(Nguyễn Công Đức, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học
của Khoa VH&NN)

1. Chương trình 135 của Chính phủ về vùng Tây Nguyên đã được triển khai thực hiện gần 4 năm qua nhằm phát triển kinh tế - xã hội và giảm nghèo tại các xã, thôn, buôn làng đặc biệt khó khăn đã đem lại một số kết quả khích lệ ban đầu đối với đời sống kinh tế - xã hội vùng Tây Nguyên. Đến nay, Chương trình này đang triển khai thực hiện giai đọan 3. Tuy những kết quả ban đầu do Chương trình mang lại, dù được nhìn nhận và đánh giá là tích cực, nhưng hãy còn nhiều vấn đề cấp thiết đặt ra, nếu chưa thực sự giải quyết một cách căn cơ, tòan diện, thì vị tất đã có thể bảo lưu được một số kết quả ban đầu; đó là  còn chưa nói đến triển vọng sẽ đạt được những mục tiêu cơ bản về kinh tế-văn hóa-xã hội của Chương trình 135 đề ra khả dĩ đáp ứng được sự mong đợi của các tộc người Việt Nam ở Tây Nguyên, trong đó các tộc người thiểu số bản địa là hết sức quan trọng – như nhận định và đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu và các nhà quản lí xã hội trong những cuộc Hội thảo sơ kết việc triển khai thực hiện Chương trình 135 trong những giai đọan vừa qua. Rõ ràng, để đạt được kết quả một cách tất yếu và bền vững không thể không tập trung giải quyết một vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt, có tính nền tảng, căn nguyên, đó là vấn đề giáo dục – dân trí phát triển bền vững của mọi mặt đời sống xã hội. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Đảng và Nhà nước đã xác định rõ : “ giáo dục là quốc sách hàng đầu ”. Tuy nhiên, trên thực tế, còn nhiều vấn đề cấp bách đặt ra, vì trong quá trình triển khai thực hiện chiến lược giáo dục nói chung, chiến lược giáo dục ở các vùng dân tộc thiểu số nói riêng, trong đó có vùng Tây Nguyên, đã bộc lộ không ít những bất cập, nên Hội nghị Trung ương VIII, khóa XI vừa mới diễn ra, giáo dục là một trong những vấn đề trọng tâm có tính cấp thiết được đưa ra bàn thảo trong Hội nghị.

 (Nguyễn Hữu Chương, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa Văn học và Ngôn ngữ)

1. Đặt vấn đề

Đã có nhiều nghiên cứu về nghĩa ẩn dụ của các từ trong các trường từ vựng chỉ người, bộ phận cơ thể người, động vật và thực vật tiếng Việt. Các từ điển giải thích tiếng Việt đều đã giải thích các nghĩa phái sinh ẩn dụ của từ trong các trường này. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào đi vào phân loại các loại nghĩa ẩn dụ của mỗi từ, mỗi trường, cũng chưa có từ điển nào ghi chú loại ẩn dụ bên cạnh lời giải nghĩa.

Mong muốn một văn bản mang tính pháp quy về ngôn ngữ và chữ viết để có sự thống nhất trong tiếng Việt là tinh thần chính trong cuộc hội thảo khoa học quốc gia “Xây dựng chuẩn mực chính tả thống nhất trong nhà trường và trên các phương tiện truyền thông đại chúng” diễn ra ngày 21.12.

 (Bùi Khánh Thế, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa Văn học và Ngôn ngữ)

  1.    Nếu Việt Nam là bức tranh thu gọn của khu vực Đông Nam Á về trạng thái tiếp xúc, giao lưu ngôn ngữ và văn hóa, thì Tây Nguyên là vùng địa lý - lịch sử tiêu biểu và đặc sắc của trạng thái đó. Tuy Tây Nguyên là vùng không tiếp giáp với biển, nhưng bù vào đó nơi đây đầu nguồn của hệ thống sông ngòi. Mà dòng sông chảy xuyên qua các châu thổ dù không lớn so với đồng bằng sông Hồng, sông Cửu Long, nhưng cũng đủ đa dạng, trù phú để tạo nên các sản phẩm nông nghiệp có thể trao đổi bổ sung với lâm sản Tây Nguyên. Điều đáng chú ý là các dòng sông này dù theo hướng tây bắc hay đông nam cuối cùng đều hướng ra biển Đông, tạo nên những thủy đạo giao lưu giao ngược. Ta có thể gặp theo hướng từ Bắc vào Nam những dòng sông nổi tiếng về mặt khảo cổ, lịch sử, cảnh quan hoặc giá trị kinh tế : Nhật Lệ, Hương Giang, Trà Khúc, Thu Bồn, Sông Hàn, Sông Vệ, Sông Cái, Sông Ba, Sông Dinh, Sông Lũy. Một đặc điểm thuận lợi cho sự đi lại là miền đệm trung du giữa Tây Nguyên và các đồng bằng nhỏ ven biển kéo dài song song với Tây Nguyên không phải là những đèo ải quá hiểm trở, mà như một dải sơn địa chuyển tiếp. Vì vậy những đường bộ từ đồng bằng lên các thượng nguồn được hình thành khá phổ biến giữa các vùng dân cư hai miền xuôi ngược có nhu cầu đổi chác sản vật địa phương. Chính cái cơ sở kinh tế trao đổi sản vật địa phương, ắt hẳn đã tồn tại từ ngàn xưa ấy và ngày nay vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi là điều kiện khách quan tạo môi trường thuận lợi cho sự giao lưu ngôn ngữ, văn hóa. Bình Định có câu ca dao “Ai về nhắn với nậu nguồn : măng le gửi xuống cá chuồn gửi lên”. Vì vậy các nhà nghiên cứu không lấy gì làm lạ khi tìm thấy trong số các hiện vật phát hiện được ở di chỉ khảo cổ Sa Huỳnh ven biển những hiện vật ngờ rằng có nguồn gốc từ miền Trung Á mà con đường trao chuyển ắt phải qua đoạn trung gian Trường Sơn.

