Anh Trần Thắng, Chủ tịch Viện Văn hóa và Giáo dục Việt Nam tại Mỹ so sánh việc tuyển sinh giữa hai nước dựa trên 3 góc độ: số lượng trường đại học; sự trưởng thành của học sinh trong lựa chọn ngành nghề và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin.
Anh Trần Thắng, Chủ tịch Viện Văn hóa và Giáo dục Việt Nam tại Mỹ so sánh việc tuyển sinh giữa hai nước dựa trên 3 góc độ: số lượng trường đại học; sự trưởng thành của học sinh trong lựa chọn ngành nghề và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin.
Mặc dù rất trân trọng nỗ lực và đồng ý với nhiều quan điểm của nhóm Đối thoại giáo dục (VED), tôi muốn thảo luận thêm một số điểm trong bản khuyến nghị (*) về phương hướng cải cách giáo dục đại học (GDĐH) Việt Nam, từ góc nhìn của người trong cuộc và quan sát hệ thống.
Mở đầu
Trước hết, tôi xin được khẳng định rằng mục đích chính của bài viết không nằm ở việc tổng thuật các vấn đề liên quan đến phần Văn học nước ngoài trong chương trình THPT Trung Quốc. Có hai lý do cho điều này: thứ nhất, với gần chục bộ sách giáo khoa Ngữ văn hiện đang được sử dụng tại các tỉnh thành khác nhau của Trung Quốc hiện nay, việc tổng thuật vượt quá phạm vi một bài viết; thứ hai, để bàn đến việc việc dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới giáo dục phổ thông thì thiết nghĩ một số suy ngẫm, liên tưởng sẽ có ích hơn sự tổng thuật đơn thuần. Do vậy, trong bài viết này, tôi sẽ trình bày một số vấn đề trên cơ sở khảo sát phần Văn học nước ngoài của chương trình THPT Trung Quốc hiện nay trong mối liên tưởng với việc đổi mới phần Văn học nước ngoài trong chương trình THPT Việt Nam. Cũng xin phép được nhấn mạnh rằng, do sự tương đồng và mối liên quan không thể phủ nhận giữa hai quốc gia trên các mặt lịch sử, xã hội nói chung và giáo dục nói riêng, cho nên những thay đổi, những tiến bộ và bất cập của sách giáo khoa phổ thông Trung Quốc cho đến nay luôn có giá trị tham khảo đối với việc cải cách sách giáo khoa phổ thông Việt Nam.
Bản “Tổng kết nghiên cứu về phương hướng cải cách đại học ở Việt Nam” của nhóm Đối thoại giáo dục (VED) do giáo sư Ngô Bảo Châu chủ trì đang được dư luận quan tâm dưới nhiều góc độ. Giáo sư Ngô Bảo Châu tiếp tục trả lời một số câu hỏi từ độc giả và những người quan tâm tới giáo dục đại học về vấn đề này.
Tâm đắc với ý tưởng "ngành y xét tuyển có thêm môn văn", PGS. TS Đoàn Lê Giang, Trưởng Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM, cho rằng "các bác sĩ cần đối xử với bệnh nhân như là một thân phận, một con người, chứ không phải con bệnh hay "con mồi".
Nhóm Đối thoại giáo dục tập hợp một số nhà khoa học có chuyên môn ở những lĩnh vực khác nhau, nhưng cùng chia sẻ các nguyên tắc nghiên cứu khoa học và ước vọng về một nền đại học Việt Nam lành mạnh và tiến bộ. Nhóm đã tập trung làm việc từ năm 2013 theo những chuyên đề khác nhau trong một dự án cải cách toàn diện nền giáo dục đại học và đã tổ chức một Hội thảo trong hè 2014 để chia sẻ những suy nghĩ của mình và thảo luận với nhiều giảng viên, nhà khoa học cũng như những người làm công tác quản lý giáo dục. Từ đó đến nay, nhóm tiếp tục nghiên cứu những chuyên đề chưa được đề cập đến trong Hội thảo và để hoàn thành bản tổng kết này. Một số bài viết của nhóm đã được công bố, một số khác đã được gửi trực tiếp đến lãnh đạo có thẩm quyền. Mục đích của bài viết này là tổng kết công việc của nhóm.
TÓM TẮT
Giáo dục đại học (GDĐH) không phải đơn giản là sự nối dài của giáo dục phổ thông, cũng không phải chỉ đào tạo nghề như giáo dục chuyên nghiệp. Giáo dục đại học vừa phải cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao, vừa phải đào tạo một đội ngũ trí thức có chuyên môn, có bản lĩnh, có óc sáng tạo và tư duy phê phán, đồng thời có tinh thần phản biện, ý thức trách nhiệm trước xã hội về những vấn đề của đất nước, của dân tộc. Muốn hoàn thành sứ mạng ấy, trường đại học phải thay đổi cách quản lí, đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy, học tập và đánh giá, xây dựng trường đại học thành môi trường tự do học thuật, môi trường văn hóa.
