NGUYỄN CÔNG LÝ (*)

 1. Giới thiệu chung về chương trình khung và sách giáo khoa Trung học môn Văn ở Miền Nam trước 1975

1.1. Tên gọi môn học

Trong chương trình Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (nay là Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) ở Miền Nam trước năm 1975 thì tên môn học là Quốc văn, nhưng các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa thì ghi là Quốc văn hay Quốc văn độc bản như bộ sách của Trần Trọng San; Việt văn như bộ sách của Võ Thu Tịnh; Giảng văn như bộ sách của Đỗ Văn Tú hay bộ sách của Thậm Thệ Hà (một số quyển có sự cộng tác của Xuân Tước và Bằng Giang); Việt Nam thi văn trích giảng như sách của Tạ Ký.

Nguyễn Tiến Lực (*)

Mở đầu

 

Vào giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây ồ ạt xâm nhập vào phương Đông. Các nước phương Đông đều đứng trước những thử thách vô cùng to lớn: hoặc bị xâm chiếm, biến thành các nước thuộc địa, hoặc từng bước trở thành các nước phụ thuộc, hoặc phải ký kết các hiệp ước bất bình đẳng với các nước phương Tây. Trong tình hình đó, ở các nước phương Đông đều đã xuất hiện các nhà cải cách chủ trương học tập chính nền văn minh phương Tây, canh tân đất nước một cách toàn diện và sâu rộng, tiến bước kịp các nước phương Tây. Fukuzawa Yukichi của Nhật Bản và Nguyễn Trường Tộ của Việt Nam là những nhà tư tưởng như vậy. Fukuzawa Yukichi được đánh giá là nhà khai sáng lớn nhất của Nhật Bản vào nửa sau thế kỷ XIX, là “Voltaire của Nhật Bản”, là “Rousseau của phương Đông”. Những tư tưởng của ông đã khai sáng cho nhân dân Nhật Bản, đưa Nhật Bản tiến lên vũ đài văn minh nhân loại. Còn Nguyễn Trường Tộ được đánh giá là nhà tư tưởng cải cách lớn nhất giữa thế kỷ XIX của Việt Nam. Khi nghiên cứu đến hai nhà tư tưởng này, chúng tôi thấy họ có nhiều điểm giống nhau đến kỳ lạ, đặc biệt là chủ trương học tập nền giáo dục phương Tây, cận đại hóa nền giáo dục ở .mỗi nước.

 PGS.TS Nguyễn Công Lý

Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG-HCM

1. Mấy năm gần đây, Quốc hội, ngành giáo dục và đào tạo, các nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu hay nói nhiều, bàn nhiều về triết lý cho nền giáo dục nước nhà thời hội nhập. Ở đây, tôi xin được góp thêm tiếng nói về vấn đề vừa nêu.

Oxford là đại học nói tiếng Anh lâu đời nhất trên thế giới. Trường đại học này không chỉ tự hào về bề dày truyền thống và quy mô quan hệ quốc tế rộng rãi mà còn nổi tiếng với hệ thống tự học, tự giáo dục. Qua việc giới thiệu sơ lược chương trình đào tạo cử nhân của Khoa Ngữ văn Anh (English Languague and Literature) sau đây, chúng ta sẽ phần nào thấy được cách tổ chức tự học, tự giáo dục rất đáng lưu ý của Oxford.
 

 Lê Sử*

Có thể nói rằng đến nay các công trình nghiên cứu về mục tiêu dạy học  văn qua chương trình và sách giáo khoa ở miền Nam từ 1954 đến 1975 đều chủ yếu phân tích những mặt tiêu cực, hạn chế của nó; nhất là khi xét về mẫu người mà chế độ miền Nam muốn đào tạo nên. Những phân tích này không phải không có sức thuyết phục và không khách quan nhưng chúng lại chỉ thuần túy thấy mặt tiêu cực đáng phê phán mà chưa thấy được những mặt tích cực của nó. Nói gọn lại là trong quan niệm về mục tiêu dạy học Văn của chương trình và sách giáo khoa miền Nam vừa có mặt tiêu cực lẫn tích cực. Mục tiêu, tôn chỉ dạy học Văn của chương trình đặt ra là hết sức tốt đẹp, nhưng nó lại bị biến dạng, bóp méo khi áp đặt mục tiêu chính trị vào dạy học bộ môn.

