Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2012 vào ngày 9.4.2012 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 24 đề tài tham gia hội nghị, gồm 3 đề tài Hán Nôm, 4 đề tài ngôn ngữ, 12 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Yếu tố thần kỳ trong Nghìn lẻ một đêm do sinh viên SV Sity Maria Cotika thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo  do sinh viên Thái Nguyễn Hồng Sương thực hiện; Nhân vật chấn thương trong một số tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986-1995 do sinh viên Trần Phượng Linh thực hiện; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: cách đọc xã hội học do sinh viên Nguyễn Ngọc Thảo Như thực hiện; Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam từ sau 1986 do sinh viên Lê Thị Kim Loan thực hiện; Mỹ cảm trong ca từ của Trịnh Công Sơn do sinh viên Phan Thị Diệu Thảo làm chủ nhiệm. Từ những công trình được thực hiện công phu và nghiêm túc này, hy vọng sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ sẽ còn đạt được những giải cao hơn ở cấp Thành và cấp Bộ.

Vào hồi 15h30 ngày 22.9 (khoảng 2h30 sáng ngày 23.9 giờ Việt Nam), Lễ trao tặng Huân chương Hữu nghị của Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Tô Lâm cho hai nhà thơ Mỹ Kevin Bowen và Bruce Weigl được tổ chức tại Phòng khánh tiết Garrison, khách sạn Lotte New York Palace, thành phố New York.

20240524

Ở nước ta, tác phẩm viết về chiến tranh có vị trí quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử văn học song hành cùng lịch sử dân tộc. Hầu hết tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại đều gắn với các sáng tác về mảng đề tài người lính, chiến tranh. Trên bình diện quốc tế, trong bối cảnh văn học Việt Nam được dịch và giới thiệu ở các quốc gia khác còn khá khiêm tốn, những tác phẩm văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh, thời hậu chiến được dịch, xuất bản ở Hoa Kỳ (Mĩ) lại chiếm số lượng đáng kể và mang trên mình sứ mệnh đặc biệt. Xuất phát từ phương diện dịch văn học Việt Nam ở nước ngoài, chúng tôi muốn đóng góp một góc nhìn về vai trò của các tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh được dịch ở Hoa Kỳ thông qua việc thống kê, khảo sát các cuốn sách có tác phẩm viết về đề tài này được dịch, xuất bản ở Hoa Kỳ; tổng hợp các ý kiến, nhận định, đánh giá xung quanh mảng đề tài này (từ phía Việt Nam và Hoa Kỳ) từ góc độ tiếp nhận để khẳng định “Vai trò sứ giả của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, thời hậu chiến được dịch ở Hoa Kỳ”.

   1. Tổng quan tình hình dịch thuật, giới thiệu tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh, hậu chiến được dịch ở Hoa Kỳ

   Dịch tác phẩm văn học là cánh cửa mở ra các con đường giao lưu, tiếp nhận văn học ở các quốc gia. Các tác phẩm, tác giả lớn của các nền văn học lớn thế giới (như văn học Nga, văn học Pháp, văn học Trung Quốc…) đều được dịch, giới thiệu, nghiên cứu ở Việt Nam. Đây là xu thế tất yếu, mang tính chủ động của văn học Việt Nam, nền văn học nhỏ bé, chịu sự ảnh hưởng của các nền văn học lớn, các tác gia lớn của thế giới. Ở chiều ngược lại, việc dịch tác phẩm văn học Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã dẫn số liệu thống kê như sau: “Tính đến nay (2010) đã có hơn 13.000 tác phẩm văn học của thế giới được dịch ra tiếng Việt, và hầu hết các tác phẩm lớn của nhân loại đã được giới thiệu một cách có hệ thống ở Việt Nam. Trong khi đó, số lượng các tác phẩm văn học của Việt Nam được dịch và giới thiệu ra nước ngoài mới chỉ có hơn 570 tác phẩm (từ văn học cổ cho đến nay)”1.

   Sự xuất hiện của văn học Việt Nam qua các bản dịch mới chủ yếu ở các quốc gia có mối quan hệ về lịch sử, chính trị lâu đời, hoặc đặc biệt với Việt Nam (như Hoa Kỳ, Pháp, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…). Trong đó, theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Hoa Kỳ là quốc gia dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam nhất thế giới2. Xét ở mảng đề tài chiến tranh, thời hậu chiến sẽ càng thấy vị trí đi đầu của Hoa Kỳ trong số các quốc gia dịch và giới thiệu văn học Việt Nam. Theo nguồn tư liệu (sách) hiện chúng tôi thu thập và khảo cứu sơ bộ, trong số hơn bảy mươi cuốn sách dịch tác phẩm văn học Việt Nam được xuất bản ở Hoa Kỳ có gần một nửa (ba mươi ba cuốn) có tác phẩm viết về chủ đề chiến tranh và thời hậu chiến. Đây là con số thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nước Mĩ đối với các sáng tác về mảng đề tài này của văn học Việt Nam.

   Cụ thể, ở thể loại tiểu thuyết, có tám cuốn, trong đó có nhà văn Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh (The Sorrow of War: A Novel of North Vietnam, 1996), Lê Lựu với Thời xa vắng (A Time Far PastA Novel of Vietnam, 1997), Dạ Ngân với Gia đình bé mọn (An Insignificant Family, 2009).

   Thể loại truyện ngắn ghi nhận tám ấn phẩm được xuất bản: ba tập truyện của từng tác giả và năm tuyển tập truyện ngắn chọn lọc của nhiều tác giả. Hà Nội at Midnight: Stories (2023) gồm mười hai truyện ngắn của Bảo Ninh viết về bộ mặt khủng khiếp, phức tạp của chiến tranh, ảnh hưởng của chiến tranh trong mối quan hệ giữa người với người như Hà Nội lúc không giờ, Rửa tay gác kiếm, Lá thư từ Quý Sửu, Trại bảy chú lùn. The Stars, the Earth, the River: Short Stories by Le Minh Khue (1997) là mười bốn truyện ngắn của Lê Minh Khuê. The General Retires and Other Stories (1992) gồm Tướng về hưu và bảy truyện ngắn khác của Nguyễn Huy Thiệp. Trong năm hợp tuyển: The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers (1995); Night, Again: Contemporary Fiction from Vietnam (1996); Vietnam: A Traveler’s Literary Companion (1996); Love after War (2003); Other Moons: Vietnamese Short Stories of the American War and Its Aftermath (2020) có mặt các nhà văn sáng tác thời hậu chiến của Việt Nam như Hồ Anh Thái, Lê Lựu, Ngô Tự Lập, Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Trần Vũ, Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê…

   Thể loại tự truyện (nhật ký) với dấu ấn của cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm (Last Night I Dreamed of Peace: The Diary of Dang Thuy Tram, 2007) với câu chuyện lịch sử ly kỳ, xúc động và thiêng liêng về nguồn gốc, quá trình lưu giữ, trao nhận hai tập nhật ký của nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

   Thơ là thể loại được dịch, xuất bản ở Hoa Kỳ nhiều hơn cả (13/33 cuốn). Bốn mươi bảy bài thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh được tuyển dịch từ hai tập Thư mùa đông (1994), Trường ca biển (1994) in trong The Time Tree: Poems by Hữu Thỉnh (2003). Năm mươi sáu bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ được dịch với tên Green Rice: Poems by Lam Thi My Da (2005). Các bài thơ được chọn dịch từ các tập thơ Mẹ và em (1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Về (1994) của Nguyễn Duy được in trong tập Distant Road: Selected Poems of Nguyen Duy (1999). Đặc biệt là sự xuất hiện của hai cuốn sách tại Hoa Kỳ từ rất sớm: tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh (The Prison Dairy of Ho Chi Minh, 1971); Chinh phụ ngâm (The Song of a Soldiers Wife: Chinh Phu Ngam, 1986) của Đặng Trần Côn. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo và 150 bài thơ chữ Hán, chữ Nôm của Nguyễn Trãi được xuất bản thành tập Beyond the Court Gate: Selected Poems of Nguyen Trai (2010). Ngoài ra, thi phẩm về đề tài người lính, chiến tranh cách mạng của Hồ Chí Minh, Huy Cận, Thế Lữ, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Trần Đăng Khoa, Hoàng Nhuận Cầm, Thanh Thảo, Hoàng Trung Thông, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Nguyễn Hữu Loan, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Anh Thơ, Phạm Tiến Duật… được in chung trong bảy hợp tuyển thơ ca: From the Vietnamese: Ten Centuries of Poetry (1968); A Thousand Years of Vietnamese Poetry (1975); Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars1943-1993 (1998); An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentieth Centuries (2001); 6 Vietnamese Poets (2002); The Defiant Muse: Vietnamese Feminist Poems from Antiquity to the Present: A Bililngual Anthology (2007); Black Dog, Black Night: Contemporary Vietnamese Poetry (2008). Đặc biệt hơn cả là tập thơ Thơ từ tài liệu chiến trường (Poems from Captured Documents, 1994) gồm hai mươi ba bài thơ của nhiều tác giả - người lính giải phóng Việt Nam được biên tập, dịch từ tài liệu mà Bộ Quốc phòng Mĩ thu được trong chiến tranh.

   Ấn phẩm dưới dạng hợp tuyển đa thể loại gồm cuốn Behind the Red Mist: fiction by Ho Anh Thai, The Stars, the Earth (tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra và chín truyện ngắn của Hồ Anh Thái, 1998); Writing between the Lines: An Anthology on War and Its Social Consequences (1997) gồm thơ, tiểu thuyết, tác phẩm phê bình, trong đó có sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Tiến Duật…

   Về thời gian xuất bản, có thể thấy các tác phẩm được dịch và phát hành tại Hoa Kỳ tập trung ở giai đoạn 1994-2009 (mười hai cuốn phát hành vào những năm nửa cuối thập niên 90 thế kỷ XX; mười ba cuốn xuất bản vào những năm 2000). Nhìn từ mối quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước, mười lăm năm trước và sau sự kiện bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là khoảng thời gian nước Mĩ muốn tìm hiểu, nhìn rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam trong và sau cuộc chiến tranh (1954-1975) và rộng hơn, xa hơn là theo cả chiều dài lịch sử thông qua các sáng tác văn chương chọn dịch.

   Ba mươi ba cuốn sách về chủ đề chiến tranh, đã vẽ nên diện mạo đất nước, con người Việt Nam qua các cuộc chiến (từ thời phong kiến qua các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, Minh… đến thời hiện đại với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ). Có thể ví đó là những sứ giả đặc biệt “đi qua biển”3 mang sứ mệnh giúp “nhìn lại”, hàn gắn, kết nối và quảng bá văn học, đất nước, con người Việt Nam.

   2. Vai trò sứ giả của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, thời hậu chiến được dịch ở Hoa Kỳ nhìn từ góc độ tiếp nhận

   2.1. Sứ mệnh giúp “nhìn lại” lịch sử với thông điệp về hòa bình

   Như phần lược thảo các cuốn sách có tác phẩm văn học Việt Nam được dịch và xuất bản ở Hoa Kỳ ở trên, chúng tôi nhận thấy việc lựa chọn, dịch và giới thiệu những sáng tác về chiến tranh, thời hậu chiến đó trước hết xuất phát từ nhu cầu “nhìn lại” lịch sử, đời sống tâm hồn con người Việt Nam trong và sau cuộc chiến qua văn chương. Ở khía cạnh này, chúng tôi lấy tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Nhật ký Đặng Thùy Trâm làm tiêu điểm để nhìn từ góc độ tiếp nhận.

   Ở Việt Nam, số phận của Nỗi buồn chiến tranh cũng đã trải qua một quá trình “nhìn lại”. Tác phẩm ra đời năm 1987, xuất bản lần đầu năm 1990 tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn với tên Thân phận của tình yêu, được Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991; đến năm 2006, được đón nhận và khẳng định được vị trí trên văn đàn. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận xét rất gọn, rất đắt trong bài viết trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội: “Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh mang một chủ đề kép. Nó không chỉ nêu một cách nhìn khác về chiến tranh, mà còn đề xuất một cách viết khác về đề tài chiến tranh, đề xuất một đổi thay về phương pháp sáng tác nữa”4.

   Nỗi buồn chiến tranh xuất bản năm 1996 tại Hoa Kỳ với tựa The Sorrow of War: A Novel of North Vietnam, trước cả khi tiểu thuyết được xuất bản trở lại ở Việt Nam. Trả lời phỏng vấn của The Washington Post, nhà văn Bảo Ninh tâm sự trách nhiệm của ông khi viết tác phẩm này: “Tôi nhận ra rằng nếu tôi không tham gia chiến tranh, không trở thành một người lính thì tôi sẽ chọn một con đường khác và không là một nhà văn. Đó là lý do tại sao kể từ khi cầm bút, tôi luôn viết về những nỗi đau khổ của người dân Việt Nam, cách họ sống qua cuộc chiến”5. Trăn trở của ông đã chạm được đến trái tim, ý thức của người Mĩ, đặc biệt là những nhà văn - cựu binh Mĩ, giới nghiên cứu, phê bình văn chương… Trong bài viết “Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh nhìn từ Mĩ”, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã khảo sát việc tiếp nhận tác phẩm ở Mĩ qua những nhận xét, đánh giá của người Mĩ. Ở đó, ông có đề cập nhận xét của nhiều cựu binh Mĩ, như Susan L., nữ quân nhân. Bà đặc biệt chú ý đến hình ảnh, vai trò của người phụ nữ trong chiến tranh khi đọc Nỗi buồn chiến tranh và thấy được nhiều vấn đề cũng như có thêm chiều kích mới cho cuộc chiến tranh Việt Nam6.

   Trường hợp Nhật ký Đặng Thùy Trâm cũng để lại dấu ấn đặc biệt tại Hoa Kỳ. Trong bài báo “Đêm qua tôi mơ thấy hòa bình: Nhật ký Đặng Thùy Trâm: chiến tranh, phong cách nhà văn, sự hòa giải”, Phó Giáo sư Suellynn Duffey, Đại học Missouri - St. Louis đã dẫn hai ý kiến của sinh viên (từ bài luận của họ) về cuốn sách. Chúng tôi xin trích dịch hai ý kiến để thấy rõ ý nghĩa của tác phẩm dưới góc nhìn của giới trẻ Mĩ: “Khi bắt đầu đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, tôi không tin mình sẽ hứng thú nhất với những trải nghiệm của Thùy vì chúng quá khác biệt so với hiểu biết của tôi. […] Tuy nhiên, càng đọc tôi càng nhận ra mình quan tâm tới những điểm chung hơn là những điều khiến chúng tôi khác biệt. Tôi đọc vì những cảm xúc được sẻ chia hơn là những trải nghiệm đối lập. Xét trên nhiều phương diện, cuốn nhật ký của Thùy đầy ắp các mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, nỗi cô đơn, nỗi buồn, sự sợ hãi và cảm giác bất an…”7; “Trong thế giới của Thùy,rõ ràng người Mĩ là những kẻ gây nên tội ác. Dù gọi là cuộc chiến tranh Việt Nam hay cuộc kháng chiến chống Mĩ thì cuộc chiến cũng gây nên sự mất mát, nỗi đau không gì đo đếm được cho cả đàn ông, phụ nữ và cả các gia đình liên quan… Cuốn nhật ký của Thùy có khơi lại vết thương đang liền da nhưng sức mạnh của nó chính là khả năng mang tới cơ hội để thấu hiểu và cùng thảo luận”8.

   Không chỉ có nước Mĩ, người Mĩ có cơ hội “nhìn lại” về cuộc chiến ở Việt Nam, đất nước Việt Nam qua các sáng tác văn chương đến từ đất nước từng ở bên kia chiến tuyến, thông qua hoạt động dịch thuật này, ngay cả các nhà văn, cựu chiến binh Việt Nam, độc giả Việt Nam cũng được “nhìn lại” và hiểu hơn về nước Mĩ, cách họ vượt qua “hội chứng Việt Nam” để quay trở lại Việt Nam, tìm hiểu về Việt Nam với mục đích hiểu và khép lại lịch sử, từng bước bình thường hóa quan hệ giữa hai dân tộc. Ở đó, thông điệp về hòa bình, những giá trị nhân văn cao cả mà các tác phẩm văn học viết về chiến tranh, thời hậu chiến chuyển tải đã chạm đến trái tim của độc giả Hoa Kỳ, giúp hàn gắn vết thương chiến tranh để hai dân tộc xích lại gần nhau. Thông điệp hòa bình đã được nhà văn Bảo Ninh phát biểu khi trả lời phỏng vấn của The Washington Post: “… tôi viết về chiến tranh là để chống lại chiến tranh; viết về chiến tranh là viết về hòa bình – về sự hòa giải, tình yêu, niềm vui, sự tha thứ và những ý tưởng nhân văn khác nữa”9. “Viết về chiến tranh là viết về hòa bình” cũng là lời tựa trong Lời giới thiệu cuốn Other Moons: Short Stories of the American War and Its Aftermath do chính nhà văn chấp bút10. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều thì khẳng định: “Các nhà văn của chúng ta đến Mĩ cũng chỉ cất lên một thứ tiếng thôi, đó là ngôn ngữ của hòa bình và sự xóa bỏ hận thù trong quá khứ”11.

   2.2. Sứ mệnh hàn gắn và kết nối qua hoạt động giao lưu, dịch thuật văn học

   Cánh cửa giao lưu, tiếp nhận văn học được mở ra thông qua hoạt động dịch văn học. Kết quả là tạo nên sợi dây kết nối, mối liên hệ giữa các nhà văn, dịch giả, độc giả ở hai nước thông qua quá trình lựa chọn dịch, dịch, đọc và tiếp nhận tác phẩm nguyên gốc và tác phẩm dịch.

   Có thể nói đóng góp lớn nhất trong quá trình hàn gắn, kết nối hai dân tộc qua con đường văn chương thuộc về Trung tâm William Joiner (nay là Viện William Joiner) – sự ra đời của nó được đánh giá “là một sự kiện kỳ diệu”. Quả thực, tổ chức này đã làm nên những điều thực sự diệu kỳ trong quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mĩ. Dịch giả Nguyễn Bá Chung đã tổng kết: “… trung tâm Joiner đã có một đóng góp rất lớn cho sự hòa giải giữa hai dân tộc Việt - Mĩ, nhất là trong suốt những năm cấm vận ngặt nghèo từ 1975 tới 1994. Cái lớn của sự đóng góp đó không phải do tài chánh, do quyền lực, mà là cái lớn ở tấm lòng. […] Và từ tấm lòng đó mới có thể đi đến thơ văn”12. Trong chuyến sang Việt Nam dự Diễn đàn văn học Việt - Mĩ (2012), trả lời phỏng vấn của Tuổi trẻ Cuối tuần, Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner đã tâm sự việc bắc nhịp cầu Việt - Mĩ “trở thành điều mà chúng tôi phải dấn thân thực hiện để đem lại hòa bình, sửa đổi sai lầm”13.

   Kenvin Bowen đã có công kết nối hai nền văn học, hai dân tộc qua hoạt động - dịch thuật các sáng tác văn chương và sáng tạo nghệ thuật. Kevin Bowen cùng gia đình đã đón tiếp hơn một trăm nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam tại chính ngôi nhà của mình, dũng cảm vượt qua sự đe dọa bằng lời nói và cả hành động của chính người Mĩ. Ông tổ chức dịch và dịch văn học Việt Nam sang tiếng Anh. Ông sáng tác nhiều về Việt Nam và còn vẽ chân dung các nhà văn, nhà thơ Việt Nam – những gương mặt ông đã gặp, tiếp xúc và muốn lưu giữ bởi với ông “Mỗi bức chân dung trở thành một sự suy ngẫm về công việc và cuộc đời họ, về cuộc chiến tranh mà họ đã đi qua, cuộc chiến với những ngôn từ mà họ đấu tranh nhiều năm sau đó để mang theo những gì họ đã chứng kiến, với cuộc sống hai mặt mà họ với tư cách văn nghệ sĩ, trưởng thành nhưng không già đi, vẫn trẻ trung trong cuộc chiến cho dù thời gian có kéo họ đi”14.

   Bên cạnh đó, phải nói rằng hoạt động dịch thuật văn học Việt Nam viết về chiến tranh cũng đã kết nối và tạo nên sự tiếp nối giữa các thế hệ dịch giả - học giả người Mĩ, đặc biệt là người Mĩ gốc Việt. Tên tuổi của học giả - dịch giả Huỳnh Sanh Thông gắn với tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam The Song of a Soldiers Wife: Chinh Phu Ngam, các sáng tác viết về chiến tranh trong An Anthology of Vietnamese Poems: from the Eleventh through the Twentieth Centuries. Các dịch giả Kevin Bowen, Wayne Karlin, Bruce Weigl, cùng Nguyễn Quí Đức, Nguyễn Bá Chung kết hợp với các nhà văn Việt Nam như Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê… dịch nhiều tác phẩm thơ, truyện về đề tài chiến tranh trong các dự án dịch văn học Việt Nam của Trung tâm William Joiner như tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê; tuyển tập thơ Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh; tập truyện Phía bên kia thiên thườngThơ từ tài liệu chiến trường; hợp tuyển Viết giữa hai dòng; hợp tuyển thơ Sông núi… Hay trường hợp các tiểu thuyết của nhà văn Dương Thu Hương đều là sản phẩm dịch thuật kết hợp giữa dịch giả Nina McPherson và nhà văn - dịch giả Phan Huy Đường. Những năm gần đây, phải kể đến Giáo sư Hà Mạnh Quân (Đại học Montana) cùng Cab Trần, Joseph Babcock dịch tuyển tập truyện viết về cuộc chiến tranh chống Mĩ và thời hậu chiến (2020), các truyện ngắn chọn lọc của Bảo Ninh (2023) cùng hoạt động giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam ở Mĩ; đánh giá tình hình dịch thuật, giảng dạy văn học Việt Nam ở Hoa Kỳ.

   “Chúng tôi […] thiết lập nên các mối liên hệ và nghĩ rằng nó sẽ có tác dụng và ảnh hưởng lâu bền…”15. Nhận định đó của nhà thơ - dịch giả Kevin Bowen đã được lịch sử xác nhận. Các sáng tác văn học Việt dịch ở Hoa Kỳ đã thành toàn sứ mệnh thiêng liêng: hàn gắn và kết nối, tạo nên những mối quan hệ thân tình, bền chặt.

   2.3. Sứ mệnh quảng bá các giá trị văn học và văn hóa

   Không chỉ giúp hai bên cùng nhìn lại lịch sử, nhìn lại chính mình qua sáng tác văn chương; giúp hàn gắn và kết nối những con người của hai dân tộc từng đối diện nhau với họng súng, sự hận thù; văn học Việt Nam viết về chiến tranh được chọn dịch ở Hoa Kỳ còn thực hiện sứ mệnh của sứ giả văn hóa: quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam từ những trang văn, áng thơ, dòng nhật ký.

   Nếu như các sáng tác về đề tài cuộc chiến tranh 1954-1975, thời hậu chiến vẽ nên khuôn mặt đau thương, đa diện của chiến tranh và đặt ra những câu hỏi về số phận con người, giá trị của hòa bình… giúp độc giả nhìn lại lịch sử và hiểu hơn về con người Việt Nam trong và sau cuộc chiến thì số lượng lớn các tác phẩm thuộc mảng đề tài này được lựa dịch từ văn học cổ điển và văn học hiện đại – dòng văn học cách mạng lại mang đến hình ảnh một Việt Nam của tình yêu đất nước, yêu lý tưởng, yêu hòa bình, bản lĩnh và giàu đức hi sinh vì độc lập, tự do cho dân tộc. Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh); Từ ấy, Ê-mi-ly, con (Tố Hữu); Màu tím hoa sim (Hữu Loan); Khoảng trời - hố bom (Lâm Thị Mỹ Dạ); Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh); Lời ru đồng đội (Nguyễn Duy); Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng); Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Phạm Tiến Duật); Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)… là những tác phẩm, tác giả đặc sắc vẽ nên gương mặt đáng tự hào của Việt Nam như thế.

