(Hình minh họa, nguồn:  Google)

I

Chúng ta đang hướng tới xây dựng một nền “kinh tế tri thức”; mà muốn thế, phải nhanh chóng tạo nên một “xã hội học tập” - được hiểu như là một sự thay đổi hệ thống học - cổ truyền (học xong rồi làm), để chuyển sang hệ thống học tập mới - suốt đời. Trong hệ thống đó, tri thức có giá trị hàng hoá, và mỗi người phải biết chuyển hoá tri thức thành kỹ năng, thành công nghệ, thành giá trị. Trong hệ thống đó, do học tập, tiếp thụ mà con người có được tri thức chung; và do năng lực vận dụng của bản thân mà chuyển hoá được thành tri thức riêng, của cá nhân.

Trong diễn văn nhậm chức thủ tướng Anh vào tháng 5/1997, ông Tony Blair tuyên bố: “Tôi xin hứa với quốc dân là tôi sẽ thực hiện ba cải cách: giáo dục, giáo dục và giáo dục”. Tuy cách diễn đạt của các nhà lãnh đạo quốc tế khác có thể không gây ấn tượng bằng lời phát biểu của ông Blair, nhưng nói chung trên thế giới ngày nay nước nào cũng đang chú tâm cải cách giáo dục để làm bàn đạp cho những cải cách kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật.

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2010 vào ngày 08.5.2010 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 33 đề tài tham gia hội nghị, gồm 5 đề tài Hán Nôm, 7 đề tài ngôn ngữ, 18 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Sưu tầm, giới thiệu, phiên dịch di sản Hán Nôm ở Quận 9, TP Hồ Chí Minh của tập thể lớp Hán Nôm 2 do sinh viên Lê Thị Cẩm Tú làm chủ nhiệm; Ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng do sinh viên Trần Thị Thúy An thực hiện; Nghệ thuật trang phục Trung Quốc trong Hồng Lâu Mộng do sinh viên Nguyễn Thị Ánh Nguyệt thực hiện; Tìm hiểu vè lịch sử Nam Bộ do sinh viên Lê Thị Minh Tâm thực hiện; Biển trong văn học cổ điển Việt Nam do sinh viên Phùng Thị Hạ Nguyên thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Ngân Giang do sinh viên Võ Quốc Việt làm chủ nhiệm.

Nguyễn Tiến Lực (*)

Mở đầu

 

Vào giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây ồ ạt xâm nhập vào phương Đông. Các nước phương Đông đều đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: hoặc bị xâm chiếm, biến thành các nước thuộc địa, hoặc từng bước trở thành các nước phụ thuộc, hoặc phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây. Trong tình hình đó, ở các nước phương Đông đều đã xuất hiện các nhà cải cách chủ trương học tập chính nền văn minh phương Tây, canh tân đất nước một cách toàn diện và sâu rộng, tiến bước kịp các nước phương Tây. Fukuzawa Yukichi của Nhật Bản và Nguyễn Trường Tộ của Việt Nam là những nhà tư tưởng như vậy. Fukuzawa Yukichi được đánh giá là nhà khai sáng lớn nhất của Nhật Bản vào nửa sau thế kỷ XIX, là “Voltaire của Nhật Bản”, là “Rousseau của phương Đông”. Những tư tưởng của ông đã khai sáng cho nhân dân Nhật Bản, đưa Nhật Bản tiến lên vũ đài văn minh nhân loại. Còn Nguyễn Trường Tộ được đánh giá là nhà tư tưởng cải cách lớn nhất giữa thế kỷ XIX của Việt Nam. Khi nghiên cứu đến hai nhà tư tưởng này, chúng tôi thấy họ có nhiều điểm giống nhau đến kỳ lạ, đặc biệt là chủ trương học tập nền giáo dục phương Tây, cận đại hóa nền giáo dục ở .mỗi nước.

 
 
 

          Ngày 28 tháng 11 năm 2009, tại VP Khoa Văn học và Ngôn ngữ,  đề tài  Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX do PGS.TS. Đoàn Lê Giang làm chủ nhiệm đã được nghiệm thu. Hội đồng nghiệm thu do GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh làm chủ tịch đã đánh giá đề tài đạt mức độ “Tốt” (mức cao nhất).

Oxford là đại học nói tiếng Anh lâu đời nhất trên thế giới. Trường đại học này không chỉ tự hào về bề dày truyền thống và quy mô quan hệ quốc tế rộng rãi mà còn nổi tiếng với hệ thống tự học, tự giáo dục. Qua việc giới thiệu sơ lược chương trình đào tạo cử nhân của Khoa Ngữ văn Anh (English Languague and Literature) sau đây, chúng ta sẽ phần nào thấy được cách tổ chức tự học, tự giáo dục rất đáng lưu ý của Oxford.
 

Khoa Nghệ thuật học (Faculty of Arts) của trường đại học Chulalongkorn được chính thức thành lập vào năm 1955 nhưng tiền thân của Khoa này là Khoa Nghệ thuật học và Khoa học (Faculty of Arts and Sience) đã xuất hiện từ năm 1916. Hiện nay, Khoa Nghệ thuật học có 11 bộ môn: Tiếng Thái, Tiếng Anh, Lịch sử, Địa lý, Khoa học thư viện, Triết học, Kịch nghệ, Ngôn ngữ phương Đông, Ngôn ngữ phương Tây, Ngôn ngữ học và Văn học so sánh. Khoa có các ngành học như sau:

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở NGA

Hệ thống giáo dục đại học của Nga khởi đầu bằng việc thành lập hai trường đại học ở Moskva và Petersburg vào giữa thế kỷ XVIII. Cuộc tranh cãi xem trường nào trong hai trường là cổ nhất của nước Nga đến nay vẫn còn chưa ngã ngũ. Trường ĐHTH Moskva (MGU) được thành lập vào ngày 25 tháng 1 (12 tháng 1 theo lịch cũ của Nga) năm 1755. Hiện nay, ngày 25 tháng 1 là Ngày Sinh viên ở Nga. Trường  ĐHTH St.Petersburg (SPbGU) được xem là thành lập vào năm 1819, nhưng có ý kiến (và hiện nay là quan điểm chính thức của Trường SPbGU) cho rằng trường này là hậu thân của Đại học Hàn lâm Petersburg, được thành lập khi sát nhập Học viện St.Petersburg và Viện Hàn lâm Petersburg theo sắc lệnh của Hòang đế Piotr I năm 1724.

Bộ Giáo dục – Đào tạo vừa có quyết định trao giải nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2007-2008. Năm nay sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đạt được 20 giải nghiên cứu khoa học cấp Bộ (gồm 1 giải nhất, 3 giải nhì, 6 giải ba, 10 giải khuyến khích).

Giáo sư Lê Đình Kỵ suốt đời gắn bó với sự nghiệp dạy học, đó là cái duyên và cũng là cái nghiệp như thầy từng tâm sự. Cách mạng Tháng Tám thành công, anh chủ tịch xã “trí thức” đã đi dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ và bắt đầu thích nghề giáo vì đây là nhiệm vụ cách mạng, vì thấy những kiến thức của mình đã mang lại ích lợi thiết thực cho người dân.

Trong tiểu thuyết thứ 2 mang tên ‘Hoàng đế xứ Gladness’, Ocean Vương không chỉ mang đến sự u hoài quen thuộc mà còn gửi gắm những nét mới lạ trong hành trình sáng tạo của bản thân.

