Đại học Nam Kinh tọa lạc tại cố đô hoa lệ Kim Lăng, nay là thành phố Nam Kinh, thủ phủ của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc; là một trường đại học tổng hợp, có lịch sử lâu đời, giàu thành tựu trong nghiên cứu khoa học, cùng với Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, nó được giới chuyên môn cũng như Bộ Giáo dục Trung Quốc đánh giá là một trong ba trường đại học hàng đầu trong nghiên cứu khoa học tại Trung Quốc.

     Giáo sư- tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh sinh ngày 1 tháng 1 năm 1931 tại xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong gia đình có truyền thống Nho học. Năm 1953, giáo sư được Liên khu ủy Khu V cử ra miền Bắc học tập. Năm 1955, ông vinh dự được nhà nước cử sang Liên Xô học đại học tại trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp. Tốt nghiệp đại học, giáo sư tiếp tục ở lại Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Năm 1963, về nước, công tác tại Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ nhiệm bộ môn Lí luận văn học. Ở tuổi 30, với học vị phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ), trái tim tràn đầy nhiệt huyết, lại được đào tạo bài bản tại một trường đại học danh tiếng ở Liên Xô, giáo sư là cánh chim đầu đàn trong giới nghiên cứu khoa học xã hội ở miền Bắc những năm 60-70. Từ năm 1965, với cương vị là  Chủ nhiệm bộ môn Lí luận văn học, ông là một trong những người chủ trì và tham gia biên soạn bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học ( 4 tập, xuất bản từ 1965-1971). Đây là một trong 3 công trình lý luận văn học đầu tiên (Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, Nguyên lý lý luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc) vận dụng các nguyên lý, các khái niệm do các học giả Xôviết đưa ra để xây dựng bộ giáo trình lí luận văn học của Việt  Nam, giải thích những vấn đề thực tiễn trong lịch sử văn học nước ta. Những bài viết của ông như: Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống ( đăng trên tạp chí Văn học, 1970), Suy nghĩ về văn học

( tiểu luận, phê bình, 1972), Suy nghĩ về một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu văn học ( 1974),…đề cập đến những vấn đề như: đặc trưng, chức năng của văn học, vai trò của chủ thể sáng tạo, cấu trúc tác phẩm văn học, vai trò của độc giả trong tiếp nhận văn học,… thể hiện sự nhạy bén của nhà nghiên cứu trong việc tiếp cận những vấn đề cốt lõi trong nhận thức và nghiên cứu văn học từ trước đến nay.

     Sau năm 1975, ông được Trung ương Đảng  cử vào miền Nam công tác, giữ các cương vị: Trưởng Ban phụ trách Viện Đại học Huế (1975-1977), Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Huế (1977-1981). Từ năm 1981 đến 1990, ông được Đảng và Nhà nước bổ nhiệm các trọng trách: Thứ trưởng Bộ Giáo dục (1983-1987), Phó trưởng Ban Văn hóa-Văn nghệ  Trung ương (1981-1983; 1987-1990). Trong hoàn cảnh miền Nam vừa giải phóng, với nhiều biến động phức tạp của đất nước sau cuộc chiến tranh kéo dài, được giao nhiệm vụ phụ trách một trường đại học ở phía Nam như Viện Đại học Huế, để ổn định tình hình, người lãnh đạo không chỉ có năng lực chuyên môn giỏi mà còn phải có bản lĩnh, phẩm chất của người cán bộ Cách mạng. Sự kết hợp giữa người làm chuyên môn sắc sảo và người quản lý có trách nhiệm, am hiểu lòng người, am hiểu thực tế, những ngày công tác tại Viện Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã để lại những ấn tượng đẹp trong lòng cán bộ, giảng viên và nhân viên Viện Đại học Huế.

   Khi chuyển sang làm công tác quản lý văn hóa, văn nghệ, ở cương vị Phó ban Văn hóa-Văn nghệ Trung ương, ông dốc hết tâm huyết để hoàn thành nhiệm vụ. Trong tình hình của đất nước đêm trước Đổi mới đòi hỏi không chỉ cái nhìn mới, cảm quan mới của người lãnh đạo mà còn phải tiên phong, đứng mũi chịu sào để chèo lái  phong trào văn nghệ theo kịp xu thế của dân tộc trong kỷ nguyên mới, của thế giới trong thời đại mới. Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là một trong những người đóng góp những ý kiến quan trọng trong cuộc gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh của Văn nghệ sĩ cả nước (1986), soạn thảo Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ.

