(Hình minh họa, nguồn:  Google)

I

Chúng ta đang hướng tới xây dựng một nền “kinh tế tri thức”; mà muốn thế, phải nhanh chóng tạo nên một “xã hội học tập” - được hiểu như là một sự thay đổi hệ thống học - cổ truyền (học xong rồi làm), để chuyển sang hệ thống học tập mới - suốt đời. Trong hệ thống đó, tri thức có giá trị hàng hoá, và mỗi người phải biết chuyển hoá tri thức thành kỹ năng, thành công nghệ, thành giá trị. Trong hệ thống đó, do học tập, tiếp thụ mà con người có được tri thức chung; và do năng lực vận dụng của bản thân mà chuyển hoá được thành tri thức riêng, của cá nhân.

Trong diễn văn nhậm chức thủ tướng Anh vào tháng 5/1997, ông Tony Blair tuyên bố: “Tôi xin hứa với quốc dân là tôi sẽ thực hiện ba cải cách: giáo dục, giáo dục và giáo dục”. Tuy cách diễn đạt của các nhà lãnh đạo quốc tế khác có thể không gây ấn tượng bằng lời phát biểu của ông Blair, nhưng nói chung trên thế giới ngày nay nước nào cũng đang chú tâm cải cách giáo dục để làm bàn đạp cho những cải cách kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật.

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2010 vào ngày 08.5.2010 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 33 đề tài tham gia hội nghị, gồm 5 đề tài Hán Nôm, 7 đề tài ngôn ngữ, 18 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Sưu tầm, giới thiệu, phiên dịch di sản Hán Nôm ở Quận 9, TP Hồ Chí Minh của tập thể lớp Hán Nôm 2 do sinh viên Lê Thị Cẩm Tú làm chủ nhiệm; Ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng do sinh viên Trần Thị Thúy An thực hiện; Nghệ thuật trang phục Trung Quốc trong Hồng Lâu Mộng do sinh viên Nguyễn Thị Ánh Nguyệt thực hiện; Tìm hiểu vè lịch sử Nam Bộ do sinh viên Lê Thị Minh Tâm thực hiện; Biển trong văn học cổ điển Việt Nam do sinh viên Phùng Thị Hạ Nguyên thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Ngân Giang do sinh viên Võ Quốc Việt làm chủ nhiệm.

Nguyễn Tiến Lực (*)

Mở đầu

 

Vào giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây ồ ạt xâm nhập vào phương Đông. Các nước phương Đông đều đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: hoặc bị xâm chiếm, biến thành các nước thuộc địa, hoặc từng bước trở thành các nước phụ thuộc, hoặc phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây. Trong tình hình đó, ở các nước phương Đông đều đã xuất hiện các nhà cải cách chủ trương học tập chính nền văn minh phương Tây, canh tân đất nước một cách toàn diện và sâu rộng, tiến bước kịp các nước phương Tây. Fukuzawa Yukichi của Nhật Bản và Nguyễn Trường Tộ của Việt Nam là những nhà tư tưởng như vậy. Fukuzawa Yukichi được đánh giá là nhà khai sáng lớn nhất của Nhật Bản vào nửa sau thế kỷ XIX, là “Voltaire của Nhật Bản”, là “Rousseau của phương Đông”. Những tư tưởng của ông đã khai sáng cho nhân dân Nhật Bản, đưa Nhật Bản tiến lên vũ đài văn minh nhân loại. Còn Nguyễn Trường Tộ được đánh giá là nhà tư tưởng cải cách lớn nhất giữa thế kỷ XIX của Việt Nam. Khi nghiên cứu đến hai nhà tư tưởng này, chúng tôi thấy họ có nhiều điểm giống nhau đến kỳ lạ, đặc biệt là chủ trương học tập nền giáo dục phương Tây, cận đại hóa nền giáo dục ở .mỗi nước.

 
 
 

          Ngày 28 tháng 11 năm 2009, tại VP Khoa Văn học và Ngôn ngữ,  đề tài  Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX do PGS.TS. Đoàn Lê Giang làm chủ nhiệm đã được nghiệm thu. Hội đồng nghiệm thu do GS.TS. Nguyễn Văn Hạnh làm chủ tịch đã đánh giá đề tài đạt mức độ “Tốt” (mức cao nhất).

Oxford là đại học nói tiếng Anh lâu đời nhất trên thế giới. Trường đại học này không chỉ tự hào về bề dày truyền thống và quy mô quan hệ quốc tế rộng rãi mà còn nổi tiếng với hệ thống tự học, tự giáo dục. Qua việc giới thiệu sơ lược chương trình đào tạo cử nhân của Khoa Ngữ văn Anh (English Languague and Literature) sau đây, chúng ta sẽ phần nào thấy được cách tổ chức tự học, tự giáo dục rất đáng lưu ý của Oxford.
 

Khoa Nghệ thuật học (Faculty of Arts) của trường đại học Chulalongkorn được chính thức thành lập vào năm 1955 nhưng tiền thân của Khoa này là Khoa Nghệ thuật học và Khoa học (Faculty of Arts and Sience) đã xuất hiện từ năm 1916. Hiện nay, Khoa Nghệ thuật học có 11 bộ môn: Tiếng Thái, Tiếng Anh, Lịch sử, Địa lý, Khoa học thư viện, Triết học, Kịch nghệ, Ngôn ngữ phương Đông, Ngôn ngữ phương Tây, Ngôn ngữ học và Văn học so sánh. Khoa có các ngành học như sau:

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở NGA

Hệ thống giáo dục đại học của Nga khởi đầu bằng việc thành lập hai trường đại học ở Moskva và Petersburg vào giữa thế kỷ XVIII. Cuộc tranh cãi xem trường nào trong hai trường là cổ nhất của nước Nga đến nay vẫn còn chưa ngã ngũ. Trường ĐHTH Moskva (MGU) được thành lập vào ngày 25 tháng 1 (12 tháng 1 theo lịch cũ của Nga) năm 1755. Hiện nay, ngày 25 tháng 1 là Ngày Sinh viên ở Nga. Trường  ĐHTH St.Petersburg (SPbGU) được xem là thành lập vào năm 1819, nhưng có ý kiến (và hiện nay là quan điểm chính thức của Trường SPbGU) cho rằng trường này là hậu thân của Đại học Hàn lâm Petersburg, được thành lập khi sát nhập Học viện St.Petersburg và Viện Hàn lâm Petersburg theo sắc lệnh của Hòang đế Piotr I năm 1724.

Bộ Giáo dục – Đào tạo vừa có quyết định trao giải nghiên cứu khoa học sinh viên năm học 2007-2008. Năm nay sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn đạt được 20 giải nghiên cứu khoa học cấp Bộ (gồm 1 giải nhất, 3 giải nhì, 6 giải ba, 10 giải khuyến khích).

Giáo sư Lê Đình Kỵ suốt đời gắn bó với sự nghiệp dạy học, đó là cái duyên và cũng là cái nghiệp như thầy từng tâm sự. Cách mạng Tháng Tám thành công, anh chủ tịch xã “trí thức” đã đi dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ và bắt đầu thích nghề giáo vì đây là nhiệm vụ cách mạng, vì thấy những kiến thức của mình đã mang lại ích lợi thiết thực cho người dân.

Đó là Giáo sư, nhà thơ Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner, nay là Viện William Joiner (Boston, Mỹ) và Giáo sư, nhà thơ Bruce Weigl. Hai ông từng là lính tham gia chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1967-1969.

Nhà thơ Kevin Bowen sinh năm 1947, hiện sống tại bang Massachusetts, tham gia chiến tranh Việt Nam từ năm 1968 đến năm 1969. Sau khi nhận ra sự sai lầm và sự vô nhân đạo trong cuộc chiến tranh mà chính quyền Mỹ tiến hành ở Việt Nam, ông đã tham gia phong trào phản chiến ngay từ khi đang ở trong quân đội Mỹ.

Trở về từ chiến trường Việt Nam, Kevin Bowen tiếp tục phong trào phản chiến tại nước Mỹ. Trên cương vị giáo sư và nhà thơ, ông bắt đầu cất tiếng nói của mình về Việt Nam và kêu gọi những người yêu chuộng hòa bình phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ chống lại nhân dân Việt Nam.

Sau khi trở thành Giám đốc Trung tâm William Joiner, Kevin Bowen đã tập hợp được những trí thức, những nhà văn hàng đầu của nước Mỹ tham gia các hoạt động của trung tâm William Joiner trong việc lý giải sự thất bại và tội ác của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời kêu gọi chính quyền Mỹ xóa bỏ cấm vận, bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, đặc biệt là tiến hành giới thiệu các tác phẩm văn học về chiến tranh cách mạng của Việt Nam tới các trường đại học và công chúng Mỹ.

 

Nhà thơ Kevin Bowen.

Vượt qua các rào cản, các khó khăn về chính sách cấm vận của Mỹ, Kevin Bowen cùng các nhà văn của Trung tâm William Joiner đã mời gần 200 nhà văn Việt Nam tới Mỹ. Ngôi nhà của Kevin Bowen trở thành nơi tiếp đón, sinh hoạt của nhiều nhà văn Việt Nam trong suốt thời gian đó.

Một số phần tử, tổ chức phản động ở Mỹ đã rất “không hài lòng” về việc làm này, nên đã thường xuyên đe dọa đến tính mạng của vợ và các con Kevin Bowen và yêu cầu ông dừng quan hệ với Việt Nam. Nhưng Kevin Bowen đã dũng cảm tiếp tục tổ chức các hoạt động tuyên truyền về Việt Nam, tổ chức dịch và quảng bá các tác phẩm văn học Việt Nam, tranh thủ nhiều diễn đàn trên khắp nước Mỹ để các nhà văn Việt Nam nói về cuộc đấu tranh chính nghĩa của dân tộc mình, nói về khát vọng hòa bình, ý chí cho độc lập tự do của con người Việt Nam và mong muốn làm bạn với tất cả các dân tộc trên thế giới. 

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao Huân chương Hữu nghị cho nhà thơ Bruce Weigl.

20240929

Nhà thơ Bruce Weigl (thứ ba từ trái sang) và các người bạn Mỹ nhận Huân chương Hữu nghị do Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trao tặng.

Năm 1991, Kevin Bowen dẫn đoàn nhà văn cựu binh Mỹ đến Việt Nam để tiến hành một cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam và về quan hệ của hai nước với Hội Nhà văn Việt Nam cho dù tất cả các nhà văn cựu binh Mỹ, đặc biệt là cá nhân ông đã bị đe dọa và bị một số cuộc biểu tình chống đối trước trụ sở của Trung tâm William Joiner tại Boston.

Những việc làm của Kevin Bowen góp phần vào việc hóa giải những nỗi đau và hận thù do chiến tranh gây ra thông qua các hoạt động văn hóa và văn chương, cuối cùng đã được xã hội Mỹ thừa nhận. Năm 2015, chính quyền bang Massachussets đã chọn một ngày để tôn vinh ông hàng năm tên là "Ngày của Kevin Bowen".

 

Huân chương Hữu nghị tặng nhà thơ Kevin Bowen.