Với thành công vang dội của Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gianHoàng đế xứ Gladness là tiểu thuyết rất được chờ đón ngay từ khi rò rỉ những thông tin đầu tiên. Ở cuốn sách này, tác giả tiếp tục mang đến nhiều điểm độc đáo đã từng làm nên dấu ấn cho mình: ngôn ngữ nên thơ, cảm giác u hoài, cảm nhận tinh tế cũng như chất liệu từ chính những gì mình đã trải qua.

Cuốn sách tiếp tục theo chân nhân vật Hải cùng hành trình trưởng thành của anh. Nếu tác phẩm đầu tay khép lại khi anh phải chịu mất mát quá lớn là người bạn trai Noah qua đời do sốc thuốc, thì tác phẩm này tiếp nối điều đó, khởi đầu bằng cảnh Hải thấy bản thân không còn động lực tiếp tục cuộc sống.

20251006

Trong toạ đàm Hoàng đế xứ u buồn diễn ra sáng 27.9, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhận định cái chết được Ocean Vương khai thác rất ấn tượng. Ảnh: Mai Hiếu


Theo đó sự mất mát người thương đã để lại trong anh những cảm xúc phức tạp. Một mặt anh thấy đau khổ vì cuộc tình mới chớm thì đã đứt đoạn, một mặt anh muốn vượt qua để tiếp tục sống. Tuy vậy để làm được điều này, anh buộc phải đi cai nghiện, làm lại từ đầu.

Vì muốn mẹ không thất vọng, Hải đã nói dối mình đậu trường y, đến New York học nhưng thật ra trong lúc đó bản thân đã phải chật vật với nỗi thèm thuốc. Sau khi trở lại, anh thấy không thể đối mặt với mẹ - người đã kỳ vọng, tin tưởng vào anh - từ đó nhận thấy bản thân không còn động lực tiếp tục tồn tại.

Vào một buổi tối mùa đông lạnh giá, anh quyết định khép lại cuộc đời bằng cách nhảy khỏi cây cầu ở thị trấn Gladness. Tuy vậy khi chưa làm được thì một cụ bà người Litva cùng những nhân viên ở cửa hàng thức ăn nhanh Home Market - những người thiếu thốn, đau đớn tương tự - đã níu anh lại, từ đó tiếp cho anh thêm sức sống và xoay đời anh theo một hướng khác.

Những số phận bị gạt ra rìa

Chia sẻ với tờ The Guardian khi cuốn sách ra mắt, Ocean Vương tiết lộ bản thân nhận thấy có ba loại gia đình trong thế giới này: “Đó là ‘gia đình hạt nhân’ như người ta thường gọi là tế bào của xã hội Mỹ. Có gia đình nơi những người bị gạt ra lề xã hội cảm thấy tình bạn, tình thân ở nhau. Và cái cuối cùng, tuy ít được nhắc đến nhất nhưng lại hiển hiện nhiều nhất, là các đồng nghiệp, hay “gia đình xoay quanh công việc”.

Và không đâu khác ngoài cuốn sách này, ta có thể cảm nhận một cách trọn vẹn những điều nói trên. Đầu tiên, Hoàng đế xứ Gladness tiếp tục cho thấy cuộc sống của một gia đình “ngoại lai” - những người đến từ một đất nước xa lạ, liên tục vượt qua định kiến, khó khăn để có đời sống ổn định.

Nhưng nếu Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian cho thấy những tình cảm êm ấm, thấu hiểu, thì Hoàng đế xứ Gladness lại đào sâu hơn vào mối quan hệ này, cho thấy cả những khía cạnh không mấy “êm dịu”.

Cụ thể, tuy không nói ra, nhưng độc giả có thể cảm nhận chính kỳ vọng của mẹ Hải – người chia sẻ bản thân vô cùng tự hào khi một gia đình nhập cư giờ có người con sắp thành bác sĩ – đã giam hãm anh, khiến anh không thấy lối ra cho cuộc đời mình. Nếu người mẹ ấy thấu hiểu hơn, nhẹ nhàng hơn thì có lẽ Hải của cuốn sách này đã chọn xoay theo một hướng rất khác.

Ocean Vương cho thấy những khám phá mới trong cuốn sách này. Ảnh: The Guardian


“Giấc mơ Mỹ” tan vỡ cũng được anh tái hiện thông qua nhân vật dì Kim – người phụ nữ mơ ước một tương lai mới nhưng chờ đợi dì là những chuyện buồn nối tiếp bi kịch. Ocean Vương cho thấy sự sắc bén cùng nỗi đau liên thế hệ khi không khai thác trực diện mà thông qua Sony, cậu em họ và là con trai dì Kim chịu nhiều tổn thương, người đã đưa anh đến Home Market.

Với hình thức thứ hai, có thể thấy rõ trong mối quan hệ giữa anh và bà Grazina người Litva. Cả hai tuy không máu mủ ruột rà, nhưng bởi một người không thấy tương lai, một người dường như đã sống quá trọn; một người không có nơi để về, một người không ai cùng mình chia sớt… mà cả hai đã trao cho nhau cảm giác đồng cảm và cái nhìn thấu hiểu.

Với ảnh hưởng của chứng Alzheimer, Ocean Vương cho thấy đôi khi những người hoàn toàn xa lạ thậm chí có thể mang đến cho nhau cuộc sống tốt hơn. Ta thấy điều đó một cách xúc động trong những lúc Grazina nhớ nhớ quên quên, bài học bà trao cho Hải hay khi bà bị con trai kiên quyết đưa đến viện dưỡng lão…

Cuối cùng, đó là gia đình thông qua công việc. Với con người hiện đại, việc dành phần lớn thời gian ở nơi làm việc đã biến Homo Sapiens thành những “động vật lao động” (từ của triết gia Byung-Chul Han – người Ocean Vương cho biết mình có tham khảo). Và cũng không đâu khác ngoài không gian đó, những gì tạo thành một gia đình thực sự: tiếp xúc gần, nhiều thời gian tương tác… đã được xác lập.

Ở Home Market, những con người tàn tạ đã gặp và ủng hộ nhau. Đó là người quản lý BJ cùng ước mơ thượng võ đài, là Sony với mong mỏi gặp cha, là Russia lạnh lùng nhưng ẩn sau đó là tình yêu thương dành cho em gái…

Trong khi người ngoài nhìn họ bằng con mắt khinh miệt như phân cảnh một gia đình trung lưu cư xử tàn tệ, thì Ocean Vương cho thấy từ sự thấu hiểu, đồng cảm với tình cảnh của nhau mà họ đã tụ lại thành khối đồng nhất, nơi không gì an ủi hơn những người hiểu thấu và dành cho nhau tình cảm thân tình.

Có thể nói ở Hoàng đế xứ Gladness, Ocean Vương đã mở rộng “phạm vi” để định nghĩa thế nào là những “cá thể bị gạt ra rìa”, từ lực lượng di cư, nhập cư, cộng đồng LGBTQ+ ở tác phẩm đầu tay đến người già, các đối tượng khuyết thiếu lẫn người lao động ở cuốn sách này.

Hài hước mới mẻ

Và bên cạnh sự mở rộng này, tác phẩm thứ 2 cũng cho thấy những điểm độc đáo trong phong cách sáng tác của Ocean Vương. Theo đó từ u buồn, hoài nhớ, anh đã thêm vào tiếng cười giễu nhại, chua chát, từ đó cho thấy những cảm xúc phẫn nộ và dữ dội hơn bao giờ hết.

