I. MẤY LỜI NÓI ĐẦU

     Tài liệu về nền giáo dục miền Nam hiện nay đã trở nên ngày càng khó kiếm, thậm chí, hầu như không thể kiếm được bao nhiêu trong những thư viện lớn trên toàn quốc. Hơn nữa, nói về nền giáo dục của một chế độ chính trị đã cáo chung đúng 40 năm, mà ngày nay không còn mấy người làm chứng, thì làm thế nào đảm bảo tính trung thực để tin được hoàn toàn cũng không phải chuyện dễ. Vì vậy, ở bài này cũng như ở bài tiếp sau về “Chương trình và sách giáo khoa” của cùng tác giả, chúng tôi xin lựa chọn phương pháp thể hiện nội dung các bài viết bằng cách chủ yếu trích dẫn trực tiếp ý kiến của một số nhà hoạt động giáo dục tiêu biểu thời trước, coi họ như người chứng cho từng vấn đề liên quan, nhưng được bố cục/ hệ thống lại cho dễ theo dõi, thay vì diễn dịch/ tổng hợp lại từ những ý kiến đó của họ. Thỉnh thoảng chúng tôi có cho xen vào một số ít ỏi lời đánh giá, bình luận theo sự nhận thức của riêng mình, mà chúng tôi nghĩ là cần thiết để dẫn dắt câu chuyện. Chúng tôi tự nghĩ cách làm như vậy tuy không được công phu cho lắm nhưng vừa đảm bảo tính khách quan, vừa duy trì được nguồn tài liệu “gốc” để tiện việc tham khảo, khi ai cần vẫn có thể trích dẫn lại được, vì các nguồn tài liệu loại này đã ngày càng trở nên quý hiếm và khó tìm.

                         (Nguyễn Thị Phương Thuý, Tạp chí ĐH Sài Gòn, Bình luận văn học, niên giám 2012)

            Nhiều năm trở lại đây, Australia đã trở thành một trong những lựa chọn du học hấp dẫn, đặc biệt là đối với học sinh, sinh viên châu Á, trong đó có Việt Nam. Không có bề dày lịch sử giáo dục như châu Âu, cũng không thể sánh ngang nước Mỹ về sức mạnh kinh tế và khoa học kỹ thuật nhưng Australia vẫn lôi cuốn du học sinh với những lý do riêng. Bài viết này sẽ không khai thác giáo dục đại học và sau đại học của Australia từ góc nhìn của người làm công tác quản lý, mà chỉ chia sẻ những hiểu biết của tác giả với tư cách của người đã có cơ hội thụ hưởng nền giáo dục này, dù chỉ trong một thời gian không lâu. Bên cạnh một số khía cạnh chung của giáo dục Australia, phần lớn những vấn đề trong bài viết này lấy từ thực tiễn giảng dạy và học tập tại trường Đại học Queensland, một trong 4 trường đại học hàng đầu của xứ sở chuột túi(1) và xếp thứ 45 thế giới năm 2012 theo xếp hạng của hệ thống uy tín ARWU (Academic Ranking of World Universities) (2).

 

                                                            (Ảnh: Đại học Queensland, Australia) 

Mở đầu

Trước hết, tôi xin được khẳng định rằng mục đích chính của bài viết không nằm ở việc tổng thuật các vấn đề liên quan đến phần Văn học nước ngoài trong chương trình THPT Trung Quốc. Có hai lý do cho điều này: thứ nhất, với gần chục bộ sách giáo khoa Ngữ văn hiện đang được sử dụng tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc hiện nay, việc tổng thuật vượt quá phạm vi một bài viết; thứ hai, để bàn đến việc việc dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông thì thiết nghĩ một số suy ngẫm, liên tưởng sẽ có ích hơn sự tổng thuật đơn thuần. Do vậy, trong bài viết này, tôi sẽ trình bày một số vấn đề trên cơ sở khảo sát phần Văn học nước ngoài của chương trình THPT Trung Quốc hiện nay trong mối liên tưởng với việc đổi mới phần Văn học nước ngoài trong chương trình THPT Việt Nam. Cũng xin phép được nhấn mạnh rằng, do sự tương đồng và mối liên quan không thể phủ nhận giữa hai quốc gia trên các mặt lịch sử, xã hội nói chung và giáo dục nói riêng, cho nên những thay đổi, những tiến bộ và bất cập của sách giáo khoa phổ thông Trung Quốc cho đến nay luôn có giá trị tham khảo đối với việc cải cách sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.

