Việt Nam qua kiến trúc thuộc địa (Vietnam à travers l’architecture coloniale) của tác giả Arnauld Le Brusq là một bức tranh toàn cảnh về các thành phố và kiến trúc các công trình ở Việt Nam trong những năm từ 1860 đến 1945. Trên hành trình khám phá các công trình từ Nam ra Bắc, công trình Đại học Đông Dương là điểm dừng chân lý tưởng để khám phá kiến trúc, công trình tiên phong của trường phái Kiến trúc Đông Dương do kiến trúc sư Ernest Hébrard thiết kế, một sự kết hợp thành công bước đầu giữa kiến trúc nói riêng, văn hoá phương Đông và phương Tây nói chung ở Hà Nội. Chúng tôi xin lược dịch phần viết về Đại học Đông Dương trong cuốn Việt Nam qua kiến trúc thuộc địa (Vietnam à travers l’architecture coloniale) của tác giả Arnauld Le Brusq và trân trọng giới thiệu tới bạn đọc.

Bản vẽ mặt trước toà nhà trung tâm của Đại học Đông Dương do Charles Lacollonge, Kiến trúc sư-Chánh Sở Công thự lập năm 1924, nguồn: Trung tâm Lưu trữ quốc gia I

Sau rất nhiều cuộc viễn du, Trường Y khoa và Đại học Đông Dương hợp lại thành một quần thể kiến trúc. Theo yêu cầu của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, Alexandre Yersin cho thành lập Trường Y khoa vào năm 1902. Toà nhà đầu tiên được xây dựng vào năm 1904 trên đại lộ Bobillot (nay là phố Lê Thánh Tông), đây chính là hạt nhân của trường đại học tương lai.

Năm 1918, vua Khải Định đã tới thăm trường. Năm trước đó, theo thiết kế của kiến trúc sư Bussy, trường đã mở rộng thêm khu giảng đường và được trang trí bằng các y hiệu. Tại đây, những thanh niên người Việt từ bỏ nền y học cổ truyền để chuyển sang lĩnh vực khoa học phương Tây phải theo học 5 năm dự bị mới được làm luận án tại Paris. Nhưng sau khi trải qua kỳ thi tuyển thành công, họ vẫn không thoát khỏi ngạch “bác sĩ Đông Dương”, đây chính là điều phân biệt họ với các đồng nghiệp người Pháp.

Ngoài chuyên ngành y, dược, vào những năm 1920, Đại học Đông Dương còn đào tạo thêm ngành luật, hành chính, sư phạm, nông nghiệp, công nghiệp, công chính cũng như thương nghiệp.

Tòa nhà trên phố Bobillot tiếp nhận sinh viên y khoa, luật khoa và sinh viên sư phạm, những sinh viên khác được phân bổ về các trường chuyên của thành phố. Tuy nhiên, trước khi có được một cơ cấu tổ chức thực sự ổn định, Đại học Đông Dương đã phải trải qua rất nhiều thăng trầm.

Thực ra, Paul Beau cho thành lập trường năm 1906 xuất phát từ nhận thức về một thất bại và một nguy cơ chính trị: việc nền cựu học sụp đổ cũng như việc Nhật Bản thắng Nga chính là động cơ để thanh niên Việt Nam – dưới sự thúc đẩy của các nho sĩ phản đối chế độ thuộc địa như Phan Bội Châu mưu toan Đông Du tức là sang các trường đại học của “đất nước mặt trời mọc”. Phản ứng của các nhà chức trách Pháp trước khát vọng của sinh viên đã làm phật lòng phe bảo thủ và trường đại học vốn đang được bố trí trong lãnh sự quán cũ thuộc khu nhượng địa ngay lập tức bị Toàn quyền Klobukowski cho đóng cửa trước khi mở lại vào năm 1918 trong một tòa nhà nằm trên phố Paul Bert (nay là phố Tràng Tiền). Theo sau kế hoạch của Sarraut, Phủ toàn quyền quyết định hiện thực hóa việc đào tạo bậc đại học bằng cách xây dựng một tòa nhà tương xứng với tham vọng đã được đưa ra và không phải ngẫu nhiên mà công trình Đại học Đông Dương được coi là một bước ngoặt trong lịch sử xứ thuộc địa, cả trên bình diện xã hội lẫn kiến trúc.

Hãy cùng xem nhà cải cách giáo dục phản đối phong cách kiến trúc do Sở Công thự phổ biến ở thời điểm đó: “Sau 3 năm vắng mặt, khi trở lại mảnh đất Đông Dương, tôi vô cùng đau đớn khi nhận ra rằng bên cạnh những công trình mang phong cách nghệ thuật bản địa – áp đặt lên đó là một sự đối đầu tàn nhẫn, những cục bê tông cốt thép và bản sao kiến ​​trúc Muy-ních đã lấn át quyền thể hiện khả năng sáng tạo theo thị hiếu của người Pháp”. Những dòng trên đây đã khơi dậy mong muốn về một bản sắc kiến trúc riêng cho Đông Dương – một trọng trách được giao cho Ernest Hébrard.

Năm 1922, lần đầu tiên kiến trúc sư Ernest Hébrard đặt chân đến Hà Nội, thời điểm đó các đồng nghiệp của ông là Charles Lacollonge và Paul Sabrié đã trình lên Toàn quyền đề xuất xây dựng công trình Đại học Đông Dương và đã được thông qua. Khi đó, việc xây móng và chân công trình với việc đóng gần 2.000 cọc gỗ lim thậm chí đang trong giai đoạn hoàn thành. Nhờ vòng hào quang của Giải thưởng La Mã, Ernest Hébrard nắm quyền chỉ đạo toàn bộ ê kíp thi công công trình, ông tạm dừng thi công và hướng công việc nghiên cứu của mình theo phong cách châu Á. Tuy nhiên, việc thay đổi phong cách kiến trúc cần thời gian lâu hơn để chín muồi, nếu so sánh với những gì Félix Dumail đã trải qua trong các giai đoạn liên tiếp khi xây dựng chi nhánh ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn. Ernest Hébrard tập trung vào tính thẩm mỹ và không quá coi trọng cách bài trí – yếu tố khớp nối khu tiền sảnh đã bị mái vòm lấn át với một hội trường hai tầng, một thư viện và rất nhiều phòng làm việc. Bản vẽ mặt đứng cùng nhiều mặt cắt ký tên Sabrié, ghi thời gian lập 1924 và được phê duyệt thi công ngay năm đó vẫn mang dáng dấp của những bức vẽ lấy cảm hứng từ thế kỷ 18 ở Pháp với sự lấn át của các không gian khánh tiết, mái vòm khổng lồ cùng tháp sáng, cách trang trí hình vòm xuất hiện cách quãng tại hành lang lưu thông và những bức tượng đối xứng ở hai bên lối vào.

Nhưng các bản vẽ cũng thể hiện quyết tâm của Ernest Hébrard – người đã chính thức trở thành Giám đốc Sở Kiến trúc và Quy hoạch đô thị năm 1923 – trong việc thay đổi dáng dấp của tòa nhà. Lúc này, ông hướng về các mô hình của Trung Quốc, bắt đầu từ công trình nổi tiếng nhất trong số đó – hoàng cung thuộc Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh. Kết quả là tòa nhà bị Hán hóa một cách dè dặt với một ô văng loe ra trên đệm cửa của mái vòm, với những lớp mái chồng xếp giống như hệ mái bậc thang và tháp sáng có dáng dấp như một nóc phù đồ, mái đua như đường cúp góc ở các hành lang của kiến trúc Trung Hoa.

Mùa hè năm 1924, việc thi công (giao cho Hãng Aviat) được tiến hành trở lại dựa trên những cơ sở mới này. Nhưng Ernest Hébrard chưa ngừng trăn trở, ông yêu cầu sửa bản vẽ nhiều lần, chủ yếu bởi kiến trúc sư Gaston Roger để đạt được điều mà sau này ông gọi là “phong cách Đông Dương”, nhưng ở thời điểm đó mới chỉ ở dạng thai nghén.

Công văn trao đổi, các thông báo thay đổi về kích thước, đơn thư khiếu nại của chủ thầu bị dừng thi công do không có bản vẽ chính thức, việc phá hủy một phần công trình đã cho thấy quy mô thử nghiệm của dự án. Thực vậy, quan sát công trình hoàn tất là thấy được tầm vóc của các thay đổi. Mái vòm bị thay thế bằng lầu tứ giác trên chồng 2 lớp mái nặng nề, góc cạnh rõ ràng. Mái đua lúc này đã rõ dáng dấp của các lan can tạo thành từ nhiều cột nhỏ thân vuông, xen kẽ các bức phù điêu chạm khắc và đục lỗ thường chạy quanh sân các đền đài ở châu Á. Tác giả của dự án ban đầu – kiến trúc sư Sabrié – phản đối việc thay đổi và nhiều lần cảnh báo về nguy cơ lạc điệu giữa “chủ nghĩa cổ điển” của ông và phong cách “Trung Hoa”.

Đến tham quan Đại học Đông Dương, sẽ thấy nhiều dấu tích của sự đối nghịch, chẳng hạn như việc xây thêm cổng nhỏ trên cổng vòm lớn ở mặt sau hay ở phần nội thất khi vẫn giữ mái vòm giả và hàng cột ở tiền sảnh. Mặt khác, các thử nghiệm của Hébrard không chỉ gây phiền phức cho các kiến trúc sư, ngay từ năm 1921, họa sĩ Victor Tardieu đã phác thảo một dự án trang trí phù hợp với chủ nghĩa kinh viện xung quanh. Mái vòm phải tiếp nhận những biểu tượng của khoa học, nông nghiệp, kỹ nghệ và thương nghiệp hoàn toàn tách biệt trên nền vàng. Do trí tưởng tượng bộc phát, họa sĩ đề nghị sơn dòng chữ “La France apportant à sa colonie les bienfaits de la civilisation” (Nước Pháp mang đến cho xứ thuộc địa những lợi ích của nền văn minh) và đối lại “L’Indochine faisant hommage à la France de ses richesses”(Đông Dương cảm phục nước Pháp vì sự giàu có). Ngoài ra, trên bức tường chính của hội trường, ông dự kiến nhóm thành một tập hợp chân dung những người sáng lập Đại học Đông Dương: Paul Doumer, Paul Beau, Albert Sarraut và Maurice Long, xung quanh là các cộng sự của họ. Sáu năm sau, bức tranh vải lớn hé lộ chân dung của Alma Mater – Mẹ cưu mang – và ngay tại chân bà các thế hệ sinh viên được long trọng trao những tấm bằng tốt nghiệp dưới ánh nhìn của ngài Toàn quyền.

Hoàn thành năm 1927, Đại học Đông Dương đặt dấu chấm hết cho sự tồn dư của kiến trúc cổ điển và đánh dấu sự trỗi dậy của nghệ thuật giao thoa nơi phương Tây và phương Đông gặp gỡ. Đến nay, công trình vẫn được coi là một điểm nhấn về nghệ thuật kiến trúc tại Hà Nội.

Hoàng Hằng – Hồng Nhung

Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I

Nguồn, Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, ngày 27.03.2018.

 

20181203 Kieu

Như tự thuật của tác giả cho biết, cuộc kỳ ngộ của Charles Benoit (Lê Vân Nam) với nàng Kiều Việt Nam như một xếp đặt của tạo hóa, nhưng con tạo chẳng khéo vần xoay đã khiến cho ước vọng dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh theo cách của ông bị xếp lại nhiều thập kỷ. Khoảng thời gian đầu của cuộc phân ly ấy, Benoit đã dấn thân vào hành trình tìm kiếm diễn tiến của câu chuyện mà ông trót đam mê như để dằn nén những khủng hoảng tinh thần.

  1. Nhìn lại hành trình một kiếm tìm  

Nghiền ngẫm trên hàng ngàn trang tư liệu liên quan, Benoit đã nhận ra trong câu chuyện Vương Thúy Kiều sự lạ kỳ của con đường sử thực trở thành sử liệu (bao gồm cả việc lưu truyền sự kiện cũng như sự chân-ngụy của lưu truyền, của ghi chép sự kiện), con đường lịch sử đi vào văn chương. Và năm chương của luận án là chuyện kể của riêng Benoit về diễn trình kỳ lạ đó. 

Ở chương mở đầu, như tên gọi, “Từ Hải và đối thủ lịch sử của ông - Hồ Tôn Hiến”, tác giả công trình đã trở lại mắt xích đầu tiên của câu chuyện là mối quan hệ giữa Từ Hải và Hồ Tôn Hiến, hai nhân vật đối đầu nhau trong cuộc chiến chống hải tặc ở Trung Hoa giữa thế kỷ 16.

Câu hỏi được đặt ra là chiến dịch Hồ chống rồi tiêu diệt Từ có bối cảnh ra sao[1]? Vào đầu triều Minh, nhằm đối phó với đạo tặc bản địa và sự xâm nhập của hải tặc Nhật Bản, triều đình đã ban lệnh cấm chỉ hàng hải và ngoại thương trên biển. Hệ quả của lệnh cấm này là triều đình độc chiếm ngoại thương, ngư dân – vì sinh kế đã nổi loạn – rồi buộc phải thành buôn lậu, và thành hải tặc. Theo các ghi chép lịch sử, đến khoảng giữa thế kỷ 16 tình hình này trở nên đặc biệt nghiêm trọng, và mức độ kịch liệt cũng như sự lan tỏa mạnh mẽ của nạn hải tặc thường gắn liền với tên tuổi Từ Hải. Đây là tình huống được bàn luận không còn chỉ ở các địa phương có hải tặc hoạt động mà còn trở thành vấn đề ở tầng cao nhất: triều đình, đó là chiêu an hay tận diệt Từ Hải. Hồ Tôn Hiến, viên Tổng đốc vừa nhậm chức, muốn chọn cách thứ nhất còn Hoàng đế có chỉ lệnh chọn cách thứ hai. Tuy nhiên, theo các chứng cứ lịch sử mà Benoit trưng dẫn, vì Hoàng đế có những mối quan tâm khác, vì những mâu thuẫn bè đảng nên đối sách của triều đình với nạn hải tặc đã không có sự thống nhất, và chính từ đây những sai lệch lịch sử trong các ghi chép về sự việc này bắt đầu xuất hiện. Có trường hợp là do Hồ Tôn Hiến cố tình tạo ra để được tùy nghi hành động. Có lúc do người thân tín hoặc thuộc hạ, để bảo vệ Hồ khỏi những công kích của phe đối thủ nên đã chủ ý ngụy tạo thông tin khiến cho hồ sơ thực sự về cuộc chiến chống Từ Hải của Hồ bị làm sai lệch. Tiêu đích của những đối sánh cứ liệu và phân tích mà Benoit thực hiện là Từ Hải bản mạt của Mao Khôn.

Theo thuật sự của Mao Khôn, Hồ Tôn Hiến là một Tổng đốc tích cực đối phó và do đó có công trong việc tiễu trừ đội quân hải tặc do Từ Hải điều khiển. Nhờ chiến lược khôn ngoan (“uy hiếp với hứa hẹn, xảo quyệt với phủ dụ để chế phục”) Hồ đã khiến cho hải tặc vốn đang có thế mạnh hơn hẳn trở nên thất thế, khiến vị thủ lĩnh hải tặc là Từ Hải thành kẻ phản bội đồng minh của mình rồi rơi vào thế cô lập, bị quân của Hồ Tôn Hiến tấn công đến tận sào huyệt và phải chết “một cách đáng hổ thẹn bằng cách trầm mình xuống sông, nhưng lại bị vớt lên để chém đầu”[2]

Với cách đọc có phê phán của Benoit, tường thuật đó được nhận diện là dối trá về mọi phương diện. Để có được kết luận như vậy, Benoit đã khảo sát thuật sự của Mao Khôn đến từng chi tiết trong logic nội tại của văn bản cũng như đối chiếu nó với hàng chục văn bản bao gồm sử quan phương, dã sử, ký lục, liệt truyện của một số nhân vật đương thời hoặc sau đó,… trải dài từ đời Minh đến Thanh. Do Mao Khôn đã cố che giấu sự thật lịch sử, nên, theo Benoit, Từ Hải bản mạt ít nhất đã “không phải là những điều tai nghe mắt thấy (…) và do đó, không thể dựa vào nó như một sử liệu. Thay vào đó, nó nên được coi như bước khởi đầu của sự hư cấu mối quan hệ lịch sử giữa Hồ Tôn Hiến với Từ Hải và trong phạm vi nhỏ hơn với Vương Thúy Kiều”[3]. Đây là một kết luận quan trọng, vì hai lý do. Từ Hải bản mạt là văn bản được coi là sớm nhất, đầy đủ nhất trong số những tư liệu lịch sử thời kỳ này. Hơn thế, do người ghi chép là Mao Khôn – một cố vấn thân cận của Hồ Tôn Hiến, vị trí đặc biệt như vậy đã thành một bảo đảm nữa cho tư liệu này có tầm ảnh hưởng lớn nhất đến ngay cả sử quan phương đương thời, đến các văn bản đời sau, thậm chí nhiều sử gia hiện đại vẫn coi đó là nguồn tư liệu minh xác. Nói khác đi, Benoit đã “giải ảo” một tài liệu từ lâu vẫn bị nhận nhầm về độ chân xác lịch sử. Và với kết luận này Benoit đã tạo cầu nối cho vấn đề mà ông sẽ đi tiếp: quá trình hư cấu câu chuyện Vương Thúy Kiều.

Chương Hai. Khi phân tích ở Chương Một, Benoit cũng nhận ra rằng dấu vết của Thúy Kiều rất mờ nhạt trong bản kể của Mao Khôn (và của các tác giả khác có cùng định hướng nhận thức về Hồ Tôn Hiến), và lý do có thể cùng chiều với động cơ làm sai lệch hình ảnh Hồ Tôn Hiến và Từ Hải của Mao Khôn, bởi sự thật về nàng có thể tiết lộ bản chất của sự kiện. Thế nhưng, không dừng lại ở nhận xét đó, Benoit đặt tiếp câu hỏi: nếu Thúy Kiều quả thật nhạt nhòa như vậy thì làm sao có thể giải thích được việc nàng đã thuyết phục thành công Từ Hải quy hàng Hồ Tôn Hiến? Đi tìm nguyên do của hiện tượng này, Benoit tập trung vào hai bản kể: Vương Kiều Nhi truyện của Từ Học Mô và Lý Thúy Kiều của Đới Sĩ Lâm, nhưng chủ yếu là bản kể của tác giả họ Từ.

Được viết trong quãng hai thập kỷ của sự kiện lịch sử, với hai nguồn tư liệu là ký lục lịch sử có sẵn và qua nguồn thông tin truyền khẩu của cư dân trong vùng diễn ra sự kiện, Vương Kiều Nhi truyện trở thành câu chuyện pha trộn cả sử liệu mang thiên kiến với hư cấu, tưởng tượng. Như phân tích của Benoit, bản kể của Từ Học Mô đem lại hai nét mới quan trọng nhất cho câu chuyện là: vị trí Thúy Kiều như một ái cơ của Từ Hải, do đó đã góp sức khiến ông thất trận; và kết cục, chính nàng cũng phải chọn một cái chết bi thương. Thêm nữa, qua đối chiếu văn bản, Benoit còn chỉ ra rằng viết Vương Kiều Nhi truyện “không phải để bôi nhọ danh tiếng Hồ Tôn Hiến” mà trái lại Từ Học Mô “là một trong những người tán dương công lao của Hồ Tôn Hiến trong việc diệt trừ cướp biển và xót xa cho sự bất công xảy đến với Hồ sau đó” còn thiện cảm của tác giả lại dành cho nhân vật nữ có hành vi cao thượng nhưng kết cục bi thương. Để đánh giá cách “kể” của Từ Học Mô trong diễn tiến chung của câu chuyện, Benoit đặt Vương Kiều Nhi truyện bên cạnh một cách kể khác về Thúy Kiều là Lý Thúy Kiều của Đới Sĩ Lâm. Lý do chọn đối sánh này của nhà nghiên cứu là ở cả hai trạng thái: khác và giống. Câu chuyện thứ hai do một tác giả không tên tuổi (trong khi Từ Học Mô, người viết câu chuyện thứ nhất là một sử gia có tiếng), lối viết kém trau chuốt thiếu nhất quán hơn; nhưng cả hai lại giống ở chỗ được viết theo cùng nguồn tư liệu và có cùng động cơ (ca ngợi sự nghiệp tiễu trừ hải tặc và cảm thương Thúy Kiều). Lập luận của Benoit là: những chi tiết giống nhau trong hai văn bản sẽ có tác dụng chứng thực cho các tình tiết trong bản của Từ Học Mô, còn sự khác biệt của các chi tiết cũng như tính logic của diễn biến câu chuyện cho thấy Từ Học Mô đã tạo những nét mới có ý nghĩa cho câu chuyện là: khiến cho nhân vật Hồ Tôn Hiến trở nên tiêu cực hơn, khẳng định vị trí ái cơ của Từ Hải cho Thúy Kiều và do đó nàng có vai trò rõ hơn đối với sự quy hàng của Từ Hải cũng như phải chịu kết cục bi thương hơn. Sự mới mẻ này hoặc do Từ Học Mô “thêm thắt” vào, hoặc bởi ông đã ghi chép trung thực những “thêm thắt” của dư luận đương thời cho câu chuyện.

Nói khác đi, văn bản của Từ Học Mô “không chỉ tạo nên một đóng góp có ảnh hưởng mà còn là một bước ngoặt quan trọng đối với diễn tiến của câu chuyện Vương Thúy Kiều”[4], ở chỗ xác lập vai trò mới cho mỗi nhân vật, đặc biệt là nữ nhân vật. Ông quy công thuyết phục Từ Hải đầu hàng cho Thúy Kiều và miêu tả theo cách thương cảm việc nàng bị đối xử tồi tệ bởi bàn tay Hồ Tôn Hiến. Do vậy, nếu Hồ Tôn Hiến là đối tượng tìm hiểu mức độ trung thực của các dữ liệu lịch sử (Chương Một) thì Vương Thúy Kiều, do chịu cái chết bi thương liên quan đến Từ Hải, lại là điểm khả thủ cho việc khám phá con đường tiểu thuyết hóa câu chuyện. Chương này có tên “Vương Thúy Kiều – Cấu thành phối ngẫu của nhân vật anh hùng” là vì vậy.

 Chương Ba: “Hồ Tôn Hiến và Vương Thúy Kiều – liên minh chống lại Từ Hải”. Lần theo niên đại các văn bản liên quan, Benoit nhận ra hai tác phẩm khác xuất hiện sau các văn bản đã đề cập ở hai chương Một và Hai có cùng ý hướng khắc họa Hồ Tôn Hiến và Thúy Kiều thành một liên minh. Đó là “Hồ Thiếu bảo bình Oa chiến công” do Chu Tiếp – một nhân vật không tiếng tăm – viết sau 1593, Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài – một nhà thơ danh tiếng - viết vài thập kỷ sau đó. Để tìm hiểu cách thức kiến tạo văn bản của Chu Tiếp và Dư Hoài, Từ Hải bản mạtVương Kiều Nhi truyệnLý Thúy Kiều và một số sử liệu đã được dẫn dụ ở hai chương trên một lần nữa được Benoit tái trưng tập làm căn cứ đối sánh, cùng với một văn bản khác lần đầu được đưa ra là La Long Văn truyện của Phan Chi Hằng. Từ những đan cài chằng chịt về tư liệu của Chu Tiếp và Dư Hoài, Benoit chỉ rõ đâu là nguồn văn bản mà mỗi người đã dựa vào, nguyên nhân nào quy định hoặc can dự vào cách họ tổ hợp văn bản, và hiệu quả của những tự sự này là gì.

Do có ý tưởng ngợi ca công trạng Hồ Tôn Hiến “Hồ Thiếu bảo…” của Chu Tiếp đã chủ yếu dựa theo nguồn Từ Hải bản mạtVương Kiều Nhi truyện và một số sử liệu cùng chiều hướng này. Còn Dư Hoài lại có mục đích đặc tả nữ nhân vật nên nguồn của ông được chỉ ra là Vương Kiều Nhi truyệnLý Thúy KiềuLa Long Văn truyệnMinh sử… và phụ lục của Từ Hải bản mạt. Một lưu ý khác của Benoit là cả hai tác giả này đều thường xuyên sao phỏng gần như nguyên vẹn các nguồn văn bản khác nhau khiến cho các tình tiết truyện nhiều lúc trở nên tự mâu thuẫn, tuy mức độ mâu thuẫn này giảm thiểu nhiều từ Chu Tiếp đến Dư Hoài. Tuy thế, so với các văn bản tiền bối, đây là hai tác phẩm lần đầu tiên miêu tả Thúy Kiều là ca kỹ có nhan sắc (giai nhân); đồng thời, ở đây Thúy Kiều - dù vẫn được miêu tả là mang ân tình với Từ Hải - trở thành nhân tố đắc lực giúp Hồ Tôn Hiến hoàn thành xảo kế tiêu diệt Từ Hải; và đặc biệt, chân dung Từ Hải của Dư Hoài bắt đầu có thêm nhiều nét tích cực, gây nhiều cảm thông hơn.  

 Chương Bốn. Benoit gần như dành trọn vẹn số trang của chương này cho việc phân tích tỉ mỉ các chi tiết của hai tác phẩm: “Sinh báo Hoa Ngạc ân; Tử tạ Từ Hải nghĩa” của Mộng Giác Đạo Nhân và Tây Hồ Lãng Tử và Thu Hổ Khâu của Vương Long, rồi đối sánh chúng với nhau cũng như với các văn bản khác (Vương Kiều Nhi truyện hay Từ Hải bản mạt, …) để đi đến nhận xét:

Tuy chia sẻ với “Hồ Thiếu bảo” của Chu Tiếp các nguồn văn bản (là Từ Hải bản mạt của Mao Khôn và Vương Kiều Nhi truyện của Từ Học Mô) và thời gian sáng tác, nhưng “Trong số những phiên bản Hán văn được biết đến về câu chuyện Vương Thúy Kiều, mẩu chuyện này (“Sinh báo Hoa Ngạc”) là cố gắng văn chương đầu tiên kể lại một cách thuyết phục sự can dự của Thúy Kiều với Hồ Tôn Hiến và Từ Hải”[5]. Qua “Sinh báo Hoa Ngạc”, Thúy Kiều đã “thành nhân vật bi kịch với tính cách liệt nữ mà ngày nay chúng ta thấy. Mưu kế chinh phục Từ Hải của Hồ theo đó trở nên thứ yếu so với việc thể hiện đoạn đời trước đó của Thúy Kiều, sự gắn kết của nàng với Từ Hải, và kết cục bi thương của nàng. Dần dà, vai trò của Thúy Kiều trong việc tác động đến sự đầu hàng của Từ Hải tăng lên, tình yêu của nàng với Từ Hải được khẳng định, và cách cả hai kết thúc cuộc đời cũng trở nên thống nhất. Dẫu nhân vật Hồ Tôn Hiến được xử lý cẩn thận để không trở thành kẻ bất lương hoàn toàn, nhân vật Từ Hải, với Thúy Kiều lúc này đang là phối ngẫu trung thành, lại dứt khoát trở thành một tướng giặc oai hùng”[6].

Còn với vở hý kịch Thu Hổ Khâu của Vương Long, viết sau “Sinh báo Hoa Ngạc” vài năm, Benoit khẳng định đây là một sáng tạo độc đáo vì rất khó nhận ra sự vay mượn thô sơ các văn bản nguồn. Chỉ có thể nhận ra gián tiếp nhiều dấu vết của Vương Kiều Nhi truyện và La Long Văn truyện và có thể từ một vài văn bản khác trong vở hý kịch, vì Vương Long đã xử lý hết sức cẩn trọng các nguồn văn bản đó; thậm chí, trong Thu Hổ Khâu không còn nhân vật Hồ Tôn Hiến mà chỉ có thể nhận ra ông ta qua hình ảnh ám dụ với một tên gọi hư cấu hoàn toàn. Như vậy, “Dưới ảnh hưởng liên tục của Vương Kiều Nhi truyện, công lao đánh bại Từ Hải mà Mao Khôn nhập vào cho Hồ Tôn Hiến dần dà được chuyển sang Thúy Kiều. Đến Thu Hổ Khâu, tất cả những hành động của Từ Hải đều trở thành hệ quả chỉ của những cố gắng của nàng. Trong quá trình này, từ “thị nữ” trong bản kể Mao Khôn, Thúy Kiều được biến thành liệt nữ. Hơn thế, khi quan hệ của nàng với Từ Hải bị chuyển từ kẻ phản bội sang người tình, thì cách hiểu về Từ Hải cũng thay đổi theo (…). Đến vở hý kịch của Vương Long, hiệu quả chân dung phủ định về Hồ Tôn Hiến (…) dần dần dẫn đến một tái cấu trúc trọn vẹn những vai trò lịch sử (…) nhân vật hèn mọn trở thành liệt nữ, kẻ cướp thành bạn đời của liệt nữ, và viên quan có công thành nhân vật phản diện hèn nhát”[7].

Có thể thấy, chủ đề của chương - “Sự xuất hiện của Từ Hải như bạn đời của liệt nữ” - được Benoit khảo nghiệm vẫn trên nền đối sánh văn bản. Hai văn bản được phân tích đã cung cấp đủ cứ liệu để khẳng định: câu chuyện đến lúc này đã hiện rõ hình nét của cặp nhân vật: tướng giặc oai hùng (Từ Hải) bên cạnh một người tình nhan sắc, một liệt nữ (Thúy Kiều).           

Cặp nhân vật trên tiếp tục là tiêu điểm của Chương cuối cùng “Từ Hải - Từ Hải - Cứu tinh của liệt nữ” – chương khép lại diễn tiến của câu chuyện Vương Thúy Kiều. Không đi ngay vào quá trình tạo tác văn bản sau đó tại Trung Hoa, Benoit dẫn người đọc trước hết ghé qua các nước trong khu vực Đông Á (với điểm dừng lâu hơn là Việt Nam), nơi câu chuyện được lan xa và đạt đến hình thức đẹp nhất của nó. Và chỉ khi khẳng định rằng chính nhờ tuyệt tác tân tạo của Việt Nam người ta mới bắt đầu quan tâm đến bản nguồn của câu chuyện, Benoit mới trở lại mạch văn bản Trung Hoa với tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện – tác phẩm “đạt tới giai đoạn đích thực” của câu chuyện này trong văn chương Trung Hoa.

Mối rối đầu tiên mà Benoit phải tháo gỡ là những nhầm lẫn đã xuất hiện xung quanh thời điểm sáng tác, thân thế tác giả, nguồn văn bản mà tiểu thuyết này dựa vào, vì tác phẩm vốn không có tiếng tăm. Để đính chính những ngộ giải đó, Benoit đề xuất phương án đặt tác phẩm vào đúng diễn tiến câu chuyện. Với ba cái tên liên quan đến cuốn tiểu thuyết này, là Thanh Tâm Tài Nhân – bút danh của người viết tiểu thuyết, Thiên Hoa Tàng Chủ Nhân – người viết bài tựa, và Kim Thánh Thán – người được coi là đã viết lời bình cho các hồi của tiểu thuyết, Benoit đã đưa ra những chứng cứ văn bản, và lập luận dựa trên đối chiếu phân tích các văn bản cả về nội dung và hình thức để khẳng định rằng người bình luận và tác giả của tiểu thuyết là một, còn Kim Thánh Thán chỉ là cái tên được gắn vào tác phẩm do tiếng tăm quá nổi của người này. Song, chính nhờ việc mượn danh có chủ ý này mà thời điểm ra đời của tiểu thuyết lại có thêm căn cứ để phóng đoán, và theo lập luận của Benoit thì có thể là vài thập niên sau 1644 – khi mà với “sự phổ biến của các bản Thủy hử và Tây sương, danh tiếng của Kim với tư cách là một nhà bình luận đã được xác lập vững chắc”[8]. Còn Thiên Hoa Tàng Chủ Nhân - một người không rõ thân thế nhưng chắc chắn là tác giả và chủ yếu là người bình điểm cho nhiều tiểu thuyết tài tử giai nhân đầu đời Thanh[9], trong đó có việc viết lời tựa cho Kim Vân Kiều truyện. Chính từ mối quan hệ này, Benoit cho rằng càng có cơ sở để tin cuốn tiểu thuyết ra đời vào những thập niên cuối của thế kỷ 17. Với trường hợp tác giả của Kim Vân Kiều truyện, Benoit cho rằng có những nhầm lẫn trong một số bài viết trên các tạp chí ở miền Nam Việt Nam những năm 1950 và 1960, khi cho rằng Thanh Tâm Tài Nhân là Từ Vị – một người sống cùng thời với Hồ Tôn Hiến. Benoit đưa ra bốn lập luận: 1/ Căn cứ văn bản của sự nhận đồng đó là các tài liệu đã bị hư cấu – những “giai thoại”, 2/ Từ Vị là người chia sẻ nhiều quan điểm với Hồ Tôn Hiến về việc tiễu trừ hải tặc nên không thể là tác giả của một tiểu thuyết có nhiều cảm thông như vậy với một cướp biển, 3/ Từ Vị là cây bút lỗi lạc nhất trong thời đại bấy giờ nên không thể viết ra một tác phẩm tầm thường như cuốn tiểu thuyết đó, và 4/ Ba nguồn tư liệu không thể thiếu trong hợp phần của Kim Vân Kiều truyện là Tiểu Thanh truyện (thời Hậu Minh), lược bản Vương Kiều Nhi truyện (1626) của Phùng Mộng Long và “Sinh báo Hoa Ngạc” (1643) đều chưa xuất hiện khi Từ Vị tại thế.   

Phần tiếp theo, Benoit thảo luận về bản chất thật sự của các hợp phần tư liệu nguồn tạo nên cuốn tiểu thuyết. Đầu tiên là vai trò của Vương Thúy Kiều truyện. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều coi đây là chất liệu chính, nhưng như Benoit đã chỉ ra rằng bất chấp rất nhiều sự kiện chung, nhiều đoạn văn tương đồng, thậm chí tương đồng đến từng từ, Thanh Tâm Tài Nhân đã không dựa trên văn bản này mà dựa theo Vương Kiều Nhi truyện của Từ Học Mô. Kết luận ở Chương Ba về việc tác phẩm của Dư Hoài đã vay mượn nhiều nguồn, trong đó có việc sao chép nhiều đoạn gần như y nguyên tác phẩm của Từ Học Mô, và việc đối sánh ba bản Vương Kiều Nhi truyệnVương Thúy Kiều truyện, Kim Vân Kiều truyện đã khẳng định những tương đồng nói trên không phải do sự sao phỏng của Kim Vân Kiều truyện từ Vương Thúy Kiều truyệnmà do cả hai đã vay mượn cùng một nguồn. Quan hệ cho-nhận giữa Vương Kiều Nhi truyện chứ không phải giữa Vương Thúy Kiều truyện với Kim Vân Kiều truyện còn được khẳng định chắc chắn thêm bởi trong Kim Vân Kiều truyện có những tình tiết vay mượn khác từ tác phẩm của Từ Học Mô, trong khi Dư Hoài lại chọn nguồn khác. Tiến thêm bước nữa, bằng cách soi xét kỹ các tình tiết trong toàn bộ những văn bản liên quan, kể cả những văn bản đã được các chương trước nhìn nhận, rồi xếp sắp lại chúng trong diễn tiến của câu chuyện Vương Thúy Kiều, Benoit còn chứng minh rằng văn bản nguồn chủ yếu của Thanh Tâm Tài Nhân là “Sinh báo Hoa Ngạc”, ngoài ra là lược bản Vương Kiều Nhi truyện và câu chuyện về nàng Tiểu Thanh cùng của Phùng Mộng Long, là vở hý kịch Thu Hổ Khâu, là Tam quốc diễn nghĩa, và có thể cả những trải nghiệm của cá nhân tác giả. Trong quá trình đi tìm một diễn tiến thực sự cho câu chuyện đang bàn, Benoit còn tìm thấy một vở kịch có tên Hổ phách chủy chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết sau khi nó ra đời và nó được ông phát hiện thêm ở khía cạnh chứng cứ bổ sung cho giả định trước đó về thời điểm sáng tác Kim Vân Kiều truyện là sau 1676. Với chi tiết vở kịch này có mặt trong một bản chép tay có niện đại 1707 nên cuốn tiểu thuyết hiển nhiên phải ra đời trước 1707. Từ hai dấu mốc thời gian này, Benoit cho biết “tôi chọn năm 1685, với sai số trên dưới khoảng năm năm, làm thời điểm mà cuốn tiểu thuyết có khả năng được sáng tác nhất”[10].

Phần cuối cùng của chương luận về sự chuyển hóa trong cuốn tiểu thuyết của ba nhân vật chính: Thúy Kiều, Từ Hải, và Hồ Tôn Hiến. Theo phân tích của Benoit, Thúy Kiều ở Kim Vân Kiều truyện là sự tổ hợp những nỗi đau khổ từng được khắc họa trong các phiên bản trước đây về nàng, và nguyên nhân của những bất hạnh mà nhân vật này gánh chịu cũng được lý giải rõ ràng bằng một lý do mang tính chất tôn giáo “thụ khổ là cần thiết để trả nợ nghiệp chướng từ kiếp trước”[11]; đặc biệt, theo Benoit, chính cách lý giải này đã tạo nên sự nhất quán cho tác phẩm vốn hình thành trên nhiều nguồn văn bản khác nhau.

Là nhân vật gắn bó với một phần đời quan trọng của Thúy Kiều, Từ Hải còn là cao trào của tác phẩm. Để tạo nên một nhân vật như thế, Thanh Tâm Tài Nhân đã chủ ý thay đổi các nguồn tư liệu vay mượn, đưa ra một Từ Hải rất khác biệt. Ông không còn là kẻ nổi loạn tầm thường mà là “một kẻ phản loạn bất khuất, yêu tự do phóng khoáng, coi thường quyền uy, thậm chí đe dọa cả ngai vàng”[12] - một anh hùng; còn trong quan hệ với Thúy Kiều, Từ Hải “giờ đây xuất hiện không chỉ trong tư cách ân nhân tối thượng của Thúy Kiều mà còn ở tư cách một thẩm phán công lý tối cao trong một xã hội bất công”[13]. Đồng thời tác động của liệt nữ với hành xử của nhân vật anh hùng cũng được miêu tả là tích cực; các phương diện về nhân thân, tính cách cũng được cải chế theo hướng gây thiện cảm hơn nữa. Khác biệt với những thay đổi lớn về hai nhân vật trên, Hồ Tôn Hiến trong tiểu thuyết lại gần như không được tác giả dụng tâm bao nhiêu. Theo Benoit, dường như Thanh Tâm Tài Nhân đã bằng lòng với chân dung thiếu thiện cảm về nhân vật này mà các bậc tiền bối đã tạo ra, và sự cải biến đây đó của ông chỉ nhằm xây dựng Hồ Tôn Hiến thành “địch thủ bội tín” của hai nhân vật bi kịch anh hùng-liệt nữ nói trên[14].          

2. Nhân vật tiêu điểm: Từ Hải

Có ba nhân vật luôn hiện hữu trong các văn bản liên quan, do đó và do mối quan hệ đan cài của họ mà bộ ba nhân vật này luôn được bàn thảo đến trong cả năm chương sách. Vị trí, tính chất, vai trò của ba nhân vật, như Benoit nhận xét, đã được thiên diễn theo thời gian, theo mục đích của người tạo văn bản và theo tính chất của văn bản. Trong nhiều văn bản mà đặc biệt là văn bản Trung Hoa đã “đạt tới giai đoạn đích thực của nó trong văn chương”[15] - Kim Vân Kiều truyện - thì Thúy Kiều hoặc là nhân vật gây thương cảm, khiến câu chuyện được ghi lại, hoặc thành nhân vật trung tâm. Song theo lịch trình thời gian thì không phải thế: Từ Hải và đối thủ Hồ Tôn Hiến của ông là mắt xích quan trọng đầu tiên. Thêm nữa, cũng vẫn theo các trưng dẫn tư liệu và lập luận của Benoit, Từ Hải mới là nhân vật đẹp nhất của quá trình tạo văn bản.

Khởi đầu, Từ Hải không phải là thủ lĩnh hải tặc, và Hồ Tôn Hiến là viên quan có công tiễu trừ nạn giặc đó, quanh những năm 1550. Từ Hải gốc tích là một sư tăng, nhưng do tính cách phiêu lưu nhiều tham vọng nên sau đó bị cuốn vào các hoạt động thương mại trên biển, rồi tham gia vào hoạt động cướp biển, và chỉ trong tình huống ngẫu nhiên ông mới thành một trong những thủ lĩnh hải tặc, rồi bị Hồ Tôn Hiến tiêu diệt. Bước vào văn bản đầu tiên - Từ Hải bản mạt của Mao Khôn - Từ Hải thành kẻ xảo trá, và do Hồ Tôn Hiến được cố ý miêu tả thành kẻ khôn ngoan, có chiến lược tài tình nên Từ Hải phải chịu một kết cục “nhục nhã” (Chương Một). Đến Vương Kiều Nhi truyện Từ Hải đã có những nét khác so với Từ Hải trong Từ Hải bản mạt. Ông không còn chỉ ở thế bị Hồ Tôn Hiến uy hiếp nữa mà đã có nét uy quyền của một đối thủ đáng kiêng nể, và cũng không còn nét xảo trá, khó lường mà Mao Khôn đã chủ ý phác họa. “Bản kể đầy thương cảm của Từ Học Mô (…) gần như bảo đảm rằng qua bàn tay của các tác giả đời sau, Từ Hải sẽ được biến đổi dần dần, từ một thảo khấu thấp hèn trong chính sử thành một anh hùng chính trực trong tiểu thuyết và kịch”[16] (Chương Hai). Những chỉnh sửa căn bản về Từ Hải, theo trình bày của Benoit, sau đó được thực hiện qua “Hồ Thiếu bảo bình Oa chiến công” của Chu Tiếp, và Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài. Ở những văn bản này, Từ Hải thành viên tướng giặc oai phong, thành người bạn đời của nhan sắc Thúy Kiều (trong khi Hồ Tôn Hiến dần bị lãng quên trong ý đồ cải biên của các tác giả) (Chương Ba). Tiếp đó, ở “Sinh báo Hoa Ngạc” của Mộng Giác Đạo Nhân và Tây Hồ Lãng Tử và Thu Hổ Khâu của Vương Long, trong khi việc miêu tả mưu kế của Hồ Tôn Hiến trở nên thứ yếu thì việc miêu tả sự gắn kết của Thúy Kiều với Từ Hải lại gia tăng, kèm theo đó là tường thuật đầy cảm thương về kết cục bi kịch của nàng. Benoit chỉ ra rằng tình yêu của Từ Hải với Thúy Kiều có đường nét rõ ràng hơn, và với mức độ tình cảm đó, hành vi tự tận của nàng sẽ cộng hưởng thành một bảo đảm chắc chắn cho vị trí “liệt nữ” của Thúy Kiều thì cũng tự nhiên nhân vật Từ Hải có thêm những nét mới: Từ Hải trở nên hấp dẫn hơn ở cả hai phương diện, thủ lĩnh hải tặc và bạn đời liệt nữ. Đồng thời, Benoit cũng chỉ ra rằng, cả Từ Hải và Thúy Kiều đều không phải chịu trách nhiệm trực tiếp về những diễn biến liên quan đến kết cục của Từ Hải (là quy hàng, và chết một cách bi kịch), họ là nạn nhân bi thương của Hồ Tôn Hiến, và do đó Hồ Tôn Hiến càng mang những nét thiếu thiện cảm (Chương Bốn). Bước đệm giữa hai quá trình nói trên (Chương Ba và Bốn) là La Long Văn truyện của Phan Chi Hằng. Đây là văn bản sớm nhất phản ảnh tính cách phức tạp của nhân vật Từ Hải: vẫn có nét bất trắc trong quan hệ với Hồ Tôn Hiến nhưng dễ thuyết phục trước Kiều, có khát vọng, và sụp đổ vì đã tin kẻ khác. Đến Kim Vân Kiều truyện, trong khi nhân vật Hồ Tổng đốc gần như không thay đổi thì, như bình luận của Benoit đã trích dẫn ở trên, Thanh Tâm Tài Nhân đã “chủ ý thay đổi các nguồn tư liệu vay mượn” để tạo ra “một Từ Hải khác biệt ngay từ đầu cho đến kết thúc (…), một kẻ phản loạn bất khuất, yêu tự do phóng khoáng, coi thường quyền uy, thậm chí đe dọa cả ngai vàng (…), giờ đây xuất hiện không chỉ trong tư cách ân nhân tối thượng của Thúy Kiều mà còn ở tư cách một thẩm phán công lý tối cao trong một xã hội bất công” (Chương Năm).

Nhìn lại diễn tiến chung của câu chuyện, có thể nhận ra rằng trong toàn bộ các văn bản được Benoit khảo sát, cả ba nhân vật đều bị cải chế theo hai hướng: thêm bớt và đảo ngược. Trong đó, Thúy Kiều là trường hợp tiêu biểu cho hướng thứ nhất, còn Hồ Tôn Hiến và Từ Hải thuộc về cả hai. Vậy thì nhân vật Từ Hải được coi là đẹp nhất của quá trình cải biên này vì lý do gì? Như Benoit đã chỉ ra, ngay trong sự hư cấu đầu tiên của tự sự này (Từ Hải bản mạt), mục đích của soạn giả là tạo một hồ sơ sáng giá cho Tổng đốc họ Hồ, và vì vậy lý lịch của Từ Hải đã bị bôi đen – đây là mối quan tâm và xu hướng của sử liệu kéo dài từ đời Minh đến đầu Thanh. Qua một số văn bản sau đó, sự chú ý được chuyển sang Thúy Kiều. Do được cái chết bi thương của nàng lưu truyền trong dân gian truyền cảm hứng, một số tác giả đã tái chế sự kiện và từng bước chuyển theo chiều hướng mới, bằng cách kết hợp hai nguồn ký lục và truyền khẩu. Như vậy, đây là sự cải biên tự do nhất, nếu so với hai nhân vật còn lại. Kiều đã từ nhân vật cực kỳ mờ nhạt thành một nhan sắc, thành người gánh trách nhiệm về cái chết của Từ Hải (gánh phần cho Hồ Tôn Hiến) và đồng thời cũng thành liệt nữ. Nhưng, sự phát triển gần như toàn thiện ấy liệu có thành, nếu thiếu nhân vật anh hùng Từ Hải? Lý do thứ hai liên quan đến nhân vật Hồ Tôn Hiến. Như đã nói, Từ Hải là người bị cố ý hạ thấp để tôn vinh quan Tổng đốc. Động tác cải chế này dựa trên việc làm sai lệch tư liệu vốn có, tức là bị ràng buộc hơn so với việc cải chế nhân vật Thúy Kiều. Thêm nữa, trong diễn tiến sau đó, khi sự lật ngược cách hình dung hai nhân vật này diễn ra thì chỉ Từ Hải được bổ sung những đường nét mới. Bất khuất, yêu tự do, coi thường quyền uy là những phẩm chất của kẻ làm loạn trong một trật tự toàn trị đã được gắn cho nhân vật vốn là hải tặc và thủ lĩnh hải tặc bất đắc dĩ. Còn tư cách cứu tinh của nhan sắc Thúy Kiều, là thẩm phán công lý trong xã hội bất công được gửi gắm vào Từ Hải thì có thể chắc chắn là những hình ảnh ước vọng, dù có dựa vào những mảnh hiện thực nhất định. Để có được một nhân vật với những mới mẻ đến mức đó, các tác giả không thể không khổ công và mạnh mẽ với những ý đồ vượt khỏi ước thúc của thời đại ở nhiều phương diện.

Còn Nguyễn Du. Tố Như Tử đem lại cho nhân vật Từ Hải của Đoạn trường tân thanh thêm những gì? “Hiển nhiên, ngoài cái đẹp ngôn ngữ mà Nguyễn Du đã sử dụng và nhạc tính của vần điệu mà ông đã sáng tạo nên, còn cần thêm điều gì đó để nhận chân sự mê đắm cực lớn của người Việt đối với một bộ tiểu thuyết Trung Hoa không mấy nổi tiếng. Lời đáp chủ yếu là ở phương thức sáng tạo mà theo đó Nguyễn Du đã cải biên tư liệu nguồn. Đối với những nhân vật được phác họa mờ nhạt của tiểu thuyết, ông đã truyền cho chúng những phẩm chất phổ quát, giúp chúng vượt qua thời gian hay không gian cụ biệt”[17]. Từ Hải chính là bằng chứng thuyết phục nhất khiến Benoit nhận ra và khẳng định khả năng văn chương có thể nhân lên gấp bội các giá trị lịch sử.

 Cuộc tìm kiếm diễn tiến câu chuyện Vương Thúy Kiều dừng lại trước những phân tích sâu hơn văn bản Việt Nam bằng nhận xét trên. Benoit luôn bám sát diễn tiến đó từ cả ba nhân vật chính, nhưng Từ Hải mới là nhân vật được ông ngưỡng mộ về mức độ tạo tác, và cũng chỉ Từ Hải của Nguyễn Du mới thành nhân vật mang thẩm mỹ và tính nhân bản sâu sắc nhất trong cả tập hợp văn bản được khảo sát. Đó là sự thật từ văn bản, song dường như đó cũng là khoảng trời riêng của chính Charles Benoit Lê Vân Nam.

3. Luận thuật văn bản: chân và mỹ

Câu chuyện về Vương Thúy Kiều, như các nhà nghiên cứu gần đây đã tổng hợp, có mặt trong ngót 200 văn bản Trung Hoa, trong đó những tư liệu mà Benoit bao quát và tập trung khai thác là những nguồn quan trọng nhất. Công phu của ông có thể thấy trước hết qua diện và lượng tư liệu được sử dụng: có sử liệu (là chiếu dụ, tấu biểu, địa phương chí, sử quan phương), có ghi chép của người đương thời và đời sau, có sáng tác văn chương (thơ, liệt truyện, hý kịch, tiểu thuyết…) dựa trên hai nguồn ký lục và truyền khẩu – được tập hợp trong 15 trang thư mục tài liệu tham khảo cuối công trình (nguyên bản tiếng Anh).

Đối diện với tư liệu, ở đây xin được khoanh vùng vào những tư liệu cổ, có những cấp độ và cách xử lý khác nhau. Nhận diện tư liệu, biện giải độ xác tín của tư liệu, và đánh giá chúng là những thao tác đầu tiên. Tiếp đó, với những trường hợp đa văn bản hoặc liên văn bản là phân tích đối sánh văn bản. Tầm nhìn và khả năng phát hiện của người xử lý văn bản, sử dụng văn bản phụ thuộc chính ở hai cấp độ thao tác này, mà chủ yếu là ở cấp độ thứ hai: đối sánh có phân tích và ngược lại.

Trở lại với diễn tiến của câu chuyện đang bàn, đã có nhiều học giả đi theo hướng khảo cứu văn bản. Trước hết là giới học thuật Trung Hoa. Hai trường hợp tiêu biểu là Đổng Văn Thành[18] và Trần Ích Nguyên[19]. Là học giả Trung Hoa, họ thuận lợi hơn hẳn về ngôn ngữ và khả năng tiếp cận văn bản Hán văn. Tuy nhiên, để tìm hiểu diễn tiến câu chuyện Vương Thúy Kiều có điểm hoàn kết rực rỡ ở Việt Nam thì cả hai học giả này lại bất lợi về ngôn ngữ.

Giữa hai học giả này, Trần Ích Nguyên là người có tinh thần làm việc khách quan hơn khi ông, dù phải mượn cây cầu phiên dịch, đã nhiều lần tìm đến Việt Nam và nguồn văn bản Việt (Hán Việt, Nôm). Cũng chính vì vậy, nhiều nhận định của Trần Ích Nguyên đã gần hơn với sự thật của diễn tiến câu chuyện tại Việt Nam. Trong Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều, trục chính của công trình, theo lời tác giả là “Khảo sát sự truyền bá và ảnh hưởng của Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, đánh giá lại giá trị và địa vị của nó”, nhằm “giúp ích cho chúng ta cùng đi sâu nhận thức tình hình chỉnh thể câu chuyện Vương Thúy Kiều ở trong và ngoài Trung Quốc, đồng thời cũng là tìm một định vị lịch sử thích đáng cho tiểu thuyết cổ đại mà Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân là chủ yếu”, và “để đào xới một số vấn đề về tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, xây dựng lại bộ mặt chân thực cho tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc”[20]. Như vậy, tiêu đích sâu xa của học giả Trung Hoa này không phải là câu chuyện nàng Kiều, hay diễn trình biến hóa của câu chuyện mà là giá trị của cốt truyện bản địa. Thêm nữa, khởi sự tìm tòi của Trần Ích Nguyên là thời điểm 1998 và hoàn thành vào năm 2001 - 20 năm sau khi luận án của Benoit hoàn thành; còn các công trình của Đổng Văn Thành, sớm nhất từ 1985 và muộn nhất là 1999[21] cũng đều ở sau thời điểm Benoit công bố kết quả nghiên cứu, 1981.

Điều quan trọng hơn, so với nghiên cứu của Benoit, các khảo sát nói trên đều phải nhường một bậc về cách trưng dẫn và phân tích tư liệu. Thường xuyên xuất hiện trong chuyên khảo của Benoit cụm từ “đọc có phê phán”, “tìm hiểu có phê phán”, “xem xét một cách có phê phán”, thái độ phê phán” (read critically, “critical examination”, “considered critically”, “critical attitude”). Đấy chính là lý do để nghiên cứu của Benoit, ngoài ưu thế tác giả thông thạo chữ Nôm (để đọc tác phẩm của Nguyễn Du), thông thạo tiếng Việt Latin hóa để tham chiếu đầy đủ các thảo luận của học giới Việt Nam, ngoài những tranh luận và đính chính tư liệu thuyết phục với chính nguồn văn bản chữ Hán, còn có những luận biện tinh xác về diễn biến logic của câu chuyện từ tổng thể văn bản, tình tiết, chiều hướng dịch chuyển khung truyện, và đặc biệt là sự tài tình trong phân tích diễn tiến câu chuyện mà các nghiên cứu bản địa nói trên không có được. Hầu hết các tư liệu đều được lật đi lật lại, được kiểm chứng đối sóng hoặc kiểm chứng trong một tập hợp văn bản nhất định. Nhờ vậy, Benoit dường như đã khai thác triệt để mọi thông tin có khả năng hàm chứa trong văn bản; thậm chí cả những văn bản mang ý nghĩa tiêu cực, dưới cách phân tích của Benoit, vẫn cho thấy chúng có thể giúp vào việc tìm ra một sự thật nào đó hoặc gợi ý cho một hướng tìm mới.