Điều này có thể nhìn thấy ở bất cứ đâu, từ những mô tả nơi thị trấn hoang vu, đổ nát cho đến những tiếng cười đầy ẩn ý mà anh gửi gắm xuyên suốt cuốn sách. Tiêu đề Hoàng đế xứ Gladness cũng tương tự thế, khi được truyền cảm hứng từ bài thơ Hoàng đế kem của Wallace Stevens, khi tưởng món ngon được dành cho buổi tiệc vui thì các khổ sau sẽ liền hé lộ nó được tạo ra cho một lễ tang.

Sách do Nhã Nam và NXB Hội Nhà Văn ấn hành, Trần Khánh Nguyên dịch. Ảnh: Minh Anh


Thị trấn Gladness cũng thế, nó tương phản hoàn toàn với nghĩa đen nghĩa là “vui tươi”, “hạnh phúc”, “giàu sang”… Ở phân đoạn các đồng nghiệp của Hải nhận việc đồ tể giết lợn để kiếm thêm tiền, Ocean Vương cũng càng nhấn mạnh thêm điều này. Anh viết có một giống lợn mang tên Hoàng đế và chúng sở dĩ có cái tên đó vì đây là loài được dùng để “tiến vua” do có hương vị và đặc điểm riêng. Thế nhưng cho đến sau rốt, dù sở hữu cái tên đầy vinh quang này thì số phận và định mệnh chung là không thể khác.

Và quy luật ấy cũng gợi nhắc đến chủ đề xuyên suốt cuốn sách: cái chết. Trong tác phẩm, chủ đề nói trên xuất hiện ở khắp mọi nơi, khởi đầu với ý muốn quyên sinh của Hải để rồi khép lại với sự chia xa cùng Grazina.

Nhưng với Ocean Vương, cái chết không đơn thuần là nằm xuống mà còn tiếp nối cho khởi đầu mới, nơi sự dừng lại làm nảy sinh ở ta những mầm mống mới cho chính cuộc sống rồi sẽ tốt đẹp và êm ấm hơn.

Đó là cái chết làm đau đớn Sony nhưng cũng giúp cậu đập tan ảo vọng, có thể thực sống cuộc đời của mình. Đó là sự nằm xuống của Grazina nhưng đổi lại là gia đình khác đã được đoàn tụ. Và rộng hơn cả là người bạn trai Noah, là bà ngoại, là mẹ… đã cho Hải (hay Ocean Vương) một khởi đầu mới, trở thành người viết xuống những nỗi đớn đau, từ đó xoa dịu rất nhiều tâm hồn còn đang rỉ máu.

Minh Anh

Nguồn: Người đô thị, ngày 28.9.2025.

‘Cùng Việt Nam’ - tuyển thơ của các nhà thơ Tây Ban Nha ủng hộ Việt Nam, phản đối Mỹ tham chiến ở Việt Nam, từng bị cấm xuất bản tại Tây Ban Nha vào năm 1969, nay lần đầu tiên đến tay bạn đọc Việt. 

Cùng Việt Nam - Ảnh 1.

Từ phải qua: dịch giả Phạm Thị Kim Dung, nhà thơ Đỗ Anh Vũ, nhà phê bình Phạm Xuân Thạch tại buổi ra mắt tập thơ ở Hà Nội - Ảnh: T.ĐIỂU

Trước đó, tập thơ ra mắt bạn đọc Tây Ban Nha năm 2016 nhờ công phát hiện tập thơ trong hồ sơ lưu trữ của cơ quan kiểm duyệt tại Alcalá de Henares của giáo sư Julio Neira Jiménez (Đại học UNED).

Nay, với sự hỗ trợ của Bộ Văn hóa Tây Ban Nha, Đại sứ quán Tây Ban Nha tại Việt Nam, tập thơ đã được Nhà xuất bản Kim Đồng đưa tới tay bạn đọc Việt Nam đúng dịp kỷ niệm 50 năm thống nhất đất nước.

Cùng Việt Nam - ủng hộ Việt Nam sâu sắc từ bên kia bán cầu

Cùng Việt Nam gồm hơn 40 bài thơ được sáng tác trong những năm 1960, giai đoạn kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam đang diễn ra ác liệt nhất, cũng là lúc phong trào phản chiến lan rộng trên toàn cầu.

Tập thơ do nữ sĩ Angelina Gatell biên soạn năm 1968, với sự tham gia của nhiều nhà thơ nổi tiếng như Rafael Alberti, Gabriel Celaya, Gloria Fuertes, José Agustín Goytisolo, Celso Emilio Ferreiro...

20250520

Tuyển tập thơ Cùng Việt Nam - tiếng nói ủng hộ nhân dân Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ của các nhà thơ Tây Ban Nha - Ảnh: T.ĐIỂU

Cùng Việt Nam là lời ủng hộ Việt Nam sâu sắc, chân thành từ bên kia bán cầu.

 không chỉ là lịch sử mà còn là tiếng vọng nhân đạo vượt thời gian, phản ánh cái nhìn tình cảm của trí thức Tây Ban Nha với Việt Nam.

Những vần thơ ấy không chỉ thể hiện tình yêu dành cho một dân tộc, mà còn là tiếng nói của lương tri, của lương tâm trước nỗi đau chiến tranh.

Với bản in tại Việt Nam, theo Đại sứ Tây Ban Nha tại Việt Nam Carmen Cano De Lasala, do không thể tìm lại các bức tranh và bản khắc ban đầu họa sĩ Julio Álvarez thực hiện, nên trong lần xuất bản bằng tiếng Việt lần này, Cùng Việt Nam đã được 6 họa sĩ Tây Ban Nha và 6 họa sĩ Việt Nam vẽ minh họa mới.

Những bức minh họa được đánh giá là đã thể hiện sự cộng hưởng sâu sắc giữa thi ca và hội họa trong việc truyền tải thông điệp hòa bình, phản chiến và tình đoàn kết nhân loại.

Cùng Việt Nam - Ảnh 3.

Cùng với việc ra mắt tuyển tập thơ, Nhà xuất bản Kim Đồng cũng triển lãm một số bài thơ cùng tranh minh họa tại trụ sở nhà xuất bản - Ảnh: T.ĐIỂU

Sự trở lại quý giá của một tuyển tập từng bị cấm 

Theo giáo sư Julio Neira Jiménez - người tìm thấy bản thảo tập thơ sau gần nửa thế kỷ, năm 1968, sau khi biên soạn xong, nữ sĩ Angelina Gatell đã lần lượt gửi bản thảo tập thơ đến hai nhà xuất bản, nhưng đều bị từ chối.

Một trong số đó, nhà xuất bản Alfaguara trả lời: "Mặc dù đây là một dự án thú vị, và có tiềm năng bán chạy, hiện tại Nhà xuất bản Alfaguara chưa có điều kiện để thực hiện dự án này".

Cuối cùng, tổ chức Ciencia Nueva đã đề nghị phát hành 3.000 bản. Tuy nhiên tập thơ đã bị chính quyền Tây Ban Nha lúc bấy giờ kiểm duyệt vì tư tưởng phản đối Mỹ tham chiến ở Việt Nam.

Mặc dù các báo cáo kiểm duyệt đề nghị cho xuất bản tập thơ nếu có chỉnh sửa, cắt bỏ một số bài, quyết định cuối cùng từ cơ quan cấp bộ vào ngày 28-1-1969 là từ chối xuất bản.

Ngay sau đó chính phủ Tây Ban Nha cũng ra lệnh đóng cửa Nhà xuất bản Ciencia Nueva.