   Phải nói rằng, để được dịch và xuất bản ở Hoa Kỳ, các tác phẩm văn học Việt Nam đã qua quá trình lựa chọn, thẩm định và đánh giá gắt gao ở cả khía cạnh nội dung tác phẩm và tài năng của người cầm bút của các đơn vị xuất bản. Nỗi buồn chiến tranh và các truyện ngắn đắc sắc của Bảo Ninh, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp; Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), truyện ngắn Lê Minh Khuê, thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ… đã gây được tiếng vang ở Việt Nam chính là những đại diện tiêu biểu nhất – sứ giả vinh dự nhất cho văn chương nước nhà xuất hiện ở các kệ sách, trong các thư viện, tại các lớp học… ở Mĩ, quảng bá cho nền văn học Việt Nam vốn còn nhỏ bé trên bản đồ văn học thế giới.

   Dịch, giới thiệu, đọc các cuốn sách dịch tác phẩm viết về chiến tranh nói riêng và văn học Việt Nam nói chung giúp dịch giả - nhà văn Mĩ, thậm chí không ít độc giả Mĩ hiểu và yêu quý đất nước, con người Việt Nam, tìm đến Việt Nam để tiếp tục tìm hiểu, thưởng ngoạn; nhiều cựu binh Mĩ đọc những tác phẩm văn học dịch và trở lại Việt Nam để thấy một Việt Nam khác, để thấy gắn gó với mảnh đất còn đầy bom đạn này. Nhà thơ - dịch giả Bruce Weigl tâm sự rằng: “Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam và những trải nghiệm của tôi đã góp phần định hình nên con người tôi bây giờ. Tôi cảm thấy tôi là một người mạnh mẽ hơn và tốt hơn nhờ những trải nghiệm này và tôi cảm giác rằng Việt Nam luôn là một trong hai đất nước của trái tim tôi”16.

   3. Kết luận

   Sự chủ động lựa chọn các tác phẩm từ phía các nhà văn, cựu binh, dịch giả người Mĩ cùng sự tư vấn, phối hợp của các nhà văn Việt Nam, qua Hội Nhà văn Việt Nam giai đoạn 1994-2009, đã tạo nên “làn sóng nhập khẩu” văn học Việt Nam viết về chiến tranh, thời hậu chiến ở Hoa Kỳ. Chính làn sóng này đã giúp các tác phẩm văn học Việt Nam thực hiện vai trò sứ giả của mình. Từ sau năm 2010, hoạt động của Viện William Joiner của Mĩ ở Việt Nam dần thu hẹp, mối quan tâm của người Mĩ với lịch sử, văn học, văn hóa Việt Nam (giai đoạn chiến tranh) cũng không còn nhiều như trước. Theo đó, việc dịch văn học viết về mảng đề tài chiến tranh cũng như dịch văn học Việt Nam ở Hoa Kỳ cũng giảm về số lượng. Để tiếp tục mạch nguồn trí tuệ, tình yêu văn chương của thế hệ các nhà văn - dịch giả - học giả người Mĩ, người Mĩ gốc việt bắt nguồn từ những năm 60 thế kỷ XX; nối dài cây cầu hữu nghị mà các học giả, nhà văn, cựu binh của Trung tâm William Joiner và các nhà văn, cựu binh Việt Nam xây nên bằng cả tấm lòng, sự kiên trì, dũng cảm từ những năm 80 thế kỷ XX; Việt Nam cần chủ động đưa văn học Việt Nam ra thế giới bằng chiến lược quảng bá, giới thiệu tác phẩm văn học Việt Nam thông qua hoạt động dịch thuật, giao lưu và nghiên cứu văn học. Trong đó, sự phối hợp với các học giả người Mĩ gốc Việt, cơ sở giáo dục của Hoa Kỳ (các trường đại học giảng dạy tiếng Việt, văn học - văn hóa - lịch sử Việt Nam; các trường phổ thông có học sinh người gốc Việt) là vô cùng cần thiết.

   Góp phần quyết định trong công tác dịch thuật, quảng bá văn học, văn hóa Việt Nam ở nước ngoài chính ở những tác phẩm hay. Đây là trách nhiệm nhưng cũng là vinh dự, sứ mệnh của người cầm bút đối với nền văn học nước nhà. Làm sao để “những đứa con tinh thần” của mình sẽ có thêm đời sống thứ hai, thứ ba… (qua các bản dịch); “có lửa” để “làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên”, có sức mạnh của băng “gắn kết những ốc - đảo - người thành một khối”, cũng “dịu dàng mà mãnh liệt” như nước để “vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ” (theo Nguyễn Ngọc Tư17)? Câu hỏi này xin dành cho những nghệ sĩ của nghệ thuật ngôn từ tìm câu trả lời trong hành trình khẳng định tên tuổi của mình trên văn đàn dân tộc và tìm chỗ đứng trên bản đồ văn học thế giới. 

PGS. TS. Đoàn Lê Giang, ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương

Nguồn: Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 22.4.2024.

 

Tài liệu tham khảo:
1. An Như (thực hiện), “Mĩ là nước dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam nhất thế giới”, Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam,truy xuấttừhttp://vlcc.vn/tieng-noinha-van/nha-tho-nguyen-quang-thieumy-la-nuoc-dich-nhieu-tac-pham-van-hoc -viet-nam-nhat-the-gioi.html.
2. Huy Thông (2010), “Nhà văn Lê Lựu: Kể chuyện “đi sứ” văn học đến Mĩ”, Báo Thể thao & Văn hóa, truy xuất từ https://thethaovanhoa.vn/nha-van-leluu-ke-chuyen-di-su-van-hoc-den-my2010053109234032.htm).
3. Nguyễn Bá Chung (2007), “Trung tâm Joiner: hai mươi năm nhìn lại”, Tạp chí Sông Hương, truy xuất từ http://tapchisonghuong.com.vn/tapchi/c111/n866/Trung-tam-Joiner-haimuoi-nam-nhin-lai.html.
4. Nguyễn Thị Tuyết Ngân (chuyển ngữ), “Các văn nghệ sĩ Việt Nam qua nét vẽ của một nhà thơ Mĩ”. Tạp chí Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cand.com.vn/doisong-van-hoa/Cac-van-nghe-si-Viet-Namqua-net-ve-cua-mot-nha-tho-My-i332244/).
5. Nguyễn Việt Chiến(2010),“Văn học Việt trong mắt các nhà văn nước ngoài”,Báo Thanh niên, truy xuất từhttps://thanhnien.vn/van-hoc-viettrong-mat-cac-nha-van-nuoc-ngoai185297439.htm.
6. Nhiều tác giả (1995), The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers. (Wayne Karlin, Le Minh Khue & Truong Vu biên soạn), Connecticut: Curbstone Press.
7. Nhiều tác giả (2017), Những người đi qua biển - Those who cross the ocean, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
8. Nick Hilden (2023), “Bao Ninh on coming to terms with trauma in Vietnam, The acclaimed writer talks about his new story collection, ‘Hanoi at Midnight,’ and about changes in his country”, The Washington Post, Jun 18, 2023, https://www.washingtonpost.com/books/2023/06/18/bao-ninhhanoi-midnight-interview/?fbclid=IwAR1 QRpmrVMaXdad7LVp1WvV19bnyF_Vh Yi4BbeDeb9weoDdBSwPJU4SkWp8.
9. Phạm Xuân Nguyên (2014), Nhà văn như Thị Nở, Nhà xuất bản Hội Nhà văn & Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam.
10. Suellynn Duffey (2015), “Last Night I Dreamed of PeaceThe Diary of Dang Thuy Tram: War, Writing, Reconciliation”, proceedinigs of the Third Conference on Veterans in Society, pp. 85-98, https://vtechworks.lib.vt.edu/server/api /core/bitstreams/d68bd8f6-a8d1-437f9b2a-3421fe8dc574/content.
11. Thái Lộc (thực hiện, 2012), “Vì Việt Nam, và những mối quan hệ lâu bền… ”, Tuổi trẻ Cuối tuần, truy xuất từ https://cuoituan.tuoitre.vn/vi-viet-namva-nhung-moi-quan-he-lau-ben489097.htm).
12. Thùy Trang (2022), “Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Hồ sơ quan trọng nhất của dân tộc chính là văn hóa”, Báo Văn hóa, truy xuất từ http://baovanhoa.vn/vanhoa/artmid/428/articleid/57968/nha-thonguyen-quang-thieu-ho-so-quan-trong-n hat-cua-dan-toc-chinh-la-van-hoa.
13. Trần Đình Sử (2022), “Nỗi buồn chiến tranh, một cách viết khác về chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, truy xuất từ http://vannghequandoi.com.vn/binhluan-van-nghe/noi-buon-chien-tranhmot-cach-viet-khac-ve-chien-tranh_13950 .html.
14. Trần Trung Sáng (2018), “Nguyễn Ngọc Tư và giải thưởng Literaturpreis 2018: Văn chương vượt qua rào cản lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ”, Báo Công an Đà Nẵng - Chuyên trang của Báo Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cadn.com.vn/nguyenngoc-tu-va-giai-thuong-literaturpreis2018-van-chuong-vuot-qua-rao-can-lich-s u-van-hoa-ngon-ngu-post192731.html).

Chú thích:
1 Nguyễn Việt Chiến (2010), “Văn học Việt trong mắt các nhà văn nước ngoài”, Báo Thanh niên, truy xuất từ https://thanhnien.vn/van-hoc-viet-trong-mat- cac-nha-van-nuoc-ngoai-185297439.htm.
2 An Như (thực hiện), “Mĩ là nước dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam nhất thế giới”, Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam, truy xuất từ http://vlcc.vn/tieng-noi-nha-van/nha-tho-nguyen- quang-thieu-my-la-nuoc-dich-nhieu-tac-pham-van- hoc-viet-nam-nhat-the-gioi.html.
3 Nhiều tác giả (2017), Những người đi qua biển - Those who cross the ocean, NXB Hội Nhà văn.
4 Trần Đình Sử (2022), “Nỗi buồn chiến tranh, một cách viết khác về chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, truy xuất từ http://vannghequandoi.com.vn/binh- luan-van-nghe/noi-buon-chien-tranh-mot-cach-viet- khac-ve-chien-tranh_13950.html.
5 Nick Hilden (2023), “Bao Ninh on coming to terms withtraumainVietnam,Theacclaimedwritertalksabout his new story collection, ‘Hanoi at Midnight,’ and about changes inhiscountry”.The Washington Post, Jun 18,2023, https://www.washingtonpost.com/books/2023/06/18/bao- ninh-hanoi-midnight-interview/?fbclid=IwAR1QRpm- rVMaXdad7LVp1WvV19bnyF_VhYi4BbeDeb9weoDdB SwPJU4SkWp8.
6 Phạm Xuân Nguyên (2014), Nhà văn như Thị Nở, NXB Hội Nhà văn & Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam.
7,8SuellynnDuffey(2015),“LastNightIDreamedofPeace:TheDiaryofDangThuyTram:War,Writing,Reconciliation”, proceedinigsoftheThirdConferenceonVeteransinSociety, pp.87,88,https://vtechworks.lib.vt.edu/server/api/core/bitstreams/d68bd8f6-a8d1-437f-9b2a-3421fe8dc574/content.
9 Nick Hilden (2023), “Bao Ninh on coming to terms withtraumainVietnam,Theacclaimedwritertalksabout his new story collection, ‘Hanoi at Midnight,’ and about changes inhis country”,The Washington Post, Jun 18,2023, https://www.washingtonpost.com/books/2023/06/18/bao -ninh-hanoi-midnight-interview/?fbclid=IwAR1QRpmrVMaXdad7LVp1WvV19bnyF_VhYi4BbeDeb9weoDdBSwPJU4SkWp8.
10 Nhiều tác giả (1995), The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers, (Wayne Karlin, Le Minh Khue & Truong Vu biên soạn), Connecticut: Curbstone Press.
11 Thùy Trang (2022), “Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Hồ sơ quan trọng nhất của dân tộc chính là văn hóa”, Báo Văn hóa, truy xuất từ http://baovanhoa.vn/ van-hoa/artmid/428/articleid/57968/nha-tho-nguyenquang-thieu-ho-so-quan-trong-nhat-cua-dan-tocchinh-la-van-hoa.
12 Nguyễn Bá Chung (2007), “Trung tâm Joiner: hai mươi năm nhìn lại”, Tạp chí Sông Hương, truy xuất từ http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c111/n866/Trungtam-Joiner-hai-muoi-nam-nhin-lai.html.
13, 15 Thái Lộc (thực hiện, 2012), “Vì Việt Nam, và những mối quan hệ lâu bền…”, Tuổi trẻ Cuối tuần,truy xuất từ https://cuoituan.tuoitre.vn/vi-viet-nam-vanhung-moi-quan-he-lau-ben-489097.htm).
14 Nguyễn Thị Tuyết Ngân (chuyển ngữ), “Các văn nghệ sĩ Việt Nam qua nét vẽ của một nhà thơ Mĩ”,Tạp chí Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cand.com.vn/doisong-van-hoa/Cac-van-nghe-si-Viet-Nam-qua-net-ve-cuamot-nha-tho-My-i332244/).
16 Huy Thông (2010), “Nhà văn Lê Lựu: Kể chuyện “đi sứ” văn học đến Mĩ”. Báo Thể thao & Văn hóa, truy xuất từ https://thethaovanhoa.vn/nha-van-le-luu-kechuyen-di-su-van-hoc-den-my-2010053109234032.htm.
17 Trần Trung Sáng (2018), “Nguyễn Ngọc Tư và giải thưởng Literaturpreis 2018: Văn chương vượt qua rào cản lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ”, Báo Công an Đà Nẵng - Chuyên trang của Báo Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cadn.com.vn/nguyen-ngoc-tu-va-giaithuong-literaturpreis-2018-van-chuong-vuot-qua-raocan-lich-su-van-hoa-ngon-ngu-post192731.html).

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2010 vào ngày 08.5.2010 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 33 đề tài tham gia hội nghị, gồm 5 đề tài Hán Nôm, 7 đề tài ngôn ngữ, 18 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Sưu tầm, giới thiệu, phiên dịch di sản Hán Nôm ở Quận 9, TP Hồ Chí Minh của tập thể lớp Hán Nôm 2 do sinh viên Lê Thị Cẩm Tú làm chủ nhiệm; Ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng do sinh viên Trần Thị Thúy An thực hiện; Nghệ thuật trang phục Trung Quốc trong Hồng Lâu Mộng do sinh viên Nguyễn Thị Ánh Nguyệt thực hiện; Tìm hiểu vè lịch sử Nam Bộ do sinh viên Lê Thị Minh Tâm thực hiện; Biển trong văn học cổ điển Việt Nam do sinh viên Phùng Thị Hạ Nguyên thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Ngân Giang do sinh viên Võ Quốc Việt làm chủ nhiệm.

Những sử gia đến từ bên ngoài đã mang lại sự hiểu biết lịch sử Việt Nam thấu đáo và lắm khi bất ngờ với chính người Việt Nam vì những phát hiện thú vị. Trong cái nhìn liên ngành, liên kết toàn cầu, họ làm cho câu chuyện lịch sử Việt Nam trở nên gắn kết, hấp dẫn.

Vượt qua những rào cản

Cho đến nay, cuốn Imperial Heights – Dalat and the Making and Undoing of French Indochina (tựa tiếng Việt: Đỉnh cao đế quốc – Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp)(1) được in và tái bản nhiều lần tại Việt Nam. Độc giả quan tâm tới lịch sử thuộc địa ở Viễn Đông nói chung, lịch sử đô thị Đà Lạt nói riêng thì không thể thiếu cuốn sách này trên kệ. Tác giả cuốn sách, nhà nghiên cứu đến từ Đại học Victoria (Toronto, Canada) – Eric T. Jennings cho hay, ông đã bỏ mười năm để viết cuốn sách này.

“Như nhiều sử gia khác, thực tế là cùng lúc tôi đeo đuổi nhiều dự án. Tôi cũng tham khảo tài liệu ở nhiều quốc gia. Các trung tâm lưu trữ của Việt Nam ở Hà Nội, TPHCM và Đà Lạt là đương nhiên rồi. Nhưng còn ở cả Pháp, Thụy Sỹ, Canada, và cả ở Mỹ nữa. Tôi cứ lần theo những manh mối mà các tài liệu hé mở và việc truy tìm đã đưa tôi theo nhiều hướng bất ngờ”, tác giả cuốn sách trên kể lại như vậy về quá trình khảo cứu trong một phỏng vấn của Trần Đức Tài.

20240313 3

Một số cuốn sách của học giả nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam được độc giả trong nước quan tâm thời gian gần đây. Ảnh: N.V.N

Qua cách khảo cứu và thể hiện của nhà nghiên cứu Canada nói trên, lịch sử Đà Lạt gắn với những chương trình khai phá, xây dựng trạm an dưỡng cấp thời của người Pháp ở Đông Dương hồi cuối thế kỷ 19. Mục đích ban đầu, đó là nơi trú ẩn, thoát khỏi các chứng bệnh nhiệt đới, sau đó, là một khu nghỉ dưỡng, một vườn ươm nòi giống Pháp và xa hơn nữa, là đỉnh cao tham vọng – trở thành thủ phủ liên bang Đông Dương.

Nhưng đó cũng là thành phố trình bày rõ ràng con đường thiết lập sự hưng thịnh của quyền lực cho đến suy vong của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương vào giữa thế kỷ 20. Viết sử với một tư duy mới, một phương pháp vi lịch sử (micro history), các câu chuyện được Eric T. Jennings đưa vào sách hấp dẫn, khả tín bởi nguồn tài liệu dày công phu .

Nhà nghiên cứu sinh năm 1970 có mẹ là người Pháp, sinh ra ở Mỹ và trưởng thành ở Canada đã chọn Đà Lạt làm đối tượng nghiên cứu, đơn giản là khởi từ một thắc mắc trong một lần ông tiếp cận được bức điện tín từ Pháp gửi cho Toàn quyền Đông Dương nhưng địa chỉ đến lại là Đà Lạt. “Lạ quá, sao toàn quyền này không ở Hà Nội chứ?”, ông tự hỏi. Và những tìm tòi giúp ông dần dần hiểu ra tầm quan trọng của Đà Lạt đối với Đông Dương trong thời Pháp thuộc.

Với các nhà nghiên cứu nước ngoài hướng đến đề tài lịch sử Việt Nam, quá trình sưu khảo, xử lý tài liệu lưu trữ ở nhiều nơi rất phức tạp và những cơ chế tài trợ, giải thưởng, học bổng khuyến khích nghiên cứu các nước là một trong những điều giúp họ chuyên tâm, không lo lắng về tài chính lẫn thủ tục. Có thể đọc thấy trong lời cám ơn, Jennings nhắc đến sự hỗ trợ của: Hội đồng Nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân văn Canada, cơ quan này đã trợ giúp nhiều chuyến du khảo tới Việt Nam và Pháp; Học viện Nghiên cứu sức khỏe Canada tài trợ việc nghiên cứu chính yếu cho chương 1 và 3; một khoản tài trợ cho nghiên cứu của Đại học Victoria và một học bổng Spooner giúp nghiên cứu sâu hơn tại các văn khố thuộc địa tại Pháp, Việt Nam và một giải thưởng nghiên cứu JIGES cho phép tiếp cận nguồn tài liệu tại Zurich.

Cách ăn uống đến trang phục, giải trí của người Việt trong quá khứ và trong những cuộc tiếp xúc với phương Tây đều có thể là đề tài nghiên cứu vi lịch sử hấp dẫn giới nghiên cứu nước ngoài.
Ảnh trong cuốn Khoái khẩu và khát vọng của Erica J. Peters.

Nếu Eric T. Jennings tạo nên nguồn cảm hứng cho những ai quan tâm đến đô thị học qua trường hợp Đà Lạt thì Jason Gibbs lại kéo người quan tâm đến tân nhạc Việt Nam phải đọc kỹ các tiểu luận của ông trong cuốn Rock Hà Nội, Bolero Sài Gòn – Câu chuyện tân nhạc Việt Nam – để biết văn hóa âm nhạc Việt Nam.

Đến Việt Nam vào năm 1993, khi đang là chuyên viên thư viện công cộng San Francisco, California (Mỹ), đồng thời là người soạn nhạc, chơi nhạc, Jason Gibbs dành nhiều thời gian nghiên cứu về ảnh hưởng của nhạc phương Tây đến tân nhạc Việt Nam từ những năm 1930 cho đến sau ngày đất nước thống nhất.

Học tiếng Việt để nghe nhạc Việt và viết khảo cứu về tân nhạc Việt Nam, Gibbs tạo nên nguồn cảm hứng đặc biệt với những nhà nghiên cứu trẻ Việt Nam qua tác phẩm của ông. “Với bản thân tôi, từ khi dịch những bài viết này (của Jason Gibbs) cách đây hơn một thập niên, tôi đã có được một cảm hứng để tìm đọc những nghiên cứu khác về Việt Nam cũng như viết những cuốn sách của riêng mình.

Có những nơi Jason Gibbs đã cày xới, cũng có rất nhiều vùng trống còn đợi nhiều người, trong đó có tôi, tiếp cận”, Nguyễn Trường Quý, dịch giả cuốn sách và đồng thời là nhà biên khảo Hà Nội đã viết như thế trong lời giới thiệu lần tái bản cuốn Rock Hà Nội, Bolero Sài Gòn(2). Cuốn sách này cũng đã từng được tái bản, được giới nghiên cứu âm nhạc trong nước trích dẫn khá nhiều.

Mảnh đất màu mỡ

Các tác phẩm điền dã dân tộc học của những nhà truyền giáo, những ghi chép thực địa của các nhà buôn, công chức, du khách, nhà văn… là nền tảng sử liệu giúp ta hiểu nhiều hơn về Việt Nam trong quá khứ. Rất nhiều bút ký hành trình từ thế kỷ 17-19, trong mắt người phương Tây, Việt Nam là một vùng đất mới, các ghi chép đậm chất Đông phương luận của họ là kết quả của những bước tiếp cận cái dị biệt và thậm chí “va chạm” về văn hóa.

Lịch sử các đô thị có số phận đặc biệt của Việt Nam cũng là đề tài được giới sử gia quốc tế quan tâm bởi qua đó, có thể nhận ra bức tranh chuyển biến xã hội và văn hóa rộng lớn.
Ảnh: Cư xá Hoa viên Decoux (Đà Lạt năm 1942) trong sách Đỉnh cao đế quốc của Eric T Jennings.

Vào đầu thế kỷ 20, cùng với Viện Viễn Đông Bác cổ, các nhà nghiên cứu độc lập đã ra sức tìm hiểu Đông Dương như một cái nôi hợp dung hai nền văn hóa Ấn độ và Trung Hoa, một phương Đông của exotic (hương xa) để mang lại các trải nghiệm mới lạ mà người phương Tây tò mò muốn biết. Thời sau hòa bình, đặc biệt là khi đất nước mở cửa, việc các nhà nghiên cứu phương Tây chọn Việt Nam làm điểm đến trong các chủ đề của mình lại cho thấy lịch sử đất nước này đặt trong tương quan lịch sử thế giới cần được nhìn nhận lại bằng một phương pháp và lối tư duy khác, có tính liên ngành và vượt qua các ranh giới truyền thống.