Khoa Nghệ thuật học (Faculty of Arts) của trường đại học Chulalongkorn được chính thức thành lập vào năm 1955 nhưng tiền thân của Khoa này là Khoa Nghệ thuật học và Khoa học (Faculty of Arts and Sience) đã xuất hiện từ năm 1916. Hiện nay, Khoa Nghệ thuật học có 11 bộ môn: Tiếng Thái, Tiếng Anh, Lịch sử, Địa lý, Khoa học thư viện, Triết học, Kịch nghệ, Ngôn ngữ phương Đông, Ngôn ngữ phương Tây, Ngôn ngữ học và Văn học so sánh. Khoa có các ngành học như sau:

I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC Ở NGA

Hệ thống giáo dục đại học của Nga khởi đầu bằng việc thành lập hai trường đại học ở Moskva và Petersburg vào giữa thế kỷ XVIII. Cuộc tranh cãi xem trường nào trong hai trường là cổ nhất của nước Nga đến nay vẫn còn chưa ngã ngũ. Trường ĐHTH Moskva (MGU) được thành lập vào ngày 25 tháng 1 (12 tháng 1 theo lịch cũ của Nga) năm 1755. Hiện nay, ngày 25 tháng 1 là Ngày Sinh viên ở Nga. Trường  ĐHTH St.Petersburg (SPbGU) được xem là thành lập vào năm 1819, nhưng có ý kiến (và hiện nay là quan điểm chính thức của Trường SPbGU) cho rằng trường này là hậu thân của Đại học Hàn lâm Petersburg, được thành lập khi sát nhập Học viện St.Petersburg và Viện Hàn lâm Petersburg theo sắc lệnh của Hòang đế Piotr I năm 1724.

 

Tuyết Giang phu tử, Bạch Vân tiên sinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhân vật kiệt xuất mà uy tín và đức độ của cụ tỏa sáng, chẳng khác nào như cây đại thụ tỏa bóng gần trọn thế kỷ XVI, nhân cách ấy đã khiến cho các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ (Lê - Mạc; Trịnh - Nguyễn) đều trọng vọng, nể vì. Tiên sinh không chỉ là một danh nhân văn hóa lỗi lạc, một nhà thơ lớn, một bậc hiền triết, một nhà tiên tri đại tài, mà còn là một nhà giáo vĩ đại, một bậc sư biểu được người đời tôn vinh, ngưỡng mộ.

Giáo sư Lê Đình Kỵ suốt đời gắn bó với sự nghiệp dạy học, đó là cái duyên và cũng là cái nghiệp như thầy từng tâm sự. Cách mạng Tháng Tám thành công, anh chủ tịch xã “trí thức” đã đi dạy bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ và bắt đầu thích nghề giáo vì đây là nhiệm vụ cách mạng, vì thấy những kiến thức của mình đã mang lại ích lợi thiết thực cho người dân.

Đại học Nam Kinh tọa lạc tại cố đô hoa lệ Kim Lăng, nay là thành phố Nam Kinh, thủ phủ của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc; là một trường đại học tổng hợp, có lịch sử lâu đời, giàu thành tựu trong nghiên cứu khoa học, cùng với Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, nó được giới chuyên môn cũng như Bộ Giáo dục Trung Quốc đánh giá là một trong ba trường đại học hàng đầu trong nghiên cứu khoa học tại Trung Quốc.

     Giáo sư- tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh sinh ngày 1 tháng 1 năm 1931 tại xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong gia đình có truyền thống Nho học. Năm 1953, giáo sư được Liên khu ủy Khu V cử ra miền Bắc học tập. Năm 1955, ông vinh dự được nhà nước cử sang Liên Xô học đại học tại trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp. Tốt nghiệp đại học, giáo sư tiếp tục ở lại Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Năm 1963, về nước, công tác tại Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ nhiệm bộ môn Lí luận văn học. Ở tuổi 30, với học vị phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ), trái tim tràn đầy nhiệt huyết, lại được đào tạo bài bản tại một trường đại học danh tiếng ở Liên Xô, giáo sư là cánh chim đầu đàn trong giới nghiên cứu khoa học xã hội ở miền Bắc những năm 60-70. Từ năm 1965, với cương vị là  Chủ nhiệm bộ môn Lí luận văn học, ông là một trong những người chủ trì và tham gia biên soạn bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học ( 4 tập, xuất bản từ 1965-1971). Đây là một trong 3 công trình lý luận văn học đầu tiên (Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, Nguyên lý lý luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc) vận dụng các nguyên lý, các khái niệm do các học giả Xôviết đưa ra để xây dựng bộ giáo trình lí luận văn học của Việt  Nam, giải thích những vấn đề thực tiễn trong lịch sử văn học nước ta. Những bài viết của ông như: Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống ( đăng trên tạp chí Văn học, 1970), Suy nghĩ về văn học

