Có thể nói, bất cứ một nhà văn nào của Việt Nam có tác phẩm được xuất bản ở nước ngoài, với ngôn ngữ nào khác tiếng Việt đều có cảm giác hãnh diện, tự hào. Không vui sao được khi tác phẩm của mình, đứa con tinh thần của mình có thêm không gian và đối tượng tiếp nhận mới. Tuy nhiên, kể từ sau mở cửa đến nay, số lượng văn học Việt được dịch, xuất bản và giới thiệu ở nước ngoài vẫn khá khiêm tốn, nếu không muốn nói là vẫn có thể đếm được trên đầu ngón tay...

Muôn nẻo đường sách xuất ngoại

Vài năm trở lại đây, có một tác giả liên tục có sách được xuất bản ở nước ngoài, đó chính là Nguyễn Nhật Ánh - nhà văn có số lượng sách bán ra số 1 Việt Nam. Cho đến nay, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã có khá nhiều đầu sách được xuất bản ở nước ngoài, trong đó phải kể đến cuốn "Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ" đã lần lượt được xuất bản tại Hàn Quốc, Thái Lan, Mỹ, Nhật Bản... Đặc biệt, tác phẩm này còn được một số trường học ở Thái Lan đưa vào giảng dạy trong nhà trường. 

Ở Thái Lan, nhà nước có quy định về việc các nhà trường phải tuyển chọn và giới thiệu tác phẩm của các nước trong khối ASEAN và có quyền tự quyết định việc chọn tác phẩm nào. Tại Nga, bản dịch cuốn "Cô gái đến từ hôm qua" cũng được tuyển chọn, giới thiệu và giảng dạy trong trường học. Đây quả là một niềm vinh dự lớn đối với văn học Việt Nam nói chung và nhà văn Nguyễn Nhật Ánh nói riêng. 

Tại Nhật Bản, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh có 3 tác phẩm đã được xuất bản đó là "Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ", "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" và "Mắt biếc". Vào đầu năm 2019, khi Nhật chiếu bộ phim Việt được chuyển thể từ tác phẩm cùng tên "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh" của đạo diễn Việt kiều Victo Vũ, nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã cùng với đại diện Nhà xuất bản Trẻ là Giám đốc Nguyễn Minh Nhựt có chuyến đi sang Nhật để giới thiệu về tác phẩm này. 

Với 3 tác phẩm đã được xuất bản tại Nhật, có thể nói nhà văn Nguyễn Nhật Ánh đã ít nhiều tạo được dấu ấn nhất định đối với độc giả trẻ Nhật Bản. Theo như chia sẻ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh về chuyến đi sang Nhật để giới thiệu về tác phẩm "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh", thì một số bạn đọc khi tiếp cận với tác phẩm "Mắt biếc" ở Nhật trước đó, đã bày tỏ ý định mong được đến Việt Nam để tìm hiểu về thiên nhiên, văn hóa, đất nước, con người Việt Nam. Đó chính là điều khiến nhà văn Nguyễn Nhật Ánh vô cùng xúc động...

20210705 7

Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh (thứ 2 từ phải sang) trong chuyến đi đến Nhật Bản để quảng bá tác phẩm "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh".

Một tác phẩm viết cho thiếu nhi khác cũng được giới thiệu rộng rãi ở nước ngoài từ sớm đó chính là tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu ký" của nhà văn Tô Hoài. Theo thống kê của Nhà xuất bản Kim Đồng - đơn vị giữ bản quyền xuất bản các tác phẩm thiếu nhi của nhà văn Tô Hoài, cho đến nay tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu ký" đã có mặt ở 40 quốc gia. Đến nay, "Dế Mèn phiêu lưu ký" được dịch ra hơn 30 ngôn ngữ phổ biến như tiếng Nga, Anh, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản... 

Trong đó, bản dịch quan trọng nhất của "Dế Mèn phiêu lưu ký" là bản dịch tiếng Anh của dịch giả Đặng Thế Bính chuyển ngữ vào năm 1960. Sau này, các bản dịch qua các ngôn ngữ khác đều được dịch từ bản tiếng Anh này. Tác phẩm "Dế Mèn phiêu lưu ký" được trẻ em ở nhiều nước yêu thích cũng là điều minh chứng rất sinh động cho sự "không biên giới" của văn học: Một tác phẩm ra đời ở bất kỳ đâu, bằng ngôn ngữ nào cũng hoàn toàn có thể được yêu thích trên toàn thế giới!

Nói về các tác phẩm văn học Việt Nam được xuất bản ở nước ngoài, sau sự nổi tiếng của "Truyện Kiều" với trên 40 thứ tiếng và "Nhật ký trong tù" của Chủ tịch Hồ Chí Minh được dịch ra trên 10 thứ tiếng, thì phải kể đến tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" của nhà văn Bảo Ninh đến nay đã được dịch ra trên 20 thứ tiếng và đem đến cho tác giả "Giải thưởng Văn học châu Á lần 2" vào năm 2018 được tổ chức tại Hàn Quốc. 

Có thể nói, "Nỗi buồn chiến tranh" chính là tiểu thuyết Việt Nam đương đại nổi tiếng nhất của Việt Nam được thế giới biết đến nhiều nhất. Ngoài việc là một tác phẩm xuất sắc, cũng bởi còn có một lẽ khác là, Việt Nam được thế giới biết đến là một đất nước đau thương vì trải qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt. 

"Nỗi buồn chiến tranh" chính là một "lát cắt" tương đối đầy đủ với thân phận con người trong cuộc chiến tranh ấy và trong cả thời hậu chiến, chính là điều nhân bản khiến trái tim người đọc bị lay động. Vì thế, "Nỗi buồn chiến tranh" gây chú ý với truyền thông quốc tế và được nhiều nước chọn dịch, giới thiệu, quảng bá. Người ta cho rằng, Bảo Ninh với một giọng điệu văn học đặc biệt trong "Nỗi buồn chiến tranh", tác phẩm chắc chắn sẽ còn được nhiều quốc gia chọn để chuyển ngữ và xuất bản theo kiểu "hữu xạ tự nhiên hương".

Còn lắm gian nan

Có thể thấy rằng, khoảng 20 năm nay có khá nhiều tác giả Việt có tác phẩm được chuyển ngữ, xuất bản ở nước ngoài như Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Lê Lựu, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư... 

Bìa tác phẩm "Tướng về hưu" của cố nhà văn Nguyễn Huy Thiệp được NXB Éditions de Laube (Pháp) tái bản nhiều lần.

Trong số ấy, cố nhà văn Nguyễn Huy Thiệp chính là tác giả có nhiều tác phẩm được được dịch và xuất bản ở nước ngoài nhất với các ngôn ngữ như Pháp, Đức, Italia, Thụy Điển, Hà Lan... Đặc biệt phải kể đến cuốn "Tướng về hưu" đã được xuất bản tại Pháp ngay từ năm 1990 với tên "Un général à la retraite" và được tái bản nhiều lần sau đó. 

Theo thống kê, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp có khoảng 10 tác phẩm được dịch và xuất bản ở nước ngoài như "Tướng về hưu", "Muối của rừng", "Sang sông", "Vàng và lửa", "Mưa Nhã Nam", "Sói trả thù", "Trái tim hổ", "Tuổi hai mươi yêu dấu"... Điều này từng khiến nhiều người cho rằng đã tạo nên "hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp" bởi vì trước ông, chưa có tác giả Việt Nam nào đạt được điều này.

Có ý kiến cũng cho rằng, sở dĩ tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp được giới thiệu nhiều ở châu Âu là vì trong một thời gian khá dài, Nhà xuất bản Éditions de Laube của Pháp đã rất kiên trì giới thiệu và nhiều lần tái bản tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Còn lại, đa số các nhà văn Việt Nam được dịch, xuất bản tác phẩm ở nước ngoài là thông qua con đường "ngoại giao văn hóa", trao đổi về dịch thuật giữa nước ta và các nước trên thế giới. 

Năm 2002, lần đầu tiên Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức Hội nghị quảng bá Văn học Việt Nam với sự tham gia của 25 dịch giả đến từ 22 quốc gia. Đến năm 2019, ở lần tổ chức thứ IV được tổ chức nhân Ngày thơ lần thứ 17 đã có tới gần 200 nhà thơ, dịch giả của 46 quốc gia tham dự. 

Tại hội nghị lần thứ IV, nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khi đó đã phát biểu rằng: "Gần 20 năm trôi qua kể từ hội nghị Quảng bá văn học lần thứ nhất - 2002, đã có thêm nhiều tác phẩm văn học Việt Nam được dịch và xuất bản tại nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nhiều tạp chí văn học lớn của thế giới ra số đặc biệt về văn học Việt Nam; thêm nhiều giáo trình về văn học Việt Nam được giảng dạy ở các trường đại học lớn trên thế giới. Số sách văn học Việt Nam trong các trường đại học lớn của nhiều nước tăng nhanh với tốc độ đáng mừng...". 

Tuy nhiên, có thể thấy nhận định của nhà thơ Hữu Thỉnh khi đó vẫn chủ yếu là có "tính chất chào mừng" là chính, hiệu quả của các đợt quảng bá văn học thông qua các hoạt động này cho đến nay vẫn thực sự là không được như mong đợi mà rất nhỏ lẻ, manh mún. 

Trước đó, một số đầu sách của Việt Nam thông qua các Hội nghị quảng bá văn học Việt Nam đã được xuất bản ở một số nước trên thế giới như: "Nhật ký trong tù" của Chủ tịch Hồ Chí Minh (xuất bản ở các nước: Canada, Đức, Cộng hòa Séc, Hàn Quốc…), "Tổng tập nghìn năm văn hiến" (gồm 15 tập được xuất bản tại Nga), tác phẩm của các tác giả Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi... cũng đã được giới thiệu với bạn bè quốc tế tại Pháp, Mỹ, Ba Lan, Thụy Điển... Tuy nhiên, có thể thấy, số lượng tác giả - tác phẩm của Việt Nam được dịch, giới thiệu và quảng bá ở nước ngoài thực sự rất ít, nếu không muốn nói là còn khá... hiếm hoi!

Nguyệt Hà

Nguồn: Văn nghệ công an, ngày 17.6.2021.

Nhiều đài truyền hình và báo chí tại Mỹ đã phỏng vấn nhà văn Nguyễn Thanh Việt (giáo sư tại Đại học Nam California; giải thưởng Pulitzer năm 2016) về vấn đề phân biệt chủng tộc đang ngày một trở nên căng thẳng tại Mỹ.

Thời gian qua, nước Mỹ chứng kiến một loạt các vụ tấn công của những người Mỹ da trắng vào những người Mỹ gốc Á. Ngay từ giữa tháng 3, tại thành phố Atlanta thuộc bang Georgia, một thanh niên da trắng 21 tuổi đã xả súng vào khu tiệm mát xa của người châu Á. Tám nạn nhân thiệt mạng sau vụ xả súng, trong đó có 6 phụ nữ gốc Á. 

Là một nhà văn gốc Việt, đến Mỹ tị nạn từ năm 4 tuổi, nhà văn Nguyễn Thanh Việt nói rằng ông được nuôi dưỡng và thấm nhuần văn hóa Mỹ, suy nghĩ như người Mỹ, nhưng cũng từng chia sẻ đã có lúc coi những bộ phim về chiến tranh tại Việt Nam, ông tự hỏi: mình là người Mỹ đã tham chiến và giết hại người Việt hay mình là người Việt bị người Mỹ giết hại? 

Hiện ông Việt là chủ nhiệm bộ môn tiếng Anh và giáo sư về tiếng Anh và Hoa Kỳ học tại Đại học Nam California. Các tác phẩm của ông gồm tiểu thuyết, truyện ngắn và các bài viết trên báo, trả lời trên các kênh tin tức nhiều năm qua đề cập rất nhiều đến cuộc sống của người dân gốc Á tại các nước phương Tây, đặc biệt là Mỹ với những thách thức của cuộc sống hiện tại, trăn trở về quá khứ, nỗ lực hội nhập và khẳng định bản thân của các cộng đồng thiểu số tại Mỹ, đặc biệt là người Việt. 

Kênh tin tức Democracy Now!, một hãng phát thanh chuyên về vấn đề bảo vệ quyền con người và dân chủ tại Mỹ và kênh NBC mới đây đã thực hiện hai cuộc phỏng vấn nhà văn Nguyễn Thanh Việt có nhan đề Vì các ông tới nên chúng tôi phải ra đi, để nói về nguồn gốc của tình trạng phân biệt chủng tộc đang ngày càng nghiêm trọng tại Mỹ cũng như thông tin về cuốn sách mới phát hành của ông.  

Phân biệt chủng tộc ở Mỹ không mới 

“Tâm trạng ghét người Á châu tại Mỹ không phải là điều gì mới mẻ. Lịch sử về những hành động bạo lực đối với người dân gốc Á bắt nguồn từ khi có những người gốc Á di cư đến Mỹ. Họ bị đưa tới Mỹ và bị tận dụng sức lao động, nguồn cơn của những phân biệt chủng tộc, giới tính và bóc lột sức lao động”, ông Việt khẳng định.

Trả lời nhà báo Amy Goodman của kênh Democracy Now!, ông Việt chia sẻ, trong lịch sử nước Mỹ từ thế kỷ XIX, sang thế kỷ XX và nay là thế kỷ XXI, con người đã chứng kiến rất nhiều hành vi bạo lực từ riêng lẻ cho đến tập thể tấn công vào cộng đồng gốc Á tại Mỹ. Những hành động đó lặp đi lặp lại theo định kỳ. 

20210621 3

Nhà văn Nguyễn Thanh Việt trao đổi trực tuyến với kênh tin tức Democracy Now! về nguồn gốc tình trạng phân biệt chủng tộc đang ngày càng nghiêm trọng tại Mỹ.

Tình trạng phân biệt này luôn gắn chặt với thái độ của Mỹ đối với toàn châu Á nói chung. Thái độ đó có từ thế kỷ XIX, khi Mỹ xoay hướng đến châu Á, đặc biệt là Trung Quốc, với mục đích tiếp cận các tài nguyên của châu Á. Việc này dẫn đến điều tất yếu liên quan là sẽ có những hoạt động ngược lại là đưa người châu Á di cư tới Mỹ thông qua nhiều mối liên hệ như kinh tế, hoặc chiến tranh tại một số nước châu Á, nơi mà Mỹ tham gia với tư cách liên minh, đồng minh.

Có nhiều tranh cãi trong các vụ bạo lực, mà thủ phạm và nhà chức trách thường tách riêng và cho rằng các vụ bạo lực khi thì xảy ra vì vấn đề phân biệt chủng tộc, có khi lại xảy ra vì phân biệt giới tính. Tuy nhiên ông Việt cho rằng, trong lịch sử từ khi di dân châu Á đến Mỹ, phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính và bóc lột sức lao động luôn liên kết chặt chẽ với nhau. Hiện các phụ nữ đang lên tiếng đấu tranh tại Mỹ cũng cho rằng không thể tách rời phân biệt chủng tộc, phân biệt giới tính. 

Nhiều phụ nữ Mỹ gốc Á đã phải trải qua một thời gian dài bị quấy rối, bị bắt, bị mời gọi dụ dỗ, bị hãm hiếp, bạo lực tình dục và bị gạt ra ngoài lề xã hội, mà nguyên nhân chính là họ có nguồn gốc Á châu. Nhận thức này lan tỏa khá rộng trong nền văn hóa hiện đại của Mỹ.

Hình ảnh người phụ nữ châu Á, hay người phụ nữ Mỹ gốc Á xuất hiện trên phim ảnh của Mỹ trong vai trò là một đối tượng tình dục hay một gái điếm trong các bộ phim viễn tưởng của Mỹ xuất hiện quá nhiều và từ rất lâu, tạo nên một hiển nhiên trong văn hóa hiện đại của Mỹ. Việc coi phụ nữ châu Á hay phụ nữ Mỹ gốc Á như những đối tượng của phân biệt chủng tộc, tình dục hóa, tôn sùng đàn ông thuộc nhiều hoàn cảnh khác nhau, có nguồn gốc sâu xa trong văn hóa Mỹ và châu Âu, bắt đầu ngay từ các cuộc di dân, nhập cư trong lịch sử.

Đơn cử một số vụ bạo lực mà người gốc Á là nạn nhân trong lịch sử. Năm 1871, ngay tại trung tâm thành phố Los Angeles, một đám đông khoảng 500 người Mỹ da trắng giết chết 17 nam giới Trung Quốc. Tiếp sau đó là những vụ giết chóc khác xảy ra tại miền Tây nước Mỹ. Năm 1884, tại Oregon, 34 thợ mỏ người Trung Quốc bị giết hại. Trong lịch sử, nhiều người Trung Quốc đến Mỹ làm việc trên những tuyến đường sắt xuyên lục địa. Sau khi sức lao động của họ không còn được tận dụng nữa, người ta để họ ra đi và tự kiếm sống ở các vùng phía Tây nước Mỹ. 

Vụ xả súng tại Georgia khiến 8 người thiệt mạng, trong đó có 6 phụ nữ gốc Á hồi tháng 3.2021 đã làm nạn phân biệt chủng tộc trở nên rất căng thẳng tại Mỹ và hình thành nhiều tổ chức, phong trào bảo vệ người gốc châu Á. Ảnh: Reuters


Rồi sự nhiệt thành chống Trung Quốc giữa tầng lớp lao động người da trắng lại được truyền thông và các chính trị gia khuyến khích nên một lần nữa, những người châu Á khác tại Mỹ lại trở thành vật tế thần cho những thất vọng về kinh tế của tầng lớp lao động người da trắng. Những người châu Á đến Mỹ sau Trung Quốc cũng trở thành đối tượng của sự thù ghét.  

Các vụ phân biệt chủng tộc chống lại người Mỹ gốc Á đã gia tăng nhiều thập kỷ gần đây. Đáng chú ý nhất là vụ sát hại Vincent Chin hồi năm 1982. Anh ấy là người Mỹ gốc Trung Quốc nhưng bị nhầm là một người Nhật. Hai người lao động của hãng xe hơi Detroit, bực mình vì Mỹ bị Nhật cạnh tranh về kinh tế, đã dùng gậy bóng chày đánh nạn nhân đến chết, mà sau đó cả hai không bị ngồi tù. Năm 1989, năm em học sinh Campuchia và Việt Nam bị bắn chết tại một sân trường ở Stockton bởi một người da trắng, mà ông Việt cho rằng nguyên do liên quan đến cuộc chiến mà Mỹ đã tham dự tại Campuchia và Việt Nam. Năm 2002, sáu tín đồ người Sikh cầu nguyện tại một đền thờ ở Oak Creek bang Wisconsin cũng bị thảm sát bởi một tay súng cực đoan da trắng.

Lưỡng đảng tại Mỹ “đổ thêm dầu vào lửa”

Ông Việt cũng nhận xét, trong suốt thời gian xảy ra đại dịch Covid-19, Tổng thống Donald Trump thời kỳ ấy và những người ủng hộ ông, nói về bệnh dịch với những cái tên như “Kung flu”, hay “China virus’” chính là biểu hiện gần nhất về thái độ phân biệt, chống người châu Á một cách sâu sắc. Khi những từ ngữ trên được nói ra và lặp đi lặp lại, nó chạm vào sâu thẳm cảm giác bài châu Á. Khi kết hợp điều này với những căng thẳng hiện tại mà đại dịch mang lại, nó tạo ra xu hướng gia tăng rất đáng kể trong những ngụy biện và hành động bạo lực chống người châu Á. Nhiều người đã trải nghiệm điều này trong hơn 12 tháng qua. 

Bên cạnh đó, thái độ chống đối Trung Quốc hiện nay của lãnh đạo cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa tại Mỹ khá nguy hiểm, nó góp phần vào tình trạng ngờ vực người gốc Á tại Mỹ. Đây cũng là quan điểm ông đã nêu trong một bài xã luận đồng tác giả đăng trên tờ The Washington Post với tiêu đề: Luận điệu chính trị của lưỡng đảng về châu Á dẫn đến bạo lực chống châu Á ở Mỹ. 

Việc tập trung vào Trung Quốc như một mối đe dọa và đối thủ của Mỹ, tiếp tục làm đậm thêm những lo lắng kéo dài lâu nay trong lịch sử Mỹ, khiến người Mỹ hình dung Trung Quốc là một quốc gia rất đáng sợ. Người ta đang vẽ ra một Trung Quốc bí ẩn, có những tính toán về kinh tế, quân sự gây lo lắng cho người Mỹ, mà được cả hai đảng tại Mỹ đẩy lên. Những điều này sẽ làm gia tăng tình trạng nghi ngại của người Mỹ với những người châu Á tại Mỹ nói chung. Theo ông, cả cộng đồng người châu Á và châu Phi tại Mỹ phải cùng nỗ lực hợp tác đấu tranh, giải quyết nạn phân biệt chủng tộc chung với nhau trong tình hình hiện nay. 

Trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh rồi tiếp tục về sau này, phần lớn trong chính sách ngoại giao của Mỹ, đều có một đối tượng nước ngoài để phụ thuộc vào, đó có thể là Liên Xô hay Trung Quốc. Ông Việt cho rằng, việc cần một đối tượng nước ngoài để nhắm tới là một kiểu ngụy biện chính trị để biện minh cho các khoản chi tiêu khổng lồ trong quân sự. 

Tất nhiên cũng có những lo lắng về Trung Quốc như vấn đề nhân quyền, như việc Trung Quốc hành xử với Tây Tạng, Hồng Kông, Tân Cương. “Nhưng phần lớn những vấn đề trên lại đang bị lợi dụng để biện minh cho lập trường quân phiệt của Mỹ chống lại Trung Quốc, thay vì tập trung vào việc làm sao có thể cạnh tranh với Trung Quốc về mặt kinh tế theo cách thức bất bạo động và không đe dọa”, ông Việt bày tỏ. Và ông Việt cũng cho rằng, sự phẫn nộ của người Mỹ về việc Trung Quốc đối xử với người dân của họ đôi lúc có chút đạo đức giả, vì chính người Mỹ cũng đang loay hoay trong việc chăm sóc cho chính người dân nước Mỹ.

Đầu tháng 3.2021, nhà văn Nguyễn Thanh Việt ra mắt cuốn tiểu thuyết The Committed, cuốn tiếp theo tác phẩm The Sympathizer đã nhận giải Pulitzer 2016. Ảnh: AQ


Một trong những nhận định đáng suy nghĩ nhất mà nhà văn Nguyễn Thanh Việt đưa ra, đó là cảm giác bị chia rẽ trong chính nội tâm, văn hóa của người Mỹ gốc Á đã và đang hiện diện trong suốt lịch sử di dân đến Mỹ. “Chúng tôi, những người châu Á, ở Mỹ hôm nay chính là vì Mỹ đã tham gia vào các cuộc chiến tranh tại châu Á,” ông Việt nói. Hiện nay, có sự phân hóa trong quan niệm về lịch sử và văn hóa Mỹ đối với nhiều người. Một mặt, Mỹ là một đất nước của lý tưởng cao đẹp, của dân chủ, đa nguyên và cơ hội; nhưng mặt khác, Mỹ cũng là quốc gia bắt nguồn chiến tranh và chinh phục, đã thể hiện qua các cuộc chiến tranh ở châu Á.

“Tôi nghĩ rằng, với tư cách là người Mỹ, chúng ta có nghĩa vụ nhận ra sự phức tạp này, nhận ra những khả năng của đất nước này cũng như nguồn gốc của nó, và việc tiếp tục chìm đắm vào các cuộc chiến tranh, diệt chủng và thuộc địa hóa mà đất nước này đã, đang thực hiện”, ông Việt bày tỏ. 

Đầu tháng 3.2021, nhà văn Nguyễn Thanh Việt đã ra mắt cuốn tiểu thuyết mang tên The Committed, là cuốn tiếp theo của tác phẩm The Sympathizer đã nhận giải Pulitzer 2016. Nguyễn Thanh Việt từng chia sẻ trong tác phẩm The Sympathizer, nhân vật cảm tình viên là một điệp viên cộng sản Việt Nam, cuối cùng đã thú nhận anh bị tổn thương rất nhiều bởi những gì đã trải qua, nhưng vẫn chưa phải là hồi kết, và phần tiếp theo được tiếp tục kể trong cuốn The Committed

The Committed là phần thứ hai trong ba phần dự kiến của bộ tiểu thuyết tội phạm của nhà văn. Trong khi bối cảnh của The Sympathizer diễn ra ở Việt Nam và Nam California, thì The Committed lấy bối cảnh ở Paris. Nhân vật chính được giới thiệu là “vẫn tin tưởng về một cuộc cách mạng”, “về thay đổi thế giới”, “về đấu tranh công lý”. Anh đến thủ đô của một đất nước từng khai thác đánh chiếm quê hương và rơi vào thế giới ngầm. 

Trong bài viết đăng trên báo Guardian của Anh ngày 3.4, nhà văn Nguyễn Thanh Việt một lần nữa nói về những trải nghiệm, quan sát, nghiên cứu và lồng ghép trong tác phẩm của mình, nhấn mạnh đến vấn đề nguồn gốc của tình trạng phân biệt chủng tộc, dẫn đến bạo lực kéo dài, mà người châu Á là nạn nhân chính, từ thời Mỹ là thuộc địa cho đến khi bùng phát dịch bệnh COVID-19 gần đây. Sau khi đại dịch bùng phát, người dân gốc Á, đặc biệt là người Hoa, trở thành mục tiêu trút giận tại Mỹ, và phong trào phân biệt người châu Á đang lan rộng ra toàn cầu, và tăng mạnh tại các nước phương Tây như Anh, Đức, Thụy Điển, Canada đến Úc... 

Lan Chi lược thuật

Nguồn: Người đô thị, ngày 17.6.2021.

20200817 6

Trong lịch sử quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, cuộc chiến tranh Việt Nam (theo cách gọi từ phía Mỹ, còn gọi theo phía Việt Nam là cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước) kéo dài trong hai thập niên giữa thế kỷ XX là một biến cố lớn. Đề tài này chắc chắn sẽ còn được các giới chính trị, quân sự, khoa học, văn hóa của hai nước tiếp tục đi sâu phân tích, tìm hiểu. Trong ngành Hoa Kỳ học, đây cũng sẽ phải là một trọng tâm nghiên cứu. Và trong phạm vi giảng dạy bộ môn Hoa Kỳ học ở nhà trường, việc tham chiếu, so sánh các cách nhìn của Việt Nam và Mỹ về cuộc chiến tranh này trên mọi bình diện cũng là điều cần thiết và cấp bách. Ở đây, tôi chỉ giới hạn trong lĩnh vực của mình là văn học, và giới hạn hơn nữa là từ cuốn tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) của nhà văn Việt Nam Bảo Ninh soi chiếu dưới sự tiếp nhận và giảng dạy ở Mỹ.

I. Nỗi buồn chiến tranh ở Việt Nam

Bảo Ninh tên thật là Hoàng Ấu Phương sinh năm 1952, đi lính 1969, chiến đấu tại chiến trường Tây Nguyên (B3) trong phiên chế của sư đoàn 10 bộ binh thuộc quân đội nhân dân Việt Nam (Bắc Việt). Sau 1975 Bảo Ninh giải ngũ, đi học trường viết văn Nguyễn Du, và trở thành nhà văn chuyên nghiệp. Sáng tác của ông tập trung chính vào đề tài chiến tranh đặt dưới một cái nhìn nghệ thuật trần trụi và tỉnh táo. Trước cuốn tiểu thuyết nói đây, Bảo Ninh đã có tập truyện ngắn Trại bảy chú lùn, trong đó có những truyện viết về chiến tranh gây ấn tượng mạnh. Một truyện ngắn khác của ông, viết sau tiểu thuyết, có tên Gió dại cũng rất nổi tiếng trong mạch viết này.

NBCT xuất bản lần đầu tiên năm 1990 tại nhà xuất bản Hội Nhà văn với tên gọi Thân phận của tình yêu. Trước đó nó đã được trích đăng trên tạp chí Tác phẩm văn học của Hội. Ngay năm sau nó được Hội Nhà văn Việt Nam trao giải thưởng văn học hàng năm (cùng với Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường và Bến không chồng của Dương Hướng). Đây là một giải thưởng đến nay vẫn được coi là “sáng giá” nhất của văn học Việt Nam mấy chục năm qua, trong đó hiển nhiên NBCT là nổi bật nhất, và việc trao được giải thưởng cho nó trong thời điểm bấy giờ cũng là một thắng lợi của tư duy đổi mới trong văn học. Nhà văn Nguyên Ngọc, một trong những người lãnh đạo Hội Nhà văn Việt Nam hồi đó, người có công lớn trong việc trao giải cho NBCT, đánh giá rất cao tác phẩm này. Ông viết: “Đây là cuốn tiểu thuyết về một cuộc chiến đấu của một con người tìm lẽ sống hôm nay. Bằng cách chiến đấu lại cuộc chiến đấu của đời mình. Cuốn sách này không mô tả chiến tranh. Nó “mô tả” một cuộc kiếm tìm nặng nhọc chính hôm nay. Hiện thực ở đây là hiện thực bên trong của một tâm hồn quằn quại và đầy trách nhiệm, quằn quại vì đầy trách nhiệm. Trách nhiệm lương tâm. Cuốn sách nặng nề này không bi quan. Vẫn thấm sâu ở đâu đó trong từng kẽ chữ của nó một âm hưởng hy vọng tiềm tàng, chính là vì thế. Anh đi tìm, nghĩa là anh còn hy vọng”[1]. Nhưng chỉ ít lâu sau giải thưởng, cuốn tiểu thuyết này đã bị phê phán vì bị cho là thể hiện u ám, sai lạc cuộc  kháng chiến chính nghĩa và vinh quang của dân tộc. Một sự phê phán nặng nề, gay gắt. Tiêu biểu có thể lấy ý kiến của ông Đỗ Văn Khang, tiến sĩ mỹ học và phó tiến sĩ ngữ văn. Ông Khang phẫn nộ vì Bảo Ninh đã gọi cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là “cuộc chiến tranh Việt - Mỹ”, đã thể hiện người lính quân đội nhân dân như một lũ thất trận chứ không phải những người mang tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Nhân vật Kiên bị ông Khang kết tội như sau: “Đó là một kẻ chiến bại, tìm cách chạy trốn vào quá khứ để khư khư ôm lấy tâm trạng đổ vỡ mà không dám nhìn thẳng vào những khó khăn để dồn sức làm được một cái gì đó cho ngày mai”[2]. Sự phê phán bị đẩy tới mức mà Hội Nhà văn Việt Nam đã trao giải thưởng cho nó nhưng rồi lại phải tự lên tiếng phủ nhận giải thưởng đó thông qua ý kiến của một số nhà văn ở trong ban giám khảo hồi ấy. (Mãi tới đại hội Hội nhà văn Việt Nam lần thứ VII năm 2005 nhà văn Nguyễn Quang Sáng từ trên diễn đàn đại hội mới phát biểu xin lỗi nhà văn Bảo Ninh về chuyện này). Vì vậy nó chậm được tái bản, khác với hai cuốn tiểu thuyết cùng được giải nêu trên. Cho đến tận bây giờ tác phẩm này vẫn còn bị “kiêng kị” ở một bộ phận độc giả hay một tầng lớp nào đó. Nhưng Thân phận của tình yêu / Nỗi buồn chiến tranh đã nhanh chóng được dịch ra tiếng nước ngoài, trước hết là tiếng Anh. Bản dịch Anh ngữ The Sorrow of War của Phan Thanh Hảo và Frank Palmos ra năm 1994 có lẽ là dịch bản đầu tiên. Từ đó đến nay tác phẩm này đã được dịch ra hơn mười thứ tiếng, và là một trong rất ít tiểu thuyết Việt Nam được dịch nhiều nhất. Nó đã được đón đọc và đánh giá cao ở nhiều nước.

Cuốn tiểu thuyết có dáng dấp tự truyện, nhân vật chính là Kiên, là người lính sống sót duy nhất của một trung đội trinh sát sau mười năm chiến trận, hết chiến tranh ở đội thu gom hài cốt đồng đội, rồi trở lại nhà sống cuộc sống hậu chiến bất ổn bất an, khi tất cả đã đổ vỡ. Toàn bộ cuộc đời anh đã bị dìm trong chiến tranh: “Theo dần năm tháng những luồng sinh khí chết ấy đã đậm lại trong lòng anh, hòa vào tiềm thức, trở thành bóng tối của tâm hồn anh. Dằng dặc trôi qua trong hồi ức của Kiên vô vàn những hồn ma thân thiết, lẳng lặng âm thầm kéo lê mãi trong đời anh nỗi đau buồn chiến tranh” (tr. 27)[3]. Và Kiên viết văn trong những cơn dằn vặt hồi ức từ quá khứ đến hiện tại. Chiến tranh là chủ đề bao trùm cuốn tiểu thuyết, nhưng song hành cùng nó còn có chủ đề tình yêu và nghệ thuật. Đây là một tác phẩm xuất sắc nhất của văn học Việt Nam trong vòng hai mươi năm qua không chỉ là viết về chiến tranh, nó còn là sự chứng thực bề sau và bề sâu những biến động của xã hội và con người Việt Nam đi qua chiến tranh và cách mạng.

Phẩm chất lớn nhất của NBCT là nó đã thể hiện chân thực người lính, thân phận lính trong cuộc chiến, bất kể là ở chiến tuyến nào, mặc dù cố nhiên người lính cụ thể ở đây là lính Bắc Việt (hay còn gọi là lính Việt Cộng, để phân biệt với lính Mỹ, lính Cộng Hòa). Cuộc chiến được mô tả trong tác phẩm này không mang kèm một định ngữ nào, nó là chiến tranh với tất cả thảm trạng nghiệt ngã của nó, ở đó những người lính là những con người bị vất vào cuộc chiến, buộc phải bắn giết nhau. “Và tôi cũng như anh, cũng như mọi người lính thường khác của cuộc chiến tranh Việt - Mỹ, đã cùng chung một số phận, chia nhau đủ mọi cảnh ngộ thăng trầm, thắng bại, hạnh phúc đau khổ, mất và còn. Nhưng mỗi người trong chúng tôi bị chiến tranh chà nát theo một kiểu riêng, mỗi người ngay từ ngày đó đã mang trong lòng một cuộc chiến tranh của riêng mình nhiều khi hoàn toàn khác với cuộc chiến đấu chung, những nhìn nhận mà sâu trong lòng cực kỳ khác nhau về con người, về thời đại chiến trận, và đương nhiên mỗi người một số phận hậu chiến. Có thể nói chúng tôi giống nhau ở chỗ là hoàn toàn khác nhau trong cái vẻ hoàn toàn giống nhau trong quá trình nặng nề đeo đuổi cuộc chiến”[4] (tr. 294).

Ở Việt Nam người ta nói: sau NBCT không thể viết về chiến tranh như trước đó đã từng viết được nữa.

II. Nỗi buồn chiến tranh ở Mỹ

Chính nhờ giá trị nhân bản này, cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh khi đến Mỹ đã nhận được sự đồng cảm và tiếp nhận tích cực. “Hội chứng Việt Nam” ở Mỹ sau cuộc chiến đang cần được giải phẫu và chữa trị. Như báo Anh The Guardian đã viết: “Một cuốn tiểu thuyết không thể đặt xuống. Bất kỳ nhà chính trị hoặc nhà hoạch định chính sách nào của Mỹ cũng cần nên đọc cuốn sách này. Nó lẽ ra phải được giải Pulitzer, nhưng đã không được. Nó quá hấp dẫn để xứng được thế”[5]. Những cựu binh Mỹ nói riêng và người dân Mỹ nói chung muốn được biết những con người ở phía bên kia, phía kẻ thù của mình, là như thế nào, để từ đó đi tìm câu trả lời giải thích và cắt nghĩa cho số phận và hậu quả cuộc chiến mà nước Mỹ đã bị lâm vào và phải bị rút ra. Vượt lên và vượt thoát khỏi sự tuyên truyền từ cả hai phía, tác phẩm NBCT trả lại bộ mặt người cho người lính tham chiến ở phía bên kia mà một thời chỉ được gọi là “gooks”, “Charlie”, hay “VC”. Một nhà phê bình Mỹ viết trên tờ Philadelphia Inquirerrằng cuốn tiểu thuyết ‘đã làm cho những người lính Bắc Việt thành ra con người” vì nó “rốt cục đã đặt một bộ mặt người khả dĩ chấp nhận được lên một nhóm người lâu nay không có mặt”[6] . Cách viết mang thái độ tàn nhẫn và khinh miệt, nhưng là đối với người Mỹ, để nói với người Mỹ. Nhà báo Kenneth Champeon khi điểm sách cuốn này đã diễn dịch ý kiến của nhà phê bình trên ra là: “Chúng ta chưa bao giờ thực sự coi những người đó là con người cho đến khi Bảo Ninh, một người Việt Nam và có lẽ là một con người, nói với chúng ta như vậy”[7]. Một nhà phê bình khác táo bạo hơn cho rằng NBCT “vượt lên trên tất cả các tác phẩm văn xuôi của Mỹ đã viết về cuộc chiến Việt Nam”[8] . Một cựu binh Mỹ viết sau khi mua NBCT năm 1999: “Tôi đã đọc sách này một cách do dự, nhưng sau trang đầu thì tôi đã bị móc vào nó. Là một lính thủy đánh bộ, tôi đã chiến đấu chống lại kẻ thù này vào năm 68 và 69 và đã có mặt ở Sài Gòn khi anh ta vào đấy năm 75. Tôi tự thấy mình có sự hối tiếc đối với những người lính Bắc Việt và chút gì đó xấu hổ vì đã gây ra những nỗi buồn mà anh ta đã viết ra. Cuốn sách này cần cho tất cả các cựu binh Việt Nam. Bạn sẽ thấy kẻ thù cũng y như chúng ta về mọi mặt”[9]. Gần đây nhất, ngày 3/10/2008, Dennis Mansker, thành viên của hội cựu binh vì hòa bình và hội cựu binh Việt Nam chống chiến tranh, tác giả sách A Bad Attitude: A Novel from the Vietnam War, đã bất ngờ khi được đọc NBCT. Ông chỉ mới mua một bản sao của sách này gần đây tại Sài Gòn, mua từ một phụ nữ bán hàng rong trên phố. Lúc đầu ông nghĩ là mua vậy thôi để giúp cho người bán có chút tiền. Nhưng khi trên máy bay về nước ông giở sách đọc thì không thể dứt ra được khỏi nó vì choáng váng và xúc động. Ông viết: “Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau mười năm tham chiến. Đã đến lúc thế giới phải thức tỉnh trước nỗi đau mang tính phổ quát của những người lính ở mọi bên xung đột, và cuốn sách này là nên đọc đối với những ai chọn nghề “binh nghiệp”. Tôi đặc biệt giới thiệu nó cho các bạn bè cựu binh của mình; Bảo Ninh thực sự là “bạn chiến đấu” của chúng tôi, bất kể việc anh ta đứng ở phía bên kia. Hết sức giới thiệu”[10].

Khi đọc cuốn sách của Bảo Ninh, độc giả Mỹ thường so sánh với tác phẩm của các nhà văn cựu binh Mỹ, và rộng ra là đặt nó trong tương quan với các tiểu thuyết viết về chiến tranh nổi tiếng trên thế giới. Tác phẩm này kết hợp được ba yếu tố: một câu truyện cổ điển về chiến tranh (theo kiểu All Quiet on the Western Front), một câu truyện tình cổ điển (theo kiểu Love Story) và suy nghĩ của cá nhân về bản chất “cuộc sống”. Cho nên nhiều độc giả Mỹ khi đọc NBCT thường nhắc đến cuốn tiểu thuyết của Erich Remarque để khen ngợi và lấy làmđiểm quy chiếu cho cả Bảo Ninh và các nhà văn cựu binh Mỹ. NBCT được liên hệ, đối chiếu với A Rumor of War của Philip Caputo, Paco’s Story của Larry Heinemann, If I Die in a Combat Zonevà The Things They Carried của Tim O’Brien. Tác phẩm của Bảo Ninh đối với người Mỹ là lời chứng từ bên thắng. Nhưng Bảo Ninh cũng như Caputo sớm ra trận và sớm vỡ mộng về chiến tranh, chỉ khác là Caputo ở chiến trường có một năm còn Bảo Ninh thì trải mười năm. Và nhân vật Kiên cũng giống như nhân vật Paco bị cuốn đi trong dòng hồi tưởng về những đồng ngũ đã mất và kinh nghiệm bao lần cận kề cái chết ở chiến trường. Kiên thậm chí còn bị chấn thương thể xác và tinh thần mạnh hơn Paco, khi anh cảm nhận thấy sự thờ ơ và vô ơn của mọi người xung quanh đối với xương máu hy sinh của anh và đồng đội trong chiến tranh. Tập truyện ngắn The Things They Carried  của Tim O’Brien có nhiều nét gần gũi với NBCT của Bảo Ninh. Cả hai đều là cựu binh của hai phía. Cả hai đều đưa kinh nghiệm chiến trận của mình vào văn học và đều chọn cách không vinh danh chiến tranh và sự nghiệp chiến tranh. Cả hai không tìm cách lăng nhục kẻ thù trong tác phẩm, mà cố gắng đưa lại cho người đọc những người lính sống thực, có nhân tính, ở cả hai phía. Vì từ hai phía họ hiểu rằng dù anh đứng ở bên nào, theo ai hay chống ai, rốt cuộc những con người thực là chết. Cái chết không chừa một ai. Cả Tim O’Brien và Bảo Ninh đều có viết về trường hợp đụng độ và đồng cảm giữa hai người lính ở hai bên chiến tuyến (không biết có cùng chịu ảnh hưởng của E. Remarque trong tiểu thuyết Phía Tây không có gì lạ không). Ở NBCT đó là câu chuyện của Phán về người “lính ngụy” bị anh đâm nhưng khi nghe anh ta kêu cứu thì anh đã chạy đi tìm bông băng nhưng khi quay lại thì không thấy cái hố hai người nằm chung lúc nãy đâu nữa, cả trận địa đã bị ngập tràn trong nước mưa. Còn người kể chuyện trong The Things They Carried đã giết chết một anh lính và cứ tự hỏi người đó có làm thơ không, anh ta người đó là người thế nào. Trong khi các đồng ngũ vui mừng trước cuộc giết ấy thì anh ta vẫn day dứt với ý nghĩ là mình đã cướp đi mạng sống của một con người. Như vậy, ở hai tác phẩm, hai tác giả đều cho thấy người lính phía bên kia cũng là nạn nhân của chiến tranh. Tim O’Brien có một nhận định rất đúng cho ông, cho Bảo Ninh, và cho những cái viết về chiến tranh của các cựu binh từ cả hai phía: “Các truyện về chiến tranh thực chất không phải bao giờ cũng viết về chiến tranh. Chúng không viết về bom đạn và mưu mô quân sự. Chúng không  viết về chiến thuật, chúng không viết về các hố cá nhân và lều trại. Truyện chiến tranh, giống như bất kỳ truyện hay nào, rốt cuộc là viết về trái tim con người”[11].

Cảm nhận về một nền văn hóa khác tồn tại ở Việt Nam được thể hiện trong NBCT cũng đã được độc giả Mỹ chú ý. Susan L., một nữ quân nhân, đọc cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh rất chú ý đến vai trò phụ nữ trong chiến tranh, và thấy ra sự khác biệt văn hóa của hai đất nước qua việc thể hiện hình ảnh người phụ nữ ở vai trò đó. Bà viết: “Văn hóa phương Tây không thường mô tả phụ nữ là người bảo vệ quê hương mình và là chiến binh cho đất nước mình. Với tư cách một phụ nữ và là một phụ nữ làm lính tôi cảm thấy thân thuộc với những phụ nữ trong truyện này. Chưa ai từng bảo họ là họ không thể chiến đấu và chết cho tổ quốc mình. Tôi khâm phục họ. Tôi đã thấy cách họ được mô tả và tôi hiểu rằng trong nền văn hóa Mỹ của mình tôi có lẽ sẽ không bao giờ thấy được một chủ nghĩa anh hùng như thế. Phần lớn các nữ nhân vật trong tiểu thuyết này hoặc bị giết hoặc bị hãm hiếp, thế nhưng họ vẫn được phép coi là những anh hùng. Tôi thấy đây là sự khác nhau lớn giữa NBCT và các bộ phim, cuốn sách của Mỹ. Đọc sách này đã thêm một chiều kích mới cho cuộc chiến tranh Việt Nam đối với tôi. Tôi mừng là đã có cơ hội thấy được nhiều phía của vấn đề”[12]. Một bạn đọc khác lại quan tâm đến NBCT ở khía cạnh các giá trị truyền thống của văn hóa Việt Nam như tình cảm cha con, việc chôn cất và tưởng nhớ người chết. Thái độ của Kiên đối với người cha họa sĩ, khi còn nhỏ anh không hiểu cha mình, không đồng cảm được với cảnh ngộ của ông, mãi sau này đi lính về anh mới hiểu ra và thương xót. Điều này cung cấp cho độc giả Mỹ thấy mối quan hệ cha con, rộng ra là quan hệ giữa các thế hệ, trong gia đình Việt Nam. Việc những người lính tử trận không được chôn cất tử tế, cẩn thận do hoàn cảnh chiến trường, nên biến thành những hồn ma lang thang, không nơi cư ngụ và thường ám ảnh Kiên, cũng thể hiện một nét văn hóa tâm linh Việt Nam đối với độc giả Mỹ. Đặt trong khung cảnh cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh, những khía cạnh này được độc giả Mỹ cảm nhận là cuộc chiến tranh kéo dài ba mươi năm đã hủy hoại hệ thống giá trị của văn hóa Việt Nam. Đất nước, làng mạc, gia đình bị tan hoang trong chiến tranh. Sau chiến tranh văn hóa, lối sống của người Việt Nam phải xây dựng lại. Và nhân vật Kiên cho thấy hoàn cảnh khó khăn của người dân Việt Nam trước, trong và sau chiến tranh là thế nào.

Cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh không phải dễ đọc, ngay cả đối với độc giả Mỹ. Lối viết theo “dòng ý thức” của nhân vật Kiên, đảo lộn trình tự thời gian, chắp nối, đứt đoạn sự kiện, lồng “truyện trong truyện”, đã khiến nhiều người khó theo dõi nội dung tác phẩm. Hầu hết các bài viết điểm sách, phê bình NBCT ở Mỹ đều nói tới điều này. Một số người còn nói thẳng là họ đã tính bỏ sách xuống sau vài trang đầu, nhưng rồi cố rán đọc và càng đọc thì mới càng thấy lôi cuốn, thấy hay. Thậm chí có độc giả mang tên (hay nickname) Shogun Len ở New York còn kể rằng đọc các bài điểm sách khen NBCT nên mua sách về và đọc hai lần, cả hai lần đều không thấy vào, đành bỏ. Người này nêu lý do là có thể do bản dịch, nhưng cũng có thể là do cách viết “dòng ý thức” nên thấy truyện cứ rời rạc, ngắt quãng. Theo Susan L. cuốn sách có một số điểm phi thực. Thứ nhất là vận may của Kiên khi anh sống sót được qua bao lần ốm đau, thương tích trong chiến tranh. Thứ hai là sự tương phản giữa bản tính tốt đẹp và hành động phá phách của con người. Thứ ba, phi thực nhiều hơn cả, là truyện các hồn ma. “Tôi hiểu và tôn trọng thực tế là các nền văn hóa khác nhau nhìn thế giới vô hình theo những cách khác nhau. Phương diện này của truyện khiến nó hai lần phi thực đối với tôi. Hồn ma không phải là một phần thường ngày trong thế giới của tôi và văn hóa của tôi nên tôi khó mà chia sẻ với phương diện này trong nhân tính của Kiên. Tôi tôn trọng cách nhìn của anh về các hồn ma nhưng tôi không liên kết được với sự hiện diện của chúng. Chúng không thực với tôi nên làm cho câu truyện có phần phi thực”, độc giả này viết[13].

Tóm lại, NBCT đến Mỹ là đã mang người lính ở hai bên chiến tuyến đến gần nhau, giúp hai bên hiểu nhau, nhìn nhau thấy cùng là con người, cùng chung thân phận người lính, khắc phục tâm lý một thời đối lập “họ” và “chúng ta”. Câu truyện của Kiên cũng là truyện của nhiều lính Mỹ, nhưng là được kể từ một người lính Bắc Việt, và khi mở sách ra người lính Mỹ và người dân Mỹ bắt gặp kẻ thù một thời và thấy – anh ta là chúng ta. NBCT khám phá cho nước Mỹ thấy một Việt Nam rất riêng về dân tộc và văn hóa và cũng rất chung về con người với những đức tính và phẩm chất phổ quát. Chính Bảo Ninh trong một lá thư gửi cho Marc Levy, một cựu binh Mỹ từng tham chiến ở Việt Nam và đã gặp gỡ trò chuyện với nhà văn khi anh sang Mỹ, cũng nhấn mạnh điều này. Anh yêu cầu Marc Levy khi tường thuật lại cuộc trò chuyện giữa hai người phải nhấn mạnh được tính người, chất người của người lính Bắc Việt[14].

Đánh giá cao nhất NBCT ở Mỹ có lẽ là ý kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus, OH United States) khi ông cho đây là cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ XX. Torkelsen viết: “Liệt kê đầy đủ các phẩm chất của sách này ở đây là không thể. Liên quan đến văn học Việt Nam, đây là một tác phẩm ngoại hạng so với tất cả các tác phẩm khác cùng lĩnh vực. Liên quan đến văn học chiến tranh thì chỉ có Phía Tây không có gì lạ là may ra có thể so sánh được. Bảo Ninh đã viết nên bản tụng ca đẹp đẽ đầy ám ảnh về sự trong trắng bị mất đi trong dòng xoáy chiến tranh. Tuổi trẻ, tình yêu và nghệ thuật đều được mô tả kỹ lưỡng dưới ánh sáng gắt của ẩn dụ tối hậu đối với cuộc sống là chiến tranh. Hỗ trợ cho cách trình bày chủ đề không gì so sánh nổi của cuốn sách là thứ văn xuôi tuyệt vời của tác giả. Cuốn sách được viết bằng một văn phong nên thơ nhưng súc tích, nó là một mô hình tiết kiệm. Mỗi dòng của cuốn tiểu thuyết tương đối ngắn này chất chứa vẻ đẹp thẩm mỹ và chiều sâu tinh thần. Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về Việt Nam cũng như về tâm hồn con người. Đây là một trải nghiệm đọc không thể bỏ qua”[15]. Còn có một độc giả Mỹ khác đã nảy ra một ý tưởng độc đáo: chấm điểm NBCT là cuốn sách 4 sao trong bảng xếp hạng 5 sao (but overall I rate the Sorrows Of War a 4 star out of 5 star book!).

III. Nỗi buồn chiến tranh ở nhà trường Mỹ

Dễ hiểu là với nội dung tác phẩm và sự tiếp nhận như trên nên trong các chương trình giảng dạy ở Mỹ về chiến tranh nói chung, chiến tranh Việt Nam nói riêng, tác phẩm của Bảo Ninh thường được đưa vào danh sách bắt buộc phải đọc và phân tích. Chẳng hạn chương trình “Dạy văn học về chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam” (Teaching the Literature of the American War in Vietnam) do tiến sĩ Paul-William Burch phụ trách. Mục đích của chương trình là “làm quen với quá trình đọc kỹ và đọc liên văn bản, với các kiểu tư duy phân tích khác nhau và với thực tế diễn dịch cái đọc và cái nghĩ thành cái viết. Chúng ta sẽ đọc về chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam như đã được trải nghiệm và viết lại dưới hình thức văn học của những người tham chiến, tham dự, hoặc của những người cảm nhận hệ quả tức thì của nó lên cuộc đời họ - các cựu chiến binh, các y tá, các phóng viên. Thông qua việc đọc các thể loại khác nhau như hồi ức, tiểu luận, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ và thông qua sự phản hồi đối với những cái viết đó, chúng ta sẽ tìm hiểu kinh nghiệm đó phong phú đến thế nào và các thể loại ghi lại kinh nghiệm đó khác nhau ra sao”[16]. Tài liệu cho chương trình học này (Texts for this Course) gồm có: Philip Caputo, Rumor of War; Lynda Van Devanter, Home Before Morning; Michael Herr, Dispatches; Susan Kramer O’Neill, Don’t Mean Nothin’; Bruce Weigl, Song of Napalm; Bao Ninh, The Sorrow of War; Tim O’Brien, If I Die in a Combat Zone,  The Things They Carried; Tobias Wolff, In Pharaoh’s Army. Hay như ở chương trình “Chiến tranh Việt Nam trong văn học và văn hóa Mỹ” (The Vietnam War in American Literature and Culture) với mục đích khảo sát một số văn bản, cả hư cấu và phi hư cấu, cho thấy sự tác động liên tục của chiến tranh đến các cá nhân và nền văn hóa Mỹ, NBCT đã được đưa vào danh sách các tác phẩm yêu cầu phải đọc, cùng với William Calley, Lt. Calley, His Own Story; James Carroll, An American Requiem; Alex Garland, The Beach; Graham Greene, The Quiet American; Larry Heineman, Close Quarters; Tim O’Brien, The Things They Carried; Stewart O’Nan, The Names of the Dead; Tobias Wolff, In Pharaoh’s Army.

Trong chương trình lịch sử “The United States and Vietnam” do giáo sư Ellen Schrecker phụ trách tại trường Stern College for Women thuộc Yeshiva University (một đại học tư Do Thái ở New York City), NBCT cũng là tài liệu bắt buộc sinh viên theo học phải đọc, bởi trọng tâm chính của nó là nghiên cứu cuộc chiến tranh Việt - Mỹ trong hai thập niên 1960 và 1970.

Ở một chương trình khác tại đại học Richmon (ACS Vietnam Experience course), sinh viên được yêu cầu cụ thể đọc và viết về NBCT. Bản chương trình  viết: “Cuốn tiểu thuyết này đã được giới phê bình Mỹ và báo chí quốc tế đánh giá cao. Nhiệm vụ của bạn trong bài luận là trình bày cảm nhận đối với câu truyện và tác giả trong bối cảnh chương trình học của chúng ta. Bài viết không dài quá ba trang đánh máy. Cần chú ý các câu hỏi sau khi đọc cuốn tiểu thuyết và trả lời chúng khi viết bài luận. Bảo Ninh có đưa ra được bức tranh hiện thực về tác động của chiến tranh đến cá nhân người lính không? Cuốn tiểu thuyết có tác động thế nào đến bạn với tư cách là một sinh viên đang học về cuộc chiến tranh Việt Nam? Đánh giá mức độ thể hiện kinh nghiệm chiến tranh riêng của tác giả trong tác phẩm này. Cơ sở lịch sử cho cuốn tiểu thuyết có dễ nhận thấy không? Cho thí dụ. Thêm nữa, bài luận cũng phải nêu lên nhận xét của bạn đối với tác giả, đối với câu truyện của ông ta, đối với các nhân vật và các chủ đề chính trong tiểu thuyết. Bạn sẽ phải đánh giá Bảo Ninh trong tư cách nhà văn, liên hệ tác phẩm của ông ta với các tác phẩm đã đọc khác cũng như với những chủ đề liên quan đã học, và thử lý giải vì sao cuốn sách này lại gây tranh cãi đến vậy khi lần đầu tiên xuất hiện ở nước CHXHCN Việt Nam. Do khuôn khổ bài luận không dài nên bạn không cần dùng đến những nhận xét của người khác về tác phẩm này. Đây là bài luận riêng của bạn và không phản ánh nhận xét của các độc giả khác”[17].

Để giúp cho sinh viên đi sâu tìm hiểu NBCT, trong một chương trình học khác, một đề cương chi tiết đã được soạn thảo với những nhận xét và gợi ý sơ bộ của giảng viên. Chẳng hạn, sinh viên được lưu ý đến những điểm sau khi tiếp cận tác phẩm của Bảo Ninh.

1. Cuốn tiểu thuyết tổ chức theo lối phi tuyến tính. Các sự kiện không tuân theo trình tự thời gian. Thay vào đó, những ý nghĩ và hồi ức của nhà văn sẽ tạo nên chuỗi hình ảnh và cốt truyện. Khi đọc, phải chú ý là có nhiều sự kiện có vẻ thần bí hay khó hiểu mà chỉ đến cuối sách mới rõ ra. Luôn phải nghĩ đến điều này: cách tổ chức cuốn tiểu thuyết như thế sẽ giúp ích gì cho việc thể hiện tâm lý của nhân vật chính?

2. Cuốn tiểu thuyết có một bối cảnh lịch sử phong phú. Chúng ta đã học một số cách thức làm điều này trong văn học Mỹ, bây giờ hãy áp dụng các kỹ thuật đó cho tác phẩm này. Bảo Ninh đã giúp bạn phần nào bằng cách ghi rõ ngày tháng (“Sài Gòn, 30 tháng Tư, ngày chiến thắng. Trời đổ mưa”), tên các trận đánh (Đồi thịt băm), tên các cuộc chiến (chống Campuchia). Hãy đọc cẩn thận để biết được đời sống Việt Nam trong chiến tranh.

3. Cuốn tiểu thuyết có thể được  xem như sự phê phán các phương diện của cuộc chiến Việt Nam và hậu quả của nó. Bảo Ninh đã đưa những chính sách, sự kiện, chiến lược và mất mát nào ra trước mắt chúng ta?

Tiếp đó giáo viên đưa ra một số đề tài cho sinh viên lựa chọn viết bài luận về NBCT.

Người Mỹ.Cuốn tiểu thuyết thể hiện người Mỹ như thế nào? Quân đội Mỹ hiện ra dưới nhiều hình thức: không lực, GI, lực lượng hành động từ xa. Những cách biểu hiện này bổ sung gì cho những cái bạn đã đọc từ phía Mỹ?

Nhân vật. Cuốn tiểu thuyết dường như tập trung vào nhân vật hơn là cốt truyện. Kiên, Phương và những người khác được trình bày và triển khai thông qua các câu truyện và các phần của sự kiện. Xem các nhân vật này như những điển hình hay ví dụ của kinh nghiệm chiến tranh ở Việt Nam. Họ biểu lộ điều gì?

Lạc địa. “Dystopia” nghĩa đen là “chỗ xấu”. Nhiều cuốn tiểu thuyết chiến tranh thể hiện chiến trường là hệ thống ác mộng, là nơi kinh hoàng và phù phiếm. Trong cuốn tiểu thuyết này sự thể hiện chiến trường có gì khác? Hầu hết các tiểu thuyết chiến tranh đều đối lập “lạc địa” (dystopia) với “không tưởng” (utopia), điều này cần chú ý.

Gia đình. Các tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX thường dùng khung cảnh một gia đình riêng lẻ đang trong cơn nguy khốn để ẩn dụ cho cả dân tộc. Hãy chú ý cẩn thận tới hoàn cảnh của bố mẹ Kiên, quan hệ của anh với Phương, những điều các thành viên trong gia đình chờ đợi ở tương lai, và số phận sau cùng của họ. Hãy ghi nhớ vấn đề trách nhiệm của con cái, vai trò của những người lớn khác, sự chờ đợi ở hai giới. Hãy ghi nhớ ý nghĩa của tổ tiên và việc quan tâm đến họ trong xã hội Việt Nam khi bạn đọc hai trang đầu tiểu thuyết nói về việc chôn cất không tử tế.

Giới. Hai giới được khắc họa trong tiểu thuyết như thế nào? Vai trò của họ thay đổi ra sao trong suốt tiến trình cuộc chiến? Nỗi đau của phụ nữ quan trọng thế nào đối với cốt truyện của tiểu thuyết? Khi nào chúng ta đã thấy phụ nữ Việt Nam là những chiến binh?

Hình ảnh. Cuốn tiểu thuyết dựa vào một hệ thống hình ảnh thu hút sự chú ý của bạn đến một số vấn đề, sau đó là neo lại suy nghĩ của bạn qua suốt chiều dài tác phẩm. Hãy bắt đầu với một vấn đề: nước. Trong nhiều nền văn hóa nước thể hiện sự kết hợp của thay đổi và phì nhiêu. Chú ý là cuốn tiểu thuyết mở đầu ở bên sông. Cái gì làm cho tác phẩm gắn với nước? Phải để mắt tới điều này!

Đất đai. Hãy nhớ lại đất đai có vai trò trung tâm thế nào đối với xã hội Việt Nam, từ việc sống đời bằng nông nghiệp đến kinh nghiệm dùng núi rừng làm căn cứ địa. Điều gì đã xảy đến với đất đai Việt Nam trong cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh? Có nhiều câu trả lời.

Tôn giáo. Cuốn tiểu thuyết đề cập nhẹ nhàng đến các vấn đề tôn giáo. Cảnh tượng bàn thờ lặp đi lặp lại gợi cho bạn là độc giả nghĩ tới điều gì khi chúng hiện ra? Tên gọi cuốn tiểu thuyết lặp lại ít nhất bảy lần (ở các trang 25, 87, 94, 126, 173, 192, 232 bản tiếng Anh) có gợi nên một sự phê phán mang tính chất Phật giáo đối với bạn không?

Phong cách. Mặc dù cuốn tiểu thuyết ở đây là bản dịch, nhưng từ ngữ tiếng Anh vẫn giữ được những chiến lược phong cách nhất định. Các nhân vật sử dụng những từ ngữ khác nhau để diễn tả thái độ của họ đối với cái chết. So sánh những nhận xét nhẹ nhàng hay thoáng qua với giọng điệu bi thương nặng nề của người kể chuyện. Dù Bảo Ninh đã cẩn thận thêm vào khá đủ các chi tiết để làm nền cho độc giả trong những cảnh ông vẽ ra, nhưng phong cách của ông vẫn thường mang tính cú pháp. Nghĩa là người đọc phải bổ khuyết những gì xảy ra mà không được nói ra, ở giữa các dòng chữ. Chẳng hạn, trong cảnh cuộc tấn công tay không của Kiên ở trang 17, văn bản không cho ta biết phản ứng của Kiên ra sao đối với thắng lợi của anh ta; dựa vào những điều ta biết về nhân vật, ta phải hình dung ra phản ứng của anh ta. Hay như trong cảnh câu truyện đau đớn và tình yêu ở các trang 53-55 ta không bao giờ đọc thấy cảm xúc của Kiên: anh ta đáp lại câu truyện rồi bày tỏ tình yêu ra sao? Chúng ta phải suy ra. Ta càng thường suy luận, các chi tiết càng hiện ra nhiều, thì cuốn tiểu thuyết càng trở nên phong phú.

Không tưởng. “Utopia” nghĩa đen là một nơi ngọt ngào, và một nơi không có. Đáng ngạc nhiên là nó thường vang lên trong văn học gắn với những cảnh lạc địa, nhiều cuốn tiểu thuyết chiến tranh thể hiện chốn không tưởng là những không gian của an lành, tốt đẹp, sung túc. Bảo Ninh đã cho thấy một số chốn không tưởng như vậy, thí dụ ở đầu trang 196 ông thể hiện sự khủng khiếp của chiến tranh đối nghịch với những gì đã mất. Cuốn tiểu thuyết cũng cho ta thấy những giấc mơ không tưởng của một số người Việt Nam, như ở trang 57; rõ ràng là tác phẩm phê phán họ.

Tác phẩm và nhà văn. Mặc dù dễ làm, nhưng đừng cho rằng người kể chuyện và nhà văn là một người. Tách bạch họ ra. Đến cuối truyện anh sẽ hiểu vì sao. Điều gì là rất quan trọng đối với quá trình viết cuốn tiểu thuyết này? Nó gợi lên điều gì?

Giảng viên cũng nêu lên ba đoạn trong NBCT mà các sinh viên phải đặc biệt chú ý.

Đoạn ở trang 18 khi Kiên đang ở chiến trường được báo tin mình được cử ra Bắc đi học trường sĩ quan lục quân. Anh không muốn đi vì “không chịu trở thành hạt giống cho những vụ mùa chiến tranh liên miên”. Anh chỉ muốn “được yên thân, chết một cách yên thân, yên với số phận con sâu cái kiến của chiến tranh”. Đoạn này người kể chuyện phác ra quan điểm của những người lính Bắc Việt đã tham chiến. Nó mang tính phê phán mạnh đến mức nào? Và ẩn dụ ác mộng nào ở đây đã tổ chức toàn bộ tác phẩm?

Đoạn ở trang 92-93, câu chuyện của nhân vật Phán kể về cái chết của anh “lính ngụy” bị thương giữa bãi chiến trường chìm ngập trong mưa. Cảnh này đồng vọng với một cảnh trong cuốn tiểu thuyết nối tiếng Phía Tây không có gì lạ của nhà văn Đức Erich Remarque. Một người lính Đức trong Thế chiến I đã đâm lê vào một người lính Pháp, và suốt đêm ở cạnh người lính bị thương và chết đó trong một cái hố. Suốt thời gian ấy thái độ của người lính Đức đối với người lính Pháp đã đi từ căm thù sang yêu thương rồi lại căm thù. Bảo Ninh đã lấy lại cảnh nổi tiếng này và biến đổi ra sao? Một nhà văn cựu binh Mỹ là Tim O’Brien cũng đã viết một cảnh tương tự trong tác phẩm “The Man I Killed”.

Đoạn  ở trang 228-233 kết thúc tác phẩm, nơi nói về kết cấu của cuốn tiểu thuyết và bình luận về nội dung của nó. Đoạn này cho thấy điều gì về bản chất của hồi ức cũng như về cuộc chiến tranh Đông Dương thứ hai?

Sau đây là cảm nhận của các giáo viên và sinh viên Mỹ về NBCT.

Carol A. Daeley (Texas) viết: “Tôi mua cuốn tiểu thuyết này từ một cậu bé ở một góc phố Hà Nội. Ngay từ những trang đầu nó đã ám ảnh tôi và khiến tôi kinh ngạc. Trước đây tôi đã có lúc dạy một chương trình về văn học Thế chiến I; NBCT lập tức gợi tôi nhớ lại Phía Tây không có gì lạ, nhưng vì cuộc chiến tranh Việt Nam đã chi phối cuộc đời tôi trong độ tuổi hai mươi nên cuốn tiểu thuyết của Bảo Ninh thậm chí còn trực tiếp hơn, vừa tàn nhẫn vừa nên thơ. Tôi quyết định, với một chút lo lắng, sẽ triển khai một chương trình văn học nhập môn về văn học chiến tranh thế kỷ XX, tập trung vào Thế chiến I và Việt Nam, lấy cuốn tiểu thuyết này làm tài liệu giảng dạy. Phong cách tự sự và trình tự thời gian của tác phẩm là khó; tôi sợ là các sinh viên sẽ mất kiên nhẫn với nó. Nhưng giờ đây tôi đã dùng nó trong bốn lớp và nó đã dễ dàng trở thành cuốn sách yêu thích của các sinh viên. Nó đặc biệt có hiệu quả khi chỉ cho họ thấy rằng “chiến tranh Việt Nam” đối với chúng tôi thì lại là “chiến tranh chống Mỹ” đối với phía “kẻ thù” và rằng không chỉ có người Mỹ mới đau khổ và chết ở đấy. Trong chừng mực nào đó, hầu hết các sinh viên khi ra trường đều biết mọi điều về cuộc chiến tranh Việt Nam nhưng chỉ là biết từ cái nhìn của người Mỹ; nhân vật Kiên đã kéo họ ra khỏi quan điểm chật hẹp ấy để nhận biết được bi kịch mà nước Việt Nam đã phải chịu đựng. Cuộc vật lộn trong mê cung hồi ức của mình làm cho Kiên trở nên con người sống thực; thực tế là một sinh viên của tôi đã nói rằng cô ấy quên mất anh ta là người Việt Nam, tôi hiểu đấy là cô sinh viên muốn nói rằng Bảo Ninh đã đạt tới một tầm phổ quát trong việc khắc họa chân dung một con người trẻ tuổi bị chiến tranh tàn phá. Đây là cuốn tiểu thuyết tôi có thể nói không hề dè dặt là tôi yêu nó, thậm chí dù là khó đọc. Nó chắc cũng sẽ nổi tiếng rộng rãi như Phía Tây không có gì lạ, mà có khi còn là cuốn tiểu thuyết xuất sắc hơn”[18].

Susan L (Birmingham): “Cuốn sách này đã tác động lớn đến tôi với tư cách một người đọc và một sinh viên học về chiến tranh Việt Nam. Cuốn sách này đã đưa lại cho tôi một cái nhìn nhân bản hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi hình dung nó đưa lại cho các độc giả khác một cái nhìn phi nhân hóa về chiến tranh. Đọc cuốn sách này là quay mặt sang phía khác của cuộc xung đột. Đọc sách này khiến tôi như trông thấy quang cảnh, ngửi thấy mùi vị và nghe thấy âm thanh của chiến tranh. Sau khi đọc sách này tôi sẽ phải kiếm thêm những tác phẩm khác cùng thể loại. NBCT là một tác phẩm rất có ý nghĩa trong tâm trí tôi. Nó là cuốn sách buồn bã xé toạc mọi hy vọng nhưng vẫn mang độc giả đến niềm mong muốn một điều gì đó nữa cho các nhân vật. Là một giáo viên lịch sử tương lai và một sinh viên nghiên cứu về thân phận con người tôi hy vọng có cơ hội chia sẻ cuốn sách này với các thế hệ sau. Phía Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ không bao giờ bị lãng quên nhưng chúng ta cũng cần phải bảo đảm rằng phía Việt Nam trong cuộc chiến tranh của Mỹ cũng không bao giờ bị quên lãng”[19].

Như vậy, NBCT đã đến nước Mỹ như một sứ giả của hòa bình. Từ một tác phẩm văn học nó đã trở thành một tư liệu lịch sử không thể thiếu cho các giới phân tích chính trị, xã hội, lịch sử và văn hóa Mỹ trong quá trình tìm hiểu và nhận thức về một giai đoạn lịch sử của nước Mỹ dính líu và can thiệp vào Việt Nam. Nó là sự bổ sung cần thiết cho dòng văn học viết về chiến tranh Việt Nam của các cựu binh Mỹ[20]. Văn học chiến tranh đã được giảng dạy trong các trường đại học Mỹ như một đề tài quan trọng. Từ đây ta hiểu vì sao NBCT lại được chú trọng phân tích như vậy. Điều này là trái ngược với giáo dục ở Việt Nam. NBCT chưa hề được đưa vào giảng dạy trong nhà trường, ngay ở bậc đại học. Khi mà trong xã hội tác phẩm xuất sắc này vẫn còn bị những nghi ngại và phê phán, thì việc giảng dạy nó quả là một điều “không tưởng”. Nhưng ngay cả đặt nó trong một chuyên đề giảng dạy về văn học chiến tranh Việt Nam, bao gồm tác phẩm cả của các nhà văn trong nước và các nhà văn nước ngoài, đặc biệt là Mỹ, để phân tích, đối chiếu kỹ lưỡng, thì theo chỗ tôi biết một chuyên đề như thế cũng chưa hề có trong chương trình văn của các đại học. Mà đấy lại là một chuyên đề quan trọng, cần thiết và hữu ích, không thể không có, chung cho sinh viên các ngành khoa học xã hội và nhân văn nói chung, và riêng cho các ngành văn khoa và Việt Nam học. Người Mỹ đã hiểu thêm người Việt Nam, cuộc chiến Việt Nam, lịch sử và văn hóa Việt Nam qua NBCT (cùng một số tác phẩm khác của các nhà văn Việt Nam khác) thì người Việt Nam càng cần phải đọc NBCT trong tương quan với tác phẩm của các nhà văn cựu binh Mỹ để hiểu thêm về đất nước mình, cuộc chiến của mình, cũng như hiểu sâu, hiểu rõ hơn phía bên kia. Đó là một trách nhiệm lịch sử. Đó còn là một sự thúc đẩy cho mối quan hệ của hai nước Việt Nam và Mỹ ở một thời kỳ lịch sử mới nói chung, và nói riêng là cho sự phát triển của ngành Hoa Kỳ học ở Việt Nam.

Hà Nội, những ngày lụt lịch sử (11.2008)

Phạm Xuân Nguyên

(In trong Nhà văn như Thị Nở. Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Hn, 2014)

Nguồn: Văn hóa Nghệ Anngày 18.7.2016.



[1] Nguyên Ngọc, “Cuốn tiểu thuyết về một cuốn tiểu thuyết”, tạp chí Cửa Việt, Hội văn học nghệ thuật Quảng Trị, số 7 (4/1991), tr. 68-72.

[2] Đỗ Văn Khang, “Nghĩ gì khi đọc tiểu thuyết Thân phận của tình yêu”, báo Văn Nghệ, Hội Nhà Văn Việt Nam, số 43 (26/10/1991).

[3] Bảo Ninh, Nỗi buồn chiến tranh (tái bản), Nxb Hội Nhà Văn, H. 2005. Các số trang trích dẫn lấy theo bản này. “As time passed, those dead breathes become deep-rooted in Kien’s mind, mixed into his consciousness, became shadow of his soul. Over a long period of time, in his memory, numerous beloved dead souls silently and gloomily dragged into his life the sorrow of war” (Translated by Phan Thanh Hao, Vo Bang Thanh with Katerina A. Peirce).

[4] “And both he and I, like the other ordinary soldiers of the American-Vietnamese war, had shared one fate. We’s shared all the vicissitudes, the defeats and victories, the happiness and suffering, the losses and gains. But each of us had been smashed by the war in a different way. Each of us carried in our heart a separate war which in many ways was totally different, despite our common fighting. We had different memories of people we’d known and of the war time, and we had had different destinies during the postwar time. It was possible to say that our similarity to each other stemmed from the fact that we all had paintful difficult destinies following the war” (Translated by Phan Thanh Hao, Vo Bang Thanh with Katerina A. Peirce).

[5] "An unputdownable novel. This book should be required reading for anyone in American politics or policy-making. It should win the Pulitzer Prize, but it won't. It's too gripping for that." (www.amazon.com).

[6] "make[s] North Vietnamese soldiers human" - it "finally put[s] an acceptable human face on a group of people long without one."

[7] “We never really considered these people to be human until Bao Ninh, Vietnamese and presumably human, told us so.”

[8] It "vaults over all the American fiction that came out of the Vietnam War."

[9]“I read this book with hesitation, but after the first page I was hooked. As a Marine SSgt.,I fought against this enemy in 68 and 69 and was there in Saigon when he took over in 75. I found myself feeling sorry for the soldiers of the North, and somewhat ashamed of having caused some of the sorrows he wrote about. This book is a must for all vietnam Veterans. You'll see the enemy was just like us in every way.”

[10]“It's an astonishingly honest and brutal depiction of the tragedy of a North Vietnam soldier desensitized to his own humanity after ten years at war. It's about time that the world woke up to the universal suffering of soldiers on all sides of a conflict, and this book ought to be required reading for anyone considering a "career" in the military. I especially recommend it to my fellow Vietnam veterans; Bao Ninh truly is our "brother in arms", regardless of the fact that he was on the other side. Highly recommended.” (www.amazon.com).

[11] “War stories aren't always about war, per se. They aren't about bombs and bullets and military maneuvers. They aren't about tactics, they aren't about foxholes and canteens. A war story, like any good story, is finally about the human heart.”

[12] “Western culture does not regularly portray women as defenders of their homes and warriors for their country. As a woman and as a woman who was a soldier I felt a connection to the women in this story. No one ever told them they could not fight and die for their country. I admired them. I saw the way they were portrayed and realized that in my American culture I would probably never see such heroism. Most of the heroines in this novel were either killed or were raped and yet they were still allowed to be those heroines. I see this as a large difference between The Sorrow of War and American made movies and books. Reading this book has added a new dimension to the Vietnam War for me. I am glad I had the opportunity to see the many sides of the issue.” (www.amazon.com).

[13]“I realize and respect the fact that other cultures view the non-physical world in different ways. This aspect of the story gave it an unrealistic twist for me. Spirits and ghost are not an everyday part of my world and my culture so it was hard for me identify with this aspect of Kien's humanity. I respected his outlook about ghosts and spirits but did not connect with the realization of them. They are not real to me so that brought an unrealistic aspect to the story.” (www.amazon.com)

[14] Marc Levy, “An Interview with Bao Ninh”, (www.vvaw.org).

[15]“To fully enumerate the qualities of this book would be impossible here. As far as Vietnam literature is concerned, this book out-classes all other works in the field. As far as all war literature is concerned, only "All's Quiet on the Western Front" can even compare. Bao Ninh has produced a hauntingly beautiful eulogy to innocence lost in the maelstrom of war. Youth, love and art are all tenderly portrayed in the hard light of that ultimate metaphor for life, war. Supporting the book's incomparable handling of its subject is the author's superb prose. The book is written in a poetic, yet terse, style that is a model of economy. Every line of this relatively short novel is laden with aesthetic beauty and spiritual depth. The book abounds with insights about Vietnam as well as about the human spirit. It is a reading experience not to be missed.”

[16] “Our goals are to become familiar with the processes of close and intertextual reading, with different modes of analytical thought, and with the practice of translating reading and thinking into writing. We will read about the American War in Viet Nam as experienced and given literary form by those who fought it, reported it, or otherwise felt its immediate effects in their lives—combat veterans, nurses, journalists, etc. By reading various genres including memoirs, essays, novels, short stories, and poetry and by responding to this writing, we will study how any experience is multitudinous and how genres manipulate experience in different ways.”

[17]“This recent novel has been well received by critics in the American and international press. Your task in your review is to react to the story and the author as writer in the context of our course. The review should be no more than three typed pages in length. It should not consist primarily of a summary of the novel, although you should be able to handle details of the plot, story, and characters accurately in both your review and in the class discussion. Consider the following questions as you read the novel, and respond to them as you write your review. Does Bao Ninh offer a realistic picture of the war's impact upon the individual soldier? What is the impact of the novel upon you as a student of the Vietnam War? Explain to what extent the author's own war experiences seem to be reflected in the novel. Is the historical base for the novel easily discoverable? Use examples. In addition, your review should feature your own reactions to the author, his story, his characters, and major themes in the novel. You should evaluate Bao Ninh as a writer, relate his book to other readings and relevant class topics as appropriate, and attempt to explain why this book was so controversial when it first appeared in the Socialist Republic of Vietnam. Because of the restrictions on the length of your review, you are not required to utilize the comments of earlier reviewers of this work. Your review should be your own work and should not reflect the judgments of other readers.” (www.amazon.com)

[18] “I bought this novel from a little boy on a Hanoi street corner. From the first page, it haunted and astonished me. In the past, I have sometimes taught a course on the literature of WWI; "Sorrow of War" immediately reminded me of "All Quiet on the Western Front," but because the Vietnam War dominated my life in my 20s, Bao Ninh's novel was even more brutally, poetically immediate. I decided, with some trepidation, to develop an introductory literature course in 20th-century war literature, concentrating on WWI and Vietnam, and using this novel. The narrative style and chronology are difficult; I feared students would lose patience with it. But I've now used it in four classes and it has been, hands down, the favorite of my students. It has been especially effective in showing them that the "Vietnam War" for us was the "American War" for our "enemy," and that not only Americans suffered and died there. To the extent that most students coming out of high school know anything at all about the Vietnam War, they know it from an American point of view only; Kien blows them out of that closed viewpoint into an awareness of the tragedy Vietnam suffered. Getting caught up in the labyrinth of his memories makes him a real presence; in fact, one of my students commented that she kept forgetting he was Vietnamese, which is I suppose one way of saying that Bao Ninh has caught something universal in his portrayal of that destroyed young man. This is a novel about which I can say, with no reservation, that I love it, even though it is painful to read. It deserves to be as widely known as "All Quiet on the Western Front"; it is an even better novel.” (www.amazon.com)

[19] “This book had a huge impact on me as a reader and as a student of the Vietnam War. This book gave me a more human look at the Vietnam War. I imagine that it gave other readers a dehumanizing look at the war. Reading this book put a face on the other side of the conflict. Reading this book made sights, smells and sounds about war come alive for me. After reading this book I have sought other works in the same genre. The Sorrow of War is a hugely significant work in my mind. It is a depressing book that rips away any hope and yet it still brings the reader forward hoping for something more for the characters. As a future teacher of history and a student of the human condition I hope for an opportunity to be able to share this book with further generations. The American side of the Vietnam War will never be forgotten but we need to make sure that the Vietnamese side of the American War is also never forgotten.”

[20] Xem: Susan Farrell (Department of English, College of Charleston), “The Literature of the Vietnam War”. Bản dịch tiếng Việt của tôi đăng báo Thể thao & Văn hóa cuối tuần (12/9/2008).

 

Có thể nói ngành Việt Nam học tại Hàn Quốc bắt đầu từ việc thành lập khoa tiếng Việt của ĐH Ngoại ngữ Hankuk vào năm 1967.

Tôi trở thành sinh viên khoa tiếng Việt của trường này năm 1984, khi 27 tuổi. Thời điểm đó, nguyện vọng một của tôi là tiếng Indonesia và nguyện vọng hai là tiếng Việt. Cuối cùng tôi được vào khoa tiếng Việt, từ đó bắt đầu mối nhân duyên giữa tôi với con người và đất nước Việt Nam.

 
Giáo sư Yang Soo Bae trên giảng đường (Ảnh: NVCC) 

Sau khi ra trường vào tháng 2-1988, tôi làm việc cho một công ty xuất nhập khẩu với Việt Nam. Tôi làm việc ở đây được 2 năm 4 tháng, và hơn một nửa thời gian này sống ở Việt Nam. 

Hơn hai năm làm việc ở Việt Nam, tôi thấy mình không biết mấy về con người và văn hóa Việt Nam. Đó là lý do tôi quyết định tiếp tục học và nghiên cứu về Việt Nam, theo học chương trình sau ĐH tại khoa ngữ văn Trường ĐH Sư phạm Hà Nội.

Lúc đầu, tôi định sẽ du học tại Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM, nhưng lúc đó trường này không thể nhận sinh viên nước ngoài đến từ một nước tư bản, vì vậy tôi đã ra Hà Nội học.

Xin kể lại một chút về việc du học ở Việt Nam.

Tôi không chỉ gặp khó khăn khi đăng ký vào một ĐH Việt Nam, mà còn gặp khó ngay tại quê hương tôi, Hàn Quốc. Do hai quốc gia lúc bấy giờ chưa lập quan hệ ngoại giao, tôi cần phải được Chính phủ Hàn Quốc đồng ý.

Thời điểm đó, phóng viên một tuần báo, người biết khá rõ tình hình của tôi, đã viết một bài tựa đề “Du học sinh đầu tiên ở đất nước cộng sản Việt Nam”, trong đó có đoạn: “Anh Yang Soo Bae, một lần nữa, đang phải vật lộn với những thủ tục ngay từ ngưỡng cửa cơ quan nhà nước”. Giờ nghĩ lại, đó là một kỷ niệm thú vị và không dễ hình dung, nhưng không phải là không có chút đắng cay.

 20210522 3
 Bài báo năm xưa nói về hành trình theo đuổi Việt Nam học của Yang Soo Bae

Tôi nhận bằng thạc sĩ năm 1994, và từ tháng 3-1995 bắt đầu giảng dạy cho sinh viên khoa tiếng Việt của ĐH Ngoại ngữ Busan.

Khoa tiếng Việt tại ĐH Ngoại ngữ Busan thành lập năm 1991, hằng năm lúc đó có 40 sinh viên theo học, đến nay vừa tròn 30 năm. Hiện có hơn 200 sinh viên khoa tiếng Việt đã tốt nghiệp đang làm việc tại Việt Nam. 

Trường ĐH Ngoại ngữ Busan đã mở thêm khoa giáo dục tiếng Việt trong khoa sư phạm sau đại học vào năm 2016, với 14 học viên. Ngoài ra, từ năm 2020, phân khoa cao học dịch thuật tiếng Việt được thành lập, hiện có 12 học viên. 

Các trường khác phải kể tên là ĐH Ngoại ngữ Hankuk - khoa tiếng Việt của trường này là nơi đã đào tạo ra nhiều chuyên gia giỏi về Việt Nam tại Hàn Quốc với bề dày truyền thống gần 60 năm.

Năm 1994, chuyên ngành tiếng Việt được mở tại ĐH Youngsan, năm 1998 ở ĐH Cheongwoon, và ở ĐH Dankuk năm 2021. Ngoài ra, nhiều trường ĐH khác cũng mở và giảng dạy môn tiếng Việt như một môn đại cương.

 
 Trường Đại học Ngoại ngữ Busan (Ảnh: GS Yang Soo Bea cung cấp)

 Việc nghiên cứu Việt Nam tại Hàn Quốc phát triển nhanh chóng về số lượng và chất lượng kể từ khi có quan hệ ngoại giao năm 1992. Điều này là do sự quan tâm đến Việt Nam tăng lên đáng kể theo sự gia tăng quan hệ song phương. 

Trong lĩnh vực nghiên cứu, các nhà nghiên cứu chủ yếu quan tâm đến các vấn đề chính trị và kinh tế ngay sau khi có quan hệ ngoại giao, nhưng kể từ đó, họ đã đa dạng hóa sang các lĩnh vực khoa học cổ điển, y học và khoa học tự nhiên.

Trong số các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ nộp cho các ĐH Hàn Quốc, số lượng luận án liên quan đến Việt Nam tiếp tục tăng. Hệ thống đối tượng nghiên cứu của luận án ban đầu tập trung vào các vấn đề chính trị và kinh tế, nhưng từ cuối những năm 2000, nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, quản lý và xã hội ngày càng tăng. Khi Việt Nam tiến triển cải cách, các công ty Hàn Quốc đầu tư vào nhiều hơn, nghiên cứu về Việt Nam cũng tăng theo.

Khi vào cơ sở dữ liệu của các tạp chí học thuật trong nước và tìm kiếm từ khóa “Việt Nam”, sẽ tìm thấy hơn 6.000 kết quả. Từ 40 - 60 bài báo mỗi năm trong những năm 2000 đã tăng lên 70 bài vào năm 2007 và hơn 100 bài báo mỗi năm trong các năm 2010-2011. 450 bài báo đã được xuất bản trong năm 2017, và hơn 500 bài báo đã được xuất bản hàng năm kể từ năm 2018. 

Về nội dung, có 1.100 bài về khoa học xã hội, 280 bài về lịch sử, 245 bài về công nghệ, 171 bài về văn chương và hơn 100 bài cho các lĩnh vực khác. 

Trước đây, nhiều nghiên cứu về Việt Nam chỉ tập trung vào các chủ đề liên quan đến kinh tế, nhưng trong những năm gần đây đã có rất nhiều nghiên cứu mở rộng về các chủ đề khác như quản lý, văn hóa, xã hội, nghệ thuật. Điều này cho thấy sự quan tâm đến Việt Nam ngày càng tăng trong các lĩnh vực khác nhau. Các nghiên cứu về Việt Nam tăng lên một cách nhanh chóng và đa dạng như thế là bằng chứng cho thấy ngành Việt Nam học ở Hàn Quốc đang là một vùng rất “nóng”.■

Yang Soo Bae

* Giáo sư, tiến sĩ, Trưởng Khoa Tiếng Việt, ĐH Ngoại ngữ Busan, Hàn Quốc.

Thương mại giữa Hàn Quốc và Việt Nam chiếm gần một nửa (48%) tổng kim ngạch thương mại của Hàn Quốc với ASEAN, và số công ty Hàn Quốc đầu tư tại Việt Nam hiện là gần 8.000. 

Hơn 200.000 người Hàn Quốc đang sống ở Việt Nam và hơn 220.000 người Việt Nam sống ở Hàn Quốc. Hiện là lúc rất cần nỗ lực tìm hiểu văn hóa của nhau và thúc đẩy sự hiểu biết giữa nhân dân hai nước thông qua giao lưu nhân dân cũng như quan hệ chính phủ.

Một nhà hàng Hàn Quốc ở quận 7, TP.HCM. Quan hệ kinh tế mạnh mẽ giữa hai nước đã thúc đẩy nghiên cứu Việt Nam học tại Hàn Quốc. Ảnh: NP

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 03.5.2021.

Khác với những quan sát thiên nhiên cảnh quan ít nhiều nhàn nhã thư thái, ghi chép, mô tả và định hình về phong tục tập quán An Nam đòi hỏi lữ khách phải dấn thân thực sự. Không thể nắm bắt, cắt nghĩa được các phong tục An Nam vốn dĩ như “ma trận” nếu không có thời gian trải nghiệm dài lâu, không tận tâm lắng nghe người dân bản xứ giải thích, không tỉ mỉ tham khảo, đối chiếu tư liệu.

Nhưng như khách bộ hành trên con đường thiên lý gian khó, một khi đã bước qua được cánh cửa phong tục, họ sẽ trở thành người trong cuộc, chính ở nơi đây và ngay lúc này, với hành trang tri thức sâu dày và con mắt tinh tường ít ai bì kịp.

1. Có thể nói, các lữ khách, học giả Pháp đã dành cho phong tục tập quán An Nam một thái độ làm việc nghiêm túc và kiên trì. Một mặt, trước hết, họ không muốn bị cớm bóng bởi các Nho sĩ uyên bác bản địa vốn có nhiều lợi thế hơn khi xử lí, diễn giải các mảnh ghép văn hóa truyền thống.

Mặt khác, tâm lí e ngại thường xuyên bị người dân sở tại “dắt mũi” khiến họ nhanh chóng bám sát thực địa để thâu nhận càng kĩ lưỡng càng tốt những thói quen, tập tục sinh hoạt thường ngày trên mảnh đất xa lạ mà họ đang sinh tồn theo đúng nghĩa đen.

20200509

Charles Gosselin, một trong những người tiên phong và có thành tựu trong tiếp xúc, tiếp nhận đời sống văn hóa xã hội An Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đã thổ lộ chân thành trong cuốn Vương quốc Annam (L’empire d’Annam, 1904): “Sở dĩ tôi viết cuốn sách này là do bị thôi thúc bởi một ước muốn duy nhất là có thể cung cấp cho tất cả những ai hiếu kì muốn hiểu biết một tổng thể những thông tin chỉ dẫn trung thực về đế quốc An Nam, như nó đã từng tồn tại trong ngày hôm qua và nó đang tồn tại như chúng ta thấy được trong ngày hôm nay”.