Có thể nhận thấy có sự chuyển tiếp về phương pháp nghiên cứu lịch sử Việt Nam qua các tác phẩm của Philippe Papin (Pháp), David G. Marr, George Dutton (Mỹ), Li Tana (Úc), Yoshiharu Tsuboi (Nhật)… Dù ở khoanh vùng đề tài nào, họ đều có những công trình sử học đáng kể, giàu phát hiện khi nghiên cứu về Việt Nam, cho dù vì nhiều lý do, số phận công trình của mỗi người ở chính tại Việt Nam không hề giống nhau.

Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào thế giới toàn cầu hóa như một xu thế tất yếu, con đường những sử gia trẻ đến với các chủ đề lịch sử, văn hóa Việt Nam ngày càng rộng mở. Các nghiên cứu của họ không còn nhất thiết phải đi vào những vấn đề “đại tự sự”, những luận đề lớn lao hay phải khoác lên màu sắc quan điểm chính trị như trước đó mười, hai mươi năm, mà mở ra những hướng mới, vi lịch sử, thể hiện lịch sử bằng cách tái tạo câu chuyện hấp dẫn, quan tâm nhiều tới yếu tố địa văn hóa trong tương quan khu vực và toàn cầu… làm cho các tác phẩm vừa đảm bảo tính khả tín, hàn lâm lại vừa có sức hấp dẫn đại chúng. Quan trọng nhất, là giúp cho chính sử học thoát ra khỏi tháp ngà kinh viện để chạm vào đời sống một cách gần gũi.

Ngoài hai ví dụ về lịch sử Đà Lạt thời Pháp thuộc trong sách Eric T. Jennings và diễn trình tân nhạc Việt Nam trong sách của Jason Gibbs, thì có thể kể thêm nhiều trường hợp thú vị.

Vấn đề tiếng nói, nguyện vọng dân chúng thể hiện qua ăn uống trong cuốn Appetites and Aspirations in Vietnam: Food and Drink in the Long Nineteenth Century (Khoái khẩu và khát vọng: Hay là câu chuyện đồ ăn thức uống trong trường thiên thế kỷ 19 ở Việt Nam)(3) của Erica J. Peters là một thí dụ. Từ các tài liệu về việc sản xuất, phân phối và tiêu dùng thực phẩm vào thế kỷ 19, tác giả đưa ra những phát hiện bất ngờ từ hai phía: về phía nhà cầm quyền thực dân, việc kiểm soát thực phẩm là kiểm soát công cụ kinh tế và quyền lực; về phía dân chúng, việc chọn tiêu thụ thực phẩm không chỉ trình bày chủ nghĩa dân tộc, mà còn là cách bộc lộ khát vọng khẳng định giá trị cộng đồng dân tộc thông qua cái ăn.

Tác giả Erica J. Peters là đồng sáng lập và là Giám đốc Hội Sử gia Ẩm thực Bắc California. Bà có thời gian dài nghiên cứu ẩm thực Việt Nam và nhìn ẩm thực như một yếu tố sử học, văn hóa học và chính trị học. Các phát hiện của bà được công bố trong nhiều hội thảo quốc tế và cô đọng trong cuốn sách vừa được ra mắt độc giả Việt Nam trong năm 2023.

Rất gần với cách khai thác của Erica J. Peters, nhà nghiên cứu Nir Avieli (Israel) thì chọn khảo sát ẩm thực ở một khoanh vùng hẹp, đương đại là Hội An để viết công trình Rice Talks: Food and Community in a Vietnamese Town (Tạm dịch: Chuyện gạo: Thức ăn và cộng đồng tại một thị trấn Việt Nam)(4). Từ một khách du lịch ba lô đến Hội An vào năm 1993, và sau đó từ 1998 thì Nir Avieli trở lại nhiều lần để nghiên cứu nhân học ẩm thực. Tác phẩm chứa đựng một thực tế sống động và các phân tích chi tiết, hấp dẫn từ trong cung cách người Hội An dùng bữa, cấu trúc trên bàn ăn của họ và xa hơn, là những triết lý chứa đựng trong từng món ăn. Bữa ăn Hội An là sự củng cố tình cảm, nhưng cũng là nơi xác lập các vị trí, tôn ti trong và ngoài gia đình, gia tộc…

“Trong cuốn sách này, tôi tiếp cận ẩm thực và cách ăn uống theo một cách khác: tập trung vào khía cạnh văn hóa và xã hội của lĩnh vực ẩm thực ở thị trấn nhỏ Hội An và nhấn mạnh động cơ lẫn ý nghĩa của việc ăn uống vượt qua nhu cầu sinh lý hoặc giới hạn sinh thái, tôi cho rằng khi nhìn vào thực hành ăn uống cho phép chúng ta tiếp cận xã hội và văn hóa Việt Nam từ một góc nhìn độc đáo. Tôi chứng minh rằng đây là một lăng kính phân tích mạnh mẽ cho phép có được những hiểu biết mới về hiện tượng ‘là người Việt Nam’”, Nir Avieli viết trong lời dẫn nhập.

Nhãn quan mới, phương pháp mới

Trong chừng hai thập niên qua, trước những vấn nạn môi trường toàn cầu, trào lưu nghiên cứu lịch sử sinh thái đang được chú trọng. Từ nhãn quan của nghiên cứu lịch sử sinh thái, các tác giả Michitake Aso, David Biggs đều tìm được những đề tài thú vị tại Việt Nam và tạo nên những công trình có tiếng vang.

Michitake Aso trong Rubber and the Making of Vietnam: An Ecological History (tên sách tiếng Việt: Cây cao su ở Việt Nam – Dưới góc nhìn Lịch sử – Sinh thái (1897-1975)(5) đã nhìn sự du nhập giống cây cao su vào Việt Nam trong thời Pháp thuộc, tạo nên những đồn điền không chỉ là vấn đề “khai thác thuộc địa” như bấy lâu ta vẫn nghe qua. Qua công trình công phu này, tác giả là một sử gia về môi trường toàn cầu đã nhìn cao su – giống cây ngoại lai – như một biểu tượng thể hiện rõ nhất phía sau đó bức tranh một xã hội nô lệ và một dân tộc tự do.

Các đồn điền là nơi biểu hiện rõ nhất sự áp đặt quyền lực, các mức độ cai trị của nhà cầm quyền thực dân và cũng là nơi tức nước vỡ bờ, bùng phát các phong trào chống thực dân; đó lại là nơi triển khai các cương lĩnh xây dựng quốc gia. “Chúng ta sẽ không thể hiểu lịch sử Việt Nam và Campuchia trong thế kỷ 20 mà không tìm hiểu những tác động của các đồn điền lên môi trường và sức khỏe con người”, tác giả viết.

Trong khi đó, David Biggs dành nhiều năm để khảo cứu về lịch sử sinh thái của đồng bằng sông Cửu Long và tương quan sinh thái học của vùng đất này với lịch sử dựng nước. Cuốn Quagmire: Nation – Building and Nature in the Mekong Delta (Tựa tiếng Việt: Đầm lầy: Kiến tạo quốc gia và tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long)(6) của David Biggs là toàn cảnh bức tranh khẩn hoang và không chỉ cải biến đồng bằng theo mục đích khai thác, lập nên xứ sở, cộng đồng quốc gia và khi cần, còn có thể sử dụng đặc thù tự nhiên vào trong các sách lược quân sự của các phong trào kháng chiến địa phương…

Đầm lầy, một mặt là sức mạnh của dân bản xứ, nhưng lại là ẩn dụ về sự thách đố tự nhiên quá sức, dẫn đến thất bại (hay sa lầy) đối với các thế lực ngoại xâm. Từng đến miền Nam dạy tiếng Anh, David Biggs theo đuổi nghiên cứu lịch sử môi trường Việt Nam và bảo vệ tiến sĩ tại Đại học Washington. Ngoài Đầm lầy, ông còn một cuốn Footprins of War, đặt lịch sử môi trường trong những dấu ấn của cuộc thời chiến tranh.

Điều thú vị là cả hai sử gia, David Biggs lẫn Michitake Aso với các công trình về lịch sử sinh thái Việt Nam đều dành được những giải thưởng quốc tế rất danh giá về nghiên cứu môi trường. Michitake đoạt giải Henry A. Wallace của Hội Lịch sử Nông nghiệp và giải thưởng Charles A Weyerhaeuser của Hội Lịch sử Rừng cho công trình Cây cao su ở Việt Nam. Còn cuốn Đầm lầy của David Biggs thì được ghi nhận tại giải George Perkins Marsh 2012 cho sách hay nhất về lịch sử môi trường.

* * *

Có thể thấy bóng dáng các nhà nghiên cứu nước ngoài tại những thư viện, trung tâm lưu trữ Việt Nam hay dấn thân vào những cuộc điền dã không mỏi mệt dù với họ, biết bao rào cản phía trước khi theo đuổi một nghiên cứu về Việt Nam. Các công trình của họ tạo nên sự ngạc nhiên thú vị đối với độc giả trong nước, khi mà giới nghiên cứu trong nước hoặc chưa có những công trình đột phá, phát hiện và lan tỏa, hoặc chưa theo kịp xu hướng phương pháp nghiên cứu lịch sử mới bên ngoài (cũng có thể bởi đơn thuần chạy theo những dự án đặt hàng và xếp mãi trên các kệ sách của những trường, viện).

Không chỉ đem lại cái nhìn mới, cách kể mới, tham chiếu mới cho người đọc ngay chính tại Việt Nam, các sử gia ngoại quốc đang dấn thân trong địa hạt Việt Nam học vừa kể trên còn tạo nguồn cảm hứng và đánh thức trách nhiệm đối với giới nghiên cứu trong nước.

Nguyễn Vĩnh Nguyên

Nguồn: Kinh tế Sài Gòn Online, ngày 16.02.2024.

 

(1) Phạm Viêm Phương, Bùi Thanh Châu dịch, Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2022.

(2) Nguyễn Trương Quý dịch, NXB Đà Nẵng, 2019.

(3) Trịnh Ngọc Minh dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, 2023.

(4) Được biết, bản tiếng Việt do Phạm Minh Quân chuyển ngữ sẽ ra mắt bạn đọc Việt Nam trong tương lai gần.

(5) Hải Thanh, Minh Tâm, Khánh Tâm dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, 2023.

(6) Trịnh Ngọc Minh dịch, Phanbook & NXB Hồng Đức, 2019.

 
 
 

          Ngày 28 tháng 11 năm 2009, tại VP Khoa Văn học và Ngôn ngữ,  đề tài  Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX do PGS.TS. Đoàn Lê Giang làm chủ nhiệm đã được nghiệm thu. Hội đồng nghiệm thu do GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh làm chủ tịch đã đánh giá đề tài đạt mức độ “Tốt” (mức cao nhất).

Trong cuốn sách "Tiểu luận về nghệ thuật An Nam", Louis Bezacier đã phân tích các ảnh hưởng đến nghệ thuật An Nam và phân loại theo trình tự thời gian những biểu hiện của nền nghệ thuật ấy. Đây là hai kết quả đáng chú ý nhất của cuốn sách trung thực và không trau chuốt, thiếu những khéo léo văn chương nhưng lại phong phú sự thật này.

Nhìn nhận các hiện vật với con mắt đa chiều, đa nguyên và đa văn hóa

Tác giả của Tiểu luận về nghệ thuật An Nam tự nhận thức rằng công việc mà ông làm là nhặt nhạnh từng "hạt ngọc", so sánh, đối chiếu, giám định, khảo tả, và phân tích, rồi tổng hợp lại để tạo nên chuỗi vòng nghệ thuật An Nam. Đó là chuỗi vòng có 11 thế kỷ tồn tại.

Bằng những cứ liệu vật chất, Louis Bezacier cho rằng, chỉ từ cuối thế kỷ IX mới có những yếu tố cụ thể, xác đáng cho lịch sử nghệ thuật An Nam, còn trước đó, trong suốt ngàn năm, chủ yếu là dấu vết của các chính quyền phương Bắc để lại: các ngôi mộ Hán-Lục triều. Xa hơn nữa, nền nghệ thuật Đông Sơn cho thấy mối liên hệ mật thiết với văn minh Dayak của Borneo và Battak của Sumatra, và thảng hoặc có thể nhìn thấy những dấu vết văn minh nửa Trung Hoa nửa bản địa. Vì vậy, ông cho rằng, sẽ không ích gì khi tìm kiếm tổ tiên trực tiếp của người An Nam ngày nay qua cư dân Đông Sơn. Bezacier đã đưa ra một nhãn quan rộng mở khi nhìn các hiện vật với con mắt đa chiều, đa nguyên và đa văn hóa.

Từ những nghiên cứu của Louis Bezacier, các học giả Việt Nam trong thế kỷ XX đã triển khai hàng loạt chuyên luận, như Mỹ thuật thời LýMỹ thuật thời TrầnMỹ thuật thời LêMỹ thuật thời Mạc của Viện Mỹ thuật, Mỹ thuật người Việt của Nguyễn Quân và Phan Cẩm Thượng…

Sang thế kỷ XXI, ta còn biết cuốn Arts of Việt Nam 1009-1945 của Kerry Nguyễn-Long (Nxb Thế giới, 2013), L'envol du dragon-Art royal du Vietnam (Musée National des Arts Asiatiques – Guimet, Paris, 2014), Mỹ thuật Nguyễn của Nguyễn Hữu Thông (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019). Tất cả các công trình trên là một cuộc chạy tiếp sức trong nhiều thập kỷ, trong đó Louis Bezacier là người chạy ở những chặng đầu tiên

Phác thảo về một nền nghệ thuật tôn giáo

Điều đáng lưu ý trong luận điểm của Bezacier đó là phác thảo về một nền nghệ thuật tôn giáo, đúng hơn là nghệ thuật đa tôn giáo của Việt Nam thời kỳ tiền hiện đại. Trong đó, nghệ thuật quân sự, tang lễ, và Thái miếu, lăng mộ thuộc về Nho giáo. Tháp Phật, tháp mộ, và tượng pháp thuộc nghệ thuật Phật giáo.

Với góc nhìn từ chủ thể văn hóa, Bezacier coi các công trình nghệ thuật (dù là kiến trúc, điêu khắc, hay hội họa, nghi lễ,…) như là những dạng thức thể hiện khác nhau của thực hành tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Ông đã đưa ra một nhận định quan trọng về đình làng. Đó là loại hình kiến trúc An Nam duy nhất dựng trên cột trụ nhà sàn, nó khác với truyền thống kiến trúc Trung Hoa, và gần với kiến trúc bản địa Nam Á, như kiến trúc của người Mọi ở Tây Nguyên, người Mường, nó giống những hình mẫu cổ xưa còn bảo lưu ở Indonesia, như Goloubew và Nguyễn Văn Huyên từng đưa ra.

Trong kiến trúc Phật giáo, ngoài việc mô tả bình đồ phổ biến nói chung, như nội công ngoại quốc, cấu trúc chữ T hay công 工 của các gian điện chính, với các đơn nguyên như tam quan, hành lang, chính điện, hậu đường, nhà thờ tổ,… ông còn để ý đến các am thờ dành cho các bậc đại thí chủ đã hưng công xây dựng chùa.

20240301 2

Bìa cuốn Tiểu luận về nghệ thuật An Nam. Ảnh: Nhã Nam


Cuốn sách có tính phản biện

Một điểm quan trọng mà Louis Bezacier đưa ra trong Tiểu luận về nghệ thuật An Nam là phản biện lại luận điểm cho rằng nghệ thuật An Nam chỉ là “một bản sao lỗi”, là “nghệ thuật thuộc địa” phái sinh từ nghệ thuật Trung Hoa.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều học giả (cả Nho học lẫn Tây học) có ý cho rằng, người An Nam là một giống người thoát thai từ Hán tộc, trong quá trình di cư về phương Nam, nên nghệ thuật An Nam cũng chỉ là một cành nhánh của nghệ thuật Trung Hoa.

Từ quan điểm của thuyết giống nòi (racism), và thuyết tiến hóa xã hội (Darwin socialism), Bezacier đã phối hợp với thuyết di cư và phương pháp so sánh văn hóa để cho rằng, nền nghệ thuật An Nam là một nghệ thuật đa nguyên, với giao cắt phức hợp, nhiều màu: Trung Hoa có, bản địa có, Đông Á có, Nam Á có, Việt là chủ thể trong quá trình kiến tạo văn hóa, nhưng thêm vào đó là sự đóng góp của những nhóm Mường, Chăm, Mọi,... Tức là, Louis Bezacier tuyên bố xóa bỏ cách nhìn đơn sắc và đơn tuyến về lịch sử nghệ thuật Việt Nam: “khó có thể mong muốn nghiên cứu kiến trúc An Nam mà không am hiểu các loại hình nghệ thuật quanh nó và ảnh hưởng đến nó: các loại hình nghệ thuật Trung Hoa, nghệ thuật của Indonesia và chúng tôi thậm chí còn đi xa hơn, của Trung Á.”

Hơn nữa, tác giả của Tiểu luận về nghệ thuật An Nam nhận xét rằng, nếu kiến trúc Chăm chỉ là những dạng phế tích (đã chết), thì nghệ thuật An Nam với những công trình kiến trúc tâm linh và thực hành tín ngưỡng, là một nền nghệ thuật đang sống, đang tồn tại, với nhiều biểu hiện đa dạng và sống động.

Bezacier cũng đã phản biện bài nghiên cứu của Dumoutier về một số tác phẩm điêu khắc trang trí trong đền thờ của Đinh Tiên Hoàng có niên đại vào thế kỷ X. Bằng các thao tác của mỹ thuật học lịch sử và khảo cổ học lịch sử, ông khẳng định rằng những tác phẩm này khác xa với những tác phẩm điêu khắc thế kỷ X-XI. Đó là sự khác biệt về mô típ và phong cách tạo hình.

Louis Bezacier viết: “Những con rồng đầu to phân giới với bàn để đồ cúng ở đền thờ Đinh Tiên Hoàng cũng có phong cách rất khác so với những con rồng ở Đại La và thời Trần. Cuối cùng, những con chó, được làm khéo hơn và hiện thực hơn so với những con vật ở Lam Sơn và cũng như ở bả vai của những con vật này, được tô điểm họa tiết ngọn lửa xoắn ốc ở gốc và có gai nhọn ở đầu, ở Lam Sơn kiểu trang trí này xuất hiện khá rõ nét song kém sắc sảo hơn so với bây giờ.”

Dựa vào các tư liệu văn bia tại đền vua Đinh có niên đại xác tín (1607, 1610), và các tác phẩm điêu khắc cùng thời kỳ, Louis Bezacier giám định rằng, các tác phẩm điêu khắc ở đây có niên đại vào thế kỷ XVII, và chúng “đã cách xa thứ nghệ thuật thanh nhã ở Đại La, thậm chí cách xa cả nghệ thuật thời kỳ đầu nhà Lê, và đặc biệt bia mộ của các vua Lê ở Lam Sơn.” Những nhận định này là hoàn toàn xác đáng, khả tín, và cho đến nay đã trở thành chân lý.

Ảnh hưởng của Bezacier trong văn hóa Việt Nam

Louis Bezacier theo học tại Trường Mỹ thuật Paris từ năm 1926 và tham gia các tiết học về kiến trúc tại xưởng Defrasse-Madeline từ 1931-1932. Ông đến Hà Nội ngày 3.10.1935, đảm nhiệm vai trò bảo tồn các công trình ở Bắc Kỳ, rồi ở miền Trung Việt Nam, khu vực địa lý rộn hơn Bắc Kỳ tính thêm cả phần lớn lãnh thổ vương quốc Champa cũ.

Ngay khi đến Việt Nam, Louis Bezacier đã tiến hành công tác tu bổ một trong những công trình đẹp nhất Bắc Kỳ là chùa Ninh Phúc (hay còn gọi là chùa Bút Tháp), ở tỉnh Bắc Ninh. Ông cũng thực hiện các cuộc khai quật nhằm tìm ra dấu vết của các công trình trước đó.

Đến năm 1945, ông dành phần lớn thời gian và tâm huyết cho kiến trúc dân sự và tôn giáo cổ như chùa, lăng mộ, di tích cung điện triều Lê, cầu có mái che… ở châu thổ sông Hồng và tỉnh Thanh Hóa.

Louis Bezacier cũng tu bổ một phù đồ gạch ở Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Yên, có từ thế kỷ 11. Ông chính là người xác định được một phong cách mới: nghệ thuật Đại La (thế kỷ 11-12). Ngoài ra, Louis Bezacier còn chịu trách nhiệm tu bổ nhiều công trình Champa ở khu di tích Lý Sơn.

Một số tác phẩm tiêu biểu của Louis Bezacier: L’Architecture religieuse au Tonkin (Kiến trúc tôn giáo ở Bắc Kỳ, 1938), L’art et les constructions militaires annamites (Nghệ thuật và các công trình quân sự An Nam, 1941), Le panthéon bouddhique des pagodes du Tonkin (Điện thờ Phật giáo trong các chùa ở Bắc Kỳ, 1943), Essais sur l’art annamite (Tiểu luận về nghệ thuật An Nam, 1943), L’art vietnamien (Nghệ thuật Việt Nam, 1955).

Ảnh hưởng của Louis Bezacier trong văn hóa Việt Nam được thể hiện qua cách ông khảo tả các đồ án mỹ thuật, mà cho đến nay, đã trở thành các thuật ngữ. Lối khảo tả chân chất của Bezacier về con rồng thời Lý được định danh thành “rồng hình giun”/”rồng giun”, “rồng dây”. Nguyên ủy, rồng thời Lý thường có nhịp uốn khúc rất gấp, với đặc điểm long dạng uốn khúc uyển chuyển và mảnh mai như dây leo, nhưng cách dùng chữ “rồng giun” của Bezacier khiến cho người Việt ngày nay vẫn còn sử dụng như là “khái niệm” và được đưa vào nhiều sách nghiên cứu, giáo trình.

Bezacier cũng là người đầu tiên phát hiện ra sự đồng điệu của phong cách của các hoa văn ở Đại Việt với chân Thiếp Tháp 铁塔 thời Tống. Ông coi đây là một biểu hiện cụ thể của ảnh hưởng Trung Hoa tới nghệ thuật Việt Nam thời Lý Trần.

________________

Buổi ra mắt bản dịch tiếng Việt của tác phẩm Tiểu luận về nghệ thuật An Nam của Louis Bezacier do Nhã Nam và Viện Pháp tổ chức sẽ diễn ra từ 9g30-11g30, thứ Bảy, ngày 24.2.2024. Địa điểm: Tầng 1, Complex 01, ngõ 167 Tây Sơn, Hà Nội.

Khách mời tham gia sự kiện gồm: PGS-TS. Trần Trọng Dương; Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Tuấn Anh; Tiến sĩ văn học Mai Anh Tuấn.

Phương Đào

Nguồn: Người đô thị, ngày 22.02.2024.

Có thể nói, văn chương trong tác phẩm 'Huế đẹp như tranh' như những họa đồ hay tranh chạm khắc được hình thành một cách chi tiết, qua những cảm xúc sâu xa, mong manh và đầy tinh tế...