Nhà thơ Kevin Bowen đã xuất bản tập thơ "Chơi bóng rổ với Việt cộng". Chưa bao giờ hình ảnh một “kẻ thù cũ” hay theo cách gọi của những người Mỹ là "Việt Cộng" lại hiện lên đẹp đẽ và nhân văn đến như vậy. Tập thơ đã thay đổi cái nhìn của rất nhiều trí thức, văn nghệ sĩ và công chúng Mỹ.

Ông đã cùng nhà thơ Bruce Weigl, nhà thơ, dịch giả Nguyễn Bá Chung và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tuyển chọn và dịch tập thơ "Sông núi", gồm các bài thơ hay nhất viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ của các nhà thơ Việt Nam.

Nhà thơ Kevin Bowen đã được đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và lãnh đạo Bộ Ngoại giao tiếp nhân những chuyến ông đến Việt Nam; được Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam tặng Kỷ niệm chương và bằng khen. 

 

Nhà thơ Kevin Bowen và nhà thơ Nguyễn Quang Thiều.

 

Nhà thơ Bruce Weigl tặng nhà thơ Nguyễn Quang Thiều tập thơ "Bài ca bom Napan".


Năm 1991, Kevin Bowen dẫn đoàn nhà văn cựu binh Mỹ đến Việt Nam để tiến hành một cuộc hội thảo đầu tiên về chiến tranh Việt Nam và về quan hệ của hai nước với Hội Nhà văn Việt Nam cho dù tất cả các nhà văn cựu binh Mỹ, đặc biệt là cá nhân ông đã bị đe dọa và bị một số cuộc biểu tình chống đối trước trụ sở của Trung tâm William Joiner tại Boston.


Người thứ hai được trao tặng Huân chương Hữu nghị là nhà thơ Bruce Weigl, sinh năm 1949, hiện sống tại bang Ohio, tham gia chiến tranh Việt Nam từ năm 1967 đến năm 1968, sau khi trở về Mỹ đã tham gia phong trào phản chiến. Ông đã xuất bản tập thơ rất nổi tiếng tên là "Bài ca bom Napan", tố cáo sự tàn ác của quân đội Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Tập thơ đã được dịch ra nhiều tiếng trên thế giới, được trao giải Chung kết của giải Pulizer (một giải thưởng danh giá nhất dành cho văn chương và báo chí của nước Mỹ). Riêng bài thơ "Bài ca bom Napan" đã được đưa vào giảng dạy trong hầu hết các trường phổ thông trung học, cao đẳng và đại học Mỹ.

Một tập thơ nổi tiếng khác của Bruce Weigl có tên "Người đàn ông đi xe đạp”, viết về những con người Việt Nam bình dị trong chiến tranh, về giấc mơ lớn nhất của ông trong thời gian tham chiến ở Việt Nam là chiến tranh kết thúc. Trong một ngày đẹp trời ông muốn trở thành một người Việt Nam để được đạp xe như những người Việt Nam bình dị, được sống những ngày hòa bình với gia đình, được gieo trồng trên cánh đồng của mình.

 

Nhà thơ Bruce Weigl.

Năm 1995 được phép của nhà nước Việt Nam, ông đã vào Việt Nam để nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi trong trại mồ côi ở tỉnh Hà Nam. Ông đã viết trên một tờ báo ở Ohio rằng: "Chúng ta có nuôi một triệu đứa trẻ Việt Nam với một điều kiện đời sống tốt nhất thì chúng ta cũng không bù đắp nổi tội ác mà chúng ta đã gây ra đối với hàng triệu đứa trẻ Việt Nam vô tội và trong sáng…”. Sau đó ông xuất bản tập truyện ký có tên "Vòng tròn của Hạnh". Hạnh chính là tên cô bé Việt Nam được ông nhận làm con nuôi. Cuốn sách đó thực chất là một bản tố cáo về tội ác của Mỹ trong chiến tranh ở Việt Nam đồng thời là một hồ sơ về những vẻ đẹp văn hóa truyền thống của đất nước Việt Nam.

Với Trung tâm William Joiner, Bruce Weigl là một thành viên quan trọng xây dựng mối quan hệ giữa các nhà văn Việt Nam và Mỹ trong việc tuyển chọn, dịch thuật, quảng bá văn học Việt Nam. Ông đã trực tiếp dịch và giới thiệu tác phẩm của hàng chục nhà thơ Việt Nam tới bạn đọc Mỹ. Người Mỹ gọi ông là "Nhà Việt Nam học" bởi sự hiểu biết về văn hóa, về văn học Việt Nam. Ông đã thực hiện gần 100 buổi đọc thơ và thuyết trình về đất nước con người Việt Nam. Ông thổ lộ khát vọng được sống những năm tháng cuối đời ở Việt Nam và được yên nghỉ mãi mãi trên mảnh đất Việt Nam.

Tập thơ gần nhất ông xuất bản có tên "Sau mưa thôi nã đạn" (đã được dịch sang tiếng Việt). Cả tập thơ là tiếng nói về những vẻ đẹp của con người và đất nước Việt Nam, là khát vọng hòa bình và ý chí đấu tranh giải phóng đất nước của những người lính Cụ Hồ.

 

Huân chương Hữu nghị tặng nhà thơ Bruce Weigl.

Với những cống hiến không mệt mỏi của hai giáo sư, nhà thơ cựu binh Mỹ trong gần 40 năm qua, ngày 20/9/2024, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tô Lâm đã ký quyết định số 943/QĐ-CTN tặng Kevin Bowen và Bruce Weigl Huân chương Hữu nghị vì “đã có những đóng góp tích cực trong việc tham gia dịch và quảng bá hiệu quả các tác phẩm văn học Việt Nam; tổ chức giao lưu, kết nối các nhà văn hai nước, góp phần xây dựng nhịp cầu hữu nghị giữa Việt Nam và Hoa Kỳ”.

Vào lúc 15 giờ 30 phút ngày 22/9/2024 (giờ Mỹ), tức 2 giờ 30 phút ngày 23/9/2024 (giờ Việt Nam) tại New York, trong khuôn khổ sự kiện “Gặp gỡ những người bạn Hoa Kỳ”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đã trao tặng Huân chương Hữu nghị cho nhà thơ Bruce Weigl. Giáo sư, nhà thơ Kevin Bowen vì lý do cá nhân không kịp đến dự, Ban tổ chức sẽ gửi đến tận tay ông sau.

 

Tổ chức sản xuất: Xuân Bách
Nội dung: Hữu Việt
Nguồn: Báo Nhân dân, ngày 23.9.2024.

Vào hồi 15h30 ngày 22.9 (khoảng 2h30 sáng ngày 23.9 giờ Việt Nam), Lễ trao tặng Huân chương Hữu nghị của Tổng Bí thư – Chủ tịch nước Tô Lâm cho hai nhà thơ Mỹ Kevin Bowen và Bruce Weigl được tổ chức tại Phòng khánh tiết Garrison, khách sạn Lotte New York Palace, thành phố New York.

20240524

Ở nước ta, tác phẩm viết về chiến tranh có vị trí quan trọng trong suốt chiều dài lịch sử văn học song hành cùng lịch sử dân tộc. Hầu hết tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại đều gắn với các sáng tác về mảng đề tài người lính, chiến tranh. Trên bình diện quốc tế, trong bối cảnh văn học Việt Nam được dịch và giới thiệu ở các quốc gia khác còn khá khiêm tốn, những tác phẩm văn học Việt Nam viết về đề tài chiến tranh, thời hậu chiến được dịch, xuất bản ở Hoa Kỳ (Mĩ) lại chiếm số lượng đáng kể và mang trên mình sứ mệnh đặc biệt. Xuất phát từ phương diện dịch văn học Việt Nam ở nước ngoài, chúng tôi muốn đóng góp một góc nhìn về vai trò của các tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh được dịch ở Hoa Kỳ thông qua việc thống kê, khảo sát các cuốn sách có tác phẩm viết về đề tài này được dịch, xuất bản ở Hoa Kỳ; tổng hợp các ý kiến, nhận định, đánh giá xung quanh mảng đề tài này (từ phía Việt Nam và Hoa Kỳ) từ góc độ tiếp nhận để khẳng định “Vai trò sứ giả của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, thời hậu chiến được dịch ở Hoa Kỳ”.

   1. Tổng quan tình hình dịch thuật, giới thiệu tác phẩm văn học Việt Nam viết về chiến tranh, hậu chiến được dịch ở Hoa Kỳ

   Dịch tác phẩm văn học là cánh cửa mở ra các con đường giao lưu, tiếp nhận văn học ở các quốc gia. Các tác phẩm, tác giả lớn của các nền văn học lớn thế giới (như văn học Nga, văn học Pháp, văn học Trung Quốc…) đều được dịch, giới thiệu, nghiên cứu ở Việt Nam. Đây là xu thế tất yếu, mang tính chủ động của văn học Việt Nam, nền văn học nhỏ bé, chịu sự ảnh hưởng của các nền văn học lớn, các tác gia lớn của thế giới. Ở chiều ngược lại, việc dịch tác phẩm văn học Việt Nam ở nước ngoài còn hạn chế. Nhà thơ Hữu Thỉnh đã dẫn số liệu thống kê như sau: “Tính đến nay (2010) đã có hơn 13.000 tác phẩm văn học của thế giới được dịch ra tiếng Việt, và hầu hết các tác phẩm lớn của nhân loại đã được giới thiệu một cách có hệ thống ở Việt Nam. Trong khi đó, số lượng các tác phẩm văn học của Việt Nam được dịch và giới thiệu ra nước ngoài mới chỉ có hơn 570 tác phẩm (từ văn học cổ cho đến nay)”1.

   Sự xuất hiện của văn học Việt Nam qua các bản dịch mới chủ yếu ở các quốc gia có mối quan hệ về lịch sử, chính trị lâu đời, hoặc đặc biệt với Việt Nam (như Hoa Kỳ, Pháp, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc…). Trong đó, theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, Hoa Kỳ là quốc gia dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam nhất thế giới2. Xét ở mảng đề tài chiến tranh, thời hậu chiến sẽ càng thấy vị trí đi đầu của Hoa Kỳ trong số các quốc gia dịch và giới thiệu văn học Việt Nam. Theo nguồn tư liệu (sách) hiện chúng tôi thu thập và khảo cứu sơ bộ, trong số hơn bảy mươi cuốn sách dịch tác phẩm văn học Việt Nam được xuất bản ở Hoa Kỳ có gần một nửa (ba mươi ba cuốn) có tác phẩm viết về chủ đề chiến tranh và thời hậu chiến. Đây là con số thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nước Mĩ đối với các sáng tác về mảng đề tài này của văn học Việt Nam.

   Cụ thể, ở thể loại tiểu thuyết, có tám cuốn, trong đó có nhà văn Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh (The Sorrow of War: A Novel of North Vietnam, 1996), Lê Lựu với Thời xa vắng (A Time Far PastA Novel of Vietnam, 1997), Dạ Ngân với Gia đình bé mọn (An Insignificant Family, 2009).