Ước muốn có phần tham vọng đó của Gosselin, thực ra, cũng là mục tiêu chung của nhiều người Pháp, kéo dài vài thập niên và thú vị thay, đã kích thích một sự đối thoại lẫn tham chiếu từ chính những học giả An Nam xuất chúng.

Để công bằng hơn, cũng phải nói rằng, nhận biết về phong tục An Nam đã đem lại cho người Pháp những chân trời cảm xúc và kiến thức mới mà bản thân họ, do bị chi phối bởi tư duy “Châu Âu trung tâm”, “da trắng văn minh”, đã không thể lường trước đầy đủ.

Tính chất phong phú và riêng khác của văn hóa, tập quán thuộc địa khiến các nhà “thực dân chủ nghĩa” không chỉ phải thay đổi cái nhìn miệt thị mà dần trở nên thiện cảm, thậm chí là yêu mến với quốc gia bị coi là lạc hậu, thấp kém hơn họ về mọi mặt.

Có thể thấy khá nhiều thân danh đã gắn bó lâu dài và là những chuyên gia trong mô tả, phân loại và diễn giải hệ thống tập quán, tôn giáo tín ngưỡng An Nam như E. Luro, E. Diguet, J. Silvestre, E. Langlet, G. Dumoutier, P. Giran, P. Mus, L. Cadière, J. Przyluski...

Đi từ phong tục tập quán sang tôn giáo tín ngưỡng, với họ là những bước tiến tràn đầy say mê khám phá và ít khi thỏa mãn với kết quả của người đi trước. Vì thế, giữa các tác giả lại có sự bổ sung tiểu tiết hoặc vươn đến tầm phổ quát, trong đó, hàng chục tiểu luận của L. Cadière hay của G. Dumoutier, cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị khoa học và tham chiếu.  

So với giới Nho sĩ bản địa ít có điều kiện đi thực tế, họ có lợi thế dịch chuyển nhiều nơi nhờ công việc hành chính hoặc chuyên môn, đặc biệt là thao tác khoa học hiện đại để cấu trúc hóa mạng lưới phong tục tập quán dày đặc.

Chẳng hạn, trong Tiểu luận về dân Bắc kỳ (1908), tuy theo hướng liệt kê chi tiết nhưng G. Dumoutier đã chủ ý qui các tập tục, thói quen sinh hoạt theo các nội dung lớn như “Xã hội”, “Gia đình”, “Trò chơi, thói quen, nghề nghiệp”, “Mê tín”...; trong Vùng đất An Nam (1897), E. Luro đã dành một số chương cuối để bàn về “Thờ cúng tổ tiên”, “Gia đình”, “Luật lệ xã hội”; trong Bắc Kỳ tạp lục (1903), H. Souvignet đặt ra một số chương đáng chú ý như “Tín ngưỡng đa thần ở An Nam”, “Tang lễ”, “Hôn nhân”...; Nhờ thao tác sắp xếp, cấu trúc mà các mảnh ghép phong tục, tín ngưỡng không bị hỗn loạn, ngược lại, như các mắt lưới đan xen gối tiếp, chúng hiện lên rất dễ nắm bắt. Và với độc giả Pháp thời đó, cách làm này chắc chắn giúp họ dễ hình dung những điểm tương đồng hay khác biệt giữa tập quán của nước Pháp và của An Nam.

2.  Nhưng sự tinh tế trong cái nhìn phong tục tập quán đôi khi còn nằm ở những phát hiện tuy nhỏ song sáng giá cùng một lối bình luận dí dỏm mà sâu sắc.

E. Diguet phát hiện ra “trưởng tộc là vị quan tòa hòa giải hợp pháp của mọi tranh cãi có thể xảy ra giữa các thành viên gia tộc”; E. Luro thì nhận thấy “dưới chế độ phụ quyền, tất cả những gì con cái họ làm ra, hoặc bằng lao động hoặc bằng tài nghệ, hoặc do vợ của họ mang về, hoặc do sự hào phóng của những người khác, tất cả đều thuộc về người cha, vị chúa tể của ngôi nhà”; J. Silvestre lại ngạc nhiên vì các nghi lễ cúng giỗ liên miên đã làm cho một số gia đình “bị khuynh gia bại sản trong chi tiêu cho việc mồ mả, cúng tế”; H. Souvignet thì bàng hoàng vì “tín ngưỡng đa thần ở An Nam tạo thành một tổng thể những kiểu thờ cúng rất đa dạng [...] tạo thành một bức tranh ghép tôn giáo độc đáo nhất”; P. Giran lại nắm rõ quan niệm vạn vật hữu linh của người dân, bởi với họ, “bầu trời, các vì sao, mặt đất, mưa, gió, sấm chớp, núi non, cây cối, tất cả ở một mức độ nào đó đã bị đồng hóa thành những sinh linh”...

Có nhiều tập tục liên quan đến chu kì vòng đời (sinh nở, trưởng thành, hôn nhân, tang ma) rất nhiêu khê phức tạp nhưng cũng được các nhà khảo cứu tường thuật cụ thể. Chẳng hạn, về tục “gọi rể”, G. Dumoutier cho biết: nếu gia đình nhà gái không có con trai nối dõi thì sẽ cho chàng rể tới và trong trường hợp đó, chàng rể được gọi bằng cái tên đẹp đẽ là “cục thịt thừa”; về nghi thức đưa tang, ông cũng có những cận cảnh: con trai cả phải bước giật lùi phía trước linh dư, lưng cúi gập, tay tì vào một cái gậy tre “đầu trên cao ngang ngực, phải tròn như trời, trong khi đầu dưới phải vuông như đất”, chiếc gậy của người con gái lớn dẫn đường đám tang bà mẹ hình dáng cũng như vậy nhưng làm bằng “gỗ vông”... Ngoài ra, các tập tục liên quan đến làng xã, hương đảng, một tập hợp những khế ước bất thành văn trải khắp các không gian sống và sinh hoạt cũng đã được nhận diện với độ chính xác khá cao. Đơn cử, về tục trọng lão, P. Ory viết: “Để tỏ lòng kính trọng người lớn tuổi, những cư dân từ sáu mươi tuổi trở lên, ở mọi cảnh ngộ và có lối sống tốt đẹp, đều được xếp vào hạng vai vế”.

Trên thực tế, khá nhiều tập tục truyền thống của An Nam trong tư liệu Pháp mô tả ngày nay không còn hoặc đã được lược giản, biến đổi. Nhưng vẫn còn đấy một số tập quán đã hằn sâu vào văn hóa, trở thành giá trị dân tộc. Chẳng hạn tục thờ tổ tiên của người An Nam từng được L. Cadière bàn luận và hẳn mang đến cho ông nhiều cảm xúc.

Theo vị linh mục này, gia đình của người An Nam không chỉ bao gồm người sống “mà cả những người chết”, “gia đình trở thành cả một ngôi đền”. Các mối liên hệ khi còn sống, vì thế, “không bị tháo gỡ vì cái chết”, ngược lại chúng “được thần thánh hóa trở thành kiên vững hơn và trường cửu”. Tục thờ tổ tiên được cả L. Cadière và E. Diguet coi là “tôn giáo bản địa” (religion domestique).

Tính chất mờ nhòe ranh giới giữa tập tục và nghi thức tín ngưỡng, tôn giáo trong đời sống An Nam, không nghi ngờ gì nữa, là điều làm cho các lữ khách có cảm giác như đi vào một đại lộ mênh mông với vô số qui ước vừa cần tuân thủ triệt để vừa mềm dẻo, linh hoạt châm chước nhất định.

Các lữ khách, rút cuộc, đành phải lựa chọn thái độ “kính nhi viễn chi” cùng lưu ý rằng, chớ vội vàng tự mãn đã thấu hiểu hoàn toàn, bởi “những người An Nam đã luyện hợp, mà không phải là bao giờ cũng hiểu rõ, trong lò đúc của trí thông minh chất phác và nguyên thủy của họ, những hồi tưởng của các nhà siêu hình Ấn Độ, những lễ tế vi thần học, chủ nghĩa duy vật của các nhà Đạo học, những quan niệm biểu tượng và triết học của những người Trung Hoa” (G. Dumoutier).

Cũng có những tập tục “quái dị” mà khía cạnh mê tín đã kịp len vào khiến chúng tồn tại dài lâu. Hầu như tập tục nào của người An Nam cũng phảng phất màu sắc mê tín, ma thuật và người dân một mực làm theo là còn vì nỗi âu lo dai dẳng về bệnh tật, nghèo đói hay chết chóc.

Các kiêng kị, cấm đoán án ngữ thế giới tinh thần người An Nam được học giả Pháp cảnh báo như là hệ quả của “ngu dốt”. Những dân tộc ngủ quên trong hi vọng hão huyền, ảo tưởng hoang đường, theo họ, sẽ có nguy cơ bị mai một.

3.  Đó cũng là quan điểm của học giả An Nam cùng thời như Phan Kế Bính, Đào Duy Anh, Nguyễn Văn Huyên, những người đã rất mực duy tân trong chính nhận thức về phong tục, văn hóa, văn minh An Nam. Vậy là, ít nhất, trên lộ trình hiện đại hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX, nhiều trí thức Pháp và Việt đều dừng lại ở phong tục tập quán, bảng chỉ dẫn quá khứ nhưng đồng thời là trọng tâm bài toán loại bớt cái dở, lưu giữ cái hay ra sao để hiện tại, tương lai nhẹ gánh mặc cảm và tự tin, mạnh mẽ tiến bước. 

Mai Anh Tuấn

Nguồn: An ninh thế giới cuối tháng, ngày 19.4.2020.

Từ ngày 8 đến 10-1 vừa qua, hội thảo “Nghiên cứu Việt Nam dưới tầm nhìn học thuật liên ngành” - do Viện Nghiên cứu Việt Nam thuộc Bộ Giáo dục Trung Quốc và Học viện Nghiên cứu lịch sử văn hóa và du lịch, đều đặt tại ĐH Sư phạm Quảng Tây, đồng tổ chức - đã diễn ra tại Quế Lâm.

“Lấy điều du học hỏi thuê,

Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang”

(Truyện Kiều, Nguyễn Du)

Hơn 60 học giả, chuyên gia từ các ĐH và viện nghiên cứu khắp Trung Quốc đã tham dự, thảo luận chủ yếu về chủ đề quan hệ Trung - Việt trong lịch sử và hiện tại. Hội thảo này nằm trong hạng mục học thuật quốc gia phục vụ đại dự án chiến lược “Nhất đới nhất lộ”, cũng là tiểu kết cho một kế hoạch mang tính bước ngoặt được khởi động từ đầu năm 2019. 

Trước đó, ngày 1-1-2019, tập san Việt Nam nghiên cứu (VNNC) số 1 được xuất bản, đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử nghiên cứu khu vực, Việt Nam học ở Trung Quốc tách ra làm một ngành độc lập với cơ quan quản lý và tập san chuyên biệt. 

20210508

Bìa tạp chí Việt Nam nghiên cứu số 1. Ảnh: amazon.com

Trước đây, nhiều bộ phận nghiên cứu Việt Nam thuộc các sở nghiên cứu Đông Nam Á ở các ĐH hoặc viện nghiên cứu. Tập san VNNC do Ty Hợp tác và giao lưu quốc tế (Bộ Giáo dục Trung Quốc) chủ trì, giao cho ĐH Sư phạm Quảng Tây thực hiện. 

Hội đồng và ban biên tập quy tụ các học giả hàng đầu trong nước và cả quốc tế, như 2 chuyên gia Đinh Khắc Thuân (Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Việt Nam) và giáo sư Tôn Lai Thần (ĐH California, Fullerton), hay 2 học giả thâm niên về Việt Nam học từng nghiên cứu về “lịch sử chủ quyền Nam Hải” Lương Chí Minh (ĐH Bắc Kinh) và Vu Hướng Đông (ĐH Trịnh Châu). 

Ngày 5-1, cùng sự kiện tập san VNNC ra mắt trọng thể tại ĐH Ngôn ngữ Bắc Kinh là buổi lễ ký kết hợp tác liên viện đầu tiên về Việt Nam học giữa các cơ quan gồm Bộ Giáo dục, Viện Khoa học xã hội, ĐH Bắc Kinh, Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á - ĐH Trung Sơn (Quảng Đông), Viện Nghiên cứu Việt Nam - ĐH Sư phạm Quảng Tây, ĐH Khoa học xã hội nhân văn Quảng Tây, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam - Đại học Trịnh Châu (Hà Nam), Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam - ĐH Công nghiệp Chiết Giang và Trung tâm Nghiên cứu Nam Hải - ĐH Nam Kinh.

Hơn 200 trang VNNC số đầu tiên bao gồm các bài viết đa dạng: “Quan hệ Việt - Mỹ có chiều hướng phát triển ở tầng cao”, “Tác động của Thanh phỉ ở biên giới Trung - Việt trong chiến tranh Pháp - Thanh”, “Vấn đề quản lý Hoa kiều Việt Nam trở về sau chiến tranh của Chính phủ Quốc dân (1946 - 1948)”, “Khảo sát xã hội ngư dân truyền thống ở cảng cá Vân Đồn - Bàn về hướng phát triển du lịch văn hóa nghề cá Trung - Việt”, “Ảnh hưởng của sử học Trung Quốc đối với sự phát triển của sử học An Nam thời Hậu Lê dưới góc nhìn khoa cử khảo thí”, “Khái luận về văn bia chữ Hán ở Việt Nam trước thế kỷ 10”, “Nghiên cứu gia phả người Hoa ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam”… 

Chuyên luận VNNC đến nay đã ra thêm được 2 số (tháng 1-2020 và 1-2021).

Mục lục tóm tắt VNNC có thể chưa phản ánh hết thực lực của học giới TQ, nhưng đã cho thấy định hướng nghiên cứu Việt Nam khá rõ, thể hiện sự bài bản, toàn diện, xuyên suốt quá khứ và hiện tại, có cả những vấn đề lịch sử sâu xa lẫn hiện thực rất gần.

Do những điều kiện lịch sử, giới nghiên cứu Việt Nam học ở Trung Quốc có những đặc điểm khác biệt so với phần còn lại của thế giới, với các thành tựu học thuật rất tiếc là còn chưa được tiếp cận rộng ở Việt Nam. 

Ngoài các bài viết, phải nhắc đến một vài tựa sách tiêu biểu xuất bản gần đây: Tìm hiểu văn hóa ngôn ngữ Việt Nam (Phạm Hoằng Quý, Lưu Chí Cường), Nghiên cứu vấn đề dân tộc Việt Nam đương đại và chính sách dân tộc (Đằng Thành Đạt, Trang Quốc Thổ), Nghiên cứu tình trạng sử dụng vốn Hán tự trong tiếng Việt đương đại (La Văn Thanh); có cả những công trình hợp tác với Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam như Nghiên cứu thư tịch chữ Hán Đông Á và từ điển Hán Nôm cổ Việt NamNghiên cứu chỉnh lý Văn hiến Hán Nôm Việt Nam và Hán tự Đông Á (đều của Hà Hoa Trân, Nguyễn Tuấn Cường).

Chừng 15 năm trước, một khảo sát và kiến nghị của Đường Thế Bình và Trương Khiết trên tạp chí Nghiên cứu Nam Á - Đông Nam Á từng nêu rõ hai yếu kém then chốt của giới học giả Trung Quốc lĩnh vực này là thiếu thâm nhập thực tế xã hội và không am tường ngôn ngữ của quốc gia đối tượng. 

Đến nay, những rào cản đó đang được chinh phục, điều vốn càng thuận lợi với giới nghiên cứu Trung Quốc do Việt Nam từng là một nước đồng văn suốt nhiều thế kỷ.

Việc nghiên cứu sâu sát nguồn tư liệu Hán Nôm Việt Nam và dùng nó đối chiếu hoặc phối hợp với sử liệu Trung Quốc đã từng bước cho ra những kết quả mới. 

Chẳng hạn trong đề tài lịch sử quan hệ giữa các chính quyền Trung - Việt, gần đây một số học giả Trung Quốc đọc nhiều sách Hán Nôm Việt Nam phát hiện ra trong giới trí thức người Việt có xu hướng tránh cách dùng từ đặt Việt Nam ở thế yếu, mà gọi mối quan hệ song phương là “bang giao”, tức coi đó là một sự bình đẳng. 

Mặt khác, dù nhiều sử liệu Việt nói đến việc triều cống và thỉnh phong nhưng hầu hết đều chỉ là động thái giả vờ.

Cá nhân tôi thấy rằng việc nghiên cứu Việt Nam từ góc nhìn Trung Quốc có mấy điểm nổi bật:

Về lịch sử, ngoài việc tập hợp, hiệu khám, nghiên cứu văn bản như vẫn làm trước giờ, gần đây giới học thuật còn chú ý đến hình thái thượng tầng, với sử cũ chữ Hán lẫn sử mới chữ quốc ngữ.

Về sử liệu, việc khai thác nhanh nguồn tư liệu chữ Hán Nôm và văn khắc Hán Nôm Việt Nam, bao gồm thu thập, chỉnh lý, phân chuyên đề, xuất bản, rất sôi động. Trong việc này, giới nghiên cứu Trung Quốc có chú trọng đến nguồn lực là chuyên gia Việt Nam.

Về chính trị ngoại giao, chú trọng lịch sử quan hệ chính quyền.

Về văn hóa, ngôn ngữ, thông qua tư liệu sử Việt và thực tiễn xã hội, nhiều nghiên cứu chuyên sâu về tâm lý và tính cách dân tộc, các loại hình văn hóa dân gian, sự tương quan và tiếp biến phong tục tín ngưỡng, chú trọng điền dã và tiếng Việt hiện đại hơn.

Về xã hội, nghiên cứu nhiều mặt về xã hội cổ đại và hiện đại, xã hội Hoa kiều ở Việt Nam cổ đại và hiện đại, bộ phận Việt kiều ở Trung Quốc.

Về kinh tế, gắn với mục tiêu chiến lược “Nhất đới nhất lộ”.

Trong buổi ra mắt tạp chí VNNC, chủ biên Lâm Xuân Dật, phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm Quảng Tây, có nêu một ý mà các báo đưa tin thường trích dẫn rằng “hiểu nhiều để mà biết rõ”. 

Còn GS Lương Chí Minh (ĐH Bắc Kinh) nói “phải tập trung nghiên cứu các tác phẩm Việt Nam, vận động người nước ta nghiên cứu Việt Nam, góp phần đẩy nhanh chiến lược Con đường tơ lụa trên biển”.

Đằng sau lời giáo sư Lâm e không phải là hướng tới sự hiểu và biết trong phạm vi nghiên cứu học thuật đơn thuần. ■ 

“Thế giới ít biết tới quan điểm học giả người Việt”

Trao đổi với PGS.TS Đoàn Lê Giang, trưởng khoa Việt Nam học Trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn TP.HCM.

Hiện trạng ngành Việt Nam học ở chính Việt Nam giờ ra sao, những ai sẽ quan tâm theo đuổi ngành học này, cả người nước ngoài và Việt Nam, thưa ông?

Ngành Việt Nam học vẫn phát triển mạnh mẽ gắn liền với việc phát triển kinh tế, thương mại giữa các nước với Việt Nam cùng sự có mặt của 4 - 5 triệu người Việt ở nước ngoài. Hiện nay người Việt ở Mỹ có hơn 2 triệu người, Nhật 420.000, Hàn Quốc 220.000, Nga hơn 100.000, ở Ba Lan và Tiệp Khắc khoảng 40 - 60.000 người… Họ là một trong những cầu nối quan trọng cho quan hệ thương mại, lao động, hôn nhân…, từ đó làm gia tăng nhu cầu học tiếng Việt và tìm hiểu về Việt Nam.  

Các nhà Việt Nam học hiện nay chủ yếu là các giáo sư đại học, vừa nghiên cứu Việt Nam vừa giảng dạy các môn học về Việt Nam như lịch sử, văn học, ngôn ngữ, văn hóa, tư tưởng Việt Nam… Ở châu Âu có Anatoli Sokolov, Vladimir Kolotov (Nga), Thomas Engelbert (Đức). Ở Nhật Bản có các nhà ngữ văn học Kawaguchi Kenichi, Tomita Kenji, Imai Akio, Shimizu Masaaki, Nohira Munehiro, các nhà sử học Shiraishi Masaya, Sakurai Yumio, Tsuboi Yoshiharu…. Ở Hàn Quốc là các nhà ngữ văn học Bae Yang Soo, Jeon Hye Kyung, Ahn Koyng Hwan, các nhà sử học Song Jung Nam, Yu Insun… Ở Trung Quốc có Triệu Ngọc Lan, La Trường Sơn, Hạ Lộ, Li Tana. Ở Đài Loan có Trần Ích Nguyên, Tưởng Vi Văn, La Cảnh Văn…

Riêng ở Hoa Kỳ, việc nghiên cứu Việt Nam nở rộ, không chỉ nhiều lĩnh vực mà còn có nhiều cách tiếp cận mới, có tính gợi mở về phương pháp luận quan trọng. Đó là các nhà sử học Keith Taylor, David Marr, Alexander Woodside, John K. Whitmore, Oliver W. Wolters, William Duiker…; các nhà ngữ văn học Peter Zinoman, Nora A. Taylor, Jayne Werner…

Mối liên hệ giữa Việt Nam học và việc quảng bá lịch sử, văn hóa Việt Nam với thế giới ra sao, thưa ông? Hiện giờ đã có nỗ lực có chủ đích nào - cả của Nhà nước hoặc tư nhân - với việc đó chưa?

Việc giới thiệu quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới, được các cơ quan nhà nước thực hiện liên tục từ hàng mấy chục năm nay, càng ngày càng đa dạng. Đó là các họa báo về Việt Nam, các chương trình phát thanh, truyền hình cho cộng đồng Việt Nam ở nước ngoài bằng tiếng Việt và người nước ngoài bằng tiếng các nước sở tại, các trang web của Nhà nước và tư nhân, các chương trình dịch thuật sách, cũng có một vài tạp chí bằng tiếng nước ngoài. 

Tuy nhiên, theo tôi, hiện nay khâu yếu nhất có lẽ là các tạp chí nghiên cứu sâu về Việt Nam bằng tiếng Anh và các ngôn ngữ khác có uy tín học thuật (có chỉ số ISI, Scopus). Các tạp chí nghiên cứu về Việt Nam bằng tiếng Anh, Pháp… hiện đa số chỉ dừng ở giới thiệu nhập môn, chưa phải những tạp chí chuyên sâu của giới học thuật chuyên nghiệp. 

Vì vậy, kiến giải của học giả nước ngoài qua các tạp chí có uy tín cao vẫn tiếp tục có tiếng nói áp đảo, định hình cách nghĩ của người nước ngoài về Việt Nam, trong khi các nhà nghiên cứu Việt Nam chưa tham gia sâu rộng vào cộng đồng đó để có tiếng nói trao đổi một cách khách quan. Ngay cả những vấn đề sống còn của quốc gia như biển đảo thì tư liệu và quan điểm của học giả Việt Nam vẫn ít được biết đến, ít có dịp cọ xát với các học giả nước ngoài. Tình hình này đang bắt đầu được cải thiện, tuy rất chậm chạp và nhỏ lẻ. ■

C.Văn (thực hiện)

Phạm Hoàng Quân

Nguồn: Tuổi trẻ Cuối tuần, ngày 01.5.2021.

20200511

Kim Vân Kiều do GS Takeuchi Yonosuke (Nhật Bản) dịch     

Nguyễn Du là nhà thơ thiên tài của dân tộc Việt Nam với vị trí và tầm vóc khó có ai sánh nổi. Tên tuổi và sự nghiệp của ông được thế giới biết đến nhiều nhất trong số tất cả các nhà thơ Việt Nam, bởi một lẽ đơn giản ông là người thể hiện tài hoa nhất tính dân tộc và tâm hồn Việt. Trong số các tác phẩm  của Nguyễn Du Truyện Kiều là kiệt tác hết sức đặc biệt, vừa mang tính văn chương bác học, vừa mang tính phổ cập bình dân, vì thế được đông đảo quần chúng hơn hai thế kỷ qua nồng nhiệt đón nhận và nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu không ngừng bình luận, khám phá.

 Truyện Kiều đã vượt ra ngoài biên giới Việt Nam để đến với độc giả nhiều nước trên thế giới. Tính đến nay đã có trên 30 bản dịch Truyện Kiều ra ngót 20 thứ tiếng nước ngoài, trong đó có 13 bản tiếng Pháp, 10 bản Hán văn và Trung văn, các bản dịch tiếng Nga, Anh, Nhật, Đức, Tiệp, Hungari, Rumani, Hàn Quốc, v.v… Các học giả quốc tế đều đồng thanh ca ngợi Truyện Kiều là tác phẩm xứng đáng nhất của nền thơ cổ điển Việt Nam và Nguyễn Du là nhà thơ lớn có một không hai của dân tộc.

Năm 1964 tại Berlin, Chủ tịch đoàn Hội đồng hòa bình thế giới đã chính thức công nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới và thông qua nghị quyết kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Đây là sự kiện rất đáng tự hào cho văn hóa Việt Nam, đồng thời chứng tỏ vị thế và tầm cỡ của đại thi hào nước ta trong nền văn hóa thế giới. 

Truyện Kiều được dịch ra tiếng Pháp từ rất sớm. Tính từ bản dịch đầu tiên của Abel des Michel năm 1884 đến nay đã có tất cả 13 bản dịch khác nhau của Emond Nordenmann (1887), Nguyễn Văn Vĩnh (1913), Thu Giang (1915), René Crayssac (1926), L. Masse (1926), Nguyễn văn Vĩnh (1942), M.R (1944), Xuân Phúc và Xuân Việt (1961), Nguyễn Khắc Viện (1965), Paul Schneider (tức Xuân Phúc, 1981, hiệu đính lại 1986), Lê Cao Phan (1994), Lưu Hoài (1999). Trong đó bản dịch của Nguyễn văn Vĩnh được in đi in lại ít nhất 7 lần và được dịch giả đầu tư nhiều công sức và thời gian nhất trong vòng gần 30 năm. Con số các bản dịch và thời gian xuất bản liên tục như vậy cho thấy mối quan tâm thực sự của độc giả Pháp đối với Truyện Kiều và thi hào của chúng ta. Tuy chất lượng các bản dịch có khác nhau, nhưng chúng bổ sung cho nhau, khắc phục các nhược điểm của nhau để giúp người đọc Pháp ngữ có hình dung hoàn chỉnh nhất về Truyện Kiều.

Các học giả Pháp đều coi Truyện Kiều là tác phẩm thể hiện thần tình nhất quốc hồn, quốc tuý Việt Nam. Nhà văn, nhà thơ Pháp René Crayssac, người dịch Truyện Kiều sang Pháp văn đã thốt lên: "Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thật là một nền văn chương kiệt tác, tưởng có thể so sánh với những văn chương kiệt tác của bất cứ đời nào, nước nào cũng không thua vậy"1. Các học giả khác như Anbel des Michel, Georges Coocdier, H.Maspero, Duymuchie… cũng đánh giá rất cao văn tài Nguyễn Du. Đối với nhà văn Pháp Joocjo Budaren, Nguyễn Du "là người rất mực nhân đạo ở một thời đại ít nhân đạo" và Truyện Kiều của ông  "quả là một bản trường ca kỳ lạ, nghịch đời, hấp dẫn và hiếm có"2. Theo ông, cuốn tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc ít được phổ biến rộng rãi và hầu như không mấy ai biết đến. Nếu Nguyễn Du không dựa trên cuốn tiểu thuyết Trung Quốc ấy viết thành bản trường ca của mình, thì rất có thể chẳng còn ai nói tới cuốn tiểu thuyết đó nữa. Nhà nghiên cứu Georges Coocdier ca ngợi ngọn bút tả cảnh tài tình của Nguyễn Du, chỉ phác mấy nét bút mà vẽ nên phong cảnh đầy khí sắc và cảm tình "giống như thơ hai-ku của Nhật Bản, mà còn có phần tinh tế hơn".

 Trong văn chương Pháp, chuyện vay mượn cấu tứ, cốt truyện nước ngoài để sáng tác là hiện tượng hết sức bình thường. Molière sáng tác vở kịch Lão hà tiện lấy cốt truyện từ hài kịch Truyện cái nồi  của một nhà soạn kịch La Mã. Plot Raxiz sáng tác bi kịch lấy cấu tứ từ các truyện của Hy Lạp, Do Thái. Coocnây có vở kịch thành công nhất là lấy tích của Tây Ban Nha, truyện ngụ ngôn của La Phôngten cũng có nhiều bài bắt chước chuyện cũ của Esore… Trong văn học Pháp có vô số  điển tích và từ ngữ của cổ văn Hy Lạp, La Mã. Các nhà văn Pháp thế kỷ XVII cũng thường phóng chép cốt truyện của Ơripid, Aristophane, Edov… Nhưng không vì thế mà nền văn học Pháp bị coi là nền văn học không có quốc tính và tinh thần riêng. Khi nhận xét một tác phẩm, điều quan trọng không phải là xét xem cốt truyện ấy vay mượn của nước ngoài hay do tác giả tự hư cấu nên, mà điều quan trọng là đánh giá tác giả tái tạo nó có gì đặc sắc không, có chuyển hoá được theo tinh thần của Tổ quốc mình không. Về Truyện Kiều của Nguyễn Du, René Crayssac  kết luận: "Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thật là có cái tinh thần đặc biệt của nước Nam ở đó"3.

Truyện Kiều được đặc biệt dịch nhiều sang thơ chữ Hán và Trung văn hiện đại. Tất cả có 7 bản dịch sang thơ chữ Hán của các dịch giả Nguyễn Kiên, Lê Mạnh Điềm, Từ Nguyên Mạc, Lê Dụ, Lý Văn Hùng, Trương Cam Vũ và gần đây nhất mới phát hiện thêm một bản dịch nữa dưới dạng thơ chữ Hán, nhưng làm theo thể lục bát của cụ Thái Hanh, một Việt kiều định cư tại Úc. Có hai bản dịch sang Trung văn của các giáo sư Trung Quốc Hoàng Dật Cầu và La Trường Sơn

Trong các bản dịch Truyện Kiều sang Hán văn, bản dịch của Trương Cam Vũ, xuất bản năm 1996, được đánh giá là công phu và thành công hơn cả. Dịch giả đã chuyển 3254 câu Kiều thành 812 bài thất ngôn tứ tuyệt và một bài thất ngôn bát cú, với hình thức niêm luật chặt chẽ. Các bài thơ Đường luật của ông rất thanh thoát, giàu chất thơ và nhạc điệu mà vẫn bám sát tối đa nội dung của nguyên thi. Mỗi bài thơ dịch đều in phần chữ Hán  phiên âm và được trình bày theo hình thức song ngữ, rất tiện lợi để đối chiếu với nguyên bản. Tuy nhiên, khách quan mà nói thì khó có bản dịch nào đạt nổi giá trị nghệ thuật so với nguyên tác bản Nôm của thi hào Nguyễn Du.

Các dịch giả Truyện Kiều sang Hán văn đều là những người hiểu biết rộng và sâu,  đều đánh giá cao Nguyễn Du và các tác phẩm của ông. Dịch giả người Trung Quốc Lý Văn Hùng gọi Truyện Kiều là "Việt Nam đệ nhất văn nghệ kỳ thư" và theo ông "về lối văn hàm súc như Truyện Kiều, thi sĩ Trung Hoa nào viết giỏi lắm là tới 300 câu, đã ứa máu; thế mà cụ Nguyễn Du viết những 3254 câu, thời trong văn chương cụ quả là một bậc tiên, bậc thánh".

Câu chuyện Vương Thuý Kiều là tác phẩm khuyết danh được lưu truyền ở Trung Quốc từ thế kỷ XVI trong Kỷ tiễu Từ Hải bản mạt của Mao Khôn. Đến thế kỷ XVII, XVIII nhiều tác phẩm văn học đã lấy chuyện đó làm đề tài. Tác giả Đổng Văn Thành cho rằng có 11 tác phẩm khác nhau liên quan đến đề tài này. Tiêu biểu nhất về tản văn có Kim Vân Kiều truyện của Dư Hoài, về hý kịch có Song Thuý Viên của Hạ Bỉnh Hoành, về tiểu thuyết có Sinh báo Hoa Ngạc ân, tử tạ Từ Hải nghĩa (xem Mộng giác đạo nhân) và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. 

Theo ý kiến của hai nhà nghiên cứu Trung Quốc Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương, trong tất cả các tác phẩm ấy tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân có nội dung phong phú và hoàn chỉnh hơn cả. Nhưng bản thân hai ông cũng đưa ra ý kiến hoàn toàn khách quan rằng Truyện Kiều của Nguyễn Du ở Việt Nam được lưu truyền rộng rãi hơn, vượt xa mức độ lưu truyền của cuốn tiểu thuyết Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc. Mà sự công nhận của quần chúng bao giờ cũng là thước đo cao nhất cho thành công của tác phẩm. Đối sánh với Kim Vân Kiều truyện, hai ông nhận xét rất công bằng rằng Nguyễn Du không thuật lại nguyên vẹn, dập khuôn toàn bộ quá trình diễn biến và các tình tiết trong câu chuyện cũ, mà với khả năng nghệ thuật thiên tài ông đã sáng tạo nên một tác phẩm tuyệt mỹ và hoàn chỉnh mới bằng thể thơ lục bát, thể thơ độc đáo riêng có của dân tộc Việt Nam.

Năm 1959, GS. Hoàng Dật Cầu ở Học viện sư phạm Hoa Nam đã bỏ rất nhiều công sức để dịch Truyện Kiều sang Trung văn hiện đại. Ông làm việc với tất cả sự nghiêm túc, thận trọng và lòng nhiệt tình có thể. Tuy nhiên do trình độ tiếng Việt có hạn, do hiểu biết nguyên tác chưa được thấu đáo, như dịch giả tự nhận còn "nông cạn, kém cỏi", mà bản dịch có nhiều chỗ dịch chưa đạt, thậm chí dịch hỏng, gây ra những hiểu lầm tai hại. Những lầm lẫn này, như PGS. TS. Phạm Tú Châu đánh giá là "có quá nhiều", đã được một số nhà nghiên cứu phân tích khá đầy đủ trong các bài viết sau này. Trong khoảng ba chục năm đầu, bản dịch Truyện Kim Vân Kiều ra Trung văn bình yên lưu hành ở Trung Quốc, cho đến năm 1986 thì những dư luận trái chiều bắt đầu nổi lên sau bài viết So sánh Truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam của nhà nghiên cứu Đổng Văn Thành. Từ những chỗ bất ổn, dịch sai trong bản dịch của GS. Hoàng Dật Cầu, cũng như từ cách hiểu đánh đồng sáng tác với dịch thuật, đánh đồng hai thể loại khác nhau là thơ ca và văn xuôi, không đếm xỉa đến những đặc điểm bút pháp của chúng… đã dẫn tới những lầm lẫn tai hại trong đánh giá phê bình của nhà nghiên cứu Đổng Văn Thành. Ông thậm chí cho rằng Nguyễn Du chẳng những mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc, mà còn dường như "bê nguyên xi" và "dịch sai" cả nguyên tác. Sau này một số sinh viên, nghiên cứu sinh Trung Quốc do không có tài liệu tham khảo và không cập nhật được thông tin, khi nói về ảnh hưởng của Kim Vân Kiều truyện đối với Việt Nam cũng vẫn tham khảo dựa trên bài nghiên cứu so sánh của ông Đổng Văn Thành.

Trước tình hình đó, GS. La Trường Sơn, một học giả Trung Quốc rất gắn bó và có tình cảm sâu nặng với văn học Việt Nam, đã quyết định dịch lại Truyện Kiều sang Trung văn. Ngoài phần ngưỡng mộ và yêu thơ Nguyễn Du, ông muốn gửi đến bạn đọc Trung Quốc một bản dịch Truyện Kiều trung thực và thành công hơn bản dịch của GS. Hoàng Dật Cầu, để các nhà nghiên cứu khi so sánh với Kim Vân Kiều truyện Trung Quốc sẽ tránh được những nhận xét và kết luận sai lầm. Tuy nhiên dù là dịch giả có đủ tiêu chuẩn nhất để dịch Truyện Kiều ra Trung văn, bản dịch của GS. La Trường Sơn vẫn khó có thể sánh được với nguyên tác. Và rất tiếc là tác phẩm dịch xong vẫn chưa in được vì chưa tìm được nguồn tài trợ, vì vậy mục đích của GS. La Trường Sơn vẫn chưa được thực hiện. Năm 1994, nhà nghiên cứu Đổng Văn Thành cũng tự dịch Kim Vân Kiều truyện in trong Minh Thanh tiểu thuyết giám thưởng từ điển, song là dịch ra văn xuôi, cốt lấy nội dung là chính mà mất hết cái hay cái đẹp của thơ Nguyễn Du.

Các nhà nghiên cứu Trung Quốc đương đại gần đây đã có những nhận xét khách quan hơn về Truyện Kiều của Nguyễn Du. Nhà nghiên cứu K.C. Leung đã phát biểu "Oái ăm thay, tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân lại bị người Trung Hoa hầu như quên lãng"4. Ông phải công nhận rằng "thật thú vị khi thấy quan hệ giữa tài và nỗi bất hạnh của Kiều trong Truyện Kiều được nhấn mạnh hơn rất nhiều so với trong Kim Vân Kiều truyện" và "người ta có ấn tượng rằng nàng Kiều Việt Nam bất hạnh hơn Thuý Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân". Ông cũng thừa nhận có những khác biệt rõ ràng về ngôn ngữ, thể loại, ngữ khí, phong cách, độ dài, chi tiết miêu thuật giữa hai tác phẩm trên.

Truyện Kiều cũng được giới thiệu và nghiên cứu ở Đài Loan. Độc giả Đài Loan chỉ được làm quen với Truyện Kiều của Nguyễn Du qua bản dịch của GS. Hoàng Dật Cầu và một số nhà nghiên cứu cũng dùng lại quan điểm của ông Đổng Văn Thành. Tuy nhiên, có những nhà nghiên cứu hiểu sâu hơn về tác phẩm của Nguyễn Du đã có ý kiến hoàn toàn khác, khách quan và công bằng hơn như GS. Trần Ích Nguyên, người đã nhiều năm nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều hay TS. Trần Quang Huy, học giả Đài Loan từng du học ở Việt Nam.

Nguyễn Du và Truyện Kiều được giới thiệu và nghiên cứu khá công phu ở nước Nga. Người dịch đầu tiên tác phẩm này sang tiếng Nga là dịch giả, nhà thơ A.Steinberg5. Nhiều nhà khoa học đã dày công nghiên cứu Truyện Kiều và tác phẩm của ông, trong đó phải trân trọng nhắc đến những tên tuổi như N.I. Niculin, M.Tcachiov, T.N.Philimonova… Nhờ công sức và tâm huyết của họ, độc giả nước Nga và 14 nước cộng hoà còn lại trong khối Liên bang Xôviết cũ mới biết đến tên tuổi Nguyễn Du và nhiều tác phẩm văn học Việt Nam.

Nói chung, dưới thời Xôviết văn học Việt Nam được giới thiệu khá đầy đủ và có hệ thống ở Nga. Hầu hết các đại diện tiêu biểu của văn học Việt Nam đều được dịch ít nhiều, từ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương… cho đến các nhà văn đương đại như Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Thi, Tô Hoài, Nguyễn Văn Bổng… Tuy nhiên, bên cạnh việc chuyển tải dù sao cũng dễ dàng hơn các tác phẩm văn xuôi, việc dịch các tác phẩm thơ sang tiếng Nga là vô cùng khó. Đó là những khó khăn dường như không thể vượt qua nổi bởi sự xa cách quá lớn giữa hai hệ thống ngôn ngữ và hai niêm luật thơ. Tiếng Việt thuộc họ ngôn ngữ đơn âm, tiếng Nga thuộc họ đa âm có biến cách. Thể thơ Việt được xây dựng trên sự kết hợp các âm tiết và dấu thanh điệu, trong khi đó thể thơ Nga là kiểu thơ âm tiết - trọng âm, phản ánh tính đa âm tiết của từ vựng và sự có mặt của trọng âm. Thơ Việt Nam không thể hình dung nổi các thể thơ "iambơ", "đakchin", cũng như thơ Nga không thể hình dung nổi "lục bát". Điểm sơ qua về mặt kỹ thuật như thế để thấy rằng việc truyền đạt hình thức nguyên tác thơ sang tiếng Nga là không thể và rất nhiều cái hay cái đẹp của Truyện Kiều đã mất đi trong khi dịch. Song không riêng gì cụ Nguyễn Du của chúng ta phải chịu tổn thất ấy. Puskin, "mặt trời của thi ca Nga", người được toàn thể nhân dân Nga, từ tầng lớp quí tộc, trí thức đến công chúng bình dân, đều thuộc lòng và yêu mến, khi chuyển sang tiếng Việt cũng chỉ còn là cái bóng mờ nhạt của thiên tài. Nói chung tình trạng "bất khả dịch" là chung đối với việc dịch thơ sang các thứ tiếng đa âm.

Nói về cội nguồn đầu tiên của Truyện Kiều, GS. TSKH. Niculin cũng khẳng định Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân "không có nhiều giá trị đặc sắc về nghệ thuật và đã mấy trăm năm nay ở Trung Quốc không hề thấy tái bản"6. Trong khi đó Truyện Kiều đã trở thành sách gối đầu giường của biết bao thế hệ độc giả Việt Nam. Trong Kim Vân Kiều truyện, tác giả quá chú ý đến việc mô tả các biến cố, chồng chất quá nhiều sự kiện vụn vặt, những cảnh thô tục sặc mùi tự nhiên chủ nghĩa. Còn Truyện Kiều do Nguyễn Du sáng tạo là một tác phẩm "độc đáo lạ thường, mang đậm bản sắc dân tộc". Nguyễn Du đã tái dựng một hệ thống hình tượng có màu sắc riêng, độc đáo, được thể hiện một cách tinh tế và đầy sức truyền cảm.

Truyện Kiều được dịch sang tiếng Anh tại Sài Gòn từ năm 1963 (Dịch giả Lê Xuân Thuỷ, Nxb Khai Trí), nhưng bản dịch đầu tiên trên đất Hoa Kỳ gắn liền với những biến cố trong chính trường nước Mỹ. Sau những sự kiện của cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1968, người Mỹ bắt đầu băn khoăn tìm hiểu nguyên nhân sức mạnh và những kỳ tích của quân đội "Việt Cộng". Tạp chí The Washingtonian đã đăng một số bài viết, trong đó có bài của GS. Trần Văn Dĩnh về Kim Vân Kiều và được toà soạn đặt cho cái tên Một tài liệu ly kỳ vừa bắt được, tiết lộ tinh thần của địch. Trong những bức ảnh minh họa cho bài viết có hình Tổng thống Johnson với lời chú thích: "Giá như Tổng thống Johnson đã đọc Truyện Kiều thì chắc không phải lâm vào tình trạng rắc rối như ngày nay"7. Tạp chí số đó đã bán rất chạy và gây nhiều phản ứng trong giới chính trị. Thượng nghị sĩ Quốc hội Mỹ O.Hatfield đã kêu gọi phải chú ý đến văn hoá Việt Nam và nàng Kiều chính thức bước vào sân khấu chính trị nước Mỹ. Một số trường đại học Mỹ sau đó đã đưa Kim Vân Kiều vào chương trình giảng dạy của mình. Truyện Kiều bằng tiếng Anh được Random House, nhà xuất bản lớn nhất nước Mỹ cho ra mắt năm 1973 qua bản dịch của GS. Huỳnh Sanh Thông, giảng viên đại học Yale. Bản dịch được nhiều nhà phê bình cho là dịch đúng và hay. Năm 1983, cuốn sách được Nhà xuất bản Đại học Yale tái bản. Dưới ảnh hưởng tốt đẹp của cuốn sách, nhiều giáo sư người Mỹ và người Việt đã kiên trì đấu tranh để Truyện Kiều được dùng giảng dạy trong các môn về Việt Nam và Đông Nam Á. Ngoài ra còn có các bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh của Michael Counsell (Nxb Thế giới, 1995), Lê Cao Phan (Nxb Văn nghệ Tp. HCM, 1996).

Có hai bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Nhật. Bản dịch đầu tiên là Kim Vân Kiều của Nhà xuất bản Đông Bảo, xuất bản năm 1942. Dịch giả, nhà văn Komatsu Kiyoshi, lấy nguồn là bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp của dịch giả Nguyễn Văn Vĩnh, qua người bạn học là nhà thơ Nguyễn Giang, con trai ông Nguyễn văn Vĩnh. Do nguồn đã là bản dịch sang tiếng Pháp, nên công trình này không tránh khỏi một số nhược điểm nhất định. Bản dịch thứ hai công phu hơn, do Takeuchi Yonosuke dịch, Nhà xuất bản Kôdansha - một nhà xuất bản rất nổi tiếng của Nhật - xuất bản năm 1975. Takeuchi Yonosuke là giáo sư Trường đại học ngoại ngữ Tokyo, đã dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam như: Chinh phụ ngâm, Lục Vân Tiên, Hồn bướm mơ tiên, Đoạn tuyệt… Ông từng giảng dạy tại Sài Gòn gần 5 năm. Ông dịch xong Truyện Kiều từ 1962, nhưng chưa vừa ý, mãi đến năm 1975 mới chỉnh lý lại và cho xuất bản. Năm 1985 ông cho tái bản một bản dịch khác cô đọng hơn, mang tên Kim Vân Kiều truyện, do Daigakusorin (Đại học Thư lâm) xuất bản.