NGUYỄN CÔNG LÝ (*)

 1. Giới thiệu chung về chương trình khung và sách giáo khoa Trung học môn Văn ở Miền Nam trước 1975

1.1. Tên gọi môn học

Trong chương trình Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (nay là Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) ở Miền Nam trước năm 1975 thì tên môn học là Quốc văn, nhưng các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa thì ghi là Quốc văn hay Quốc văn độc bản như bộ sách của Trần Trọng San; Việt văn như bộ sách của Võ Thu Tịnh; Giảng văn như bộ sách của Đỗ Văn Tú hay bộ sách của Thậm Thệ Hà (một số quyển có sự cộng tác của Xuân Tước và Bằng Giang); Việt Nam thi văn trích giảng như sách của Tạ Ký.

Tâm đắc với ý tưởng "ngành y xét tuyển có thêm môn văn", PGS. TS  Đoàn Lê Giang, Trưởng Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM, cho rằng "các bác sĩ cần đối xử với bệnh nhân như là một thân phận, một con người, chứ không phải con bệnh hay "con mồi".

TÓM TẮT

Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản sự nối dài của giáo dc phổ thông, cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghip. Giáo dục đại học vừa phải cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có chuyên môn, bản lĩnh, óc sáng tạo tư duy phê phán, đồng thời tinh thần phản biện, ý thức trách nhim trước hội về những vấn đề ca đất c, của dân tc. Muốn hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp ging dạy, học tập đánh giá, xây dng trường đại học thành môi trường t do học thuật, môi trường văn hóa.

 PGS.TS Nguyễn Công Lý

Trường ĐH KHXH&NV – ĐHQG-HCM

1. Mấy năm gần đây, Quốc hội, ngành giáo dục và đào tạo, các nhà quản lý giáo dục, các nhà nghiên cứu hay nói nhiều, bàn nhiều về triết lý cho nền giáo dục nước nhà thời hội nhập. Ở đây, tôi xin được góp thêm tiếng nói về vấn đề vừa nêu.

PGS.TS. Nguyễn Công Lý

Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP. HCM

1. Giới thiệu về chương trình khung môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước 1975

1.1. Tên gọi môn học

Trong chương trình Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (nay là Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) ở miền Nam trước năm 1975 thì tên môn học là Quốc văn, nhưng các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa thì ghi là Quốc văn hay Quốc văn độc bản như bộ sách của Trần Trọng San; Việt văn như bộ sách của Võ Thu Tịnh; Giảng văn như bộ sách của Đỗ Văn Tú và bộ sách của Thậm Thệ Hà (một số quyển có sự cộng tác của Xuân Tước và Bằng Giang); Việt Nam thi văn trích giảng như sách của Tạ Ký.

 Lê Sử*

Có thể nói rằng đến nay các công trình nghiên cứu về mục tiêu dạy học  văn qua chương trình và sách giáo khoa ở miền Nam từ 1954 đến 1975 đều chủ yếu phân tích những mặt tiêu cực, hạn chế của nó; nhất là khi xét về mẫu người mà chế độ miền Nam muốn đào tạo nên. Những phân tích này không phải không có sức thuyết phục và không khách quan nhưng chúng lại chỉ thuần túy thấy mặt tiêu cực đáng phê phán mà chưa thấy được những mặt tích cực của nó. Nói gọn lại là trong quan niệm về mục tiêu dạy học Văn của chương trình và sách giáo khoa miền Nam vừa có mặt tiêu cực lẫn tích cực. Mục tiêu, tôn chỉ dạy học Văn của chương trình đặt ra là hết sức tốt đẹp, nhưng nó lại bị biến dạng, bóp méo khi áp đặt mục tiêu chính trị vào dạy học bộ môn.