Địa danh học là môn học rất thú vị, nó giúp cho người ta trả lời những câu hỏi về nguồn gốc, lý do của những tên làng xóm, cầu cống, chợ búa, tỉnh thành... Ví dụ: Tại sao lại gọi là Sài Gòn, Cần Giờ, Giồng Ông Tố, Sóc Trăng, Mặc Cần Dưng, Chắc Cà Đao?…PGS. TS. Lê Trung Hoa là một trong những người đặt nền móng và theo đuổi đến cùng môn địa danh học với mục đích lần lượt tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Vì thế người đọc rất vui mừng khi đón nhận công trình Địa danh học Việt Nam của ông mới xuất bản gần đây (NXB.KHXH, 2011). Công trình đặt ra những vấn đề nhập môn và những thao tác cơ bản của môn học này: Địa danh học là gì; Phân loại và định nghĩa địa danh; Các nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh; Cấu tạo của địa danh Việt Nam; Qui cách viết hoa địa danh Việt Nam; Địa danh vùng Tây Nguyên; Địa danh vùng Chăm; Địa danh vùng Khmer

 

Công trình Địa danh học Việt Nam ra đời sẽ thúc đẩy phân môn này phát triển. Từ công trình này, người đọc mong chờ một quyển từ điển địa danh Việt Nam đầy đủ - cả hiện tại và quá khứ của ông và các cộng sự sẽ ra mắt tới đây.  

SGTT.VN - Mặc dù đã dự đoán trước, chúng tôi vẫn bất ngờ về lượng ý kiến phản hồi của bạn đọc đối với gợi ý đưa một số từ vựng của ngôn ngữ chat vào từ điển tiếng Việt nhân tiền lệ của từ điển Oxford. Vì tiếng Việt là tài sản chung, quan điểm của chúng tôi là tất cả mọi ý kiến về thứ tài sản này đều phải được tôn trọng như nhau, và việc xem xét đưa ngôn từ chat vào từ điển phải hết sức thận trọng, phù hợp với các tiêu chí chức năng và chính tả như ý kiến dưới đây của nhà nghiên cứu Hán Nôm, dịch giả Cao Tự Thanh.

Ở bất cứ nơi đâu trên đất nước ta, nếu là người không tìm tòi, chúng ta cũng bắt gặp một số địa danh khó hiểu và khi đã biết, ta cũng thấy vô cùng thú vị. Trong bài này, chúng tôi xin cung cấp một số địa danh mà các nhà nghiên cứu đã xác định nguồn gốc và ý nghĩa của chúng.

 

LTS: Đó là một gợi ý của GS.TS Nguyễn Đức Dân, nhân câu chuyện ban biên tập của bộ từ điển tiếng Anh danh tiếng Oxford vừa thông báo đã bổ sung thêm một số từ vựng của ngôn ngữ thời @. Chúng tôi trân trọng giới thiệu và mong muốn nhận được những trao đổi khác của các chuyên gia ngôn ngữ học và bạn đọc xung quanh câu chuyện thú vị này.

 

          1. Khởi đi  từ lý thuyết nghiệm thân, một lý thuyết xuất phát từ nhiều trường phái ngôn ngữ học khác nhau, với những cách kiến giải rất phức tạp [8], nhưng giữa các kiến giải ấy, lại có đặc điểm chung, các tác giả đều cho rằng, cách thức tư duy của con người có liên quan đến những trải nghiệm cơ thể và con người dùng những kinh nghiệm ấy để tương tác với môi trường vật chất chung quanh, dưới sự chi phối của một nền văn hóa nhất định.

Do nhiều lý do khác nhau, sông nước và những thực thể liên quan đến sông nước (từ đây gọi tắt là sông nước) có một vai trò to lớn trong đời sống tinh thần và vật chất của người Việt. Theo tri nhận quan, trong tư duy của con người, thực thể nào gần gũi nhất thì xuất hiện trước nhất, gần gũi nhất thì xuất hiện nhiều nhất và gần gũi nhất thì có tầm tác động lớn nhất. 

1. Trong tiếng Việt, có những câu mà trên ngôn bản, chỉ do một từ hay một ngữ chính - phụ tạo thành. Có thể nhận thấy thái độ không giống nhau (biểu thị những quan điểm lý thuyết khác nhau) của các nhà nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt đối với hiện tượng đó.