Bản dịch Truyện Kiều của giáo sư Takeuchi Yonosuke là công trình dịch thuật rất công phu, có chú giải kỹ lưỡng từng câu. Sinh viên Nhật Bản cũng như đông đảo bạn đọc quan tâm đến văn học phương Đông và văn học Việt Nam đều đánh giá cao cuốn sách này. Một lý do khiến người Nhật quan tâm tới Truyện Kiều của Nguyễn Du là do cách đây hơn 200 năm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã được dịch ở Nhật Bản với tên gọi Kim Kiều truyện (dịch giả Nishida Isoku). Cuốn sách nổi tiếng một thời, từng được nhiều nghệ sĩ dựa vào phóng tác, cải biên, đưa lên sân khấu Jôruri (tĩnh lưu ly) và Kaburi (ca vũ kỹ). Có tiếng vang nhất là tiểu thuyết phóng tác Kim Ngư truyện của nhà văn nổi tiếng cuối thời Edo Kyokutei Bakin. Vì là tiểu thuyết phóng tác nên Bakin đã thay đổi toàn bộ bối cảnh, thời đại, nhân vật Trung Hoa thành Nhật Bản. Nhưng Kim Kiều truyện và Kim Ngư truyện của Nhật Bản lại chưa phải là những thành tựu tiêu biểu của văn học Nhật Bản. Chúng chỉ dừng lại ở mức văn nghệ "nêu gương", răn đời và đạo nghĩa. Chúng là câu chuyện của một thời chứ chưa phải chuyện của muôn thuở, và điều đó giải thích số phận khác nhau của chúng so với Truyện Kiều Việt Nam.

Felich Pita Rodriget, nhà văn Cu Ba khi nói về việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Tây Ban Nha cũng nhấn mạnh đến những tổn thất mà bản dịch phải chịu khi được chuyển ngữ. Ông nói: "Đáng tiếc là sự đẹp đẽ về hình thức, những giá trị biểu hiện tinh vi, nhạc điệu diệu kỳ của một trong những ngôn ngữ nhiều chất thơ nhất, đã không còn nữa khi người ta chuyển nó qua một ngôn ngữ khác và chúng ta đành phải bằng lòng với một hình bóng rất xa với nguyên bản"8. Đánh giá về con người và sự nghiệp của Nguyễn Du, ông cho rằng một phần lớn nhờ vào thiên tài của Nguyễn Du mà văn học Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã đạt được thời hoàng kim của mình, thời kỳ rực rỡ nhất trong nền văn học cổ điển.

Năm 2004, Truyện Kiều lần đầu tiên được dịch và xuất bản ở Hàn Quốc. Tại Hàn Quốc, việc giảng dạy tiếng Việt ở cấp đại học đã bắt đầu từ năm 1967, khi Hàn Quốc có quan hệ ngoại giao với chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Tuy nhiên, sau năm 1975, quan hệ này bị gián đoạn và phải đến năm 1992 quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc với CHXHCNVN mới được nối lại. Đầu tư của Hàn Quốc vào Việt Nam ngày một tăng và sự quan tâm của người Hàn Quốc đối với Việt Nam ngày càng lớn. GS. TS. Ahn Kyong Hwan, trường Đại học Youngsan, đã dịch Truyện Kiều với tất cả niềm say mê và tâm huyết. Ông chọn thể thơ Sijo - thể thơ cổ của Hàn Quốc để dịch, mà không diễn lại bằng văn xuôi. Cuốn sách in song ngữ đẹp, trang trọng, mỗi khổ thơ tiếng Việt xen lẫn một khổ thơ tiếng Hàn, rất tiện đối sánh. Việc dịch và giới thiệu Truyện Kiều đã trở thành một sự kiện văn hoá của năm 2004 ở Hàn Quốc và tác phẩm của Nguyễn Du dần dần có một vị trí nhất định trong lòng độc giả Hàn Quốc.

Ngoài ra Truyện Kiều còn được dịch sang tiếng Tiệp Khắc (dịch giả Gustav Franck, 1958), tiếng Đức (dịch giả Franz Faber và Irène, 1964), tiếng Rumani (Nxb Pentru Literatura, 1967), tiếng Hungari (dịch giả Trương Đăng Dung, 1984)... Trong lời đề tặng bản Kiều dịch sang tiếng Đức xuất bản ở Berlin, GS. TS. Johan Dichman đã viết: "Với tác phẩm này, độc giả Đức tìm thấy một thế giới văn học mà cho tới nay họ chưa từng biết tới: trước mắt họ, thấm nhuần trong Truyện Kiều là cả một kho tàng nhân văn, đỉnh cao tuyệt vời của nền văn hoá dân tộc Việt Nam". 

Trong sự giao lưu, tiếp biến giữa các nền văn hoá, vai trò của người dịch tác phẩm văn học vô cùng to lớn. Tác phẩm được khai sinh hay khai tử ở ngôn ngữ mới phụ thuộc rất nhiều vào dịch giả. Chính các dịch giả mới là "người môi giới văn hoá" đầu tiên. Họ là người "tái sinh" hay "giết chết" tác giả ở nước ngoài, nhất là đối với việc dịch thơ. Nhưng có một nghịch lý là các dịch giả thơ tuy là những người rất am tường văn hoá, tinh thông ngoại ngữ, nhưng lại không phải là những nhà thơ. Ngược lại các nhà thơ thường rất khó nắm bắt ngoại ngữ. Nguyên tắc tối cao của dịch nghệ thuật là "lấy hồn thơ để dịch thơ". Thực tế cho thấy các bản dịch thành công nhất sang tiếng Việt là thuộc về các thi sĩ: bản dịch đặc sắc Chinh phụ ngâm của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm9đã gần như trở thành tác phẩm độc lập với nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn. Bản dịch Đợi anh về được K. Ximonov cám ơn nhà thơ Tố Hữu vì "bài thơ được sống mãi trong bản dịch tuyệt vời" của dịch giả. Hay những vần thơ tuyệt đẹp của Olga Bergons được phục sinh qua các bản dịch tài hoa của Bằng Việt… Những tác phẩm dịch bất hủ thường loé lên từ sự hội tụ hi hữu của   hai yếu tố ấy.

Tuy nhiên nếu chấp nhận tư tưởng "bất khả dịch" ("Dịch - đó là cái chết của nhận thức", "Dịch tức là diệt"), thì có nghĩa chúng ta chấp nhận sự đóng kín của các nền văn hoá, sự cô lập giữa các nền văn học. Trên thực tế dịch thuật đang ngày càng trở thành công cụ quan trọng không thể thiếu trong xu thế giao lưu và hội nhập, là cầu nối để các dân tộc ngày càng hiểu biết và đồng cảm với nhau hơn. Thế kỷ XX đã có lúc được gọi là thế kỷ của dịch thuật, và Dante, Goethe, Sakespeare, L.Tolstoi, Dostoevski, Tagore, Hemingway… không còn là báu vật riêng của mỗi dân tộc, họ đã trở thành tài sản chung của toàn nhân loại. Trong thành quả này có sự đóng góp âm thầm của các dịch giả với lao động gian truân, nhọc nhằn và ít khi được đánh giá đúng mức của họ./.

Từ Thị Loan

* Viện Văn hoá Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 04.05.2020.


Chú thích:

1 René Crayssac. Truyện Kiều và xã hội Á Đông. Nguyễn Du - về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục, 1999, tr. 990.

2 Joocjo Budaren. Nguyễn Du và Đoạn Trường Tân Thanh.Truyện Kiều - Những lời bình. Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2000, tr. 608. 

3 René Crayssac. Sách đã dẫn, tr. 994.

4 K.C. Leung. Chu trình diễn hoá của Kiều: Lại bàn về kế thừa và sáng tạo. Nghiên cứu câu chuyện Vương Thuý Kiều, Nxb Lao động - Trung tâm Văn hoá ngôn ngữ Đông Tây, 2004.

5 Những tiếng kêu xé lòngt, Moskva, 1965; Thơ cổ điển Ấn Độ, Trung Quốc, Triều Tiên, Việt Nam, Nhật Bản. Nxb Văn học nghệ thuật. Moskva, 1977.    

6 Niculin. Nguyễn Du nhà thơ nhân đạo lỗi lạc. Truyện Kiều - Những lời bình. Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2000, tr. 630.

7 Trần Văn Dĩnh. Nhân đọc Trên đỉnh Trường Sơn kể Truyện Kiều. Nxb Thanh niên, 2002.

8 Felich Pita Rodriget. Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam. In trong Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Nxb Khoa học xã hội, H., 1967.   

9 . GS. Hoàng Xuân Hãn cho là của Phan Huy Ích.

Tatyana Schepkina-Kupernik (1874 - 1952), nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia và dịch giả nổi tiếng người Nga. Thời trẻ bà từng đi du lịch nhiều nơi, năm 1902 bà đã đến thành phố Alger của Algeria, khi ấy là thuộc địa của Pháp. Tại đấy, qua sự giới thiệu của bạn bè trong giới, bà đã làm quen và kết giao với vua Hàm Nghi, khi đó đang bị người Pháp “an trí” tại El Biar, cách thành phố Alger 5 cây số. Cuộc gặp gỡ với vị cựu hoàng đã được bà kể lại qua truyện ngắn “Hoàng tử Lý Tông (Lee Tzong)”, được xuất bản lần đầu trên một tạp chí ở Matxcơva vào năm 1903.

20210429 2

Vua Hàm Nghi trong thời gian lưu đày -(ảnh tư liệu)

Hoàng tử Lý Tông...

Chẳng phải sao, có điều gì đó trong cái tên này gợi nhớ đến tiếng vỡ vụn của đồ sứ; một thứ thật thê lương, buồn bã và dịu dàng, như âm thanh của một vật mong manh tạo ra khi nó không còn tồn tại, tuân theo quy luật vĩnh cửu của sự hủy hoại, không thương tiếc gì đến sự tồn tại của món trang sức quý giá, cũng như mạng sống con người?

Hoàng tử Lý Tông!

“Ở một vương quốc, một đất nước nào đó...” Câu chuyện của tôi bắt đầu như chuyện cổ tích, và chẳng có gì lạ cả: đó là một xứ sở tuyệt vời ở Viễn Đông, nơi những người dân da vàng lặng lẽ sống trong những túp nhà tranh vách nứa, thờ phụng Đức Phật vĩ đại trong những đền chùa đầy màu sắc, nơi những con voi thuần dưỡng chở những phụ nữ nhỏ bé trùm kín, như những bức tượng nhỏ bằng ngà voi, trong chiếc kiệu; nơi trong rừng dừa, bầy vẹt rộn rã véo von, và lũ khỉ đu người trên những dây leo chắc chắn, ném mình từ cây này sang cây khác, và trên những cánh đồng ngô hay trên nương lúa, đám thợ gặt phong phanh trong bộ quần áo màu xanh nhạt đang làm lụng... Trong cái thế giới yên bình ấy, ngày xửa ngày xưa ấy (như trong mọi chuyện cổ tích) có một hoàng tử bé.

Chàng tốt bụng và hạnh phúc. Được nuôi dạy bằng sự sành sõi của phương Tây hòa trộn với sự tinh tế của phương Đông; nhưng từ phương Tây chàng chỉ tiếp nhận những khía cạnh rực rỡ: thơ ca, nghệ thuật, kho tàng khoa học; hoàng tử có thể hiểu được lời yêu đương của người đẹp da trắng thì thầm với chàng một cách thoải mái cũng như lời giảng đạo khô khan của nhà truyền giáo phương Tây... Song, được các bậc thánh hiền của đất nước mình chỉ dạy, chàng đã nguyện theo Khổng giáo và lấy đó làm phép xử thế...

Vào một buổi sáng định mệnh tại một xứ sở yên bình, huyền ảo, đầy màu sắc, người ta biết được rằng phương Tây không chỉ có những nhà khoa học vĩ đại và những nhà thơ lừng danh, mà còn có những kẻ lăm lăm trong tay vũ khí sáng loáng và đạn dược chết người, mang đến sự hủy diệt.

Hoàng tử bé khốn khổ đã không nghi ngờ gì...

Cái chết và nỗi tuyệt vọng đổ ập vào đất nước chàng: khi đi ngủ là một hoàng tử, rồi khi tỉnh giấc... trở thành một tù nhân.

Chàng đã bị bắt và bị giải đi. Những kẻ cai trị mới của đất nước đã lựa chọn việc phủ cái bóng câm lặng lên ngai vàng của cha ông, còn chàng bị bắt làm con tin vĩnh viễn, suốt đời.

Cái lạnh sẽ rất kinh khủng với hoàng tử trẻ tuổi yếu ớt; và vì thế những kẻ chiến thắng khoan dung sẽ giam chàng vào ngục... Tôi đã nhầm! Họ đưa chàng đến một biệt thự màu trắng dưới bầu trời châu Phi nóng bỏng; và biển cả đã chia cắt chàng khỏi quê hương, mà số phận không cho phép chàng gặp lại.

Ở đó là quê hương chàng; còn ở đây là bậc thang dẫn xuống nấm mồ.

Nhưng hoàng tử vẫn sống... chàng sống chỉ với một ước muốn là nấm mộ của chàng sẽ lại trở về quê hương, và đôi lúc niềm hi vọng ấy khiến đôi mắt đen luôn u buồn của chàng rực lên như một ngọn lửa...

Lần đầu tôi gặp hoàng tử Lý Tông trong phòng khách của một khách sạn sang trọng ở Alger, một thành phố ngộ nghĩnh, nơi nền văn minh châu Âu đan xen một cách lạ lùng với sự nhếch nhác và bẩn thỉu của phương Đông; tựa như những bóng trắng trùm kín mít của phụ nữ Ả Rập lướt qua bên cạnh những thân hình đỏm dáng của phụ nữ Pháp, những cỗ xe thời Victoria bảnh bao vượt qua những con lừa do bọn trẻ cởi trần làn da sạm màu đồng đang cưỡi, những chiếc ôtô bon nhanh dưới bóng cọ, những đền thờ Hồi giáo trắng muốt bên cạnh nhà thờ Công giáo, tiếng hô của một muezzin hay thanh âm của tiếng trống làm gián đoạn điệu waltz của Meter!

Dáng người nhỏ nhắn của hoàng tử (do những người bạn chung của chúng tôi giới thiệu) trong bộ trang phục nửa Âu nửa Á ngay lập tức thu hút sự chú ý của tôi. Một chiếc khăn xếp màu trắng trùm lên bím tóc dài, áo dài đen với tay áo rộng xuống phía dưới, lót lụa xanh lá cây sáng (màu của quê hương anh); nước da ngăm ngăm vàng phảng phất màu ngà voi già, đôi mắt đen rất u buồn và rất thông minh, xếch lên phía thái dương, bàn tay và bàn chân nhỏ - tất cả những điều này khiến ta liên tưởng đến một bức tượng quý do bàn tay khéo léo của một nghệ nhân phương Đông chạm khắc.

Nhưng giọng nói của anh ngay lập tức gây ấn tượng với tôi nhiều hơn cả. Đó là một giọng nói êm tai, có thể diễn tả là rất nhẹ. Đặc biệt là lối phát âm (không phát âm z và s, mà tựa như v và f thì đúng hơn, bật ra âm hơi, nhận thấy rõ) khiến giọng nói của anh có vẻ gì đó như trẻ con, bất lực, gây xúc động.

Có lẽ, do tôi đã quen và yêu thích chuyện cổ tích, nhưng dường như tôi đã gặp hoàng tử bé ở đâu đó từ rất lâu rồi, tôi không rõ trên kệ sách, trong sách, hay trong tranh, song tôi đã gặp; còn anh đã chiếm cảm tình tôi bằng sự giản dị và một vẻ gì đó đáng tin cậy khiến anh trông như một đứa trẻ đã lớn.

Tại cung điện nhỏ, hay nói đúng hơn là biệt thự của hoàng tử, chúng tôi tụ tập vào ngày sau hôm làm quen để dùng bữa sáng.

Từ sau hàng rào trắng có thể nhìn thấy một khu vườn, những ngọn cọ vươn cao; ẩn sau chúng là ngôi biệt thự trắng mái bằng theo phong cách Ả Rập. Sân trong được lát gạch men ca rô, trắng và xanh; những đài phun nước róc rách và nhỏ giọt theo đường ống hẹp, những chùm hoa mỏ hạc tươi tốt uốn lượn bám dọc hàng rào, khiến không khí tràn ngập một mùi hương nồng; và những bông hồng đỏ thắm bao bọc cả ngôi nhà.

Trong màu xanh rậm rạp của khu vườn quyến rũ bị bỏ quên, giữa những cây dương xỉ khổng lồ, đó đây những bụi huệ lồng đèn hay layơn đỏ thắm, không phải trong những bồn hoa nhân tạo, mà mọc tự nhiên.

“Tôi không chèn ép những bông hoa của tôi...” Hoàng tử chỉ tay vào khu vườn và nói với tôi, “cứ để chúng được hưởng tự do ở đây”.

Rồi anh mỉm cười, nụ cười ấy còn làm nhói lòng hơn nước mắt... Quả thật, hoa cỏ mọc tự do và tận hưởng sự tự do ấy. Đám dây leo lơ lửng trên đầu chúng tôi như những tràng hoa, rải từ bên này sang bên kia của lối đi; hoa hồng uốn mình qua tán cây; những bụi hoa xa lạ với châu Âu, rải rác với những chùm hoa như những quả chuông nhỏ màu đỏ tươi, những chùm hoa hình sao màu tím nhạt, hoặc những chiếc tách bằng vàng dài, tựa như những chiếc bình cổ hẹp, từ đó tỏa ra mùi vani làm ngây ngất. Trên cành cây, lũ chim không ngừng chơi bản giao hưởng riêng của chúng, và những con bướm sặc sỡ khổng lồ, vàng, đỏ, tím, bay lượn trên không trung, y như những cánh hoa bay lên từ những bụi hoa.

Ánh nắng lấp loáng trên những viên gạch men sáng bóng, làm chói chang những bức tường trắng của ngôi biệt thự... Và toàn bộ góc này, với cái tên nghe thật du dương “El Biar”, dường như được tạo ra cho hạnh phúc, cho niềm vui, cho cuộc sống...

Mọi người cất tiếng trầm trồ khen ngợi, còn tôi nhìn chủ nhân của góc thiên đường này và đọc được trong mắt anh một nỗi niềm, rằng với anh không có hoa, không có nắng, không có niềm vui.

 

 Vua Hàm Nghi trong thời gian bị lưu đày (Ảnh tư liệu)

Ngôi nhà của hoàng tử là một sự pha trộn kỳ lạ giữa châu Âu và châu Á. Mọi tiện nghi hiện đại - và ghi nhận ban đầu là nhiều “đồ trang trí” (chinoiseries) được bày biện trong phòng khách hợp thời trang, chỉ có điều ở đây không phải là những đồ nội thất tầm thường được mua bán, mà là những thứ được chủ nhân yêu quý và trân trọng: những tấm trướng bằng lụa treo tường, với lời dạy của Khổng Tử được dệt bằng sợi vàng, các nhạc cụ của đất nước anh, những quyển bản thảo, mực tàu và bút lông trên bàn viết, chiếc chiếu trên sàn; và ngay đó là một cây dương cầm, một cây vĩ cầm, tập bản nhạc, trong đó tôi thấy có cả nhà soạn nhạc Glinka của chúng tôi, giá vẽ với một bản phác thảo chưa hoàn thành; khắp nơi trên tường treo những bức ký họa của hoàng tử, những bức tranh của anh cho tôi thấy tâm hồn của một nghệ sĩ lớn ẩn chứa trong thân hình nhỏ nhắn như được làm bằng ngà voi này.

Khu vườn của anh... tàn tích của một cổng vòm La Mã ở Timgad... biển vào lúc hoàng hôn màu hồng... tàn tích thành Constantine và những rừng cọ El-Kantara, mái vòm trắng của lăng mộ Marabou, những đứa trẻ da sẫm màu - tất cả những thứ ấy, như những vật thể sống nhìn từ khung tranh.

“Thật tội lỗi khi ngài không triển lãm tranh của mình ở Paris, thưa hoàng tử!” Một phụ nữ Pháp dễ mến có mặt ở đấy nông nổi lên tiếng.

Anh hơi tái mặt và trả lời với vẻ lịch thiệp hào hoa, nhưng kiên quyết:

“Tôi nghĩ thật tội lỗi nếu trưng bày tranh của mình ở Paris!”.

Tôi nhận thấy ý nghĩa thực sự của câu trả lời này đã quá rõ ràng.

Sau bữa sáng, được phục vụ hoàn toàn theo phong cách Paris, khăn trải bàn điểm hoa violet trắng và hoa hồng Bengal, thứ mà lẽ ra được vinh danh cho chính Paillard, hai người phục vụ trẻ tuổi mặc áo dài như hoàng tử, có điều dài hơn nhiều, tóc thắt bím. Họ bước đi lặng lẽ trong đôi dép trắng; và khi hoàng tử hỏi một câu bằng tiếng của họ, họ trả lời rất khẽ bằng một giọng khó lòng nghe được, cứ như thể tiếng của những chiếc tách sứ trên khay va vào nhau leng keng. Họ là hai thanh niên xuất thân từ gia đình quyền quý, những người tình nguyện đi theo hoàng tử. Và trong ngôi nhà cổ tích này, giữa những con người trầm lặng này, tiếng nói chuyện ồn ào, vui vẻ của những người nói bằng tiếng Pháp chúng tôi dường như không được bình thường.

Mọi người quyết định đi dạo. Những cỗ xe ngựa đợi chúng tôi trong sân. Hoàng tử đưa tôi lên cỗ xe nhỏ hai bánh dog-cart, do chính anh cầm cương, những người còn lại lên cỗ xe mui trần Landau.

Con ngựa trắng như tuyết, Boule-de-Neige (Tuyết Cầu), con ngựa yêu thích của hoàng tử, kéo chúng tôi lướt nhanh trên những con đường tuyệt đẹp của El Biar và vùng ven Alger. Thi thoảng, tại những khúc đường quanh mở ra toàn cảnh bức tranh ngọn núi xanh xanh Kabilia ở phía xa với những ngôi làng trăng trắng rải rác trên sườn núi, và mặt biển xanh biếc sống động lấp lánh; đôi lúc con đường chạy dọc theo những cánh đồng có rào chắn bằng những cây dứa sợi và xương rồng. Những thanh kiếm bén ngót của dứa sợi và lá chắn đầy gai nhọn của xương rồng, loài cây có lẽ do thiên nhiên tạo ra trong thời chiến tranh, như một Penthesilea nổi trận lôi đình, như thể chúng muốn chắn lối vào những ngọn đồi mà trên đó là những cụm hoa diên vĩ trắng, tím và cỏ mộc tê reseda.

Trước sự ngưỡng mộ của tôi, hoàng tử dừng ngựa, leo lên đồi và hái tặng tôi những bông hoa ấy, mà với tôi, một người phương Bắc, thì đó là điều xa xỉ.

Cầm bó hoa thơm trong tay, dưới bầu trời châu Phi, bên cạnh hoàng tử bé, tôi có cảm giác dường như mình đang đọc một trang thơ kỳ lạ, một truyện giả tưởng nhẹ nhàng, duyên dáng của Loti...

Và cuộc trò chuyện của chúng tôi bắt đầu: cuộc trò chuyện giữa hai con người, hai nền văn minh, hai chủng tộc khác nhau.

“Đừng nói về quê hương của anh ấy!”. Tôi nhớ đến lời cảnh báo của bạn bè... “Vì Chúa, đừng nói về quê hương của anh ấy”.

Nhưng, rõ ràng, những gì anh không muốn và sẽ không nói với những kẻ chinh phục đất nước mình, những gì đang run rẩy trong tim anh và tìm lối thoát ra ngoài, sẽ dễ dàng hơn để trao đổi với một người ở nước Nga xa xôi; chắc chắn cái chạm tay của tôi không thể làm tổn thương anh; và chính anh là người đầu tiên, bất ngờ, hấp tấp, nói với tôi về quê hương của mình.

Anh nói về đức tin của mình, về triết lý vĩ đại của Khổng Tử, về việc anh đang viết một tiểu luận triết học bằng tiếng mẹ đẻ diễn giải về Nho giáo. Rằng anh chưa nói điều này với ai, nhưng đó là mục tiêu của đời anh; anh nói về thủ đô của nước mình, về ngai vàng, đã bị chiếm bởi bọn người không có quyền hạn này, trong khi đó anh đã bị tước mất quyền, thậm chí nhìn lên bầu trời quê hương mình... Và không chỉ với quê hương, kể cả để đi ra ngoài trong vài giờ, anh cũng phải xin phép. Anh nói rằng anh ghen tị với tôi vì tôi có thể chu du khắp nơi nhiều như vậy...

“Hãy kể tôi nghe về quê hương của cô!”.

Đoạn anh nói:

“Tôi rất muốn chiêm ngưỡng cảnh tuyết rơi, cảnh thảo nguyên của đất nước cô...”.

“Mời ngài đến chỗ chúng tôi!”. Tôi bật ra thành lời mà không hề suy nghĩ.

Hoàng tử cúi đầu thật thấp.

Khi ngước lên nhìn tôi, đôi mắt anh đẫm ướt.

“Je suis un pauvre oiseau avec fil à la patte...” [Tôi là con chim khốn khổ bị sợi dây trói chân... (nguyên văn tiếng Pháp)]. Anh khẽ nói với nụ cười quen thuộc, nụ cười làm nhói lòng.

Và lúc này tôi mới hiểu ra một điều rằng với một hoàng tử thuộc dòng dõi lớn, có ngôi biệt thự trắng, kẻ hầu người hạ, vàng bạc... thà làm một kẻ ăn xin ngồi trong xó nhà, ăn bận rách rưới, toàn một màu nâu dưới chiếc khăn xếp trắng, mà chúng ta ném cho một đồng xu lẻ, còn cảm thấy hạnh phúc hơn, bởi lẽ với anh ta sự giàu sang tột đỉnh, hạnh phúc tột đỉnh, món quà quý giá nhất: chính là tự do! Và đất nước nghèo khó ban cho ta sự tự do còn đẹp hơn biết bao lần những thứ xa hoa kỳ lạ của xứ sở này, nơi con chim bất hạnh bị buộc chân bằng sợi xích vàng.

Hoàng tử Lý Tông...

Chẳng phải sao, có điều gì đó trong cái tên này gợi nhớ đến tiếng vỡ vụn của đồ sứ; một thứ thật thê lương, buồn bã và dịu dàng, như âm thanh của một vật mong manh tạo ra khi nó không còn tồn tại, tuân theo quy luật vĩnh cửu của sự hủy hoại, không thương tiếc gì đến sự tồn tại của món trang sức quý giá, cũng như mạng sống con người?■

Tatyana Schepkina-Kupernik 

Phạm Ngọc Thạch dịch.

Chân dung T.L. Shchepkina-Kupernik,  Tatyana Schepkina-Kupernik (1874 - 1952, nhà thơ, nhà văn, kịch tác gia và dịch giả nổi tiếng người Nga) do họa sĩ Nga Ilya Repin vẽ năm 1914.

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 20.4.2021.

Bởi là đối tượng sinh động và dễ cảm nhận bằng tất cả các giác quan nhất, thiên nhiên An Nam đã đi vào ghi chép của các lữ khách phương Tây với mật độ khá dày đặc, trở thành một trọng âm chủ đạo với nhiều lời tán dương, cảm xúc thảng thốt chân thực.

Chính cảnh quan thiên nhiên và cụ thể hơn là tính chất địa dư, địa lý đặc trưng của mỗi vùng miền, đã dẫn dắt những kẻ “thực dân” đi từ vị thế chinh phục cao ngạo khó tính sang người khám phá trân trọng, yêu mến bản xứ.

Và như mối tình thâm khó lòng giấu giếm, các lữ khách, cuối cùng đều đề đạt nên giữ gìn thay vì can thiệp trái khoáy vào thiên nhiên, cảnh quan vùng đất An Nam xinh đẹp ấy.

Sức hút của những địa danh

Tiếp xúc với An Nam là quá trình trải nghiệm những nơi chốn mà với phần đông lữ khách, tên địa danh hãy còn rất xa lạ, tựa như ban mai thức dậy chưa thể biết ánh nắng hay cơn mưa rơi xuống thế nào. Nhưng những địa danh ấy không chỉ là nơi họ vội vàng ghé chân mà còn là nơi thử thách khả năng mô tả, từ mô tả cảnh quan đến truyền tải các trạng thái cảm xúc.

Khác với thời hiện đại đầy đủ phương tiện kĩ thuật (máy ảnh, quay phim, điện thoại) lưu giữ chi tiết từng cảnh sắc núi non sông nước, các lữ khách thuở xưa chủ yếu chỉ dùng ngôn ngữ, thứ phương tiện đôi khi bất khả dung chứa thật đầy đủ, tường tận mọi điều nhìn thấy song lại cho phép tiếng nói tác giả, vốn không ít chủ quan cảm tính, được bộc lộ theo những cách hồn nhiên, bay bổng nhất.

20200427

Cầu mái ngói ở Phát Diệm (Ninh Bình).

Cùng viết về Đà Lạt chẳng hạn, A. Yersin, vị bác sĩ trứ danh, người phát hiện ra Lang-Bian, dành những lời đầy dự cảm tươi sáng về một “nơi tốt cho sức khỏe” trong bức thư gửi cho mẹ, rằng “có một vùng bình nguyên bao la, hoang vắng rộng chừng 400km vuông với một ngọn núi mọc lên ở giữa”.

Còn với kí giả P. Munier, Đà Lạt là “xứ sở của hoa”, “xứ sở của thông” và với riêng ông, “thật tuyệt vời khi đi dạo dưới những cánh rừng thông, lồng ngực căng mùi nhựa trong lành [...] Qua những thân cây có thể thấy rừng và những miền xa xa xanh dương và xanh lục ở chân trời”.

Trên thực tế, Đà Lạt sớm thành nơi nghỉ dưỡng và chính quyền thực dân lắm tham vọng đã tốn khá nhiều công của để tạo dựng nên đô thị bình yên này. Nhưng những sắc màu thiên nhiên được chăm chút hài hòa trên ngôn từ, rõ ràng, có lẽ vẫn có sức cuốn hút không kém cho bất kì ai.

Vẻ đẹp của thiên nhiên An Nam sẽ đánh bật những ngóc ngách tâm lí thủ cựu. Cả Mario Appelius, kí giả Ý, và Roland Dorgelès, văn sĩ Pháp, đều ít nhiều vin vào sự ưu việt của người da trắng mà tỏ ra thờ ơ, châm biếm trước tình cảnh khốn khổ của người dân da vàng bản xứ. Chỉ đến khi họ được đắm chìm vào cảnh quan, chính xác hơn là được cảnh quan “chỉ dạy” những nghĩa lí của sự đa dạng sinh tồn, họ mới vỡ vạc và thấu hiểu giá trị vùng đất thuộc địa.

Mario Appelius đi xuyên Việt, đủ để tích trữ vô số ngỡ ngàng, khi là “những cơn gió bẻ cong đám cây lau sậy, những làn gió nhẹ gợn trên mặt nước, tia sáng lấp lánh của muối tạo ra một thứ ánh sáng lung linh với những dấu chấm vàng, những dấu phảy bạc biến hóa một cách kì diệu trên vùng đồng bằng rộng lớn” ở Nam Kỳ, khi thì “đất đỏ sẫm phù sa của bờ sông trở nên mềm xốp, hòa vào dòng sông và nhuộm nên một màu đỏ đậm đà hơn.

Những hàng cỏ nến xa hút tầm mắt, quờ quạng những tán lá dài trong gió như thể đang cầu xin chút nắng từ vầng mặt trời không chút mủi lòng sẽ thiêu đốt chúng trong suốt những ngày hè” ở Bắc Kỳ.

Con đường thiên lý từ Nam ra Bắc của Mario Appelius cũng là con đường cái quan mà Roland Dorgelès đi từ Bắc vào Nam. Thật khó có thể ngờ “màu xanh đậm đà của những cây chuối”, những “cây măng cụt, cây mít”, “những con trâu đẹp tuyệt mình đen nhẫy tưởng như xanh đậm”, “những đảo nhỏ mờ sương”, “những cánh buồm nhỏ xíu” lại làm cho họ bớt đi ác cảm về đường sá khó khăn, vất vả.

Cũng giống Roland Dorgelès, Mario Appelius từng du ngoạn Hạ Long “toát lên sự bình yên lạ lùng”, Hòn Gai “ánh mặt trời mạnh mẽ miền nhiệt đới chiếu vào quả đồi và thung lũng nhỏ, làm sáng lên màu khoáng sản”. Sự giàu có trong kho từ vựng tiếng Pháp hay Ý hẳn đã được huy động tối đa nhưng như Roland Dorgelès thú nhận, nó vẫn còn “dở tệ” trước cảnh tượng “bóng xoài đổ nghiêng/ Những cành lá rung rinh chùm quả chín”... 

Ngoài những địa danh quen thuộc như Sài Gòn, Chợ Lớn, Cần Thơ, Hà Nội hay Hải Phòng, ngòi bút của lữ khách còn nhắc đến Lạng Sơn, Sóc Trăng, Phan Thiết, Phủ Quỳ (Nghệ An)...

Ở đây, vì là thể loại du kí, kí sự nên các tác giả phải viện đến địa danh nhưng ẩn bề sâu, đó là một chỉ dấu để tiết lộ mối quan hệ giữa con người và xứ lạ. Chúng ta không thể thấu cảm con người khác biệt màu da, ngôn ngữ nếu không bước vào thế giới thiên nhiên nơi họ gắn bó, một thiên nhiên rộng rãi và bao dung hơn rất nhiều so với những đường biên giới quốc gia.

Định hình địa lý nhân văn

Trước khi các lữ khách tiếp xúc An Nam, giới trí thức Nho giáo cũng từng có những mô tả và ghi chép về địa lí, địa dư. Khởi từ Nguyễn Trãi, truyền thống “dư địa chí” kéo dài đến cuối thế kỉ XIX và trở thành nguồn tư liệu quan trọng để các trí thức canh tân đầu thế kỉ XX biên soạn thành sách giáo khoa quốc ngữ giảng dạy ở nhiều bậc học.

Nhưng nhìn chung, chỉ đến khi giới học giả Pháp công bố trước tác, với phương pháp và điều kiện trắc địa hiện đại hơn, An Nam mới bắt đầu hiện hữu trong ngành địa lí nhân văn hiện đại (géographie humaine).

Những mô tả, phân tích về địa hình, khí hậu, con người trở nên mở rộng và liên đới với nhau hơn trong các cuốn sách của E. Bruzon và P. Carton (Khí hậu Đông Dương và bão ở Biển Đông, 1930); của P. Gourou (Xứ Bắc Kỳ, 1931; và Người nông dân châu thổ Bắc bộ, 1936); của Ch. Robequain (Xứ Đông Dương thuộc Pháp, 1929; và Tỉnh Thanh Hóa, 1929); của A. Agard (Liên bang Đông Dương thuộc Pháp, 1925) hay của Hippoly Le Breton (An Tĩnh cổ lục, 1936)...

Khá nhiều khái niệm và nội dung địa lý nhân văn mới mẻ đã được các học giả đề cập, phân tích. Và nhờ thế, có lẽ đây là lần đầu tiên, chúng ta được nhìn thấy cấu trúc sinh thể An Nam trong một tổng thể kĩ càng đến vậy. Ngoài khí hậu là những kiểu thời tiết, các kiểu và quá trình tiến hóa của địa hình, kiểu cư trú, mật độ dân cư, các nhóm sắc tộc, tổ chức xã hội, cho đến địa lí hành chính, phương tiện sống, loại hình nhà cửa...

Phổ rộng của tri thức địa lí nhân văn, do đó, khác xa với hình dung giản đơn về những thông tin ngắn gọn tên đất tên làng, tên những con sông ngọn núi. Những thao tác “giải phẫu” của địa lý nhân văn khiến An Nam, thêm lần nữa, cho thấy sự giàu có môi trường sống, điều mà hôm nay chúng ta thường xuyên xem nhẹ, là quý giá như thế nào.

Chỉ cần dừng lại trước đôi dòng tuyệt bút của P. Gourou là toàn bộ khung cảnh châu thổ Bắc Bộ đã hiện lên mồn một: “con người là sự kiện địa lý quan trọng nhất của châu thổ. Họ đã nhào nặn nên địa hình bằng đôi tay của mình; ngoài vài ngọn đồi hiếm hoi, những vật nổi lên lớn nhất trên đồng bằng là những con đê [...] Cây to rất hiếm: những cây đa trong đền chùa, những cây xoài, vài cây gạo tỏa bóng mát các ngôi miếu [...] Đôi khi một đám rước nổi bật trên màu xanh của đồng ruộng với những màu đỏ và màu vàng của các đồ thờ và những chiếc kiệu thần, màu đỏ rực của cờ và áo chít ngang lưng của những người phu khiêng kiệu”.

Tương tự, chỉ qua vài câu mở đầu, Ch. Robequain đã phác thảo địa lý Thanh Hóa khác biệt lạ lùng: “Thế là, dải đá vôi ở Đông Bắc, mốc đá kết tinh ở sông Mã và sông Chu cùng với các nhánh ở Tây Nam là những phần chủ chốt của cái khung nhà hai mái chở che tỉnh Thanh Hóa”.

Quả thật, nếu đọc Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ hay Tỉnh Thanh Hóa, ngay cả những độc giả không hiểu hoặc không thích địa lý, hẳn sẽ hồi hộp đến trang cuối cùng vì nó hấp dẫn chẳng kém gì tiểu thuyết. Nhưng quan trọng hơn, theo tôi, nó cần thiết để chúng ta lắng nghe một số đề đạt thấu đáo.  

Về nền văn minh nông dân chẳng hạn, P. Gourou cho rằng người nông dân châu thổ Bắc Kỳ sống trong thiếu thốn nhưng không phải trong tuyệt vọng. Thực tế, người nông dân nghèo túng đó đã tạo ra một nền văn minh phức tạp chung quanh cá nhân trong một mạng lưới các quan hệ gia đình và làng xóm. Đặc biệt, nền văn minh đó đã hòa nhập làm một với môi trường trong đó nó phát triển.

Trái ngược với nhận định rằng nền văn minh này là ngưng trệ và lạc hậu, P. Gourou đề cao sự hài hòa cổ xưa giữa con người với thiên nhiên như là một di sản của vùng địa lí này. "Nếu có một tinh thần yêu nước Việt Nam – P. Gourou nhấn mạnh, thì họ phải dành tất cả sự quan tâm vào việc giữ gìn sự hài hòa quí báu đó giữa thiên nhiên và con người, vì đó là vấn đề tiên quyết, là vấn đề chi phối mọi vấn đề khác dù là kinh tế hoặc chính trị".

Khi đã có độ lùi thời gian, khi đã chứng kiến hàng loạt biến đổi lớn lao của làng xã Việt suốt mấy chục năm qua, khi đã có thực tế sinh động của công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay, chúng ta càng thấm thía hơn đề đạt sắc sảo trên của P. Gourou. Dường như những yếu tố, đặc trưng truyền thống của châu thổ đang mờ dần đi và khi muốn gọi tên, minh chứng một điều gì cụ thể của làng quê châu thổ, chúng ta lại phải "hồi cố", phải hạn định mốc thời gian mơ hồ: làng ngày xưa...

Mai Anh Tuấn

Nguồn: An ninh thế giới cuối tháng, ngày 01.4.2020.

Những câu chuyện cổ tích sẽ giới thiệu một nước Việt Nam giàu có và lâu đời về văn hóa tới độc giả Ý qua một người Ý đã dành cả đời cho cuộc quảng bá văn hóa Việt.

Tháng 11-2020, nhà xuất bản (NXB) Anteo của Ý giới thiệu cuốn Il granchio di sabbia e La pietra colpevole - Racconti fantastici dal Vietnam (Dã tràng xe cát và Tra tấn hòn đá - Những câu chuyện cổ tích Việt Nam) của hai tác giả Sandra Scagliotti và Trần Doãn Trang. 

Đây là cuốn thứ hai sau cuốn Il corvo e il pavone - Racconti fantastici dal Vietnam” (Quạ và công - Những câu chuyện cổ tích Việt Nam) in tháng 11-2019, nhằm giới thiệu cho độc giả Ý văn hóa Việt Nam qua những câu chuyện cổ tích.

Những người Ý từng biết đến Việt Nam qua chiến tranh, người di tản, hay những trang sách của Tiziano Terzani... sẽ biết thêm một Việt Nam miền cổ tích với những triết lý đời sống về nhân quả, cách giải thích hiện tượng thiên nhiên, đến lịch sử bước vào trong truyền thuyết, rồi những địa danh, thắng cảnh Việt Nam tự ngàn xưa.

Bạn đọc báo Tuổi Trẻ Cuối Tuần mười năm về trước từng biết ông Trần Doãn Trang, kỹ sư nhà máy xe hơi Fiat ở Torino, qua bài viết “Đi tìm Hoàng Sa trong tu viện cổ” của nhà báo Lê Đức Dục. Ngày đó, ông Trang lần theo tin tức trên Internet để đi tìm cuốn sách gốc của nhà địa lý lừng danh Adriano Balbi viết về Vương quốc An Nam và chủ quyền quần đảo Hoàng Sa. 

Cũng tham gia hành trình đó là bà Sandra, lãnh sự danh dự của Việt Nam tại Torino - người đã đón tiếp và đưa các nhà báo tới tu viện cổ để tận mắt thấy cuốn sách. Ít người biết bà Sandra đã gắn bó với văn hóa Việt Nam, học tập, nghiên cứu và xuất bản nhiều cuốn sách về Việt Nam từ rất lâu.

“Việt Nam không chỉ là đối tượng học tập và nghiên cứu, mà còn là toàn bộ cuộc đời tôi. Tôi đã nghiên cứu nền văn hóa mà tôi yêu thích này, cố gắng đào sâu càng nhiều càng tốt những đặc điểm, các sắc thái muôn màu muôn vẻ và trên hết là truyền bá lịch sử một đất nước hào hùng đã cho cả thế giới biết rằng độc lập, tự do không phải là thứ hàng hóa mua bán trao đổi được. 

Tôi đã học được nhiều từ Việt Nam và người Việt. Từ tấm gương của dân tộc oai hùng và dũng cảm này, tôi đã học hỏi, rèn luyện lương tâm chính trị và đạo đức của chính mình. Với Việt Nam và con người Việt Nam, tôi biết ơn từ tận đáy lòng” - bà Sandra nói.

20210407 5

Bìa hai cuốn sách vừa xuất bản ở Ý. Ảnh: Liên Hương

Khởi đầu của một đam mê

Mọi thứ bắt đầu từ một luận văn tốt nghiệp đại học về đề tài lịch sử quan hệ quốc tế (Phụ nữ Việt Nam giữa truyền thống và cách mạng, 1983, Đại học Torino). Sau một thời gian dài tham gia các hoạt động của Hiệp hội quốc gia Ý - Việt (ra đời từ những năm 1970), thượng nghị sĩ Ý Ettore Masina - nhà trí thức và là chủ tịch hiệp hội - cùng người thầy Việt Nam của bà Sandra, giáo sư Nguyễn Văn Hoàn, và các học giả khác, trong đó có Charles Fournaiu và Enrica Collotti Pischel, đã thúc đẩy bà thành lập Trung tâm Việt Nam học nhằm lôi kéo người Ý trẻ tuổi tham gia. 

Năm 1989, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam chính thức ra đời, thúc đẩy các công việc học tập, giảng dạy, nghiên cứu và xuất bản trong lĩnh vực học thuật. Một kho lưu trữ các dữ liệu về Việt Nam được mở, năm này qua năm khác trở thành điểm tham khảo cho sinh viên và giới nghiên cứu, điều hành văn hóa, tổ chức phi chính phủ, tình nguyện viên, du khách... ở Ý.

Nhờ sở hữu một số lượng đáng kể tư liệu bằng tiếng Việt, trung tâm trở thành nơi đọc sách, gặp gỡ của cộng đồng Việt Nam, nơi làm việc của các nghiên cứu sinh về Việt Nam. Trung tâm tư liệu từng bước được mở rộng và phát triển tới khi trở thành một thư viện Việt Nam thực thụ, với kiến trúc nội thất bằng gỗ do các nghệ nhân Việt Nam thực hiện, mang tên Enrica Collotti Pischel, người thầy và cũng là người bạn của bà Sandra. 

