Hồi lớp 11 tôi học trường Võ Trường Toản, lúc ấy còn là trường cấp 3. Sau trường ấy chỉ dành cho cấp 2, nên đến lớp 12 tất cả học sinh phải chuyển qua trường cấp 3 Cô Giang (bây giờ là Thalmann). Trong lớp mình có cô bạn tên là Ngọc, cô bị tật ở chân nhưng học văn rất giỏi, cô bạn ấy cũng từ trường khác chuyển đến. Ngọc có người thầy dạy văn ở trường cũ rất thương quý cô ấy, nên thầy trò vẫn thường liên hệ, chuyện trò với nhau. Cô ấy kể chuyện về lớp mình, nói lớp em có bạn Giang học văn rất giỏi. Mình chưa gặp thầy bạn ấy bao giờ, nghe cô bạn kể vậy thôi. Hồi ấy ở TP.HCM chưa có chuyện thi học sinh giỏi, nhưng mình cũng được nhiều thầy biết đến vì bài văn tốt nghiệp được điểm tối đa và có được đọc trước hội đồng. Thực ra chuyện ấy chẳng có gì đáng nói.

 

Phương Khanh

(Khóa 1983-1987) 

Sẽ không ai có thể nhớ chính xác mọi chuyện đã qua, nhất là khi nó đã ở khoảng lùi của hơn 30 năm về trước. Nhưng nếu muốn nhắc lại để chính ta nhớ và cho mọi người cùng nhớ - thì trong con mắt của riêng tôi - lứa ngữ văn 83 ngày ấy có quá nhiều những con người tài hoa.

Trần Hữu Tá(*)

TÓM TẮT

Học giả, nhà giáo Đào Duy Anh đã có những cống hiến đặc biệt xuất sắc cho văn hóa dân tộc. Trong suốt 60 năm cầm bút, ông để lại rất nhiều tác phẩm có giá trị. Đường đời lúc có thuận, lúc nghịch, khi bình yên khi sóng gió nhưng thầy vẫn luôn giữ được phong cách sống an nhiên tự tại, thực hiện bằng được kế hoạch học tập và nghiên cứu của mình. Ông chính là một trong những tấm gương cho thế hệ chúng tôi về ý chí, tinh thần phấn đấu lặng lẽ và quyết liệt để hoàn thiện nhân cách cũng như tài năng.

Hàng năm, vào dịp trước Tết, Chi ủy, BCN Khoa, cùng với Công đoàn Khoa Văn học và Ngôn ngữ thường tổ chức đi thăm viếng các thầy cô về hưu lớn tuổi. Năm nay, sau Hội Khoa 40 năm hoạt động Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Ban liên lạc cựu sinh viên Khoa được thành lập gồm một số anh chị tích cực. Vì vậy, nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 năm 2015, Ban liên lạc cựu sinh viên Khoa cùng với một số thầy cô cũng là cựu sinh viên Khoa đã đến thăm hai "đại lão giáo sư" cựu Trưởng Khoa Ngữ văn là GS Mai Cao Chương và GS Nguyễn Lộc. Đoàn gồm có anh Lâm Thanh Bình, khóa 1 (75-79); nhà báo Ngọc Vinh (khóa 85-89); PGS.TS. Lê Giang, PGS.TS Trần Thị Phương Phương, PGS.TS Trần Lê Hoa Tranh. Thầy Chương mới ở bệnh viện về, đã khỏe lại. Thầy Nguyễn Lộc bị tai biến mạch máu não lần ba, may mắn cũng vượt qua khỏi, và cũng khá khỏe. Hai thầy vẫn nhớ tên học trò, đều vui vì có học trò đến thăm. Mọi người rất vui vì thấy hai thầy đều khỏe. Khoa Văn học và Ngôn ngữ dự định đầu năm sau (2016) sẽ tổ chức Tọa đàm khoa học về những đóng góp của hai thầy nhân chuẩn bị kỷ niệm 60 năm thành lập Trường Đại học Văn Khoa- Đại học Tổng hợp- Đại học KHXH& NV TP.HCM.