   Thể loại truyện ngắn ghi nhận tám ấn phẩm được xuất bản: ba tập truyện của từng tác giả và năm tuyển tập truyện ngắn chọn lọc của nhiều tác giả. Hà Nội at Midnight: Stories (2023) gồm mười hai truyện ngắn của Bảo Ninh viết về bộ mặt khủng khiếp, phức tạp của chiến tranh, ảnh hưởng của chiến tranh trong mối quan hệ giữa người với người như Hà Nội lúc không giờ, Rửa tay gác kiếm, Lá thư từ Quý Sửu, Trại bảy chú lùn. The Stars, the Earth, the River: Short Stories by Le Minh Khue (1997) là mười bốn truyện ngắn của Lê Minh Khuê. The General Retires and Other Stories (1992) gồm Tướng về hưu và bảy truyện ngắn khác của Nguyễn Huy Thiệp. Trong năm hợp tuyển: The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers (1995); Night, Again: Contemporary Fiction from Vietnam (1996); Vietnam: A Traveler’s Literary Companion (1996); Love after War (2003); Other Moons: Vietnamese Short Stories of the American War and Its Aftermath (2020) có mặt các nhà văn sáng tác thời hậu chiến của Việt Nam như Hồ Anh Thái, Lê Lựu, Ngô Tự Lập, Ma Văn Kháng, Dạ Ngân, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Trần Vũ, Nguyễn Minh Châu, Lê Minh Khuê…

   Thể loại tự truyện (nhật ký) với dấu ấn của cuốn Nhật ký Đặng Thùy Trâm (Last Night I Dreamed of Peace: The Diary of Dang Thuy Tram, 2007) với câu chuyện lịch sử ly kỳ, xúc động và thiêng liêng về nguồn gốc, quá trình lưu giữ, trao nhận hai tập nhật ký của nữ bác sĩ Đặng Thùy Trâm.

   Thơ là thể loại được dịch, xuất bản ở Hoa Kỳ nhiều hơn cả (13/33 cuốn). Bốn mươi bảy bài thơ của nhà thơ Hữu Thỉnh được tuyển dịch từ hai tập Thư mùa đông (1994), Trường ca biển (1994) in trong The Time Tree: Poems by Hữu Thỉnh (2003). Năm mươi sáu bài thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ được dịch với tên Green Rice: Poems by Lam Thi My Da (2005). Các bài thơ được chọn dịch từ các tập thơ Mẹ và em (1987), Đường xa (1989), Quà tặng (1990), Về (1994) của Nguyễn Duy được in trong tập Distant Road: Selected Poems of Nguyen Duy (1999). Đặc biệt là sự xuất hiện của hai cuốn sách tại Hoa Kỳ từ rất sớm: tập Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh (The Prison Dairy of Ho Chi Minh, 1971); Chinh phụ ngâm (The Song of a Soldiers Wife: Chinh Phu Ngam, 1986) của Đặng Trần Côn. Tác phẩm Bình Ngô đại cáo và 150 bài thơ chữ Hán, chữ Nôm của Nguyễn Trãi được xuất bản thành tập Beyond the Court Gate: Selected Poems of Nguyen Trai (2010). Ngoài ra, thi phẩm về đề tài người lính, chiến tranh cách mạng của Hồ Chí Minh, Huy Cận, Thế Lữ, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Trần Đăng Khoa, Hoàng Nhuận Cầm, Thanh Thảo, Hoàng Trung Thông, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lưu Quang Vũ, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Nguyễn Hữu Loan, Nguyễn Khoa Điềm, Xuân Quỳnh, Anh Thơ, Phạm Tiến Duật… được in chung trong bảy hợp tuyển thơ ca: From the Vietnamese: Ten Centuries of Poetry (1968); A Thousand Years of Vietnamese Poetry (1975); Mountain River: Vietnamese Poetry from the Wars1943-1993 (1998); An Anthology of Vietnamese Poems: From the Eleventh through the Twentieth Centuries (2001); 6 Vietnamese Poets (2002); The Defiant Muse: Vietnamese Feminist Poems from Antiquity to the Present: A Bililngual Anthology (2007); Black Dog, Black Night: Contemporary Vietnamese Poetry (2008). Đặc biệt hơn cả là tập thơ Thơ từ tài liệu chiến trường (Poems from Captured Documents, 1994) gồm hai mươi ba bài thơ của nhiều tác giả - người lính giải phóng Việt Nam được biên tập, dịch từ tài liệu mà Bộ Quốc phòng Mĩ thu được trong chiến tranh.

   Ấn phẩm dưới dạng hợp tuyển đa thể loại gồm cuốn Behind the Red Mist: fiction by Ho Anh Thai, The Stars, the Earth (tiểu thuyết Trong sương hồng hiện ra và chín truyện ngắn của Hồ Anh Thái, 1998); Writing between the Lines: An Anthology on War and Its Social Consequences (1997) gồm thơ, tiểu thuyết, tác phẩm phê bình, trong đó có sáng tác của Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Lê Lựu, Chu Lai, Phạm Tiến Duật…

   Về thời gian xuất bản, có thể thấy các tác phẩm được dịch và phát hành tại Hoa Kỳ tập trung ở giai đoạn 1994-2009 (mười hai cuốn phát hành vào những năm nửa cuối thập niên 90 thế kỷ XX; mười ba cuốn xuất bản vào những năm 2000). Nhìn từ mối quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước, mười lăm năm trước và sau sự kiện bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ là khoảng thời gian nước Mĩ muốn tìm hiểu, nhìn rõ hơn về đất nước, con người Việt Nam trong và sau cuộc chiến tranh (1954-1975) và rộng hơn, xa hơn là theo cả chiều dài lịch sử thông qua các sáng tác văn chương chọn dịch.

   Ba mươi ba cuốn sách về chủ đề chiến tranh, đã vẽ nên diện mạo đất nước, con người Việt Nam qua các cuộc chiến (từ thời phong kiến qua các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, Minh… đến thời hiện đại với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ). Có thể ví đó là những sứ giả đặc biệt “đi qua biển”3 mang sứ mệnh giúp “nhìn lại”, hàn gắn, kết nối và quảng bá văn học, đất nước, con người Việt Nam.

   2. Vai trò sứ giả của văn học Việt Nam viết về chiến tranh, thời hậu chiến được dịch ở Hoa Kỳ nhìn từ góc độ tiếp nhận

   2.1. Sứ mệnh giúp “nhìn lại” lịch sử với thông điệp về hòa bình

   Như phần lược thảo các cuốn sách có tác phẩm văn học Việt Nam được dịch và xuất bản ở Hoa Kỳ ở trên, chúng tôi nhận thấy việc lựa chọn, dịch và giới thiệu những sáng tác về chiến tranh, thời hậu chiến đó trước hết xuất phát từ nhu cầu “nhìn lại” lịch sử, đời sống tâm hồn con người Việt Nam trong và sau cuộc chiến qua văn chương. Ở khía cạnh này, chúng tôi lấy tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh và Nhật ký Đặng Thùy Trâm làm tiêu điểm để nhìn từ góc độ tiếp nhận.

   Ở Việt Nam, số phận của Nỗi buồn chiến tranh cũng đã trải qua một quá trình “nhìn lại”. Tác phẩm ra đời năm 1987, xuất bản lần đầu năm 1990 tại Nhà xuất bản Hội Nhà văn với tên Thân phận của tình yêu, được Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991; đến năm 2006, được đón nhận và khẳng định được vị trí trên văn đàn. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận xét rất gọn, rất đắt trong bài viết trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội: “Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh mang một chủ đề kép. Nó không chỉ nêu một cách nhìn khác về chiến tranh, mà còn đề xuất một cách viết khác về đề tài chiến tranh, đề xuất một đổi thay về phương pháp sáng tác nữa”4.

   Nỗi buồn chiến tranh xuất bản năm 1996 tại Hoa Kỳ với tựa The Sorrow of War: A Novel of North Vietnam, trước cả khi tiểu thuyết được xuất bản trở lại ở Việt Nam. Trả lời phỏng vấn của The Washington Post, nhà văn Bảo Ninh tâm sự trách nhiệm của ông khi viết tác phẩm này: “Tôi nhận ra rằng nếu tôi không tham gia chiến tranh, không trở thành một người lính thì tôi sẽ chọn một con đường khác và không là một nhà văn. Đó là lý do tại sao kể từ khi cầm bút, tôi luôn viết về những nỗi đau khổ của người dân Việt Nam, cách họ sống qua cuộc chiến”5. Trăn trở của ông đã chạm được đến trái tim, ý thức của người Mĩ, đặc biệt là những nhà văn - cựu binh Mĩ, giới nghiên cứu, phê bình văn chương… Trong bài viết “Tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh nhìn từ Mĩ”, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã khảo sát việc tiếp nhận tác phẩm ở Mĩ qua những nhận xét, đánh giá của người Mĩ. Ở đó, ông có đề cập nhận xét của nhiều cựu binh Mĩ, như Susan L., nữ quân nhân. Bà đặc biệt chú ý đến hình ảnh, vai trò của người phụ nữ trong chiến tranh khi đọc Nỗi buồn chiến tranh và thấy được nhiều vấn đề cũng như có thêm chiều kích mới cho cuộc chiến tranh Việt Nam6.

   Trường hợp Nhật ký Đặng Thùy Trâm cũng để lại dấu ấn đặc biệt tại Hoa Kỳ. Trong bài báo “Đêm qua tôi mơ thấy hòa bình: Nhật ký Đặng Thùy Trâm: chiến tranh, phong cách nhà văn, sự hòa giải”, Phó Giáo sư Suellynn Duffey, Đại học Missouri - St. Louis đã dẫn hai ý kiến của sinh viên (từ bài luận của họ) về cuốn sách. Chúng tôi xin trích dịch hai ý kiến để thấy rõ ý nghĩa của tác phẩm dưới góc nhìn của giới trẻ Mĩ: “Khi bắt đầu đọc cuốn nhật ký của bác sĩ Đặng Thùy Trâm, tôi không tin mình sẽ hứng thú nhất với những trải nghiệm của Thùy vì chúng quá khác biệt so với hiểu biết của tôi. […] Tuy nhiên, càng đọc tôi càng nhận ra mình quan tâm tới những điểm chung hơn là những điều khiến chúng tôi khác biệt. Tôi đọc vì những cảm xúc được sẻ chia hơn là những trải nghiệm đối lập. Xét trên nhiều phương diện, cuốn nhật ký của Thùy đầy ắp các mối quan tâm chung của nhân loại: tình yêu, tình bạn, nỗi cô đơn, nỗi buồn, sự sợ hãi và cảm giác bất an…”7; “Trong thế giới của Thùy,rõ ràng người Mĩ là những kẻ gây nên tội ác. Dù gọi là cuộc chiến tranh Việt Nam hay cuộc kháng chiến chống Mĩ thì cuộc chiến cũng gây nên sự mất mát, nỗi đau không gì đo đếm được cho cả đàn ông, phụ nữ và cả các gia đình liên quan… Cuốn nhật ký của Thùy có khơi lại vết thương đang liền da nhưng sức mạnh của nó chính là khả năng mang tới cơ hội để thấu hiểu và cùng thảo luận”8.