Diễn tiến câu chuyện Vương Thúy Kiều từ sự kiện lịch sử Trung Hoa đến kiệt tác văn chương Việt Nam do Charles Benoit thực hiện là một luận thuật văn bản tỉ mỉ, sát sao. Hơn nữa, phạm vi văn bản được luận bàn còn bao gồm (và thực tế là được quan tâm nhiều hơn ở) những tương quan quan hệ giữa ba nhân vật chính thuộc chuỗi sự kiện. Năm chương của công trình được phân chia theo hình thức là: chương đầu tiên luận thuật diễn tiến câu chuyện trong văn bản lịch sử, bốn chương còn lại thảo luận về diễn tiến ấy trong các văn bản văn chương; tên các chương cũng khẳng định chúng có tiêu điểm riêng. Nhưng, như độc giả theo dõi, cả năm chương đều xoay quanh mối quan hệ đan xen phức tạp giữa ba nhân vật chính. Benoit luận biện, bằng những cứ liệu văn bản, về sự thay đổi tính chất, trạng thái của từng cặp quan hệ trong nhận thức rằng cách khắc họa từng mối quan hệ riêng một khi thay đổi sẽ tác động lập tức đến các cặp quan hệ còn lại, tức là giữa chúng có một sự cộng hưởng mạnh mẽ, vì thế cách trình bày hoặc phân tích văn bản của ông luôn đảm bảo đồng thời hai yêu cầu của một khảo sát có điểm và có diện cũng như luôn hướng tâm một cách sát sao. Benoit cũng luôn cho rằng sự thay đổi trên bề mặt văn bản này phải có lý do, rồi ông cũng đương nhiên tự xác định một nhiệm vụ tiếp theo cho mình là tìm cách giải đáp nguyên do đó, hoặc bằng phân tích đối sánh văn bản hoặc tìm trong văn bản những chứng lý để lập luận về những lý do khả thủ của hiện tượng. Bởi vậy có thể hình dung, ở phương diện này, thao tác văn bản của Benoit còn là một đối thoại cương trực với tác giả của nhiều thời đại (người biên thứ, ký lục lịch sử, giai thoại, người tạo tác văn bản văn chương, người phẩm bình, và nhà nghiên cứu,…), là cuộc chiến bền bỉ chống lại những ảnh hưởng của các hệ thống văn bản tư liệu mang tính định kiến hoặc có sai lầm, lệch lạc, chống lại những lối nghĩ, hệ tập quán, thiết chế phi lý mà khoa học, nhất là khoa học xã hội nhân văn, thường gánh chịu. Nói cách khác, luận thuật của Benoit đã chạm đến mọi tầng văn bản, từ văn bản cụ thể đến văn bản siêu hình - tức những nhân tố tập tục, xã hội, tư tưởng, lịch sử,… hoặc động cơ cá nhân đã ước thúc quá trình tạo tác văn bản vật lý cụ thể. Thao tác này ít có mặt và gần như chưa thành một nguyên tắc làm việc xuyên suốt ở bất kỳ nghiên cứu nào về chủ đề này, nó thực sự là của riêng Benoit.  

          Tại Việt Nam, con đường tìm kiếm nguyên lai Truyện Kiều có thể tính từ những năm cuối thế kỷ 19 với vai trò mở đầu của một số học giả Pháp. Bước tiếp theo thuộc về một học giả Việt Nam là Thượng Chi với bài viết “Truyện Kiều” (Nam phong tạp chí số 30, 12-1919)[22]. Kể từ đây nhiều tác giả Việt Nam khác cùng góp công, như Phan Sĩ Bàng và Lê Thước với Truyện cụ Nguyễn Du – Tác giả truyện Thúy Kiều(Mạc Đình Tư xuất bản, Hà Nội, 1924), “Nguồn gốc quyển Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du” của Dương Quảng Hàm (đăng trên Tri tân số 4, 24-6-1941)[23], và “Nguồn gốc Truyện Kiều: ‘Phong tình cổ lục’ nào là ‘lam bản’ của Truyện Kiều” của Giản Chi (Tạp chí Văn [Sài Gòn] số 43, 1964). Tuy nhiên, do mục tiêu nghiên cứu và khả năng tiếp cận văn bản, hầu hết những bài viết này đều tập trung cho việc đối sánh truyện thơ của Nguyễn Du với tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện. Đi xa nhất trong hướng tìm tòi này là bài viết của Giản Chi[24], nhưng, như Benoit đã lập luận, do các tư liệu đưa ra thiếu độ chân xác nên bài viết không đủ sức thuyết phục[25]. Và vì vậy, nghiên cứu của Benoit không chỉ đính chính những nhầm lẫn của một số tài liệu Việt Nam trong việc nhận diện tác giả bản Kim Vân Kiều truyện, tham góp cụ thể vào việc xác định thời điểm Nguyễn Du có thể thực hiện việc cải biên câu chuyện Trung Hoa, mà nhận định của Benoit rằng: ngoài tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân, để viết Truyện Kiều chắc chắn Nguyễn Du đã tiếp xúc với những nguồn tư liệu khác[26] (THY, NĐN nhấn mạnh), cho đến thời điểm này vẫn là kết luận có chứng lý và đầy đủ nhất về mức độ và khả năng cải biên các tư liệu nguồn, tức là sự sáng tạo nghệ thuật, của Nguyễn Du. Trên hành trình tìm kiếm này, Benoit đã tao ngộ nhiều thức giả Việt ở nhiều thời đại chung tình yêu khúc đoạn trường của Nguyễn Du, và có lẽ không quá ngộ nhận khi nghĩ rằng một người đọc không căn rễ Việt là Benoit đã nhận đồng hoàn hảo với những luận bàn của hai bậc túc nho Việt gần thời Nguyễn Du về thiên tài Nguyễn Du[27].

*  *  *

Trong cuốn sách này nếu văn bản luận án là phần cốt lõi thì “Lời thưa trước…”, “Nàng Kiều và tôi”, đến “Lời cảm ơn” và cả bài yết hậu này là những phụ văn bản, chúng cùng nhau tạo nên một liên văn bản. Đó là sự xếp chồng những lớp văn bản khác biệt về thời gian về người viết, khiến việc theo dõi câu chuyện của độc giả trở nên giống như sự bóc tách từng lớp văn bản điệp trùng phủ lên một lõi truyện. Hiệu ứng của một cuốn sách như vậy ra sao, câu trả lời xin chờ phản hồi của độc giả.

Diễn tiến câu chuyện Vương Thúy Kiều - Từ sự kiện lịch sử Trung Hoa đến kiệt tác văn chương Việt Nam là một công trình khoa học, song tác giả đã viết nó  như một tự sự về chuyến thám hiểm gian nan nhưng quyến rũ nhất của đời mình. Không rõ những khi lặn lội tìm kiếm tư liệu nghiên cứu tại các thư viện trên đất Mỹ và ở các nước châu Á, những lúc khổ công ngẫm suy về chúng để tìm ra những lời giải có khi nào Benoit nhận thấy lời Nguyễn Du nói về quãng đời mười lăm năm chìm nổi của nàng Kiều, rằng Lại tìm những chốn đoạn trường mà đidường như thật đúng với mình khi ấy. Phải hai lần rời Việt Nam trái hẳn với ước muốn và ngậm nhiều oan trái, Benoit đã có thể chọn cách rũ bỏ hoàn toàn những quan tâm, dứt bỏ tất cả những kết nối từng có với Việt Nam, với Truyện Kiều. Thế nhưng, chỉ hơn năm năm sau lần phải xa cách Việt Nam đầu tiên (1975-1981), Benoit đã hoàn thành hành trình tìm kiếm sự thật xung quanh diễn tiến câu chuyện về nàng Kiều; và sau hơn ba thập kỷ ấp ủ-cố lãng quên, dự án dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh của ông cũng thành hiện thực (vào cuối 2016)

Cõi trần mà lại thấy người cửu nguyên

Một kết thúc có hậu – cụm từ này như một lời an ủi. Nhưng Benoit từng viết “Việt Nam lúc nào cũng ở trong tôi”. Và đây không phải một dòng xã giao, nếu hiểu những trải nghiệm vô cùng đa dạng của ông ở Việt Nam. Quả thực, công trình học thuật để đời này không là đơn đặt hàng từ bất kỳ đâu ngoài một cam kết gắn bó tự nhiên và thật sâu nặng của Charles Benoit với Việt Nam, qua Truyện Kiều

Khi thân chẳng lọ là cầu mới thân

Vì thế, câu chuyện này có thể được xem như một minh chứng cho việc một giá trị văn hóa có thể điều giải tốt ra sao những trắc trở xuyên biên giới và thời gian.       

8.2015 – 8.2016


[1] Đây là cách viết một bối cảnh lịch sử với độ nén đặc biệt cao. Bởi người viết, thay vì trình bày một diễn tiến lịch sử chung chung của quãng thời gian này, đã chỉ tập trung vào một tình huống là nạn hải tặc trong đối sách của triều đình. Vì thế, nội dung chính của chương là thảo luận văn bản để nhận diện khả năng thực sự của sự kiện lịch sử không bị sao lãng hoặc trở nên rối rắm với những dữ liệu lịch sử thừa thãi.

[2] Trang 53 sách này.

[3] Trang 143-144 sách này.

[4] Trang 160 sách này.

[5] Trang 210 sách này.

[6] Trang 215 sách này.

[7] Trang 247 sách này.

[8] Trang 266 sách này.

[9] Để tìm hiểu nhân thân của người mang bút danh này, Benoit đã tranh luận với học giới Trung Hoa và cho rằng hai luồng nhận đồng của họ là không thuyết phục (xin xem các trang 266 và 267 sách này). 

[10] Trang 291 sách này.

[11] Trang 292 sách này.

[12] Trang 302 sách này.

[13] Trang 298 sách này.

[14] Trước khi kết thúc chương là bàn luận của Benoit về một số dẫn dụ có thể tạo nên những nhận xét mâu thuẫn với chiều hướng chung của sự cải biên mà ông lại nhận ra là chúng có thể hé lộ mối bận tâm và vị trí xã hội của tác giả.

[15] Trang 259 sách này.

[16] Trang 160 sách này.

[17] Trang 19 sách này.

[18] Đổng Văn Thành [董文成] là học giả Trung Hoa sung sức nhất trong nghiên cứu văn bản Kim Vân Kiều truyện. Ông có ngót chục công trình nghiên cứu, từ bài viết trên các tạp chí đến sách in tại Trung Hoa, từ năm 1985 đến 1999.

Gần hơn cả với hướng đi của Benoit là 2 bài viết:

 “Kim Vân Kiều truyện cố sự đích diễn hóa’’ [金云翘传》故事的演化], in trong Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng [明清小说论丛],  Tập 3, Thẩm Dương: Xuân Phong Văn nghệ Xuất bản xã, 6-1985

 “Kim Vân Kiều truyện nhân vật nguyên hình khảo”, in trong Minh Thanh tiểu thuyết luận tùng [明清小说论丛], Tập 4, Thẩm Dương: Xuân Phong Văn nghệ Xuất bản xã, 2-1986

[19] Trần Ích Nguyên [陈益源], Vương Thúy Kiều cố sự nghiên cứu [王翠翘故事研究], Đài Bắc: Lý Nhân thư cục, 2001. Bản dịch tiếng Việt Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều (bản dịch của Phạm Tú Châu). Nxb Lao động & Trung tâm văn hóa và ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội, 2004.

[20] Trần Ích Nguyên. Bản dịch tiếng Việt, Sđd, tr.13,14.

[21] Ngoài ra, còn có một số tìm tòi của học giả phương Tây, như:

            Eric Henry. “On the Nature of the Kiều Story” (“Về bản chất Truyện Kiều”), công bố trong Vietnam Forum, 3-1984

            hoặc K.C. Leung, The Cycle of Kieu (Qiao): Inheritance and creation reconsidered (Tham luận Hội thảo“Trung Quốc học thuật nghiên cứu chi thừa truyền dữ sáng tân” tổ chức tại Đại học Hồng Kông, 12.1989). Bản dịch tiếng Việt “Chu trình diễn hóa của Kiều: Lại bàn về kế thừa và sáng tạo” (Nguyễn Nam lược dịch), in trên Tạp chí Văn học số 9-2003

nhưng đều công bố sau thời điểm Benoit hoàn thành công trình của ông.    

[22] Năm 1943, bài viết gồm 4 phần (Cội rễ Truyện Kiều, Lai lịch tác giả, Văn chương Truyện Kiều, Tâm lý cô Kiều) này được đưa vào bộ sách Thượng Chi văn tập.  

Ở phần “Cội rễ Truyện Kiều”, cho rằng Nguyễn Du dựa theo Thanh Tâm Tài Nhân lục để viết lại thành Truyện Kiều, nhưng truyện của Thanh Tâm Tài Nhân lại có vẻ dựa trên “sự thực” nên Thượng Chi đã dịch câu chuyện Vương Thúy Kiều của Dư Hoài (trong Ngu sơ tân chí) mà ông tình cờ đọc được.

[23] Sau khi lược thuật những nghiên cứu trước đó về nguồn gốc Truyện Kiều (của Abel des Michels, Georges Cordier, H. Maspéro, Kiều Oánh Mậu, Thượng Chi, đặc biệt là của Phan Sĩ Bàng và Lê Thước), Dương Quảng Hàm kết luận: Nguyễn Du dựa vào Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân.

[24] Từ tham khảo 4 tư liệu Trung Quốc của người bạn là Lê Nhân Phủ (ghi chép của Từ Vị chép trong Kim Vân Kiều truyện), 2 bản Vương Thúy Kiều truyện của Dư Hoài chép trong Ngu sơ tân chí và Hồ Khoáng thập di lục tàn cảoQuán Hoa Đường bình luận Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Tử  biên thứ và Kim Thánh Thán phê bình), Giản Chi nhận xét: 

“Truyện Kiều” của cụ Tiên Điền, về nội dung, không đúng hẳn với Vương Thúy Kiều trong Hồ Khoáng thập di tàn cảo và khác xa Vương Thúy Kiều của Dư Hoài in trong Ngu sơ tân chí nhưng trái lại, giống hệt Kim Vân Kiều truyện hay Thanh Tâm Tài Nhân của Từ Vị… Mặt khác, sự tích Kim Vân Kiều truyện của Từ Vị cũng là sự tích Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Nhân biên thứ và Kim Thánh Thán phê bình…

Như vậy, nguồn gốc Truyện Kiều, chắc chắn… là Kim Vân Kiều truyện của Từ Vị hoặc Kim Vân Kiều truyện do Thanh Tâm Tài Nhân biên thứ. Nhưng,… Từ Vị là người đồng thời với Hồ Tôn Hiến. Vậy Kim Vân Kiều truyện của họ Từ hiển nhiên là viết vào đời Gia Tĩnh triều Minh. Còn Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Tử thì có lẽ viết sau và viết lại (thành hồi) theo Kim Vân Kiều truyện của Từ Vị. Vậy thì… sao bằng nói: Lam bản Truyện Kiều là quyển Kim Vân Kiều truyện của Từ Vị, viết vào thời Gia Tĩnh triều Minh đầu thế kỷ XVI.

[25] Trang 279 sách này.

[26] Xin xem chú thích 3, “Dẫn nhập”, trang 21-22 sách này.

[27] Đó là

Mộng Liên Đường Chủ Nhân (Nguyễn Đăng Tuyển, 1820), với:

Truyện Thúy Kiều chép ở trong Lục phong tình, ta không bàn làm gì. Lục phong tình cũng đã cũ rồi. Tố Như Tử xem truyện, thấy việc lạ, lại thương tiếc đến những nỗi trắc trở của kẻ có tài, bèn đem dịch ra quốc âm, đề là Đoạn trường tân thanh, thành ra cái lục ‘Phong tình’ vẫn là cái lục cũ, mà cái tiếng ‘Đoạn trường’ lại là cái tiếng mới vậy. (bản dịch của Bùi Kỷ-Trần Trọng Kim)

và Phong Tuyết Chủ Nhân Thập Thanh Thị (1828) khi nói:

Có người hỏi ta rằng: Thúy Kiều có người thực không? Ta đáp lại rằng: Không biết. Người ta lại hỏi rằng: Thế thì làm sao mà lại có truyện Thúy Kiều? Ta đáp lại rằng: Từ lúc mờ mịt chưa có gì, đến lúc có thái cực, có lưỡng nghi, có tứ tượng, rồi tự nhiên biến hóa không ai dò được manh mối tự đâu. Trong khoảng ấy có rét, có nắng, có âm, có dương, lúc sinh ra, lúc mòn đi, lúc đầy lên, lúc vơi xuống, không thể nào cứ giữ mãi được mực thường. Đã không giữ được mực thường, thì tất có cuộc biến. Vì thế hoặc năm sáu trăm năm, hoặc ba bốn trăm năm, hoặc năm sáu mươi năm, cũng phải có một lần biến. Cái biến ấy đã khác với cái thường, thì phàm ai gặp phải thời ấy, bước vào cái cảnh ấy, ngổn ngang những biến cố ở trước mắt, chồng chất những khối lỗi ở trong lòng, mới phải mượn đến bút mực để chép ra, như những truyện anh hùng, truyện phong tình, truyện trung thần, liệt nữ, truyện đạo sĩ, ni cô, chẳng qua là mượn ngòi bút, tờ giấy để chép những cái cảnh ngộ lịch duyệt của bản thân mà thôi. Truyện Thúy Kiều có lẽ cũng là một thứ sách như thế cả. 

Kiều ngẫu nhiên mà sinh ra, mà có sắc đẹp, mà lại đa tình, cho đến khi đi Thanh minh, khi gặp Kim Trọng, khi bán mình chuộc cha, đều là ngẫu nhiên cả; cả đến lúc bị hãm ở thanh lâu, lúc đối chất ở phủ đường, lúc đã đâm đầu xuống Tiền Đường, lúc lại đoàn viên với Kim Trọng, cũng đều là ngẫu nhiên cả. Đem bút mực tả lên trên tờ giấy nào những câu vừa lâm ly, vừa ủy mị, vừa đốn tỏa, vừa giải thư, vẽ hệt ra một người tài mệnh trong mười mấy năm trời, cũng là vì cái cảnh lịch duyệt của người ấy có lâm ly, ủy mị, đốn tỏa, giải thư, thì mới có cái văn tả hệt ra như thế vậy. Thế thì Thúy Kiều không cần phải có người thực mới có truyện, song cũng phải có người như thế mới có truyện vậy.  (bản dịch của Bùi Kỷ-Trần Trọng Kim).

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 28.11.2018.

20180509 Giang Huong

Sáng ngày 4/5/2018, tiến sĩ Nguyễn Giáng Hương đã có buổi nói chuyện về chuyên đề “Vai trò lịch sử và văn hoá của kho sách Việt Nam tại Thư viện Quốc gia Pháp” ở Văn phòng Khoa Văn học và Ngôn ngữ- Trường ĐH Khoa học xã hội và Nhân văn tp. Hồ Chí Minh. TS. Nguyễn Giáng Hương hiện đang công tác tại Thư Viện quốc gia Pháp- François Mitterrand, ban Văn minh và Văn học Việt Nam. Buổi nói chuyện đã cung cấp nhiều thông tin bổ ích cho các nhà nghiên cứu và độc giả Việt Nam như sau:

- Trong các nước từng là thuộc địa của Pháp, Việt Nam là nước có lượng tài liệu được lưu trữ lớn nhất. Hiện nay, theo ước tính, thư viện có khoảng 70.000 đầu sách và 2.500 đầu báo- tạp chí viết bằng tiếng Việt; 250 đầu sách Hán Nôm. Riêng kho Đông Dương chứa 12.000 đầu sách. Đây là kho lưu trữ những tài liệu quý giá về Việt Nam. Một số tài liệu đã được chuyển sang dạng microfilm và được số hóa, đặc biệt là các tài liệu Hán Nôm.

-  Các mốc lịch sử hình thành nên kho tư liệu Đông Dương và cách thức xử lý tư liệu ở Thư viện Quốc gia Pháp.

- Cách truy cập và tra cứu tài liệu trên trang web của thư viện: http://www.bnf.fr/fr/acc/x.accueil.html, các từ khóa, các kho mục chứa nguồn tài liệu…

Sau phần trình bày của TS. Nguyễn Giáng Hương, những người tham dự buổi nói chuyện đặt câu hỏi trao đổi với diễn giả. Nhiều vấn đề thú vị trong việc lưu trữ và tra cứu tài liệu được đặt ra: vấn đề mua bản quyền, trao đổi sách, sưu tầm thủ bút, thủ tục và cách thức để các tác giả Việt Nam trao tặng sách cho thư viện quốc gia Pháp… Buổi nói chuyện quy tụ sự tham gia đông đảo của các giáo sư, nhà nghiên cứu, nhà khảo cứu và sưu tầm tư liệu, giảng viên, học viên cao học, sinh viên… ở thành phố Hồ Chí Minh.

20181119 Les pomes de lAnnam

Lời người dịch

Lời giới thiệu này nằm trong tác phẩm Kim Vân Kiều tân truyện, tập một, bản tiếng Pháp, do Abel des Michels dịch, Ernest Leroux xuất bản tại Paris năm 1884. Với bản dịch này, lần đầu tiên Truyện Kiều của Nguyễn Du được bước ra khỏi không gian văn hóa Việt Nam. Từ đó đến nay đã 131 năm trôi qua, trong bề dày của lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều, sự kiện này vẫn chưa được quan tâm như lẽ ra phải có.

Bên cạnh bản dịch cực kỳ công phu, Lời giới thiệu của Abel des Michels đã cung cấp cho người đọc những thông tin vô cùng quý giá. Trước hết là vấn đề văn bản: vào cái thuở ban đầu ấy, việc tiếp xúc được với văn bản Truyện Kiều của Nguyễn Du và tìm ra cội nguồn của nó là vô cùng khó khăn. Thứ đến là những gian nan trong việc hiểu hết ý nghĩa của tác phẩm và chuyển ngữ lại cũng bằng những câu thơ mang được vẻ đẹp như vốn có: về vấn đề này, Abel des Michels đã nói rõ những bước đi phương pháp của mình. Sau khi tóm tắt cốt truyện của Kim Vân Kiều tân truyện, Abel des Michels đã đưa ra những ghi nhận  rất  thoáng mà tinh tế về tư tưởng Phật giáo, về tính kỳ lạ, phức hợp, mơ hồ trong ngôn ngữ và bút pháp; trong đó ông lưu ý đến “sự di chuyển của người phát ngôn”, sự hòa trộn giữa “tư tưởng đạo đức” và “tư tưởng triết lý”; và có một kết luận thú vị, rằng: “nhà thơ (Nguyễn Du - NTTX ct.) đã có ý định rõ ràng là để cho độc giả của mình trong một mối ngờ”.

Nhớ đến Nguyễn Du trong sinh nhật lần thứ hai trăm năm mươi năm của nhà thơ, chúng tôi lần lại trang sách cũ và chuyển ngữ Lời giới thiệu của Abel des Michels để giới thiệu cùng những ai yêu mến nhà thơ.Trân trọng cám ơn PGS. Đoàn Lê Giang đã cho chúng tôi mượn tư liệu quý này.

Nguyễn Thị Thanh Xuân 

 

Nhan đề của tập thơ An Nam mà tôi công bố bản dịch hôm nay có tên là Kim Vân Kiều tân truyện, là tác phẩm của Nguyễn Du, quan Hữu Tham Tri Bộ Lễ dưới thời Gia Long. Tác giả đã tập hợp tên của các nhân vật quan trọng nhất trong tác phẩm của mình, ở  Nam Kỳ, nó còn được biết đến với cái tên đơn giản hơn là Truyện Túy Kiều. Truyện thơ này được gợi ý, với những thay đổi đáng kể,  từ một tiểu thuyết Trung Hoa, tác phẩm mà nhiều nhà nho An Nam tin là được sáng tác bởi một trong các nhà nho Tài tử. Tôi không thể nói rằng quan điểm này bắt nguồn từ đâu, bởi vì tôi chỉ mới biết có một bản in về tiểu thuyết này mà nó lại không có tên tác giả. Bên cạnh đó, tác phẩm thể hiện một đặc trưng đáng chú ý là nó được viết từ đầu đến cuối bằng một loại văn ngôn (wên tchàng) không lẫn lộn chút nào với văn bạch thoại (kouàn hoá): thật là một điều hiếm thấy trong thể loại sáng tác này [1].

Một cô gái sinh ra từ một gia đình danh giá hơn là giàu có, vào dịp “Lễ Thanh Minh”, đã về quê tảo mộ cùng với em gái và em trai của mình. Nàng gặp ngôi mộ đìu hiu của một ca nhi ngày xưa nổi tiếng bởi cuộc sống phóng đãng và lấy làm thương xót vì người ấy không được ai đoái hoài sau khi chết. Những điều mà em trai nàng kể lại về cuộc đời và cái chết của Đạm Tiên làm nàng xúc động đến nỗi nàng đã khóc ngay tại đó. Nàng khắc một bài thơ trên mộ của ca nhi và khấn xin hương hồn cô xuất hiện. Tức khắc người chết hiện lên bằng các dấu hiệu rõ ràng, và điều này gây một cảm giác sâu sắc trong lòng Túy Kiều. Khi trở về nhà, nàng nằm mơ thấy Đạm Tiên hiện ra báo mộng, rằng những nỗi khổ mà sắp tới nàng phải gánh chịu là do kết quả của các lỗi lầm mà nàng gây ra trong kiếp trước.

Tuy nhiên, một văn nhân, bạn đồng môn của em trai Túy Kiều đã đến vào lúc nàng định rời khỏi mộ sau khi khấn vái. Sửng sốt vì vẻ đẹp của nàng, anh ta bỗng đem lòng say đắm nàng.  Nỗi đam mê mới này đã xui Kim Trọng (chính là tên anh ta) trở lại nơi mà mình đã gặp người thiếu nữ trong hy vọng được gặp lại một lần nữa. Hy vọng không thành, anh ta tìm đến nhà của Túy Kiều và tìm cách thuê một căn nhà bên cạnh.

Sau hai tháng chờ đợi mỏi mòn, cuối cùng chàng trai si tình của chúng ta cũng nhìn thấy đối tượng niềm đam mê của mình trong khu vườn của căn nhà nàng ở. Anh ta vội vàng bày tỏ trong hy vọng được làm quen với nàng. Túy Kiều, hoảng sợ, vội vàng vào nhà, nhưng nàng bỏ quên chiếc trâm cài đầu và Kim Trọng liền nhặt lấy. Ngày hôm sau, người thiếu nữ nhận ra là mất chiếc trâm khi chải tóc và quay trở lại khu vườn để tìm. Nàng nghe Kim Trọng gọi, chàng tỏ tình và trả lại cái trâm cùng với món quà.

Vài ngày sau, nhân lúc cả nhà về quê ăn giỗ, Túy Kiều  rón rén sang nhà chàng nho sĩ. Đôi tình nhân trao nhau những lời âu yếm, làm thơ, đánh đàn, và thề là sẽ trung thành trọn đời với nhau. Tuy nhiên, niềm say mê làm Kim Trọng  có chiều muốn điều tội lỗi. Cô gái trẻ giúp chàng trở lại tình cảm cao thượng hơn, và, khi trời sáng, nàng lui gót về nhà. Gia đình nàng trở về, và tai họa dường như đến cùng lúc với nàng. Bọn sai nha bất ngờ ập đến và bắt trói cha nàng vì một món nợ không rõ, gắn với lời khai của một kẻ bán tơ. Bọn chúng tịch thu tất cả, niêm phong ngôi nhà, và Kiều, chỉ còn biết nghe theo chữ hiếu, tự bán mình cho một kẻ khốn nạn để chuộc cha. Kẻ mua nàng là tay sai của một bà già tên là Tú Bà, dưới vỏ bọc của một cuộc hôn nhân giả, đã đưa nàng vào một nơi tồi tệ. Vì nàng kiên quyết chống lại những yêu cầu của mụ đàn bà ác độc, thậm chí muốn kết liễu đời mình để thoát khỏi nơi này, Tú Bà, đã dùng một thủ đoạn đê tiện để đạt được mục đích. Bà ta phái một kẻ vô lại tên là Sở Khanh, hắn xuất hiện trước nàng dưới dáng vẻ của một văn nhân phong nhã. Cô gái trẻ đáng thương nghĩ hắn là người có thể giải thoát mình; nàng bày tỏ nỗi khổ của mình và đi trốn cùng hắn. Mụ Tú Bà đuổi theo, bắt lại và giam nàng trong nhà chứa của mụ, nơi, với sự giúp đỡ của Sở Khanh, bà đánh đập Túy Kiều tàn tệ và buộc nàng phải làm cái nghề bẩn thỉu để bà ta thu lợi.

Giữa rất nhiều chàng trai trẻ bị hút vào nhan sắc lừng danh Túy Kiều, có một nho sinh tên là Thúc Sanh. Anh ta  mua lại nạn nhân của Tú Bà, đưa nàng ra khỏi lầu xanh và sống với nàng. Nhưng cha Thúc Sanh không đồng ý mối quan hệ nhơ nhuốc này, kiện thiếu nữ ra tòa. Thoạt đầu, viên quan kết án nặng nề, nhưng thấy Thúc Sanh tuyệt vọng, ông cảm động vì những giọt nước mắt của chàng, đã hỏi và biết rằng cô gái mà ông xử tội lại là một người rất có tài. Ông bảo Kiều chứng minh tài nghệ và hoàn toàn bị chinh phục, viên quan đích thân mời cha Thúc Sanh lên, khuyên là nên tác hợp cho đôi lứa.

Tuy nhiên, Thúc Sanh, theo lời khuyên của Túy Kiều, tạm thời trở về với người vợ chính thức của mình; mà không nói gì với vợ về cuộc hôn nhân mới. Hoạn Thơ biết rõ cuộc dan díu này. Nổi ghen, bà sai hai tên đầy tớ đến đốt nhà kẻ tình địch và bắt cóc Kiều, buộc nàng phải chịu thân phận kẻ tôi đòi. Bị xử tệ dồn dập, bị làm nhục tới tấp, Kiều đã làm cho người đàn bà truy hại mình tha thứ bằng sự cam chịu và phẩm cách đàng hoàng của mình,và Hoạn Thơ cho phép nàng vào trú trong một ngôi chùa để sám hối. Nhưng Thúc Sanh lại tìm đến đó gặp Kiều, và khi chàng đang chuyện trò thân mật với cô gái trẻ thì bị Hoạn Thư bắt quả tang. Nghe một người đầy tớ báo cho biết là nàng luôn bị theo dõi, Kiều lấy làm hoảng sợ và đã bỏ trốn sang một ngôi chùa khác ở xa, nơi đó nàng được sư trụ trì Giác Duyên đối xử rất tử tế.

Khốn thay, sư Giác Duyên sau khi nghe lời bộc bạch của Kiều, lại sợ Hoạn Thơ. Sư  gửi Túy Kiều cho một bà già tên Bạc Hà, người đàn bà này dưới vỏ bọc của một người sùng đạo, lại che giấu những hành vi cực kỳ bỉ ổi. Bà ta giao Kiều cho người cháu trai của mình, và kẻ này đưa nàng đến Châu Thai, bán nàng cho chủ một nhà chứa. Ở đó, cô gái khốn khổ bị vùi xuống vũng bùn lần thứ hai ấy đã tiếp một tướng giặc tên là Từ Hải. Ông ta giải thoát cho nàng và cưới nàng làm vợ như trước đây nho sĩ Thúc Sanh đã làm. Sau sáu tháng xa nhau, người chiến binh trở về, chiến thắng đạo quân của Hoàng đế, làm rung chuyển ngai vàng. Túy Kiều được tướng lĩnh và quân lính đón tiếp trọng thể. Lợi dụng quyền lực lúc bấy giờ, nàng báo ân hào phóng tất cả những ai đã giúp đỡ nàng trong cơn hoạn nạn và giết chết những kẻ thù xưa trong những hình phạt kinh hoàng. Nàng muốn ở cạnh Giác Duyên, kẻ được mời đến để chứng kiến màn xử tội; nhưng nhà sư từ biệt và báo là sẽ gặp nhau vào năm năm sau ở sông Tiền Đường.

Với sự giúp đỡ vô tình của Kiều, bằng sự lật lọng, quả nhiên viên tướng của nhà vua đã thắng nhóm quân phản loạn, một chiến thắng trọn vẹn, Từ Hải đã chết giữa trận tiền. Kẻ chiến thắng gả Túy Kiều cho một viên thổ quan;  viên quan này rước người vợ mới lên thuyền, nhưng khi đến giòng nước sông Tiền Đường, nhớ đến lời tiên tri của Giác Duyên, Kiều liền nhảy xuống lớp sóng dồi. Kiều được cứu bởi vị sư đã chờ  nàng từ lâu bên bờ sông ấy.

Từ đó trở đi, nhân vật của chúng ta đã trả hết món nợ bất hạnh. Hạn định đau khổ dành cho nàng để chuộc lại những lỗi lầm trong kiếp trước đã hết. Nàng tìm thấy lại gia đình và ý trung nhân Kim Trọng, chàng cưới nàng và sống hạnh phúc với nàng.

Thật là không dễ dàng khi lần đầu tiên cho ra một bản dịch về truyện thơ Túy Kiều. Ngoài việc đây là một bài thơ dài kỳ lạ, có lẽ chính cái khó nhất là tất cả những gì được biểu hiện dưới ngòi bút của các nhà thơ Annam. Vì thế xin người đọc đừng ngạc nhiên về số lượng lớn các chú thích mà tôi phải làm kèm theo bản dịch. Dù tôi cẩn thận theo rất sát bản gốc, nếu không có các chú thích này, bản dịch sẽ hoàn toàn không đủ để mang lại trọn vẹn tinh thần tác phẩm của nhà Nho Nguyễn Du, biết bao thành ngữ được tìm thấy ở đấy, văn bản khó đọc và các nhân vật vừa phức tạp vừa lạ thường.

Một trong những đặc điểm dễ thấy nhất của bài thơ dài này là chủ yếu ở tư tưởng Phật giáo mà nó chuyên chở, và dưới ảnh hưởng của tư tưởng ấy mà tác phẩm được viết ra. Trong suốt tác phẩm chúng ta luôn gặp những biểu hiện của tư tưởng ấy, rằng những bất hạnh của kiếp này của chúng ta là nghiệp báo từ lỗi lầm trong kiếp trước, và để chuẩn bị một kiếp sau, nếu linh hồn con người đã tinh tấn trong cái tốt sẽ được đền bù bằng một hóa thân mới, và quay về trong lòng của Phật, để từ đó về sau được trú mình và hưởng phước hoàn toàn nơi mà người ta thường gọi là Niết bàn.

Bút pháp của tác phẩm này là bút pháp của người Bắc. Một trong các ấn bản mà tôi căn cứ để dịch văn bản này cũng đến từ Bắc kỳ; và nếu có một văn bản khác không đến từ miền Bắc, thì ít nhất nó cũng là một bản chép lại, tệ hơn và khô khan hơn so với những văn bản đã xuất hiện trước đó ở Việt Nam. Như vậy, văn bản nguyên thủy của truyện thơ Túy Kiều hiển nhiên là ở Bắc Kỳ. Để khẳng định điều này, thật dễ dàng thừa nhận một số lượng lớn các thành ngữ đặc biệt của miền Bắc thuộc vương triều Annam tràn ngập tác phẩm cũng như các dạng đặc thù của các từ ngữ  bình dân hay chữ nôm mà văn bản sử dụng; những từ ngữ  đa phần khác với từ ngữ nói chung được hình thành trong tầng lớp bình dân Nam Kỳ và đặc biệt là khác với các từ ngữ mà chúng ta thấy trong từ điển Taberd. Về phần hình thức thể loại, nó thuộc vào dạng mà tiếng Annam người ta gọi là Vãn. Những câu thơ 8 và  6 chân luân phiên nhau, làm nên mỗi cặp vần mà câu đầu hiệp vần với câu sau ở chữ thứ 6 của mỗi câu, và chữ thứ 8 câu 8 hiệp vần với chữ thứ 6 câu 6 tiếp theo. Sự hiệp vần chéo này làm nên một hiệu ứng rất đáng chú ý. Gắn với sự kết hợp có chủ ý những dạng khác nhau về âm bằng và trắc, tập thơ mang lại một nhịp điệu tạo nên cảm giác êm tai cho bất kỳ một độc giả nào chưa mấy quen nghe, nhất là người ấy không có định kiến với không gian âm nhạc Nam Kỳ.

Giữa các khó khăn đáng kể mà tôi gặp phải qua công việc và nhất là qua việc dịch tác phẩm với đề tài rất nổi tiếng này ra tiếng Pháp, cũng cần kể đến sự mơ hồ ẩn sau các giòng chữ, xuất hiện trong các đối thoại hay các độc thoại mà chúng tôi thường gặp ở từng trang. Có lẽ chúng tôi không gặp ở đâu một sự khó khăn lớn đến thế khi phải xác định chính xác các điểm nhìn, phải xác định vị trí và sự di chuyển của người phát ngôn, cũng như phân biệt chính xác tư tưởng nào là đạo đức hay tư tưởng nào là triết lý, các tư tưởng này là thuộc về một trong các nhân vật của bài thơ hay là của chính tác giả [2]. Khó khăn cuối cùng này đôi khi không thể làm sáng tỏ, khi mà chúng ta sẽ phải xác nhận là nhà thơ đã có ý định rõ ràng là để cho độc giả của mình trong một mối ngờ. Các dấu chấm câu hoàn toàn không giúp gì. Vì, ngay cả trong tất cả các tác phẩm tương tự, dấu chấm câu hoàn toàn vắng bóng. Vậy nên, những ai quan tâm đến nghĩa chính xác thì phải cậy vào một số thành ngữ. Tất cả điều ấy bắt nguồn từ vấn đề là ngôn ngữ thơ Annam không biểu thị tính cố định như ngôn ngữ thơ trong tiếng châu Âu của chúng ta; tôi nghĩ rằng, điều ấy bắt nguồn từ ngôn ngữ đơn âm tiết, nó dễ dàng cho phép hai tác giả khác nhau đôi khi mang lại cho từ ngữ thơ ca này hay từ ngữ thơ ca khác nhiều nghĩa bóng khác hẳn nhau. Cũng như tất cả các nhà thơ Annam và còn hơn thế nữa, tác giả Truyện Túy Kiều thích sử dụng một số lượng lớn các thuật ngữ của Trung Hoa; và với tư cách là một vị quan lớn của Bộ Lễ, nhà thơ đã buộc phải trải qua các kỳ thi cao nhất, vì vậy ông nhất thiết phải đã chứng tỏ học vấn của mình qua kiểu này, bằng cách ra sức dẫn lại các nhà kinh điển Trung Hoa và đặc biệt là Kinh Thi hay Kinh Thư. Nhiều thành ngữ được Nguyễn Du sử dụng quả thật có cội nguồn trong cổ thi này hay thi tập kia của thi ca Trung Hoa, và thường dấu vết mà chúng lưu giữ đã được tìm thấy rõ. Vả chăng, thật dễ dàng để nhận ra rằng tác giả Truyện Túy Kiều đã mất rất nhiều công sức để trau dồi kiến thức vì thường thường nghĩa của các thành ngữ mà nhà thơ sử dụng thật sự sâu sắc và rất gợi trong tinh thần giản lược cực kỳ tinh tế. Tuy nhiên, phẩm chất ấy cũng có những nhược điểm: bên cạnh các ẩn dụ đáng chú ý bởi sự sâu sắc của và sự chính xác của chúng, cần phải nhận thức rõ rằng, nhược điểm là một số lớn những ẩn dụ khác là chúng thường quấn lại với nhau mà nếu không có một giải thích chi tiết nào thì một đầu óc ít được làm quen với ngôn ngữ thi ca đặc thù của Viễn Đông và đặc biệt là với Nam Kỳ sẽ không thể nào hiểu được chúng. Mặt khác, tuân theo một kiểu dạng của truyền thống dường như phổ biến cho tất cả các nhà thơ, Nguyễn Du thường bằng lòng với việc xây dựng những câu thơ thế này hoặc thế kia theo kiểu mà người ta có thể đường hoàng cho chúng hai, hay đôi khi, ba cách giải thích khác nhau. Các nhà nho Annam tìm thấy một khoái cảm rất đặc biệt trong việc đào sâu các câu thơ được xây dựng theo kiểu này và trong việc khám phá các ý nghĩa khác nhau mà nhà thơ đã muốn giấu vào trong đó. Người ta còn xem đó là một mẫu mực trong cách viết của loại thơ này.

Văn bản mà tôi đã chọn để bắt đầu dịch gần như không thể đọc được, nhiều chữ nguyên thủy đã bị làm biến dạng do các thợ in Trung Hoa, khi lo việc khắc và in ấn, đã không hiểu ngôn ngữ Anam. May thay, như tôi đã nói ở trên đây, tôi đã nhận được từ Bắc Kỳ một bản in thứ hai; bản này, như thường lệ, chứa đựng một lượng lớn các dị bản, nhưng mẫu chữ in mà người ta dùng để làm ra cuốn sách thì tuyệt diệu. Như thế, nó cho phép tôi xác lập văn bản theo một phương thức tương tự với điều mà tôi đã làm với tác phẩm Lục Vân Tiên. Tôi chấp nhận bản in mà tôi đã có từ đầu thuộc quyền sử dụng của tôi, như là cơ sở đầu tiên, và tôi bắt tay sửa các lỗi cho tốt hơn, nhờ các bài học vốn luôn chuẩn xác trên từ ngữ, đôi khi tôi cũng cậy vào các từ ngữ mà tôi tìm thấy trong bản thứ hai. Ngoài ra, tôi đã thay thế một phức hơp các ký hiệu trừu tượng chứa đựng trong bản in đầu tiên bằng các chữ hoàn chỉnh. Điều này làm cho việc đọc dễ dàng hơn và đồng thời cho phép người đọc nhận ra chính xác các giá trị của các chữ viết tắt qua sự đối chiếu văn bản đầu với văn bản đã sửa mà tôi công bố. Phần còn lại, tôi đã đặc biệt tôn trọng hình thức Bắc Kỳ của chữ Nôm.

Trong nghiên cứu khoa học, ngôn ngữ Anam vẫn còn gần như là một tử ngữ; và nhiều người hình dung rằng trong ngôn ngữ này không có cấu trúc cũng như cú pháp. Thành kiến khó thông cảm này chỉ sẽ biến mất khi nhìn thấy văn bản giải thích những tập thơ như Truyện Túy Kiều; văn bản vừa sáng rõ và đôi khi lại vừa rất phức tạp đến nỗi đôi khi chỉ có một câu thơ mà các nhà nho, những người có nhiều kinh nghiệm nhất, phải mò mẫm lâu trước khi hiểu chúng, và chúng tôi chỉ có thể làm được điều ấy sau khi đã áp dụng nghiêm ngặt các nguyên tắc định vị. Vì vậy, tôi tin là phải in kèm theo bản dịch, không chỉ các chú giải về ẩn dụ và các chú thích, mà còn có một số lớn các giải thích từng chữ của các câu thơ mà cấu trúc của nó gần như tối nghĩa. Tôi đã áp dụng phương pháp này cho bản dịch Lục Vân Tiên. Tôi nhận ra, khi ấy tôi quá hà tiện các giải thích; vì thế tôi đã tăng lên rất nhiều giải thích ở đây vì Túy Kiều chắc chắn khó hiểu hơn tập thơ  bình dân mà tôi vừa nói đến.Tôi nghĩ rằng, những người đã tiến hành nghiên cứu một ít về nội dung của loại văn học này rất muốn biết tôi chọn cái gì. Họ sẽ tìm thấy ở đây các giải thích bổ ích qua quá nhiều tìm tòi, để hiểu một lượng lớn các từ ngữ , ít nhất là trên quan điểm Châu Âu của tôi, và họ có thể vượt qua dễ dàng hơn các khó khăn mà một đống các thuật ngữ và các nhân vật hoàn toàn xa lạ đưa ra. Tôi tin là phải tiến đến việc mang lại một số khái niệm về ngữ pháp, nói đúng ra là về bản thân các nét đặc thù còn chưa quan sát hết, về các ngôn ngữ đặc biệt mà việc giải thích vẫn còn thiếu khuyết trong tất cả các công trình đã công bố cho đến hôm nay, và cả các từ ngữ đơn giản mà từ điển chưa chú ý đến. Tôi cậy nhiều ở việc áp dụng nguyên tắc định vị, ít nhất là trong các đoạn văn phức tạp nhất. Thật vậy, mặc dù cuốn sách này còn xa mới được xem là một trong những cuốn khởi đầu, thì vấn đề ở đây là một nền văn học còn ít được biết đến và một phong cách thơ ca thuộc về một trí năng mà nguyên tắc này là một chìa khóa cần thiết. Cuối cùng tôi  cố gắng thận trọng chỉ ra các chỗ dịch khó nhất cần phải xem qua, vì các trở ngại mà chúng mang đến cũng là trí tuệ của văn bản, cũng như những trò chơi từ ngữ thông thường vẫn rất phức tạp. Tôi đã cẩm trên tay mình bản dịch các ẩn dụ mà ngôn ngữ chúng ta không khước từ, và tôi đã thay thế những ẩn dụ giống nhau bằng những ẩn dụ tương cận, những ẩn dụ vốn hoàn toàn không thể giữ lại mà không trở thành khó hiểu, hay chúng hoàn toàn đối nghịch với tinh thần các ngôn ngữ Châu Âu. Tôi cũng đã làm tương tự như vậy cho các dấu chấm câu, khi tôi cho các kiểu ngắt câu khác nhau hòa với nhau, trong bản chữ quốc ngữ la tinh được chuyển từ chữ nôm và trong  bản dịch tiếng Pháp, vào những lúc mà tinh thần của hai ngôn ngữ không yêu cầu cấp thiết.

Tôi hy vọng là các nhà Đông phương học mà tôi kính trọng sẽ đọc cuốn sách này và thấy bản dịch của tôi là rất sát với nguyên tác. Tuy nhiên, nếu tôi còn để sót một vài chỗ không chính xác, trên ý nghĩa mà bản thân những  nhà nho bản địa cũng thường mâu thuẫn,  thì đó là điều gần như không tránh khỏi trong lần đầu tiên dịch một công trình như thế này, tôi hy vọng rằng chúng sẽ được ghi nhận như là các khó khăn mà tôi đã phải vượt qua, và được tán thưởng bởi một lòng khoan dung nào đó, công sức đáng kể mà tôi đã phải bỏ ra cho việc công bố cuốn sách này.

Versailles, ngày 10 tháng 5 năm 1884

(Abel des Michels, Kim Vân Kiều Tân Truyện- Publié et traduit pour la première fois par Abel des Michels, Professeur à L’École des Langues Orientales vivantes, Tome premier, Transcription, Traduit et Note, Éditions Ernest Leroux,  Paris, 1884, pages 1-16)

----------------------------------------------------------

[1] Vào lúc mà tôi sắp gửi cho nhà in bản nháp của Lời tựa này, trong một báo cáo mà tôi đã vinh dự được đọc trước Viện Hàn lâm Văn khắc và Mỹ văn (Académie des Inscription et Belles - Lettres- tức Viện Hàn lâm Văn học Pháp sau này, NTTX ct.),  tôi đã nói là không thể tìm thấy tiểu thuyết nào của Trung Hoa mà người ta có thể gắn với tập thơ của Nguyễn Du, thì chính vào ngày hôm sau, tôi đã nhận được từ Giáo sư Trương Minh Ký, người đã tìm thấy ở Sài Gòn và đã gửi ngay cho tôi, cuốn tiểu thuyết lâu nay  mà tôi đã hoài công tìm kiếm. Nó có tên là Kim Vân Kiều Truyện; có nghĩa là, nói một cách nhẹ nhàng, cũng là tên của chính tập thơ. Nhưng khổ thay, như tôi vừa nói, bản in này mới vừa được in ra từ một nhà in ở Hà Nội, lại không có tên tác giả. Tất cả thông tin trên cái bìa của bản in này chỉ là người đọc và chép lại là nho sĩ tên Phước Bình Lê, cuốn sách đã được in dưới thời vua Tự Đức, trong tháng đầu mùa thu năm Bính Tý, tức là năm 1876.

Theo chỗ tôi biết, cuốn tiểu thuyết Trung Hoa này đã đến vào lúc mà tập một bản dịch tập thơ Túy Kiều của tôi gần như được biên soạn xong và chuẩn bị để công bố. Hoàn cảnh này giải thích sự có mặt trong bản dịch này một số lượng các ghi chú dành cho việc suy ra nguồn cội Trung Hoa của tập thơ, cái cội nguồn hiện diện ngay từ cái tên Kim Vân Kiều Truyện đã lấy đi toàn bộ nghi ngờ, nếu quả thật nghi ngờ này đã từng được nói ra.

 [2]  Ví dụ, xem những câu thơ từ 380-385.

 

Abel des Michels/

Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch

Nguồn: Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du (Kỷ yếu HTKH Kỷ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du), NXB.ĐHQG TP.HCM, 2015

Thư viện đang lưu trữ khoảng 12.000 đầu sách viết về Đông Dương, trong đó chiếm khoảng 90% là về Việt Nam.

Một số đầu sách hiếm đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Pháp - Ảnh: H.T.K. chụp lại từ màn hình

Trong khuôn khổ buổi thuyết trình hôm 4-5 tại ĐH KHXH&NV, Tiến sĩ Nguyễn Giáng Hương - quản thủ kho sách tiếng Việt tại Thư viện Quốc gia Pháp (Bibliothèque nationale de France), nơi đang lưu trữ rất nhiều tư liệu quý giá về Việt Nam -  giới thiệu về hệ thống thư viện của Thư viện Quốc gia Pháp, các tài liệu đã được số hóa cũng như cung cấp cho cử tọa những chỉ dấu để tìm kiếm các hiếm phục vụ công tác nghiên cứu văn hóa Việt Nam.

Khi Việt Nam vẫn còn là thuộc địa của Pháp, bất kỳ sách nào xuất bản ở Đông Dương dù là sách báo tự in đi nữa đều phải nộp hai ấn bản để lưu chiểu, một trong hai ấn bản đó được gửi về Thư viện Quốc gia Pháp. 

Nếu năm 1923 số lượng sách Việt ngữ và Pháp ngữ là ngang nhau, thì đến năm 1929 số lượng sách Việt ngữ đã lớn gấp ba lần số lượng sách Pháp ngữ. Điều này chứng tỏ quá trình phát triển của chữ quốc ngữ trong chặng đường hình thành và phát triển của nó.

Theo bà Giáng Hương, hiện thư viện đang lưu trữ khoảng 12.000 đầu sách viết về Đông Dương, trong đó chiếm khoảng 90% là về Việt Nam. Khối lượng sách đồ sộ ấy đến nay vẫn chưa được số hóa đầy đủ, cũng như chưa có danh sách thống kê tên các đầu sách. 

Điều này rất khó cho các nhà nghiên cứu cũng như bạn đọc trong nước, khi không biết rõ được "gia tài" của dân tộc đang lưu giữ tại Pháp gồm có những gì.

Trên trang web chính thức của Thư viện Quốc gia Pháp - www.bnf.fr, độc giả có thể dễ dàng tra cứu thông tin về các đầu sách tiếng Việt trên toàn nước Pháp. 

Nguồn: https://tuoitre.vn/kho-tang-tri-thuc-viet-tai-thu-vien-quoc-gia-phap-20180505113958922.htm

20181031 Gaiban Tssho

Ảnh: Văn bản Ngoại phiên thông thư  外 蕃 通 書 của Kondō Juzo, lưu trữ tại Thư viện Đại học Waseda (Nhật Bản).

Sự giao lưu kinh tế văn hoá giữa Việt Nam và Nhật Bản đã diễn ra khá sớm trong lịch sử. Những sự kiện đó thường được người Nhật ghi vào các văn bản chữ Hán và chữ bản địa (Katakana) như Dị quốc nhật ký, Ngoại phiên thông thư, Thư hàn bình phong, Dị quốc vãng lai v.v..

Ở thế kỷ XVI-XVII, nước ta đã trở thành một thị trường quan trọng của Nhật Bản. Hai bên đã quan hệ mua bán với nhau một cách hữu hảo và đôi bên đều có lợi. Người Nhật đã mở phố ở Hội An (Quảng Nam), ở Phục Lễ huyện Hưng Nguyên (Nghệ An) và họ lưu ngụ với tư cách ngoại kiều để kinh doanh thương nghiệp.

Với phố Nhật ở Hội An, ta đã tổ chức Hội thảo khoa học quốc gia vào năm 1985 và Hội thảo khoa học quốc tế vào năm 1990, giới thiệu với người trong nước và nước ngoài hiểu biết về quá khứ của khu phố cổ này.

Với Phố Hiến ta cũng tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế tại thị xã Hưng Yên vào năm 1992. Đây cũng là một dịp sưu tầm hệ thống lại tư liệu và giới thiệu với người trong nước và nước ngoài hiểu biết sâu thêm về hoạt động thương nghiệp của nước ta ở thời “nhất Kinh Kỳ nhì Phố Hiến”.

Đối với phố Nhật ở Phục Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An, ta cũng cần tìm hiểu để nhớ lại một thời thương nhân Nhật Bản đã đến đó buôn bán và tổ tiên ta ở thế kỷ XVI-XVII đã quan hệ với họ (ngoại kiều) không chỉ chia sẻ mối lợi hàng hoá, mà đã cưu mang, giúp đỡ họ bằng cả “tấm lòng bác ái”, “tình cảm quốc tế vô tư” khi người Nhật gặp những khó khăn, hoạn nạn trên sông biênr nước ta.

Với ý thức ấy, bài viết này tôi công bố một tài liệu chữ Hán nhằm giới thiệu tình hình ngoại thương Nhật - Việt thế kỷ XVI-XVII do các thương nhân và các nhà chức trách Nhật Bản ghi chép lại.

Theo các tài liệu trên của Nhật Bản và tài liệu của một số nhà truyền giáo phương Tây thì Nhật Bản và Đại Việt đã có quan hệ giao thương từ lâu. Chứng cớ là năm 1593 Dicgo-Aovenné Linh mục người Ý đến Hội An đã thấy số đông người Nhật dựng nhà bày hàng buôn bán ở đây rồi. Loui Finut cũng xác nhận như vậy. Nguồn tài liệu từ Ngoại phiên thông thư của Nhật Bản lại cho ta biết thêm rằng: từ cuối thế kỷ XVI người Nhật cũng đã dựng phố buôn tại xã Phục Lễ huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An. Họ buôn bán thịnh vượng nhất là thời kỳ Nhật hoàng bắt đầu xóa cấm vận 1593-1616. Bởi vì trước đó đã xảy ra cuộc “cấm vận” giữa Nhật và Trung Hoa kéo dài ngót 200 năm (1368-1567) từ thời Minh Thái Tổ. Cuộc cấm vận kéo dài đó đã gây gián đoạn mối giao thương trực tiếp giữa Nhật và Hoa, cho nên thương nhân cả Nhật và Hoa phải lén lút vượt biển tìm thương trường trung gian thứ ba để kinh doanh lợi nhuận. Đó là lý do khiến người Nhật mở phố buôn bán tại Hội An (Quảng Nam) và tại xã Phục Lễ huyện Hưng Nguyên (Nghệ An). Vượt biển lén lút phải dùng nhiều thuyền nhỏ và nhanh, nên những năm đó ở Nhật, nhiều nhóm phú thương hùn vốn lại mở các xưởng đóng các kiểu thuyền buôn ở Xa-Kai, Ha-Ca-Ta, O-Xa-Ka trên đảo Hi-Ra-Đo, đồng thời cũng xuất hiện thêm những xưởng chế tác vũ khí gươm dao súng. Tất nhiên trong đó cũng có một số xưởng của lãnh chúa, hoặc của Mạc Phủ (Sogun), hoặc thuộc Nhật hoàng. Do có sự kết hợp tế nhị giữa tư lẫn công như vậy, cho nên trong một số chuyến hàng người Nhật chở sang Phục Lễ có chở gươm súng cho chúa Trịnh, hoặc chở đến Hội An có chở vũ khí cho chúa Nguyễn Hoàng và chúa Nguyễn Phúc Nguyên.

Hàng hóa Nhật Bản bán sang thị trường Đại Việt lúc bấy giờ quan trọng nhất là vũ khí và đồng. Đồng của Nhật Bản lúc ấy chiếm một vị trí đáng kể trong nguồn xuất khẩu ra thế giới. Riêng ở O-Xa-Ka có tới 10.000 người làm trong các xưởng đúc đồng để xuất cảng, phần lớn số xưởng thuộc về Nhà nước.

Theo Ngoại phiên thông thư thì việc mở phố buôn tại xã Phục Lễ huyện Hưng Nguyên đã được chúa Trịnh và chính quyền sở tại dành cho sự giúp đỡ ưu ái, có chính sách khuyến khích rõ rệt; về phía thương nhân Nhật cũng đã chấp hành nghiêm túc, nhất là việc đóng thuế. Tại phố Hội An lúc bấy giờ, người Nhật cũng được chính quyền Đại Việt ở phố cảng coi trọng họ, sử dụng họ vào việc trợ lý trù hoạch giao thương. Do hai phía thân thiện tin cậy nhay mà thương gia Sotara đã được chúa Nguyễn Hoàng gả con gái cho.