 I. MẤY LỜI NÓI ĐẦU

     Tài liệu về nền giáo dục miền Nam hiện nay đã trở nên ngày càng khó kiếm, thậm chí, hầu như không thể kiếm được bao nhiêu trong những thư viện lớn trên toàn quốc. Hơn nữa, nói về nền giáo dục của một chế độ chính trị đã cáo chung đúng 40 năm, mà ngày nay không còn mấy người làm chứng, thì làm thế nào đảm bảo tính trung thực để tin được hoàn toàn cũng không phải chuyện dễ. Vì vậy, ở bài này cũng như ở bài tiếp sau về “Chương trình và sách giáo khoa” của cùng tác giả, chúng tôi xin lựa chọn phương pháp thể hiện nội dung các bài viết bằng cách chủ yếu trích dẫn trực tiếp ý kiến của một số nhà hoạt động giáo dục tiêu biểu thời trước, coi họ như người chứng cho từng vấn đề liên quan, nhưng được bố cục/ hệ thống lại cho dễ theo dõi, thay vì diễn dịch/ tổng hợp lại từ những ý kiến đó của họ. Thỉnh thoảng chúng tôi có cho xen vào một số ít ỏi lời đánh giá, bình luận theo sự nhận thức của riêng mình, mà chúng tôi nghĩ là cần thiết để dẫn dắt câu chuyện. Chúng tôi tự nghĩ cách làm như vậy tuy không được công phu cho lắm nhưng vừa đảm bảo tính khách quan, vừa duy trì được nguồn tài liệu “gốc” để tiện việc tham khảo, khi ai cần vẫn có thể trích dẫn lại được, vì các nguồn tài liệu loại này đã ngày càng trở nên quý hiếm và khó tìm.

Mặc dù rất trân trọng nỗ lực và đồng ý với nhiều quan điểm của nhóm Đối thoại giáo dục (VED), tôi muốn thảo luận thêm một số điểm trong bản khuyến nghị (*) về phương hướng cải cách giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam, từ góc nhìn của người trong cuộc và quan sát hệ thống.

Mở đầu

Trước hết, tôi xin được khẳng định rằng mục đích chính của bài viết không nằm ở việc tổng thuật các vấn đề liên quan đến phần Văn học nước ngoài trong chương trình THPT Trung Quốc. Có hai lý do cho điều này: thứ nhất, với gần chục bộ sách giáo khoa Ngữ văn hiện đang được sử dụng tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc hiện nay, việc tổng thuật vượt quá phạm vi một bài viết; thứ hai, để bàn đến việc việc dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông thì thiết nghĩ một số suy ngẫm, liên tưởng sẽ có ích hơn sự tổng thuật đơn thuần. Do vậy, trong bài viết này, tôi sẽ trình bày một số vấn đề trên cơ sở khảo sát phần Văn học nước ngoài của chương trình THPT Trung Quốc hiện nay trong mối liên tưởng với việc đổi mới phần Văn học nước ngoài trong chương trình THPT Việt Nam. Cũng xin phép được nhấn mạnh rằng, do sự tương đồng và mối liên quan không thể phủ nhận giữa hai quốc gia trên các mặt lịch sử, xã hội nói chung và giáo dục nói riêng, cho nên những thay đổi, những tiến bộ và bất cập của sách giáo khoa phổ thông Trung Quốc cho đến nay luôn có giá trị tham khảo đối với việc cải cách sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.

Bản “Tổng kết nghiên cứu về phương hướng cải cách đại học ở Việt Nam” của nhóm Đối thoại giáo dục (VED) do giáo sư Ngô Bảo Châu chủ trì đang được dư luận quan tâm dưới nhiều góc độ. Giáo sư Ngô Bảo Châu tiếp tục trả lời một số câu hỏi từ độc giả và những người quan tâm tới giáo dục đại học về vấn đề này.

Tâm đắc với ý tưởng "ngành y xét tuyển có thêm môn văn", PGS. TS  Đoàn Lê Giang, Trưởng Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM, cho rằng "các bác sĩ cần đối xử với bệnh nhân như là một thân phận, một con người, chứ không phải con bệnh hay "con mồi".

Nhóm Đối thoại giáo dục tập hợp một số nhà khoa học có chuyên môn ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng cùng chia sẻ các nguyên tắc nghiên cứu khoa học và ước vọng về một nền đại học Việt Nam lành mạnh và tiến bộ. Nhóm đã tập trung làm việc từ năm 2013 theo những chuyên đề khác nhau trong một dự án cải cách toàn diện nền giáo dục đại học và  đã tổ chức một Hội thảo trong hè 2014 để chia sẻ những suy nghĩ của mình và thảo luận với nhiều giảng viên, nhà khoa học cũng như những người làm công tác quản lý giáo dục. Từ đó đến nay, nhóm tiếp tục nghiên cứu những chuyên đề chưa được đề cập đến trong Hội thảo và để hoàn thành bản tổng kết này. Một số bài viết của nhóm đã được công bố, một số khác đã được gửi trực tiếp đến lãnh đạo có thẩm quyền. Mục đích của bài viết này là tổng kết công việc của nhóm.

TÓM TẮT

Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản sự nối dài của giáo dc phổ thông, cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghip. Giáo dục đại học vừa phải cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có chuyên môn, bản lĩnh, óc sáng tạo tư duy phê phán, đồng thời tinh thần phản biện, ý thức trách nhim trước hội về những vấn đề ca đất c, của dân tc. Muốn hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp ging dạy, học tập đánh giá, xây dng trường đại học thành môi trường t do học thuật, môi trường văn hóa.