Bulletin des amis du vieux Hue (hay Những người bạn cố đô Huế) được đánh giá là một trong những tập san khoa học xã hội có giá trị bậc nhất Đông Dương trong 3 thập kỷ, từ 1914 – 1944. Mới đây, tập 2 Huế đẹp như tranh đã được giới thiệu với đông đảo bạn đọc, góp phần lần giở những giá trị xưa, từ đó mang đến cái nhìn vượt thời gian về chốn thần kinh của hơn một thế kỷ trước.

Được viết bởi những cá nhân đã từng sinh sống và làm việc tại đây, Huế đẹp như tranh đã tách mình khỏi góc nhìn lịch sử, để không đơn thuần là tái hiện thời gian chính xác, tình tiết rõ nét, mà thay vào đó sử dụng thủ pháp miêu tả tỉ mỉ, khai thác đề tài ở nhiều góc nhìn… để mang đến cái nhìn thú vị về con người, cảnh sắc, lịch sử, văn hóa, phong tục… Huế xưa. Có thể nói, văn chương trong tác phẩm này như những họa đồ hay tranh chạm khắc được hình thành một cách chi tiết, qua những cảm xúc sâu xa, mong manh và đầy tinh tế.

Tức cảnh sinh tình

Cũng như Nam Kỳ ngao du của Léon Werth hay An Nam thời xưa của Toàn quyền Pierre Pasquier, các tác giả trong tập san này có cách nhìn Huế khác biệt và đầy trìu mến. Các áng văn này thường bộc lộ cảm xúc nội tâm, không hướng theo một chủ đề đặc biệt nào cả, mà là ghi lại trải nghiệm mắt thấy tai nghe và đầy lạ lẫm của họ.

Chẳng hạn trong bài Chuyến dạo chơi đêm tả về quang cảnh của Huế năm 1910 của E.Gras – quan Chánh sở Kho bạc An Nam, ta thấy ở đó rất nhiều yếu tố tạo nên cảnh Huế, từ những ánh lửa hắt lên bóng người leo lét, mùi gừng bốc lên từ các căn nhà…. cho đến sự sống “đông nhung nhúc, dữ dội và kỳ diệu” từ tiếng loạt soạt thoáng qua của chiếc lá rụng hay cú nhảy ì ạch của một con cóc…

Từ những mô tả ấy, E.Gras như một flâneur(*) ở nơi thuộc địa cũng rất tinh tế bộc lộ cõi lòng của mình. Theo đó khi được bổ nhiệm ở Huế, vợ ông vì không muốn sang nên đã ly hôn, có thể từ đó mà ông đã nghiêng mình xuống dành sự thương cảm cho những thân phận không được may mắn. Đó là những cô gái làng chơi da vàng nhỏ bé, những những người đẹp về đêm, người “chống tay đợi khách với điếu thuốc lập lòe trên đôi môi thẫm đỏ” gần cầu Gia Hội… Ông cũng tinh tế nhấn vào nơi đó thêm sự buồn thương, với khúc ca vẳng lại từ xa, cao vút như cất lên từ hơi sương mờ ảo bao phủ dòng Hương giang…

20231211 2

Tranh màu nước của E.Gras vẽ lại cảnh trong rạp hát. Người nhắc vở (phía phải) đọc quá to khiến khán giả được nghe lời thoại đến 2 lần, trong khi các vai ma quỷ tận dụng pháo sáng để trốn xuống gầm bàn.


Ngoài viết văn, E.Gras cũng là họa sĩ tương đối nổi tiếng đã tạo nên nhiều bức vẽ hoạt cảnh đời sống của người Đông Dương. Chẳng hạn trong bài Một đêm nơi rạp hát An Nam, ông đã tả lại cách thức mà sân khấu thời đó trình diễn nghệ thuật. Ông đánh giá ý tưởng của các tác phẩm có thể phức tạp, nhưng biểu hiệu của người đóng tuồng thì lại chân phương, không có gì sâu xa.

Ông cũng có những trải nghiệm “dở khóc dở cười” tại đây, như việc người nhắc vở rõ to khiến cho khán giả như được nghe kịch tới 2 lần, hay việc các vai ma quỷ không biến mất theo kiểu thông thường, mà người diễn viên sẽ tung bột nổ mà người Tàu sáng chế, rồi nhân lúc đó trốn dưới gầm bàn… cũng cho thấy một thời hoạt động sân khấu phần nhiều giản dị.

Trong đa số bài viết, ta đều thấy cách mà Huế đã trở thành nơi của nhiều chủng tộc và nhiều lớp người cùng nhau chung sống. Ở đó người An Nam cùng người Tàu, người Ấn, người da trắng… sống lẫn vào nhau. Từ anh lính với trang phục kaki, anh bồi với mái tóc búi cao, cho đến những đứa trẻ đầu trần, những cu li-chè không có khách, những anh lính đương kỳ nghỉ phép, những cô hàng buôn nhón chân chao người gánh những giỏ hàng hay những ông khách người Hoa bụng phệ, người Âu châu đội mũ trắng đi ngang qua trên một cỗ xe có bác xà ích kênh kiệu…. đều được tác giả thu hết vào tầm mắt mình.

Huế cũng được nhấn nhá bằng những công trình lăng tẩm của những vị đế vương, của kiến trúc vườn, ngọn núi Ngự Bình, sông Hương, và từ nơi đó vang lên bài ca của những phụ nữ chèo thuyền tam bản, điểm nhịp bởi tiếng khua mái chèo… Các tác giả đã quan sát cũng như nghiên cứu một cách kỹ càng, để không chỉ tả lại cảm xúc, mà các bài này cũng có những thông tin chính xác như đây là các bài ca với giai điệu truyền lại từ các bậc tiền nhân đã được lưu giữ trọn vẹn, và người ta sẽ không bao giờ được nghe lần thứ hai theo cùng một lối, bởi người xướng ca sẽ ứng tác trên một chủ đề quen thuộc và để cảm hứng được tự do biến tấu…

Bìa sách Huế đẹp như tranh. Ảnh: Minh Anh


Các nghiên cứu sâu

Ngoài những bài viết chủ yếu sáng tạo dựa trên cảm xúc, thì Huế đẹp như tranh cũng có những bài riêng lẻ tập trung nghiên cứu một khía cạnh nào đó. Chẳng hạn trong bài Một ngày của một “nữ nhân thanh lịch” ở Huế, thì J.de.Soudack đã bám rất sát cuộc sống của mệnh phụ phu nhân Mỹ Châu xuất thân danh giá, để tả lại trọn một ngày của cô, từ lúc thức dậy với việc ra khỏi màn, súc miệng, châm điếu thuốc lá nhỏ xíu, ăn sáng… cho đến làm đẹp, đón tiếp bạn bè… Tại đây những chuyện “hậu cung bếp núc” của người phụ nữ đứng sau gia đình đã được tái hiện một cách khác lạ và đầy độc đáo.

Chẳng hạn nhà bếp nơi đây được Soudack mô tả rất lý thú. Ông viết “Nhà bếp rất rộng, bếp lò xây dọc tường tứ bề đỏ lửa. Trong những nồi đất là cá cắt khúc đang kho, vịt áp chảo với hành tỏa ra mùi hương thoang thoảng của… miền Provence. Treo trên xà nhà là khay đan bằng mây đựng một chú heo được quay nguyên con”. Cung cách dùng bữa của những giới thượng lưu cũng được ghi lại, với ấm trà thơm nức hoa ngâu đựng trong chén nhỏ dát bạc. Tại đó những đĩa thức ăn nối tiếp nhau được bưng lên với các loại thịt cắt miếng, chấm vào nước mắm. Khi có khách quý, thì dàn nhạc và các nàng vũ công cũng được thêm vào, mang đến không khí vui tươi.

Tranh màu nước của E.Gras tả lại một ngày của nữ nhân thanh lịch Mỹ Châu.


Vượt ra khỏi chốn hậu viện của một gia đình, các tác giả cũng mang đến những ấn tượng lớn và bao quát hơn về các địa danh và nét văn hóa đặc biệt. Chẳng hạn trong bài Bao Vinh, thương cảng ở Huế, R.Marineau đã nói về nơi giao thương vô cùng bận rộn, nơi người An Nam cùng với người Tàu cùng nhau làm ăn, từ đó làm nên cuộc sống sung túc. Nơi đây bấy giờ hiện lên nhộn nhịp với sản vật phong phú đổ về từ khắp nơi, có cả những thứ không thường hay thấy ở Nhật Bản, Malabar – ven biển Ấn Độ và Âu Châu. Đến phiên mình, nhiều tàu từ đây sau khi chất đầy hàng hóa nhất là gạo, bắp, khoai mì, khoai lang, lâm sản, gỗ quý, hoa quả… cũng sẽ hướng đến Trung Quốc hoặc Hong Kong, sau khi chạy qua Hải Phòng hoặc Đà Nẵng.

Nghiêng về văn hóa, Bonhomme cũng có một bài tương đối ấn tượng là Thành phố của quan chức, để hệ thống lại những nét chung nhất của hệ thống giáo dục của xứ An Nam. Là kinh đô của vương quốc, là một đô thị hành chính, nên như ông khẳng định, quan chức hiện diện khắp nơi ở Huế. Ông cũng nói thêm “Ta không thể lãnh hội đầy đủ về Huế, vẻ nghiêm trang, danh tiếng, vẻ cao quý của một bộ phận cư dân, và thậm chí là lãnh hội đến một mức nào đó vẻ bề ngoài của thành phố, những di tích bị bỏ phế, những lối đi bị cỏ dại xâm chiếm… nếu ta không thâm nhập ít nhiều vào hồn cốt của cõi quan trường.”

Bài này có thể được xem như phần nhỏ hơn mà cuốn An Nam thời xưa của Toàn quyền Pierre Pasquier đã từng viết về. Nó cũng đề cập đến các bước đường học tập, cơ hội thành danh cho tất cả mọi người, những được – mất của việc làm quan cũng như sự quan trọng việc tuân theo lề thói mà các bậc hiền triết thời xưa chỉ dạy… Bài Lễ Tết ở Huế cũng là những nét sơ khởi về các sự kiện lớn hàng năm, từ đó mà người nước ngoài có thể hiểu một cách rõ hơn về văn hóa và con người An Nam trong những năm đầu của thế kỷ 20…

Với mục tiêu bảo tồn và truyền lại những dấu ấn xưa về xứ Huế và các vùng lân cận, Huế đẹp như tranh là tài liệu có giá trị khảo cứu lớn, để từ đó độc giả thời nay có thêm góc nhìn về những sự kiện đã từng diễn ra một thế kỷ trước. Mỗi bài viết trong tập sách này như một “chuyến đò”, giúp đưa đọc giả xuôi hai bên bờ sông, từ đó thấy lại lịch sử, văn hoá, tôn giáo và phong tục… đã từng tồn tại những ngày xưa cũ.

Minh Anh

Nguồn: Người đô thị, ngày 02.12.2023.

__________________

(*) Danh từ tiếng Pháp có nghĩa “đi dạo” hay “lang thang” được nhà thơ người Pháp Charles Baudelaire dùng lần đầu tiên, chỉ những người dành thời gian cho việc quan sát.

Nền văn học nghệ thuật hiện thực và nhân văn của Liên Xô trước đây và nước Nga ngày nay đã ảnh hưởng rất lớn tới văn học Việt Nam qua nhiều thế hệ.

20231125

Chủ tịch Liên hiệp Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam Đỗ Hồng Quân trao tặng Kỷ niệm chương cho học giả Anatoly Sokolov. (Nguồn: TTXVN)

Ngày 21/11, tại trụ sở Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga đã diễn ra Lễ trao tặng Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam” cho Phó Giáo sư, Tiến sỹ Anatoly Alekseevich Sokolov, cán bộ khoa học của Viện Đông phương học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga.

Tham dự sự kiện, về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga Đặng Minh Khôi, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam Đỗ Hồng Quân, lãnh đạo các ban, ngành của Đại sứ quán Việt Nam, cùng một số đại diện cộng đồng Việt Nam tại Liên bang Nga.

Về phía Nga có sự tham dự của Chủ tịch Hội Hữu nghị Nga-Việt Vladimir Buyanov, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Australia và châu Đại Dương, Viện Đông phương học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga, cùng đông đảo các chuyên gia, học giả Nga nghiên cứu, quan tâm và có nhiều tình cảm với Việt Nam.

Phát biểu tại buổi lễ, ông Đỗ Hồng Quân khẳng định, sau hơn 70 năm Việt Nam và Liên Xô trước đây, Liên bang Nga ngày nay, ký kết Hiệp ước Hữu nghị, giữa hai nước đã có mối quan hệ mật thiết, cùng hợp tác và phát triển có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực kinh tế, quốc phòng và xã hội, nhưng đặc biệt nhất là sự gắn bó về văn học, nghệ thuật.

Nền văn học nghệ thuật hiện thực và nhân văn của Liên Xô trước đây và nước Nga ngày nay đã ảnh hưởng rất lớn tới văn học Việt Nam qua nhiều thế hệ. Những tác phẩm của các nhà văn Nga vĩ đại như Aleksandr Sergeyevich Pushkin, Mikhail Yuryevich Lermontov, Lev Nikolayevich Tolstoy, Maksim Gorky, Solokhov... cùng hàng chục tác giả khác, đã được dịch sang tiếng Việt.

Phó Giáo sư Anatoly Sokolov là một trong những nhà Việt Nam học có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nghiên cứu, dịch thuật đó.

Ông Đỗ Hồng Quân khẳng định, kỷ niệm chương lần này là sự đánh giá cao và tôn vinh những cống hiến đối với Văn học Việt Nam của Phó Giáo sư, Tiến sỹ Sokolov, đồng thời gửi lời chúc mừng và hy vọng học giả tiếp tục cống hiến nhiều hơn các công trình nghiên cứu khoa học có ý nghĩa.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm cùng học giả Anatoly Sokolov (Nguồn: TTXVN)

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm cùng học giả Anatoly Sokolov (Nguồn: TTXVN)

Về phần mình, Đại sứ Đặng Minh Khôi chúc mừng học giả Anatoly Sokolov, khẳng định việc trao tặng Kỷ niệm chương là sự ghi nhận của Liên hiệp các Hội Văn học và nghệ thuật Việt Nam nói riêng, cũng như của Việt Nam nói chung đối với những đóng góp và nỗ lực không ngừng nghỉ của học giả trong việc nghiên cứu, giới thiệu và quảng bá văn học nghệ thuật Việt Nam đến với công chúng Nga và bạn bè quốc tế, góp phần vào việc xây dựng và củng cố mối quan hệ hữu nghị truyền thống và quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước.

Đại sứ cũng đề nghị Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam cùng với các nhà nghiên cứu, nhà Việt Nam học người Nga phối hợp, tham gia tổ chức các hoạt động chung, đặc biệt là các hoạt động văn hóa nghệ thuật, để cùng kỷ niệm 30 năm ngày ký Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và LB Nga vào năm 2024.

Phát biểu đáp từ tại buổi lễ, Phó Giáo sư, Tiến sỹ Anatoly Sokolov xúc động gửi lời cảm ơn tới Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga đã tổ chức buổi lễ trang trọng, ấm áp ghi nhận những đóng góp khoa học của mình.

Phó Giáo sư, Tiến sỹ Anatoly Sokolov từ lâu đã được nhiều người Việt Nam biết đến với cương vị là người biên soạn cuốn “Từ điển Việt-Nga,” cuốn sách gối đầu giường của thế hệ hàng chục nghìn cựu sinh viên, chuyên gia, cán bộ Việt Nam đã từng làm việc và học tập tại Nga.

Với niềm đam mê và kiến thức sâu rộng đối với lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam, công tác tại Viện Đông phương danh tiếng thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Nga, học giả Anatoly Sokolov đã viết hơn 200 bài báo về văn học, lịch sử Việt Nam; khảo cứu và biên soạn hàng chục bài báo về Chủ tịch Hồ Chí Minh và cách mạng Việt Nam từ kho lưu trữ của Liên Xô.

Học giả Anatoly Sokolov là tác giả của công trình Lịch sử điện ảnh Việt Nam, người viết bản nghiên cứu rất công phu về những tác phẩm văn học Xô-viết được dịch ở Việt Nam thời chống Pháp...

Ông cũng là người hiệu đính tác phẩm Truyện Kiều và Nhật ký Đặng Thùy Trâm nổi tiếng được dịch ra tiếng Nga.

Chu An

Nguồn: Báo Thế giới và Việt Nam, ngày 22.11.2023.

Bộ Giáo dục – Đào tạo vừa có quyết định trao giải nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2007-2008. Năm nay sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đạt được 20 giải nghiên cứu khoa học cấp Bộ (gồm 1 giải nhất, 3 giải nhì, 6 giải ba, 10 giải khuyến khích).

Trong thời hậu Xô viết bắt đầu sau khi Liên Xô sụp đổ vào năm 1991, quan hệ Nga – Việt chủ yếu tập trung vào lĩnh vực kinh tế. Những mối liên hệ văn hoá và nghệ thuật trước kia về cơ bản đã ngưng lại, mặc dù những chuyến đi của các nhà văn vẫn tiếp tục, thường là theo kênh các tổ chức xã hội hay do sự sắp xếp cá nhân.

Trong hơn hai thập niên gần đây, những tác phẩm văn học ở Nga về Việt Nam được sáng tác rất ít. Trong những thực tiễn mới của đời sống nước Nga xuất hiện khả năng tiếp cận những đề tài và vấn đầ mà trước kia chưa phải là đối tượng thảo luận rộng rãi. Xuất hiện những hồi ức, hồi ký của các nhà báo, các nhà ngoại giao, các chuyên gia quân sự Nga/ Xô viết về Việt Nam và về chiến tranh Việt Nam. Chẳng hạn, người đầu tiên viết về những chuyên gia quân sự Xô viết thực hiện nghĩa vụ quốc tế ở đất nước Đông Nam Á xa xôi này là Valery Kuplevakhsky. Ông xuất bản một bút ký nghệ thuật “Những bí ẩn Việt Nam”(Вьетнамские тайны) viết về những sự kiện những năm đó. Đây là một phần của nhóm tác phẩm Những câu chuyện nhỏ về chiến tranh (Маленькие военные истории, tạp chí Ngọn cờ, 1998, số 6), còn đề tài trước đó về chiến tranh Việt Nam cũng đã được ông nói đến trong truyện ngắn “Chú hề Mạnh nhỏ bé” (Маленький клоун Мань) nằm trong tập Sự đam mê hư ảo (Суетность пристрастия, 1990).

20230814 2

Ảnh: Bìa sách Sự đam mê hư ảo (Суетность пристрастия, 1990) của Valery Kuplevakhsky

Nhà báo Mikhail Ilinsky đến Việt Nam vào năm 1966 với tư cách phóng viên của tờ Tin tức và làm việc ở đất nước này 12 năm. Ông là tác giả của nhiều bài báo và sách về Việt Nam, trong đó bao gồm cả công trình nghiên cứu mang tính tư liệu-nghệ thuật Đông Dương. Tro bụi bốn cuộc chiến tranh (Индокитай. Пепел четырех войн, 2000), trong đó tái tạo một biên niên sử đầy bi kịch của bốn cuộc chiến diễn ra vào thời điểm nóng bỏng của lịch sử thế kỷ XX từ 1939 đến 1979: cuộc đấu tranh chống sự chiếm đóng Đông Dương của Nhật Bản, chiến tranh chống thực dân Pháp, chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và cuộc chiến giữa các quốc gia xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên trong lịch sử - chiến tranh giữa Trung Quốc và Việt Nam[1].

Luôn có sức hấp dẫn lớn là những hồi ký của các nhà ngoại giao, nhà báo và các chuyên gia quân sự - họ là những nhân chứng trực tiếp các sự kiện quan trọng của đất nước trong thời gian ở tại Việt Nam. Igor Alexandrovich Ognetov - học trò của viện sĩ A.A. Guber, là một trong những chuyên gia hàng đầu của Nga về Việt Nam. Ognetov làm việc ở Việt Nam vừa với tư cách phiên dịch viên, vừa là nhà ngoại giao cấp cao, nhiều năm là cộng tác viên của Ban Quốc tế của Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, can dự vào những công việc “bếp núc” của quan hệ Xô – Việt. Ông là tác giả của hàng loạt công trình khoa học về lịch sử Việt Nam. Trong cuốn sách Hướng về Việt Nam (На вьетнамском направлении, 2007) của ông, những hồi ức của tác giả từ những năm tháng sinh viên kết hợp một cách hữu cơ với đất nước học, lịch sử, nghiên cứu quan hệ quốc tế, những suy nghiệm về quá khứ và hiện tại của mối quan hệ Liên Xô/Nga với Việt Nam. Tất cả những đề tài được chạm tới trong cuốn sách này cho thấy qua thái độ của tác giả đối với chúng ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời mình, thái độ không phải của người đứng ngoài quan sát, mà là của người hiến mình cho Việt Nam và trung thành với lựa chọn của mình. Đặc biệt mang tính biểu trưng là những lời của ông ở phần kết của cuốn sách: “Sau hàng chục năm hợp tác đã xuất hiện hàng ngàn, hàng chục ngàn  sợi dây tình cảm kết nối người Việt Nam với Liên Xô – từ những lãnh đạo cấp cao đến những người lao động bình thường nhất, đến sinh viên, học sinh. Những sợi dây mỏng manh đó khi kết lại với nhau đã trở thành một sức mạnh tinh thần to lớn” (Ognetov, 2007, tr.321).

Tư liệu thực tế và thú vị về Việt Nam và quan hệ Liên Xô/Nga – Việt Nam hiện diện trong hồi ký của nhà báo Sergei Nikitovich Afonin Những năm cháy bỏng (Жаркие годы, 2007), của nhà hoạt động ngoại giao chuyên nghiệp Evgeny Pavlovich Glazunov Trong những năm chiến tranh và hoà bình (từ các sổ ghi chép) (В дни войны и мира (из записных книжек), 2010), của Anatoly Safronovich Zaitsev Nhớ về Việt Nam (Вспоминая Вьетнам, 2010) và Nhớ về Việt Nam. Bút ký của một nhà ngoại giao (Вспоминая Вьетнам. Записки дипломата, 2020), của viện sĩ Đông phương học Alexei Mikhailovich Vasiliev Chiến tranh ở Việt Nam. Tại sao người Việt thất bại (Война во Вьетнаме. Почему вьетнамцы потерпели поражение, 2021) viết khi làm phóng viên báo Sự thật ở Việt Nam vào những năm 1967 – 1971.

Trong số những ấn phẩm thuộc thể loại này còn có hồi ký của Sergei Veniaminovich Shcherbakov Vườn trẻ cho người lớn (Детский сад для взрослых, 2018). Tác giả của nó là một nhà báo và nhà ngoại giao, cuốn sách của ông là một báo cáo kết quả đặc thù công việc ở ngành xuất bản địa phương và trung ương. Phần quan trọng cuộc đời ông gắn với Việt Nam, nơi ông làm việc với tư cách phóng viên của tờ Sự thật Komsomol. Về đất nước này và thanh niên ở đó, S. V. Shcherbakov trước đó đã viết cuốn Cánh chim mặt trời (Птица солнца, 1987). Nhiều trang trong những hồi ký đó viết về việc phục vụ của ông trong lĩnh vực ngoại giao, về những chuyến công tác ra nước ngoài và những ấn tượng về các cuộc gặp gỡ với những người nổi tiếng ở các nước khác nhau.