Tháng 6-2004, với sự chứng kiến của đại sứ Việt Nam Lê Vinh Thứ cùng nhiều quan chức cấp cao của Hội đồng thành phố Torino, thư viện Pischel chính thức đi vào hoạt động, có thêm thư viện báo và tạp chí, một mảng nghệ thuật âm nhạc do giáo sư tiến sĩ và nhà nghiên cứu âm nhạc cổ truyền Trần Văn Khê sắp đặt. Tạp chí Mekong, ấn phẩm riêng của thư viện, cũng ra đời từ đó và tiếp tục tới bây giờ.

Những năm 1990, bà Sandra dạy ở Đại học Torino các khóa học về lịch sử châu Á hiện đại và đương đại, hướng dẫn các hội thảo về lịch sử, xã hội và văn hóa Việt Nam. Từ việc giúp đỡ thành lập Văn phòng thương mại Ý - Việt năm 1996, tới năm 2009 bà được chính thức bổ nhiệm lãnh sự Việt Nam tại Torino - điều được bà coi là một vinh dự lớn lao, là đỉnh cao của cuộc đời cống hiến cho Việt Nam và mở ra cánh cửa cho những hợp tác mới ở cấp độ thể chế.

Cổ tích Việt trên đất Ý

Bìa hai cuốn sách vừa xuất bản ở Ý. Ảnh: Liên Hương

Trở lại với những câu chuyện cổ tích Việt kể bằng tiếng Ý của bà Sandra và ông Trang - hai người bạn thân đã nhiều năm gắn bó và hoạt động cùng nhau trong hành trình văn hóa ở Trung tâm văn hóa Việt Nam - họ chọn lựa dựa vào nguồn chính là Kho tàng cổ tích dân gian Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, một tác phẩm nghiên cứu khoa học và hoàn chỉnh. Đây đều là những câu chuyện dân gian, tư liệu truyền khẩu được ông miệt mài tìm kiếm, sưu tầm ở nhiều địa phương từ Bắc chí Nam và viết lại một cách đáng tin cậy với văn phong giản dị, trong sáng và ngôn ngữ sống động.

Khác với các tác phẩm được dịch qua tiếng Ý từ tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, hai tác giả dịch trực tiếp từ ngôn ngữ tiếng Việt nhằm chuyển tải một cách chính xác nhất bản sắc văn hóa Việt Nam. Độc giả Ý sẽ được tiếp cận một nền văn hóa gần như xa lạ, tìm thấy ở đó những điều kỳ diệu của trí tưởng tượng dân gian, hiểu thêm dân tộc tính của người Việt, quan niệm, phong tục và lối sống của một dân tộc quật cường bên bờ biển Đông. Những đứa trẻ là con nuôi của các gia đình Ý đến từ Việt Nam hoặc những đứa trẻ gốc Việt sinh ra và lớn lên ở Ý có thêm cơ hội để tìm về lại cội nguồn.■

Bà Sandra còn là tác giả nhiều cuốn sách và nghiên cứu khác về Việt Nam, có thể kể ra đây: Grazie Việt Nam! (Cảm ơn Việt Nam!, Torino 2015), Il banco di sabbia dorata. Il Viet Nam e gli arcipelaghi del Mare orientale (Bãi cát vàng. Việt Nam và các quần đảo trên Biển Đông, Torino 2017), và Vietnam, spinaci d’acqua e melazane - Una civiltà vegetale fra storia e letteratura (Việt Nam, rau muống và quả cà - văn hóa cỏ cây trong lịch sử và văn học, Anteo 2018).

Liên Hương (Bergamo, Ý)

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 14.01.2021.

Những hoàn cảnh xoay quanh cuộc gặp gỡ giữa Phùng Khắc Khoan (1528-1613) và Lý Túy Quang [Yi Su Gwang] (1563–1628), hai sứ thần trong phái bộ Đại Việt và Triều Tiên [Choson] đến triều cống Bắc Kinh thực sự đáng được tìm hiểu.

20200427 2

Sứ thần Đại Việt (mãng bào trắng) và sứ thần Triều Tiên (bên phải ảnh) trong họa phẩm “Vạn quốc lai triều đồ” (1761) thời Thanh. Nguồn: Sina.

Hệ thống triều cống

Hệ thống triều cống mà chúng ta biết đến nhiều nhất được thiết lập dưới thời Minh Thái Tổ vào năm 1368. Khi đó, sứ giả được cử đến các nước như Triều Tiên, Việt Nam, Champa và Nhật Bản – và tất cả các nước này trừ Nhật Bản đã gửi lại triều cống vào năm 1369. Đây cũng chính là dịp Đại Việt được công nhận là một “Văn hiến chi bang”. Trong suốt triều Minh Thái Tổ (từ 1368 đến 1398), Champa đã gửi 19 đoàn sứ, Đại Việt 14 đoàn, Lưu Cầu 20 đoàn và Triều Tiên 20 đoàn. Năm 1400, hai năm sau khi Minh Thái Tổ băng hà, Triều Tiên được phép sang cống từ ba năm một lần lên đến một năm ba lần; và kể từ năm 1531 là một năm bốn lần. Trong khi đó, kể từ 1369 Đại Việt được triều cống ba năm một lần – chu kỳ này về cơ bản được duy trì ngoại trừ một số giai đoạn bất ổn.


Trong khi các sứ bộ của Triều Tiên chỉ phải vượt 950km để đến Bắc Kinh, khoảng cách từ Thăng Long đến Bắc Kinh là gần 2330 km. Do đó, vấn đề quan hệ giữa Trung Quốc và Đại Việt thường được giao cho Tổng đốc Lưỡng Quảng xử lý. Kể cả như vậy thì tình hình chính trị nội bộ vẫn thường làm gián đoạn hoạt động triều cống qua biên giới. Chẳng hạn, sau khi Mạc Đăng Dung giành quyền lực từ nhà Lê sơ vào năm 1527, ông đã tìm kiếm sự công nhận của nhà Minh nhưng chỉ được phong làm An Nam Đô Thống Sứ sau khi ông cắt nộp các phần đất tranh chấp cho Trung Quốc. Thế nhưng vào thời điểm được sắc phong, ông đang hấp hối và không thể nhận ấn tín. Những người kế vị của ông cũng bị từ chối sắc phong vì họ không thể đến cửa khẩu tại Lạng Sơn. Cuối cùng, vào năm 1581 khi một sứ thần triều Minh mang về cống phẩm của con trai và người kế vị Mạc Phúc Nguyên là Mạc Hậu Hợp (1560-1592), Hoàng đế Vạn Lịch [Minh Thần Tông] xuống chiếu phong ông làm An Nam Đô Thống Sứ bất chấp việc ông không đến cửa khẩu.

Mạc Hậu Hợp cũng là vua Mạc cuối cùng. Năm 1592, nhà Mạc bị đẩy ra khỏi Thăng Long và triều Lê được tái lập, cho dù giờ trở thành bù nhìn của Chúa Trịnh. Sứ bộ của Phùng Khắc Khoan là sứ bộ đầu tiên của triều Lê Trung Hưng đã phải trực tiếp đến Bắc Kinh nối lại quan hệ triều cống và giải quyết vấn đề địa vị của tàn dư họ Mạc vẫn còn cát cứ ở biên giới Cao Bằng. Ông chỉ thành công một phần: Vạn Lịch chỉ chấp nhận phong cho vua Lê làm An Nam Đô Thống Sứ chứ không phải An Nam Quốc Vương. Khi Phùng Khắc Khoan phản đối, vua Minh nói rằng đây chỉ là một biện pháp tạm thời xem xét đến tình hình bất ổn chính trị kéo dài của đất nước.

Nhiệm vụ của Lý Túy Quang cũng rất nặng nề. Năm 1592, Toyotomi Hideyoshi đã mở đầu cuộc xâm lược Triều Tiên, và Triều Tiên khi đó đã suy yếu sau nhiều năm ổn định đã chỉ có thể kìm chân quân đội Nhật Bản với sự hỗ trợ của nhà Minh. Sau vài năm hòa đàm cầm chừng, đến năm 1597, Hideyoshi phát động một cuộc xâm lược mới – hay còn gọi là cuộc Chiến tranh Imjin lần thứ hai. Đây chính bối cảnh cho sứ bộ Lý Túy Quang đến Bắc Kinh.


Cũng rất thú vị nếu ta so sánh những gì hai người đã mang về trong thời gian đi sứ. Lý Túy Quang chỉ mới 29 tuổi khi lần đầu tiên đến Trung Quốc; sau đó, ông đi thêm hai lần nữa. Trong một chuyến đi, ông đã gặp linh mục Matteo Ricci (1552-1610) và được Ricci tặng cuốn “Thiên Chúa thực nghĩa” [Ý nghĩa thực của Thiên Chúa]. Ý tưởng của Ricci về sự kết hợp giữa Kitô giáo và Nho giáo ảnh hưởng lớn đến họ Lý - một số sách phương Tây Ricci tặng sau này được ông đưa vào bộ bách khoa toàn thư 20 tập của mình – “Jibong yuseol” [Chi Phong loại thuyết].1

Thiên Chúa thực nghĩa” cũng là tên cuốn sách mà 2 giáo sĩ Dòng Tên khác là Girolamo Maiorica và Bernardino Reggio tìm cách truyền bá tại Thăng Long khi họ mở một nhà in, bị buộc phải đóng cửa chỉ sau vài tháng năm 1630.2 Những thương nhân Bồ Đào Nha đã đến Việt Nam từ những năm 1550 và ta cũng biết các cộng đồng đạo Kitô đầu tiên được biết đến xuất hiện ở Đàng Trong từ cuối thế kỷ XVI.3 Dù không rõ một sĩ phu Đàng Ngoài như Phùng Khắc Khoan có biết gì về Kitô giáo không, ông đã 64 tuổi ở thời điểm đến Bắc Kinh và hiển nhiên sẽ ít quan tâm đến tri ​​thức mới kia. Tuy vậy, ông đã mang về từ Trung Quốc kiến ​​thức thực tiễn về nghề dệt lụa, trồng ngô và vừng, cùng các giống lúa mới. Phần lớn di cảo của ông đã không còn đến ngày nay; nếu như Lý Túy Quang để lại những quan sát về Đại Việt, chúng ta không thể biết Phùng Khắc Khoan nghĩ gì về Triều Tiên hay đã báo cáo gì với triều đình Lê-Trịnh.

Đối diện với chủ nghĩa thực dân

Với bối cảnh khác nhau, Triều Tiên và Đại Việt đã có những phản ứng trái ngược trước sự sụp đổ của nhà Minh. Vương triều Choson kiên quyết duy trì sự trung thành với triều đại vốn đã giúp họ đánh bại Hideyoshi cách đây vài thập kỷ, vừa xung đột dai dẳng với tộc Nữ Chân [Jurchen] ở Mãn Châu, đặc biệt từ những năm 1620. Người Việt vì đã chịu đựng 20 năm xâm lược của nhà Minh trong thế kỷ XV, không có nợ ân nghĩa như vậy. Vì lý do thực dụng mà triều đình Đại Việt đã từ chối ủng hộ tàn quân nhà Nam Minh rút chạy về Vân Nam và Miến Điện vì sợ họ có thể tràn vào trong nước.



Chân dung Phùng Khắc Khoan (1528-1613) thờ tại làng Bùng, xã Phùng Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội.

Nguồn: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.

Sự trung thành bền bỉ của Triều Tiên với nhà Minh có thể giải thích cho phản ứng của sứ bộ Triều Tiên với sứ bộ triều Tây Sơn tại lễ mừng bát tuần khánh thọ của vua Thanh Càn Long năm 1790.


Như ta đã biết, quân Tây Sơn trong chiến dịch Xuân Kỷ Dậu 1789 đã giáng một thất bại nặng nề cho quân Thanh tiến vào Đàng Ngoài để hỗ trợ cho Lê Chiêu Thống. Và sau khi Nguyễn Huệ xưng đế năm 1788, ông đã phái một sứ bộ do người cháu Nguyễn Quang Hiển dẫn đầu sang nhà Thanh cầu phong. Sứ mệnh thành công và ông được phong làm An Nam Quốc vương. Đến khi tất cả các nước chư hầu cử sứ bộ sang mừng lễ bát tuần khánh thọ của Càn Long, phái đoàn Đại Việt, thay vì chỉ đưa một sứ thần sang dự, lại được dẫn đầu bởi một quân vương, được ghi trong các tài liệu là “Nguyễn Quang Bình”. Tôi sẽ không tham gia vào các cuộc tranh luận về việc liệu người này có phải là Nguyễn Huệ hay không, điều quan trọng là mọi người tham dự khi đó đều tin đó là Nguyễn Huệ.


Ta hãy đọc một đoạn trích do Từ Hạo Tu [Seo Hosu] (1736-1799), sứ thần Triều Tiên ghi lại cuộc gặp gỡ với vị quốc vương An Nam: “Quốc vương Nguyễn Quang Bình hỏi chánh sứ: ‘Quý quốc có lệ đích thân nhà vua sang chầu Thiên tử hay không?’. Chánh sứ đáp: ‘Đông quốc4 chúng tôi từ khi mở nước đến nay không có lệ đó’. Vua nước kia nói: ‘Nước An Nam từ xưa đến nay cũng không có lệ này. Thế nhưng quả nhân vì ơn lớn như trời cao đất dày của Hoàng thượng nên mới thành kính mà qua chiêm cận là việc xưa nay chưa từng có. Vượt đường sá xa xôi hiểm trở hơn vạn dặm, việc phi thường lẽ nào không báo đáp bằng việc chẳng bình thường’.”


Từ Hạo Tu, sứ thần đại diện cho một vương triều cai trị không gián đoạn suốt từ năm 1392, lên án Nguyễn Quang Bình [Nguyễn Huệ] vì tội “bỏ nghĩa quân-thần5”. Ông viết: “Vì họ Lê hèn yếu nên [Quang Bình] tụ tập dân chúng nổi lên công hãm kinh đô, lại giết vua rồi soán vị”.

Niềm tin của Từ Hạo Tu vào tính không chính danh của nhà Tây Sơn còn được thể hiện trong cách ông mô tả trang phục của sứ bộ. Họ Từ cũng như các thành viên khác của sứ bộ Triều Tiên bày tỏ sự không hài lòng với việc vua và sứ thần Đại Việt chấp thuận mặc trang phục Mãn Thanh, như lời chất vấn của Từ Hạo Tu với Phan Huy Ích: “Tôi hỏi: ‘Từng nghe An Nam sứ thần búi tóc thả ra phía sau, đội mũ sa đen, mặc hồng bào áo thụng, cài trâm đồi mồi vàng, chân đi giày da đen giống như quan phục chúng tôi. Nay thấy quý quốc lại mặc y phục Mãn Châu, lại không bịt đầu, vậy là thế nào? Quan phục quý quốc vốn giống Mãn Châu hay sao?’” Câu trả lời của Phan Huy Ích, theo họ Từ: “Lời nói có chừng lúng túng, vẻ mặt ngượng ngập.”6 Bất chấp sự thất vọng này, các bài thơ của sứ thần Đại Việt như Phan Huy Ích (1751-1822) hay Vũ Huy Tấn (1749-1800) vẫn tiếp tục nhấn mạnh vào sự tương đồng về áo mũ và nghi lễ văn hóa giữa hai nước.



Bài thơ “Đáp Triều Tiên quốc sứ Lý Tuý Quang” của Phùng Khắc Khoan chép trong tập “Hoàng Việt thi tuyển” do Bùi Huy Bích biên soạn. Bản in của nhà Hi Văn Đường, 1825, lưu tại Thư viện Quốc gia Việt Nam mã R.969. Nguồn: Thư viện số Hội Bảo tồn Di sản Chữ Nôm.

Như Phan Huy Ích đã viết: “Đồng phong thiên cổ y quan chế/ Kỳ ngộ liên triều chỉ chưởng đàm/ Tao nhã nghĩ truy Phùng Lý cựu/ Giao tình thắng tự ẩm thuần cam [Nguyễn Duy Chính dịch nghĩa: 'Áo mũ quan lại đều theo lối từ nghìn xưa/ Cuộc kỳ ngộ cùng một triều, nói chuyện bằng cách viết chữ bằng ngón tay lên lòng bàn tay/ Đối với nhau tao nhã như họ Phùng gặp họ Lý khi trước/ Giao tình còn hơn cả uống rượu ngọt]7'”. (Ghi chép của Từ Hạo Tu)


Cho đến thế kỷ XIX, cả người Việt và người Triều Tiên đều phê phán nhà Thanh. Dù ta không rõ liệu đó là do sự phân biệt sắc tộc này hay bởi vì cả Triều Tiên và Việt Nam đều tự hào rằng họ giữ gìn truyền thống Nho giáo tốt hơn người Mãn.


Nhưng rồi Triều Tiên và Việt Nam lại thất bại trong việc chuẩn bị trước các cuộc xâm lược của Đế quốc Nhật Bản và Pháp, mà qua đó đã chấm dứt chế độ triều cống tồn tại hàng thế kỷ. Trung Quốc đã cố gắng giới hạn hoặc ngăn cản một cách muộn màng các bước tiến thực dân vào hai nước chư hầu, nhưng trong cả hai trường hợp, các nỗ lực này đều kết thúc trong thảm họa. Chiến tranh Pháp – Thanh 1882 kết thúc với việc Pháp đưa Bắc Kỳ và Trung Kỳ vào chế độ bảo hộ năm 1885; trong khi Chiến tranh Trung – Nhật 1895 kết thúc với Hòa ước Shimonoseki chấm dứt quyền tôn chủ của nhà Thanh với Lưu Cầu, Đài Loan và Triều Tiên.




Tranh sứ thần Đại Việt và Triều Tiên trong “Hoàng Thanh chức cống đồ” (1750) họa phẩm thời Càn Long. Nguồn: Sina.



Trước thất bại này, cả vương triều Choson cũng như triều Nguyễn đều hứng chịu sự chỉ trích giống nhau. Những chỉ trích vẫn được tiếp tục đến ngày nay đều cho rằng hai vương triều đã cố gắng duy trì hệ tư tưởng Nho giáo đã quá lạc hậu.

***

Tôi muốn kết thúc bài viết này bằng một câu chuyện riêng tư. Dì tôi, Bảo Lương Nguyễn Trung Nguyệt, sinh ra ở Nam Kỳ, nơi chế độ thuộc địa Pháp từ những năm 1860 đã giúp chữ Quốc ngữ bắt rễ chắc chắn từ đầu thế kỷ XX. Nhưng vào năm 1927, dì đi đến Quảng Châu năm 1927 để tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội do Nguyễn Ái Quốc đã thành lập trước đó hai năm. Khi đến nơi, bà đã có một cuộc gặp gỡ tình cờ với các nhà hoạt động chống thực dân từ Hàn Quốc. Vì chỉ được giáo dục bằng Quốc ngữ, dì không thể nói chuyện với họ. Thế nhưng, hai thanh niên trong nhóm biết chữ Hán và ngay lập tức hai nhóm đã có thể bút đàm giống hệt như cách Phùng Khắc Khoan và Lý Toái Quang đã từng làm vào năm 1592.


Nếu như kỹ thuật in khắc gỗ dưới thời Đường là phương tiện giúp cho Phật giáo truyền bá được tới quần chúng khi đó phần đa là mù chữ; thì trong thời đại ngày nay, ngôn ngữ hình ảnh của phim ảnh, truyền hình, trò chơi video và internet kết nối mọi người kể cả khi họ không nói cùng ngôn ngữ, hay viết cùng văn tự. Thông qua truyền hình và internet, văn hóa đại chúng Hàn Quốc có ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa đại chúng Việt Nam. Các sản phẩm văn hóa này không chỉ nhấn vào các vấn đề phổ biến trong các xã hội còn đậm di sản đạo đức Nho giáo, từ các mối quan hệ gia đình đến quan hệ giữa các ông chủ và nhân viên, mà còn cung cấp các mẹo trang trí nhà cửa và thời trang phù hợp cho tầng lớp trung lưu đang phát triển. Người dân Hàn Quốc và Việt Nam không còn phải đến Trung Quốc để gặp gỡ; họ đã có thể kết nối qua thế giới ảo. Tuy vậy, việc kết nối trực tiếp và tham gia trao đổi thông tin và quan điểm, hầu hướng đến mục tiêu chung là kiếm tìm tri thức, đến nay vẫn tỏ ra cực kỳ quan trọng. 

Giới sĩ phu cả Việt Nam và Triều Tiên đều có truyền thống học hỏi lẫn nhau qua sách vở chữ Hán, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi người Triều Tiên muốn học hỏi từ kinh nghiệm của Việt Nam khi đối diện với chủ nghĩa thực dân. Vào năm 1905, một nhà nho cấp tiến Việt Nam là Phan Bội Châu (1867-1940) gặp nhà cải cách Trung Quốc Lương Khải Siêu (1873-1929) tại Nhật Bản. Nhờ cảm hứng từ cuộc gặp này, Phan Bội Châu đã viết tác phẩm nổi tiếng của ông: “Việt Nam vong quốc sử”.8 Lương đã viết lời tựa cho cuốn sách và tổ chức in ấn và xuất bản (tại Thượng Hải). Ngay lập tức “Việt Nam vong quốc sử” được phổ biến rộng rãi tại Triều Tiên, khi mà năm 1905 là năm nước này bị đặt dưới chế độ bảo hộ của Nhật Bản, rồi trở thành thuộc địa bị cai trị trực tiếp vào năm 1910. Nói cách khác, hai nước đã trở thành một phần của các đế chế thực dân khác nhau, và việc so sánh trải nghiệm thuộc địa của hai nước ở nhiều khía cạnh (y tế, kiến trúc, báo chí, phong trào chống thực dân hay sự nổi lên của chính trị hiện đại…) đều là cơ hội lớn cho các nhà nghiên cứu.

 

Hồ Tài Huệ Tâm

Thu Quỳnh – Tuấn Quang dịch

Nguồn: Tia sáng, ngày 29.03.2020.

-----

Chú thích:

1 Bộ Bách khoa toàn thư này cũng bao gồm các quan sát về An Nam [Đại Việt] và nhiều nước khác.

2 Vào năm 1573, Macao báo cáo về việc Vua Đàng Trong [Chúa Nguyễn] đã cho các đoàn truyền giáo Dòng Tên vào trong nước; và một thủy thủ kiêm giáo sĩ, tên Ordonez, đã từng sống ở Quảng Nam trong hai năm từ 1590 đến 1592.

3 Tara Alberts “Catholic Written and Oral Cultures in Seventeenth-Century Vietnam”. Journal of Early Modern History. Leiden: Koninklijke Brill 16 (2012):300 390. doi:10.1163/15700658-12342325.

4 Vương triều Chosŏn tự gọi mình là Đông quốc, theo điểm nhìn so sánh với Trung Quốc.

5 Nghĩa quân-thần là một trong năm mối quan hệ đạo đức cơ bản trong Nho giáo [Ngũ luân].

6 Ge Zhaoguang, “Costume, Ceremonial, and the East Asian Order: What the Annamese King Wore When Congratulating the Emperor Qianlong in Jehol in 1790,” Frontiers of History in China 7, no. 1 (2012):148.

7 Toànn bộ các đoạn trích trong bài theo “Núi Xanh nay vẫn đó” của Nguyễn Duy Chính (NXB Văn hóa Văn nghệ TP HCM), 2016.

8 Hai năm trước đó tại Việt Nam, Phan Bội Châu cũng viết một cuốn sách khác, “Lưu Cầu Huyết Lệ Tân Thư” bình luận về việc nước Lưu Cầu [quần đảo Okinawa ngày nay] để mất độc lập vào tay Nhật Bản năm 1879.

Năm 2020 tiếp tục đánh dấu sự thành công ngoạn mục của những nhà văn Mỹ gốc Việt. Đình đám nhất có lẽ là sự kiện nhà văn Nguyễn Thanh Việt được bầu chọn vào hội đồng giám khảo giải thưởng Pulitzer tháng 9.2020. Không chỉ là người gốc Việt đầu tiên, giáo sư Nguyễn Thanh Việt còn là người Mỹ gốc Á duy nhất từ trước đến nay tham gia chấm giải Pulitzer - một trong những giải thưởng uy tín nhất của Mỹ và thế giới, được trao cho nhiều lĩnh vực, trong đó có báo chí và văn học.

Dù vậy, Nguyễn Thanh Việt không là nhà văn gốc Việt nổi bật duy nhất. Xuyên suốt thập kỷ vừa qua, nhiều cây bút gốc Việt vừa đóng góp rất lớn cho dòng chảy của nền văn học viết bằng tiếng Anh, vừa giúp định hình dòng chảy đó. Không xa lạ với bạn đọc quốc tế là những cái tên như Ocean Vương, Thi Bùi, Bảo Phi, Phúc Trần, Monique Trương, Lan Cao, Lan Dương, Mộng Lan, Isabelle Thuy Pelaud, Minh Lê, Nam Lê, Andrew Lâm, Nguyễn Quí Đức, Lệ Lý Hayslip, Andrew X. Phạm, Bích Minh Nguyễn, Hoa Nguyễn, Aimee Phan, Dao Strom, Mai Elliot, Phan Thị Kim Phúc, Cathy Linh Chế, Kiên Nguyễn, Quan Barry, Kevin Nguyễn, Angie Chau, Vũ Trần… Họ đã đạt nhiều giải thưởng văn học danh giá, cống hiến những tác phẩm ấn tượng ở nhiều thể loại văn học: tiểu thuyết, truyện ngắn, tự truyện, thơ ca, văn học viết cho thiếu nhi, và phê bình văn học. 

Nhưng thành công không hề đến dễ dàng với những cây bút nói trên. Vài thập kỷ trước, giới xuất bản Mỹ và quốc tế thường “ngó lơ” trước các câu chuyện viết bởi những người di dân và người tị nạn. Cũng như các bộ phim Hollywood, kể cả trong các bộ phim về chiến tranh Việt Nam, thường đặt câu chuyện của người Mỹ làm trung tâm, các nhà xuất bản thường dành sự ưu tiên xuất bản các tác phẩm văn học được viết bởi những nhà văn da trắng. Vì thế, cùng với các nhà văn da màu khác, các nhà văn gốc Việt đã phải không ngừng tranh đấu để các tiếng nói của mình được lắng nghe.

20210322 2

Sự kiện giao lưu văn học có bán vé vào cửa do mạng lưới các nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại tổ chức ở Bảo tàng nghệ thuật San Jose (Mỹ)  không còn một chỗ trống. Ảnh: TLTG 


Một trong những người tiên phong trong cuộc đấu tranh ấy là giáo sư, nhà văn Nguyễn Thanh Việt. Ông là người đứng ra kêu gọi các nhà văn Việt Nam phải giành lại quyền kể các câu chuyện về cộng đồng mình, về xứ sở của mình. Là một nhà phê bình văn học, ông luôn muốn các nhà văn Việt Nam nói riêng và các nhà văn da màu nói chung phải sáng tác với một tâm thế mới - bình đẳng với các nhà văn da trắng trong dòng văn học viết bằng tiếng Anh.

Trong nhiều bài phỏng vấn, ông luôn kêu gọi các nhà văn da màu đồng tâm đồng sức: “Các nhà văn thuộc cộng đồng thiểu số, hãy viết như thể bạn là một phần của cộng đồng người đa số. Đừng giải thích. Đừng phục vụ cộng đồng người đa số. Đừng dịch các từ thông dụng trong văn hóa của bạn. Đừng xin lỗi. Hãy viết như mọi người đều biết bạn đang nói về điều gì, như các nhà văn thuộc cộng đồng đa số đã làm. Viết với tất cả đặc quyền của các nhà văn cộng đồng đa số, nhưng với sự khiêm tốn của một nhà văn dân tộc thiểu số”.

Để đẩy mạnh tinh thần đoàn kết sáng tạo của các nhà văn Mỹ gốc Việt, từ năm 1994, giáo sư Nguyễn Thanh Việt đã cùng các đồng nghiệp văn chương thành lập một nhóm các nhà văn, nhà thơ, nhà phê bình có cùng chí hướng, để từ đó, mạng lưới các nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại (Diasporic Vietnamese Artists Network - DVAN) được thành lập và không ngừng lớn mạnh. Mục đích của DVAN là thúc đẩy việc xuất bản các tác phẩm văn học nghệ thuật của cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại bằng cách hỗ trợ các nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ, kết nối các tác phẩm của họ với bạn đọc và cộng đồng những người di cư ở khắp thế giới.

DVAN đã tổ chức được nhiều sự kiện văn học ra mắt tác phẩm, giới thiệu nhiều gương mặt mới, tổ chức nhiều buổi toạ đàm trao đổi kỹ năng sáng tác. Có thể nói, sự đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau của các cây bút gốc Việt tại hải ngoại chính là một trong những yếu tố dẫn đến thành công của họ. Trên các trang cá nhân trên mạng truyền thông xã hội mà các nhà văn này hay sử dụng như Facebook, Twitter, Instagram, không hiếm khi người ta bắt gặp các nhà văn gốc Việt giới thiệu các tác phẩm của các nhà văn khác. Họ hỗ trợ nhau trong các sự kiện ra mắt sách, giới thiệu độc giả của mình các tác giả mới, tác phẩm mới.

Theo lời của nhà văn Nguyễn Thanh Việt: “Một người Việt thành công cần mở đường cho những người Việt khác, tôn vinh những người Việt khác để rồi những tiếng nói mới, những câu chuyện hay của cộng đồng người Việt sẽ được thế giới lắng nghe”.

Một số tác phẩm của các nhà văn Mỹ gốc Việt xứng đáng được dịch và xuất bản tại Việt Nam. Ảnh: TLTG


Tính tri thức cao, tinh thần học thuật cũng chính là một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công của các cây bút Việt Nam ở hải ngoại. Nhiều người trong số họ là các giáo sư, tiến sĩ, giảng dạy ngành viết văn ở các trường đại học uy tín của Mỹ: nhà văn Nguyễn Thanh Việt hiện là giáo sư văn học Anh, Mỹ, dân tộc học, và văn học so sánh tại Đại học Nam California; nhà thơ Ocean Vương là phó giáo sư giảng dạy chương trình thạc sĩ viết văn của Đại học UMass-Amherst; nhà phê bình Isabelle Thuy Pelaud là giáo sư giảng dạy tại khoa nghiên cứu người Mỹ gốc Á tại Đại học San Francisco State University; nhà thơ/nhà phê bình Lan Dương là giáo sư giảng dạy ngành nghiên cứu điện ảnh và truyền thông của Đại học Nam California; nhà văn Bích Minh Nguyễn là giáo sư giảng dạy chương trình thạc sĩ viết văn Đại học Wisconsin - Madison; nhà văn Lao Cao là giáo sư ngành luật kinh tế quốc tế Đại học Chapman; nhà văn Vũ Trần là phó giáo sư ngành nghệ thuật ứng dụng Đại học Chicago; nhà văn Aimee Phan là phó giáo sư ngành viết văn và văn học của Đại học California College of the Arts… 

Vị trí của các nhà văn Mỹ gốc Việt trong giới học thuật là một điều đáng nể và là minh chứng cho ý chí và nỗ lực không ngừng, bởi họ có một vị trí xuất phát không hề dễ dàng. Là con của những người tị nạn, nhiều người trong số họ đã có một tuổi thơ vất vả, thiếu thốn, phải lớn lên trong sự kỳ thị chủng tộc. Đơn cử là nhà thơ Ocean Vương lớn lên trong một gia đình mù chữ, với người mẹ phải khom mình trước những người da trắng, sơn sửa móng tay móng chân cho họ. Đến Mỹ năm hai tuổi và chỉ bắt đầu biết đọc tiếng Anh khi mới 11 tuổi, Ocean Vương hiện nổi tiếng khắp thế giới với khả năng ngôn ngữ văn chương độc đáo của mình.

Tập thơ Night Sky with Exit Wounds (bản dịch tiếng Việt Trời Đêm Những Vết Thương Xuyên Thấu do nhà thơ Hoàng Hưng chuyển ngữ, đã được phát hành ở Việt Nam) là một quyển sách bán rất chạy và liên tục được vinh danh với những giải thưởng thi ca danh giá nhất như: Giải thưởng thơ Whiting 2016 với tiền thưởng lên đến 50.000 USD (1,135 tỉ đồng), giải thưởng thơ Forward Prize - được xem như “Oscar thơ” của nước Anh... Tiểu thuyết đầu tay của Ocean Vương On Earth We’re Briefly Gorgeous - dưới dạng bức thư của người con trai viết cho người mẹ mù chữ - vừa phát hành đã lọt vào danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times, được dịch sang 12 thứ tiếng và giúp Ocean Vương đoạt giải thưởng thiên tài, trị giá 625.000 USD từ Quỹ MacArthur. 

Ocean Vương là một trong những nhà văn thành công nhờ tài năng xuất chúng và cũng nhờ việc kế thừa các truyền thống thi ca của dân tộc Việt Nam. Là một người nói thông thạo tiếng Việt, anh tin rằng khả năng song ngữ giúp anh định hình phong cách sáng tác bằng tiếng Anh, vì nó cho phép anh quan sát sự việc từ một góc nhìn mới mẻ. Trong một bài phỏng vấn, Ocean Vương chia sẻ: “Tiếng Việt rất nhiều âm tiết và ý nghĩa của một từ hoàn toàn thay đổi khi bạn để giọng mình vút lên hay trầm xuống, vì vậy tôi đã áp dụng khả năng lắng nghe tiếng Việt sang tiếng Anh... Và tôi đã bắt đầu sáng tạo ra những hình ảnh mới cho riêng mình”. Say đắm với vẻ đẹp tiếng Việt, Ocean Vương đã không ngần ngại lôi cuốn người đọc vào vẻ đẹp ấy.

Trong tập thơ Trời Đêm Những Vết Thương Xuyên Thấu, anh đã mạnh dạn sử dụng nhiều ngôn ngữ tiếng Việt mà không hề dịch nghĩa. Bài thơ Headfirst của anh đã được in cùng với hai câu thành ngữ sau mà không có chú thích về nghĩa: “Không có gì bằng cơm với cá/ Không có gì bằng má với con”. Trong bài thơ viết về người cha, anh bắt đầu bằng những từ tiếng Việt mà không dịch nghĩa:“Lan ơi, em khỏe không? Giờ em đang ở đâu? Anh nhớ em và con quá…”. 

Các nhà văn hải ngoại trong chương trình giao lưu văn học do mạng lưới các nghệ sĩ Việt Nam hải ngoại tổ chức mùa hè 2018 (bìa phải là giáo sư Nguyễn Thanh Việt). Ảnh: TLTG


Cũng như Ocean Vương, nhà văn Thanhhà Lại cũng kế thừa truyền thống thi ca của Việt Nam bằng cách… sáng tác tiểu thuyết bằng thơ. Trong tác phẩm Inside out and Back Again (Từ trong ra ngoài rồi bắt đầu lại),  Thanhhà Lại kể về những trải nghiệm đầy đau thương của gia đình mình và của bản thân khi phải rời Việt Nam, định cư ở Hoa Kỳ. Và những nỗi đau đó được xoa dịu bởi ngôn ngữ thơ sâu lắng và trong trẻo, cất lên bởi người kể chuyện là một cô bé ngây thơ. 

Thanhhà Lại cho biết cô là người luôn ý thức bảo tồn tiếng Việt và cách suy nghĩ của người Việt qua tác phẩm viết bằng tiếng Anh. Trong bài phỏng vấn trên tờ School Library Journey, cô nói: “Khi sáng tác các câu thơ cho tiểu thuyết này, tôi nghĩ về những hình ảnh bằng tiếng Việt, rồi dịch những hình ảnh đó sang tiếng Anh sao cho bảo tồn được nhịp điệu của ngôn ngữ gốc. Tiếng Việt tôi biết là thứ tiếng ảnh hưởng bởi mẹ tôi, và nó rất thơ, đầy nhạc điệu và du dương một cách tự nhiên… Cả đời mình, tôi đã đọc tác phẩm của Nguyễn Du và tôi vô cùng khâm phục Nguyễn Du có thể mô tả cả thế giới với hai câu thơ sáu-tám”. Tiểu thuyết Inside out and Back Again được đánh giá cao, nhiều lần lọt vào danh sách quyển sách bán chạy của tờ New York Times và cũng giúp Thanhhà Lại trở thành nhà văn nữ gốc Việt đầu tiên đoạt giải thưởng văn học quốc gia (National Book Award).

Có thể nói, những tác phẩm của các nhà văn Mỹ gốc Việt khiến bạn đọc rung động bởi sự chân thực của ngòi bút. Ngòi bút ấy đi sâu vào số phận của con người và không ngần ngại bộc lộ những nỗi đau, những vết thương tinh thần mà các nhân vật đã phải gánh chịu, cùng những góc khuất trong thân phận của những người tị nạn, những người di cư vốn dĩ bị xã hội Mỹ và châu Âu gạt sang bên lề. Nhiều tác phẩm mô tả chi tiết việc cha mẹ bạo hành con gái do hậu quả của ám ảnh chiến tranh, đào sâu vào những chủ đề mới mẻ và không ít phần nhạy cảm như đồng tính luyến ái. 

Không chỉ mô tả nỗi đau, các nhà văn Mỹ gốc Việt còn cống hiến cho dòng văn học tiếng Anh những tác phẩm đầy màu sắc. Những cây bút như Monique Trương, Kevin Nguyễn, Quan Barry không ngần ngại bứt mình ra khỏi các câu chuyện về Việt Nam và về người Việt để sáng tạo ra một thế giới hoàn toàn khác biệt. Các nhà văn Phúc Trần, Nguyễn Thanh Việt, Thanhhà Lại đóng góp tiếng cười hài hước trong các tác phẩm. Nhiều nhà văn đào sâu vào những đề tài vô cùng gai góc, đơn cử là nhà văn Thi Bùi sáng tác để nâng cao nhận thức về biến đổi khí hậu và để phản đối việc chính quyền Mỹ trục xuất người tị nạn… 

Hy vọng trong thời gian tới, sẽ có nhiều hơn các tác phẩm của các nhà văn Mỹ gốc Việt được phát hành trong nước. Ngoài đem lại cho bạn đọc cơ hội thưởng thức những tác phẩm hay, giàu giá trị nghệ thuật, việc xuất bản các tác phẩm này đóng góp rất lớn vào quá trình hòa giải và hòa hợp dân tộc, bởi quá trình ấy chỉ có thể tiến triển nếu người Việt trên khắp thế giới lắng nghe các câu chuyện của nhau và thấu hiểu nhau hơn. 

Nguyễn Phan Quế Mai

Nguồn: Người đô thị, ngày 14.3.2021.

Nhìn vào lịch sử từ thời kỳ xây dựng nhà nước độc lập tự chủ đầu tiên cho đến cận đại thì Việt Nam chia sẻ rất nhiều điểm chung về văn hóa, tư tưởng với các nước Đông Á. Phân tích của GS sử học Hồ Tài Huệ Tâm (ĐH Harvard) về đối sánh Việt Nam với Hàn Quốc dưới đây cho thấy, dù cách núi ngăn sông nhưng quỹ đạo lịch sử của hai nước có rất nhiều điểm gặp gỡ.

20200422 2

GS Hồ Tài Huệ Tâm. Nguồn: Báo Dân sinh.

Chữ viết

Năm 1597, khi đi sứ Trung Quốc, Phùng Khắc Khoan (1528-1613) đã có một cuộc trao đổi thơ văn với sứ thần Hàn Quốc Lý Túy Quang [Yi Su Gwang] (1563-1628). Ông viết trong một bài thơ: “Bỉ thử tuy thù sơn hải vực. Uyên nguyên đồng nhất thánh hiền thư" [tôi - ông tuy rằng sông núi khác, nguồn chung cùng một sách thánh hiền]”. Nguồn ông nói đến là Trung Quốc và sách vở thánh hiền là Nho giáo (Tống Nho).

Vào thời điểm hai sứ thần gặp nhau ở Bắc Kinh, chữ viết bản địa đã trở nên phổ biến ở cả hai nước. Ở Hàn Quốc, đó là Hangul [Hàn tự], do vua Triều Tiên Thế Tông [Sejong] (sinh năm 1397, trị vì 1418 - 1450) xây dựng vào năm 1443. Chữ Nôm ra đời ở Đại Việt có phần phức tạp hơn, bắt đầu manh nha từ thế kỷ thứ IX [thành hình vào thế kỷ XII-XIII], nhưng hoàn thiện vào thế kỷ XV, gắn với vai trò của Nguyễn Trãi (1380-1442), một học giả và nhà ngoại giao khi ông sáng tác rất nhiều thơ Nôm và đem lại nguồn cảm hứng để Lê Thánh Tông (sinh 1442, trị vì 1460-1497) và các bề tôi sáng tác bộ “Hồng Đức Quốc âm thi tập”. Do vậy ta thấy các hệ thống chữ viết dân tộc đã nổi lên cùng lúc ở cả Hàn Quốc và Việt Nam và cùng nhận được sự ủng hộ của hai vương triều.

Tuy nhiên, chữ Hán vẫn là chữ viết phổ biến thống trị ở cả hai nước. Nếu tôi có thể nhìn từ quan điểm giới, thì những chữ Quốc ngữ này thể hiện khía cạnh ẩn ngầm về văn hóa, chiều cạnh “nữ tính” – trong khi chữ Hán là biểu hiện công khai và “nam tính”. Trên thực tế, khi Sejong ban hành chỉ dụ về chữ Hangul thì đã có ghi nhận rằng “trước đó phụ nữ và tầng lớp thấp hơn đã sử dụng Hangul để viết thư từ và tiểu thuyết”. Ở Đại Việt, việc sử dụng chữ Nôm rộng rãi nhất trong thế kỷ XVIII, khi mà tỷ lệ biết chữ của nữ giới cũng là cao nhất. Chúng ta thường nhớ đến bản Nôm của “Chinh phụ ngâm khúc” chứ không phải là bản gốc chữ Hán của Đặng Trần Côn. Mặc dù phiên bản chữ Nôm bây giờ được cho là của Phan Huy Ích, thực tế việc trong một thời gian dài nó được cho là của Đoàn Thị Điểm là một chỉ dấu cho thấy khuynh hướng chấp nhận việc nữ giới biết chữ. 

Nhưng chữ Nôm, cũng như các chữ viết dân tộc vẫn bị giới hạn chỉ trong thơ và tiểu thuyết, vốn bị coi là văn chương giải trí không nghiêm túc, cho đến khi chúng được các nhà cải cách như Lương Khải Siêu cổ động vì giá trị trong xây dựng nhận thức về chủ nghĩa dân tộc (như bài viết của ông năm 1902: “Luận về quan hệ giữa tiểu thuyết với quản trị xã hội”/論小說與群治之關係). Chữ Hán vẫn là ngôn ngữ viết của giới tinh hoa Hàn Quốc và Việt Nam cho đến thế kỷ XX vì đây là ngôn ngữ của hệ thống giáo dục và cụ thể hơn là các kỳ thi tuyển chọn quan lại. Các kỳ thi này đã tồn tại cho đến khi bị bãi bỏ vào năm 1894 tại Hàn Quốc, ở Trung Quốc gần một thập kỷ sau, trong khi duy trì ở miền Bắc và miền Trung Việt Nam cho tới năm 1915. 

Làm thế nào ta có thể đánh giá được vai trò của Triều Tiên Thế Tông và Lê Thánh Tông trong việc thúc đẩy việc sử dụng cả chữ viết dân tộc lẫn chữ Hán? Tôi cho rằng vì cả hai loại văn tự này đều hữu ích cho dự án vương triều nhằm củng cố mối liên hệ chặt chẽ hơn giữa một bên là nhà nước với xã hội và một bên là giữa chính quyền với bộ máy quan lại. Nhiều khả năng, ở mỗi vương quốc, thông tin phải được truyền đi qua vai trò của giới tinh hoa được giáo dục hoàn toàn bằng chữ Hán – cùng tư tưởng Nho giáo, khiến cho tầng lớp này đóng vai trò như cầu nối giữa nhà nước và dân chúng trong các liên kết xã hội theo chiều dọc, thay vì là chiều ngang. Một phần nguyên nhân đến từ việc sự nổi lên của chữ viết dân tộc tại Hàn Quốc và Việt Nam đã không đi kèm với sự phát triển của xuất bản quy mô lớn. 

Cũng chính giới tinh hoa đóng vai trò kết dính xã hội Hàn Quốc và Việt Nam. Là tầng lớp xã hội đạt tầm nhà nước thực sự và duy nhất, giới tinh hoa được rèn nên bởi một hệ thống giáo dục với một hệ giá trị chung. Được cắt đặt để làm việc ở xa bản quán, các vị quan kiêm học giả thay mặt cho vương quyền duy trì vương quốc, thực hiện các chính sách của nhà nước ở tầm địa phương. Những chính sách này không chỉ liên quan đến vấn đề quản trị mà còn liên quan đến văn hóa, đặc biệt là các giá trị Tống Nho nhằm chi phối hành vi của tất cả mọi người, từ người cai trị đến nông dân. Bộ luật Hồng Đức năm 1483 là sự kết hợp của các quy tắc và luật hành chính nhằm điều chỉnh hành vi hàng ngày theo nguyên tắc Nho giáo. Tại Hàn Quốc, Bộ luật Gyeongguk daejeon [Kinh Quốc Đại điển] ban hành hai năm sau đó vào năm 1485 cũng quy định về gia đình và thực hành lễ nghi tương tự.