Và phải tới gần 50 năm sau, tập thơ lần đầu được xuất bản tại Tây Ban Nha vào năm 2016, thoát khỏi "bóng tối im lặng của chế độ độc tài cực đoan".

Các bài thơ được giữ nguyên như bản thảo năm 1968, mặc dù sau đó một số bài được tác giả sửa chữa để đưa vào các cuốn khác.

Thiên Điểu

Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 27.4.2025

20250213

Longings, tập truyện ngắn của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại, bản dịch tiếng Anh của Hà Mạnh Quân và Võ Hương Quỳnh, NXB Texas Tech University Press, USA, 2024, gồm 22 truyện ngắn của Dạ Ngân, An Thư, Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư, Tống Ngọc Hân, Nguyễn Thị Châu Giang, Trịnh Bích Ngân, Kiều Bích Hậu, Trầm Hương, Trần Thanh Hà, Nguyễn Hương Duyên, Niê Thanh Mai, Trần Thị Thắng, Phạm Thị Phong Điệp, Võ Diệu Thanh, Phạm Thị Ngọc Liên, Trịnh Thị Phương Trà, Nguyễn Phan Quế Mai, Nguyễn Thị Kim Hòa, Võ Thị Xuân Hà, Đỗ Bích Thúy, Tịnh Bảo.

 

           Khi tuyển tập truyện ngắn Khát vọng (Longings) của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại ra mắt độc giả tiếng Anh qua bản dịch của Hà Mạnh Quân và Võ Hương Quỳnh, cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi xa gần 50 năm. Trong gần nửa thế kỷ đó, người phụ nữ Việt Nam không còn đối mặt với hoàn cảnh ở ranh giới sống - chết, nhưng lại đứng trước những thử thách khắc nghiệt dưới thời chuyển đổi thể chế chính trị - kinh tế với những xáo trộn về mặt xã hội và văn hóa.

1.

Nối tiếp tập truyện ngắn Những vầng trăng khác (Other Moons) do Hà Mạnh Quân và Joseph Babcock thực hiện, cuốn sách mới này giới thiệu 22 tác giả nữ, hầu hết cầm bút sau 1975 và không có nhiều trải nghiệm về chiến tranh. Dạ Ngân, nhà văn thành công ở thể truyện ngắn, là người từng trực tiếp tham gia kháng chiến ở miền Nam, cảm nhận và thể hiện chất phi thường của người nữ đi qua chiến tranh không phải trên chiến hào mà trên chiếc giường lẽ ra là nơi chứng kiến hạnh phúc vợ chồng. Mảnh bom ác nghiệt khiến người chồng mất khả năng làm tròn chức phận đàn ông. Trở về với đời thường, người vợ trông nhờ vào những chiếc gối trắng, trợ lực cho cuộc chiến đấu để bảo vệ đức hạnh của bản thân. Chị ôm những chiếc gối như ôm nỗi cô đơn đêm đêm vò xé lòng mình. Nỗi bất hạnh ở đây là hậu quả của chiến tranh mà cũng là hậu quả của một quan niệm cũ kỹ về đức hạnh. Lời người kể chuyện: “Cảm ơn những chiếc gối đã giúp người bạn vong niên của tôi trở thành phi thường”. Thì ra, tính phi thường vẫn là nỗi ám ảnh và cám dỗ khi người ta trở về cuộc sống bình thường. “Lũ gối” ấy làm từ bông của những trái gòn - một loài cây thổ cư mọc nhiều ở miền Nam -  như những cánh dơi lủng lẳng treo mình trong gió, chứng kiến một cảnh đời âm thầm, “tối sầm như một bức tranh bị ố”. (Nỗi niềm gối trắng).

Cũng như câu chuyện của Dạ Ngân, những truyện ngắn ít nhiều liên quan đến chiến tranh trong tập này không có hình ảnh tiếng súng tiếng bom, đầu rơi máu chảy nhưng vẫn âm ỉ một nỗi đau trần thế. Đỉnh khói của Nguyễn Thị Kim Hòa gợi nhớ đến nhiều thiên truyện ở Sài Gòn trước 1975 với khung cảnh bãi rác phi trường, quán bar phục vụ lính viễn chinh và những chung chạ nam nữ gây cảm giác buồn nôn. Mối tình tay ba của Diễm Thúy với Bình và Philip không phản ánh xung đột chính trị trên mảnh đất này mà phản ánh mối giằng xé của tình yêu và ân nghĩa. Di chứng của chiến tranh còn ác nghiệt hơn trong Mẹ con và trần thế của Phạm Thị Phong Điệp. Chồng bị nhiễm chất độc hóa học, người đàn bà “vô hậu” chịu đựng đứa con nuôi “trời đánh ngỗ ngược” trong bối cảnh xóm Dứa lây lất sống giữa thiên tai vây bủa kiếp người.

Sự hòa giải giữa con người và chiến tranh được tìm thấy trong hai truyện ngắn Miền cỏ hoang của Trần Thanh Hà và Nhậu với Khmer đỏ của Võ Diệu Thanh. Lấy bối cảnh một làng quê ven núi ở miền Trung, Miền cỏ hoang dẫn dắt tiếng sáo dặt dìu, nôn nao của người lính trở về sau chiến tranh, khi người mình yêu đã trở thành vợ kẻ khác, đã tìm thấy mảnh ghép cuộc đời với một người đàn bà dang dở. Giữa bạt ngàn cỏ hoang, một làn khói bếp mỏng bay lên nóc nhà cũng có sức an ủi con người vượt qua nghịch cảnh mà đến với hạnh phúc. Lấy chất liệu từ cuộc chiến ở biên giới Tây Nam năm 1978, một cuộc chiến tàn bạo mà có lẽ ít độc giả nước ngoài thấu hiểu, Nhậu với Khmer đỏ hóa giải lòng hận thù của một người đàn bà Nam Bộ “cứng rắn như sắt thép” đối với người lính Cambodia đã buông súng.

2.

Khi chiến tranh không còn là nỗi ám ảnh dai dẳng, người dân Việt Nam lại chịu đựng sự nghèo đói và bất hạnh triền miên. Người ta có thể đổ lỗi cho hậu quả chiến tranh, cho thiên nhiên khắc nghiệt, cho sự thiếu kinh nghiệm quản lý xã hội. Nữ giới cũng như nam giới đều phải quang gánh trên vai gánh nặng nhọc nhằn này của đất nước.

Trước 1975, trong khi Dạ Ngân vào chiến khu ở Nam Bộ, thì Trần Thị Thắng từ miền Bắc vào chiến trường theo đường Trường Sơn. Nhưng truyện ngắn Đằng sau cơn bão của bà viết về một câu chuyện đầy tính thời sự trong thời bình. Mỗi năm dải dất hình chữ S này phải hứng chịu hơn chục cơn bão lũ. Mỗi cơn bão lũ cuốn trôi bao nhiêu mạng người cùng tàu thuyền, nhà cửa. Có thể gặp trong thành phố hàng ngàn người đàn bà như nhân vật trong truyện ngắn này, chỉ sau một cơn bão đã mất hết tài sản, phải xa chồng xa con, trôi dạt lên thành phố làm “Ôsin” nuôi người bệnh để tích cóp mà không biết bao giờ mới trả hết nợ cho gia đình. “Đôi lúc muốn hỏi trời mà trời không nói” – nhân vật cảm thán về số phận mình.