Tôi nhận được hung tin khi đang ở rất xa, không thể về với thầy…

Thầy là người hướng dẫn khoa học cho tôi từ lúc chập chững bước vào con đường nghiên cứu. Đó là niên luận năm thứ ba đại học (ĐH). Tôi khi ấy chỉ là một con bé sinh viên Sài Gòn, còn thầy là một giáo sư lớn miền Bắc lần đầu vào dạy ở miền Nam, nhưng sao tôi không có cảm giác xa lạ, thầy rất hay cười, thật gần gũi. Sau này tôi mới biết mình “lớn mật”, cứ thích phản biện và thích “khác người”.

Khác với nhiều bạn bè đồng nghiệp là tôi không có may mắn được học Thầy. Trước 1975, tôi học ở Sài Gòn, Thầy lại dạy ở Hà Nội. Sau năm 1975 tôi học ở trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, còn Thầy thì dạy và làm quản lý chuyên môn ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội), nhưng tôi lại được học Thầy một cách gián tiếp qua các giáo trình, các chuyên khảo và các công trình dịch thuật của Thầy về văn hóa và văn học dân gian, về văn học cổ điển Việt Nam. Sau này, trong các dịp Hội thảo khoa học ở Viện Văn học, ở trường ĐHSP Hà Nội, tôi cũng chỉ gặp Thầy vài lần và trao đổi với Thầy dăm ba câu chuyện về chuyên môn, vậy mà Thầy đã để lại trong tôi vài dấu ấn có thể nói là sâu sắc, qua cách nói chuyện có vẻ dí dỏm, dễ gần, dễ mến.

 

Tuyết Giang phu tử, Bạch Vân tiên sinh, Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) là một nhân vật kiệt xuất mà uy tín và đức độ của cụ tỏa sáng, chẳng khác nào như cây đại thụ tỏa bóng gần trọn thế kỷ XVI, nhân cách ấy đã khiến cho các tập đoàn phong kiến lúc bấy giờ (Lê - Mạc; Trịnh - Nguyễn) đều trọng vọng, nể vì. Tiên sinh không chỉ là một danh nhân văn hóa lỗi lạc, một nhà thơ lớn, một bậc hiền triết, một nhà tiên tri đại tài, mà còn là một nhà giáo vĩ đại, một bậc sư biểu được người đời tôn vinh, ngưỡng mộ.

Đại học Nam Kinh tọa lạc tại cố đô hoa lệ Kim Lăng, nay là thành phố Nam Kinh, thủ phủ của tỉnh Giang Tô, Trung Quốc; là một trường đại học tổng hợp, có lịch sử lâu đời, giàu thành tựu trong nghiên cứu khoa học, cùng với Đại học Thanh Hoa và Đại học Bắc Kinh, nó được giới chuyên môn cũng như Bộ Giáo dục Trung Quốc đánh giá là một trong ba trường đại học hàng đầu trong nghiên cứu khoa học tại Trung Quốc.

Giáo sư sinh năm Mậu Ngọ (1918), quê ở xã Nghi Hưng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng Tháng Tám, sau khi đậu Tú tài, Thầy có thời gian làm công chức ngành Bưu điện ở Biên Hoà. Sau Cách mạng, Thầy vào học Đại học Văn khoa Hà Nội. Cuối năm 1946, kháng chiến chống Pháp, Thầy về dạy học ở quê nhà. Từ đó, Thầy gắn với sự nghiệp trồng người cao cả, thiêng liêng mà cực nhọc này cho đến cuối đời.