Không chỉ mang tính cách quốc gia (hoặc tiền-quốc gia), giới tinh hoa Đông Á còn mang tính cách liên quốc gia. Dù không nói cùng ngôn ngữ, họ viết cùng một loại văn tự - một sự chia sẻ vốn dần mất đi theo sau sự nổi lên của chủ nghĩa dân tộc ở thời cận đại. Đó chính là điều mà Phùng Khắc Khoan và Lý Túy Quang đã cùng ca ngợi vào cuối thế kỷ XVI.

Nho giáo

Như tôi đã viết, cả Lê Thánh Tông và Sejong đều có ảnh hưởng tới sự phát triển của Tống Nho tại Triều Tiên và Đại Việt. Trước tiên, hãy cùng nhìn lại lịch sử một cách khái lược. Mặc dù tách biệt về mặt địa lý, nhưng quỹ đạo lịch sử của Hàn Quốc và Đại Việt trong lịch sử trung đại và cận hiện đại có những điểm tương đồng ấn tượng. Vương triều Goryeo [Cao Ly] được thành lập vào năm 918, sau khi triều đại nhà Đường kết thúc vào năm 907. Đây cũng là lúc người Việt Nam tìm cách thoát khỏi ách Bắc Thuộc, và mất vài thập kỷ để ổn định với sự thành lập triều đại Lý vào năm 1009. Triều đại đó đã được nhà Trần tiếp tục nắm quyền cho đến năm 1400, trong khi Vương triều Goryeo bị nhà Choson [Triều Tiên] phế truất vào năm 1392.


Trích tranh “Văn quan vinh quy đồ” (đền Độc Lôi, Nghệ An) hiện trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. 


Dưới thời nhà Đường, tôn giáo chủ yếu ở Hàn Quốc, Việt Nam cũng như Trung Hoa là Phật giáo. Phật giáo đến Giao Chỉ đầu tiên dưới thời cai trị của Sĩ Nhiếp. Nhà sư Khương Tăng Hội (mất năm 280 SCN) sinh ở Luy Lâu được cho là người đầu tiên truyền bá giáo lý Phật giáo vào Trung Quốc. Phật giáo sau đó đến Hàn Quốc vào năm 338 SCN, hơn một thế kỷ sau khi xuất hiện ở Giao Chỉ.

Bắt đầu từ thế kỷ thứ VIII, các nhà Nho tại Trung Quốc nỗ lực tái khẳng định uy quyền của mình – đầu tiên là với Hàn Dũ (năm 715) và sau đó là một loạt các biện pháp trấn áp Phật giáo trong thế kỷ tiếp theo. Đến thế kỷ XI, Tam giáo kết hợp các yếu tố của Đạo giáo, Phật giáo và Nho giáo đã chiếm ưu thế ở Trung Quốc và đã mở đường cho tư tưởng Tân Nho giáo – còn gọi là Tống Nho. 

Các biện pháp trấn áp Phật giáo ở Trung Quốc đã có tác dụng đẩy nhiều nhà sư đến Việt Nam, do đó dưới triều đại Lý và Trần (1009-1400), Phật giáo duy trì vị thế quốc giáo. Nhưng cũng vào năm 1070, đền thờ Khổng Tử được xây dựng ở Thăng Long, nối tiếp bởi việc thành lập Quốc Tử Giám. Ở Hàn Quốc, dưới triều đại Cao Ly (918-1392), hệ thống khoa cử được thiết lập ra dưới thời vua Gwangong [Cao Tông] (949-975) và trường Gukjagam được thành lập dưới triều vua Seongjong [Thành Tông] (1083-1094), do đó gần như song song với sự phát triển ở Việt Nam. Nhưng từ đây, lịch sử hai vương quốc bắt đầu có những dị biệt.

Năm 1392, triều Goryeo bị thay thế bởi nhà Choson. Triều đại mới được thành lập bởi các thành phần thân Minh trong khi phái đối nghịch lại ủng hộ duy trì liên kết với nhà Nguyên. Tại Việt Nam, nhà Trần dù đánh thắng ba cuộc xâm lược của nhà Nguyên vào thế kỷ thứ XIII, sau đó đã bị suy yếu nghiêm trọng [vào cuối thế kỷ XIV]. Hồ Quý Ly đã phế truất các vua Trần vào năm 1400, tạo tiền đề khiến Đại Việt bị nhà Minh xâm lược và chiếm đóng từ năm 1407 đến 1428. Do đó, khác với nhà Triều Tiên, nhà Lê ra đời với cuộc khởi nghĩa chống quân Minh của Lê Lợi.

Tuy nhiên, nhiều điểm tương đồng thú vị có thể rút ra từ sự nghiệp của vua Triều Tiên Thế Tông [Sejong] (sinh năm 1398, trị vì 1418-1450) và của Lê Thánh Tông (sinh năm 1442, trị vì 1460-1497). Cùng là hai nhân vật có ảnh hưởng rất lớn trong thời đại này, họ đã trị vì trong một thời gian dài: Sejong 32 năm, Lê Thánh Tông 37 năm. Sejong lên ngôi vương vào năm 1418 ở tuổi 22, khi triều đại vẫn còn non trẻ. Trong 32 năm trị vì của mình, ông đã củng cố quyền lực nhà nước bằng cách đưa Tống Nho thành hệ tư tưởng chính thống. Cụ thể, ông tiếp thu ảnh hưởng của các nguyên tắc Tống Nho về nhân nghĩa, theo đuổi tri thức và cải thiện xã hội. Lê Thánh Tông thậm chí còn trẻ hơn Sejong khi ông lên ngôi hoàng đế (17 tuổi). Ông cũng nắm quyền trong hoàn cảnh bấp bênh hơn nhiều: khác với triều Choson, 20 năm cai trị kéo dài của nhà Minh đã phá hủy mọi tài liệu dùng làm cơ sở để một triều đại ngoại tộc mới lên như triều Lê có thể cai trị đất nước. Hệ quả ngược kéo theo là sau khi giành được sự ổn định, triều Lê Thánh Tông lại trở nên phụ thuộc hơn bao giờ hết vào mô hình Trung Hoa. 

Mặt khác, Lê Thánh Tông cũng phải trung hòa giữa quyền lợi của giới quân sự muốn có quyền lợi cát cứ với một triều đình trung ương tập quyền và thống nhất. Mặt khác, sau khi tiến đánh Champa và thâu nạp thêm lãnh thổ mới vào đế chế của mình, ông cần xây dựng một bộ máy hành chính hiệu quả. Bộ luật Hồng Đức không chỉ cung cấp một kế hoạch chi tiết về cách thức quản trị, nó còn có các hướng dẫn chi tiết về ứng xử hằng ngày trong xã hội. Những chỉ dẫn này nhằm vào cả người Việt và nhóm người Champa mới bị khuất phục.



Trích tranh "Hưởng Yến đồ" mô tả tiệc mừng Quan Giám ty đạo Bình An trên sông Taedong (Bình Nhưỡng ngày nay). Tranh Kim Hongdo (khoảng 1745-1806). Nguồn tranh: Bảo tàng Lịch sử Hàn Quốc. 

Ta thấy, cả Sejong và Lê Thánh Tông đều sử dụng các nguyên tắc chính trị của Nho giáo và dựa vào hệ thống tuyển chọn quan lại làm phương thức để đảm bảo vận hành bộ máy. Điều này củng cố tầm quan trọng của tầng lớp trí thức, được gọi là Yangban [lưỡng ban] ở Hàn Quốc và Sĩ phu ở Việt Nam.

Tân Nho giáo

Chúng ta cũng cần tránh đẩy đối sánh lịch sử đi quá xa. Lịch sử của Triều Tiên và Việt Nam cũng đi theo những quỹ đạo khác nhau vốn cũng ảnh hưởng lên sự phát triển Nho giáo của cả hai nước. Do đó tôi muốn đề cập tới một số khác biệt cơ bản giữa Nho giáo Hàn Quốc và Việt Nam.

Đến năm 1597, Tống Nho đã là hệ tư tưởng chính thống tại Trung Quốc, Hàn Quốc và Đại Việt. Thế nhưng ở mỗi nước nó lại có những đặc điểm khác nhau. Keith Taylor đã lập luận rằng nửa phía Bắc của Việt Nam, được gọi là Bắc Hà hoặc Đàng Ngoài nên được coi là một phần của Đông Á, trong khi nửa phía Nam, gọi là Đàng Trong hay Nam Hà thuộc về thế giới Đông Nam Á. Vũ Đức Liêm cho rằng miền Nam Việt Nam đúng hơn là một “vùng xám” vì nơi đây không chỉ là một khu vực gặp gỡ giữa văn minh Trung Hoa với Đông Nam Á mà còn là nơi văn hóa xã hội được định hình bởi nhiều ảnh hưởng đa dạng.

Có lẽ vì vậy, việc so sánh giữa Nho giáo Việt Nam và Hàn Quốc nên được giới hạn ở miền Bắc Việt Nam. 

Ngoài vấn đề giới hạn, có một số yếu tố khác biệt nữa. Hàn Quốc được hưởng nhiều thế kỷ ổn định suốt từ 1392 đến năm 1910. Điều này đã hạn chế vai trò của giới quân sự và cho phép nhà nước bổ sung quan lại thông qua khoa cử mà không bị gián đoạn. Qua đó, chúng củng cố vị trí của Yangban cũng như của tư tưởng Tống Nho. Ngược lại, giới Sĩ phu ở miền Bắc Việt Nam nhỏ hơn, lại thường bị thu hẹp ảnh hưởng do các cuộc nổi loạn và chiến tranh liên tục. 

Trên thực tế, từ đầu thế kỷ XVI đến cuối thế kỷ XVIII, Đại Việt luôn ở thế giằng co giữa các cuộc nổi loạn và sau đó là chiến tranh giữa các lực lượng Trịnh-Lê, Nguyễn và nhà Mạc. Dù Việt Nam sản sinh ra một số học giả lừng lẫy như Lê Quý Đôn, những dòng dõi tinh hoa truyền đời lại rất ít và thường bị cuốn vào tình trạng hỗn loạn của thời đại. Chúng ta không thấy sự xuất hiện của các trường phái Nho học khác nhau như phái Vương Dương Minh (1472-1529), phong trào Đông Lâm thời Minh hay tư tưởng Silhak [Thực học] ở Hàn Quốc cùng thời kỳ. Nếu như từ cuối thế kỷ XVII - đầu thế kỷ XVIII, các chúa Trịnh đã có thể tự duy trì quyền lực ở Đàng Ngoài thì vào những năm 1770, đất nước lại bị tàn phá bởi nội loạn. Bắt đầu ở phía Nam, phong trào Tây Sơn lan rộng lên phía Bắc và chấm dứt chế độ chúa Trịnh. Các cuộc xung đột làm chia rẽ giới sĩ phu đồng bằng, và những ảnh hưởng còn lại tiếp tục bị suy giảm khi kinh đô chuyển từ Thăng Long vào Huế dưới triều Nguyễn.

Ưu tiên hàng đầu của nhà Nguyễn sau khi thống nhất đất nước là khôi phục sản xuất nông nghiệp ở phía Bắc, nơi diễn ra hầu hết các cuộc giao tranh. Ngoài ra, nhu cầu nhân viên cho một bộ máy hành chính mở rộng đã thu hút hầu hết những người có học thức. Không còn không gian xã hội cho các học giả độc lập như Cao Bá Quát hay cho các cộng đồng trí thức đa dạng phát triển.

Ngược lại, tầng lớp Yangban Hàn Quốc có không gian phát triển lớn hơn, không chỉ nhờ ổn định chính trị mà còn do tiềm lực kinh tế, đặc biệt nhờ thiết chế nô tì. Xã hội Đại Việt cũng từng có nô tì, chẳng hạn, Hoàng đế Lê Thánh Tông mang về những nô lệ người Chăm từ các cuộc chiến năm 1471; nhưng họ bị giới hạn trong những ngôi làng riêng biệt và không làm lao dịch cho các gia đình sĩ phu. Trong khi đó, chế độ nô tì cho phép Yangban tự duy trì kinh tế và do đó mang lại cho con cháu họ giáo dục tốt nhất. Lý Túy Quang có dòng dõi quý tộc trong khi Phùng Khắc Khoan chỉ có một nền tảng khiêm tốn hơn nhiều. Sự ổn định kinh tế và chính trị cũng cho phép Yangban tạo ra các trường phái Nho học cạnh tranh.

Có những khác biệt lớn đáng chú ý khác trong cấu trúc xã hội tương ứng của hai vương quốc. Ở Hàn Quốc, có bốn tầng lớp: quý tộc Yangban có địa vị cai trị dù chiếm 10% dân số; Chungin [Trung nhân] bao gồm một nhóm nhỏ các quan chức thấp và người có chuyên môn hành chính và kỹ thuật; Tsangmin [Thường dân] là nông dân, người lao động, ngư dân, một số thợ thủ công và thương nhân; và Cheonmin [Tiện dân] là những người bị ruồng bỏ ở dưới đáy. Nô tì có địa vị thấp kém nhất.

Dù Việt Nam cũng phân chia theo các nhóm: sĩ, nông, công, thương – thực tế chỉ hai giai cấp tồn tại mà thôi: văn thân và nông dân. Ngoại trừ một vài làng nghề truyền thống, phần lớn các nghề thủ công chỉ là công việc phụ; thương nghiệp thường chỉ có quy mô nhỏ, đảm nhiệm bởi nữ giới vốn bị giới hạn bởi nguồn lực ít ỏi và thiếu khả năng di động; thương mại quy mô lớn hơn thường được thương nhân người Hoa hoặc phương Tây nắm. Việt Nam cũng như Hàn Quốc, cũng có lớp người bị khinh rẻ nhưng họ không được coi là một nhóm xã hội riêng biệt; trong khi nô lệ chỉ đến từ tù nhân chiến tranh. 

Xét trên các điểm nhìn khác nhau về cấu trúc xã hội của hai quốc gia, sẽ rất thú vị khi ta tìm hiểu vai trò của các tầng lớp hoặc nhóm khác nhau và tại sao cách dán nhãn giai cấp xã hội từ Nho giáo lại không có ý nghĩa với các nhóm hay tầng lớp đó. □
(Còn tiếp)

Hồ Tài Huệ Tâm

Thu Quỳnh – Tuấn Quang dịch

Nguồn: Tia sáng, ngày 19.03.2020.

Những quốc gia muốn hiểu Việt Nam một cách cơ bản sẽ phải lắng nghe văn chương Việt, thứ âm thanh tuy khó lĩnh hội tức thì nhưng cho phép giải mã phần nào tâm tính, tâm hồn Việt Nam.   

Dịp đầu năm 2018, thay vì món quà xuân là rượu hay trà, một người bạn đã tặng tôi tuyển truyện ngắn “Skogens salt”. Chị bảo rằng chồng chị, nhân chuyến sang thăm Thụy Điển, đã nhọc công tìm mua một tác phẩm văn chương Việt được dịch và bày bán ở đất nước Bắc Âu xinh đẹp ấy. Khó tìm vì ít ỏi, thưa vắng. Vì chưa đủ uy tín lớn để có thể phổ biến và gây tiếng vang ngoài những nhóm độc giả ít ỏi. Mặc dù, “Skogens salt”, như chúng ta biết, là “Muối của rừng”, một tập truyện xuất sắc của tác giả danh tiếng Nguyễn Huy Thiệp.

1.

Nhìn lại văn học Việt Nam từ đổi mới (1986) đến nay, những tác phẩm có cơ hội được dịch và giới thiệu với văn đàn quốc tế, trước hết, vẫn phải gây chú ý trong nước. Nếu không có thước đo này thì những nỗ lực cá nhân hay thịnh tình giao hảo và điều kiện tài chính cũng không làm cuốn sách đi được quãng đường xa rộng hơn chuyện dịch, in để biếu tặng, trưng bày.

Bản thân những Nỗi buồn chiến tranh, Thời xa vắng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Bến không chồng, Mảnh vỡ của đàn ông, Gia đình bé mọn, Cánh đồng bất tận... được lựa chọn dịch vì chúng xứng đáng là điểm nhấn của văn đàn Việt nên không quá mức “cả thẹn” với bạn bè. Trong đó, trường hợp Nỗi buồn chiến tranh không chỉ được dịch sang nhiều thứ tiếng bậc nhất (khoảng 20) và in với số lượng khá, đủ để không bị khuất lấp giữa rừng văn chương đa ngữ của thời toàn cầu hóa.

Thơ ca tuy khiêm tốn hơn nhưng, theo nhiều cách khác nhau, cũng xuất hiện trong các tuyển chọn mang tính giới thiệu hoặc các tập đơn như Defian Muse: Vietnamese Feminist Poems (nhiều tác giả), The Time Tree (Hữu Thỉnh), The Women Carry River Water (Nguyễn Quang Thiều), Three Vietnamese Poets (Văn Cầm Hải, Nguyễn Quốc Chánh, Phan Nhiên Hạo), Green Rice (Lâm Thị Mỹ Dạ)…

Hiện nay, một số nhà xuất bản trong nước cũng nỗ lực tạo ra phiên bản ngoại ngữ cho tác phẩm “con cưng” của họ như trường hợp nhà xuất bản Trẻ với Oxford yêu thương (Beloved Oxford), Nhắm mắt thấy Paris (Paris Through Closed Eyes), Cung đường vàng nắng (In the Golden Sun) của Dương Thụy; Vừa nhắm mắt vừa mở cửa sổ (Open the window, eyes closed) của Nguyễn Ngọc Thuần.

20210220 4

Xu hướng tự thân các nhà xuất bản quảng bá tác phẩm rất cần được khuyến khích và nhân rộng trong điều kiện các hội sách quốc tế lớn hay kênh phát hành trực tuyến Amazon đều đã đón chào “nền văn học nhỏ” như Việt Nam.

Tinh thần tự mình làm lấy cũng khiến các nhà văn bây giờ năng nổ, chủ động hơn trong việc dịch, in tác phẩm ở nước ngoài. Hồ Anh Thái và Mai Văn Phấn, theo tôi, điển hình cho ý thức quốc tế hóa tác phẩm của mình dựa trên điều kiện tài chính lẫn mối quan hệ văn chương. Hồ Anh Thái sớm có tác phẩm được dịch sang tiếng Anh, từ Trong sương hồng hiện ra (Behind the Red Mist), Người đàn bà trên đảo (The Women on the Island) cho đến Cõi người rung chuông tận thế (Apocalypse Hotel) và nhiều truyện ngắn khác. Mai Văn Phấn còn có biên giới ngôn ngữ rộng hơn khi thơ của ông đã được dịch sang nhiều thứ tiếng mà trong hình dung nhiều người, nó “xa lắc lơ” như tiếng Anbani, Rumani, Slovakia, Macedonia, Montenegro.

Cho dẫu việc dịch ra các thứ tiếng nhìn chung là thiểu số đó không quá hiệu quả về thị trường nhưng ít ra, nó chứng thực khát vọng tìm thêm các không gian tiếp nhận. Ở thời điểm hiện tại, giới cầm bút không thể trông cậy mãi vào chân lý hữu xạ tự nhiên hương mà cần xây dựng một đội ngũ cộng sự, một êkíp dịch thuật, xuất bản chuyên nghiệp để truyền thông, chuyển ngữ tác phẩm càng tích cực càng tốt.

2.

Việc quốc tế đón nhận văn chương Việt Nam, thật ra, không chỉ vì mối quan hệ thân sơ giữa các cá nhân hay đơn vị xuất bản mà còn vì ở quốc gia đó, nhu cầu tìm hiểu, nghiên cứu Việt Nam đã thành nếp khiến thị trường xuất bản có thể tìm kiếm, nắm chắc một lượng độc giả ổn định. Đấy chính là lý do vì sao văn chương Việt thường được dịch nhiều ở Pháp, Mỹ và Nhật, ba quốc gia có truyền thống và thành tựu Việt học.

Ở Pháp, nhà xuất bản Éditions de L’aube (thành lập năm 1987) đã rất mực nồng nhiệt và kiên trì xuất bản, tái bản Nguyễn Huy Thiệp với một loạt các tập truyện, kịch, tiểu thuyết: Un général à la retraite (Tướng về hưu); Le Coeur du tigre (Trái tim hổ), Les Démons Vivent Parmi Nous (Quỷ ở với người), La vengeance du loup (Sói trả thù), Conte d’amour un soir de pluie (Truyện tình kể trong đêm mưa), L’Or et le feu (Vàng và lửa), À nos vingt ans (Tuổi 20 yêu dấu), Mon oncle Hoat (Chú Hoạt tôi), Crimes, amour et châtiment (Tội ác, tình yêu và trừng phạt)…

Gần đây, nhà xuất bản Riveneuve, dưới sự cộng tác dịch thuật, giới thiệu của Đoàn Cầm Thi và cộng sự, cũng ấn hành nhiều tác phẩm văn chương đương đại: Thoạt kỳ thủy (A l’orignie) và Trí nhớ suy tàn (Un autre ciel) của Nguyễn Bình Phương; Cơ hội của Chúa (Un opportunité pour Dieu) của Nguyễn Việt Hà; Song song (Paralleles) của Vũ Đình Giang; Delete và Blogger của Phong Điệp, Ngựa thép (Chaval d’acier) của Phan Hồn Nhiên; T. a disparu, Paris 11 aout, L’Ascenseur de Saigon, Lettres à Mina của Thuận…

Ở Mỹ, nhà xuất bản Curbstone đã lập tủ sách “Tiếng nói từ Việt Nam” để chuyển ngữ và xuất bản một số tác phẩm văn xuôi của Lê Minh Khuê (tập truyện ngắn The Stars, the Earth, the River - Những ngôi sao, mặt đất, dòng sông), Ma Văn Kháng (tiểu thuyết Against the Flood - Ngược dòng nước lũ), Nguyễn Khải (tiểu thuyết Thời gian của người - Past Continuous), Nguyễn Huy Thiệp (tập truyện Sang sông - Crossing the River).

Ở Nhật, tác phẩm của Mai Ngữ, Nguyễn Minh Châu, Ma Văn Kháng, Nguyễn Huy Thiệp, Lê Lựu, Nguyễn Thị Thu Huệ, Bảo Ninh cũng đã được dịch. Từ tiếng Anh và tiếng Pháp, văn chương Việt tiếp tục có những phiêu lưu nhỏ lẻ qua một số ngôn ngữ khác (Thụy Điển, Đức, Ý, Hàn Quốc, Trung Quốc…) nhưng nhìn chung, mức độ xuất hiện ở các thứ tiếng này còn khá ít ỏi và thường lặp lại các tác giả, tác phẩm. Dường như chưa có thêm gương mặt mới khi mà số lượng dịch giả, chuyên gia về văn chương Việt ngoài khu vực tiếng Anh, Pháp là không quá nhiều.

Như thế, đường đi của văn chương Việt ra quốc tế, còn chịu tác động khá lớn từ các mối quan hệ học thuật và kinh tế-xã hội. Không khó nhận ra Hàn Quốc, một quốc gia đang ăn nên làm ra về kinh tế với Việt Nam, đang trở thành “thị trường mới” của văn chương Việt khi họ đã lần lượt dịch tác phẩm của Ma Văn Kháng, Lê Minh Khuê, Đoàn Lê, Phan Thị Vàng Anh, Hồ Anh Thái cho đến Nguyễn Ngọc Thuần, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Nhật Ánh.

Khi hợp tác kinh tế thuận buồm xuôi gió thì các trao đổi văn hóa văn chương cũng nảy nở đa dạng hơn. Dĩ nhiên, cơ hội của sự hợp tác này phụ thuộc con mắt xanh tiến cử và các mạnh thường quân nghệ thuật. Ở Việt Nam, hỗ trợ tài chính cho dịch thuật văn chương (như một chiến lược xuất khẩu văn hóa) đang quá ít ỏi trong khi các “ông lớn”, “đại gia” kinh tế thì chỉ giỏi chịu chi cho nhà lầu, xe hơi, bóng đá hoặc chơi golf…

3.

Cho đến năm 2019, Hội nhà văn Việt Nam đã tổ chức được 4 Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam với bản tổng kết khá chung chung: Có thêm nhiều tác phẩm được dịch, xuất bản tại nhiều quốc gia; được đón nhận bởi các tặng thưởng hoặc giảng dạy, nghiên cứu. Nhưng “nhiều” là bao nhiêu, ở nhà xuất bản nào và được đón nhận theo phạm vi nào, trong một nhóm nhỏ hay trong thị trường đọc lớn, thì chưa thấy một công bố có tính phân tích đáng tin cậy. Thành thử, quảng bá văn học, tuy được hiểu là việc cấp thiết nhưng có lẽ là hoạt động ít có kết quả thuyết phục của đời sống văn chương Việt Nam đương đại. Để tìm kiếm, xây dựng thị trường văn chương ngoài nước, theo tôi, không nên dựa dẫm vào dăm ba thi sĩ, văn sĩ, dịch giả ngoại quốc bằng hữu đôi khi còn ấm ớ về văn học Việt Nam, mà trước hết và quan trọng, phải là ông chủ các nhà xuất bản, các chuyên gia, mạnh thường quân môi giới và truyền thông văn chương. Vì chính họ sẽ quyết định đầu tư in hay không, in số lượng nhiều hay ít, in để bán hay để biếu tặng. Với những tập đoàn xuất bản lớn, chẳng cần đến hội nghị quảng bá, tự khắc họ cũng tìm đến nếu mùi vị thị trường đủ mạnh.

Khi chưa có nhiều tác phẩm được dịch ra nhiều thứ tiếng và in số lượng lớn thì giá trị văn chương Việt trên văn đàn quốc tế sẽ trở nên mơ hồ. Chúng ta mới chỉ có dăm ba giải thưởng văn chương khu vực và quốc tế ở mức “tạm được” cho dù giấc mơ ẵm giải Nobel Văn học luôn đau đáu trên truyền thông. Chúng ta cũng chưa có tác phẩm nào nằm trong danh mục “best-seller” của các tờ báo/tạp chí uy tín cho dù ngày nào độc giả Việt cũng bắt gặp tác phẩm bán chạy của các nước bạn trên hiệu sách. Bản thân tôi nhiều lúc không thể hiểu vì sao vô số tác phẩm xoàng xĩnh lại có thể dễ dàng dịch, bán được thị trường Việt trong khi để có một tác phẩm nội địa ra quốc tế thì khó khăn, chậm chạp đến thế. Chúng ta thiếu gì, cần gì và sẽ phải học hỏi cách tiếp thị văn chương của bạn bè ra sao để cải thiện tình hình? Nếu cứ mãi một mình, nỗ lực tự thân hay thân tình bằng hữu, con đường ra quốc tế của văn chương Việt sẽ càng vạn dặm mênh mông.

Mai Anh Tuấn

Nguồn: Lao động, ngày 15.02.2021.

20200411 4

Truyện Kiều được xem là một trong những tác phẩm quan trọng nhất của văn học Việt Nam. Vẻ đẹp ngôn ngữ Truyện Kiều cùng phạm vi rộng lớn của các hoàn cảnh cùng cực trong đời sống và hi vọng trong câu truyện này, sự cứu chuộc kì diệu đối với Kiều và sự hồi phục cuộc đời nàng trong phẩm giá tạo nên một phần thống nhất của di sản văn hóa Việt Nam.

Bản dịch tiếng Đức của thiên sử thi này được xuất bản lần đầu vào năm 1964, do Irene và Franz Faber dịch. Các bản dịch như thế sẽ giúp nâng “Cô Kiều” lên hàng văn học thế giới. Thông qua các bản dịch Truyện Kiều, Nguyễn Du đã trở thành một phần của chuẩn mực văn chương thế giới cùng với các tác giả như Chekhov, Shakespeare và Goethe. Ngày nay, Truyện Kiều thậm chí hấp dẫn những người không biết nhiều lắm về Việt Nam. Chính câu chuyện về cô Kiều và vẻ đẹp của ngôn ngữ là điều lay động người đọc. Truyện Kiều vì thế đã trở thành một phương tiện trung giới cho hiểu biết văn hóa và sự tiếp cận Việt Nam.

Trong sự biết ơn bản dịch tiếng Đức và tôn kính nguyên bản của Nguyễn Du, Viện Goethe mời ba đạo diễn sân khấu người Việt và người Đức cùng bày tỏ các cách tiếp cận mới mẻ và độc đáo của họ sau khi đọc lại Truyện Kiều. Ý tưởng phía sau là di sản văn hóa - trong bối cảnh dân tộc hay thế giới - chỉ tiếp tục tồn tại nếu nó luôn luôn trải qua được sự kiểm nghiệm của thời gian.

Vì thế, ngày nay khi đọc Truyện Kiều, ta bị thách thức phải đặt cho chính mình câu hỏi về sự quan yếu của nó đối với đời sống của mình. Nó tác động và phản ứng thế nào đối với cuộc đời của độc giả đương thời? Một chủ đề cơ bản của sự suy tư về câu truyện như một toàn thể có lẽ sẽ là vai trò của nhân vật chính - Thúy Kiều. Thúy Kiều liên hệ như thế nào đến cảm xúc, kinh nghiệm và khát vọng của nam giới và phụ nữ ngày nay? Và lịch sử cùng như bối cảnh xã hội và chính trị thay đổi tác động đến cách chúng ta đọc, hiểu, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, cách ta thưởng thức Truyện Kiều như thế nào?

Trên đây là những câu hỏi thôi thúc các đạo diễn sân khấu và nhiệm vụ đầy thách thức của họ kiểm nghiệm những cách thức mới trình hiện Kiều trên sân khấu. Các câu hỏi như thế cung cấp bối cảnh cho bài tiểu luận này, bài viết nhằm tổng kết lại một số quan sát và suy nghĩ cá nhân về Truyện Kiều trên cơ sở hai bản dịch[i].

Sử dụng một sử thi dân tộc cho một trải nghiệm liên văn hóa

Điều hấp dẫn tôi về Truyện Kiều và thôi thúc tôi tìm kiếm một cuộc trò chuyện sâu sắc về văn bản chủ yếu là điều này: sự không tưởng có tính sử thi vĩ đại về khả năng hồi phục nhanh chóng trong gương mặt của nỗi đau khổ lớn lao; sự quanh co của “kiếp” (karma) thông qua cốt truyện như một sợi chỉ kép; bản năng tự bảo tồn chiến thắng nỗi đau đớn nặng nề của hoàn cảnh xã hội; sự đề cao giáo dục như phương tiện để bảo tồn phẩm giá con người; và diễn ngôn chính trị về giá trị của sự thống trị của luật.

Sự không tưởng của thiên sử thi: Khả năng hồi phục nhanh chóng của một nhà nước dân tộc trong tình trạng bị giam cầm

Lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du thời kì đầu vẫn phần nào ít được biết đến. Người ta vẫn chưa tìm được bản thảo đầu tiên của thiên sử thi này. Cũng không chắc chắn về việc nó đã lan truyền như thế nào. Tuy nhiên, việc tiếp nhận tác phẩm từ cuối một phần ba của thế kỉ 19 thì khá chắc chắn. Chính các giai tầng có học vấn, con cháu của giới tinh hoa chính trị và giáo dục là những người đã sao lại tác phẩm, ghi nhớ nó, thưởng thức nó trong tính toàn vẹn, và thực hiện các bài giảng truyền miệng về nó, vì thế lan truyền phổ biến tác phẩm vượt ra ngoài phạm vi hẹp của giới có học thức.

Đó là thời điểm khi Việt Nam chịu ách đô hộ của Pháp. Ba thế hệ người Việt đã trưởng thành dưới sự cai trị của Pháp. Rồi thế hệ kế tiếp chiến thắng trong cuộc chiến đấu chống lại bộ máy quân đội Mỹ cũng như chiến thắng trong cuộc xung đột quân sự ở biên giới Trung Quốc để Việt Nam cuối cùng giành được sự tự trị của mình.

Trong nhà trường, các thế hệ trẻ Việt Nam được dạy để nhấn mạnh rằng Truyện Kiều “thực ra” là một câu chuyện từ Trung Quốc, viết theo quy tắc của văn học phong kiến, nhưng thời kì đó đã qua từ lâu. Tôi muốn nhấn mạnh rằng chính Hồ Chí Minh là người sau chiến thắng Điện Biên Phủ đã đưa bản sao Truyện Kiều của Nguyễn Du cho nhà báo Đức là Franz Faber cùng yêu cầu dịch nó sang tiếng Đức. Một thông điệp văn hóa cho phương Tây, tới một quốc gia đã chứng tỏ sự thấu cảm sâu sắc và tình đoàn kết kiên định cho cuộc đấu tranh giải phóng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi chắc rằng không ai lại buộc tội Hồ Chí Minh rằng ông muốn lưu truyền những giá trị phong kiến và truyền thống Trung Quốc, điều khiến cho việc ông thưởng thức Truyện Kiều đáng chú ý hơn. Ông không phải là người duy nhất. Rất nhiều người bạn tâm giao khác về chính trị và quân sự của Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao Truyện Kiều như một biểu hiện của bản sắc Việt Nam trong cuộc chiến giải phóng dân tộc.

Truyện Kiều tự nó đã thiết lập một sử thi dân tộc, không chỉ bởi các lý do chính trị, mà còn bởi hình thức và nội dung của nó. Về mặt thẩm mỹ, thiên sử thi góp một tiếng nói vào nỗi đau đớn của cá nhân người. Vẻ đẹp và tính tao nhã của ngôn ngữ tác phẩm giúp người đọc nhận ra chính mình trong nỗi đau đớn này, đồng thời vượt lên trên nỗi đau. Do độ sâu của cảm xúc, nhiều câu thơ trong thiên sử thi đã trở thành những lời nói thông thường ngày nay.

Một khía cạnh khác làm cho Truyện Kiều thành một tác phẩm vĩ đại là chủ đề có tính không tưởng của nó. Mỗi tác phẩm nghệ thuật vĩ đại đều chứa đựng một lời hứa về một thế giới tốt hơn. Chính lời hứa này làm cho Truyện Kiều của Nguyễn Du thành một thiên sử thi dân tộc. Sự kiên trì trong suốt những nỗ lực vô ích giành lấy tự do, kháng cự lại sự thống trị ngoại bang, và sự đau đớn không ngừng đi cùng với nó cuối cùng sẽ được đền đáp bằng lời hứa về một cuộc đời mới. Kiều kết luận câu chuyện đời cô bằng quyền tự quyết, bắt đầu một cuộc đời trong phẩm giá và bình an. 

Cho đến khi những cuộc chiến tranh thế kỉ 20 trên mảnh đất Việt Nam đi đến kết thúc, Thúy Kiều có thể được diễn giải như một nhân vật văn học gợi cảm hứng và âm vang không chỉ những độc giả đơn lẻ, mà toàn bộ dân tộc.

Kiều là câu chuyện về nỗi đau khổ của một người phụ nữ, nhưng nó đại diện cho nỗi đau đớn về thể xác và tinh thần của mọi người Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ. Những câu thơ nói về nỗi đau và hi vọng của cá nhân. Thơ ca Truyện Kiều góp vào một tiếng nói về nỗi đau của họ. Ngôn ngữ của nó hướng về cái cao cả, không bi lụy. Mỗi câu thơ và sự xuất sắc của nó kiên trì một niềm hi vọng rằng đến cuối cùng sau mọi nỗ lực tranh đấu sinh tồn và tự do, nhân vật chính sẽ không còn bị sỉ nhục hay hủy diệt, mà tái sinh một cuộc đời tự quyết và được thừa nhận rộng rãi.

Dưới dạng những thực tại chính trị, lời hứa đinh ninh trong thiên sử thi Truyện Kiều đã được thực hiện từ lâu. Chủ nghĩa phong kiến là một điều gì đó đã thuộc về quá khứ; những kẻ cai trị ngoại bang đã bị quét sạch. Việt Nam đã tự giải phóng. Từ sau khi giành độc lập và sau “Đổi mới”, Việt Nam đã giành độc lập và người Việt Nam đã được thừa nhận trên toàn thế giới.

Vậy thì những diễn giải về ý chí của Truyện Kiều của Nguyễn Du, tất nhiên, hoàn toàn khác với những điều kiện của những năm 1950. Kiều không còn đại diện cho một dân tộc bị đàn áp. Thiên sử thi dân tộc không còn thuộc về riêng Việt Nam, mà đã giữ địa vị cao trong danh mục văn chương thế giới. Điều này mở ra những viễn tượng mới, một cái nhìn từ bên ngoài đối với tác phẩm. Tiểu luận này chỉ là một trong nhiều cách tiếp cận rồi sẽ tiếp tục đến.

Niềm hi vọng bất diệt có một cái tên: Khả năng phục hồi nhanh chóng

Nếu ta định chọn những từ khóa của thiên sử thi cho một danh mục của thư viện, ta không thể không ấn định từ khóa “buôn người” cho Truyện Kiều của Nguyễn Du. Một người phụ nữ mất đi địa vị và quyền như một thành viên trọn vẹn của xã hội dưới những hoàn cảnh dị thường, và trước khi cô biết điều đó, cô nằm dưới quyền sinh quyền sát của bạo lực không bị kiểm soát, dưới sự thay đổi thất thường của hoàn cảnh bên ngoài, và âm mưu của những mạng lưới phần nào hiểm ác. Điều này khiến cho câu chuyện thành một bản cáo trạng về sự bất công của thế giới. Nó cũng đồng thời nhắc nhở ta, năm thế kỉ sau phiên bản nguồn gốc Trung Quốc của nó, để nói lên tiếng nói chống lại nạn buôn người và nỗ lực xây dựng một thế giới trong đó mọi phụ nữ và nam giới có thể đi lại tự do mà không sợ hãi.

Gần với các tác giả vĩ đại như Shakespeare và Goethe, Nguyễn Du trụ lại được: Trong tác phẩm của ông, ngôn ngữ đã đưa nỗi đau và sự thống khổ cùng bao khoảnh khắc hạnh phúc và tình yêu say mê vào địa hạt của cái cao cả. So sánh Kiều với các nhân vật nữ trong văn học cổ điển Đức thế kỉ 18 và 19 (G.E.Lessing, J.W.Goethe, F.Schiller, H. v. Kleist, G. Büchner, T. Fontane, F. Wedekind), có một điều nổi bật là Kiều có một kết thúc có hậu: một người phụ nữ đau khổ, bị chối bỏ bởi mọi người đàn ông và quyền lực xã hội, không gặp một cái chết bi kịch mà vẫn sống, trong sự tự quyết và phẩm giá.

 Việc Kiều không kết thúc như một thiên thần trên thiên đường, như Gretchen trong Faust của Goethe, mà tiếp tục sống như một người phụ nữ trưởng thành trong một cuộc sống do chính cô lựa chọn là một kết thúc cổ tích đẹp. Nó làm dấy lên mối quan tâm của độc giả nước ngoài về những kho báu của văn chương hơn nữa có thể được giấu trong quá trình Thúy Kiều tìm kiếm những con đường thoát khỏi những vướng mắc của định mệnh và những hoàn cảnh bi đát.

Trong những đoạn tiếp theo, tôi sẽ không xem Thúy Kiều như một ẩn dụ của trải nghiệm dân tộc trong cuộc tranh đấu giành lại quyền tự quyết, mà là biểu hiện vai trò của các nhân và định mệnh, của nỗi đau và niềm hi vọng của một người phụ nữ thuộc tầng lớp trung lưu có giáo dục.

Thúy Kiều - một anh hùng trong tuyệt vọng

Thúy Kiều là một anh hùng. Nàng sống trong những cuộc phiêu lưu và những hoàn cảnh của cuộc đời có thể làm suy sụp hầu hết những người khác. Nàng bị bắt làm nô lệ, bị cưỡng bức “Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, nhưng tai họa không hủy diệt được nàng.

Cuộc đời Kiều là một cuộc tranh đấu giành lấy cuộc đời bình an cho mình, giải thoát khỏi đau đớn và mất phẩm giá. Nhưng trên thực tế, ba lần nàng bị đòn roi, ba lần hầu như bị đánh cho đến chết, ba lần hầu như mất đi cuộc sống, sáu lần bị bán cho người khác, hai lần tự vẫn, chỉ có một lần thấy có lý do để cười.

Bước ngoặt trong cuộc đời cô là một lần cô hầu như nỗ lực tự tử thành công. Người ta có thể cho rằng cuối cùng cô đã đầu hàng hoàn cảnh quá tàn bạo vây phủ quanh mình. Điều này có thể làm cho cô giống như nhiều nhân vật nữ trong văn học Đức, những người không tìm ra được con đường khác thoát ra khỏi cuộc đời bị chi phối bởi người nam và thói đạo đức giả hơn là kết thúc cuộc đời trong ghê tởm và tuyệt vọng. Thực ra thì, những nỗ lực như thế là hành động kiểm soát cuộc đời của riêng mình. Khi Thúy Kiều gieo mình xuống nước, nàng tuyệt vọng. Đó là ý chí mạnh mẽ của nàng cự tuyệt một cuộc hôn nhân ép buộc với một viên thổ quan không có tên. Nàng quyết định trốn thoát và mạo hiểm. Nàng phải đưa mình đi. Nhưng nàng không rời khỏi con thuyền mà không hi vọng. Nàng có một ý niệm mơ hồ về sự cứu thoát nhờ vào lời tiên tri mà nàng Đạm Tiên đã hứa về sự cứu chuộc nàng ở không gian và thời gian nhất định quả thực gần lúc Thúy Kiều gieo mình trên sông Tiền Đường.

Thúy Kiều giao phó thân mình cho lời hứa của Đạm Tiên, lời hứa đưa nàng đến cuối của cái được xem là một kiếp (karma) đầu tiên trong cuộc đời nàng. Bằng cách trầm mình, nàng rửa sạch mọi tội lỗi của bản thân và của thế giới xung quanh mình. Nàng làm cho mình tự do để có một cuộc đời mới. Giai đoạn thứ hai này của cuộc đời nàng đã được chuẩn bị và chờ đợi bởi một bà tiên hộ mệnh mới, vãi Giác Duyên. Những niềm vui của cuộc đời mới này bao gồm chiêm nghiệm suy tư, thơ ca và trò chuyện. Thúy Kiều bước vào cuộc đời mới này thông qua một quá trình thanh tẩy được Giác Duyên giúp đỡ. Sau khi hồi phục từ sự gian khổ và niềm an ủi của Giác Duyên, Thúy Kiều sẽ sẵn sàng tiếp tục sống, trở lại nhà cùng chàng Kim, cùng cha mẹ và hai em và bắt đầu một cuộc đời mới không còn hung bạo và nhơ bẩn, trong một trạng thái lấy lại phẩm giá.  

Kiếp (Karrma)-một hình thức văn học của bạo lực và cứu chuộc trong cấu trúc

Trong suốt phần chính của đời Kiều, sức sống và những quyết định, hi vọng và khao khát của nàngkhông ngừng bị hoàn cảnh ngăn trở. Bất cứ ý định tốt đẹp nào của nàngcũng bị hoàn cảnh làm cho biến thành một cái gì đó đau đớn. Ở nơi mà người ta nói về số phận và “kiếp”có sức mạnh lớn hơn ý chí cá nhân con người, những người giống như tôi có xu hướng nhìn các hoàn cảnh xã hội và chính trị và những cấu trúc chống lại ý muốn tốt đẹp của cá nhân và đảo ngược những ý định tốt đẹp thành những kết quả không mong đợi đầy xấu xa của những trở lực bên ngoài

Một số độc giả diễn giải số phận của nàngKiều như việc hoàn thành số kiếpcủa nàng. Trong giai đoạn thứ nhất của cuộc đời, đây là nơi tụ lạicủa tội lỗi cá nhân quay trở lại với một tiền kiếp mơ hồ nào đó cộng với ảnh hưởng kỳ lạ của nàng Đạm Tiên, người chiếm giữ nàng trong đoạn đầu của tự sự và hứa hẹn về sự cứu chuộc chỉ trong một tương lai xa.

Giai đoạn thứ hai của cuộc đời Kiều được nhân vật Giác Duyên chuẩn bị. Cuộc gặp với Giác Duyên bắt đầu bằng việc Kiều thoát khỏi công việc của kẻ nô tì trong nhà Hoạn Thư. Nàng được cho phép sống trong chùa như một ni cô. Sự giải thoát này bị hỗn loạn bằng sự quay trở lại của Thúc Sinh. Thúy Kiều phải thoát khỏi tình huống thỏa hiệp. Nàng đã may mắn và tìm được chốn dung thân tạm thời với Giác Duyên. Nhưng nàng phải tiếp tục cuộc chiến của mình. Sau đó, khi Thúy Kiều được Từ Hải giải phóng và được quyền báo ân báo oán, nàng triệu mời Giác Duyên và trả ơn cho bà. Mối quan hệ giữa Giác Duyên và Thúy Kiều tiếp tục vượt ra ngoài sự báo đáp này. Giác Duyên được báo trước về việc giải thoát Thúy Kiều và sứ mệnh cao quý của mình trong việc này. Giác Duyên đón Thúy Kiều lần thứ hai và giúp nàng sẵn sàng trở lại nhà và quyết định tiếp tục cuộc đời mình như thế nào

Theo cách đọc của tôi thì tỷ lệ của cá nhân với một chút vai trò mảy may nhỏ bé trong dòng chảy thời gian cũng như việc thêm vào các tình huống xấu và tốt thông qua những bà tiên chẳng hạn như Đạm Tiên và Giác Duyên là các hình thức thẩm mỹ của việc tạo mã cho thơ ca và văn học làm chúng ta hiểu được vì sao ta phải chịu đựng những ngọn triều của đau buồn và hạnh phúc trong cuộc đời - vì lý do gì đi chăng nữa.