Cuốn sách của Yury Krutskikh Cam Ranh, hay những cuộc phiêu lưu không tưởng của các tàu ngầm ở Việt Nam (Камрань, или невыдуманные приключения подводников во Вьетнаме) xuất bản ở Vladivostok vào năm 2019 cũng có thể xếp vào thể loại hồi ký. Vào năm 1988, tác giả tốt nghiệp Trường Cao đẳng Hải quân Thái Bình Dương mang tên S.O. Makarov. Vào cuối thập niên 1980, ông phục vụ trên chiếc tàu ngầm Xô viết chạy bằng động cơ diesel phiên bản 641, đồn trú tại cảng Cam Ranh của Việt Nam. Tác phẩm có cấu trúc 51 chương, thực chất là những truyện ngắn độc lập về các nhiệm vụ quân sự, về những tháng ngày dài sống xa Tổ quốc ở cuối thời kỳ “chiến tranh Lạnh”. Cuốn sách được viết hấp dẫn và đặc biệt thú vị với nhiều chi tiết giúp hiểu rõ hơn thời đại lịch sử đó.

Một tầng văn học tư liệu nghệ thuật đặc biệt về Việt Nam là những ấn phẩm được biên soạn với sự tham gia của Hội Hữu nghị Nga – Việt và Tổ chức xã hội liên khu vực các cựu chiến binh ở Việt Nam. Trong cuốn sách xuất bản năm 2005 Chiến tranh ở Việt Nam… Nó như thế nào (1965 – 1973) (Война во Вьетнаме… Как это было (1965-1973)) đã miêu tả những sự kiện mà đến nay ít người ở Nga biết đến. Trong một chừng mực nào đó, nó hé lộ tấm màn bí mật về những sự kiện mà trước kia do những nguyên nhân nhất định hầu như không được nói tới trong những sách báo công khai. Trong sách này, những hồi ức của các chuyên gia quân sự Liên Xô làm việc ở Việt Nam những năm 1960 – 1970 trong thời kỳ chiến tranh và giúp đỡ trực tiếp nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược lần đầu tiên tập hợp và công bố

Còn có một cuốn sách thuộc thể loại như thế nữa: Có một từ không thể quên Liên Xô» (Это незабываемое слово Льенсо”, 2006). Sách này tập hợp những hồi ức của các chuyên gia Xô viết và Nga vào những năm khác nhau, từ đầu những năm 1950 cho đến ngày nay. Trong số các tác giả của những tư liệu được công bố đó có các nhà ngoại giao và nhà báo, các kỹ sư xây dựng và địa chất, các chuyên gia quân sự và các học giả[2].

Những tác phẩm thuần tuý văn học những năm gần đây là những ấn bản sách giấy và mạng trực tuyến (online).

Cuốn sách của nhà văn và nhà soạn kịch Evgeny Grishkovets Sự sống tiếp tục (Продолжение жизни, 2010) được xây dựng dựa trên những ghi chép trong nhật ký mạng của ông. Những tình tiết về Việt Nam được ghi vào tháng giêng năm 2009. Ông đến đất nước này chỉ vỏn vẹn 10 ngày, nhưng đã có được nhiều ấn tượng bất ngờ và sâu sắc khác nhau, và điều khiến ông “kinh ngạc nhiều hơn cả là sự sôi động của cuộc sống”(Grigovets, 2010, tr.21). Tác phẩm này là ví dụ sinh động cho việc làm thế nào văn học mạng hiện nay của chúng ta có được hình thức một cuốn sách.

Nhà văn nữ trẻ tuổi Daria Dotsukh có tác phẩm Thời cam quýt (Мандариновая пора, 2014) dành cho độc giả trẻ tuổi. Chủ yếu, tác phẩm được xây dựng dựa trên câu chuyện có thực của một nhà đình nhà ngoại giao Nga sống ở Việt Nam. Nhân vật của truyện, một cậu học sinh 13 tuổi, sau chuyến công tác dài hạn của người cha từ Việt Nam về lại Moskva, cố gắng khắc phục những khó khăn và sự thiếu cảm thông của bạn bè cùng lớp cũng như của cha mẹ để tìm lại bản thân mình trong hoàn cảnh sống mới.

Ivan Zorin là một nhà viết văn xuôi hiện đại của Nga, một nhà văn chính luận và là người làm nhật ký video trên mạng (video-blogger). Truyện ngắn Nhà văn quá cố ở Việt Nam (Мертвый писатель во Вьетнаме, 2016) có lẽ xuất hiện sau chuyến đi của ông tới đất nước này. Trong truyện miêu tả những đại diện của giới Nga kiều mới khi tới những vùng đất ấm áp và cố gắng thích nghi ở đó để bắt đầu cuộc sống mới. Tác phẩm đáng nhớ này được xuất bản trên kênh internet văn học proza.ru.

Chắc chắn là tác phẩm nổi bật và điển hình nhất về Việt Nam, từ quan điểm phát triển những xu hướng văn học hiện đại, là tiểu thuyết của Eldar Sattarov Chào Việt Nam (Чао, Вьетнам, 2018), về nó sẽ cần phải nói cụ thể hơn.

Eldar Sattarov sinh năm 1973 ở Alma-Ata. Về nguồn gốc xuất thân, ông mang nửa dòng máu Việt từ người cha, một nửa là Tatar từ người mẹ. Tiểu thuyết này của ông, cũng như những tác phẩm khác, được viết bằng tiếng Nga (mà đối với ông là phương tiện sáng tạo chủ yếu và duy nhất), bởi vậy có thể đặt nó vào bối cảnh chung của văn học đương đại Nga. Thuở thanh niên, Sattarov là nhạc công, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp và trong nhà máy, sau đó làm nhà báo, biên tập viên, phụ trách các chuyên mục trên các phương tiện thông tin đại chúng khác nhau, và bây giờ thì làm phiên dịch viên. Một số nhà xuất bản ở Moskva đã ấn hành những cuốn sách về nghệ thuật tiền phong, về giáo dục thay thế (alternative education) và về triết học do Eldar Sattarov dịch từ các ngôn ngữ Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Ý.

Tiểu thuyết đầu tay của Sattarov Đánh mất những con phố của chúng ta (Теряя наши улицы) được xuất bản năm 2010 ở Alma-Ata và nhận được những phản hồi tích cực từ các nhà phê bình và độc giả.

Tiểu thuyết thứ hai của ông Quá cảnh Sài Gòn – Almaty (Транзит Сайгон – Алматы) được vào chung kết giải “Sách bán chạy năm 2016” và đoạt giải nhì. Eldar Sattarov trở thành công dân Kazakhstan đầu tiên được trao giải thưởng này của Nga. Năm 2018, cuốn sách này được nhà xuất bản Fluid (Флюид) ở Nga tái bản với nhan đề Chào Việt Nam.

Tiểu thuyết kể câu chuyện về sự trưởng thành của một cậu bé Việt Nam sinh ra ở Sài Gòn ngay trước khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, thời gian thực dân Pháp đang cai trị Đông Dương. Cậu bị cuốn vào nhiều sự kiện bi kịch và anh hùng diễn ra sau đó trên quê hương mình. Dòng tự sự lịch sử bao trùm thời kỳ chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất và lần thứ hai, và phần nhiều liên quan tới tiểu sử người cha của Eldar Sattarov. Do sự anh hùng và dũng cảm, chàng chiến sĩ trẻ của quân đội nhân dân Việt Nam đó được cử đi học ở Liên Xô, nơi sau đó ông ở lại sống và làm việc.

Nhà phê bình văn học Saint Petersburg Vadim Levetal xếp cuốn Chào Việt Nam vào thể loại tiểu thuyết tư liệu (hay tài liệu hư cấu/docu-fiction). Khái niệm này bắt nguồn từ điện ảnh và là sự tái tạo những sự kiện lịch sử có thật với những nhân vật có thật, nhưng cho phép cả những hư cấu, tưởng tượng. Trong tiểu thuyết của Eldar Sattarov, các nhân vật là những chính trị gia và những nhà quân sự nổi tiếng của Việt Nam, họ được miêu tả trong những điều kiện lịch sử thay đổi biến thiên, với những sự kiện cụ thể không bị bóp méo, nhưng các chi tiết lại mang sắc thái phi hiện thực.

Nhưng nói chung hiện nay, chủ yếu các tác phẩm của các nhà văn Nga về Việt Nam liên quan tới văn hoá giải trí đại chúng – đó là những tác phẩm phiêu lưu và trinh thám. Trong chúng, đất nước Việt Nam, thiên nhiên khác lạ và quá khứ chiến tranh qua chưa lâu trong một chừng mực nhất định xuất hiện như yếu tố bổ sung, hỗ trợ, như một phông nền trang trí nào đó, chứ không phải thành phần tư tưởng sáng tạo của tự sự nghệ thuật. Hơn nữa, ngày càng có nhiều tác phẩm như vậy tìm thấy nơi trú ngụ của mình trong văn học trực tuyến - trên các cổng điện tử và trang web khác nhau, trên Facebook, v.v. Trong số các tác giả có cả những nhà văn nổi tiếng lẫn những tác giả nghiệp dư.

Trong cuốn sách của nhà văn Andrei Ilyin ở Moskva Cái bẫy cho những anh hùng (Ловушка для героев, 1997), lính biệt kích Mỹ và lính đặc nhiệm Nga truy tìm thiết bị tối mật Phantom (Bóng ma) bị bắn rơi trong rừng rậm Việt Nam. Những nhóm đặc nhiệm của hai cường quốc xả súng vào nhau nơi chiếc máy bay rơi mà không biết rằng họ có chung một kẻ thù tàn bạo.

Tiểu thuyết phiêu lưu của Viktor Ledenyov Rượu thập cẩm Việt Nam (Вьетнамский коктейль) ban đầu xuất bản ở Minsk, sau đó ở Moskva vào năm 1997. Tác phẩm kể về một trang sử của Nga ít được biết đến – đó là việc các chuyên gia Xô viết tham gia vào chiến tranh ở Việt Nam, về những đơn vị đặc nhiệm thực hiện trinh sát kỹ thuật. Họ tháo gỡ các loại bom mìn tân tiến nhất, săn lùng những mặt hàng mới trong lĩnh vực điện tử. Họ phải sinh tồn trong những điều kiện hết sức phức tạp để hoàn thành nhiệm vụ của mình mà không bị thương vong. Về sau, tác giả viết phần tiếp theo của tiểu thuyết này – Vàng của các chiến binh samurai (Золото самураев, 2016) được xuất bản trên Internet.

Cuốn sách của Alexandre Kosarev Những ngôi sao bằng bìa (Картонные звезды, 2004) đã được xuất bản mấy lần, đồng thời xuất hiện cả dưới dạng sách điện tử và sách nói. Tác giả lấy cốt truyện chủ yếu từ những sự kiện phi thường trong tiểu sử phong phú của mình, khi phục vụ trong đội đặc nhiệm của Cục Tình báo Trung ương Liên Xô (GRU) và tham gia chiến tranh ở Việt Nam. Những chi tiết tỉ mỉ độc đáo về những sự kiện diễn ra trong những năm đó được trình bày trong cuốn sách này.

Những năm gần đây, ngày càng có nhiều những tác phẩm văn học có đề tài gắn với Việt Nam xuất hiện trong các thư viện điện tử khác nhau. Cuốn sách của Alexei Grebinyak Người phi công nhào lộn Việt Nam (Вьетнамский иммельман, 2009) kể về những sự kiện năm 1968, khi người Mỹ đưa vào Đông Dương những máy bay ném bom tân tiến nhất F-111, là những thử thách chiến đấu trên bầu trời Bắc Việt Nam. Những máy bay đó hầu như không bị các tên lửa phòng không và pháo binh làm thương tổn, bởi chúng bay vào ban đêm, ở độ cao hết sức thấp và với tốc độ siêu thanh. Nhiệm vụ đặt ra trước các nhà quân sự Xô viết và Việt Nam là chuẩn bị chiến dịch truy đuổi cỗ máy siêu bí mật đó.

Viktoria Dyakova, tác giả của tiểu thuyết có cốt truyện đầy xung đột Hổ săn mồi ban đêm (Тигр охотится ночью, 2012), cũng đề cập những sự kiện chiến tranh Việt Nam cuối những năm 1960. Tác phẩm này kể về một toán thám báo Mỹ ở vùng rừng rậm trên biên giới giữa Lào và Việt Nam. Họ nỗ lực tìm kiếm đường ống dẫn dầu được nguỵ trang để cung cấp nhiên liệu cho các lực lượng du kích ở miền Nam Việt Nam.

Cuốn sách của Ivan Kozlov Lời thề của người phi công bị bắn rơi (Клятва сбитого летчика, 2016) cũng kể về cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống Mỹ xâm lược vào đầu những năm 1970.  Trên bầu trời Việt Nam, một chiếc máy bay Xô viết bị bắn rơi, và người phi công bị lính thuỷ đánh bộ Mỹ bắt làm tù binh. Lãnh đạo Mỹ đe doạ tố giác chính phủ Liên Xô, yêu cầu thả những gián điệp Mỹ bị giam giữ ở Moskva. Trong trường hợp bên kia không đáp ứng, dư luận thế giới sẽ có được bằng chứng về sự tham gia của Liên Xô vào xung đột chiến tranh. Quyết định cho vấn đề này chỉ có một phương thức – giải thoát tù binh phi công Xô viết. Nhóm đặc nhiệm của Cục Tình báo trung ương Liên Xô được giao thực hiện nhiệm vụ nguy hiểm này. Họ phải hoạt động trong những khu rừng nhiệt đới rậm rạp ngay trước mũi những kẻ chiếm đóng vũ trang đầy đủ.

Roman Romanov viết tác phẩm Tuỳ bút về Việt Nam (tạm dịch từ: Несерьезные заметки о Вьетнаме) từ năm 2012, nhưng nó chỉ được biết rộng rãi trong giới độc giả vài năm sau đó. Đó là bút ký đầu tiên của tác giả trong tập Những trải nghiệm du lịch được viết với thể loại du ký (travelogue). Để minh hoạ, tác giả sử dụng những tấm ảnh của chính mình được chụp trong thời gian đến Việt Nam.

Tiểu thuyết phiêu lưu của Andrei Fakov Chuyện tình Xô – Việt (Советско-вьетнамский роман, 2018) kể về những sự kiện trong chiến tranh chống Mỹ của Việt Nam 1964 – 1973 và về những chuyên gia quân sự Xô viết ở Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thời gian đó. Tác phẩm được đăng trên thư viện điện tử MyBook.ru, và như tác giả của nó khẳng định, được viết dựa trên những hồi ức của những người tham gia cuộc chiến tranh đó.

Vladilen Eleionsky là một luật sư chuyên nghiệp, tốt nghiệp Học viện Bộ Nội vụ ở Omsk. Gần đây, ông bắt đầu tích cực sáng tác văn học, viết các truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản điện ảnh. Trong tiểu thuyết Văn Thọ - con trai người du kích. Hồi ức của một lính thuỷ đánh bộ Mỹ về chiến tranh Việt Nam (Ван Тхо – сын партизана. Воспоминания морского пехотинца США о вьетнамской войне, 2018, đăng trên Internet) kể về một trung sĩ đặc nhiệm Mỹ ba mươi tuổi, người thất vọng về những giá trị gia đình nên vào năm 1969 đã tham chiến ở Việt Nam. Ở đây, anh bị bắt làm tù binh và trải qua những thử thách sống còn khác nhau.

Cuốn sách của German Kirsanov Những kỳ nghỉ ở Việt Nam hay những ghi chép của một downshifter[3]  (Вьетнамские каникулы или записки дауншифтера, 2019) về hình thức thuộc thể loại tiểu thuyết ái tình, đồng thời cũng là một tiểu thuyết phiêu lưu. Đó là câu chuyện của một doanh nhân Nga muốn thoát ra khỏi những vấn đề tài chính và gia đình nên đi đến Việt Nam để bắt đầu một cuộc sống mới ở đó.

Kết luận

Trong một thế kỷ rưỡi qua, Việt Nam và đề tài về Việt Nam nói chung đã hiện diện trong các tác phẩm của văn học Nga và văn học Xô viết, đôi khi chỉ tình cờ ngẫu nhiên, đôi khi rất rộng lớn và thường xuyên, điều này được quyết định không nhỏ nhờ vào tình hình quan hệ giữa hai nước. Nhưng các tác giả Nga luôn thể hiện sự đồng cảm chân thành đối với tình trạng gian khổ của cư dân đất nước châu Á xa xôi đó dưới thời thực dân và những năm tháng kháng chiến chống ngoại xâm, thể hiện sự tôn trọng đối với văn hoá và truyền thống của một dân tộc khác. Phong phú hơn cả là sáng tác ở giai đoạn xã hội chủ nghĩa – từ giữa những năm 1950 đến đầu những năm 1990, khi giữa Liên bang Xô viết và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà/Cộng hoà XHCN Việt Nam có những mối quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện, khi Liên Xô tích cực ủng hộ nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh anh dũng chống ngoại xâm và trong xây dựng kinh tế quốc dân. Tất cả những sự kiện đó đã tìm thấy sự phản ánh trong các tác phẩm của các nhà văn và nhà thơ Xô viết.

Sau khi Liên Xô tan rã và hệ thống xã hội chủ nghĩa sụp đổ, Nga và Việt Nam đi theo con đường xây dựng kinh tế thị trường, quan hệ song phương phần nhiều mang tính chất thực dụng, nhân tố tư tưởng hệ trước kia từng gắn kết hai nước đã đi vào dĩ vãng. Hào quang của Việt Nam anh hùng chiến đấu dần được thay thế bằng hình tượng một đất nước tự tin khẳng định vị thế của con rồng kinh tế mới Châu Á và một thiên đường du lịch nổi tiếng. Những thay đổi kinh tế xã hội toàn cầu ở Việt Nam chắc chắn đã ảnh hưởng đến các tác phẩm của các tác giả Nga, việc lựa chọn thể loại và hình thức xuất bản. Ngày nay, ba thể loại chủ yếu chiếm ưu thế là hồi ký, văn xuôi phiêu lưu quân sự, và du ký – là những ghi chép và nhật ký du lịch. Ngoài các ấn bản giấy, các tác phẩm dưới dạng điện tử, trong các thư viện trực tuyến, và dưới dạng sách nói đang trở nên phổ biến hơn. Trong những năm gần đây, Internet đã trở thành diễn đàn cho các cá nhân sáng tạo. Nhiều cổng thông tin và trang web đăng tải các hồi ký, thơ ca, bài hát của các chuyên gia quân sự Liên Xô viết về Việt Nam trong những năm đấu tranh chống Mỹ xâm lược, các tác phẩm du ký và blog của du khách Nga từ đi qua Việt Nam, nhiều video khác nhau mang các nội dung lịch sử, văn hóa và dân tộc học. Có vẻ như văn học mạng đang trở thành không gian sáng tạo chính, tạo cơ hội xuất bản tác phẩm cho bất kỳ tác giả nào, đồng thời cho phép tự do thử nghiệm sáng tạo. Văn học mạng trở thành một cái lò đúc, nơi ngày càng có nhiều văn bản với những chất lượng nghệ thuật khác nhau nhất được đổ vào, điều này tất yếu cũng có thể làm mất đi tính cá nhân của chúng. Văn học mạng đã thành một chỉ báo về những gì đang diễn ra không phải trong văn hóa, mà là trong văn hóa đại chúng. Và với những nhân tố này, có thể cho rằng Việt Nam sẽ tiếp tục có mặt trong các tác phẩm văn học của các tác giả Nga hiện đại, chủ yếu là tiểu luận báo chí và phóng sự, hồi ký và các thể loại khác, cả trên báo giấy lẫn ấn phẩm trực tuyến.

TS. A.A. Sokolov (Viện Đông Phương học, Viện Hàn lâm Khoa học Liên bang Nga)

Trần Thị Phương Phương dịch từ nguyên bản tiếng Nga: Вьетнам в произведениях современной русской литературы

Nguồn: Nhiều tác giả (2021), Nghiên cứu giảng dạy Việt Nam học và tiếng Việt, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần 5, Nxb Đại học Quốc gia, tr. 427-433
 

Tài liệu tham khảo 

Buyanov (ed.) (2006), Có một từ không thể quên Liên Xô” (Это незабываемое слово “Льенсо”), Moskovskaya akademia ekonomiki i prava, Moskva.

Eleonsky V. (2018), Văn Thọ - con trai một người du kích. Hồi ức của một lính thuỷ đánh bộ Mỹ về chiến tranh Việt Nam (Ван Тхо – сын партизана. Воспоминания морского пехотинца США о вьетнамской войне), Ridero, Moskva.

Glazunov E.P. (ed.)(2005), Chiến tranh ở Việt Nam… Nó như thế nào: 1965 – 1973 (Война во Вьетнаме… Как это было: 1965-1973), Ekzamen, Moskva.

Ilinsky M.M. (2000), Đông Dương. Tro bụi bốn cuộc chiến tranh (Индокитай. Пепел четырех войн), Veche, Moskva.

Krutskikh Yu. (2019), Cam Ranh, hay những cuộc phiêu lưu không tưởng của các tàu ngầm ở Việt Nam (Камрань, или невыдуманные приключения подводников во Вьетнаме),Vladivostok.

Kuplevakhsky V. (1998), “Những câu chuyện nhỏ về chiến tranh” (Маленькие военные истории), Tạp chí Ngọn cờ, số 6.

Ognetov I.A. (2007), Hướng về Việt Nam (На вьетнамском направлении), Gumanitary, Moskva

Sattarov E. (2015), Quá cảnh Sài Gòn – Almaty. Số phận một người du kích Việt Nam (Транзит Сайгон - Алматы. Судьба вьетнамского партизана), Editorial USSH, Moskva.

Shcherbakov S.V. (2018), Vườn trẻ cho người lớn (Детский сад для взрослых), Neolit, Moskva.

Trang tư liệu tác phẩm văn học trên Internet (truy cập lần cuối: 20/01/2022)

http://www.nhat-nam.ru/vietnamwar/

https://www.litres.ru

https://mybook.ru

https://www.proza.ru  


[1] Năm 2005, cuốn sách này được tái bản có chỉnh sửa, bổ sung, với nhan đề Hội chứng Việt Nam. Cuộc chiến tranh thăm dò (Вьетнамский синдром. Война разведок). (Chú thích của A.A. Sokolov)

[2] Trên trang www.nhat-nam.ru/vietnamwar có thể tìm thấy hồi ký của các chuyên gia quân sự Liên Xô/Nga, những người vì nhiệm vụ đã gắn với chiến tranh Việt Nam. Tại đây cũng có rất nhiều những sáng tác thơ ca, văn xuôi của họ. (Chú thích của A.A. Sokolov)

[3] Downshifter là từ chỉ người thay đổi cách sống, thường từ giàu có, đầy đủ, địa vị tốt sang vị trí thấp kém hơn nhưng thoải mái hơn. (Chú thích của người dịch)

20250213

Longings, tập truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, bản dịch tiếng Anh của Hà Mạnh Quân và Võ Hương Quỳnh, NXB Texas Tech University Press, USA, 2024, gồm 22 truyện ngắn của Dạ Ngân, An Thư, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Tống Ngọc Hân, Nguyễn Thị Châu Giang, Trịnh Bích Ngân, Kiều Bích Hậu, Trầm Hương, Trần Thanh Hà, Nguyễn Hương Duyên, Niê Thanh Mai, Trần Thị Thắng, Phạm Thị Phong Điệp, Võ Diệu Thanh, Phạm Thị Ngọc Liên, Trịnh Thị Phương Trà, Nguyễn Phan Quế Mai, Nguyễn Thị Kim Hòa, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy, Tịnh Bảo.