1. Trong các ngành (hay các bộ môn – disciplines) khoa học xã hội và nhân văn thì ngữ văn là ngành vừa giàu tính nhân văn vừa giàu tính xã hội nhất. Tôi không trở lại vấn đề phân biệt và tương đồng giữa hai khái niệm khoa học xã hội và khoa học nhân văn, một bên thiên về xã hội tức là các mối quan hệ giữa những con người, một bên thiên về con người với tư cách là thành viên của xã hội. Chỉ biết rằng khoa học về ngôn ngữ và văn chương nghiên cứu một loại hiện tượng bao gồm cả hai phương diện trên. Vì vậy, không những ngày xưa mà cả ngày nay và ngày mai, ngữ văn vẫn còn là một ngành học chiếm vị trí quan trọng, nếu không phải là hàng đầu, trong nghiên cứu cũng như giáo dục về khoa học xã hội và nhân văn. Sang thế kỷ 21, tôi tin rằng vị trí đó không hề giảm đi mà còn tăng lên. Dĩ nhiên, nó phải đổi khác và đổi mới theo cùng với bước tiến của lịch sử và thời đại. Tác giả bài viết này muốn sơ bộ hình dung sự chuyển biến có thể và cần phải có của ngành học này, sứ mệnh và triển vọng của nó khi bước vào thế kỷ 21, trước hết trong phạm vi đất nước Việt Nam, tại các trường trung học và đại học của chúng ta.
PGS.TS. Nguyễn Công Lý
Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG TP. HCM
1. Giới thiệu về chương trình khung môn Văn bậc trung học ở miền Nam trước 1975
1.1. Tên gọi môn học
Trong chương trình Trung học đệ nhất và đệ nhị cấp (nay là Trung học cơ sở và Trung học phổ thông) ở miền Nam trước năm 1975 thì tên môn học là Quốc văn, nhưng các soạn giả khi biên soạn sách giáo khoa thì ghi là Quốc văn hay Quốc văn độc bản như bộ sách của Trần Trọng San; Việt văn như bộ sách của Võ Thu Tịnh; Giảng văn như bộ sách của Đỗ Văn Tú và bộ sách của Thậm Thệ Hà (một số quyển có sự cộng tác của Xuân Tước và Bằng Giang); Việt Nam thi văn trích giảng như sách của Tạ Ký.
Giáo sư Ngô Bảo Châu phát biểu trong hội thảo cải cách giáo dục đại học sáng 31.7 ( Ảnh: Tiền Phong). “Chế độ thu nhập của giảng viên đại học Việt Nam hiện nay phức tạp, thiếu minh bạch, cơ chế cứng nhắc. Với thang lương hiện tại, mức lương cơ bản của giảng viên đại học không đảm bảo cho họ một mức sống trung lưu trong xã hội. Trong mọi hệ thống xã hội, mức sống trung lưu cao cho cán bộ giảng viên nghiên cứu luôn là điều kiện cần cho một hệ thống giáo dục tốt”.
Tôi nhận được hung tin khi đang ở rất xa, không thể về với thầy…
Thầy là người hướng dẫn khoa học cho tôi từ lúc chập chững bước vào con đường nghiên cứu. Đó là niên luận năm thứ ba đại học (ĐH). Tôi khi ấy chỉ là một con bé sinh viên Sài Gòn, còn thầy là một giáo sư lớn miền Bắc lần đầu vào dạy ở miền Nam, nhưng sao tôi không có cảm giác xa lạ, thầy rất hay cười, thật gần gũi. Sau này tôi mới biết mình “lớn mật”, cứ thích phản biện và thích “khác người”.
PN - Đây là một trong những bài thơ mà cựu SV, nhà thơ Trương Nam Hương sẽ đọc trong lễ kỷ niệm 40 năm hoạt động Khoa Văn học và Ngôn ngữ (1975 - 2015), sẽ diễn ra lúc 8g sáng Chủ nhật ngày 12/4 tại Trường Đại học KHXH&NV TP.HCM (10 - 12 Đinh Tiên Hoàng, Q.1).
Phương Khanh
(Khóa 1983-1987)
Sẽ không ai có thể nhớ chính xác mọi chuyện đã qua, nhất là khi nó đã ở khoảng lùi của hơn 30 năm về trước. Nhưng nếu muốn nhắc lại để chính ta nhớ và cho mọi người cùng nhớ - thì trong con mắt của riêng tôi - lứa ngữ văn 83 ngày ấy có quá nhiều những con người tài hoa.
“Chiều nay, tôi được tin thầy Hoàng Như Mai vừa từ trần. Biết là tin buồn rồi sẽ đến nhưng không khỏi bàng hoàng, thảng thốt bởi mới trưa thứ Ba vừa rồi vào bệnh viện thăm thầy, dù phải thở bằng máy thầy vẫn cố gắng ra dấu nhận biết... ”.
Cái hôn của vị giáo sư lớn tuổi lên má của cô hoa hậu trẻ trung gây xôn xao dư luận, với những phản ứng trái chiều trong cộng đồng mạng.