    Từ năm 1990 đến nay, giáo sư là chuyên gia cao cấp của Viện Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, công tác tại Viện KHXH Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh ( nay là Viện PTBV vùng Nam Bộ), tiếp tục công việc nghiên cứu vốn là niềm đam mê của ông. Trong những ngày hệ thống xã hội chủ nghĩa khủng hoảng, trước những hoang mang, giao động của không ít người làm công tác văn hóa, văn nghệ, cùng với những giáo sư dày giạn kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học văn học như GS Hoàng Như Mai, GS Lê Đình Kỵ, GS Lê Trí Viễn, v.v… giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là một trong những cây đại thụ mang đến niềm tin, điểm tựa và người tiên phong dẫn đường trong nghiên cứu khoa học cho trí thức trẻ ở TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Công trình Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ (viết chung với Huỳnh Như Phương) cung cấp cơ sở lý luận để nghiên cứu về phong cách, sự tiến bộ trong văn học, giúp tìm hiểu, đánh giá  đóng góp của nhà văn cho văn học và đời sống.    Những bài viết  của giáo sư về ý nghĩa, bản chất,  đặc trưng của văn học, về quá trình đổi mới văn học hiện nay, những hiện tượng văn học tiêu biểu trong trào lưu Đổi mới như truyện của Nguyễn Minh Châu, thơ Lê Đạt, v.v…( được tập hợp trong công trình Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, 2004) chứa đựng hạt nhân tư duy, gợi mở hướng tiếp cận văn học với đời sống và hướng nghiên cứu văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất nước. Với kinh nghiệm của người làm công tác nghiên cứu văn học, gắn bó với tình hình văn nghệ đất nước trong từng giai đoạn lịch sử (từ sau 1954 đến nay), ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh về văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất nước rất đáng suy ngẫm: “ … văn chương cũng như nghệ thuật không thể thay thế cho kinh tế, chính trị và các lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội. Nhưng, ngược lại, cũng không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương nghệ thuật trong việc giúp con người hiểu cuộc sống và  hiểu chính mình, sống có tình thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục để thăng hoa, để ước mơ, vươn đến chân thiện mỹ” (Ý nghĩa văn chương - Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, 2004, tr.255).

     Theo chúng tôi được biết, công trình khoa học Phương pháp luận nghiên cứu văn học- công trình kết tinh quá trình suy ngẫm về phương pháp nghiên cứu văn học mà giáo sư đã dày công nghiên cứu nhiều năm, sắp được ra mắt độc giả.

     Ở tuổi 80, ông là người hạnh phúc, với nụ cười rạng rỡ trên môi, luôn mở rộng vòng tay để đón các bạn trẻ đến với ông trong dịp bảo vệ luận án, trong hội thảo khoa học.

     Dù ở cương vị nào, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh vẫn là con người năng động, nhạy bén, luôn giữ được nếp sống giản dị và thanh khiết. Những đồng nghiệp, nhà khoa học, nhà giáo nay đã lớn tuổi, khi nhắc đến những kỷ niệm lúc sống ở Hà Nội, khi cùng làm việc ở Huế, ở TP Hồ Chí Minh đều yêu quý tài năng của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Hạnh, quý trọng nhân cách của người thầy, người  quản lý trong môi trường giáo dục. Không chỉ người thân và bạn bè mà cả những trí thức nước ngoài có dịp tiếp xúc, làm việc với ông đều bày tỏ cảm tình rất thân thiện và quý trọng tình cảm mà ông dành cho họ.

    Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Ban lãnh đạo, cán bộ, nhân viên của Viện PTBV vùng Nam Bộ, Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Hội Nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, nhiều trí thức, nhà giáo, văn nghệ sĩ, nghiên cứu sinh, long trọng tổ chức lễ mừng thọ giáo sư.