Trong thời “Nhật Hoa cấm vận”, việc người Nhật thông thương với Hưng Nguyên (Nghệ An) đã hoạt động bình thường. Từ năm 1593, chính quyền Phong Thần Tú Cát Hi-dê-i-ô-xi và Đức Xuyên Gia Khang Tô-cư-ga-oa (1542-1616) chủ trương từng đợt “xoá cấm vận” thì thương thuyền Nhật Bản qua lại Đại Việt tấp nập hơn. Đối với Hoa thương phải đến khi người Mãn Thanh lật đổ được triều Minh thì họ mới lũ lượt kéo sang Đại Việt.

Ở Phục Lễ Hưng Nguyên, số người Hoa sang cùng thời với người Nhật cũng chưa nhiều, địa điểm Phù Trạch mới lẻ tẻ mấy nhà, chưa thành phố xá. Hàng hoá trao đổi với nhau thì người Nhật thường là đồng và vũ khí, mỹ phẩm; người Hoa thì thuốc Bắc, bút lông, giấy màu, gấm đoạn, cúc mạn nạo, gương lược, son phấn v.v.. thương nhan bản địa Hưng Nguyên thường cung cấp cho họ trước hết là tơ tằm, rồi đến kỳ nam hương, trầm hương, ngà voi, sừng trâu, mật gấu, da trăn, quế quỳ, vải thổ cẩm, vừng, lạc, cau, củ nâu, xạ hương, mật o­ng, lông công, lông chả, chim vẹt, mộc nhĩ, măng khô, đường mía, đường phèn v.v..

Ngày nay ta không hình dung nổi bộ mặt phố Nhật ở Phục Lễ thế kỹ XVII như thế nào, vì tài liệu còn lại ít ỏi; chỉ biết nó tồn tại một thời gian thì người Nhật phải rút, do họ bị hai đợt “sự cố không may”, sau đó lại bị nạn lở sông Lam. Qua những lúc rủi ro, người dân Hưng Nguyên thời đó tỏ rõ lòng tốt cưu mang giúp đỡ người Nhật.

Theo Dị quốc nhật ký và Thư hàn bình phong thì đợt rủi ro trầm trọng nhất xảy vào ngày mồng 6 tháng 6 năm Nhật Bản hiệu Khánh Trường thứ 14, đối chiếu lịch triều Lê Đại Việt là năm Hoằng Định thứ 10 (1609). Hôm đó con thuyền Nhật chứa đông người lại trở nhiều hàng hóa rời phố Phục Lễ, ra đến cửa Đan Nhai tức cửa Hội, Nghệ An thì gặp sóng dữ dội. Chủ thuyền là Giác Tàng cùng 13 người hăng hái cứu thuyền, bị sóng thần nhấn chìm chết. Khi thuyền chìm, quan quân địa phương hết lòng cứu hộ, kết quả sống sót 105 người, tâu lên chúa Trịnh Tùng xin lệnh. Bấy giờ Phò mã Quảng Phú hầu nhận đưa về nhà nuôi 19 người. Sau đó Hoa công nhận nuôi 39 người, Văn Lý hầu nhận nuôi 26 người. Sau đó Hoa quận công, Liêm quận công cũng nhận nuôi, mọi nạn nhân đều được cấp cơm áo chu đáo. Các vị quan trên đều là người xứ Nghệ An, nay chưa tra cứu được địa chỉ, chỉ biết một con gái Nhật Bản làm con nuôi Liêm quận công, sau lấy Hình bộ lang trung Nguyễn Như Thạch (1579-1662), nay bà này còn mộ ở xứ Rú Đền, huyện Thiên Lộc tỉnh Hà Tĩnh.

Về nạn lở sông Lam là nguyên nhân thủ tiêu phố Nhật ở Phục Lễ. Phục Lễ ở thời Lê đã là một xã lớn, có địa thế thích hợp với người Nhật dựng phố buôn bán. Nhưng vì nơi đó có nhiều dòng sông nhánh dồn nước chảy xoáy, gây nên nạn lở hàng năm, khiến cho xã Phục Lễ lở dần xuống sông, buộc thương nhân Nhật phải rút lui khỏi đó. Nhưng có lẽ họ rút lui hẳn khỏi Phục Lễ vào khoảng thời Khoan Vĩnh (1624-1643) thuộc thời đại Giang Hộ. Sở dĩ đoán định như vậy vì thỉnh thoảng sau những mùa mưa lụt, người dân vùng Chợ Tràng huyện Hưng Nguyên tỉnh Nghệ An lại nhặt được những đồng tiền cổ niên hiệu Khoan Vĩnh của Nhật Bản. Đất xã Phục Lễ đến thời Gia Long chỉ còn vừa một thôn; đến thời Đồng Khánh thì không còn tên trên bản đồ vì đã bị nước sông Lam cuốn sạch!

Nhắc lại phố Nhật Bản ở Phục Lễ là nhắc lại những hoạt động quá khứ sôi động của tổ tiên ta cách nay gần ba thế kỷ. Chúng ta không chỉ tự hào về thành tựu quá khứ, mà còn đúc rút kinh nghiệm thời xưa phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” ngày nay.

Hà Nội, ngày 20-1-1999

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 1998, tr.50-54, phiên bản trực tuyến ngày 27.9.2007.

20180504 Bao tang Luis Finot

Bảo tàng Louis Finot của EFEO đầu thế kỷ 20, ảnh - Wikipedia

 

(Et l’histoire continue: petite présentation du monde des études vietnamiennes au Japon)

Nguyên tác: Frédéric Roustan

Biên dịch: Nguyễn Nam Trân

Dẫn nhập của người biên dịch:

Nhân vào trang của cơ quan nghiên cứu Réseau-Asie trên mạng, tôi tình cờ gặp bài tham luận bằng tiếng Pháp của nhà nghiên cứu trẻ Frédéric Roustan (đọc tại cuộc hội thảo khoa học về Á Châu do Réseau-Asie qui tụ các học giả và chuyên gia về châu Á  ngày 28-29-30 tháng 9 năm 2005 tại Paris). Lúc đó, tác giả hãy còn là nghiên cứu sinh tiến sĩ sử học tại Đại học Ngoại Ngữ Ôsaka. Trong tinh thần cầu học, chúng tôi mạn phép ông để chuyển ngữ hầu các bạn đọc quan tâm có thêm thông tin về lịch sử ngành nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản dưới cái nhìn của người thuộc một nước thứ ba. Ông Roustan đã viết một luận án tiến sĩ vào niên khóa 2006-2007 nhan đề “Xã hội sử cuộc di dân của người Nhật vào miền bắc Việt Nam từ năm 1885 đến 1954” (Socio-histoire de l’immigration japonaise à Tonkin entre 1885 et 1954) dưới sự đồng chỉ đạo của hai giáo sư Gérard Noiriel (EHESS, Paris) và Sakurai Yumio (Đại học Tôkyô).

Có thể nói nội dung bài này phản ánh khá trung thực quan điểm của tác giả Frédéric Roustan ở thời điểm 2005. Dĩ nhiên những sơ sót về mặt kỹ thuật dịch và cách trình bày là trách nhiệm của người dịch.

 

Nhập đề:

Có hai điều đã thúc đẩy tôi chọn những công trình nghiên cứu của người Nhật về Việt Nam làm đề tài thuyết trình:

-         Một là, những nghiên cứu có tính cách “hiện đại” về Á Châu đã ra đời tại Nhật . Lý do là vì người Nhật muốn người Tây Phương hiểu về Á Châu[1].

-         Hai là, theo lời ông Furuta Motoo, nhà sử học và chuyên viên nghiên về Việt Nam, cũng là một khuôn mặt sáng giá trong giới nghiên cứu Việt Nam hiện tại ([5] Furuta, tr. 18, [6] Furuta, tr. 227) thì Nhật Bản hiện này là một quốc gia mà ngành Việt Học phát triển mạnh nhất, tính theo số lượng, kể từ con số nhà nghiên cứu, báo cáo khoa học cho đến cơ quan nghiên cứu.

Tuy vậy, trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, những báo cáo được dịch ra tiếng nước ngoài hãy còn quá ít; dầu chúng có được dịch ra đi nữa thì đó cũng chỉ là những bài viết ngắn chứ không phải những tác phẩm tiêu biểu trong ngành, xứng đáng được tham khảo một cách rộng rãi. Vả lại, khó lòng hiểu được bản dịch của một bài viết đơn độc khi nó bị cắt đứt khỏi bối cảnh hàn lâm và trí thức mà từ đó nó đã ra đời?

Bản báo cáo sau đây của tôi đề cập đến vần đề nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản trong khoảng thời gian trên một thế kỷ, nghĩa là từ lúc ngành Đông phương học Nhật Bản bắt đầu.

I) Cấu tưởng một khu vực địa lý. Nghiên cứu về Việt Nam theo quan điểm Đông phương học Nhật Bản:

Trước tiên phải hiểu được sự cấu tưởng một không gian địa lý gọi là Đông phương. Xuất hiện từ thập niên 1890 ( [36] Tanaka, tr. 47-50) và đối lập với những nghiên cứu về Trung Quốc xưa kia[2], môn Tôyôgaku hay Đông phương học (chính ra trên mặt chữ Hán, họ viết là Đông dương học東洋学 ) đã giúp cho các sử gia Nhật Bản[3], trong vai trò học giả Đông phương học, tạo ra một “môn học khác”, hay nói đúng hơn, tự tạo cho mình một tư thế khác ([36] Tanaka, tr.11-15). Khu vực được gọi là Tôyô 東洋 (trong cái nghĩa Đông phương) chỉ có nghĩa là vùng đất không phải là Tây phương (hay Tây dương西洋, [40] Tsuda, tr. 112)[4]. Đông phương mà những sử gia này tạo ra là một chốn có chung nguồn gốc thần bí, nhưng trước tiên nó là một nơi được tách biệt khỏi cái gọi là Á châu[5]. Việc tạo nên sự tách biệt này không có mục đích lộ rõ ý muốn nhập bọn với Tây phương mà chỉ để tự tạo cho mình một thực thể khác tương xứng với họ. Không gian ban sơ được định nghĩa như Đông phương là phần đất phía đông châu Âu, nghĩa là Trung Đông, Ấn Độ, đại lục Á châu và Nhật Bản.

Bối cảnh ra đời của Đông phương học Nhật Bản:

Những nhân vật đã xây đắp nên khoa nghiên cứu Đông phương trong buổi đầu là các sử gia chuyên môn về Trung Quốc như Shiratori Kurakichi白鳥庫吉 (1865-1942) ([Goi, tr. 15-70], [45]Yoshikawa, [41] Tsuda, tr. 325-387), giáo sư khoa sử rồi khoa  Đông phương ở Đại học đế quốc Tôkyô [39] Tôkyô Daigaku, tr. 628-669], Ichimura Sanjirô市村瓚次郎 , giáo sư về Hoa ngữ ở Đại học đế quốc Tôkyô và Naitô Torajirô内藤虎次郎tức Naitô Kônan内藤湖南 [6] (1866-1934), giáo sư và cũng là người đã mở ra khoa Đông Phương ở Đại học đế quốc Kyôtô ([14] Ienaga, tr.3-27). Vài nhân vật như vậy đã qui tụ thành một thế hệ học giả Đông phương học. Thế hệ này cho ra đời một kiến thức rất tổng quát, một học thuyết có tính lịch sử để làm chất liệu giúp thành hình khái niệm Đông phương mà họ thai nghén. Phải đợi đến thế hệ thứ hai, kể từ những năm của thập niên 1920, mới có việc chọn một quốc gia nào đó hay một thời kỳ nào đó để làm đề tài nghiên cứu chuyên biệt. Họ bắt đầu xây dựng nền tảng và điều khiển, ít nhất là trong buổi đầu, những cơ quan nghiên cứu chính yếu cung cấp kiến thức về Á châu cho nước Nhật. Quan trọng hơn hết là phân bộ nghiên cứu của Mantetsu[7] 満鉄研究所hay Tổng cục đường sắt Mãn Châu ([46] Young), thư viện mang tên Tôyô Bunko東洋文庫 của Tôa Dôbunkai東亜同文会 [8]cũng như các phân khoa nghiên cứu Đông phương của các đại học đế quốc Tôkyô và Kyôto. Trên thức tế, trước Thế chiến thứ hai, ở Nhật có rất nhiều hội đoàn hay nhóm nghiên cứu về Đông phương. Thường thường giữa họ đều có liên hệ với nhau.       

Từ buổi đầu của thập niên 1910, Shiratori 白鳥đã đặt ra những phạm trù để lồng khung các kiến thức thâu thập được. Ông còn đi đến việc phân biệt giữa loại kiến thức khoa học có tính thực dụng và loại kiến thức khoa học thuần túy. Loại kiến thức thực dụng là những thành quả nghiên cứu của nhóm Mantetsu vốn có mục đích phục vụ cho các hoạt động cụ thể có tính cách chính trị hay kinh tế. Loại kiến thức thuần túy có tính lý thuyết và văn bản đến từ những công trình nghiên cứu của các đại học, đặc biệt là hai Đại học đế quốc Tôkyô và Kyôto ([36] Tanaka, tr. 231-253). Phái theo khoa học thuần túy muốn đặt mình bên ngoài những đòi hỏi của chính quyền. Ý tưởng này tiến hóa thêm một chút trong những năm 1930 dưới ảnh hưởng của học thuyết Marx lúc đó là một hệ tư tưởng rất phổ biến trong giới trí thức, nghiên cứu và giáo chức đại học ([2] Barshays, tr. 53-59; [3] Duus, tr. 147-206; [20] Najita). Từ đó, có sự phân chia thành hai nhóm, một bên nghiên cứu khoa học, khách quan, một bên nghiên cứu phục vụ đế quốc. Phạm trù này bao gồm cả hai phạm trù do Shiratori白鳥 đặt ra mà ta đã nhắc đến bên trên. Tuy nhiên, cho dù những nhà nghiên cứu mác-xít và những nhà nghiên cứu phục vụ đế quốc có khác nhau về quan điểm, hầu như họ đều chấp nhận việc Nhật Bản đóng vai trò lãnh đạo Á Châu để đối đầu với Tây phương. Cũng vì thế, phần đông đã hợp tác công khai kể từ năm 1938 trong nhiều trung tâm nghiên cứu khác nhau để phục vụ chính quyền đương thời ([36] Tanaka, tr. 253-262) và nghĩ rằng mình đang giúp đỡ các nước bị áp bức. Thực tình, họ không có một lựa chọn nào khác ngoài việc ngậm miệng làm thinh nếu không muốn vào tù và như thế thường là chọn cái chết ([ 2] Barshays; [36] Tanaka, tr.57;[46] Young, tr. 26-32).

Liên hệ giữa Việt học và Đông phương học:

Nói đúng ra, Việt Nam không phải là một phần Đông phương của Nhật Bản nhung nó đã sớm được coi như thuộc vào trong vòng đai. Các nghiên cứu về quốc gia này trong thời kỳ gọi là cận đại đã bắt đầu cùng lúc với những nghiên cứu về Tôyôgaku東洋学 , nghĩa là vào thời điểm thập niên 1880. Đã có một vài tác phẩm viết về lịch sử An Nam như sách của Hikita Toshiaki引田利章 ([26] Satô), một giảng viên quân sự. Trước khi Thế chiến thứ hai kết liễu, công trình nghiên cứu về Việt Nam có thể chia thành hai loại. Trước tiên là loại nghiên cứu về quá trình thuộc địa hóa dưới bàn tay người Pháp, dựa lên nguồn tư liệu Pháp. Hai là loại nghiên cứu thời tiền thuộc địa trong mối bang giao với Trung Quốc khi người Pháp chưa đặt chân đến, dựa lên trên nguồn tư liệu Trung Quốc. Cho đến thập niên 1930, tác phẩm đã phát hành chỉ vỏn vẹn có những ký sự du hành ([32] Takada, tr.44) ví như sách của [34] Takegoshi Yosaburô竹越與三郎 (1865-1950). Trong thập niên 1920, các công trình nghiên cứu đạt được đã phản ánh ý hướng bành trướng kinh tế mới nhú mầm của một số tập đoàn tư lợi Nhật Bản qui tụ dưới hình thức hiệp hội. Chúng ta có thể kể đến tác phẩm của Maeda Hôjirô前田宝治郎nhan đề Futsuryô Indo-shina仏領印支那 (Đông Dương thuộc Pháp) do Nanpô Kenkyuukai 南方研究会xuất bản ở Tôkyô năm 1924 như một thí dụ tiêu biểu. Nó đã được yểm trợ tài chánh bởi Nanpô Kenkyuukai, nôm na là Hiệp hội nghiên cứu về vùng biển Nam. Những hiệp hội này sau đó đã xúc tiến việc nghiên cứu về khu vực thuộc địa Đông Dương trong tinh thần gọi là Nanshinron 南進論hay lý luận bành trướng về phương Nam. Chính là phạm trù không gian ấy là nơi đã ghi dấu những công trình nghiên cứu về sau, trước thời điểm Chiến tranh Thái Bình Dương và cũng lấy Việt Nam làm đề tài. Chúng được biết đến dưới cái tên Nanpô Kenkyuu南方研究hay những nghiên cứu về phương Nam. Chúng có vẻ gần gủi với loại nghiên cứu khoa học có tính “thực dụng” mà chúng ta đã trình bày. Để thỏa mãn những đòi hỏi nẩy sinh từ cuộc Chiến tranh Thái Bình Dương, những cơ quan nhà nước của Nhật cũng cho ra đời những công trình nghiên cứu về Việt Nam ([46] Young, tr.44 và 597-606)[9]. Thường đề tài chủ yếu liên quan đến tài nguyên thiên nhiên, giao thông, khí hậu, canh nông và các nhóm dân tộc vv...

Việt học và Nam tiến luận:

Thành quả đạt được trong lãnh vực “khoa học thuần túy” có lẽ là công trình của nhóm đệ tử Shiratori 白鳥mà người ta thường đánh giá như những nhà khoa học thực nghiệm. Chúng ta có thể nhắc đến Matsumoto Nobuhiro松本信弘 (1897-1981)[10], Fujiwara Riichirô 藤原利一郎 (1915- 2008 LND )[11], và nhất là Yamamoto Tatsurô 山本達郎 (1910-2001). Nhân vật được nhắc sau cùng xứng đáng được gọi là nhà nghiên cứu chuyên ngành tiên phong ở Nhật Bản trong lãnh vực Việt Nam Học và Đông Nam Á Học ([5] Furuta, tr. 18). Sử quan của các vị nói trên là nhìn Việt Nam qua hình ảnh Trung Quốc và liên hệ của Việt Nam đối với Trung Quốc. Do đó những nhà chuyên môn này thông thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Trung. Một phần vì vai trò của tác phẩm ngoại quốc được chuyển ngữ (họ dùng), một phần do gốc gác chuyên môn Đông phương học của các nhà nghiên cứu Nhật Bản chuyên viết về Việt Nam, việc xây dựng một kho kiến thức về vùng đất ấy chỉ nằm trong một hệ thống có tương quan trung tâm / ngoại vi, và không cho phép nó có được cá tính riêng.

Song song với việc nói trên, Đông Dương (Ấn Độ Chi Na) lại được kể vào trong khu vực gọi là Nan.yô南洋 (Nam Dương) hay là phía Nam Thái Bình Dương. Kể từ cuối thế kỷ 19, những người chủ trương phải “tiến xuống phương Nam” đã triển khai và bình thường hóa khái niệm địa lý này.Từ Nan.yô được định nghĩa như một vùng đất không thuộc về Đông phương lẫn Tây phương ([43] Yano, tr.57). Vùng này không thuộc vào Á châu. Quyển sách của Takegoshi Yosaburô 竹越與三郎vừa được nhắc đến bên trên là đại diện cho quan điểm cấu tạo nên một không gian tương đương với vùng Đông Nam Á của thời đại chúng ta. Sau Thế chiến thứ nhất, nó được những đoàn thể tư lợi xem như là một vùng có tiềm năng để bành trướng về mặt kinh tế ([27] Shimizu, tr.13]. Cùng một lúc , cụm từ Tônan Ajia, Đông Nam Á東南アジア được đem vào trong giáo trình, và Nhật Bản cũng bắt đầu có mặt nột cách chính thức trong vùng đất Á châu này. Sự kiện đơn sơ này tỏ rõ cho ta thấy những tín hiệu dự báo khu vực Á Châu sẽ bành trướng về phía Nam, và với khái niệm địa lý vừa được cấu tưởng, sẽ có một sự tiếp cận về văn hóa và dân tộc trước đó vốn chưa hề có giữa Nhật Bản và vùng đất này. Những công trình nghiên cứu về khu vực ấy sẽ tạo ra gốc rễ và mối liên lạc chung cho cả hai bên như các học giả Tôyôgaku東洋学 đã làm với Trung Quốc trước đây. Hơn nữa, hình ảnh của Việt Nam được trình bày trong những nghiên cứu trên chỉ là một xứ chậm tiến mà nói một cách khác thì nó phải cần đến Nhật Bản để được giải phóng ra khỏi bàn tay người Tây phương và sau đó là nhận sự giúp đỡ. 

Như vậy sau khi họp lại thành một nhóm như đối tượng cho các công trình nghiên cứu về Á châu tại Nhật Bản, Việt Nam đã được nhập vào vùng Đông phương Nhật Bản. Những thành quả đạt được, dù các tác giả của chúng đã đến từ chân trời ý thức hệ nào, vẫn còn bị giam hãm trong một cái khung quyền uy của chế độ gia trưởng, lúc nào cũng muốn tỏ ra che chở và chực can thiệp.

II) Những công trình nghiên cứu thời hậu chiến về Việt Nam:

Đối với những nhà Việt học người Nhật , thời hậu chiến là một giai đoạn kéo dài (từ 1945) cho đến giữa thập niên 1960, cũng là thời kỳ hoàng kim của công cuộc nghiên cứu về Việt Nam.    

Không thấy có những thế hệ tự phát. Hầu hết các nhà chuyên môn về châu Á thời hậu chiến đều là những kẻ đã được đào tạo bởi các môn đệ của Shiratori白鳥. Như thế, khi môn phái Đông phương học Nhật Bản và Đông phương học Pháp đại diện bởi EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ)[12] hợp lưu để khai sinh thế hệ đầu tiên của những chuyên gia về Việt học.

Thế hệ gạch nối giữa tiền chiến và hậu chiến với Yamamoto Tatsurô:

Đối với Việt Nam nói riêng và Đông Nam Á nói chung, Yamamoto Tatsurô đã đóng được vai trò gạch nối hai thời tiền chiến và hậu chiến. Ông đã hiển nhiên trở thành một khuôn mặt lớn trong giới nghiên cứu Nhật Bản về Đông Nam Á cho đến thập niên 1970. Môn Việt Học thời hậu chiến chịu ảnh hưởng nặng của những sử gia chuyên môn về lịch sử thời kỳ tiền thuộc địa, họ nghiên cứu lịch sử pháp chế Việt Nam như thể nó một bộ phận nối dài của luật lệ Trung Quốc. Thế nhưng cùng lúc đã bắt đầu thấy một số nghiên cứu liên quan đến các vương triều độc lập tự chủ hay về Vương Quốc Chăm ([32] Takada, tr.44). Quyển Nghiên cứu lịch sử An Nam (Annanshi Kenkyuu安南史研究, Tôkyô, nhà xuất bản Yamakawa, 1950) của Yamamoto là một tác phẩm đáng ghi nhớ. Trong đó, Yamamoto 山本sử dụng những công trình nghiên cứu tiền chiến và tìm hiểu về những đợt xâm lăng của hai triều Nguyên, Minh cũng như các cuộc kháng chiến của người Việt Nam. Chủ đề liên quan đến mối bang giao giữa Trung Quốc và Việt Nam rất phổ biến trong học giới hậu chiến. Những công trình nghiên cứu lấy Việt Nam làm đề tài của giai đoạn này đã được [42] Yamamoto biên tập thành một tác phẩm chung gồm nhiều tác giả vào năm 1975. Cho đến bây giờ, nó vẫn được xem như một tác phẩm lớn đáng được tham khảo và là đỉnh cao của Đông phương học Nhật Bản. Dầu vậy, thành quả về nghiên cứu một cách trực tiếp về Việt Nam sau thời chiến hãy còn tương đối hạn chế.

Mọi sự bắt đầu tiến triển thực sự từ thập niên 1950 vì những lý do có tính cách kinh tế và địa chính học. Còn đứng về phương diện hàn lâm mà nói thì mọi nghiên cứu đã dựa vào khái niệm chuyên môn gọi là area studies ([16] Kitagawa, tr. 11-29).

Thế hệ hậu chiến I (1945) và học thuyết Yoshida:

Rõ ràng lúc ấy nhà nước Nhật Bản đang mong mỏi trở lại Á châu bởi vì Nhật đang cần có một sự ổn định về mặt chính trị. Mặt khác lnhững liên hệ kinh tế có thể giúp họ thoát ra khỏi sự tùy thuộc vào kinh tế Mỹ. Đó là tinh thần của cái mà người ta gọi là “Học thuyết Yoshida”, gọi theo tên của Thủ tướng Nhật Bản, Yoshida Shigeru吉田茂[13]. Học thuyết đó đã giúp cho các area studieschiiku kenkyuu (地域研究nghiên cứu địa vực) phát triển bởi vì nhà nước đang cần những thông tin của họ hướng dẫn cho những quyết định chính trị. Chẳng mấy chốc mà cụm từ chiiki kenkyuu 地域研究được theo một nghĩa đặc thù khi nói về nghiên cứu ở Á châu. Nó bàn về Á châu trong cái nghĩa một nhóm quốc gia hãy còn chưa phát triển ([10] Hashiguchi, tr. 3-5). Tuy nhiên, giữa area studies và chiiki kenkyuu hãy còn có một sự khác biệt cơ bản. Đó là ở Tây Phương, những nhà chuyên môn nghiên cứu về một một không gian nghiên cứu đặc biệt nào đó thường họp nhau để bàn về một nước dưới cái nhìn đa khoa, trong khi đó, người Nhật lại làm ngược họ bằng cách không chú trọng vào một chuyên khoa nào. Thẩm quyền của họ đến từ sự hòa mình hoàn toàn trong ngôn ngữ và văn hóa của quốc gia đối tượng quan sát.

Có hai hiệp hội đã mở đường cho hình thức nghiên cứu địa vực đó. Tháng chạp năm 1951, tổ chức tên là Ajia Kyôkai[14] (アジア協会Á châu hiệp hội) được thành lập bởi Fujizaki Nobuyuki, một viên chức cai trị ở thuộc địa. Sau chiến tranh, ông ta đã liên hệ vói Đại học Keiô ở Tôkyô để tổ chức một nhóm nghiên cứu về Á châu. Cũng vào thời điểm đó, Kishi Nobusuke岸信介, nguyên Tổng trưởng thương mại, vừa ra khỏi nhà tù nơi ông bị giam cầm với tu cách một chiến phạm hạng A...Ông Kishi tỏ ra thích thú với kế hoạch do Fujizaki soạn thảo nên giúp ông này, cả bằng tiền nong, để trước tiên thành lập một nhóm nghiên cứu phi chính thức vào năm 1951, và sau đó một hiệp hội có tính công cộng vào năm 1953. Ajia Kyôkai sẽ xúc tiến những công trình nghiên cứu theo đúng những hướng chính của “Hoc thuyết Yoshida” . Cụ thể là hiệp hội này chỉ đặt trọng tâm vào tình hình kinh tế Á châu cho nên họ muốn việc làm của mình là thực dụng chứ không nhuốm màu sắc ý thức hệ[15]. Người ta cũng nhận ra rằng trong nhóm nghiên cứu hồi mới bắt đầu, có một tình cảm chống Tây Phương khá rõ. Một trong những đề tài nghiên cứu của nhóm là sự tái thiết quốc gia ở Á châu sau khi chiến tranh kết thúc, cũng như liên hệ giữa chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa cộng sản. Các nhà nghiên cứu đã đến tận nơi tận chỗ để thu hoạch càng nhiều thông tin càng tốt và sau đó chuyển lại cho nhóm nghiên cứu. Năm 1957, Fujizaki được Thủ tướng Kishi đồng ý cho tổ chức một trung tâm nghiên cứu quốc gia. Đến năm 1960, dưới sự quản lý của Bộ Công Thương (MITI), Ajia Keizai Kenkyuujôアジア経済研究所 [16] đã được thành lập, và kể từ ngày đó, vẫn là một trung tâm nghiên cứu chính về Á châu có ảnh hưởng rất lớn đến việc soạn thảo chính sách nhà nước (policy making)[17]. Giám đốc đầu tiên của trung tâm là Tohata Seiichi cũng đã góp viên đá đầu tiên cho tòa nhà. Nhân vì Nhật Bản cần phát triển sự nghiên cứu về từng nước một, chứ trước kia họ chỉ làm về Trung Quốc và trong những điều kiện mà chúng ta đã biết, Tohada đã nghĩ ra một phương pháp làm việc mới, gửi các chuyên gia đi đến tận nơi sống hai, ba năm, để có thể tích lũy tất cả những gì họ biết về nước đó. Khái niệm chiiki kenkyuu 地域研究giúp cho Nhật Bản tái định nghĩa Á châu như những quốc gia thuộc thế giới thứ ba ([15] Shizawa, tr. 8-10). Dĩ nhiên là Nhật Bản cũng nhân đó tự định nghĩa lại mình trong tương quan với họ. Dẫu sao, trong khi chính phủ Nhật đang đi theo một chính sách thân Mỹ và với tất cả những gì mà Mỹ đang biểu lộ ra như là chủ nghĩa đế quốc ở Nhật, cái ý chí khu vực của các nhà nghiên cứu Nhật Bản có thể xem như một hình thức đề kháng.

Đối với những trào lưu tư tưởng ở Nhật, dù Mác-xít hay hiện đại, hậu chiến có nghĩa là dân chủ hay cuộc đấu tranh cho dân chủ, cho dù muốn định nghĩa dân chủ là thế nào đi nữa. Không riêng giới trí thức mà cả giới kinh doanh, sinh viên, đều dấn thân trên con đường này. Thế nhưng điều đó có nghĩa họ lại quay về với Tây Phương thêm một lần nữa ( [7] Gayle, tr. 152-165). Dẫu sao, cùng lúc, khi cả Á châu sôi sục, hội nghị Bandung tổ chức vào năm 1955 được coi như là một cơ hội kết hợp của những nhà nghiên cứu này và cống hiến một mô hình đầy tiềm năng cho những ai không chấp nhận Tây Phương ([29] Shiraishi, tr.101).

Cũng vào khoảng thời gian đó, một hiệp hội khác đã đi tiếp con đường. Năm 1959, Đại học Kyôto tổ chức được một nhóm nghiên cứu Á châu. Năm 1963, Tônan Ajia Kenkyuu Senta 東南アジア研究センターtức Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á được thành lập. Khác với IDE (tức Ajia Keizai Kenkyuujô), nhóm này chỉ qui tụ toàn những giáo chức đại học, những muốn đi theo một hướng có tính hàn lâm hơn. Lãnh vực nghiên cứu của họ lại rộng hơn nhiều. Ngoài ra, số đông trong nhóm không thuộc truyền thống mác-xít. Như vậy, ta thấy là khái niệm chiiki kenkyuu 地域研究của họ có hơi khác với các đồng nghiệp ở Tôkyô ([31] Suehiro, tr.25, [18] Motooka, tr. 5-19)[18].

Thế nhưng trung tâm này đã và vẫn còn là một tượng trưng giữa lòng khoa nghiên cứu về châu Á. Bắt đầu từ năm 1960, họ đã bắt liên lạc với Quỹ nghiên cứu của hãng Ford (Foundation Ford). Ba năm sau, nhờ sự tài trợ của Ford, trung tâm chính thức ra đời ([4] Ford tr.48), ([30] Stonor). Một số lớn các nhà nghiên cứu không để bị đánh lừa bởi vì họ đã thấy ngay liên hệ giữa những đề tài nghiên cứu và nguồn gốc của sự tài trợ. Quỹ này đã được xem như một dụng cụ của chủ nghĩa tân thực dân của người Mỹ và chính sách chống cộng của họ ở Á Châu. Trung tâm trở thành một thí dụ điển hình về một lối sản xuất tri thức mà một phần những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ xưa và nhất là hầu hết những người vào đại học này không chấp nhận.

III)     Chiến tranh Việt Nam:

Khi bắt đầu có sự tăng cường dội bom trên miền bắc Việt Nam từ năm 1965 thì ở Nhật, thời hậu chiến coi như đã chấm hết. Nhìn chung, cuộc chiến ở Việt Nam đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với xã hội Nhật Bản ([12] Havens), ([21] Nakajima). Ngoài nó ra, phải kể thêm cuộc “Cách mạng văn hóa” ở Trung Quốc, vốn đã đề nghị một mô hình sản xuất tri thức lôi cuốn được một số đông những nhà nghiên cứu Nhật ([35] Takeuchi tr. 316-323). Cuộc chiến Việt Nam đã gây ra một khoảng cách không hàn gắn được giữa những thế hệ[19] là điều khó lòng chối cãi. Trái ngược lại với thế hệ của hội nghị Bandung, lần này, hiện tượng này đã vượt ra ngoài phạm vi của giới trí thức và đại học. Tổ chức Beiheirenべ平連 (Hòa bình cho Việt Nam!) ([22] Oguma tr. 117-192) thành lập bởi một nhà trí thức tượng trưng cho cánh tả mới (New Left) của Nhật, Oda Makoto小田真, đại diện được cho tư duy của thời đại.Tổ chức phản chiến này đã huy động một con số khổng lồ những người Nhật, không vì lý do ý thức hệ mà bởi nó giúp cho những người ấy một cơ hội để trình bày quan điểm ([17] Maruyama tr. 303-310). Cùng lúc đó, các đại học Nhật Bản đã trở thành những bãi chiến trường thực sự, suốt hầu hết giai đoạn chiến tranh.

Thế hệ hậu chiến II (1966) với chiến tranh Việt Nam:

Cũng trong bối cảnh đó, những khóa dạy tiếng Việt đầu tiên ở đại học đã được khai giảng. Một khóa ở Đại học Keiô do giáo sư Kawamoto Kunie川本邦衛 (sinh năm 1929), một khóa khác ở Đại học ngoại ngữ Đông Kinh (Tôkyô Gaidai) bởi giáo sư Takeuchi Yonosuke 竹内与之助 (1922-2004) vào năm 1966. Hai ông đều từng đến miền NamViệt Nam sống trong thập niên 1950. Họ đã nghiên cứu tiếng Việt cổ điển (chữ Nôm? LND) và tiếng Việt hiện đại trong tinh thần chiiki kenkyuu. Chiến tranh đã giúp cho họ có cơ hội giảng dạy tiếng Việt ở đại học (Nhật, LND). Cơ hội này đánh dấu sự khai sinh đích thực của một đứa bé con, nó sẽ lớn lên không ngừng cho đến tận ngày hôm nay. Việc đi học tiếng Việt của họ trở thành một dấu hiệu đặc biệt của thế hệ này. Lớp người mà chúng tôi tạm mệnh danh “thế hệ chiến tranh Việt Nam” là những sinh viên đi học tiếng Nhật như một hình thức tham gia vào việc chống chiến tranh và sau đó họ đã trở thành nhà chuyên môn Việt học. Đối với họ, nghiên cứu Việt Nam là hiểu được thế giới[20]. Đại học ngoại ngữ Đông Kinh tức Tôkyô Gaidai không những chỉ giúp cho sinh viên có những lớp học tiếng Việt mà còn thêm cả một giáo trình về Việt Nam càng về những năm sau càng phong phú. Cũng nên ghi nhận sự góp mặt từ buổi đầu tiên và hầu như không hề bị gián đoạn của các giảng sư người Việt trong phân khoa này[21] ([21] Tanaka tr. 117-140).

Sức đề kháng của Việt Nam đã làm thay đổi lối nhìn của người Nhật. Họ không còn xem Việt học như một vòng đai của Trung Quốc học mà chuyển qua chủ đề nghiên cứu về sự kiến thiết đất nước của người Việt. Chúng ta có thể nhắc đến các công trình của Gotô Kimpei後藤均平 (sinh năm 1926), Katakura Minoru 片倉穣 (sinh năm 1934) và Sakurai Yumio 桜井由躬雄 (sinh năm 1945)[22]. Tinh thần kháng chiến của người Việt Nam trở thành một đề tài thời thượng của các sử gia. Mio Tadashi 三尾忠志và Kimura Tetsusaburô 木村哲三郎 biết sử dụng các tư liệu viết bằng tiếng Việt một cách thành thạo. Một công trình hợp soạn xuất bản vào năm 1977-78 với nhan đề “Vietnam” đã qui tụ được những thành tựu nghiên cứu trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam ([1] Ajia). Tác phẩm này đã được chào đời nhờ ở Ajia Africa Kenkyuujôアジアアフリカ研究所 tức Trung tâm nghiên cứu Á Phi, một tổ chức nghiên cứu về Á châu và Phi châu được Okakura Koshirô岡倉古志郎 (1912-2001) thành lập vào năm 1961. Ông Okakura là một nhà lãnh đạo trong phong trào không liên minh với Mỹ và là chuyên gia về chính trị quốc tế. Nhóm tác giả này đã ấn hành một nguyệt san cùng tên, trong có có rất nhiều bài viết liên quan đến Việt Nam.

Như thế, ta thấy chiến tranh (1945-1954 và 1965-1975, LND) đã giúp cho những công trình nghiên cứu về Việt Nam hiện đại khai hoa kết trái. Hai ông Matsumoto Nobuhiro 松本信弘với bộ thông sử nói về nước này của mình và Shimbo Jun.ichi rô真保潤一郎 , người đặt trọng tâm nghiên cứu vào chính trị sử, đại diện cho thế hệ đầu tiên sau năm 1945. Họ đã ảnh lưởng rất lớn đến các sinh viên của thế hệ chiến tranh Việt Nam. Giai đoạn ấy cũng đánh dấu bằng sự phiên dịch rất nhiều tác phẩm học thuật của các tác giả người Pháp như Coedes, Mason, Chesneaux, Condominas vv...

Chiến tranh đã chấm dứt trong bối cảnh sinh hoạt hàn lâm cao độ như thế.

IV)    Từ thập niên 1960 cho đến nay:

Ở Hoa Kỳ, việc chiến tranh chấm dứt cũng có nghĩa là sự chấm dứt của những nghiên cứu về Việt Nam. Nhật Bản thì không thế, tình thế mới ngược lại đã thúc đẩy thêm cho nghiên cứu. Thế nhưng, chiến tranh kết liễu, các nhà nghiên cứu bị lâm vào cảnh thiếu thốn tư liệu và hết còn cơ hội để đi làm việc ngay tại bản địa. Đó cũng là thời điểm mà các sinh viên của thế hệ chiến tranh Việt Nam dần dần gia nhập vào giáo ban đại học và trong các trung tâm nghiên cứu. Vào năm 1977, một phân khoa tiếng Việt đã được khai giảng tại Đại học (quốc lập) ngoại ngữ Ôsaka bởi Tomita Kenji富田憲次, một sinh viên từng theo học Takeuchi 竹内và Kawamoto川本. Việc có khả năng học tiếng Việt tại một đại học quốc lập thứ hai có một tầm quan trọng rất lớn cho việc đào tạo các nhà nghiên cứu. Ở đây, họ có những giờ học về văn hóa, lịch sử chính trị, pháp luật vv...khác hẳn với giáo trình của ngôi trường đàn anh ở Tôkyô vốn chú trọng đến Đông phương học và văn bản học nhiều hơn. Lại nữa, ta nhận thấy lúc ấy có những tiến bộ trong việc nghiên cứu về ngôn ngữ qua việc soạn thảo và phát hành những bộ từ điển và giáo khoa thư dành cho người Nhật ([37] Tomita tr. 55-61). Ngoài ra, vào những năm 1970, Nhật Bản đã có được một địa vị càng ngày càng quan trọng ở châu Á. Một số nhà nghiên cứu về châu Á đã tố giác sự hiện diện nói trên của Nhật như một hình thái của chủ nghĩa đế quốc. Vài người trong đám đã từ giã những trung tâm nghiên cứu như IDE (Ajiken) để gia nhập các đại học.    

Vào cuối thập niên 1970, đã có phong trào nghiên cứu về Đảng cộng sản Việt Nam cũng như về những cuộc vận động chống thực dân và đòi độc lập (như của Yoshizawa Minami吉沢南và Furuta Motoo古田元夫). Công trình của Furuta sở dĩ thực hiện được là vì ông có cơ hội hiếm có được tiếp xúc với nguồn tư liệu. Ông đã thử giải thích với quan điểm lịch sử tình hình giữa ba nước Trung / Việt / Cam-pu-chia vào cuối thập niên 1970. Một trong những công trình sáng gia nhất của thế hệ này có lẽ là cuốn Betonamu minzoku undô to Nihon, Ajia ベトナム民族運動と日本、アジアhay Những phong trào dân tộc ở Việt Nam và liên hệ của nó với Nhật Bản, Á Châu do Gannandô 巖南堂ở Tôkyô xuất bản vào năm 1993, chủ yếu nghiên cứu về nhà cách tân Việt Nam là Phan Bội Châu.    

Thế hệ hậu chiến III (1986) sau chính sách Đổi Mới:

Tuy nhiên, sau khi Việt Nam thống nhất thì các nhà nghiên cứu hầu như không còn cách gì để có thể nghiên cứu thực địa, họ bắt buộc phải tổ chức lại để làm việc với nhau bằng cách khác. Từ đầu thập niên 1980, những thành viên thuộc thế hệ thứ ba sẽ tụ họp với nhau thường xuyên hơn để thử rút là những điều lợi ích từ những thông tin mà họ có trong tay. Một nhóm đã được thành lập do sáng kiến của Gotô Fumio 後藤文夫với tôn chỉ là không cần hình thức và không đả động đến những vấn đề chính trị. Nhân vì những nhà nghiên cứu thuộc thế hệ thứ hai đã có những sự bất đồng quan điểm cho nên sáng kiến của Gotô khi thành lập nhóm này là để làm dịu bớt những cuộc cải vã sinh ra từ tinh thần phe nhóm. Dầu sao, nhân vì nguồn thông tin qua hiếm hoi, những cuộc gặp gỡ như vậy trở thành một chỗ tranh giành ảnh hưởng trong giới nghiên cứu về Việt Nam. Một hiệp hội đã dược chính thức thành lập và trở nên bộ phận đầu não cho môn Việt học cho đến giai đoạn Đổi Mới vào năm 1986. Từ thời điểm đó, nhờ được dễ dãi hơn trước trong việc tìm kiếm tư liệu cũng như khả năng đặt chân đến thực địa mà công việc nghiên cứu có phần thuận lợi hơn. Nói như vậy chứ trong thời kỳ 1975-1968, cánh cửa cũng không phải bị đóng kín hoàn toàn.Vài người được tuyển lựa sang Việt Nam kể từ cuối thập niên 1970 với tư cách giảng dạy Nhật ngữ trong một đại học ở Hà Nội hoặc đi đường vòng theo Bộ Ngoại Giao Nhật. Họ là lực lượng lớn lao nhất trong việc nghiên cứu của Nhật Bản về Việt Nam trong giai đoạn đó. Nhật Bản đã giữ được một cánh cửa thông ra hai chiều nhờ ở mối liên hệ ưu đãi đặc biệt giữa một vài nhà nghiên cứu với những cơ quan nhà nước Việt Nam.

Kể từ năm 1986, thế hệ trẻ dưới sự dìu dắt của Sakurai Yumio桜井由躬雄 đã có thể nghiên cứu thực địa. Sự quay về Việt Nam với hình thức nghiên cứu điền dã (fieldwork) là một chặng đường không thể thiếu được đối với những thế hệ nghiên cứu viên trẻ về Việt Nam kể từ thời kỳ này. Nó giống như một sự tìm về nguồn của chiki kenkyuu地域研究. Điều này đã giúp cho các nhà nghiên cứu Nhật tiếp thu được một vốn liếng tiếng Việt rất chuẩn xác và tạo nên những mối liên hệ chặt chẽ và chân tình với người bản xứ. Vào năm 1990, cuộc hội thảo về Hội An ở Đà Nẵng bên Việt Nam do Việt Nam và Nhật Bản đồng tổ chức, sau đó được xem như thành quả kết tinh những cố gắng của “thế hệ chiến tranh Việt Nam” và là biểu tượng 25 năm dấn thân của họ.

Cuộc Đổi Mới cũng mở ra một thời kỳ mới về mặt chủ đề khai thác. Tình hình Việt Nam “sau năm 1986” trở thành đề tài cho những nhà nghiên cứu. Lãnh vực nghiên cứu trở nên đa dạng, không chỉ giới hạn trong phạm vi Sử học. Người ta nhận thấy đề tài nghiên cứu về các vương triều Việt Nam thời độc lập tự chủ rất phổ cập. Vào những năm cuối cùng của thập niên 1980, một thế hệ mới đã đăng đàn với những người như Momoki Shiro 桃木室朗nghiên cứu về triều Lý và lịch sử chính trị cũng như quân sự của triều Trần, hoặc Yao Takao 八尾隆生đặt trọng tâm vào tổ chức quân sự dưới triều Lê.Ngoài ra, kể từ thời Đổi Mới hay nói chính xác hơn vào khởng giữa thập niên 1990, những chuyên gia Nhật Bản đã có dịp đóng một vai trò năng động trong việc đặt nền móng cho chính trị của thời kỳ quá độ ở Việt Nam, nối tiếp được một truyền thống nào đó đã tạo ra sự liên hệ chặt chẽ giữa tri thức và quyền lực, và như thế, có lẽ là một trong những hình thức đem lại lợi ích cho tất cả các bên liên hệ.

Kết Luận:

Để thay cho lời kết luận, tôi (F. Roustan) chỉ mong sao cho những công trình nghiên cứu về Việt Nam của người Nhật được chúng ta dịch ra tiếng Pháp nhiều hơn nữa. Điều này chắc chắn sẽ hữu ích cho chúng ta thôi. Xin nói thêm là ngày nay, vấn đề danh tánh nằm ngầm bên dưới những công trình nghiên cứu về Á châu đang thực hiện tại Nhật Bản vẫn không ngớt được bàn tán. Chúng tôi xin mời quí vị lên tham khảo trên mạng, vào trang của một nhóm nghiên cứu Á châu vừa mới được thành lập ở một đại học tiếng tăm Nhật bản là đủ biết. Phương châm làm việc của họ (Anh văn trong nguyên văn) chắc đủ để trả lời thay:

Cho đến hôm nay, lãnh vực gọi là Á châu học thường được phân tích theo quan điểm của các học giả Tây phương. Trong khi khó lòng phủ nhận việc quan điểm ấy là một cơ sở vững chắc để phân tích, ta thấy các nhà nghiên cứu Tây phương thường có tầm  nhìn của kẻ đứng bên lề, không hiểu cặn kẽ lịch sử địa phương và con người sở tại. Ý định của chương trình chúng tôi là đưa ra những nhận xét về Á châu đến từ bên trong, để cho các học giả Á châu có một cơ hội phát triển phương pháp luận riêng của họ về phần đất Á châu đang vươn lên...”.[23]

Giữa các nhà Á châu học, chắc chắn phải có những cách nhìn dị biệt nhưng chẳng lẽ lại xem điều đó đã xảy ra là vì hiểu biết hạn hẹp hay sao?

Frédéric Roustan 

Thư Tịch Trích Dẫn Của Tác Giả:

[ 1] Ajia Africa Kenkyujoアジアアフリカ研究所, Betonamu, Vietnam, shizen rekishi bunka (ベトナム、自然、歴史、文化 ) and seji keizai政治、経済, Ajia Africa Kenkyujoアジアアフリカ研究所編, Tokyo, Suiyôsha水曜社, 1977 -1978.

[2] Barshays, Andrew E., The Social Science in Modern Japan, the Marxian and the Modernist Traditions, Berkeley, University of California Press, 2004.

[3] Duus, Peter, “Socialism, Liberalism and Marxism, 1901-1931” in Tadashi Bob, Modern Japanese Thought, Cambridge University Press, 1998.

[4] Ford Foundation Annual Report, 1963.

[5] Furuta Motoo, Japanese Research on Vietnam, Social Science, Japan, numéro 8, January 1987, pp. 18-19.

[6] Furuta Motoo古田元夫, Nihon ni okeru betonamu kenkyuu 日本におけるベトナム研究, in Kimura Hiroshi木村汎, グエンズイズ、古田元夫日本、ベトナム関係を学ぶひとのためにTokyo, Sekai Shisôsha世界思想社, 2001, pp. 227-240.

[7] Gayle, Curtis Anderson, Marxist Theory and Japanese Postwar Nationalism, London, Routledge, 2003.

[8] Goi, Naohiro, 五井直弘Kindai Nohon to toyoshigaku近代日本と東洋史学, Les études d’histoire orientale et le Japon moderne, Tokyo, Aoki shoten, 1976.

[9] Hamon, Hervé, Rotman, Patrick, Génération, Paris, Points Seuil, 1088.

[10] Hashiguchi, Tomosuke, “What are the Concepts to Define “Asia” ? ” in Search of New Ground of Asian Cultures -Area Studies and Southeast Asia, Tokyo, Institute of Asian Cultures, 1985. p. 3-5.

[11] Hashikawa, Bunso, “Japanese Perspectives on Asia: From Dissociation to Coprosperity” in Iriye, Akira, The Chinese and Japanese Essays in Political and Cultural Interactions, Princeton, Princeton University Press, 1980, pp.328-355.

[12] Havens, Thomas, Fire Across the Sea, Princeton, Princeton University Press, 1987.

[13] Horii, Kenzo, “Southeast Asia, the Economy”, in Yamaguchi Hiroshi, Sato Hiroshi, Understanding the Developing World, Thirty Five Years of Area Studies at the IDE, Tokyo, IDE, 1996, pp. 59-82.

[14] Ienaga, Saburo家永三郎, Tsuda Sokichi no shisoteki kenkyu津田左右吉の思想史的研究, Etudes de la pensée historique de Tsuda Sokichi, Tokyo, Iwanami Shoten岩波書店, 1972, p. 3-27.

[15] Shizawa Yoshiaki, “Area studies and Southeast Asia. Outline of Subjects Proposed for Studies”, in In Search of New ground for Asian Cultures-Area Studies and Southeast Asia, Tokyo, Institute of Asian Studies, 1985, pp. 8-10.

[16] Kitagawa Katsuhiro, “Japanese Perspectives on Independence of African Countries in the Late 1960s and the early of 1960s: A Preliminary Investigation”, in Agora: Journal of International Center for Regional Studies, numéro 1, 2003, pp. 11-29.

[17] Maruyama Shizuo, “Japanese Opinion of the Vietnam War”, in Japanese Quaterly, Vol. VII, numero 3, July-September 1965, pp. 303-310.

[18] Motohoka Takeshi本岡武, “Chiiki Kenkyuu to wa nani ka?地域研究とは何か “Qu’est ce que les aires culturelles?, in Tonan Ajia Kenkyu 東南アジア研究, numero 2, 1963, pp. 5-19.

[19] Myers, Ramon h., “Japanese Imperialism in Manchuria: The South Manchuria Railways Company, 1906-1933, in Duus Peter, “The japanese Informal Empire in China, 1895-1937, Princeton, Princeton University Press, 1989, pp. 101-132.

[20] Najita, Tetsuo, Koschmann Victor J., Conflict in Modern Japanese History: the Neglected Tradition, Princeton, Princeton University Press, 1982.   

[21] Nakajima, Makoto中島誠, Sengo shisoshi nyumon戦後思想史入門, Introduction à l’histoire de la pensée d’après-guerre, Tokyo, Ushio Shinsho, 1968.

[22] Oguma, Eiji小熊英二, Minshu to aikoku民主と愛国, La démocratie et le nationalisme, Tokyo, Shinyôsha新曜社, 2003, pp. 717-792.

[23] Reynolds, Douglas R., “Training Young China Hands; Toa Dobun Shoin and its Percursors, 1886-1945”, in Duus Peter eds, The Japanese Informal Empire in China, 1895-1937, Princeton, Princeton University Press, 1989. 

[24] Sabot, Jean-Yves, Le syndicalisme étudiant et la guerre d’Algérie, Paris, L’Harmattan, 1995.

[25] Sakai Yoshiki酒井良樹, “Betonamu Bunka”ベトナム文化, La culture vietnamienne, in Sekai no Rekishi世界の歴史, Vol. 13, Tokyo, Chikuma Shobô 筑摩書房, 219-234.

[26] Sato, Shigenori佐藤茂教, Hikita Toshiaki noryakureki ni tsuite引田利章の略歴について, A propos du curriculum vitae de Hikita Toshiaki, Tonan Ajia rekishi to bunka東南アジア歴史と文化, numéro 2, 10/1972, pp. 203-205.

[27] Shimizu Hajime, “Southeast Asia as a Regional Concept in Modern Japan: An Analysis of Geography Textbooks” in Shiraishi Masaya, Shiraishi Takashi, The Japanese Colonial Southeast Asia, Ithaca, Cornell University Press, 1993, pp.21-61.

[28] Shimao, Minoru, Sakurai Yumio, “Vietnamese Studies in Japan, 1975-1996”, Acta Asiatica, numéro 76, 1999, pp. 81-105.

[29] Shiraishi Masaya, “A Short Essay on Scientific exchanges between Japan and Southeast Asia”, Journal of Asia Pacific Studies, numéro 1, pp. 97-106.

[30] Tonor Saunders, Frances, Who Paid The Piper? The CIA and the cultural Cold War, Granta Books, New York, 1999.

[31] Suheiro, Akira, “Bodies of Knowledge: How Think-tanks have affected Japan’s Postwar Research on Asia”, in Social Science Japon, numéro 9, 1997, pp. 20-27.

[32] Takada Yoko高田洋子, Nihon ni okeru Betonamushi kenkyu no sokatsu to tembo日本におけるベトナム史研究の総括と展望, Présentation des études historiques sur le Vietrnam au Japon. In Ajia Africa Kenkyuアジアアフリカ研究, vol. 29, numero 3, 1989, pp. 43-80, pp. 44.

[33] Takada Yoko, “Vietnamese Sudies in Japan”, Asian Research Trends, numero 1, 1991, pp. 57-73.

[34] Takegoshi, Yosaburo竹越與三郎, Nangokuki南国記, Carnet de voyages des pays du sud, Tokyo, Bunka Sosho文化叢書, 1910.

[35] Takeuchi Minoru, “The Background to Chinese Studies in Japan, Japan Quaterly, Vol. 18, numéro 3, 1971, pp. 316-323.

[36] Tanaka Stefan, Japan’s Orient, Rendering Past into History, Berkeley, University of California Press, 1993.

[37] Tanaka, Tadaharu田中忠治, Tokyo Gaikokugo Daigaku Indochinago Gakka Hyakunenshi東京外国語大学インドシナ語学科百年史, Tokyo, Mekonkaiメコン会, 2002.

[38] Tomita Kenji富田憲次, Nihon ni okeru Betonamugo kyoiku / kenkyu日本におけるベトナム語教育、研究. Les études et l’enseignement du vietnamien au Japon, in Yamaguchi Keishiro山口慶四郎、我が国における外国語研究、教育の師的考察、大阪、大阪外国語大学、1989, pp. 55-61.

[39] Tokyo Daigaku Hyakunenshi: bukykyokushi 1 東京大学百年史、部局史1. Histoire des cents ans de l’Université de Tokyo. Histoires des Départements, Tokyo, Tokyo Daigaku Shuppankai東京大学出版会, 1986.

[40] Tsuda Sokichi津田左右吉, Shina shiso to Nihon支那思想と日本. Le Japon et la pensée chinoise, Tokyo, Iwanami Shinsho岩波新書, 1938.

[41] Tsuda Sokichi津田左右吉, Shiratori Hakushi Shoden白鳥博士小伝, Bibliographie du Docteur Shiratori, Toyogakuho東洋学報,numéro 29, 1944, 325-387.

[42] Yamamoto Tatsuro山本達郎, Betonamu Chuugoku kankeishiベトナム中国関係史; 曲氏の台頭さら清仏戦争までKyoku-shi no taito kara Shin-Futsu senso made. Histoire des relations entre le Vietnam et la Chine, Tokyo, Yamakawa Shuppansha山川出版社, 1975.