   Không chỉ có nước Mĩ, người Mĩ có cơ hội “nhìn lại” về cuộc chiến ở Việt Nam, đất nước Việt Nam qua các sáng tác văn chương đến từ đất nước từng ở bên kia chiến tuyến, thông qua hoạt động dịch thuật này, ngay cả các nhà văn, cựu chiến binh Việt Nam, độc giả Việt Nam cũng được “nhìn lại” và hiểu hơn về nước Mĩ, cách họ vượt qua “hội chứng Việt Nam” để quay trở lại Việt Nam, tìm hiểu về Việt Nam với mục đích hiểu và khép lại lịch sử, từng bước bình thường hóa quan hệ giữa hai dân tộc. Ở đó, thông điệp về hòa bình, những giá trị nhân văn cao cả mà các tác phẩm văn học viết về chiến tranh, thời hậu chiến chuyển tải đã chạm đến trái tim của độc giả Hoa Kỳ, giúp hàn gắn vết thương chiến tranh để hai dân tộc xích lại gần nhau. Thông điệp hòa bình đã được nhà văn Bảo Ninh phát biểu khi trả lời phỏng vấn của The Washington Post: “… tôi viết về chiến tranh là để chống lại chiến tranh; viết về chiến tranh là viết về hòa bình – về sự hòa giải, tình yêu, niềm vui, sự tha thứ và những ý tưởng nhân văn khác nữa”9. “Viết về chiến tranh là viết về hòa bình” cũng là lời tựa trong Lời giới thiệu cuốn Other Moons: Short Stories of the American War and Its Aftermath do chính nhà văn chấp bút10. Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều thì khẳng định: “Các nhà văn của chúng ta đến Mĩ cũng chỉ cất lên một thứ tiếng thôi, đó là ngôn ngữ của hòa bình và sự xóa bỏ hận thù trong quá khứ”11.

   2.2. Sứ mệnh hàn gắn và kết nối qua hoạt động giao lưu, dịch thuật văn học

   Cánh cửa giao lưu, tiếp nhận văn học được mở ra thông qua hoạt động dịch văn học. Kết quả là tạo nên sợi dây kết nối, mối liên hệ giữa các nhà văn, dịch giả, độc giả ở hai nước thông qua quá trình lựa chọn dịch, dịch, đọc và tiếp nhận tác phẩm nguyên gốc và tác phẩm dịch.

   Có thể nói đóng góp lớn nhất trong quá trình hàn gắn, kết nối hai dân tộc qua con đường văn chương thuộc về Trung tâm William Joiner (nay là Viện William Joiner) – sự ra đời của nó được đánh giá “là một sự kiện kỳ diệu”. Quả thực, tổ chức này đã làm nên những điều thực sự diệu kỳ trong quá trình bình thường hóa quan hệ Việt - Mĩ. Dịch giả Nguyễn Bá Chung đã tổng kết: “… trung tâm Joiner đã có một đóng góp rất lớn cho sự hòa giải giữa hai dân tộc Việt - Mĩ, nhất là trong suốt những năm cấm vận ngặt nghèo từ 1975 tới 1994. Cái lớn của sự đóng góp đó không phải do tài chánh, do quyền lực, mà là cái lớn ở tấm lòng. […] Và từ tấm lòng đó mới có thể đi đến thơ văn”12. Trong chuyến sang Việt Nam dự Diễn đàn văn học Việt - Mĩ (2012), trả lời phỏng vấn của Tuổi trẻ Cuối tuần, Kevin Bowen, Giám đốc Trung tâm William Joiner đã tâm sự việc bắc nhịp cầu Việt - Mĩ “trở thành điều mà chúng tôi phải dấn thân thực hiện để đem lại hòa bình, sửa đổi sai lầm”13.

   Kenvin Bowen đã có công kết nối hai nền văn học, hai dân tộc qua hoạt động - dịch thuật các sáng tác văn chương và sáng tạo nghệ thuật. Kevin Bowen cùng gia đình đã đón tiếp hơn một trăm nhà văn, nhà nghiên cứu Việt Nam tại chính ngôi nhà của mình, dũng cảm vượt qua sự đe dọa bằng lời nói và cả hành động của chính người Mĩ. Ông tổ chức dịch và dịch văn học Việt Nam sang tiếng Anh. Ông sáng tác nhiều về Việt Nam và còn vẽ chân dung các nhà văn, nhà thơ Việt Nam – những gương mặt ông đã gặp, tiếp xúc và muốn lưu giữ bởi với ông “Mỗi bức chân dung trở thành một sự suy ngẫm về công việc và cuộc đời họ, về cuộc chiến tranh mà họ đã đi qua, cuộc chiến với những ngôn từ mà họ đấu tranh nhiều năm sau đó để mang theo những gì họ đã chứng kiến, với cuộc sống hai mặt mà họ với tư cách văn nghệ sĩ, trưởng thành nhưng không già đi, vẫn trẻ trung trong cuộc chiến cho dù thời gian có kéo họ đi”14.

   Bên cạnh đó, phải nói rằng hoạt động dịch thuật văn học Việt Nam viết về chiến tranh cũng đã kết nối và tạo nên sự tiếp nối giữa các thế hệ dịch giả - học giả người Mĩ, đặc biệt là người Mĩ gốc Việt. Tên tuổi của học giả - dịch giả Huỳnh Sanh Thông gắn với tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam The Song of a Soldiers Wife: Chinh Phu Ngam, các sáng tác viết về chiến tranh trong An Anthology of Vietnamese Poems: from the Eleventh through the Twentieth Centuries. Các dịch giả Kevin Bowen, Wayne Karlin, Bruce Weigl, cùng Nguyễn Quí Đức, Nguyễn Bá Chung kết hợp với các nhà văn Việt Nam như Hồ Anh Thái, Lê Minh Khuê… dịch nhiều tác phẩm thơ, truyện về đề tài chiến tranh trong các dự án dịch văn học Việt Nam của Trung tâm William Joiner như tập truyện ngắn của Lê Minh Khuê; tuyển tập thơ Nguyễn Duy, Hữu Thỉnh; tập truyện Phía bên kia thiên thườngThơ từ tài liệu chiến trường; hợp tuyển Viết giữa hai dòng; hợp tuyển thơ Sông núi… Hay trường hợp các tiểu thuyết của nhà văn Dương Thu Hương đều là sản phẩm dịch thuật kết hợp giữa dịch giả Nina McPherson và nhà văn - dịch giả Phan Huy Đường. Những năm gần đây, phải kể đến Giáo sư Hà Mạnh Quân (Đại học Montana) cùng Cab Trần, Joseph Babcock dịch tuyển tập truyện viết về cuộc chiến tranh chống Mĩ và thời hậu chiến (2020), các truyện ngắn chọn lọc của Bảo Ninh (2023) cùng hoạt động giới thiệu, quảng bá văn học Việt Nam ở Mĩ; đánh giá tình hình dịch thuật, giảng dạy văn học Việt Nam ở Hoa Kỳ.

   “Chúng tôi […] thiết lập nên các mối liên hệ và nghĩ rằng nó sẽ có tác dụng và ảnh hưởng lâu bền…”15. Nhận định đó của nhà thơ - dịch giả Kevin Bowen đã được lịch sử xác nhận. Các sáng tác văn học Việt dịch ở Hoa Kỳ đã thành toàn sứ mệnh thiêng liêng: hàn gắn và kết nối, tạo nên những mối quan hệ thân tình, bền chặt.

   2.3. Sứ mệnh quảng bá các giá trị văn học và văn hóa

   Không chỉ giúp hai bên cùng nhìn lại lịch sử, nhìn lại chính mình qua sáng tác văn chương; giúp hàn gắn và kết nối những con người của hai dân tộc từng đối diện nhau với họng súng, sự hận thù; văn học Việt Nam viết về chiến tranh được chọn dịch ở Hoa Kỳ còn thực hiện sứ mệnh của sứ giả văn hóa: quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam từ những trang văn, áng thơ, dòng nhật ký.

   Nếu như các sáng tác về đề tài cuộc chiến tranh 1954-1975, thời hậu chiến vẽ nên khuôn mặt đau thương, đa diện của chiến tranh và đặt ra những câu hỏi về số phận con người, giá trị của hòa bình… giúp độc giả nhìn lại lịch sử và hiểu hơn về con người Việt Nam trong và sau cuộc chiến thì số lượng lớn các tác phẩm thuộc mảng đề tài này được lựa dịch từ văn học cổ điển và văn học hiện đại – dòng văn học cách mạng lại mang đến hình ảnh một Việt Nam của tình yêu đất nước, yêu lý tưởng, yêu hòa bình, bản lĩnh và giàu đức hi sinh vì độc lập, tự do cho dân tộc. Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh); Từ ấy, Ê-mi-ly, con (Tố Hữu); Màu tím hoa sim (Hữu Loan); Khoảng trời - hố bom (Lâm Thị Mỹ Dạ); Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh); Lời ru đồng đội (Nguyễn Duy); Chiếc lược ngà (Nguyễn Quang Sáng); Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây (Phạm Tiến Duật); Những ngôi sao xa xôi (Lê Minh Khuê)… là những tác phẩm, tác giả đặc sắc vẽ nên gương mặt đáng tự hào của Việt Nam như thế.

   Phải nói rằng, để được dịch và xuất bản ở Hoa Kỳ, các tác phẩm văn học Việt Nam đã qua quá trình lựa chọn, thẩm định và đánh giá gắt gao ở cả khía cạnh nội dung tác phẩm và tài năng của người cầm bút của các đơn vị xuất bản. Nỗi buồn chiến tranh và các truyện ngắn đắc sắc của Bảo Ninh, tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu, Tướng về hưu và truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp; Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), truyện ngắn Lê Minh Khuê, thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ… đã gây được tiếng vang ở Việt Nam chính là những đại diện tiêu biểu nhất – sứ giả vinh dự nhất cho văn chương nước nhà xuất hiện ở các kệ sách, trong các thư viện, tại các lớp học… ở Mĩ, quảng bá cho nền văn học Việt Nam vốn còn nhỏ bé trên bản đồ văn học thế giới.

   Dịch, giới thiệu, đọc các cuốn sách dịch tác phẩm viết về chiến tranh nói riêng và văn học Việt Nam nói chung giúp dịch giả - nhà văn Mĩ, thậm chí không ít độc giả Mĩ hiểu và yêu quý đất nước, con người Việt Nam, tìm đến Việt Nam để tiếp tục tìm hiểu, thưởng ngoạn; nhiều cựu binh Mĩ đọc những tác phẩm văn học dịch và trở lại Việt Nam để thấy một Việt Nam khác, để thấy gắn gó với mảnh đất còn đầy bom đạn này. Nhà thơ - dịch giả Bruce Weigl tâm sự rằng: “Đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam và những trải nghiệm của tôi đã góp phần định hình nên con người tôi bây giờ. Tôi cảm thấy tôi là một người mạnh mẽ hơn và tốt hơn nhờ những trải nghiệm này và tôi cảm giác rằng Việt Nam luôn là một trong hai đất nước của trái tim tôi”16.