 

 

 

ThS. Vũ Thị Thanh Trâm - Hình chụp trước cổng Đại học Cheng Kung

Đầu tháng 9 vừa qua, ThS Vũ Thị Thanh Trâm, giảng viên Bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã đến Đài Loan học tiến sĩ tại Khoa Trung văn, Trường Đại học Quốc lập Thành Công (National Cheng Kung University – NCKU), một trong những trường đại học quốc lập hàng đầu của Đài Loan. Hướng nghiên cứu về thể loại Từ ở Đông Á (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản). Được biết ThS. Thanh Trâm cùng lúc nhận được giấy thông báo cấp 2 học bổng: một của Đài Loan và một của Trường Đại học Quốc lập Thành Công, và cô đã chọn học bổng của Đài Loan cho thời gian theo học tại đây.

Thạc sĩ Thanh Trâm cho biết: Tất cả những ai muốn du học về tiếng Hoa, thạc sĩ, tiến sĩ ở Đài Loan đều có thể dễ dàng tiếp cận học bổng này:

-  Thời gian nhận hồ sơ xin học bổng Đài Loan từ tháng 1 kéo dài đến cuối tháng 3 hàng năm. Tháng 4 đến tháng 6 sẽ xét duyệt, tháng 9 nhập học. Hồ sơ nộp tại:

Văn Phòng Kinh Tế và Văn Hóa Đài Bắc tại TP.HCM

336Nguyễn Tri Phương, Q.10, TP.HCM

http:// www.tecohcm.org.vn       

- Thông tin về NCKU và thông báo về học bổng đăng tải trên trang web: http:// admissions.oia.ncku.edu.tw./en

 

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2012 vào ngày 9.4.2012 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 24 đề tài tham gia hội nghị, gồm 3 đề tài Hán Nôm, 4 đề tài ngôn ngữ, 12 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Yếu tố thần kỳ trong Nghìn lẻ một đêm do sinh viên SV Sity Maria Cotika thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo  do sinh viên Thái Nguyễn Hồng Sương thực hiện; Nhân vật chấn thương trong một số tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986-1995 do sinh viên Trần Phượng Linh thực hiện; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: cách đọc xã hội học do sinh viên Nguyễn Ngọc Thảo Như thực hiện; Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam từ sau 1986 do sinh viên Lê Thị Kim Loan thực hiện; Mỹ cảm trong ca từ của Trịnh Công Sơn do sinh viên Phan Thị Diệu Thảo làm chủ nhiệm. Từ những công trình được thực hiện công phu và nghiêm túc này, hy vọng sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ sẽ còn đạt được những giải cao hơn ở cấp Thành và cấp Bộ.

 

(Hình minh họa, nguồn:  Google)

I

Chúng ta đang hướng tới xây dựng một nền “kinh tế tri thức”; mà muốn thế, phải nhanh chóng tạo nên một “xã hội học tập” - được hiểu như là một sự thay đổi hệ thống học - cổ truyền (học xong rồi làm), để chuyển sang hệ thống học tập mới - suốt đời. Trong hệ thống đó, tri thức có giá trị hàng hoá, và mỗi người phải biết chuyển hoá tri thức thành kỹ năng, thành công nghệ, thành giá trị. Trong hệ thống đó, do học tập, tiếp thụ mà con người có được tri thức chung; và do năng lực vận dụng của bản thân mà chuyển hoá được thành tri thức riêng, của cá nhân.

Trong diễn văn nhậm chức thủ tướng Anh vào tháng 5/1997, ông Tony Blair tuyên bố: “Tôi xin hứa với quốc dân là tôi sẽ thực hiện ba cải cách: giáo dục, giáo dục và giáo dục”. Tuy cách diễn đạt của các nhà lãnh đạo quốc tế khác có thể không gây ấn tượng bằng lời phát biểu của ông Blair, nhưng nói chung trên thế giới ngày nay nước nào cũng đang chú tâm cải cách giáo dục để làm bàn đạp cho những cải cách kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật.

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2010 vào ngày 08.5.2010 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 33 đề tài tham gia hội nghị, gồm 5 đề tài Hán Nôm, 7 đề tài ngôn ngữ, 18 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Sưu tầm, giới thiệu, phiên dịch di sản Hán Nôm ở Quận 9, TP Hồ Chí Minh của tập thể lớp Hán Nôm 2 do sinh viên Lê Thị Cẩm Tú làm chủ nhiệm; Ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng do sinh viên Trần Thị Thúy An thực hiện; Nghệ thuật trang phục Trung Quốc trong Hồng Lâu Mộng do sinh viên Nguyễn Thị Ánh Nguyệt thực hiện; Tìm hiểu vè lịch sử Nam Bộ do sinh viên Lê Thị Minh Tâm thực hiện; Biển trong văn học cổ điển Việt Nam do sinh viên Phùng Thị Hạ Nguyên thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Ngân Giang do sinh viên Võ Quốc Việt làm chủ nhiệm.