Tai họa và cạm bẫy chờ sẵn những người phụ nữ yếu đuối và nông nổi. Thời xưa, Thúy Kiều (Đoạn trường tân thanh, Nguyễn Du) bán mình chuộc cha, chị Dậu (Tắt đèn, Ngô Tất Tố) kháng cự lính lệ bắt chồng; thời nay cũng có những người phụ nữ chống lại bạo lực phải vào tù, sa vào con đường bán thân để cứu gia đình hay trở thành món hàng trong tay bọn buôn người. Dưới ngòi bút của Tịnh Bảo, trong một giây phút bị khích động, người con gái nhút nhát đã phạm tội giết người để cứu cha mẹ. Trả giá bằng bảy năm tù tội, ngày ra tù chị còn có người đàn ông chờ đợi “dưới bóng cây gạo nở hoa”, như một đền bù của số phận. Nếu Biên ải của Võ Thị Xuân Hà tái hiện nạn buôn người nhức nhối nơi biên giới Việt - Trung, lóe lên ánh sáng của lòng nhân nơi kẻ gây tội lỗi, hé mở ngày trở về của người bị nạn ở cuối truyện; thì Trái xanh của Trần Thùy Mai kết thúc đau đớn bất ngờ khi hai chị em Mận Chín, Mận Xanh đều không cưỡng lại được cám dỗ vào con đường hư thân. Ngòi bút nhân ái của Trần Thùy Mai đã bị niềm tuyệt vọng khuất phục, khi làng Cổ Kỳ không che giấu nỗi sĩ diện qua số phận của những đứa con gái sa ngã.

3.

So với cuộc chiến đấu kiếm sống bên ngoài, cuộc chiến đấu nhọc nhằn và dằng dai nhất đối với người phụ nữ là cuộc chiến trong từng gia đình. Những tàn tích của chế độ phong kiến phương Đông còn để lại trong lòng xã hội Việt Nam ở quyền lực của người đàn ông - gia trưởng. Trên thực tế, đời sống khó khăn cũng tạo áp lực đè nặng trên vai nam giới và họ trút những bi phẫn vì thất bại, yếm thế trong chén rượu, lời chửi bới và cả đòn roi trên thân người phối ngẫu. Những người con gái Việt Nam đi lấy chồng Hàn Quốc, Đài Loan không chỉ để tìm cách cứu gia đình trong cơn khủng hoảng kinh tế, mà còn tìm đường trốn chạy sự bạo hành của những người chồng vũ phu suốt ngày vùi đầu trên chiếu nhậu. Tinh thần nam quyền đó không chỉ thể hiện qua những động thái và ứng xử bên ngoài mà còn thấm sâu vào quan niệm sống, qua sự giằng co giữa bổn phận do đạo lý truyền thống quy định và quyền được tự do, bình đẳng của người phụ nữ.

Cùng tái hiện chủ đề ngoại tình, nhưng hai truyện ngắn Bến đợi nhọc nhằnBên trong lại xây dựng hai tình huống trái nghịch nhau. Ở truyện ngắn trước, Nguyễn Hương Duyên kể chuyện một người vợ phản bội chồng, khi chồng bỏ đi, sống với đứa con gái chung khỏe mạnh và đứa con trai riêng tật nguyền. Khi người chồng trở về, tha thứ, bao dung, thì đứa con gái lầm lỡ và đổ vỡ trong tình yêu, như một trò trêu ngươi của số phận. Ở truyện ngắn sau, Phạm Thị Ngọc Liên kể chuyện một người chồng, đã có hai con, sống chung với người đàn bà khác. Do ghen tuông mù quáng, người vợ gây ra án mạng cho tình địch. Đứa con trai chứng kiến cảnh đó bị chấn thương, đổ bệnh tâm thần, người mẹ vô chùa lánh đời bỏ người chồng bơ vơ ở lại. Nhìn dáng cha đứng hẩm hiu trong bóng chiều sắp tắt, người con gái có ý nghĩ: “Chưa bao giờ tôi thấy làm người khổ như vậy”. Có lẽ cả hai tác giả nữ đều muốn thuyết minh cho hiệu ứng của luật nhân quả, và cảm nhận qua giọng văn cũng như ý tứ, hình như cả hai đều tỏ ra xót thương và cám cảnh cho phía người đàn ông.

Là một trong ba truyện ngắn trong tập này viết về các tộc người thiểu số, Mưa ướt áo ai của Tống Ngọc Hân kể câu chuyện về phong tục người Dao đón con gái và cháu ngoại mới sinh về nhà phải đi qua cửa ngách thay vì cửa chính. Sự hiện diện của sinh linh nhỏ bé làm xáo trộn đời sống một gia đình khiến người sản phụ nông nổi phạm một sai lầm không thể tha thứ. May mắn mỉm cười với họ: vị hôn phu của người con gái thứ hai là y sĩ đã kịp thời sửa chữa sai lầm ấy, lại còn đồng ý ở rể cho vừa lòng gia đình họ Phàn không có con trai. Mối duyên do sắp đặt chưa mấy nồng đậm, dưới làn mưa nhẹ miền núi, đã tìm thấy hơi ấm của tình cảm gia đình.

4.

Sự chung thủy, lắm khi biến thành sự chịu đựng và phục tùng, đã trở thành phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam được phong hóa và văn chương ca ngợi, xuất phát từ một quan niệm của Khổng giáo: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” (Ở nhà thì phục tùng cha, lấy chồng thì phục tùng chồng, chồng chết thì phục tùng con). Phản kháng, nổi loạn chưa bao giờ được khuyến khích công khai ở nông thôn Việt Nam. Không phải vô cớ mà Nguyễn Ngọc Tư đã phàn nàn khi đọc những truyện ngắn tham dự cuộc thi viết về chủ đề “Một nửa làm đầy thế giới” do Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh tổ chức năm 2019 với sự tài trợ của Giải thưởng LiBeratupreis-Frankfurt:

 “… phần lớn nhân vật phụ nữ trong cuốn sách này đều cam chịu, nhẫn nhịn và yếu đuối. […] Họ ngây thơ trước những toan tính, tha thứ trước tội lỗi, và luôn chọn cách hy sinh bản thân mình mỗi khi xảy ra biến cố gia đình. […] Lòng trắc ẩn, sự cảm thương trong người viết đã cúi xuống những người đàn bà hiền lành thiệt thòi, mà quên còn những phụ nữ can đảm chống trả bất công và biết yêu chính mình ngoài yêu thương người khác.

Viết về sự hy sinh, tảo tần, và tình yêu thương vô bờ bến của người phụ nữ như con dao hai lưỡi, chúng ta không biết mình ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ hay đang trói buộc họ vào những bức tường, chiếc cọc vô hình. Và có dát vàng vào tường vách  và cọc sắt, thì bị giam giữa chúng cũng không thể gọi là tự do.”[i]

Nhưng ngạn ngữ Việt Nam cũng có câu: “Con giun xéo mãi cũng quằn.” Tinh thần nữ quyền cựa quậy trong văn chương Việt Nam từ những năm 30 thế kỷ trước, trong tác phẩm của nữ giới (Nguyễn Thị Kiêm/ Nguyễn Thị Manh Manh, Huỳnh Thị Bảo Hòa, Phan Thị Bạch Vân, Đạm Phương Nữ Sử, Sương Nguyệt Anh) cũng như nam giới (Nhất Linh, Nguyễn An Ninh, Phan Khôi, Đặng Văn Bảy) vẫn hiện hữu, lúc đậm lúc nhạt trong tiến trình văn học hiện đại.  Đến những năm cuối thế kỷ 20 - đầu thế kỷ 21 những nhân vật nữ tự chủ, tự tin và có phẩn nổi loạn nữa, bắt đầu gây sức hấp dẫn trong văn học với tác phẩm của các nhà văn thế hệ mới.