[43] Yano Toru矢野暢, Nanshin no Keifu南進の系譜, Généalogie de l’avancée vers le Sud, Tokyo, Chuokoronsha中央公論社, 1985.

[44] Yasunaka, Akio, “Southeast Asia: Policy and Society”, in Yamaguchi Hiroshi, Sato Hiroshi, Inderstanding the Developing World, Thirty Five Year of Area Studies at the IDE, Tokyo, IDE, 1996, pp. 83-98.

[45] Yoshikawa Kojiro吉川幸次郎, Toyogaku no Shisoshatachi東洋学の創始者たち, Les créateurs des Toyogaku, Tokyo, Kodansha講談社, 1976

[46] Young, John, The Research Activities of the South Manchurian Railways Company, New York, Columbia University Press, 1966.


[1] Á Châu hiểu ở đây là một Á Châu “thực sự” nhìn dưới “nhãn quan của người châu Á”, và nhân đấy người Nhật muốn trình bày cho người Tây Phương biết cần phân biệt giữa họ và các dân tộc Á Châu khác.

[2] Tức nghiên cứu các sách vở cổ điển Trung Hoa, còn gọi là Hán học.

[3] Nhà nghiên cứu Naka Michio (1851-1904) thường được xem như người đã sáng lập ra môn học này [36] Tanaka, tr.48.

[4] Seiyô.

[5] Sự tách biệt ra khỏi Á Châu (Datsu-a-ron) mà Fukuzawa Yuukichi chủ trương vẫn còn bị đóng khung trong cách dùng chữ của người Tây Phương. Các nhà Tôyôgaku thì khác, họ sử dụng từ này theo một cái nhìn văn hóa tương đối luận (relativisme culturel) [11] Hashikawa. tr. 328 – 355).

[6] Naitô đã khai triển khái niệm về Shinagaku, môn học về Shina hay Trung Quốc.

[7]  Phân bộ nghiên cứu của Mantetsu 満鉄調査部là một cơ quan nghiên cứu Đông phương học rất ưu tú. Mantetsu lúc đầu chỉ là một cơ quan bàn công bán tư có mục đích phát triển đường xe hỏa tại Mãn châu sau trận chiến tranh Nhật Nga. Cho đến năm 1945, những công trình nghiên cứu chính yếu về khoa Đông phương của Nhật hầu như đã phát xuất từ những phân bộ nghiên cứu thay nhau liên tiếp ra đời của nhóm Mantetsu ([19] Myers, tr.101-132).

[8] Tôa Dôbunkai hay Đông Á Đồng Văn Hội là một học viên chuyên môn và là phân nhánh của Tôa Dôbun Shoin 東亜書院hay Đông Á Đồng Văn Thư Viện東亜同文書院. Tôa Dôbunkai được thành lập vào năm 1898 bởi Munakata Kôtarô để huấn luyện khả năng ngôn ngữ,tri thức văn hóa xã hội về Trung Quốc cho thanh niên Nhật, phục vụ cho mục đích nới rộng giao thương với nước này [23] Reynolds, tr. 210-271).

[9] Do Bộ Ngoại Giao Nhật Bản, chính phủ đảo Đài Loan và những trung tâm nghiên cứu như Nhóm nghiên cứu Đông Á của Mantetsu, Tôa Kenkyuukai (東亜研究会Đông Á Nghiên Cứu Hội) và Taiheiyô Kyôkai (太平洋協会Hiệp hội Thái Bình Dương). 

[10] Matsumoto ta đã cho ra mắt công trình về Đông Dương thuộc Pháp. Chính khảe năng nói tiếng Pháp của ông đã đưa đẩy ông đến việc nghiên cứu về Đông Dương.

[11] Fujiwara chuyên môn nghiên cứu về Hoa kiều. Năm ông mất là do người dịch viết thêm vào.

[12] Nguyên văn Ecole Francaise d’Extrême Orient. Sự dung lợp giữa hai luồng nghiên cứu đã thành hình trong giai đoạn quân Nhật chiếm đóng Đông Dương.

[13] Ông Yoshida đã làm thủ tướng 2 nhiệm kỳ: 1946-47 và 1948-54. “Học thuyết Yoshida” nhằm bình thường hóa quan hệ ngoại giao với các quốc gia Á châu và thiết lập những cơ quan với hoạt động có mục đích khuyến khích sự giao lưu kinh tế.

[14] Tên này mới có từ 1954 chứ trước đó nó có tên là Ajia Mondai Chôsakaiアジア問題調査会.

[15] JAAS (Japan Asociation for Asian Studies) thành lập năm 1953 cũng chủ trương giống y như thế.

[16] Thường được gọi tắt là Ajiken hay IDE.

[17] Muốn biết rõ hơn IDE nghiên cứu những gì, xin xem ([Horii, tr. 59-82), ([44] Yasunaka tr. 83-98) cũng như tạp chí mang tên Kinh tế Á châu hay Ajia Keizai, phát hành từ 1960.

[18] Tuy vậy, kể từ thập niên 1980, trung tâm này đã thay đổi lối làm việc và tiến về một phương pháp  tương tự như IDE.

[19] Phải hiểu câu nói này theo cái nghĩa thấy trong luận văn của ([24] Sabot tr.127-134 và [9] Hamon.

[20] Trao đổi với Furuta Motoo ngày 29/08/2004.

[21] Người ta hãy còn nhớ các thầy Đàm Quang Tuấn, Huỳnh Trí Chánh… ở Tôkyô Gaidai, Phan Đức Lợi ở Ôsaka Gaidai là những cựu sinh viên du học Nhật Bản đã có cống hiến lớn lao cho việc truyền bá ngôn ngữ văn hóa Việt Nam ở Nhật, bên cạnh các thầy đến từ trong nước từ hai miền Nam (Nguyễn Khắc Kham), Bắc (Nguyễn Cao Đàm). Con số giảng sư khá đông nhưng riêng thầy Đàm Quang Tuấn là người đi tiên phong đã dạy ở Tôkyô Gaidai từ khóa đầu tiên (LND).

[22] Ảnh hưởng của Paul Mus và của EFEO (Trường Viễn Đông Bác Cổ)

[23] Http://waseda-coe-cas.jp/e/about 3 ito.html (đăng tải ý kiến của tác giả với tất cả sự dè dặt thường lệ. LND)


* Nguyễn Nam Trân :

Một trong những bút hiệu của Đào Hữu Dũng, sinh năm 1945 gần Đà Lạt. Nguyên quán Hương Sơn, Hà Tĩnh. Theo học Chu Văn An (1960~1963) và Đại Học Sư Phạm Sài Gòn trước khi đến Nhật năm 1965. Tốt nghiệp Đại Học Đông Kinh (University of Tokyo) và Đại Học Paris (Pantheon-Sorbonne). Tiến sĩ khoa học truyền thông. Giáo sư đại học. Hiện sống ở Tokyo và Paris. E-mail: This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.">This email address is being protected from spambots. You need JavaScript enabled to view it.

Nguồn: Exryu Cuối Tuần (ERCT) http://www.erct.com/2-ThoVan/NNT/VietHoc-tai-NhatBan.htm

Từ trước đến nay khi nói tới những người Bồ Đào Nha tiên phong trong việc truyền bá đạo Chúa Jesus[1]và mở đường cho quá trình tiếp xúc giữa Việt Nam với châu Âu vào thế kỷ 17-18, những cái tên thường được nhắc đến nhiều nhất là:Fransisco de Pina, Gaspar do Amaral, António Barbosa và Antonio de Fontes…Tuy nhiên, vàonửa cuối thế kỷ 18 còn có một người Bồ Đào Nha rất gắn bó với Việt Nam (đúng hơn là Xứ Đàng Trong) và để lại một số công trình khoa học rất có giá trị, nhưng chưa được biết đến nhiều đó là João de Loureiro[2].

Bài viết này giới thiệu vài nét về João de Loureiro và chữ Quốc ngữ thế kỷ XIII theo cách ghi của ông trong cuốn sách nổi tiếng “Thực vật Đàng Trong”.

1. Vài nét về João de Loureiro (1710-1791)

João (Joannis - tiếng Latin) de Loureiro sinh ở Lisbon, Bồ Đào Nha năm 1710. Sau khi tốt nghiệp trường College of Santo Antão (Lisbon), năm 1732 Loureiro gia nhập giáo đoàn đạo Chúa Jesus. Năm 1735Loureiro được cử sang Goa (Ấn Độ), song lúc bấy giờ là lãnh địa của Bồ Đào Nha, truyền giáo và ở đấy 3 năm. Năm 1738 ông chuyển sang Ma Cao và ở lại đâytruyền giáo 4 năm.

Năm 1742 ông được cử sang Đàng Trong trong một sứ mệnh đặc biệt. Vì lúc bấy giờ việc truyền giáo ở Đàng Trong cũng như ở Đàng Ngoài của các giáo sĩ gặp khó khăn, Loureiro đã phục vụ trong triều đình chúa Nguyễn như một nhà toán học và thiên nhiên học rồi ở lại Đàng Trong 35 năm[3]. Tại đây ông đã đem lòng yêu thích thực vật xứ này và dành gần trọn thời gian tìm hiểu cây cỏ và việc sử dụng chúng để làm thuốc. Có lẽ Loureiro là một trong những nhà truyền giáo châu Âu có thời gian sống lâu nhất ở Việt Nam.

Từ năm 1750 đến 1752 Loureiro rời Đàng Trong vì việc cấm đạo và sang nghiên cứu thực vật ở Philippines và Sumatra[4]. Năm 1753 ông trở lại Đàng Trong và tiếp tục nghiên cứu thực vật ở Đàng Trong. 

Năm 1777 Loureiro rời Đàng Trong sang Quảng Đông và ở lại 3 năm nghiên cứu thực vật ở đây. Tháng Ba năm 1781Loureiro trở về Bồ Đào Nha và hoàn thành cuốn Thực vật Đàng Trong năm 1788. Năm 1790 cuốn sách được Viện Hàn lâm Bồ Đào Nha xuất bản ở Lisbon. Trên đường từ Quảng Đông trở về Lisbon, ông đã dừng lại ở Mozambique ba tháng và nghiên cứu, so sánh thực vật ở đây với cây cỏ ông thu thập được ở châu Á và bổ sung vào cuốn từ điển nói trên trước khi đem xuất bản.

Ông là người say mê nghiên cứu cây cỏ và các loại dược liệu làm từ cây cỏ của người bản địa. Các nghiên cứu về thực vật của ông dựa trên hai tác phẩm về thực vật của Dioscorides và Linnaeus, nhà thực vật học nổi tiếng người Thụy Điển mà ông mang theo khi tới Đàng Trong[5].

Năm 1780 Loureiro được Joseph Banks, chủ tịch Hội Hoàng Gia London (Royal Society of London) mời sang thăm và thuyết giảng ở Anh, nhưng ông đã từ chối lời mời. Mặc dù vậy, ông vẫn được kết nạp làm thành viên của Hội Hoàng Gia London năm đó. Sau khi trở về Lisbon vào năm 1781, Loureiro còn được mời làm thành viên của Viện Hàn Lâm khoa học Lisbon (và cũng là Viện Hàn Lâm khoa học Bồ Đào Nha). 

Loureiro mất ở Lisbon năm 1791. Ông để lại tất cả các tư liệu về thực vật mà ông sưu tập đươc, gồm các mẫu thực vật, các hình vẽ, thư từ và ghi chép của mình cho Viện Hàn Lâm khoa học Lisbon.

Năm 1793, sách Flora Cochinchinensis được dịch sang tiếng Đức và xuất bản ở Berlin[6].

Bên cạnh sách Flora Cochinchinensis,cho đến nay Loureiro chỉ có một bài viết được in trong Memoris da Academia Real das Sciencias de Lisboa, 1805. Vol. I, p. 402-415[7]. Có nhà nghiên cứu cho rằng:Loureiro còn để lại một số “văn bản viết tay chưa xuất bản trong đó có 12 tập khổ lớn, được viết trên giấy Trung Quốc, gồm các thông tin lịch sử, 2 tập với các hình vẽ về các con suối, cây cỏ và động vật, và 2 tập khác với 397 hình vẽ màu về cây cối với tên khoa học của chúng và nơi sinh trưởng, tức là ‘thực vật bằng tranh” từ Đàng Trong (Cochinchina) viết bằng tiếng Việt, thậm chí một cuốn từ điển tiếng Việt-Bồ Đào Nha.”[8]Lại có ý kiến khác cho rằng: trong số tư liệu chép tay đó, có văn bản mang tên: “De nigris Moi et Champanensibus.”[9]

Chúng tôi đã liên lạc với Thư viện Quốc gia Bồ Đào Nha và Viện Hàn lâm khoa học Bồ Đào Nha để biết thêm thông tin và cố gắng sưu tầm các tài liệu này, song đáng tiếc là cho đến nay thông tin mà chúng tôi nhận được khôngthấy có tất cả những tài liệu được nói đến đó.

2. Sách “Thực vật Đàng Trong” của João de Loureiro

Flora Cochinchinensis” (Thực vật Đàng Trong - TVĐT) là viết tắt từ tên đầy đủ: Flora Cochinchinensis: sistens plantas in regno Cochinchina nascentes: quibus accedunt aliae observatae in Sinensi imperio, Africa orientali, Indiaeque locis variis: omnes dispositae secundum systema sexuale Linnaeanum[10]. Theo lời giới thiệu, cuốn sách được Loureiro hoàn thành năm 1788 và Viện Hàn lâm khoa học Bồ Đào Nha xuất bản năm 1790 ở Lisbon.

20180919 Thuc vat Dang Trong

Sách được in làm 2 tập. Tập I gồm có 20 trang (đánh dấu từ I-XX) là lời giới thiệu của nhà xuất bản và tác giả, trong đó có giới thiệu một số dấu phụ sử dụng trong sách (trang XV) và một danh mục các tài liệu tham khảo (trang XVII-XX).

H.1. Ghi chú các dấu phụ được dùng ghi tên tiếng Đàng Trong (trang XV)

Từ trang 1-353 là phần nội dung,bắt đầu bằng mục từ tiếng Latin, tiếp theo là tên địa phương với tiếng Việt (Đàng Trong) được ghisau kí hiệu (a),tên tiếng Trung Quốc (nếu có) sau kí hiệu (b) và sau hai kí hiệu khác là tên tiếng châu Phi (γ)và tiếng Ấn Độ (ẟ). Ví dụ: tên tiếng Đàng Trong và tiếng Trung Quốc của Amomum Zingiber (tên Latin)được ghi như sau:

H.2. Các kí hiệu ghi tên tiếng địa phương trong TVĐT (tr.2)

Tiếp theo tên gọi (tiếng Latin và tiếng địa phương) là miêu tả thực vật học, giá trị kinh tế, thời gian nở hoa và cuối cùng là nơi sinh sống của thực vật đó. Ví dụ: Cây lọ nghẹ, “sống trong rừng ở Đàng Trong (Habitat in sylvis Cochinchina)”.

Tập II gồm 391 trang (được đánh số từ trang 357-744), trong đó phần nội dung (từ trang 357- 698) và phần Index (từ trang 699-744). Phần Index gồm Index họ và loài bằng tiếng Latin với 23 trang (từ trang 699 -722), được xếp theo vần chữ cái tiếng Latin (trong đó V được xếp chung với U), mỗi trang chia làm hai cột, tên loài viết trước và tiếp đến là số trang xuất hiện trong cuốn sách.

Tiếp theo là một trang đính chính cho cả hai tập, không đánh số trang, cũng chia làm hai cột, trong đó phần lớn là các đính chính tên Latin, chỉ có 13 đính chính tên tiếng Việt (5 tên ở tập 1 và 8 tên ở tập 2), được ghi bắt đầu bằng các kí hiệu: số tập, p. số trang, l. số dòng, tiếp theo là tên sai và tên đúng được ngăn cách với nhau bằng hai dấu “gạch ngang”. Ví dụ: TOM.I. p.9. l.8. Mịo -- Mọi, p.199. l.9 Roung mác - - Boung mác; TOM. II. P. 465. l.6. Tanh - - Thanh, p. 659. l.25. Muóng troúng - - Muong truóng, p.683. l.4. Raubạc - - rêu bạc

Sau trang đính chính là Index tiếng Việt gồm 22 trang (đánh số từ 723-745). Mỗi trang cũng được chia làm 2 cột, các tên được xếp theo vần chữ cái của chính tả tiếng Latin (20 chữ cái, từ A-X, song chỉ có chữ cái <U> mà không có chữ cái <V> như Index tiếng Latin: các tên có chữ cái <V> được xếp trong mục chữ cái <B> hoặc <U>, các tên có chữ cái <Đ> được xếp vào mục chữ cái <D> kèm theo số trang xuất hiện trong cả hai tập từ điển với tổng cộng 1065 tên tiếng Việt, được ghi như sau: Ví dụ: Bí dao. 593, Chua me. 285.

Ngoài các từ trong Index, có một số từ tác giả không đưa thành một mục từ riêng và không có tên Latin tương ứng. Ví dụ: Trong mục từ “Mía”, còn có các loại nhỏ: mía lau, mía mung, mía boi; hay các từ: Tle nua, Tle lang nga, Tle Oúng thaóng. Như vậy, với 1068 tên thực vật bằng chữ Quốc ngữ tất cả, song chỉ có 13 lỗi, ta có thể thấy tác giả công trình đã làm việc cẩn trọng tới mức độ nào.

Bên cạnh 1065 tên cây tiếng Việt, theo nhà thực vật học Mỹ, E. D. Merrill, trong TVĐT, còn có tên 254 cây chỉ có ở Trung Quốc, 29 cây từ Đông Phi, 9 cây từ Mozambique, 8 cây từ Zanzibar, 5 từ Ấn Độ, 2 từ Bán đảo Mã Lai, 1 từ Sumatra, Philippines và Madagascar. Merrill cho biết João de Loureiro đã mô tả tất cả 672 họ (genera) và 1292 loài (species), trong đó có 185họ và 630 loài chưa từng được miêu tả trước đó. “Đó là một đóng góp rất có giá trị và hết sức đáng trân trọng vì Loureiro không hề được đào tạo chính thức về thực vật học và trong suốt thời gian thực hiện công trình của mình ông không hề có mối liên hệ nào với các nhà thực vật học khác.” (Merrill, 1933).

Đặc biệt, cũng theo Merrill, không ít hơn 54 giống và 750 loài trùng tên được Loureiro mô tả trong TVĐT đã được các nhà thực vật học đề nghị đưa vào danh sách thực vật trong 140 năm qua. Trong bài khảo cứu hiếm hoi về cuốn sách của Loureiro, nhà thực vật học Mỹ cho biết hơn 16 loài cây được coi là mới vào năm 1900 đã được Loureiro mô tả một cách chính xác trong công trình cách đó hơn 100 năm của ông. “Rất nhiều mô tả của Loureiro sáng rõ và chính xác, cân bằng về mọi phương diện, thực sự là khuôn mẫu cho những người đi sau ông.”

Từ mô tả của Loureiro nhiều tên cây cỏ mang thêm tên Đàng Trong trong tên gọi Latin của chúng, như: rau má > Trisanthus cochinchinensis(Latin), Cây bồn bồn (Việt) >Garciana cochinchinensis (Latin), Cỏ Choung > Phleum cochinchinense (Latin), Cỏ tranh > Stegosia cochinchinensis (Latin), Rau giáp cá > Polypara cochinchinensis (Latin), Cỏ luoi mèo > Scabiosa cochinchinensis (Latin), Cây bụp bụp > Periploca cochinchinensis (Latin)…[11]

Một nhà nghiên cứu Bồ Đào Nha đã viết: “tác phẩm của João de Loureiro là công trình tiên phong được điều tra và thực hiện ở ngoài châu Âu”. Theo ông, “Tác phẩm của João de Loureiro đã cung cấp một nguồn tư liệu về lịch sử khoa học, văn hóa và xã hội vẫn là một cột mốc đánh dấu vai trò của các nhà truyền giáo trong việc trao đổi khoa học giữa châu Âu và phương Đông từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18.” Ông nhận xét “João de Loureiro, có lẽ là một người quảng bá Việt Nam nhiều nhất ở châu Âu nhờ tiếng vang rộng rãi của cuốn sách Flora Conchichinense.”[12]Trong cuốn sách “The Jesuits: Cultures, Sciences, and the Arts, 1540-1773, Volume 1”, tác giả J. Harris cho rằng: “De Loureiro là một trong những nhà thực vật học quan trọng nhất của thế kỷ 18.”[13]

Được biết, ở Việt Nam có một bản in của cuốn sách này, hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng thực vật Viện Sinh học Nhiệt đới (ITB) thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST)[14].Đáng tiếc là cuốn sách được viết bằng chữ Latin, song một số nhà thực vật học Việt Nam lại cho là sách viết bằng tiếng Bồ Đào Nha và ít người dùng đến: “Bộ sách này gồm hai quyển và viết bằng tiếng Bồ Đào Nha và có phần index tên thực vật bằng tên Latin và tên Việt ở cuối quyển. Hiện nay rất ít người sử dụng sách này có lẽ vì nó hiếm và không hiểu tiếng Bồ.”[15]

Nhiều tên trong “Flora Cochinchinensis” đã được J. L. Taberd (1794-1840) dùng làm tư liệu cho phần phụ lục “Hortus Floridus Cocincinae” (Cây cỏ xứ Đàng Trong) trong cuốn từ điển “Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị”-Dictionarium Anamitico-Latinum” xuất bản năm 1838, như tác giả đã viết trong lời giới thiệu ở phần này.[16]

Tuy nhiên, trong cuốn sách vẫn còn khá nhiều tên có sự phân loại chồng chéo, nhiều tên Latin chưa được công nhận và có những tên Latin thiếu tên Việt, như Merrill đã chỉ ra trong bài viết của ông (Merrill. 1933). Về điểm này, chúng tôi cũng nhận thấy một trường hợp khá rõ là tác giả đã xếp các từ: Tle nua, Tle lang nga, Tle Oúng thaóng vào tiểu loại của mục từ Cây hóp (Arundo Muntiplex) và không có từ Nua (nứa)riêng.

H.4. Tên các loại tre được xếp là tiểu loại của từ “Hóp” trong TVĐT (trang 58)

Mặc dù vậy, chúng tôi rất đồng ý với các tác giả trang “Biodivn - Đa Dạng Sinh học và Bảo Tồn Việt Nam” rằng đây là một cuốn sách về thực vật Đàng Trong rất quý với các nhà thực vật học, nhất là các nhà thực vật học Việt Nam. Đáng tiếc là vì sách được viết bằng chữ Latin nên rất ít người có thể đọc và khai thác được giá trị của nó. Còn các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, có lẽ vì sách hiếm nên chưa biết đến hay những điểm khác lạ của chữ Quốc ngữ trong cuốn sách không thực sự quan trọng?

3. Chữ Quốc ngữ trong sách “Thực vật Đàng Trong”

Như trên đã nói, sách “Thực vật Đàng Trong” (từ đây viết tắt là TVĐT) được Loureiro hoàn thành năm 1788 và được xuất bản năm 1790, song đây là sản phẩm được ông sưu tầm, ghi chép trong nhiều năm từ trước đó. Vì vậy, tuy thời gian hoàn thành muộn hơn “Dictionarium Anamitico-Latinum” (VL, 1772) của Pegneau de Béhaine (1741-1799)6 năm[17], song chữ Quốc ngữ của tên cây cỏ tiếng Đàng Trong trong cuốn sách có nhiều điểm khác với chữ Quốc ngữ trong hai cuốn từ điển vừa nêu cũng như trong các tác phẩm của Philiphê Bỉnh cùng thời[18] và còn giữ khá nhiều cách viết trong “Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum” (VBL, 1651) hay “Phép Giảng Tám ngày” (PGTN, 1651) của Alexandre de Rhodes (1591-1660). Theo học giả André-Georges Haudricourt, João de Loureiro là nhân chứng quan trọngcủa sự thay đổi phát âm tiếng Việt và “Flora Cochinchinensis của de Loureiro là một tác phẩm cực kì quý giá về thực vật học (botany) và dân tộc học thực vật (ethnobotany) Việt Nam.Nó gồm hàng trăm tên cây được phiên âm một cách thận trọng.”[19]

3.1. Những chữ đặc biệt.

Như trong lời giới thiệu, Loureiro có nói vì lý do in ấn nên một số dấu phụ (nét ngang, dấu móc) trong một số chữ cái không giữ như hình thức vốn có trong VBL, mà bị lược bỏ và thay thế bằng các hình thức khác (xem H.1). Cụ thể:

-Vạch ngang ở nửa trên của nét thẳng trong chữ <đ>được thay bằng một chỗ hở nhỏ ở phần thẳng nơi vòng ra của chữ <d>. Ví dụ: hai chữ <đ> trong từ: “Cây đủ đủ deầu” ở tr.584

-Nét vòng xuống ở phần dưới của chữ cái <b>dùng để ghi một âm xát, môi-răng giữa /b/ và /v/ (tức âm /ꞗ/) trong VBL được thay bằng chỗ hở ở nửa dưới của chữ thường và ở giữa nét thẳng của chữ hoa/in.Ví dụ: “ꞗòi ꞗoi” (tức “vòi voi”) được viết là “bòi boi” trong các tên: “bòi boi cỏ” (tr.103), “bòi boi deei” (tr.116), “nấm cứt boi” (tr.696) và “mía boi” (tr.52)

Cây “òi oi” (tức “vòi voi”) tr. 103

Do vậy, chữ <B> ghi âm /ꞗ/ trong các tên sau đây ở phần index tiếng Việt (tr.723) của TVĐT.

Trong bài viết được dẫn ở trên, André-Georges Haudricourt viết về các chữ Quốc ngữ đặc biệt này của de Loureiro như sau: “dấu móc” và “nét ngang” (các dấu đặc biệt của de Rhodes) được biểu thị bằng một chỗ đứt trong hình thể của con chữ. Vì vậy, chữ <b> có nét ngang khác với <b> không có nét ngang và <d> có nét ngang khác với <d> không có nét ngang. Nhưng có một lỗi ở ở hai từ thường được dùng, “voi” và “vòi” được viết với <b> có nét ngang [ꞗoi, ꞗòi] trong tên cây “cỏ vòi voi, deei vòi voi, vànâm cưt voi”. Cả từ điển của de Rhodes cũng như từ nguyên học chứng tỏ một cách rõ ràng rằng phụ âm đầu của các từ ấy là /v/ vốn là một âm /*w/. Như vậy vào giữa thế kỷ 18, việc phát âm như ngày nay đã hoàn thành và việc J. de Loureiro dùng <ꞗ>trong cách ghi của ông không có gì khác hơn là một cách ghi chính tả theo truyền thống.”(xem tài liệu ở chú thích 19) Tuy nhiên, như Alexis Michaud chú thích trong bản dịch tiếng Anh bài viết nói trên, rằng “Haudricourt không nói đến ghi chú ngữ âm của Loureiro (có thể ông không nhìn thấy) trong lời giới thiệu TVĐT “Chữ b với nét thẳng đứt đoạn biểu thị một âm giữa âm /b/ thông thường và phụ âm /v/” (xem tài liệu ở chú thích 19). Như vậy có thể nói rằng vào giữa thế kỷ 18, âm âm xát, môi-răng giữa /b/ và /v/ (tức âm được ghi /ꞗ/ trong VBL) vẫn còn tồn tại trong tiếng Đàng Trong theo quan sát của Loureiro. Chúng tôi thấy có ít nhất 27 có chữ ghi âm này trong sách TVĐT.

- Dấu móc phía trên, bên phải trong chữ <ư>, <ơ>được thay bằng chỗ hở ở nét bên trái của chữ <u> và<o>. Chẳng hạn như trong tên “cây gừng”/“sinh cường” (H.2) hay “Cây mướp sác” (tr.136) ở ví dụ dưới đây:

3.2. Về các chữ ghi phụ âm đầu:

3.2.1. chữ kép ghi phụ âm kép:

- Trong tiếng Việt thế kỷ 17 có 3 tổ hợp phụ âm: /bl/, /tl/ và /ml/ được ghi bằng <bl, tl, ml>trong từ điển VBL, như: blời(trời),tlước (trước), mlời (lời). Trong từ điển VL (1772 & 1838) các phụ âm kép này được ghi bằng các chữ <tr>, <l> như chữ Quốc ngữ ngày nay. Tuy nhiên, trong TVĐT của Loureiro, chữ kép <tl>vẫn được dùngghi âm vị /ʈ/ mà chữ Quốc ngữ ngày nay ghi bằng tổ hợp chữ cái <tr>, ví dụ: Tlầu(trầu), Tlám (trám), Tle (tre). Trong 1068 tên thực vật bằng chữ Quốc ngữ của TVĐT, chúng tôi tìm được 84 tên ghi với chữ kép <tl>, bên cạnh các tên viết với <Tr>, như: trúc, trâm, (cỏ) tranh… Dưới đây là từ Boung tlang tláng “Bông trang trắng” ở (tr.76)

- Trong TVĐT còn có một số tên được ghi với chữ kép <de>. Ví dụ: Cây dea (cây da), Cây deẻ (cây dẻ), Cây déo bầu(Cây dó bầu). Đây là cách ghi phụ âm /dj/ được de Rhodes dùng chữ kép <dĕ> trong từ điểnVBL, ví dụ: dĕài (dài), cây dĕa (cây da), dĕạy (dạy). Hình thức này không còn được sử dụng trong từ điển VL. Ví dụ dưới đây là cây deó bầu (tr.267)

3.2.2. Chữ ghi phụ âm đơn

Ngoài bốn chữ có dấu hiệu riêng được dùng để ghi các phụ âm /ꞗ, d, ə, ɯ/ như đã nói ở trên, trong sách TVĐT còn có một số chữ được dùng khác với chữ Quốc ngữ ngày nay, song lại phản ảnh cách ghi như trong từ điển VBL (xem bảng trang sau). Đáng chú ý nhất là có 2 tên được ghi với <v>trong chữ Quốc ngữ ngày nay vẫn được Loureiro ghi với <u>là: Uối deài lá(vối dài lá),Uối tlòn lá(vối tròn lá).

3.3. Chữ ghi các nguyên âm và vần

Chữ dùng trong TVĐT

Ghi âm vị, vần Chữ viết ngày nay

Ví dụ

(Trong ngoặc đơn là cách viết hiện nay)

Ghi phụ âm tl /ʈ/ tr Tlầu (trầu), tlám (trám), tle (tre)
b (với dấu hiệu riêng) /ꞗ/ v Cây bòi boi (vòi voi), Cây chìa bôi (chìa vôi), Cây bả (vả), bải (vải)
b /m/ m Cây boung tɔi (mồng tơi),
d (với dấu hiệu riêng) /d/ đ Dậu nanh (đậu nành), Dào (đào) Annam
g /z/ d Rau gền tláng (dền trắng)
j /z/ d Rau jùa (dừa nước), nấm juá (dứa)
de /dj/ d Cây dea (da), Cây deẻ (dẻ) gai, Cây déo (dó) bầu, Deâu (dâu) tàu
c /k/ q Lá trung cuǒn (quân),
k /k/ c Rau kần nước (cần), Hoa kách (cách),
q /k/ q Hoa kùy (quỳ), Hoa koế (quế)
ſ /s/ s Hoa ſói (sói), hoa ſu tláng (sứ trắng)
u /v/ v Uối deài (vối dài) lá, Uối tlòn (vối tròn) lá
Ghi nguyên âm và vần aong -ɔŋ ong Laong (long) nảo, raong (rong), Lá deaong (dong)
ăoc/aoc /ɔ/-k oc Củ chăóc (chóc), rau kaóc (cóc), Ngaọc (ngọc) tram
ieo iew ieu Hò tieo (tiêu), Chúoi tieo (tiêu)
ei -âi ây Deei (dây) dinh dang,
ɔ (với dấu hiệu riêng) /ɤ/ ơ Rau mɔ (mơ), Phaong lɔn (phong lan), ɔt tlòn tlái (ớt tròn trái)
oung -oŋ ông Boung tlang (bông trang), Cây thoung (thông) Hoa moung (mồng) gà
a /ă/ ă Rau ram (răm)
ă /â/ â Cây bằn tlòn (bần tròn) lá
u (với dấu hiệu riêng) /ɯ/ ư Cỏ cút lọn (cứt lợn), Nấm cút ngụa (cứt ngựa)
êi -âj ây Cây báy giéi (giấy), Cây ngếi tlòn (ngấy tròn) lá

Ngoài hai chữ <ơ, ư> với dấu hiệu riêng dùng để ghi nguyên âm /ɤ, ɯ /, trong sách TVĐT còn có một số cách ghi được dùng trong từ điển VBL, song không dùng trong từ điển VL cũng như chữ Quốc ngữ ngày nay. Những cách ghi này có thể thấy qua bảng ở trên.

4. Kết luận

Sách Thực vật Đàng Trong là một công trình có giá trị về thực vật học không chỉ của Đàng Trong như tên gọi của nó mà còn là của thực vật học Việt Nam. Đây là cuốn sách về thực vật Việt Nam đầu tiên được thế giới biết đến. Nhờ có cuốn sách này mà, như nhà thực vật học Mỹ, Merril nhận xét, 185 họ và 630 loài chưa từng được miêu tả trước đó đã được các nhà thực vật học biết đến.

Thực vật Đàng Trong còn là một cuốn sách có giá trị về mặt ngôn ngữ. Cùng với từ điển Việt-Latin và một số văn bản viết tay của người Việt ở thế kỷ thứ 18, tên gọi cây cỏ trong cuốn sách này đã giúp cho chúng ta biết rõ hơn sự phát triển của tiếng Việt và chữ Quốc ngữ trước khi có được hình thức như chữ viết ngày nay.

Điều đáng tiếc là do được viết bằng chữ Latin nêncho đến nay cuốn sách không được nhiều người biết đến và khai thác các giá trị của nó.

Tài liệu tham khảo và trích dẫn chính

1. Bernardino Antonio Gomes, 1865, Elogio Historico do Padre João De Loureiro, Academia Real das Sciencias de Lisboa. Có thể download tại (https://digitalis.uc.pt/pt-pt/fundo_antigo/elogio_historico_do_pe_jo%C3%A3o_de_loureiro_lido_na_sess%C3%A3o_solemne_da_academia_real_das).

2. Joana Mestre Costa, Nair Castro Soares, João Manuel Torrão, Jorge Paiva; “The Flora Cochinchinensis of João de Loureirostill breaking new ground in science”. Có thể xem tại (https://www.ua.pt/cllc/page/18678)

3. E. D. Merrill, 1933, Loureiro and His Botanical Work, Proceedings of the American Philosophical Society, Vol. 72, No. 4, pp. 229-239 (http://www.jstor.org/stable/984687)Truy cập ngày 15/7/2018

4. Joaquim Magalhães de Castro, 2016. João de Loureiro, the botanist from Asia (1) http://www.oclarim.com.mo/en/2016/05/20/joao-de-loureiro-the-botanist-from-asia-1/, & (2): http://www.oclarim.com.mo/en/2016/05/27/joao-de-loureiro-the-botanist-from-asia-2/. Truy cập ngày 20/7/2018

5. The Jesuits: Cultures, Sciences, and the Arts, 1540-1773, Volume 1, edited by John W. O'Malley, Gauvin Alexander Bailey, Steven J. Harris, T. Frank Kennedy, T Frank Kennedy, S J; University of Toronto Press, 1999.

6. Alexei Volkov, Evangelization, politics and technology transfer in 17th century Cochinchina: The case of Joao da Cruz, in: Portugal and East Asia IV, Europe and China: Science and the Art in the 17th and 18thCenturies, World Scientific Publishing Co. Pte. Ltd. 2013. P. 31- 67



[1]Thuật ngữ “Đạo chúa Jesus” được dùng theo cách gọi của tác giả: Trần Văn Toàn, Ðạo Thiên Chúa, đạo Gia Tô, đạo Cơ Ðốc, đạo Công giáo? Nên gọi thế nào cho chính danh? Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, Hà Nội, số 4. 2003

[2]Về số giáo sĩ Bồ Đào Nha đến truyền giáo ở Việt Nam có những con số khác nhau:

- Theo Đỗ Quang Chính: Từ năm 1615 đến 1788 có 145 tu sĩ Dòng Tên thuộc 17 quốc tịch đến truyền giáo ở Việt Nam (không kể 31 tu sĩ Dòng Tên người Việt Nam), trong đó có 74 người Bồ Đào Nha. Xem: Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Nhà xuất bản Tôn Giáo 2008, tr.26.

- Còn theo chú thích 31 (tr.39) của cuốn sách “Những người Bồ Đào Nha tiên phong trong lĩnh vực Việt ngữ học (cho đến 1650), Nhà xuất bản khoa học Xã hội 2007”, Roland Jacques viết: “Năm 1623, trên tổng số 65 linh mục có 38 người Bồ Đào Nha, 15 người Ý, 7 người Nhật, 4 người Castillan (Tây Ban Nha) và 1 người Pháp.”

- Nhưng trong phần viết “Bồ Đào Nha và chữ Quốc ngữ” đăng tải trên trang mạng BBC bằng tiếng Việt, Roland Jacques lại viết: “Vào năm 1658,…, thì bấy giờ đã có gần 70 nhà truyền giáo với tám quốc tịch khác nhau kế tiếp đến Việt Nam, trong đó có 35 người Bồ Ðào Nha, 19 người Ý và 7 người Nhật Bản.” (https://www.bbc.com/vietnamese/specials/1232_jacques_roland/page3.shtml)

[3]Các tư liệu có được đã nhắc đến một số Giáo sĩ phương tây từng phục vụ như là những nhà vật lý hoàng gia ở Huế, trong đó có Bartolomeu da Costa (hay d’Acosta) (1629?-1695?), Giambattista Sanna (1682-1726), Sesbastien (hay Etienne?) Pirès (vào những năm 1720), Johann Siebert (1708-1745), Karl Slamenski (1708?-1746), Johann Koffler (1711-1785). Xem: Alexei Volkov, Evangelization, politics, and technology transfer in 17th -century Cochinchina: the case of João da Cruz, trong sách: Europe and China: Science and Art in the 17th and 18th Centuries, Luis Saraiva edited, World Scientific 2013, p.31-69. Xem thêm: Vũ Đức Liêm, “Tái định vị xứ Đàng Trong trong không gian Đông Á và Đông Nam Á, thế kỷ XVI-XVIII”, in trong: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 4 (130). 2016, tr.12-42. (http://www.vjol.info/index.php/ncpt-hue/article/viewFile/25874/22726) Truy cập ngày 19/7/2018

[4]Ngày 6.5.1750 sắc lệnh cấm đạo do Võ Vương tức Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) ban hành. Sắc lệnh viết: “Bắt tất cả các thày giảng đang ở các sở truyền giáo, tịch thu các tài sản của các thừa sai Âu châu, nếu có gì đáng giá thì đưa về kinh đô, còn lại phải lưu trữ cho đến khi có lệnh. Còn đất đai, theo lệnh của nhà vương, sẽ làm của chung trong làng.” Dẫn theo: https://vinhsonferrio.wordpress.com/2014/05/13/cac-van-kien-cam-dao-trong-lich-su-viet-nam/

[5]Đó là sách Species Plantarum (Các loài thực vật) của Carl Linnaeus(tiếng Thụy Điển:Carl von Linné), được xuất bản lần đầu tiên năm 1753

[6]Loureiro, Joao de, 1793. Flora Cochinchinensis. Edited and added notes by Caroli Ludovici Willdenow; Bernolini (Berlin).

[7]Bài viết này đã được dịch sang tiếng Anh với tiêu đề: «On the nature and mode of production of Agallochum or aloes-wood», in trong sách: Tracts relative to botany, traanslated from different languages, London.1805, tr. 75-90. Có thể xem tại: https://www.biodiversitylibrary.org/item/97382#page/96/mode/1up

[9]Dẫn theo Oscar Salemin, “The Ethnography of Vietnam’s Central Highlanders: A Historical Contextualization, 1850-1900”, University of Hawai’i Press, Honolulu 2003. Tuy nhiên, trong một bài đăng trên mạng, tác giả Nguyễn Văn Huy viết rằng: “Trong thế kỷ 18, giáo sĩ João de Loureiro xuất bản cuốn De nigris Moi et Champanensibus (Người Mọi đen và Champa)”. Xem (https://nghiencuulichsu.com/2016/08/31/cong-dong-nguoi-thuong-tren-cao-nguyen-mien-trung/). Truy cập ngày 19/7/2018.

[10]Có thể đọc cuốn sách này từ các trang mạng được chỉ ra tại: https://www.univie.ac.at/Geschichte/China-Bibliographie/blog/2010/05/16/loureiro-flora-cochinchinensis/

[11]Ít nhất có 52 tên Latin với từ Cochinchinensis đi kèm trong TVĐT

[12]http://www.oclarim.com.mo/en/2018/02/02/homage-to-the-priest-and-the-martyr-conference-on-relations-between-portugal-and-vietnam/

[13]University of Toronto Press, 1999 do John W. O'Malley, Gauvin Alexander Bailey, Steven J. Harris, T. Frank Kennedy, T Frank Kennedy, S J, Steven biên tập, tr.213

[14]http://www.vast.ac.vn/tin-tuc-su-kien/tin-vien/1577-gia-tri-khoa-hoc-va-lich-su-cua-bao-tang-thuc-vat-hon-100-nam-tuoi

[16]J. L. Taberd, Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị- Dictionarium Anamitico-Latinum, Nhà xuất bản Văn học & Trung tâm nghiên cứu quốc học, in lại năm 2004, tr. 621-658.

[17]Có thể kể cả từ điển “Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị- Dictionarium Anamitico-Latinum” của J. L. Taberd, vì dù nó được xuất bản năm 1838, song về cơ bản vẫn dựa trên bản thảo năm 1772 của de Béhaine.

[18]Ví dụ: “Nhật trình kim thư khất chính chúa giáo” (1799) và “Sách sổ sang chép các việc” (1882).

[19]Haudricourt, André-Georges, The two b’s in the Vietnamese dictionary of Alexandre de Rhodes (1974), translated by Alexis Michaud (xem: https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-01631486/document)

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 14.9.2018.

20180425 HN thu muc

Ảnh: Trích văn bản Thư mục sách chữ Hán của Việt Nam ở Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp của GS. Matsumoto Nobuhiro

 

Như chúng ta đã biết, kho sách Hán Nôm hiện lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm (VHN) được tổng hợp từ nhiều nguồn, trong đó chủ yếu là nguồn từ Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp (gọi tắt là Học viện), và nguồn sách từ các thư viện khác. Sách của Học viện thuộc phân kho A, với các ký hiệu A, AB, AC, AD, AE, AF, AG, AH, AJ; Sách từ các thư viện khác thuộc phân kho V, với các ký hiệu VHv, VHb, VHt, VNb, VNv. Trong Di sản Hán Nôm - Thư mục Đề yếu (gọi tắt là Thư mục Đề yếu)(1), ở bài Dẫn luận phần Lịch sử thư mục học Hán Nôm, PGS. Trần Nghĩa cũng đã điểm qua các công trình thư mục sách Hán Nôm được biết tới cho đến ngày nay, trong đó có công trình Thư mục sách chữ Hán của Việt Nam ở Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp của GS. Matsumoto Nobuhiro松本信廣(Hanoi Bukkoku kyokuto gakuin shozo Ananbon shomoku 河內佛國極東學院所 藏安南本書目)(2). Gần đây, nhân tiếp xúc với Thư mục này, chúng tôi có dịp tìm hiểu về kho sách chữ Hán của Việt Nam ở Học viện vào thời điểm năm 1933 khi GS. Matsumoto Nobuhiro sang Việt Nam nhờ người sao chép thư mục tại Học viện đưa về in tại Nhật Bản. Bài viết dưới đây xin trình bày vài nét về Thư mục nói trên của GS. Matsumoto Nobuhiro; điểm qua tình hình kho sách chữ Hán ở Học viện (phân kho A) lúc bấy giờ cùng sự thay đổi của kho sách này tính đến thời điểm năm 1980 khi kho sách Hán Nôm được Viện Thông tin KHXH Việt Nam giao cho Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu giữ.

1. VỀ THƯ MỤC CỦA GS.MATSUMOTO NOBUHIRO

1.1. Tiểu sử GS. Matsumoto Nobuhiro

GS. Matsumoto Nobuhi ro sinh ngày 11 tháng 11 năm Meiji (Minh Trị) thứ 30 (1897) tại Tokyo. Sau ba năm kể từ khi tốt nghiệp khoa Văn, chuyên ngành Sử học tại Đại học Keio tháng 3 năm 1920, vào năm 1924 ông sang Pháp du học tại trường Đại học Sorbonne của Pháp, lấy bằng Tiến sĩ Docteures lettres với Luận văn chính là Le Japonais et les langues austroaiatiques, và luận văn phụ là Recherches sur quelques themes de la mythologie japonaise. Sau khi trở về nước, GS. Matsumoto Nobuhiro tiếp tục giảng dạy tại trường Đại học Keio Gijuku Daigaku (Khánh Ứng Nghĩa Thục Đại học). Năm 1933, nhân chuyến đi điều tra nghiên cứu về Đông Dương, thuộc địa của Pháp, ông đã tới các tỉnh Hải Phòng, Hà Nội, Cao Bằng, Huế, Hội An. Trong thời gian này, ông đã đến Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp và các thư viện ở Kinh thành Huế để điều tra sử liệu, tìm hiểu các ván khắc in sách theo sắc lệnh của nhà vua và làm việc với Thượng thư Phạm Quỳnh về việc cho phép Nhật Bản in bộ Đại Nam thực lục. Mặc dù đã được Thượng thư Phạm Quỳnh đồng ý, "Sau này nếu có cơ hội, chúng tôi sẽ cho phép các ngài cùng in bộ sách đó", song, kế hoạch đó bấy giờ không thực hiện được. Năm 1934, GS. Matsumoto cho in bộ Thư mục sách Hán Nôm của trường Viễn đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội. Cùng năm, nhờ sự giúp đỡ của hai người làm việc tại Học viện là ngài Coedes và ngài Gaspardonne, ông tiếp tục điều đình với triều đình Huế và được phép mang 6 bộ sách Đại Nam thực lục về in tại Nhật Bản.

Ngoài Việt Nam, ông còn tham gia điều tra dân tộc học ở quần đảo Nam Á như Mariana, Palau, New Guinea; Điều tra di lích lịch sử ở Trung Quốc. Với những đóng góp khoa học thực sự có giá trị, vào năm 1955, ông được chính phủ Pháp tặng thưởng huân chương Les palmes academiques. Từ năm 1957 đến 1958, ông dẫn đầu đoàn Hiệp hội dân tộc học Nhật Bản tới các nước Thái Lan, Lào và Campuchia để điều tra tổng hợp về văn hóa dân tộc các nước nông nghiệp ở Đông Nam Á. Sau khi trở về nước ông giữ chức vụ Trưởng khoa khoa Văn học thuộc Đại học Keio. Năm 1961 đến 1981, ông phụ trách theo dõi việc in ấn bộ Đại Nam thực lục tại Nhật Bản. Năm 1969, ông được bầu giữ chức Viện trưởng Viện nghiên cứu Ngôn ngữ Văn hóa Đại học Keio. Năm 1969, ông thôi chức, sau đó được bầu làm Giáo sư danh dự Đại học Keio. Ông mất năm 1981, thọ 83 tuổi.

Những trước tác chủ yếu: Nghiên cứu về thần thoại Nhật Bản. In năm 1931; Các dân tộc Đông Dương và văn hóa, in năm 1942; Nghiên cứu về Đông Dương, in năm 1965; Khảo luận về văn hóa các dân tộc Đông Á, in năm 1967; Khởi nguồn của văn hóa dân tộc Nhật Bản, in năm 1978 (3).

1.2. Vài nét về thư mục sách chữ Hán ở Học viện của GS.Matsumoto Nobuhiro

Theo Lời Tựa(4) in sau bản Thư mục, GS. Matsumoto Nobuhiro cho biết: "Thư mục này vốn là Thư mục sách An Nam do Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp (Ecole Fran sai se d'Extrême - Orient) lưu trữ. Học viện này do người Pháp thành lập vào năm 1901 tại Sài Gòn và năm sau (1902) chuyển ra Hà Nội với mục đích nghiên cứu mang tính Khảo cổ học, Ngôn ngữ học các nước Ấn Độ, Trung Quốc và các nước lân bang. Sách Hán Nôm (An Nam bản) do nhiều nguồn cung cấp. Trước hết là sách do ngài P.Pelliot và rất nhiều thành viên Trung Quốc học khác của Học viện tích cực sưu tầm khi họ đảm trách công việc ở Học viện; thứ hai là sách được sao chép từ Thư viện Nội các ở triều đình Huế; tiếp đó là các sách được in lại từ các ván khắc của Sử quán; Sách được thu mua từ nơi khác; Sách sao chép, chân hóa từ các bản chép thảo. Theo thống kê vào năm 1930, sách Hán Nôm ở Học viện được chia làm ba loại.

- Ký hiệu A là các sách viết bằng chữ Hán của Việt Nam, gồm 2528 bộ, 2821 sách.

- Ký hiệu AB là gồm các sách viết bằng chữ Nôm, gồm 561 bộ, 570 sách.

- Ký hiệu AC là các sách sao chép hoặc in lại của Trung Quốc, gồm 351 bộ, 530 sách.

Tổng cộng là 3440 bộ, 3921 sách.

Ngoài ra còn khoảng 2273 bộ sách tục lệ và sắc văn được sưu tầm. Do lo sợ khí hậu nhiệt đới ẩm thấp và mối mọt làm hỏng sách, Học viện đã cho đóng toàn bộ số sách Hán Nôm nói trên theo lối sách phương Tây vài cuốn làm một rồi xếp đứng trên giá sách. Học viện còn có sổ ghi chép ký hiệu khi nhập kho tựa như một thư mục và mục lục tủ phiếu để tra cứu".

GS. Matsumoto cho biết, "Vào tháng 8 năm 1933, khi sang Hà Nội, tôi đã nhờ ông Trịnh Văn Cự, nhân viên làm thuê của Học viện chép lại thư mục sách của những người làm trước đây mang về Nhật Bản, phân loại rồi cho in, đó chính là bộ thư mục sách Hán Nôm này. Nhìn vào thư mục, chúng ta cũng có thể biết đây là một trong ba loại sách Hán Nôm được các học giả trước đây phân loại". GS. Matsumoto cũng cho biết thêm: "về thư mục sách Hán Nôm có lẽ phải kể đến công trình: Nghiên cứu đầu tiên về lịch sử An Nam qua tư liệu Hán Nôm của hai học giả người Pháp là Pelliot và L.Cadiére (L.Cadiére et P.Pelliot Première Etudesur les sources annamites de I'histoire d'Annan B.E.F.E.O, IV, 1904)(5), song theo tôi, công trình này mới chỉ nêu được 175 bộ sách mà thôi. Ở thời điểm 1910, Tạp chí của Học viện đăng tải khá nhiều sách bổ sung thêm sau này, và một số sách mới chỉ được biết đến qua tên sách. Từ sau khi sách Đại Việt sử ký được in vào năm Meiji (Minh Trị) thứ 17 (1884) cho đến thời điểm lúc bấy giờ, học giới Nhật Bản hầu như còn chưa biết đến sự tồn tại sách Hán Nôm, vì hầu như Nhật Bản không có sự giao thiệp với thư chí học An Nam". Cũng theo GS. Matsumoto, "sự ra đời của bộ thư mục này là sự may mắn, bởi nó đã có thể giới thiệu kho sách Hán Nôm của Việt Nam với các học giả Nhật Bản. Bộ thư mục này in lại toàn bộ theo mục lục sách Hán Nôm của Học viện Bác cổ Pháp và nhờ đó việc nghiên cứu sách Hán Nôm, việc sưu tầm sách Hán Nôm đã ít nhiều được thuận lợi hơn. Việc Nhật Bản cho ra đời bộ thư mục sách chữ Hán ở EFEO trong lúc Học viện Bác cổ Pháp chưa xuất bản được quả thực là việc làm rất đáng khích lệ, song cũng phải nói rằng, bộ thư mục này được xuất bản một phần phải nhờ vào sự cho phép của ngài Gaspardonne, nhân viên học viện, bởi thực ra trong thâm tâm ngài cũng muốn bộ thư mục này được in vì sự cần thiết của nó cho việc nghiên cứu sách Hán Nôm của mình, dù sao tôi cũng thành thật xin ngài Gaspadonne tha thứ". GS. Matsumoto cũng cho hay, "dự định ban đầu là biên soạn An Nam văn hiến mục lục, tiếp theo đó là đăng tải các thư mục sách ở thư viện triều đình Thuận Hóa (Huế). Trong khi thư mục này đang in thì thông tin từ Hà Nội đã cho biết Thư mục Eibliog raphie annamite của ngài Gaspadonne đã hoàn thành. Sự ra đời của bộ thư mục này thực sự đã giải tỏa khát vọng nhiều năm qua của tôi đối với thư chí học An Nam".

Qua Lời Tựa của GS. Mat sumoto khi bộ thư mục được in tại Nhật Bản vào năm 1934, chúng ta đã biết, bộ thư mục này đăng tải toàn bộ kho sách chữ Hán, mang ký hiệu A, được Học viện Bác cổ Pháp lưu trữ lúc bấy giờ (1933) tại Hà Nội. Để tiện cho việc tra cứu, GS. Matsumoto đã xếp tên sách theo thứ tự từ một nét đến hai mươi tám nét của chữ Hán đầu tiên ở tên sách. Ngoài 7 trang là Bảng tra tên sách theo nét chữ, số còn lại 80 trang chính văn, đăng tải 2815 tên sách. Mỗi đơn vị sách được chia làm 3 phần: thứ nhất, ký hiệu thư viện được xếp trước, tiếp đó là tên sách, cuối cùng là số lượng, một bản hay nhiều bản, một trật hay nhiều trật. Do đăng tải toàn bộ kho sách có ký hiệu A, nên trong thư mục GS.Mat sumoto đã lược bỏ, chỉ ghi ký hiệu thư viện bằng chữ Hán. Trong mục một nét hay hai nét trở lên còn phân theo bộ.

Ví dụ:

Nhất họa 一 畫 (Một nét)

Nhất bộ 一 部 (Bộ Nhất)

Nhị tứ tứ lục, nhất thời lễ tụng nhật dụng hành trì tập yếu chư nghi, nhất bản

二 四 四 六, 一 時 禮 誦 日 用 行 持 集 要 諸 儀 , 一 本

(2446, nhất thời lễ dụng hành trì tập yếu chư nghi, một bản).

Tam họa 三 畫 (Ba nét)

Đại bộ 大 部 (Bộ Đại)

Ngũ tam bát, Đại vương sự tích, nhất bản .

五 三 八 , 大 王事 跡, 一 本

(538, Đại vương sự tích, một bản)

....

Tam bộ 三 部 (Bộ tam)

Nhất nhị bát lục, tam chi việt tạp thảo, nhất bản.

一 二 八 六 , 三之 越 雜 草, 一 本

(1276, Tam chi việt tạp thảo, một bản)

....

Sau khi sắp xếp lại toàn bộ số ký hiệu thư viện của Thư mục Matsumoto theo thứ tự tăng dần, chúng tôi đã thống kê được cả thảy 2815 đầu sách, mỗi đầu sách là một số ký hiệu, trong đó bao gồm cả dị bản. Ví dụ sách Bạch Vân am thi tập có 5 ký hiệu: A.2591, A.1350, A.2256, A.296 và A.2031. Như vậy, tính đến thời điểm năm 1933, số sách của kho A đã có số ký hiệu từ A.1 đến A.2815, bắt đầu bằng cuốn Khâm định Việt sử thông giám cương mục (ký hiệu A.1) đến Nam Việt dư địa chí (ký hiệu A.2815). Từ số A.2816 trở đi đến ký hiệu cuối cùng A.3231 là sách được bổ sung sau đó, tính đến thời điểm năm 1980 - năm Viện thông tin KHXH bàn giao kho sách Hán Nôm cho Viện Hán Nôm.