Giáo sư sinh năm Mậu Ngọ (1918), quê ở xã Nghi Hưng, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Trước Cách mạng Tháng Tám, sau khi đậu Tú tài, Thầy có thời gian làm công chức ngành Bưu điện ở Biên Hoà. Sau Cách mạng, Thầy vào học Đại học Văn khoa Hà Nội. Cuối năm 1946, kháng chiến chống Pháp, Thầy về dạy học ở quê nhà. Từ đó, Thầy gắn với sự nghiệp trồng người cao cả, thiêng liêng mà cực nhọc này cho đến cuối đời.
I. MẤY LỜI NÓI ĐẦU
Tài liệu về nền giáo dục miền Nam hiện nay đã trở nên ngày càng khó kiếm, thậm chí, hầu như không thể kiếm được bao nhiêu trong những thư viện lớn trên toàn quốc. Hơn nữa, nói về nền giáo dục của một chế độ chính trị đã cáo chung đúng 40 năm, mà ngày nay không còn mấy người làm chứng, thì làm thế nào đảm bảo tính trung thực để tin được hoàn toàn cũng không phải chuyện dễ. Vì vậy, ở bài này cũng như ở bài tiếp sau về “Chương trình và sách giáo khoa” của cùng tác giả, chúng tôi xin lựa chọn phương pháp thể hiện nội dung các bài viết bằng cách chủ yếu trích dẫn trực tiếp ý kiến của một số nhà hoạt động giáo dục tiêu biểu thời trước, coi họ như người chứng cho từng vấn đề liên quan, nhưng được bố cục/ hệ thống lại cho dễ theo dõi, thay vì diễn dịch/ tổng hợp lại từ những ý kiến đó của họ. Thỉnh thoảng chúng tôi có cho xen vào một số ít ỏi lời đánh giá, bình luận theo sự nhận thức của riêng mình, mà chúng tôi nghĩ là cần thiết để dẫn dắt câu chuyện. Chúng tôi tự nghĩ cách làm như vậy tuy không được công phu cho lắm nhưng vừa đảm bảo tính khách quan, vừa duy trì được nguồn tài liệu “gốc” để tiện việc tham khảo, khi ai cần vẫn có thể trích dẫn lại được, vì các nguồn tài liệu loại này đã ngày càng trở nên quý hiếm và khó tìm.
(Trần Tịnh Vy, Tạp chí ĐH Sài Gòn, niên giám 2012)
1. Giới thiệu chung
Đại học Linkoping nằm tại thành phố Linkoping, Thụy Điển, hay còn được gọi vắn tắt là LiU, là một trường đại học đa ngành, nơi hoạt động nghiên cứu và giảng dạy đóng vai trò quan trọng ngang nhau. Kế thừa một truyền thống học thuật lâu đời kể từ thời kỳ trung cổ song chính thức thành lập vào năm 1970, Đại học Linkoping trở thành trường đại học thứ sáu tại Thụy Điển và là trường đại học đầu tiên đào tạo chương trình thạc sĩ khoa học máy tính tại Thụy Điển. Tính đến nay, với số lượng sinh viên xấp xỉ là 27300 sinh viên (số liệu thống kê vào năm 2011), Đại học Linkoping trở thành điểm đến lý tưởng cho sinh viên Thụy Điển và quốc tế có ước vọng được học tập và nghiên cứu trong một môi trường học thuật tối ưu.
Nhiều năm qua, bức tranh giáo dục VN là sự đan cài giữa những mảng sáng và mảng tối, nhưng năm 2014 bức tranh đó đã bộc lộ rõ hơn những đường nét dễ nhận diện của nó.
(Nguyễn Thị Phương Thuý, Tạp chí ĐH Sài Gòn, Bình luận văn học, niên giám 2012)
Nhiều năm trở lại đây, Australia đã trở thành một trong những lựa chọn du học hấp dẫn, đặc biệt là đối với học sinh, sinh viên châu Á, trong đó có Việt Nam. Không có bề dày lịch sử giáo dục như châu Âu, cũng không thể sánh ngang nước Mỹ về sức mạnh kinh tế và khoa học kỹ thuật nhưng Australia vẫn lôi cuốn du học sinh với những lý do riêng. Bài viết này sẽ không khai thác giáo dục đại học và sau đại học của Australia từ góc nhìn của người làm công tác quản lý, mà chỉ chia sẻ những hiểu biết của tác giả với tư cách của người đã có cơ hội thụ hưởng nền giáo dục này, dù chỉ trong một thời gian không lâu. Bên cạnh một số khía cạnh chung của giáo dục Australia, phần lớn những vấn đề trong bài viết này lấy từ thực tiễn giảng dạy và học tập tại trường Đại học Queensland, một trong 4 trường đại học hàng đầu của xứ sở chuột túi(1) và xếp thứ 45 thế giới năm 2012 theo xếp hạng của hệ thống uy tín ARWU (Academic Ranking of World Universities) (2).
(Ảnh: Đại học Queensland, Australia)
Đang có 525 khách và không thành viên đang online
Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929