Tập truyện này tiếp tục đóng góp vào phòng triển lãm những nhân vật nữ không cam chịu, từ thái độ e dè cho đến những phản ứng quyết liệt. Những người nữ trong Trăng muộn của Nguyễn Thị Châu Giang vừa tìm cách vượt qua khuôn khổ gia đình và sự kiềm tỏa xã hội, vừa tìm cách hòa giải với hoàn cảnh vì không muốn “đau đớn, dằn vặt nhau thêm nữa mà làm gì.” Nằm trong chùm truyện hương xa của Đỗ Bích Thúy, Tiếng đàn môi trên bờ rào đá trang trải nỗi lòng của ba người phụ nữ: mẹ Già, mẹ Hoa và May - đứa con của mẹ Hoa với người chồng chung mà mẹ Già nuôi dưỡng. Mẹ Già sống trong đời thực bạc bẽo với tâm trạng “làm dâu mà không làm mẹ thì chỉ là cái cục đá kê chân cột nhà chồng thôi.” Tiếng đàn môi là biểu tượng của giấc mơ và nỗi khát khao ẩn kín lâu nay trong lòng mẹ Già, như tiếng sáo thiết tha quyến rũ cô Mỵ trong truyện Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài ngày trước. Nỗi khát khao của người đàn bà nhẫn nhục sống bên lề cuộc đời được đánh thức bởi tiếng đàn môi sau cuộc rượu với người tình cũ trong ngày hội chợ truyền thống.

Trong bối cảnh giao lưu và hội nhập với thế giới, các nhà văn nữ có điều kiện tiếp xúc và trải nghiệm để giới thiệu mẫu người nữ bản lĩnh, khỏe mạnh của thời nay. Đó là Lan trong Chồi non của Nguyễn Phan Quế Mai: nhân vật này bước ra cọ xát, giao tiếp với thế giới xa lạ, từng “ướt sũng tận xương tủy cái lạnh của sự tha hương”, “biết cách lùi xa khỏi những người đàn ông khiến tim cô loạn nhịp”, nhờ ý thức được giá trị của hạnh phúc gia đình và của chính bản thân, đã đứng vững trước cơn say nắng nhất thời để không vượt qua ranh giới của sự phản bội và có cơ hội vun xới lại mảnh vườn hôn nhân.

Trong chủ đề về người phụ nữ mới, hiện đại, nhiều chi tiết thú vị chờ đợi độc giả trong Chọn chồng, một truyện ngắn mang mùi vị nhục cảm của Kiều Bích Hậu. Từng chịu đựng một cuộc hôn nhân ép buộc gây chấn thương tâm lý, Ân từ bỏ người chồng như con thú đói ở Núi Xẻ, dấn bước đi xa ra thế giới để vượt thoát số phận “thân gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu” như “đại tự sự” của tập tục cổ truyền khái quát. Cô không để người khác áp đặt người đàn ông cho mình theo cách nghĩ “thiếu người đàn ông là thiếu vắng hệ trọng nhất của người đàn bà”. Cô phải chọn lấy người đàn ông theo quan niệm của mình về tình yêu và tính dục, hơn thế “chính cô phải tạo ra người đàn ông của chính mình”, một “đối tác” giúp cô  “khám phá đời sống tính dục”, “phát hiện bản thể” và “tìm được bản năng đàn bà đích thực”. Truyện ngắn mang màu sắc hậu hiện đại này so với những truyện ngắn trữ tình - lãng mạn của nhiều cây bút nữ vài ba mươi năm trước thật là một khoảng cách rất xa.

5.

Kim Định, một học giả nổi tiếng ở miền Nam Việt Nam những năm 1954-1975, là người sớm xiển dương tư tưởng thoát Trung về văn hóa. Trong một số công trình nghiên cứu, ông táo bạo đề xướng thuyết Việt Nho, cho rằng Nho giáo vốn là của người Việt cổ và không có gì chung với tư tưởng Hán Nho hà khắc sau này. Luận thuyết của ông được một số người hậu học noi theo, đề cao và quảng bá, rất tiếc lại chưa được thực chứng về mặt khoa học. Nhưng Kim Định có lý khi cho rằng nhân sinh quan của người Việt luôn dành chỗ cho tư tưởng ngợi ca phụ nữ và nhấn mạnh vai trò của họ trong đời sống, qua hình tượng những nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị, Triệu Thị Trinh và qua tục thờ Mẫu vẫn còn lưu truyền cho đến ngày nay.

Điều không may cho văn hóa Việt Nam là truyền thống tốt đẹp đó nhiều khi phải chịu khuất phục trước sức mạnh của phong tục, tập quán lỗi thời. Đứng về phương diện này, phải khiêm tốn mà nói rằng tinh thần nữ quyền chưa bao giờ thực sự là một trong những mạch chủ lưu của đời sống người Việt Nam. Mặc dù không thiếu thiện ý kêu gọi giải phóng phụ nữ và thành lập các tổ chức xã hội để hiện thực hóa nữ quyền, thế đứng của người phụ nữ Việt Nam hầu như luôn ở hậu cảnh của lịch sử. Trong chiến tranh, người phụ nữ đau đớn, khắc khoải chờ con, chờ người yêu, người chồng đi ra trận. Đến khi hòa bình, họ lại chờ con, chờ chồng đi làm thuê ở phương trời xa. Chờ đợi đã trở thành một kỹ năng sống, hơn thế, một phẩm hạnh của người đàn bà Việt Nam. So với rất ít những phụ nữ thành đạt nở mày nở mặt và có tiếng nói ảnh hưởng ở chốn đông người, cái đa số thầm lặng đó “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” ở nông thôn hay mòn dép chai vai trên những nẻo đường phố thị để tìm miếng cơm manh áo.

Trong tinh thần đó, chúng ta ước mơ và hy vọng số phận của người phụ nữ Việt Nam sẽ thay đổi tốt đẹp hơn cùng với sự đổi mới, phát triển của đất nước và xã hội.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Tạp chí Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh số 155, ngày 19/12/2024.

 


[i] Nguyễn Ngọc Tư: “Dát vàng nước mắt”. Trong Một nửa làm đầy thế giới, NXB Văn hóa - Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh, 2019, tr. 12.

 

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2012 vào ngày 9.4.2012 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 24 đề tài tham gia hội nghị, gồm 3 đề tài Hán Nôm, 4 đề tài ngôn ngữ, 12 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Yếu tố thần kỳ trong Nghìn lẻ một đêm do sinh viên SV Sity Maria Cotika thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo  do sinh viên Thái Nguyễn Hồng Sương thực hiện; Nhân vật chấn thương trong một số tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986-1995 do sinh viên Trần Phượng Linh thực hiện; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: cách đọc xã hội học do sinh viên Nguyễn Ngọc Thảo Như thực hiện; Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam từ sau 1986 do sinh viên Lê Thị Kim Loan thực hiện; Mỹ cảm trong ca từ của Trịnh Công Sơn do sinh viên Phan Thị Diệu Thảo làm chủ nhiệm. Từ những công trình được thực hiện công phu và nghiêm túc này, hy vọng sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ sẽ còn đạt được những giải cao hơn ở cấp Thành và cấp Bộ.

