghĩa yêu nước”.

Nhiều tác giả ở thời điểm này như Nguyễn Danh Phiệt, Đặng Thai Mai, Nguyễn Huệ Chi cũng có  những tiếng nói tương đồng với Văn Tân trong việc đánh giá vai trò của Dương Thái Hậu. Sau này, có những nhà nghiên cứu văn hóa lịch sử nữ phân tích hình tượng Dương Thái Hậu, nhưng việc phân tích từ quan điểm, giọng nói của phụ nữ vẫn còn khá hiếm hoi. Đến Lee Seon Hee là người phụ nữ đầu tiên phân tích về hình ảnh Dương Thái Hậu góc độ “phê bình nữ quyền” (Feminist Narratology)23, từ quan điểm và giọng nói của phụ nữ. Lee Seon Hee đã sử dụng các khái niệm như “nữ tính”, “quyền tự do yêu đương”, “quyền tự do hôn nhân”,… trong lập luận của mình. Hành động Dương Thái Hậu yêu Lê Hoàn, trao ngôi cho Lê Hoàn, làm Hoàng hậu của Lê Hoàn được nhận định như là chuỗi hành động thuộc về “tính nhân bản”. Theo Lee Seon Hee, Thái hậu đã “chứng minh giá trị lớn lao của người phụ nữ không chỉ ở sự giác ngộ tự thân về quyền lợi về địa vị của mình phải gắn liền với quyền lợi và địa vị của quốc gia dân tộc mà còn ở cả trí thông minh, tầm nhìn chiến lược đồng thời lại cũng rất nữ tính nữa”24. Dương Vân Nga là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên trong lịch sử đã nêu một tấm gương sáng về quyền tự quyết định vận mệnh của bản thân mình – quyền tự do yêu đương, tự do hôn nhân mà không bị lệ thuộc vào giáo lý phong kiến, cũng như thói thường của dư luận”25. Giá trị cuối cùng là bà đã được nhân dân thờ ở vị trí trung tâm, coi bà như một biểu tượng “của một tinh thần xả thần vì cộng đồng,…, của một trái tim phụ nữ tha thiết yêu đương, nhưng cũng vô cùng dũng cảm để tự quyết định tình yêu của mình”. Lee Seon Hee đứng hẳn về phía phụ nữ, muốn phá bỏ sự bất bình đẳng giới đối với Dương Thái Hậu, phản đối cách nhìn của đàn ông (nhất là đàn ông Nho giáo) đã áp đặt lên. Lee Seon Hee đã khước từ giọng nói của phía đàn ông bằng những biện luận về căn tính nữ của chủ thể lịch sử.   

Nhìn chung, hình tượng Dương Hậu là một kết quả của cả quá trình tái tạo tri thức lịch sử bằng cả khoa học và nghệ thuật. Về cơ bản, dù bị mắng nhiếc hay minh oan, hay xuất hiện ảo mờ - khuất lấp, bà (và các bà hoàng hậu khác) vẫn chỉ là các nhân vật phụ được tạo dựng dưới nhãn quan của nhiều lớp đàn ông với hệ tư tưởng hiện dụng của thời đại. Các bà hoàng hậu hiện lên dưới ngòi bút của cánh đàn ông, không phải vì bản thân họ (với tư cách là phụ nữ) mà vì đàn ông vì các lợi ích gia tộc - phe nhóm - lợi ích chính trị xã hội của đàn ông, họ là tệp đính kèm, tệp phụ, minh họa cho hoạt động chính trị của đàn ông, và thể hiện các diễn ngôn chính trị mà đàn ông đã tạo nghĩa lên hình ảnh của họ.

---

Chú thích:

1,2,3,4,6 Ngô Sĩ Liên, 1479, Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, 1998.
5 Có lẽ là Lạng là Thứ sử châu Nam Sách Giang (xem thêm phần viết về “Có hay không loạn 12 sứ quân?”
7 Đặng Xuân Bảng, 1905, <越史綱目節要> Việt sử cương mục tiết yếu, Ký hiệu: A.1592/1 – 2: 609 tr., 31 x 20, VNCHN, Hoàng Văn Lâu dịch và chú giải, Nxb Khoa học Xã hội. Hà Nội. 2000. Tr.69.
8 [Ngô Sĩ Liên, 1479, Đại Việt sử ký toàn thư, sđd, 1998, tr.221-2]. Tạ Chí Đại Trường cho là việc thờ cúng này đến Lê sơ đã qua vài trăm năm.
9 Toàn thư ghi Năm 1436, Lê Thúc Hiển được làm “An phủ sứ lộ Trường yên. Hiển người thôn Hồn, thuộc Hồng Châu, có tài về chính sự, được mọi người khâm phục”.
10 Nguyễn Lễ soạn, 1611, Tạo tác Thánh tượng tiền triều Lê Đại Hành Hoàng đế bi ký tịnh minh, Văn bia đền thờ Vua Lê, Ninh Bình.
11 Trần Hậu Yên Thế, 2013, bđd, tr.715. Xem thêm Nhị Hà, 2009, Có nên duy trì tên đường Dương Vân Nga, Tạp chí Hồn Việt, Nguồn: http://www.honvietquochoc.com. vn/bai-viet/3068-co-nen-duy-tri-ten-duong-duong-van-nga.aspx. Ngày đăng: 06 Tháng Mười 2009.
12 Trần Hậu Yên Thế, 2013, Bảo Quang Hoàng Hậu là ai? Tại sao lại có danh hiệu này? Trong “Thông báo Hán Nôm học 2012”, Nxb. Thế giới, Hà Nội, tr.713-718.
13 Song Cối, “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, Tạp chí Tri Tân, số 41, thứ 3, 7 Avril 1942, tr. 18.
14 Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái, 1870,  <大南国使演歌> Đại Nam quốc sử diễn ca, Trí Trung Đường in năm Tự Đức 23. VNv. 118, Lã Minh Hằng khảo cứu phiên âm chú thích, Nxb Văn học, Hà Nội, 2008. Tr.92.
15 Quốc sử quán triều Nguyễn, 1910,  Đại Nam nhất thống chí, T2. Hoàng Văn Lậu dịch, Nxb. Lao Động, Hà Nội, 2012. Tr.1044. Nguyễn Tử Mẫn 阮 子忞, 1862, <寧平全省地誌考辨> Ninh Bình toàn tỉnh địa chí khảo biện, A.922, VNCHN, Nguyễn Mạnh Duân dịch, Nguyễn Thụy Ứng hiệu đính, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.126
16 Hoàn vương ca tích, Bùi Văn Cường, Nguyễn Tế Nhị, Nguyễn Văn Điềm sưu tầm, giới thiệu, Lao động, Hà Nội, 2011. Đền thờ ở đình Bách Cốc, xã Thành Lợi, Vụ Bản, Nam Định.
17 Song Cối (Hoàng Thúc Trâm), “Nhân nói đến gia đình vua Đinh, tôi bào chữa cho Dương Thái hậu”, Tạp chí Tri Tân, số 41, thứ 3, 7 Avril 1942, tr. 18.
18 Đầu thế kỷ 20, các sách về tình dục của phương Tây đã được dịch sang tiếng Hán và tiếng Việt.
19 Ví dụ Đào Duy Anh (Lịch sử Việt Nam, sđd,), hay bộ Lịch sử Việt Nam của Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam.
20 Ủy  ban Khoa học Xã hội, 1971, Lịch sử Việt Nam, T.1, Nxb.KHXH. Hà Nội, tr.145.
21 Văn Tân, Nhân dịp kỷ niệm 900 năm chiến thắng Chi Lăng lần thứ nhất (981), Thử tìm hiểu cống hiến của Lê Hoàn đối với lịch sử dân tộc Việt Nam thế kỷ X, NCLS, 1971, số 140, tr.2.
22 Văn Tân, Vai trò của Lê Hoàn hồi thế kỷ X đối với lịch sử dân tộc Việt Nam, NCLS, 1981, số 2 (197), tr.7.
23 Susan Lanser, “Toward a Feminist Narratology”, in Feminisms: An Anthology of Literary Theory and Criticism, Robyn Warhol & Diane Price Herndl, Rutgers University Press, New Brunswick & New Jersey, tr.674-693.
24 Lee Seon Hee, Thái hậu Dương Vân Nga và vai trò của người phụ nữ Việt Nam hồi thế kỷ X , NCLS, 2000, số 5 (312), tr.52.
25 Lee Seon Hee, bđd, 2000, số 5 (312), tr.53.

Nguồn, Tạp chí Tia sáng, ngày 19.10.2018.

Xây dựng một tạp chí Việt Nam học quốc tế ở Việt Nam cần một sự chuyển đổi lớn về mặt nhận thức của cộng đồng khoa học và các nhà quản lý.



Hội thảo Việt Nam học lần thứ 5, 2016.


Ba năm nay, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tổ chức hàng chục hội thảo, tọa đàm về việc xây dựng một tạp chí khoa học xã hội đạt “chuẩn quốc tế” và định hướng tạp chí Vietnam Social Sciences của Viện sẽ lọt vào danh mục tạp chí quốc tế (ít nhất là ACI) vào năm 2025. Cùng với đó, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng bộc lộ nỗ lực và quyết tâm tương tự với tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities của mình. Nhưng liệu hai cơ quan nghiên cứu uy tín hàng đầu về khoa học xã hội của Việt Nam và kể cả các cơ sở nghiên cứu khác có làm được điều đó, và họ có nên làm?

Nhu cầu bức thiết có một tạp chí Việt Nam học

“Mong muốn của chính phủ và của cả cộng đồng khoa học Việt Nam là thông qua việc xuất bản một tạp chí uy tín quốc tế để thế giới hiểu thêm về Việt Nam, để ngành Việt Nam học có vị thế và đóng góp nhiều hơn cho khoa học thế giới” – GS. Phạm Quang Minh, Hiệu trưởng Đại học KHXH&NV đồng thời là Tổng biên tập tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities cho biết. Hiện nay, trên thế giới chỉ có duy nhất một tạp chí trong lĩnh vực Việt Nam học, là Journal of Vietnamese Studies (JVS) của nhà xuất bản University of California, Berkeley Press ra đời cách đây 12 năm. Đây cũng là tạp chí thứ hai trong lịch sử chuyên về lĩnh vực này, sau khi tạp chí Diễn đàn Việt Nam của dịch giả và nhà sử học Việt kiều Huỳnh Sanh Thông đóng cửa vào những năm 1990. JVS tập trung vào các nghiên cứu về lịch sử, chính trị, văn hóa – xã hội của Việt Nam và những chủ đề bị bỏ quên bởi dòng nghiên cứu chính thống như người Việt Nam ở hải ngoại và Chiến tranh Việt Nam. Trả lời phỏng vấn Tia Sáng, Lưu Trinh, thư ký tòa soạn của JVS tự hào nói rằng tạp chí của họ là “ngọn cờ đầu” về Việt Nam học trên thế giới và “không có đối thủ”. Tiếng tăm của họ thông qua con đường “truyền miệng” và từ khi xuất bản đến nay, họ đã nhanh chóng tăng tần suất xuất bản từ một năm hai số thành ba số và hiện nay là bốn số với người viết đến từ khắp các châu lục trên thế giới. Ví dụ của JVS dường như mở ra một con đường rất tiềm năng trong việc xây dựng một tạp chí quốc tế về Việt Nam học.  

Mà chính Peter Zinoman, tổng biên tập đồng thời là người sáng lập JVS, hiện nay là giáo sư duy nhất ngành Việt Nam học tại University of California, Berkeley không chỉ cho rằng sự ra đời của tạp chí quốc tế chuyên về Việt Nam học là cấp thiết mà còn khẳng định tạp chí của ông, với những giới hạn về ban biên tập, ngôn ngữ và địa lý chưa đủ để bao trùm sự đa dạng và sôi động trong lĩnh vực Việt Nam học trên thế giới ngày nay. Trong công bố tại hội nghị Việt Nam học lần thứ ba năm 2009, Zinoman đã kể lại quá trình xây dựng JVS để minh chứng cho lập luận trên của mình. Trong đó, thế giới ngày càng quan tâm đến ngành Việt Nam học, thể hiện ở việc ngày càng nhiều học giả Việt Nam học tại các trường đại học và viện nghiên cứu danh tiếng trên thế giới với quá trình thi tuyển không kém phần cạnh tranh so với các lĩnh vực khác. Trong khi đó, ngoài JVS, các tạp chí nghiên cứu châu Á và Đông Nam Á khác lại có xu hướng ưu tiên “diện tích đất” cho những bài nghiên cứu về những nước lớn như Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật và Indonesia. Hơn nữa, các nghiên cứu về Việt Nam các trên tạp chí này cũng không thể quá chuyên sâu và phải đưa ra được những kết luận đầy đủ cho bối cảnh lý thuyết và khu vực rộng hơn. Ông kết luận rằng, việc không có tạp chí chuyên ngành Việt Nam học không chỉ “gây khó khăn” cho các học giả trong lĩnh vực này mà còn là “thiếu sót về mặt thể chế” khi mỗi nước trong khu vực đều có một tạp chí chuyên ngành đất nước học về họ (kể cả Lào và Campuchia). Nhưng, dẫu cho JVS giải tỏa được phần nào nhu cầu của cộng đồng Việt Nam học trên thế giới, Zinoman cũng tự nhận rằng, do ban biên tập chủ yếu ở Bắc Mỹ nên các nghiên cứu đăng trên tạp chí có thiên hướng đến từ khu vực này và chưa vươn ra được nhiều tác giả tiềm năng ở Úc, Anh và Singapore. Hơn nữa, cũng do đặc điểm các chủ biên tạp chí đến từ hai ngành lịch sử và văn học so sánh nên nội dung của JVS thiên về các lĩnh vực tương tự.


Bìa tạp chí Journal of Vietnamese Studies, tạp chí quốc tế duy nhất về Việt Nam học trên thế giới hiện nay. 

Còn có những lập luận khác về tính cấp thiết của việc xây dựng tạp chí quốc tế về Việt Nam học, chẳng hạn như GS. Lương Văn Hy ở Đại học Toronto cho rằng “có được tạp chí như thế cũng là một chỉ báo tốt về sự trưởng thành của KHXH&NV ở Việt Nam”. Lưu Trinh cho rằng “[một tạp chí như thế] sẽ đóng vai trò lớn trong việc thay đổi thực hành khoa học ở Việt Nam”. Cô thấy rằng phần lớn các nghiên cứu từ Việt Nam gửi đến JVS đều chưa tuân thủ nguyên tắc liên quan đến trích dẫn trong một bài báo khoa học khiến cho công trình thiếu thuyết phục, thiếu chuyên nghiệp. 


Không thể vừa mang tính quốc gia, vừa mang tính quốc tế

Nhưng mặc dù có những lí do chính đáng và bối cảnh thuận lợi, thì việc một viện nghiên cứu, trường đại học trong nước xây dựng một tạp chí quốc tế về Việt Nam học trong chưa đầy 10 năm nữa, đòi hỏi một nỗ lực vô cùng lớn nếu nhìn vào xuất phát điểm của Việt Nam. Số lượng công bố quốc tế ISI/Scopus của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội và Đại học KHXH&NV Hà Nội mỗi năm của mỗi đơn vị chưa vượt quá 10 bài, thể hiện số nhà khoa học thông thạo thông lệ quốc tế về xuất bản trên các tạp chí chưa nhiều, chưa nói đến việc điều hành và xây dựng một tạp chí quốc tế. Tạp chí tiếng Anh của hai đơn vị trên vẫn còn đậm nét “nội địa” thể hiện ở số bài trong nước và số thành viên người Việt Nam trong ban điều hành còn vượt trội. Cả hai tạp chí Vietnam Social Sciences của Viện Hàn lâm KHXHVN và tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities của Trường ĐHKHXHNV, Đại học Quốc gia mặc dù đã có rất nhiều cố gắng và đổi mới, vẫn còn phải phấn đấu rất nhiều mới đạt được các chuẩn mực quốc tế. Cả hai tạp chí đều được Lưu Trinh và GS Oscar Salemink   đang làm việc tại Đại học Copenhagen, Đan Mạch đánh giá là “rất khó tìm đọc”.


Việc hóa giải những bế tắc trên đặt cộng đồng khoa học và cả những nhà quản lý ở Việt Nam vào một cuộc chuyển đổi nhận thức mạnh mẽ: Xây dựng tạp chí quốc tế, ngay cả khi tạp chí đó là về ngành Việt Nam học, ngay cả khi tạp chí sử dụng nguồn lực của quốc gia, vẫn phải gạt bỏ mọi mục tiêu “chỉ” phục vụ riêng cho lợi ích đất nước, cho riêng cộng đồng khoa học Việt Nam. Nói cách khác, tạo ra một ấn phẩm như vậy phải xuất phát từ một tinh thần vô tư, phụng sự “khoa học không biên giới”.  GS. Phạm Quang Minh chia sẻ: “Cho Việt Nam ở đây phải hiểu là để thế giới biết về Việt Nam, để những nghiên cứu Việt Nam được thế giới biết đến, cho dù người đó đến từ nước nào và viết về lĩnh vực gì, không tổn hại đến lợi ích của Việt Nam.”Điều này không giống như quan điểm của một số người cho rằng tạp chí quốc tế của Việt Nam là một “hướng giải quyết”, “tạo điều kiện” cho các nhà khoa học Việt Nam công bố quốc tế. Nếu không có được tinh thần này, thì theo GS.Oscar Salemink, người đã có 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực Việt Nam học, đặt ra việc xây dựng một tạp chí quốc tế “mâu thuẫn đến vô nghĩa” (oxymoron) bởi vì không bao giờ có được một tạp chí vừa mang tính quốc gia và quốc tế. Một tạp chí quốc tế, bắt buộc phải đạt tiêu chuẩn quốc tế, do đó ít quan tâm đến các quy tắc của quốc gia. Ngược lại, nếu muốn giữ kiểm soát tạp chí trong nước, giới nghiên cứu nước  ngoài sẽ không coi trọng nó.

Bốn yếu tố xây dựng một tạp chí quốc tế (ngoài việc phải xuất bản bằng một ngôn ngữ thông dụng): Một hội đồng biên tập quốc tế, Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình phản biện kín hai chiều, Hoàn toàn không có kiểm duyệt, Được xuất bản quốc tế, trên thực tế nghĩa là xuất bản online hoặc bởi một nhà xuất bản khoa học nước ngoài (vì Việt Nam chưa có khả năng này).
Là người có mặt trong hội đồng biên tập của nhiều tạp chí quốc tế về Đông Á và Đông Nam Á uy tín, Oscar Salemink đưa ra bốn yếu tố xây dựng một tạp chí quốc tế (ngoài việc phải xuất bản bằng một ngôn ngữ thông dụng): Một hội đồng biên tập quốc tế; Tuân thủ nghiêm ngặt quy trình phản biện kín hai chiều, Hoàn toàn không có kiểm duyệt; Được xuất bản quốc tế, trên thực tế nghĩa là xuất bản online hoặc bởi một nhà xuất bản khoa học nước ngoài (vì Việt Nam chưa có khả năng này). Ông cho rằng ba yếu tố đầu là bắt buộc, “nếu không thì việc có một tạp chí quốc tế không có nghĩa lý gì. Và như thế thì tốt hơn là khuyến khích các học giả Việt Nam cố gắng công bố và công bố nhiều hơn trên các tạp chí quốc tế khác”.


Việc xây dựng tạp chí quốc tế không phải là vấn đề đầu tư tiền bạc (mặc dù cũng cần một khoản để thuê người biên tập thành thạo tiếng Anh và nắm rõ những vấn đề liên quan đến Việt Nam, tiền xuất bản hoặc tổ chức các hội thảo và tọa đàm chuyên đề định kỳ để quảng bá tạp chí) mà là những yêu cầu do Oscar Salemink đưa ra gắn liền với tự do học thuật ở Việt Nam. Đó chính là cục nam châm thu hút hoặc đẩy xa những nhà khoa học nước ngoài uy tín trong việc tham gia xây dựng ngành Việt Nam học, kể cả khía cạnh hỗ trợ việc phát triển một tạp chí khoa học quốc tế. Khi GS. Phạm Quang Minh mời David Marr, một học giả người Mỹ nghiên cứu nổi tiếng về lịch sử Việt Nam vào hội đồng biên tập của tạp chí Journal of Social Sciences and Humanities, mặc dù ông đồng ý nhưng đã thẳng thắn chia sẻ: “Đừng nghĩ đưa tên của tôi sẽ làm uy tín của tạp chí tăng lên”. Để việc họ đứng trong hội đồng biên tập của các tạp chí không chỉ dừng lại ở cái tên mà thực sự tham gia vào chiến lược, sứ mệnh, mục tiêu và bản sắc của tạp chí, từ đó họ mới nhiệt thành trong việc quảng bá tạp chí và kêu gọi bài vở từ khắp nơi trên thế giới thì mức độ kiểm soát của ban biên tập tạp chí trong nước chỉ còn một phần nhỏ. Oscar Salemink chia sẻ rằng ngoài thi thoảng nhận được yêu cầu bình duyệt, chưa bao giờ ông nhận được lời đề nghị nào về tham gia đóng góp ý kiến xây dựng tạp chí của Việt Nam, có lẽ là do ban biên tập muốn “giữ mọi thứ trong tầm kiểm soát”. Hơn nữa, để có một tạp chí tốt, cần trao quyền cho ban biên tập là những nhà khoa học có công bố quốc tế và trẻ tuổi (vì làm tạp chí là một công việc đòi hỏi cao mà phần lớn là “không công”, những học giả uy tín ở giai đoạn sau của nghề nghiệp thường không đủ thời gian và năng lượng để làm) có khả năng trao đổi và tìm kiếm lời khuyên từ các nhà khoa học thế giới uy tín.    

Nếu vì một mục tiêu khoa học, Việt Nam với điểm xuất phát hiện nay vẫn có hi vọng xây dựng được tạp chí quốc tế để thúc đẩy ngành Việt Nam học. Theo lời GS. Phan Huy Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội và Viện Hàn lâm KH&XH nên đứng ra chủ trì một tạp chí. Ông tin rằng thế giới sẽ quan tâm bởi mỗi năm Hội thảo Việt Nam học đều thu hút được 200 học giả trên khắp thế giới với 100 công bố giá trị. Hơn nữa, trao đổi với Tia Sáng, GS. Phạm Quang Minh cũng cho biết hoàn toàn có nhà khoa học Việt Nam đủ uy tín và khả năng kết nối để nằm trong ban biên tập. Sắp tới vào tháng 7, ông sẽ gặp gỡ với Đại học Quốc gia Đài Loan, theo lời đề nghị của GS triết học Trần Văn Đoàn để trao đổi về việc cùng hợp tác với Đại học Quốc gia và Viện Hàn lâm thành lập một tạp chí quốc tế về Việt Nam học.

Hảo Linh

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 07.6.2018

Trước khi đến với sách, những tờ tạp chí và truyện tranh lôi cuốn những đứa trẻ chúng tôi. Ban đầu, chỉ riêng cái bìa tạp chí với màu sắc rực rỡ đã đủ tạo niềm vui lấp lánh trong mắt khi được cầm lên rồi. Trước khi gắn bó với tờ tuần báo Thiếu Nhi đầy tính giáo dục, tôi nhận ra mình yêu văn chương từ những truyện ngắn trên báo Tuổi Ngọc...

Một ngày thu, một nữ văn sĩ tìm lên vùng núi cao thuê ngôi nhà trọ của một cô nhi viện để viết sách và lấy lại sức khỏe. Bà sống giữa thiên nhiên tươi đẹp với những cây bắp ngô, trái bí và hạt dẻ. Bà nhờ cô nhi viện tìm một người chẻ giúp bà số củi để đốt lò sưởi. Một buổi chiều, có chú bé khoảng 11-12 tuổi, nhỏ và gầy đến gặp bà. Chú bé tên là Gie-ri, đã ở viện mồ côi từ năm bốn tuổi. Bà đồng ý để chú bé chẻ đống củi vì bà thấy chú rất thành thạo.

Bà nhận xét: “Tóc chú có màu vàng hoe của những trái bắp khô, đôi mắt chú, rất thành thực, gợi nhớ đến vùng núi khi trời sắp có cơn mưa”. Chú bé im lặng khi bà cho ít tiền sau khi xong việc mỗi ngày và có lúc đã giúp bà trông chú chó khi bà đi vắng. Một buổi tối, chú bé đến gặp bà, bên cạnh lò sưởi, kể chuyện mấy ngày bên cạnh chú chó. Chú bé bảo với nữ văn sĩ: “Bà hơi giống mẹ em, nhất là trong bóng tối, như lúc này bà ngồi bên lò sưởi”. Rồi chú bé khoe đã được mẹ, đang ở một tỉnh khác, đến thăm để cho bộ đồ vào năm ngoái và sắp tới mẹ sẽ tặng một đôi giày trượt patin. Chú bé bảo sẽ dùng tiền bà cho để mua tặng mẹ một đôi bao tay. Mùa hè nào mẹ cũng đến đón chú bé.

Nghe tới đó, bà cảm thấy giận người mẹ đã bỏ mặc đứa con ở viện mồ côi trong mấy năm trời với chút ít quà gửi đến. Và bà cũng cảm thấy giảm bớt lòng thương hại với đứa trẻ. 

Một sạp bán sách, báo ở Sài Gòn trước 1975. Ảnh: TL

Mùa thu tàn, chú bé vẫn đến giúp bà, nói chuyện với bà nhiều hơn bên lò sưởi, thỉnh thoảng tặng bà những chiếc lá mùa thu đỏ rực rỡ và chạy chơi với chú chó. Đến một ngày, bà chia tay chú bé vì sáng hôm sau phải ra đi. Chú bé nghe xong lẳng lặng bỏ đi không nói một lời. Sáng hôm sau, bà đến cô nhi viện trả chìa khóa, và nói với giám đốc viện là muốn chào từ giã chú bé đã đến giúp bà suốt mấy tháng qua. Bà được cho biết là chú bé có vẻ không được khỏe hay có gì buồn, không ăn sáng và đã đi lên núi từ sớm. Bà muốn hỏi thăm về mẹ của chú bé, vì sao phải đưa bé vào đây.

Nhưng bà vội đi, nên chỉ xin gửi bà giám đốc viện một số tiền nhờ mua quà cho chú bé, miễn không trùng với món quà là đôi giày trượt patin mà mẹ chú bé sẽ cho. Bà giám đốc già nhìn lên và dường như không hiểu lời của nữ văn sĩ: “Ở đây, các em nhỏ không được chơi patin... - Bà nhíu đôi lông mày hỏi lại - Và thưa bà, Gie-ri là một em bé mồ côi. Gie-ri đâu còn mẹ!”.

Đó là câu chuyện Mùa hè mẹ tới mà tôi được đọc trong báo Tuổi Ngọc từ năm bằng cỡ tuổi chú bé trong truyện. Mùa hè năm 1973 nhiều mưa, tôi ôm tờ báo to trên tay, ngồi bên cửa sổ đế lấy ánh sáng từ bên ngoài cửa sổ. Tôi nhận ra cách kể chuyện rất gần gũi của nhà văn Rawlings là tác giả truyện ngắn trên, cũng là tác giả cuốn Con nai tơ tôi đã đọc nhiều lần trước đó.

Mùa hè mẹ tới tiếp tục làm tôi xao động, sau cảm giác buồn se sắt khi đọc Con nai tơ, đến chi tiết con nai hiền lành của Cu Tý bị bắn chết và sau đó thằng bạn Diều Rơm tật nguyền của Cu Tý cũng qua đời. Câu chuyện chú bé mồ côi không khiến tôi khóc, nhưng tôi nhớ mình đã ôm ghì mẹ khi bà đi bán về, ướt lướt thướt. Tôi nhận ra có những đứa bé trên đời đã và đang sống rất buồn, khao khát một tình thương đơn giản nhiều người có và đang dửng dưng với nó.  

Trước khi đến với sách, những tờ tạp chí và truyện tranh lôi cuốn những đứa trẻ chúng tôi. Ban đầu, chỉ riêng cái bìa tạp chí với màu sắc rực rỡ đã đủ tạo niềm vui lấp lánh trong mắt khi được cầm lên rồi. Trước khi gắn bó với tờ tuần báo Thiếu Nhi đầy tính giáo dục, tôi nhận ra mình yêu văn chương từ những truyện ngắn trên báo Tuổi Ngọc, không phải là tờ Tuổi Ngọc tuần báo của tuổi vừa lớn khổ nhỏ sau này mà là Tuổi Ngọc khổ lớn “tuần báo của yêu thương”, ra đời số đầu từ tháng 7.1969. Chị Bạch Liên, con một nhà khá giả trong xóm đã mua đủ hết 24 cuốn của bộ này và người lần lượt đọc hết và đọc rất kỹ - không phải chị Liên hay chị Vân của tôi, người được cho mượn về - mà là tôi.