Với một người phương Tây xa lạ như tôi thì sự tương tác giữa cá nhân và xã hội đưa ra những cách khác nhau làm thế nào để hợp lý hóa điều xảy ra xung quanh ta. Ta có thể xem cuộc đấu tranh của Thúy Kiều để làm điều tốt cho gia đình mình, cho việc giải phóng bản thân khỏi tình trạng bị giam cầm, cho sự hòa hợp giữa tình yêu với lòng ghen, cho việc dùng một lời nói dối trong tình huống bất khả kháng để giành lại phẩm giá như những nỗ lực dũng cảm và hợp pháp cho một cuộc đời trong phẩm giá làm người. Nhưng không may thay, chúng không phù hợp với cấu tạo của xã hội xung quanh nàng. Tôi sẽ gọi những cấu tạo này là bạo lực về cấu trúc. Vì thế, tất cả sức sống và ý định tốt đẹp của nàng đều bị ngăn cản và đảo ngược thành những tác động xấu đến nàng. Các mô thức ứng xử của những đối tượng phi pháp của một băng đảng, của người nắm quyền tối cao đồi bại do địa vị của họ, hay điều cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là nguyên tắc tương tác toàn cầu, tức là giá trị bằng tiền hữu hình và vô hình vô hiệu hóa những cơ hội có được tự do và phẩm giá của con người.

Cái nối số kiếp thứ hai với cái kiếp đầu tiên là học vấn của Kiều. Tầm quan trọng của những kĩ năng văn hóa đối với phẩm giá cá nhân của nàng trở nên hiển nhiên trong các trường hợp khi Thúy Kiều được mang đến những cơ hội để trình hiện bản thân như một người phụ nữ được giáo dục tốt và hoàn toàn ở địa vị xã hội cao hơn.

Thông qua những khoảnh khắc ngắn như thế, nàng thoát ra khỏi sự thống trị của môi trường xã hội của mình với tất cả những đe dọa, đau đớn và đàn áp. Nàng có thể chứng tỏ phẩm chất, sự tế nhị bằng cầm, kì, thi, họa. Trong các khoảnh khắc hiếm hoi chứng tỏ mình với thế giới xung quanh đó, nàng có thể tác động đến tư tưởng của viên quan lúc đầu muốn hủy bỏ cuộc hôn nhân của nàng với Thúc Sinh và đẩy nàng trở lại lầu xanh. Nàng thậm chí còn chạm đến trái tim của Hoạn Thư, người đàn bà ghen tuông sau đó đã thả cho nàng vào chùa chép kinh. Ngay cả sự tái hợp muộn màng của nàng với chàng Kim cũng theo hướng của học vấn theo nghi thức và đạo đức của mình. Nàng hướng vào một lối sống xứng đáng cho mình và sự hài lòng cho người xung quanh trong thơ và đàn, không phải đời sống lứa đôi hay con cái.

Ngày nay ta có thể tán thành hay thậm chí cười vào chuyện đánh giá cao trinh tiết hay đời sống khổ hạnh không có dục tình; nhưng quyết định của Thúy Kiều là một biểu hiện rõ ràng của việc tự chủ và tự quyết, và vì thế là biểu hiện của sự lựa chọn một cuộc đời có phẩm giá

Thúy Kiều - tự chủ cuộc đời mình

Truyện Kiều là một câu chuyện từ thời phong kiến và cũng là một câu chuyện về nạn buôn người. Trong bất cứ trường hợp nào, Kiều cũng không nhận được thù lao cho công việc của nàng. Nàng tự bán mình để cứu cha khỏi cảnh tù tội. Kiều bước vào đời sống xã hội bên ngoài gia đình mà không có của hồi môn. Từ lúc đó trở đi, những người sở hữu nàng bán nàng như bán gia súc.

Ngay từ đầu, nàng đã không một xu dính túi và vẫn như thế cho đến khi trở lại với Kim Trọng. Một cách vô tình, nàng bị vướng vào một vòng xoáy của đường dây buôn bán biến nàng thành nô lệ tình dục cho những người đàn ông mua đi bán lại, và những người phụ nữ lợi dụng thân thể nàng đến mức nàng không còn nhận ra bản thân mình nữa.

Vẻ đẹp của nàng không phải vốn riêng đến mức nàng có thể sử dụng mà không đếm xỉa đến những quy luật của thị trường. Vẻ đẹp của nàng được bán mỗi lần với những cái giá khác nhau, và nàng không bao giờ thấy những số tiền này. Ngược lại, ngay cả người anh hùng chắc chắn, người giải phóng nàng (Từ Hải) cũng chọn không dùng sức mạnh quân sự mà thay vào đó trả một số tiền lớn để biến nàng thành nữ hoàng của mình.

Câu truyện về nô lệ tình dục tiếp diễn trong suốt thiên sử thi, ngoại trừ một quãng giữa. Khi Thúy Kiều phải vội vã rời chùa của Hoạn Thư, nàng ăn trộm chuông vàng khánh bạc là những đồ quý giá. Hành vi ăn trộm này cuối cùng đã báo hại nàng. Sau một thời gian ngắn sống ở trong chùa với Giác Duyên, nàng bị đẩy đi và phải trở lại thế giới lầu xanh - mà không có đồ quý trộm được.

Cho dù Kiều cuối cùng không có được gì từ việc lấy đồ, nhưng đó là một hành động nổi loạn đáng chú ý. Việc ăn trộm của nàng là một sự lo xa vì trải nghiệm sống trước đó đã dạy nàng bài học đau đớn rằng không có tiền, nàng sẽ luôn phải trả giá bằng thân thể mình. Cho nên nàng cần một phương tiện để đổi chác và chi trả để tồn tại trên con đường trở về nhà và không nằm dưới quyền sinh quyền sát của người khác. Nếu nàng dừng ở một lữ quán trên đường về, nàng đã có cơ hội lớn để vượt qua bình yên vô sự. Nhưng nếu không có tiền, bi kịch nạn buôn người sẽ tái lại. Chỉ có trộm đồ mới cho nàng phương tiện cần thiết để đi một mình và độc lập. Hành vi trộm đồ rõ ràng là một dấu hiệu không thể nhầm lẫn của việc tự quyết định và tự cứu mình của nàng.

Thất bại của kế hoạch của nàng là bi kịch, nhưng nó không thay đổi thực tế là ý niệm về việc tự trang bị bằng một phương tiện trao đổi là cách duy nhất còn lại để nỗ lực và bảo tồn sự toàn vẹn cùng sự an toàn của nàng.

Lời hứa về Luật pháp và trật tự

Sự tái hợp của nàng Kiều với Kim Trọng và gia đình sẽ không thể xảy ra nếu không có việc Hồ Tôn Hiến chiến thắng Từ Hải. Sau khi lãnh thổ được thống nhất, biên giới được mở rộng. Kim và Kiều như mọi người khác giờ đây có thể đi bất kì đâu một cách tự do và an toàn.

Cái giá phải trả cho chiến thắng này là cái chết của Từ Hải. Thúy Kiều cảm thấy hổ thẹn và tuyệt vọng vì cái chết của Từ. Nàng tự trách mình vì đã phản bội chàng và người nàng yêu. Vì chính Kiều đã thuyết phục Từ Hải đầu hàng triều đình. Vì tình yêu với Kiều nên Từ Hải nghe theo lời nàng, đem giang sơn và quyền lực dâng cho Hoàng đế cùng vị tướng của ông ta.

Ý định của Kiều vốn là ý tốt, nhưng nó khiến Từ Hải nghe theo lời nàng mà thậm chí từ bỏ quyền lực của mình.

Trước khi đi đến quyết định đó, Thúy Kiều và Từ Hải đã cẩn thận cân nhắc lợi hại của việc ra hàng. Mặc dù cuộc trao đổi của họ đi đến rõ ràng là quyền lực của Từ Hải là phản nghịch. Chàng là một người hoang dã, một kẻ cướp và một kẻ xâm chiếm. Nhà nước của chàng được xây dựng trên sự cai trị đẫm máu. Chế độ tàn bạo của chàng chỉ suy yếu đi vì bản chất khoan dung của vợ mình. Ngược lại, Hoàng đế thu hút mọi người bằng sự cai trị của luật pháp và trật tự, của hòa bình rộng rãi và việc đi lại tự do cho Thúy Kiều trở lại quê nhà.

Cuối cùng, cả Thúy Kiều và Từ Hải đều ưng thuận sự cai trị của luật lệ và chống lại bạo quyền của nhà nước kẻ cướp. Thúy Kiều và Từ Hải bị hấp dẫn bởi lời hứa về một vùng đất của hòa bình và từ tâm. Đây là động lực và niềm tin của họ khi đầu hàng Hồ Tôn Hiến. Quyết định của họ bị nhà cầm quyền hoài nghi. Từ Hải ngay lập tức trả giá bằng cuộc sống của mình. Thúy Kiều được mang đến thêm một đêm hi vọng trước khi Hồ Tôn Hiến vứt bỏ nàng như một thứ bỏ đi.

Những nhận xét này và năm khía cạnh trong cách đọc của tôi không gì hơn ngoài những ghi chép đơn thuần về cuộc thảo luận phong phú giữa các học giả Việt Nam và châu Á cùng những người yêu văn chương. Chúng có thể đơn thuần chứng tỏ rằng Truyện Kiều của Nguyễn Du có rất nhiều lớp nghĩa để mang đến cho thậm chí người sống ở một nền văn hóa khác đến 200 năm sau khi cuốn sách ra đời một góc nhìn khác lạ về việc xem xét tác phẩm với các lớp nghĩa làm cho Truyện Kiều trở nên gần gũi và đáng yêu đáng quý với cả văn hóa dân tộc và với cả chính cuộc đời của người đọc.

Wilfried Eckstein

Nguyễn Thị Minh dịch (Sài Gòn, 2019)

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 25.03.2020.

 


[i](Nguyễn Du, Truyện Kiều. bilingual Vietnamese-English, songngữ Anh-Việt, Tái bản có bổ sung. Translation (bản dịch) Michael Counsell. Thế Giới 2013:

 Nguyễn Du, Truyện Kiều. bilingual Vietnamese-German, bản dịch tiếng Đức của Irene và Franz Faber. Nhà xuất bản. Thế Giới 2015)

 

 

Lại sắp Tết nữa rồi đây. Lại thêm một lần mẹ quê hương trông ngóng. Biết bao giờ được sum vầy trong cái Tết quê nhà?

Năm nay, từ Nga về thăm nhà và dịch Covid-19 vẫn đang hoành hành nhiều nơi trên thế giới nên tôi được ăn Tết ở quê nhà. Những ngày này, lại nhớ những ngày cùng bạn văn đón Tết trong mưa tuyết ở xứ bạch dương.

Khóc trong Tết đầu tiên xa nhà

Tết đầu tiên trên xứ tuyết, hơn 20 anh chị em chúng tôi đang học ngoại ngữ ở Khoa Dự bị Trường Đại học Tổng hợp Lomonosov tổ chức đón giao thừa ngay trong "ốp" (ký túc xá). Các nhà thơ Nguyễn Đình Chiến, Trần Đăng Khoa, Từ Thị Loan bên Trường Viết văn Gorki cũng kéo sang. Đúng 8 giờ tối Moscow (lúc ấy, bên kia trái đất là giao thừa Việt Nam), tôi đọc lời khai mạc. Pháo trong băng cát-xét nổ giòn (không nhớ rõ ai đã lo xa mang theo băng ghi âm tiếng pháo từ ở nhà đi). Tất cả đám thanh niên lần đầu tiên xa nhà òa khóc, làm các bà giáo Nga phải dỗ mãi.

Người buồn nhất trong Tết ấy là Nguyễn Đình Chiến. Có ai ngờ chàng lính cao to đi nhanh bước mạnh, quen "mưa to gió lớn những phương trời" lại là người đa cảm yếu mềm. Rượu ngấm rồi, anh khóc. Anh nhắc tới bố mẹ, gọi tên vợ con, day dứt với dự định về đón Tết ở Việt Nam không thành. Ngược lại, Trần Đăng Khoa lúc nào cũng tếu táo pha trò, có lẽ để đánh tan nỗi buồn của bạn.

20210220

Khi đã chuyển sang học Trường Viết văn Gorki, mỗi mùa Xuân đến, đón Tết đối với tôi gần như là chiếu lệ. Đón Tết vì sự ăn sâu của một tập tục cổ truyền không khi nào bỏ được. Trời Tây, khí hậu Tây, phong cảnh Tây, làm Tết ta khó gợi nên sự rộn ràng náo nức. Thiếu sắc thắm của hoa đào (dẫu các bạn gái có làm hoa giấy y như thật), thiếu pháo nổ râm ran trời đất (bên Tây, Tết âm lịch của ta là ngày làm việc bình thường của người bản địa, người ta không cho đốt pháo), thiếu cảnh áo mới rộn ràng đường quê đi chúc Tết họ hàng, thiếu cái se se lạnh, thiếu những giọt mưa Xuân bay lất phất (bên này chỉ mênh mông tuyết trắng lạnh đến hàng chục độ âm)... Thiếu nhiều thứ lắm. Đặc biệt là thiếu cảnh con cháu quây quần bên cha mẹ, ông bà nội ngoại. Nhớ những ngày còn ở Việt Nam, cứ những ngày giáp Tết, mẹ tôi lại nhẩm tính đứa này đứa nọ sắp về. Tầm 2 giờ chiều, giờ tàu thủy Hà Nội - Nam Định chạy qua bến làng tôi, mẹ lại ngóng ra sông chờ tiếng còi tàu. Rồi mẹ rền rỉ trách thằng Phước trong Nam, thằng Phong ở Tuyên Quang sao chẳng thấy điện hoặc thư về. Năm nào thiếu một thành viên trong gia đình không về ăn Tết, mẹ lại âm thầm ngồi khóc thương con đất khách quê người. Chắc là mẹ thương tôi nhất, vì tôi biền biệt 11 năm Tây Bắc, rồi sang Nga nhiều năm chưa một lần về ăn Tết ở quê, hơn cả cuộc lưu lạc của nàng Kiều.

Nôn nao nhớ quê nhà, nguồn cội

Tết nào cũng gợi nhớ quê hương. Không hiểu sao, sau nhiều năm trời xa cách, lần đầu tiên trong đời tôi mới nghĩ đến cái Tết quê hương da diết hơn bao giờ hết. Hình bóng của ba mẹ tôi và mảnh vườn nho nhỏ có những hàng chuối mùa mưa bão gió xé tơi bời thỉnh thoảng vẫn hiện về trong giấc ngủ. Nhờ có cái Tết cổ truyền, người ta mới có dịp để nhớ đến tổ tiên, cha mẹ, họ hàng; giục người đi xa trở về sum họp hoặc không có điều kiện trở về vẫn không quên được cội nguồn.

Tết bên này cũng có bánh chưng (lá dong chở từ Việt Nam sang) nhưng luộc bằng nồi hầm trên bếp gas, làm sao ngon bằng bánh chưng mẹ luộc trên bếp củi. Nhà tôi có lệ chỉ gói bánh chưng vào ngày 30 Tết. Cả nhà ngồi quây quần bên nồi bánh chờ đón giao thừa. Đồng quê không có điện, phút đất trời giao cảm đẹp hơn, huyền ảo hơn. Nhìn trời, biết năm tới mùa lúa có tốt hay không, mừng vui thấp thỏm. Tiệc đón giao thừa đơn giản, có ý nghĩa tượng trưng (cỗ to đã làm từ chiều 30 cúng gia tiên). Mỗi đứa được mở hàng một cái bánh chưng nhỏ bằng bàn tay còn nóng hôi hổi vừa vớt từ nồi ra. 

Thuở thơ ấu háo hức chờ Tết để được mẹ may cho áo mới, được vui chơi thoải mái mà không sợ bị mắng, lại được mở hàng mừng tuổi. Giờ ở xa quê hương, mỗi năm đón Tết là tóc mình lại thêm vài sợi bạc. Dẫu có tụ tập bốn phương bạn bè kéo lại, cũng không thay thế được cha mẹ, vợ con, anh em ruột thịt.

Những "giá như" dằn vặt

Tôi ngại những cái Tết quá ồn ào, quá xa hoa, hoang phí. Nào là cao lương mỹ vị, nào là sâm-panh, vốtka, uýt-ki đủ loại. Rượu vào rồi thì sừng sừng nhảy nhót. Sáng hôm sau tỉnh dậy thấy cổ khô, miệng đắng, đầu nhức, mắt mỏi, thân thể đau nhừ, ê ẩm. Nhìn đống vỏ chai dưới gầm bàn lăn lóc, bát đĩa bầy hầy, tàn thuốc vương vãi khắp sàn trông phát sợ. Thấy thương thân phận mình đơn độc, thấy giận mình hoang phí. Cha mẹ, anh chị em, vợ con mình đang giá buốt lội bùn, cơm độn khoai độn sắn; giá như mâm cỗ bớt đi những thứ thừa mứa ê hề, giá như sâm-panh, uýt-ki đừng nốc... Biết bao cái "giá như" dằn vặt.

Năm trước, nhiều bạn văn hứa nhất định sẽ về ăn Tết cùng gia đình năm tới. Thế nhưng lời hứa ấy vẫn không thành hiện thực, bởi đời ai học được chữ ngờ. Dịch Covid-19 từ Vũ Hán bùng phát toàn thế giới. Nước Nga nằm trong tốp 5 nước bị dịch nặng nhất, bởi họ không có biện pháp ngăn chặn quyết liệt như ở Việt Nam. Ai bị nhiễm bệnh, bác sĩ chỉ báo cho người ấy biết. Người nào tự giác thì thông báo cho anh em bạn bè, người thân biết để tránh tiếp xúc, chứ chính quyền không thông báo danh tính người bị bệnh, rồi truy tìm người tiếp xúc F1, F2 để cách ly như ở ta. Người Việt ở Nga bị mắc Covid-19 cũng nhiều, bởi 95% người Việt sinh sống bằng nghề kinh doanh hàng vải ở chợ và các trung tâm thương mại, là nơi tụ tập của cư dân nước ngoài (đông nhất là dân Trung Quốc) sau một hồi giãn cách xã hội ngắn, lại cho hoạt động bình thường, bị mắc Covid-19 là điều khó tránh. Về nước thì không được, mà ở lại cũng lao đao khốn khổ.

Tết năm nay chắc là buồn lắm.

Lại sắp Tết nữa rồi đây. Lại thêm một lần mẹ quê hương trông ngóng. Biết bao giờ được sum vầy trong cái Tết quê hương?

Nhớ có năm giáp Tết tôi gọi điện về nhà. Đầu dây kia, ba tôi vắn gọn mấy lời: "Về đi con! Ba mẹ năm nay già yếu lắm rồi! Thôi ba cúp máy đây, kẻo con tốn tiền!”. Tôi nghẹn ngào: "Ba cứ nói nữa đi! Đừng sợ con tốn tiền! Lâu rồi con chưa được nghe giọng nói của ba...”. Mấy ngày sau, tôi vẫn còn thẫn thờ, tưởng như lời của ba vẫn còn văng vẳng bên tai: "Ba mẹ năm nay già yếu lắm rồi!”. Chợt nhớ ngày còn nhỏ, một lần tôi nói hỗn, ba tôi không nổi giận như mọi bận. Người lặng im, đôi mắt đau đáu nỗi buồn. Ánh mắt ấy của người cứ ám ảnh tôi mãi đến bây giờ. Giá như chiều nay tôi biến thành đứa trẻ, nằm sấp trên giường chịu mấy roi để tạ lỗi với người.

Châu Hồng Thủy

Nguồn: Người lao động, ngày 12.02.2021.

Sức hấp dẫn của An Nam nhiệt đới ở vùng Viễn Đông xa lạ không chỉ làm các kí giả, nhà văn vô cùng sốt sắng mô tả, phản ánh mà còn khiến các nhà nghiên cứu, học giả phải nhanh chóng tiếp cận, diễn giải, đặng đưa ra một tri nhận càng kĩ lưỡng càng tốt cho quá trình cộng sinh văn hóa Pháp - Việt.

Cùng với sự bùng nổ của diễn đàn báo chí, nhất là báo tiếng Pháp, sự xuất hiện của Viện Viễn Đông Bác cổ (EFEO) đã trở thành nơi tập trung và công bố khá nhiều nghiên cứu về An Nam trên tất cả các phương diện, từ lịch sử chính trị xã hội cho đến phong tục, tôn giáo, tín ngưỡng, tính cách tâm lí… Ký giả và học giả, tuy khác nhau hành trạng xuất phát, nhưng đều nỗ lực rút ngắn khoảng cách với chính nơi mà mình muốn thuộc về.

Trên đường cái quan

Thoạt tiên, giới kí giả và nhà văn đặt chân đến An Nam cũng theo sự vụ công việc nhưng rồi, phần vì bản tính ưa phiêu lưu, phần vì xứ sở mà chính quyền thực dân Pháp vẫn đang coi là “man khai” ấy cuốn hút họ không ngừng, nên họ đã dần phải lòng rồi trổ hết tài năng văn chương của mình để diễn tả sao cho đắc địa những gì trải nghiệm, những điều trông thấy.     

Số lượng các kí giả, chuyên hoặc không chuyên, sẽ rất dài nhưng tôi muốn nhắc đến trước tiên 3 vị khách nặng tình nghĩa với An Nam: Léon Werth, Louis Rouband và Roland Dorgelès. Léon Werth (1878-1955), là phóng viên, tiểu thuyết gia và thường được biết là bạn rất thân với Antoine de Saint-Exupéry, tác giả Hoàng tử bé (1943) trứ danh, đã đến Việt Nam vào năm 1925.

Léon Werth chủ yếu du ngoạn ở Sài Gòn, Mỹ Tho, Bạc Liêu và tư liệu chuyến đi gây nhiều ngỡ ngàng ấy đã được ông tái hiện trong cuốn du kí Xứ Nam Kỳ (Cochinchine, 1926).

Không thứ gì tuột khỏi tầm quan sát tinh tế, tỉ mỉ của Léon Werth, nhất là các mùi vị trái cây, thảo mộc, đồ ăn thức uống, những đặc sản mà giờ đây chúng ta đang tích cực giới thiệu ra quốc tế, luôn phảng phất trong trang viết: “Phan Thiết với mùi nước mắm, Phan Thiết với biển Đông, với vùng quê An Nam và những ngọn núi đẹp như hình kim tự tháp […] nước mắm, loại nước xốt làm từ cá, nước mắm thơm mùi linh hồn của cá và biển khơi sâu thẳm.

20200328 2

Điều thú vị là Léon Werth thường so sánh cảnh vật An Nam với quê nhà châu Âu, không phải để khẳng định hơn hay kém, mà để nhận thấy những điểm khác biệt tạo nên đặc sắc nơi đây, ngay cả khi chúng gợi nên vẻ nghèo khó: “Cây cầu bắc qua con kênh ngoằn ngoèo. Quang cảnh như ở vùng Oise nhưng lại ụ lên, cằn cỗi như bị bào mòn bởi một thứ ánh sáng không chiếu thẳng”…

Đến sớm hơn Léon Werth ba năm, Roland Dorgelès (1886-1973) đã có một hành trình dài ngày đi dọc An Nam và viết thiên phóng sự nổi tiếng Trên đường cái quan (Sur la route mandarine, 1922). Có thể coi cuốn sách như thước phim được làm bằng ngôn ngữ tài hoa có khả năng chụp bắt cuộc sống thường ngày mà ngay cả người An Nam cũng khó nhận ra.

“Điều kích thích trí tò mò của tôi - Roland Dorgelès thú nhận, không phải là bí mật của những đền chùa ta thấy khắp nơi, dưới bóng hàng phượng vĩ đỏ rực hoa vào mùa hè, hoặc khuất dưới lũy tre xanh; không phải là cái quá khứ ngàn năm của dân tộc bị cướp quyền này, không hề, mà đó là bí mật hiện tại”.

Chính vì nhìn sâu vào hiện tại nên  Roland Dorgelès mới để tâm nhiều hơn đến những cảnh lao động vất vả, nhọc nhằn, những anh “nhà quê” nhuốm mình trong màu nâu của đất đai và quần áo, những bến sông và chiếc đò ngang trôi dạt phía cuối nguồn, những thửa ruộng nhỏ bé chắt chiu sau bao mùa bồi tích phù sa…

Mang cảm thức của chủ nghĩa lãng mạn, Roland Dorgelès đón nhận sống An Nam theo lối cảm thương lẫn cảm phục nhưng phần nhiều là bay bổng trước những khung cảnh bình dị chưa bị hiện đại hóa trên những cánh ruộng xanh màu ngọc bích, những ngọn núi buồn bã của dãy Tam Điệp, những cánh đồng muối trắng đến lóa mắt, những con đường đỏ quạch dưới hàng cọ, những chợ búa ồn ào tràn ra cả lề đường, những lồng đèn cá chép khổ lớn, những túp lều vui nhộn dưới hàng dừa cao…

Với Roland Dorgelès, An Nam là miền đất tự do của các sắc màu và nhịp điệu, là nơi chốn được thiên nhiên ưu đãi và tự nỗ lực để vui thú với những gì bình dân, quê mùa nhất.

Khác Roland Dorgelès, Louis Rouband (1884-1941) nhập cuộc trực tiếp với các câu chuyện thời sự. Ông đến Việt Nam năm 1930, vào đúng thời điểm diễn ra khởi nghĩa Yên Bái chấn động, trở thành kí giả tường thuật các phiên xử chiến sĩ cách mạng của Hội đồng Đề hình.

Cuốn sách của ông, Việt Nam, tấn bi kịch Đông Dương (Vietnam, la tragédie indochinoise, 1931) tập trung mô tả không khí căng thẳng của xã hội thuộc địa, khi vấn đề thuế, thuốc phiện, rượu lậu hay ý thức phản kháng ngày một lan rộng. Thay vì bảo vệ lợi ích chính quốc, Louis Rouband không ngần ngại thể hiện giọng điệu phê phán mánh lới của chính quyền thực dân và đồng thời bày tỏ thiện cảm với các nhân vật cách mạng như Nguyễn Thái Học hay Phan Bội Châu.

Có thể nói Léon Werth, Louis Rouband và Roland Dorgelès khá điển hình cho kiểu quan sát An Nam từ vị thế “khách tình si” nên không tránh được những cảm xúc hào hứng hoặc thất vọng có phần cường điệu. Nhưng điều này không đồng nghĩa với nghệ thuật hư cấu thuần túy.

Ở thời điểm đầu thế kỉ XX, về cơ bản, mối quan hệ văn chương và dân tộc chí, văn chương và ghi chép phong tục văn hóa, phóng sự xã hội vẫn chưa hề quá tách bạch, vì thế, sẽ rất lí thú, hữu ích khi lật giở lại những trang viết phong nhiêu cả về tư liệu lẫn cảm xúc.

Những học giả tiên phong

Tuần san Indochine số 20 (ra ngày 23/1/1941) có đăng bài viết Đọc gì về Đông Dương? của Georges Bois. Tác giả đã liệt kê một danh mục dài các cuốn sách, công trình khảo cứu Đông Dương, mà trước hết và nhiều nhất, là về Việt Nam.

Đây là một chỉ dẫn đến hôm nay vẫn có thể hữu ích vì mức độ gói gọn, cụ thể, bao quát về đất nước, con người, lịch sử, tôn giáo, văn minh, các đoàn truyền giáo và cả các vấn đề thực tiễn của công cuộc di dân. Nhiều cuốn sách trong danh mục này là kết quả khảo cứu của thành viên Viện Viễn Đông Bác Cổ hoặc của các nhà nghiên cứu “tay ngang”.

Chưa thể đầy đủ nhưng cần thiết nhắc lại ở đây dăm ba trước tác mà hậu thế luôn coi là “phải đọc” khi muốn tìm hiểu Việt Nam, tìm đến giai đoạn định hình Việt Nam trong học thuật phương Tây: Pierre Gourou (1900-1999) với Bắc Kỳ (Le Tonkin, 1931), Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (Les paysans du Delta Tonkinois, 1936); E.Tavernier (?-?) với Thờ cúng tổ tiên (Le culte des ancêtres, 1926); Gia đình Việt Nam (La famille annamite, 1927); Charles Maybon (1872-1926) với Ghi chép về lịch sử An Nam (Notions d'histoire d'Annam, 1909), Lịch sử hiện đại của xứ An Nam (1592-1820) (Histoire moderne du pays d'Annam, 1919); George Cœdès (1886 - 1969) với Cổ sử các quốc gia Ấn Độ hóa tại Viễn Đông (Histoire ancienne des États hindouisés d'Extrême-Orient, 1944); Paul Mus(1902 - 1969) với Tôn giáo của người An Nam (La religion des Annamites, 1931); G. Cordier (1901-1941) với Nghiên cứu văn chương An Nam (Étude de littérature annamite, 1933); Louis Bezacier (1906-1966) với Các tiểu luận về nghệ thuật An Nam (Essais sur lart annamite, 1943); J. Przyluski (1885-1944) với Ghi chép về tục thờ cây ở Bắc Kỳ (Notes sur le culte des arbres au Tonkin, 1909); Henri Maitre (1883-1914) với Rừng người Thượng (Les Jungles Moi, 1912)...

Có thể thấy, cho đến nửa đầu thập niên 1940, nghiên cứu An Nam đã trở thành một nếp sinh hoạt học thuật phổ biến và được gối tiếp qua vài thế hệ học giả. Những chuyển biến về phương pháp, quan điểm tiếp cận cũng bắt đầu rõ ràng hơn dẫn đến những kết luận đáng suy tư, tham chiếu hơn.

Trong khi giới trí thức bản địa, thực tế là phải từ cuối thập niên 1920 trở đi, với Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Văn Khoan, Trần Văn Giáp,… mới dần công bố những nghiên cứu bằng tiếng Pháp tương đối hiện đại về dân tộc mình thì sự phong phú tiếng nói của các học giả phương Tây chính thức đặt An Nam vào quỹ đạo khoa học xã hội nhân văn của thế giới bấy giờ.

Tính chất chuyên sâu hóa khi tìm hiểu An Nam đã góp phần làm sáng tỏ nhiều nan đề lớn. Chẳng hạn, về các ảnh xạ văn hóa Đông Á và Đông Nam Á trong cấu trúc văn hóa Việt Nam, về đặc trưng của nền văn minh thảo mộc (la civilisation du vétégal), về đạo thờ tổ tiên, về các phong cách trong lịch sử nghệ thuật…

Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, các học giả không hướng tới độc giả đại chúng rộng rãi mà chủ yếu dành cho tầng lớp trí thức Pháp, thúc giục họ nắm vững những từ khóa diễn giải căn cơ về An Nam.

Sự chuyển dịch từ “châu Âu trung tâm luận” sang vùng Viễn Đông thuộc địa, như vậy, đã mở đường cho các dân tộc thuộc “thế giới thứ ba” chứng minh giá trị riêng có của mình. Nếu xung đột, chiến tranh làm gia tăng bất hòa và đối kháng thì khả năng đọc hiểu lẫn nhau đã mở ra không gian đối thoại đúng nghĩa, nơi mà các học giả Pháp đã tìm thấy nghĩa lí cuộc đời trên đất An Nam.

Đến lượt mình, học giả An Nam lúc đó, như Đào Duy Anh hay Nguyễn Văn Huyên, đều coi các nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo quan trọng. Khi viết Văn minh Việt Nam (1939), Nguyễn Văn Huyên thừa nhận ông mang ơn những người tiên phong và được truyền cảm hứng mạnh mẽ bởi nhiều học giả lỗi lạc như J. Przyluski, Paul Mus, George Cœdès, Louis Finot...

Đáng tiếc, theo  thời gian, di sản học thuật của họ đang dần co hẹp trong những phạm vi nhỏ, nơi đa số chúng ta chỉ biết phong thanh.

Mai Anh Tuấn

Nguồn: An ninh thế giới cuối tháng, ngày 22.03.2020.

Truyện Kiều của Nguyễn Du, không chỉ là kiệt tác vô tiền khoáng hậu của thi ca và văn học Việt Nam, mà còn là viên ngọc quý mãi mãi lấp lánh sáng của văn hóa Việt Nam.

20201106 3

Nó không chỉ là di sản tinh thần hết sức quý báu mà đại thi hào Nguyễn Du đã để lại cho đời sau, mà còn góp phần làm giàu đẹp tiếng Việt, tôn vinh những giá trị nhân bản của người phụ nữ Việt, con người Việt, bản sắc văn hóa Việt, suốt hai trăm năm qua. Từ khi Truyện Kiều được dịch ra các ngôn ngữ khác, ban đầu là tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, Nhật, Nga… rồi nhiều thứ tiếng khác, nó đã trở thành một thứ “căn cước văn hóa”, lan tỏa những giá trị văn hóa Việt ra khắp năm châu, để thế giới biết tới Việt Nam không chỉ qua những cuộc chiến tranh tàn khốc và đẫm máu, mà còn biết tới chúng ta như một nền văn hóa độc đáo, rực rỡ và có bản sắc riêng.

Thật may mắn, độc giả Hungary đã được biết tới câu chuyện 15 năm lưu lạc của nàng Kiều từ khá sớm qua bản dịch nghĩa và chú giải của nhà nghiên cứu, phê bình văn học hàng đầu nhà thơ Trương Đăng Dung và bản dịch thơ của nhà thơ Hungary nổi tiếng Tandori Dezso (1938 - 2019), do Nhà xuất bản châu Âu ấn hành năm 1984.

20201106 4

Văn bản Truyện Kiều bằng tiếng Hungary

Hungary là một nước nhỏ ở khu vực Trung Âu, chỉ có khoảng 10 triệu dân, nhưng là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đặc biệt thi ca Hungary được đánh giá là một trong những nền thi ca phong phú và đẹp nhất trên bầu trời thi ca châu Âu. Ngôn ngữ Hungary là ngôn ngữ đứng đơn lẻ bên cạnh các đại gia đình ngôn ngữ châu Âu, có vốn từ cực kỳ phong phú, có khả năng diễn đạt chính xác, có sức biểu cảm rất tinh tế. Nhưng với người nước ngoài tiếng Hung cực kỳ khó học, nó được đánh giá là một trong ba ngôn ngữ khó nhất trên thế giới, bên cạnh tiếng Hebrew của người Do Thái và tiếng Latin.

Sự khác biệt giữa hai nền văn hóa, sự khác biệt của hai ngôn ngữ Việt Nam và Hungary khiến việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Hung thực sự là một thử thách rất lớn đối với dịch giả, tưởng chừng khó có thể vượt qua. Nhà thơ Trương Đăng Dung, người có nhiều năm du học và nghiên cứu tại Hungary, đã từng tâm sự: “Nhìn những tác phẩm văn học cổ điển lớn viết bằng thứ tiếng phổ cập của các nước được dịch sang tiếng Hung, từ thời sinh viên tôi đã nghĩ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du và mơ ước sẽ có ngày dịch tác phẩm này. Tôi dịch Truyện Kiều với mong muốn bạn đọc Hungary biết đến nền văn học của chúng ta, hiểu hơn nỗi đau và những khắc khoải của thi nhân Việt Nam trước thân phận con người.” (Trương Đăng Dung: Những kỷ niệm tưởng tượng, tác phẩm và dư luận, tr. 473).

Vì mơ ước đó, mà năm 1983, khi trở lại Hungary làm luận án tiến sĩ, Trương Đăng Dung đã “khép kín thư phòng”, tranh thủ thời gian, miệt mài dịch nghĩa và chú giải Truyện Kiều. Về quá trình dịch Truyện Kiều, anh tâm sự: “Sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo giữa các dân tộc cũng là trở ngại lớn không kém sự khác biệt về ngôn ngữ, do đó khó khăn lớn nhất đối với người dịch Truyện Kiều là làm thế nào để mở ra và truyền tải được cái tinh thần văn hóa đặc trưng có trong ngôn ngữ nguyên bản.” (Sđd, tr. 474).

20201106 5

Trương Đăng Dung có may mắn, bản dịch proza Truyện Kiều đã được Tandori Dezso, một trong những nhà thơ lớn hàng đầu và cũng là một dịch giả nổi tiếng của Hungary thời đó, nhận chuyển thành thơ. Tandori Dezso là một người rất am hiểu văn hóa Á Đông và có duyên với thơ Việt Nam. Năm 1980, ông đã cùng một số nhà thơ khác dịch một tuyển tập thơ Nguyễn Trãi ra tiếng Hung dưới tựa đề Irás egy kardon (Viết trên gươm), và sau Truyện Kiều, ông còn là đồng dịch giả của một tuyển thơ Xuân Diệu mang tên Arékaalma virága (Hoa cau, in 1986).

Theo nhà thơ Trương Đăng Dung, dù rất bận rộn, nhưng trong thời gian dịch Truyện Kiều hai ông đã thường xuyên gặp gỡ nhau, trao đổi kỹ lưỡng từng câu, từng chữ, từng điển cố, để có một bản dịch vừa chân xác, vừa đáp ứng các tiêu chí nghệ thuật. Trong quá trình dịch tác phẩm kinh điển này, hai ông đã sáng tạo ra một thể thơ mới giống thơ lục bát có vần lưng. Đây cũng là xu hướng mà một số dịch giả Truyện Kiều ra các ngôn ngữ khác cố gắng theo đuổi.

Sự lao tâm khổ tứ của cặp dịch giả Trương Đăng Dung - Tandori Dezso đã được đền bù xứng đáng. Năm 1984, bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungary đã được nhà xuất bản Châu Âu (Európa kiadó) - một nhà xuất bản lớn và có uy tín - ấn hành trang trọng, bìa cứng, khổ in 16,5 x 23,5 cm, với các tranh minh họa là các bản tranh khắc gỗ Việt Nam. Bản dịch Truyện Kiều được giới chuyên môn khi đó đánh giá cao, dù dịch giả Trương Đăng Dung, ba chục năm sau, đã khiêm tốn nói: “Không phải đợi ba mươi năm sau mà ngay sau khi bản dịch Truyện Kiều được xuất bản, tôi cũng đã nhận ra một vài chỗ lẽ ra có thể dịch tốt hơn. Đây cũng là tình trạng chung của mọi bản dịch” (Sđd, tr.475).

Thay vì trích dẫn ý kiến của giới chuyên môn, ở đây tôi chỉ xin giới thiệu bài thơ “Từ những điều Nguyễn Du dạy” của Hollo Andras, nhà thơ Hungary, viết sau khi đọc Truyện Kiều, qua bản dịch cũng rất thành công của chính nhà thơ Trương Đăng Dung. Bài thơ không chỉ cho thấy cách cảm nhận mới lạ của một nhà thơ Hungary, mà nó còn gián tiếp minh định sự thành công của bản dịch Truyện Kiều ra ngôn ngữ Hungary. Bài thơ cũng là một trong những diễn giải độc đáo và sâu sắc nhất về tính tư tưởng, triết lý và thông điệp nghệ thuật của Truyện Kiều.

TỪ NHỮNG ĐIỀU NGUYỄN DU DẠY

Anh đừng nói: Trời cao

Xin hãy nói: Màn xanh trùm bể khổ

Anh đừng nói: Đất dày

Xin hãy nói: Rạn nứt và sụp đổ

Anh đừng nói: Ngôi sao

Xin hãy nói: Giọt máu đào ai chảy

Anh đừng nói: Những điều trông thấy

Xin hãy nói: Tội lỗi các anh, tội lỗi chúng ta

Anh đừng nói: Oan gia

Xin hãy nói: Tình thương cần họp mặt

Anh đừng nói: Mặt sắt Xin hãy nói:

Tội ác ít bạn đường Anh đừng nói:

Làm cho khốc hại Xin hãy nói:

Không thể ngắt hoa trắng từ xương

Anh đừng nói: Giọt sương

Xin hãy nói: Thông điệp của điều lành

Anh đừng nói: Cây xanh

Xin hãy nói: Cuộc đời không vô bổ

Anh đừng nói: Ngọn gió

Xin hãy nói: Người bạn mù dẫn đường

Anh đừng nói: Rầu rầu ngọn cỏ

Xin hãy nói: Người bạn hiền vô danh

Anh đừng nói: Rêu xanh

Xin hãy nói: Ký ức không lụi tàn

Anh đừng nói: Báo ân

Xin hãy nói: Tình người không thể cạn

Anh đừng nói: Bình minh

Xin hãy nói: Nhiệt tình bừng sáng

Anh đừng nói: Hoàng hôn

Xin hãy nói: Niềm nuối tiếc muộn màng

Anh đừng nói: Suối vàng

Xin hãy nói: Tơ đời không thể dứt.

Truyện Kiều đã nhanh chóng được đón nhận tích cực, câu chuyện về cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều đã nhanh chóng chinh phục trái tim bạn đọc Hungary

Một bạn đọc nữ, tên là Timár Krisztina, đã nhận xét: “Một tiểu thuyết thơ cổ điển Việt Nam từ 1820: tình yêu, một chút máu, nhiều đau khổ, có Khổng giáo và Phật giáo… Xin ngả mũ trước bản dịch tuyệt vời của Tandori Dezso… Hấp dẫn và hiện đại một cách bất ngờ, ý tôi nói “hiện đại” ở chỗ: cách nhìn của tiểu thuyết ở nhiều chỗ gợi nhớ tới cách nhìn (châu Âu) của chúng ta. Không biết thi hào Nguyễn Du đã trải bao đau đớn khi viết cuốn sách này, vì nó thật tuyệt vời. Thi ca Phương Đông dồn nén đậm đặc trong 100 trang sách. Tóm lại bậc thầy Nguyễn Du biết một bí quyết gì đó!”.

Một bạn đọc khác, có nickname là kkata76, đã viết: “Không dễ đọc văn bản này bởi rất nhiều điển cố, chỉ có thể hiểu được nếu ta xem các chú giải. Một chuyện tình yêu viết với tinh thần của Thiền và Phật giáo… Bản thân câu chuyện đã hấp dẫn, nhưng ngôn ngữ tuyệt vời khiến nó rất khác lạ: cách so sánh, các hình ảnh ngôn ngữ, cách miêu tả sự vật (chẳng hạn sự vận hành của thời gian, sự thay đổi của thiên nhiên, của bốn mùa…).

Một độc giả khác có nickname là Keikorca viết sau khi đọc Truyện Kiều: “Một áng văn tuyệt vời. Cả câu chuyện rất sinh động, hấp dẫn, đầy màu sắc và hương thơm, đặc biệt là cây cỏ, đúng là một màn trình diễn “Phương Đông”. Tôi rất hứng thú khi đọc, đặc biệt vui là có thể dõi theo cuộc đời chìm nổi 15 năm của một nhân vật chính là phụ nữ, với một cái kết có hậu.”

Xin trích dẫn thêm một ý kiến nữa để thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du qua bản dịch của hai dịch giả, nhà thơ danh tiếng Trương Đăng Dung và Tandori Dezso, đã được bạn đọc Hungary, đặc biệt là phụ nữ, đón nhận, đồng cảm và yêu quý thế nào. Một độc giả có nickname là anesz, đã nhận xét: “Chúng ta biết rất ít về văn học Việt Nam qua tiếng Hung. Vì vậy mà tôi rất vui khi tìm được tác phẩm kinh điển này trong thư viện. Bản dịch của Tandori Dezso rất kỳ diệu, tiểu thuyết thơ này sử dụng vô số hình ảnh và các so sánh đẹp, chỉ riêng vì nhạc tính của nó cũng đã đáng đọc. Tuy được xuất bản từ năm 1820, nhưng quan điểm của nó rất hiện đại, đặc biệt đối với các nhân vật đàn ông. Câu chuyện của nàng Kiều rất hấp dẫn, nàng đã trải qua bao trầm luân, thử thách để đến với hạnh phúc.

Việc dịch và xuất bản Truyện Kiều ở Hungary cách đây trên ba chục năm là một dấu mốc văn hóa quan trọng trên chặng đường giới thiệu các di sản văn học quý báu của chúng ta tới Hungary. Theo thiển ý của người viết bài này, sự đón nhận tích cực của văn giới và độc giả Hungary đối với Truyện Kiều là câu trả lời thuyết phục cho một số ý kiến cho rằng người nước ngoài khó đồng cảm, khó tiếp nhận tác phẩm kinh điển này. Chỉ cần có những dịch giả tâm huyết, có chiến lược quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài đúng hướng, được hỗ trợ cụ thể và khoa học là chúng ta sẽ có những bản dịch tốt có thể “mang chuông đi đánh nước người” một cách có hiệu quả. Tuy biết rằng, để hội tụ được đầy đủ các yếu tố đó chẳng dễ chút nào.

