Thầy Trần Trung Hiếu – Giáo viên Sử Trường THPT chuyên Phan Bội Châu ( Nghệ An) đã viết tâm thư gửi đến cho Bộ trưởng Phùng Xuân Nhạ 10 câu hỏi không dễ trả lời.

Trong những ngày vừa qua, đất nước đang trải qua những ngày nắng nóng vượt ngưỡng trên 40 độ.Tuy nhiên, việc Bộ trưởng Bộ GD&ĐT tuyên bố ý tưởng, chủ trương bỏ biên chế giáo viên đã tạo nên sức nóng kinh khủng trong dư luận xã hội và đội ngũ cán bộ, giáo viên trên toàn quốc.

Dù đang đối mặt với quá nhiều khó khăn, thánh thức và cả những áp lực không hề nhỏ nhưng Bộ trưởng vẫn thể hiện quyết tâm thực hiện thí điểm này, dù có vẻ như quan điểm của Bộ trưởng đã có sự điểu chỉnh theo thời gian với chiều hướng hợp lý hơn. Có thể đó là chút hy vọng nhỏ nhoi sau nhiều sự thất vọng của nhân dân qua nhiều cải cách không thành của ngành trong những năm gần đây.

Với góc độ là một giáo viên trong ngành, quan điểm trước sau của tôi là không thay đổi, luôn ủng hộ Nghị quyết 29 của TƯ Đảng về “đổi mới căn bản và toàn diện” ngành giáo dục, luôn đồng cảm, sẽ chia với trách nhiệm quá nặng nề của cá nhân Bộ trưởng.

Với tinh thần trách nhiệm của một viên chức, tôi xin kính gửi tới Bộ trưởng một số câu hỏi trên tinh thần sẻ chia, góp ý và xây dựng. Rất mong Bộ trưởng xem đây như là nỗi niềm, sự trăn trở của cá nhân tôi cũng như rất nhiều viên chức là đồng nghiệp của tôi.

1. Kính thưa Bộ trưởng, Luật Giáo dục hiện hành và nhiều văn bản mang tính pháp quy của Đảng và Nhà nước chúng ta đã khẳng định:“ Giáo dục là quốc sách là hàng đầu”.

Vậy, phải chăng ý tưởng bỏ biên chế là một chủ trương mang tính “đột phá” đầu tiên để đổi mới giáo dục mà Bộ GD&ĐT có phải là ngành đi tiên phong trong việc triển khai Luật Viên chức năm 2010 ?

Chủ trương bỏ biên chế sang hợp đồng lao động không phải xa lạ đối với các nước phát triển và cũng không còn mới mẻ đối với Việt Nam. Cá nhân tôi cho rằng, việc bỏ biên chế trong ngành giáo dục là một hướng đi đúng, một chủ trương táo bạo. Nếu được nghiên cứu kỹ lưỡng, chuẩn bị chu đáo, triển khai đúng lộ trình và đồng bộ, dân chủ, minh bạch thì sẽ một động lực, một lực đẩy vô cùng quan trọng và tích cực trong công cuộc cải cách kinh tế- xã hội của đất nước.

Nhưng, trong bối cảnh hiện tại của đất nước, của ngành giáo dục thì việc triển khai chủ trương này có lẽ sẽ chưa phù hợp và thiếu tính khả thi. Nói một cách khác, đây là một bài Toán khó mà để “hóa giải” nó cần đồng thuận, đồng lòng, đồng sức của toàn xã hội.

Tôi không dám trả lời thay Bộ trưởng, những chỉ xin được chia sẻ với Bộ trưởng rằng, giáo dục là một ngành đặc thù và trường học càng không thể là một doanh nghiệp, một công ty để dễ dàng thay lao động này bằng một lao động khác mà Bộ trưởng đã nói “có vào, có ra”.

Để đào tạo một giáo viên sư phạm đòi hỏi 3 đến 4 năm và để họ có thể đứng lớp được cũng cần phải có một thời gian mới có thể thích ứng, bới giáo dục muốn có chất lượng cũng đòi hỏi có tính ổn định nhất định.