Tôi đọc và luôn trì hoãn yêu cầu trả lại bộ báo. Tôi thương những nhân vật trong đó và bộ báo như cánh cửa thông ra một thế giới rộng lớn và đa dạng. Ở đó có những chú bé miền Bắc lanh lợi, tán dóc bằng những từ lạ tai trong truyện của Vũ Mộng Long, có không khí một thị xã mùa đông tôi chưa từng đặt chân tới, có cuộc sống thiên nhiên thơ mộng ở một vùng núi châu Âu tuyết phủ.

Khi đọc truyện ngắn Cái tủ chè của mẹ tôi của Hoàng Hải Thủy, lúc đầu tôi thích thú với cách miêu tả chi tiết đời sống miền Bắc ngày xưa, với cái tủ chè khảm ốc từ nhóm thợ của Tổng đốc Hoàng Trọng Phu, dẫn đến chuyện chú bé nhiều lần dùng chìa khóa giả mở hộp phấn của mẹ để lấy tiền ăn gỏi thịt bò khô đu đủ xanh. Đọc đến đó, tôi thấy xấu hổ vì thói vô tư lấy tiền cắc của má thường để trong túi áo bà ba móc trên giá để mua đậu phộng hay kẹo để nhâm nhi mà không cảm thấy tội lỗi. Chú bé trong truyện khi bị bắt gặp ngỡ sẽ bị la mắng, nhưng điều chú nhận chỉ là tiếng thở dài và câu nói “mẹ buồn lắm” khi bà ngồi thừ người trong bóng chiều mùa thu xám đang đi dần vào tối bên khung cửa sổ.

Cảm giác khó chịu lan tỏa trong lòng thằng bé 12 tuổi khi đọc những dòng đó và tôi biết mình phải bỏ thói xấu kia. 

Tạp bút Một ấu thời hà khắc của Viên Linh mở rộng cho tôi thêm góc nhìn về một thời xa xôi ở vùng đất xa lạ xứ Bắc mà tôi không thể tưởng tượng mình sẽ được đến khi đất nước còn chia cắt. Tác giả khi là chú bé tám tuổi, ban đầu học chữ nho đến khi có ông chú đi Hà Nội về bắt bỏ bút lông gạt, bỏ nghiên mực tàu, xé giấy bồi, sau khi cãi nhau với người ông một trận kịch liệt. Chú bé được học chữ quốc ngữ. Cùng trong truyện có thân phận người phụ nữ trong nhà.

Tác giả nhớ mỗi khi nhà có khách đàn ông, thì “cùng với mấy con ngan, con ngỗng giữ nhà, là y như đàn bà con gái trong nhà, mẹ tôi, thím tôi, cô tôi vội vã lẩn vào sau cánh cửa”. Suốt thời gian có khách, chỉ người cô chưa chồng được xuất hiện đâu đó, thấp thoáng. Những phụ nữ khác nếu có việc gì cần làm, phải đi phía xa xa, đi vòng dưới sân phía trước hay vòng quanh nhà phía sau. Phụ nữ muốn đi từ đầu nhà tới đầu kia, dù là những lúc thường, cũng không bao giờ được đi trên thềm gạch. Phải xuống sân, đi ra mé sân, rồi mới băng ngang nếu không muốn đi phía sau.

Lúc đó chú bé trong truyện cảm thấy mình oai, nhưng sau ngẫm nghĩ thấy đó là dấu ấn của một thời hà khắc. Câu chuyện chỉ vỏn vẹn một trang, kết thúc đột ngột khiến tôi hụt hẫng. Sau này, khi theo nghề viết, tôi nghĩ cấu trúc bài vậy là đủ. Tác giả đã nói hết những điều cần nói bằng những kỷ niệm đọng lại ở tuổi thơ.

20181001 Tuoi ngoc

“Tuổi Ngọc bộ cũ”, trong những ngày mưa hè tuổi nhỏ, chỉ là một cái khe cửa để người trẻ cảm nhận cuộc sống qua văn chương”. Ảnh: TL

Sau này, tôi được đọc lại bộ Tuổi Ngọc khổ lớn nhờ anh Trần Hữu Nghiêm, có bài viết trong bộ này, cho mượn. Ở số 6 ra tháng 8.1969, tôi nhận ra bài viết ở tuổi 15 của anh: bài Quê hương trong trí nhớ viết về cảm xúc từ một vùng đất cao su mà anh tả như cảnh thiên đường khiến một đứa trẻ sinh ra ở phố thị như tôi ngơ ngẩn. Ở đó có tơ trời trắng nõn như bông trôi chầm chậm, đi qua con đường mòn trong hàng cao su điểm vàng những cánh hoa nhỏ xíu sẽ thấy cánh đồng lúa đẹp như tranh thủy mặc, xa xa có vài căn nhà tranh có giàn bầu giàn bí. Trời ở đó trong sáng, soi bóng trên dòng suối lững lờ. Nhưng tác giả khiến người đọc thất vọng vì cảnh quê đã nhanh chóng thay đổi vì chiến tranh.

Anh nhìn quê hương điêu tàn sau hàng rào kẽm gai mà tiếc nuối và vẫn mong có ngày tái tạo một quê hương thật đẹp. Khi tôi bảo còn giữ ấn tượng khi đọc bài viết này hồi nhỏ, có thể tác giả không tin nhưng đó là sự thật. Nó đã chạm đến cảm xúc và khao khát hiểu biết của tôi về một chân trời xa lạ chưa đến bao giờ và một sự hủy hoại của cái đẹp chưa bao giờ được nhìn ngắm.

Có thể “Tuổi Ngọc bộ cũ”, trong những ngày mưa hè tuổi nhỏ, chỉ là một cái khe cửa để người trẻ cảm nhận cuộc sống qua văn chương, nói như Trương Trào. Ở tuổi quá trung niên, những câu chuyện trong đó đọc lại vẫn thấy cảm giác dung dị, vẫn làm xao động. Không tạo ra nhiều ẩn ý hay làm văn chương, được viết một cách chân thành, các tác giả tài năng ấy chỉ bằng lòng chân thật cũng đủ khiến người đọc, dù đã đến tuổi “ngắm trăng ngoài sân” hay “ngắm trăng trên đài cao” (Trương Trào), còn cảm xúc vẹn nguyên khi đọc lại vì chúng đã thấm đậm từ lần đầu đọc hồi thơ bé.

Nguồn: Người đô thị, ngày 30.9.2018.

Sau khi phục hồi nền độc lập vào năm 939, tổ tiên của chúng ta đã bắt tay vào việc phát triển nền kinh tế sau hàng ngàn năm Bắc thuộc, trong đó, ngoại thương đóng góp một phần quan trọng. Thương cảng Vân Đồn ra đời và hoạt động dưới thời Lý-Trần là bước khởi đầu của công cuộc phát triển thương mại ở nước ta từ các thế kỷ XII-XIII. Bước sang thế kỷ XVI-XVII, sự ra đời của các trung tâm thương mại Phố Hiến và Faifo (Hội An) đánh dấu thời kỳ cực thịnh của nền ngoại thương nước Đại Việt và thương nhân người Nhật có những đóng góp đáng kể, không chỉ riêng về mặt thương mại, mà còn trong những lãnh vực khác nữa.

Tranh cổ: châu ấn thuyền Nhật cập cảng Faifo (Hội An)

QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT-NHẬT 
Nói đến quan hệ Việt-Nhật trong lịch sử, hầu hết chúng ta nghĩ ngay đến sự hiện diện của người Nhật tại nước ta vào các thế kỷ 17 và 18. Song theo phát hiện của giáo sư Bùi Chí Trung, giảng dạy tại trường Đại học Aichi Shukutoku (Nhật Bản), một người Nhật tên Abe no Nakamaro (A Bội Trọng Ma Lữ) sống ở Trung Quốc vào thế kỷ thứ 8 và làm quan dưới đời Đường đã được vua Đường Huyền Tông cử sang An Nam đô hộ phủ (Việt Nam ngày nay) để giữ chức An Nam Tiết độ sứ. Tuy nhiên, sử sách không xác định rõ Nakamaro đã thật sự đặt chân lên đất An Nam Đô hộ phủ chưa, nếu đã thì có lẽ ông là một trong những người Nhật Bản đầu tiên đến nước ta. Cũng theo giáo sư Trung, vào cuối thế kỷ 19, nhà nghiên cứu văn hóa Yanagida Kunio có dịp đi thăm miền Trung Nhật Bản và đã phát hiện những trái dừa từ các vùng đất phía Nam bị sóng xô giạt vào bờ. Từ đó ông đề xướng thuyết cho rằng dân tộc Nhật Bản có khởi nguyên từ phương Nam, thông qua quần đảo Okinawa. Không chỉ có thế, một tài liệu khác là Nhật Bản thư kỷ (Nihon Soki) cũng đề cập đến chuyện người dân Nhật vớt được một khúc gỗ lớn trôi giạt vào bãi biển đảo Awaji ở phía Nam Kobe. Họ mang đốt chung với củi của địa phương thì ngửi thấy mùi thơm ngào ngạt bốc xa nên đặt tên loại gỗ đó là Trầm thủy (tức trầm hương). Tìm hiểu kỹ, họ biết rằng khúc trầm thủy đó xuất phát từ vùng đất Nhật Nam thuộc An Nam Đô hộ phủ dưới đời Đường. 
Nghiên cứu sự giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản và Việt Nam, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng các dòng hải lưu chảy từ phương Nam về phía Bắc đã góp phần không nhỏ trong mối quan hệ giữa Nhật Bản và các nước ở khu vực phía Nam châu Á. Mặt khác, những biến động về đường lối mậu dịch tại Trung Hoa vào nửa cuối thế kỷ 14 cũng làm thay đổi bộ mặt thương mại trong vùng. Từ năm 1371, Minh triều áp dụng một chính sách khắc nghiệt về ngoại thương, cấm thuyền dân ra nước ngoài buôn bán, “một miếng ván nhỏ cũng không được phép bơi trên biển”. Mãi đến gần 200 năm sau, vào năm 1567, vua Minh Mục tông mới bãi bỏ lệnh cấm này, cho phép thuyền dân sang các nước Đông Nam Á buôn bán, nhưng không được buôn bán với Nhật Bản. Theo tác phẩm Thuyền Xa Binh Chế Khảo của Trung Quốc, 10 năm sau khi lệnh cấm được giải tỏa, tức năm 1577, đã có 14 chiếc ghe mành của thương nhân nước này chở đồng, sắt, đồ sành sứ từ Phúc Kiến tới bán ở Thuận Hóa (Li Tana – Xứ Đàng Trong – Lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ 17 vá 18 – NXB Trẻ - 1999 – trang 88). Tuy nhiên, phải chờ đến đầu thế kỷ 17, thương nhân người Hoa mới hoạt động mạnh tại Đàng Trong, khi trung tâm thương mại Faifo (Hội An) hình thành, nơi diễn ra những cuộc buôn bán lớn giữa người Hoa, người Nhật, người phương Tây, và người bản xứ. Do tàu buôn Trung Quốc còn bị cấm đến Nhật nên Faifo đã có lợi thế trở thành nơi buôn bán giữa người Hoa và người Nhật, chính quyền của các chúa Nguyễn thu về những khoản thuế quan trọng, giúp trang trải các chi phí cần thiết cho việc phát triển dân sinh, đồng thời có đủ sức mạnh chống lại 7 cuộc tấn công của quân Trịnh trong suốt 45 năm trời (1627-1672). 
Về phần Nhật Bản, lợi thế về mặt thương mại trong suốt thời gian nhà Minh cấm người Hoa giong thuyền trên biển lại đẻ ra một tệ nạn khác: bọn hải tặc mượn danh nghĩa thương nhân Nhật hoành hành trên một vùng biển rộng lớn. Trong tình hình đó, từ trước thế kỷ 17, chính quyền nước Nhật đã áp dụng biện pháp kiểm soát chặt chẽ số thuyền bè xuất nhập bằng cách đặt ra một loại giấy phép gọi là châu ấn trạng, chỉ những thuyền buôn Nhật được cấp giấy này mới có thể vượt biển ra nước ngoài. Vì thế, từ cuối thế kỷ 16 đến những thập niên đầu thế kỷ 17, số châu ấn thuyền (thuyền được cấp châu ấn trạng) của thương nhân Nhật cập bến Đàng Trong rất nhiều. Theo tài liệu còn lưu trong các văn khố của Nhật Bản, trong quãng thời gian từ năm 1604 đến năm 1635 (thời điểm cấm hẳn thuyền buôn Nhật Bản ra nước ngoài), số châu ấn thuyền cập cảng Đàng Trong là 70 chiếc, cao hơn hết so với Đông Kinh (Đàng Ngoài) 36 chiếc, Champa 5 chiếc, Chân Lạp 44 chiếc, Xiêm (Thái Lan) 56 chiếc, và Luzon 53 chiếc. Số thương thuyền của người Hoa (do không được phép đi thẳng từ Trung Quốc sang Nhật Bản) xuất phát từ Quảng Nam (Đàng Trong) đi Nhật Bản trong thời gian từ năm 1647 đến năm 1720 là 203 chiếc, so với Đông Kinh 63 chiếc, Chân Lạp 109 chiếc, Xiêm 138 chiếc, Jakarta (Indonesia) 90 chiếc (theo Li Tana – sđd – các trang 90-91, 101). Trị giá hàng hóa do các châu ấn thuyền mang vào Đàng Trong có giá trị rất cao, tối thiểu 400.000 tiền đồng, nhiều nhất trên 1.600.000 tiền đồng. Họ mua về nhiều nhất là mặt hàng tơ sống, vải thô, trầm hương, da cá mập, đường phổi, mật ong, tiêu, song mây…. là những thổ sản phong phú trong vùng. Năm 1635, Nhật Bản nhập khẩu 220.000 kg tơ thì phần mua ở Đàng Trong là 25.000 kg. 
Trong tập hồi ký xuất bản tại Pháp vào năm 1631, giáo sĩ Cristoforo Borri đã kể lại những gì mắt thấy tai nghe trong những năm ông sống ở Đàng Trong (1618-1622). Theo Borri, thị trấn Hội An khi ấy đã chia ra hai khu vực riêng biệt, một khu vực là nơi sinh sống của người Hoa, một khu vực của người Nhật, mỗi năm phiên chợ kéo dài 4-5 tháng. Đến thập niên cuối thế kỷ 17, một hòa thượng người Trung Quốc là Thạch Liêm, pháp danh Thích Đại Sán, được chúa Nguyễn Phúc Chu mời sang Đàng Trong thuyết pháp. Trong tập Hải Ngoại kỷ sự viết về chuyến đi này, Thạch hòa thượng đã mô tả Hội An như sau: “Vì Hội An là một mã đầu lớn, nơi tập họp của khách hàng các nước; thẳng bờ sông, một con đường dài ba bốn dặm gọi là Đại Đường Cái, hai bên đường hàng phố ở liền nhau khít rịt, chủ phố thảy đều người Phúc Kiến, vẫn ăn mặc theo lối tiền triều (nhà Minh). Phần đông phụ nữ coi việc mua bán. Những khách trú ở đây hay cưới vợ bản xứ cho tiện việc thương mại. Cuối đường là cầu Nhật Bản, tức Cẩm Phố…” (Sđd – Viện Đại học Huế - 1963 – trang 154).
Bàn về quan hệ Việt-Nhật, điều đáng tiếc là nguồn sử liệu Việt Nam quá thiếu thốn, phần lớn phải dựa vào các tài liệu bên ngoài. Song cũng có điều đáng mừng là người Nhật sở hữu một nguồn tư liệu khá phong phú về mối quan hệ giữa thương nhân nước họ với nhiều nước trên thế giới, kể cả Hà Lan, Tây Ban Nha, Anh quốc. Nguồn sử liệu tiêu biểu về lãnh vực này là bộ Ngoại phiên thông thư của Kondo Juzo (1771-1829), viết xong năm 1818, gồm 27 quyển, ghi lại mối quan hệ giữa Nhật Bản với 12 quốc gia và khu vực, trong đó phần “An Nam quốc thư” chiếm 4 quyển, từ quyển 11 đến quyển 14. Ngoài ra, còn có một số tác phẩm cũng đế cập đến quan hệ giữa Nhật Bản với nước ngoài như Dị quốc vãng lai ký, Cổ sự loại uyển, Hòa văn ngoại phiên thông thư …Một trong những người Việt Nam đầu tiên có điều kiện tiếp cận với các nguồn tư liệu trên là Sở Cuồng Lê Dư, người từng tham gia phong trào Đông Du vào nửa sau thập niên 1900. Đầu thập niên 1920, trên Nam Phong tạp chí số 54 phát hành tháng 12.1921, Lê Dư trích đăng nguyên văn bằng chữ Hán những thư từ trao đổi giữa chúa Nguyễn ở Đàng Trong và vua Lê, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài với Mạc phủ của Nhật Bản. Bài viết này về sau được tác giả Nông Sơn dịch ra tiếng Việt, in trong tạp chí Văn Hóa Á Châu số tháng 3-4 năm 1958.


Châu ấn trạng (shuin-jo) do chính quyền Nhật Bản cấp cho ngư dân của họ vào thập niên 1610

Tranh cổ: cảnh thương nhân Nhật yết kiến và dâng lễ vật cho quan Trấn thủ dinh trấn Thanh Chiêm - Nguồn:  baotanglichsu.vn 

Tranh cổ vẽ một chiếc châu ấn thuyền thế kỷ 17

Nguồn: http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/quan-he-viet-nhat-thoi-trinh-nguyen-phan-tranh-i

Chuyện văn chương xưa nay vốn là của riêng cánh nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình, cơi nới một chút thì thêm cánh nhà báo. Những tưởng chuyện này vốn không có gì để bàn cãi, cho đến khi khái niệm copywriter ra đời. 

Copywriter, hiểu nôm na là những người viết quảng cáo, cái danh xưng ấy bản thân nó đã mang hai tiếng “writer” - người viết, dù giới viết lách truyền thống hiếm ai thừa nhận copywriter ở ngang trình độ với các writer thứ thiệt. Và họ sẽ tiếp tục không thừa nhận, cho đến khi, tình cờ, họ đọc được một đoạn quảng cáo của lọ Chanel No.5 chẳng hạn.

Khái niệm văn chương bành trướng

Trước khi quay trở lại chủ đề liệu quảng cáo có nên được xếp như một chi mới trong họ nhà “Văn” hay không, hãy thử nhìn vào sự mở rộng của biên giới văn chương theo dòng thời gian cái đã.

Năm nay, Viện Hàn Lâm không trao giải thưởng Nobel Văn học, còn vào năm ngoái, họ trao cho Kazuo Ishiguro, một văn sĩ lão làng được lòng từ giới phê bình lắm điều đến khán giả đại chúng hời hợt và cả “bè lũ” Hollywood vốn giỏi đánh hơi ra tiền - ngắn gọn là không có gì để bàn cãi. Nhưng liên tiếp 2 năm trước đó thì không sóng yên bể lặng như thế.

Năm 2015, khi dân cá cược đang thi nhau đặt cửa cho Haruki Murakami và Ngugi wa Thiongo thì một tin “sét đánh ngang tai” đến: giải Nobel Văn học được trao cho Svetlana Alexievich. 

Chuyện không ai biết người phụ nữ này là ai đã đi một nhẽ nhưng vấn đề lớn hơn nằm ở chỗ Svetlana là một nhà báo và thể loại sở trường của bà là các loại sách phi hư cấu (non-fiction). Svetlana không phải người đầu tiên được vinh danh dù không theo lối văn chương truyền thống. 

Trước bà đã có Theodor Mommsen, Bertrand Russell và Winston Churchill - những người viết luận hoặc viết sử. Nhưng dù sao cũng đã hơn 50 năm qua chuyện này không lặp lại.

Chúng ta sống trong thế giới toàn quảng cáo. Ảnh: L.G.

Một số nhà bình luận gật gù trước quyết định của Viện Hàn lâm vì đã thừa nhận vai trò của thể loại phi hư cấu - đứa con ghẻ của văn học. Và thành thực là, không ai đọc tới đoạn các nữ chiến sĩ lao ra con sông dẫu bên kia quân thù đang bắn, chỉ vì các cô muốn gột sạch dấu vết của kì kinh nguyệt, mà lại không xúc động rơi nước mắt. 

Văn chương phi hư cấu cũng có sức lay động không khác gì văn chương hư cấu vậy. Nhưng, nhiều người không nghĩ như thế. Và họ gần như phát điên vì sự kiện này. “Các cây viết phi hư cấu chỉ là công dân hạng hai. (...) Chúng tôi không thể hiểu được. Nó làm tôi phát cáu” - một phản ứng của giới nhà văn trưởng giả.

Lùm xùm của Nobel Văn học năm 2015 mới lắng xuống chưa được bao lâu thì Viện Hàn lâm lại khiến văn đàn xôn xao một lần nữa khi năm 2016, Hội đồng Hoàng gia trao giải Nobel cho Bob Dylan - một nhạc sĩ. Người ta vẫn thường gọi Dylan là nhà thơ trong âm nhạc. Không ai phản đối hết. 

Nhưng nếu dừng lại là nhà thơ của âm nhạc thôi thì được, chứ "nhà thơ" nhận giải Nobel ư? Không thể tưởng tượng nổi. Còn hàng tá các nhà văn nhà thơ đích thực đang chờ đến lượt mà chưa được, tại sao Bob Dylan được ưu ái? Hẳn lại là một sự can thiệp về chính trị đang diễn ra?

Trong diễn từ nhận giải của mình, chàng lãng tử du ca một thuở cố gắng phân trần sự công bình của giải thưởng, rằng hãy nhìn Homer - người đã nói “Hãy hát tôi lên, nàng thơ, và thông qua tôi, hãy kể những câu chuyện của mình”, và hãy nhìn Shakespeare - các vở kịch của Shakespeare là để diễn trên sân khấu, chứ không phải để đọc trên giấy, thì những lời thơ của Dylan cũng vậy, được dùng để hát chứ không dùng để đọc chay. 

Lý lẽ nghe rất xuôi tai. Nhưng chẳng ai quan tâm cả. Người ta chỉ quan tâm tới nghi án bài diễn từ của Bob Dylan đạo văn trên mạng. Cụ thể là đạo đoạn tóm tắt tiểu thuyết Moby Dick trên một website phân tích văn chương. 

Có người hóm hỉnh nhận xét: hội đồng xét tuyển lười đọc nên lựa tạm một ông nhạc sĩ nhận giải, ai dè ông nhạc sĩ cũng lười đọc nốt nên đi... đạo tóm tắt.

Mặc dù thế, sự thừa nhận từ giải thưởng văn chương danh giá nhất hành tinh đã chính thức làm những biên giới văn chương bốc hơi. Mọi thứ đều có thể là văn học: từ phóng sự, lời bài hát, đến luận văn, hồi ký, sử học, bên cạnh những thể loại cũ như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, tạp văn. Đó dường như là một quy luật rất đỗi tự nhiên. 

Sự phân biệt thể loại ngày càng phức tạp: Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân vừa là truyện ngắn mà cũng là tùy bút. Phù dung ơi, vĩnh biệt của Vũ Bằng là tiểu thuyết mà cũng là hồi ký. Bỉ vỏ là tiểu thuyết có tính phóng sự.

Còn nói về văn học phương Tây, có thể nhìn rõ nhất vào trường hợp tiểu thuyết Cold blood (nhan đề tiếng Việt là Máu lạnh) của Truman Capote. Cuốn tiểu thuyết theo chân một vụ án có thật và gần như là một bản phóng sự mang tính văn chương. 

Khi mới ra mắt, một số người cười nhạo rằng thể loại này thì đến một cây bút bất tài của tờ New Yorker cũng dễ dàng viết được. Nhưng thời gian đã chứng minh Cold blood là một kinh điển của lịch sử văn học.

Quảng cáo là môn nghệ thuật đích thực?

Vậy thì liệu chăng có một ngày nào đó, copywriting - viết quảng cáo cũng được thừa nhận như một nhánh của văn học hay không, mặc dù điều này thoạt nghe thì thấy giống như một sự “sỉ nhục” dành cho những người viết “chân chính”.

Lưu Quang Vũ từng viết: “Ta đã làm gì? như lũ viết thuê/ Chạy theo những biển hàng ngắn ngủi (...)”. Âu cũng là một cách khinh bạc nghề bán chữ cho mục đích kinh doanh thuần túy, còn nghệ thuật ở mức độ tối cao, nó đâu cần tiền, nó khinh rẻ tiền và những chiêu trò thương mại.

Trong một cuốn tiểu thuyết của mình, George Orwell đã đả kích quảng cáo bằng cách xây dựng nhân vật chính là một người đàn ông với nhiều tham vọng viết văn nhưng mắc kẹt trong công việc của một kẻ viết quảng cáo, cả ngày chỉ tìm cách nặn ra những câu vần vần bắt tai. 

Gần hơn, Frédéric Beigbeder châm biếm copywriter trong chân dung của một kẻ bị chủ nghĩa tiêu dùng biến thành nô lệ. Điều đó vẫn tương đối đúng trong thời điểm hiện tại, khi mà với nhiều doanh nghiệp, triết lý quảng cáo vẫn đi theo lối càng ngớ ngẩn càng dễ tiếp cận công chúng.

Nhưng trong một xã hội tri thức, những nguyên tắc cũ cũng dần lỗi thời.

Bạn có tin được không, khi Salman Rushdie - tác giả của những cuốn tiểu thuyết đồ sộ ngồn ngộn chữ với một vốn từ khổng lồ - đã từng trưởng thành nhờ nghề copywriter? 

Trước khi viết Những đứa trẻ lúc nửa đêm, Rushdie là tác giả của những câu slogan huyền thoại trong ngành quảng cáo. 

Đáng nhớ nhất có lẽ là câu “Nhìn vào gương ngày mai - bạn sẽ thích những điều bạn thấy” cho tờ báo lá cải Daily Mirror (ông chơi chữ từ “Mirror” nghĩa là tấm gương).

“Góp một tay cứu lấy động vật hoang dã”, thông điệp quảng bá ngắn gọn nhưng đủ sức nặng cộng hưởng với hình ảnh thiết kế sáng tạo khiến cho chiến dịch bảo vệ động vật của một tổ chức phi chính phủ gây ảnh hưởng mạnh mẽ lên cộng đồng.

Vậy Salman Rushdie nói gì về việc viết quảng cáo? Ông cho hay: “Nó dạy cho tôi cách viết lách như một công việc nghiêm túc. Giả sử bạn có một vị khách tới vào buổi chiều với ý tưởng về chiến dịch quảng cáo sắp tới của họ, bạn không thể nói: Tôi có thể sẽ viết ra một cái gì đấy. Bạn phải viết ra một cái gì đấy. Chưa hết, cái bạn viết ra còn phải hay”.

Tuy điều này không có giá trị chứng minh copywriting nên được xếp chung với văn chương nhưng nó cho thấy việc viết quảng cáo cũng là một công việc phức tạp, đòi hỏi sự động não không thua gì viết một bài thơ cả. 

Văn phong quảng cáo, thường xuyên, khá đơn giản, nhưng Hemingway cũng là người hành văn đơn giản và hầu như không bao giờ sử dụng những từ ngữ lạ. Chính xác thì các copywriter ngày nay coi Hemingway như chuẩn mực của một bài quảng cáo hiệu quả. Và viết như Hemingway thì dễ sao?

Không chỉ Salman Rushdie mà nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng đá qua đá lại với ngành quảng cáo, trong số đó phải kể tới F. Scott Fritzgerald, Martin Amis, Don Delillo, Joseph Heller - toàn những nhân vật có tác phẩm lọt vào danh sách 100 tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20.

Từ sự ra đời của series tranh cà chua đóng hộp hiệu Campbell của nghệ sĩ trường phái Pop-art Andy Warhol, người ta đã dần (một cách tự nguyện hay miễn cưỡng) công nhận các hình ảnh quảng cáo cũng là một phần hội họa. 

Sự sáng tạo trong các thiết kế quảng cáo, từ Louis Vuiton cho đến Coca-cola, có lẽ chỉ phân biệt với các sản phẩm nghệ thuật thuần túy ở mục đích chứ không phải vì gu thẩm mỹ kém tinh tế.

Cũng như vậy, copywriting cũng có thể được viết với cùng tầm vóc của một bài thơ đích thực, nên không có lí do gì để từ chối kết nạp nó như một anh chị em họ xa của viết lách truyền thống, nhất là trong thời đại mà biên giới văn chương đã mờ nhòe?