( tiểu luận, phê bình, 1972), Suy nghĩ về một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu văn học ( 1974),…đề cập đến những vấn đề như: đặc trưng, chức năng của văn học, vai trò của chủ thể sáng tạo, cấu trúc tác phẩm văn học, vai trò của độc giả trong tiếp nhận văn học,… thể hiện sự nhạy bén của nhà nghiên cứu trong việc tiếp cận những vấn đề cốt lõi trong nhận thức và nghiên cứu văn học từ trước đến nay.

     Sau năm 1975, ông được Trung ương Đảng  cử vào miền Nam công tác, giữ các cương vị: Trưởng Ban phụ trách Viện Đại học Huế (1975-1977), Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Huế (1977-1981). Từ năm 1981 đến 1990, ông được Đảng và Nhà nước bổ nhiệm các trọng trách: Thứ trưởng Bộ Giáo dục (1983-1987), Phó trưởng Ban Văn hóa-Văn nghệ  Trung ương (1981-1983; 1987-1990). Trong hoàn cảnh miền Nam vừa giải phóng, với nhiều biến động phức tạp của đất nước sau cuộc chiến tranh kéo dài, được giao nhiệm vụ phụ trách một trường đại học ở phía Nam như Viện Đại học Huế, để ổn định tình hình, người lãnh đạo không chỉ có năng lực chuyên môn giỏi mà còn phải có bản lĩnh, phẩm chất của người cán bộ Cách mạng. Sự kết hợp giữa người làm chuyên môn sắc sảo và người quản lý có trách nhiệm, am hiểu lòng người, am hiểu thực tế, những ngày công tác tại Viện Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã để lại những ấn tượng đẹp trong lòng cán bộ, giảng viên và nhân viên Viện Đại học Huế.

   Khi chuyển sang làm công tác quản lý văn hóa, văn nghệ, ở cương vị Phó ban Văn hóa-Văn nghệ Trung ương, ông dốc hết tâm huyết để hoàn thành nhiệm vụ. Trong tình hình của đất nước đêm trước Đổi mới đòi hỏi không chỉ cái nhìn mới, cảm quan mới của người lãnh đạo mà còn phải tiên phong, đứng mũi chịu sào để chèo lái  phong trào văn nghệ theo kịp xu thế của dân tộc trong kỷ nguyên mới, của thế giới trong thời đại mới. Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là một trong những người đóng góp những ý kiến quan trọng trong cuộc gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh của Văn nghệ sĩ cả nước (1986), soạn thảo Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ.