 

           Khi tuyển tập truyện ngắn Khát vọng (Longings) của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại ra mắt độc giả tiếng Anh qua bản dịch của Hà Mạnh Quân và Võ Hương Quỳnh, cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi xa gần 50 năm. Trong gần nửa thế kỷ đó, người phụ nữ Việt Nam không còn đối mặt với hoàn cảnh ở ranh giới sống - chết, nhưng lại đứng trước những thử thách khắc nghiệt dưới thời chuyển đổi thể chế chính trị - kinh tế với những xáo trộn về mặt xã hội và văn hóa.

1.

Nối tiếp tập truyện ngắn Những vầng trăng khác (Other Moons) do Hà Mạnh Quân và Joseph Babcock thực hiện, cuốn sách mới này giới thiệu 22 tác giả nữ, hầu hết cầm bút sau 1975 và không có nhiều trải nghiệm về chiến tranh. Dạ Ngân, nhà văn thành công ở thể truyện ngắn, là người từng trực tiếp tham gia kháng chiến ở miền Nam, cảm nhận và thể hiện chất phi thường của người nữ đi qua chiến tranh không phải trên chiến hào mà trên chiếc giường lẽ ra là nơi chứng kiến hạnh phúc vợ chồng. Mảnh bom ác nghiệt khiến người chồng mất khả năng làm tròn chức phận đàn ông. Trở về với đời thường, người vợ trông nhờ vào những chiếc gối trắng, trợ lực cho cuộc chiến đấu để bảo vệ đức hạnh của bản thân. Chị ôm những chiếc gối như ôm nỗi cô đơn đêm đêm vò xé lòng mình. Nỗi bất hạnh ở đây là hậu quả của chiến tranh mà cũng là hậu quả của một quan niệm cũ kỹ về đức hạnh. Lời người kể chuyện: “Cảm ơn những chiếc gối đã giúp người bạn vong niên của tôi trở thành phi thường”. Thì ra, tính phi thường vẫn là nỗi ám ảnh và cám dỗ khi người ta trở về cuộc sống bình thường. “Lũ gối” ấy làm từ bông của những trái gòn - một loài cây thổ cư mọc nhiều ở miền Nam -  như những cánh dơi lủng lẳng treo mình trong gió, chứng kiến một cảnh đời âm thầm, “tối sầm như một bức tranh bị ố”. (Nỗi niềm gối trắng).

Cũng như câu chuyện của Dạ Ngân, những truyện ngắn ít nhiều liên quan đến chiến tranh trong tập này không có hình ảnh tiếng súng tiếng bom, đầu rơi máu chảy nhưng vẫn âm ỉ một nỗi đau trần thế. Đỉnh khói của Nguyễn Thị Kim Hòa gợi nhớ đến nhiều thiên truyện ở Sài Gòn trước 1975 với khung cảnh bãi rác phi trường, quán bar phục vụ lính viễn chinh và những chung chạ nam nữ gây cảm giác buồn nôn. Mối tình tay ba của Diễm Thúy với Bình và Philip không phản ánh xung đột chính trị trên mảnh đất này mà phản ánh mối giằng xé của tình yêu và ân nghĩa. Di chứng của chiến tranh còn ác nghiệt hơn trong Mẹ con và trần thế của Phạm Thị Phong Điệp. Chồng bị nhiễm chất độc hóa học, người đàn bà “vô hậu” chịu đựng đứa con nuôi “trời đánh ngỗ ngược” trong bối cảnh xóm Dứa lây lất sống giữa thiên tai vây bủa kiếp người.

Sự hòa giải giữa con người và chiến tranh được tìm thấy trong hai truyện ngắn Miền cỏ hoang của Trần Thanh Hà và Nhậu với Khmer đỏ của Võ Diệu Thanh. Lấy bối cảnh một làng quê ven núi ở miền Trung, Miền cỏ hoang dẫn dắt tiếng sáo dặt dìu, nôn nao của người lính trở về sau chiến tranh, khi người mình yêu đã trở thành vợ kẻ khác, đã tìm thấy mảnh ghép cuộc đời với một người đàn bà dang dở. Giữa bạt ngàn cỏ hoang, một làn khói bếp mỏng bay lên nóc nhà cũng có sức an ủi con người vượt qua nghịch cảnh mà đến với hạnh phúc. Lấy chất liệu từ cuộc chiến ở biên giới Tây Nam năm 1978, một cuộc chiến tàn bạo mà có lẽ ít độc giả nước ngoài thấu hiểu, Nhậu với Khmer đỏ hóa giải lòng hận thù của một người đàn bà Nam Bộ “cứng rắn như sắt thép” đối với người lính Cambodia đã buông súng.

2.

Khi chiến tranh không còn là nỗi ám ảnh dai dẳng, người dân Việt Nam lại chịu đựng sự nghèo đói và bất hạnh triền miên. Người ta có thể đổ lỗi cho hậu quả chiến tranh, cho thiên nhiên khắc nghiệt, cho sự thiếu kinh nghiệm quản lý xã hội. Nữ giới cũng như nam giới đều phải quang gánh trên vai gánh nặng nhọc nhằn này của đất nước.

Trước 1975, trong khi Dạ Ngân vào chiến khu ở Nam Bộ, thì Trần Thị Thắng từ miền Bắc vào chiến trường theo đường Trường Sơn. Nhưng truyện ngắn Đằng sau cơn bão của bà viết về một câu chuyện đầy tính thời sự trong thời bình. Mỗi năm dải dất hình chữ S này phải hứng chịu hơn chục cơn bão lũ. Mỗi cơn bão lũ cuốn trôi bao nhiêu mạng người cùng tàu thuyền, nhà cửa. Có thể gặp trong thành phố hàng ngàn người đàn bà như nhân vật trong truyện ngắn này, chỉ sau một cơn bão đã mất hết tài sản, phải xa chồng xa con, trôi dạt lên thành phố làm “Ôsin” nuôi người bệnh để tích cóp mà không biết bao giờ mới trả hết nợ cho gia đình. “Đôi lúc muốn hỏi trời mà trời không nói” – nhân vật cảm thán về số phận mình.

Tai họa và cạm bẫy chờ sẵn những người phụ nữ yếu đuối và nông nổi. Thời xưa, Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du) bán mình chuộc cha, chị Dậu (Tắt đèn, Ngô Tất Tố) kháng cự lính lệ bắt chồng; thời nay cũng có những người phụ nữ chống lại bạo lực phải vào tù, sa vào con đường bán thân để cứu gia đình hay trở thành món hàng trong tay bọn buôn người. Dưới ngòi bút của Tịnh Bảo, trong một giây phút bị khích động, người con gái nhút nhát đã phạm tội giết người để cứu cha mẹ. Trả giá bằng bảy năm tù tội, ngày ra tù chị còn có người đàn ông chờ đợi “dưới bóng cây gạo nở hoa”, như một đền bù của số phận. Nếu Biên ải của Võ Thị Xuân Hà tái hiện nạn buôn người nhức nhối nơi biên giới Việt - Trung, lóe lên ánh sáng của lòng nhân nơi kẻ gây tội lỗi, hé mở ngày trở về của người bị nạn ở cuối truyện; thì Trái xanh của Trần Thùy Mai kết thúc đau đớn bất ngờ khi hai chị em Mận Chín, Mận Xanh đều không cưỡng lại được cám dỗ vào con đường hư thân. Ngòi bút nhân ái của Trần Thùy Mai đã bị niềm tuyệt vọng khuất phục, khi làng Cổ Kỳ không che giấu nỗi sĩ diện qua số phận của những đứa con gái sa ngã.

3.

So với cuộc chiến đấu kiếm sống bên ngoài, cuộc chiến đấu nhọc nhằn và dằng dai nhất đối với người phụ nữ là cuộc chiến trong từng gia đình. Những tàn tích của chế độ phong kiến phương Đông còn để lại trong lòng xã hội Việt Nam ở quyền lực của người đàn ông - gia trưởng. Trên thực tế, đời sống khó khăn cũng tạo áp lực đè nặng trên vai nam giới và họ trút những bi phẫn vì thất bại, yếm thế trong chén rượu, lời chửi bới và cả đòn roi trên thân người phối ngẫu. Những người con gái Việt Nam đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan không chỉ để tìm cách cứu gia đình trong cơn khủng hoảng kinh tế, mà còn tìm đường trốn chạy sự bạo hành của những người chồng vũ phu suốt ngày vùi đầu trên chiếu nhậu. Tinh thần nam quyền đó không chỉ thể hiện qua những động thái và ứng xử bên ngoài mà còn thấm sâu vào quan niệm sống, qua sự giằng co giữa bổn phận do đạo lý truyền thống quy định và quyền được tự do, bình đẳng của người phụ nữ.

Cùng tái hiện chủ đề ngoại tình, nhưng hai truyện ngắn Bến đợi nhọc nhằnBên trong lại xây dựng hai tình huống trái nghịch nhau. Ở truyện ngắn trước, Nguyễn Hương Duyên kể chuyện một người vợ phản bội chồng, khi chồng bỏ đi, sống với đứa con gái chung khỏe mạnh và đứa con trai riêng tật nguyền. Khi người chồng trở về, tha thứ, bao dung, thì đứa con gái lầm lỡ và đổ vỡ trong tình yêu, như một trò trêu ngươi của số phận. Ở truyện ngắn sau, Phạm Thị Ngọc Liên kể chuyện một người chồng, đã có hai con, sống chung với người đàn bà khác. Do ghen tuông mù quáng, người vợ gây ra án mạng cho tình địch. Đứa con trai chứng kiến cảnh đó bị chấn thương, đổ bệnh tâm thần, người mẹ vô chùa lánh đời bỏ người chồng bơ vơ ở lại. Nhìn dáng cha đứng hẩm hiu trong bóng chiều sắp tắt, người con gái có ý nghĩ: “Chưa bao giờ tôi thấy làm người khổ như vậy”. Có lẽ cả hai tác giả nữ đều muốn thuyết minh cho hiệu ứng của luật nhân quả, và cảm nhận qua giọng văn cũng như ý tứ, hình như cả hai đều tỏ ra xót thương và cám cảnh cho phía người đàn ông.

Là một trong ba truyện ngắn trong tập này viết về các tộc người thiểu số, Mưa ướt áo ai của Tống Ngọc Hân kể câu chuyện về phong tục người Dao đón con gái và cháu ngoại mới sinh về nhà phải đi qua cửa ngách thay vì cửa chính. Sự hiện diện của sinh linh nhỏ bé làm xáo trộn đời sống một gia đình khiến người sản phụ nông nổi phạm một sai lầm không thể tha thứ. May mắn mỉm cười với họ: vị hôn phu của người con gái thứ hai là y sĩ đã kịp thời sửa chữa sai lầm ấy, lại còn đồng ý ở rể cho vừa lòng gia đình họ Phàn không có con trai. Mối duyên do sắp đặt chưa mấy nồng đậm, dưới làn mưa nhẹ miền núi, đã tìm thấy hơi ấm của tình cảm gia đình.

4.

Sự chung thủy, lắm khi biến thành sự chịu đựng và phục tùng, đã trở thành phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam được phong hóa và văn chương ca ngợi, xuất phát từ một quan niệm của Khổng giáo: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà thì phục tùng cha, lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục tùng con). Phản kháng, nổi loạn chưa bao giờ được khuyến khích công khai ở nông thôn Việt Nam. Không phải vô cớ mà Nguyễn Ngọc Tư đã phàn nàn khi đọc những truyện ngắn tham dự cuộc thi viết về chủ đề “Một nửa làm đầy thế giới” do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh tổ chức năm 2019 với sự tài trợ của Giải thưởng LiBeratupreis-Frankfurt:

 “… phần lớn nhân vật phụ nữ trong cuốn sách này đều cam chịu, nhẫn nhịn và yếu đuối. […] Họ ngây thơ trước những toan tính, tha thứ trước tội lỗi, và luôn chọn cách hy sinh bản thân mình mỗi khi xảy ra biến cố gia đình. […] Lòng trắc ẩn, sự cảm thương trong người viết đã cúi xuống những người đàn bà hiền lành thiệt thòi, mà quên còn những phụ nữ can đảm chống trả bất công và biết yêu chính mình ngoài yêu thương người khác.

Viết về sự hy sinh, tảo tần, và tình yêu thương vô bờ bến của người phụ nữ như con dao hai lưỡi, chúng ta không biết mình ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ hay đang trói buộc họ vào những bức tường, chiếc cọc vô hình. Và có dát vàng vào tường vách  và cọc sắt, thì bị giam giữa chúng cũng không thể gọi là tự do.”[i]

Nhưng ngạn ngữ Việt Nam cũng có câu: “Con giun xéo mãi cũng quằn.” Tinh thần nữ quyền cựa quậy trong văn chương Việt Nam từ những năm 30 thế kỷ trước, trong tác phẩm của nữ giới (Nguyễn Thị Kiêm/ Nguyễn Thị Manh Manh, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Phan Thị Bạch Vân, Đạm Phương Nữ Sử, Sương Nguyệt Anh) cũng như nam giới (Nhất Linh, Nguyễn An Ninh, Phan Khôi, Đặng Văn Bảy) vẫn hiện hữu, lúc đậm lúc nhạt trong tiến trình văn học hiện đại.  Đến những năm cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21 những nhân vật nữ tự chủ, tự tin và có phẩn nổi loạn nữa, bắt đầu gây sức hấp dẫn trong văn học với tác phẩm của các nhà văn thế hệ mới.

Tập truyện này tiếp tục đóng góp vào phòng triển lãm những nhân vật nữ không cam chịu, từ thái độ e dè cho đến những phản ứng quyết liệt. Những người nữ trong Trăng muộn của Nguyễn Thị Châu Giang vừa tìm cách vượt qua khuôn khổ gia đình và sự kiềm tỏa xã hội, vừa tìm cách hòa giải với hoàn cảnh vì không muốn “đau đớn, dằn vặt nhau thêm nữa mà làm gì.” Nằm trong chùm truyện hương xa của Đỗ Bích Thúy, Tiếng đàn môi trên bờ rào đá trang trải nỗi lòng của ba người phụ nữ: mẹ Già, mẹ Hoa và May - đứa con của mẹ Hoa với người chồng chung mà mẹ Già nuôi dưỡng. Mẹ Già sống trong đời thực bạc bẽo với tâm trạng “làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê chân cột nhà chồng thôi.” Tiếng đàn môi là biểu tượng của giấc mơ và nỗi khát khao ẩn kín lâu nay trong lòng mẹ Già, như tiếng sáo thiết tha quyến rũ cô Mỵ trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngày trước. Nỗi khát khao của người đàn bà nhẫn nhục sống bên lề cuộc đời được đánh thức bởi tiếng đàn môi sau cuộc rượu với người tình cũ trong ngày hội chợ truyền thống.

Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập với thế giới, các nhà văn nữ có điều kiện tiếp xúc và trải nghiệm để giới thiệu mẫu người nữ bản lĩnh, khỏe mạnh của thời nay. Đó là Lan trong Chồi non của Nguyễn Phan Quế Mai: nhân vật này bước ra cọ xát, giao tiếp với thế giới xa lạ, từng “ướt sũng tận xương tủy cái lạnh của sự tha hương”, “biết cách lùi xa khỏi những người đàn ông khiến tim cô loạn nhịp”, nhờ ý thức được giá trị của hạnh phúc gia đình và của chính bản thân, đã đứng vững trước cơn say nắng nhất thời để không vượt qua ranh giới của sự phản bội và có cơ hội vun xới lại mảnh vườn hôn nhân.

Trong chủ đề về người phụ nữ mới, hiện đại, nhiều chi tiết thú vị chờ đợi độc giả trong Chọn chồng, một truyện ngắn mang mùi vị nhục cảm của Kiều Bích Hậu. Từng chịu đựng một cuộc hôn nhân ép buộc gây chấn thương tâm lý, Ân từ bỏ người chồng như con thú đói ở Núi Xẻ, dấn bước đi xa ra thế giới để vượt thoát số phận “thân gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” như “đại tự sự” của tập tục cổ truyền khái quát. Cô không để người khác áp đặt người đàn ông cho mình theo cách nghĩ “thiếu người đàn ông là thiếu vắng hệ trọng nhất của người đàn bà”. Cô phải chọn lấy người đàn ông theo quan niệm của mình về tình yêu và tính dục, hơn thế “chính cô phải tạo ra người đàn ông của chính mình”, một “đối tác” giúp cô  “khám phá đời sống tính dục”, “phát hiện bản thể” và “tìm được bản năng đàn bà đích thực”. Truyện ngắn mang màu sắc hậu hiện đại này so với những truyện ngắn trữ tình - lãng mạn của nhiều cây bút nữ vài ba mươi năm trước thật là một khoảng cách rất xa.

5.

Kim Định, một học giả nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam những năm 1954-1975, là người sớm xiển dương tư tưởng thoát Trung về văn hóa. Trong một số công trình nghiên cứu, ông táo bạo đề xướng thuyết Việt Nho, cho rằng Nho giáo vốn là của người Việt cổ và không có gì chung với tư tưởng Hán Nho hà khắc sau này. Luận thuyết của ông được một số người hậu học noi theo, đề cao và quảng bá, rất tiếc lại chưa được thực chứng về mặt khoa học. Nhưng Kim Định có lý khi cho rằng nhân sinh quan của người Việt luôn dành chỗ cho tư tưởng ngợi ca phụ nữ và nhấn mạnh vai trò của họ trong đời sống, qua hình tượng những nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh và qua tục thờ Mẫu vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay.

Điều không may cho văn hóa Việt Nam là truyền thống tốt đẹp đó nhiều khi phải chịu khuất phục trước sức mạnh của phong tục, tập quán lỗi thời. Đứng về phương diện này, phải khiêm tốn mà nói rằng tinh thần nữ quyền chưa bao giờ thực sự là một trong những mạch chủ lưu của đời sống người Việt Nam. Mặc dù không thiếu thiện ý kêu gọi giải phóng phụ nữ và thành lập các tổ chức xã hội để hiện thực hóa nữ quyền, thế đứng của người phụ nữ Việt Nam hầu như luôn ở hậu cảnh của lịch sử. Trong chiến tranh, người phụ nữ đau đớn, khắc khoải chờ con, chờ người yêu, người chồng đi ra trận. Đến khi hòa bình, họ lại chờ con, chờ chồng đi làm thuê ở phương trời xa. Chờ đợi đã trở thành một kỹ năng sống, hơn thế, một phẩm hạnh của người đàn bà Việt Nam. So với rất ít những phụ nữ thành đạt nở mày nở mặt và có tiếng nói ảnh hưởng ở chốn đông người, cái đa số thầm lặng đó “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” ở nông thôn hay mòn dép chai vai trên những nẻo đường phố thị để tìm miếng cơm manh áo.

Trong tinh thần đó, chúng ta ước mơ và hy vọng số phận của người phụ nữ Việt Nam sẽ thay đổi tốt đẹp hơn cùng với sự đổi mới, phát triển của đất nước và xã hội.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tạp chí Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh số 155, ngày 19/12/2024.

 


[i] Nguyễn Ngọc Tư: “Dát vàng nước mắt”. Trong Một nửa làm đầy thế giới, NXB Văn hóa - Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2019, tr. 12.

Các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp đã vượt ra ngoài biên giới. Lần này, là tiếng vang sâu lắng trong lòng độc giả Hàn Quốc.

Là một nhà nghiên cứu văn học Việt Nam, tôi thực sự vui mừng khi đón nhận các tác phẩm văn học Việt Nam, đặc biệt là các tác phẩm đã dịch sang tiếng Hàn. 

Mới đây, một bản dịch tuyển tập truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp đã được NXB Văn Học và Trí Tuệ (문학과지성사/Moonji Publishing Company) xuất bản ngày 16-3 tại Hàn Quốc. Nhân dịp này, tôi đã trò chuyện với dịch giả của cuốn sách, tiến sĩ Kim Joo-Young.

20230724Tiến sĩ Kim Joo-Young

Điều gì khiến cô dịch cuốn sách này?

Tôi dịch là vì muốn chiêm nghiệm sâu sắc hơn về tác phẩm Chảy đi sông ơi của nhà văn Nguyễn Huy Thiệp. Khi tôi đang theo học nghiên cứu sinh của khoa văn học Trường đại học KHXH&NV TP.HCM, chồng tôi cũng theo học thạc sĩ cùng khoa. Qua anh, tôi biết là trong lớp, anh đã được nghe giảng khá sâu về tác phẩm này. 

Tôi từng nghĩ rằng nếu đọc thì chỉ nắm được ý chính thôi, nếu dịch thì tôi có thể hiểu biết cụ thể, sâu sắc hơn về tác phẩm này trên nhiều phương diện. Điều đó thôi thúc tôi quyết tâm dịch truyện ngắn này sang tiếng Hàn.

Dịch và xuất bản bản là hai việc khác nhau. Lý do cô quyết định xuất bản?

Sau khi dịch xong tác phẩm Chảy đi sông ơi, tôi bắt đầu quan tâm đến tác phẩm Không có vua và tiếp tục dịch luôn. Tiếp nối quá trình hoàn thành hai bản dịch tương đối dài hơi này, tôi bắt đầu quan tâm đến việc xuất bản một quyển sách dịch.

 Tuy nhiên, những người trong giới xuất bản xung quanh tôi không hứng thú với tác phẩm không có chủ đề "chiến tranh". Tôi đã gửi hai bản dịch trên đến tạp chí Asia để hỏi có in không nhưng họ từ chối. Rất may là sau đó, bản dịch Không có vua đã được đăng trên Các nhà văn (작가들 Writers) - tạp chí của Hội Nhà văn Incheon, với sự giới thiệu của nhà văn Kim Nam-il.

Có những khó khăn như vậy nhưng cuối cùng cũng xuất bản được, xin cô kể lại.

Để tháo gỡ những khó khăn trên, tôi tìm nguồn tài trợ khác và đăng ký tham gia Dự án hỗ trợ dịch thuật văn học nước ngoài Daesan. Nếu được dự án này hỗ trợ, các bản dịch sẽ được xuất bản ngay tại Hàn Quốc. May mắn thay, năm ấy, tức là năm 2019, một số tác phẩm văn học thiểu số (của các nước không phải lớn như Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung Quốc, Đức...) đã cùng được chọn. 

Sở dĩ tôi nói may mắn là vì Dự án hỗ trợ dịch thuật văn học nước ngoài Daesan thường chủ yếu chọn các tác phẩm viết bằng các thứ tiếng Anh, Nga, Pháp, Nhật, Trung...

Trong quá trình dịch, cô mất bao lâu và làm thế nào để giải quyết vấn đề bản quyền?

Vì tôi có quen biết với nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từ khi đăng truyện Không có vua trên tạp chí Các nhà văn nên ngay khi được chọn vào dự án hỗ trợ dịch thuật, tôi đã giúp thương thảo hợp đồng bản quyền giữa nhà xuất bản và tác giả. 

Suốt thời gian dịch truyện, tôi giữ liên lạc với tác giả, chủ yếu qua tin nhắn. Thời gian dịch mất khoảng 1 năm rưỡi, từ 2018 - 2019, lâu vì trong thời điểm ấy tôi vừa dịch tác phẩm vừa bảo vệ luận án tiến sĩ.