     Giáo sư- tiến sĩ Nguyễn Văn Hạnh sinh ngày 1 tháng 1 năm 1931 tại xã Điện Thọ, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam trong gia đình có truyền thống Nho học. Năm 1953, giáo sư được Liên khu ủy Khu V cử ra miền Bắc học tập. Năm 1955, ông vinh dự được nhà nước cử sang Liên Xô học đại học tại trường Đại học Tổng hợp Lômônôxốp. Tốt nghiệp đại học, giáo sư tiếp tục ở lại Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Năm 1963, về nước, công tác tại Khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Chủ nhiệm bộ môn Lí luận văn học. Ở tuổi 30, với học vị phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ), trái tim tràn đầy nhiệt huyết, lại được đào tạo bài bản tại một trường đại học danh tiếng ở Liên Xô, giáo sư là cánh chim đầu đàn trong giới nghiên cứu khoa học xã hội ở miền Bắc những năm 60-70. Từ năm 1965, với cương vị là  Chủ nhiệm bộ môn Lí luận văn học, ông là một trong những người chủ trì và tham gia biên soạn bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học ( 4 tập, xuất bản từ 1965-1971). Đây là một trong 3 công trình lý luận văn học đầu tiên (Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, Nguyên lý lý luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc) vận dụng các nguyên lý, các khái niệm do các học giả Xôviết đưa ra để xây dựng bộ giáo trình lí luận văn học của Việt  Nam, giải thích những vấn đề thực tiễn trong lịch sử văn học nước ta. Những bài viết của ông như: Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống ( đăng trên tạp chí Văn học, 1970), Suy nghĩ về văn học

( tiểu luận, phê bình, 1972), Suy nghĩ về một số vấn đề phương pháp luận nghiên cứu văn học ( 1974),…đề cập đến những vấn đề như: đặc trưng, chức năng của văn học, vai trò của chủ thể sáng tạo, cấu trúc tác phẩm văn học, vai trò của độc giả trong tiếp nhận văn học,… thể hiện sự nhạy bén của nhà nghiên cứu trong việc tiếp cận những vấn đề cốt lõi trong nhận thức và nghiên cứu văn học từ trước đến nay.

     Sau năm 1975, ông được Trung ương Đảng  cử vào miền Nam công tác, giữ các cương vị: Trưởng Ban phụ trách Viện Đại học Huế (1975-1977), Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Huế (1977-1981). Từ năm 1981 đến 1990, ông được Đảng và Nhà nước bổ nhiệm các trọng trách: Thứ trưởng Bộ Giáo dục (1983-1987), Phó trưởng Ban Văn hóa-Văn nghệ  Trung ương (1981-1983; 1987-1990). Trong hoàn cảnh miền Nam vừa giải phóng, với nhiều biến động phức tạp của đất nước sau cuộc chiến tranh kéo dài, được giao nhiệm vụ phụ trách một trường đại học ở phía Nam như Viện Đại học Huế, để ổn định tình hình, người lãnh đạo không chỉ có năng lực chuyên môn giỏi mà còn phải có bản lĩnh, phẩm chất của người cán bộ Cách mạng. Sự kết hợp giữa người làm chuyên môn sắc sảo và người quản lý có trách nhiệm, am hiểu lòng người, am hiểu thực tế, những ngày công tác tại Viện Đại học Huế, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã để lại những ấn tượng đẹp trong lòng cán bộ, giảng viên và nhân viên Viện Đại học Huế.

   Khi chuyển sang làm công tác quản lý văn hóa, văn nghệ, ở cương vị Phó ban Văn hóa-Văn nghệ Trung ương, ông dốc hết tâm huyết để hoàn thành nhiệm vụ. Trong tình hình của đất nước đêm trước Đổi mới đòi hỏi không chỉ cái nhìn mới, cảm quan mới của người lãnh đạo mà còn phải tiên phong, đứng mũi chịu sào để chèo lái  phong trào văn nghệ theo kịp xu thế của dân tộc trong kỷ nguyên mới, của thế giới trong thời đại mới. Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là một trong những người đóng góp những ý kiến quan trọng trong cuộc gặp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh của Văn nghệ sĩ cả nước (1986), soạn thảo Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị về văn hóa văn nghệ.