    Từ năm 1990 đến nay, giáo sư là chuyên gia cao cấp của Viện Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, công tác tại Viện KHXH Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh ( nay là Viện PTBV vùng Nam Bộ), tiếp tục công việc nghiên cứu vốn là niềm đam mê của ông. Trong những ngày hệ thống xã hội chủ nghĩa khủng hoảng, trước những hoang mang, giao động của không ít người làm công tác văn hóa, văn nghệ, cùng với những giáo sư dày giạn kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học văn học như GS Hoàng Như Mai, GS Lê Đình Kỵ, GS Lê Trí Viễn, v.v… giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là một trong những cây đại thụ mang đến niềm tin, điểm tựa và người tiên phong dẫn đường trong nghiên cứu khoa học cho trí thức trẻ ở TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Công trình Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ (viết chung với Huỳnh Như Phương) cung cấp cơ sở lý luận để nghiên cứu về phong cách, sự tiến bộ trong văn học, giúp tìm hiểu, đánh giá  đóng góp của nhà văn cho văn học và đời sống.    Những bài viết  của giáo sư về ý nghĩa, bản chất,  đặc trưng của văn học, về quá trình đổi mới văn học hiện nay, những hiện tượng văn học tiêu biểu trong trào lưu Đổi mới như truyện của Nguyễn Minh Châu, thơ Lê Đạt, v.v…( được tập hợp trong công trình Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, 2004) chứa đựng hạt nhân tư duy, gợi mở hướng tiếp cận văn học với đời sống và hướng nghiên cứu văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất nước. Với kinh nghiệm của người làm công tác nghiên cứu văn học, gắn bó với tình hình văn nghệ đất nước trong từng giai đoạn lịch sử (từ sau 1954 đến nay), ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh về văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất nước rất đáng suy ngẫm: “ … văn chương cũng như nghệ thuật không thể thay thế cho kinh tế, chính trị và các lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội. Nhưng, ngược lại, cũng không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương nghệ thuật trong việc giúp con người hiểu cuộc sống và  hiểu chính mình, sống có tình thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục để thăng hoa, để ước mơ, vươn đến chân thiện mỹ” (Ý nghĩa văn chương - Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, 2004, tr.255).

     Theo chúng tôi được biết, công trình khoa học Phương pháp luận nghiên cứu văn học- công trình kết tinh quá trình suy ngẫm về phương pháp nghiên cứu văn học mà giáo sư đã dày công nghiên cứu nhiều năm, sắp được ra mắt độc giả.

     Ở tuổi 80, ông là người hạnh phúc, với nụ cười rạng rỡ trên môi, luôn mở rộng vòng tay để đón các bạn trẻ đến với ông trong dịp bảo vệ luận án, trong hội thảo khoa học.

     Dù ở cương vị nào, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh vẫn là con người năng động, nhạy bén, luôn giữ được nếp sống giản dị và thanh khiết. Những đồng nghiệp, nhà khoa học, nhà giáo nay đã lớn tuổi, khi nhắc đến những kỷ niệm lúc sống ở Hà Nội, khi cùng làm việc ở Huế, ở TP Hồ Chí Minh đều yêu quý tài năng của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Hạnh, quý trọng nhân cách của người thầy, người  quản lý trong môi trường giáo dục. Không chỉ người thân và bạn bè mà cả những trí thức nước ngoài có dịp tiếp xúc, làm việc với ông đều bày tỏ cảm tình rất thân thiện và quý trọng tình cảm mà ông dành cho họ.

    Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Ban lãnh đạo, cán bộ, nhân viên của Viện PTBV vùng Nam Bộ, Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Hội Nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, nhiều trí thức, nhà giáo, văn nghệ sĩ, nghiên cứu sinh, long trọng tổ chức lễ mừng thọ giáo sư.

 

 

 

ThS. Vũ Thị Thanh Trâm - Hình chụp trước cổng Đại học Cheng Kung

Đầu tháng 9 vừa qua, ThS Vũ Thị Thanh Trâm, giảng viên Bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã đến Đài Loan học tiến sĩ tại Khoa Trung văn, Trường Đại học Quốc lập Thành Công (National Cheng Kung University – NCKU), một trong những trường đại học quốc lập hàng đầu của Đài Loan. Hướng nghiên cứu về thể loại Từ ở Đông Á (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản). Được biết ThS. Thanh Trâm cùng lúc nhận được giấy thông báo cấp 2 học bổng: một của Đài Loan và một của Trường Đại học Quốc lập Thành Công, và cô đã chọn học bổng của Đài Loan cho thời gian theo học tại đây.

Thạc sĩ Thanh Trâm cho biết: Tất cả những ai muốn du học về tiếng Hoa, thạc sĩ, tiến sĩ ở Đài Loan đều có thể dễ dàng tiếp cận học bổng này:

-  Thời gian nhận hồ sơ xin học bổng Đài Loan từ tháng 1 kéo dài đến cuối tháng 3 hàng năm. Tháng 4 đến tháng 6 sẽ xét duyệt, tháng 9 nhập học. Hồ sơ nộp tại:

Văn Phòng Kinh Tế và Văn Hóa Đài Bắc tại TP.HCM

336Nguyễn Tri Phương, Q.10, TP.HCM

http:// www.tecohcm.org.vn       

- Thông tin về NCKU và thông báo về học bổng đăng tải trên trang web: http:// admissions.oia.ncku.edu.tw./en