 

Cũng như ở Nam Bộ và Trung Bộ, địa danh Bắc Bộ mang tên cầm thú khá phong phú. Một số mang từ thuần Việt, một số mang từ Hán Việt và nhiều nhất là mang từ của các ngôn ngữ dân tộc. VHNN xin giới thiệu bài viết của PGS.TS Lê Trung Hoa, đăng trên báo Kiến thức Ngày nay, số ra số 882, ngày 10-2-2015, tr. 13-15  

1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

 

            Cấu trúc song tiết Vx gồm : một hình vị gốc (V) + một hình vị không độc lập  (x) chẳng hạn như : chán phèo, cấm tiệt, nhắm nghiền, xanh lè, nhọn hoắt... là loại vị từ có hình thức là một từ ghép. Trong bài viết này, chúng tôi tiến hành khảo sát một số đặc trưng ngữ pháp của vị từ Vx trên cơ sở so sánh đối chiếu với các đặc điểm ngữ pháp của vị từ nói chung nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc nhận diện và xác định bản chất ngữ nghĩa của vị từ loại này.

 

1.Trong địa danh Việt Nam có hàng chục đơn vị có thành tố Ba ở trước. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ khảo sát một số địa danh có nguồn gốc tương đối rõ ràng. Số còn lại tạm thời gác để tìm hiểu thêm.

2. Yếu tố Ba này có nhiều nguồn gốc khác nhau.

2.1. Trước hết, vì kiêng húy hoặc vì biến âm, Hoa biến thành BaBa biến thành .

Như chúng ta đã biết, địa danh ra đời trong những điều kiện lịch sử, địa lý nhất định. Do đó, phần lớn địa danh mang dấu ấn của môi trường, thời đại mà nó chào đời. Có người cho rằng địa danh giống như “ vật hoá thạch” [5: 6]; người khác lại cho rằng đấy là những “đài kỷ niệm”  Như vậy, qua địa danh, ta có thể biết một vùng đất, một quốc gia về các mặt địa lý, xã hội, các công trình xây đựng, lịch sử và văn hoá. Địa danh Việt Nam cũng thế.

 

  (Cao Tự Thanh, Tạp chí Văn hóa & Du lịch , số 18 (72), tháng 7.2014)

TÓM TẮT

Nhìn từ phương diện ngôn ngữ, hệ thống địa danh Nam Bộ chủ yếu bao gồm các địa danh gốc Việt, gốc Việt Hán, gốc Khmer Việt hóa, trong đó mảng địa danh hành chính thời phong kiến phần nhiều là từ Việt Hán hay được Việt Hán hóa để đáp ứng các yêu cầu chuẩn hóa trong công văn của chính quyền. Bài viết này đi vào tìm hiểu nguồn gốc và cách thức hình thành các loại địa danh đó.

        Vị từ có yếu tố sau biểu thị mức độ cao là một lớp từ có cấu trúc ngữ nghĩa khá đặc biệt trong tiếng Việt. Về cấu tạo, vị từ loại này thường có hình thức song tiết gồm : một hình vị gốc + một hình vị mờ nghĩa (biểu thị mức độ cao). Chẳng hạn như : chán phèo, cấm tiệt, nhắm nghiền, xanh lè, nhọn hoắt... Trong bài viết này, chúng tôi tạm gọi những vị từ  loại này là vị từ dạng Vx (V :hình vị gốc; x : hình vị biểu thị mức độ cao).

Chao         1.Khi nghiên cứu về nghĩa, trên phương diện từ vựng người ta chú ý đến những kiểu quan hệ ngữ nghĩa như: đồng nghĩa, trái nghĩa, đồng âm v.v…. Trên phương diện cú pháp cũng có những vấn đề tương tự: có những câu với cùng một hình thức từ ngữ nhưng lại được hiểu theo những nghĩa khác nhau, đó là những câu mơ hồ. Lại có những câu có hình thức khác nhau nhưng lại diễn đạt cùng một nội dung, cùng chỉ một đối tượng, một sự tình v.v… đó là những câu đồng nghĩa (paraphrase). Việc nghiên cứu vấn đề câu đồng nghĩa (CĐN) sẽ góp phần nghiên cứu một cách có hệ thống các quan hệ ngữ nghĩa – cú pháp, xây dựng các mô hình cú pháp, phát hiện các cấu trúc đồng nghĩa trong các ngôn ngữ phục vụ công tác xử lý dịch tự động văn bản, tóm tắt văn bản, dạy tiếng v.v… Với ý nghĩa đó, bài viết này đề cập đến việc đối chiếu một số loại CĐN của tiếng Việt với tiếng Anh, phát hiện các loại CĐN tương ứng, các cấu trúc đồng nghĩa, sự giống và khác nhau trong việc sử dụng các loại phương tiện và phương thức diễn đạt đồng nghĩa trong hai ngôn ngữ thuộc hai loại hình ngôn ngữ khác nhau.

Thông tin truy cập

66560653
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
5496
9734
66560653

Thành viên trực tuyến

Đang có 174 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website