2. Trong các phát biểu của Bộ trưởng trước các cơ quan truyền thông gần đây, tôi thấy Bộ trưởng vẫn quyết tâm thực hiện ý tưởng này. Tôi muốn hỏi, theo quan điểm của Bộ trưởng thì những trường THPT nào được xem là trường “đủ điều kiện” để triển khai thí điểm bỏ biên chế ? Và đó là những điều kiện nào? Là cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học hay điều kiện về cán bộ quản lý, đội ngũ giáo viên, công nhân viên?

3. Công việc đánh giá, phân loại đội ngũ giáo viên trong một trường học sẽ cần dựa vào những tiêu chí nào để xếp hạng những giáo viên nào không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ để cho ra khỏi guồng biên chế? Một ví dụ nhỏ là 1 tổ chuyên môn có 10 giáo viên, khi đánh giá chuyên môn để xếp theo hàng dọc thì ai xếp số 1, ai xếp hạng cuối là điều vô cùng khó khăn. Vậy xếp loại năng lực chuyên môn họ ra sao, ai sẽ là người phải ra khỏi biên chế ?

4. Bộ trưởng đã tính đến phương án cụ thể như thế nào khi có nhiều giáo viên có nhiều thời gian vất vả, gian khó gắn bó với ngành, với nghề, với cơ quan bị chuyển sang chế độ hợp đồng không ? Chế độ, chính sách về tiền lương đối với họ sẽ như thế nào sau khi chấm dứt hợp đồng ?

5. Liệu có công bằng không, có phạm Luật Viên chức, Luật Lao động… khi chỉ triển khai bỏ biên chế với giáo viên, còn cán bộ quản lý thì không?

Tôi cho rằng, cán bộ quản lý là Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng cũng chỉ là người làm công ăn lương giống như giáo viên thì việc giáo viên và cán bộ quản lý cũng phải bình đẳng trước luật khi chuyển sang chế độ hợp đồng lao động. Đã làm theo luật, đã bỏ biên chế thì phải (chứ không phải dùng từ “nên”) thực hiện thí điểm từ trên xuống dưới, từ cơ quan Bộ GD&ĐT đến các cơ sở giáo dục địa phương, từ cán bộ quản lý đến giáo viên.

6. Bộ trưởng có dám khẳng định như đinh đóng cột rằng, những cán bộ quản lý, giáo viên không thể đáp ứng được nhiệm vụ trong 1 trường học khi họ thuộc diện “con ông, cháu cha”, thậm chí là người nhà của Bộ trưởng, Thứ trưởng, Cục trưởng…, liệu Bộ trưởng có thể cho họ ra khỏi biên chế không ?

7.Tôi muốn hỏi Bộ trưởng là trong quá trình thực hiện thí điểm, Bộ trường có dám khẳng định là sẽ triệt tiêu được các tiêu cực hay không liên quan đến việc từ chỗ “chạy biên chế” như hiện nay sẽ chuyển sang “chạy hợp đồng” ? Tôi khẳng định là sẽ có tiêu cực khi thực hiện công việc này.

Bởi vì người nào cũng muốn danh dự gắn liền với quyền lợi, với miếng cơm manh áo và cao hơn hết là danh dự của một nhà giáo. Trước đây, “chạy biên chế” chỉ có một lần, còn bây giờ “chạy hợp đồng” sẽ diễn ra nhiều lần và năm nào cũng phải “chạy” nếu muốn “trụ hạng”. Giáo viên vốn đã nghèo khó, lắm áp lực kèm theo rất nhiều thủ tục hành chính, họ sẽ lấy tiền đâu ra để “chạy”?

8. Nếu bỏ biên chế sang hợp đồng cho giáo viên thì người đứng đầu có thẩm quyền ký hay chấm dứt hợp đồng với giáo viên là ai, Hiệu trưởng hay Giám đốc Sở? Nếu ký hay chấm dứt hợp đồng với đối tượng cán bộ quản lý của một trường học thì cơ quan nào có đủ thẩm quyền quyết định? Liệu quy trình này có dân chủ không, minh bạch không?Có là nguyên nhân chính dẫn đến “chuyên quyền” hay “lạm quyền” vì vụ lợi của Hiệu trưởng, Giám đốc không ? Cơ quan nào sẽ giám sát quy trình này?9. Chế độ đãi ngộ của ngành sẽ như thế nào để giữ được đội ngũ giáo viên giỏi trong một cơ quan, trường học? Nếu những cán bộ quản lý và giáo viên đã đến tuổi được nghỉ hưu theo chế độ nhưng có trình độ quản lý và chuyên môn, còn sức khỏe và tâm huyết với nghề thì họ có được hợp đồng để tiếp tục công tác và cống hiến không ?