   3. Kết luận

   Sự chủ động lựa chọn các tác phẩm từ phía các nhà văn, cựu binh, dịch giả người Mĩ cùng sự tư vấn, phối hợp của các nhà văn Việt Nam, qua Hội Nhà văn Việt Nam giai đoạn 1994-2009, đã tạo nên “làn sóng nhập khẩu” văn học Việt Nam viết về chiến tranh, thời hậu chiến ở Hoa Kỳ. Chính làn sóng này đã giúp các tác phẩm văn học Việt Nam thực hiện vai trò sứ giả của mình. Từ sau năm 2010, hoạt động của Viện William Joiner của Mĩ ở Việt Nam dần thu hẹp, mối quan tâm của người Mĩ với lịch sử, văn học, văn hóa Việt Nam (giai đoạn chiến tranh) cũng không còn nhiều như trước. Theo đó, việc dịch văn học viết về mảng đề tài chiến tranh cũng như dịch văn học Việt Nam ở Hoa Kỳ cũng giảm về số lượng. Để tiếp tục mạch nguồn trí tuệ, tình yêu văn chương của thế hệ các nhà văn - dịch giả - học giả người Mĩ, người Mĩ gốc việt bắt nguồn từ những năm 60 thế kỷ XX; nối dài cây cầu hữu nghị mà các học giả, nhà văn, cựu binh của Trung tâm William Joiner và các nhà văn, cựu binh Việt Nam xây nên bằng cả tấm lòng, sự kiên trì, dũng cảm từ những năm 80 thế kỷ XX; Việt Nam cần chủ động đưa văn học Việt Nam ra thế giới bằng chiến lược quảng bá, giới thiệu tác phẩm văn học Việt Nam thông qua hoạt động dịch thuật, giao lưu và nghiên cứu văn học. Trong đó, sự phối hợp với các học giả người Mĩ gốc Việt, cơ sở giáo dục của Hoa Kỳ (các trường đại học giảng dạy tiếng Việt, văn học - văn hóa - lịch sử Việt Nam; các trường phổ thông có học sinh người gốc Việt) là vô cùng cần thiết.

   Góp phần quyết định trong công tác dịch thuật, quảng bá văn học, văn hóa Việt Nam ở nước ngoài chính ở những tác phẩm hay. Đây là trách nhiệm nhưng cũng là vinh dự, sứ mệnh của người cầm bút đối với nền văn học nước nhà. Làm sao để “những đứa con tinh thần” của mình sẽ có thêm đời sống thứ hai, thứ ba… (qua các bản dịch); “có lửa” để “làm tan chảy những bức tường thép mà mỗi người tự dựng lên”, có sức mạnh của băng “gắn kết những ốc - đảo - người thành một khối”, cũng “dịu dàng mà mãnh liệt” như nước để “vượt qua những rào cản của lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ” (theo Nguyễn Ngọc Tư17)? Câu hỏi này xin dành cho những nghệ sĩ của nghệ thuật ngôn từ tìm câu trả lời trong hành trình khẳng định tên tuổi của mình trên văn đàn dân tộc và tìm chỗ đứng trên bản đồ văn học thế giới. 

PGS. TS. Đoàn Lê Giang, ThS. Nguyễn Thị Thùy Dương

Nguồn: Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 22.4.2024.

 

Tài liệu tham khảo:
1. An Như (thực hiện), “Mĩ là nước dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam nhất thế giới”, Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam,truy xuấttừhttp://vlcc.vn/tieng-noinha-van/nha-tho-nguyen-quang-thieumy-la-nuoc-dich-nhieu-tac-pham-van-hoc -viet-nam-nhat-the-gioi.html.
2. Huy Thông (2010), “Nhà văn Lê Lựu: Kể chuyện “đi sứ” văn học đến Mĩ”, Báo Thể thao & Văn hóa, truy xuất từ https://thethaovanhoa.vn/nha-van-leluu-ke-chuyen-di-su-van-hoc-den-my2010053109234032.htm).
3. Nguyễn Bá Chung (2007), “Trung tâm Joiner: hai mươi năm nhìn lại”, Tạp chí Sông Hương, truy xuất từ http://tapchisonghuong.com.vn/tapchi/c111/n866/Trung-tam-Joiner-haimuoi-nam-nhin-lai.html.
4. Nguyễn Thị Tuyết Ngân (chuyển ngữ), “Các văn nghệ sĩ Việt Nam qua nét vẽ của một nhà thơ Mĩ”. Tạp chí Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cand.com.vn/doisong-van-hoa/Cac-van-nghe-si-Viet-Namqua-net-ve-cua-mot-nha-tho-My-i332244/).
5. Nguyễn Việt Chiến(2010),“Văn học Việt trong mắt các nhà văn nước ngoài”,Báo Thanh niên, truy xuất từhttps://thanhnien.vn/van-hoc-viettrong-mat-cac-nha-van-nuoc-ngoai185297439.htm.
6. Nhiều tác giả (1995), The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers. (Wayne Karlin, Le Minh Khue & Truong Vu biên soạn), Connecticut: Curbstone Press.
7. Nhiều tác giả (2017), Những người đi qua biển - Those who cross the ocean, Nhà xuất bản Hội Nhà văn.
8. Nick Hilden (2023), “Bao Ninh on coming to terms with trauma in Vietnam, The acclaimed writer talks about his new story collection, ‘Hanoi at Midnight,’ and about changes in his country”, The Washington Post, Jun 18, 2023, https://www.washingtonpost.com/books/2023/06/18/bao-ninhhanoi-midnight-interview/?fbclid=IwAR1 QRpmrVMaXdad7LVp1WvV19bnyF_Vh Yi4BbeDeb9weoDdBSwPJU4SkWp8.
9. Phạm Xuân Nguyên (2014), Nhà văn như Thị Nở, Nhà xuất bản Hội Nhà văn & Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam.
10. Suellynn Duffey (2015), “Last Night I Dreamed of PeaceThe Diary of Dang Thuy Tram: War, Writing, Reconciliation”, proceedinigs of the Third Conference on Veterans in Society, pp. 85-98, https://vtechworks.lib.vt.edu/server/api /core/bitstreams/d68bd8f6-a8d1-437f9b2a-3421fe8dc574/content.
11. Thái Lộc (thực hiện, 2012), “Vì Việt Nam, và những mối quan hệ lâu bền… ”, Tuổi trẻ Cuối tuần, truy xuất từ https://cuoituan.tuoitre.vn/vi-viet-namva-nhung-moi-quan-he-lau-ben489097.htm).
12. Thùy Trang (2022), “Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Hồ sơ quan trọng nhất của dân tộc chính là văn hóa”, Báo Văn hóa, truy xuất từ http://baovanhoa.vn/vanhoa/artmid/428/articleid/57968/nha-thonguyen-quang-thieu-ho-so-quan-trong-n hat-cua-dan-toc-chinh-la-van-hoa.
13. Trần Đình Sử (2022), “Nỗi buồn chiến tranh, một cách viết khác về chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, truy xuất từ http://vannghequandoi.com.vn/binhluan-van-nghe/noi-buon-chien-tranhmot-cach-viet-khac-ve-chien-tranh_13950 .html.
14. Trần Trung Sáng (2018), “Nguyễn Ngọc Tư và giải thưởng Literaturpreis 2018: Văn chương vượt qua rào cản lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ”, Báo Công an Đà Nẵng - Chuyên trang của Báo Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cadn.com.vn/nguyenngoc-tu-va-giai-thuong-literaturpreis2018-van-chuong-vuot-qua-rao-can-lich-s u-van-hoa-ngon-ngu-post192731.html).

Chú thích:
1 Nguyễn Việt Chiến (2010), “Văn học Việt trong mắt các nhà văn nước ngoài”, Báo Thanh niên, truy xuất từ https://thanhnien.vn/van-hoc-viet-trong-mat- cac-nha-van-nuoc-ngoai-185297439.htm.
2 An Như (thực hiện), “Mĩ là nước dịch nhiều tác phẩm văn học Việt Nam nhất thế giới”, Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam, truy xuất từ http://vlcc.vn/tieng-noi-nha-van/nha-tho-nguyen- quang-thieu-my-la-nuoc-dich-nhieu-tac-pham-van- hoc-viet-nam-nhat-the-gioi.html.
3 Nhiều tác giả (2017), Những người đi qua biển - Those who cross the ocean, NXB Hội Nhà văn.
4 Trần Đình Sử (2022), “Nỗi buồn chiến tranh, một cách viết khác về chiến tranh”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, truy xuất từ http://vannghequandoi.com.vn/binh- luan-van-nghe/noi-buon-chien-tranh-mot-cach-viet- khac-ve-chien-tranh_13950.html.
5 Nick Hilden (2023), “Bao Ninh on coming to terms withtraumainVietnam,Theacclaimedwritertalksabout his new story collection, ‘Hanoi at Midnight,’ and about changes inhiscountry”.The Washington Post, Jun 18,2023, https://www.washingtonpost.com/books/2023/06/18/bao- ninh-hanoi-midnight-interview/?fbclid=IwAR1QRpm- rVMaXdad7LVp1WvV19bnyF_VhYi4BbeDeb9weoDdB SwPJU4SkWp8.
6 Phạm Xuân Nguyên (2014), Nhà văn như Thị Nở, NXB Hội Nhà văn & Công ty Cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam.
7,8SuellynnDuffey(2015),“LastNightIDreamedofPeace:TheDiaryofDangThuyTram:War,Writing,Reconciliation”, proceedinigsoftheThirdConferenceonVeteransinSociety, pp.87,88,https://vtechworks.lib.vt.edu/server/api/core/bitstreams/d68bd8f6-a8d1-437f-9b2a-3421fe8dc574/content.
9 Nick Hilden (2023), “Bao Ninh on coming to terms withtraumainVietnam,Theacclaimedwritertalksabout his new story collection, ‘Hanoi at Midnight,’ and about changes inhis country”,The Washington Post, Jun 18,2023, https://www.washingtonpost.com/books/2023/06/18/bao -ninh-hanoi-midnight-interview/?fbclid=IwAR1QRpmrVMaXdad7LVp1WvV19bnyF_VhYi4BbeDeb9weoDdBSwPJU4SkWp8.
10 Nhiều tác giả (1995), The Other Side of Heaven: Post-War Fiction by Vietnamese and American Writers, (Wayne Karlin, Le Minh Khue & Truong Vu biên soạn), Connecticut: Curbstone Press.
11 Thùy Trang (2022), “Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: Hồ sơ quan trọng nhất của dân tộc chính là văn hóa”, Báo Văn hóa, truy xuất từ http://baovanhoa.vn/ van-hoa/artmid/428/articleid/57968/nha-tho-nguyenquang-thieu-ho-so-quan-trong-nhat-cua-dan-tocchinh-la-van-hoa.
12 Nguyễn Bá Chung (2007), “Trung tâm Joiner: hai mươi năm nhìn lại”, Tạp chí Sông Hương, truy xuất từ http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c111/n866/Trungtam-Joiner-hai-muoi-nam-nhin-lai.html.
13, 15 Thái Lộc (thực hiện, 2012), “Vì Việt Nam, và những mối quan hệ lâu bền…”, Tuổi trẻ Cuối tuần,truy xuất từ https://cuoituan.tuoitre.vn/vi-viet-nam-vanhung-moi-quan-he-lau-ben-489097.htm).
14 Nguyễn Thị Tuyết Ngân (chuyển ngữ), “Các văn nghệ sĩ Việt Nam qua nét vẽ của một nhà thơ Mĩ”,Tạp chí Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cand.com.vn/doisong-van-hoa/Cac-van-nghe-si-Viet-Nam-qua-net-ve-cuamot-nha-tho-My-i332244/).
16 Huy Thông (2010), “Nhà văn Lê Lựu: Kể chuyện “đi sứ” văn học đến Mĩ”. Báo Thể thao & Văn hóa, truy xuất từ https://thethaovanhoa.vn/nha-van-le-luu-kechuyen-di-su-van-hoc-den-my-2010053109234032.htm.
17 Trần Trung Sáng (2018), “Nguyễn Ngọc Tư và giải thưởng Literaturpreis 2018: Văn chương vượt qua rào cản lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ”, Báo Công an Đà Nẵng - Chuyên trang của Báo Công an Nhân dân, truy xuất từ https://cadn.com.vn/nguyen-ngoc-tu-va-giaithuong-literaturpreis-2018-van-chuong-vuot-qua-raocan-lich-su-van-hoa-ngon-ngu-post192731.html).