Nguyễn Tiến Lực (*)

Mở đầu

 

Vào giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây ồ ạt xâm nhập vào phương Đông. Các nước phương Đông đều đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: hoặc bị xâm chiếm, biến thành các nước thuộc địa, hoặc từng bước trở thành các nước phụ thuộc, hoặc phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây. Trong tình hình đó, ở các nước phương Đông đều đã xuất hiện các nhà cải cách chủ trương học tập chính nền văn minh phương Tây, canh tân đất nước một cách toàn diện và sâu rộng, tiến bước kịp các nước phương Tây. Fukuzawa Yukichi của Nhật Bản và Nguyễn Trường Tộ của Việt Nam là những nhà tư tưởng như vậy. Fukuzawa Yukichi được đánh giá là nhà khai sáng lớn nhất của Nhật Bản vào nửa sau thế kỷ XIX, là “Voltaire của Nhật Bản”, là “Rousseau của phương Đông”. Những tư tưởng của ông đã khai sáng cho nhân dân Nhật Bản, đưa Nhật Bản tiến lên vũ đài văn minh nhân loại. Còn Nguyễn Trường Tộ được đánh giá là nhà tư tưởng cải cách lớn nhất giữa thế kỷ XIX của Việt Nam. Khi nghiên cứu đến hai nhà tư tưởng này, chúng tôi thấy họ có nhiều điểm giống nhau đến kỳ lạ, đặc biệt là chủ trương học tập nền giáo dục phương Tây, cận đại hóa nền giáo dục ở .mỗi nước.

 
 
 

          Ngày 28 tháng 11 năm 2009, tại VP Khoa Văn học và Ngôn ngữ,  đề tài  Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX do PGS.TS. Đoàn Lê Giang làm chủ nhiệm đã được nghiệm thu. Hội đồng nghiệm thu do GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh làm chủ tịch đã đánh giá đề tài đạt mức độ “Tốt” (mức cao nhất).

Oxford là đại học nói tiếng Anh lâu đời nhất trên thế giới. Trường đại học này không chỉ tự hào về bề dày truyền thống và quy mô quan hệ quốc tế rộng rãi mà còn nổi tiếng với hệ thống tự học, tự giáo dục. Qua việc giới thiệu sơ lược chương trình đào tạo cử nhân của Khoa Ngữ văn Anh (English Languague and Literature) sau đây, chúng ta sẽ phần nào thấy được cách tổ chức tự học, tự giáo dục rất đáng lưu ý của Oxford.
 

Khoa Nghệ thuật học (Faculty of Arts) của trường đại học Chulalongkorn được chính thức thành lập vào năm 1955 nhưng tiền thân của Khoa này là Khoa Nghệ thuật học và Khoa học (Faculty of Arts and Sience) đã xuất hiện từ năm 1916. Hiện nay, Khoa Nghệ thuật học có 11 bộ môn: Tiếng Thái, Tiếng Anh, Lịch sử, Địa lý, Khoa học thư viện, Triết học, Kịch nghệ, Ngôn ngữ phương Đông, Ngôn ngữ phương Tây, Ngôn ngữ học và Văn học so sánh. Khoa có các ngành học như sau:

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở NGA

Hệ thống giáo dục đại học của Nga khởi đầu bằng việc thành lập hai trường đại học ở Moskva và Petersburg vào giữa thế kỷ XVIII. Cuộc tranh cãi xem trường nào trong hai trường là cổ nhất của nước Nga đến nay vẫn còn chưa ngã ngũ. Trường ĐHTH Moskva (MGU) được thành lập vào ngày 25 tháng 1 (12 tháng 1 theo lịch cũ của Nga) năm 1755. Hiện nay, ngày 25 tháng 1 là Ngày Sinh viên ở Nga. Trường  ĐHTH St.Petersburg (SPbGU) được xem là thành lập vào năm 1819, nhưng có ý kiến (và hiện nay là quan điểm chính thức của Trường SPbGU) cho rằng trường này là hậu thân của Đại học Hàn lâm Petersburg, được thành lập khi sát nhập Học viện St.Petersburg và Viện Hàn lâm Petersburg theo sắc lệnh của Hòang đế Piotr I năm 1724.