Để tìm hiểu thêm về thông tin về số sách được bàn giao cho Viện Hán Nôm vào thời điểm trên, chúng tôi may mắn được biết Viện Hán Nôm hiện còn lưu giữ ba cuốn sổ (tạm gọi là Sổ đăng ký) tên sách hai phân kho: phân kho A có hai cuốn, ký hiệu VHc.2976 và VHc.2978 và phân kho AB có một cuốn, ký hiệu VHc.2977(6). Ba cuốn sổ này có lẽ được các cụ túc nho bấy giờ sao chép lại từ cuốn sổ cái(7) của Học viện mà GS. Matsumoto đã đề cập đến trong Lời Tựa. Sau khi đối chiếu toàn bộ 2815 đầu sách ở Thư mục Matsumoto với số sách ở Sổ đăng ký (kho A), chúng tôi thấy ngoại trừ một số nhầm lẫn (có thể sai sót do in ấn, ví dụ sách Bảo triện Trần tiến sĩ thi thảo, ký hiệu 207, song Thư mục Matsumoto lại in thành 307; hay một số tên sách có sự xê xích về câu chữ, ví dụ sách Nam phú soạn tuyển , ký hiệu A.240, song Thư mục của Matsumoto chỉ ghi Nam phú soạnQuế Đường di tập, ký hiệu A.270, thư mục của Matsumoto lại ghi là Quế Đường thi tập...), thì Thư mục của Matsumoto hầu như in lại nguyên vẹn theo đúng số ký hiệu, tên sách, số bản, số trật theo như hai cuốn sổ đăng ký nói trên. Thậm chí, rất nhiều tên sách ở Thư mục Đề yếu đã thay đổi, song không có sự thay đổi ở Sổ đăng ký và Thư mục Matsumoto. Ví dụ:

Ký hiệu Thư mục Đề yếu Thư mục Matsumoto và Sổ đăng ký Ghi chú
A.72 Phương Đình địa chí loại 方亭地志類 (Đại Việt địa dư toàn biên 大越地輿全編 ) Phương đình địa dư toàn biên 方亭地輿全編
A.75 Nam quốc địa dư 南國地輿 Tân đính Nam quốc địa dư 新訂南國地輿
A.77 Đại Việt cổ kim diên cách địa chí khảo 大越古今沿革地志考 Đại Việt diên cách địa chí khảo 大越沿革地志考 Sổ đăng ký viết "diên" thành "duyên"
A.95 Nam Bắc kì hội đồ 南北圻繪圖 Nam kì đồ hội 南圻圖繪
A.103 Hải đông chí lược 海東志略 Hải đông nhân vật chí 海東人物志
A.110 Tụ Khuê thư viện tổng mục 聚奎書院總目 Tụ Khuê thư viện tổng mục bản triều thư 聚奎書院總目本朝書
A.125 Trang Liệt văn sách 莊烈文策 Trang Liệt văn tập 莊烈文集
A.126 Khâm định đối sách chuẩn thằng 欽定對策準繩 Đối sách chuẩn thằng 對策準繩

...

Như vậy, bước đầu có thể cho rằng, thư mục của GS. Matsumoto đã in lại thư mục trước đây của Học viện đúng như ông đề cập tới trong Lời Tựa. Sổ đăng ký hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã sao chép lại hầu như nguyên vẹn thư mục của Học viện ở thời điểm năm 1933.

2. KHO SÁCH CHỮ HÁN CỦA HỌC VIỆN Ở THỜI ĐIỂM 1933 SO VỚI PHÂN KHO A CỦA VHN

2.1. Vài nét về kho sách Hán Nôm tại Học viện

Thành lập vào năm 1901 tại Sài Gòn, năm sau 1902 chuyển ra Hà Nội, Học viện Viễn đông bác cổ Pháp mà tiền thân là các hội, các nhóm nghiên cứu sử học, khảo cổ học, xã hội học, bi ký học đã bắt tay vào việc xây dựng thư viện. Do yêu cầu chuyên môn lúc bấy giờ nên đối tượng sưu tầm của họ chủ yếu là các sách lịch sử. Về sau phát triển thêm nhiều bộ môn, trong đó có ngữ văn học nên đối tượng sưu tầm phong phú hơn. Để tránh tình trạng độc bản, Học viện cũng chủ trương bổ sung thêm dị bản bằng cách sưu tầm hoặc sao chép thêm(8). Đúng như GS. Matsumoto Nobuhiro trong Lời Tựa cho biết, sách của Học viện được hình thành từ nhiều nguồn, trong đó có nguồn sách được sao chép từ Thư viện Nội các ở triều đình Huế; tiếp đó là các sách được in lại từ các ván khắc của Sử quán; sách được thu mua từ nơi khác; sách sao chép, chân hóa từ các bản chép thảo. Theo Yao Takao, sau khi Học viện được thành lập, các ông P.Perio, E. Gaspardone và L.Kdier đã điều tra kho thư tịch của triều đình nhà Nguyễn ở Huế, đưa một số bộ sách về lưu trữ tại Thư viện của Học viện, cho sao chép một số sách vở tư liệu quan trọng, cho người giỏi chữ Hán đi sưu tầm thư tịch ở các địa phương, trong đó có cả "cổ chỉ", là những sách ghi chép khi đi điền dã lúc bấy giờ(9). Phan Thuận An cũng cho hay, cho đến năm 1942 , tại Thư viện Sử quán, "Paul Boudet còn đọc được tại đây nhiều tư liệu gốc từ thời các chúa Nguyễn và các vua đầu triều Nguyễn để lại". Khi giới thiệu về Thư viện Bảo Đại, ông còn cho biết thêm: "Một số chuyên viên Hán học của Trường Viễn đông Bác cổ Pháp (E.F.E.O) tại Hà Nội đã từng vào thư viện này (tức thư viện Bảo Đại) để sao chép nhiều tư liệu quý hiếm(10). Học giả Đào Duy Anh cũng đã từng ghi nhận rằng: "Về phương diện tài liệu Việt Nam thì ở Huế có thư viện Bảo Đại chứa những sách cũ của Nội các trong Hoàng thành được tập hợp từ đời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức. Kể tài liệu chính thức về lịch sử nhà Nguyễn thì thư viện ấy có tương đối đầy đủ"(11).

Ngoài ra, nhà trường cũng chủ trương sao chép các sách quan trọng từ kho của triều đình nhà Nguyễn nên số sách sao chép được có lẽ chủ yếu từ nguồn sách ở thư viện Nội các triều đình Huế. Theo học giả Đào Duy Anh nhận định, trong số 6 thư viện ở Huế, Thư viện Bảo Đại mà tiền thân là thư viện Nội các sau đổi thành Tân thư viện và thư viện Bảo Đại lưu giữ nhiều sách cũ của Nội các trong Hoàng thành được tập hợp từ đời Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức, vì vậy sách được sao chép, in ấn từ nguồn này có nhiều giá trị. Do chính sách thu mua với giá cao đối với các sách có liên quan đến lịch sử và dân tộc học nên Thư viện của Học viện cũng đã tập trung được một số lượng lớn các sách quý hiếm. Thực tế những bộ sách lớn, có giá trị nhất như Đại Việt sử ký toàn thư (A.3/1-4); Đại Việt sử ký tiền biên (A.2/1-7); Đại Việt thông sử (A.1389); Lịch triều hiến chương loại chí (A.1551/1-8); Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (A.54/1-3); Đại Nam nhất thống chí (A69/1-9); Đại Nam thực lục (A.2772/1-66); Đồng Khánh địa dư chí (A.537/1-24)... đều có mặt ở kho A; các sách được các học giả đi trước giám định và giới thiệu như: Đăng khoa lục (A.1785) và Lịch đại đăng khoa lục (A.2119)(12); Việt âm thi tập (A.1925); Toàn Việt thi lục (A.1262)(13)...; Một số sách tục lệ, hương ước có giá trị như Đại Phùng tổng khoán ước (A.2875), sao chép 6 điều khoản của hương ước năm Hồng Đức thứ 6 (1487)(14); Dương Liễu, Quế Dương Mậu Hòa đẳng xã giao tục lệ (A.2855)(15), sao chép khoán ước vào các năm 1667, 1691, 1739... cũng đều thuộc kho A. Theo thống kê của chúng tôi, trong 264 sách gia phả hiện lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm, phần lớn đều thuộc kho A (16)... (17).

Theo công bố của ông Giám đốc Học viện Louis Mallert nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Học viện vào năm 1951, số sách vở, tư liệu Hán Nôm hiện có tại Thư viện của Học viện gồm 3.500 sách Hán Nôm, 25.00 bản rập văn bia, 1800 bản tra truyện cổ tích, địa bạ, phong tục, 457 tập thần phả, 132 tập thần sắc(18). Với số lượng đồ sộ tư liệu Hán Nôm được thu thập vào những năm đầu thế kỷ XX, Học viện Viễn đông Bác cổ Pháp thực sự đã có công lao rất lớn trong việc sưu tầm, sao chép sách vở, tư liệu Hán Nôm của Việt Nam. Học viện đã trở thành trung tâm lưu trữ sách vở Hán Nôm lớn nhất với nhiều sách vở tư liệu có giá trị mà không có thư viện nào bấy giờ có đủ điều kiện và kinh phí để thực hiện.

2.2. Kho sách chữ Hán của Học viện qua đối chiếu với phân kho A của Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Qua biến cố lịch sử và nhiều lần chuyển giao, kho sách chữ Hán của Học viện khi chuyển tới lưu trữ tại Viện Hán Nôm đã không còn nguyên vẹn như trước. Đối chiếu với phân kho A của Viện Hán Nôm, chúng tôi thấy sự thay đổi đáng tiếc đầu tiên là khoảng 10 % số sách của Học viện không còn thấy trong phân kho A của Viện Hán Nôm. Trong số sách hiện chưa tìm thấy, khá nhiều tác phẩm có giá trị như: Lam Sơn thực lục, ký hiệu A.1538; Ức Trai di tập, A.2666; Thiền uyển tập anh ngữ lục A.2670; Lĩnh Nam chích quái A.749, A.1920; Hoàng Việt văn tuyển A.903; Tây Sơn liệt truyện A.380; Quốc triều thực lục toát yếu A.28; Bình Tây, Bình Hưng, Bình Ninh thực lục A.29; Bản thảo ấu khoa, ký hiệu 1537; Tư thiên gia truyền thư, ký hiệu A.1539.... Có những sách mất từ trước thời điểm 1963, được các cụ ghi chú khi sao chép vào sổ đăng ký. Ví dụ: sách Bình Tây, Bình Hưng, Bình Ninh thực lục A.29; Bắc Ninh cổ tích A.86; Tiêm La sự tích A.105; Đồ Bàn thành ký A.108; Việt sử tứ tự A.170... Trong số sách hiện chưa tìm thấy, rất may có sách còn dị bản, song cũng có sách hiện giờ chỉ để lại tên, khó có khả năng tìm thấy. Ví dụ sách Lê triều tạp chí, ký hiệu A.20; Lê quý kỉ sự A.21; Tiêm La sự tích A.105; Đồ Thành bàn ký A.108; Việt sử tứ tựPhan Châu Trinh đầu Pháp chính phủ thư A.183; Tâm thanh tồn duy A.197; Binh gia yếu lược A.564; Phạm Thận Duật tấu tập A.1096... (chúng tôi sẽ có bảng thống kê chi tiết sau).

Thứ hai: số sách không trùng hợp tên sách, chiếm một tỉ lệ khá lớn. Qua đối chiếu với sách gốc hiện lưu giữ tại kho, chúng tôi thấy, số lượng tên sách viết tắt ở Thư mục của Matsumoto và Sổ đăng ký khá nhiều, điều này dẫn đến nhầm lẫn, khó tra cứu. Có thể nêu một số thí dụ:

Bảng đối chiếu tên sách gốc với Thư mục Đề yếu và Thư mục Matsumoto

Ký hiệu Tên sách gốc Thư mục Đề yếu Thư mục Matsumoto và Sổ đăng ký
A.924 Thượng Phúc Nhân Hiền Nguyễn tướng công thế phả上福仁賢阮相公世譜 (*) Thượng Phúc Nguyễn tướng công thế phả上福阮相公世譜
A.721 Thượng Cát xã hương lệ上葛社鄉例 Thượng Cát hương lệ上葛鄉例
A.2340 Lục Nhâm đại độn tất pháp chính văn六壬大遁畢法正文 Lục Nhâm đại độn六壬大遁
A.1362 Thiên hạ bản đồ tổng lục đại toàn天下版圖總錄大全 Thiên hạ bản đồ tổng mục lục đại toàn (**) 天下版圖總目錄大全
A.1958 Thiên Nam tứ tự kinh天南四字經 Thiên Nam tứ tự天南四字
A.461 Thiên Nam địa giám bảo thư địa lí chính tông Tả Ao đính tập天南地鑑寶寶書地理正宗左幼訂集 Thiên Nam địa giám bảo thư 天南地鑑寶寶書
A.952 Thiên Nam hình thắng minh lương di mặc lục天南形勝明良遺墨錄 Thiên Nam hình thắng minh lương dimặc 天南形勝明良遺墨
A.282 Ngũ tuần đại khánh tiết hàn lâm văn thảo五旬大慶節翰林文草 Ngũ tuần khánh tiết văn thảo五旬大慶節文草
A.2348 Nhâm Ngọ Ân khoa hội thí壬午恩科會試 Nhâm Ngọ Ân khoa hội thí văn sao壬午恩科會試文抄
A.1102 Mộc lang kì vũ chú tịnh bản triều sự lược木郎祈雨咒並本朝事略 Mộc lang kì vũ tịnh bản triều sự lược 木郎祈雨並本朝事略
A.130 Bắc sử phú北史賦 Bắc sử phú phụ Nam sử北史賦附南史
A.81 Bắc thành địa dư chí lục北城地輿誌錄 Bắc thành địa dư北城地輿
A.245 Bắc minh sồ vũ ngẫu lục 北溟雛羽偶錄 Bắc minh sồ vũ 北溟雛羽
A.260 Cổ kim giao thiệp sự nghi thông khảo 古今交涉事宜通考 Cổ kim giao thiệp sự nghi khảo古今交涉事宜考

Ghi chú:(*) Phần ô trống: đúng theo sách gốc. (**) Chữ "mục" trong sách gốc có dấu hiệu bỏ.

Thứ ba, một số ký hiệu theo Thư mục của Matsumoto, hiện còn lưu giữ ở trong kho, song không thấy xuất hiện ở Thư mục Đề yếu. Ví dụ: Đại Việt sử ký toàn thư, ký hiệu A.7; Việt Nam thần từ khảo chính bi kýA.46; Quan chế điển lệ A.56; Đại Nam nhất thống dư đồ A.68; Vũ trung tùy bút A.145; La Khê y phương A.164; Sĩ hoạn tu tri tiệp lục A.246; Sĩ hoạn tu tri A.246; Quảng Nam tỉnh chí lược A.268; Cẩm Khê phong tục chíA.269; Việt sử biên niên toát yếu A.328; Triều thần biểu tạ A.346; Thăng Long tam thập lục vịnh A.378; Quế Sơn thi tập A.469; Thông quốc điền số thổ số A.484; Đại Vương sự tích A.538; Thông ước hòa ước A.542; Đông Khê thi tập A.578; Thính văn dị lục A.593; Sĩ hoạn châm quy A.594; Nghệ An ký A.607(19); Thánh Tông Thuần hoàng đế thi tập A.698; Hạ trướng văn tập A.836; Tử Dương xã tục lệ A.877... (chúng tôi sẽ có bảng thống kê chi tiết sau).

Thứ tư: Một số ký hiệu thư viện ở Thư mục của Matsumoto và Thư mục Đề yếu khác nhau. Sau khi kiểm tra lại sách gốc, chúng tôi cho rằng Thư mục Đề yếu đã nhầm lẫn (có lẽ sai sót do đánh máy). Xem thêm bảng thống kê danh mục sách có ký hiệu nhầm lẫn dưới đây.

Bảng thống kê danh mục sách có ký hiệu nhầm lẫn trong Thư mục Đề yếu

TT Tên sách Ký hiệu Ký hiệu đúng Ghi chú
1 Canh Tý Ân khoa văn tuyển更子恩科文選 A.479 A.474 A.479: Liệt miếu huy hiệu M.(*) đề là Liệt thánh miếu huy hiệu
2 Địa lý tiện lãm地里便覽 A.650 A.605 A.650: Nguyệt Áng Lưu tộc thế phả
3 Hoa trình ngẫu bút lục 華程偶筆錄 A.679 A.697 A.679: Văn Xá Lê tộc thế phả.
4 Tân thức luận thể hợp tuyển新式合論體合選 A.361 A.861 M. Không có chữ "hợp tuyển". A.361 là sách Trần triều văn lục
5

Thiệu Trị thuế lệ

紹治稅例

A.505 A.508 A.505 là sách Toàn Lê tiết nghĩa lục (không thấy sách)
6 Thôn học chỉ kính村學指徑 A.193 A.493 A.193 là sách Đông Dương văn tập.
7 Luận ngữ tanh hoa ấu học論語菁華幼學 A.906 A.905 M. Không có chữ "ấu học". A.906: Chiêm kê túc toàn quyển (M.); Thư mục Đề yếu không thấy sách này.
8 Lý thị gia phả李氏家譜 A.1075 A.1057 A.1075: Kim Giang thi tập
9 Thương Sơn thi tập倉山詩集 A.1469 A.1496 A.1469: Thanh Khê chuyết tập.
10 Bà Tâm huyền kính lục婆心懸鏡錄 A.2017 A.2027 A.2017: Danh hiền đăng khoa chí sĩ trướng văn.
11 Danh hiền đăng khoa chí sĩ trướng văn 名 賢 登 科 志 仕 帳 文 A.2071 A.2017 A.2071: nguyên là Văn Giang huyện Ngải Dương xã thần sắc(hiện chưa thấy)
12 Kiến tính thành Phật 見性成佛 A.2036 A.2136 A.2306: Hội đình văn tuyển.
13 Chế sắc biểu khải văn tập制敕表啟文集 A.2108 A.2106 A.2108: Đại Nam thực lục chính biên.
14 Tản Viên sơn ngọc phả傘園山玉譜 A.2305 A.2365 A.2305: Đại hóa thần kinh
15

Đại đạo kinh

大道經

A.1469 A.2469 A.1469: Thanh Khê chuyết tập
16 Lục nhâm tiện lãm六壬便覽 A.2484 A.2487 A.2484: Kính tín niệm Phật vãng sinh
17 Văn giáp xã điều lệ文甲社條例 A.2951 A.2551
18 Thánh đăng kinh聖燈經 A.2596 A.2569 M. ghi là Thánh đăng ngữ lục. A.2596: Luận ngữ tiết yếu
19 Tang lễ sự nghi喪禮事宜 A.2108 A.2618 M. ghi là Tang nghi sự nghi. A.2108: Đại Nam thực lục chính biến
20 Lê triều giáo hóa điều luật黎朝教化條律 A.1507 A.2507 M. ghi là Lê triều giáo hóa điều lệ. A.1507: Việt sử tân ước toàn biên
21 Bạch Trữ tổng Đạm Xuyên xã đinh bạ白宁 總 淡 川 社 丁 田 簿 A.2591 A.1858 A.2591: Bạch Vân am thi tập
22 Chương Dương Đỗ phả章陽杜譜 A.1557 A.1157 A.1557: Lương Đường Tiến sĩ Vũ tiên sinh trường biểu văn.
23 Y hải cầu nguyên醫海求源 A.2875 A.2785
24 Di Đà cảnh giới hạnh彌陀境界行 A.371 AB.371

M. ghi là Di Đà cảnh giới.

A.371: Thượng dụ tập

25 Trầm hương quân thứ lục沈香軍次錄 A.456 A.465 A.456: Tuyết tâm phú.
26 Cầu Đơ tỉnh nhân đinh phong tục tổng sách梂多省人丁風俗總策 A.718 A.713 M. ghi là Cầu Đơ tỉnh nhân dân phong tục tổng sách. A.718 Long Đằng phường lệ.
27 Hà Nội trường quy河內場規 A.2572 A.1257 A.2572: Cử nghiệp tân lương.

28
Bắc thư tải nam sự北書載南事 A.117 A.177 A.117: Ngô gia văn phái
29 Yên Thiều bút lục安軺筆錄 A.825 A.852 A.825: Thiên chúa chân đạo đạo dẫn giải toàn thư
30 Hương thí văn tuyển鄉試文選 A.2264 A.2264: Việt Cương tập thành. Hương thí văn tuyển không có ký hiệu A.2264.

(*) M. Tức thư mục của GS. Matsumoto Nobuhiro.

Thay cho lời kết

Thư mục của GS. Matsumoto Nobuhiro tuy chỉ là thư mục liệt kê tên sách đơn thuần, không tiến hành những thao tác có tính chất thư mục học như phân loại, mô tả, tóm lược nội dung, đánh giá tư liệu... nhằm giúp người đọc nắm bắt những thông tin quan trọng của sách, song nhờ vào thời điểm ra đời của Thư mục này mà chúng ta có thể biết chính xác số sách Hán Nôm (phân kho A) ở thời điểm năm 1933, cùng với sự thay đổi của nó qua thời gian. Bộ Thư mục này cùng với Sổ đăng ký hiện lưu trữ ở Viện Hán Nôm sẽ giúp bổ sung, đính chính những sai sót không thể tránh khỏi của bộ Thư mục Đề yếu (nếu có dịp tái bản), nhằm đáp ứng những đòi hỏi ngày một bức thiết của giới nghiên cứu trong và ngoài nước đối với việc tìm hiểu, nghiên cứu di sản Hán Nôm Việt Nam (*).

(*) Trong khi thực hiện bài viết này, chúng tôi đã được cán bộ phòng Bảo quản và Phòng đọc thuộc Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm nhiệt tình giúp đỡ. Nhân đây chúng tôi xin chân thành cảm ơn cán bộ của hai phòng trên.

Chú thích:

1. Di sản Hán Nôm - Thư mục đề yếu: Catalogue des livres en Han Nom. Đồng chủ biên: GS. Trần Nghĩa - Prof François Gros. Nxb. KHXH, H. 1933.

2. Thư mục sách chữ Hán ở Học viện Viễn đông bác cổ Pháp ở Hà Nội (Ha noi kyokuto gakuin shozo AnNambon shomoku 河內佛國極東學院所藏安南本書目). Matsumoto Nobuhiro. Nghiên cứu Sử học, quyển 13, số 4. Hội sử học Tayama xuất bản năm Showa (Chiêu Hòa) thứ 9 (1934), tr.117 đến 204.

3. Tiểu sử của GS. Matsumoto Nobuhiro do PGS. Shimao Minoru, Đại Học Keio (Khánh Ứng) tại Tokyo cung cấp. Nhân đây, chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS. Shimao Minoru.

4. Nguyên văn là "Truy ký" (Lời viết thêm).

5. Theo GS. Matsumoto Nobuhiro, Bài luận này vốn đã được Phùng Thừa Quân dịch ra Hán văn, đăng trong sách An Nam thư lục, số 1, quyển 6 do Thư viện Quốc lập Bắc Bình lưu giữ.

6. PGS. Trần Nghĩa đã cho chúng tôi biết thông tin này. Nhân đây chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ông.

7. Theo PGS. Trần Nghĩa. Cuốn sổ cái (hiện vẫn do Viện Thông tin KHXH lưu giữ) có kích thước lớn hơn ba cuốn sổ đăng ký ở Thư viện Viện Hán Nôm. Ở quyển thứ nhất, ký hiệu VHc.2976, mục sách Ngọa du sào tập, ký hiệu A.1553, có dòng chú thích: "Mất trong đợt kiểm kê 2/12/1963". Từ dòng chú thích này, chúng tôi cho rằng ba cuốn sổ đăng ký đó có thể được các cụ túc nho sao chép lại sau năm 1963, thời điểm kho sách do Thư viện KHKT Trung ương quản lý.

8. Dương Thái Minh: Vài nét về quá trình hình thành kho sách Hán Nôm hiện nay. Đăng trong Tạp chí Hán Nôm - 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản. H. 2000, tr.22-25.

9. Yao Takao: Khảo sát về việc biên soạn bộ Đại Nam nhất thống chí. Học báo lịch sử châu Á (Đại học Quốc gia Hiroshima). Số 9. 2004.

10. Phan Thuận An: Tư liệu trong các thư viện triều Nguyễn. Đăng trong Tạp chí Hán Nôm - 100 bài tuyển chọn. Viện Nghiên cứu Hán Nôm xuất bản. H. 2000, tr.86-90.

11. Đào Duy Anh: Nhớ nghĩ chiều hôm (Hồi ký). Nxb.Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 1989, tr.66. (Dẫn Theo Phan Thuận An: Tư liệu trong các thư viện triều Nguyễn. Bài đã dẫn, xem chú thích số 10.

12. Nguyễn Thúy Nga: Về hai bộ Đăng khoa lục cổ nhất hiện cònTạp chí Hán Nôm, số 1/1997, tr.12-17.

13. Trần Văn Giáp: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học sử học Việt Nam. T.I, Nxb. Văn hóa. H. 1971.

14. Shimao Mino ru: Sử liệu có liên quan đến việc tái biên hương ước ở Bắc bộ Việt Nam thời Lê. Tạp chí Hán Nôm, số 2/2002.

15. Hương ước cổ Hà Tây. Nguyễn Tá Nhí dịch. Bảo tàng tổng hợp Sở văn hóa thông tin thể thao Hà Tây xuất bản năm 1993.

16. Nguyễn Thị Oanh: Thư mục gia phả hiện lưu trữ tại Viện Hán Nôm. Bài viết cho Hội nghị quốc tế về gia phả tổ chức tại Thư viện Thượng Hải, năm 2001.

17. Nói như vậy không có nghĩa tất cả số sách thuộc phân kho A đều có giá trị, bởi theo các nhà nghiên cứu, kho sách này còn có nhiều vấn đề văn bản học. Bài viết này xin tạm gác lại vấn đề trên, hy vọng sẽ có dịp đề cập tới trong tương lai.

18. Tạp chí Asie, số 67, năm 1951. Dẫn theo Dương Thái Minh: Vài nét về quá trình hình thành kho sách Hán Nôm hiện nay. Sđd, tr.22.

19. Ở mục Nghệ An kýThư mục Đề yếu không có ký hiệu A. 607. Ký hiệu A.607 xuất hiện ở ký hiệu Microphim: Paris EFEO. MF. II/4/1519 (A.2989), (A.607)./.

LƯƠNG THỊ THU - NGUYỄN THỊ OANH

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2006 (tr.704-723), phiên bản trực tuyến.

Lê Quý Đôn (Nguồn ảnh: Internet)

Chuyến đi sứ Trung Quốc của phái đoàn Trần Huy Mật, Lê Quý Đôn và Trịnh Xuân Thụ khởi trình ngày 28 tháng giêng năm Canh Thìn 1760 và về nước vào cuối tháng giêng năm Nhâm Ngọ 1762. Hơn hai năm đi sứ, các sứ thần Việt Nam đã hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ bang giao tuế cống, báo tang và cầu phong. Đặc biệt, trong thời gian ở Trung Quốc, đoàn sứ đã gặp gỡ tiếp xúc với rất nhiều quan lại các cấp Trung Quốc cùng với các sứ thần Hàn Quốc và cống sinh Nhật Bản. Tư liệu ghi chép liên quan về chuyến đi sứ này được lưu giữ ở trong nước và nước ngoài khá nhiều. Chúng tôi thông qua văn bản Bắc sứ thông lục, A.179 lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm bước đầu thống kê những cuộc gặp gỡ đàm luận chuyên sâu về học thuật giữa các sứ thần nước ta với quan viên Trung Quốc, sứ thần Hàn Quốc và cống sinh Nhật Bản.

Bắc sứ thông lục là cuốn nhật kí hành trình đi sứ trong hơn hai năm 1760 -1762 của đoàn sứ thần nước ta do Phó sứ Lê Quý Đôn biên soạn trên đường đi về và hoàn thành năm 1763 - sau khi về nước một năm. Bắc sứ thông lục có bốn quyển, bị mất hai quyển (quyển 2 và quyển ba) ghi chép về hành trình chiều đi và thời gian ở lại Yên Kinh. Bởi vậy chúng tôi chỉ còn căn cứ vào văn bản Bắc sứ thông lục quyển một và quyển bốn, chủ yếu thống kê những cuộc đàm luận học thuật trên đường về của đoàn sứ.

BẢNG THỐNG KÊ CÁC CUỘC BÚT ĐÀM TRAO ĐỔI HỌC THUẬT CHỦ YẾU

 

Thời gian Địa điểm Nội dung
Mùa đông năm Canh Thìn 1760 Công quán của sứ thần An Nam, Yên Kinh Cử nhân nước Lưu Cầu là Trịnh Hiếu Đức và Thái Thế Xương đến yết kiến. Sứ thần nước ta vui vẻ trò chuyện và hỏi han tình hình du học, chế độ khoa cử của họ.
Ngày 30, tháng chạp năm Canh Thìn 1760 Hồng Lô tự, Yên Kinh Sứ thần An Nam và Hàn Quốc Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến và Lý Huy Trung gặp nhau, cùng rải chiều mời nhau ngồi, lấy bút mực đàm luận hỏi han phong thổ đất nước và tặng quà cho nhau.
Đầu năm mới Tân Tỵ 1761 Ở công quán sứ thần An Nam Hồng Toản Hối, Triệu Quang Quỳ và Lý Trích Phương đến chúc tết xướng họa thơ văn.
Tháng 8 năm Tân Tỵ 1761

Ngày

mồng 5

Cửu Giang, Giang Tây Khâm sai Tần Triều Vu mời Lê Quý Đôn qua thuyền hỏi han về điển chương chế độ (triều chính, khoa cử, lễ nghi), tình hình xã hội, địa lý phong tục và sản vật địa phương An Nam.
Ngày 14 Vũ Huyệt, Quảng Tế, Hồ Bắc Khâm sai Tần Triều Vu gửi thư mời Lê Quý Đôn qua thuyền, hỏi xem sách Sử biện và đưa cuốn Độc thư kí của ông ta cho Lê Quý Đôn xem, cùng trao đổi bàn luận về nhiều kinh sách Nho giáo.
Ngày 16 Bàn Đường, huyện Thông Thành, Hồ Bắc Khâm sai Tần Triều Vu mời Lê Quý Đôn qua chơi cùng đàm đạo sách Sử biện và hỏi xem thêm các sách khác. Lê Quý Đôn giới thiệu sách Thánh mô hiền phạm lục. Khâm sai còn hỏi thăm về chế độ khoa cử và tuyển chọn các Bồi thần đi sứ.
Ngày 27 Xích Bích, Hoàng Châu, Hồ Bắc Khâm sai Tần Triều Vu mời Lê Quý Đôn qua chơi, nói chuyện sách Thánh mô hiền phạm lục đưa cho Lê Quý Đôn bài tựa Quần thư khảo biện.
Tháng 9

Ngày

mồng 9

Vũ Xương, Hồ Bắc Lê Quý Đôn đến yết kiến quan Án sát sứ Tác Bằng
Tháng 10

Ngày

mồng 1

Trường Sa, Hồ Nam Lê Quý Đôn đến yết kiến Tuần phủ Phùng Trân, cùng nói chuyện, hoạ thơ với ông ta và thuộc hạ ông ta là viên tướng Quách Tham.
Lê Quý Đôn đến yết kiến quan Bố chánh họ Vĩnh đàm luận về quan chế, triều chính và tình hình đi sứ.
Ngày 21 Vĩnh Châu, Hồ Nam Tần Triều Vu mời Lê Quý Đôn qua chơi hỏi thăm về chế độ triều chính An Nam, đàm đạo về kinh sách trước tác khảo biện, chú thích của hai vị.
Tháng 11
Ngày 5 Đê Đại Dung, Hưng An, Quảng Tây Khâm sai Tần Triều Vu mời Lê Quý Đôn qua thuyền uống rượu hỏi han về địa lý An Nam và thù tạc thơ văn.
Tháng 12
Ngày 26 Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Sứ thần đến công quán yết kiến hai vị Sách sứ Đức Bảo và Cố Nhữ Tu. Hai quan Sách sứ hỏi thăm sức khỏe, lại hỏi thêm về kinh đô An Nam, xướng họa mấy vần thơ với quan Phó sứ Lê Quý Đôn, lại gửi lời cảm ơn vua chúa An Nam đã tiếp đón nhiệt tình.
Lê Quý Đôn đến yết kiến Thự đạo đài Tra Lễ, đàm luận thơ văn đến quá canh hai mới ra về.
Ngày 27 Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Lê Quý Đôn đến yết kiến quan Đề đốc Chu Bội Liên, cùng đàm luận về lịch sử địa lý quận huyện của An Nam.
Ngày 28 Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Sách sứ Trung Quốc đưa bốn bài thơ (do quan Sách sứ viết tặng An Nam quốc vương và An Nam quốc vương họa lại) gửi các sứ thần mang về nước.
Ngày 29 Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Chu Bội Liên gửi lời tựa sách Thánh mô hiền phạm lục và mấy lời nhắn nhủ. Lê Quý Đôn sang cảm ơn và lại trao đổi thêm
Tháng Giêng năm Nhâm Ngọ 1762

Ngày

mồng 2

Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Lê Quý Đôn tới chúc tết Chu Bội Liên. Hai ông tặng thơ cho nhau.

Ngày

mồng 3

Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Lê Quý Đôn đến yết kiến Chu Bội Liên và trao đổi các vấn đề về cương vực địa lý.

Ngày

mồng 6

Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Sách sứ sai quan huyện Tuyên Hóa Tả Đường My đem tặng thơ mỗi vị sứ thần ba bài thơ, hai câu đối và một quyển Tập nghiệm lương phương

Ngày

mồng 7

Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Chu Bội Liên trả sách Quần thư khảo biện và lời tựa sách ấy cho Lê Quý Đôn
Phủ Thái Bình, tỉnh Quảng Tây Đạo quan Tra Lễ gặp gỡ trao đổi tập thơ Dung Sào tiểu tập với Lê Quý Đôn.

Trong chuyến đi sứ, các sứ thần nước ta có dịp gặp gỡ rất nhiều các nhân sĩ Trung Quốc như quan Bác sĩ trợ giảng họ Trương, quan huyện Hoài Ninh Trương Triệu Dương, Quan Kinh lịch Đường Bính Anh, quan Khâm sai Bạn tống Tần Triều Vu, quan Đề đốc Chu Bội Liên, quan Đạo đài Tra Lễ, Bố chánh xứ Diệp Tồn Nhân, quan Bạn tống Bành Thế Huân, quan Bạn tống La Đăng Quý, quan huyện Tuyên Hóa Tả Đường My, quan Khâm sai Chánh sứ Đức Bảo, Khâm sai Phó sứ Cố Nhữ Tu và một số nhân vật như Âu Dương Mẫn, Lữ Tổ Sư, Thẩm Thu Hồ, Chu Bách Tổng… Trong đó người có quan hệ thường xuyên và tần số tham gia bút đàm học thuật với đoàn sứ nhiều nhất là quan Khâm sai Bạn tống Tần Triều Vu và quan Đề đốc học Quảng Tây Chu Bội Liên. Tần Triều Vu từng sáu lần bút đàm, Chu Bội Liên bốn lần trao đổi về các vấn đề học thuật như kinh học, cổ sử, địa lý, điển chương chế độ… Cùng với các buổi bút đàm trực tiếp, các vị còn trao đổi sách sử, viết lời đề tựa giới thiệu, xướng họa thơ ca và bình giá trước tác của nhau. Sách Quần thư khảo biện và Thánh mô hiền phạm lục của Lê Quý Đôn được Tần Triều Vu, Chu Bội Liên và Chánh sứ Hàn Quốc Hồng Khải Hy đề tựa và tham gia góp ý kiến đánh giá, trở thành một trong các đối tượng trao đổi xoay quanh nhiều vấn đề học thuật.

Ngoài ra trong bài khải chữ Nôm gửi về cho vua nước ta, Lê Quý Đôn sơ lược tường thuật lại thời gian ở Yên Kinh gặp gỡ một số quan lại cấp cao Trung Quốc, Hàn Quốc và cống sinh Nhật Bản, thư từ qua lại, viết thơ đề tựa, xướng họa thơ văn, trao đổi học thuật, tình cảm càng thêm trân trọng gắn bó.

Những hoạt động giao lưu học thuật như tọa đàm trực tiếp, thư từ qua lại, thơ ca xướng họa, đề tựa bình duyệt, đàm đạo trao đổi về kinh học, cổ sử, địa lý, điển chương chế độ diễn ra trên đường đi lối về, khi chiều tà, lúc ban trưa, khi dừng thuyền đợi gió, lúc yết kiến công đường, ý kiến có khi tương đồng, khi khác nhau, phản bác, ca ngợi… đều được ghi chép rất chi tiết cụ thể trong sách Bắc sứ thông lục và một số sách khác, phản ánh hoạt động giao lưu học thuật sôi nổi của đoàn sứ. Có thể nói chuyến đi sứ Trung Quốc năm 1760-1762 của phái đoàn Trần Huy Mật, Lê Quý Đôn và Trịnh Xuân Thụ không chỉ hoàn thành tốt đẹp nhiệm vụ bang giao mà còn nổi bật hơn hẳn các đoàn sứ khác bởi hoạt động bút đàm giao lưu học thuật sôi nổi giữa các sứ thần Việt Nam với các nhân sĩ Trung Quốc, sứ thần Cao Ly (Hàn Quốc) và các Cống sinh Lưu Cầu (Nhật Bản), phần nào phản ánh được không khí học thuật ở các nước Đông Á trong thế kỉ XVIII./.

NGUYỄN THỊ TUYẾT

Viện nghiên cứu Hán Nôm

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2012tr.821-826, phiên bản trực tuyến ngày 09.02.2015.

Ngày 6.1.2018, Một Thế giới đăng bài "Vi phạm tác quyền, Alphabooks trước nguy cơ bồi thường cuốn Hải ngoại kỷ sự". Alphabooks vi phạm bản quyền đã đành, nhưng liệu Đại học Huế hiện nay có đủ tư cách giữ bản quyền bản dịch Hải ngoại kỷ sự?

Ấn bản Hải ngoại ký sự (1963 và hai ấn bản 2016 của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội và Đại học Sư phạm)

Xin giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm và bản dịch Hải ngoại kỷ sự. Tác giả, Hòa thượng người Trung Hoa Thích Đại Sán (1633 - 1705), tự Thạch Ông, đạo hiệu Thạch Liêm và Đại Sán, tục gọi là Thạch Đầu. Mùa xuân năm Ất Hợi (1695), đáp lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu, ông cùng tùy tùng từ Quảng Đông đến xứ Thuận Quảng (Huế và Quảng Nam bây giờ) và lưu lại nơi này đến mùa hạ năm Bính Tý 1696. Thích Đại Sán tường tận góp nhặt từng việc trong chuyến đi đưa vào cuốn sách đặt tên là Hải ngoại kỷ sự (Ghi chép sự việc ở nước ngoài).

Bản dịch Hải ngoại kỷ sự in lần đầu năm 1963. Trang bìa và trang tiêu đề bản dịch thể hiện Viện Đại học Huế, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam là cơ quan ấn hành còn trang chi tiết ấn phẩm cuối sách xác định: "Hải ngoại kỷ sự do Linh mục Nguyễn Phương, Hải Tiên Nguyễn Duy Bột phiên dịch với sự cộng tác của Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam". Như vậy, theo cách hiểu thông thường, có thể xác định bản quyền thuộc hai dịch giả và nhóm cộng tác.

Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam do Viện Đại học Huế thành lập năm 1959 có nhiệm vụ vừa nghiên cứu và biên mục châu bản triều Nguyễn, vừa hiệu đính và phiên dịch các bộ sử Việt Nam (Lời giới thiệu của Linh mục Cao Văn Luận in đầu sách Hải ngoại kỷ sự). Trong thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình, Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam, Viện Đại học Huế lần lượt cho xuất bản Mục lục châu bản triều Nguyễn, tập thứ I, triều Gia Long (1960) và tập thứ II triều Minh Mạng (1962). Về sách dịch, ngoài tập Hải ngoại kỷ sự kể trên đây, còn có bản dịch An Nam chí lược, công bố năm 1961. Đến năm 2002, Nhà Xuất bản Thuận Hóa và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông tây tái bản với lời nói đầu có ghi lời của ông Trần Kinh Hòa (1918 - 1995), người giữ cương vị Tổng Thư ký Ủy ban Phiên dịch Sử liệu Việt Nam lúc ấy: "Các bạn Việt Nam có toàn quyền sử dụng bản dịch An Nam chí lược (bản in 1960, đúng ra 1961) gia công biên tập lại để xuất bản mà khỏi phải bận tâm gì về vấn đề "tác quyền"... Đây cũng là một chứng lý gián tiếp khẳng định nhóm dịch giả mới giữ bản quyền dịch phẩm này chứ đâu phải Viện Đại học Huế!

Ấn bản An Nam chí lược (1961, 2002, 2006, 2015, 2016). Ngoài ra còn in chung trong Tổng tập dư địa chí Việt Nam (tập 1). Nxb Thanh niên. 2012

Vấn đề mấu chốt nhất là Đại học Huế bây giờ có quyền kế thừa di sản Viện Đại học Huế ngày xưa không? Câu hỏi không dễ gì trả lời. Bởi lẽ kể từ khi Viện Đại học Huế dừng bước vào năm 1975 đến Đại học Huế thành lập vào năm 1994 đã có một đoạn dài đứt gãy, gần 20 năm còn gì. Hơn nữa, các trường “thành viên”, Trường Đại học Sư phạm Huế và Đại học Tổng hợp Huế đã tổ chức hội ”hành hương” về nguồn nhân 10 năm thành lập (1975 - 1985). Như muốn phủ nhận Viện Đại học Huế đã từng tồn tại trước đó.

Và dù thế nào đi nữa, có thể khẳng định bản quyền sách này thuộc về nhóm dịch giả và vẫn còn hiệu lực. Có thể tham khảo điều L.123-1, bộ Luật về quyền sở hữu trí tuệ (1992) của Pháp ”Tác giả hưởng suốt đời độc quyền khai thác tác phẩm của mình dưới bất kỳ hình thức nào và thu lợi về tiền nong. Khi tác giả qua đời, quyền này vẫn tồn tại và những người có quyền được hưởng trong năm lịch thường đó và bảy mươi năm sau”. Như vậy, nói cho rõ hơn, ”sự bảo hộ được cấp cho đến ngày 31.12 của năm kỷ niệm lần thứ 70 năm ngày mất của tác giả”(*).

Nguyễn Duy Long

-----------------------

(*) Xem: Emmanuel Pierrat. Quyền tác giả và hoạt động xuất bản. Hồ Thiệu, Nguyễn Đức Tiếu dịch. In lần thứ 3, xem lại và bổ sung. Nxb Hội Nhà văn, Trung tâm Quyền Tác giả Văn học Việt Nam. Hà Nội. 2007, trang 175, 437 - 438.

Nguồn: http://motthegioi.vn/van-hoa-giai-tri-c-80/van-hoc-nghe-thuat-c-129/ban-quyen-hai-ngoai-ky-su-co-thuoc-dai-hoc-hue-79651.html

TS. Trần Thanh Nhàn

Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Sài Gòn

Việt Nam và Hàn Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1992 , nhưng trong quá khứ , từ nhiều thế kỷ trước, hai dân tộc đã có được những mối dây liên hệ thân thiết, tính từ thời điểm hai hoàng tử họ Lý có mặt trên bán đảo Triều Tiên (khoảng thế kỷ XII).

20171202 bavh1918

Ảnh: Bìa của tập san B.A.V.H năm 1918 - Ảnh: internet

Cadière đến Việt Nam cuối thế kỷ 19 và hoạt động văn hóa những năm đầu thế kỷ 20, vào thời điểm mà người Pháp còn mang tư tưởng nước lớn và mẫu gương của nhân loại trong nhiều lĩnh vực.

Từ xa xưa họ đã tự mặc định cho mình cái sứ mạng khai phóng: Guibert de Nogent từ Thập tự Chinh thứ nhất đã khẳng định Gesta Dei per francos (Thượng đế hiển thị hành vi qua nhóm người Franc). Sau đó là thời Phục Hưng họ cũng mặc cho mình sứ mạng văn hóa. Từ Humanisme, thường được dịch là Chủ nghĩa Nhân bản, thật ra nguyên nghĩa của tiếng la-tinh Humanitas là Văn hóa, vì thế chúng tôi nghiêng về Chủ nghĩa Nhân văn hơn. Nó dạy cho con người một thứ minh triết (sagesse) và một triết lý sống (philosophie de la vie) với những bài học về hào hoa lịch lãm, biết sống và tao nhã. Rồi đến thế kỷ 17 với một hào quang văn học khó bì sánh kịp, mệnh danh là “Đại Thế Kỷ”, tiếp theo là “Thế kỷ Ánh sáng” (tk 18) như thể muốn nhắc nhở hoặc khai lối cho nhân loại về những tư tưởng khai phóng về triết học và cả mô thức chính trị tam quyền. Đúng là người Pháp rất tự hào và họ có cơ sở tự hào như trong cuộc đối thoại giữa người lính Đức và viên y tá Pháp trong mẫu truyện “Bản Giao Hưởng số 3” - la 3e symphonie- của Georges Duhamel (?), khi hai cựu thù ca ngợi về những giá trị văn hóa của đối phương: người y tá Pháp thì ca ngợi về âm nhạc của người Đức còn người lính Đức đáp lại bằng ca ngợi văn học Pháp: cả 24 chữ cái, từ A cho đến Z, đều có thể tìm được tên một nhà văn. Và quả như vậy, bắt đầu vần A là Anatole France và kết thúc vần Z là Zola.

Cái hào nhoáng có cơ sở ấy càng thể hiện rõ khi người ta hỏi André Gide là nhà văn, nhà thơ nào là tiêu biểu nhất của Pháp. André Gide đã thở dài, trả lời: Than ôi, đó là V. Hugo! (Hélas, c’est Victor Hugo). Cái “than ôi” ở đây không phải là một ca tụng mà biểu thị một “bất đắc dĩ”, đành phải kể một người nhưng cũng khó mà minh định với nhiều tên tuổi lỗi lạc khác; nói cách khác còn có nhiều tên tuổi xứng danh nữa, nhưng đành chọn một vị chưa hẳn là toàn bích. Nhưng cùng một câu hỏi như thế đối với nhiều dân tộc khác thì chắc chắn việc lựa chọn xem ra sẽ dễ hơn nhiều: với Ấn Độ đơn giản là Tagore, Tây Ban Nha với Cervantes, Ý sẽ là Dantes, Hy Lạp với Homère, La-mã thì có Virgil, Anh với Shakespeare, và Việt Nam thì dứt khoát là Nguyễn Du...

Sơ lược một chút như thế để trở về với Việt Nam ở đầu thế kỷ 20, khi tờ báo BAVH ra đời. Phải nhận rằng cái hào quang của văn học Pháp cũng mang lại khá nhiều hào quang cho văn học Việt. Xuân Diệu chỉ đổi một từ “đi” trong “partir, c’est mourir un peu” (đi là chết một ít) của Edmond Haraucourt bằng động từ “yêu” và biến thành một câu thơ thuần Việt “Yêu là chết trong lòng một ít”. Rất nhiều người khó nhận ra điều ấy nếu không biết câu thơ này trên cửa miệng người Pháp nay như thứ ca dao, tục ngữ của dân tộc họ. Nhưng Xuân Diệu đã có công Việt hóa bằng thêm hai từ trong lòng cùng với âm hưởng bằng trắc tiếng Việt để trở thành câu thơ riêng của tác giả, và chúng ta tự hào với cung cách ẩn nhập tài tình ấy. Cũng không ngoa khi khẳng định rằng “Sầu đã chín hay trái sầu rụng rơi” của Huy Cận và tâm hồn rối loạn của một Vũ Hoàng Chương “đầu thai nhầm thế kỷ” đã vay mượn nguồn thi hứng từ sầu thế kỷ (le mal du siècle) của thế kỷ 19 trong văn học lãng mạn Pháp. Về văn xuôi cũng vậy, ta thấy dáng dấp tình cảm nhân vật Paul Sellery của Francois Coppée trong Hồn bướm mơ tiên của Khái Hưng với từng nốt nhạc cung thứ “lá rụng” điểm dấu cho từng giọt buồn nội tâm không ngớt rơi vào lòng. Thử đọc lại:

Khái Hưng: 

Mặt trời đã lặn sau đồi tây (...).
Lan đứng chắp tay tụng niệm, con mắt lờ đờ nhìn xuống con đường đất quanh co lượn khúc dưới chân đồi.
Gió chiều hiu hiu...
Lá rụng 


(Văn xuôi lãng mạn Việt Nam Nxb. VHXH. Hồn Bướm Mơ Tiên, Khái Hưng, tr 107)

Francois Coppée: “Mặt trời đã lặn, chìm xuống chân đồi, và bỗng vụt tắt. Trong khoảng không gian xám tối màu ngọc, gió thổi hiu hiu nối tiếp ngày tàn (...); và bỗng nhiên lá vàng rơi rụng như cả một trận mưa vàng óng ánh (...)

Lá rụng! Lá rụng
!


(Mais, il s’est couché, il a plongé derrière l’horizon; et brusquement, tout s’éteint. Sur le paysage assombri dans le vaste ciel couleur de perle, se répand le frisson funèbre qui se succède à l’adieu du jour (...); la rivière est comme un miroir terni. Tout à l’heure, dans le rayon, les feuilles mortes, en tombant, étaient pareilles à une pluie d’or...Les feuilles tombent! Les feuilles tombent! 

(Francois COPPEE, Toute une jeunesse, tr. 322).

Tôi không được phép dài dòng để minh chứng thêm rất nhiều biến ứng của văn học Pháp tràn ngập đó đây trong cách hành văn và kể cả trong nếp tư duy (Như trường hợp Ngọn cỏ gió đùa của Hồ Biểu Chánh, Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và nhiều dấu vết đâu đó trong Tự Lực Văn Đoàn), nhưng cũng nên đơn cử bài Tôi đi học của Thanh Tịnh mà mọi người trong chúng ta đều có thể đọc thuộc lòng với tất cả say sưa: “Hằng năm, cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc...” bốn yếu tố cơ bản 1/ hàng năm, 2/ cứ vào cuối thu, 3/ lá ngoài đường rụng nhiều, và 4/trên không có những đám mây bàng bạc đều được tìm thấy trong câu mở đầu của Anatole France (chết năm 1924 khi Thanh Tịnh mới 13 tuổi): Je vais vous dire ce que me rappellent, tous les ans, le ciel agité de l’automne, les premiers diners à la lampe et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent. (Anatole France. Le livre de mon ami). 

Nhưng phải thừa nhận rằng các đoạn văn mà chúng tôi trích dẫn để lập luận là những đoạn văn xuất sắc, thuần Việt, không mang dấu ấn “đạo văn”, nhưng là một sự hòa nhập tinh tế đã được tiêu hóa nhuần nhuyễn biến thành nhân tố thuần Việt. Đặc biệt Thanh Tịnh đã biến ứng tài tình và đoạn văn mang đậm phong cảnh làng xưa. Từ “cậu bé ba lô trên lưng vừa đi vừa nhảy như con chim sẻ” của Anatole France, Thanh Tịnh đã biến thành một hình ảnh thân thương khác biệt “Tôi không lội qua sông thả diều như thằng Quý và không ra đồng nô hò như thằng Sơn nữa. Trong chiếc áo vải dù đen dài, tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn”. Làm sao ta có thể xem đó là “vay mượn” mà phải thán phục thừa nhận đúng là một sự hội nhập đến hòa đồng, biến thành bản sắc riêng của mình mà sau này khó tìm thấy được trong nhiều tác giả. Cách biến nhập thiên tài không khác gì trường hợp La Fontaine thế kỷ 17 với Esope thế kỷ thứ VII-VI trước Công Nguyên thời cổ đại Hy Lạp, hoặc chính phong trào lãng mạn Pháp đã du nhập tinh thần romantic của người Anh, giữ nguyên từ, không cần dịch, chỉ biến âm theo cách đọc thành romantique.

Điểm qua một vài chi tiết về tâm tình và sự ngưỡng mộ minh khai hay tiềm ẩn đối với Văn hóa Pháp thời ấy, có người hẹp lượng sẽ khoác cho cái áo “vọng ngoại”; nhưng thiển ý chúng tôi là muốn nêu rõ trong khi văn học Pháp và biến rộng ra văn hóa Pháp đầu thế kỷ 20 đã được không ít người Việt xem là khuôn vàng thước ngọc, là một mơ ước và không ngừng cảm phục những thành quả và giá trị của “Đại Pháp”, thì ngược lại có một trí thức Pháp, đã hết mình “bênh vực” và muốn bảo tồn những giá trị truyền thống của một dân tộc mà trong con mắt không ít người Âu còn ở trạng thái man di, cần được khai phóng.

Người đó là Léopold Cadière, chủ bút tờ BAVH, vào tuổi 84, khi được đề nghị trở về Pháp, đã van nài: “Cho tôi được ở lại và chết nơi đây”. Nguyên do thật đơn giản: “Cả đời tôi, tôi đã dâng cho xứ này rồi”(1).

Vậy cái gì đã thúc đẩy Cadière xin ở lại và không từ bỏ dân tộc mà ông trải 61 năm sinh sống cho đến thời điểm ấy? Không chỉ mình ông. Yersin cũng cùng ước vọng và còn biết bao người khác. Trường hợp của nữ văn sĩ Marguerite DURAS cũng không ngoại lệ. Chỉ với tác phẩm l’Amant (Người tình) cả thế giới biết đến bà khi tuổi đã xế chiều và trước đó chưa từng được nổi tiếng. Tác phẩm đã dựng thành phim, thu hút một lượng độc giả đáng kinh ngạc, bối cảnh và tình tiết câu chuyện là một quãng đời ở Nam Bộ nước Việt. Phải chăng đó là một “hội chứng An Nam” như về sau có người dám quả quyết? Gần đây thôi, bà Catherine Guy, phụ trách bảo tàng Pháp cho biết trong “Kho lưu trữ Toàn cầu” ở Paris người ta trân trọng lưu giữ đến 840 bức ảnh về Việt Nam của Léon Busy, đặc biệt khá nhiều bức về Hà Nội 36 phố phường, số lượng chỉ xấp xỉ thua kém 900 bức về Paris, vượt xa số lượng ảnh lưu giữ về Trung Quốc (hơn 400 bức) và Nhật Bản (500 bức). Những con số trên cũng nói lên nhiều điều, nhất là những “vấn vương” của một thời xưa cũ.

Vào những năm 1990, xuất hiện trên tạp chí GEO tại Pháp - một tạp chí chuyên về Văn hóa và Du lịch - một từ rất mới lạ: “Namstalgie” (hoài Việt).

Thực ra từ mới này đã được cấu tạo theo từ Nostalgie (hoài hương) đã xuất hiện từ thế kỷ 17 để chỉ một trạng thái “tâm bệnh” vào năm 1688 do Johannes Hofer, còn gọi là “mal du pays”, để chỉ hiện tượng hoài hương, nhớ quê cũ. Từ Nostalgie gồm hai yếu tố Hy lạp “nostos”(trở về) và “algos” (nỗi đau) và từ “Namstalgie” cũng được cấu tạo theo kiểu ấy (mặc dù phải thêm vào hai chữ st sau từ Nam, có thể cho dễ đọc, mà cũng có thế muốn lưu lại một phần thành tố “nostos” để diễn tả ý niệm “hoài nhớ”).

Namstalgie, hoài Việt, là một loại hình du lịch đáp ứng nhu cầu những con cháu, hoặc chính bản thân những người đã có năm tháng dài sống và làm việc tại “An Nam xưa” muốn trở về “quê cũ” thăm lại nơi họ đã từng sống, làm việc và gởi gắm tâm tư.