 

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2012 vào ngày 9.4.2012 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 24 đề tài tham gia hội nghị, gồm 3 đề tài Hán Nôm, 4 đề tài ngôn ngữ, 12 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Yếu tố thần kỳ trong Nghìn lẻ một đêm do sinh viên SV Sity Maria Cotika thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo  do sinh viên Thái Nguyễn Hồng Sương thực hiện; Nhân vật chấn thương trong một số tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986-1995 do sinh viên Trần Phượng Linh thực hiện; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: cách đọc xã hội học do sinh viên Nguyễn Ngọc Thảo Như thực hiện; Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam từ sau 1986 do sinh viên Lê Thị Kim Loan thực hiện; Mỹ cảm trong ca từ của Trịnh Công Sơn do sinh viên Phan Thị Diệu Thảo làm chủ nhiệm. Từ những công trình được thực hiện công phu và nghiêm túc này, hy vọng sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ sẽ còn đạt được những giải cao hơn ở cấp Thành và cấp Bộ.

Những sử gia đến từ bên ngoài đã mang lại sự hiểu biết lịch sử Việt Nam thấu đáo và lắm khi bất ngờ với chính người Việt Nam vì những phát hiện thú vị. Trong cái nhìn liên ngành, liên kết toàn cầu, họ làm cho câu chuyện lịch sử Việt Nam trở nên gắn kết, hấp dẫn.

Vượt qua những rào cản

Cho đến nay, cuốn Imperial Heights – Dalat and the Making and Undoing of French Indochina (tựa tiếng Việt: Đỉnh cao đế quốc – Đà Lạt và sự hưng vong của Đông Dương thuộc Pháp)(1) được in và tái bản nhiều lần tại Việt Nam. Độc giả quan tâm tới lịch sử thuộc địa ở Viễn Đông nói chung, lịch sử đô thị Đà Lạt nói riêng thì không thể thiếu cuốn sách này trên kệ. Tác giả cuốn sách, nhà nghiên cứu đến từ Đại học Victoria (Toronto, Canada) – Eric T. Jennings cho hay, ông đã bỏ mười năm để viết cuốn sách này.

“Như nhiều sử gia khác, thực tế là cùng lúc tôi đeo đuổi nhiều dự án. Tôi cũng tham khảo tài liệu ở nhiều quốc gia. Các trung tâm lưu trữ của Việt Nam ở Hà Nội, TPHCM và Đà Lạt là đương nhiên rồi. Nhưng còn ở cả Pháp, Thụy Sỹ, Canada, và cả ở Mỹ nữa. Tôi cứ lần theo những manh mối mà các tài liệu hé mở và việc truy tìm đã đưa tôi theo nhiều hướng bất ngờ”, tác giả cuốn sách trên kể lại như vậy về quá trình khảo cứu trong một phỏng vấn của Trần Đức Tài.

20240313 3

Một số cuốn sách của học giả nước ngoài nghiên cứu về Việt Nam được độc giả trong nước quan tâm thời gian gần đây. Ảnh: N.V.N

Qua cách khảo cứu và thể hiện của nhà nghiên cứu Canada nói trên, lịch sử Đà Lạt gắn với những chương trình khai phá, xây dựng trạm an dưỡng cấp thời của người Pháp ở Đông Dương hồi cuối thế kỷ 19. Mục đích ban đầu, đó là nơi trú ẩn, thoát khỏi các chứng bệnh nhiệt đới, sau đó, là một khu nghỉ dưỡng, một vườn ươm nòi giống Pháp và xa hơn nữa, là đỉnh cao tham vọng – trở thành thủ phủ liên bang Đông Dương.

Nhưng đó cũng là thành phố trình bày rõ ràng con đường thiết lập sự hưng thịnh của quyền lực cho đến suy vong của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương vào giữa thế kỷ 20. Viết sử với một tư duy mới, một phương pháp vi lịch sử (micro history), các câu chuyện được Eric T. Jennings đưa vào sách hấp dẫn, khả tín bởi nguồn tài liệu dày công phu .

Nhà nghiên cứu sinh năm 1970 có mẹ là người Pháp, sinh ra ở Mỹ và trưởng thành ở Canada đã chọn Đà Lạt làm đối tượng nghiên cứu, đơn giản là khởi từ một thắc mắc trong một lần ông tiếp cận được bức điện tín từ Pháp gửi cho Toàn quyền Đông Dương nhưng địa chỉ đến lại là Đà Lạt. “Lạ quá, sao toàn quyền này không ở Hà Nội chứ?”, ông tự hỏi. Và những tìm tòi giúp ông dần dần hiểu ra tầm quan trọng của Đà Lạt đối với Đông Dương trong thời Pháp thuộc.

Với các nhà nghiên cứu nước ngoài hướng đến đề tài lịch sử Việt Nam, quá trình sưu khảo, xử lý tài liệu lưu trữ ở nhiều nơi rất phức tạp và những cơ chế tài trợ, giải thưởng, học bổng khuyến khích nghiên cứu các nước là một trong những điều giúp họ chuyên tâm, không lo lắng về tài chính lẫn thủ tục. Có thể đọc thấy trong lời cám ơn, Jennings nhắc đến sự hỗ trợ của: Hội đồng Nghiên cứu Khoa học xã hội và nhân văn Canada, cơ quan này đã trợ giúp nhiều chuyến du khảo tới Việt Nam và Pháp; Học viện Nghiên cứu sức khỏe Canada tài trợ việc nghiên cứu chính yếu cho chương 1 và 3; một khoản tài trợ cho nghiên cứu của Đại học Victoria và một học bổng Spooner giúp nghiên cứu sâu hơn tại các văn khố thuộc địa tại Pháp, Việt Nam và một giải thưởng nghiên cứu JIGES cho phép tiếp cận nguồn tài liệu tại Zurich.

Cách ăn uống đến trang phục, giải trí của người Việt trong quá khứ và trong những cuộc tiếp xúc với phương Tây đều có thể là đề tài nghiên cứu vi lịch sử hấp dẫn giới nghiên cứu nước ngoài.
Ảnh trong cuốn Khoái khẩu và khát vọng của Erica J. Peters.

Nếu Eric T. Jennings tạo nên nguồn cảm hứng cho những ai quan tâm đến đô thị học qua trường hợp Đà Lạt thì Jason Gibbs lại kéo người quan tâm đến tân nhạc Việt Nam phải đọc kỹ các tiểu luận của ông trong cuốn Rock Hà Nội, Bolero Sài Gòn – Câu chuyện tân nhạc Việt Nam – để biết văn hóa âm nhạc Việt Nam.

Đến Việt Nam vào năm 1993, khi đang là chuyên viên thư viện công cộng San Francisco, California (Mỹ), đồng thời là người soạn nhạc, chơi nhạc, Jason Gibbs dành nhiều thời gian nghiên cứu về ảnh hưởng của nhạc phương Tây đến tân nhạc Việt Nam từ những năm 1930 cho đến sau ngày đất nước thống nhất.

Học tiếng Việt để nghe nhạc Việt và viết khảo cứu về tân nhạc Việt Nam, Gibbs tạo nên nguồn cảm hứng đặc biệt với những nhà nghiên cứu trẻ Việt Nam qua tác phẩm của ông. “Với bản thân tôi, từ khi dịch những bài viết này (của Jason Gibbs) cách đây hơn một thập niên, tôi đã có được một cảm hứng để tìm đọc những nghiên cứu khác về Việt Nam cũng như viết những cuốn sách của riêng mình.

Có những nơi Jason Gibbs đã cày xới, cũng có rất nhiều vùng trống còn đợi nhiều người, trong đó có tôi, tiếp cận”, Nguyễn Trường Quý, dịch giả cuốn sách và đồng thời là nhà biên khảo Hà Nội đã viết như thế trong lời giới thiệu lần tái bản cuốn Rock Hà Nội, Bolero Sài Gòn(2). Cuốn sách này cũng đã từng được tái bản, được giới nghiên cứu âm nhạc trong nước trích dẫn khá nhiều.

Mảnh đất màu mỡ

Các tác phẩm điền dã dân tộc học của những nhà truyền giáo, những ghi chép thực địa của các nhà buôn, công chức, du khách, nhà văn… là nền tảng sử liệu giúp ta hiểu nhiều hơn về Việt Nam trong quá khứ. Rất nhiều bút ký hành trình từ thế kỷ 17-19, trong mắt người phương Tây, Việt Nam là một vùng đất mới, các ghi chép đậm chất Đông phương luận của họ là kết quả của những bước tiếp cận cái dị biệt và thậm chí “va chạm” về văn hóa.

Lịch sử các đô thị có số phận đặc biệt của Việt Nam cũng là đề tài được giới sử gia quốc tế quan tâm bởi qua đó, có thể nhận ra bức tranh chuyển biến xã hội và văn hóa rộng lớn.
Ảnh: Cư xá Hoa viên Decoux (Đà Lạt năm 1942) trong sách Đỉnh cao đế quốc của Eric T Jennings.

Vào đầu thế kỷ 20, cùng với Viện Viễn Đông Bác cổ, các nhà nghiên cứu độc lập đã ra sức tìm hiểu Đông Dương như một cái nôi hợp dung hai nền văn hóa Ấn độ và Trung Hoa, một phương Đông của exotic (hương xa) để mang lại các trải nghiệm mới lạ mà người phương Tây tò mò muốn biết. Thời sau hòa bình, đặc biệt là khi đất nước mở cửa, việc các nhà nghiên cứu phương Tây chọn Việt Nam làm điểm đến trong các chủ đề của mình lại cho thấy lịch sử đất nước này đặt trong tương quan lịch sử thế giới cần được nhìn nhận lại bằng một phương pháp và lối tư duy khác, có tính liên ngành và vượt qua các ranh giới truyền thống.

Có thể nhận thấy có sự chuyển tiếp về phương pháp nghiên cứu lịch sử Việt Nam qua các tác phẩm của Philippe Papin (Pháp), David G. Marr, George Dutton (Mỹ), Li Tana (Úc), Yoshiharu Tsuboi (Nhật)… Dù ở khoanh vùng đề tài nào, họ đều có những công trình sử học đáng kể, giàu phát hiện khi nghiên cứu về Việt Nam, cho dù vì nhiều lý do, số phận công trình của mỗi người ở chính tại Việt Nam không hề giống nhau.