10. Tôi cho rằng, nếu chủ trương bỏ biên chế này bị “sa lầy”, thậm chí là thất bại thì hậu quả sẽ rất tai hại và nguy hại nhất là gây nên sự xáo trộn về tâm can, sự khủng hoảng về niềm tin và đảo lộn về trật tự đội ngũ của ngành giáo dục. Và khi đó, ai sẽ là người nhận trách nhiệm và chịu hậu quả này?

Bài học về sự thất bại của các chủ trương, dự án, đề án cải cách giáo dục của các vị đồng cấp tiền nhiệm trong nhiều năm gần đây đã để lại nhiều hậu quả về hao tốn ngân sách của quốc gia, không lẽ không có ích gì cho Bộ trưởng hay sao ?

Tôi nghĩ rằng, nếu điểm danh lại các Chủ trương, Chương trình, Đề án, Dự án cải cách giáo dục không thành công trong những năm gần đây thì không ai không thấy lãng phí và xót xa cho ngân sách quốc gia vì sự không khả thi của nó. Chủ trương “Hai không” bắt đầu triển khai từ năm học 2006-2007; như Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020 năm 2008 với 9.378 tỉ đồng; Dự án mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) triển khai từ đầu năm 2013 với tổng số vốn được phê duyệt là 87,6 triệu USD; Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể cuối năm 2015… sẽ là những bài học đắt giá cho những “quyết sách” mang dấu ấn của những người tiền nhiệm để lại cho Bộ trưởng 1 trách nhiệm rất nặng nề để khắc phục gánh nặng và hậu quả tai hại đó không dễ gì gánh nổi và không dễ gì vượt qua.

Để có cơ sở thực tiễn trả lời được các câu hỏi đó của tôi, tôi mong Bộ trưởng nên :

Thứ nhất, luôn đặt mình, vợ con mình, cháu chắt mình trong tâm thế một giáo viên ở một cơ quan trường học sắp bị thí điểm bỏ biên chế sang chế độ hợp đồng.

Thứ hai, xin Bộ trưởng cứ “vi hành” đến các trường phổ thông sẽ thấy, nghe họ nói gì, muốn gì, mong gì từ chủ trương này của Bộ. Đó mới chính là lời nói thật, người thật, việc thật và rất khách quan.

Thứ ba, xin Bộ trưởng đừng vội nghe những thông tin một chiều, những tham mưu vớ vẩn, những lời xu nịnh có cánh của những kẻ vụ lợi vì “lợi ích nhóm”.

Hiện nay ngành giáo dục đã, đang và sẽ đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức đan xen cả thời cơ, vận hội trong bối cảnh chúng của đất nước với xu thế hội nhập, toàn cầu hóa.

Tôi trộm nghĩ, Bộ GD&ĐT nên dành thời gian, tâm lực, sức lực và nguồn lực để giải quyết dứt điểm các vấn đề tồn đọng, nhức nhối mà người tiền nhiệm để lại. Cái cũ chưa giải quyết xong một cách thấu đáo và triệt để mà cái mới đã vội ra đời sẽ tạo nên một sự “bội thực” mang tên các “cải cách” trong ngành.

Thầy Trần Trung Hiếu – Giáo viên Sử Trường THPT chuyên Phan Bội Châu ( Nghệ An) .

Đổi mới chứ đừng “đổi” nhưng không “mới”, đổi mới để phát triển cần sự ổn định chứ không nên tạo sự đảo lộn mà thành quả lại tạo nên các mẻ sản phẩm được mang tên các “thí điểm”, “thử nghiệm” từ học sinh sang giáo viên.