    Từ năm 1990 đến nay, giáo sư là chuyên gia cao cấp của Viện Khoa học xã hội (KHXH) Việt Nam, công tác tại Viện KHXH Việt Nam tại TP.Hồ Chí Minh ( nay là Viện PTBV vùng Nam Bộ), tiếp tục công việc nghiên cứu vốn là niềm đam mê của ông. Trong những ngày hệ thống xã hội chủ nghĩa khủng hoảng, trước những hoang mang, giao động của không ít người làm công tác văn hóa, văn nghệ, cùng với những giáo sư dày giạn kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học văn học như GS Hoàng Như Mai, GS Lê Đình Kỵ, GS Lê Trí Viễn, v.v… giáo sư Nguyễn Văn Hạnh là một trong những cây đại thụ mang đến niềm tin, điểm tựa và người tiên phong dẫn đường trong nghiên cứu khoa học cho trí thức trẻ ở TP.Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam. Công trình Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ (viết chung với Huỳnh Như Phương) cung cấp cơ sở lý luận để nghiên cứu về phong cách, sự tiến bộ trong văn học, giúp tìm hiểu, đánh giá  đóng góp của nhà văn cho văn học và đời sống.    Những bài viết  của giáo sư về ý nghĩa, bản chất,  đặc trưng của văn học, về quá trình đổi mới văn học hiện nay, những hiện tượng văn học tiêu biểu trong trào lưu Đổi mới như truyện của Nguyễn Minh Châu, thơ Lê Đạt, v.v…( được tập hợp trong công trình Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, 2004) chứa đựng hạt nhân tư duy, gợi mở hướng tiếp cận văn học với đời sống và hướng nghiên cứu văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất nước. Với kinh nghiệm của người làm công tác nghiên cứu văn học, gắn bó với tình hình văn nghệ đất nước trong từng giai đoạn lịch sử (từ sau 1954 đến nay), ý kiến của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh về văn học trong giai đoạn Đổi mới của đất nước rất đáng suy ngẫm: “ … văn chương cũng như nghệ thuật không thể thay thế cho kinh tế, chính trị và các lĩnh vực quan trọng khác của đời sống xã hội. Nhưng, ngược lại, cũng không một lĩnh vực nào có thể thay thế được văn chương nghệ thuật trong việc giúp con người hiểu cuộc sống và  hiểu chính mình, sống có tình thương, có đạo lý, có văn hóa, vượt qua cái tầm thường, phàm tục để thăng hoa, để ước mơ, vươn đến chân thiện mỹ” (Ý nghĩa văn chương - Chuyện văn chuyện đời, NXB Giáo dục, 2004, tr.255).

     Theo chúng tôi được biết, công trình khoa học Phương pháp luận nghiên cứu văn học- công trình kết tinh quá trình suy ngẫm về phương pháp nghiên cứu văn học mà giáo sư đã dày công nghiên cứu nhiều năm, sắp được ra mắt độc giả.

     Ở tuổi 80, ông là người hạnh phúc, với nụ cười rạng rỡ trên môi, luôn mở rộng vòng tay để đón các bạn trẻ đến với ông trong dịp bảo vệ luận án, trong hội thảo khoa học.