Bộ Giáo dục – Đào tạo vừa có quyết định trao giải nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2007-2008. Năm nay sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đạt được 20 giải nghiên cứu khoa học cấp Bộ (gồm 1 giải nhất, 3 giải nhì, 6 giải ba, 10 giải khuyến khích).

Giáo sư Lê Đình Kỵ suốt đời gắn bó với sự nghiệp dạy học, đó là cái duyên và cũng là cái nghiệp như thầy từng tâm sự. Cách mạng Tháng Tám thành công, anh chủ tịch xã “trí thức” đã đi dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ và bắt đầu thích nghề giáo vì đây là nhiệm vụ cách mạng, vì thấy những kiến thức của mình đã mang lại ích lợi thiết thực cho người dân.

Trong tiểu thuyết thứ 2 mang tên ‘Hoàng đế xứ Gladness’, Ocean Vương không chỉ mang đến sự u hoài quen thuộc mà còn gửi gắm những nét mới lạ trong hành trình sáng tạo của bản thân.

Với thành công vang dội của Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gianHoàng đế xứ Gladness là tiểu thuyết rất được chờ đón ngay từ khi rò rỉ những thông tin đầu tiên. Ở cuốn sách này, tác giả tiếp tục mang đến nhiều điểm độc đáo đã từng làm nên dấu ấn cho mình: ngôn ngữ nên thơ, cảm giác u hoài, cảm nhận tinh tế cũng như chất liệu từ chính những gì mình đã trải qua.

Cuốn sách tiếp tục theo chân nhân vật Hải cùng hành trình trưởng thành của anh. Nếu tác phẩm đầu tay khép lại khi anh phải chịu mất mát quá lớn là người bạn trai Noah qua đời do sốc thuốc, thì tác phẩm này tiếp nối điều đó, khởi đầu bằng cảnh Hải thấy bản thân không còn động lực tiếp tục cuộc sống.

20251006

Trong toạ đàm Hoàng đế xứ u buồn diễn ra sáng 27.9, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhận định cái chết được Ocean Vương khai thác rất ấn tượng. Ảnh: Mai Hiếu


Theo đó sự mất mát người thương đã để lại trong anh những cảm xúc phức tạp. Một mặt anh thấy đau khổ vì cuộc tình mới chớm thì đã đứt đoạn, một mặt anh muốn vượt qua để tiếp tục sống. Tuy vậy để làm được điều này, anh buộc phải đi cai nghiện, làm lại từ đầu.

Vì muốn mẹ không thất vọng, Hải đã nói dối mình đậu trường y, đến New York học nhưng thật ra trong lúc đó bản thân đã phải chật vật với nỗi thèm thuốc. Sau khi trở lại, anh thấy không thể đối mặt với mẹ - người đã kỳ vọng, tin tưởng vào anh - từ đó nhận thấy bản thân không còn động lực tiếp tục tồn tại.

Vào một buổi tối mùa đông lạnh giá, anh quyết định khép lại cuộc đời bằng cách nhảy khỏi cây cầu ở thị trấn Gladness. Tuy vậy khi chưa làm được thì một cụ bà người Litva cùng những nhân viên ở cửa hàng thức ăn nhanh Home Market - những người thiếu thốn, đau đớn tương tự - đã níu anh lại, từ đó tiếp cho anh thêm sức sống và xoay đời anh theo một hướng khác.

Những số phận bị gạt ra rìa

Chia sẻ với tờ The Guardian khi cuốn sách ra mắt, Ocean Vương tiết lộ bản thân nhận thấy có ba loại gia đình trong thế giới này: “Đó là ‘gia đình hạt nhân’ như người ta thường gọi là tế bào của xã hội Mỹ. Có gia đình nơi những người bị gạt ra lề xã hội cảm thấy tình bạn, tình thân ở nhau. Và cái cuối cùng, tuy ít được nhắc đến nhất nhưng lại hiển hiện nhiều nhất, là các đồng nghiệp, hay “gia đình xoay quanh công việc”.