Và hãy thử đọc những dòng này: “Bộ hành trên con đường thanh xuân, qua miền đất ấu thơ, qua căn nhà, qua những gì có thực. Ở bên tôi, chỉ lối cho tôi, luôn đứng kề sát tôi. Cho tôi tự do. Tự do. Hãy lang thang qua nơi đây, rộng lớn và quen thuộc. Sân chơi ngày nào trong kí ức. Chúng ta là những kẻ lữ hành, không bao giờ lạc lối...”.

Bạn nghĩ đó là một bài thơ ư?  Hoàn toàn không. Bạn có thể bất ngờ, nhưng đó là một đoạn quảng cáo về Johnny Walker.

Hiền Trang

Nguồn: An ninh thế giới cuối tháng, ngày 17.9.2018.

Li Tana sinh năm 1953, tốt nghiệp cao học về lịch sử Việt Nam ở Đại học Bắc Kinh (1983), trình luận án tiến sĩ về lịch sử Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 tại Đại học Quốc gia Úc năm 1992. Hiện bà Li Tana công tác ở Trường Nghiên cứu Châu Á và Thái Bình Dương, Đại học Quốc gia Úc.

Quyển sách của bà, Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 và 18, đã được dịch sang tiếng Việt và do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 1999.

Bài dưới đây viết về vương quốc của họ Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18, được biết đến với tên gọi Đàng Trong, hay người Phương Tây gọi là Cochinchina. Chỉ trong vòng 200 năm, nó đã kiểm soát phần diện tích bằng ba phần năm lãnh thổ nước Việt Nam ngày nay. Những trải nghiệm của việc mở rộng biên giới về phía nam này có vẻ như đặt vấn đề về hình ảnh của một Việt Nam rất khác so với vùng lãnh thổ phía bắc khi đó, mở ra cánh cửa đến một thế giới khác, thế giới mà trong đó sự đa dạng được chấp nhận và tận dụng cho sự phát triển của chính Việt Nam.- Người dịch

Vương quốc của họ Nguyễn thế kỷ 17 và 18, kiểm soát khu vực mà sau này Tây Phương biết đến với cái tên Cochinchina, có gốc rễ tại khu vực miền Trung của Việt Nam thời hiện đại. Biên niên sử nhà Nguyễn mô tả Nguyễn Hoàng, giữ chức trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, nơi khi đó đánh dấu đường biên giới phía nam của Đại Việt, là người sáng lập vương quốc phía nam. Chiến tranh nổ ra năm 1627 giữa nhà Nguyễn ở phương nam và chính quyền Le–Trịnh. vốn kiểm soát khu vực từ Nghệ An đến đồng bằng sông Hồng. Bằng việc tạo dựng một nhà nước mới, nhà Nguyễn đặt mình vào vị trí phản loạn đi kèm với nguy hiểm vì họ yếu hơn phe chúa Trịnh ở gần như mọi mặt. Miền Bắc có những định chế vững chắc từ lâu, lãnh thổ rộng gấp ba, bốn lần so với nhà Nguyễn, và sức mạnh quân sự của họ cũng lớn hơn. Ngoài ra, phe họ Trịnh được thành lập ở một khu vực mà dân cư là người Việt và nghĩ là họ cai trị người của dân tộc mình, trong khi chính quyền nhà Nguyễn cai trị vùng đất từng thuộc Champă, một vương quốc Ấn hoá có những truyền thống khác hẳn so với người Việt [1] . Tuy nhiên, chính quyền nhà Nguyễn đã không chỉ tồn tại, đánh bại bảy chiến dịch của họ Trịnh, mà còn lần hồi đẩy biên giới vào sâu phía nam, kiểm soát ba phần năm phần lãnh thổ tạo thành nước Việt Nam ngày nay chỉ trong khoảng thời gian 200 năm. Vì sao những thế lực hoạt động trong môi trường mới lại tồn tại và thành đạt, trong khi thế lực vẫn ở lại trong môi trường quen thuộc thì chùn bước?

Không gian để tung hoành và sự phát triển của các yếu tố xã hội mới có vẻ đã cung cấp một sự kích thích trọng yếu cho điều mà sau đó sẽ phát triển thành một xã hội và thực thể tách khỏi mô hình Nho giáo của triều Lê. Những khác biệt này có thể được thấy ở nhiều khía cạnh đời sống [2] . Nếu dân số tăng trưởng và chu kỳ thiên tai gia tăng [3] đã khiến cuộc sống ngày càng bất ổn và nghèo đi ở phương bắc của Lê / Trịnh, thì ở phương nam của họ Nguyễn, sự trù phú thiên nhiên lại thắng thế và dân số thì ít. Nếu các tai hoạ kinh tế, chính trị từ cuối thế kỷ 16 đến đầu thế kỷ 18 đã buộc người nông dân xứ bắc phải bỏ nhà, lang thang sang vùng đông nam hay tây bắc, thì các gia đình người Việt ở vương quốc nhà Nguyễn năng động lại sẵn lòng di dời để sống chung với những dân tộc khác ở vùng biên thay đổi, rộng mở.

Từ thế kỷ 17, đồng bằng sông Hồng không còn là trung tâm duy nhất của văn minh Việt: một trung tâm mới – Phú Xuân (Huế) – đã thách thức Thăng Long (Hà Nội), và một khu kinh tế xã hội quan trọng thứ hai – Thuận Quảng – hình thành cách xa khỏi đồng bằng sông Hồng. Đây không đơn thuần là một sự mở rộng về nam của xã hội và nền kinh tế cũ của người Việt, mà đúng hơn, một xã hội mới đã phát triển, với một nền tảng văn hoá khác và những hoàn cảnh kinh tế, chính trị khác. Là cư dân của một khu vực mà chính quyền thù địch Lê / Trịnh chưa bao giờ chính thức từ bỏ quyền kiểm soát, người ở phía nam Việt Nam mô tả lãnh thổ của họ là “Đàng Trong” và gọi khu đồng bằng sông Hồng phía bắc là “Đàng Ngoai”. Cách dùng từ như vậy thể hiện rõ rệt là họ xem phương nam như một thực thể riêng, và sự trỗi dậy của những khác biệt giữa hai khu vực tương đương với hai cách làm người Việt khác nhau [4] .

Sự hình thành Đàng Trong là một sự thay đổi sâu sắc và căn bản trong lịch sử Việt Nam, mà tầm quan trọng có thể so sánh với việc Việt Nam giành lại độc lập từ Trung Quốc thế kỷ 10. Thoạt nhìn, những sự kiện này có vẻ, giống như cách chúng thường được mô tả trong sách sử chính thức hồi thế kỷ 19, không hơn gì mấy một câu chuyện về sự sống còn và cuối cùng thành công của một gia đình đã thất thế ở Thăng Long. Thế nhưng, những thành công của nhà Nguyễn đã tạo nên một xã hội mới và một văn hoá mới. Các yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định: trong vài thập niên ngắn, dù là một khu vực mới mở, ít dân hơn, và vào giai đoạn này còn nhỏ hơn đồng bằng sông Hồng, nhưng Đàng Trong trở nên giàu có và mạnh hơn vùng đất phương bắc (mặc dù không đủ mạnh để lật đổ họ Trịnh). Cả điều kiện kinh tế của người dân và sự cởi mở có thể so sánh của xã hội tại Đàng Trong tương phản một cách có lợi so với cái gọi là “chính quyền trung ương” của vương quốc nhà Lê. Những lợi thế này lập thành nền tảng của quá trình nam tiến mà cuối cùng đưa họ đến đồng bằng sông Mekong [5] . Đàng Trong trở thành đầu tàu thay đổi mang tính lịch sử, và kéo trọng tâm quốc gia – dù là được nhìn theo nghĩa chính trị, kinh tế hay thậm chí văn hoá – về hướng nam từ thế kỷ 17 cho đến khi người Pháp áp đặt sự cai trị [6] .

Một miền Nam hữu Phật, phi Nho

Đối với người Việt trong thế kỷ 16 và đầu 17, phương nam, và cái ý niệm về nơi này, mang ý nghĩa không chỉ là một nơi để sống. Vùng đất phương nam hứa hẹn nhiều lựa chọn. Việc giữ vị trí là “phản loạn” hay “bất hợp pháp”cho nhà Nguyễn một cảm thức tự do được thử mọi thứ có khả năng thực hiện mà không phải tham khảo những quy chuẩn ràng buộc của luân lý Nho giáo. Ví dụ, một điều chưa từng có trong lịch sử Việt Nam, nhà Nguyễn cho phép người Nhật và Trung Quốc làm quan, và cho người Tây phương có vị trí trong triều, ngay cả nếu chỉ làm thầy thuốc. Đồng thời, việc họ sống trong một phần của thế giới Đông Nam Á cho phép cư dân Việt mượn, pha trộn và hấp thu rộng rãi từ các nền văn hoá của người Chàm và các dân tộc khác trong khu vực.

Trong những hoàn cảnh như thế, chế độ nhà Nguyễn thấy có lợi khi họ nhấn mạnh tính cách địa phương của mình. Khi xưng vương năm 1744, Nguyễn Phúc Khoát tự hào tuyên bố, “Nhà nước ta, phát tích Ô châu” [7] , dùng cái tên có màu sắc địa phương mạnh để chỉ nơi xuất thân của hoàng gia và nhiều quan cao cấp. Châu Ô nhấn mạnh một nhận thức về Đàng Trong như một đất nước riêng đã phát triển kể từ đầu thế kỷ 17. Sự nhận diện này thực tế bao hàm hai ý nghĩa: một đất nước ngang hàng với miền bắc và một chế độ mang chất địa phương với người địa phương, chứ không mang tính xa lạ. Cái cảm thức thứ hai này liên quan đến tính chính danh và sự tự tin của nhà Nguyễn.

So sánh với miền bắc, nơi chế độ thi cử kiểu Trung Hoa bảo đảm rằng Nho giáo không bao giờ để mất sức hút đối với giai tầng sĩ phu tinh hoa, tư tưởng Nho giáo lại chỉ đóng vai trò xã hội, chính trị nhỏ hơn nhiều ở Đàng Trong. Tôi mượn lời của Nola Cooke:

Nho giáo ở Đàng Trong trở thành chuyện lựa chọn và thực hành cá nhân, ở một mức độ không thấy có ở miền bắc kể từ thế kỷ 13. Trên thực tế, vị trí của nó trong không gian tư tưởng ở phương nam khiêm tốn đến nỗi không ai màng đến việc ghi chép lại sự kiện khi một ngôi đền nhỏ kiểu Văn Miếu đầu tiên được dựng lên ở đó. [8]

Nhưng nhà Nguyễn không loại bỏ các truyền thống Việt Nam khác; đặc biệt, họ lấy Phật giáo Đại thừa làm giải pháp cho nhu cầu tinh thần và ý thức hệ cho một tông tộc cai trị mới. Phật giáo một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt và củng cố tính hợp pháp cho các nhà cai trị họ Nguyễn. Từ Nguyễn Hoàng trở về sau, các chúa Nguyễn thời kì đầu tất thảy đều là những tín đồ sùng mộ Phật giáo. Ít ai có được sự tha thiết như vị chúa thứ sáu, Nguyễn Phúc Chu (cai trị từ 1691 đến 1725), người tự nhận mình thuộc thế hệ thứ 30 của dòng thiền Lâm Tế [9] . Sự khẳng định này làm nhớ lại những vị vua triều Lý thế kỷ 11, những người trở thành thế hệ thứ nhất, thứ ba và thứ năm của dòng thiền Thảo Đường, và cũng gợi lại các vị vua Trần, Thái Tôn và Nhân Tôn, nổi tiếng với thiền phái Trúc Lâm. Nhưng người ta không thấy có điều gì tương tự tại miền bắc Việt Nam kể từ khi nhà Lê thành lập, mà nền tảng của nó gắn với các lý thuyết chính trị cổ điển Trung Quốc. Tại miền Bắc, vua là đỉnh cao của xã hội, là liên hệ trực tiếp với ông trời, và vì thế đứng cao hơn mọi người. Tại đây, nếu một vị vua lại chỉ là một trong nhiều thế hệ kế tiếp của bất kỳ tông phái tôn giáo nào cũng sẽ bị xem là giảm giá trị. Tuy nhiên, thoát khỏi những ràng buộc vương quyền như thế, các vua Nguyễn ở Đàng Trong thoải mái hành đạo như họ muốn. Phật giáo nở rộ với sự ủng hộ của nhà Nguyễn, đến mức năm 1749, nhà lữ hành Pháp, Pierre Poivre, tường thuật rằng chỉ riêng ở quanh Huế đã có khoảng 400 ngôi chùa, cùng nhiều chùa ở các nơi khác [10] .

Nhắc đến đạo Phật, sự khác biệt bản chất thật sự giữa hai thực thể ở phía bắc và phía nam thể hiện ở tầm mức triều đình, tức là việc nhà Nguyễn trước sau như một bảo vệ Phật giáo và thực tế đã đưa nó thành tôn giáo nhà nước của Đàng Trong. Phải thừa nhận rằng cả các vua Lê lẫn chúa Trịnh ở phía bắc cũng bảo trợ Phật giáo trong những thế kỷ này, trong một số trường hợp cũng rất nhiệt thành. Vào cao trào ảnh hưởng của giới nho sĩ trong thập niên 1660, và chỉ vài năm sau khi các học giả đã soạn một chỉ dụ luân lý gồm 47 điều chịu ảnh hưởng Hán hoá, công kích các hành vi mê tín và hạn chế việc xây lậu các chùa Phật [11] , thì chính họ Trịnh đã mời các nhà sư Trung Hoa vào để khôi phục Phật giáo tại địa phương năm 1667. Các hoàng thân nhà Trịnh thường xuyên thăm các địa điểm Phật giáo, đi lễ, trong khi một thành viên trong gia đình họ còn lập một chi phái mới. Tuy nhiên, dù có sự bảo trợ cấp cao này, không người nào ở miền Bắc lại tin rằng Phật giáo có thể thách thức các quan niệm chính trị và ý thức hệ chính thức kiểu Trung Hoa vốn là “nguyên tắc căn bản của nhà nước” [12] . Thật ra, Phật giáo được khuyến khích ở miền Bắc chỉ ở trong mức độ nó là phương tiện giải thoát cá nhân, không trở thành đe doạ cho trật tự chính trị [13] . Nếu làm khác đi, Phật giáo chắc chắn sẽ bị kiểm soát chặt chẽ như Thiên chúa giáo, tôn giáo có nguồn gốc ngoại quốc và dính líu Châu Âu mà đã gây nghi ngờ cho cả chính quyền ở phía bắc và phía nam thời kì đó.Việc Phật giáo miền Nam mang tính tổng hợp (syncretic) giúp nó có sự thu hút rộng rãi hơn. Ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Huế, chùa Thiên Mụ, là một ví dụ ấn tượng chứng tỏ các dòng tôn giáo khác nhau đã kết hợp ra sao, và làm thế nào mà, từ Nguyễn Hoàng trở về sau, các nhà cai trị lại có thể đan kết những thành phần khác nhau này thành một mô hình tôn giáo bản địa hợp thuỷ thổ và giúp hỗ trợ cho quyền lực của họ. Chùa Thiên Mụ toạ lạc trên một ngọn đồi có phong thuỷ mạnh tới nỗi, theo truyền thuyết địa phương kể, nó đã buộc một viên quan Trung Quốc thế kỷ 9 (Cao Biền) phải tìm cách cắt yểm đi bằng việc đào hào phía sau chân núi. Địa điểm này cũng có một ngôi đền quan trọng thờ nữ thần Po Nagar. Theo truyền thuyết Việt Nam, năm 1600, một vị nữ thần hiện ra trong hình dáng một bà lão, mà sự mô tả về bà kết hợp những yếu tố của thần Po Nagar và nữ thần của Lão giáo. Bà nói bậc quốc chủ đã đến và sẽ khôi phục vượng khí linh thiêng bằng việc lập chùa thờ Phật, cầu thỉnh linh khí trở về nơi núi này. Chúng ta có thể không bao giờ biết liệu lời tiên tri này được loan ra trước hay sau khi Nguyễn Hoàng hoàn tất điềm linh ứng bằng việc cất dựng chùa vào năm 1601. Điều quan trọng ở đây là khi vị chúa Nguyễn đầu tiên cất dựng chùa Phật ở điểm linh thiêng này, ông đã làm một cử chỉ có tầm quan trọng chính trị. Nếu quả như nhận định của Nguyễn Thế Anh, đây là một sự xây dựng mang tính biểu tượng tại một nơi đã có sẵn ngôi đềm mà thần linh ở đấy chưa được nhà Lê chính thức sắc phong, thì hành động của Nguyễn Hoàng lại càng mang đậm nét ý nghĩa địa phương hơn [14] .Còn về thần Po Nagar, nữ thần lớn của người Chăm này mau chóng được Việt hoá thành Thien-Y-A-Nâ, và khu vực xung quanh Huế sau đó có nhiều ngôi đền thờ bà. Vào đầu thế kỷ 20, Leopold Cadiere đếm thấy số lượng đền còn tồn tại nhiều đến mức Nguyễn Thế Anh đặt giả thiết là “trung tâm quyền lực của nhà Nguyễn đã luôn gắn trong một môi trường chịu ảnh hưởng sâu sắc của vị thần này” [15] . Chắc chắn tại khu vực này, việc thờ phụng bà diễn ra tự do và gần gũi với gốc gác Chăm. Còn có thêm nhiều vật thờ giữa những người dân bình thường, như thờ đá, thờ cá sấu, thờ cọp [16] . Poivre viết: “Núi, rừng, sông, ngòi, ký ức về tổ tiên, lòng kính trọng đối với người đã khuất, và đặc biệt thần là thánh, đều là đối tượng của việc thờ cúng. Mỗi người có một vị thần cho óc tưởng tượng của mình” [17] . Mặc dù tôn giáo dân gian ở miền Bắc cũng có đền thờ bách thần gồm các loài thú hay cây cỏ, nhưng chính quyền tại đó cố gắng thực thi các biện pháp “thanh luyện xã hội”. Ở Đàng Trong không xảy ra điều tương tự; tại đây, nhà Nguyễn tìm cách bảo trợ thay vì trừng phạt các vị thần địa phương, công nhận rằng các vị thần miền Nam cũng đa dạng như chính xã hội miền Nam.

Những điểm tương tự với các khu vực khác của Đông Nam Á cũng thể hiện qua khái niệm vương quyền. Như O.W. Wolters đã chỉ ra, tại Đông Nam Á, “địa vị của vua là độc nhất vô nhị chỉ bởi vì đó là một địa vị có tính cách tôn giáo” [18] . Đây có lẽ là lý do nhà Nguyễn đã xưng là Chúa Tiên hay Thiên Vương vào năm 1744, sau khi đã từng dùng tên hiệu chúa Sãi. Đại Sán, một vị sư Trung Quốc đến thăm Nam bộ năm 1695 nhận xét rằng cung điện của Nguyễn Phúc Chu trang hoàng bằng cờ Phật, rèm trướng, cá gỗ, những quả chuông lộn ngược giống như một ngôi chùa [19] . Làm như vậy, nhà Nguyễn chứng tỏ với thần dân là họ kết hợp uy quyền hoàng gia và tôn giáo ở Đàng Trong, và thể hiện bản sắc văn hoá và quốc gia của họ trước người Việt trong lúc cũng thể hiện với dân địa phương là họ tiêu biểu cho quyền lực cao nhất tại khu vực này. Có lẽ đi theo dấu của các láng giềng phương nam, những hành vi của nhà Nguyễn giống những điều mà các nhà cai trị các vương quốc như Chămpa và Campuchia đã làm trong nhiều thế kỷ. Họ Nguyễn cũng phân biệt mình với họ Trịnh, vốn còn chấp nhận ý niệm Nho giáo rằng hoàng đế chỉ là con trời, chứ không phải là trời [20] .

Mô hình phi Nho giáo này có hiệu quả trong xã hội Đàng Trong đến mức nó cho phép người Việt tại đó sống theo một cách khác với người bắc. Vào cuối thế kỷ 18, đáng chú ý khi thấy một viên tướng Tây Sơn ở Nghệ An chế giễu đền xã tắc, một khái niệm Nho giáo quan trọng được kính ngưỡng ở miền Bắc (Xã là nền xã thờ Thần Đất. Tắc là nền tắc thờ Thần Nông). Viên tướng nói: “Cẩu hữu lợi ư xã tắc [Một con chó cũng còn hữu dụng hơn xã tắc]” [21] . Khái niệm thần này hầu như không được dân chúng ở Đàng Trong biết tới; theo nhà nghiên cứu Tạ Chí Đại Trường, các đền xã tắc không xuất hiện cho mãi đến đời vua Minh Mạng (1819-1841), khi triều Nguyễn, lúc này đã cai trị toàn Việt Nam, có nỗ lực thống nhất tư tưởng tôn giáo trên toàn quốc [22] . Tình tiết này minh hoạ sự khác biệt ngày càng tăng trong tín ngưỡng giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài sau hai thế kỷ phân cách. Nhiều giá trị cũ ở miền Bắc đã đánh mất ý nghĩa của chúng, trong khi một điều mà người bắc xem là dị giáo như một nữ thần Chăm lại trở nên có ý nghĩa cho người Đàng Trong. Phật giáo – trong nhiều thế kỷ bị giới sĩ phu cuối thời Trần và Lê phê phán – lại trở thành tôn giáo chính, ở cả mức độ chính sách lẫn tín ngưỡng quảng đại ở Đàng Trong.

Tính di động dễ dàng ở miền Nam cũng trực tiếp xung khắc với tính cách ưu tiên của tập thể, một giáo lý căn bản của Khổng giáo nhấn mạnh giá trị của nhóm xã hội – gia đình, làng – hơn là nhu cầu hoặc mong ước của những thành viên của nó. Khi cách ly, các cá nhân không có bao nhiêu giá trị hay định hướng, mà cá nhân chỉ đáng kể khi hoàn thành một loạt những quan hệ cố định bên trong cộng đồng. Nói cách khác, bất kì ai không có địa vị trong một nhóm xã hội như gia đình hay làng, thì không thực sự là một nhân vị và đừng hy vọng có tương lai tốt đẹp hơn trong một xã hội làng xã truyền thống. Những con người này dường như đã là một trong những dòng di cư Việt chính vào miền Nam. Như một nhà nghiên cứu, Huỳnh Lứa, mô tả, miền Nam là một nơi dành cho “những người đã không có quyền sống trên vùng đất cũ” [23] . Hickey cũng nhấn mạnh điểm này:

Với ngôi làng mới [của miền Nam] được thành lập bởi những người có địa vị thấp chứ không phải bậc vị vọng của xã hội cổ truyền, một số lượng tri thức riêng tư liên quan những phương thức cũ không tránh khỏi bị mất đi… Tuy vậy, cũng theo lý lẽ đó, những người khai hoang lại ít chịu ràng buộc bởi những gò bó của một địa vị xã hội và những quy định trong cách hành xử của xã hội cũ, vì thế họ được tự do sáng tạo, một đặc điểm thiết yếu cho việc thay đổi thành công (và tồn tại) khi họ tiếp tục tiến xuống phía nam. [24]

Những hoàn cảnh như vậy khiến con người cởi mở và tự phát hơn, để trở thành những người dám chịu rủi ro như Nguyễn Hoàng, người mà Keith Taylor đã tinh tế mô tả là “dám mạo hiểm mà không sợ bị quy là phản loạn, bởi vì ông đã tìm thấy một nơi mà chuyện gán ghép này không còn ý nghiã” [25] . Đó là một thế giới rộng hơn, và cho con người cảm thức lớn hơn về tự do.

Những khía cạnh xã hội của quá trình địa phương hoá của người Việt

Tính chất tứ xứ lưu dân của Đàng Trong lại được thay đổi thêm bởi môi trường trong những ngày đầu. Đất rộng người thưa, lắm cá nhiều tôm thiên nhiên trù phú – đây là một tình trạng giống với các láng giềng của Đàng Trong ở Đông Nam Á hơn là khu vực Đàng Ngoài ở miền Bắc. Vì thế, cũng tự nhiên khi họ đón nhận những khía cạnh của cuộc sống vật chất của người khác tại đây.Ví dụ, chúng ta biết cho đến cuối thế kỷ 18 đa số các ngôi nhà của thường dân tại Đàng Trong là loại nhà cất trên cọc giống như ở các nước Đông Nam Á khác, và một loại tàu của Mã Lai, ghe bàu, đã được sử dụng rộng rãi từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19. Loại ghe này gần như chắc chắn được người Việt làm theo mẫu của người Chăm, vì người Chăm buôn bán nhiều với người Mã Lai, và khu vực có loại thuyền này trải dài từ Hội An xuôi xuống phía nam đến Thuận Hải [26] , là vùng đất đã có người Chăm cư trú. Một số nhà nghiên cứu Việt Nam thậm chí còn đặt giả thuyết là không chỉ kỹ thuật, mà đến cả từ ghe và bàu đều là mượn của Mã Lai. Họ chỉ ra sự giống nhau của từ ghe trong tiếng Việt và từ gai trong tiếng Mã Lai (một sợi dây thừng hay dây néo cột buồm), và cho rằng từ bàu là đọc trại đi của từ prahu của Mã Lai (một thuyền nhỏ) [27] . Sự tương tự đủ mạnh để John Barrow, năm 1793, nhận xét rằng các con thuyền lớn ở vùng Tourane giống các thuyền buồm Mã Lai cả về thân ghe lẫn chằng néo các cột buồm [28] .

Ảnh hưởng Chăm cũng được thấy trong kỹ thuật làm ruộng của người Việt. Cái cày mà người Việt dùng ở đồng bằng sông Hồng và sông Mã không mạnh ở phần đế và có một cái lưỡi nhỏ. Loại cày này phù hợp cho loại đất không rắn lắm, và ở nơi ít cỏ. Những điều này đáp ứng các đặc tính đất đai ở phía bắc – đã được cày cấy trong cả ngàn năm bởi một dân số đông đúc – và loại cày này chỉ tìm thấy ở phía bắc sông Gianh, nơi đánh dấu biên giới giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong. Ở Đàng Trong, người Việt gặp phải loại đất cứng, cỏ dầy, và khó trồng trọt. Để trở đất, người Việt đã mô phỏng cái cày của người Chăm, vốn chắc hơn, đặc biệt ở phần đế, nhưng người Việt cũng chế thêm một cái nang để điều chỉnh góc. Các bộ phận của cây cày lấy từ mô hình Chăm thì giữ tên gọi theo tiếng Chăm, trong khi các phần gắn với cái nang thì mang tên Việt (to nang hay tế nang). Loại cày mới này được người Việt mang theo khi họ chuyển đến đồng bằng sông Mekong [29] .

Tại miền trung Việt Nam, văn hoá Chăm cũng có ảnh hưởng rộng lớn đến độ ngày nay ta vẫn thấy những ảnh hưởng này trong nhiều phong tục: từ việc ăn gỏi đến cách thức đội khăn [30] , chôn cất người chết trong huyệt theo kiểu người Chăm mặc dù người Việt không nhất thiết đã hiểu rõ nguồn gốc của những tập tục này [31] . Đáng ngạc nhiên, ngay cả mắm nêm tiêu biểu cho cách nấu nướng Việt Nam, theo một số học giả Việt Nam, cũng có thể có nguồn gốc Chăm. Một nhà người cứu người Việt chuyên về tập tục miền Nam thậm chí chỉ ra sự tương tự giữa áo dài (được gọi là quần áo “truyền thống” của phụ nữ Việt Nam mà mọi phụ nữ Việt Nam đều mặc trong dịp đặc biệt), và chiếc váy của phụ nữ Chăm (tah trong tiếng Chăm); áo dài chỉ phân biệt ở chỗ có bổ sung thêm cổ áo. Kiểu áo này rất khác với áo tứ thân vốn là trang phục trang trọng của phụ nữ miền Bắc trước thế kỷ 20 [32] .