Theo tôi, việc quan trọng bây giờ là Bộ GD&ĐT nên tập trung có hiệu quả các nguồn lực để thực hiện đúng lộ trình Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể 2017 mà các chuyên gia biên soạn chương trình này vẫn còn nhiều sự tranh cãi.

Sau đó, là tập trung vào biên soạn Chương trình cụ thể (chương trình bộ môn) đến công đoạn viết sách giáo khoa và thẩm định. Hiện nay, trong các bậc học từ mầm non đến đại học thì giáo dục phổ thông là bậc học có nhiều vấn đề nổi cộm nhất.

Chính vì thế, Bộ GD&ĐT nên giải quyết dứt điểm rồi mới nên tính chuyện thí điểm biên chế hay hợp đồng với giáo viên đáp ứng sự thay đổi của Chương trình và sách giáo khoa mới. Và cuối cùng, dù biên chế hay hợp đồng thì yếu tố quyết định cuối cùng mà nhân dân mong đợi là hiệu quả của chủ trương đó.

“Nếu giờ đây, GD&ĐT bỏ biên chế để đổi thành Hợp đồng lao động ở các trường Đại học, tôi nghĩ rằng sẽ có một lượng khá lớn những nhân tài ra đi ngay lập tức. Không còn ràng buộc biên chế, họ sẽ thỏa sức tung hoành ở những lĩnh vực mà họ làm chuyên gia”- TS Vũ Thu Hương, Khoa giáo dục Tiểu học, ĐH Sư phạm Hà Nội nêu quan điểm.

Ảnh: Thầy Trần Trung Hiếu – Giáo viên Sử Trường THPT chuyên Phan Bội Châu ( Nghệ An) .

Nguồn: http://www.tienphong.vn/giao-duc/bo-bien-che-giao-vien-10-cau-hoi-khong-de-tra-loi-cho-bo-truong-giao-duc-1156921.tpo

 Mấy năm gần đây tôi thường theo dõi các cuộc thi tú tài ở Pháp, vì thích thú, và cũng có phần muốn từ đó thử nghĩ lại thêm về giáo dục ở ta. Hình như vừa qua ta chú ý nói nhiều đến đại học, hẳn vì ở đây dễ thấy rõ sự quá lạc hậu so với thế giới, cũng lại là nơi liên quan trực tiếp đến việc đào tạo nhân lực cho xã hội. Song cũng có thể vấn đề chính của giáo dục còn ở chỗ khác, ở phổ thông, nơi ít được dư luận quan tâm hơn. Có vấn đề ở phổ thông rồi, tất đại học không thể không có vấn đề.

Hôm nọ, một người bạn báo cho một tin vui, vì anh mới có một bài báo khoa học vừa được chấp nhận cho công bố. Anh ấy còn kèm theo lá thư chấp nhận, mà trong đó có đoạn [trích nguyên văn, kể cả sai sót về văn phạm và ngữ vựng] "We are Pleased to Inform you that your draft Paper Mentioned above has been Accepted by the International Journal of Engineering and Innovative Technology Editorial Board Committee. […] We reserve the rights to reject your paper if the payment is not done within fewnumbers of days after Date of Acceptance."(Tạm dịch: Chúng tôi hân hạnh báo cho ông biết rằng bản thảo bài báo của ông như đề cập trên đã được hội đồng biên tập chấp nhận cho công bố. […] Chúng tôi có quyền từ chối công bố bài báo nếu ông không trả ấn phí đúng thời hạn, tức sau vài ngày bài báo được chấp nhận).

 