Để minh thị trường hợp của Cadière về tâm thức này, tôi chỉ dùng một bài viết ngắn của chính tác giả, năm 1942, vào lúc 73 tuổi, cái tuổi đối với rất nhiều người đã là “xưa nay hiếm”, nhân mừng Ngân Khánh và cũng đánh dấu 50 sống ở Việt Nam (1892 - 1942). Bài phát biểu ngắn gọn chỉ trên dưới 250 từ và không quá 45 dòng(2), nhưng bao quát toàn bộ những dấu ấn tình cảm của ông trong các lĩnh vực nghiên cứu. Ông nêu lên sáu lý do làm ông thương mến đất nước này:

1. Thật ngạc nhiên khi đề cập đến ngôn ngữ như là mối dây ràng buộc đầu tiên:

Tôi học tiếng họ từ ngày tôi mới đến, tôi vẫn còn tiếp tục học(3) và nhận thấy rằng tiếng Việt rất tinh tế về mặt cấu trúc, và cũng không nên xem nhẹ về sự phong phú về từ ngữ như có người suy nghĩ”. (Cadière, sách đã dẫn).

Rõ ràng là một lối biện luận ít nhiều mang tính bênh vực và phát xuất từ thiện cảm sẵn có.

Người Pháp vẫn tự hào về ngôn ngữ của họ, lấy những nguyên tắc của Boileau(4) như là chỉ đạo trong cách xếp đặt tư duy để biểu cảm. Thầy giáo dạy tiếng Pháp thường nhắc nhở học sinh của mình: Không rõ ràng, không phải là tiếng Pháp (Ce qui n’est pas clair, c’est pas francais). Cấu trúc chặt chẽ của tiếng la-tinh còn hiển thị qua nhiều quy luật ngữ pháp phải tuân theo trong tiếng Pháp, đến nỗi nhiều người cho rằng tiếng Pháp là một “ngôn ngữ đào tạo”, langue de formation.

Từ năm 1925, Cadière đã viết bài tham luận “Bàn về một số quy thức tư duy của người Việt qua ngôn ngữ”(5). Đây là một bài tham luận sâu sắc; chúng ta không thể phân tích toàn diện, chỉ xin đơn cử một “phát hiện” của tác giả về trật tự thời gian trong lối phát ngôn của người Việt: Tôi đi bắn về. Ba hành động đi/bắn/về rõ ràng là theo một trật tự thời gian hoàn hảo. Ông còn trích dẫn thêm nhiều dẫn chứng như “uống rượu say” (uống trước, say sau), hoặc “lấy roi mà đánh” (lấy roi trước, đánh sau) để minh thị cái “tuần tự thời gian” trong tư duy người Việt, xem như đó là một “ưu điểm luận cứ cổ điển” theo kiểu diễn cảm bất hủ của danh tướng La Mã trình bày chiến tích chớp nhoáng của mình “VENI, VIDI, VICI (tôi đến, tôi thấy, tôi thắng). Bài diễn văn vỏn vẹn có 3 từ tuần tự theo thời gian rất chớp nhoáng của CESAR vào năm 47 cho đến nay vẫn có lẽ là bài tường trình ngắn gọn, súc tích và biểu cảm nhất mà nhân loại biết đến và truyền trên cửa miệng qua nhiều thế hệ. Cadière đã tỏ ra rất tinh thông trong lý luận về cấu trúc cũng như liệt kê được một số lượng khổng lồ ngạn ngữ dân gian(6) mà thậm chí nhiều nhà ngôn ngữ học người Việt chưa chắc đã quán triệt được như ông về tiếng mẹ đẻ của mình.

2. Lý do thứ hai bàn về tôn giáo tín ngưỡng. Cũng thật lạ lùng khi một “nhà truyền đạo” lại đi ca ngợi hết mình một tôn giáo khác:

“Tôi đã nghiên cứu tín ngưỡng, các thực hành lễ nghi tôn giáo, phong tục tập quán của họ và phải thừa nhận rằng người Việt rất sâu sắc về tôn giáo, tín ngưỡng của họ trong sáng và khi họ cầu cứu đến Trời, tế tự Trời thì cũng có thể họ cùng đến với một đấng toàn năng mà tôi gọi bằng Chúa, và tự đáy lòng họ đang lưu giữ một tia sáng tôn giáo tự nhiên mà Tạo hóa vốn ấn dấu vào tâm khảm của nhân sinh”. (Cadière, sđd). 

Chúng ta biết rằng, cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nước Pháp thường được gọi là “trưởng nữ” của Giáo Hội La Mã và đã rất sùng đạo khi gởi rất nhiều “thừa sai” (missionnaires) khắp trên thế giới để “loan truyền Tin Mừng”, thì trong Hội thảo về “Dân tộc học và Tôn giáo” Cadière vẫn khẳng định: Người Âu châu dẫu sùng đạo, thường vẫn không sống hết toàn bộ thời gian với Thượng đế của mình; người Việt ngược lại, dù ở giai cấp nào, đều cảm thấy mình trực tiếp thường xuyên với các thần thánh trong thiên nhiên.” 

Khi nghiên cứu về tôn giáo, ông đã ví von tôn giáo người Việt như dãy núi Trường Sơn cỏ cây chen chúc không biết đường ra lối vào, gốc lai từ đâu đến, hòa trộn chen lẫn để rồi nở rộ những hoa đại đóa rực lửa cả một khung trời.

3. Lý do thứ ba của tình cảm mến thương với người Việt là lịch sử hào hùng của cả một dân tộc. Người Việt có cái may mắn là ở vào một địa thế thuận hợp cho những giao thoa của hai nền văn hóa lớn từ Phương Nam tỏa lên và cả từ Phương Bắc tràn xuống. Nhưng cũng vì thế mà gánh chịu những xung đột triền miên, chiến đấu không ngừng, và tự thân giữ cho bằng được tiếng nói tập tục như là dấu chỉ thể hiện bản sắc của mình.

“Tôi đã nghiên cứu lịch sử của họ, xuyên qua các thế kỷ, đặc biệt là từ Triều Nguyễn, và nhận thấy rằng đất nước Việt Nam, từ nguyên thủy, đã không ngừng nung nấu một ý hướng cao về phát triển và tiến bộ, đã miệt mài theo đuổi thực hiện ý hướng ấy với hào hùng can đảm và linh hoạt thích ứng vào từng hoàn cảnh trên con đường tiến bước của mình.” (Cadiere, sđd). 

Nhiệm sở đầu tiên của Cadière là ở Quảng Bình, 1902, nơi đây từng là yếu ải của Vương quốc nhà Nguyễn, ông đã nghiên cứu “Lũy Thầy Đồng Hới”. Theo Paul Boudet bài nghiên cứu nói lên được “toàn bộ lịch sử chính xác (...) phơi bày trọn vẹn nỗ lực dai dẳng của nhà Nguyễn để thiết định, bành trướng và bảo vệ di sản của tiên tổ Nguyễn Hoàng” (Paul Boudet. Préface à la première édition Croyances et Pratiques religieuses des Vietnamiens Q.I tr.XI).

4. Trong suốt thời gian chung sống với người Việt, ông đã tìm ra được những nét tương đồng giữa hai dân tộc. Cả hai đã cùng phát xuất từ nền tảng nông nghiệp và từ căn bản ấy văn hóa mới phôi thai chớm nở; trong đời sống du mục con người ít biết dừng lại để nghĩ suy. Vì thế trong ngôn ngữ Âu Tây từ “Culture” vừa chỉ “trồng trọt” vừa chỉ “văn hóa”. Cũng trong ý nghĩa ấy Voltaire kết thúc quyển Candide bằng một lời khuyên “il faut cultiver notre jardin”.(7)

“Tôi yêu mến họ vì những đức hạnh tinh thần. Thuộc tầng lớp nông dân, rồi sống ở Việt Nam giữa nông dân, tôi đã có thể thấy rằng nông dân Pháp và nông dân Việt giống nhau lạ lùng: Bên này cũng như bên kia, từng ý tưởng vụn vặt của cuộc sống hằng ngày, của đồng áng, chợ đò, của những bữa cơm thường nhật, của làng mạc... Mặt nữa, bên này cũng như bên kia, những tình cảm cao cả, tình yêu thương sâu đậm của gia đình, giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau, chuyên cần trong công việc, nhẫn nhục trong cuộc sống nghèo hèn và khổ cực mỗi ngày.” (Cadière, sđd). 

Một trong yếu tố tạo nên những đức hạnh tinh thần đó là nhờ hệ thống gia đình Việt Nam chưa đến hồi đổ vỡ như ở châu Âu. Nhưng chính châu Âu và cụ thể là nước Pháp cũng đã trải qua hoàn cảnh xã hội được thiết lập trên nền tảng gia đình, nhưng nay nền văn minh công nghiệp đã hủy hoại và Cadière đã tìm lại được hình ảnh êm đềm xa xưa của người Pháp ở nơi vùng ông mới đến để rồi nảy sinh lòng yêu mến. Khi viết rằng “Người Việt (không phải) - chưa phải - là một kẻ mất gốc(8)...” thì đã minh thị rằng ngày nào đó người Việt cũng rơi vào tình trạng “mất gốc” như “nền văn minh phương Tây (...) làm đảo lộn phân tán các gia đình”(9).

5. Lý do thứ 5 của lòng thương mến là yếu tố con người.

Tôi yêu mến họ vì tính tình của họ. Trước đây, khi tôi có dịp đi lại bằng võng hay bằng thuyền, tôi đã thấy được và cảm phục niềm vui sống, sự vui vẻ, tâm trí hồn nhiên của bác gánh võng hay người chèo thuyền, mặc dầu họ thật vất vả, nhọc nhằn suốt hàng giờ và hàng ngày tròn.” (CADIÈRE, Sđd).

Ông đã từng lên tiếng bênh vực trước những phàn nàn của các ông chủ người Âu sử dụng lao động Việt: “Những ai cho là người Việt biếng nhác, họ chỉ xét đoán trên một phần sự kiện ngoại lệ. Trên thực tế thì người Việt cần mẫn, chăm chỉ, năng động, chịu thương chịu khó, quả cảm, xoay xở giỏi khi họ làm việc một cách bình thường (...). Phải sống với họ, giữa họ để thấy phần đông người Việt lao nhọc như thế nào mới thấy được điều tôi kết luận trên là đúng. Rất nhiều tục ngữ ca dao nói lên điều ấy(10)”. 

Thời gian chung sống với người Việt, ăn ở buồn vui và cảm thông sâu sắc với người Việt, Cadière đã hoàn toàn được “Việt hóa” từ cung cách ứng xử và cả trong cách ăn nếp ở: “học tiếng Việt không phải chỉ để nói giỏi như họ mà còn phải tâm tư nghĩ suy như họ”(11).

6. Ông thương mến xứ sở này với nhiều lý do, nhưng lý do cuối cùng đã ấn dấu mãnh liệt vào tâm khảm đến nỗi chúng tôi nhớ trọn vẹn cả nguyên văn: “Cuối cùng thì tôi thương mến họ vì họ khổ. (....) Những khốn cùng đôi khi phải cam chịu đã đành, nhưng thường là do định mệnh khắt khe vô tình”. “Cái định mệnh khắt khe vô tình” ấy nó nhân bản làm sao nhất là được thốt ra từ miệng một linh mục người nước ngoài, vốn được đào tạo rất kinh điển theo thần học Thiên Chúa giáo, tin tưởng tuyệt đối vào sự An Bài (Providence) và ở một môi trường Đông Tây nhiều điểm dị biệt.

Nay đọc lại những đoạn mô tả về các cách thờ bái ma thuật, hoặc những cách chữa trị kỳ bí, một số tập tục dã man, mà giới trẻ Việt Nam ngày nay không thể tin rằng đã có một thời ông cha ta đã hành xử như thế. Nhưng trước con mắt của Cadière, ngay vào thời buổi ấy, ông đã nhìn với một nhãn quan từ tâm: cũng bởi vì “họ khổ”. Xin được phép trích một dẫn luận ngắn ngủi giải thích vì sao đâu đâu cũng có miếu thờ “Bà Hỏa”:

“Phải có lần bị đánh thức giữa đêm đen do tiếng báo động quát thé, phải có lần được nghe tiếng kêu la hãi hùng của dân làng vội vã tán loạn, tìm con, tìm người già lão, phải có lần thấy ánh lửa đỏ ngầu vút lên trong đám khói đen cuồng nộ cùng tiếng mắt tre kèo, cột, mái nhà nổ vang như tiếng đại bác để rồi hôm sau thấy tận mắt cảnh tang thương của những vết tích còn lại, nhất là phải tự thân gánh chịu cái tai ương khủng khiếp ấy thì mới hiểu được người Việt sợ hỏa hoạn là như thế nào, thì mới biết tại sao họ đã nghĩ những tai ương kia là do thần thánh, thì mới hiểu được cách họ xử thế đối với mọi tai ương xảy đến, kể cả những trường hợp nhỏ nhặt nhất(12).

Về cách đối xử “tàn nhẫn” với những thi thể chết non, chết yểu, chết trùng, theo Cadière, chung quy cũng do “từ tâm” mà ra cả: muốn bảo vệ những trẻ được sinh ra sau này, và phải làm hết mọi cách. Bao dung theo kiểu Chu Mạnh Trinh khi luận về Kiều “chiếc lá rụng chọn gì đất sạch” mới thấu hiểu được hết các cách hành xử “cùng đường” mà ngày nay chúng ta khó lòng chấp nhận, để làm sao thoát ra được những khổ ải liên miên mà họ phải gánh chịu.

Thôi thì bỏ đi những cảnh man rợ và để phần nào xin lỗi các bé, xin ghi nhận rằng chẳng qua cũng do thương mến mà ra cả. Tình cảm tự nó là cao quý và đáng trân trọng, dẫu rằng cách thể hiện thì nhiều khi thật đáng lên án.”(13) 

Có lẽ chúng ta không quá ảo tưởng hoặc quá lạc quan để xem những tình cảm về giá trị của người Việt dưới nhãn quan của Cadière như là những giá trị vĩnh hằng, như là những bản sắc muôn thuở. Gần đây người ta nhắc nhở nhiều đến truyền thống, đến bản sắc dân tộc, xem như đó là một nhân tố bất biến, mà quên rằng chiều kích của văn hóa là sự biến ứng không ngừng, và cái còn lại sau khi đã được gạn đục qua nhiều thế hệ tưởng như vô thức, cái còn lại sau khi tất cả đã bị quên đi, nói theo kiểu Herricot từng quả quyết, đó là văn hóa, đó là bản sắc. Xây dựng bản sắc không vì thế mà tôn tạo lại y nguyên những tin tưởng hoặc những vỏ bọc cho những tin tưởng ấy như nhiều nơi đang làm và cần được báo động. Dẫn chứng cụ thể như những ảo thuật tà ma, những tin tưởng quái dị, những cách hành xử bất nhân với thi thể những em bé chết trùng chết yểu... Trong quá trình nghiên cứu, Cadière trình bày sự việc như đang xảy ra (tel qu’il est) chứ không hề mang tính giáo điều đòi hỏi nên như thế này, nên như thế kia (tel qu’il devrait être) với con mắt khoa học chứ không phải theo chiều kích luân lý hay đạo giáo, để tìm cái do lai cốt lõi của vấn đề. Vì thế, Cadière không bao giờ sử dụng từ “dị đoan” nhưng không vì thế mà cho rằng Cadière ca ngợi hoặc muốn bảo tồn những tệ nạn bùa ma đó. Ông trình bày vụ việc thật chi ly, xác thực để giải thích sự việc, tìm ra nguyên do để lý giải và rộng mở để cho người đọc tự đặt thêm nghi vấn và rút ra được kết luận cho chính mình, theo phương pháp “hộ sinh” (maïeutique) từ thời Socrate cổ đại; cho đến nay phương pháp ấy vẫn còn rất hiện đại và được các nhà giáo dục cổ vũ.

Nhưng cũng phải thú nhận rằng vì chút lòng yêu mến người Việt như chúng tôi đã lần lượt trích dẫn ở trên mà Cadière cũng có ít nhiều thiên vị, nặng nghĩa nặng tình.

Thay lời kết tôi xin phép trích dẫn ít dòng tâm sự của tác giả để minh chứng thay vì biện luận: “Tuy vậy, cũng xin nhắc lại rằng, tôi hầu như luôn ở trong những hạn chế của những giải thích mà người bản xứ cung cấp cho tôi, suốt trong quá trình nghiên cứu nhiều năm và tôi nghĩ chắc họa hoằn lắm tôi mới vượt ra khỏi tâm linh người Việt bởi lẽ những thực hành lâu đời ấy đã trở thành thân thương quen thuộc đối với tôi.”(14)

Huế, 12/2014 
Đ.T.H
(TCSH331/09-2016)


.............................................
1. Nguyễn Tiến Lãng, Au R.P Léopold CADIERE, Bulletin des Missions Etrangères de Paris tr 29.
2. Được đăng trong Croyances et Pratiques Religieuses des Vietnamiens (CPRV), q.1 trang VII Bản dịch bài này: Tôn Giáo Văn Hóa Người Việt, Đỗ trinh Huệ, tr.12 hoặc Văn Hóa, Tín Ngưỡng và Thực Hành Tôn Giáo Người Việt, Đỗ Trinh Huệ, Nxb. Thuận Hóa,  2010. Tr.9  
3. Lúc ấy Cadière đã 73 tuổi.
4. Ce que l’on conçoit bien s’énonce clairement / Et les mots pour le dire arrivent aisément.
5. Extrême-Asie (Saigon, H.Ardin) 1925, tr.251-258. Bản dịch: Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Đỗ Trinh Huệ Tập III, Nxb. Thuận  Hóa 2010 , tr 201.
6. Bản dịch: Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt, Đỗ Trinh Huệ Tập III, Nxb. Thuận  Hóa 2010 , tr 201.
7. Phải chăm bón thửa vườn của mình. (cultiver=trồng trọt; homme cultivé = người có văn hóa).
8. CPRV Q. I tr 80
9. CPRV Q. I tr 58.
10. CPRV Q. III tr 116
11. Souvenirs d’un vieil annamitisant, Indochine, 1942
12. CPRV Tome II tr. 53.
13. CPRV. Tome II. tr 209
14. Le Culte des arbres . CPRV Tome II tr 70. 

Đỗ Trinh Huệ

Nguồn: Tạp chí Sông Hương, ngày 26.9.2016.

Nguyễn Thị Oanh – Trịnh Khắc Mạnh

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Lời nói đầu

Việt Nam, Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên đều là những nước chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn hóa Trung Quốc. Tuy không cùng tiếng nói, nhưng cả ba nước đều lấy chữ Hán làm công cụ ghi chép, đồng thời đều có chung lịch sử tiếp thu văn hóa Hán khởi nguồn từ Trung Quốc. Trong việc tiếp thu tư tưởng Trung Quốc: Nho - Phật - Lão, các nước đều lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chủ đạo. Hiện tại bán đảo Triều Tiên (Hàn Quốc) và Việt Nam tuy không sử dụng chữ Hán song hai nước vẫn trải qua lịch sử lâu đời trong chiếc nôi của văn hóa Hán. Trong khoảng thời gian và không gian đó, bán đảo Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam đã có nhiều cuộc giao lưu tiếp xúc ở các lĩnh vực khác nhau.

Ở thời Trung đại, Việt Nam, Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên thường xuyên có quan hệ với Trung Quốc, trên các hoạt động giao lưu văn hóa, kinh tế song phương. Các cuộc bang giao trực tiếp giữa Việt Nam với Nhật Bản và Việt Nam với bán đảo Triều Tiên tuy không diễn ra đều đặn, song cũng để lại những dấu ấn tốt đẹp trong quan hệ giữa hai nước. "Sơn xuyên phong vực tuy vân dị; Lễ nhạc y quan thị tắc đồng" 山川風域雖云異,禮樂衣官是則同(Núi sông phong tục tuy rằng khác; Lễ nhạc, y quan có điểm chung) là hai câu thơ trong bài thơ "Đạt Lưu Cầu quốc sứ" 達琉球國使 của Phùng Khắc Khoan 馮克寬 (1528-1613) sáng tác nhân dịp tiễn sứ giả Lưu Cầu (Ryukyu) về nước trong lần đi sứ năm 1597 và câu "Sơn hà ưng hữu dị, Hàn mặc tự tương đồng" 山河應有異,翰墨自相同 (Núi sông tuy có khác, Văn chương vốn tương đồng) là hai câu thơ trong bài thơ của sứ thần Hàn Quốc Nam Đình Thuận 南廷順 họa lại bài thơ của sứ thần Việt Nam Nguyễn Tư Giản 阮思間 vào năm 1864 ở Bắc Kinh là minh chứng cho quan hệ ngoại giao giữa sứ thần Việt Nam và sứ thần các nước trong khu vực.

Trước nay đã có nhiều công trình và bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước về quan hệ bang giao giữa Việt Nam và các nước trong khu vực, song số lượng các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này ở Việt Nam vẫn còn rất khiêm tốn. Gần đây, do giao lưu hợp tác nghiên cứu giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ngày một phát triển, việc tìm hiểu quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và các nước trong khối đồng văn trong quá khứ đã được sáng tỏ hơn nhờ nguồn tư liệu do các chuyên gia trong và ngoài nước cung cấp. Để giúp các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước có thêm thông tin, chúng tôi xin điểm lại tình hình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam, Nhật Bản trong những năm gần đây và góp thêm một số tư liệu mới về quan hệ giữa hai nước trong lịch sử. Do khuôn khổ của bài viết, chúng tôi chỉ xin lược thuật những công trình và bài viết về bang giao Việt Nam - Nhật Bản có liên quan chủ yếu đến tư liệu hiện lưu giữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (viết tắt là VHN). Hy vọng bài viết sẽ góp thêm tư liệu và nhận thức mới về quan hệ bang giao giữa hai nước trong lịch sử, góp phần thúc đẩy hơn nữa quá trình giao lưu, hợp tác giữa các nhà nghiên cứu trong khu vực.

1. Các cuộc tiếp xúc ngoại giao giữa hai nước

Trong các công trình nghiên cứu quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước thường sử dụng nguồn tư liệu lấy từ nước ngoài như ở Trung Quốc, Triều Tiên và Nhật Bản. Về nguồn tư liệu trong nước, các bộ chính sử của Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thư 大越史記全書, Đại Việt sử ký tục biên 大越史記續編, Đại Nam thực lục 大南寔錄, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục欽定越史通鑑綱目... ngoài các sự kiện bang giao với Trung Quốc, rất ít khi đề cập các thông tin đến bang giao quốc tế, nhất là quan hệ đối với Ryukyu 琉球(nay là Okinawa) - nhóm đảo nằm ở phía Nam Nhật Bản, trung tâm kinh tế quan trọng giữa hai khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á thời Trung đại. Tuy nhiên, một số tư liệu bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản được các nhà nghiên cứu Nhật Bản và nước ngoài công bố gần đây đã giúp cho các nhà nghiên cứu Việt Nam thêm nhiều nhận thức mới về vấn đề này. Chúng tôi xin điểm lại một số tư liệu theo dòng lịch sử đã được các nghiên cứu trong và ngoài nước công bố.

Theo một số tư liệu của Nhật Bản và Trung Quốc, người Nhật Bản đầu tiên đến nhậm chức ở Việt Nam vào thời nhà Đường là Abeno Nakamaro 阿倍仲麻呂, tên Trung Quốc là Triều Hành 晁衡. Ông sinh năm 698, trong gia đình quý tộc, thuộc dòng dõi thiên hoàng Kogen 孝元. Vào thời Na ra, ông sang Đường lưu học, thi đỗ rồi ra làm quan, do học vấn uyên bác, ông được vua Đường Huyền Tông 唐玄宗 sủng ái cho giữ chức vụ trông coi quản lý văn học ở triều nhà Đường. Trong thời gian này ông thường gặp gỡ, giao lưu với các nhà thơ nổi tiếng đương thời như Lý Bạch, Vương Duy... Hiện thơ của Abe Nakama ro còn được đăng tải trong cuốn Toàn Đường thi 全唐詩. Do không thể về nước, ông đã sống ở Trung Quốc hơn 50 năm, làm quan với triều nhà Đường theo đề nghị của vua Đường Huyền Tông. Năm 761 ông đã sang Việt Nam giữ chức Tổng đốc, với tư cách là An Nam tiết độ sứ 安南節度使 (hàm Chánh tam phẩm). Sau 6 năm từ năm 761 đến 767 ông làm việc tại An Nam đô hộ phủ, sau đó ông trở về Nhật Bản và mất vào năm 770, thọ 72 tuổi(1).

Abe Nakamaro người Nhật Bản sang nhậm chức ở Việt Nam tuy không phải là sự kiện minh chứng cho mối quan hệ bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản, song cũng có thể coi đó là cuộc tiếp xúc đầu tiên giữa người Nhật với người Việt Nam trên cương vị cầm quyền được sử sách nước ngoài ghi chép lại.

Từ thế kỷ X, thời điểm Việt Nam giành được độc lập từ phong kiến phương Bắc đến thế kỷ XIV, thời kỳ xây dựng quốc gia Đại Việt, các bộ chính sử của Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thưĐại Việt sử ký tiền biên 大越史記前編 đều không cung cấp tư liệu ghi chép về quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Nhật Bản, song việc vua Lý Anh Tông 李英宗 (1138-1175) cho mở trang Vân Đồn 雲屯vào năm 1149 để cho thuyền buôn các nước vào mua bán hàng hóa, dâng tiến sản vật địa phương mà sách Đại Việt sử ký toàn thư(2) ghi lại cho thấy nhà Lý bấy giờ đã thực hiện một số chính sách kinh tế tích cực và chủ trương ngoại thương khá rộng mở. Theo bài viết của Kin Seiki: Mậu dịch với Đông Nam Á của vương quốc Ryukyu và đồ gốm sứ Việt Nam phát hiện được ở Okinawa, trong các di chỉ khảo cổ ở Ryukyu, có nhiều đồ gốm sứ thời Lý - Trần, điều đó cho thấy ngoài thương thuyền của Trung Quốc chắc chắn còn có các thuyền của Đông Nam Á, nhiều khả năng là thuyền buôn của vương quốc Ryukyu, Nhật Bản cũng đã đến trao đổi hàng hóa ở Vân Đồn và một số thương cảng của Việt Nam(3)

Sang thế kỷ XVI-XVII, quan hệ Việt Nam-Nhật Bản cũng được các nhà nghiên cứu nước ngoài đề cập tới trong một số bài viết gần đây, như: Một văn thư Vương quốc Lưu Cầu gửi sang Việt Namvào đầu thế kỷ XVI(4) của GS. Vĩnh Sính đã công bố sự kiện vào năm 1509, vua Chuzan 中山 của vương quốc Ryukyu đã phái đoàn sứ bộ gồm 130 người do Chánh sứ, Chánh nghị đại phu Teikyu, Phó sứ Masakai cùng thông dịch viên Tei Ko mang vật phẩm và quốc thư dâng lên vua An Nam.

Ông Yamabe Susumu (Đại học Nishogakushadaigaku), trong bài: Vài nét về quá trình tiếp thu và sử dụng chữ Hán ở Nhật Bản(5), cũng đã cung cấp thêm thông tin về quan hệ giao lưu giữa Việt Nam và Nhật Bản ở nửa thế kỷ thứ XVI. Đó là bức thư được viết bằng chữ Hán gọi là Trả lời vua nước An Nam, một bút tích còn truyền lại cho tới nay. Bức thư được viết theo chỉ của Thiên hoàng Nhật Bản cho phép Đương chủ Shimazu Iehisa 島津家久 đồng ý lời đề nghị giao hảo của vua An Nam gửi dòng họ Shimazu ở huyện Satsuma đảo Kyushu (九州 ). Bức thư có tiêu đề An Nam Bố chánh châu Hữu cơ phó tướng Bắc quân Đô đốc đồng tri Hoa Quận công 安南布政州右奇副將北均都督同知華郡公, trong thư có nhắc đến tên của Đô nguyên soái tổng quốc chính thượng văn Bình An vương 都元帥總國政尚文平安王 (tức Bình An Vương Trịnh Tùng 平安王鄭松, ở ngôi chúa từ năm 1570-1620). Người viết bức thư này là học giả tên là Văn Chi Huyền Xương 文之玄昌 (1555-1620), cũng là nhà sư của phái Lâm Tế tông làm việc cho dòng họ Shimatsuke 島津家 và là cố vấn ngoại giao của Shimatsuke.

Qua hai bức thư nói trên có thể thấy ngoài Ryukyu, vùng Kyushu của Nhật Bản từ thế kỷ XVI cũng đã có quan hệ với Việt Nam. Việc đề nghị được giao hảo cũng không phải chỉ xuất phát từ phía Nhật, mà còn có sự chủ động đặt quan hệ ngoại giao từ phía chính quyền họ Trịnh của Việt Nam.

Cũng từ các công trình và bài viết của các nhà nghiên cứu nước ngoài, chúng ta đã biết rõ hơn thông tin về tư liệu quan hệ Việt Nam-Nhật Bản cuối thế kỷ XVI từ ghi chép trong các bộ sử của Việt Nam. Trong sách Đại Nam thực lục tiền biên, có ghi sự kiện như sau:

"Ất Dậu, năm thứ 28 [1585], mùa xuân, tháng 3, bấy giờ có tướng giặc nước Tây Dương hiệu là Hiển Quý (Hiển Quý là tên hiệu của bọn tù trưởng phiên, không phải là tên người) đi 5 chiếc thuyền lớn, đến đậu ở Cửa Việt để cướp bóc ven biển. Chúa sai hoàng tử thứ sáu lĩnh hơn 10 chiếc thuyền tiến thẳng đến cửa biển, đánh tan 2 chiếc thuyền giặc. Hiển Quý sợ chạy" 乙酉二十八年時西洋國賊帥號顯貴者,顯貴乃番酋所推尚,以為號非人名乘巨舟五艘泊于越海口劫掠沿海。上命皇六子領戰船十餘艘直抵海口擊破戰船。二船顯貴驚走 (Ký hiệu A.27/1-66 (VHN), Quyển 1, tờ 13b-14a)(6).

GS. Kawamoto Kunie trong bài viết Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Ngoại phiên thông thư, đăng trong sách Đô thị cổ Hội An(7) đã cho rằng, Hiển Quý chính là Bạch Tần Hiển Quý (Shirahama Kenki). "Đến năm 1601, trong bức thư gửi cho tướng quân Tokugawa Ieyasu, khi nói đến sự kiện này, chúa Nguyễn Hoàng 阮皇 xác định: "Do không biết Hiển Quý là thương gia tốt" nên cuộc xung đột đáng tiếc đã xảy ra, đồng thời mong phía Nhật Bản bỏ qua sự việc trên để tiếp tục cử thuyền đến Đàng Trong buôn bán. Bức thư nói trên được đăng tải trong sách Ngoại phiên thông thư 外藩通書- một tài liệu lịch sử hết sức có giá trị về quan hệ quốc tế của Nhật Bản thời kỳ Edo hiện do Nhật Bản lưu giữ. Trong tác phẩm này có 56 bức thư của chúa Trịnh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn (Đàng Trong) gửi cho Mạc phủ Tokugawa trong thời gian từ 1601 đến 1694. Có thể bức thư của vua An Nam gửi cho Shimazu Iehisa 島津家久đề nghị giao hảo là một trong 56 bức thư trong sách Ngoại phiên thông thư .

Sau sự kiện phái đoàn sứ bộ Ryukyu đến Việt Nam vào năm 1509, việc bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản hầu như không được đề cập đến trong các bộ chính sử và tư liệu hiện còn của Việt Nam vào thời kỳ nhà Mạc thay nhà Lê lên nắm quyền từ năm 1527đến năm 1592, nhưng việc nhà Mạc tiếp tục duy trì hoạt động và thiết lập thêm một số cảng biển đã cho thấy thế kỷ XVI-XVII là thời kỳ phát triển hưng thịnh của kinh tế đối ngoại Việt Nam. Sách Lịch đại bảo án 歷代寶案 (Rekidaihoan) - là bộ chính sử ghi lại các hoạt động ngoại giao của vương quốc Ryukyu do triều trình Shuri tổ chức biên soạn từ thế kỷ XVII-XIX chỉ ghi duy nhất 1 chuyến thuyền đến Việt Nam vào năm 1509, nhưng theo Minh sử 明史 hay Hoàng Minh thực lục 皇明寔錄 của Trung Quốc thì Ryukyu đã cử 171 thuyền buôn sang Trung Quốc, 89 thuyền đến An Nam, 37 thuyền đến Java và 19 thuyền đến Nhật Bản(8). Nếu con số của Minh sử ghi là xác thực thì số thuyền của Ryukyu đến An Nam chỉ đứng thứ hai so với Trung Quốc, và Việt Nam trở thành đối tác có tiềm năng ngoại thương lớn của Ryukyu sau Trung Quốc ở châu Á.

(Thuyền Nhật Bản đến Việt Nam giai đoạn chúa Trịnh trị vì)

Sau khi giành vương quyền từ tay nhà Mạc, các hoạt động của nhiều thương cảng nước ngoài vẫn được chính quyền nhà Lê - Trịnh duy trì, và để tranh thủ sự ủng hộ từ phía Trung Quốc, nhà Lê đã chủ động cử các đoàn sứ bộ sang Bắc Kinh. Các tư liệu hiện còn đã cho biết trong chuyến đi sứ vào năm Quang Hưng 光興thứ 20 (1597), Phùng Khắc Khoan 馮克寬 (1528-1613)(9) đã có các cuộc gặp gỡ, trao đổi với sứ thần các nước Triều Tiên và Ryukyu. Trong tác phẩm Sứ hoa bút thủ trạch thi 使華筆手澤詩ký hiệu A.2011 (VHN) có chép bài thơ "Đạt Lưu Cầu quốc sứ" 達琉球國使 do Phùng Khắc Khoan sáng tác nhân dịp tiễn đưa sứ giả Ryukyu về nước. Bài thơ này đã được một số nhà nghiên cứu Việt Nam giới thiệu trong các công trình nghiên cứu về Phùng Khắc Khoan(10) và quan hệ của nhà nước Ryukyu với quốc gia Đại Việt từ thế kỷ XVI đến XVIII(11).

Bài thơ như sau:

使

日表紅光照日隅

海天南接海天東

山川封域雖云異

禮樂衣冠是則同

偶合夤緣千里外

相期意氣兩情中

些回攜滿天香袖

和氣薰為萬宇風

(Ký hiệu A.2011, tờ 16b; VHv.2155, tờ 3b)

Dịch nghĩa:

Gửi ngài quốc sứ Lưu Cầu

Ngoài mặt trời lại có tia nắng hồng chiếu nơi chân trời,

Biển trời phương Nam nối tiếp biển trời phương Đông.

Núi sông, phong vực tuy rằng khác,

Lễ nhạc, cân đai vẫn có điểm tương đồng.

Cùng là quan, tình cờ gặp nhau nơi ngàn dặm.

Tình cảm, chí khí như đã được hẹn hò.

Lần này trở về, hương trời thơm đầy tay áo,

Tình thân nồng ấm như ngọn gió thổi tới muôn nơi.

Sang thế kỷ XVIII, nhân chuyến sang sứ nhà Thanh vào năm 1760, Lê Quý Đôn 黎貴敦(1726-1784) đã có dịp gặp gỡ trao đổi với các sứ thần Triều Tiên và Ryukyu. Trong Kiến văn tiểu lục 見聞小錄(12), Lê Quý Đôn đã hai lần đề cập đến sứ thần Ryukyu. Lần thứ nhất ông nhắc đến sự kiện sứ thần Lê Hữu Kiều 黎有橋 đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1738 để chúc mừng vua Cao Tông nhà Thanh lên ngôi. Lúc đó ở Hội đồng quán Bắc Kinh, Lê Hữu Kiều đã đọc bài thơ của viên sứ thần Ryukyu viết trên tường, ông khen: "vết mực còn tươi mới, lời thơ cũng thanh thoát đáng khen". Bài thơ như sau:

分明昨夜在家鄉

召入王門賜酒漿

曉角忽驚人好夢

醒來殘月照東廂

(Ký hiệu VHv.1322/1, Quyển 4, tờ 29b-30a)

Dịch nghĩa:

Đêm hôm trước rõ ràng còn ở quê nhà,

Được vua triệu đến cung đình dự tiệc rượu,

Tiếng tù và buổi sớm làm tan giấc mộng đẹp,

Tỉnh dậy, ánh trăng tà rọi chiếu mái nhà phía đông

Dịch thơ:

Rõ ràng đêm trước ở quê nhà,

Triệu đến cung đình dự tiệc hoa,

Còi sớm giật mình tan giấc mộng,

Mái đông tỉnh giấc ánh trăng tà(13)

Lần thứ hai, Lê Quý Đôn kể lại sự kiện vào chuyến đi sứ năm Canh Thìn (1760), ông gặp hai cử nhân nước Ryukyu là Trịnh Hiếu Đức 鄭孝德 và Thái thế Xương 蔡世昌 đến quán xin được yết kiến. Cuộc trò chuyện đã được ông ghi lại như sau: "Năm Canh Thìn ta đến Bắc Kinh gặp hai cử nhân nước Lưu Cầu là Trịnh Hiếu Đức và Thái Thế Xương đến quán xin thỉnh kiến. Cả hai người đều khoảng hơn 20 tuổi, trông rất thanh tú, nói là mới đến Bắc Kinh vào học ở Quốc tử giám, hỏi "đến đã được bao lâu? nói "đến từ mùa đông năm trước", hỏi "có ứng thí ở Bắc Kinh không? nói: "khi học xong sẽ về nước ứng thí" 庚辰東僕至北京有琉球國舉人鄭孝德,蔡世昌詣館請見並年二十餘,頗清秀稱始來京,入監讀書。問:到北幾年。曰:前年冬來。問:應舉北京否。曰:學成回國應試(VHv.1322/1, tờ 29b-30a).

Kiến văn tiểu lục tuy không ghi chép thơ xướng họa giữa phái đoàn sứ bộ của Lê Quý Đôn với các sứ thần Nhật Bản, nhưng việc gặp gỡ trao đổi với các sứ thần các nước cũng là một trong những hoạt động ngoại giao của đoàn sứ bộ nước ta khi đi sứ Trung Quốc.

Gần đây, các nhà nghiên cứu đã tìm thêm được tư liệu ghi chép cuộc gặp gỡ giữa sứ thần Việt Nam và Nhật Bản. Trong bài Một tư liệu độc đáo về quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản giữa thế kỷ XVII"(14), tác giả Nguyễn Thanh Tùng đã giới thiệu bài thơ Tiễn Nhật Bản sứ hồi trình 餞日本使回程 (Tiễn sứ giả Nhật Bản về nước) của Thám hoa Nguyễn Huy Oánh 阮輝塋(15) làm nhân dịp đi sứ Trung Quốc vào năm 1765-1766 với vai trò Chánh sứ. Bài thơ này được ghi chép ở mục Hoàng hoa tặng đáp phụ lục 皇花贈答附錄 trong sách Thạc Đình di cảo 碩亭遺稿 của Nguyễn Huy Oánh, ký hiệu A.3135 (VHN). Phát hiện này có thể coi là sự đóng góp rất lớn của tác giả Nguyễn Thanh Tùng về tư liệu bang giao Việt Nam - Nhật Bản.

Bài thơ đó như sau:

使

朽岡虛路各天涯

多俟欣逢大米家

日送浮泥寧活計

手斟鮮素共金羅

傑奴羊賣西孫步

採落明東阿將梭

華蓋力哥非感擬

漫將粉地寓情多

(Ký hiệu A.3135, tờ 28a).

Bài thơ viết bằng chữ Hán, nhưng những người thông thạo chữ Hán cũng phải lúng túng khi lý giải nó. Nguyễn Thanh Tùng dựa vào phần cước chú của tác giả bài thơ: Hú cương 朽岡 là "vân" 雲 (mây); Hư lộ 虛路 là "nhật" 日 (mặt trời); Tiên tố 鮮素 là "trà"茶(trà); Đại mễ 大米 là "quan" 官 (quan nhân) ; Phù nê 浮泥 là "thuyền"船 (thuyền), Kim la 金羅 là "tiêm" 尖 (nghỉ ngơi); Dương mai 羊賣 là "sơn"山(núi); Tây tôn 西孫 là "du" 遊 (du chơi), Thái lạc 採落 là "dạ"夜 ; (đêm) Minh đông 明東là "thủy" 水 (nước); A tướng 阿將 là "tọa"坐 (ngồi); Hoa cái 華蓋là "thiếu niên"少年 (tuổi trẻ); Lực ca 力哥 là "thông minh"(sáng suốt); Phấn địa 粉地 là "Bút" 筆 (cây bút), để xác lập một văn bản như sau:

雲日各天涯,多俟欣逢大官家,日送船寧活計,手斟茶共尖,昨日山遊步,夜水坐梭,少年聰明非感擬,漫將筆寓情多 - Giữa buổi chiều mây [che] mặt trời mỗi bên (đi về) một góc trời, trông đợi đã nhiều hân hạnh gặp được quan gia. Ngày tiễn thuyền [sứ thần] đi nên tính toán linh hoạt, tay rót chén trà, cùng nhau nghỉ ngơi. Hôm qua còn đi chơi bộ trên núi, đêm nay đã (như) thoi ngồi trên dòng nước. (Ngài) tuổi trẻ tài cao, đâu dám nối gót, mạn phép đem bút ra gửi gắm tình cảm dạt dào).

Dựa vào dòng cước chú dưới tiêu đề bài thơ "Dụng y quốc chi ngữ" (Nguyên văn chữ "y chu" 伊周 , không rõ nghĩa, đoán chữ "quốc" 國nhầm thành chữ "chu" 周 , nghĩa là: Dùng tiếng nói của nước ấy)(16), tác giả Nguyễn Thanh Tùng suy đoán "tiếng nước ấy" chính là đó là tiếng Nhật, "có lẽ đây là tiếng Nhật được ghi âm bằng chữ Hán và được dùng trong một bài thơ Đường luật Hán. Sau khi tìm các tư liệu ghi chép về từ vựng tiếng Nhật đương thời, được phiên bằng tiếng Hán như Hoàng Minh ngự Nụy lục 皇明御倭錄 của Vương Sĩ Kì (đời Minh); Nụy tình khảo lược 倭情略考 của Quách Quang Phục đời Minh và Trù hải trùng biên 籌海重編 của Đặng Chung (đời Minh)...và phần Nhật Bản dịch ngữ 日本譯語 , trong bộ Hoa di dịch ngữ 華夷譯語 (1377-1566) của bộ Lễ (Hội thông quán, Tứ di quán, Tứ dịch quán..) nhà Minh để phục lại âm tiếng Nhật cho các từ mà Thám hoa Nguyễn Huy Oánh cước chú. Như: Da mại 耶賣 (âm bạch thoai hiện đại - tắt là BT: yemài = yama (núi); Phù nê 浮泥 (BT: funi) = fune (thuyền); Kiệt no 傑奴 (BT: jie nú) = kinou (ngày hôm qua); Hoa cái 華蓋: (BT:hoa gài) = wakai (trẻ, thiếu niên)' Thái lạc 採落 (BT:cài lùo) = yoru (đêm); Minh đông 明東 (BT: míng dong) = mizu (sông, nước)... Theo tác giả Nguyễn Thanh Tùng, đây là các chữ có sự trùng khít hoàn toàn với các bản tự vựng Nhật - Hán. Ngoài ra còn 3 trường hợp tỉnh lược như Đại mê 大迷là lược của đại mễ ô dã kê 大迷烏野雞; A tướng 阿將 là lược của di lộ a tướng 移路阿將; Tây tôn là 西孫sự thay đổi chữ và lược chữ của tứ tôn bộ 四孫步.

Dù còn phải sửa đôi chỗ nhầm lẫn do tác giả Thanh Tùng không biết tiếng Nhật khiến nội dung bài thơ có đôi chỗ sai lạc, như trường hợp: "hư lộ"虛路 chú là "nhật"日 Nguyễn Thanh Tùng dùng với nghĩa "mặt trời". Thực ra "nhật" có nhiều nghĩa, trong đó có nghĩa là "mặt trời", nhưng cũng có nghĩa là "ngày". Từ "ngày" tiếng Nhật hiện đại đọc là "kyou", nếu so sánh phụ âm đầu của chữ "hư lộ" 虛路 với "kyou" thì chúng sẽ gần gũi về âm hơn. Hoặc trường hợp "Hú cương" 朽岡 chú là "vân" (mây). Từ "mây" trong tiếng Nhật đọc là "Kumo". Kumo nếu dùng chữ Hán để ghi sẽ là "cương hú" 岡朽, song ở đây ghi là "Hú cương". Thực ra "hú cương" là hiện tượng đảo trang từ Hán thường thấy trong từ vựng tiếng Nhật, như: từ Hán "giới thiệu" 介紹, tiếng Nhật thành "thiệu giới" 紹介; "uy hiếp" 威脅 thành "hiếp uy"脅威... "Hú cương hư lộ các thiên nhai" nghĩa là Mây hôm nay vẫn đầy khắp chân trời". Có thể do thời tiết xấu, mưa gió hoặc biển động nên sứ giả các nước phải chờ đợi lâu ngày tại Trung Quốc. Chúng ta đã biết, các thuyền đi biển xa đều phải lựa theo con nước và điều kiện gió mùa. Các hoạt động ngoại giao và thương mại của Ryukyu và các nước cũng phải tuân theo quy luật tự nhiên đó.

Bài thơ trên đã được chúng tôi dịch lại như sau:

Hôm nay mây vẫn đầy khắp chân trời,

Chờ đợi lâu may gặp được quý ngài,

Ngày lên thuyền cần tính toán linh hoạt,

Tay rót chén trà, cùng nhau nghỉ ngơi.

Hôm qua còn du chơi trên núi,

Như thoi đưa, đêm nay đã ngồi trên dòng nước.

Chẳng dám nghĩ tuổi trẻ mà đã tài giỏi như thế,

Mạn phép đem bút ra gửi gắm tấm chân tình.

Nét độc đáo của bài thơ đã được tác giả Nguyễn Thanh Tùng nhấn mạnh trong phần kết luận: Nguyễn Huy Oánh đã sử dụng những từ có trong các bản tự vựng Nhật-Hán đã nêu trên để sáng tác bài thơ tặng sứ giả Nhật Bản; Việc Nguyễn Huy Oánh chủ động sử dụng chúng trong công việc ngoại giao với sứ thần Nhật Bản thể hiện sự "chuyên nghiệp" trong hoạt động ngoại giao của bản thân ông; Việc làm trên của ông có ý nghĩa nâng cao uy tín quốc gia, nâng cao vị thế dân tộc trong con mắt của sứ thần Nhật Bản. Hơn nữa, đây là bài thơ viết bằng chữ Hán theo thể Đường luật, nhưng có sự kết hợp giữa từ vựng Hán và từ vựng Nhật. Bài thơ đọc lên có âm hưởng hài hòa, cân đối, nhưng cần phải hiểu một phần theo ngôn ngữ Nhật, tư duy Nhật ở mảng từ vựng... Ngoài ra, từ bài thơ trên tác giả còn phỏng đoán Nguyễn Huy Oánh đã có ý thức "nghiên cứu tiếng Nhật" trước khi đi sứ và có thể do ông tổ dòng họ Nguyễn Huy Oánh kết hôn với người phụ nữ Nhật được cứu trong vụ đắm tàu Nhật Bản ở cửa biển Nghệ An nên sự lưu tâm đó đã được thể hiện trong việc ngoại giao với sứ thần Nhật Bản.

Sang thế kỷ XIX, tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội, có nhiều thay đổi. Sự phát triển của Thiên Chúa giáo bên cạnh Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo có lẽ đã đem lại không ít e ngại cho chính quyền nhà Nguyễn đương thời. Các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều cấm đạo Thiên Chúa và quan hệ thụ động với các nước phương Tây, khiến cho việc buôn bán giao lưu với các nước bên ngoài phần nào bị cản trở. Tuy nhiên, các hoạt động ngoại thương vốn phát triển rất mạnh ở thế kỷ thứ XVI-XVIII thực sự là tiền đề tốt để triều Nguyễn mở rộng quan hệ thông thương với các láng giềng Đông Nam Á. Từ thời vua Gia Long đã cho thợ giỏi đóng các chiến thuyền, đồng thời cho đóng các loại thuyền bọc đồng lớn để đi lại tuần hành trên biển. Các chuyến đi của quan chức triều Nguyễn đến khu vực Đông Nam Á lúc này không chỉ đơn thuần là ngoại giao, mà còn tiến hành các hoạt động thương mại. Thang Hy Dũng trong bài: Giữa nhân đạo, ngoại giao và mậu dịch - lấy Triều Tiên, Lưu Cầu và Việt Nam cứu trợ thuyền Trung Quốc đời Thanh bị nạn làm trung tâm(17) đã cho biết "Thuyền và người bị nạn trên biển của Trung Quốc trôi dạt đến Việt Nam, quan phủ Việt Nam đưa ra sự trợ giúp nhân đạo, nhưng coi là một cơ hội để mở rộng việc trao đổi buôn bán, trong khi mượn việc hộ tống thuyền bị nạn Trung Quốc về nước, trong thuyền hộ tống có cái gọi là "hàng hóa chở theo thuyền", yêu cầu chính phủ Thanh đồng ý cho buôn bán ở Quảng Đông... .

Gần đây, nhân có dịp tìm hiểu về mảng tư liệu này, chúng tôi đã phát hiện bài thơ của Lý Văn Phức 李文馥 (1785-1849)(18) làm tặng sứ giả Ryukyu, nhân chuyến ông sang Phúc Kiến, Quảng Đông vào năm 1830 để đưa người Trung Quốc bị nạn gió bão về nước(19). Bài thơ có nhan đề: Kiến Lưu Cầu quốc sứ giả tịnh dẫn 見琉球國使者并引 được chép trong sách Mân hành tạp vịnh thảo 閩行雜詠草 . Trong phần dẫn Lý Văn Phức viết:

見琉球國使者并引

天地間同文之國者五,中州我粵朝鮮日本琉球亦其次也。琉球年號世世因稱寬永。其國在閩海之東,航路僅五六日。明堂朝會例,由閩館于柔遠驛。公完常隔年弗歸,蓋謀通商也。其俗頭髮於頂速之澤以油,插以簪,如父婦人然衣服亦長襟大袖,但多用文布如蠻習。余來閩其年適在此一日其正使向姓,副使王姓來相訪。余聞之欣然出迎。筆談間字畫亦楷正,惟辭語頗澀,殊令人不甚暢。既揖別偶成一律。

(Trong khoảng trời đất, có 5 nước trong khối đồng văn: Trung Châu (Trung Quốc), nước Việt ta, Triều Tiên, Nhật Bản, tiếp đến là Lưu Cầu. Niên hiệu của Lưu Cầu các đời đều xưng là Khoan Vĩnh. Nước đó ở phía đông Mân hải. Nếu đi tàu biển chỉ mất 5, 6 ngày. Cũng có lệ triều hội ở Minh đường, từ Mân quán vào ở trạm Nhu Viễn, sau khi việc công xong, thường ở lại khoảng 1 năm không về để mưu tính việc thông thương. Sứ thần Ryukyu có tục búi tó trên đỉnh đầu, lấy dầu sáp bôi rồi cài trâm lên đầu như phụ nữ, nhưng mặc quần áo vạt dài, ống tay to. Áo quần dùng vải có hoa văn như tục của người Man. Khi tôi đến Mân được hơn một năm, có một hôm, ngài Chánh sứ họ Hướng và Phó sứ họ Vương tới hỏi thăm. Tôi nghe tin rất vui bèn ra nghênh tiếp. Trong lúc bút đàm, đều dùng chữ khải nhưng từ ngữ nói ra không thật trơn tru, khiến cả hai bên đều không thật thoải mái. Khi tiễn biệt, ngẫu hứng làm bài thơ Đường luật như sau:

所見何如昔所聞

重洋夢醒各天雲

琉球使驛程由海

襟袖學儒飾用紋

最喜禮文同一脈

為憐筆墨遜三分

茫茫客旅誰相伴

半卷陳詩語夕曛

(Ký hiệu A.1291, tờ 21b-22a).

Dịch nghĩa:

Lưu Cầu là nước thế nào, trước đây tôi đã từng nghe đến,

Nơi trùng dương, khi tỉnh giấc mộng đã ở nơi chân trời.

Lịch trình của sứ giả Lưu Cầu cũng phải qua biển cả;

Trang phục kẻ Nho giả đều dùng hoa văn.

Vui nhất cả hai chúng ta đều mạch nguồn đồng văn,

Chỉ thương cho bút mực ba phần lời phải lẩn ý.

Lữ khách nơi xa vấn vương biết lấy ai làm bạn,

Nửa quyển thơ Trần cũng có thể nói chuyện tới chiều hôm).

Bài thơ và phần dẫn của Lý Văn Phức không chỉ góp thêm tư liệu cho việc nghiên cứu quan hệ bang giao giữa Ryukyu với Việt Nam triều Nguyễn, mà còn là tư liệu minh chứng cho nhận định của Thang Hy Dũng về tính nhân đạo kết hợp với ngoại giao và mậu dịch như chúng tôi vừa trình bày trên đây.

Đến những năm đầu thế kỷ XX, nhà lãnh đạo phong trào Đông Du Phan Bội Châu đã viết tác phẩm Lưu Cầu huyết lệ tân thư. Từ Lưu Cầu, nhà yêu nước Phan Bội Châu muốn gửi gắm lời khuyến cáo và thức tỉnh dân tộc đứng lên chống thực dân Pháp xâm lược. Tuy không phải là công trình khảo cứu về vương quốc Ryukyu, nhưng bức thư mang tên Lưu Cầu thực sự đã trở thành một minh chứng nữa cho mối quan hệ lâu đời giữa Việt Nam và vùng Rykyu, Nhật Bản.

Như vậy, nhờ những tư liệu bang giao giữa Việt Nam và Nhật Bản được các nhà nghiên cứu trong khu vực công bố gần đây, chúng ta có thể thấy quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản đã sớm được xác lập và tồn tại qua nhiều thế kỷ. Thông qua một số nguồn sử liệu đã được các nước cùng kiểm chứng có thể khẳng định rằng, từ xa xưa, Ryukyu và Nhật Bản đã từng có quan hệ tương đối thường xuyên với Việt Nam và mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp đó đến nay vẫn được hai dân tộc gìn giữ và phát huy.

2. Các cuộc tiếp xúc thương mại, dân sự

2.1. Người Nhật Bản ở Việt Nam

Từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ XVIII, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam với các nước trong khu vực, trong đó có Nhật Bản trở nên hưng thịnh. Bên cạnh sự phát triển của kinh tế thương mại ở khu vực kinh kỳ với nhiều nghề thủ công truyền thống, ở những vùng phụ cận đã xuất hiện nhiều làng nghề thủ công nổi tiếng như nghề gốm Chu Đậu, Hợp Lễ, Bát Tràng... nghề dệt vải ở Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Dương. Phố Hiến với nhiều phường thủ công như thợ nhuộm, nồi đất, thuộc da... Nhiều hiện vật đồ gốm sành của Việt Nam có niên đại từ thế kỷ XV - XVI đến XVIII được các nhà khảo cổ Nhật Bản tìm thấy ở vùng Ryukyu, Sakai, Nagasaki... đã cho thấy hoạt động ngoại thương giữa Việt Nam và Nhật Bản giai đoạn từ thế kỷ XVI - XVIII khá phong phú và nhộn nhịp.

Để phát triển kinh tế, ổn định chính trị và tăng cường khả năng quốc phòng, chính quyền phong kiến của Việt Nam kể cả chúa Nguyễn ở Đàng Trong và chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đã tạo điều kiện để cho các thuyền buôn Nhật đến Việt Nam làm ăn buôn bán, vì những "thương nhân Nhật Bản không tham gia vào các mưu toan chính trị, giành đoạt vương quyền mà chỉ chuyên tâm vào hoạt động thương mại"(20). Sách Đại Nam thực lục tiền biên cũng cho biết: thuyền buôn của người Thanh và các nước Tây Dương, Nhật Bản, Chà Và đi lại tấp nập, do đó mà phong hóa Hán [phong hóa văn minh] thấm dần vào đất Đông Phố (tức Gia Định ngày nay)(21). Nhờ có sự ủng hộ của chính quyền phong kiến Việt Nam mà các thương nhân Trung Quốc và Nhật Bản đã tự lập riêng cho mình khu phố người Tàu và khu phố người Nhật ở Hội An - thương cảng có vị trí quốc tế thuận lợi và danh tiếng nhất thời bấy giờ(22).