Có lẽ đặc điểm quan trọng nhất khiến người Việt mới ở phương nam khác người Việt ở phương bắc là thái độ của họ với ngoại thương. Đàng Trong ra đời trong một “thời đại thương nghiệp” [33] . Nền tảng nông nghiệp yếu ớt tại Đàng Trong thế kỷ 17 gần như không thể trợ đỡ cho cuộc đối đầu với lực lượng có ưu thế hơn hẳn của họ Trịnh, và họ Nguyễn thời kì đầu đã phải từ bỏ hành vi của tất cả các nhà nước Việt Nam trước đó và cho phép thương mại khá tự do. Tuy điều nay tự thân nó đã là bất thường, nhưng những gì diễn ra ngay sau đó thì gần như chưa từng xảy ra bao giờ: nhà Nguyễn nhanh chóng trở thành những người nhiệt tình với ngoại thương, và với người nước ngoài. Khi có cơ hội, họ mau mắn nối kết Đàng Trong với các tuyến đường thương mại Nhật Bản và Trung Quốc. Việc một phần tư của toàn bộ các thuyền có hải trình Châu Á của Nhật Bản đã tới buôn bán với Đàng Trong, và việc 30% số thuyền của người Hoa từ các nước Đông Nam Á đến Nhật từ 1647 đến 1720 xuất phát từ Đàng Trong, chứng tỏ trong thế kỷ 17, khu vực này trở thành đối tác thương mại quan trọng của Nhật, và có vai trò quan trọng trong quan hệ thương mại tại Châu Á [34] . Sự tồn tại độc lập của Đàng Trong, và quyền lực cũng như của cải của nhà Nguyễn, chủ yếu dựa vào việc ngoại thương này, một tình trạng độc nhất vô nhị trong toàn bộ lịch sử Việt Nam thời trước thuộc địa. Theo gương người Chăm, Đàng Trong thế kỷ 17 đã tìm thấy tài nguyên và khí lực để tiến hành một giai đoạn bành trướng về dân số, của cải và đất đai, mặc dù có cuộc chiến với miền Bắc kéo dài 50 năm. Riêng đặc điểm này của Đàng Trong đã phân biệt nó với Việt Nam trước đó, vốn có một nền kinh tế hàng hoá yếu ớt.

Người Việt ở phía nam cũng tiếp nhận các hành vi khác như cướp biển và sử dụng binh tượng [35] . Đặc biệt, việc buôn bán nô lệ, một hành vi không thể chấp nhận ở phía bắc, lại là một phần bình thường trong cuộc sống của người Việt ở môi trường mới, như Poivre nhận thấy vào năm 1750:

Tôi yêu cầu nhà vua cho tôi ít nhất là một số người Mọi hay nô lệ để làm thợ thủ công (vì người nô lệ trong vùng này chỉ là những người thô lỗ bị người Đàng Trong bắt từ núi về). Nhà vua trả lời là điiều này không có gì khó nhưng ông gợi ý là tôi chờ sang năm sau và ông hứa sẽ cung cấp đủ cho tôi số nô lệ vào khi ấy. Ông nói thêm rằng năm nay ông chỉ có thể dàn xếp để mua hai loại nô lệ: loại man dã vì mới bắt được, chưa được giáo dục đầy đủ nên chả làm được gì có ích; và loại đã quen với vùng này và được dạy dỗ một số kỹ thuật. Nhưng tôi mới vừa mua về xong thì chúng đã bỏ trốn vì chúng muốn quay về với vợ con. [36]

Rõ ràng chúa Nguyễn đã quen thuộc với chế độ nô lệ, và việc buôn bán người Thượng đã trở nên bình thường đến độ triều đình đã đánh thuế cùng tỉ lệ với việc buôn bán voi ở khu vực Thuận Hoá [37] . Trong việc này cũng như những khía cạnh khác của đời sống, nhà Nguyễn chắc thấy rằng việc áp dụng tập tục văn hoá bản địa vừa thuận tiện lại vừa có lợi. Có lẽ không quá xa sự thật khi nói sức mạnh của nhà Nguyễn thật sự nằm trong việc địa phương hoá của họ.

Họ Nguyễn cũng hoàn toàn khác với họ Trịnh trong chính sách đối với người Hoa. Đã sống trong bóng của Trung Quốc và trải qua các cuộc xâm lăng, các nhà cai trị người Việt ở miền bắc luôn rất cảnh giác trước người Hoa, nhưng nhà Nguyễn lại có một thái độ rất thoải mái với người Hoa và cho phép các cộng đồng buôn bán quan trọng của người Hoa thành hình ở Huế, Hội An, Quy Nhơn và sau này ở Sài Gòn. Đến cuối thế kỷ 18, dân số người Hoa ở phía nam Việt Nam có lẽ ở khoảng từ 30 đến 40 ngàn [38] . Vào cuối thế kỷ 17, nhà Nguyễn tước quyền kiểm soát Biên Hoà và Mỹ Tho khỏi Campuchia, phần lớn nhờ vào nỗ lực của khoảng 3000 người Minh hương từ Quảng Đông, những người được đưa đến định cư tại đây sau khi họ xin tỵ nạn tránh khỏi nhà Thanh vào năm 1679. Hà Tiên, một cảng quan trọng chiến lược khác trên biên giới Khmer – Việt, rơi vào tay nhà Nguyễn nhờ hoạt động của Mạc Cửu, một người Minh lánh nạn từ Quảng Đông, trong đầu thế kỷ 18. Cả ba vị trí này đã phát sinh những thị trấn sung túc và thu hút ngoại thương, làm suy yếu Campuchia, trước đó vốn là quyền lực thống trị tại khu vực. Ở những thị tứ này, người Hoa là thương nhân và thợ thủ công, và một số người được bổ nhiệm làm nhân viên thuế quan, một tình trạng chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Năm 1698, nhà Nguyễn chấm dứt vị thế nửa tự trị của người Hoa ở đồng bằng sông Mekong bằng việc lập phủ Gia Định. Họ ghi danh sổ sách những cư dân người Hoa ở hai làng Minh hương, xem đây là thường trú nhân chứ không phải là thương gia tạm trú. Điều này đưa nhà Nguyễn trở thành chính quyền sớm nhất tại Đông Nam Á áp dụng một chính sách địa phương hoá [39] . Trong điều kiện thuận lợi đó, người Hoa đóng vai trò phức tạp trong giai đoạn Tây Sơn, khi cả Nguyễn Ánh lẫn anh em Tây Sơn nhờ đến người Hoa để có nhân lực và sức mạnh kinh tế.

Kết luận

Sự phát triển một bản sắc Việt Nam địa phương hoá tại Đàng Trong có vẻ là một phản ứng thành công trước môi trường mới. Không có nghĩa là tôi nói người Việt ở Đàng Trong không “còn là người Việt Nam nữa”. Mà đúng hơn, như Keith Taylor đề nghị, khu vực này cho phép việc tạo dựng một “phiên bản khác của việc làm người Việt, được phân biệt nhờ sự tự do tương đối tách khỏi quá khứ của Việt Nam” [40] , đặc biệt là tách khỏi quá khứ gần của mô hình Nho giáo đã được thực thi kể từ khi nhà Lê thành lập ở phía bắc. Giai đoạn hai thế kỷ của họ Nguyễn đã tạo nên nhiều tính cách của người phương nam, thí dụ như óc tò mò và cởi mở trước cái mới và tư tưởng mới, tính hồn nhiên và khoáng đạt hơn, và thái độ không dễ dàng chịu bị ràng buộc bởi lịch sử và truyền thống.

Mặc dù những thay đổi trong thời kì này rõ ràng đóng vai trò tích cực trong văn hoá Việt Nam, nhưng chúng cũng tạo ra những sự đứt đoạn trong mối liên kết cộng đồng mà những nho sĩ Việt Nam thế kỷ 19, những người phụ trách việc viết sử chính thức về những thế kỷ này, thấy không chấp nhận được. Một bản thảo lưu giữ trong Viện Hán Nôm tại Hà Nội nói rằng trong năm thứ hai Minh Mạng (1820), nhà vua lệnh cho Quốc sử Quán viết nên bộ sử của vương quốc, chỉ rõ rằng “văn phong, cách biểu lộ và các sự kiện phải được đo lường và cân nhắc trước khi được ghi vào sách” [41] . Nhiều thông tin đã bị loại bỏ trong quá trình đo lường và cân nhắc này. Trong suốt thế kỷ 19, các sử quan có khuynh hướng lờ đi hoặc giảm nhẹ những khía cạnh không chính thống hay phi Nho giáo của xã hội Đàng Trong, ví dụ như chế độ nô lệ và liên hệ với người Chăm, Nhật Bản, và Khmer – chắc chắn đây là một nỗ lực nhằm đạt tới những cân bằng và thoả hiệp mà người ta muốn có.

Nhà Nguyễn cũng không được đối xử khá hơn trong tay các nhà nghiên cứu Việt Nam thời hiện đại. Như David Marr đã chỉ ra, các nhà viết sử Việt Nam thế kỷ 20 đã thường “được yêu cầu phải cân bằng những yếu tố liên tục với những yếu tố thay đổi trong câu chuyện” [42] . Sự thống nhất quốc gia và tinh thần chống ngoại xâm là hai chủ đề được xem là trung tâm trong kinh nghiệm làm người Việt, mà nhà Nguyễn thì vi phạm cả hai nguyên tắc này. Thứ nhất, Đàng Trong đã huỷ hoại sự thống nhất quốc gia trong hai thế kỷ. Thứ hai, viết sử sau giai đoạn Tây Sơn (một phong trào đã tiêu diệt chế độ họ Nguyễn năm 1774), các sử gia tại Hà Nội ghi công vua Quang Trung Nguyễn Huệ là đã thống nhất đất nước khi đội quân này nổi dậy đánh bại họ Trịnh, và rồi đánh bại cuộc xâm lăng của Trung Quốc năm 1789. Còn Nguyễn Ánh, người sống sót cuối cùng của họ Nguyễn, sau đó đánh bại các anh hùng Tây Sơn vốn được ca ngợi, lại có sự giúp đỡ của người nước ngoài, trong đó có các linh mục và sĩ quan Pháp, vốn bị các sử gia tại Hà Nội xem là tiền thân của chủ nghĩa thực dân Phương Tây. Có lẽ vì điều này, các sử gia nhà nước tại Hà Nội không mấy chú ý tới Đàng Trong, với luận điểm là nó chỉ đại diện cho một biến thể địa phương của một lịch sử chung mà nhân vật chính là Lê / Trịnh [43] . Họ xem vương quốc “Đại Việt” phía bắc trong thế kỷ 17 và 18 là một thực thể duy nhất bao quát toàn bộ các vùng của Việt Nam và thể hiện “tính cách Việt Nam” chung. Trong nhiều thập niên, cả các nhà nghiên cứu trong và ngoài Việt Nam đều chấp nhận cách mô tả này về “một quá khứ Việt Nam đơn nhất” [44] .Bài viết này cho rằng có hai “Đại Việt„ tồn tại vào lúc đó, và rằng thực thể ở phương nam có một ảnh hưởng quan trọng trong lịch sử Việt Nam bởi vì nó thể hiện “một ý thức đa chiều hơn về bản sắc Việt Nam” [45] . Thử nghiệm của nhà Nguyễn đã mở ra một cánh cửa phát triển khác cho Việt Nam. Nó cung cấp một không gian mới mà trong đó, các phong cách của lưu dân người Việt và các láng giềng có thể giao tiếp với nhau, và thể hiện rằng xã hội Việt Nam, ngay từ thế kỷ 17 và 18, đã có thể phát triển tương đối ở ngoài cái khung Nho giáo. Và nó đánh dấu một khoảnh khắc lịch sử hiếm hoi khi người Việt Nam có cơ hội diễn giải lại truyền thống của họ theo một cách tươi mới và sinh động. Cuối cùng cánh cửa này bị đóng lại khi mà trật tự trở thành một quan ngại xã hội to lớn của triều Nguyễn sau năm 1802, một triều đại được thành lập sau một thế hệ nội chiến. Từ Minh Mạng trở về sau, triều đình tìm cách vẽ nên một hình ảnh chính thống, ổn định và trang nghiêm hơn về Việt Nam trước thế giới bên ngoài. Lịch sử xã hội Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 đã được viết lại bởi các nho sĩ thế kỷ 19 với nhu cầu “sửa lại sai trái”, và “làm gương tốt” cho tương lai theo đúng truyền thống Nho giáo. Nhưng nếu cái xã hội thành hình ở Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 đã bị các sử quan thế kỷ 19 cố tình lờ đi, thì sự bỏ qua này lại để lại một không gian hấp dẫn cho các sử gia về sau khai phá. Tôi hy vọng bài viết này là một đóng góp nhỏ cho nỗ lực đó.

Lê Quỳnh dịch

Nguồn: “An Alternative Vietnam? The Nguyen Kingdom in the 17th and 18th Century”, tạp chí Journal of Southeast Asian Studies, tháng Ba 1998.

[1]Để đọc về phát hiện những điều quan trọng nhất giúp thay đổi cách nhìn về Chămpa, xem Po Dharma, Le Panduranga 1802-1835. Ses rapports avec le Vietnam (Paris: EFEO, 1987), hai tập (Paris: Travaux du Centre d’histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise, 1988), đặc biệt là bài của Bernard Gay, “Vue nouvelle sur le composition ethnique du Campa”, trang 49-55, và bài của Po Dharma, “Etat des derniers recherches sur la date de l’absorption du Campa par le Vietnam”, trang 59-70. Cũng xem Pierre-Bernard Lafont, “Les grandes dates de l’histoire du Campa”, trong Le Campa et la Monde Malais (Paris: Centre dHistoiré et Civilisations de la Peninsule Indochinoise, 1991), trang 6-25.
[2]Một sự thảo luận rọi sáng về hai xã hội có thể tìm thấy trong bài của Keith Taylor, Regional Conflicts among the Viet People between the 13th and 19th centuries, đọc tại hội thảo “La conduite des relations entre societes et etats: Guerre et paix en Asie du Sud-Est”, Paris, tháng Bảy 1996.
[3]Theo thống kê của Sakurai, trong số 49 trận lụt ở đồng bằng sông Hồng từ 1422 đến 1786, thì 22 trận xảy ra trong vòng 100 năm gần nhất. Xem: Yumio Sakurai, “A Study on the Peasant Drain During Le Dynasty in Vietnam”, To-nan A ja kenkyu 1, 16 (1978): 137
[4]Danh từ Đàng Trong và Đàng Ngoài dường như bắt đầu có trong thập niên 1620, hoặc trước hoặc ngay sau khi chiến tranh nổ ra giữa Trịnh và Nguyễn. Từ điển của Alexandre de Rhodes, xuất bản năm 1651 có chứa đựng cả hai từ này. Xem cuốn Dictionarivm Annamiticvm, Lvsitanvm, et Latinvmope (Rome: Typis & Sumptibus eiusdem Sacr. Congreg, 1651), trang 201.
[5]Để tham khảo một thảo luận về từ “nam tiến”, xem Keith Taylor, Regional Conflicts
[6]Xem Li Tana, Nguyen Cochinchina: Southern Vietnam in the 17th and 18th centuries (Ithaca: Cornell Southeast Asia Program Monograph, 1998)
[7]Đại Nam thực lục tiền biên (Tokyo: Keio Institute of Linguistic Studies, Mita, Siba, Minato-ku, 1961), quyển 10, trang 136
[8]Nola Cooke, “Nineteenth-Century Vietnamese Confucianization in Historical Perspective: Evidence from the Palace Examinations (1463-1883)”, Journal of Southeast Asian Studies 25, 2 (tháng Chín 1994): 284
[9]Lời tự nhận này xuất hiện trong câu ghi của ông lên một bia tại Thiên Mụ tự. Ngũ kiên Thiên Mụ tự bi, kệ số 5683, Viện Hán Nôm, Hà Nội.
[10]P. Poivre, “Journal de voyage du vaisseau de la compagnie le Machault a la Cochinchine depuis le 29 aout 1749, jour de notre arrivee, au 11 fevrier 1750”, được H. Cordier in lại trong Revue de l’Extreme Orient, III (1885), trang 381. Ngày nay Huế có hàng trăm chùa và được gọi là “thủ phủ của Phật giáo”. Xem Thanh Tùng, Thăm chùa Huế (Huế: Hội Văn Nghệ Thành Phố Huế, 1989), trang 3
[11]Tiền biên, quyển 19, trang 974; Lê triều chiếu lệnh thiên chính (Sài Gòn: Bình Minh, 1961), trang 311; K. W. Taylor., “The Literati Revival in 17th-century Vietnam”, Journal of Southeast Asian Studies 18, 1 (1987), 1-23.
[12]Philippe Langlet, La Tradition vietnamienne: un etat national au sein de la civilisation chinoise (Sài Gòn: BSEI, 1970), trang 70-71.
[13]Insun Yu, Law and Society in 17th and 18th Century Vietnam (Seoul: Asiatic Research Center, Korea University, 1990), trang 29. Bản tiếng Việt được in với tựa Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ 17-18 (Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội, 1994)
[14]Nola Cooke, “Vietnamese Confucianism”, trang 283-84; Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, trong cuốn Essays into Vietnamese Pasts, do Keith Taylor và John Whitmore biên tập (Ithaca: SEAP, Cornell University, 1995), trang 49. Cũng xem A. Bonhomme, “La pagode Thien-Mau: Historique”, trong Bulletin des Amis du Vieux Huế 2, 2 (1915): 175-77.
[15]Nguyễn Thế Anh, “The Vietnamization of the Cham Deity Po Nagar”, trang 49
[16]Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm và Mạc Đường, Văn hoá và Cư dân đồng bằng sông Cửu Long, Khoa học Xã hội, TP. HCM, 1990, trang 376-77
[17]“Description of Cochinchina, 1749-50”, trong Documents on the Economic History of Nguyen Vietnam, 1602-1774, do Anthony Reid và Li Tana biên tập (Singapore: Institute of Southeast Asia Studies / ECHOSEA, Australian University, 1993), trang 84

[18]O. W. Wolters, History, Culture and Region in Southeast Asian Perspectives ̣(Singapore: Institute of Southeast Asian Studies, 1982), trang 19
[19]Da Shan, “Hai Wai Ji Shi”, trong Shi Qi Shi Ji Guang Nan zhi Xin Shi Liao, do Chen Chingho biên tập (Taipei: Zhong Hua Cong Shu Bian Sheng Wei Yuan Hui, 1960), trang 15
[20]Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt (California: Văn Nghệ, 1989), trang 220-23
[21]Lời bình phẩm về xã tắc của Cao Huy Diêu vào đầu thế kỷ 19, được ghi lại trong Việt điện u linh tập, do Lê Hữu Mục dịch. (Sài Gòn: Khai Trí, 1961), trang 218
[22]Tạ Chí Đại Trường, Thần, người và đất Việt (California: Văn Nghệ, 1989), trang 235
[23]Huỳnh Lứa, “Quá trình khai phá vùng Đồng Nai – Cửu Long và hình thành một số tính cách, nếp sống và tập quán của người nông dân Nam Bộ”, trong cuốn Mấy đặc điểm Đồng bằng sông Cửu Long, Viện Văn hoá, Hà Nội, 1984, trang 121
[24]Hickey, The Vietnamese Village Through Time and War, The Vietnam Forum 10 (1987): 18
[25]Keith Taylor, “Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập. (Ithaca, Cornell University Press)
[26]Thuận Hải là tên cũ của tỉnh Phan Rang.
[27]Nguyễn Bội Liên, Trần Văn An, Nguyễn Văn Phi, Ghe bầu Hội An – Xứ Quảng, bài tham luận tại Hội thảo quốc tế về Phố cổ Hội An, 3-1990
[28]John Barrow, A Voyage to Cochinchina, in the years 1792 and 1793 (Kuala Lumpur: Oxford University Press, 1975), trang 319
[29]Ngô Đức Thịnh và Nguyễn Việt, “Các loại hình cày hiện đại của các dân tộc ở Đông Nam A”’, Khảo cổ học, số 4-1981, trang 55-56.
[30]Cách thức này được ghi lại bởi Fei Xin trong cuốn Xing Jue Sheng Lan (Bắc Kinh: Zhong Hua Shu Ju, 1954), trang 3.
[31]Các ngôi mộ quanh khu vực Huế rất khác với mộ ở các nơi khác ở Việt Nam, cả Bắc lẫn Nam. Tôi đa tạ GS. Đỗ Văn Ninh, người đã chỉ cho tôi biết những ngôi mộ này theo lối Chăm cổ.
[32]Phan Thị Yến Tuyết, Nhà ở, trang phục, ăn uống của các dân tộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Hà Nội: Khoa học Xã hội, 1993, trang 92, 290
[33]Anthony Reid, trong cuốn Southeast Asia in the Age of Commerce, 1450-1680, tập 1&2 (New Haven: Yale University Press, 1988, 1993)
[34]Về chi tiết, xin xem Li Tana, Nguyen Cochinchina, chương 3 và 4
[35]Năm 1749, Poivre thấy 12 con cọp bị 40 con voi giết trong một ngày giải trí dành cho vua và quần thần.
[36]Xem: Poivre, Journal, trang 439
[37]Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, viết năm 1776 (Sài Gòn: Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hoá, 1973), quyển 4, trang 5a, 5b
[38]Nguồn chính thức của Việt Nam cho con số có 20.241 người Minh hương chỉ riêng tại Quảng Nam năm 1805. Châu bản, Quyển 1, Triều Gia Long, lưu tại Trung tâm lưu trữ quốc gia số 1, Hà Nội. Crawfurd ước tính dân số người Hoa ở Sài Gòn năm 1822 ở khoảng từ hai đến ba ngàn. Xem John Crawfurd, Journal of an Embassy to the Courts of Siam and Cochinchina (Singapore: Oxford University Press, 1967), trang 214. Riêng tại Hội An, dân số người Hoa được ước tính khoảng từ bốn đến năm ngàn vào năm 1642. Xem “A Japanese Residents’ Account”, trong Southern Vietnam under the Nguyen, do Li Tana và Anthony Reid biên tập.
[39]Wang Gungwu,“Sojourning: The Chinese Experience in Southeast Asia”, trong Sojourners and Settlers: Histories of Southeast and the Chinese, Anthony Reid biên tập (Sydney: Allen & Unwin, 1996), trang 7
[40]“Nguyễn Hoàng and the beginning of Vietnams’ southward expansion”, trong cuốn Southeast Asia in the Early Modern Era, do Anthony Reid biên tập. (Ithaca, Cornell University Press, 1993)
[41]Xem Hàn các tập lục, ngăn số A. 1463, Viện Hán Nôm
[42]David Marr, Vietnamese Anticolonialism, 1885-1925 (Berkeley and Los Angeles: University of California Press, 1971), trang 4
[43]Vì những lý do chính trị trong và sau cuộc chiến Việt Nam, Đàng Trong thế kỷ 17 và 18 gần như không được chú ý trong cách sách giáo khoa lịch sử xuất bản tại Hà Nội. Trong khi đó, các nhà nghiên cứu ở miền Nam như Tạ Chí Đại Trường và Phan Khoang đã có nhiều nỗ lực để đưa thông tin về Đàng Trong vào các sách Lịch sử nội chiến ở Việt Nam 1771 đến 1802 và Việt sử xứ Đàng Trong, trong cuối thập niên 1960 và 1970.
[44]Keith Taylor, Lời nói đầu trong quyển Essays into Vietnamese Past, do K. W. Taylor và John Whitmore biên tập (Ithaca: Cornell University Press, 1995), trang 5
[45]Alexander Woodside, Political Theory and Economic Growth in Late Traditional Vietnam, bài đọc tại hội nghị “The Last Stand of Autonomous States in Southeast Asia and Korea” (Bali, 1994), trang 15

Lời ghi trước: Ý nghĩa của Vu lan rộng lớn bao trùm cả vũ trụ nhân sinh. Vu lan là cơ hội giải phóng của con người trên thế gian có thể vượt giới hạn của mình trên bước đường chuyển hóa để giải phóng cho mình và cho người. Bằng hạnh lực của chính mình - mà đó là lòng hiếu thảo - hạnh nhân bản nhất - con người có được năng lực “xá tội vong nhân”, -“xá tội” chứ không “rửa tội”- vong nhân vô lượng vì mê lầm phải ở chốn ngục tì vô minh trở lại thành người nơi thế gian ... Cái chết không còn là một đe dọa sợ hãi và những vong linh có thể hóa kiếp trở lại trên thế gian. Cho nên Vu lan là ngày hội của chúng sinh đồng đẳng! Cho nên lòng người náo nức niềm vui hóa kiếp sinh linh, náo nức như chính mình cũng đang hóa kiếp, khi nghĩ rằng những người khuất mặt đang chờ ngày cửa ngục được mở rộng để trở lại nhân gian, nhân gian như nơi chốn làm người đang là vị Phật sẽ thành! (Trích: "Vu lan Huế, thấp thoáng trở về" [1]).

Tranh Mẹ con - Mai Trung Thứ.

Một người thợ nề trẻ, dáng dấp bất ngờ khác với những người thợ nề thường gặp, hầu như thư sinh với vẻ người gầy cao, gần như ẻo lả, hai bàn tay dài lêu nghêu, gương mặt thanh tú khác thường, sốt sắng nhận lời lên tu sửa ngôi từ đường cũ nát của chúng tôi ở gần  chùa Linh Mụ. Hỏi em người ở đâu, người thợ trẻ trả lời với đôi mắt sáng to: “Nhà ở tận bên Châu Ê”. Hỏi em bảo đảm sửa được ngôi nhà cũ rích mà không bỏ cuộc? - “Dạ được!”. Hắn nhìn ngắm ngôi nhà và gật đầu mạnh mẽ, vẻ nhiệt tình, lại còn sốt sắng tự nguyện khăn gói lên ngủ qua đêm để trông nom nhà và sáng hôm sau cùng nhóm thợ bắt đầu sớm.

Nghe mọi người quen hắn đều bảo là một trong những người thợ trẻ chăm và giỏi tính nhất vùng, làm việc đâu ra đó, yêu nghề và không ngại khó. Nhà chúng tôi neo người, chẳng là phần đông đã tha hương, nhiều người ở khắp nơi trên thế giới, ai cũng ngại về, và có về cũng chỉ để ghé thăm, cảm tưởng hầu như giống nhau về ngôi nhà xưa ấy, ái ngại trong lòng, khi nhìn ngôi nhà tổ tiên quằn quại chịu đựng với thời gian, nhưng càng ngại hơn là gian phòng ẩm thấp ai đến rồi cũng đi, ít người chịu ngủ trong căn nhà cũ, đầy hơi mốc và tối tăm. Cho nên mừng nghe có người sẵn sàng lên ngủ trông nhà, mặc dù vẫn còn hồ nghi quá nửa. Nhưng không lâu, người thợ trẻ với vẻ mặt tươi cười đã cắp đùm khăn áo, hộp cơm tối, gọn gàng bước qua ngưỡng gỗ, nói yên tâm mọi người có mặt đang sắp sửa về phố và lịch kịch đóng mấy tấm cửa bàng khoa. Anh tôi bảo hắn bạo gan - thú thật nhìn vào căn nhà tối ai cũng sờ sợ làm sao mà hắn tỉnh bơ - lại nhiệt tình và có cái tâm vô ngại. Sau khi dặn dò vài thứ ai nấy an lòng ra về.

Người thợ trẻ đốt đèn, chọn khoảng nền nhà trước bàn thờ Phật làm nơi ngủ, trải chiếu, tắt đèn, hắn nhìn lên mái ngói có tấm gương hắt chút bóng đêm ngoài vườn vào nhà, gian phòng lờ mờ tối chìm trong im lặng, và chẳng bao lâu người thợ trẻ dễ ngủ đã thở đều. Hắn ngủ ngon lành giấc ngủ của một chàng trai tuổi hai mươi sau một ngày lao động quần quật khiêng vác.

Vào khoảng giữa đêm trong cơn mê, hắn bỗng nghe có tiếng đàn ca xướng hát, tiếng người nói chuyện lao xao, mỗi lúc một rộn ràng hơn, mùi hương trầm lẫn với hương hoa mộc, hoa sói trong vườn thoảng nhẹ khắp nhà, nghe có tiếng chào nhau mừng rỡ như tuồng đang có một cuộc gặp mặt gia đình mừng tuổi, nhiều tiếng cười chung quanh, tiếng lanh canh của chén bát sứ chạm nhau trong nhà. Đang còn bỡ ngỡ, chưa biết đâu vào đâu, tưởng mình nằm mơ, bỗng hắn thấy trước mắt mình một bà lão đầu tóc bạc phơ, dáng người gầy guộc mà thanh tao quý phái, tươi cười đưa tay kéo hắn dậy và nắm tay hắn dẫn đi khắp nhà, đến từng người một giới thiệu. Vẻ nhu hòa êm ái của bà làm hắn mất hết e dè, trái lại còn vui lây, cảm giác đầy thân thuộc, nên bước theo bà mà không chút ngại ngùng. Bà vừa đi vừa kể chuyện, chuyện con cháu trong nhà, ai đi ai ở, rồi đến chuyện căn nhà, hình như đã có từ  mấy trăm năm nay, hết đời này sang đời khác, cho đến khi bà về làm dâu trong căn nhà ấy. Câu chuyện của bà hình như dài lắm mà hắn không nhớ hết, chỉ biết bà kể miên man bất tuyệt - mà trong khi cùng bà đi quanh thì tiếng ca hát văng vẳng bên tai càng nhộn nhịp, có tiếng đàn đệm theo tiếng hát, nghe rất ngọt ngào và điêu luyện như của những người tài tử sành điệu... Điều lạ lùng khác hẳn với ban ngày là căn nhà bỗng đầy sinh khí tươi mát, ánh sáng lấp lánh như nắng ban mai, không gian ấm cúng, chan hoà... Cuộc vui hình như kéo dài, đến bao lâu hắn không còn nhớ, chỉ biết là vui thật vui, hớn hở trong lòng không tả hết. Cho đến khi hồi chuông sớm từ chùa Linh Mụ vọng tiếng đầu tiên, người thợ nề trẻ giật mình, mới biết mình thật vừa mơ…

Câu chuyện người thợ nề trẻ nằm mơ trong căn nhà cổ tính ra đã hơn hai mươi năm, trước khi mẹ tôi rồi anh tôi lâm bạo bệnh và trở về với tổ tiên. Lần ấy vừa trở lại Huế, còn sinh thời anh tôi, chưa kịp đến nhà, từ phi trường, trên xe anh tôi đã kể và nhất định giới thiệu người thợ nề trẻ tuổi, nét mặt anh cẩn mật với một giọng kỳ bí lạ lùng. Một lần gặp, và sau đó mất hút tin. Tôi vẫn còn nhớ nét mặt thư sinh và đôi mắt sâu đen thông minh mỗi khi nhìn lên như nói với người đối diện nhiều điều hơn lời nói. Cảm giác thân thuộc như người trong nhà, và có lẽ hơn thế nữa, người ấy xuất hiện trước tôi như một người đưa tin, giây nối giữa mơ và thực, giữa quá khứ và hiện tại, giữa bên này và bên kia, giữa minh dương hai ngã.