(Trần Thanh Đạm, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN) 

     1. Trong các ngành (hay các bộ môn – disciplines) khoa học xã hội và nhân văn thì ngữ văn là ngành vừa giàu tính nhân văn vừa giàu tính xã hội nhất. Tôi không trở lại vấn đề phân biệt và tương đồng giữa hai khái niệm khoa học xã hội và khoa học nhân văn, một bên thiên về xã hội tức là các mối quan hệ giữa những con người, một bên thiên về con người với tư cách là thành viên của xã hội. Chỉ biết rằng khoa học về ngôn ngữ và văn chương nghiên cứu một loại hiện tượng bao gồm cả hai phương diện trên. Vì vậy, không những ngày xưa mà cả ngày nay và ngày mai, ngữ văn vẫn còn là một ngành học chiếm vị trí quan trọng, nếu không phải là hàng đầu, trong nghiên cứu cũng như giáo dục về khoa học xã hội và nhân văn. Sang thế kỷ 21, tôi tin rằng vị trí đó không hề giảm đi mà còn tăng lên. Dĩ nhiên, nó phải đổi khác và đổi mới theo cùng với bước tiến của lịch sử và thời đại. Tác giả bài viết này muốn sơ bộ hình dung sự chuyển biến có thể và cần phải có của ngành học này, sứ mệnh và triển vọng của nó khi bước vào thế kỷ 21, trước hết trong phạm vi đất nước Việt Nam, tại các trường trung học và đại học của chúng ta.

PGS.TS. Nguyễn Công Lý

Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP. HCM

1. Giới thiệu về chương trình khung môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước 1975

1.1. Tên gọi môn học

Trong chương trình Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (nay là Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) ở miền Nam trước năm 1975 thì tên môn học là Quốc văn, nhưng các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa thì ghi là Quốc văn hay Quốc văn độc bản như bộ sách của Trần Trọng San; Việt văn như bộ sách của Võ Thu Tịnh; Giảng văn như bộ sách của Đỗ Văn Tú và bộ sách của Thậm Thệ Hà (một số quyển có sự cộng tác của Xuân Tước và Bằng Giang); Việt Nam thi văn trích giảng như sách của Tạ Ký.

Giáo sư Ngô Bảo Châu phát biểu trong hội thảo cải cách giáo dục đại học sáng 31.7 ( Ảnh: Tiền Phong). “Chế độ thu nhập của giảng viên đại học Việt Nam hiện nay phức tạp, thiếu minh bạch, cơ chế cứng nhắc. Với thang lương hiện tại, mức lương cơ bản của giảng viên đại học không đảm bảo cho họ một mức sống trung lưu trong xã hội. Trong mọi hệ thống xã hội, mức sống trung lưu cao cho cán bộ giảng viên nghiên cứu luôn là điều kiện cần cho một hệ thống giáo dục tốt”.

Tôi nhận được hung tin khi đang ở rất xa, không thể về với thầy…

Thầy là người hướng dẫn khoa học cho tôi từ lúc chập chững bước vào con đường nghiên cứu. Đó là niên luận năm thứ ba đại học (ĐH). Tôi khi ấy chỉ là một con bé sinh viên Sài Gòn, còn thầy là một giáo sư lớn miền Bắc lần đầu vào dạy ở miền Nam, nhưng sao tôi không có cảm giác xa lạ, thầy rất hay cười, thật gần gũi. Sau này tôi mới biết mình “lớn mật”, cứ thích phản biện và thích “khác người”.

Khác với nhiều bạn bè đồng nghiệp là tôi không có may mắn được học Thầy. Trước 1975, tôi học ở Sài Gòn, Thầy lại dạy ở Hà Nội. Sau năm 1975 tôi học ở trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, còn Thầy thì dạy và làm quản lý chuyên môn ở Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội), nhưng tôi lại được học Thầy một cách gián tiếp qua các giáo trình, các chuyên khảo và các công trình dịch thuật của Thầy về văn hóa và văn học dân gian, về văn học cổ điển Việt Nam. Sau này, trong các dịp Hội thảo khoa học ở Viện Văn học, ở trường ĐHSP Hà Nội, tôi cũng chỉ gặp Thầy vài lần và trao đổi với Thầy dăm ba câu chuyện về chuyên môn, vậy mà Thầy đã để lại trong tôi vài dấu ấn có thể nói là sâu sắc, qua cách nói chuyện có vẻ dí dỏm, dễ gần, dễ mến.

Thông tin truy cập

66323303
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
67342
20559
66323303

Thành viên trực tuyến

Đang có 264 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website