Và không đâu khác ngoài cuốn sách này, ta có thể cảm nhận một cách trọn vẹn những điều nói trên. Đầu tiên, Hoàng đế xứ Gladness tiếp tục cho thấy cuộc sống của một gia đình “ngoại lai” - những người đến từ một đất nước xa lạ, liên tục vượt qua định kiến, khó khăn để có đời sống ổn định.

Nhưng nếu Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian cho thấy những tình cảm êm ấm, thấu hiểu, thì Hoàng đế xứ Gladness lại đào sâu hơn vào mối quan hệ này, cho thấy cả những khía cạnh không mấy “êm dịu”.

Cụ thể, tuy không nói ra, nhưng độc giả có thể cảm nhận chính kỳ vọng của mẹ Hải – người chia sẻ bản thân vô cùng tự hào khi một gia đình nhập cư giờ có người con sắp thành bác sĩ – đã giam hãm anh, khiến anh không thấy lối ra cho cuộc đời mình. Nếu người mẹ ấy thấu hiểu hơn, nhẹ nhàng hơn thì có lẽ Hải của cuốn sách này đã chọn xoay theo một hướng rất khác.

Ocean Vương cho thấy những khám phá mới trong cuốn sách này. Ảnh: The Guardian


“Giấc mơ Mỹ” tan vỡ cũng được anh tái hiện thông qua nhân vật dì Kim – người phụ nữ mơ ước một tương lai mới nhưng chờ đợi dì là những chuyện buồn nối tiếp bi kịch. Ocean Vương cho thấy sự sắc bén cùng nỗi đau liên thế hệ khi không khai thác trực diện mà thông qua Sony, cậu em họ và là con trai dì Kim chịu nhiều tổn thương, người đã đưa anh đến Home Market.

Với hình thức thứ hai, có thể thấy rõ trong mối quan hệ giữa anh và bà Grazina người Litva. Cả hai tuy không máu mủ ruột rà, nhưng bởi một người không thấy tương lai, một người dường như đã sống quá trọn; một người không có nơi để về, một người không ai cùng mình chia sớt… mà cả hai đã trao cho nhau cảm giác đồng cảm và cái nhìn thấu hiểu.

Với ảnh hưởng của chứng Alzheimer, Ocean Vương cho thấy đôi khi những người hoàn toàn xa lạ thậm chí có thể mang đến cho nhau cuộc sống tốt hơn. Ta thấy điều đó một cách xúc động trong những lúc Grazina nhớ nhớ quên quên, bài học bà trao cho Hải hay khi bà bị con trai kiên quyết đưa đến viện dưỡng lão…

Cuối cùng, đó là gia đình thông qua công việc. Với con người hiện đại, việc dành phần lớn thời gian ở nơi làm việc đã biến Homo Sapiens thành những “động vật lao động” (từ của triết gia Byung-Chul Han – người Ocean Vương cho biết mình có tham khảo). Và cũng không đâu khác ngoài không gian đó, những gì tạo thành một gia đình thực sự: tiếp xúc gần, nhiều thời gian tương tác… đã được xác lập.

Ở Home Market, những con người tàn tạ đã gặp và ủng hộ nhau. Đó là người quản lý BJ cùng ước mơ thượng võ đài, là Sony với mong mỏi gặp cha, là Russia lạnh lùng nhưng ẩn sau đó là tình yêu thương dành cho em gái…

Trong khi người ngoài nhìn họ bằng con mắt khinh miệt như phân cảnh một gia đình trung lưu cư xử tàn tệ, thì Ocean Vương cho thấy từ sự thấu hiểu, đồng cảm với tình cảnh của nhau mà họ đã tụ lại thành khối đồng nhất, nơi không gì an ủi hơn những người hiểu thấu và dành cho nhau tình cảm thân tình.

Có thể nói ở Hoàng đế xứ Gladness, Ocean Vương đã mở rộng “phạm vi” để định nghĩa thế nào là những “cá thể bị gạt ra rìa”, từ lực lượng di cư, nhập cư, cộng đồng LGBTQ+ ở tác phẩm đầu tay đến người già, các đối tượng khuyết thiếu lẫn người lao động ở cuốn sách này.