Trong tâm lẩn quẩn hai chữ tri ân mà không được nên lời, lại muốn giữ kín như một bí nhiệm cho riêng mình câu chuyện ấy, và kỳ lạ còn hơn cả bí nhiệm đeo đẳng trong hồn, mỗi khi chợt nhớ đến câu chuyện lại thấy lóe sáng tin vui có sức khởi động cả niềm tin - rằng trên nền đất cũ tịch liêu ấy vẫn sống động một thế giới toàn diện của hữu hình và vô hình, của lời và không lời, của tiếng và không tiếng - âm thanh và cõi lặng, tất cả được bao bọc bằng khi trời trong suốt hay mờ đục, và tầng tầng ánh sáng ngày đêm, mặt trời, trăng, sao,... rằng trong thế giới toàn diện ấy cơ hội gặp nhau, nghe nhau vẫn còn đó, vẫn nằm trong ngũ sắc cầu vồng, trong chớp mắt máy động tâm can.

Không những đêm mà cả giữa ngày, sự gặp gỡ hầu như xảy ra từng khoảnh khắc, kết thành một dòng liên tục, dòng chảy của chủ ý và vô tâm, của dòng ý thức - vô thức - bất tuyệt, những cuộc gặp gỡ vô hình và hữu hình, những chào hỏi vô thanh vang vọng nơi từng lá cây ngọn cỏ, trong gió đùa buổi sáng hay nắng hanh chiều bên song. 

Ta có biết và ta có thể không hay biết, những bay đi và trở lại thế gian, những xa lìa và đoàn viên, những trở về, gặp gỡ rồi lìa xa, tiếng cười và tiếng khóc. Những tưởng bóng tối là u sầu, ấy thế mà vang vọng tiếng cười thanh xuân; những tưởng quá khứ là lụi tàn, nhưng không, tương lai vẫn xanh màu lá non. Và như thế mỗi cuộc trở về bỗng mang ý nghĩa hồi sinh, cuộc ra đi mang theo hy vọng gặp lại, bất sanh bất diệt.

Tín hiệu ấy đã như tiếng khánh khi bước chân qua cổng nền đất cũ, nếu lắng nghe thì đã vọng tiếng chào hiền dịu từ góc vườn có cây nhãn cổ thụ bỗng sây hoa vào tháng ba, tiếng thì thầm thoáng hơi sữa ngọt của triệu triệu chấm nhãn vàng mơ lẫn trong nắng sớm, bước thêm bước nữa đã gặp màu xanh lá chuối như lời ru, nhìn sâu vào màu xanh ấy có thể nghe thêm tiếng mưa thủ thỉ một thời thơ dại rúc vào lòng bà những đêm mùa đông rét mướt, chạm được luôn cả thân thể ấm áp của bà. Bước quẩn quanh bất ngờ nghe hoa sứ khai hương như đang vẽ nét nhan như ngọc của người cha khuất bóng từ lâu, tưởng như đã xóa nhòa trong ký ức trẻ thơ, bỗng hiển hiện nguyên trinh trên đài hoa hương nguyện. Bước trật chân trên cỏ rối lại nghe tiếng cười ái ngại của chị gái hiền đâu đây, chợt thấy nét thuỳ mỵ diễm tuyệt đến phải quy hàng chỉ còn biết thương hết nỗi thương. Có bước gấp để đuổi kịp gió đang gom những mùi hương nhẹ nhất trong khu vườn dấu kín một nơi, và gặp nụ cười chúm chím của anh trai đang đùa em dấu chùm vải sau lưng, bắt phải đi tìm... Lại có khi dừng bước không đi ngoái tìm bông hoa núp lá bất ngờ tiết lộ mùi hương ngọt ngào như hương thơm da thịt của mẹ thời tóc dài chấm gót... Lại có khi rón rén để đừng xao động bóng chim hay cánh bướm đang nhỡn nhơ trên cỏ rồi ngẩn người chợt thấy mẹ và chị thấp thoáng sau cây hải đường vào ra như những ngày xưa ấy. Và sẽ kể hoài không dứt như câu chuyện của bà đã kể và còn đang kể trên lá trên hoa trong khu vườn ấy khi chân bước đến, khi tay lật viên gạch cũ thấy lại dấu tích ngày trước, khi lòng nóng hổi muốn gầy dựng lại mái xiêu, khi tâm thành như đất vườn được xới bốc hơi nuôi nấng con người, cây cỏ…

Hầu như mỗi phút, mỗi giây cuộc gặp gỡ đều có thể xảy ra, không phải ngày xưa ấy, mà bây giờ, nơi đây, trong khoảnh khắc hiện tại, trên đầu giọt sương, trên đầu bọt nước, trên từng bào ảnh, tên từng mộng huyễn, vô lượng kiếp kiếp, vô lượng chúng sanh, vô lượng vạn vật, không phải là mơ mà thật ngay nơi đây, giờ khắc này, như hoa mưa vừa bừng nở sáng lóng lánh trên màu xanh vọng tiếng...

Ghi chú:

* Ngày rằm tháng bảy, lễ Vu Lan, theo Phật giáo, là ngày tự tứ đầu tiên Đức  Phật trở lại giảng kinh và cũng là ngày tôn giả Mục Kiền Liên theo lời Phật mang “bồn Vu Lan“ đi quanh đảnh lễ những vị A La Hán xin nhờ trợ lực cứu mẹ ra khỏi đọa đày. Với TÌNH THƯƠNG MẸ, ngài Mục Kiền Liên đã thực hiện cơ hội giải phóng giác ngộ thành Phật mở rộng đến những cõi âm ti, đem từ bi và hi vọng đến những nơi vô vọng nhất của con người.

Tham khảo:

[1] http://tiasang.com.vn/-van-hoa/vu-lan-hue-thap-thoang-tro-ve-4270

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 05.9.2018.

20180502 Pham Quynh
Tại sao đặt ra câu hỏi này? Tại bởi Phạm Quỳnh là một trong những con người đã để lại tên tuổi trong lịch sử cận đại và hiện đại của đất nước Việt Nam. Họ là những con người phong phú, đa dạng và phức tạp trong tổng thể cấu thành nên xã hội Việt Nam thế kỷ XX. Họ là những con người một thời dài bị mất bóng trong đời sống tinh thần nước nhà. Tại bởi Phạm Quỳnh vừa được Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh 2018 vinh danh là “Danh nhân văn hóa Việt Nam thời hiện đại”. Tại bởi Phạm Quỳnh tuy thế cho đến nay vẫn chưa được hiểu đúng, hiểu hết, hiểu sâu. Nói đến Phạm Quỳnh là nói đến tạp chí Nam Phong, và ngược lại. Sự nghiệp của ông để được/bị hậu thế ca ngợi hay kết tội là cả ở đây.

Phạm Quỳnh sinh 1892 (có tài liệu nói 1893), mất 1945. Nam Phong tạp chí ra đời 1917, chấm dứt 1934. Phạm Quỳnh làm Nam Phong (là chủ nhiệm và chủ bút) từ 1917 đến 1932, trong 15 năm, từ tuổi 25 đến 40. Khi Phạm Quỳnh vào Huế làm việc triều đình, Nam Phong được giao cho Nguyễn Tiến Lãng và sống thêm hai năm nữa. “Suốt trong 17 năm tồn tại, Nam Phong đã đăng 1.391 bài tiếng Việt, 414 bài tiếng Pháp, không kể phần Hán văn, tổng cộng đã công bố gần hai nghìn bài. Trong gần hai nghìn bài này đã có 123 tác giả viết tiếng Việt, 41 người viết tiếng Pháp… Người viết nhiều nhất là Phạm Quỳnh (còn ký bút danh Thượng Chi, Hồng Nhân) với 458 bài tiếng Việt và 33 bài tiếng Pháp (chưa kể chữ Hán), chiếm khoảng trên dưới 30% tổng số bài đã đăng trên Nam Phong, số bài còn lại khoảng 50 - 60% là do 162 người viết, trung bình cứ một tuần trong 17 năm tồn tại của Nam Phong, bên cạnh các công việc khác, Phạm Quỳnh viết được và đăng được một bài” (Nguyễn Văn Khoan).

Bởi vậy, ngay từ đương thời tạp chí này, Phạm Quỳnh đã được coi là linh hồn của Nam Phong. Nói tới Nam Phong là nói tới Phạm Quỳnh và ngược lại. 

* * *

Nhưng phần lớn thời gian trong một trăm năm qua, việc đọc Nam Phong để xét Phạm Quỳnh và xét Phạm Quỳnh để đọc Nam Phong là cả một quá trình vật lộn trong nhận thức và học thuật của cả một thời kỳ.

Ông đã bị các nhà nho Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phê phán nghiệt ngã: “Những người học thức kiến văn chưa được một nắm, nhân cách giá trị chẳng là bao, mới lom lem những học thuyết ông Mạnh, ông Lư, bập bẹ những cách ngôn họ Trang, họ Liệt, thì đã nghiễm nhiên tự lập làm một đấng văn hào, tự xưng khai hóa quốc dân, mà không ngó lại mình đã khai hóa hay chưa; thôi thì bài diễn văn chất đống, sách du ký đầy thùng, thôi thì tán xằng, tán nhảm, nói bậy nói càn không còn có nghĩa lý chính đáng chi nữa”. 

Ông đã bị nhà cách mạng Đặng Thai Mai kết tội nặng nề: “Tờ tạp chí hàng tháng này là một công cụ hết sức tốt của chủ nghĩa thực dân trong mười mấy năm ròng rã (...) Mácti, tên trùm mật thám Đông Dương hồi đó, đã trao đủ bửu bối cho Phạm Quỳnh”. 

Ông đã bị nhà trí thức Nguyễn Văn Trung kết án gay gắt: “Nếu phải kết án Phạm Quỳnh thì... kết án Phạm Quỳnh thời làm báo vì lúc đó Phạm Quỳnh có khả năng mê hoặc, lừa bịp một số người, và sở dĩ mê hoặc, lừa bịp được là vì Phạm Quỳnh làm chính trị bằng văn hóa núp dưới danh nghĩa một người viết báo, nhà trí thức, nhưng thực ra là một cán bộ chiến tranh chính trị của phòng nhì phủ Toàn quyền”.

* * *

Đối lại những ý kiến phủ nhận Phạm Quỳnh và tạp chí Nam Phong là những ý kiến khẳng định, đề cao. Nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan ngay từ thập niên 1940 đã viết: “Trong mười sáu năm chủ trương tạp chí Nam Phong, ông đã xây đắp cho nền móng quốc văn được vững vàng bằng những bài bình luận và khảo cứu rất công phu, mà từ Bắc chí Nam người thức giả đều phải lưu tâm đến. Nhiều người thanh niên trí thức đã có thể căn cứ vào những bài trong Nam Phong tạp chí để bồi bổ cho cái học còn khuyết điểm của mình. Thậm chí có người đã lấy Nam Phong làm sách học mà cũng thâu thái được tạm đủ tư tưởng học thuật Đông Tây”. 

Học giả Vương Hồng Sển khi được hỏi về cái câu “Truyện Kiều còn tiếng ta còn…” của Phạm Quỳnh đã nói: “Câu này chỉ có nghĩa là tiếng nói của mình chải chuốt hay ho được như Kiều thì đạt tới trình độ tương đối rồi và tiếng của ta mà mất, để các tiếng ngoại quốc xâm nhập tức là tới lúc nước mất. Tiếng nói là chìa khóa mở bất kỳ cánh cửa nào”.

* * *

Phạm Quỳnh từ chỗ bị coi là một “bóng đen” trong lịch sử chính trị suốt một thời gian dài, đến thời kỳ Đổi mới, đã dần dần được rọi sáng, lộ sáng, để từng bước hiện ra chân dung một “nhà văn hóa tiên phong” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) trong buổi đầu nền văn hóa hiện đại Việt Nam. Địa vị và vai trò của Phạm Quỳnh đối với văn hóa Việt Nam 30 năm đầu thế kỷ XX ngày càng được khẳng định. Các sách ông viết và tập hợp bài viết của ông lần lượt được in lại. Các sách viết về cuộc đời và sự nghiệp của ông được in ra. Các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ về tạp chí Nam Phong được bảo vệ ở nhiều trường đại học. Một tọa đàm nhân 100 năm ra đời Nam Phong đã được Hội Nghiên cứu lịch sử Việt Nam tổ chức cuối năm 2017. 

Đặc biệt lần đầu tiên những bài viết bằng tiếng Pháp của Phạm Quỳnh được dịch ra tiếng Việt và xuất bản đã khiến giới nghiên cứu và đông đảo độc giả kinh ngạc, khâm phục. Đó là tập Tiểu luận viết bằng tiếng Pháp trong thời gian 1922 - 1932 (NXB Tri Thức & Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây, 2007). Cuốn sách gồm những bài nói và bài viết của Phạm Quỳnh trên báo chí và trước Viện Hàn lâm Pháp tập trung vào một chủ đề xuyên suốt là sự tồn tại và phát triển của giống nòi và dân tộc Việt Nam trong hoàn cảnh đất nước đã bị biến thành thuộc địa.

Từ trên diễn đàn của giới hàn lâm chính quốc, nhà trí thức thuộc địa trẻ tuổi Phạm Quỳnh đã tự hào nêu bật truyền thống và sức sống của dân tộc mình để yêu cầu kẻ thù đang xâm lăng mình phải thay đổi đường lối khai hóa thực dân. Ông nói: “Dân nước Nam không phải là một tờ giấy trắng; đó là một cuốn sách cổ chứa đầy những dòng chữ được viết bằng một thứ mực không thể tẩy xóa từ bao đời nay; không một chất thử nào có thể tẩy xóa chúng được hoàn toàn và người ta không thể tự do muốn viết gì vào đấy thì viết. Người ta chỉ có thể đóng lại cuốn sách cổ đó theo một cách mới, bày biện nó theo lối hiện đại hơn, chứ đừng mơ tới việc viết vào đó một thứ chữ xa lạ đè lên thứ chữ đã có từ ngàn xưa.

Như vậy vấn đề đặt ra ở đây là cần phải biết đưa lại cho người Nam thứ giáo dục nào để khi truyền bá cho họ thứ văn hóa hiện đại bậc cao mà họ cần có thì không phải là “phi dân tộc hóa” họ, làm họ mất đi bản sắc dân tộc và cá tính lịch sử của mình, biến họ thành một trong những dân tộc vô định hình, không sinh khí, không còn nét độc đáo nào nữa, như một số thuộc địa cũ của Pháp đã bị sa vào” (1922). Khi con người bị lâm tình thế, họ phải buộc lựa chọn thái độ ứng xử từ chỗ đứng của mình. Trong hoàn cảnh lịch sử đất nước đã mất vào tay người, Phạm Quỳnh thuộc phái chấp nhận chung sống, nhưng đó phải là cuộc sống chung “dưới khẩu hiệu một chính sách thực sự tôn trọng nhau”. Diễn biến lịch sử là vừa tất yếu vừa mù quáng. Và Phạm Quỳnh đã phải trả giá cho quan niệm và sự lựa chọn của mình.

20180502 Pham Tuyen

Nhạc sĩ Phạm Tuyên (phải) thay mặt cha là Phạm Quỳnh nhận tôn vinh từ Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh - Ảnh: L.Điền

Nhưng lịch sử ở hướng đi hiện nay của đất nước lại đang cần đến quan niệm của ông như một hành trang, một gợi ý cần thiết. Lấy một thí dụ là khi ông “suy nghiệm về lịch sử nước Nam” để trình bày cho những người Pháp biết. Đây là một suy nghiệm của ông: “Việc ở sát ngay một nước lớn liên tục muốn áp đặt sự chi phối nặng nề của nó, đã khiến cho người nước Nam có một tính cách mềm dẻo đôi khi kìm hãm nó trong một tính hai mặt. Tất cả các quan hệ của nước Nam với Trung Hoa đều nhuốm đậm tính chất này, biểu hiện trong việc tìm cách vì nể ít ra là về bên ngoài người láng giềng hùng mạnh mà bên trong vẫn giữ được nền tự chủ của mình. Vì vấn đề “thể diện” đối với Thiên Triều là rất quan trọng, nên các vua nước Nam bên ngoài tỏ ra hết sức kính trọng đối với Trung Hoa, đồng thời vẫn không bỏ lỡ bất cứ cơ hội nào để gây cho họ những bất ngờ chẳng dễ chịu chút nào, nếu họ quên mất quá khứ mà muốn làm cho quyền bá chủ hoàn toàn là danh nghĩa của họ trở thành thực tế” (1930). Đó là một cách yêu nước của Phạm Quỳnh. Trường hợp Phạm Quỳnh vẫn đang chờ đợi những khám phá đi sâu, và một sự đánh giá khách quan, khoa học, theo một sử quan công chính.

Cuốn sách này, cùng những trước tác khác của Phạm Quỳnh đã và rồi sẽ còn được trả lại không gian văn hóa tinh thần của nước nhà, là kết tụ những tư tưởng, cảm xúc, tâm trạng của một nhân vật lịch sử đã can dự, ở những tầm mức khác nhau, vào tiến trình chính trị văn hóa của nước nhà khoảng đầu thế kỷ XX. Ông đã chấp nhận và chịu đựng lịch sử. Ông đã thành nạn nhân của lịch sử. Nhưng lịch sử xã hội là lịch sử của con người. Karl Marx có nói đại ý: cơ bản nghĩa là xét sự vật tận gốc rễ của nó, mà gốc rễ của con người chính là bản thân con người. Đọc Phạm Quỳnh chính là mở ra cánh cửa tìm đến gốc rễ của ông, tìm về cơ bản của ông, và qua ông là cả một thời kỳ lịch sử mới trôi qua nhưng nhiều khoảng sáng tối đan xen. Đọc ông cũng để đi tìm câu trả lời Phạm Quỳnh là ai.

Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh 2018 vinh danh Phạm Quỳnh là một cách trả lời như vậy. 

Nguồn: Người đô thị, ngày 30.4.2018.

20180824 VHMN

Bìa một số đầu sách văn học miền Nam trước năm 1975 nay được tái bản

Nếu tác phẩm có giá trị thì sức sống của nó vẫn còn lan tỏa, bằng không thì việc xuất bản lại chỉ đáp ứng sự tò mò hoặc công chúng tìm đọc vì hoài niệm 

Sự trở lại của các cây bút tiêu biểu miền Nam giai đoạn trước năm 1975, thiết nghĩ, cũng là điều hết sức bình thường, hợp lẽ tự nhiên, vì không ai có thể phủ nhận những đóng góp của họ trong tiến trình văn học nước nhà, nếu tác phẩm đó thật sự có giá trị lâu bền.

Đi đầu trong việc làm này, trước hết phải kể đến tiểu thuyết "Nguyệt Đồng Xoài" (3 tập) của Lê Xuyên; 3 tác phẩm "Tiếng sáo người em út", "Đôi mắt trên trời", "Nhan sắc" của Dương Nghiễm Mậu do NXB Văn Nghệ TP HCM cùng Công ty Sách Phương Nam ấn hành năm 2007. Về pháp lý, dù được Cục Xuất bản cấp giấy phép nhưng bấy giờ người làm sách lại không có sự giới thiệu, đánh giá lại tác giả - tác phẩm để giúp bạn đọc hiểu thêm về bối cảnh ra đời của nó, từ đó tiếp nhận một cách khách quan.

Hơn nữa, do không có sự giải thích chu đáo, cặn kẽ về ngữ nghĩa nên khi đọc đến những câu đại loại như "Bộ mình cưới nhau liền được sao? Anh còn lo vấn đề động viên. Việc gì mà mình phải gấp rút như vậy?" ("Nguyệt Đồng Xoài", tr.7), chẳng khác nào đánh đố người đọc, bởi từ "động viên" không hẳn mang ý nghĩa như nay ta hiểu... Theo kế hoạch, sau đó sẽ tiếp tục tái bản sách của những nhà văn khác nữa. Nhưng chỉ mới in đến đó, công việc phải tạm thời ngưng lại vì có nhiều luồng ý kiến không đồng thuận.

Bẵng đi một thời gian dài, việc tái bản này được "khởi động" lại với các bước "dọn đường dư luận" chỉn chu hơn. Có một điều cần ghi nhận là khi bổ sung, tái bản "Từ điển văn học bộ mới" (NXB Thế Giới; 2003), nhóm chủ biên Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Thiên, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá đã chọn thêm nhiều nhà văn miền Nam: Bình Nguyên Lộc, Nguyên Sa, Nhật Tiến, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng, Bùi Giáng… Việc làm này được xem là "táo bạo" vì bản in trước đó vào năm 1983, những tên tuổi trên chưa được đề cập.

Trong khoảng thời gian này, thỉnh thoảng các NXB cũng tái bản sách của các nhà văn như Vũ Khắc Khoan, Nguyễn Mộng Giác, Tràng Thiên, Lê Tất Điều, Nhật Tiến… Sự cởi mở trong sinh hoạt văn hóa nói chung, hầu như dư luận đánh giá tốt, không có gì đáng phàn nàn về chất lượng, nội dung. Đáng chú ý là năm 2013, NXB Hội Nhà văn và Công ty Sách Phương Nam in cùng lúc 3 tập truyện ngắn "Lạc đạn", "Nhà có cửa khóa trái", "Trở về mái nhà xưa" (NXB Hội Nhà văn) của Trần Thị NgH. Ngày 19-1-2013 tại quận 1, TP HCM, bộ sách này được tổ chức ra mắt rầm rộ mà không gặp phản ứng trái ngược nào từ dư luận.

Gần đây, sự kiện có thể nói là mạnh dạn nhất trong lĩnh vực xuất bản là cùng một lúc, NXB Hội Nhà văn và Công ty Sách Phương Nam đã tái bản toàn bộ tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thị Thụy Vũ - một trong 5 nhà văn nổi tiếng nhất của miền Nam trước năm 1975. Ngoài các tình tiết, phải kể đến điều đã khiến bạn đọc bất ngờ khi đọc "Khung rêu", "Thú hoang", "Lao vào lửa", "Chiều xuống êm đềm", "Như thiên đường lạnh", "Ngọn pháo bông", "Cho trận gió kinh thiên" là tác giả còn có biệt tài quan sát khi miêu tả sinh hoạt nghệ thuật quen thuộc ở nông thôn miền Nam thời trước. Chẳng hạn hát bội đình làng, giải sầu ca vọng cổ; ngoài ra còn là sự miêu tả các món ăn dân dã, quê mùa rất đỗi thân thương… nay đã ít nhiều trở thành dĩ vãng; kể cả khi khai thác về số phận vũ nữ, gái bán bar Sài Gòn với nhiều chi tiết sống động.

Sở dĩ bộ sách này được dư luận báo chí chú ý vì người làm sách đã nỗ lực thực hiện công tác chú thích trong chừng mực có thể đã giúp người đọc hiện nay tiếp nhận được lời ăn tiếng nói trước đây của người Nam Bộ. Chính sự phong phú, đa dạng về ngôn từ sẽ giúp ta hiểu hơn nữa về con người, vùng đất những nhà văn thế hệ trước đã từng "khai phá" bằng ngôn ngữ miền Nam như Hồ Biểu Chánh, Phi Vân, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Ngọc Linh… Nói cách khác, cách sử dụng ngôn từ trong tác phẩm của nhiều nhà văn miền Nam viết trước năm 1975 đã góp phần lưu giữ tiếng nói, cách phát âm một thời của bà con ở miền Nam đất Việt.

Không dừng lại đó, toàn bộ sách triết học của GS Kim Định như "Cửa Khổng", "Chữ Thời", "Tinh hoa ngũ điển", "Triết lý cái đình", "Vấn đề quốc học"… cũng được tái bản tương tự. Việc làm này liệu có quá "mạo hiểm" trong kinh doanh? Chúng tôi nghĩ là không, vì quy luật cung - cầu của thị trường sẽ quyết định. Hơn ai hết, những người làm sách còn phải nghĩ đến lợi nhuận mới có thể đi "đường dài". 

Hiện nhiều đơn vị làm sách tư nhân cũng mặn mà tái bản nguồn sách miền Nam - khi họ liên kết với các NXB, chẳng hạn, "Khúc thụy du" (Saigon Books), "Khúc thụy du" (Phan Books) - thơ của Du Tử Lê; "Những bước lang thang trên hè phố của gã Bình Nguyên Lộc" (DT books)…; "Tuổi nước độc" của Dương Nghiễm Mậu, "Hai chậu lan Tố Tâm" của Phan Du đều do Tao Đàn đầu tư…

Nhìn chung, sách đã in trước năm 1975 tại miền Nam về lâu dài vẫn có thể người làm sách tiếp tục tái bản. Tuy nhiên, đứng ở góc độ người đọc, chúng tôi thấy vẫn cần có sự thẩm định kỹ để kiểm chứng giá trị của nó, chứ không thể "thấy người ta ăn khoai, mình cũng vác mai đi đào". Ý thức "gạn đục khơi trong" với bất kỳ loại sách cũ nào, in ở thời kỳ nào, bao giờ cũng hết sức cần thiết. 

Lê Minh Quốc

Nguồn: Báo Người lao động, ngày 24.7.2018.

Khi văn hóa đọc thiếu nền tảng học thuật và pháp luật

Có lẽ chưa bao giờ văn hóa đọc lại nở rộ như ngày nay, đặc biệt là sự hỗ trợ từ chính quyền và các kênh báo đài chính thống. Không khí tấp nập nhộn nhịp trong các hội trợ sách, các hội thảo sách, các cuộc chạy đường trường cổ vũ phong trào đọc dường như làm sống dậy cái không khí Đông Kinh nghĩa thục: “Buổi diễn thuyết người đông như hội/Kỳ bình văn khách đến như mưa”. Chứng kiến cảnh “trăm hoa đua nở” của các đơn vị xuất bản, các cộng đồng đọc sách, các cá nhân cổ vũ đọc sách…v…v… chúng ta dễ lầm tưởng rằng một tương lai tươi sáng cho công cuộc nâng cao dân trí đang diễn ra. Tuy nhiên, nếu nhìn cận cảnh văn hóa đọc ở Việt Nam sẽ thấy một nguy cơ của tình trạng nhiễm độc “tinh thần” đang là vấn đề nan giải.

Một điểm dễ thấy ở thị trường sách Việt Nam đó là sự vượt trội về doanh số của các đầu sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống, tiểu thuyết tình yêu…v…v… so với các đầu sách khác. Những cuốn sách này thường khá dễ đọc, giải quyết các nhu cầu trước mắt của người đọc, và thường được những độc giả thiếu nền tảng kiến thức ưa thích. Ở phương Tây hay Trung Quốc, những cuốn sách dạng này cũng được số đông độc giả ưa thích nhưng chúng không có vị trí thống soái như ở Việt Nam. Dù cho chúng có thể là “best seller” nhưng người dân vẫn ý thức được rằng vẫn có những cuốn sách tầm cỡ cao hơn thế, có tính học thuật hơn và sách hàn lâm vẫn giữ một vị trí thống soái dù số lượng bán ra không bằng. Nhưng ở Việt Nam, sách hàn lâm cứ như thể là một thế giới vô cùng biệt lập đối với độc giả đại chúng.