Trong quá trình sinh sống và làm ăn ở Việt Nam, thương nhân Nhật Bản với khả năng thương thuyết, sự hiểu biết về văn hóa, ngôn ngữ và tính trung thực... đã được người Việt và nhiều người nước ngoài tin cậy nhờ làm trung gian buôn bán. Để tăng thêm tình giao hảo giữa hai nước, một số chúa Nguyễn còn nhận các thương gia Nhật Bản làm con nuôi. Thậm chí chúa Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635) còn gả công chúa Ngọc Vạn cho thương gia người Nhật tên là Araki Sotaro. Hiện bảo tàng ở Nagasaki còn lưu giữ chiếc gương quý trên có bốn chữ An Nam quốc kính 安南國鏡do công chúa mang theo về Nhật Bản(23).

Tấm bia Phổ Đà sơn linh trung Phật 普沱山靈中佛(ký hiệu 2097,1263) được dựng năm Canh Thìn (1640) ở động Hoa Nghiêm, chùa Non Nước còn ghi lại 5 trường hợp phụ nữ Việt Nam lấy chồng Nhật. Tuy nhiên, cũng có trường hợp phụ nữ Nhật Bản theo thuyền buôn, bị do gió bão xô đẩy đến Việt Nam và lấy chồng người Việt Nam, như trường hợp tiên tổ của dòng họ Nguyễn Huy Oánh mà chúng tôi vừa nói ở trên, hoặc trường hợp một phụ nữ Nhật Bản tên là Lý thị hiệu Diệu Quang kết hôn với võ quan nhà Lê, giữ chức Tổng binh sứ tước Lâm Thọ hầu mà GS. Phan Đại Doãn giới thiệu trong bài Về một gia đình Việt-Nhật, đăng trên Tạp chí Xưa & Nay, số 74/2000.

Vùng đất An Nam giàu có, tình người nồng hậu luôn để lại những dấu ấn tốt đẹp trong tình cảm của những người Nhật sống ở Việt Nam, cho dù quan hệ chính thức giữa hai nhà nước không còn duy trì được như trước, nhưng những cảm nhận về thiên nhiên, con người ở xứ sở này vẫn được người Nhật tìm cách lưu lại. Cuốn An Nam kỷ lược cảo 安南紀略稿 (Annam kiryakuko) do Kondo Moroshige, một viên chức của Mạc phủ biên soạn vào năm 1796 là một tác phẩm giá trị, có thể coi là biểu tượng của mối quan hệ giao lưu văn hóa Việt - Nhật. Tuy nhiên, những sách như Ngoại phiên thông thư hay An Nam kỷ lược cảo vẫn chưa dễ dàng được dịch, giới thiệu với độc giả Việt Nam.

2.2. Những người Việt Nam ở Nhật

Trong kho sách của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, cuốn Nhật Bản kiến văn lục 日本見聞錄 ký hiệu A.1164 (VHN) do Trương Đăng Quế 張登桂 (?-?)(24) viết vào năm 1828, có thể coi là cuốn sách do người Việt Nam viết về Nhật thuộc loại sớm. Tư liệu này đã được ông Ngô Thế Long, cán bộ Viện Nghiên cứu Hán Nôm giới thiệu và dịch ra tiếng Việt, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 1 (8) -1990. Nhật Bản kiến văn lục là bài ký sự do đại thần Trương Đăng Quế ghi lại theo lời kể của 5 người lính Việt Nam đi áp tải bè gỗ về kinh đô Huế bị bão cuốn trôi sang đất Nhật vào năm Gia Long thứ 14 (1815). Trong khoảng thời gian lưu lạc trên đất Nhật, những người lính không bao giờ quên được tình cảm mà người dân Nhật dành cho họ. Khung cảnh thiên nhiên, cuộc sống thanh bình cùng với sự nồng hậu, dễ gần của người dân đã để lại cho họ nhiều ấn tượng tốt đẹp. Trong thời gian lưu lạc, họ đã tận mắt chứng kiến cuộc sống sinh hoạt, phong tục tập quán của người Nhật. Khi trở về nước họ đã kể lại cho vị đại thần Trương Đăng Quế nghe. Với tài làm văn và khả năng gợi chuyện, đại thần Trương Đăng Quế đã mô tả khá cặn kẽ và súc tích về hành trình phiêu dạt sang đất Nhật của 5 người lính, từ lúc bị bão cuốn trôi, được người dân địa phương Nhật cứu vớt, giúp đỡ rồi tìm đường cho về nước, cho đến phong tục tập quán sinh hoạt của người Nhật đương thời.

Có thể tóm tắt bức tranh sinh hoạt của người Nhật qua các mục sau: Con người Nhật Bản (hình dáng; trang phục...); Chế độ quan chức (tên quan chức; chế độ điều động...); Nhà ở, quan sảnh; Chế độ quân sự (nghi thức: cách xưng hô; trang thiết bị quân sự: thuyền bè, ngựa, vũ khí, chế độ điều động); Cuộc sống ở thành thị (thương mại, hình luật, tang ma, giao tiếp, ẩm thực, tiền tệ, chữ viết, buôn bán với nước ngoài...); Thời tiết khí hậu; Nông nghiệp (lúa gạo, hoa màu); Tôn giáo (đạo Phật, Thiên chúa giáo)...

Cuối bài ký sự, Trương Đăng Quế còn ghi lại 57 từ vựng tiếng Nhật theo âm đọc của người Việt (có lẽ là các từ vựng cơ bản do 5 người lính đọc cho ông ghi lại). Ví dụ : âm nhật "ác chí" 志, chú là "thự" (nóng); "đế", chú là "gia" 家 (nhà); "thả vi" 為, chú là "hàn" (rét)... Việc phiên âm tiếng Nhật tuy chưa thật chính xác do tiếng Nhật là ngôn ngữ chắp dính, khác xa với tiếng Việt, ví dụ "ác chí"惡志 nghĩa là "nóng" ở đây chỉ có hai âm tiết, trong khi từ này trong tiếng Nhật có ba âm tiết: " a tsui"; "đế" 螮 chỉ có 1 âm tiết, trong khi từ "nhà" trong tiếng Nhật có 2 âm tiết: "ie"... song việc xuất hiện bảng từ vựng Nhật ở cuối bài ký sự còn cho thấy thêm ý thức "học tiếng Nhật" để hòa nhập vào cuộc sống ở xứ Phù Tang của mấy người lính Việt Nam, đồng thời góp thêm tư liệu về ngôn ngữ tiếng Nhật dưới cách đọc của người nước ngoài giai đoạn đầu thế kỷ XIX.

Vài lời

Từ việc điểm lại vài nét về quan hệ bang giao Việt Nam-Nhật Bản qua các công trình và bài viết của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, chúng ta có thể thấy rõ hơn về quan hệ bang giao, trao đổi kinh tế văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản được bắt đầu từ khá sớm, được phát triển hưng thịnh ở thế kỷ thứ XVI- XVIII và bị gián đoạn phần nào ở thế kỷ XIX. Song do điều kiện địa lý gần gũi, lại có nhiều điểm tương đồng về văn hóa lịch sử, mặc dù có nhiều bước thăng trầm song quan hệ Việt Nam - Nhật Bản vẫn được duy trì và phát triển tốt đẹp qua nhiều thế kỷ. Những tư liệu về quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản được lưu giữ ở hai nước sẽ góp phần thúc đẩy việc nghiên cứu bang giao giữa Việt Nam - Nhật Bản, tạo cơ sở cho sự phát triển quan hệ hợp tác giữa hai dân tộc trong thời kỳ hiện đại.

 

CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Về Abe Nakamaro, có thể tra cứu trong các bộ từ điển của Nhật như Quảng từ uyển... hoặc xem thêm thông tin trên mạng Google.

2. Sách Đại Việt sử ký toàn thư. Bản kỷ, quyển IV - Kỷ nhà Lý, mục năm Kỷ Tỵ, [Đại Định] năm thứ 10 [1149] ghi như sau: "Mùa xuân, tháng 2, thuyền buôn ba nước Trảo Oa, Lộ Lạc, Xiêm La vào Hải Đông xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn, để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương" (Đại Việt sử ký toàn thư. Nxb. KHXH, H.1988, T.I, tr.317 春二月爪哇,路洛,暹羅三國商舶入海東乞居住販賣乃於海島等處立庄名雲屯買賣寶化,上進方物(大越史記全書,卷 4, 6b 頁 ).

3. Kin Seiki: Mậu dịch với Đông Nam Á của vương quốc Ryukyu và đồ gốm sứ Việt Nam phát hiện được ở Okinawa. Kỷ yếu Hội thảo khoa học: Quan hệ Việt - Nhật thế kỷ XV-XVII qua giao lưu gốm sứ, Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam & Giao lưu văn hóa, Đại học Quốc gia Hà Nội phối hợp với Viện Nghiên cứu Văn hóa quốc tế, Đại học Showa, Nhật Bản tổ chức, Hà Nội, 12-1999. Dẫn theo Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với Châu Á - những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế-xã hội. Nxb. Đại học Quốc gia, 2003, tr.175.

4. Vĩnh Sính: Một văn thư Vương quốc Lưu Cầu gửi sang Việt Nam vào đầu thế kỷ XVI. Tạp chí Xưa & Nay, số 134, tháng 2-2003.

5. Yamabe Susumu: Vài nét về quá trình tiếp thu và sử dụng chữ Hán ở Nhật BảnTạp chí Hán Nôm, số 6 / 2008.

6. Đại Nam thực lục tiền biên. Nxb. Giáo dục. H. 2004, Quyển I, tr.32. Bản chữ Hán ký hiệu A.27/1-66 (VHN).

7. Kawamoto Kunie: Nhận thức quốc tế của chúa Nguyễn ở Quảng Nam căn cứ theo Ngoại phiên thông thư, đăng trong sách Đô thị cổ Hội An. Nxb. KHXH, H. 1991, tr.171.

8. Dẫn theo Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với châu Á - những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội, Nxb. ĐH Quốc gia, 2003, tr.160-170.

9. Phùng khắc Khoan 馮克寬 (1528-1613): người xã Phùng Xá 馮舍, huyện Thạch Thất 石室, tỉnh Hà Tây 河西 (nay là Hà Nội 河內) đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân năm Canh Thìn niên hiệu Quang Hưng thứ 13 (1580) đời vua Lê Thế Tông 黎世宗. Làm quan đến chức Thượng thư Bộ Hộ kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tước Mai Quận công 梅郡公. Ông hai lần được vua cử đi sứ sang nhà Minh (Trung Quốc). Khi mất được tặng Thái tể, 太宰 phong làm Phúc thần. Hiện ông còn để lại nhiều tác phẩm (Xem thêm cuốn Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của Trịnh Khắc Mạnh. Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2007).

10. Trần Lê Sáng: Phùng Khắc Khoan - cuộc đời và thơ văn. Nxb. Hà Nội. H. 1985, tr.234.

11. Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với châu Á - những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế-xã hội. Nxb. Đại học Quốc gia. H. 2003.

12. Lê Quý Đôn 黎貴敦 (1726-1784): người xã Diên Hà, huyện Diên Hà (nay là xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Thi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ nhị danh năm Nhâm Thân 壬申, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (1752) đời vua Lê Hiển Tông 黎顯宗. Ông là người thông minh, uyên bác, từng giữ các chức vụ quan trọng trong triều đình đương thời như Thừa chỉ 承旨, Nhập thị Bồi tụng 入侍陪從, Tả Thị lang Bộ Lễ 禮部左侍郎, Tả Thị lang Bộ Hộ 戶部左侍郎, Đô Ngự sử 都御史, Hiệp trấn Nghệ An 乂安協鎮, từng được cử làm Phó sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Hiện còn để lại nhiều tác phẩm (Xem thêm cuốn Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của Trịnh Khắc Mạnh: Nxb. Văn hóa - Thông tin, 2007).

13. Lê Quý Đôn: Kiến văn tiểu lục. Nxb. KHXH, H. 1997, tr.223.

14. Nguyễn Thanh Tùng: Một tư liệu độc đáo về quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản giữa thế kỷ XVIIITạp chí Hán Nôm, số 6 (85) - 2007.

15. Nguyễn Huy Oánh 阮輝塋(1713-?): người xã Lai Thạch, huyện La Sơn (Nay thuộc xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh). Ông đỗ Đình nguyên, Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Đệ tam danh (Thám hoa) khoa Mậu Thìn niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748) đời Lê Hiển Tông. Từng làm quan đến chức Đông các Đại học sĩ; Lại bộ Tả Thị lang; Đô Ngự sử; được cử làm Chánh sứ đi sứ nhà Thanh (Trung Quốc). Hiện còn để lại nhiều tác phẩm (Xem thêm cuốn Tên tự, tên hiệu các tác gia Hán Nôm Việt Nam của Trịnh Khắc Mạnh, Sđd.

16. Y Chu 伊周: theo ý kiến của GS.Komatsu Kazuhiko 小松和彥, Trung tâm nghiên cứu Quốc tế Nhật Bản, Kyoto, "Y Chu" 伊周 (Korechika) là tên của người Nhật. Có lẽ là vị sứ giả người Nhật Bản mà Nguyễn Huy Oánh được tiếp kiến. Người Việt có thói quen dùng tên để xưng danh, khác với người Nhật Bản dùng họ để xưng danh. Có thể tham khảo cách ghi tên người Nhật ở sách Đại Việt sử ký toàn thư. Chưa rõ Korechika họ gì.

17. Thang Hy Dũng: Giữa nhân đạo, ngoại giao và mậu dịch - lấy Triều Tiên, Lưu Cầu và Việt Nam cứu trợ thuyền Trung Quốc đời Thanh bị nạn làm trung tâm. Dẫn theo Luận án Tiến sĩ Nghiên cứu về Lý Văn Phức và tác phẩm Tây hành kiến văn kỷ lược của Nguyễn Thị Ngân. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, năm 2009, tr.68.

18. Lý Văn Phức 李文馥 (1785-1849): người xã Hồ Khẩu, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội). Ông đỗ Cử nhân năm Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long thứ 18 (1819) đời vua Gia Long. Từng làm quan Hàn lâm viện Biên tu, sau thăng Tham tri Bộ Lễ. Do mắc tội trong lúc làm quan nên bị vua đưa đi Hiệu lực ở các nước Đông Nam Á và đảm nhận trọng trách đưa người Thanh bị nạn trên biển sang Quảng Đông (Trung Quốc).

19. Về sự kiện này, sách Đại Nam thực lục viết: "Sai Vệ úy Lê Thuận Tĩnh đem theo bọn quan bị cách làm việc chuộc tội là Lý Văn Phức đi thuyền lớn Thụy Long đưa bọn người Thanh về nước" (Đại Nam thực lục, Tập 3, tr.138).

20. Nguyễn Văn Kim: Nhật Bản với Châu Á - những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội, Nxb. ĐH Quốc gia, 2003. tr.132.

21. Đại Nam thực lục, Sđd, Tập I, tr.91.

22. Nguyễn Văn Kim. Sđdtr.132.

23.Nguyễn Văn Kim. Sđd, tr.135.

24. Trương Đăng Quế: biệt hiệu Quảng Khê, sống vào thế kỷ XIX. Năm 1819 đỗ Cử nhân sau có dạy vua Thiệu Trị học. Đời Minh Mạng ông nhiều lần làm chủ khảo thi Hội. Ông là nhà sử học nổi tiếng, từng tham gia biên soạn các bộ sách như Đại Nam liệt truyện, Đại Nam thực lục tiền biên v.v..../.

Nguồn: Thông báo Hán Nôm học 2009, tr.757-781.

I. NGÀY THÁNG XUẤT BẢN SÁCH HẢI NGOẠI KỶ SỰ VÀ NỘI DUNG CỦA SÁCH

Nguyên bản in sách Hải ngoại kỷ sự do Thích Đại Sán biên soạn, hiện còn tàng trữ tại Đông dương Văn khố Nhật bản (日本東洋文庫) và Quốc lập Trung ương Đồ thư quán Trung hoa (國立中央圖書館,中華) bản của Đông dương Văn khố (kệ sách số 11, 11-k-56) chia 6 quyển ra làm 6 tập. Còn bản của Trung ương Đồ thư quán thì 6 quyển đóng thành 2 tập. Đầu bản sách của Đông dương Văn khố có đóng 3 con dấu: “Đông dương văn khố”, “Tứ minh Lư thị bão kinh lâu Tàng kinh ấn”, và “Đăng điền kiếm phong tàng thư chi ấn” do đó, biết bản sách ấy nguyên thuộc Bão kinh đường tàng thư của Lư Văn Chiêu  ở Dư Liêu, sau vào tay Đằng điền Phong bát (Khiếm phong), bác sĩ người Nhật bản và sau khi Đằng Điền bác sĩ qua đời, mới bỏ vào Đông dương văn khố. Đầu bản này có 3 bài  “tựa” của Dũng Giang Cưù Triệu Ngao (Thương Trụ), Ngô Giang Từ Phàm (Thiên đình), Tấn Lăng, Mao Đoan Sỉ (Hành Cửu) và bài Bản sư Hải ngoại Kỷ sự Tự của Đại Việt Quốc Vương Nguyễn Phúc Châu (tức Minh vương Nguyễn Phúc Châu chép trong Đại Việt Sử ký); toàn bộ các quyển chưc in đều sạch sẽ, có thể gọi một bộ sách hoàn hảo. Trái lại, trong các bài tựa của bản sách Trung ương đồ thư quán, trừ bài tựa của họ Từ hoàn toàn, còn bài của họ Mao, họ Cừu  đều không toàn vẹn, tuhứ tự cũng xáo trộn; vã lại, không thấy văn tự của Nguyễn Phúc Châu, cách sắp đặt bản in cũng không có mỹ thuật, trong sách chỗ nào cũng thấy có thiếu chữ, thiếu bài và thiếu trang (quyển 1 thiếu trang 9 đến trang 16, quyển 11 thiếu trang 11-12, 25-26 và 33, quyển III thiếu trang 25-26-35-36, quyển IV thieus trang 1-2-19-20-29 đến 36, quyển V thiếu trang 1 đến 4-17-18-21-24-31-33, quyển VI thiếu từ trang 3 đến trang 8). Chỉ có 2 bản đều thuộc bản nguyên san, điều đó không thể nghi ngờ.

Ngoài bản nguyên san nói trên, Thượng hải Tiến bộ Thư cục con phiên ấn, bản sách này chia làm 2 quyển, để đem vào bộ Bút ký tiểu thuyết đại quan, đệ lục tập, đệ lục hàm, đầu quyển có phụ chép bài “Hải ngoại kỷ sự đề yếu như sau” như sau: “Sách này do Đại Sán Hán Ông (大汕厂翁) đời nhà Thanh soạn, tất cả 6 quyển. Khương Hy năm giáp tuất, đáp ứng lời mời của Việt vương, ông đi qua Quảng nam; những nơi trải qua, sơn xuyên, hình thế, phong thổ, tập tục ông đều ghi chép tất cả xen lẫn những thơ văn tao nhã hứng thú, ông chính là một ẩn giả lánh mình trong cửa thiền vậy. Cừu triệu Ngao bảo sách này gồm có cái hay của Đồ Thiếu Lăng, Liễu Tứ Hậu, có thể bổ khuyết những điều mà các sách Sơn Hải kinh, Hải chí, Chức phương ký, Vương hội đồ chưa từng chép đến v.v…”.[1][1]

Lại ngoài ra, Tứ khố toàn thư tổng mục đề yếu (quyển 78), sử bộ 34, Địa lý loại tồn mục 7 chép rằng: “Hải Ngoại kỷ sự 6 quyển, bản sách do quốc triều Thích Đại Sán biên soạn và Chiết giang Tuần vũ tìm thấy đem dâng. Đại Sán là Đại sư ở chùa Trường thọ, tỉnh Quảng Đông. Mùa xuân năm Ất hợi Triều Khang Hy Đại Việt quốc vương mời qua thuyết pháp, hơn một năm lại trở về, nhơn ghi chép phong thổ nước ấy và những điều nghe thấy trong khi qua lại trên đại dương. Đại Việt quốc Tiên thế là rể của nước An nam, chia cứ nam biên, xưng hiệu Đại Việt. Đầu sách này có bài tựa của Nguyễn phúc Châu, đề lạc khoản bính tý bồ nguyệt (tháng 5), tức khang hy năm thứ 35 vậy”.

Xét lạc khoản bài “Bản sư Hải ngoại Kỷ sự tự của Nguyễn phúc Châu, đề giáp tý bồ ngyệt (tức tháng 5 niên hiệu Khương Hy) mà trong bài tự có nói rằng: “Chép một vài điều, góp lại thành tập, nhan đề  “Hải Ngoại kỷ sự”, ngày trở về nước đưa cho tôi xem và khiến đề tựa”. Xem đó, đủ biết  bài ấy do Đại Sán yêu cầu Minh vương viết lúc sắp sửa từ giả Quảng nam về Quảng đông. Thứ nữa, bài tựa họ Cừu đề Khương hy Kỷ mão mạnh xuân, bài tưạ họ mao đề Khương hy kỷ mão tháng 8, bài tựa họ Từ không để rõ ngày tháng, nhưng trong bài bảo rằng: “Khoảng mùa xuân năm Giáp tý (Khương hy năm 23) từng gặp thấy Thạch công hòa thượng (tức Đại sán). Mười lăm năm sau trở lại Châu giang, lại gặp Thạch hòa thượng từ cổ An nam về nước và được thấy bản thảo tập Hải ngoại kỷ sự và các tập thơ”. Thế thì, bài tựa ấy làm ra cũng có lẽ vào năm Khương hy kỷ mão. Xem các dẫn văn trên, năm san hành sách Hải ngoại kỷ sự có lẽ vào khoảng năm Khương hy Kỷ mão năm thứ 33 (1699)  nghĩa là 3 năm sau ngày Đại sán từ Quảng nam trở về Quảng đông.

Sách ấy ghi chép khởi đầu từ tháng 8 năm Giáp tuất Khương hy 33 (1694), lúc Đại sán tiếp kiến sứ giả Đại việt tại Am trường thọ Quảng đông, cho đến khoảng tháng 11 năm Ất hợi Khương hy 34 (1695), lúc ông trở lại Thuận hóa, vì ngược gió chưa trở về Quảng đông, thì chấm dứt.

Xét tổng quát những ghi chép trong sách, chẳng những đối với việc Đại sán được quan dân Quảng nam nhiệt liệt hoan nghênh, những lời nói thù ứngtrong lúc ông cùng Nguyễn vương trò chuyện và việc ông chủ trì các ngày pháp hội, đều có tự thật rõ ràng, cho đến những trạng huống các thương thuyền vượt biển qua Nam, các nhân thổ, nhân vật, tập tục, chế độ xứ Quảng và tình trạng sinh hoạt Hoa kiều đương thời, cũng đều thuật lại một cách tỉ mỹ. Ngoài ra, còn thâu góp ghi chép các bài thơ điếu vãn, các bài luật thơ hay tuyệt cú do Đại sán trong lúc lưu trữ cư dân đất Việt, tùy thời tức cảnh, cao hứng ngâm đề, cộng tất cả 110 bài (trong số đó có 3 bài làm sau khi trở về Quảng đông, đầu thu năm Bính tý) và những bài thiền luận, những thư từ qua lại với các yếu nhơn trong Nguyễn phủ, tất cả cộng 21 bài văn. Duy chỉ tình trạng sinh hoạt của Đại sán trong lúc áp đông [2][2] tại chùa Thiên mụ Thuận hóa, từ tháng 11 năm Ất hợi đến tháng 6 năm sau, Bính tuất (Khương hy năm 35), và tình hình vượt biển trở về Quảng đông thì không thấy chép đến.

Những  “An nam du ký” của người Trung Quốc trong khoảng cuối nhà Minh đầu nhà Thanh, thực ra thưa thớt không có bao nhiêu. Trừ tập “Hoa di biến thái”[3][3] của Nhật bản, ghi chép những báo cáo của bọn thương khách thông thương với Quảng nam, chỉ có tập ‘An nam cung dịch ký sự”[4][4] của Chu Thuấn Thủy (Chi dự), “An nam kỷ du”[5][5] của Phan Đình Khuê, “An nam tạp ký”[6][6] của Lý Tiên Căn và “Hải ngoại kỷ sự” của Thích Đại Sán, mấy bộ ấy mà thôi.

Tựu trung, xét về ký thuật rộng rãi, nội dung đầy đủ và tính cách khá tin cậy, thì bộ Hải ngoại kỷ sự hơn xa các sách khác; do cao độ của giá trị sử liệu, khiến người ta thấy một tia sáng về xã hội Hoa kiều và dân thổ trước Quảng nam cuối thế kỷ 17, đồng thời sách ấy có thể bổ khuyếtcho các bộ sử thực lục tiền biên, Đại nam liệt truyện tiền biên và các sách Quảng nam du ký hay văn kiến lục của người Âu khoảng thế kỷ 17-18 như C.BORI, BÉNIGNE VACHET, Ư.DAMPIER, THOMAS BOWYEAR, PIERRE POIVRE, JEAN KOFFLER, ROBERT KIRSOP.

Nay cứ theo bản của Đông dương văn khố, chúng tôi chụp hình toàn bộ 6 quyển Hải ngoại kỷ sự giải thích sơ lược tiểu sử của Thích Đại Sán và đầu đuôi chuyến lữ hành qua Quảng nam của ông, để giúp các học giả đồng chí tham khảo.

II. TIỂU SỬ CỦA THÍCH ĐẠI SÁN

Thuộc về danh hiệu của Thích Đại Sán, Đại Nam Liệt truyện tiền biên (quyển 6 ) chép rằng: Thạch Liêm hòa thượng (石濂和尚) hiệu Đại Sán, Hán Ông (大汕厂翁) người tỉnh Chiết giang nhà Thanh. Xét chữ tên Thạch liêm. Sách Hoa Di biến thái chép làm Thạch liên, (石蓮) ngoài biệt hiệu Đại Sán và Hán Ông, tục thường lại gọi “Thạch đầu đà” (石頭陀). Còn thuộc về quê quán, bài tựa của Tăng Sán trong Lục Đường Tập, tư tập của Đại Sán, chép rằng: “Hòa thượng người Cửu Giang cùng làng với tôi”, cũng trong tập ấy Đào Huyên chép rằng: “tôi nghe nói hòa thượng nguyên quán ở Giang Hữu và đến Quảng Châu thuyết pháp….”. Ngoài ra, hoặc bảo ông người Lãnh Nam, hoặc bảo người Ngô, hoặc bảo Giang Nam hoặc bảo Trì Châu, hoặc bảo Tô Châu, hoặc bảo Nam Kinh, các thuyết, phân vân chưa biết thuyết nào đúng. Cứ theo thiển kiến của tôi, trong các thuyết ấy, nên lấy thuyết của Chuyết Tây có thể đúng hơn. Xét hai bài tựa của họ Tăng, họ Đào bảo Cửu Giang, bảo Giang hữu thì cũng đều thuộc Giang Tây, hình như đều là chữ Chuyết Tây nói nhầm. vả lại, Đại Sán năm về già bị bắt giải về nguyên quán, giữa đường mất tại Thường Sơn thuộc tây nam tỉnh Chuyết Giang (tường thuật ở đoạn sau). Chiết Tây tức Chiết Tây lộ đời nhà Tống, lấy Hàng huyện làm lỵ sở, tức một giải Hàng Gia hồ ngày nay, nơi ấy cũng tiếp liền với Tô Châu (tức Ngô), có lẽ vì thế mà bảo nhầm là Giang Nam.

Thứ nữa, thuộc về tài cán của ngài Đại Sán, Đại nam Liệt truyện tiền biên chép tiếp rằng: “Bác nhã khôi ngô, phàm các môn tinh trượng, luật lịch, diễn xạ, lý sổ, triện lệ (viết chữ), đơn thanh (vẻ), môn nào cũng thông hiểu càng sở trường về thơ”. Câu này không phải do sứ giả Việt Nam tự ý viết ra, thực ra đã rút câu văn: “Trượng nhơn là bực bác nhã khôi kỳ, cáng sở trường về thơ, cho đến các loại tinh trượng, lịch luật, diễn xạ, lý số triện lệ đơn thanh, môn nào cũng siêu việt”, trong bài tựa của Mao tế Khả đề Ly lục Đường tập. Đại nam liệt truyện tiếp theo đoạn văn dẫn trên, chép rằng: “Cuối đời nhà Minh , người Mãn Thanh  làm chủ Trung quốc, Thạchliêm giữ nghĩa chẳng chịu làm tôi, bèn từ biệt mẹ già, xuất gia đầu phật chống gậy vân du, phàm những nơi danh thắng sơn xuyên, dấu chân hầu khắp”.

Mao đoan Sỉ đề tựa Hải ngoại Kỷ sự cũng viết rằng: “Hán Ông hòa thượng sinh ra đã kỳ dị, từ trẻ theo đạo phật, rộng xem các kinh luận ngũ minh và âm dương toán số, thấu rõ cát hung, thường chu du thiên hạ, tiếng tăm dậy khắp trong ngoài”.

Và sách Hoa di Biến Thái (trong quyển 32) chép lời báo cáo của người Tàu, chủ thuyền Quảng Đông, chuyến 6, năm hợi (1695), rằng: “Nói tóm tắt,Thạch liêm tuy nguyên quán tại Nam Kinh, nhưng cư trú ở Quảng Đông hơn 20 năm, trong khoảng ấy đức thịnh của ông rất thịnh sáng, bởi thế quan dân xa gần quy y rất đông. Trong bọn thương khách thuyền chúng tôi cũng có người đã từng đến am Trường Thọ lạy phật”.

Mặt khác, đầu quyển Ly lục Đương tập, do Đại Sán biên tập, có phụ đính 34 bức tranh vẽ, miêu tả sự sinh hoạt hằng ngày của Đai Sán, từng bức phân biệt, có đề văn của Khuất đại quân (ông Sơn), Tăng Xán (Thanh lê), Lương bội Lan (Dược đình), Vương thế Trinh, Từ Phàm, Ngô Ỷ (Viên thứ). Ngô thọ Tiềm và Cao Tằng Vân; lại có bọn Khuất đại quân, Tăng XÁn, Lượng bội Lan, Ngô Ỷ, Vương Bồi, Ích Trọng, Hùng nhất Tiêu, Trương Tỗng, Cao tằng Vân, Đường Hóa Bằng, Châu lại Tuấn, Phàn trạch Đạt, Ngô thọ Tiềm, Đào Huyên, Lý phương Quảng, Mao tế Khả, Hoàng Hạc nham đề tựa, thực có vẻ dồi dào[7][7] và trong tập chỗ nào cũng thấy những thơ văn đề vịnh hoặc tống tặng nhau của Đại Sán  cùng với Khuất ông Sơn, Ngô viên thứ, Tăng thanh Lê, Lương dược Đình, Ngô mai Thôn, Từ tùng Chi,và Trần kỳ Niên (Duy tùng), bọn văn nhân nổi tiếng triều Khương hy.[8][8]Gần đây Lý tuấn Chi biên tập Họa gia thi sử đời nhà Thanh (nhâm hạ 6 b), ở mục Đại Sán cũng chép rằng: “Đại Sán tự Hán Ông, người Lãnh Nam, tu ở chùa Kim Lăng, có tài vẽ chân dung rất khéo. Khương hy năm Mậu ngọ (1678) vẽ cho Trần Già Lăng một bức đồ hình, có đề lời, mặt đẹp râu dài, tinh thần hoạt bát, thời ấy hầu khắp mặt danh nhơn trong nước đều có đề vịnh. Có biên soạn Lục-(sic) Ly đường Tập”.

Và người Mỹ A.W.HUMMEL biên tập Thanh Đại Danh Nhân Liệt Truyện” ở mục Ngô Ỷ cũng có nói đến sự tích Đại Sán. Mục ấy chép rằng:[9][9] “Những tập sách của Ngô Ỷ được xuất bản nhờ ở sự khuyến khích của bao nhiêu bạn tốt lúc sinh tiền, thứ nhất là nhờ ở sự giúp đỡ rất đắc lực của một nhà sư giàu có tên Đại Sán (1633-1702). Nhà sư ấy nhờ sự cung dưỡng của Thượng Chi Tín (con Bình Nam vương, Thượng Khả Hỷ) và của bọn quan viên quản lý việc mua bán ở nước An nam phồn thịnh, mà trở nên giàu có. Ydùng những của cải súc tích ấy viện trợ cho các văn nhân địa phương. Nên nói thêm rằng bọn văn nhân đó, do những tác phẩm của họ, làm cho việc tốt lành của kẻ viên trợ được đồn tiếng khắp nước”.

Xen tổng quát các bài Kỷ sự và các sự thực nêu ra trên đây, chúng ta có thể tưởng thấy: khoảng giữa triều đại Khương hy, ở xã hội Lãnh Nam và trong thơ đàn có một vị tiếng tăm lừng lẫy, y cùng với bọn Khuất ông Sơn, Ngô viên Thứ, Tăng thanh Lê, Lương dược Đình, Ngô mai Thôn, Từ tùng Chi, Trần kỳ Niên, giao tình rất khăng khít. Những người đến tham thiền tại am Trường Thọ do y chủ trì, chắc đông đúc lắm, và trong ấy cũng có nhiều thương khách, bọn thong thương với nước Nhật bản, Quảng nam. Nhưng đọc kỹ Hải ngoại kỷ sự và ly lục đường thơ tập, chúng ta nhận thấy rõ vị hòa thượng ấy tự phụ chẳng tầm thường, đắc ý tỏ ra ngoài mặt, quyết chẳng phải là một nhà tu hành khiêm tốn; đối với sự ương gàn tự thị, dua nịnh quan trường, ngôn luận quá buông luông, và sinh hoạt đời tư quá xa xỉ của hòa thượng Thạch Liêm, trong bọn nhơn sĩ trí thức lúc bấy giờ, có kẻ đề lời phiền tách, đến đổi xem y như yêu tăng, đứng lên đả kích chẳng thiếu chi người. Nay lược cử ra vài điều sau đây, để giúp độc giả hiểu rõ đời sôngds lạ lùng của Đại Sán.Vương sĩ Trinh, Ngư dương sơn nhân, làm bộ sách Phân cam dư thoại (qu.4) từng công kích gắt gao việc làm và nhân cách của Đại Sán. Bài ấy viết rằng:[10][10] “Quảng châu có yêu tăng tên Đại Sán, tên chữ Thạch Liêm, tự xưng người Giang nam, hoặc bảo người Trì châu, hoặc bảo người Tô châu, quê quán chẳng biết nơi nào đích xác. Xuất thân rất bần tiện, có kẻ bảo y từng làm tùy phái các phủ huyện, tính sâu độc, vẽ khéo, xây cất nhà cửa rất có xảo tứ. Cạo đầu làm sãi, tự xưng Giác lãng Đại sư[11][11]. Mang y bát dẫn môn đồ, du phương Lãnh nam, cư trú ở phía tây thành, chùa Trường thọ; hằng ngày hầu chực các nhà đương sự có thế lực, thường vẽ đồ hình tố nữ, điểm kiểu chơi bí mật, để dua nịnh các quý nhơn, càng được thân cận, chừng ấy không còn kiêng sợ chi nữa; những quan lại tỉnh Việt Đông, lọt vào vòng mưu mô xúc xử cả y, mười người hết chín. Năm Giáp tý, (Bút giả chú thích: Khương hy năm thứ 23 tức năm 1684) ta vâng sứ mệnh đến tỉnh Việt, nghe chuyện, trong lòng rất ghét, sau nghe y buôn lậu qua  An nam, chở về hàng thuyền báu vật, như sừng tê, ngà voi, châu ngọc, san hô….trị giá hàng vạn, mà các quan địa phương chẳng ai làm khó dễ gì”.

Nay xét Vương sĩ Trinh là người đồng thời với Đại Sán, thời kỳ biên soạn bộ Phân Cam Dư Thoại là tháng chạp năm Kỷ sửu triều Khương hy (48), tức đầu năm công nguyên 1710, vài năm sau khi Đại Sán tạ thế; những ghi chép trong ấy được xem như đại biểu ý kiến của người đương thời, tất nhiên có thể tin cậy được. Cuối đời nhà Thanh, Mậu Thuyên Tôn có soạn một bài “Thạch Liêm Hòa Thượng Sự Lược”, ghi chép nhiều việc có thể bổ sung thiếu sót của “Phân cam dư thoại”. Sự xuất thân quỷ quyệt của Đại Sán, thời gian y trú trì Trường thọ như thế nào, sự thực y cấu kết với các yếu nhơn Quảng châu và bọn Khuất đại quân ra làm sao, đều do bài ấy làm sáng tỏ, bài văn của họ Mậu chép rằng:[12][12] “Sư Đại Sán tự Thạch Liêm, người Ngô quận, từ bé đã tinh ranh, vẽ hình sĩ nữ rất khéo, làm thơ có câu hay; chẳng biết cớ gì mà xuất gia, tông tích rất bí mật quỷ quyệt; chẳng hề thọ giới với thầy nào, nhưng nhờ Khuất ông Sơn chứng nhận, mạo xưng đích tự nối dòng sư Giác Lãng. Nay xét sư Giác lãng mở thiền đường vào cuối đời Vạn lịch, thời ấy Thạch Liêm còn chưa sinh, ngài viên tịch vào năm Mậu tý đời Thuận trị, (bút giả chú thích: Thuận trị thứ 5, tức năm 1648) Thạch Liêm mới 16 tuổi, chẳng hề được tiếp kiến hay được phó chúc điều chi bao giờ. Lúc đầu mới váo Quảng châu y bán họa tượng Quan Âm, chỉ xưng là thầy giảng mà thôi, sau ngờ nịnh hót Kim Quang Huyến, mạc khách của Bình nam vương, nhờ Huyến giới thiệu được vào yết kiến Bình nam vương và Yêm đạt Công[13][13]. Nguyên chùa Trường thọ ở Quảng châu và chùa Phi lai ở Thanh viễn, hai chùa đều do Thực Hành hòa thượng chủ trì. Sau khi Thực Hành tịch, Quang Huyến nói với Yêm Đạt Công cho Thạch Liêm chủ trì Trường thọ am; Trường thọ không có sản nghiệp, chùa Phi lai có ruộng cho thuê mỗi năm được hơn 70 thạch lúa; Thạch Liêm xin các nhà đương sự lấy chùa Phi lai làm Hạ viện, rồi đuổi hết đồ đệ của hòa thượng Thực Hành để nuốt hết số lúa của ruộng chùa, việc đó có nhờ Ông sơn giúp sức. Từ ấy Thạch Liêm ngày càng giàu có, y vốn người có nhiều xảo tứ, thường lấy gỗ lê, gỗ đàn, đồng thau, đá hoa, chế làm các đồ dùng như bàn ghế, bình phong, tủ bàn, bát đĩa….để biếu các nhà đương sự và các bậc sĩ phu, rất được mọi người tán thưởng. Bức họa đồ có đề từ cữa Trần già Lăng, chính do tay Thạch Liêm vẽ, rực rỡ như hình sống, có kẻ bảo y có vẽ một tập hình tố nữ với kiểu chơi bí mật rất khéo, để dua nịnh các quý nhơn, việc đó chưa biết chừng cũng có. Ngô viên Thứ (Ỷ) ra chơi Quảng châu, Thạch Liêm than phiền với Ngô về việc thù ứng rộn ràng, khó nhọc không chịu nỗi. Ngô cười bảo rằng: “Ngươi chịu không nỗi, sao chẳng xuất gia cho rồi?” Người ta truyền tụng câu ấy để cười chơi”.

Cứ theo Quảng Đông Thông Chí (San lại năm Đồng Trị thứ 3, bản khắc họ Nguyễn, quyển 229) chép rằng: Trường thọ am tọa lạc cách phía tây nam thành Quảng Đông 5 dặm, nền cũ của Thuận Mẫu Kiều; đời Vạn Lịch nhà Minh năm thứ 34 (1606), Tuần vũ ngự sử Trầm Chánh Long xây cất Từ độ Các và Diệu chánh Đường, hai cánh thiền phòng đất rộng chừng tám mẫu, Huyện lịnh Lưu đình Nguyên lấy ruộng chùa Bạch vân (chùa bỏ hoang) 43 mẫu thêm vào để cung phụng hương hỏa, có bài bi (bia)-lý của quan ngự sử. Nhưng đến cuối đời nhà Minh am ấy cũng chưa nổi tiếng, từ ngày Đại Sán kế vị Thực Hành hòa thượng, am ấy mới ngày càng hưng thịnh, trở nên một nơi danh thắng tỉnh Quảng châu. Vương sĩ Trinh Quảng châu du lãm tiểu chí (Chiêu đại tùng thư Ất tập, quyển 22), mục Trường thọ am chép rằng: “Trường thọ am ở ngoài thành, phía tây, sáng lập khoảng triêu Vạn Lịch, sư Đại Sán sữa mới lại. Đại Sán hay thơ khéo vẽ, kiến trúc có xảo tứ. Mé phía Tây chùa có ao chảy thông với Châu giang, nước khi đầy khi cạn ăn dịp với nước lên nước ròng ở sông; phia bắc ao là đình Bán Phàm (半帆)quang co theo hành lang đi qua phía đông là Hội không Hiên (繪空軒), trước hiên trăm hoa tươi tốt, cảnh trí đáng yêu, từ đình bán Phàm và ao đi qua phía nam, thẳng bờ đều trồng lệ chi (cây vải) long nhãn, phía nam ao là Hoài cổ Lâu (懷古樓) , nguy nga rộng rãi, phía đưới là Ly lục Đường (離六堂), cây Nước trong xanh, phòng hiên u tịch, như kiểu nhà ở vùng ngô việt. Chùa có Tượng Thích Ca niêm hoa, quang thiếp vàng ngọc , mã não xà cừ, nghiêm trang rực rỡ, lại có tượng đồng, nghe nói đúc từ đời Đường”.

Mậu Thuyên Tôn trong bài “Thạch Liêm hòa thượng sự lược” cũng có thuật qua cách bố trí của Trường Thọ am như sau: “Trước cửa am có hai tượng thiên vương do tay Thạch Liêm vẻ, tinh thần linh động phi thường; thiên qua phía đông am có ao chảy thông với sông Châu giang, nước sông quanh co chảy quanh trước điện rồi dội vào ao, có hòn non bộ xây bằng đá Anh (đá non bộ sản xuất tại huyện Anh Đức, tỉnh Quảng Đông) lập vườn trồng cây, có nhà nghĩ mát, phía bắc ao có bán phàm thất, phía bắc hội không hiên, phia nam hoài cổ lâu, phía dưới Ly lục đường, đều làm hồi lang nối thông với nhau v.v…”

Do đó, chúng ta có thể tưởng thấy Trường Thọ am thanh u đẹp đẻ như thế nào.

Trong bài của Mậu thị có dẫn tiếp hai bài văn kể tội Đại Sán của Phan Thứ canh, bài thứ nhất viết cho Lương Dược Đình (Bội lan), bài thứ hai viết cho đại đương sự tỉnh Việt. Văn ấy như sau:

Thư viết cho Lương Dược Đình: “Thạch Liêm lòng kiêu khí hoạnh, chuyên nói láo để dối đời; chê bai cựu đức tiên hiền, chẳng chút kiêng sợ, lại nói láo đã từng gặp dị nhơn, thông thiên văn, hiểu độn giáp, có tài hô phong hoán vũ, như Văn Thành, Ngũ Lợi[14][14] ngày xưa. Kịp đến một lần lên Kinh sư, một lần qua Giao chỉ, lại càng lếu láo quá đỗi, ngang nhiên tự cho là “Duy ngã độc tôn”! Gần đây tôi có xem tập Hải ngoại kỷ sự của y viết, một bằng chúng giả dối, không nói không được. Những bộ sách Nguyên Lưu Tựu Chánh[15][15], bao nhiêu láo khoét không sách vở, ngụy biện vô lý, không thể kể xiết. Nay chỉ đơn cử tập Hải ngoại kỷ sự, chương đầu nói “ hầu sắp sửa lên phương bắc, vì có lệnh bề tên tuyên triệu”, ấy là nói láo vậy. Dạy học trò uống rượi, ấy là phá luật vậy. Truyền phép cho Phiên Quốc Vương, ấy là bán phép vậy. Khắc chữ “tính dữ thiên đạo” vào đồ chương (ấn), tự coi mình như Khổng tử, ấy là tiếm thánh vậy. Ngự chế bài tự khen ngợi Ngũ Đăng Hội Nguyên (五鐙會元) mà y lại bắt bẻ chê bai không tiếc lời, ấy là kháng chỉ (chống ý vua) vậy. “Hủy bản in, nghiêm cấm” là lịnh phán xử nhất thời của đương sự tỉnh Chiết Giang, thế mà y bảo “phụng chỉ nghiêm cấm” ấy là kiểu chỉ (mạo xưng chỉ dụ của nhà vua) vậy. Bộ sách Ngũ Đăng toàn thư đã được dâng lên Ngự lãm và được ngự chế cho bài tự văn, thế mà y dám nặng lời chê bai, ấy là sán thượng  (chê vua) vậy. Tước động Tôn  (dòng Tào Động) bọn Đôn hà Thuần (bút giả chú:tức Đơn hà tử thuần) 5 đời, ấy là san tước tổ tông vậy. Đổi Vân cư Ưng (bút giả chú: tức Vân cư đạo Ưng) làm Cữu Phong Mãn, Đông an Phi làm Đồng an Uy,  âý là thay đổi tổ tông vậy. Vốn xưng đời thứ 34, Tào động lại xưng đời thứ 29, ấy là trái loạn thế thứ vậy. Bấy nhiêu việc trên ấy có hại cho thế giáo và làm trở ngại cho pháp môn rất lớn”.

Và thư viết cho Đại Vương sự tỉnh Việt: “Thạch Liêm cuồng quấy quá đỗi! kẻ tu hành, trọng nhất là giới luật, thì y uống rượi ăn thịt, điềm nhiên chẳng biết xấu hổ; ưa nhất là chất phác nâu sòng, thì y quá đỗi xa xỉ, tự phụng sang như vương hầu; chuộng nhất là tính nhu hòa, thì y kiêu ngạo ba hoa, xem người nửa mắt; giữ gìn nhất là đức chân thành, thì y bịp bợm dối đời, chẳng bao giờ có một lời nói thật; quý nhất là lòng từ bi, thì y lập tâm hiểm ác, lấy việc hại người làm sở trường. Sự tối phạm pháp của Thạch Liêm là tư thông ngoại quốc, lịnh cấm xuất dương tuy đã bãi bỏ, nhưng mua bán là việc của nhà buôn, nay Thạch Liêm là kẻ tu hành, dám tư thông ngoại dương, đem hóa vật can cấm bán cho Giao châu để cầu lợi; ai nghe cũng lắc đầu, thè lưỡi,, ấy là việc y thêu 6 chữ vàng: “Vương phủ dụng, Trường thọ định”, (đồ dùng vương phủ, do Trường thọ định) ở đầu múi những cây hàng lụa. Xét lúc An nam Mạc thị mới quy thuận, chỉ phong Đô Thống Sứ, nay Nguyễn phúc Châu chưa xin phong, chưa chịu sắc mạng triều đình, sao được xưng “vương phủ”, nghiễm nhiên ngang hàng với các thân vương Trung Quốc?Lại nữa, Quốc luật cấm mua bán người, thế mà y dám mua con gái nhà lành làm con hát, rồi lần lượt đem bán lại1 Thiết tưởng những kẻ có trách nhiệm phong cương đân xã, nên thâu hết các sách xuất bản của y đem đốt hết; nghiêm cấm y tư thông ngoại dương, tư giấy các sở quan tấn, từ nay về sau cấm các sãi chùa Trường thọ không cho một người nào xuất dương, và hóa vật chùa Trường thọ không cho một thùng nào ra khỏi cửa biển, ngõ hầu chấn chỉnh phép nước, khỏi di hại cho địa phương”.

Trên đây liệt cử các sự tích đê hèn của Đại sán, phải chân đúng chân tướng đương thời, điều đó không thể xét rõ. Ví xử các việc ấy đều đúng sự thực, thì sự kết án tội lỗi của y cũng tùy theo sở kiến của từng người; sư nói phải, vãi nói chăng, ý kiến chẳng giống nhau hết thảy. Chẳng qua trong các hành động của Đại sán, cũng có chỗ hơi vượt qua lề lối, ấy là sự thực không thể chối cãi được. Ví dụ như Hải ngoại kỷ sự (KI 332a) chép rằng: ‘Trong nước (Quảng nam) các Tả, Hữu, Thừa tướng, bốn Đại đồn dinh và Quốc nguyên lão Đông triều hầu, Học sĩ Hào đức Hầu, Vương huynh Lệ tuyền Hầu, Thiều dương hầu, các vị đại lão ấy thường cùng ta tiếp kiến, nghe ta ở Trung hoa thường có rao bán gió sấm, cầu mưa, muốn tâu với quốc vương xin ta cầu một đàn”….Và ở quyển đầu Ly lục Đượng tập có phụ chép một bản đồ bán mưa (mãi vũ đồ), trong đó vẽ 5 người học trò đứng quây quần trước cửa “Trường thọ thiền lâm” xem một tờ yết thị mấy chữ: “Thạch dầu đà hữu ta phong vũ xuất mại” (Ông sãi họ Thạch có chút ít mưa gió đem bán). Các việc ấy có thể chứng thực câu văn “lại nói láo từng gặp dị nhân, tinh thiên văn, hiểu độn giáp, có thể hô phong hoán vũ, như bọn Ngũ Lợi Văn Thành ngày xưa” trong bữ sthư của Phan thứ Canh đẫn ra trên đây. Nay xét hai phong thư của Phan thứ Canh, tội trạng rất lớn của Đại sán và cũng là nguyên nhân chính yếu làm cho y phải hỏng chân, chẳng ngoài việc du hành ở Quảng nam của y. Bình tâm mà kuận, truyền pháp cho Phiên Quốc vương, thì có gì là tội lỗi, vã lại đứng về quan niệm truyền thống của văn hóa Trung hoa mà nói, thì “Viễn bá thánh giáo”, còn đáng được khuyến khích là khác, nhưng đây lại diễn thành việc phạm tội “Mại pháp”. Cứ theo thiển kiến, ấy chẳng qua vì cớ Đại sán nịnh Nguyễn phúc Châu, kẻ tu hành chưa chịu sắc mạng triều đình mà xưng vương, và đã là kẻ tu hành còn theo việc bán buôn phi pháp…..

Trong Ly lục Đường tập, bài tựa của Cao tằng Vân viết rằng: “Thạch hoà thượng là thiền giới pháp tự, nơi theo Tào động chánh truyền”. Cũng trong tập ấy, bài tựa của Đường Hóa Bằng (Bàn đàm) viết: “Hòa thượng là dòng thứ 29 dòng Tào động, con của Trượng nhân, cháu của Thọ xương”. Và Nguyễn phúc Châu, cuối bài “Bản sư hải ngoại kỷ sự tự” đề lạc khoản như sau “Đại Việt Quốc Vương Nguyễn Phúc Châu, thọ bồ tát giới đệ tử, pháp danh Hưng Long, đính lễ san tại Tây cung Giác vương nội viện, tĩnh danh phương trượng và có đóng 3 con dấu: “Tào động chánh tông tam thập thế”, “Nguyễn phúc Châu ấn”, và Thiên Túng Đại Nhân”. Việc ấy có thể chứng thực hai xử sự mới sau đây: Việc thứ nhất, Khương hy năm thứ 34 (1695), lúc Đại sán đến Đại việt đã xưng thế thứ dòng 29 dòng Tào động, đến sau khi truyền giới cho Nguyễn phúc Châu ở Quảng nam lập ông làm pháp tự, đặt cho danh hiệu là “Tào động  chánh tông đời thứ 30” và đạo hiệu là Thiên túng đại nhơn. Việc thứ hai, cứ theo Đại nam thực lục tiền biên (qu 8 và 9-10) ghi chép, họ Nguyễn ở Quảng nam lúc đầu xưng Trần thủ, đến Khương hy năm thứ 31 91692) tức Nguyễn thị đệ lục đại Phúc châu kế lập, năm thứ hai, mới xưng “Quốc chúa”, kể đến tháng chạp năm kỷ sửu thứ 18 (1705) mới bắt đầu đúc Quốc tỷ, khắc chữ: “Đại Việt Quốc Nguyễn Vương vĩnh trấn chi bảo”, lại đến Càn Long năm thứ 9 (1744), đệ bát đại Phúc khoát (tức Võ vương 1738-65) ở Phú xuân tức Thuận Hóa mới chính thức tức vương vị, đúc vương tỷ, đổi “phủ” xưng làm “điện”, các công văn còn noi dùng Quốchi êụ và niên hiệu Lê triều. Nay xem bài “Bản sư Hải ngoại kỷ tự sự”, biết rằng Phúc châu đã xưng Đại viêt Quốc Vương sớm từ năm Bính tý (1695), trên sự thực trước ngày xưng vương của Nguyễn phúc Khoát đến 48 năm. Việc đáng chú ý hơn hết, là Đại sán đối đãi Nguyễn phúc châu, xưng hô bằng quốc vương chẳng chút kiêng kỵ gì, thậm chí trên bài “Khãi” còn tôn xứng lên làm  “Đại vương” là khác nữa.

Xét các bài dẫn trên ra đây, Đại sán còn xưng đích tự của Giác lãng thiền sư, đã là một việc rất khả nghi, y xưng pháp tự thứ 29 dòng Tào động, lại bị bài xích làm hỗn loạn thế thứ, nay y lại đem pháp thống truyền cấp cho Phiên quốc vương, thì sự làm sôi nổi sóng gió giới Phật giáo Trung hoa là lẽ tất nhiên vậy. Đại sán xưng Nguyễn phúc Châu làmĐại Việt Quốc vương, ví sử y có a dua, cũng chẳng qua thừa nhận địa vị thực tế của ông ấy mà thôi, nhưng đối với luật nhà Thanh và đối với đại nghĩa danh phận của phái Đạo học, thì cũng như y thông đồng với ngoại quốc, trao đổi riêng danh hiệu với nhau, hình thành một hành động vi9 pháp, một tội danh không thể giảm khinh vậy.

Đến như Đại sán làm việc buôn lậu, thì sự hiềm nghi lại càng đậm đà tăng thêm. Cứ theo Hải ngoại kỷ sự kỷ thuật lúc Đại sán khởi hành từ Quảng đông: “Tăng chúng đi theo hơn 50 người, hành lý cũng nhiều, thuyền chủ nhìn nhau chẳng biết cách sắp đặt thế nào, phải đem khách hàng chuyển lui Dương thành (Quảng đông), còn phải chia một nửa tăng chúng, hành lý cho tháp tùng hai thuyền đi sau”. Đoạn văn ấy có thể chứng thực số hàng hóa Đại sán qua Quảng nam vì mục đích tặng biếu hay buôn bán, qua nhiều một cách lạ lùng; Phan thứ Canh chỉ trích những “cây đoạn theo chữ vàng”, là một món trong số hàng hóa đấy. Người ta lại có thể suy tưởng những khí cụ dùng trong các phật hội do Đại sán chủ trì tai Quảng nam, nhất thiết đều do Đại sán cung cấp cả. Và trong thời gian lưu trú đất Việt, từ Phúc châu trở xuống, quan chí dân đều cung dưỡng rất thành kính long trọng, từ các món tiền, gạo, yến sào, dầu dấm, tương muối, cho đến kỳ nam hương, trân châu, vàng bạc, người ta đem đến tặng biếu ngày nào cũng có; gia dĩ Phúc Châu hưởng ứng nhân duyên trùng tu Trường thọ am của Đại sán, khảng khái xuất ra 50000 lượng bạc (ngũ thiên kim) để cúng dường làm kinh phí kiến trúc Trường thọ am đại điện; lúc Đại sán sắp sửa lên đường, Phúc châu còn tặng nhiều gỗ quý để giúp vào việc trùng tu trúc am ấy (nói rõ ở đoạn sau). Phân cam dư thoại cũng chép rằng: ( sau gnhe nói y buôn lậu qua An nam, chở về hàng thuyền các loại  trân báu như tê giác, ngà voi, san hô, châu ngọc……trị giá hàng vạn mà các quan địa phương chẳng ai động đến). . Xem thế dầu Đại sán không có mưu tính kinh doanh thương nghiệp, nhưng kết quả chuyến du hành Quảng nam, y thu hoạch được vàng trân báu, không phải là ít, khó lòng tránh khỏi sự kinh ngạc của giới nhân sĩ Lãnh nam; do đó có những đồn đại buôn lậu với Quảng nam và gây mầm họa cho y sau nầy.