Việt Nam hội nhập mạnh mẽ vào thế giới toàn cầu hóa như một xu thế tất yếu, con đường những sử gia trẻ đến với các chủ đề lịch sử, văn hóa Việt Nam ngày càng rộng mở. Các nghiên cứu của họ không còn nhất thiết phải đi vào những vấn đề “đại tự sự”, những luận đề lớn lao hay phải khoác lên màu sắc quan điểm chính trị như trước đó mười, hai mươi năm, mà mở ra những hướng mới, vi lịch sử, thể hiện lịch sử bằng cách tái tạo câu chuyện hấp dẫn, quan tâm nhiều tới yếu tố địa văn hóa trong tương quan khu vực và toàn cầu… làm cho các tác phẩm vừa đảm bảo tính khả tín, hàn lâm lại vừa có sức hấp dẫn đại chúng. Quan trọng nhất, là giúp cho chính sử học thoát ra khỏi tháp ngà kinh viện để chạm vào đời sống một cách gần gũi.

Ngoài hai ví dụ về lịch sử Đà Lạt thời Pháp thuộc trong sách Eric T. Jennings và diễn trình tân nhạc Việt Nam trong sách của Jason Gibbs, thì có thể kể thêm nhiều trường hợp thú vị.

Vấn đề tiếng nói, nguyện vọng dân chúng thể hiện qua ăn uống trong cuốn Appetites and Aspirations in Vietnam: Food and Drink in the Long Nineteenth Century (Khoái khẩu và khát vọng: Hay là câu chuyện đồ ăn thức uống trong trường thiên thế kỷ 19 ở Việt Nam)(3) của Erica J. Peters là một thí dụ. Từ các tài liệu về việc sản xuất, phân phối và tiêu dùng thực phẩm vào thế kỷ 19, tác giả đưa ra những phát hiện bất ngờ từ hai phía: về phía nhà cầm quyền thực dân, việc kiểm soát thực phẩm là kiểm soát công cụ kinh tế và quyền lực; về phía dân chúng, việc chọn tiêu thụ thực phẩm không chỉ trình bày chủ nghĩa dân tộc, mà còn là cách bộc lộ khát vọng khẳng định giá trị cộng đồng dân tộc thông qua cái ăn.

Tác giả Erica J. Peters là đồng sáng lập và là Giám đốc Hội Sử gia Ẩm thực Bắc California. Bà có thời gian dài nghiên cứu ẩm thực Việt Nam và nhìn ẩm thực như một yếu tố sử học, văn hóa học và chính trị học. Các phát hiện của bà được công bố trong nhiều hội thảo quốc tế và cô đọng trong cuốn sách vừa được ra mắt độc giả Việt Nam trong năm 2023.

Rất gần với cách khai thác của Erica J. Peters, nhà nghiên cứu Nir Avieli (Israel) thì chọn khảo sát ẩm thực ở một khoanh vùng hẹp, đương đại là Hội An để viết công trình Rice Talks: Food and Community in a Vietnamese Town (Tạm dịch: Chuyện gạo: Thức ăn và cộng đồng tại một thị trấn Việt Nam)(4). Từ một khách du lịch ba lô đến Hội An vào năm 1993, và sau đó từ 1998 thì Nir Avieli trở lại nhiều lần để nghiên cứu nhân học ẩm thực. Tác phẩm chứa đựng một thực tế sống động và các phân tích chi tiết, hấp dẫn từ trong cung cách người Hội An dùng bữa, cấu trúc trên bàn ăn của họ và xa hơn, là những triết lý chứa đựng trong từng món ăn. Bữa ăn Hội An là sự củng cố tình cảm, nhưng cũng là nơi xác lập các vị trí, tôn ti trong và ngoài gia đình, gia tộc…

“Trong cuốn sách này, tôi tiếp cận ẩm thực và cách ăn uống theo một cách khác: tập trung vào khía cạnh văn hóa và xã hội của lĩnh vực ẩm thực ở thị trấn nhỏ Hội An và nhấn mạnh động cơ lẫn ý nghĩa của việc ăn uống vượt qua nhu cầu sinh lý hoặc giới hạn sinh thái, tôi cho rằng khi nhìn vào thực hành ăn uống cho phép chúng ta tiếp cận xã hội và văn hóa Việt Nam từ một góc nhìn độc đáo. Tôi chứng minh rằng đây là một lăng kính phân tích mạnh mẽ cho phép có được những hiểu biết mới về hiện tượng ‘là người Việt Nam’”, Nir Avieli viết trong lời dẫn nhập.

Nhãn quan mới, phương pháp mới

Trong chừng hai thập niên qua, trước những vấn nạn môi trường toàn cầu, trào lưu nghiên cứu lịch sử sinh thái đang được chú trọng. Từ nhãn quan của nghiên cứu lịch sử sinh thái, các tác giả Michitake Aso, David Biggs đều tìm được những đề tài thú vị tại Việt Nam và tạo nên những công trình có tiếng vang.

Michitake Aso trong Rubber and the Making of Vietnam: An Ecological History (tên sách tiếng Việt: Cây cao su ở Việt Nam – Dưới góc nhìn Lịch sử – Sinh thái (1897-1975)(5) đã nhìn sự du nhập giống cây cao su vào Việt Nam trong thời Pháp thuộc, tạo nên những đồn điền không chỉ là vấn đề “khai thác thuộc địa” như bấy lâu ta vẫn nghe qua. Qua công trình công phu này, tác giả là một sử gia về môi trường toàn cầu đã nhìn cao su – giống cây ngoại lai – như một biểu tượng thể hiện rõ nhất phía sau đó bức tranh một xã hội nô lệ và một dân tộc tự do.

Các đồn điền là nơi biểu hiện rõ nhất sự áp đặt quyền lực, các mức độ cai trị của nhà cầm quyền thực dân và cũng là nơi tức nước vỡ bờ, bùng phát các phong trào chống thực dân; đó lại là nơi triển khai các cương lĩnh xây dựng quốc gia. “Chúng ta sẽ không thể hiểu lịch sử Việt Nam và Campuchia trong thế kỷ 20 mà không tìm hiểu những tác động của các đồn điền lên môi trường và sức khỏe con người”, tác giả viết.

Trong khi đó, David Biggs dành nhiều năm để khảo cứu về lịch sử sinh thái của đồng bằng sông Cửu Long và tương quan sinh thái học của vùng đất này với lịch sử dựng nước. Cuốn Quagmire: Nation – Building and Nature in the Mekong Delta (Tựa tiếng Việt: Đầm lầy: Kiến tạo quốc gia và tự nhiên vùng đồng bằng sông Cửu Long)(6) của David Biggs là toàn cảnh bức tranh khẩn hoang và không chỉ cải biến đồng bằng theo mục đích khai thác, lập nên xứ sở, cộng đồng quốc gia và khi cần, còn có thể sử dụng đặc thù tự nhiên vào trong các sách lược quân sự của các phong trào kháng chiến địa phương…

Đầm lầy, một mặt là sức mạnh của dân bản xứ, nhưng lại là ẩn dụ về sự thách đố tự nhiên quá sức, dẫn đến thất bại (hay sa lầy) đối với các thế lực ngoại xâm. Từng đến miền Nam dạy tiếng Anh, David Biggs theo đuổi nghiên cứu lịch sử môi trường Việt Nam và bảo vệ tiến sĩ tại Đại học Washington. Ngoài Đầm lầy, ông còn một cuốn Footprins of War, đặt lịch sử môi trường trong những dấu ấn của cuộc thời chiến tranh.

Điều thú vị là cả hai sử gia, David Biggs lẫn Michitake Aso với các công trình về lịch sử sinh thái Việt Nam đều dành được những giải thưởng quốc tế rất danh giá về nghiên cứu môi trường. Michitake đoạt giải Henry A. Wallace của Hội Lịch sử Nông nghiệp và giải thưởng Charles A Weyerhaeuser của Hội Lịch sử Rừng cho công trình Cây cao su ở Việt Nam. Còn cuốn Đầm lầy của David Biggs thì được ghi nhận tại giải George Perkins Marsh 2012 cho sách hay nhất về lịch sử môi trường.

* * *

Có thể thấy bóng dáng các nhà nghiên cứu nước ngoài tại những thư viện, trung tâm lưu trữ Việt Nam hay dấn thân vào những cuộc điền dã không mỏi mệt dù với họ, biết bao rào cản phía trước khi theo đuổi một nghiên cứu về Việt Nam. Các công trình của họ tạo nên sự ngạc nhiên thú vị đối với độc giả trong nước, khi mà giới nghiên cứu trong nước hoặc chưa có những công trình đột phá, phát hiện và lan tỏa, hoặc chưa theo kịp xu hướng phương pháp nghiên cứu lịch sử mới bên ngoài (cũng có thể bởi đơn thuần chạy theo những dự án đặt hàng và xếp mãi trên các kệ sách của những trường, viện).

Không chỉ đem lại cái nhìn mới, cách kể mới, tham chiếu mới cho người đọc ngay chính tại Việt Nam, các sử gia ngoại quốc đang dấn thân trong địa hạt Việt Nam học vừa kể trên còn tạo nguồn cảm hứng và đánh thức trách nhiệm đối với giới nghiên cứu trong nước.

Nguyễn Vĩnh Nguyên

Nguồn: Kinh tế Sài Gòn Online, ngày 16.02.2024.

 

(1) Phạm Viêm Phương, Bùi Thanh Châu dịch, Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2022.

(2) Nguyễn Trương Quý dịch, NXB Đà Nẵng, 2019.

(3) Trịnh Ngọc Minh dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, 2023.

(4) Được biết, bản tiếng Việt do Phạm Minh Quân chuyển ngữ sẽ ra mắt bạn đọc Việt Nam trong tương lai gần.

(5) Hải Thanh, Minh Tâm, Khánh Tâm dịch, NXB Tổng hợp TPHCM, 2023.

(6) Trịnh Ngọc Minh dịch, Phanbook & NXB Hồng Đức, 2019.

Trong cuốn sách "Tiểu luận về nghệ thuật An Nam", Louis Bezacier đã phân tích các ảnh hưởng đến nghệ thuật An Nam và phân loại theo trình tự thời gian những biểu hiện của nền nghệ thuật ấy. Đây là hai kết quả đáng chú ý nhất của cuốn sách trung thực và không trau chuốt, thiếu những khéo léo văn chương nhưng lại phong phú sự thật này.

Nhìn nhận các hiện vật với con mắt đa chiều, đa nguyên và đa văn hóa

Tác giả của Tiểu luận về nghệ thuật An Nam tự nhận thức rằng công việc mà ông làm là nhặt nhạnh từng "hạt ngọc", so sánh, đối chiếu, giám định, khảo tả, và phân tích, rồi tổng hợp lại để tạo nên chuỗi vòng nghệ thuật An Nam. Đó là chuỗi vòng có 11 thế kỷ tồn tại.