15 truyện ngắn được in trong cuốn sách gồm: Chảy đi sông ơi, Không có vua, Tướng về hưu, Cún, Muối của rừng, Sang sông, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Những bài học nông thôn, Những ngọn gió Hua Tát, Huyền thoại phố phường, Giọt máu, Sống dễ lắm, Chuyện ông Móng, Chú Hoạt tôi.

 

Nguyễn Huy Thiệp và tiếng vang sâu lắng tại Hàn Quốc - Ảnh 3.

Nguyễn Huy Thiệp viết nhiều truyện ngắn lắm, cô chọn ra 15 tác phẩm như thế nào?

Tôi chọn ra 15 tác phẩm để dịch. Sau khi tìm hiểu qua nhiều tư liệu, tôi chọn ra những tác phẩm nổi tiếng hoặc đáng dịch, loại trừ những tác phẩm liên quan đến lịch sử và văn học trong số truyện ngắn của tác giả. 

Ban đầu, Daesan không chấp nhận các tác phẩm do dịch giả lựa chọn, biên tập. Tuy nhiên, đối với trường hợp văn học Việt Nam, họ cho phép dịch giả tự chọn. Tất nhiên tôi đã giải thích tình huống xuất bản ở Việt Nam và họ đã đồng ý.

Nguyễn Huy Thiệp và tiếng vang sâu lắng tại Hàn Quốc - Ảnh 4.

Điều khó nhất khi dịch văn chương Nguyễn Huy Thiệp là gì?

Vì chuyên ngành của tôi là dịch thuật văn học nên tôi không thể lười biếng trong việc dịch tác phẩm. Nếu tôi cảm thấy không chắc chắn về điều gì dù là nhỏ nhất, tôi cũng có thể sai, nên tôi luôn hỏi những người Việt Nam quen biết. Tôi dành nhiều thời gian để nghiên cứu dữ liệu và liên tục tham khảo thêm tri thức trên Internet.

Tác phẩm đáng nhớ nhất mà cô dịch là gì?

Tôi nghĩ tác phẩm đáng nhớ nhất là Chảy đi sông ơi. Nhờ tác phẩm này mà tôi dịch được cả cuốn Tuyển tập tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp... Khi dịch mấy trang cuối, tới cảnh nhân vật chính bật khóc, tự nhiên tôi cùng rơi nước mắt. Đó là tác phẩm có ý nghĩa nhất đối với tôi, vì vậy tôi đã đặt nó ở vị trí đầu tiên trong bản dịch. 

Tôi cũng tự quyết định thứ tự sắp xếp các tác phẩm, nhà xuất bản tôn trọng lựa chọn và quyết định của tôi về mọi mặt.

Độc giả Hàn Quốc phản hồi thế nào sau khi xuất bản?

Đã hai tuần kể từ khi bản dịch được xuất bản, tôi rất vui vì độc giả Hàn Quốc phản hồi tốt hơn tôi nghĩ. Thẳng thắn mà nói, các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có thể không phù hợp với thị hiếu của độc giả Hàn Quốc ngày nay. 

Tuy nhiên, cũng giống như các tác phẩm của ông ấy đã vượt ra ngoài biên giới và gây được tiếng vang với người phương Tây, tôi tin rằng chúng sẽ có thể gây được tiếng vang lặng lẽ mà da diết, âm thầm nhưng sâu lắng trong lòng độc giả Hàn Quốc.

Xin cảm ơn cô.■

Quỹ văn hóa Daesan là quỹ đầu tiên và duy nhất hỗ trợ ngành văn học thuộc các tập đoàn lớn Hàn Quốc và là quỹ công ích trực thuộc Tập đoàn Bảo hiểm nhân thọ Kyobo, được thành lập ngày 28-12-1992 với mục đích góp phần toàn cầu hóa văn học Hàn Quốc và phát triển văn hóa dân tộc.

Từ năm 2001, Quỹ văn hóa Daesan đã tuyển chọn, dịch và xuất bản mỗi năm chừng 8 tác phẩm văn học nước ngoài, tác phẩm đầu tiên là The Life and Opinions of Tristram Shandy, Gentleman (1759) của Laurence Sterne. Tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp là tác phẩm thứ 183 được giới thiệu.

Theo tôi, tác phẩm văn học Việt Nam đầu tiên được du nhập vào Hàn Quốc là Nửa chừng xuân của Khái Hưng, xuất bản năm 1969. Tất nhiên, trước đó, Việt Nam vong quốc sử của Phan Bội Châu đã xuất bản vào năm 1906, nhưng đây có thể coi là một cuốn sử. Sau đó là Tuyển tập Truyện cổ tích Việt Nam được xuất bản năm 1984 và Áo trắng của Nguyễn Văn Bổng năm 1986. Tính đến thời điểm này, có 51 tác phẩm văn học Việt Nam đã được dịch sang tiếng Hàn, trong đó có 5 tác phẩm dịch 2 lần.

Tuy nhiên, so với sự phát triển của quan hệ song phương giữa Việt Nam và Hàn Quốc, giao lưu trong lĩnh vực văn học có thể nói là vẫn rất khiêm tốn. Hiện nay, Hàn Quốc có một tổ chức gọi là Viện dịch thuật văn học Hàn Quốc, hỗ trợ dịch văn học Hàn Quốc sang các ngôn ngữ khác. Nhờ đó, rất nhiều tác phẩm văn học Hàn Quốc gần đây đã được dịch sang tiếng Việt.

Nhưng việc giới thiệu văn học Việt Nam sang Hàn Quốc thực sự rất ít. Nguyên nhân chính là do thiếu nhân lực dịch thuật. Tuy nhiên, sự hỗ trợ từ Chính phủ Việt Nam hầu như không có, đây có thể nói là một trong những nguyên nhân gây khó khăn nhất cho việc dịch thuật tác phẩm văn học Việt Nam sang các ngôn ngữ khác nói chung, sang tiếng Hàn nói riêng.

Mặt khác, đội ngũ dịch giả dịch văn học Việt Nam sang tiếng Hàn chủ yếu là người Hàn nói được tiếng Việt. Người Hàn sẽ có những lợi thế nhất định so với người Việt khi dịch văn học Việt Nam sang tiếng Hàn nhưng cũng có điểm bất lợi khi việc dịch thuật đòi hỏi phải am tường sâu sắc, toàn diện về đất nước, con người, văn hóa… Việt Nam. Trong trường hợp người Việt Nam nói tiếng Hàn, khi dịch tác phẩm từ tiếng mẹ đẻ sang tiếng Hàn, dịch giả tuy có sở trường về ngôn ngữ nhưng lại gặp không ít khó khăn với mục tiêu phải chuyển ngữ tự nhiên, phù hợp với cách nói, lối tư duy, văn hóa… Hàn Quốc.

Tôi nghĩ rằng Việt Nam sẽ trở thành một nước tiên tiến trong tương lai. Vì vậy, ngay từ bây giờ, Chính phủ Việt Nam cần có tầm nhìn quốc tế để đề ra một chính sách văn hóa phù hợp với sự trỗi dậy mạnh mẽ về kinh tế, văn hóa của đất nước hiện nay. Đã đến lúc các nhà lãnh đạo cấp cao của Việt Nam cần lắng nghe, tập hợp ý kiến của các chuyên gia đầu ngành liên quan đến văn hóa, văn học Việt Nam nhằm đề ra chính sách tốt, đưa văn hóa Việt Nam vượt sóng biển khơi, vươn tầm quốc tế.

GS.TS Bae, Yang Soo

GS.TS Bae, Yang Soo (Trưởng Khoa Tiếng Việt, ĐH Ngoại Ngữ Busan, Hàn Quốc)

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 14.4.2023.

Chiều 17-11, lãnh đạo TP HCM có buổi tiếp những người bạn Thụy Sĩ đặc biệt của Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Nên – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy TP HCM; bà Trần Thị Diệu Thúy – Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND TP HCM; ông Nguyễn Thành Trung, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban MTTQ TP HCM và đại diện lãnh đạo nhiều sở, ngành cùng tham dự buổi tiếp.55 năm trước, vào tháng 1-1969, có ba chàng trai người Thụy Sĩ là Olivier Parriaux, Bernard Bachelard và Noé Graff đã từ Thụy Sĩ tới Pháp để treo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trên đỉnh Nhà thờ Đức Bà Paris. Sự kiện trở thành đề tài nóng hổi cho báo chí quốc tế, thu hút sự quan tâm của dư luận song không ai biết danh tính họ. Năm 2023, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris, câu chuyện được công khai qua cuốn sách với tựa đề "Le Viet Cong au sommet de Notre-Dame", do chính người trong cuộc xuất bản. Hai ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux đang có chuyến thăm TP HCM. Ông Noé Graff vì lý do sức khỏe nên không đi.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 1.

Hai ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux nay đều ở độ tuổi 80.

20241126 2

Tại cuộc gặp, hai ông có những tường thuật chi tiết về việc làm ý nghĩa năm xưa.

Món quà họ mang đến là cuốn sách ghi lại hành trình hơn nửa thế kỷ trước cùng với ấn phẩm giá trị về đề tài chất độc màu da cam.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 3.

TS Trình Quang Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông (đứng bên phải) có mặt tại Paris thời điểm đó đã tận mắt chứng kiến hình ảnh lá cờ tung bay trên đỉnh nóc nhà thờ Đức Bà

Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên bày tỏ xúc động trước sự chia sẻ từ những người bạn đặc biệt – những người đồng chí của Việt Nam. Theo ông Nguyễn Văn Nên, hành động quả cảm của họ vô cùng đáng trân trọng. Qua đó, góp phần quan trọng vào làn sóng phản đối chiến tranh trên toàn thế giới, động viên nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi, khi ký được Hiệp định Paris năm 1973 và tiến tới thống nhất đất nước vào năm 1975. Những năm tháng sau đó, những chàng trai đầy bản lĩnh và yêu hòa bình này bền bỉ tiếp tục cống hiến cho xã hội trên những cương vị khác nhau. Họ cũng dành nhiều sự quan tâm, ủng hộ đối với hành trình đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc màu da cam Việt Nam.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 4.

Bà Trần Tố Nga - biểu tượng của hành trình đòi lại công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, đã có nhiều đóng góp thiết thực cho sự kết nối giữa những người bạn Thụy Sĩ và Việt Nam

Những ngày qua, ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux đã tham gia nhiều hoạt động như thăm Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi; tặng quà gia đình chính sách và nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam; gặp gỡ báo chí; gặp gỡ, giao lưu với thanh niên TP HCM với chủ đề "Chung khát vọng hoà bình". Những sự đón tiếp nồng hậu, chân thành đem đến cho các ông tình cảm ấm áp, thêm gắn kết cùng Việt Nam.

Dịp này, ông Nguyễn Văn Nên – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy TP HCM trân trọng trao tặng Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh cho các ông. Bí thư Thành ủy TP HCM đã trao Huy hiệu TPHCM và tặng sách tiếng Pháp "Les Espaces verts de Saigon" (Không gian xanh của Sài Gòn), tác giả GS-TS Huỳnh Như Phương, cho các ông.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 5.

Ông Nguyễn Văn Nên bày tỏ sự tri ân, gửi lời chúc sức khỏe và trân trọng gửi tặng Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh đến các ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 6.

Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh là món quà thể hiện sự ghi nhận của Đảng bộ, Chính quyền và người dân đối với đóng góp quan trọng của các ông cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 7.

Bí thư Thành ủy TP HCM đã trao Huy hiệu TP HCM và tặng sách tiếng Pháp "Les Espaces verts de Saigon" (Không gian xanh của Sài Gòn), tác giả GS-TS Huỳnh Như Phương, cho các ông.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 8.

 

Xuân Huy - Ảnh: Quốc Thắng
Nguồn: Người lao động, ngày 17.11.2024.

Những kẻ tuyệt vọng bắt đầu một cách vừa lãng mạn vừa ly kỳ, và độc giả rồi sẽ ngợp trong không khí của các tiểu thuyết tâm lý xã hội và hiện thực huyền ảo với những điểm xuyết đậm chất gothic.

Đêm trăng, côn trùng nỉ non. Trong công viên um tùm cây cối của một tòa lâu đài bỏ hoang, một người đàn ông trung niên đứng lặng trước mặt hồ, dưới đáy sâu kia là thi thể đang tan rữa của một thiếu phụ hẳn đã có ý nghĩa đặc biệt với anh, thi thể do chính tay anh từng bí mật gói ghém và đẩy vào lòng nước, có lẽ với rất nhiều cay đắng. Một hồn ma nữ thì thầm cất lời … 

Những kẻ tuyệt vọng bắt đầu một cách vừa lãng mạn vừa ly kỳ, và độc giả rồi sẽ ngợp trong không khí của các tiểu thuyết tâm lý xã hội và hiện thực huyền ảo với những điểm xuyết đậm chất gothic. 

Tất cả được lồng ghép và bổ sung cho nhau một cách tài hoa và tinh tế, trong một cấu trúc chặt chẽ, một nhịp điệu tao nhã, qua hai giọng kể xen kẽ - của nhân vật chính và của một người chỉ lộ diện ở những trang cuối - dưới ngòi bút điêu luyện và cái nhìn sắc bén của Minh Tran Huy.

20230312

Người tình xinh đẹp ơi, chúng mình là thế này: nàng không còn nếu thiếu ta, ta không còn nếu thiếu nàng - Câu thơ của nữ sĩ Marie de France được tác giả chọn làm lời đề từ như để báo trước một cái kết buồn.

Lise và Louis gặp nhau ở sân trường đại học, cùng tuổi hai mươi, cùng yêu lần đầu, cùng choáng váng bởi người đối diện, nhưng đó là hai cá thể khác nhau như trời với vực. Lise thâm trầm và say mê cái đẹp, Louis sôi nổi và tôn vinh đồng tiền; Lise thả hồn vào thế giới văn chương và điện ảnh, Louis thực dụng và không đọc gì ngoài thông tin thời sự; Lise khổ sở vì hoài nghi và liên tục chất vấn, Louis tự tin tiến thẳng vào đời…

Sự đối lập này hẳn đến từ những khác biệt trong nguồn gốc của hai nhân vật: Lise là kết quả cuộc hôn nhân giữa một di dân Việt và một phụ nữ Pháp đều nhờ học hành mà đặt chân được vào giới trí thức trung lưu; còn Louis sinh ra trong một gia đình quyền quý của Paris, nơi từng thành viên đều ý thức được vị thế xã hội của mình. 

Tiếng sét ái tình, do vậy, nhanh chóng bị chiếm chỗ bởi những mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không phải chỉ giữa hai cá tính quá mạnh mà còn giữa hai tầng lớp xã hội bề ngoài có vẻ hòa hợp nhưng bản chất là xung đột trong nhiều giá trị và nhân sinh quan.

Có thể nói, khác biệt giai cấp là đề tài trọng tâm của Những kẻ tuyệt vọng - nơi độc giả có dịp thám hiểm những ngóc ngách quanh co nhất trong tâm hồn con người, khám phá những trải nghiệm vừa lạ vừa quen của những khao khát cuồng nhiệt đến mức hủy diệt, tiến sâu vào những vấn đề xã hội học như ảnh hưởng của tuổi thơ, nguồn gốc, học vấn, điều kiện sống lên việc hình thành nhân cách, mối quan hệ khăng khít và bí hiểm giữa cái thiện và cái ác, giữa sát nhân và nạn nhân, giữa tinh thần và vật chất, giữa kiến thức và trải nghiệm, giữa hiện thực và huyễn tưởng, giữa đồng tiền và quyền lực, giữa cuộc sống và cái chết…

Với người đọc Việt Nam, Những kẻ tuyệt vọng viết lên những trang tuyệt đẹp về cố hương và tha hương; về chiến tranh, lịch sử và những cái giá phải trả; về ẩm thực, ngôn ngữ và tổ tiên; về sự tích Trầu Cau, cổ tích Tấm Cám, truyền thuyết Mỵ Châu - Trọng Thủy…

Sau Công chúa và chàng đánh cá, tiểu thuyết đầu tay lấy cảm hứng từ chuyện tình Trương Chi và Mỵ Nương, Minh Tran Huy tiếp tục xây cầu nối giữa thế giới huyền thoại và thế giới đương đại, giữa văn học dân gian Việt Nam và văn chương thế giới, như một cách bày tỏ tình cảm với ký ức và lịch sử của cha ông, như thử tìm một bến bờ mới trong cuộc phiêu lưu cùng chữ nghĩa với một hành trang kiến thức đã vô cùng phong phú.

Khi gặp Minh Tran Huy lần đầu tiên cách đây nhiều năm, cô gái dong dỏng cao với mái tóc đen dài, cặp mắt long lanh với cái nhìn cương trực ấy đang là phó tổng biên tập tạp chí văn chương danh tiếng Magazine Littéraire

Người mẹ gốc Nha Trang đã tặng Minh những nét đẹp duyên dáng của phụ nữ Chàm, và người cha quê miền Bắc đã truyền cho Minh sự nhạy cảm với ngôn từ. Minh bảo tên đầy đủ của Minh là Trần Huy Ngọc Minh, nghĩa là viên ngọc sáng.

Hơn một năm sau, mùa thu 2007, trong hiệu sách của Paris, tôi bất ngờ thấy tiểu thuyết La princesse et le pêcheur (Công chúa và chàng đánh cá) với Minh Tran Huy ở vị trí tác giả. Nỗi tò mò đã khiến tôi đọc xong trong một đêm tác phẩm hư cấu với nhiều tính tự truyện đó của Minh và không mấy bất ngờ khi hay tin nó được vào chung khảo của giải Goncourt dành cho tiểu thuyết đầu tay cùng năm. 

Nhưng có lẽ phải đợi đến La double vie d’Anna Song (Cuộc đời hai mặt của Anna Song) thì văn phong của Minh mới tỏa sáng bội phần. Voyageur malgré lui (Người lữ hành bỉ cực), viết 5 năm sau đó, khẳng định bút lực dồi dào của Minh.

Trước khi xuất bản tiểu thuyết thứ tư Những kẻ tuyệt vọng, Minh là tác giả của nhiều tiểu luận văn học, trong đó có tập Les écrivains et le fait divers: une autre histoire de la littérature (Các nhà văn và những tin vặt: một câu chuyện khác của văn chương). Tháng 9 này, độc giả Pháp sẽ được đọc Un enfant sans histoire (Một đứa trẻ vô hại) mà tôi đã được Minh cho xem bìa và thổ lộ nhiều tâm huyết.

Sau Linda Lê, cùng với Viet Thanh Nguyen, Ocean Vuong, Doan Bui…, Minh Tran Huy đang làm nên cái gọi là văn chương gốc Việt. ■

Thuận

Nguồn: Tuổi trẻ cuối tuần, ngày 16.01.2023.

Đó là Giáo sư, nhà thơ Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner, nay là Viện William Joiner (Boston, Mỹ) và Giáo sư, nhà thơ Bruce Weigl. Hai ông từng là lính tham gia chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1967-1969.

Nhà thơ Kevin Bowen sinh năm 1947, hiện sống tại bang Massachusetts, tham gia chiến tranh Việt Nam từ năm 1968 đến năm 1969. Sau khi nhận ra sự sai lầm và sự vô nhân đạo trong cuộc chiến tranh mà chính quyền Mỹ tiến hành ở Việt Nam, ông đã tham gia phong trào phản chiến ngay từ khi đang ở trong quân đội Mỹ.

Trở về từ chiến trường Việt Nam, Kevin Bowen tiếp tục phong trào phản chiến tại nước Mỹ. Trên cương vị giáo sư và nhà thơ, ông bắt đầu cất tiếng nói của mình về Việt Nam và kêu gọi những người yêu chuộng hòa bình phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam.

Sau khi trở thành Giám đốc Trung tâm William Joiner, Kevin Bowen đã tập hợp được những trí thức, những nhà văn hàng đầu của nước Mỹ tham gia các hoạt động của trung tâm William Joiner trong việc lý giải sự thất bại và tội ác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời kêu gọi chính quyền Mỹ xóa bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là tiến hành giới thiệu các tác phẩm văn học về chiến tranh cách mạng của Việt Nam tới các trường đại học và công chúng Mỹ.

 

Nhà thơ Kevin Bowen.

Vượt qua các rào cản, các khó khăn về chính sách cấm vận của Mỹ, Kevin Bowen cùng các nhà văn của Trung tâm William Joiner đã mời gần 200 nhà văn Việt Nam tới Mỹ. Ngôi nhà của Kevin Bowen trở thành nơi tiếp đón, sinh hoạt của nhiều nhà văn Việt Nam trong suốt thời gian đó.

Một số phần tử, tổ chức phản động ở Mỹ đã rất “không hài lòng” về việc làm này, nên đã thường xuyên đe dọa đến tính mạng của vợ và các con Kevin Bowen và yêu cầu ông dừng quan hệ với Việt Nam. Nhưng Kevin Bowen đã dũng cảm tiếp tục tổ chức các hoạt động tuyên truyền về Việt Nam, tổ chức dịch và quảng bá các tác phẩm văn học Việt Nam, tranh thủ nhiều diễn đàn trên khắp nước Mỹ để các nhà văn Việt Nam nói về cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc mình, nói về khát vọng hòa bình, ý chí cho độc lập tự do của con người Việt Nam và mong muốn làm bạn với tất cả các dân tộc trên thế giới. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao Huân chương Hữu nghị cho nhà thơ Bruce Weigl.

20240929

Nhà thơ Bruce Weigl (thứ ba từ trái sang) và các người bạn Mỹ nhận Huân chương Hữu nghị do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao tặng.

Năm 1991, Kevin Bowen dẫn đoàn nhà văn cựu binh Mỹ đến Việt Nam để tiến hành một cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam và về quan hệ của hai nước với Hội Nhà văn Việt Nam cho dù tất cả các nhà văn cựu binh Mỹ, đặc biệt là cá nhân ông đã bị đe dọa và bị một số cuộc biểu tình chống đối trước trụ sở của Trung tâm William Joiner tại Boston.

Những việc làm của Kevin Bowen góp phần vào việc hóa giải những nỗi đau và hận thù do chiến tranh gây ra thông qua các hoạt động văn hóa và văn chương, cuối cùng đã được xã hội Mỹ thừa nhận. Năm 2015, chính quyền bang Massachussets đã chọn một ngày để tôn vinh ông hàng năm tên là "Ngày của Kevin Bowen".

 

Huân chương Hữu nghị tặng nhà thơ Kevin Bowen.

Nhà thơ Kevin Bowen đã xuất bản tập thơ "Chơi bóng rổ với Việt cộng". Chưa bao giờ hình ảnh một “kẻ thù cũ” hay theo cách gọi của những người Mỹ là "Việt Cộng" lại hiện lên đẹp đẽ và nhân văn đến như vậy. Tập thơ đã thay đổi cái nhìn của rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và công chúng Mỹ.

Ông đã cùng nhà thơ Bruce Weigl, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tuyển chọn và dịch tập thơ "Sông núi", gồm các bài thơ hay nhất viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của các nhà thơ Việt Nam.

Nhà thơ Kevin Bowen đã được đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và lãnh đạo Bộ Ngoại giao tiếp nhân những chuyến ông đến Việt Nam; được Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tặng Kỷ niệm chương và bằng khen. 

 

Nhà thơ Kevin Bowen và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.

 

Nhà thơ Bruce Weigl tặng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tập thơ "Bài ca bom Napan".


Năm 1991, Kevin Bowen dẫn đoàn nhà văn cựu binh Mỹ đến Việt Nam để tiến hành một cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam và về quan hệ của hai nước với Hội Nhà văn Việt Nam cho dù tất cả các nhà văn cựu binh Mỹ, đặc biệt là cá nhân ông đã bị đe dọa và bị một số cuộc biểu tình chống đối trước trụ sở của Trung tâm William Joiner tại Boston.