Đặc biệt là các sách dạy làm giàu, dạy kỹ năng sống luôn xuất hiện ở các giá sách của các quán café sách như một phần của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Đây cũng là các cuốn sách ưa thích trong các chương trình đào tạo nhân viên của các tập đoàn, các công ty bán hàng đa cấp...v…v… Đến nay, sự đúng – sai của các cuốn sách này vẫn gây nhiều tranh cãi trên thế giới và ở Việt Nam, tuy nhiên, nếu đưa số sách này vào làm một phần chiến lược của phong trào nâng cao dân trí thì chẳng khác nào vứt vào tay người dân những “cái cần” chẳng biết có “câu được cá” hay không? Và nếu các cuốn sách này không thực sự giúp được người dân cải thiện cuộc sống mà chỉ được sử dụng để khích lệ ham muốn kiếm lợi thì đó không phải là nâng cao dân trí mà là làm giảm đi khả năng làm việc có chuyên môn để thay bằng các phương pháp làm giàu nhanh chóng.  Trong khi ấy, các cuốn sách có tính chuyên môn sâu hay tính hàn lâm vẫn thiếu vắng trên thị trường sách và được in với số lượng rất ít.

Tiểu thuyết tình yêu hay còn có tên gọi mới là tiểu thuyết ngôn tình không chỉ xuất hiên nhan nhản ở các nhà sách, các trang bán sách online mà còn cả ở Thư viện Quốc gia, nơi vốn dĩ là tập hợp của những cuốn sách có tính hàn lâm hoặc hữu dụng. Nếu ai đã từng một lần tới phòng đọc của Thư viện Quốc gia Hà Nội hẳn sẽ ngạc nhiên khi thấy tiểu thuyết ngôn tình chiếm một vị trí lớn trong thư viện: không chỉ có ngôn tình Trung Quốc mà còn có đủ cả ngôn tình Anh, Pháp và Việt Nam. Trong khi ấy, thư viện lại thiếu vắng các tác phẩm văn học kinh điển của thế giới mà các dịch giả từ đầu thế kỷ 20 đến nay vẫn tiếp tục dầy công chuyển ngữ. Thậm chí, nhiều tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam cũng không thể tìm thấy tại Thư viện Quốc gia Hà Nội. Những bạn trẻ đến thư viện có thể thoải mái ngồi đọc tiểu thuyết ngôn tình bên cạnh những nhà nghiên cứu đọc các cuốn sách dầy cộp. Đây có lẽ là một cảnh khá hi hữu tại một Thư viện công có tầm cỡ quốc gia với nền tảng lưu trữ học thuật hơn 100 năm. Cùng lúc ấy, các tác giả trẻ viết tiểu thuyết tình yêu mang tính thị trường và các tác giả sáng tác văn chương mang tính nghệ thuật cũng rất khó để phân định được ranh giới dẫn đến một tình trạng loạn chuẩn trong nền văn học, và người đọc có thể hoàn toàn sẽ bị dẫn hướng bởi truyền thông. Ví dụ như các độc giả trẻ sẽ không thể phân biệt được sự chênh lệch về chất lượng giữa một cuốn tiểu thuyết ngôn tình sử dụng yếu tố lịch sử (như trường hợp “Thành kỳ ý” của Lê Ngọc Linh hay “Đại Nam dị truyện” của Phan Cuồng) với một cuốn tiểu thuyết lịch sử công phu (như “Hồ Qúy Ly” của Nguyễn Xuân Khánh hay “Vạn xuân” của Yveline Féray).

Tình trạng “vàng” không được coi trọng bằng “thau” này đã khiến cho nền văn hóa đọc của Việt Nam ở thời sung sức của giai đoạn đầu nhiễm những tạp chất khó có thể tẩy rửa khỏi thói quen đọc sách của thế hệ trẻ. Đây là hệ quả của sự thiếu nền tảng học thuật và pháp lý trong chiến lược của phong trào nâng cao văn hóa đọc. Trong “ĐỀ ÁN Phát triển Văn hóa Đọc trong cộng đồng Giai đoạn 2011 – 2020, tầm nhìn 2030” của Thủ tướng chính phủ được thảo ra từ năm 2010, việc xây dựng nền tảng học thuật và pháp lý làm chỗ dựa cho xuất bản gần như không được đề cập đến mà hầu như chỉ nhấn mạnh vào công tác tuyên truyền nhằm gia tăng lượng độc giả. Trên thực tế, nếu không thể xuất bản ra những cuốn sách có chất lượng cao, đảm bảo tính chính xác của kiến thức, đạt các chuẩn của tiếng Việt và không có các sai phạm về bản quyền thì nền văn hóa đọc ấy sẽ chỉ gây hại cho độc giả mà thôi. Vấn đề chính yếu của văn hóa đọc hiện nay không phải là tình trạng giảm sút của số lượng độc giả mà tình trạng lỏng lẻo trong quản lý chất lượng sách.

Ngăn ngừa đạo văn có lẽ là vấn đề pháp lý quan trọng nhất của một nền văn hóa đọc. Tuy nhiên, cho đến nay, khung pháp lý xử lý đạo văn vẫn còn lỏng lẻo, không có cơ quan giải quyết các khúc mắc về đạo văn một cách chuyên nghiệp, cũng không có mức phạt nghiêm khắc thực sự để ngăn ngừa đạo văn. Hầu như trong các vụ đạo văn bị phanh phui trên truyền thông, những tác phẩm đạo văn không hề bị thu hồi và tác giả cũng không phải chịu một mức phạt nào, thậm chí nhiều trường hợp còn không xin lỗi một cách công khai. Qúy cuối năm 2015 cho đến quý I năm 2016, độc giả được chứng kiến hai vụ đạo văn đình đám: Một là sự việc nhà thơ Phan Huyền Thư đạo thơ của Phan Ngọc Thường Đoan. Hai là sự việc Lê Ngọc Linh trong tiểu thuyết ngôn tình có yếu tố lịch sử “Thành Kỳ Ý” đã đạo rất nhiều đoạn văn từ cuốn sách “Tứ thư bình giải” cùng nhiều bài báo từ các trang online của báo Dân Trí, Vietnamtourism…v…v… Cả hai trường hợp đạo văn này, sách đều không bị tịch thu và không bị nhận mức phạt nặng, cùng lắm chỉ là bị ép xin lỗi hoặc như nhà thơ Phan Huyền Thư chỉ cần trả lại giải thưởng của Hội Nhà văn Hà Nội là đủ. Như trường hợp “Thành Kỳ Ý”, mức độ sai phạm trầm trọng hơn khi tác giả của cuốn sách này kêu gọi độc giả ủng hộ cô ta số tiền lên đến hơn 200 triệu đồng trước khi cô ta ra mắt sách. Số tiền này không hề được hoàn trả cho người ủng hộ khi cuốn sách được chứng minh là đạo văn, và cũng không có khoản phạt tài chính nào với sai phạm này. Cho đến nay, Lê Ngọc Linh vẫn không hề bị xử phạt dù cho đã có hơn 1000 chữ ký từ các độc giả vận động trên mạng và gửi thư khiếu nại đến Cục xuất bản. Hai ví dụ trên thật sự đã cho ta thấy sự quản lý lỏng lẻo của các đơn vị quản lý văn hóa. Đây chỉ là hai vụ scandal nổi tiếng trong số rất nhiều những sự vụ khác ít đình đám hơn và rất nhiều những vụ chưa được phanh phui vì chưa có ai phát hiện. Sẽ ra sao nếu Việt Nam có một nền văn hóa đọc mà ai ai cũng có thể đạo văn mà không phải chịu trách nhiệm gì? Đó là một nền văn hóa đọc không bảo vệ sự sáng tạo mà chỉ dung túng cho thói quen viết lách thiếu trách nhiệm và trình độ.

Không chỉ là một nền văn hóa đọc thiếu sự khuyến khích sáng tạo mà nền văn hóa đọc Việt Nam còn thiếu sự chính xác và tinh thần khoa học. Tình trạng nội dung sách không đảm bảo chất lượng ngôn ngữ hay khoa học là khá phổ biến. Gần như năm nào người đọc cũng được chứng kiến các sự việc sách dịch không chính xác ( như “Lolita” do Dương Tường dịch, “Sapiens, lược sử về loài người” do Nguyễn Thủy Chung và Võ Minh Tuấn dịch, “Căn tính và bạo lực – Huyễn tưởng về số mệnh” do Trần Tiễn Cao Đăng và Lê Tuấn Huy dịch…). Những cuốn sách này hoặc là thiếu chính xác trong chuyển ngữ, hoặc là diễn giải không đúng với văn phạm tiếng Việt. Bên cạnh đó còn phải kể đến không ít các cuốn sách nghiên cứu, khảo cứu, hướng dẫn… thiếu tính chính xác trong việc sử dụng kiến thức. Tôi sẽ không đề cập đến ví dụ về tình trạng sách nghiên cứu, khảo cứu sử dụng sai kiến thức bởi vì sẽ rất dài dòng để giải thích. Thay vào đó, tôi sẽ sử dụng một cuốn giáo trình tiếng Anh làm ví dụ. Đây là cuốn giáo trình tiếng Anh do trung tâm Elight phát hành, cấp phép bởi NXB Thanh Niên, có tên “Tiếng Anh cơ bản”. Một giáo viên dậy tiếng Anh rất nổi tiếng người Mỹ có tên là Dan Hauer đã chỉ ra rất nhiều lỗi sai ngữ pháp và từ vựng nghiêm trọng ở cuốn giáo trình này cùng với hơn 300 chi tiết đạo văn từ các giáo trình tiếng Anh khác. Cuốn sách được bán với giá 299 ngàn, một mức giá khá cao. Video nhanh chóng được lan truyền trên mạng với hơn 660 ngàn lượt xem và đến nay cũng chưa có dấu hiệu của đơn vị quản lý văn hóa và giáo dục xử lý các lỗi sai về kiến thức cũng như đạo văn trong cuốn sách này. Việc cung cấp sai kiến thức là một lỗi nghiêm trọng không kém gì đạo văn bởi những cuốn sách ấy phát tán các nhận thức sai lệch cho độc giả. Một nền văn hóa đọc mà trong đó độc giả dễ dàng bị nhồi nhét những nhận thức sai lệch thì đó là một nền văn hóa không lành mạnh. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do thiếu một đội ngũ có trình độ học thuật cao tham gia các khâu thẩm định chất lượng nội dung và một nền xuất bản thiếu các tiêu chuẩn khoa học.

Mặc dù vậy, ở góc khuất của nền văn hóa đọc nhốn nháo ngày nay vẫn có những cộng đồng đọc sách nghiêm túc những mong tuyển chọn các cuốn sách hay giới thiệu cho bạn đọc, vẫn có những tác giả và dịch giả miệt mài ngày đêm âm thầm cống hiến cho tri thức, vẫn có những độc giả khôn ngoan biết tìm đến các nguồn sách có chất lượng cao. Tất cả những yếu tố này tạo nên một ốc đảo tri thức nằm giữa biển sách ngổn ngang của thị trường. Tuy rằng biệt lập nhưng họ vẫn luôn cố gắng để duy trì ngọn lửa tri thức. Và dù cho xã hội không có một khung pháp lý hay một khung học thuật để quản lý chất lượng sách trên thị trường thị họ cũng tự xác lập cho mình những chuẩn mực riêng trong ốc đảo tri thức ấy.

Nguồn: Tạp chí Văn hóa Nghệ An, ngày 16.4.2018.

20180718 mNam

Ảnh: internet

So với những trào lưu hiện đại chủ nghĩa có tính chất tiền phong, mối quan tâm hàng đầu của chủ nghĩa hiện sinh chưa phải là vấn đề hình thức nghệ thuật mà là vấn đề đổi mới cách nhìn về con người và thế giới.

Tuy nhiên, đúng như Jean-Paul Sartre nhận xét, “người ta là nhà văn không phải vì đã viết cái gì mà vì viết như thế nào”. Chủ nghĩa hiện sinh đã đem đến cho văn học thế giới những tác gia và tác phẩm lớn, vì cùng với quan niệm hiện sinh về con người tự do, nó đã vận dụng một cách nhuần nhuyễn hiện tượng luận vào sáng tạo nghệ thuật và đã nâng nghệ thuật miêu tả hiện tượng luận lên đến đỉnh cao.

Vận dụng hiện tượng luận, văn học hiện sinh tìm cách miêu tả thật chi tiết, cụ thể kinh nghiệm của con người trong một thời điểm nhất định và xem đó là cái thực. Với trào lưu này, điều quan trọng là miêu tả những hiện tượng diễn ra trước ý thức của con người chứ không phải là giải thích, diễn dịch hay phân tích. Chủ nghĩa hiện sinh không tin rằng cái tôi là một trung tâm của chân lý có khả năng nắm bắt hiện thực như nó vốn có. Cái tôi nhà văn chẳng qua là một ý thức hướng về thế giới, một thế giới mờ đục, không dễ thấu hiểu, vì nó bị che giấu, ta chỉ có thể nhìn thấy mặt ngoài của sự vật và khám phá một phần bản chất của nó thông qua những hiện tượng mà ta tiếp nhận được. Nói như vậy không có nghĩa là hiện tượng có thể xuyên tạc bản chất, bởi bản chất chính là toàn thể các hiện tượng chứ không phải là cái gì khác. Miêu tả hiện tượng luận là từng bước và từ nhiều góc độ vén bức màn cho ta nhìn thấy thế giới qua những bức tranh trắc diện của nó 1.

Tuy không giải thích, không phân tích, nhưng bằng sự miêu tả, văn học nghệ thuật sáng tạo ra ý nghĩa. Sứ mạng của con người là ban phát ý nghĩa: “con người bị kết án phải có ý nghĩa”, như Merleau- Ponty đã nói. Mọi cái nhìn, mọi hành vi của con người, kể cả những hành vi vô tình, đều là những ý nghĩa. Con người không thể hiểu thấu bản chất của sự vật, nhìn thấu bản thể của đối tượng, biết đến tận đáy của sự vật. Điều này chỉ xảy ra nếu đó là cái nhìn của Thượng đế hoặc nếu đó là một sự vật trong suốt và bất biến. Trên thực tế, con người chỉ có thể nhìn sự vật từ một góc độ, mỗi cái nhìn khai mở cho ta thấy một khía cạnh, một phương diện của sự vật mà thôi2.

Trên bình diện sáng tác văn học, chủ nghĩa hiện sinh đã đem lại cho văn học miền Nam (1954 - 1975) những thay đổi đáng kể, với quan niệm nghệ thuật về con người cô đơn trong một thế giới phi lý, với ngôn ngữ và kỹ thuật miêu tả hiện tượng luận. Đây có thể là ảnh hưởng tự phát, nhưng cũng có thể là ảnh hưởng tự giác, ở những nhà văn trực tiếp đọc lý thuyết và sáng tác văn học hiện sinh Tây Âu. Cung Tích Biền, một người trong cuộc, ghi nhận: “Do có đồng khí tương cầu, chủ nghĩa hiện sinh đã có đất gieo mầm tại miền Nam một thời. Nó là dòng chảy, từ tư duy đến hành động, thái độ sống; nơi mỗi cá thể thành những tập thể quần chúng; từ cục bộ trí thức đã lan tỏa đến một tầng lớp xã hội; ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lãnh vực văn chương nghệ thuật, âm nhạc, hội họa”3.

Trên bình diện lý thuyết, trí thức miền Nam, nhất là trí thức khuynh tả, chịu ảnh hưởng Sartre khá sâu đậm. Còn trên bình diện cảm thụ, độc giả Sài Gòn đọc Camus nhiều hơn Sartre và do đó, ảnh hưởng của Camus về mặt nghệ thuật có lẽ sâu sắc hơn. Phạm Công Thiện tinh tế khi nhận xét rằng “về con người thì Sartre cho rằng hiện hữu có trước yếu tính (L’existence précède l’essence), nhưng về nghệ thuật văn nghệ thì Sartre gián tiếp cho rằng yếu tính có trước hiện hữu (L’essence précède l’existence)”4. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, tác phẩm văn xuôi và kịch của Sartre phần nào có yếu tố minh họa cho triết học.

Liên quan đến chủ đề tình yêu trong sáng tác văn nghệ ở miền Nam, thế giới tính dục như là xung năng chi phối đời sống con người trở thành một mô-típ ám ảnh qua ngòi bút của Võ Phiến, Dương Nghiễm Mậu, Thảo Trường, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ… Thực tiễn tiếp nhận văn học cho thấy giữa phong hóa dân tộc và những tác phẩm có yếu tố tính dục từng diễn ra những bất hòa, xung đột. Tiểu thuyết Vòng tay học trò của Nguyễn Thị Hoàng bị phê phán một cách cực đoan vào giữa những năm 1960 là một trường hợp tiêu biểu.

Hình tượng thị giác, hình tượng âm thanh và hình tượng ngôn từ trong văn nghệ có thể là sự tái hiện từ tiềm thức hay vô thức của người nghệ sĩ. Những ám ảnh tuổi thơ và những chấn thương tinh thần thường để lại dấu vết dài lâu trong tâm hồn con người. Theo tinh thần phân tâm học, “đứa trẻ nào, tác phẩm ấy”. Những ảnh tượng từ thời thơ ấu đã bao năm mất hút trong lớp trầm tích của quá khứ, nhờ một sự khơi gợi tình cờ nào đó, bỗng sống dậy và trở thành cảm hứng của người nghệ sĩ.

Trong lĩnh vực âm nhạc, mối quan hệ giữa phân tâm học hiện sinh và sáng tác văn nghệ có thể được minh họa qua một số ca khúc của Phạm Duy và Lê Uyên Phương.

Bên cạnh những bài hát hay viết cho tuổi thơ mang âm hưởng dân ca như Em bé quê, Ông trăng xuống chơi…, Phạm Duy có những ca khúc viết về thời niên thiếu, trong đó phải kể đến Kỷ niệm và Tóc mai sợi vắn sợi dài. Bài đầu là tâm nguyện của một người muốn trở về trú ẩn trong tuổi thơ bình an: Cho đi lại từ đầu/ Chưa đi vội về sau/ Xin đi từ thơ ấu/ Đi vui và bên nhau/ Trong tim thì sôi máu/ Khóe mắt có trăng sao/ Bông hoa cài trên áo/ Trên môi một nguyện cầu… Bài sau là nỗi luyến tiếc về một mối tình thơ dại qua câu ca dao “Tóc mai sợi vắn sợi dài/ Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm”: Đời sống trôi hoài không nghỉ ngơi/ Đời sống kéo dài nỗi trần ai/ Bao nhiêu bao nhiêu thiên trường ca/ Không qua không qua câu mẹ hò. 

Rời bỏ kháng chiến, giã từ miền Bắc vào miền Nam từ năm 1951, cuộc sống đô thị Sài Gòn hẳn có tác động làm thay đổi tư duy âm nhạc của Phạm Duy. Khoảng giữa những năm 1960 ông bắt đầu đưa yếu tố nhục cảm vào ca khúc, mới đầu còn nhẹ nhàng trong những bài Cỏ hồng, Nha Trang ngày về, như chính nhạc sĩ thừa nhận5. Ở đây người tình đưa người tình lên đồi cao Đà Lạt (Rước em lên đồi cỏ thơm mùi sữa/ Níu em yêu ngồi trên bãi cỏ tơ/ Giương đôi tay ôm thân tròn ơn mưa móc/ Hãy xõa mái tóc rũ trên vai anh mòn); hay người tình ngồi một mình trên bãi biển Nha Trang mà nhớ nhung (Lớp sóng mơn man thịt mềm da ngát hương/ Nào ngờ sóng cuốn trôi đi lầu vàng trên bãi hoang…) thì tình yêu cũng đã bước từ giai đoạn thuần khiết cảm tính sang giai đoạn nhục tính.

Về mặt này Phạm Duy táo bạo hơn rất nhiều so với lớp nhạc sĩ trẻ viết tình ca thời đó như Trịnh Công Sơn, Vũ Thành An, Từ Công Phụng, Anh Việt Thu, Trầm Tử Thiêng, Ngô Thụy Miên… Trịnh Công Sơn hiền lành chỉ viết được rất mơ hồ: Ru đời đi nhé, ôi môi ngon này giữa trần gian/ Ru từng chiếc bóng lênh đênh vào giấc ngủ ngon/ Cho tôi tay gối mong manh/ Cho tôi ôm lấy vai thon… 

Trịnh Công Sơn không dám qua mặt Xuân Diệu (Đã hôn rồi, hôn lại/ Cho đến mãi muôn đời/ Đến tan cả đất trời/ Anh mới thôi dào dạt); còn Phạm Duy thì không chịu dừng ở đó. Những năm cuối của cuộc chiến tranh, ông còn viết Vỉa hè ca, Tục ca với ca từ thật sống sượng: Tôi có người yêu đ. to như mông Thẩm Thúy Hằng/ Cái đ. nhìn qua khiến ta phải ngỡ ngàng…

Tất nhiên, ở Sài Gòn lúc đó chẳng mấy người chịu hát những bài “ngợi ca tính dục” thô thiển của Phạm Duy; thậm chí đây là một trong nhiều lý do khiến nhà phê bình Nguyễn Trọng Văn diễn thuyết và in sách Phạm Duy đã chết như thế nào?. Vấn đề là tại sao tác giả của những tuyệt phẩm Quê nghèo, Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Giọt mưa trên lá, Nghìn trùng xa cách… lại chịu viết những bài hát câu khách và nổi loạn như vậy. Ở đây có ảnh hưởng của cuộc giải phóng tính dục sôi nổi đương thời từ phương Tây mới tràn vào các đô thị miền Nam; đồng thời cộng hưởng với tâm trạng bất an, mệt mỏi, rệu rã, mất phương hướng mà cuộc chiến tranh đem lại. Cho nên ám ảnh tính dục lúc đó gắn liền với ám ảnh về cái chết. Khao khát tính dục như một lối thoát khỏi ám ảnh về cái chết. Ngược lại, cái chết là bi kịch mà cũng đồng thời là giải thoát.

Ở miền Nam, người biểu hiện nỗi ám ảnh về cái chết ấn tượng nhất là đôi song ca Lê Uyên và Phương. Với hai tập nhạc cùng xuất bản năm 1970 (Khi loài thú xa nhauYêu nhau khi còn thơ) được chính tác giả giới thiệu với công chúng Đà Lạt và Sài Gòn, Lê Uyên Phương trở thành hiện tượng độc đáo của đời sống văn nghệ miền Nam giai đoạn đó. Nhạc tình của Lê Uyên Phương kêu gọi tuổi trẻ tận hưởng tình yêu khi cái chết cận kề, chết bởi chiến tranh hay bởi bệnh tật, tận hưởng như lần yêu nào cũng là lần yêu cuối. Cũng vì ám ảnh của cái chết mà hạnh phúc không bao giờ trọn vẹn, luôn luôn trong trạng thái chơi vơi, mong manh, thoáng chốc. Ca từ của Lê Uyên Phương là sự kết hợp của hơi hướng phân tâm học và hơi hướng hiện sinh, kết nối ám ảnh tính dục với ám ảnh về cái chết: Một chiều mưa áo trắng đưa nhau/ Bên kia đời tình buông nửa vời/ Lần này đây đã hết cho nhau/ Thôi điên cuồng thịt da rã rời […] Cuộc tình đó như qua ngày đông/ Phòng lạnh giá môi xô nụ hôn/ Người nằm đó xin cho được yên/ Còn tìm đâu áo mát thanh xuân/ Ấp hơi nồng trên da thịt đầy/ Còn tìm đâu gối thắm đê mê/ Còn gì đâu… (Đưa người tuyệt vọng).

Thế giới tình yêu trong ca khúc Lê Uyên Phương không chỉ là hoa thơm trái ngọt, gió thổi mây trôi, chim bay bướm lượn như tình ca thời lãng mạn. Trong thế giới đó, mê say đi liền với ê chề, nồng nàn đi liền với chua cay, đắm đuối đi liền với chán chường. Có lúc tác giả gọi thế giới đó là “vũng lầy”: Ta sống trong vũng lầy/ Một ngày vùi dần còn vùi sâu còn vùi sâu trong ngao ngán không dứt hết cơn ê chề/ Ta sống trong vũng lầy/ Một ngày vùi dần còn vùi sâu còn vùi sâu trong ngao ngán không dứt hết một lần đau (Vũng lầy của chúng ta).

Trong đời thực, Lê Uyên và Phương là đôi nghệ sĩ khởi nghiệp từ Đà Lạt giống như Khánh Ly và Trịnh Công Sơn, nhưng có điều khác là họ trở thành đôi tình nhân, rồi trở thành bạn đời chia sẻ một quãng đời trong nước đến một chặng đời ở hải ngoại. Nếu tiếng hát Khánh Ly biểu cảm những ca khúc hòa hợp được yếu tố hiện sinh, siêu thực và tinh thần Thiền học của Trịnh Công Sơn; thì tiếng hát Lê Uyên diễn tả nỗi đắng cay pha mùi khoái lạc hiện sinh cộng với nỗi hoang mang sợ hãi trầm thống trước điềm báo về cái chết. Phương, từ một vết đau trên da thịt luôn nghĩ về phút giây vĩnh biệt người tình đã sẻ chia, đồng cảm với ông trong âm nhạc và trong cuộc đời: Giờ này còn cầm tay/ Cầm chắc mối duyên bẽ bàng/ Cầm chắc mắt môi ngỡ ngàng/ Cầm giá buốt thương đau/ Ngày mai ta không còn thấy nhau (Cho lần cuối).

Không phải ngẫu nhiên mà Thế Uyên đặt nhan đề cho một bài viết về ca khúc Lê Uyên Phương là Tình ca - ranh giới sống chết: “Những tình tự chất liệu nguyên, hoang sơ như một đám cỏ tranh trên đồi, những xúc động nguyên thủy của nam nữ, tất cả qua giọng ca của một người nữ như còn run rẩy trong cơn làm tình và tê dại toàn thân trong đau đớn vì tình yêu đã bay đi. Và thích thú hơn, hình như tôi đã nghe thấy, cảm thấy thứ tình yêu ranh giới sống chết ấy”.

Lê Uyên và Phương đã đi đến cùng ranh giới đó, và cũng như sự an bài của định mệnh, họ đã không vượt qua được lời nguyền của sự chia cắt, khi hai người tưởng đã an trú nơi xa xứ, sau khi đã vượt qua những thử thách của hoàn cảnh. Lê Uyên Phương đã tiên tri cho số phận mình khi chính tác giả sớm viết bài Requiem cho linh hồn nghệ sĩ: Màn đêm mở huyệt sâu/ Mộng đời xin dài lâu/ Một vì sao lạ rơi/ Nghe hồn tê tái trên dòng hương khói bay/ Ái ân ơi đừng phụ lòng ta/ Nhớ thương sâu xin gửi người xa/ Khóc nhau trong cuộc đời/ Giấc mơ xưa khăn phủ vành sô/ Có yêu nhau ngọt ngào tìm nhau/ Chết bên nhau thật là hồn nhiên (Dạ khúc cho tình nhân).

Thật ra trong ca từ âm nhạc miền Nam đâu phải chỉ mình Lê Uyên Phương nói về cái chết. Phạm Duy, Trịnh Công Sơn còn nói nhiều hơn. Nhưng cái chết trong ca khúc của các tác giả này là cái chết hiện thực, cái chết do chiến tranh phi lý; còn cái chết trong ca khúc Lê Uyên Phương là ám ảnh của định mệnh cá nhân, gần với sự kết hợp đối nghịch giữa xung năng tính dục và chấn thương tâm lý trong phân tâm học.

Chủ nghĩa hiện sinh đi vào xã hội miền Nam vào thời buổi chiến tranh khốc liệt đầy bi đát. Những khái niệm “quê hương lưu đày”, “địa ngục”, “cô đơn”, “phi lý”, “buồn nôn”, “thời gian hữu hạn”… không phải là những từ ngữ văn nghệ thuần túy mà ứng với thực trạng của quê hương. Cái chết không còn là một ám ảnh siêu hình mà là sự thật, gắn với người thân yêu, với những địa danh, những trận đánh có thực. Tình ca của Trịnh Công Sơn bấy giờ là “tình ca của người mất trí”: Tôi có người yêu chết trận Pleime/ Tôi có người yêu ở chiến khu Đ/ Chết trận Đồng Xoài/... Tôi có người yêu chết trận Ba Gia/ Tôi có người yêu vừa chết đêm qua/ Chết chẳng hẹn hò, chết thật tình cờ/ Không hận thù, nằm chết như mơ (Tình ca của người mất trí).