Chiều 17-11, lãnh đạo TP HCM có buổi tiếp những người bạn Thụy Sĩ đặc biệt của Việt Nam.

Ông Nguyễn Văn Nên – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy TP HCM; bà Trần Thị Diệu Thúy – Thành ủy viên, Phó Chủ tịch UBND TP HCM; ông Nguyễn Thành Trung, Phó Chủ tịch Thường trực Ủy ban MTTQ TP HCM và đại diện lãnh đạo nhiều sở, ngành cùng tham dự buổi tiếp.55 năm trước, vào tháng 1-1969, có ba chàng trai người Thụy Sĩ là Olivier Parriaux, Bernard Bachelard và Noé Graff đã từ Thụy Sĩ tới Pháp để treo lá cờ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trên đỉnh Nhà thờ Đức Bà Paris. Sự kiện trở thành đề tài nóng hổi cho báo chí quốc tế, thu hút sự quan tâm của dư luận song không ai biết danh tính họ. Năm 2023, nhân kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris, câu chuyện được công khai qua cuốn sách với tựa đề "Le Viet Cong au sommet de Notre-Dame", do chính người trong cuộc xuất bản. Hai ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux đang có chuyến thăm TP HCM. Ông Noé Graff vì lý do sức khỏe nên không đi.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 1.

Hai ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux nay đều ở độ tuổi 80.

20241126 2

Tại cuộc gặp, hai ông có những tường thuật chi tiết về việc làm ý nghĩa năm xưa.

Món quà họ mang đến là cuốn sách ghi lại hành trình hơn nửa thế kỷ trước cùng với ấn phẩm giá trị về đề tài chất độc màu da cam.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 3.

TS Trình Quang Phú, Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển Phương Đông (đứng bên phải) có mặt tại Paris thời điểm đó đã tận mắt chứng kiến hình ảnh lá cờ tung bay trên đỉnh nóc nhà thờ Đức Bà

Bí thư Thành ủy TP HCM Nguyễn Văn Nên bày tỏ xúc động trước sự chia sẻ từ những người bạn đặc biệt – những người đồng chí của Việt Nam. Theo ông Nguyễn Văn Nên, hành động quả cảm của họ vô cùng đáng trân trọng. Qua đó, góp phần quan trọng vào làn sóng phản đối chiến tranh trên toàn thế giới, động viên nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi, khi ký được Hiệp định Paris năm 1973 và tiến tới thống nhất đất nước vào năm 1975. Những năm tháng sau đó, những chàng trai đầy bản lĩnh và yêu hòa bình này bền bỉ tiếp tục cống hiến cho xã hội trên những cương vị khác nhau. Họ cũng dành nhiều sự quan tâm, ủng hộ đối với hành trình đấu tranh đòi công lý cho nạn nhân chất độc màu da cam Việt Nam.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 4.

Bà Trần Tố Nga - biểu tượng của hành trình đòi lại công lý cho nạn nhân chất độc da cam Việt Nam, đã có nhiều đóng góp thiết thực cho sự kết nối giữa những người bạn Thụy Sĩ và Việt Nam

Những ngày qua, ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux đã tham gia nhiều hoạt động như thăm Khu di tích lịch sử Địa đạo Củ Chi; tặng quà gia đình chính sách và nạn nhân bị nhiễm chất độc da cam; gặp gỡ báo chí; gặp gỡ, giao lưu với thanh niên TP HCM với chủ đề "Chung khát vọng hoà bình". Những sự đón tiếp nồng hậu, chân thành đem đến cho các ông tình cảm ấm áp, thêm gắn kết cùng Việt Nam.

Dịp này, ông Nguyễn Văn Nên – Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư thành ủy TP HCM trân trọng trao tặng Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh cho các ông. Bí thư Thành ủy TP HCM đã trao Huy hiệu TPHCM và tặng sách tiếng Pháp "Les Espaces verts de Saigon" (Không gian xanh của Sài Gòn), tác giả GS-TS Huỳnh Như Phương, cho các ông.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 5.

Ông Nguyễn Văn Nên bày tỏ sự tri ân, gửi lời chúc sức khỏe và trân trọng gửi tặng Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh đến các ông Bernard Bachelard và Olivier Parriaux

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 6.

Huy hiệu Thành phố Hồ Chí Minh là món quà thể hiện sự ghi nhận của Đảng bộ, Chính quyền và người dân đối với đóng góp quan trọng của các ông cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 7.

Bí thư Thành ủy TP HCM đã trao Huy hiệu TP HCM và tặng sách tiếng Pháp "Les Espaces verts de Saigon" (Không gian xanh của Sài Gòn), tác giả GS-TS Huỳnh Như Phương, cho các ông.

Lãnh đạo TP HCM tiếp những người bạn Thụy Sĩ yêu hòa bình- Ảnh 8.

 

Xuân Huy - Ảnh: Quốc Thắng
Nguồn: Người lao động, ngày 17.11.2024.

Đó là Giáo sư, nhà thơ Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner, nay là Viện William Joiner (Boston, Mỹ) và Giáo sư, nhà thơ Bruce Weigl. Hai ông từng là lính tham gia chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1967-1969.

Nhà thơ Kevin Bowen sinh năm 1947, hiện sống tại bang Massachusetts, tham gia chiến tranh Việt Nam từ năm 1968 đến năm 1969. Sau khi nhận ra sự sai lầm và sự vô nhân đạo trong cuộc chiến tranh mà chính quyền Mỹ tiến hành ở Việt Nam, ông đã tham gia phong trào phản chiến ngay từ khi đang ở trong quân đội Mỹ.

Trở về từ chiến trường Việt Nam, Kevin Bowen tiếp tục phong trào phản chiến tại nước Mỹ. Trên cương vị giáo sư và nhà thơ, ông bắt đầu cất tiếng nói của mình về Việt Nam và kêu gọi những người yêu chuộng hòa bình phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam.

Sau khi trở thành Giám đốc Trung tâm William Joiner, Kevin Bowen đã tập hợp được những trí thức, những nhà văn hàng đầu của nước Mỹ tham gia các hoạt động của trung tâm William Joiner trong việc lý giải sự thất bại và tội ác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời kêu gọi chính quyền Mỹ xóa bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là tiến hành giới thiệu các tác phẩm văn học về chiến tranh cách mạng của Việt Nam tới các trường đại học và công chúng Mỹ.

 

Nhà thơ Kevin Bowen.

Vượt qua các rào cản, các khó khăn về chính sách cấm vận của Mỹ, Kevin Bowen cùng các nhà văn của Trung tâm William Joiner đã mời gần 200 nhà văn Việt Nam tới Mỹ. Ngôi nhà của Kevin Bowen trở thành nơi tiếp đón, sinh hoạt của nhiều nhà văn Việt Nam trong suốt thời gian đó.

Một số phần tử, tổ chức phản động ở Mỹ đã rất “không hài lòng” về việc làm này, nên đã thường xuyên đe dọa đến tính mạng của vợ và các con Kevin Bowen và yêu cầu ông dừng quan hệ với Việt Nam. Nhưng Kevin Bowen đã dũng cảm tiếp tục tổ chức các hoạt động tuyên truyền về Việt Nam, tổ chức dịch và quảng bá các tác phẩm văn học Việt Nam, tranh thủ nhiều diễn đàn trên khắp nước Mỹ để các nhà văn Việt Nam nói về cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc mình, nói về khát vọng hòa bình, ý chí cho độc lập tự do của con người Việt Nam và mong muốn làm bạn với tất cả các dân tộc trên thế giới. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao Huân chương Hữu nghị cho nhà thơ Bruce Weigl.