Người thứ hai được trao tặng Huân chương Hữu nghị là nhà thơ Bruce Weigl, sinh năm 1949, hiện sống tại bang Ohio, tham gia chiến tranh Việt Nam từ năm 1967 đến năm 1968, sau khi trở về Mỹ đã tham gia phong trào phản chiến. Ông đã xuất bản tập thơ rất nổi tiếng tên là "Bài ca bom Napan", tố cáo sự tàn ác của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Tập thơ đã được dịch ra nhiều tiếng trên thế giới, được trao giải Chung kết của giải Pulizer (một giải thưởng danh giá nhất dành cho văn chương và báo chí của nước Mỹ). Riêng bài thơ "Bài ca bom Napan" đã được đưa vào giảng dạy trong hầu hết các trường phổ thông trung học, cao đẳng và đại học Mỹ.

Một tập thơ nổi tiếng khác của Bruce Weigl có tên "Người đàn ông đi xe đạp”, viết về những con người Việt Nam bình dị trong chiến tranh, về giấc mơ lớn nhất của ông trong thời gian tham chiến ở Việt Nam là chiến tranh kết thúc. Trong một ngày đẹp trời ông muốn trở thành một người Việt Nam để được đạp xe như những người Việt Nam bình dị, được sống những ngày hòa bình với gia đình, được gieo trồng trên cánh đồng của mình.

 

Nhà thơ Bruce Weigl.

Năm 1995 được phép của nhà nước Việt Nam, ông đã vào Việt Nam để nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi trong trại mồ côi ở tỉnh Hà Nam. Ông đã viết trên một tờ báo ở Ohio rằng: "Chúng ta có nuôi một triệu đứa trẻ Việt Nam với một điều kiện đời sống tốt nhất thì chúng ta cũng không bù đắp nổi tội ác mà chúng ta đã gây ra đối với hàng triệu đứa trẻ Việt Nam vô tội và trong sáng…”. Sau đó ông xuất bản tập truyện ký có tên "Vòng tròn của Hạnh". Hạnh chính là tên cô bé Việt Nam được ông nhận làm con nuôi. Cuốn sách đó thực chất là một bản tố cáo về tội ác của Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam đồng thời là một hồ sơ về những vẻ đẹp văn hóa truyền thống của đất nước Việt Nam.

Với Trung tâm William Joiner, Bruce Weigl là một thành viên quan trọng xây dựng mối quan hệ giữa các nhà văn Việt Nam và Mỹ trong việc tuyển chọn, dịch thuật, quảng bá văn học Việt Nam. Ông đã trực tiếp dịch và giới thiệu tác phẩm của hàng chục nhà thơ Việt Nam tới bạn đọc Mỹ. Người Mỹ gọi ông là "Nhà Việt Nam học" bởi sự hiểu biết về văn hóa, về văn học Việt Nam. Ông đã thực hiện gần 100 buổi đọc thơ và thuyết trình về đất nước con người Việt Nam. Ông thổ lộ khát vọng được sống những năm tháng cuối đời ở Việt Nam và được yên nghỉ mãi mãi trên mảnh đất Việt Nam.

Tập thơ gần nhất ông xuất bản có tên "Sau mưa thôi nã đạn" (đã được dịch sang tiếng Việt). Cả tập thơ là tiếng nói về những vẻ đẹp của con người và đất nước Việt Nam, là khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh giải phóng đất nước của những người lính Cụ Hồ.

 

Huân chương Hữu nghị tặng nhà thơ Bruce Weigl.

Với những cống hiến không mệt mỏi của hai giáo sư, nhà thơ cựu binh Mỹ trong gần 40 năm qua, ngày 20/9/2024, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm đã ký quyết định số 943/QĐ-CTN tặng Kevin Bowen và Bruce Weigl Huân chương Hữu nghị vì “đã có những đóng góp tích cực trong việc tham gia dịch và quảng bá hiệu quả các tác phẩm văn học Việt Nam; tổ chức giao lưu, kết nối các nhà văn hai nước, góp phần xây dựng nhịp cầu hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ”.

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 22/9/2024 (giờ Mỹ), tức 2 giờ 30 phút ngày 23/9/2024 (giờ Việt Nam) tại New York, trong khuôn khổ sự kiện “Gặp gỡ những người bạn Hoa Kỳ”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã trao tặng Huân chương Hữu nghị cho nhà thơ Bruce Weigl. Giáo sư, nhà thơ Kevin Bowen vì lý do cá nhân không kịp đến dự, Ban tổ chức sẽ gửi đến tận tay ông sau.

 

Tổ chức sản xuất: Xuân Bách
Nội dung: Hữu Việt
Nguồn: Báo Nhân dân, ngày 23.9.2024.

Năm 2023 đánh dấu mốc 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam – Anh, nhưng lịch sử mối quan hệ giữa nước ta với một trong những cường quốc hàng đầu thế giới đã bắt đầu từ những ngày đầu Anh cùng các quốc gia châu Âu mở rộng hoạt động thương mại, tìm kiếm thị trường ở châu Á sau thành công vang dội mà các cuộc phát kiến địa lý đem lại.

Không giống mối quan hệ giữa Việt Nam với Mỹ, Pháp, hay Liên Xô/Nga, Trung Quốc hoặc các quốc gia láng giềng, quan hệ giữa Việt Nam và Anh, nhất là trong những buổi đầu tiếp xúc đã không được nghiên cứu và phổ quát một cách rộng rãi. Chính vì vậy, việc có những nhà nghiên cứu, những học giả tìm tòi những đơn hàng xuất nhập khẩu, những thư trao đổi qua lại giữa đại diện hai nước trong hàng triệu trang tư liệu cổ của Công ty Đông Ấn Anh mang một ý nghĩa hết sức đáng quý. Alastair Lamb là một nhà nghiên cứu như thế. Là một sử gia về ngoại giao, nhưng ông có một phông nghiên cứu rộng về cả khảo cổ, lịch sử và quan hệ quốc tế; cũng như khả năng đọc, tìm hiểu những tư liệu gốc quý giá tại các trung tâm lưu trữ, thư viện ở nhiều quốc gia trên thế giới để cho ra đời những tác phẩm quý giá. Khi nghiên cứu về các thuộc địa Anh ở Đông Nam Á, ông đã có cơ hội quan trọng để tìm hiểu về hoạt động của Công ty Đông Ấn Anh trong khu vực, và từ đó cho ra đời những nghiên cứu về hoạt động của người Anh ở Việt Nam thời cận đại. Tuy nhiên, ông đã phải mất cả thập kỷ để hoàn thiện nghiên cứu về vấn đề này khi năm 1961 cho xuất bản chuyên san về quan hệ Anh – Việt Nam cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX với nhan đề “British Missions to Cochin China: 1778-1822” đăng trên tạp chí Journal of the Malayan Branch of the Royal Asiatic Society. Đến năm 1970, kế thừa những kết quả nghiên cứu trước đó và sưu tập, bổ sung thêm một loạt tài liệu mới tìm được ở Phông Lưu trữ về Công ty Đông Ấn Anh (ngày nay các tài liệu này còn được giữ tại các Thư viện Quốc gia Anh (British Library), Bảo tàng Anh (British Museum), hay thư viện của các trường Đại học lớn và một số thư viện cá nhân, Lamb đã cho xuất bản công trình “The Mandarin Road to Old Hué: Narratives of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the 17th Century to the Eve of the French Conquest”.

Có thể nói đây là công trình nghiên cứu đầy đủ đầu tiên của một học giả về quan hệ Việt Nam – Anh đến trước khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Đà Nẵng năm 1858 mặc dù thực tế những phái bộ đó đến với Đàng Trong (thời chúa Nguyễn) và khu vực Nam Trung Bộ dưới thời Nguyễn nhiều hơn là đến khu vực miền Bắc. Nhận thức được tầm quan trọng của công trình này, NXB Hội Nhà văn cùng với Thư viện Nguyễn Văn Hưởng đã đầu tư để Đinh Tuấn Nghĩa dịch dưới nhan đề “Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 -19”. Cái tên “Con đường thiên lý” mang đậm hơi hướng văn chương, nhưng cũng từ đó mà nó gợi lên hình ảnh về một chặng đường lâu dài, cam go của người Anh trong việc tiếp cận thị trường và chính quyền Việt Nam thời cận đại.

Những khó khăn đó được toát lên từ nhiều khía cạnh khác nhau; đơn cử như trong hoạt động ngoại giao là việc các thương nhân Anh khó tiếp cận với chúa Trịnh ở cuối thế kỷ XVII để xin giấy phép buôn bán, xây dựng thương điếm, hoặc là nếu có tiếp cận được thì cũng tốn nhiều kinh phí, bị hạch sách bởi quan lại các cấp.Hoặc như chuyến đi năm 1778 của Chapman gặp nhiều bất trắc do lúc này là thời điểm diễn ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn khiến người Anh phải cẩn trọng với những phe nhóm chính trị, quân sự khác nhau; và thậm chí tàu Jenny của Anh đang neo đậu ở Huế đã phải nổ súng tấn công hai tàu Đàng Ngoài vào tháng 11/1778.2 Macartney cũng gặp sự nghi ngờ của chính quyền địa phương bởi thực tế khủng hoảng và hỗn loạn lúc bấy giờ. Ngày 4/6/1793, phái bộ Anh được triều đình Tây Sơn tiếp đón với những sự chuẩn bị có vẻ khác thường khi ngoài những nghi lễ ngoại giao, quà tặng, hoạt động giải trí thông thường, người Anh còn phát hiện thấy “ngoài 150 lính giáo diễu hành gần nhà quan Trấn thủ thì còn có khoảng nửa tá voi và một số lớn kỵ binh trong làng, dù không ra mặt, cùng với lượng lớn bộ binh lẫn giữa khu nhà dân, được điều xuống từ trong đất liền ngay khi chúng tôi mới xuất hiện ở vịnh” bởi nhà Tây Sơn “vốn có những nghi ngờ không nhỏ về chúng tôi, coi chúng tôi không hơn bọn hải tặc và lục lâm là mấy”.3 Chúa Nguyễn thế kỷ XVII, XVIII là những người phóng khoáng, sẵn lòng chào đón thương nhân Anh; nhưng vương triều Nguyễn của vua Gia Long, Minh Mạng rồi Thiệu Trị, Tự Đức lại có những lý do khác nhau để từ chối, hạn chế tiếp đón và hợp tác với người Anh, khiến cho những chuyến đi của sứ bộ Anh trong thế kỷ XIX hầu như không có kết quả khả quan.

Cuốn sách này có cách trình bày rất đơn giản, phổ thông theo biên niên sử, nhưng chính cách tiếp cận đó lại dễ dàng giúp cho người đọc có thể hình dung về diễn tiến mối quan hệ Anh – Việt Nam, hay cụ thể hơn là những hoạt động ngoại giao và thương mại của đại diện Công ty Đông Ấn Anh tại Việt Nam. Sáu phần khác nhau thực chất là sự lần lượt trình bày các phái đoàn Anh ở Việt Nam theo dòng thời gian từ cuối thế kỷ XVII cho đến giữa thế kỷ XIX, gồm phái bộ của Thomas Boyear (1695-1696), Chapman (1778), George Macartney (1793), Roberts (1804), John Crawfurd (1822), Davis (1847) và Thomas Wade (1855). Cách tiếp cận vấn đề của Lamb thiên về phía Anh khi đặt vấn đề nghiên cứu theo diễn biến của các phái bộ Anh tới Việt Nam, và từ đó là đưa ra góc nhìn của người Anh về câu chuyện quan hệ Anh – Việt Nam trong gần ba thế kỷ. Điều đó có thể sẽ không làm hài lòng những độc giả muốn một cách tiếp cận tổng thể, hai chiều; nhưng lại hoàn toàn phù hợp với hàm lượng khoa học của một công trình ra đời năm 1970, khi mà việc khai mở, trình bày hệ thống tư liệu gốc vốn đa dạng, phong phú về một vấn đề nghiên cứu đã được coi là một đóng góp vô cùng quan trọng cho khoa học; và tác giả cũng không phải là người dành cả cuộc đời nghiên cứu về Công ty Đông Ấn Anh và quan hệ của nó với Việt Nam. Lamb đã đóng vai trò khai mở quan trọng, giúp một loạt nhà nghiên cứu về thương mại Việt Nam thời cận đại, hay quan hệ Việt Nam – Anh tiếp tục hoàn thiện và bổ sung với những tư liệu mới và những cách tiếp cận mới.

20230308 2

Bức thư của chúa Trịnh Tạc gửi công ty Đông Ấn Anh, có thể được viết vào năm 1673. Nguồn ảnh: Bảo tàng Anh.

Với cách làm đó, phần lớn nội dung cuốn sách của Lamb không phải là những lập luận, đánh giá của tác giả về quan hệ Anh – Việt Nam mà là tổng hợp, công bố những tư liệu như hồi ký, ghi chép, đánh giá thú vị của các đại diện Công ty Đông Ấn Anh, các thủy thủ trên tàu, hoặc thư từ trao đổi giữa Anh và Việt Nam còn được lưu giữ. Những ghi chép đó là vô cùng quan trọng, quý giá để đưa ra thông tin về mối quan hệ còn nhiều điểm chưa được khai lộ như thực tế mối quan hệ thương mại Anh – Việt Nam trong thế kỷ XVII, hoặc những nỗ lực của người Anh trong tiếp xúc với triều đình và quan lại Việt Nam xuyên suốt mấy trăm năm; cũng như góp phần quan trọng vào việc cung cấp một góc nhìn của người Anh về con người, văn hóa, kinh tế và các mặt đời sống xã hội Việt Nam thời cận đại; cùng với những công trình của học giả người Pháp cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX để làm giàu hơn những ý kiến của người châu Âu về đất nước ta. Mỗi một ghi chép đều chứa đựng những thông tin cụ thể về triều đình, tranh chấp quyền lực, phân bố địa giới hành chính, chế độ quan lại, quân đội, các sản phẩm hàng hóa, các thương cảng quan trọng, hoặc hoạt động của thương nhân nước ngoài ở Việt Nam.4 Ví dụ, trong hồi ký của Bowyear, ngoài những lời ca tụng về sự giàu có tài nguyên và tiềm năng hàng hóa của Đàng Trong, sự giúp đỡ và chào đón của quan lại địa phương, phái bộ Anh còn ghi lại việc có quan Giám thương thứ 2 đòi hỏi số tiền 500 lượng bạc để đưa kiến nghị của họ lên chúa Nguyễn; hay việc có sự cạnh tranh thương mại khá lớn với cả người Chăm-pa, người Campuchia.5 Ghi chép của Chapman năm 1778 khá thú vị với chi tiết về việc chia khu vực từ Đồng Hới đến Đồng Nai thành 12 dinh; hay những phân tích cụ thể về khí hậu, động thực vật Nam Trung Bộ và con người nơi đây.6 Đáng chú ý, các thương nhân Anh đều khẳng định một thương điếm ở Đàng Trong sẽ cho họ “một lợi thế vượt trội” trong việc buôn bán với Trung Quốc, Nhật Bản, Philippines, Xiêm, Campuchia.7 Trong đó, nếu như chuyến đi của Bowyear nhấn mạnh đến sự thuận lợi của Hội An thì những phái bộ sau nhắc rất nhiều đến Đà Nẵng: nơi trú ẩn an toàn cho tàu của công ty, nơi thu hút thương nhân quốc tế, nơi dễ dàng phòng thủ (với Cù Lao Chàm) và tấn công thương điếm của người Hà Lan và Tây Ban Nha.8 Vị trí của Đà Nẵng tiếp tục được ca ngợi trong chuyến đi của Crawfurd bên cạnh hệ thống cảng ở Hội An, Phan Rí, Nha Trang, Quy Nhơn, Quảng Ngãi để tạo ra lợi thế lớn trong hệ thống thông thương quốc tế lúc bấy giờ.9 Có thể thấy, những giá trị trên của Việt Nam là một trong những nguyên nhân quan trọng thúc đẩy các nước phương Tây nhòm ngó nước ta, và Pháp đã nổ súng tấn công Đà Nẵng năm 1858, mở đầu quá trình xâm lược Việt Nam.

Bên cạnh vai trò tổng hợp tư liệu như đã nói, vai trò và đóng góp khoa học của Lamb cũng được khẳng định thông qua những nhận định của riêng ông trong phần mở đầu và dẫn nhập trước mỗi chuyến đi của các sứ bộ. Thế kỷ XVII với những buôn bán giữa Công ty Đông Ấn Anh với Đàng Ngoài đã phần nào được khắc họa với những nhận xét sâu sắc trong phần đầu cuốn sách như về một “chính quyền chúa Trịnh ngay từ đầu đã gây cản trở (buôn bán), còn quan lại thì hám lợi và thối nát”; hay giải thích cho sự tồn tại 25 năm của thương điếm Đàng Ngoài dù cho buôn bán với Nhật Bản bị từ chối là bởi Đàng Ngoài có thể cung cấp “nguồn lụa mịn cho Công ty Đông Ấn bán ở London và các thị trường châu Âu có nhu cầu”.10 Đặc biệt, những trao đổi thương mại Anh – Đàng Ngoài nửa sau thế kỷ XVII đã được tác giả chỉ ra dù rằng nó không thực sự nổi bật so với thương mại của Anh với Ấn Độ, Bantam, Trung Quốc đương thời. Trước mỗi ghi chép về các phái bộ Anh, Lamb đều đưa ra những nhận định của mình về bối cảnh quốc tế, khu vực, sự cạnh tranh cường quốc dẫn đến hoạt động của người Anh, cũng như tác động, giá trị của các chuyến đi. Trước nội dung về chuyến đi của phái bộ Davis và Wade năm 1847 và 1855, Lamb đã có những so sánh khá thú vị về nguyên nhân Xiêm thành công trong việc duy trì độc lập, còn triều Nguyễn thất bại và Việt Nam rơi vào tay Pháp. Ông cho rằng Xiêm có vị trí độc đáo, và chính sách ngoại giao khéo léo “uốn mình theo chiều gió”, và có những động thái có thể so sánh với Duy Tân Minh Trị. Ngược lại, triều Nguyễn có những chính sách đóng cửa, cô lập giống Mạc phủ Tokugawa đầu thế kỷ XVII và khiến cho đất nước lâm vào bối cảnh bất lợi. Lamb cũng có những đánh giá cụ thể về sự thay đổi chính sách ngoại giao qua từng vị vua Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức để làm nổi bật lên nguyên nhân Việt Nam rơi vào tay Pháp.11 Những tư liệu được khai thác cùng với những nhận định quan trọng của Lamb cho thấy ông là nhà khoa học nghiêm cẩn, khách quan và luôn cố gắng giúp độc giả có được những thông tin quan trọng nhất về vấn đề nghiên cứu.

Lịch sử các phái bộ Anh đến Việt Nam xuyên suốt ba thế kỷ có thể coi là minh chứng hùng hồn cho sự hấp dẫn của Việt Nam về cả kinh tế, địa chính trị thời cận đại, và thậm chí là hiện nay. Dù không phải là những thị trường quan trọng như Trung Quốc, Nhật Bản, cũng không phải là một thuộc địa quan trọng kiểu Ấn Độ, Hồng Kông hay Singapore nhưng Việt Nam vẫn có những giá trị nhất định trong quan điểm, góc nhìn của những đại diện Anh về tiềm năng hàng hóa, vị trí địa chiến lược. Những giá trị đó được lý giải cụ thể qua các ghi chép của họ, và qua tính liên tục trong các chuyến thăm trong suốt ba thế kỷ. Nhưng, cũng chính từ các phái bộ đó đã giúp độc giả hình dung được lý do Anh không quá mặn mà thâm nhập sâu vào Việt Nam khi mà họ không nhận được sự hợp tác từ chính quyền và đã có được ảnh hưởng quan trọng ở Xiêm, thiết lập được thuộc địa ở Singapore, Hồng Kông để kiểm soát con đường buôn bán trên biển từ Ấn Độ đến Trung Quốc. Chính điều đó tạo điều kiện cho Pháp có những hành động gây hấn, xâm lược ở nửa sau thế kỷ XIX khi Pháp cũng cần một địa điểm có thể kiểm soát buôn bán trong khu vực, và để cạnh tranh với một loạt thuộc địa của Anh.

Bức tranh vẽ đoàn của Công ty Đông Ấn Anh vào cuối thế kỷ 18. Nguồn: National Geographic.

Có lẽ sẽ tuyệt vời hơn nếu cuốn sách được dịch và xuất bản sớm hơn, trước khi có những nhà nghiên cứu Việt Nam về vấn đề này, hay trước cả trào lưu dịch các sách tiếng Pháp về Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; để cung cấp cho chúng ta những góc nhìn độc đáo của người nước ngoài về con người, cuộc sống, kinh tế, văn hóa Việt Nam thời cận đại. Dẫu vậy, bản dịch của Đinh Tuấn Nghĩa là bản dịch tiếng Việt đầu tiên công trình của Lamb và trở nên vô cùng đáng đọc với những ai muốn tìm hiểu về quan hệ Anh – Việt Nam, về thương mại Việt Nam và thế giới thời cận đại, về những tiềm năng quan trọng của đất nước dưới mắt người nước ngoài (dưới góc nhìn của lý thuyết trung tâm – ngoại vi quyền lực) để có thể trao đổi với quốc tế và phát triển kinh tế; hay những cảng thị có vị trí địa chính trị quan trọng như Hội An, Đà Nẵng. Công trình này do đó trở thành một kênh tham khảo quan trọng để độc giả Việt Nam tìm hiểu về quan hệ Anh – Việt Nam một cách cơ bản bên cạnh những nghiên cứu học thuật chuyên sâu gần đây về vấn đề này. □

Trần Ngọc Dũng

*TS Trần Ngọc Dũng, Đại học Sư phạm Hà Nội.

Nguồn: Tia sáng, ngày 05.03.2023.

——-

 

Chú thích

1 Xem thêm Trần Ngọc Dũng, “Tiếp xúc ngoại giao Anh – Việt thế kỷ XVII dưới góc nhìn của người Anh”, Nghiên cứu Lịch sử, 4 (2019), tr. 11-22.

2 Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 126-127.

Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 259.

4 Xem thêm Hoàng Anh Tuấn, Trần Ngọc Dũng, “Tư liệu lưu trữ Anh về quan hệ Việt Nam – Anh (thế kỷ XVII- XIX)”, Nghiên cứu Lịch sử, 3 (2021), tr. 58-68.

5 Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 76-79, 92.

6 Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 204-209.

7 Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 211.

8 A. Lamb, The Mandarin Road to Old Hue: The narrative of Anglo-Vietnamese Diplomacy from the Seventeenth Century to the Eve of The French Conquest, London, 1970, p. 176.

9 G. Finlayson, The Mission to Siam, and Hue, the capital of Cochinchina in the year 1821-2, London, 1826, p. 329; J. Crawfurd, Journal of an Embassy from the Governor-General of India to the Courts of Siam and Cochin-china, 2 volumes, London, 1830, p. 244.

10 Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 48, 55.

11 Alastair Lamb, (Đinh Tuấn Nghĩa dịch), Con đường thiên lý: Hành trình kỳ lạ của các sứ bộ Anh quốc tới Việt Nam thế kỷ 17 – 19, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 2022, tr. 426-432.

Thông tin truy cập

66325600
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1014
68625
66325600

Thành viên trực tuyến

Đang có 233 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website