Tôi gặp thầy Trần Hữu Tá từ đầu những năm 1990, khi ấy anh Lê Tiến Dũng dẫn tôi đến gặp thầy để ba thầy trò làm một quyển sách dạy văn cho nhà sách T.. Ngày ấy T. còn là một sạp sách báo ọp ẹp ở trước cổng trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh cũ kỹ xác xơ. Nhà thầy còn ở khu tập thể của Trường Sư phạm. Bước qua hẻm phía sau mấy tiệm cơm, tiệm photo ngổn ngang xô chậu mới đến nhà thầy. Nhà thầy chật, nhưng phòng khách luôn tươm tất, bàn ghế sạch sẽ, trà ngon, đúng như phong cách trí thức Hà Nội thời trước. Tôi bị thu hút bởi phong cách lịch lãm, chuyện trò thông thái và thái độ ân cần của thầy. Thầy trò làm việc với nhau rất ăn ý, thầy tỏ ra rất tin tưởng tôi, dù lúc ấy tôi mới hơn 30 tuổi. Trong quyển sách, tôi được vinh dự đứng tên chung với thầy. Sách bán rất chạy, tái bản liên tục. Hết hạn hợp đồng tôi vẫn thấy sách được tái bản mà chủ nhà sách chẳng liên hệ và trả nhuận bút cho thầy trò gì cả. Tôi gặp nhóm xuất bản hỏi chuyện, nhưng họ chối ngay là họ không xuất bản (để khỏi trả nhuận bút), và họ thách thức: nếu các tác giả muốn kiện thì họ sẵn sàng đi hầu, đến đâu cũng theo! Sau không thấy họ tái bản nữa, tưởng họ đã thôi, nào ngờ đi tỉnh lại thấy sách tái bản ở một nhà xuất bản tỉnh, để tránh bị nhóm tác giả phát hiện, và khỏi phải trả mấy đồng nhuận bút còm. Đến nay thì thầy trò vẫn nghèo vậy, còn chủ nhà sách kia trở thành trùm xuất bản và phát hành sách. Thế tôi mới thấm thía chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam đã hình thành với sự keo bẩn điển hình của giai cấp ấy trong giai đoạn tích lũy tư bản như thế nào.

Cho dẫu nhìn nhận Ngữ Văn như một môn học có những quy phạm trường ốc thì nội dung quan trọng nhất, đồng thời cũng là yếu tố lớn nhất làm nên sức hấp dẫn đặc biệt của nó vẫn là nó cho phép người học được thể nghiệm những gì cá nhân nhất của mình: từ góc nhìn, từ những xúc động, khả năng tưởng tượng, khả năng biểu đạt. Bởi vậy, việc dạy học, ra đề thi, soạn đáp án, chấm điểm môn học này cần chú trọng các tiêu chí định tính hơn các tiêu chí định lượng.

Đây là một phần tài liệu của GSTS Nguyễn Thanh Liêm về giáo dục ở miền nam sau 1954. (GSTS Nguyễn Thanh Liêm nguyên là Hiệu trưởng Petrus Ký – Sài Gòn, Chánh Thanh Tra trưởng ban soạn đề thi của Bộ Giáo Dục trong những năm 1965-67, Thứ Trưởng Bô Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975).

Đất nước Nhật Bản được cả thế giới khâm phục chắc hẳn không chỉ vì sự phát triển kinh tế thần kỳ trong một thời gian ngắn, mà còn vì nhân cách người Nhật Bản: trung thực, khiêm nhường, tế nhị, nổi trội về tinh thần làm việc tập thể, ý thức cộng đồng, tôn trọng mọi người xung quanh, cực kỳ khuôn phép, thận trọng nhưng rất sáng tạo và sự hoàn hảo trong công việc, hay từ cách người Nhật giáo dục đạo đức con người

Tài liệu về nền giáo dục miền Nam hiện nay đã trở nên ngày càng khó kiếm, thậm chí, hầu như không thể kiếm được bao nhiêu trong những thư viện lớn trên toàn quốc. Hơn nữa, nói về nền giáo dục của một chế độ chính trị đã cáo chung đúng 40 năm, mà ngày nay không còn mấy người làm chứng, thì làm thế nào đảm bảo tính trung thực để tin được hoàn toàn cũng không phải chuyện dễ. Vì vậy, ở bài này cũng như ở bài tiếp sau về “Chương trình và sách giáo khoa” của cùng tác giả, chúng tôi xin lựa chọn phương pháp thể hiện nội dung các bài viết bằng cách chủ yếu trích dẫn trực tiếp ý kiến của một số nhà hoạt động giáo dục tiêu biểu thời trước, coi họ như người chứng cho từng vấn đề liên quan, nhưng được bố cục/ hệ thống lại cho dễ theo dõi, thay vì diễn dịch/ tổng hợp lại từ những ý kiến đó của họ. Thỉnh thoảng chúng tôi có cho xen vào một số ít ỏi lời đánh giá, bình luận theo sự nhận thức của riêng mình, mà chúng tôi nghĩ là cần thiết để dẫn dắt câu chuyện. Chúng tôi tự nghĩ cách làm như vậy tuy không được công phu cho lắm nhưng vừa đảm bảo tính khách quan, vừa duy trì được nguồn tài liệu “gốc” để tiện việc tham khảo, khi ai cần vẫn có thể trích dẫn lại được, vì các nguồn tài liệu loại này đã ngày càng trở nên quý hiếm và khó tìm.