Xin kết thúc bài viết ngắn này bằng một tin vui, cho thấy dòng chảy giao lưu văn học giữa Hungary và Việt Nam có khi trầm lặng, có lúc sôi động, nhưng chưa bao giờ ngừng nghỉ. Hơn ba chục năm sau khi Truyện Kiều được Nxb. Châu Âu ấn hành, thì tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” (Képzelt emlékek, Európa kiadó, 2018) của nhà thơ Trương Đăng Dung (Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội, 2011) đã được dịch ra tiếng Hung và được chính Nxb. Châu Âu ấn hành. Tập thơ song ngữ này đã được đưa tới dự Festival sách quốc tế tại Budapest mùa xuân năm 2018, và được Nxb. tổ chức buổi giới thiệu trang trọng với sự có mặt của tác giả Trương Đăng Dung cùng các dịch giả (Giáp Văn Chung và Hay János), trước đông đảo các nhà văn, nhà phê bình, độc giả và bè bạn hai nước Việt Nam - Hungary.

Budapest, 16/2/2020

Giáp Văn Chung

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, số 379/09-2020, phiên bản trực tuyến ngày 30.10.2020.

Độc giả Hungary đã biết tới câu chuyện 15 năm lưu lạc của nàng Kiều từ khá sớm qua bản dịch nghĩa và chú giải của nhà nghiên cứu, phê bình văn học và cũng là nhà thơ Trương Đăng Dung cùng bản dịch thơ của nhà thơ Hungary nổi tiếng Tandori Dezso (1938-2019), do Nhà xuất bản châu Âu ấn hành năm 1984.

20200309 2

Bìa Truyện Kiều do NXB châu Âu, xuất bản tại Hungary năm 1984. Nguồn: Giáp Văn Chung.


Hungary là một nước nhỏ ở khu vực Trung Âu, chỉ có khoảng 10 triệu dân, nhưng là một quốc gia có nền văn hóa lâu đời, đặc biệt thi ca Hungary được đánh giá là một trong những nền thi ca phong phú và đẹp nhất trên bầu trời thi ca châu Âu. Ngôn ngữ Hungary là ngôn ngữ đứng đơn lẻ bên cạnh các đại gia đình ngôn ngữ châu Âu, có vốn từ cực kỳ phong phú, có khả năng diễn đạt chính xác, có sức biểu cảm rất tinh tế. Với người nước ngoài, tiếng Hung cực kỳ khó học, nó được đánh giá là một trong ba ngôn ngữ khó nhất trên thế giới, bên cạnh tiếng Hebrew của người Do Thái và tiếng Latin.


Sự khác biệt giữa hai nền văn hóa, sự khác biệt của hai ngôn ngữ Việt Nam và Hungary khiến việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Hung thực sự là một thử thách rất lớn đối với dịch giả, tưởng chừng khó có thể vượt qua. Nhà thơ Trương Đăng Dung, người có nhiều năm du học và nghiên cứu tại Hungary, đã từng tâm sự: “Nhìn những tác phẩm văn học cổ điển lớn viết bằng thứ tiếng phổ cập của các nước được dịch sang tiếng Hung, từ thời sinh viên tôi đã nghĩ đến Truyện Kiều của Nguyễn Du và mơ ước sẽ có ngày dịch tác phẩm này. Tôi dịch Truyện Kiều với mong muốn bạn đọc Hungary biết đến nền văn học của chúng ta, hiểu hơn nỗi đau và những khắc khoải của thi nhân Việt Nam trước thân phận con người.” (Trương Đăng Dung: Những kỷ niệm tưởng tượng, tác phẩm và dư luận, tr. 473).


Vì mơ ước đó, mà năm 1983, khi trở lại Hungary làm luận án tiến sĩ, Trương Đăng Dung đã “khép kín thư phòng”, tranh thủ thời gian, miệt mài dịch nghĩa và chú giải Truyện Kiều. Về quá trình dịch Truyện Kiều, anh tâm sự: “Sự khác biệt về văn hóa, tôn giáo giữa các dân tộc cũng là trở ngại lớn không kém sự khác biệt về ngôn ngữ, do đó khó khăn lớn nhất đối với người dịch Truyện Kiều là làm thế nào để mở ra và truyền tải được cái tinh thần văn hóa đặc trưng có trong ngôn ngữ nguyên bản.” (sđd, tr. 474).

 

Trương Đăng Dung có may mắn, bản dịch proza Truyện Kiều đã được Tandori Dezso, một trong những nhà thơ lớn hàng đầu và cũng là một dịch giả nổi tiếng của Hungary thời đó, nhận chuyển thành thơ. Tandori Dezso là một người rất am hiểu văn hóa Á Đông và có duyên với thơ Việt Nam. Năm 1980, ông đã cùng một số nhà thơ khác dịch một tuyển tập thơ Nguyễn Trãi ra tiếng Hung dưới tựa đề Irás egy kardon (Viết trên gươm), và sau Truyện Kiều, ông còn là đồng dịch giả của một tuyển thơ Xuân Diệu mang tên Arékaalma virága (Hoa cau, in 1986).


Theo nhà thơ Trương Đăng Dung, dù rất bận rộn, nhưng trong thời gian dịch Truyện Kiều, hai ông đã thường xuyên gặp gỡ nhau, trao đổi kỹ lưỡng từng câu, từng chữ, từng điển cố, để có một bản dịch vừa chân xác, vừa đáp ứng các tiêu chí nghệ thuật. Trong quá trình dịch tác phẩm kinh điển này, hai ông đã sáng tạo ra một thể thơ mới giống thơ lục bát có vần lưng. Đây cũng là xu hướng mà một số dịch giả Truyện Kiều ra các ngôn ngữ khác cố gắng theo đuổi.

Tranh "Nguyện ước" của Nguyễn Tư Nghiêm


Sự lao tâm khổ tứ của cặp dịch giả Trương Đăng Dung - Tandori Dezső đã được đền bù xứng đáng. Năm 1984, bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Hungary đã được NXB Châu Âu (Európa kiadó) - một NXB lớn và có uy tín - ấn hành trang trọng, bìa cứng, khổ in 16,5x23,5 cm, với các tranh minh họa là các bản tranh khắc gỗ Việt Nam. Bản dịch Truyện Kiều được giới chuyên môn khi đó đánh giá cao, dù dịch giả Trương Đăng Dung, ba chục năm sau, đã khiêm tốn nói: “Không phải đợi ba mươi năm sau mà ngay sau khi bản dịch Truyện Kiều được xuất bản, tôi cũng đã nhận ra một vài chỗ lẽ ra có thể dịch tốt hơn. Đây cũng là tình trạng chung của mọi bản dịch” (sđd, tr.475).

Thay vì trích dẫn ý kiến của giới chuyên môn, ở đây tôi chỉ xin giới thiệu bài thơ “Từ những điều Nguyễn Du dạy” của Hollo Andras, nhà thơ Hungary, viết sau khi đọc Truyện Kiều, qua bản dịch cũng rất thành công của chính nhà thơ Trương Đăng Dung. Bài thơ không chỉ cho thấy cách cảm nhận mới lạ của một nhà thơ Hungary, mà nó còn gián tiếp minh định sự thành công của bản dịch Truyện Kiều ra ngôn ngữ Hungary. Bài thơ cũng là một trong những diễn giải độc đáo và sâu sắc nhất về tính tư tưởng, triết lý và thông điệp nghệ thuật của Truyện Kiều.

TỪ NHỮNG ĐIỀU NGUYỄN DU DẠY

Anh đừng nói: Trời cao

Xin hãy nói: Màn xanh trùm bể khổ 

Anh đừng nói: Đất dày 

Xin hãy nói: Rạn nứt và sụp đổ

Anh đừng nói: Ngôi sao 

Xin hãy nói: Giọt máu đào ai chảy 

Anh đừng nói: Những điều trông thấy 

Xin hãy nói: Tội lỗi các anh, tội lỗi chúng ta 

Anh đừng nói: Oan gia 

Xin hãy nói: Tình thương cần họp mặt 

Anh đừng nói: Mặt sắt 

Xin hãy nói: Tội ác ít bạn đường 

Anh đừng nói: Làm cho khốc hại 

Xin hãy nói: Không thể ngắt hoa trắng từ xương 

Anh đừng nói: Giọt sương 

Xin hãy nói: Thông điệp của điều lành 

Anh đừng nói: Cây xanh 

Xin hãy nói: Cuộc đời không vô bổ 

Anh đừng nói: Ngọn gió 

Xin hãy nói: Người bạn mù dẫn đường 

Anh đừng nói: Rầu rầu ngọn cỏ 

Xin hãy nói: Người bạn hiền vô danh 

Anh đừng nói: Rêu xanh 

Xin hãy nói: Ký ức không lụi tàn 

Anh đừng nói: Báo ân 

Xin hãy nói: Tình người không thể cạn 

Anh đừng nói: Bình minh 

Xin hãy nói: Nhiệt tình bừng sáng 

Anh đừng nói: Hoàng hôn 

Xin hãy nói: Niềm nuối tiếc muộn màng 

Anh đừng nói: Suối vàng 

Xin hãy nói: Tơ đời không thể dứt.

Truyện Kiều đã nhanh chóng được đón nhận tích cực, câu chuyện về cuộc đời truân chuyên của nàng Kiều đã nhanh chóng chinh phục trái tim bạn đọc Hungary.



 Nhà thơ Trương Đăng Dung và dịch giả Giáp Văn Chung bên mộ nhà thơ Hungary Hollo Andras. Nguồn: Giáp Văn Chung.

Một bạn đọc nữ, tên là Timár Krisztina, đã nhận xét: “Một tiểu thuyết thơ cổ điển Việt Nam từ 1820: tình yêu, một chút máu, nhiều đau khổ, có Khổng Giáo và Phật Giáo… Xin ngả mũ trước bản dịch tuyệt vời của Tandori Dezso… Hấp dẫn và hiện đại một cách bất ngờ, ý tôi nói ‘hiện đại’ ở chỗ: cách nhìn của tiểu thuyết ở nhiều chỗ gợi nhớ tới cách nhìn (châu Âu) của chúng ta. Không biết thi hào Nguyễn Du đã trải bao đau đớn khi viết cuốn sách này, vì nó thật tuyệt vời. Thi ca Phương Đông dồn nén đậm đặc trong 100 trang sách. Tóm lại bậc thầy Nguyễn Du biết một bí quyết gì đó!”.


Một bạn đọc khác, có nickname là kkata76, đã viết: “Không dễ đọc văn bản này bởi rất nhiều điển cố, chỉ có thể hiểu được nếu ta xem các chú giải. Một chuyện tình yêu viết với tinh thần của Thiền và Phật Giáo… Bản thân câu chuyện đã hấp dẫn, nhưng ngôn ngữ tuyệt vời khiến nó rất khác lạ: cách so sánh, các hình ảnh ngôn ngữ, cách miêu tả sự vật (chẳng hạn sự vận hành của thời gian, sự thay đổi của thiên nhiên, của bốn mùa).”


Một độc giả khác có nickname là Keikorca viết sau khi đọc Truyện Kiều: “Một áng văn tuyệt vời. Cả câu chuyện rất sinh động, hấp dẫn, đầy màu sắc và hương thơm, đặc biệt là cây cỏ, đúng là một màn trình diễn “Phương Đông”. Tôi rất hứng thú khi đọc, đặc biệt vui là có thể dõi theo cuộc đời chìm nổi 15 năm của một nhân vật chính là phụ nữ, với một cái kết có hậu.”


Xin trích dẫn thêm một ý kiến nữa để thấy Truyện Kiều của Nguyễn Du qua bản dịch của hai dịch giả, nhà thơ danh tiếng Trương Đăng Dung và Tandori Dezso,  đã được bạn đọc Hungary, đặc biệt là phụ nữ, đón nhận, đồng cảm và yêu quý thế nào. Một độc giả có nickname là anesz, đã nhận xét: “Chúng ta biết rất ít về văn học Việt Nam qua tiếng Hung. Vì vậy mà tôi rất vui khi tìm được tác phẩm kinh điển này trong thư viện. Bản dịch của Tandori Dezso rất kỳ diệu, tiểu thuyết thơ này sử dụng vô số hình ảnh và các so sánh đẹp, chỉ riêng vì nhạc tính của nó cũng đã đáng đọc. Tuy được xuất bản từ năm 1820, nhưng quan điểm của nó rất hiện đại, đặc biệt đối với các nhân vật đàn ông. Câu chuyện của nàng Kiều rất hấp dẫn, nàng đã trải qua bao trầm luân, thử thách để đến với hạnh phúc.”


Việc dịch và xuất bản Truyện Kiều ở Hungary cách đây trên ba chục năm là một dấu mốc văn hóa quan trọng trên chặng đường giới thiệu các di sản văn học quý báu của chúng ta tới Hungary. Theo thiển ý của người viết bài này, sự đón nhận tích cực của văn giới và độc giả Hungary đối với Truyện Kiều là câu trả lời thuyết phục cho một số ý kiến cho rằng người nước ngoài khó đồng cảm, khó tiếp nhận tác phẩm kinh điển này. Chỉ cần có những dịch giả tâm huyết, có chiến lược quảng bá văn học Việt Nam ra nước ngoài đúng hướng, được hỗ trợ cụ thể và khoa học là chúng ta sẽ có những bản dịch tốt có thể “mang chuông đi đánh nước người” một cách có hiệu quả. Tuy biết rằng, để hội tụ được đầy đủ các yếu tố đó chẳng dễ chút nào.


Xin kết thúc bài viết ngắn này bằng một tin vui, cho thấy dòng chảy giao lưu văn học giữa Hungary và Việt Nam có khi trầm lặng, có lúc sôi động, nhưng chưa bao giờ ngừng nghỉ. Hơn ba chục năm sau khi Truyện Kiều được NXB châu Âu ấn hành, thì tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” (Képzelt emlékek, Európa kiadó, 2018) của nhà Thơ Trương Đăng Dung (Giải thưởng HNV Hà Nội, 2011) đã được dịch ra tiếng Hung và được chính NXB châu Âu ấn hành. Tập thơ song ngữ này đã được đưa tới dự Festival sách quốc tế tại Budapest mùa xuân năm 2018, và được NXB tổ chức buổi giới thiệu trang trọng với sự có mặt của tác giả Trương Đăng Dung cùng các dịch giả (Giáp Văn Chung và Hay János), trước đông đảo các nhà văn, nhà phê bình, độc giả và bè bạn hai nước Việt Nam-Hungary.□

Budapest, 16-02-2020

Truyện Kiều của Nguyễn Du, không chỉ là kiệt tác vô tiền khoáng hậu của thi ca và văn học Việt Nam, mà còn là viên ngọc quý mãi mãi lấp lánh sáng của văn hóa Việt Nam. Nó không chỉ là di sản tinh thần hết sức quý báu mà đại thi hào Nguyễn Du đã để lại cho đời sau mà còn góp phần làm giàu đẹp tiếng Việt, tôn vinh những giá trị nhân bản của người phụ nữ Việt, con người Việt, bản sắc văn hóa Việt suốt hai trăm năm qua. Từ khi Truyện Kiều được dịch ra các ngôn ngữ khác, ban đầu là tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Đức, Nhật, Nga… rồi nhiều thứ tiếng khác, nó đã trở thành một thứ “căn cước văn hóa”, lan tỏa những giá trị văn hóa Việt ra khắp năm châu, để thế giới biết tới Việt Nam không chỉ qua những cuộc chiến tranh tàn khốc và đẫm máu, mà còn biết tới chúng ta như một nền văn hóa độc đáo, rực rỡ và có bản sắc riêng.
 

Giáp Văn Chung

Nguồn: Tạp chí Tia sáng, ngày 05.03.2020.

Tòa nhà trường Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) nằm trong một dãy phố hiền hòa, cách quảng trường Trocadero và tháp Eiffel nhộn nhịp không xa. Tôi bấm chuông, cửa tự động mở, và rồi kho tàng tư liệu Đông Dương đồ sộ hiện ra. Ở đó, có một ông cụ Việt Nam - áo dài đen, khăn đóng xưa, nét mặt cương nghị, đang chờ tôi, một trò nhỏ hậu sanh học sử.

Ông cụ ở Sài Gòn đến Paris từ ngày xửa ngày xưa. Khi ấy ông mới 26 tuổi, làm phiên dịch trong sứ bộ Phan Thanh Giản đi Pháp năm 1863. Từ Paris, ông đi tiếp Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý, những xứ sở đang vùn vụt công nghiệp hóa. Cuối thế kỷ XIX, rất hiếm người Việt Nam như ông có dịp “đi một ngày đàng học một sàng khôn” ở nhiều nước phương Tây tân tiến. 

Khi giã biệt cuộc đời ở tuổi 61 tại ngôi nhà nhỏ ở Chợ Quán, gia tài ông để lại là hơn 100 đầu sách đã xuất bản, cùng nhiều di cảo chưa công bố. Thật thán phục, kho tác phẩm của ông có đủ loại “châu báu”: từ điển, bài giảng, sách biên khảo, ký sự, sách sưu tầm và hiệu đính, thơ ca… Rất tiếc bể dâu và binh lửa trên đất Việt đã khiến gia tài của ông lưu lạc nhiều nơi trong nước và hải ngoại. Trong đó, trên đất Pháp, ở các thư viện nghiên cứu lâu đời và gia đình con cháu ông, may mắn lưu giữ được ít nhiều tác phẩm - mang tên tác giả Petrus Trương Vĩnh Ký. Người đời quen gọi ông bằng cái tên vắn tắt, thân mật là Petrus Ký hay Petrus. Năm trước, tôi gặp ông qua những trang vi phim Gia Định Báo tại Thư viện quốc gia Pháp. Năm nay, tại EFEO, những trang sử Việt của ông đã mở lối cho tôi tìm về một cách chép sử, lưu truyền quá khứ dân tộc một cách độc đáo.

Dạy sử từ sách tập đọc 

Bạn có nhớ quyển sách tập đọc đầu tiên trong đời mình? Cách đây 10 năm, tôi được một người bạn tặng quyển tập đọc “vỡ lòng” của thế hệ 6X ở Sài Gòn. Trên bìa sách có hình con cóc ôm cặp đi học, đôi mắt to thô lố, miệng cười toe toét, dưới chiếc lá sen che ngang như một chiếc nón yêu kiều. Ôi chao, đó chính là quyển sách đầu đời của tôi ở trường mẫu giáo! Và giờ đây, thật bất ngờ, tại EFEO, tôi lại được cầm trên tay quyển sách tập đọc vỡ lòng của thế hệ ông nội tôi. Quyển sách mang tên Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca, in năm 1884, do Petrus Ký biên soạn.

20200926 9

Nhà giáo Petrus Ký thời trẻ (áo dài khăn đóng) cùng đồng nghiệp, bè bạn nước ngoài (ảnh tư liệu)


Sách chỉ có 36 trang, khổ nhỏ hơn A4 nhưng mỗi trang đầy ắp từ vựng, thơ lục bát và cả văn xuôi. Phần nửa trên của mỗi trang, tác giả dạy người học làm quen ngữ nghĩa của 8 câu, trong đó mỗi câu là 4 từ đơn, dễ đọc dễ thuộc (giống sách học chữ Hán - Tam tự kinh). Mỗi chữ quốc ngữ, đều đi kèm chữ Hán và chữ Pháp đồng nghĩa. Chẳng hạn Đất đi kèm Địa (chữ Hán) và Terre (chữ Pháp). Như vậy, sách dạy cùng lúc quốc ngữ và ngoại ngữ, một cách làm rất mới mẻ thời ấy và xem ra vẫn có thể áp dụng cho sách giáo khoa đời nay! Song, điều lý thú hơn cả, phần nửa dưới mỗi trang là một đoạn thơ lục bát kèm một đoạn văn xuôi ngắn.

Đây là phần bài đọc có các từ đã dạy ở phần trên, tuy nhiên, thật ngạc nhiên tác giả đã lồng vào kiến thức lịch sử chứ không phải các câu viết thông thường. Trong 18 trang đầu tiên, đoạn thơ và văn xuôi nhắc đến các điển tích Tàu (Nghiêu Thuấn, Tam Quốc, Hán, Minh, Thanh) vốn quen thuộc với người dân thuở ấy qua hát bội và truyện Tàu. Sang 18 trang kế tiếp, lại hoàn toàn là chuyện sử ta, bắt đầu từ “Hồng Bàng thị” đến Đinh, Lê, Lý, Trần và các thời đại sau. Tất cả đều rất ngắn gọn mà vẫn gói ghém được những điều tiêu biểu cần ghi nhớ cho mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc. Ngoài ra, tác giả còn dùng thơ lục bát và đoản văn để nêu các giá trị cốt lõi của văn hóa, phong tục, lễ nghĩa, văn chương nước Việt. 

Hãy nghe lời thơ mộc mạc của Petrus Ký, rất giống phong cách truyện thơ Lục Vân Tiên: 

Thờ vua thì lấy chữ trung
Thờ cha thì lấy một lòng hiếu ti
Vợ chồng đạo vẹn xướng tùy
Anh em kính thuận nhà thì vui sao!

Chú ý, vua thời xưa là biểu tượng cho đất nước. Lạ thay, vào thời điểm nước Việt đã bị mất vào tay thực dân mà Petrus Ký - ngay trong sách dạy tập đọc, vẫn nhắc đến vua, nhắc đến những cuộc quật khởi chống ngoại xâm trong sử Việt. Phải chăng, đó chính là một loại phản kháng thầm lặng, kêu gọi người dân không quên nguồn gốc và sự nghiệp bất khuất của ông cha? 

Đưa sử quốc gia và địa phương vào sách giáo khoa 

EFEO và Thư viện quốc gia Pháp còn lưu giữ môt quyển sách “lạ lùng” khác của Petrus, mang cái tên xưa: Dư đồ thuyết lược, in năm 1887. Đây không phải là sách thuyết giáo tư tưởng mà là sách giáo khoa sử địa. Vào thời kỳ chưa có máy bay và hiếm hoi tàu biển, quyển sách này với 5 chương và 113 trang, đã trở thành tấm “thảm thần” đưa người học đi vòng quanh năm châu, bốn biển. Và sau đấy, trở về với toàn cảnh đất nước và lịch sử Việt Nam. Khi lật từng trang sách, tôi thấy hiện ra hình ảnh những học sinh tóc còn để chỏm (và cả những thầy giáo làng chưa bước chân ra phố) ngỡ ngàng tìm đến đường chân trời, các cực, kinh tuyến, vĩ tuyến, lục địa và đại dương. Và rồi, ra với các châu lục và quốc gia xa gần.

Sách học vần Alphabet Quốc ngữ, bản in 1895, tại Thư viện EFEO (ảnh chụp ngày 25.9.2019)


Đó hoàn toàn là những kiến thức mới lạ cho người Việt thế kỷ XIX. Không ngờ những thuật ngữ khoa học về địa lý, thiên văn, hải dương học trong tiếng Pháp hay tiếng Latin, lại được Petrus chuyển sang tiếng thuần Việt và Hán Việt, một cách nhuần nhuyễn và dễ nhớ. Hãy xem thời đó, Petrus đã gọi Bốn phương trời (4 Points Cardinaux) thay vì Tứ phương, gọi Trái đất (Globes) thay vì Địa cầu, gọi Biển cả (Océan) thay vì Đại dương. Ông ghi âm Hán việt từ Europe là Âu-La-ba (châu Âu), Amérique là A-Mĩ-Lợi-Gia (châu Mỹ), Océnia là Úc-Đại-Lợi-A (châu Úc).

Càng bất ngờ hơn, khi tác giả dành 3/5 các chương sách còn lại cho các kiến thức căn bản về sử địa Việt Nam. Trong đó, phần lịch sử được tác giả trình bày theo dạng hỏi - đáp rất hiệu quả và hiện đại. Qua đấy, tác giả giới thiệu vắn tắt lịch sử Việt Nam theo trình tự thời gian, bắt đầu từ Kinh Dương Vương và 18 đời Hùng Vương đến thời kỳ vua Minh Mạng. Tác giả còn liệt kê đầy đủ các quốc hiệu của nước Việt từ Xích Quỷ, Văn Lang đến Đại Việt, Đại Nam. Chỉ lướt qua tên nước không thôi, người học có thể cảm nhận lịch sử hào hùng của cha ông và ngậm ngùi, luyến tiếc, nghĩ đến ngày phải khôi phục nền độc lập!

Sách Sơ học vấn tân Quốc ngữ diễn ca, bản in 1884 tại Thư viện EFEO (chụp ngày 25.9.2019) 


Kế đến, tác giả có hẳn một chương giới thiệu lịch sử mở mang đất Nam kỳ. Điều này thể hiện một quan điểm rất cách tân rằng người học sử không chỉ biết lịch sử nhân loại, lịch sử quốc gia mà còn phải hiểu lịch sử địa phương. Than ôi, ngay cả nhà trường Việt Nam hiện tại cũng chưa chú trọng phần lịch sử quan trọng này. Trong khi ấy, Petrus Ký đã viết rất kỹ lưỡng về sự ra đời và biến đổi của các đơn vị hành chính từ trấn đến phủ và tỉnh của Nam kỳ - từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX. Kèm theo đó là hệ thống các chức vụ quan lại. Các thông tin này cho thấy người Việt Nam đã dày công xây đắp và quản trị hiệu quả miền đất mới như thế nào, trước khi Pháp xâm chiếm.

Khi qua phần “Tân trào” (chính quyền thực dân), Petrus lại tiếp tục ghi chép chi tiết bộ máy hành chính mới bao gồm các sở nha ở các tỉnh thành (trong đó, có Soái phủ Lại Bộ Thượng Thơ - cái tên giải thích vì sao tòa nhà 59 - 61 Lý Tự Trọng - quận 1, TP.HCM bao đời nay được người dân gọi là “Dinh Thượng Thơ”). Cả hai đều là phần tư liệu quý báu để người đời sau hiểu về sự ra đời của Sài Gòn và miền đất phương Nam.

Mặt khác, càng quý báu hơn nữa, Petrus đã ghi lại tỉ mỉ các tên sông núi, cửa biển, cù lao, thổ sản, thảo mộc, cầm thú... từ Đồng Nai đến Cà Mau. Trong chương cuối của sách, Petrus đưa người học đi tiếp từ Bình Thuận, Nha Trang ra đến Lạng Sơn, Cao Bằng. Đến đâu người học cũng được tác giả chỉ cho sự biến đổi tên gọi địa phương và kiến thức về địa thế, dân số, ruộng đất, tài nguyên của từng tỉnh thành. Xem đến đây, tôi tự hỏi, vì sao trong lúc đất nước bị thực dân Pháp chia ba, mỗi miền có một thể chế khác nhau nhưng Petrus Ký vẫn dạy học sinh về một nước Việt Nam liền lạc và thống nhất từ trong địa lý đến lịch sử? Phải chăng ngay trong sách giáo khoa, Petrus Ký đã thể hiện lòng yêu nước thầm lặng và tìm cách lan tỏa khôn khéo vào đông đảo người dân, nhất là thế hệ trẻ?

Một số tác phẩm sử học của Petrus Ký được in lại thời nay 


Từ 1865 - 1898, phần lớn cuộc đời Petrus Ký dành cho dạy học và biên khảo. Ông dạy ở trường Thông ngôn, sau đó là trường Sư phạm rồi trường Hậu bổ (trường dạy làm quan). Ông nghiên cứu và viết giáo trình, viết sách về nhiều lĩnh vực như văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, thi ca, nông nghiệp. Đặc biệt, các tác phẩm sử học của Petrus rất đa dạng, thể hiện qua nhiều hình thức như giáo trình ghi chép và diễn giải các sách sử xưa, sưu tầm các truyện tích xưa, bài ca dân gian, khảo sát cây trái, tài nguyên đất nước, bằng cả tiếng Việt và tiếng Pháp. Các giáo trình của Petrus về lịch sử Việt Nam, lịch sử Sài Gòn được biên soạn bằng tiếng Pháp nhưng qua lời tựa bằng tiếng Việt, người đời sau có thể hiểu đối tượng đọc sách chính là người Việt - các nhà giáo hay quan chức sau này.

Đối với học trò ABC và tiểu học cũng như người dân thường thì sách sử của Petrus đều viết bằng chữ quốc ngữ với nhiều dạng như sách tập đọc, sách tham khảo, lịch sử diễn ca, chuyện xưa tích cũ... Những người từng học chữ quốc ngữ và học sử địa Việt Nam qua các sách của Petrus Ký, ngay trong nhà trường thuộc địa, hẳn không thể quên quê hương và nòi giống. Chính họ là thế hệ vào thập niên đầu tiên của thế kỷ XX hưởng ứng phong trào Duy Tân và Đông Du - chấn hưng dân trí, xuất dương đi học làm cách mạng. Đó cũng là các thế hệ phấn khích với các cuộc khởi nghĩa vua Duy Tân, Thái Nguyên, Yên Bái và các đảng phái yêu nước trong các thập niên sau.

* * *

Rời thư viện EFEO, tôi như vẫn thấy nụ cười hiền từ và đôi mắt trầm mặc của ông phảng phất trong ánh nắng chiều thu Paris dịu ngọt. Người đời sau từng tôn vinh Petrus Ký là nhà văn, nhà báo, nhà ngôn ngữ - tiên phong quảng bá và phát huy giá trị văn hóa Việt. Nhưng giờ đây, tôi hiểu Petrus Ký trong hoàn cảnh vong quốc, còn là người dạy và chép sử - tiên phong khơi dậy lòng yêu nước. Hơn hai mươi năm sau khi Petrus mất (1898), đã có những sử gia hiện đại như Trần Trọng Kim, Đào Duy Anh, Hoa Bằng... nối tiếp con đường của ông. Chữ tài liền với chữ tai một vần - định mệnh hay là những suy nghĩ hẹp hòi, thiên kiến đã làm cho những người tài như Petrus vẫn còn lận đận với miệng lưỡi thế gian đến tận bây giờ? 

Tượng Petrus Ký tại nhà mồ của ông góc Trần Hưng Đạo - Trần Bình Trọng (quận 5, TP.HCM). Nhà thờ và mộ Petrus Ký vẫn do gia đình giữ gìn. Khu vực này rất cần được coi là di sản kiến trúc và nhân vật văn hóa. Rất nên làm nhà lưu niệm và thư viện lưu giữ tài liệu của Petrus Ký tại đây. Ảnh: Phúc Tiến


Một số sách liên quan sử địa do Petrus Trương Vĩnh Ký viết hay biên dịch và hiệu đính đã xuất bản

1865: Ghi chép về dòng họ Nguyễn Phước
1866: Chuyện đời xưa
1875: Ghi chép về tàu thuyền An Nam, Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ, Giáo trình lịch sử An Nam, Giáo trình địa lý tổng quát Đông Dương, Đại Nam Cuốc sử ký diễn ca
1875: Chuyến đi Bắc Kỳ năm Ất Hợi
1882: Cổ Gia Định phong cảnh vịnh, Gia Định thất thủ vịnh, Kim Gia Định phong cảnh vịnh
1883: Hịch con quạ, Phép lịch sự An Nam
1884: Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca
1885: Ký ức lịch sử Sài Gòn và vùng phụ cận
1887: Ước lược truyện tích nước Nam, Dư đồ thuyết lược
1889: Đại Nam tam thập nhứt tĩnh địa đồ
Ngoài ra còn có Sử ký Đại Nam Việt Quốc triều in năm 1885, không ghi tên tác giả, có khả năng do ông biên soạn.

(Nguồn: thống kê của bà Phạm Lệ Hương, Việt Việt học, 2019)

Bài và ảnh: Phúc Tiến

Paris - Sài Gòn, 9 - 10.2019

Nguồn: Người đô thị, ngày 06.12.2019.

Năm 2018, chưa bao giờ báo chí Việt Nam lại quan tâm đến một giải thưởng của nước Mỹ như thế. Đó là giải Pulitzer. Nguyên nhân thật đơn giản: giải thưởng đó được trao cho một nhà văn gốc Việt là Nguyễn Thanh Việt (Viet Thanh Nguyen) cho dù hầu hết mọi người trong nước chưa biết nội dung cuốn sách như thế nào.

Dù rằng sau này, khi đọc được cuốn sách đó vẫn có người cảm thấy khó chịu hay phản đối nội dung mà cuốn sách đề cập thì việc những người Việt Nam trong nước quan tâm nhiều đến cuốn sách cũng nói lên một điều: đó là niềm tự hào về những người mang dòng máu Việt cho dù họ đang sinh sống ở đâu và với quốc tịch gì, một khi họ giành được thành công trong công việc của họ. Sau đó, một số tác phẩm của nhà văn Nguyễn Thanh Việt đã được Nhà Xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành. 

Năm 2017, cuộc gặp mặt lần thứ nhất “Nhà văn với sứ mệnh đại đoàn kết dân tộc” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức. Đó là cuộc gặp gỡ giữa các nhà văn Việt Nam trong và ngoài nước được tổ chức ở Hà Nội. Dù thế nào đây cũng là một nỗ lực của Hội Nhà văn Việt Nam. Nhưng chủ yếu là các nhà văn đi từ miền Bắc đến định cư ở các nước châu Âu mà quá ít những nhà văn ra đi từ miền Nam bởi cuộc chiến tranh.

Tôi là một trong những người tham gia cuộc gặp gỡ đó và mang theo một nỗi buồn. Thậm chí trước đó, có những lời lẽ đau lòng giữa một nhà văn trong nước và một nhà văn gốc Việt sống ở nước ngoài. Và tôi có cảm giác, con đường mà những người Việt trong và ngoài nước, đặc biệt là các nhà văn đến với nhau vẫn còn xa ngái.

20200217

“Chủ yếu là các nhà văn đi từ miền Bắc đến định cư ở các nước châu Âu, mà quá ít những nhà văn ra đi từ miền Nam bởi cuộc chiến tranh”. Ảnh TL

Gần một nửa thế kỷ sau khi cuộc chiến tranh kết thúc, hầu hết những người Việt Nam sinh sống ở nước ngoài đã trở về thăm gia đình, quê hương nhưng không phải là cuộc trở về thực sự trong tinh thần hòa hợp lớn của một dân tộc bị chia cắt bởi chiến tranh. Cái hố sâu ngăn cách họ vẫn chưa có một cây cầu thực sự và chính thức được bắc qua.

Thực tế, những cuộc gặp gỡ của các nhà văn hai phía đã được thực hiện và nhiều chia sẻ với nhau về văn chương và số phận của dân tộc trong một thời đại mới. Nhưng đó vẫn chỉ là những cuộc gặp gỡ cá nhân chứ không được chính thức hóa.

Ai sẽ là người tiên phong để dựng lên cây cầu bắc qua cái hố sâu nhiều đau đớn ấy? Tôi nghĩ là các trí thức, đặc biệt là các nhà văn. Tôi nhớ năm 1992, tôi được Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc mời đến thăm và làm việc. Khi đến Sydney, có một người rất đặc biệt ra đón tôi. Đó là nhà văn Hoàng Ngọc - Tuấn, một nhạc sĩ, một tay ghi ta tài danh, một trong những nhà khảo cứu người Việt xuất sắc nhất mà tôi biết đang dạy tại đại học New South Wales.

Trước khi sang Úc, một số người gặp tôi và khuyên tôi không nên liên lạc hay tiếp xúc với Việt kiều ở đó vì “rất nguy hiểm”. Nhưng tôi không hề thấy chút gì đáng lo sợ trong chuyện đó. Ngược lại, tôi muốn gặp những người Việt Nam sinh sống ở Úc, đặc biệt là các nhà văn.

Tôi cứ tự hỏi vì sao tôi lại sợ hãi những người có thể gọi là đồng bào tôi? Nếu những người Việt Nam trong nước và ngoài nước cứ trốn tránh nhau, thậm chí thù hận nhau vì bất cứ lý do gì đó sau gần một nửa thế kỷ, thì đấy là điều bất hạnh cho cả dân tộc. Bởi các nhà văn là những người luôn hướng tới tự do, sự gắn kết và luôn tìm cách bước qua những rào cản bởi những bất đồng chính trị. Nếu các nhà văn trong lương tâm mình không thấu hiểu điều đó và sẵn sàng dấn bước thì thật khó mong đợi điều gì tốt đẹp hơn.

Vì thế, trong chuyến đi đó, tôi đã rời bỏ những khách sạn năm sao sang trọng để sống trong nhà của nhà văn Hoàng Ngọc - Tuấn. Tại sân bay, ông Neil Manton, Vụ trưởng Vụ Văn hóa đối ngoại của Bộ Ngoại giao và Thương mại Úc, là người đại diện nước chủ nhà cũng ra đón tôi. Khi biết tôi quyết định về ở nhà của Hoàng Ngọc - Tuấn, ông Neil Manton lo lắng hỏi tôi có thấy an toàn không vì lúc đó quan hệ giữa Việt kiều và người trong nước sang công tác vô cùng căng thẳng và có những việc đau lòng đã xảy ra. Tôi nói với ông cho dù họ mang quốc tịch Úc nhưng lại là người Việt cùng máu đỏ da vàng với tôi. 

Khi nhà văn Hoàng Ngọc - Tuấn đưa tôi về đến nhà anh thì tôi thấy có khoảng vài chục người đã chờ sẵn. Hoàng Ngọc - Tuấn nói: “Đây là nhà thơ Việt cộng Nguyễn Quang Thiều từ Hà Nội sang. Tối nay anh ấy sẽ đọc thơ cho chúng ta nghe. Sau đó, chúng ta sẽ quyết định hoặc bắn anh hoặc trải đệm cho anh’’.

Chỉ là một câu giới thiệu vui nhưng chứa đựng trong đó những vấn đề khác thật nhức nhối. Và đêm đó, tôi vừa nói chuyện vừa đọc hết bản thảo tập thơ Sự mất ngủ của lửa của tôi. Nghe xong, một người nói “Anh đã thay đổi suy nghĩ của tôi về các nhà thơ miền Bắc’’. Người đó là tiến sĩ hóa dầu Phạm Quang Tuấn, anh là người làng Chèm, Hà Nội, làm tiến sĩ hóa dầu ở Tân Tây Lan và về Úc định cư.

Năm 1976, anh Phạm Quang Tuấn đã được Chính phủ Việt Nam mời về nước và gặp cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Lúc đó, Chính phủ muốn những trí thức giỏi người Việt trên thế giới giúp xây dựng lại đất nước sau chiến tranh. Nhưng mong muốn đó hầu như không thực hiện được. Anh Phạm Quang Tuấn trở về Úc với nỗi buồn day dứt mãi trong lòng. 

Một buổi tối, nhà văn Hoàng Ngọc - Tuấn và một số nhà văn khác dẫn tôi ra một khu phố ẩm thực với rất nhiều nhà hàng và nói: “Bao giờ ông ăn hết các nhà hàng ở phố này thì về nước’’. Như vậy nghĩa là họ đã không bắn tôi. Thơ ca hay văn học đã xóa đi một phần nào những cách biệt, những đau đớn và cả hận thù.

Sau này, trong những chuyến sang Úc, đến Sydney tôi thường ở nhà của nhà văn Hoàng Ngọc - Tuấn. Và anh lại tổ chức những buổi tối đọc thơ và chơi nhạc, mời những người Việt yêu thơ ca đến dự. Những lúc đó, không còn khoảng cách, không còn ngờ vực và hận thù giữa những người Việt ở hai chế độ chính trị khác nhau. Chúng tôi, những nhà văn, đã bắt đầu bước qua vực sâu ngăn cách.

Lúc đó, tôi nghĩ, những người Việt Nam trong và ngoài nước sẽ đi tới một con đường chung rất sớm.

Nhưng tôi đã sai.

Cho tới tận bây giờ, chúng tôi không gần nhau hơn mà còn có những khoảng cách bị đẩy ra xa hơn. Có một điều là khi tôi tham gia trong Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam thì nhà văn Hoàng Ngọc - Tuấn đã nhìn tôi với một sự thay đổi nào đó không chấp nhận được vì ông nghĩ tôi là người của chính quyền. Đây là một trong những điểm “chết’’ mà không ít những nhà văn ở nước ngoài đã lúng túng, và chính cái điểm “chết’’ ấy đã đẩy những nhà văn trong và ngoài nước xa nhau hơn khi họ đã có những cơ hội để cùng nhau đi tới và quan trọng hơn, họ đã có những suy nghĩ chung về một con đường cho sự hòa hợp những người con của một dân tộc để làm cho dân tộc ấy lớn mạnh.

Chúng ta không muốn sau này con cháu chúng ta phải đọc những trang sử của một sự thù hận kéo dài mà ông cha chúng, những người ở trong sự thù hận ấy nhưng không thể nào xóa bỏ được. 

Cho dù những năm gần đây, tác phẩm của các nhà văn Việt Nam sống ở nước ngoài ngày càng xuất hiện trong nước một cách chính thức. Điều đó thực sự là nỗ lực của các nhà văn sống ở nước ngoài và của những tờ báo, tạp chí và một số nhà xuất bản trong nước. Thế nhưng những nỗ lực ấy vẫn rời rạc và vẫn còn những điểm “mắc kẹt’’ mà chúng ta không mở ra được. Và sự “mắc kẹt’’ này làm chúng ta không thể khai thông được một con đường lớn. Chúng ta vẫn luẩn quẩn trong bốn bức tường của những vấn đề do quá khứ để lại.

Chúng ta đang đi trên con đường về phía lợi ích của một dân tộc nhưng chúng ta đi quá chậm. Người Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược đất nước ta nhưng họ đã trở thành một trong những người bạn mang tính chiến lược. Thế nhưng, giữa những người Việt Nam trong nước và ngoài nước vẫn chưa có được những bước đi đáng lẽ phải có trước cả những bước đi của chính quyền Mỹ và Việt Nam.

Một quốc gia thật rộng lớn nhưng chúng ta hãy thu nhỏ quốc gia ấy như một gia đình hay như một dòng họ, chúng ta sẽ thấy thật dày vò và xấu hổ khi hơn bốn mươi năm, anh em trong một nhà, một dòng họ cho dù có người đúng, người sai ở chỗ này hay chỗ khác mà vẫn không muốn bỏ qua quá khứ, không muốn về cùng dưới một mái nhà tinh thần thì cả hai phía đều có lỗi với chính gia đình, dòng họ của mình.

Chúng ta cũng gặp biết bao câu chuyện về những người bố, người mẹ đã nói với những đứa con của mình đang sống cắt chia bởi những chuyện buồn trong quá khứ của họ: “Anh em con về với nhau đi, nếu không bố mẹ chết không nhắm mắt được”.

Và tôi cũng nghĩ những người Việt Nam trong nước và những người bỏ đi bởi chiến tranh, về bản chất cũng giống như những câu chuyện về anh em trong một nhà từ bỏ nhau. Hai nước Đức đã phá bỏ bức tường thù hận và  trở thành một nước Đức hùng mạnh. Còn chúng ta không làm được như họ. Chúng ta vẫn còn ra “điều kiện’’ đối với nhau trong khi lẽ ra chúng ta phải tìm ra những “điều kiện’’ chung để hòa hợp.

Con đường của sự hòa hợp phải đến từ hai phía dưới bầu trời của những khát vọng và lợi ich cho dân tộc Việt. Dân tộc không bao giờ thuộc quyền sở hữu của một người này hay một người khác, của một phía nay hay của một phía khác. Nếu điểm gặp nhau là ở giữa con đường thì mỗi người ở một phía của con đường phải cùng cất bước thì mới có thể gặp nhau. Nếu một bên bắt bên kia phải bước đến với mình mà mình không cùng bước tới thì không bao giờ có được điều cả hai cùng mong muốn.

Cho dù phần đường đi của mỗi phía đều có những thách thức và khó khăn của riêng mình. Nhưng tất cả những người Việt trên thế giới phải cùng nhau làm cho dân tộc Việt Nam được vinh danh. Bởi mọi hình thức cuối cùng sẽ biến mất mà chỉ còn lại một cái tên duy nhất: Dân tộc. Những người Việt Nam thuộc về một giai đoạn lịch sử đau thương của dân tộc đã và đang lần lượt rời bỏ đời sống thế gian. Chúng ta không muốn những người Việt Nam của giai đoạn lịch sử đó ôm mối hận thù xuống suối vàng và mắc tội với tương lai.

Trước sau thì người Việt Nam trong và ngoài nước cũng sẽ đồng hành vì dòng máu chung, vì lòng tự trọng và kiêu hãnh của dân tộc Việt. Chúng ta không muốn sau này con cháu chúng ta phải đọc những trang sử của một sự thù hận kéo dài mà ông cha chúng, những người ở trong sự thù hận ấy nhưng không thể nào xóa bỏ được. Lịch sử không làm ra chúng ta mà chúng ta là người làm ra lịch sử.

Và cuối cùng, tôi vẫn muốn và vẫn tin rằng: chính các nhà văn của hai phía mới là những sứ giả đầu tiên, là những người dám hy sinh những mất mát, những đau đớn, những khác biệt của mình để thúc đẩy con tàu hòa hợp lên đường. Còn nếu không làm được như vậy, chúng ta đã thất bại trong chính tư tưởng và khát vọng của mình về dân tộc. 

Nguyễn Quang Thiều

Nguồn: Người đô thị, ngày 16.02.2020.

Thông tin truy cập

61757721
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
16843
20496
61757721

Thành viên trực tuyến

Đang có 524 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website