20240929

Nhà thơ Bruce Weigl (thứ ba từ trái sang) và các người bạn Mỹ nhận Huân chương Hữu nghị do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao tặng.

Năm 1991, Kevin Bowen dẫn đoàn nhà văn cựu binh Mỹ đến Việt Nam để tiến hành một cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam và về quan hệ của hai nước với Hội Nhà văn Việt Nam cho dù tất cả các nhà văn cựu binh Mỹ, đặc biệt là cá nhân ông đã bị đe dọa và bị một số cuộc biểu tình chống đối trước trụ sở của Trung tâm William Joiner tại Boston.

Những việc làm của Kevin Bowen góp phần vào việc hóa giải những nỗi đau và hận thù do chiến tranh gây ra thông qua các hoạt động văn hóa và văn chương, cuối cùng đã được xã hội Mỹ thừa nhận. Năm 2015, chính quyền bang Massachussets đã chọn một ngày để tôn vinh ông hàng năm tên là "Ngày của Kevin Bowen".

 

Huân chương Hữu nghị tặng nhà thơ Kevin Bowen.

Nhà thơ Kevin Bowen đã xuất bản tập thơ "Chơi bóng rổ với Việt cộng". Chưa bao giờ hình ảnh một “kẻ thù cũ” hay theo cách gọi của những người Mỹ là "Việt Cộng" lại hiện lên đẹp đẽ và nhân văn đến như vậy. Tập thơ đã thay đổi cái nhìn của rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và công chúng Mỹ.

Ông đã cùng nhà thơ Bruce Weigl, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tuyển chọn và dịch tập thơ "Sông núi", gồm các bài thơ hay nhất viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của các nhà thơ Việt Nam.

Nhà thơ Kevin Bowen đã được đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và lãnh đạo Bộ Ngoại giao tiếp nhân những chuyến ông đến Việt Nam; được Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tặng Kỷ niệm chương và bằng khen. 

 

Nhà thơ Kevin Bowen và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.

 

Nhà thơ Bruce Weigl tặng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tập thơ "Bài ca bom Napan".


Năm 1991, Kevin Bowen dẫn đoàn nhà văn cựu binh Mỹ đến Việt Nam để tiến hành một cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam và về quan hệ của hai nước với Hội Nhà văn Việt Nam cho dù tất cả các nhà văn cựu binh Mỹ, đặc biệt là cá nhân ông đã bị đe dọa và bị một số cuộc biểu tình chống đối trước trụ sở của Trung tâm William Joiner tại Boston.


Người thứ hai được trao tặng Huân chương Hữu nghị là nhà thơ Bruce Weigl, sinh năm 1949, hiện sống tại bang Ohio, tham gia chiến tranh Việt Nam từ năm 1967 đến năm 1968, sau khi trở về Mỹ đã tham gia phong trào phản chiến. Ông đã xuất bản tập thơ rất nổi tiếng tên là "Bài ca bom Napan", tố cáo sự tàn ác của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Tập thơ đã được dịch ra nhiều tiếng trên thế giới, được trao giải Chung kết của giải Pulizer (một giải thưởng danh giá nhất dành cho văn chương và báo chí của nước Mỹ). Riêng bài thơ "Bài ca bom Napan" đã được đưa vào giảng dạy trong hầu hết các trường phổ thông trung học, cao đẳng và đại học Mỹ.

Một tập thơ nổi tiếng khác của Bruce Weigl có tên "Người đàn ông đi xe đạp”, viết về những con người Việt Nam bình dị trong chiến tranh, về giấc mơ lớn nhất của ông trong thời gian tham chiến ở Việt Nam là chiến tranh kết thúc. Trong một ngày đẹp trời ông muốn trở thành một người Việt Nam để được đạp xe như những người Việt Nam bình dị, được sống những ngày hòa bình với gia đình, được gieo trồng trên cánh đồng của mình.

 

Nhà thơ Bruce Weigl.

Năm 1995 được phép của nhà nước Việt Nam, ông đã vào Việt Nam để nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi trong trại mồ côi ở tỉnh Hà Nam. Ông đã viết trên một tờ báo ở Ohio rằng: "Chúng ta có nuôi một triệu đứa trẻ Việt Nam với một điều kiện đời sống tốt nhất thì chúng ta cũng không bù đắp nổi tội ác mà chúng ta đã gây ra đối với hàng triệu đứa trẻ Việt Nam vô tội và trong sáng…”. Sau đó ông xuất bản tập truyện ký có tên "Vòng tròn của Hạnh". Hạnh chính là tên cô bé Việt Nam được ông nhận làm con nuôi. Cuốn sách đó thực chất là một bản tố cáo về tội ác của Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam đồng thời là một hồ sơ về những vẻ đẹp văn hóa truyền thống của đất nước Việt Nam.

Với Trung tâm William Joiner, Bruce Weigl là một thành viên quan trọng xây dựng mối quan hệ giữa các nhà văn Việt Nam và Mỹ trong việc tuyển chọn, dịch thuật, quảng bá văn học Việt Nam. Ông đã trực tiếp dịch và giới thiệu tác phẩm của hàng chục nhà thơ Việt Nam tới bạn đọc Mỹ. Người Mỹ gọi ông là "Nhà Việt Nam học" bởi sự hiểu biết về văn hóa, về văn học Việt Nam. Ông đã thực hiện gần 100 buổi đọc thơ và thuyết trình về đất nước con người Việt Nam. Ông thổ lộ khát vọng được sống những năm tháng cuối đời ở Việt Nam và được yên nghỉ mãi mãi trên mảnh đất Việt Nam.

Tập thơ gần nhất ông xuất bản có tên "Sau mưa thôi nã đạn" (đã được dịch sang tiếng Việt). Cả tập thơ là tiếng nói về những vẻ đẹp của con người và đất nước Việt Nam, là khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh giải phóng đất nước của những người lính Cụ Hồ.

 

Huân chương Hữu nghị tặng nhà thơ Bruce Weigl.

Với những cống hiến không mệt mỏi của hai giáo sư, nhà thơ cựu binh Mỹ trong gần 40 năm qua, ngày 20/9/2024, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm đã ký quyết định số 943/QĐ-CTN tặng Kevin Bowen và Bruce Weigl Huân chương Hữu nghị vì “đã có những đóng góp tích cực trong việc tham gia dịch và quảng bá hiệu quả các tác phẩm văn học Việt Nam; tổ chức giao lưu, kết nối các nhà văn hai nước, góp phần xây dựng nhịp cầu hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ”.

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 22/9/2024 (giờ Mỹ), tức 2 giờ 30 phút ngày 23/9/2024 (giờ Việt Nam) tại New York, trong khuôn khổ sự kiện “Gặp gỡ những người bạn Hoa Kỳ”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã trao tặng Huân chương Hữu nghị cho nhà thơ Bruce Weigl. Giáo sư, nhà thơ Kevin Bowen vì lý do cá nhân không kịp đến dự, Ban tổ chức sẽ gửi đến tận tay ông sau.

 

Tổ chức sản xuất: Xuân Bách
Nội dung: Hữu Việt
Nguồn: Báo Nhân dân, ngày 23.9.2024.

Thông tin truy cập

68386358
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
4823
12099
68386358

Đang có 204 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website