Đông Á là một khu vực nổi bật về sự tham gia của tư nhân trong giáo dục đại học (GDĐH) đặc biệt trong những năm gần đây, khi đại chúng hóa GD ĐH trở thành một xu hướng ngày càng mạnh. Mặc dù trường ĐH tư là một thực tế phổ biến và có lịch sử lâu đời ở Mỹ, bản chất của các trường tư này rất khác với các trường tư nổi lên trong vài thập kỷ gần đây ở Châu Á, cụ thể là những nước như Trung Quốc hay Việt Nam.

Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (CT) đang được Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra để xin ý kiến xã hội.

Xung quanh nội dung bản dự thảo này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với Giáo sư Huỳnh Như Phương (Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)

Tôi sinh ra ở nông thôn, ba má tôi là nông dân rặt. Tuy vậy, trong những đám tiệc đông đủ bà con, thỉnh thoảng có người bảo ba tôi là “ẩn sĩ quy điền” với ý khen ba tôi là người được học cao nhất trong dòng họ. Những buổi tối ngà hơi men, ba tôi thường đọc cho tôi nghe nhiều bài thơ, vài đoạn Truyện Kiều, Lục Vân Tiên hoặc kể chuyện về ông Lê Lai cứu chúa, ông Tử Lộ đội gạo… rất là lý thú.

Tựa của bài viết này là tựa dịch của bài phát biểu của GS Connor, Giám đốc Trung tâm Nhân văn quốc gia (The National Humanities Center) thuộc Viện Giáo dục khai phóng Hoa Kỳ (American Academy for Liberal Education). Và nội dung của bài viết sẽ là những ý chính của bài phát biểu ấy, thông qua cách diễn giải và trình bày lại của người viết.

Hồi lớp 11 tôi học trường Võ Trường Toản, lúc ấy còn là trường cấp 3. Sau trường ấy chỉ dành cho cấp 2, nên đến lớp 12 tất cả học sinh phải chuyển qua trường cấp 3 Cô Giang (bây giờ là Thalmann). Trong lớp mình có cô bạn tên là Ngọc, cô bị tật ở chân nhưng học văn rất giỏi, cô bạn ấy cũng từ trường khác chuyển đến. Ngọc có người thầy dạy văn ở trường cũ rất thương quý cô ấy, nên thầy trò vẫn thường liên hệ, chuyện trò với nhau. Cô ấy kể chuyện về lớp mình, nói lớp em có bạn Giang học văn rất giỏi. Mình chưa gặp thầy bạn ấy bao giờ, nghe cô bạn kể vậy thôi. Hồi ấy ở TP.HCM chưa có chuyện thi học sinh giỏi, nhưng mình cũng được nhiều thầy biết đến vì bài văn tốt nghiệp được điểm tối đa và có được đọc trước hội đồng. Thực ra chuyện ấy chẳng có gì đáng nói.

Thời gian qua, vấn đề dạy chữ Hán (tức mảng từ Việt Hán) trong nhà trường được báo chí đề cập nhiều lần và dư luận quan tâm. Có điều dạy chữ Hán trong trường phổ thông hay đại học thì từ việc đào tạo giáo viên tới xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình v.v sẽ rất tốn tiền, mất nhiều thời gian, mà cung cách nhồi nhét phổ biến trong nhà trường hiện nay chỉ làm công việc ấy trở thành một chuỗi các hành vi bị động, thiếu hứng thú và ít sáng tạo ở phần đông chủ thể tiếp nhận, trong khi đó phải là một quá trình tự nhiên và tự nguyện được nhất hóa vào hoạt động sống của từng cá nhân. Cho nên phải nhìn nhận từ một góc độ khác, hành động theo một cách thức khác.