Hài hước mới mẻ

Và bên cạnh sự mở rộng này, tác phẩm thứ 2 cũng cho thấy những điểm độc đáo trong phong cách sáng tác của Ocean Vương. Theo đó từ u buồn, hoài nhớ, anh đã thêm vào tiếng cười giễu nhại, chua chát, từ đó cho thấy những cảm xúc phẫn nộ và dữ dội hơn bao giờ hết.

Điều này có thể nhìn thấy ở bất cứ đâu, từ những mô tả nơi thị trấn hoang vu, đổ nát cho đến những tiếng cười đầy ẩn ý mà anh gửi gắm xuyên suốt cuốn sách. Tiêu đề Hoàng đế xứ Gladness cũng tương tự thế, khi được truyền cảm hứng từ bài thơ Hoàng đế kem của Wallace Stevens, khi tưởng món ngon được dành cho buổi tiệc vui thì các khổ sau sẽ liền hé lộ nó được tạo ra cho một lễ tang.

Sách do Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn ấn hành, Trần Khánh Nguyên dịch. Ảnh: Minh Anh


Thị trấn Gladness cũng thế, nó tương phản hoàn toàn với nghĩa đen nghĩa là “vui tươi”, “hạnh phúc”, “giàu sang”… Ở phân đoạn các đồng nghiệp của Hải nhận việc đồ tể giết lợn để kiếm thêm tiền, Ocean Vương cũng càng nhấn mạnh thêm điều này. Anh viết có một giống lợn mang tên Hoàng đế và chúng sở dĩ có cái tên đó vì đây là loài được dùng để “tiến vua” do có hương vị và đặc điểm riêng. Thế nhưng cho đến sau rốt, dù sở hữu cái tên đầy vinh quang này thì số phận và định mệnh chung là không thể khác.

Và quy luật ấy cũng gợi nhắc đến chủ đề xuyên suốt cuốn sách: cái chết. Trong tác phẩm, chủ đề nói trên xuất hiện ở khắp mọi nơi, khởi đầu với ý muốn quyên sinh của Hải để rồi khép lại với sự chia xa cùng Grazina.

Nhưng với Ocean Vương, cái chết không đơn thuần là nằm xuống mà còn tiếp nối cho khởi đầu mới, nơi sự dừng lại làm nảy sinh ở ta những mầm mống mới cho chính cuộc sống rồi sẽ tốt đẹp và êm ấm hơn.

Đó là cái chết làm đau đớn Sony nhưng cũng giúp cậu đập tan ảo vọng, có thể thực sống cuộc đời của mình. Đó là sự nằm xuống của Grazina nhưng đổi lại là gia đình khác đã được đoàn tụ. Và rộng hơn cả là người bạn trai Noah, là bà ngoại, là mẹ… đã cho Hải (hay Ocean Vương) một khởi đầu mới, trở thành người viết xuống những nỗi đớn đau, từ đó xoa dịu rất nhiều tâm hồn còn đang rỉ máu.

Minh Anh

Nguồn: Người đô thị, ngày 28.9.2025.

‘Cùng Việt Nam’ - tuyển thơ của các nhà thơ Tây Ban Nha ủng hộ Việt Nam, phản đối Mỹ tham chiến ở Việt Nam, từng bị cấm xuất bản tại Tây Ban Nha vào năm 1969, nay lần đầu tiên đến tay bạn đọc Việt. 

Cùng Việt Nam - Ảnh 1.

Từ phải qua: dịch giả Phạm Thị Kim Dung, nhà thơ Đỗ Anh Vũ, nhà phê bình Phạm Xuân Thạch tại buổi ra mắt tập thơ ở Hà Nội - Ảnh: T.ĐIỂU

Trước đó, tập thơ ra mắt bạn đọc Tây Ban Nha năm 2016 nhờ công phát hiện tập thơ trong hồ sơ lưu trữ của cơ quan kiểm duyệt tại Alcalá de Henares của giáo sư Julio Neira Jiménez (Đại học UNED).

Nay, với sự hỗ trợ của Bộ Văn hóa Tây Ban Nha, Đại sứ quán Tây Ban Nha tại Việt Nam, tập thơ đã được Nhà xuất bản Kim Đồng đưa tới tay bạn đọc Việt Nam đúng dịp kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước.