     Dù ở cương vị nào, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh vẫn là con người năng động, nhạy bén, luôn giữ được nếp sống giản dị và thanh khiết. Những đồng nghiệp, nhà khoa học, nhà giáo nay đã lớn tuổi, khi nhắc đến những kỷ niệm lúc sống ở Hà Nội, khi cùng làm việc ở Huế, ở TP Hồ Chí Minh đều yêu quý tài năng của nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Văn Hạnh, quý trọng nhân cách của người thầy, người  quản lý trong môi trường giáo dục. Không chỉ người thân và bạn bè mà cả những trí thức nước ngoài có dịp tiếp xúc, làm việc với ông đều bày tỏ cảm tình rất thân thiện và quý trọng tình cảm mà ông dành cho họ.

    Nhân dịp kỷ niệm sinh nhật lần thứ 80 của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, Ban lãnh đạo, cán bộ, nhân viên của Viện PTBV vùng Nam Bộ, Khoa Văn học và Ngôn ngữ Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP.Hồ Chí Minh, Khoa Văn Trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh, Hội Nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP.Hồ Chí Minh, nhiều trí thức, nhà giáo, văn nghệ sĩ, nghiên cứu sinh, long trọng tổ chức lễ mừng thọ giáo sư.

 

 

 

(Trần Tịnh Vy, Tạp chí ĐH Sài Gòn, niên giám 2012)

1. Giới thiệu chung

Đại học Linkoping nằm tại thành phố Linkoping, Thụy Điển, hay còn được gọi vắn tắt là LiU, là một trường đại học đa ngành, nơi hoạt động nghiên cứu và giảng dạy đóng vai trò quan trọng ngang nhau. Kế thừa một truyền thống học thuật lâu đời kể từ thời kỳ trung cổ song chính thức thành lập vào năm 1970, Đại học Linkoping trở thành trường đại học thứ sáu tại Thụy Điển và là trường đại học đầu tiên đào tạo chương trình thạc sĩ khoa học máy tính tại Thụy Điển. Tính đến nay, với số lượng sinh viên xấp xỉ là 27300 sinh viên (số liệu thống kê vào năm 2011), Đại học Linkoping trở thành điểm đến lý tưởng cho sinh viên Thụy Điển và quốc tế có ước vọng được học tập và nghiên cứu trong một môi trường học thuật tối ưu.

ThS. Vũ Thị Thanh Trâm - Hình chụp trước cổng Đại học Cheng Kung

Đầu tháng 9 vừa qua, ThS Vũ Thị Thanh Trâm, giảng viên Bộ môn Hán Nôm, Khoa Văn học và Ngôn ngữ đã đến Đài Loan học tiến sĩ tại Khoa Trung văn, Trường Đại học Quốc lập Thành Công (National Cheng Kung University – NCKU), một trong những trường đại học quốc lập hàng đầu của Đài Loan. Hướng nghiên cứu về thể loại Từ ở Đông Á (Việt Nam, Trung Quốc, Nhật Bản). Được biết ThS. Thanh Trâm cùng lúc nhận được giấy thông báo cấp 2 học bổng: một của Đài Loan và một của Trường Đại học Quốc lập Thành Công, và cô đã chọn học bổng của Đài Loan cho thời gian theo học tại đây.

Thạc sĩ Thanh Trâm cho biết: Tất cả những ai muốn du học về tiếng Hoa, thạc sĩ, tiến sĩ ở Đài Loan đều có thể dễ dàng tiếp cận học bổng này:

-  Thời gian nhận hồ sơ xin học bổng Đài Loan từ tháng 1 kéo dài đến cuối tháng 3 hàng năm. Tháng 4 đến tháng 6 sẽ xét duyệt, tháng 9 nhập học. Hồ sơ nộp tại:

Văn Phòng Kinh Tế và Văn Hóa Đài Bắc tại TP.HCM

336Nguyễn Tri Phương, Q.10, TP.HCM

http:// www.tecohcm.org.vn       

- Thông tin về NCKU và thông báo về học bổng đăng tải trên trang web: http:// admissions.oia.ncku.edu.tw./en

Thông tin truy cập

63700512
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
20804
23426
63700512

Thành viên trực tuyến

Đang có 180 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website