 

Ai trong đời cũng có nhiều Thầy học. Có những vị Thầy nhiều ảnh hưởng lên cuộc đời mình vì mình thích, phục vài điều gì đó trong lời giảng khi theo học nhưng sau nầy xa cách trong đời do hoàn cảnh; có những vị Thầy trong khi học mình không thủ đắc được nhiều về cách sống ngoài những kiến thức giáo khoa nhưng sau nầy lại là bạn vong niên vì có hoàn cảnh gần gũi. Đối với tôi, Thầy Nguyễn Văn Phú, Thầy Bạch Văn Ngà, Thầy Roch Cường… là những trường hợp cụ thể thứ nhứt. Thầy Đàm Quang Hưng là trường hợp cụ thể thứ hai. Còn biết bao nhiêu vị khác nữa trong thời gian theo học Trung học và Đại học nhưngkhông thế nào kể ra cho hết.

Trần Hữu Tá(*)

TÓM TẮT

Học giả, nhà giáo Đào Duy Anh đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho văn hóa dân tộc. Trong suốt 60 năm cầm bút, ông để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. Đường đời lúc có thuận, lúc nghịch, khi bình yên khi sóng gió nhưng thầy vẫn luôn giữ được phong cách sống an nhiên tự tại, thực hiện bằng được kế hoạch học tập và nghiên cứu của mình. Ông chính là một trong những tấm gương cho thế hệ chúng tôi về ý chí, tinh thần phấn đấu lặng lẽ và quyết liệt để hoàn thiện nhân cách cũng như tài năng.

Thanh Xuân dịch

Gần đây, tôi đọc lại một bài viết của Noam Chomsky, Trách nhiệm của giới trí thức, đăng ở Mỹ từ năm 1967. Chomsky, người có tiếng nói gay gắt phản đối cuộc chiến Việt Nam, đồng thời cũng phê phán giới trí thức, những ai ngả theo Nhà Trắng và dùng ảnh hưởng của họ để bao biện cho những tội ác xảy ra ở Việt Nam.

Hàng năm, vào dịp trước Tết, Chi ủy, BCN Khoa, cùng với Công đoàn Khoa Văn học và Ngôn ngữ thường tổ chức đi thăm viếng các thầy cô về hưu lớn tuổi. Năm nay, sau Hội Khoa 40 năm hoạt động Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Ban liên lạc cựu sinh viên Khoa được thành lập gồm một số anh chị tích cực. Vì vậy, nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm 2015, Ban liên lạc cựu sinh viên Khoa cùng với một số thầy cô cũng là cựu sinh viên Khoa đã đến thăm hai "đại lão giáo sư" cựu Trưởng Khoa Ngữ văn là GS Mai Cao Chương và GS Nguyễn Lộc. Đoàn gồm có anh Lâm Thanh Bình, khóa 1 (75-79); nhà báo Ngọc Vinh (khóa 85-89); PGS.TS. Lê Giang, PGS.TS Trần Thị Phương Phương, PGS.TS Trần Lê Hoa Tranh. Thầy Chương mới ở bệnh viện về, đã khỏe lại. Thầy Nguyễn Lộc bị tai biến mạch máu não lần ba, may mắn cũng vượt qua khỏi, và cũng khá khỏe. Hai thầy vẫn nhớ tên học trò, đều vui vì có học trò đến thăm. Mọi người rất vui vì thấy hai thầy đều khỏe. Khoa Văn học và Ngôn ngữ dự định đầu năm sau (2016) sẽ tổ chức Tọa đàm khoa học về những đóng góp của hai thầy nhân chuẩn bị kỷ niệm 60 năm thành lập Trường Đại học Văn Khoa- Đại học Tổng hợp- Đại học KHXH& NV TP.HCM.

Thông tin truy cập

61759954
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
144
18932
61759954

Thành viên trực tuyến

Đang có 565 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website