Cùng Việt Nam - ủng hộ Việt Nam sâu sắc từ bên kia bán cầu

Cùng Việt Nam gồm hơn 40 bài thơ được sáng tác trong những năm 1960, giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đang diễn ra ác liệt nhất, cũng là lúc phong trào phản chiến lan rộng trên toàn cầu.

Tập thơ do nữ sĩ Angelina Gatell biên soạn năm 1968, với sự tham gia của nhiều nhà thơ nổi tiếng như Rafael Alberti, Gabriel Celaya, Gloria Fuertes, José Agustín Goytisolo, Celso Emilio Ferreiro...

20250520

Tuyển tập thơ Cùng Việt Nam - tiếng nói ủng hộ nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ của các nhà thơ Tây Ban Nha - Ảnh: T.ĐIỂU

Cùng Việt Nam là lời ủng hộ Việt Nam sâu sắc, chân thành từ bên kia bán cầu.

 không chỉ là lịch sử mà còn là tiếng vọng nhân đạo vượt thời gian, phản ánh cái nhìn tình cảm của trí thức Tây Ban Nha với Việt Nam.

Những vần thơ ấy không chỉ thể hiện tình yêu dành cho một dân tộc, mà còn là tiếng nói của lương tri, của lương tâm trước nỗi đau chiến tranh.

Với bản in tại Việt Nam, theo Đại sứ Tây Ban Nha tại Việt Nam Carmen Cano De Lasala, do không thể tìm lại các bức tranh và bản khắc ban đầu họa sĩ Julio Álvarez thực hiện, nên trong lần xuất bản bằng tiếng Việt lần này, Cùng Việt Nam đã được 6 họa sĩ Tây Ban Nha và 6 họa sĩ Việt Nam vẽ minh họa mới.

Những bức minh họa được đánh giá là đã thể hiện sự cộng hưởng sâu sắc giữa thi ca và hội họa trong việc truyền tải thông điệp hòa bình, phản chiến và tình đoàn kết nhân loại.

Cùng Việt Nam - Ảnh 3.

Cùng với việc ra mắt tuyển tập thơ, Nhà xuất bản Kim Đồng cũng triển lãm một số bài thơ cùng tranh minh họa tại trụ sở nhà xuất bản - Ảnh: T.ĐIỂU

Sự trở lại quý giá của một tuyển tập từng bị cấm 

Theo giáo sư Julio Neira Jiménez - người tìm thấy bản thảo tập thơ sau gần nửa thế kỷ, năm 1968, sau khi biên soạn xong, nữ sĩ Angelina Gatell đã lần lượt gửi bản thảo tập thơ đến hai nhà xuất bản, nhưng đều bị từ chối.

Một trong số đó, nhà xuất bản Alfaguara trả lời: "Mặc dù đây là một dự án thú vị, và có tiềm năng bán chạy, hiện tại Nhà xuất bản Alfaguara chưa có điều kiện để thực hiện dự án này".

Cuối cùng, tổ chức Ciencia Nueva đã đề nghị phát hành 3.000 bản. Tuy nhiên tập thơ đã bị chính quyền Tây Ban Nha lúc bấy giờ kiểm duyệt vì tư tưởng phản đối Mỹ tham chiến ở Việt Nam.

Mặc dù các báo cáo kiểm duyệt đề nghị cho xuất bản tập thơ nếu có chỉnh sửa, cắt bỏ một số bài, quyết định cuối cùng từ cơ quan cấp bộ vào ngày 28-1-1969 là từ chối xuất bản.

Ngay sau đó chính phủ Tây Ban Nha cũng ra lệnh đóng cửa Nhà xuất bản Ciencia Nueva.

Và phải tới gần 50 năm sau, tập thơ lần đầu được xuất bản tại Tây Ban Nha vào năm 2016, thoát khỏi "bóng tối im lặng của chế độ độc tài cực đoan".

Các bài thơ được giữ nguyên như bản thảo năm 1968, mặc dù sau đó một số bài được tác giả sửa chữa để đưa vào các cuốn khác.

Thiên Điểu

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 27.4.2025

Thông tin truy cập

69421876
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
13589
14816
69421876

Đang có 326 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website