Trong khi đó, những người tình nhân trong ca khúc Phạm Duy đứng trước một dự báo thảm khốc. Người trở về trong cuộc chiến tranh lần thứ nhất là “anh thương binh chống nạng cày bừa… có con trâu xanh hết lòng giúp đỡ” với niềm vui và hy vọng. Còn người trở về trong cuộc chiến tranh thứ hai này, nếu may mắn là “trên đôi nạng gỗ… tật nguyền chai đá”, còn rủi ro là: Anh trở về hàng cây nghiêng ngả/ Anh trở về, có khi là hòm gỗ cài hoa/ Anh trở về trên chiếc băng ca/ Trong trực thăng sơn màu tang trắng […] Anh trở về chiều hoang trốn nắng/ Poncho buồn liệm kín hồn anh/ Anh trở về bờ tóc em xanh/ Chít khăn sô lên đầu vội vã… (Kỷ vật cho em, thơ Linh Phương).

Đời sống bi thảm đó dẫn con người đến những thái độ chọn lựa khác nhau. Âm nhạc Phạm Duy là một thái độ. Ông từng “khóc cười theo vận nước nổi trôi”, rồi ông tỏ thái độ bất cần dư luận, làm một “hippy già” ca ngợi những “hippy trẻ mặc áo rách đứng bên nhà thờ”. Theo chúng tôi, về mặt ca từ, ca khúc thể hiện rõ nhất tinh thần của chủ nghĩa hiện sinh trong gia tài âm nhạc Phạm Duy là bài Một ngày… một đời…: Một ngày cho Tổ quốc/ Một ngày quên nợ nước/ Một ngày cho vợ con/ Một ngày cho tình nhân/ Một ngày đang cười ngất/ Một ngày ôm mặt khóc/ Một ngày bạn bè đông/ Một ngày chợt cô đơn…/ Hỡi, hỡi ôi, thân phận làm người/ Ôi thân phận làm người! 

Phạm Duy là một tài năng quái kiệt, là “tháp Bayon bốn mặt” như cách nói của Chế Lan Viên, thậm chí là “người nhiều mặt”. Sau những tình ca, kháng chiến ca, tâm ca, đạo ca, tục ca, khi Hiệp định Paris được ký kết năm 1973, ông lại có bình ca, ngợi ca hòa bình: Sống sót trở về, tên cường đạo lau kiếm/ Xé áo giang hồ, xin chèo đò trên bến/ Sống sót trở về, quên màu hồng gái điếm/ Trút phấn son rồi, xin mặc lại áo huyền/ Sống sót trở về, tôi tạ từ vũ khí/ Sống sót trở về, tôi trở lại nhỏ bé/ Sống sót trở về, đeo một bầu rượu quý/ Sống sót trở về, vui một mình… tôi đi! (Bình ca 2: Sống sót trở về).

Sau thơ Nguyễn Bắc Sơn, có lẽ đây là lần đầu tiên, trong ca khúc có từ “gái điếm”, điều đó nói lên sự táo bạo trong sử dụng ngôn ngữ của Phạm Duy. Ông không ngại ngần dùng ngôn ngữ vỉa hè, bụi bặm, vì ông cho nó cũng có vẻ đẹp riêng. Về bản thân, dù có những lúc loạng choạng, ngả nghiêng, ông vẫn là người nghệ sĩ yêu nước, theo cách của ông. Những bài kháng chiến ca, những trường ca Mẹ Việt Nam, Con đường cái quan… nói lên điều đó. Hơn nữa, về một phương diện nào đó, ta còn có thể gọi Phạm Duy là người nghệ sĩ hiện sinh: ông ca ngợi giá trị con người, hạnh phúc trần thế, khát vọng tự do và sống như một cá thể tự do.

Tuy nhiên, người ta lại dè dặt khi muốn áp dụng khái niệm “dấn thân” hay “nhập cuộc” của chủ nghĩa hiện sinh vào trường hợp Phạm Duy. Có lẽ vì cái tôi của ông lớn quá, đôi khi bất chấp những trách nhiệm đạo đức. Hình ảnh con chuồn chuồn “khi vui nó đậu, khi buồn nó bay”, như hình bìa một tập hồi ký Phạm Duy, rất thích hợp với tính cách con người công dân và con người nghệ sĩ của ông.

Nói đến văn nghệ dấn thân ở miền Nam, người ta thường nhắc đến những ca khúc xuống đường, những bài ca tranh đấu của các nhạc sĩ sinh viên trong phong trào “Hát cho đồng bào tôi nghe”. Gắn bó với phong trào này, từng cất tiếng hát bên cạnh các nhạc sĩ sinh viên, Trịnh Công Sơn đã đi từ Ca khúc da vàng đến Kinh Việt NamTa phải thấy mặt trời. Từ cảm xúc về người nô lệ da vàng ngủ yên, ngủ yên trong căn nhà nhỏ, đèn thắp thì mờ (Đi tìm quê hương), Trịnh Công Sơn cất tiếng hát ngợi ca đoàn người đi vào quê hương/ cầm ý thức xây tương lai mình/ cầm huyết thống đi cho nối liền, nối hai miền… (Hành ca); và vẽ ra viễn cảnh ngày vui lớn sẽ qua trăm cầu/ Mẹ dâng miếng cau rồi dâng ngọn trầu/ cho hai miền trùng phùng lòng thấy nao nao/ Ngày Nam đêm Bắc tình chan trong mắt/ sẽ thấy trăm bình minh ngọt ngào… (Huế - Sài Gòn - Hà Nội). Danh hiệu “người nghệ sĩ dấn thân” thật thích hợp khi nói về trường hợp Trịnh Công Sơn.

Từ lý thuyết và quan niệm về con người và cuộc đời, chủ nghĩa hiện sinh đi vào cách sống và lối sống, với những ảnh hưởng khá tế nhị và phức tạp. Một mặt, không thể chối cãi rằng việc du nhập triết học và văn nghệ hiện sinh góp phần dẫn đến phản ứng “nổi loạn”, “tận hưởng cuộc đời” của một bộ phận thanh niên nông nổi không tìm thấy đường đi trong chiến tranh, như Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Xuân, Thế Nguyên, Nguyễn Trọng Văn đã từng chỉ ra.

Mặt khác, cũng phải thừa nhận rằng trào lưu triết học và văn nghệ đó gợi lên những suy tư, trăn trở về thân phận con người, ý thức trách nhiệm trước tình cảnh đất nước và chọn lựa thái độ ứng xử cũng như hành động nhập cuộc vì tha nhân. Có thể nói chủ nghĩa hiện sinh đã đáp ứng nỗi ưu tư của con người muốn tự khẳng định khuôn mặt tinh thần của mình trong điều kiện nước sôi lửa bỏng của dân tộc, đòi hỏi người trí thức không thể đứng “bên dòng lịch sử”. Họ đã sống cái triết lý đó chứ không phải làm công việc dịch thuật hay thông tin thuần túy bằng ngôn ngữ lãnh đạm của khoa học. Lữ Phương, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Lê Hiếu Đằng… từng kể lại rằng ý thức trước thực trạng đất nước khiến họ tham gia kháng chiến được xúc tác về tư tưởng không chỉ của chủ nghĩa Marx mà còn của chủ nghĩa hiện sinh.

Vì vậy, cần phải thấy hết tính chất đa dạng và phức tạp trong ảnh hưởng của chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam trước đây. Một là ảnh hưởng chiều sâu trong giới trí thức ở đại học, giới học giả và văn nghệ sĩ có tầm nhìn về văn hóa. Hai là ảnh hưởng chiều rộng có tính chất phổ cập trong giới sáng tác và một bộ phận công chúng thời thượng. Ba là ảnh hưởng có tính chất nghịch chiều nơi một số trí thức khuynh tả, vừa tiếp thu tinh thần dấn thân, phản kháng của chủ nghĩa hiện sinh, vừa phê phán tính chất học đòi, làm dáng của văn nghệ hiện sinh ở một đất nước đang có chiến tranh và bị lệ thuộc.

Như vậy là chủ nghĩa hiện sinh ở miền Nam đã được tiếp cận từ nhiều góc nhìn khác nhau, những góc nhìn chắc chắn không thoát khỏi sự tác động của bối cảnh xã hội cũng như lập trường chính trị của người viết, nhưng hầu hết đều cho thấy tinh thần độc lập và tự trọng của người trí thức, nói theo những suy nghĩ riêng của mình mà không rập khuôn, một giọng.

Chủ nghĩa hiện sinh là triết học của một thời đại không lặp lại. Việc tiếp nhận, truyền bá, vận dụng nó cũng là “cơ duyên” của lịch sử. Nó đã đến trong cái bối cảnh bi đát của xã hội miền Nam những năm 1954 - 1975, khi con người khao khát tự do và quyền sống, mong muốn suy tư về chính tự do và thân phận làm người. Sau chiến tranh, hoàn cảnh xã hội thay đổi, chủ nghĩa hiện sinh không còn chỗ đứng trong sinh hoạt trí thức.

Từ khi Việt Nam bước vào thời kỳ Đổi mới năm 1986, sáng tác và khảo luận về chủ nghĩa hiện sinh từng bước được phép tái bản và thu hút một lượng công chúng mới từ giới trẻ, trong đó có văn nghệ sĩ. Tuy nhiên, tiếng vang của nó không còn sâu rộng như ở miền Nam thời chiến tranh.

H.N.P  
(TCSH352&SDB29/06-2018)

-----------------
1. Theo Trần Thái Đỉnh: Hiện tượng học là gì?, Nxb. Hướng Mới, Sài Gòn, 1969, tr. 31-60.
2. Theo Trần Thái Đỉnh: Sđd, tr. 116-135 .  
3. Cung Tích Biền: “Hiện sinh, một thời kỷ niệm”. Trong Về  một dòng văn chương, Nxb. Văn Nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2001, tr. 69.
4. Phạm Công Thiện: Ý thức mới trong văn nghệ và triết  học, Nxb. An Tiêm, Sài Gòn, 1966, tr. 46.
5. Phạm Duy, Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà, Nxb. Trẻ, TP  Hồ Chí Minh, 2007, tr. 17  

Nguồn: Tạp chí Sông Hương 352, SDB 29.6.2018, phiên bản trực tuyến.

20180401 TCS va TNH

"Những bài hát của Trịnh Công Sơn về tình người giống như bài kinh mà chúng ta có thể tụng được”, thiền sư Thích Nhất Hạnh từng chia sẻ.

Thiền sư chưa một lần gặp cố nhạc sĩ ở đời thực nhưng giữa họ có những cuộc diện kiến qua âm nhạc, hòa điệu về tâm hồn, trí tuệ.

Phim tài liệu Walk with me (Bước chân an lạc, đạo diễn Marc J. Francis và Max Pugh) vừa ra mắt khán giả trong nướcTác phẩm có sự xuất hiện của vài gương mặt tăng sĩ Làng Mai từng dự đám tang Trịnh Công Sơn năm 2001. Ngày 1/4 của 17 năm trước, tin nhạc sĩ qua đời khiến khán giả trong, ngoài nước bàng hoàng, thương tiếc. Khi ấy, từ Pháp, Làng Mai đã cử một đoàn hơn 20 tăng sĩ, có cả người nước ngoài, về Việt Nam viếng ông. Họ, nước mắt rơi trên má, cùng bước vào gian nhà của Trịnh Công Sơn ở Phạm Ngọc Thạch (quận 1, TP HCM) đồng thanh hát Cát bụi, Một cõi đi về... như nén tâm hương gửi bậc tài hoa.

Phim Bước chân an lạc công chiếu là nhờ công lao của nhiều thiện hữu trí thức, trong đó phải kể đến sự hỗ trợ nhiệt tình của gia đình cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Tác phẩm của nhạc sĩ họ Trịnh cũng được ca vang trong các buổi giao lưu ra mắt phim ba miền đất nước, ở TP HCM, Đà Nẵng và Hà Nội, như ngụ ý về sự hòa điệu giữa tâm hồn của hai bậc tiền bối.

Từ lâu, với các tăng thân Làng Mai nói riêng và nhiều người trong giới tu sĩ nói chung, nhạc Trịnh Công Sơn  một trong những nguồn suối tinh thần - nơi họ tìm thấy nhiều suy nghiệm về thân phận con người, sự giao hòa giữa đạo và đời. Nhiều tăng sĩ thuộc hơn 200 ca khúc nhạc Trịnh. Ở các buổi sinh hoạt hàng tháng, những người tu tập cùng nhau hát tác phẩm của ông.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh - trụ trì Làng Mai - là một khán giả mộ điệu nhạc Trịnh Công Sơn. Thiền sư ra nước ngoài từ sớm, vì hoàn cảnh, khoảng cách địa lý, họ không có dịp gặp gỡ nhau ngoài đời nhưng có một thời gian liên lạc qua thư từ, điện thoại. “Tôi bắt đầu thương Trịnh Công Sơn khi nghe Khánh Ly hát...”, Thích Nhất Hạnh có lần chia sẻ. Thiền sư thuộc nằm lòng nhiều tác phẩm Trịnh Công Sơn. Ông đã thực hiện buổi pháp thoại dài với chủ đề nhạc Trịnh.

Trịnh Công Sơn sinh năm 1939 tại Đăk Lăk. Thích Nhất Hạnh sinh năm 1926 ở Huế. Cả hai đều có sợi dây gắn bó máu thịt với đất Huế. Hồn cốt cổ kính, trầm mặc, nhẹ nhàng ở đất thần kinh thấm đượm trong lời thơ, ý nhạc và phong thái của họ. Một người ở lại quê hương, sống trọn vẹn cuộc đời thăng hoa với âm nhạc. Một người tu hành, thiền định nơi xứ người. Hai con đường tưởng như hai hướng rẽ nhưng thật ra đều dẫn chung về một lối. Những công việc, tác phẩm, lời nói họ gửi cho nhân gian đều là thiện ý trao duyên lành, trao yêu thương. Khán giả nhận ra ở họ sự đồng điệu khi nói về tình yêu, về cuộc đời, về thân phận con người, về sự thức tỉnh lương tri trước thời cuộc, về sự phản tỉnh bản thân lẫn tiếng nói trách nhiệm với xã hội, cộng đồng hay là về vạn vật, tự nhiên.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh là người đưa ra khái niệm "Đạo Bụt dấn thân" (engaged Buddhism). Theo đó, từ bi không phải là lý thuyết, từ bi được thực hiện ngay trong đời sống hàng ngày. Những ai theo đạo Bụt không đứng ngoài đời sống, mà hòa vào đời sống, đón nhận những hỉ, nộ, ái, ố với tâm thức phụng sự xã hội của người tu thiền. Nhạc Trịnh cũng chưa bao giờ đứng ngoài đời sống, dẫu ông có lúc viết về sự hư vô của kiếp người, của nhân loại, đó vẫn là tiếng vọng từ chính tâm hồn của một tha nhân tha thiết với đời - "Tôi là ai, là ai, là ai? Mà yêu quá đời này" (Tôi ơi đừng tuyệt vọng).

Vì lẽ đó, Thích Nhất Hạnh đã có cuộc tương phùng hoan hỉ với nhạc Trịnh. Vài năm trước khi Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dòng nhạc phản đối chiến tranh, kêu gọi hòa bình (khoảng 1965-1966), Thích Nhất Hạnh đã có nhiều bài thơ nêu bật sự phi lý của chiến tranhNghe nhạc Trịnh Công Sơn, thiền sư thấu hiểu, đồng cảm và chia sẻ tâm tư của một người yêu nước, xót xa trước cảnh bom rơi, đạn nổ và lầm than mà chiến tranh mang lại.

Hạt giống của nhân ái, của từ bi hay tình yêu dành cho hình tượng Mẹ... cũng là những điều trở đi trở lại trong tác phẩm của Trịnh Công Sơn, Thích Nhất Hạnh. Bông hồng cài áo - nhạc phẩm được viết dựa trên bài văn xuôi của thiền sư viết về mẹ - nêu bật hình ảnh đứa con tự hào được cài lên ngực bông hồng đỏ - biểu tượng nhắc nhở sự may mắn khi mẹ còn hiện hữu bên đời. Còn Trịnh Công Sơn có Đường xa vạn dặm với nỗi thổn thức, đau đến thắt lòng của đứa con cần mẹ, nhớ mẹ nhưng mất mẹ.

Trịnh Công Sơn có Biết đâu nguồn cội, Ở trọ, Ngẫu nhiên, Mỗi ngày tôi chọn một niềm vuiHãy yêu nhau đi... thấm đẫm chất thiền, triết lý về tình yêu, đời người, sự vô thường, một tâm hồn trẻ thơ, hồn nhiên như vạn vật có sinh có diệt... Thích Nhất Hạnh có những vần thơ, những trang văn, bài thuyết giảng nói về tuệ giác, kiếp người, niềm vui, nỗi buồn của cuộc sống, về thoát tục, sự an yên vĩnh cửu trong tâm hồn lẫn sự nhập thế.

Ngẫu nhiên (Trịnh Công Sơn)

...Hòn đá lăn trên đồi
hòn đá rớt xuống cành mai
rụng cánh hoa mai vàng
chim chóc hót tiếng qua đời

Người ôm lấy muôn loài
nằm trong tiếng bi ai

Mệt quá thân ta này
tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơi
mệt quá thân ta này
nằm xuống với đất muôn đời
Kìa còn biết bao người
dìu dắt tới quanh đây...

Sinh tử không hai (Thích Nhất Hạnh)

đêm nghe mưa gội
linh hồn thức dậy
trời thế gian ngập lụt
biển sóng gầm ảo tượng

trong phút giây chập chờn
đường nét hôm nay
ra vào thấp thoáng
đưa anh về đâu?


không
mầu nhiệm trong giây lát
hạt mưa cười
nghiêng đổ u sầu.

Thầy Trung Hải - một học trò của Thích Nhất Hạnh - kể trong bài giảng về nhạc Trịnh Công Sơn vào mùa xuân năm 2004 tại Mỹ, thầy nói nếu chọn con đường xuất gia (nghĩa là làm một nhà tu Phật giáo), Trịnh Công Sơn đã có thể trở thành một thiền sư.

"Là một học trò của thiền sư Thích Nhất Hạnh, cùng với những người bạn đồng tu, tôi học cách nghe được tiếng nói của bậc đạo sĩ trong ca từ của Trịnh. Đó là tiếng nói chân thật về những đau khổ của con người, của cuộc đời. Đó là lời kêu gọi tha thiết con người thương yêu nhau. Đó là thông điệp về mối tình nghìn năm với quê hương đất nước. Và đó còn là lời mời những người Việt Nam nhìn rõ tự thân mình để có thể tới gần nhau. Cuộc đời và những sáng tác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã dạy tôi bài học ấy. Thông điệp một đời hành đạo của thiền sư Thích Nhất Hạnh lại dạy thêm cho tôi biết nhìn cả khổ đau và hạnh phúc bằng con mắt trầm tĩnh, biết hiểu thấu và chuyển hóa khổ đau, biết trân quý và nuôi dưỡng hạnh phúc, và cuối cùng, biết thưởng thức từng giây phút của cuộc sống", thầy Trung Hải chia sẻ.

Trước đây, Thích Nhất Hạnh từng viết thư nhờ Trịnh Công Sơn phổ nhạc giùm một số bài kinh nhưng những lá thư này bị thất lạc. Khi thư đến tay nhạc sĩ cũng là lúc ông trở bệnh nặng, không làm gì được nữa. "Những bài hát của Trịnh Công Sơn về tình người giống như bài kinh mà chúng ta có thể tụng được”, Thích Nhất Hạnh chia sẻ.

17 năm ngày Trịnh Công Sơn qua đời, âm nhạc của ông vẫn tiếp tục vang lên trên mọi nẻo đường. Như lời thiền sư, Trịnh Công Sơn không bao giờ mất. Người nhạc sĩ ấy hiện diện ở khắp nơi, trong tâm hồn những người yêu nhạc ông, trong tâm hồn người Việt Nam.

Thoại Hà

Nguồn: VnExpress, ngày 01.4.2018.

 

 

Tại thư viện quốc gia Thụy Điển, những nhà đàm phán mong muốn thúc đẩy truy cập mở để thoát khỏi cảnh trả phí thuê bao cho nhà xuất bản Elsevier. Nguồn: Nature

Những nỗ lực táo bạo thúc đẩy ngành xuất bản học thuật hướng về phía mô hình truy cập mở đang ngày càng gia tăng.

Những nhà đàm phán đại diện cho các thư viện và trường đại học trên khắp châu Âu đang chia sẻ chiến thuật về cách làm thế nào để có được những hợp đồng mới, qua đó đem lại khả năng đọc được nhiều công trình nghiên cứu mà không phải mất “tường phí” (paywall – chi phí người đọc phải chi trả để đọc được nội dung thông tin). Cuộc vận động truy cập mở này bắt nguồn từ Đức: nếu không thích những gì nhà xuất bản đề xuất, họ sẽ không trả tiền cho các tạp chí truy cập đóng. Vào ngày 16/5, một nhóm liên minh ở Thụy Điển cho biết họ sẽ không tái ký hợp đồng với “gã khổng lồ” xuất bản Elsevier nữa.

Loại hợp đồng mới này thực chất là các thỏa thuận “đọc và xuất bản”. Ký những thỏa thuận này, dù các thư viện vẫn sẽ phải trả phí thuê bao để có thể truy cập các bài báo nhưng các nhà nghiên cứu lại có thể xuất bản công trình của họ dưới dạng truy cập mở để bất kỳ ai quan tâm đến công trình cũng có quyền đọc nó miễn phí.

Những người ủng hộ cách làm này cho rằng những thỏa thuận như vậy sẽ thúc đẩy tiến trình của phong trào truy cập mở. Trong nhiều thập kỷ vận động để các công trình nghiên cứu được xuất bản công khai với lý do kết quả nghiên cứu của những công trình nghiên cứu được tài trợ cần đến với mọi người tuy nhiên mô hình kinh doanh đang thống trị thị trường của các nhà xuất bản vẫn chỉ công bố những bài báo đòi hỏi “tường phí” và thu các phí thuê bao từ các thư viện. Tuy nhiên nếu những nhóm liên kết thư viện lớn cố gắng đạt được thỏa thuận “đọc và xuất bản” thì tỷ lệ các bài báo truy cập mở có thể tăng lên.

“Một sự thay đổi trên khắp châu Âu đã tạo ra một nền tảng quan trọng [cho xuất bản học thuật]”, Koen Becking – nhà đàm phán chính của VSNU, một nhóm liên kết gồm 14 viện nghiên cứu ở Hà Lan. Vào năm 2014, VSNU là nhóm quốc gia đầu tiên đàm phán về thỏa thuận phí thuê bao, trong đó quy định về quyền của các tác giả công trình nghiên cứu. Từ đó, đã có nhiều thỏa thuận khác với nhiều cấp độ khác nhau về xuất bản mở được chấp thuận và sau Hà Lan, đến lượt nhiều tập đoàn ở Áo, Anh, Thụy Điển và Phần Lan cũng đạt được điều tương tự. Theo kết quả điều tra của Hiệp hội trường đại học châu Âu (EUA) - tổ chức có trụ sở Brussels, công bố vào tháng 4/2018 thì năm 2017, 11% nhóm liên kết ở châu Âu đã ký kết các thỏa thuận tính phí truy cập mở, tuy nhiên còn tới 63% nhóm liên minh mới dự kiến sẽ thực hiện điều đó trong tương lai.

Vào ngày 2/5/2018 tại Berlin, các nhà đàm phán từ nhiều quốc gia châu Âu đã đồng ý sắp xếp chiến lược thương lượng tại một cuộc họp kín có sự tham gia của điều phối viên đặc biệt về truy cập mở của EU, Robert-Jan Smits. Theo Gerard Meijer, một trong những nhà đám phán Đức thì các nhóm liên minh đã “nản lòng” bởi không có tiến bộ trong đối thoại và cảm thấy những giới hạn trong cộng tác giữa viện nghiên cứu và các nhà xuất bản lớn. “Bây giờ chúng ta phải cùng hành động, mạnh dạn thoát khỏi các đàm phán nếu nó không đi đến đâu cả”, ông nói.

Cuộc họp này là một phần trong chuỗi các sự kiện mà các nhà đàm phán thay đổi chiến thuật. “Ngày càng có nhiều người muốn chia sẻ kinh nghiệm của mình”, Matthijs van Otegem, giám đốc Thư viện trường Đại học Erasmus ở Rotterdam, và là chủ tịch của nhóm liên kết về truy cập mở tại Hiệp hội các thư viện nghiên cứu châu Âu (LIBER) ở Hague, Hà Lan.

Vào tháng 9/2018, LIBER đã công bố một loạt nguyên tắc hướng dẫn các nhà đàm phán tìm cách thay đổi các thỏa thuận của họ với các nhà xuất bản, bao gồm việc khép lại những thỏa thuận không được phép tiết lộ mà các nhà xuất bản vẫn thường “đương nhiên” nêu trong hợp đồng (nó giúp các nhà đàm phán so sánh các thỏa thuận ở những quốc gia khác nhau), hay việc không đồng ý tăng giá mà không có thỏa thuận về truy cập mở. EUA cũng kịp thời mở một phiên họp quốc tế sau khi nghe được những lo ngại trong quá trình thúc đẩy những thỏa thuận mới, theo lời Lidia Borrell-Damian – giám đốc nghiên cứu của Hiệp hội.

Yếu tố quan trọng đằng sau hoạt động thúc đẩy thỏa thuận với các nhà xuất bản ở châu Âu là mục tiêu của EU: đến năm 2020, tất cả các nghiên cứu sẽ được truy cập miễn phí ngay sau khi chúng được xuất bản. Các nhà đàm phán Hà Lan đã được giao nhiệm vụ môi giới cho một thỏa thuận với giới xuất bản có thể đáp ứng tầm nhìn này. Còn tại Thụy Điển, các nhà đàm phán đã tự đặt mục tiêu cho truy cập mở hoàn toàn các nghiên cứu vào năm 2026, và Thụy Sĩ dự kiến ​​là năm 2024.

Thế giới cũng đang nỗ lực đấu tranh cho truy cập mở ngoài phạm vi châu Âu: tháng trước, các nhà đàm phán Đức đã tới Hàn Quốc để thảo luận với các tập đoàn tại đây và đại diện của hệ thống trường đại học California tới dự phiên họp kín ở Berlin. OA2020 - một liên minh toàn cầu được điều phối từ Đức, đã thu hút sự tham gia đăng ký của hơn 100 tổ chức học thuật trên khắp thế giới cho thấy họ muốn chuyển kinh phí từ phí thuê bao xuất bản sang trả cho truy cập mở. 

Thỏa thuận hay không thỏa thuận

Tình trạng này ở Đức đã chứng tỏ rằng “không thỏa thuận” là một sự lựa chọn, van Otegem cho biết. Kể từ năm 2016, một liên minh trường đại học đã từ chối hợp tác trong một thỏa thuận với nhà xuất bản Elsevier. Bất chấp tình trạng này, nhà xuất bản đã không ngăn các học giả Đức truy cập vào các bài báo của họ - cho thấy các trường đại học không cần phải e ngại sự phẫn nộ của các nhà nghiên cứu nếu các đàm phán thất bại. Kể từ đó, nhóm khác cũng loan báo “không thỏa thuận” với các nhà xuất bản.

Những tranh chấp hợp đồng

Ít nhất bốn nhóm châu Âu, đại diện cho các thư viện và các trường đại học, cho biết họ đã thất bại trong thỏa thuận các hợp đồng với giới xuất bản hàn lâm để tính phí thuê bao. Các thỏa thuận này bao gồm các yếu tố truy cập mở đã được môi giới với một số nhà xuất bản của Hà Lan, Thụy Điển, Áo, Anh và Phần Lan.

Một nguyên nhân khiến các thư viện không còn quá e ngại một cái kết cho hợp đồng của họ với các nhà xuất bản là ngày càng nhiều những bài báo vốn phải đóng phí để đọc nay đã có thể truy cập miễn phí theo nhiều phiên bản như bản in hoặc bản gốc do tác giả cung cấp, Heather Joseph – giám đốc điều hành Liên minh Các nguồn lực nghiên cứu và xuất bản học thuật (SPARC), một nhóm tư vấn ở Washington DC nói. Sci-Hub, một trang web không hợp pháp dẫn đầy đủ bản sao các bài báo và được các nhà nghiên cứu trên khắp thế giới sử dụng, là một thực tế, Joseph Esposito – một cố vấn xuất bản ở  New York nhận xét. Anh cho biết thêm: “Không có Sci-Hub, các nhà nghiên cứu có thể sẽ kêu trời trong các thư viện vì không thể truy cập được các bài báo. Ảnh hưởng của Sci-Hub lớn đến nỗi ngay cả các cơ quan chính phủ cũng không thể làm gì được nó”.