Bằng những cứ liệu vật chất, Louis Bezacier cho rằng, chỉ từ cuối thế kỷ IX mới có những yếu tố cụ thể, xác đáng cho lịch sử nghệ thuật An Nam, còn trước đó, trong suốt ngàn năm, chủ yếu là dấu vết của các chính quyền phương Bắc để lại: các ngôi mộ Hán-Lục triều. Xa hơn nữa, nền nghệ thuật Đông Sơn cho thấy mối liên hệ mật thiết với văn minh Dayak của Borneo và Battak của Sumatra, và thảng hoặc có thể nhìn thấy những dấu vết văn minh nửa Trung Hoa nửa bản địa. Vì vậy, ông cho rằng, sẽ không ích gì khi tìm kiếm tổ tiên trực tiếp của người An Nam ngày nay qua cư dân Đông Sơn. Bezacier đã đưa ra một nhãn quan rộng mở khi nhìn các hiện vật với con mắt đa chiều, đa nguyên và đa văn hóa.

Từ những nghiên cứu của Louis Bezacier, các học giả Việt Nam trong thế kỷ XX đã triển khai hàng loạt chuyên luận, như Mỹ thuật thời LýMỹ thuật thời TrầnMỹ thuật thời LêMỹ thuật thời Mạc của Viện Mỹ thuật, Mỹ thuật người Việt của Nguyễn Quân và Phan Cẩm Thượng…

Sang thế kỷ XXI, ta còn biết cuốn Arts of Việt Nam 1009-1945 của Kerry Nguyễn-Long (Nxb Thế giới, 2013), L'envol du dragon-Art royal du Vietnam (Musée National des Arts Asiatiques – Guimet, Paris, 2014), Mỹ thuật Nguyễn của Nguyễn Hữu Thông (Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019). Tất cả các công trình trên là một cuộc chạy tiếp sức trong nhiều thập kỷ, trong đó Louis Bezacier là người chạy ở những chặng đầu tiên

Phác thảo về một nền nghệ thuật tôn giáo

Điều đáng lưu ý trong luận điểm của Bezacier đó là phác thảo về một nền nghệ thuật tôn giáo, đúng hơn là nghệ thuật đa tôn giáo của Việt Nam thời kỳ tiền hiện đại. Trong đó, nghệ thuật quân sự, tang lễ, và Thái miếu, lăng mộ thuộc về Nho giáo. Tháp Phật, tháp mộ, và tượng pháp thuộc nghệ thuật Phật giáo.

Với góc nhìn từ chủ thể văn hóa, Bezacier coi các công trình nghệ thuật (dù là kiến trúc, điêu khắc, hay hội họa, nghi lễ,…) như là những dạng thức thể hiện khác nhau của thực hành tôn giáo và tín ngưỡng dân gian. Ông đã đưa ra một nhận định quan trọng về đình làng. Đó là loại hình kiến trúc An Nam duy nhất dựng trên cột trụ nhà sàn, nó khác với truyền thống kiến trúc Trung Hoa, và gần với kiến trúc bản địa Nam Á, như kiến trúc của người Mọi ở Tây Nguyên, người Mường, nó giống những hình mẫu cổ xưa còn bảo lưu ở Indonesia, như Goloubew và Nguyễn Văn Huyên từng đưa ra.

Trong kiến trúc Phật giáo, ngoài việc mô tả bình đồ phổ biến nói chung, như nội công ngoại quốc, cấu trúc chữ T hay công 工 của các gian điện chính, với các đơn nguyên như tam quan, hành lang, chính điện, hậu đường, nhà thờ tổ,… ông còn để ý đến các am thờ dành cho các bậc đại thí chủ đã hưng công xây dựng chùa.

20240301 2

Bìa cuốn Tiểu luận về nghệ thuật An Nam. Ảnh: Nhã Nam


Cuốn sách có tính phản biện

Một điểm quan trọng mà Louis Bezacier đưa ra trong Tiểu luận về nghệ thuật An Nam là phản biện lại luận điểm cho rằng nghệ thuật An Nam chỉ là “một bản sao lỗi”, là “nghệ thuật thuộc địa” phái sinh từ nghệ thuật Trung Hoa.

Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, nhiều học giả (cả Nho học lẫn Tây học) có ý cho rằng, người An Nam là một giống người thoát thai từ Hán tộc, trong quá trình di cư về phương Nam, nên nghệ thuật An Nam cũng chỉ là một cành nhánh của nghệ thuật Trung Hoa.

Từ quan điểm của thuyết giống nòi (racism), và thuyết tiến hóa xã hội (Darwin socialism), Bezacier đã phối hợp với thuyết di cư và phương pháp so sánh văn hóa để cho rằng, nền nghệ thuật An Nam là một nghệ thuật đa nguyên, với giao cắt phức hợp, nhiều màu: Trung Hoa có, bản địa có, Đông Á có, Nam Á có, Việt là chủ thể trong quá trình kiến tạo văn hóa, nhưng thêm vào đó là sự đóng góp của những nhóm Mường, Chăm, Mọi,... Tức là, Louis Bezacier tuyên bố xóa bỏ cách nhìn đơn sắc và đơn tuyến về lịch sử nghệ thuật Việt Nam: “khó có thể mong muốn nghiên cứu kiến trúc An Nam mà không am hiểu các loại hình nghệ thuật quanh nó và ảnh hưởng đến nó: các loại hình nghệ thuật Trung Hoa, nghệ thuật của Indonesia và chúng tôi thậm chí còn đi xa hơn, của Trung Á.”

Hơn nữa, tác giả của Tiểu luận về nghệ thuật An Nam nhận xét rằng, nếu kiến trúc Chăm chỉ là những dạng phế tích (đã chết), thì nghệ thuật An Nam với những công trình kiến trúc tâm linh và thực hành tín ngưỡng, là một nền nghệ thuật đang sống, đang tồn tại, với nhiều biểu hiện đa dạng và sống động.

Bezacier cũng đã phản biện bài nghiên cứu của Dumoutier về một số tác phẩm điêu khắc trang trí trong đền thờ của Đinh Tiên Hoàng có niên đại vào thế kỷ X. Bằng các thao tác của mỹ thuật học lịch sử và khảo cổ học lịch sử, ông khẳng định rằng những tác phẩm này khác xa với những tác phẩm điêu khắc thế kỷ X-XI. Đó là sự khác biệt về mô típ và phong cách tạo hình.

Louis Bezacier viết: “Những con rồng đầu to phân giới với bàn để đồ cúng ở đền thờ Đinh Tiên Hoàng cũng có phong cách rất khác so với những con rồng ở Đại La và thời Trần. Cuối cùng, những con chó, được làm khéo hơn và hiện thực hơn so với những con vật ở Lam Sơn và cũng như ở bả vai của những con vật này, được tô điểm họa tiết ngọn lửa xoắn ốc ở gốc và có gai nhọn ở đầu, ở Lam Sơn kiểu trang trí này xuất hiện khá rõ nét song kém sắc sảo hơn so với bây giờ.”

Dựa vào các tư liệu văn bia tại đền vua Đinh có niên đại xác tín (1607, 1610), và các tác phẩm điêu khắc cùng thời kỳ, Louis Bezacier giám định rằng, các tác phẩm điêu khắc ở đây có niên đại vào thế kỷ XVII, và chúng “đã cách xa thứ nghệ thuật thanh nhã ở Đại La, thậm chí cách xa cả nghệ thuật thời kỳ đầu nhà Lê, và đặc biệt bia mộ của các vua Lê ở Lam Sơn.” Những nhận định này là hoàn toàn xác đáng, khả tín, và cho đến nay đã trở thành chân lý.

Ảnh hưởng của Bezacier trong văn hóa Việt Nam

Louis Bezacier theo học tại Trường Mỹ thuật Paris từ năm 1926 và tham gia các tiết học về kiến trúc tại xưởng Defrasse-Madeline từ 1931-1932. Ông đến Hà Nội ngày 3.10.1935, đảm nhiệm vai trò bảo tồn các công trình ở Bắc Kỳ, rồi ở miền Trung Việt Nam, khu vực địa lý rộn hơn Bắc Kỳ tính thêm cả phần lớn lãnh thổ vương quốc Champa cũ.

Ngay khi đến Việt Nam, Louis Bezacier đã tiến hành công tác tu bổ một trong những công trình đẹp nhất Bắc Kỳ là chùa Ninh Phúc (hay còn gọi là chùa Bút Tháp), ở tỉnh Bắc Ninh. Ông cũng thực hiện các cuộc khai quật nhằm tìm ra dấu vết của các công trình trước đó.

Đến năm 1945, ông dành phần lớn thời gian và tâm huyết cho kiến trúc dân sự và tôn giáo cổ như chùa, lăng mộ, di tích cung điện triều Lê, cầu có mái che… ở châu thổ sông Hồng và tỉnh Thanh Hóa.

Louis Bezacier cũng tu bổ một phù đồ gạch ở Bình Sơn, tỉnh Vĩnh Yên, có từ thế kỷ 11. Ông chính là người xác định được một phong cách mới: nghệ thuật Đại La (thế kỷ 11-12). Ngoài ra, Louis Bezacier còn chịu trách nhiệm tu bổ nhiều công trình Champa ở khu di tích Lý Sơn.

Một số tác phẩm tiêu biểu của Louis Bezacier: L’Architecture religieuse au Tonkin (Kiến trúc tôn giáo ở Bắc Kỳ, 1938), L’art et les constructions militaires annamites (Nghệ thuật và các công trình quân sự An Nam, 1941), Le panthéon bouddhique des pagodes du Tonkin (Điện thờ Phật giáo trong các chùa ở Bắc Kỳ, 1943), Essais sur l’art annamite (Tiểu luận về nghệ thuật An Nam, 1943), L’art vietnamien (Nghệ thuật Việt Nam, 1955).

Ảnh hưởng của Louis Bezacier trong văn hóa Việt Nam được thể hiện qua cách ông khảo tả các đồ án mỹ thuật, mà cho đến nay, đã trở thành các thuật ngữ. Lối khảo tả chân chất của Bezacier về con rồng thời Lý được định danh thành “rồng hình giun”/”rồng giun”, “rồng dây”. Nguyên ủy, rồng thời Lý thường có nhịp uốn khúc rất gấp, với đặc điểm long dạng uốn khúc uyển chuyển và mảnh mai như dây leo, nhưng cách dùng chữ “rồng giun” của Bezacier khiến cho người Việt ngày nay vẫn còn sử dụng như là “khái niệm” và được đưa vào nhiều sách nghiên cứu, giáo trình.

Bezacier cũng là người đầu tiên phát hiện ra sự đồng điệu của phong cách của các hoa văn ở Đại Việt với chân Thiếp Tháp 铁塔 thời Tống. Ông coi đây là một biểu hiện cụ thể của ảnh hưởng Trung Hoa tới nghệ thuật Việt Nam thời Lý Trần.

________________

Buổi ra mắt bản dịch tiếng Việt của tác phẩm Tiểu luận về nghệ thuật An Nam của Louis Bezacier do Nhã Nam và Viện Pháp tổ chức sẽ diễn ra từ 9g30-11g30, thứ Bảy, ngày 24.2.2024. Địa điểm: Tầng 1, Complex 01, ngõ 167 Tây Sơn, Hà Nội.

Khách mời tham gia sự kiện gồm: PGS-TS. Trần Trọng Dương; Nhà nghiên cứu Mỹ thuật Nguyễn Tuấn Anh; Tiến sĩ văn học Mai Anh Tuấn.

Phương Đào

Nguồn: Người đô thị, ngày 22.02.2024.

Thông tin truy cập

63700382
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
20674
23426
63700382

Thành viên trực tuyến

Đang có 167 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website