 

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2012 vào ngày 9.4.2012 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 24 đề tài tham gia hội nghị, gồm 3 đề tài Hán Nôm, 4 đề tài ngôn ngữ, 12 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Yếu tố thần kỳ trong Nghìn lẻ một đêm do sinh viên SV Sity Maria Cotika thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Thanh Thảo  do sinh viên Thái Nguyễn Hồng Sương thực hiện; Nhân vật chấn thương trong một số tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986-1995 do sinh viên Trần Phượng Linh thực hiện; Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp: cách đọc xã hội học do sinh viên Nguyễn Ngọc Thảo Như thực hiện; Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam từ sau 1986 do sinh viên Lê Thị Kim Loan thực hiện; Mỹ cảm trong ca từ của Trịnh Công Sơn do sinh viên Phan Thị Diệu Thảo làm chủ nhiệm. Từ những công trình được thực hiện công phu và nghiêm túc này, hy vọng sinh viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ sẽ còn đạt được những giải cao hơn ở cấp Thành và cấp Bộ.

 

(Hình minh họa, nguồn:  Google)

I

Chúng ta đang hướng tới xây dựng một nền “kinh tế tri thức”; mà muốn thế, phải nhanh chóng tạo nên một “xã hội học tập” - được hiểu như là một sự thay đổi hệ thống học - cổ truyền (học xong rồi làm), để chuyển sang hệ thống học tập mới - suốt đời. Trong hệ thống đó, tri thức có giá trị hàng hoá, và mỗi người phải biết chuyển hoá tri thức thành kỹ năng, thành công nghệ, thành giá trị. Trong hệ thống đó, do học tập, tiếp thụ mà con người có được tri thức chung; và do năng lực vận dụng của bản thân mà chuyển hoá được thành tri thức riêng, của cá nhân.

Trong diễn văn nhậm chức thủ tướng Anh vào tháng 5/1997, ông Tony Blair tuyên bố: “Tôi xin hứa với quốc dân là tôi sẽ thực hiện ba cải cách: giáo dục, giáo dục và giáo dục”. Tuy cách diễn đạt của các nhà lãnh đạo quốc tế khác có thể không gây ấn tượng bằng lời phát biểu của ông Blair, nhưng nói chung trên thế giới ngày nay nước nào cũng đang chú tâm cải cách giáo dục để làm bàn đạp cho những cải cách kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật.

Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã tổ chức Hội nghị Nghiên cứu khoa học sinh viên năm 2010 vào ngày 08.5.2010 tại cơ sở Linh Trung, Thủ Đức. Năm nay có 33 đề tài tham gia hội nghị, gồm 5 đề tài Hán Nôm, 7 đề tài ngôn ngữ, 18 đề tài văn học và đặc biệt còn có 3 đề tài nghệ thuật học. Tất cả được chia thành 3 tiểu ban: Văn học Việt Nam - Lý luận & Phê bình văn học, Văn học nước ngoài - Văn hóa dân gian – Nghệ thuật học và Hán Nôm – Ngôn ngữ. Nhiều đề tài đã nhận được sự quan tâm của người tham dự như Sưu tầm, giới thiệu, phiên dịch di sản Hán Nôm ở Quận 9, TP Hồ Chí Minh của tập thể lớp Hán Nôm 2 do sinh viên Lê Thị Cẩm Tú làm chủ nhiệm; Ẩn dụ tri nhận trong tác phẩm Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng do sinh viên Trần Thị Thúy An thực hiện; Nghệ thuật trang phục Trung Quốc trong Hồng Lâu Mộng do sinh viên Nguyễn Thị Ánh Nguyệt thực hiện; Tìm hiểu vè lịch sử Nam Bộ do sinh viên Lê Thị Minh Tâm thực hiện; Biển trong văn học cổ điển Việt Nam do sinh viên Phùng Thị Hạ Nguyên thực hiện; Thế giới nghệ thuật thơ Ngân Giang do sinh viên Võ Quốc Việt làm chủ nhiệm.

Thông tin truy cập

61757261
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
16383
20496
61757261

Thành viên trực tuyến

Đang có 597 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website