Chi phí là một điểm gắn bó chính của “cuộc chiến” này. Một phát ngôn viên của Hội Hóa học hoàng gia Anh cho biết, tranh chấp hiện tại của nó với VSNU là một phần của việc đạt tới “một thỏa thuận để quá trình chuyển đổi sang truy cập mở bền vững” (Khi Nature liên hệ, các nhà xuất bản khác đã từ chối bình luận một cách chi tiết về các đàm phán).

Các nhóm liên minh thường không muốn thảo luận về việc liệu khi có hiệu lực, các hợp đồng “đọc và xuất bản” có trở nên tốn kém hơn không nhưng một số nhóm cho biết họ không muốn thỏa thuận bất kỳ hợp đồng đòi hỏi sự gia tăng chi phí nào. Tại Mỹ, nơi truy cập mở ít bị các động lực chính trị thúc đẩy hơn châu Âu, các thư viện đang cố gắng tiết kiệm tiền bằng việc hủy các hợp đồng “giá trị lớn” – toàn diện nhưng đắt đỏ, các hợp đồng cho phép truy cập một số lượng lớn tạp chí khoa học – một kiểu riêng để truy cập các tạp chí mà các cơ quan nghiên cứu của họ vẫn thường sử dụng nhất. Trước đây người ta từng áp dụng theo cách này và hiện tại thì tần suất ngày càng tăng lên.

Theo quan điểm của Steven Inchcoombe – giám đốc nhà xuất bản Springer Nature, một số thỏa thuận kết hợp cả chi phí đọc và xuất bản đã được môi giới ở Bắc Âu với sự ủng hộ truy cập mở mạnh mẽ từ các quỹ, các viện nghiên cứu và các chính phủ, nhưng trừ phi có nhiều tiền trả cho các thỏa thuận như vậy, chúng không thích hợp để trở nên phổ biến trong tương lai.

Nếu tình trạng này tiếp tục, Becking của VSNU cho rằng các nhà đàm phán có thể kết thúc các giao dịch nhưng có thể ngưng thương lượng với các nhà xuất bản riêng biệt. trong trường hợp này, các trường đại học có thể khuyến khích các nhà nghiên cứu phổ biến nghiên cứu của họ trên các nền tảng thay thế.

Anh Vũ dịch từ https://www.nature.com/articles/d41586-018-05191-0

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 12.7.2018.

Ngày 16-3-2018 là tròn 50 năm từ khi diễn ra cuộc thảm sát ở làng Sơn Mỹ, nay thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn Tịnh, cách thành phố Quảng Ngãi 13km về phía đông bắc.

Ngày đó, năm 1968, từ sáng sớm, đại đội Charlie thuộc tiểu đoàn 1, lữ đoàn 11, sư đoàn bộ binh 20 của quân đội Hoa Kỳ cùng đại đội không kích trực thăng 174 bất ngờ tấn công thôn Tư Cung và xóm Gò, nơi mà trong bản đồ hành quân của họ ghi tên là Mỹ Lai hay “Làng Hồng” (Pinkville). Trung đội 1, do trung uý William Calley chỉ huy, đã triển khai chặn đứng các lối thoát và biến từng nhóm dân làng đang ở trong nhà, đi trên đường hay ngoài đồng ruộng thành mục tiêu của cuộc bắn giết. Như đã được trù tính trước, lính Mỹ sử dụng tất cả vũ khí: lưỡi lê, lựu đạn, súng máy để “thanh toán” không thương tiếc những người dân lành trong tay không một tấc sắt. Trẻ con, người già, phụ nữ… bị đâm, bị bắn, xác bị ném xuống giếng hay xuống mương. Không một ai chống lại, cũng không một ai dám chạy trốn trước đám lính đằng đằng sát khí đang trong cơn say máu.

Con số được kiểm chứng cho thấy có đến 504 dân lành đã bị sát hại chỉ trong buổi sáng địa ngục ấy, trong đó có 60 cụ già, 182 phụ nữ, 173 trẻ em, không kể 17 hài nhi còn nằm trong bụng mẹ, 24 gia đình bị giết sạch và 247 ngôi nhà bị đốt cháy. Những người may mắn sống sót là nhờ bị vùi lấp dưới các xác chết và được một viên phi công giàu lòng nhân đạo cứu giúp. Chuẩn uý Hugh Thompson, mới 25 tuổi, cùng hai đồng đội của mình là Lawrence Colburn và Glenn Andreotta, đã tìm cách ngăn bàn tay tàn bạo của Calley và thuộc cấp rồi chuyển 11 người dân bị thương đến bệnh viện bằng máy bay trực thăng.

Một tội ác man rợ như vậy diễn ra giữa thanh thiên bạch nhật lại bị các phương tiện truyền thông đại chúng Mỹ ém nhẹm trong một thời gian dài, mặc dù từ tháng 4-1968 Đài phát thanh Giải phóng và hai tờ báo Sud Vietnam en lutte Bulletin du Vietnam, phát hành tại Paris, đã loan tin chi tiết về cuộc thảm sát. Mãi đến khi có thư tố cáo của một người lính Mỹ chính trực tên Ronald Ridenhour và bài tường thuật của nhà báo Seymour Hersh, cộng với tiếng nói của phi công Thompson cùng những bức ảnh của phóng viên chiến trường Ronald Haeberle, dư luận mới gây sức ép buộc quân đội Mỹ mở cuộc điều tra vào mùa hè năm 1969. W. Calley bị truy tố và đưa ra tòa án binh ngày 17-11-1970. Những chứng cứ đều chống lại anh ta, nhưng guồng máy chiến tranh đã tìm cách gỡ tội cho Calley: con số nạn nhân hạ thấp xuống còn 109, rồi cuối cùng chỉ còn 22 người. Calley cùng luật sư âm thầm trở lại Việt Nam để tìm lý lẽ bào chữa. Ngày 29-3-1971 tòa kết án anh ta chung thân khổ sai, nhưng được tổng thống Richard Nixon cho phép chỉ phải chịu quản thúc tại gia, sau lại được giảm án xuống 10 năm tù, rồi đến năm 1974 thì anh ta được ân xá.

Nhiều năm sau này, người ta vẫn không tìm ra một nguyên cớ trực tiếp nào có thể giải thích được cho cuộc thảm sát tập thể ấy. Cũng như người ta đã không tìm thấy nguyên cớ trực tiếp nào cho việc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc, ngoài cái “nguyên cớ” được nguỵ tạo là sự kiện tàu Maddox bị tấn công năm 1964, như hồ sơ mật của Lầu Năm Góc đã phơi bày. Calley phần nào có lý khi tự biện hộ rằng chẳng qua anh ta chỉ là người thừa hành mệnh lệnh của những cấp chỉ huy cao hơn. Anh ta nói trước tòa: “Tôi không thể dừng lại cân nhắc xem chúng là nam, là nữ hay là trẻ con. Tôi thực hiện mệnh lệnh được giao và tôi không thấy có gì sai trái”. Đúng, Calley chính là sản phẩm tất yếu của một đường lối hiếu chiến.

Sau chiến tranh, trên quốc lộ 24B chạy ven bờ bắc sông Trà Khúc, ngang qua chân núi Thiên Ấn để xuống bãi biển Mỹ Khê và cảng Sa Kỳ, một khu lưu niệm chứng tích tội ác đã được xây dựng. Ngày càng có nhiều cựu binh Mỹ trở lại Sơn Mỹ để sám hối tội lỗi và chữa vết thương tinh thần của chính mình. Tất nhiên trong số đó không có Calley, kẻ kéo lê những ngày cuối đời trong một cửa hàng bán đồ trang sức ở Colombus, bang Georgia. Hugh Thompson và Lawrence Colburn cũng đã trở lại Sơn Mỹ trong vòng tay của những người mang ơn các anh. Trong khi đó, vẫn còn không ít người Mỹ vô cảm và lãng tránh trách nhiệm của họ đối với những nạn nhân của cuộc chiến tranh hủy diệt.

Sơn Mỹ trở thành một đề tài của sáng tác nghệ thuật có sức nhắc gợi và đánh thức lương tâm nhân loại yêu chuộng hoà bình. Ngay trong lòng đô thị miền Nam, nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ sáng tác và phổ biến ca khúc Đâu phải một người, đâu phải một làng. Sau chiến tranh, nhà thơ Thanh Thảo viết trường ca Trẻ con ở Sơn Mỹ. Đạo diễn Trần Văn Thủy dựng phim Tiếng vĩ cầm ở Mỹ Lai. Ở Mỹ, đạo diễn tài danh Oliver Stone chuẩn bị thực hiện phim Pinkville, nhưng thật đáng tiếc, do những trục trặc ngoài ý muốn, vào giờ chót, bộ phim phải ngừng quay. Những tác phẩm nghệ thuật sâu sắc có thể phần nào giúp cho oan hồn những người vô tội được siêu thoát, giúp cho những người còn sống trả được món nợ với quá khứ bi thương. Thời gian liệu có xóa mờ tất cả hay sẽ có thêm tác phẩm nhắc nhớ những cuộc thảm sát ở Diên Niên - Phước Bình (Quảng Ngãi), Thạnh Phong (Bến Tre), Khe Đá Mài (Huế), Tổng Chúp (Cao Bằng), Tân Biên (Tây Ninh), Ba Chúc (An Giang), Thổ Chu (Kiên Giang), Gạc Ma (Trường Sa)… như đã từng có những tác phẩm gây chấn động về những sự kiện tương tự ở làng Lidice (Tiệp Khắc) và thành phố Guernica (Tây Ban Nha) trong thế kỷ XX.

HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

                                                                     

Ở Ba Tri, Bến Tre có hai khu di tích xếp hạng quốc gia là khu di tích Nguyễn Đình Chiểu và Võ Trường Toản, nơi thờ hai danh nhân tiêu biểu cho đạo học Nam Bộ, nhưng cả hai đều vắng vẻ, sơ sài, thiếu nội dung học thuật.

Đoàn các nhà nghiên cứu đến thăm khu di tích Nguyễn Đình Chiểu - Ảnh: Đ.L.G.

Tôi từng đến thăm di tích Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản ở Ba Tri nhiều lần, nhưng vừa rồi đi cùng với một nhóm học giả Việt Nam và nước ngoài (Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc) thăm các di tích ấy, nghe họ thắc mắc mà không khỏi chạnh lòng.

Nam Bộ từng sinh ra Võ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, hai niềm tự hào về giáo dục của vùng đất này với cả nước và thế giới. Thế mà di sản của các cụ lại không được phát huy, và buồn thay đến nay đồng bằng sông Cửu Long bị mang tiếng là “vùng trũng” của giáo dục!

Thiếu vắng "phần hồn"

Đền thờ Nguyễn Đình Chiểu được đầu tư đồ sộ, nhưng bên trong nhà trưng bày, ngoài tượng bán thân cụ Đồ, bàn thờ, hình ảnh, bút tích của các vị lãnh đạo đến thăm, hầu như chẳng có gì khác nữa. 

Không sách vở, tư liệu để nghiên cứu, học tập, không có hoạt động học thuật nào diễn ra thường kỳ ở đây, không có kỷ vật, quà lưu niệm để bán cho du khách. 

Cơ sở to lớn, khang trang nhưng hầu như không tận dụng vào việc gì. Bình thường khu di tích rất ít khách đến tham quan hay tìm tư liệu nghiên cứu, học tập. Có lẽ hằng năm chỉ vào dịp giỗ chạp mới có hoạt động bề nổi nào đấy.

Đền thờ Võ Trường Toản còn đìu hiu hơn nữa. Từ năm 1998 khi được công nhận là di tích văn hóa quốc gia, khu đền thờ, mộ phần này được tu sửa, xây cất một lần rồi thôi, không tu bổ gì thêm đáng kể nữa. 

Trong nhà thờ, bàn thờ sơ sài, chỉ có mỗi tượng Võ Trường Toản ngồi, không khám thờ, không hoành phi câu đối, không có đủ đồ thờ như nó phải có. Không bài vị học trò - những học trò lừng lẫy của cụ tạo nên học phong Nam Bộ: Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định, Trịnh Hoài Đức, ông Chiêu, ông Trúc, hay cả các học trò tinh thần của cụ: Phan Thanh Giản, Nguyễn Thông...

Ở ngoài sân, có tấm bia mộ Võ Trường Toản do Phan Thanh Giản viết. Tấm bia ghi lại cuộc đời, sự nghiệp của Võ Trưởng Toản và đánh giá về tư tưởng giáo dục, học thuật của ông - một nhà tư tưởng, một nhà giáo dục lừng lẫy nhất xứ Nam Kỳ lục tỉnh. 

Đây là một trong vài tấm bia quý nhất ở Nam Bộ, thế mà hàng trăm năm nay vẫn dãi dầu mưa nắng, ngay cả khi xây dựng khu tưởng niệm, nó vẫn không có được một cái nhà bia để bảo quản, đến nay đá đã nứt, chữ đã mờ.

 

Bia Võ Trường Toản dãi dầu mưa nắng

Danh tiếng Nguyễn Đình Chiểu vang xa thế giới với bản dịch Lục Vân Tiên ra tiếng Pháp từ cuối thế kỷ XIX, dịch ra tiếng Nhật vào thập niên 1980 và một số tiếng khác nữa. Nguyễn Đình Chiểu là người đã nêu cao đạo vì nghĩa, vì nước, là tấm gương của đạo học Nam Bộ. Võ Trường Toản là nhà giáo dục lớn, người được coi như ông thầy chung của sĩ dân Nam Bộ, là người khơi nguồn cho học phong Nam Bộ - một học phong trọng đạo nghĩa, trọng thực tiễn, và học vì đời như giới nghiên cứu từng tổng kết.

Để di tích được sống

Thiết nghĩ cần phải làm mới lại, làm sống lại các di tích ngõ hầu chấn hưng giáo dục, tri ân người xưa. 

Theo tôi, Ban quản lý di tích kết hợp với Sở Văn hóa - thể thao và du lịch Bến Tre thành lập một ban vận động ủng hộ tư liệu và trùng tu di tích Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản (nếu có, bản thân tôi sẽ tham gia và ủng hộ tích cực). Ban này hoạt động trong thời gian dài với mục đích:

- Vận động các nhà xuất bản, các nhà nghiên cứu, các trường đại học, viện nghiên cứu ủng hộ các tư liệu có liên quan đến Nguyễn Đình Chiểu và Võ Trường Toản, gồm các tư liệu Hán Nôm, các tư liệu cổ, các công trình nghiên cứu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các bài viết trên báo chí về hai tác giả trên, cũng như về văn, sử trung, cận đại Nam Bộ. Từ đó thành lập thư viện về Nguyễn Đình Chiểu, Võ Trường Toản ở hai di tích này.

- Quyên góp kinh phí từ các nhà hảo tâm để tu bổ đền thờ, đặt hàng một số nhà Hán Nôm học sáng tác hoành phi, câu đối. Đối với đền thờ Võ Trường Toản cần bổ sung ngay khám thờ, đồ thờ, bàn thờ, bài vị thờ các học trò trực tiếp và học trò tinh thần của ông. Nên khắc nguyên văn bài Hiếu trung hoài cổ phú, tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, đặt trong đền thờ.

- Khuyến khích các hoạt động học thuật, nghiên cứu, tọa đàm, hội thảo, sáng tác văn học nghệ thuật, câu lạc bộ Hán Nôm, câu lạc bộ đọc sách ở các cơ sở đó. Dành một phần diện tích cho học sinh, sinh viên địa phương đến đó để học tập.

- In các bản phục chế Hán Nôm quý, các bản in đẹp các tác phẩm của hai tác giả này, bán sách vở, các kỷ vật đề cao sự học, đề cao sự nghiệp của hai tác giả này cho du khách.

- Làm ngay nhà bia để gìn giữ bia Võ Trường Toản.

Cần học tập cách làm của các khu di tích danh nhân: gần thì khu lưu niệm Sơn Nam ở Tiền Giang, Trần Tuấn Khải ở TP.HCM, xa hơn thì khu lưu niệm Nguyễn Du ở Hà Tĩnh, Văn Miếu Quốc Tử Giám ở Hà Nội, ra nước ngoài thì miếu Khổng Tử ở Khúc Phụ, miếu Mạnh Tử ở Trâu huyện (Trung Quốc), nhà lưu niệm nhà thơ haiku Basho ở Nhật Bản... 

Tất cả các nơi đó khách tham quan, học tập, nghiên cứu đến tấp nập, tinh hoa giá trị của tiền nhân được tiếp thu và phát huy ở hậu thế.

Nguồn: https://tuoitre.vn/diu-hiu-di-tich-nguyen-dinh-chieu-va-vo-truong-toan-20180702110208446.htm

Tôi lần theo những bức vách, đi lẫn vào giữa những hàng cột no tròn, cao lớn hàng chục mét, sừng sững giữa đất trời, hằn lên các hình thù sắc sảo và hàm chứa không biết bao nhiêu chỉ dấu của cổ nhân trong khu đền Karnak. Trong khi tôi chưa hết sửng sốt về công trình được xây dựng bởi 30 Pharaoh liên tiếp nhau trong suốt hơn 400 năm (1580-1160 tr.CN) thì một người đàn ông - mũ trắng, khăn choàng trắng, áo đen, vải thô dày, tay dài, phần thân trên ôm vừa vặn, phần dưới xòe rộng dần và dài chấm đất - lừng lững hiện ra. Đôi mắt buồn bã, nước da đen sạm, dáng đứng trầm mặc, ông như một pho điêu khắc trời ban sánh đôi với cây cột, tặng cho tôi và bao nhiêu du khách những bức ảnh hoàn mỹ về đất nước và con người Ai Cập.

Pho điêu khắc trong đền thờ Karnak. Ảnh: DIễm Trang

Choáng ngợp tiếp nối choáng ngợp: pho điêu khắc tiến lại gần tôi xin tiền. Có chút vụn vỡ. Tôi bất giác nhớ truyện Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Khoảnh khắc nhiếp ảnh gia Phùng chìm đắm trong vẻ đẹp toàn bích của cảnh vật cũng là lúc anh phát hiện một bi kịch gia đình trần trụi.

Không chỉ có mỗi “bức tượng sống” trong đền Karnak, bảy ngày ở Ai Cập cho tôi cơ hội gặp gỡ thêm nhiều “người mẫu” khác tại các đền thờ Sobek, Luxor, Hatshepsut, Horus, đài tưởng niệm Obelisk, đại tháp Giza và tượng nhân sư Sphinx. Ngay cả người lái xe điện trong thung lũng các vị vua, người lái thuyền sông Nile, người xà ích trên đường phố Luxor, người nài lạc đà Kim Tự Tháp, người thợ đá trong công xưởng Aswan... cũng tranh thủ xin tiền du khách. Công thức chung của họ là: thần thái và trang phục cổ tích + diễn xuất tự nhiên, nhiệt thành + “đoạn cuối thiên đường”.

Vừa làm quen với các chiêu thức xin tiền, tôi vừa bận rộn đối phó với “lực lượng” bán hàng cũng tinh tướng không kém. Dù bán lẻ hay bán sỉ, dù bán rong hay trong cửa tiệm thì truyền thống kinh doanh của Ai Cập luôn là nói thách gấp năm, bảy lần giá trị thực của món hàng; và thích nói giá bằng đô la Mỹ. Nhưng đó chưa phải là điều hay nhất. Tôi đặc biệt ấn tượng với cách tiểu thương Ai Cập, trăm người như một, không nỡ... thối tiền. Siết chặt tờ tiền chẵn khách đưa, họ nài nỉ khách hãy mua thêm món này món khác, miệng lưỡi dẻo quẹo thuyết trình các “combo” vô cùng phong phú. Khách phải kiên quyết, lạnh lùng lắm mới có thể lấy lại tiền thừa. Tôi rút kinh nghiệm là nên chuẩn bị sẵn số tiền vừa đủ trả. Bạn từng chứng kiến cuộc mua bán nào mà khách chạy như bay trên đường với vật phẩm chưa kịp gói trên tay, sau lưng là một đội quân “seller” rầm rập đuổi theo chưa? Cảnh tượng thường ngày ở Ai Cập đó. Là vì người mua đã để lộ cho người bán biết rằng mình vẫn còn khả năng mua nữa hoặc đang tìm kiếm một món gì.

Một xứ sở khát tiền. Tôi đã đúc kết như vậy khi hào hễn thoát khỏi vòng vây và an tọa trên xe. Nhưng tôi không sợ những người bán hàng ở đây, mà trái lại, thú vị lẫn cảm thương. Một tuần lễ hít thở khí quyển nền văn minh lâu đời bậc nhất thế giới là những cảm xúc trập trùng như đồi núi. Có ba thứ mà tôi cho rằng chẳng ai quên được khi đặt chân đến nơi này: bụi, đền đài và sông Nile.

Bụi nồng nhiệt thết đãi tôi từ khi bước ra khỏi cửa sân bay Cairo. Bụi sơn phết đất nước này thay cho vôi vữa. Người dân xây nhà xong cứ để gạch thô với ý nghĩ: dẫu có phủ lên màu gì đi nữa thì chúng cũng chóng vánh chuyển sang sắc vàng xỉn đặc trưng của bụi. Cũng vì vậy, xe cộ họa hoằn lắm mới cần phải rửa. Càng đến gần Kim Tự Tháp thì bụi càng dữ dội. Giữa mịt mùng thiên sa, Giza khổng lồ hiện ra, thách thức và mời gọi du khách chạm tay hay trèo lên nó. Không có bụi, cảm thức về Ai Cập sẽ chẳng còn ý nghĩa. Rẽ bụi mà đi, tôi lạc vào cửa hàng tranh papyrus mà các bức đắt giá có thể phát sáng trong bóng tối; ngơ ngẩn giữa trăm ngàn tượng Horus, Bastet, Tutankhamun, Amenhotep, Ramesses, Nefertiti, Ankhesenamun, Cleopatra, cá sấu trong bóng lá, nhân sư khuyết mũi... Biểu tượng Ankh như một chiếc chìa khóa thắt nơ mà bụi vương trên chúng bảo chứng cho yếu tố “made in Egypt”. Tất cả đều tinh xảo và đậm đà sắc màu Ai Cập.

Nhưng cũng có nhiều địa điểm ở vùng Đông Bắc Phi châu này lơ đễnh với bụi. Thư viện Alexandria lộng lẫy tựa một bảo tàng, hiện đại và độc đáo với cấu trúc như một chiếc bánh bông lan tròn vát xéo bề mặt, nằm hài hòa cạnh Địa Trung Hải và những con đường sầm uất. Các khách sạn 5 sao Marriott, InterContinental, Sheraton, Sofitel, Grand... được xây dựng dọc sông Nile với nhiều góc view được tính toán kỹ lưỡng. Tiếng dương cầm thánh thót vọng ra từ những ô cửa sang trọng, hào nhoáng cùng những đợt trình diễn pháo hoa lòa sáng mặt sông khiến người ta, trong phút chốc, thôi bị bụi - và cả cái đói nghèo, súng ống, máy soi an ninh - ám ảnh.

Chẳng biết tự khi nào, bản thiết kế tuyệt diệu của đất trời đã ướm sông Nile lên tấm thân Ai Cập. Đồng cát thành vườn hoa. “Sông Nile trên trời/Mưa cho xứ khác/Còn sông Nile dưới đất/Riêng dành Ai Cập thôi” - Tụng ca mặt trời của Akhenaten đã diễn giải đặc điểm hiếm mưa của Ai Cập và hàm ơn sông Nile mềm mại như vậy. Ngồi du thuyền dọc sông Nile, tôi thấy sắc sông thay đổi suốt ngày. Tôi yêu nhất những lần sông xanh nước biển, pha hòa cồn cát vàng ươm và lau trắng lau hồng. Dòng Nile trong ánh tà huy hay tách bạch thành hai màu - trắng bạc và xanh lá - như một hình chữ nhật được ngăn đôi bằng một đường chéo. Có một ngày, tôi bước từ thuyền lớn sang thuyền nhỏ có con mắt mi dài. Người lái thuyền sông Nile như bước ra từ một thước phim điện ảnh, vừa róng riết kéo buồm, nhổ neo vừa đánh trống ca hát khiến ai nấy đều mê say. Cho đến lúc thuyền... tông vào một rặng đá ngầm mới phát hiện ra chẳng có chiếc áo phao nào. Nghĩ bụng lẽ nào chết đẹp như này nhưng một phép màu nào đó lại đưa tôi trở về thuyền lớn an toàn.

Như bao du khách khác, tôi ngưỡng phục đền đài của xứ sở này. Trùng điệp đền thờ, lăng mộ, vách tường, trần nhà và tượng khổng lồ - kể cả những pho mất mũi, chi, đầu - toát lên khí chất thiêng liêng khiến lữ khách ngẩn ngơ mà không dám nhặt một hòn sỏi hay một nắm cát đem về lưu niệm. Khi móng ngựa nện đều đều xuống đường trộn lẫn với âm thanh lục lạc, khi lời kinh cầu Koran buồn tênh trong ánh chiều rơi rụng, thành quách Luxor bỗng hiện ra, đèn đuốc sáng choang khiến những hàng cột trông như các phím dương cầm khổng lồ, điệu nghệ và vững chãi nối nhau không dứt. Tôi xuống tận khu vực cuối đền, phát hiện một bầy bồ câu mũm mĩm cuộn mình trên những ngọn cột. Ngoan ngoãn, bình yên, mặc tình khách du huyên náo, xôn xao. Phải chăng đó là cách mà con người Ai Cập đối đãi với thế sự, với thời gian?

Đất sao người vậy. Ai nhân, nữ cũng như nam, vừa đẹp đẽ, thông minh vừa chậm chạp, cũ kỹ. Tức tưởi nao lòng khi biết một dân tộc tài hoa như vậy từng suýt không còn cả “tiếng ta”. Tôi ít được nhìn tận mặt phụ nữ do đặc thù của đạo Hồi nhưng cũng kịp tin vào nhan sắc của xứ sở Cleopatra. Còn nam giới, sóng mũi cao thanh tú, mắt mày đong đưa, vóc dáng tuấn nhã, giọng nói tông cao, ưa hát ưa cười, lãng mạn pha chút bí ẩn. Quên sao được anh hướng dẫn viên hài hước, chu đáo, giỏi đoán ý người, sáng nào miệng cũng hô vang “Anh yêu em” (tiếng Việt) với tất cả phụ nữ trong đoàn, tay thoăn thoắt cột khăn trùm đầu chống cát cho mấy chục nam phụ lão ấu. Quên sao được chàng mật vụ cao lớn có đôi mắt tựa sao trời lặng lẽ theo xe chặng Cairo để bảo vệ du khách. Quên sao được hai cô bé chừng năm, sáu tuổi bán vài món lụn vụn ở chợ Khan Khalili. Gương mặt ngây thơ, đôi chân líu ríu chim non, các em cứ quấn quýt chạy theo tôi, miệng cười và tay vẫy suốt đến khi cửa xe buýt đóng lại. Phần rung động, phần ân hận vì có lúc trót nghi ngờ hai thiên thần nhỏ, tôi bật khóc. Hiểu rằng Ai nhân hay bịn rịn, quyến luyến khách phương xa.

Không chỉ khóc một lần, suốt hành trình, tôi đã vài lần trốn vào restroom, vốc nước lên mặt để nước mắt mình hòa vào đấy. Đất nước này như một suối mật ngọt ngào từng phút từng giờ rót vào tâm tư tôi bao nhiêu êm dịu. Riêng vị đắng trần ai của nó làm tôi chua xót nghĩ đến những ngôi nhà trống trước hụt sau, những đứa trẻ cù bất cù bơ và cơ man người bán rong, xin ăn trên dải đất quê mình, quặn thắt một câu hỏi “Bao giờ thôi hết mong chờ?”. Bất an lẫn bình an, tuyệt vọng lẫn hy vọng, Ai Cập tặng tôi cảm giác muốn nguyện cầu cho xứ sở của họ. Và cho cả nước non tôi.

Tôi từng thắc mắc vì sao Chế Lan Viên, mới 17 tuổi đầu, đã vương buồn đến mức viết cả tập Điêu tàn: “Ta lặng đếm thử bao nhiêu thế kỷ/Đã trôi trong một phút vội vàng qua/Ta lắng nghe những thế giới bao la/Tụ họp lại trong lòng muôn hột cát” (Ngủ trong sao). Hóa ra, nhà thơ triết luận đã nói hộ biết bao dân tộc mắc kẹt vĩnh viễn trong nền văn minh thượng thặng do chính mình tạo ra. Để rồi, khuấy động cõi lòng hậu thế bằng những thứ điêu linh, tan tác mà vẫn huy hoàng, lấp lánh. 

Nguồn: http://www.thesaigontimes.vn/269439/Huy-hoang-sanh-voi-dieu-linh.html

Thông tin truy cập

61763780
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
3970
18932
61763780

Thành viên trực tuyến

Đang có 276 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website