Thuộc về đầu đuôi việc Đại sán bị bắt bị trục xuất và bị giam chết, Phân cam Dư thoại chép rằng: “Hứa Trung thừa Tự Hưng làm án sát sứ (Hiện nay do Hà nam bố-chánh-sứ thăng Phúc Kiến tuần vũ), rất ghét Đại Sán, bèn ra lịnh bắt trị; xét rõ gian trạng trước sau, đánh đòn đuổi đến Cống châu. Y đình chú ở sơn tự, hưng khởi trở lại, tín đồ quy y rất đông.Giang hữu Lý Trung thừa Cơ Hòa lại đuổi đi, áp giải về nguyên quán, giữa đường chết ở Thường sơn”.

Đại sán sinh và mất năm nào, Hummel chép: “Thanh đại danh nhơn liệt truyện”, vừa dẫn ra trên đây, ghi vào công nguyên 1633-1702 (tức Sùng Trinh năm thứ sáu đến Khương hy năm thứ 41). Nay xét bài của Mậu thị, năm Thuận Trị Mậu tý (1648) lúc Giác lãng thiền sư tạ thế, Thạch liêm mới 16 tuổi, thì năm sinh của ông ta chắc chắn là năm 1633, nhưng bút giả chưa tìm được điển cứ nào có thể chứng tỏ Đại Sán mất vào năm 1702.

Xét Hưa tự Hưng nhiệm Quảng đông án sát sứ vào năm Khương hy 41 (1702), tại nhiệm 2 năm, năm Khương hy 43 (1704) thăng Hà nam chánh bố sứ[16][16]. Còn Lý Cơ Hòa do Hồ Bắc bố chánh sứ thăng Giang Tây tuần vũ vào năm Khương hy năm thứ 43 (1704).[17][17]Thế thì Đại sán bị Hứa tự Hưng bắt tra hỏi và đuổi về Cống châu sơn tự phải ở vào khoảng nămKhương hy 41 (1702); y lưu lại ở Cống châu chừng 1 năm, nhơn đó “phục hưng trở lại, tín đồ quy y rất đông”, cho nên Khương hy năm thứ 43 (1704). Lại bị Giang tây Tuần vũ Lý cơ Hòa đuổi, áp giãi về nguyên quán, nửa đường chết ở Thường sơn.

Việc Hưa stự Hưng xử án Đại sán, phải chăng có quan hệ với lời hạch tội của Phan thứ Canh, việc đó hiện nay chưa có cách để đoán định được, nhưnh trong đó có những dính lúi quanh quanh hay hay. Khoảng tháng 8 năm Khương hy thứ 30, lúc Hứa tự Hưng đương nhiệm chức Đồng Tri Mân Châu vì những lỗi “làm nhục thuộc viên và hạch xá đòi ăn hối lộ tiền bạc, ngựa….” bị tuần vũ Y Đồ dâng sớ tham bạch, phải bị cách chức, qua năm 34, quyên tiền được phục chức, năm 38 được bổ Hồ Quãng hạ Kinh Nam đạo, năm 41 đổi đi Quảng đông Án sát sứ. Kịp đến tháng 12 năm 45 lại nhơn việc thẩm án chẳng đúng sự thật, bộ xử phạt giáng 1 cấp, đổi đi chỗ khác; sau nhờ Tuần vũ Uông Hạo dâng sớ xin cho giáng cấp lưu niệm, được triều đình chuẩn y; tháng 11 năm 48, thăng tần vũ Phúc kiến.

Do đó, mà xem chứng tích của Hưa Tự hưng trong lúc làm quan, đâu đã chắc thanh liên đúng bậc, thì việc xích trục Đại sán có thể nghi ngờ là “mọi đen ăn thịt mọi đen” (kẻ có tật bắt kẻ có tỳ). Vậy Vương sĩ Trinh trên bài văn dẫn trên, viết tiếp rằng: “Ta chẳng biết rõ Hưa Trung thừa, cứ một việc này, thực khá gọi “trụ đồng ngăn sóng cả”; nghe nói ông làm quan cũng rất thanh liêm, cứ xem việc này, nếu chẳng phải kẻ “uống nước ao tham, cũng chẳng thay lòng đổi dạ”, thì làm sao được như thế”. Lời nói trên đây, chính là sự chìm nổi quan trường của Tự Hưng mà nói vậy.

III. CUỘC DU HÀNH QUẢNG NAM CỦA THÍCH ĐẠI SÁN

 Nói về chính truyện. Hiện tại chúng ta thuật lại đầu đuôi câu chuyện lữ hành Quảng nam của Đại Sán. Đại nam liệt truyện tiền biên (quyển 6) chép tiếp rằng: “Anh Tông Hoàng Đế thường khiến Tạ nguyên Thiều qua tàu cầu Cao tăng, nghe Liêm giỏi thiền học, bèn qua thỉnh cầu. Liêm mừng, cùng Nguyễn Thiều vượt qua bể Nam, đã đến nơi cư trú tại chùa Thiên mụ, Hiễn Tông Hoàng đế thường vời ông vào ra mắt, cùng đàm luận thiêng giáo. Hòa thượng trọng sự học uyên bác của ông, rất yêu quý kính lễ, ông khéo tùy việc can giám, cũng có bổ ích”.

Đoạn văn ấy cho chúng ta ấn tượng như sau: “Lúc Anh Tông (tức Nghĩa Vương Phúc Trăn, 1687-1691) còn tại thế, từng khiến Tạ Nguyên Thuiều qua Quảng đông rước Thích Đại sán. Sau khi đến Thuận Hóa, Đại sán ở chuàThiên mụ. Kịp đến ngày Hiển Tông (tức Nguyễn Phúc Châu) kế vị, mới hằng vời ông ra mắt, và rất được Hiển Tông kính trọng. Thực ra đoạn văn ấy truyền chép có hơi kông đúng, có nhiều chỗ cần đến sự đính chính của chúng ta. Nay trước hết xin lược thuật sự tích của Tạ Nguyên Thiều. Đại nam liệt truyền tiền biên (quyển 6) truyện Tạ nguyên Thiều chép rằng: “Tạ nguyên Thiều, tự Hoán Bích, người huyện Trình Hưng, phủ Triều Châu, tỉnh Quảng đông, năm 19 tuổi xuất gia tu chùa Báo Tư, làm đồ đệ của Khoáng Viên hòa thượng. Thái Tông Hoàng đế Ất tỵ năm thứ 17 (1665) Nguyên Thiều đi theo thuyền buôn qua Quảng nam, lưu trú tại phủ Quy Ninh, dựng chùa Thập Tháp Di Đà[18][18] giảng truyền phật giáo, kế ra Phú xuân sơn, tỉnh Thuận hóa, dựng chùa Quốc Ân[19][19], xây tháp Đồng phổ, sau phụng mệnh Anh Tông Hoàng Đế qua Quảng đông rước Thạch Liêm Hòa thượng và thỉnh tượng phật, chuông khánh lúc trở về phụng sắc cho trụ trì chùa Hà Trung[20][20], lúc lâm bịnh tập họp tăng chúng dặn dò, cầm bút viết bài kệ rằng: “Lặng lặng gương không bóng, sáng sáng ngọc chẳng dung, lọng lọng vật chẳng vật, mờ mờ không chớ không”. Viết xong ngồi thẳng mà tịch, hưởng thọ 81 tuổi. Các môn đò và các quan tể từng quy y thọ giới, dâng tháp ở cửa chùa để chôn dấu xá lợi, tâu vua xin làm bài ký Minh Hiển Tông Hoàng đế ban cho Thụy hiệu Hạnh đoan thiền sư, và làm một bài “ký” ghi chép công đức”.

Căn cứ theo bài này, thời trong giới phật giáo, Tạ nguyên Thiều là một vị tiền bối của Đại sán, Đã qua Nam từ Ất tỵ, năm thứ 17 đời Thái Tông (tức Hiền Vương Phúc Trăn 1648-1687) tức Khương hy năm thứ 4 (1665), và từ ấy ở luôn lại Quảng nam. Năm ông mất tuy không có Sử văn có thể dẫn chứng, nhưng cứ theo bài dẫn chứng trên đây, thì có lẽ vào năm đầu Minh Vương mới lên ngôi và trước ngày tới nước Việt của Đại sán, tức khoảng Khương hy năm thứ 30 đến nửa năm đầu năm 33; vì vậy Hải ngoại kỷ sự không hề nói đến tên ông ấy[21][21]. Chúng ta vốn chẳng phủ nhận việc Tạ nguyên Thiều phụng mệnh Anh Tông (Phúc Trăn) qua Quảng đông rước mời Đại sán, nhưng trên sự thực Đại sán chưa hề cùng đi với Tạ nguyên Thiều qua Quảng nam. Nói cách khác Đại sán đi qua Quảng nam không phải kết quả trực tiếp của Nguyên Thiều rước. Nguyễn phúc Châu Hải ngoại kỷ sự tự viết rằng: “Trường thọ Bản sư lão hòa thượng, ta từ ngày làm thế tử đã bao năm ngưỡng mộ, Tiên vương đưa thư mời rước hai lần chẳng qua. Mùa thu năm Giáp tuất, ta muốn vâng chịu Bồ tát giới pháp, nối chí trước đôn đốc thỉnh cầu, quả được như ý nguyện”.

Và Đại sán trong sách hải ngoại kỷ sự (K.1 1b) cũng chép rằng: “Ngày mồng 4 tháng 8 (năm Giáp tuất) Tri khách gõ cửa có sứ nhân nước Đại Việt đến; mời vào ra mắt, sứ giả là người tỉnh Mân (Phúc kiến), tay nâng một phong bì giấy vàng rất cung kính, sụp lạy dâng lên, vớilễ vật các thứ vàng nam song hoa, lụa vàng và kỳ nam, dâng lễ xong, quỳ gối thưa rằng: “Đại Việt quốc vương đã bao lần ngưỡng mộ lão hòa thượng, ngày nay đốt hương xa lạy, dâng phong thư trước tòa sư tử, kính thỉnh cầu đạo giá lai lâm; nếu khứng chịu lời, thực là phước lớn cho tiểu quốc”. Kể từ Tiên vương có thư mời, đến nay nữa là 3 lần, mời đến 3 lần, cũng đã thành tâm lắm vậy”.

Xem đấy đủ thấy Quảng nam Nguyễn Vương thỉnh cầu Đại sán nguyên từ thơì Tiền Vương (tức Phúc Trăn), đến nay qua lại đã đến ba lần, và lần này ngoài bức thư của Đại việt Quốc vương (tức Phúc Châu) còn có thư riêng của quốc sư Hưng Liên (Quả Hoằng) nữa. Đồng thời chúng ta cũng biết rằng, nếu Tạ nguyên Thiều phụng mạng đi rước Đại sán, quả như lời Đại nam Liệt truyện  tiền biên đã chép, thì có lẽ là 1 chuyến trong chuyến trước; còn người tỉnh Mân, sứ giả thứ ha Đại việt, trọng chuyến này, sách Hoa di biến thái (quyển 22) chép lời khẩu cung của chủ thuyền Quảng đông, chuyến 36 năm Hợi (1695), nói rằng: “Nhưng mà Quảng nam Quốc vương lâu nay vẫn quy y phật giáo, sẵn lòng hâm mộ Thạch liêm thiền sư, cư trú tại Quảng đông Trường thọ am, là người có đạo đức thịnh tốt, cho nên mùa thu năm ngoái từng sai Trần Thiêm Quan và Ngô Tư Quan, hai tên ấy làm chuyên sứ đi qua Quảng Đông rước mời[22][22]. Vậy khá biết “người tỉnh Mân, chuyên sứ nước Đại việt, mà Đại sán đã bảo đấy, là chỉ hai người Trần Thiêm Quan và Ngô Tư Quan. Hai người ấy hiển nhiên là thượng khách từng qua lại buôn bán giữa Quảng đông và Quảng nam, nhưng trong hai người, hình như Trần Thiêm Quan có một lai lịch có giá trị hơn. Cứ theo báo cáo của bọn thương khách, chép trong sách Hoa di biến thái (quyển 11), thì Trần Thiêm Quan từng làm thuyền trưởng thuyền Quảng nam chuyến 73, ngày 12 tháng7 năm Bính dần, Khương hy năm 25,1686) do Quảng nam đến Trường .

Đối với sự mời rước đến hai ba lần của Quảng nam Quốc Vương, Đại sán lẽ ra vui lòng tiếp nhận. Hải ngoại kỷ sự tiếp theo đoạn văn vừa dẫn trên, chép rằng: “Chưa lên phương bắc , nhân còn nhàn rỗi, sao chẳng rong chơi hải ngoại đi đến chỗ lạ tai mớ mắt, hoặc giả sơn xuyên, phong thổ nhân vật, còn nhiều thứ ngoài tầm nghe thấy của ta chăng”?

Ly Lục Đường Tập (k-12 23b-24a) cũng chép một bài thơ để là (An nam thư sính) theo điệu “Độ Vân Giang”

BÀI THƠ

Nơi hoang phục cũng trong đồ bản,

Gió xuôi vượt biển một phen.

Áo môn sắm sửa khi thuyền,

Tuy nơi có rẽ (phân mao) cũng miền phong nhiêu.

Quốc vương trước, gởi nhiều thư trát,

Nay tân triều há biết danh ta.

Ân cần sính lễ đưa qua,

Vàng thoi, đằng trượng, với là kỳ nam.

Sai sứ giả thư hàm kính đệ,

Nâng hoàng phong rạng vẽ long vân.

Thuyền hồng chờ đón Hải tân,

Nhờ đem mưa ngọt thấm nhuần cỏ khô.

Nhớ câu “phu hãi thừa phù”.

Còn về thời kỳ khởi hành của Đại Sán (lời báo cáo của chủ thuyên Quảng đông, chuyến 36, năm hợi), vưad dẫn ở trên nói tiếp rằng: “Thạch liêm cũng cảm lòng mến mộ của Quảng nam Quốc vương, bèn cùng đệ tử vừa tăng vừa tục chừng 100 người. khoảng trung tuần thang 5 năm nay, do Quảng đông khởi trình qua nam.

Lại cứ theo hải ngoại kỷ sự; đêm treo đèn thượng nguyên tháng giêg năm ất hợi (Khương hy năm 34 tức 27-2-1695), Đại sán đem tăng chung hơn 20 người lên thuyền ở Hoằng phố, qua giữa trưa ngày 16-1 kéo buồm, trên đường đi ngang qua Đồng Quảng, Hỗ Môn, Lỗ Mán sơn, ngày 27 tháng giêng thuyền đến cù lao Tiêm Bích la (Poulo Cham) ngoài cửa Hội An, bình yên vô sự. Từ đây đổi sang chiến thuyền của Minh Vương sai đón, qua ngày 28 thẳng đến thành Thuận Hóa, định cư ở Thiền lâm tự[23][23] (chứ không phải Thiên mụ tự), lam khách quý của Minh Vương Nguyễn Phúc Châu.

Nguyễn phúc Châu là vị quân chủ trẻ tuổi hăng hái, kế vị từ 4 năm trước, lúc ấy mơí 17 tuổi, ông đã bao phen xuất binh đi đánh Chiêm thành, năm Quý dậu (Khương hy năm 23, 1693) thâu phục đất xứ ấy đặt trấn Thuận thành; lại nguyện muốn quy y Phật để cứu đời. Việc rước mời Đại sán qua Quảng nam, chính do tôn giáo tính của ông làm động cơ thúc đẩy, và sau Đại sán đến Đại việt, trên thực thực tế lúc nào cũng lấy lễ sư phụ tôn thờ, mỗi việc đều bàn luận hỏi han, thái đọ rất khẩn thiết. Ví dụ như lúc tiếp kiến Đại sán lần đầu, Minh vương liền nói rằng: “Đệ tử hâm mộ đạo phong của Lão hòa thượng đã lâu, nay may mắn chẳng vì xa xuôi mà bỏ, xin rũ lòng dạy bảo, ngõ hầu để đệ tử biết đường chánh để noi theo”.

Đại sán thưa rằng: “Đạo của nhà vua, ở nơi trị nước an dân. Đạo chỉ có một nhưng địa vị từng người khác nhau, nếu kẻ cai trị quốc gia, lơ bỏ tất cả chánh lệnh kỉ cương, để cưỡng cầu thanh tịnh, ấy là chẳng biết thanh tịnh vậy. Nếu quả thực những nhưng không dục vọng, lạt lẽo không doanh cầu; trong lòng hư linh, thời tùy việc thuận lý, tùy vật ứng phó; tuy ngầy xử trí muôn việc, cũng chẳng có một việc, một vật gì quấy rầy, bởi thế nước trị an dân, rủ áo vòng tay không làm mà nên đạo; thanh tinh tột bậc, Đế vương phật tổ nào có khác biệt bao nhiêu”.

Trong những hoạt động tôn giáo ở Quảng nam của Đại sán, chỉ việc triệu tập tăng chúng toàn quốc mở 3 pháp đàn truyền giáo, là trọng yếu nhất. Việc ấy nhằm cứu tế nhân dân Quảng nam đương thời và thanh trừng những phần tử trụy lạc trong Phật giáo. Sau khi Đại sán đến Quảng nam 4 ngày, Minh vương khiến các quan Nội Giám và Bộ Công suất lãnh linh và thợ hơn nghìn người, trong 3 ngày đêm phải làm xong 5 gian phương trượng và 5 gian liêu xá để làm nơi cư trú cho các thầy trò Đại sán. Đại sán trong sách Hải ngoại k ýuự, cảm thán công tác nhanh chóng và tả tuinhf cảnh của quân nhơn công dịch như sau: “Nhơn hỏi thăm, biết rằng trong nước trăm thứ thợ đều quân nhân làm. Mỗi năm khoảng tháng 3, tháng 4 quân nhân ra các làng bắt dân, những ngưiờ 16 tuổi trở lên,, thể chất cường tráng, đều bắt sung quân, xiết cổ bằng một cái gông bằng tre, hình như cái thang nhưng đẹp hơn. AI tình nguyện tòngqu ân sẽ được cho học chuyên môn một nghành, thành nghề rồi phân phát vào đạo chiến thuyền để luyện tập; lúc hữu sư ra trân đánh giặc, vô sự bắt làm lao dịch trong quan phủ, chưa đến 60 mươi tuổi chưa cho về làng, chung sống với cha mẹ vợ con, vợ chồng, hàng năm, thân nhân đem áo quần vật thực đến thăm mà thôi. Vì thế dân còn lại đều ốm yếu tàn tật, ít có người tráng kiện, cha mẹ sợ con bị bắt lính, con lớn tuổi đều cho ở chùa làm sãi, may ra được khỏi. Vì cớ ấy tăng đò rất đông, nhưng PHật pháp cũng nhân đó mà sinh ra hỗn loạn, chẳng những thiền tông không được đếm xỉa, cho đếnc ác việc luật, luận, cũng buông trôi chẳng chút quan tâm, đến nỗi những phường áo tràng mão ni, nết xấu tật hư còn quá dân quê nơi làng mạc”.

Đại sán cho tệ phong ấy chẳng khá kéo dài, bèn thảo một bài văn, dán lên các cửa chùa để quảng cáo Quảng nam nhơn sĩ, mặt khác Minh vương cũng thương tâm vì thấy Phật pháp trong nước hỗn loạn, ít kẻ chân chĩnh tu hành, vả lại, chính giáo kỷ cương trong nước còn nhiều việc phải canh cải, muốn đem phỏng vấn Đại sán.

Ngày rằm tháng chạp, từ sáng sớm rước Đại sán vào phủ, cùng nhau đàm đạo đến nửa đêm, trên tiệc Minh vương biểu thị rằng: “Tăng chúng phần đông chẳng giữ giới luật, tôi sẽ phát lịnh bài đi các phủ, bắt bọn chúng đem về trình Lão hòa thượng, bắt mỗi người phải cầu chịu 3 đàn giới luật, mới được cấp cho giới điệp, miễn trừ giao dịch tô thuế. Lão hòa thượng nên ra báoth ông tri, định ngày mồng 1 đến mồng 8 tháng 4 sẽ viên mãn cả 3 đàn cũng được. Tôi sẽ đem quyền thuộc và bá quan văn võ, ai có tín tâm, đều cầu làm Bồ Tát giới đệ tử, xin hòa thượng đặt cho đạo hiệu pháp danh….”.

Ngày 13 tháng 3, tốp thứ hai, bọn tăng chúng theo hầu Đại sán, cũng từ Quảng châu đến Thuận hóa bình yên, đồng thời, những liêu xá, bàn ghế, khí mãnh cần dùng để mở giới đàn, cũng đều do Minh vương ra lịnh trù biện hoàn bị. Ngày mồng 1 tháng 4, pháp hội long trọng khai mạc, do Đại sán truyền sa di giới, ngày mồng 6 lại truyền tỳ kheo giới, mồng 8 ngày phật đản, Minh vương đem vương mẫu, công chúa, hậu cung, quyến thuộc, đồng thọ Bồ Tát giới và quỳ thọ Hộ pháp kim thang thư; ngày thứ (tức mồng9 0 Đại sán truyền giới cho tăng chúng; qua 3 ngày sau (tức ngày 12), Đại sán suất quốc sư hai hàng, đới lãnh hơn 1400 tân giới đệ tử, mặc cà sa, cầm bình bát, cử hành lễd cổ phật khất thực và tạ ơn Minh vương đã thành tựu công đức. Minh vương mời hai hàng sư vào cúng chay, đãi trà bọn tân giới đệ tử và ban thêm 300 quan tiền, 100 thạch gạo, khiến quân nhơn gánh đến chùa Thiền lâm, lại đem tất cả giới điệp có đóng Kiềm vương ấn, ban cấp cho tăng nhơn, những người đã tham gia pháp hội. Đến đây, phật lễ lớn nhất từ xưa đến nay tại Quảng nam, mới tuyên bố bế mạc.

Trong lúc, yết kiến Minh vương giữa ngày rằm tháng 2 trước đây. Đại sán cảm thấy: “Ngôn ngữ chẳng thông hiểu nhau, tuy có thông ngôn cũng chưa chắc minh lý, mười điều phiên dịch không được 3, 4, khiến trong lòng có bao nhiêu điều muốn nói, chẵng làm sao uyển chuyển đề đạt được lên quốc vương, nhơn đem các việc muốn nói viết ra giấy trình lên Minh vương. Trình tất cả bốn đều, phân biệt rõ ràng, có lẽ đắc thất lợi hại. Nội dung như sau:

1) Cống hiên trung triều để chính danh hiệu.

Triều ta (Đại sán tự nói) Khương hy hoàng đế thống trị chín châu, mười lăm tỉnh, đất rộng mấy muôn dặm, giáp binh hhùng mạnh cả ngàn trăm muôn; mà đất nước Đại việt lại gần kề tỉnh Quảng đông; nếu khiến sứ thông hảo với các quan Đốc vũ tướng quân, rồi sau dâng biểu tiến cống triều đình, xin phong vương để chính vị hiệu, lấy thanh thế Quảng đông làm nương tựa, thì bọn tiểu khấu các nước lân cận tự nhiên kiêng sợ chẳng dám dòm hành; thực danh chính lý thuận , ngồi hưởng tháibình, mọi việc làm ven toàn vậy. Người xưa bảo: “chẳng đánh mà binh giặc phải thua”, chính là  như thế. Những lý do thông hảo nhà vua sẽ tường trần sau.

2) Đặt binh đồn thủ để củng cố biên thùy.

Bản quốc địa giới liên tiếp Đông kinh (Bắc Kì), chỉ cách một con sông, dọc biên giới chắc có nhiều nơi nên đóng binh trấn giữ. Binh ít thì sợ khi xung đột, binh nhiều thì hao tốn khó lòng, hai lẽ đều khó tính. Lão tăng xem xét sơn xuyên hình thế, có cách giảm bót binh số, chỉ đặt cơ binh (cũng như binh lưu động) mà có thể cổ hủ được; nếu nhà vua dùng sẽ xin tâu bày sau.

3) Thương yêu binh sĩ để khích lệ lòng trung dũng.

Thời xưa trong việc võ bị, chẳng hề phân biệt binh dân, lúc vô sự an cư làm ruộng, lo việc cấy cày, đến khi có việc chiến tranh, ra tòng sung chinh vào đội ngũ. Mỗi năm lúc công nông nhàn rỗi, đem ra tập luyện, giảng cho biết nghĩa tôn quân thân thượng, dạy cho rành phép tác chiến giao phong; bình thời được vui sướng với gia đình, hữu sự ra tận trung báo quốc; tự nhiên dõng khí bách bội, ai nấy đều vui lòng đi lính, chống kẻ xâm lăng. Nay nghe dân trong nước một lúc đã ghi tên vào sổ lính, trọn năm phải phục dịch quan phủ, không được về thăm viếng cha mẹ vợ con; như vậy tuy chúng sợ phép phải tuân theo, nhưng trong lòng sao khỏi oán hận. Sao chẳng khiến quân sĩ luân phiên theo diễn, mỗi năm ở quân phủ phục dịch huấn luyện chừng một quý hay nửa năm; hết hạn cho về làng cày bừa, cùng với gia đình đoàn tụ; bắt chước theo phép quân đồn ngày xưa. Đến lúc có việc phải hưng sư; bắt ra tòng binh, ai lại chẳng hết lòng phò chúa. Như thế người đều cảm kích, giành nhau làm bổn phận, làm sao quân chẳng thêm mạnh, dân chẳng thêm giàu. Các chi tiết về việc này, sẽ có điều ước qui định.

4) Đặt học quan để giáo dục quân tài

Khổng thánh là “Vạn thế sư biểu”, tứ thư ngũ kinh chép đủ mọi lẽ sửa mình trị dời, phải thể nhận cố làm theo, mới sử sự hợp lý được. Nay nhà vua nên lập Quốc học phủ để phụng thờ Khổng thánh, tàng trữ nho thư, mời các nhà lý học danh nho để giảng dạy thánh đạo, từ Vương Thế Tử (con vua), con em các đại thần, cho đến nhân gian những người tuấn tú, đều bắt theo học; sẽ mở kỳ thi hoạch đẻ phân biệt kẻ kém người hơn. Như thế lâu ngày sẽ hiểu biết nghĩa lý cương thường, chánh đại trị đạo, dần dần sẽ trở nên một quốc gia văn minh.

Ngày 24 thánh 4, Minh vương mời 10 đồ đệ của Đại sán, mở một đàn tụng kinh Đại bi đà la ni sám và mời Đại sán ở lại trong Viện để chứng minh. Lúc rãnh cùng nhau nói chuyện cổ kim, luận bàn chính trị. Đại sán nhân những dịp ấy trình bày ý kiến về các việc khoan hình chuộng đức, thương lính yêu dân, thông thường giảm thuế….Minh Vương mỗi việc thảy đều nghe theo, giận mình tuổi trẻ, thấy nghe chưa được rộng rãi. Ngày nọ, trong lúc đương đàm đạo, xảy ra có quân hầu báo cáo trại lính phát hỏa, Minh vương lập tức đem quan binh đến chữa, chặp lâu mới trở về. Đại sán nhân khuyên nhà vua nên tự ái, kiến nghị nên đặt “lệnh tiễn”, gặp lúc trong nước có việc gấp, cần nhà vua phải thân hành thì sai nội giám quan quân đem lệnh tiễn đi, nếu quan quân tiếp được lệnh mà chẳng đến sẽ bị tội không tha. Minh vương nghe rất lấy làm phải, bèn tỏ ý rằng: “Mấy ngày nay đàm đạo, có nhiêù chính kiến vì dân, xin lão hòa thượng chỉ thị từng việc rõ ràng, tôi sẽ cho khắc yết trước triều môn, để vĩnh viễn cùng thần dân noi giữ”[24][24].

Ngày sau (tức 25 tháng 4) Đại sán từ giả lui về, Minh vương yêu cầu ông đem các việc đàm đạo trong các ngày nay chép rõ ra từng việc một. Đại sán bèn điều trần “Lập quốc chánh cước” 18 điều, nội dung các việc thương lính, yêu dân, thông thương, lợi quốc, kỷ cương, pháp độ,…Vương duyệt xem rất mừng, nói với Chưởng sự Nội quan rằng: “Pháp độ dân tình nước ta chưa được đúng đắn, nay nhờ Lão hòa thượng đem lễ pháp Trung hoa, vì ta bày tỏ 18 giáo điều, nên khắc vào bảng treo trước phủ đường, hiển dụ cho văn võ quân dân đều biết. Mặt khác làm 24 thẻ bài, nêu rõ từng loại, nếu có người nào phạm pháp, trái điều luật, sẽ cho kẻ bị thiệt hại cầm thẻ bài đến thưa, bất luận vương thân quốc thích văn vũ quân dân, đều cứ xét luật trị tội, vĩnh viễn nêu làm pháp nước”.

Lại ngày sau nữa (26 tháng 4) Minh vương nghe Đại sán dự định đến tháng 6 sẽ trở về nước, bèn mời Đại sán vào cung khẩn khoản xin lưu lại; trên tiệc, Đại sán thuật chuyện Thanh Thế Tổ sùng tín tam bảo, Hoàng đế đương kim (tức Thánh Tổ) rất thần thông nhân từ và các viên Lưỡng Quảng tổng đốc, Tướng quân, Đề đốc, Tư đạo rất thanh liêm tài cán; nhơn khuyên Minh vương làm biểu văn cầu phong. Vương đáp rằng: “Nay nghe Lão hòa thượng thuật chuyện, mới biết rõ ràng. Ta ở nơi góc biển xa xuôi, vốn chẳng am tường lễ giáo; tuy sẳn lòng qui thuận, nhưng tiểu quốc xưa nay chưa hiến cống lần nào, nay đường đột dâng biểu thỉnh phong, e biên giới đại thần chẳng sẳn lòng đề đạt, chỉ mất công đi về mà thôi. Lão Hòa Thượng chẳng lưu lại hạ bang, sau khi hoàn sơn (về chùa) xin vì ta trần tình với các nhà đương sự tỉnh Việt. Nếu tiếp được tin cho phép tiến cống, ta sẽ sắm sửa các vật thổ sản và làm biểu dâng lên ngay, quyết chẳng sai lời.

Đại Sán viện những lí do: (Nhơn tạm nghĩ qua nam, còn chờ ngày phải đi lên phương bắc; vả lại, xây cất nhà cửa chưa xong, đại chúng đương chờ đợi) v.v…Ngày mồng 3 tháng 6, từ giả Minh Vương xin đi, và quyết định ng ảyằm tháng sáu sẽ dời khỏi Thuận Hóa đi Hội An để sắp sửa ngày về nước cho kịp mùa thu gió thuận. Quốc vương lưu lại đãi chay, mỗi lúc nói đến chuyện chia phôi, nghẹn ngào bảo rằng: “Từ ngày lão Hòa Thượng đến đây, tiểu bang đã được nhờ ơn tám chữ “Phong điều vũ thuận, quốc thái dân an”. Mấy năm trước tầu ngoại quốc đến buôn bán, một năm chừng 6,7 chiếc, năm nay tăng lên 16, 17 chiếc, trong nước tiêu dùng nhân đó được dư dũ, ấy cũng nhờ phước đức Hòa Thượng che chở vậy. Chưa biết phen này hòa thượng về bửu sơn cong khứng trở qua nữa chăng? Nửa năm náo nhiệt, một phút vắng tanh, khiến người phải khởi thương rơi lụy. Đạo giá không thể lưu lại, xin để lại vài người đồ đệ, khiến sớm chiều gần gũi, cũng như gặp mặt tôn sư. Lão Hòa thượng sai bảo điều gì, tôi đều phụng mệnh cả, nay tôi sở nguyện có bấy nhiêu, xin hòa thượng chớ từ”. Đại Sán thâm lòng ái mộ của Minh vương bèn thương lượng lại hai tên, hậu đường Khánh Ngu và Tri khách Thiên Vũ, để phục tại Giác Vương Nội Điện phần tu sở.

Trên đây tường thuật tình hình đối xử giữa Minh Vương cùng Đại Sán và những lời đàm đạo với nhau, khiến người ta có thể tưởng thấy vị thanh niên quân chủ đã thành tâm đối đãi Đại Sán và khiêm hư tiếp thụ những lời chỉ  đạoc ủa ông ấy như thế nào. Thứ nhất là việc “Dâng biểu cầu phong”, h nhieển gui]aã Minh Vương với Đại Sán đã thông cảm nhau một cách triệt để, việc ấy rõ ràng do Đại Sán chủ động, dụng ý muốn mượn việc ấy để tăng giá trị của mình. Mặt khác, Minh vương cũng không tỏ ý nghi ngờ, nghĩ rằngtrong tình thế đối với họ Trịnh ở phương bắc, dựa thế Thanh triều và các nhà đương cuộc Quảng Đông cũng là một việc rất cần yếu, vì thế hoan nghinh đề nghị của Đại Sán, và mong mõi sau khi về nước ông ấy sẽ vận động giúp cho.

Ngày 28 tháng 6 cả bọn thầy trò Đại Sán đi trên 8 chiếc Hồng thuyền và 8 chiếc thuyền cọ (Điến xá) lìa bến Thuận Hóa, đi ngang chùa Hà Trung, chiều tối ra đến của biển. Quốc vương đã từ ngày 18 đem các quan văn võ đi trước đến của bể làm thủy các để tiển đưa Đại Sán. Sáng bữa sau (ngày 29) Đại Sán đến ra mắt Quốc Vương, ngày 30 quốc vương đi với Đại Sán du lãm chùa Vĩnh Hòa ở núi Khuê (Quê Phong). Ngày 1 tháng 7, Đại Sán từ biệt quốc vương lên thuyền ra cửa bể, đi ngang ngũ hành sơn, ghé chơi chùa Tam thai[25][25]. Chiều hôm ấy thẳng đến Hội An, sáng ngày mai (ngày 2 tháng 7) lên bờ đình trú tại chùa Di Đà[26][26]. Chùa nầy chật hẹp, không đủ chỗ dung nạp cả tốp đông nhân viên. Lúc đầu Đại Sán nghĩ tạm lưu trú ít ngày sẽ lên tầu về nước; không cần làm thêm nhà cửa làm chi cho quân lính phải khó nhọc. Nhưng viên cai bá và nội quan không giám làm trái lịnh quốc vương, lâm thời triệu tập quân nhân, cất vội 8,9 gian nhà để làm nơi tạm trú cho Đại Sán.

Đại Sán đình lưu Hội An chừng 15 hôm, trong thời gianays cũng khá bận rộn. Đến Hội An được vài hôm đã có bọn tăng nhân và bình dân, những ngườichưa tham d ự pháp hội đầu tháng 4, đến cầu xin thụ giới; Đại Sán vui vẻ nhận lời, chọn ngày mồng 7 mở pháp hội để hoàn nguyện “truyền bồ tát giới” cho hơn 300 người, và khiến Quốc sư và hậu đường cấp phát chứng điệp. Ngày 19, Đại Sán rời Hội An, sớm bửa sau đến Tiêm Bích La (Cù Lao Chàm) lên thuyền chờ gió, đến ngày 30 mới kéo neo vượt biển; chằng ngờ chiều hôm ấy gió chuyển chiều thổi nghịch, qua sáng ngày mồng 1 tháng 8 thuyền bị đưa trở lại Tiêm Bích La. Đại Sán suốt đêm không nhắm mắt, gia dĩ đi thuyền nhọc mệt, bị cảm, nhức đầu sôi bụng, lúc nóng, lúc lạnh, ăn uống chẳng được, buộc phải lên đảo Tiêm Bích La tạm thời tĩnh dưỡng; sau nhân gió mãi không được thuận, phải quyết định lưu lại Quảng Nam “áp đông” (ở cho qua mùa đông) chẳng bao lâu lại trở về Hội An. Quốc Vương nghe tin vô cùng mừng rỡ, lập tức khiến triệt phương trượng chùa Thiền Lâm, lợp lại ở chùa Thiên Mụ[27][27] để làm nơi cư trú cho Đại Sán lúc trở ra Thuận Hóa.

Lúc nầy, Đại sán định lưu lại Hội An chừng hơn 2 tháng, bế môndưỡng bêhj, nít đi ra ngoài; sau nhân Minh Vương mấy phen thúc mời, ngày 12 tháng 10 bèn khởi hành đi Thuận Hóa, do đường bộ đi qua Ngãi Lãnh (tức Ải Vân quan) mất 3 ngày ra đến cửa Thuận Hóa. Quốc vương sai công bộ cai bá đem hồng thuyền đón chờ tại cửa bể; sáng ngày đi từ cửa bể, tối hôm ấy đến chùa Thiên Mụ, Thuận Hóa. Ngày sau (ngày 16) Quốc vương mời vào yết kiến, thăm hỏi ân cần. Lúc nói chuyện đến việc cất chùa Trường Thọ, Minh vương khảng khái phát nguyện cúng 5.000 đồng, đảm phụ kinh phí kiến đại điện ấy. Đại Sán về chùa Thiên Mụ làm bài sớ nhân duyên trùng tu chùa Trường Thọ, khen công đức Minh Vương, cho rằng có thể sáng với việc dâng chùa Pháp tướng tại Triết Giang của quốc vương Cao Ly thời nhà Tống. Sớ văn trình lên, minh vương đinh ninh nói rằng: “Sang năm lão Hòa thượng về bên ấy, thay ta xây cất điện đường chùa Trường Thọ, nếu tiểu quốc được phúc ấm đều nhờ tư bi che chở của tôn sư vậy”. Và định đến ngày mùng 4 tháng 11 rước Đại Sán đồ đệ 24 người làm lễ vạn Phật sám kỳ hạn 40 ngày.

Từ đó, Hải ngoại kỷ sự thôi không chép đến hành động của Đại Sán nữa trong lúc lưu lại Quảng Nam và tình hình lúc ông đi thuyền trở về cố quốc. Bài cuối quyển V, Đại Sán chép rằng: “Thắm thoắt hơn một năm, hằng ngày trò chuyện với quốc vương, quần thần, tiếp xúc với tứ phương đại chúng, những điều tai nghe mắt thấy, như chính trị đắc thất, phong tục chánh tà, hay sơn xuyên nhân vật, thảo mộc trùng ngư.v.v…tuy còn nhiều chỗ chưa trải qua nhưng biết xa từ gần, cũng rõ được đại khái. Bởi thế, việc cất câu lớn nhỏ, vật chẳng nệ tốt xấu, hễ gặp việc quan yếu là chép, gặp vật kì dị thì ghi, dám đâu tự cho mình là bậc quân tử muốn hành đạo nam bang, chỉ muốn sao cho phong tục viễn phương được phổ biến kiến văn về Trung Quốc mà thôi vậy”.

Xem đoạn văn trên, chùng ta nhận thấy Đại sán viết đến quyển V, cho rằng tập “kỷ sự” đã đầy đủ, vả lại bấy lâu vất vả mệt nhọc, cho nên sau ngày trở lại Thuận Hóa, chuyên lo tĩnh dưỡng, làm biếng không muốn viết văn. Trên sự thực trên quyển thứ VI, chỉ chép lại mấy bài thiền luận và út bài thơ của Đại Sán trao tặng cho các nhà quí hiển Quảng nam mà thôi.

Đại Sán trong Hải ngoại Kỷ sự thỉnh thoảng cũng nói đến tình tạng Hoa kiều tại Quảng nam luc sbấy giờ. Đầu tiên tả tình hing đường nhơn nhai (đường người tàu) ở Hội an và công việc buôn bán ở đó như sau: “Hội An la nơi bến tàu tập họp hàng hóa ngoại quốc, một con đường lớn thẳng bờ sông dài chừng 3-4 dặm, hai bên đường phố xá ở khít nịt liền nhau, cuối đường là Nhật Bản kiều và Cẩm phố; hai bên sông là Trà Nhiêu, nơi đình bạc của các thương thuyền ngoại quốc. Nhân dân trù mật, cá tôm rau quả bán tấp nập tối ngày. Hóa vật thuốc men, những món hàng ở Thuận Hóa mua không ra, người ta đều mua ở đây cả. Đại ước Hội An đông nam bắc 3 mặt gần bể, chỉ có mặt tây một con đường núi non liên tiếp giao thông với Tây việt và Đông kinh. Bởi thế, cách phia tây chừng 10 dặm có đặt nha Trấn Thổ giống như Vương phủ, để phòng ngự biên cương”.

Và cứ theo lời Đại sán ghi chép, phía hữu chùa Di đà có miếu thờ Quan công rất nguy nga, và quán chỉ Hội quán Phúc kiến cũng ở đó. Đại sán nhận thấy ở đây khách trú ngày càng đông đảo, đến lúc mãn phần quá cố, bơ vơ lữ thấn, nắm xương đành gởi quê người, bèn viết một bài khuyến cáo, dặn Quả Hoằng Quốc sư cùng với thương khách Phúc kiến đề xướng mở một vùng nghĩa địa để làm nơi chôn cất di cốt những kiều bào bất hạnh, an giấc nơi tha hương. Ông lại hưởng ứng lời Quốc sư, làm một bài sớ văn khuyến quyên để tu bổ chùa Di đà. Ngoài ra Đại sán cũng có ghi chép sự tích của một vài Hoa kiều như sau:

1) Trong thời gian lưu trú ở Hội An lần thứ hai, Đại sán thấy trong bọn Hoa kiều có hai người kế nhau tạ thế. Hải ngoại kỷ sự (K.4.28a) chép rằng: “Bẩm chất người phương Bắc đến đây hay sinh bịnh, vã lại, đieeuf dưỡng không biết cách, bịnh trở nên nặng càng mau. Trước đây vài ngày một người lính hầu Hữu giai, người Giang bắc, chết ở Thuận hóa; nay chủ Điềm ba Đường người Sơn tả lại qua đời ở Hội an. Tuy sống chết do mạng trời, nhưng người cũng có quyền di chuyển, chẳng qua Bắc nam bất phục thủy thổ mà ra cả”.

2) Tăng văn Lão người Phúc kiến phạm tội nặng, bị án xử tử, đương gia, trong ngục để chờ ngày hành hình. Bỗng ngày nọ chết đói, sau 5 ngày lại hiôì sinh. Ngày 24 tháng 4 người vợ đón đường Đại sán lúc đi vào Vương phủ, cầu xin trần thuyết giùm khổ tình với nhà vua. Đại sán nhận lời và tỏ bày việc ấy cho vua rõ. Minh vương tức htì hạ lịnh phóng thích Tăng lão, đồng thời phóng thích những tù nhân nhẹ tội, và giảm án cho những người trọng tội đương bị giam

3) Trương Tiết Phụ, nguyên quán ông bà người Chiết Giang, sing trưởng ở Quảng nam, lấy chồng tên Từ phụ. Lúc Quảng nam giao chiến với Chiêm thành, từ Phụ tòng chinh chết giữa biển. Bà Trương ngày đêm than khóc, khô héo ruột gan, sau tìm thấy chồng trên bãi cát đêm về chôn cất, từ đoa trọn đời giữ tiết, thờ mẹ chồng, nuôi con, thực đúng trang liệt đáng kính. Đại sán vốn thương tâm về phong tục dâm ô ở bản xứ, bèn cảm động viết một bài tứ ngôn cổ thư và bài tự sự để biểu dương tiết phụ họ Trương.[28][28]

4) Có một người Tàu tên Lưu Thanh có lẻ dư đảng của Trịnh thị (Trịnh thành Công) đời nhà Minh, đương lúc Thanh quân đánh dẹp trên mặt bể, (có lẽ chỉ lúc tướng nhà Thanh là Thi Lương, năm Khang hy 22, đem quan công phạt Đài loan) Lưu Thanh về nương tựa Lam tổng binh[29][29], sau lại trôi dạt đến Quảng nam. Đương lúc Đại sán đau nằm ở Hội An, Quả Hoằng Quốc sư mấy lần thôi cử Lưu Thanh lên Minh Vương cho sung chức Cai phủ, quản lý hàng hóa ngoại quốc. Đại sán chưa kịp xeý rõ, tiến cử Thanh lên Quốc Vương, liền được Quốc vương phê chuẩn và khiến chiếu theo lệ cũ, trong 10 ngày trình nạp đủ 10 vạn bạc. Lưu Thanh nhơn việc đó ra các nơi bức sách, làm người ta bị thiệt hại rất nhiều. đến khi Đại sán trở ra Thuận Hóa các Kiều khách và thuyền chủ đều trình bày việc bất chính và cách hành động ngang tàng của Lưu Thanh. Đại sán nghĩ, nếu dùng người ấy làm việc, kẻ buôn bán sẽ bị bóc lột và sẽ làm hại cho dân, bèn viết giấy trình lên Minh vương xin bãi chức Lưu Thanh lập tức.

Trong thời gian Đại sán lưu trú tại Đất Việt, hằng được vương mẫu[30][30] và công chúa (tức chị Minh vương) thiết tiệc chay đãi khoản, lại thường hay giao du với bọn Vương huynh Lệ tuyền hầu, Thiều dương Hầu[31][31], Nguyên lão Đông triều Hầu[32][32], Đại học Sĩ kí lục Hào đức Hầu, cùng nhau tố tặng văn thơ, giảng bàn đạo học. Những thư từ và thơ văn qua lại chép trong Hải ngoại ký sự, phần nhiều giảng bàn về kinh nghĩa, đạo đức, luân lý và chính trị….có những yêu mục như sau:

QUYỂN THỨ I

Thư của Hào đức Hầu (bàn về thơ) (38a-39b)

QUYỂN THỨ II

Lai thư của Hào đức Hầu (7a-9b) và thơ văn của Đại sán đưa tặng (10a-15a)

QUYỂN THỨ III

Bài văn Đại sán viết cho Hào đức Hầu (22b-23b), văn của Đại sán viết cho Quốc Cậu Tả thái úy[33][33] (25a-27b), thư Đại sán viết cho công chúa (28b-31b)

QUYỂN THỨ IV

Văn tạ ân Minh vương ủy vấn (21a-22a), văn của Đại sán viết cho Văn chứcThế Nam[34][34] (22a-25a), thư Đại sán viết cho Vương huynh Lệ tuyền Hầu (26a-26b). Đại sán nghe tin Chưởng Thanh Nguyễn công tả xu mật qua đời, viết thư cho 5 vị công tử và làm thơ ai vãn[35][35] (33a-39b)

QUYỂN THỨ V

Thư Đại sán gởi cho Phò Mã Hữu đồn dinh tức Xu Mật Phó Mã Nguyễn Công[36][36] (7a-8b). Thư hồi phúc Đông triều Hầu (21a-22b). Thư mừng nhị Quốc cậu Tống Công[37][37] thăng chức tả thừa tướng (22b-23b). Phúc đáp thư Đăng long Hầu 924a-27a)

QUYỂN THỨ VI

Thư gởi Đại Việt Quốc Hữu Thừa Tướng Tống Công[38][38] (7b-13b).

Về thời kỳ Đại sán trở lại tỉnh Việt, tại phương diện Trung quốc, không có một sử văn nào chứng thực, nhưng bọn thương khách Quảng nam và Quảng đông qua buôn bán ở Trường kỳ Nhật bản, đều có nói đến rất rõ ràng. “Báo Cáo” của bọn thương khách  tàu Quảng đông chuyến 67, khởi hành từ Quảng đông ngày 16 tháng 6 năm Khương hy 35 (Bính tý 1696) và đến Trường kỳ ngày 13 tháng 7 năm ấy, nói rằng: “Nói về Thach liên thiền sư, cư trú Trường thọ am Quảng đông, vì nổi tiếng đại đức, nên mùa xuân năm ngoái Quảng nam Quốc vương rước đến Quảng nam. Nghe đồn sau khi Thạch liêm đến nước ấy rất được Quốc vương tôn kính, hơn nữa, quân dân trong nước đều nhất trí quy y; tại Quảng đông cũng thường được nghe tin tức. Nhưng Thạch liêm từ mùa xuân năm ngoái ở luôn lại Quảng nam, cho nên tín đồ Phật giáo tỉnh Quảng đông, những người đã quy y với thiền sư ấy, từ mùa xuân năm nay hằng phái thuyền đến Quảng nam tiếp đón; chắc cũng chẳng bao,lâu nữa Thạch Liêm cũng sắp sửa trở về”.

“Báo Cáo” của bọn thương khách tàu Quảng nam (thuyền trưởng Tăng Doãn Quan)chuyến 48 ngày 22 tháng 6 cùng năm ấy (1696) từ Hội an chạy qua Trường kỳ, cũng nói gần giống báo cáo trên, chỉ sau cuối bài có phụ thêm rằng: “Thạch Liên thuật trên đây, nhơn vì Quảng đông hai ba lần cho thuyền qua đón, nên đã quyết định cuối tháng 6 năm nay sẽ trở về nước”. Lại báo cáo của bọn thương khách tàu chuyến thứ 50 (thuyền trưởng Thái cố Quan) ngay 26 tháng 6 cùng năm ấy, do Hội an chạy qua Nhật bản, nói rằng: “Về việc Thạch Liêm thiền sư từ Quảng đông qua nam, bọn thương khách thuyền đến trước đã báo cáo rõ ràng. Sư Thạch Liêm vì có thuyền Quảng đông đến đón, nguyên định cuối tháng 6 sẽ trở buồm, nhưng vì ngày 24 có gió tốt, nên trước thuyền chúng tôi hai ngyà, đã khai thuyền lìa bến Quảng nam”.

Đại Sán lìa bến Hội An ngày 24 tháng 6 (22-7-1696), chùng trung tuần tháng 7 sẽ về đến Quảng đông

Ngày Đạu sán khởi hành về Tàu, Minh Vương lại một phem tống tuyển long trọng và biếu rất nhiều vật phẩm. Tường trình việc ấy tuy không thấy chép trong tập Hải ngoại kỷ sự, nhưng Đại Nam liệt truyện tiền biên (quyển 6) chép rằng: “Ít lâu sau Liêm từ giả về Quảng đông, Minh vương tiễn tặng hóa vật rất hậu, lại biếu cho gỗ quý đem về làm Trường Thọ[39][39]; từ ấy không trở qua nữa, sau nhân có thuyền buôn qua Nam, Thạch Liêm có làm 4 bài thơ “ký hoài” gởi qua hâù thăm, có làm bài “dẫn” đại lược nói rằng: “Một sông núi tỏa, đường cách từng mây, tám độ xuân về, tóc phơ mái tuyết. Lần tính nhân gian ngày tháng, chạnh niềm phương ngoại nhân duyên. Xa nghe phương trượng bồ đoàn, đã có tin mai truyền báo. Nay nhân thuyền khách, kính gởi tin hồng. Tạm dâng thơ mới vài bài, xiết thẹn lời quê chắp nối”

Bài Thơ

Đông phong tân lãng mãn giang tần,

Tưởng kiến hồ sơn vũ lộ tân.

tự thị dương hòa qui thảo mộc,

Thái bình nhơn túy hải thiên xuân.

Dịch Nghĩa

Sóng gió đầy sông cuốn ngọn tần,

Hồ sơn mơ tưởng mốc mưa phùn.

Từ nay câu cỏ đua tươi tốt,

Trời biển thanh bình chuốc chén xuân.

Xem bài ấy Đại Sán từ khoảng tháng 7 Khương Hi thứ 35 (1969) sau khi trở về Quảng Đông, ngoài việc gởi thương thuyền mấy bài thơ thuật hoài, hìnhnhư kh ông có qua lại gì với Việt Nam nữa. Nhưng theo tôi tưởng, chân tướng chưa chắc như vậy. Xét bài của Phan thứ canh, gởi cho đại đương sự tỉnh Việt dẫn ở trên, cuối bài có nói rằng: “Nghiêm cấm việc tư thông với ngoại dương, tư giấy các quan ải, từ nay về sau cấm không cho một người sãi nào ở chùa Trường Thọ được đi ra khỏi cửa biển. Ngõ hầu chấn chỉnh kỷ cương hiến pháp, khỏi di hại cho địa phương” thì có thể suy tưởng sau khi Đại Sán trở về nước, tăng nhân chùa Trường Thọ vẫn thường đi lại giữa Quảng châu và Quảng Nam và việc buôn bán riêng của Đại Sán vẫn lén lút kế tục.

Sau khi Đại Sán đi rồi, ngày mùng 2 tháng 9 năm Khương Hi 34 (tức 3-10-1701) có một chiếc thuyền của cống sứ Tiêm La chạy qua Quảng Đông, giữa đường bị phong nạn trôi vào Quảng Nam. Minh Vương được tin lập tức hạ lịnh tu bổ thuyền ấy và cấp cho gạo lương củi nước; qua khoảng tháng 5 năm sau (1702) lúc Tiêm thuyền khởi trình đi Quảng Đông, Minh Vương khiến bọn Hoàng Thần, Hưng Triệt đem quốc thư và cống phẩm (Kỳ lam 5 cân 4 lượng, vàng sống 1 cân 13 lượng 5 tiền, ngà voi một đôi nặng 350 cân, mây sông 50 sợi), theo thuyền qua tỉnh Việt, ý muốn do Lưỡng Quảng tổng đốc đến Thanh đình chính thức cầu phong[40][40]. Trong biểu văn có nói rằng: “Thầy tôi, Quảng đông Trường Thọ am tăng nhân Thạch Liêm, những lúc giảng tụng kinh điển rãnh rang, thường thuật chuyện Hoàng thượng là bậc thánh thần văn võ, nhân đức như trời. Bọn Quảng Đông giám sinh Hoàng Thần, Tăng nhân Hưng Triệt cũng đến xưng tụng thiên triều thanh giáo, truyền khắp phương xa v.v…”[41][41]

Xem đó thấy khá việc Minh Vương cầu phong vốn do kiến nghị của Đại Sán năm Khương Hi Ất Hợi (1695) làm động cơ thúc đẩy và Minh Vương đã thực hiện lời hứa với Đại Sán. Lại nữa, Việt sứ tháp tòng Tiêm la công thuyền, chứng tỏ Nguyễn chúa Minh vương khéo nắm cơ hội để thực hành tư tưởng “phụng thờ nước lớn” đối với Thanh đình vậy.

Còn về lai lịch của bọn Hoàng thần, Hưng Triệt, Đại nam thực lục tiền biên (quyển 7) chú thích rằng: Thần, Triệt người Quảng Đông, nhà Thanh, theo Thạch Liêm hòa thượng đến yết kiến, nhân khiến đi. Đoạn chú thích ấy, khiến chúng ta nhớ lại lời Đại sán lâm hành có lưu lại Thuận Hóa hai người đồ đệ, tức Tri khách Thiên Vũ và hậu đường Khánh Ngu. Tri khách là một tăng đồ coi việc tiếp đãi tânkhách, còn Hậu đường cũng chỉ chức vị của nhà chùa, tuy dang xưng của bọn chúng, Hải Ngoại Kỷ Sự và Thực Lục Tiền Biên chép khác nhau nhưng chúng ta tin rằng Quảng đông giám sinh Hoàng Thần chính là tri khách Thiên Vũ và Tăng lữ Hưng Triệt cũng chỉ là pháp hiệu của hầu đường Khánh Ngu.

Chúng ta không biết được Đại Sán, sau khi về Quảng Đông có vận động trù bị cho việc Quốc chúa Quảng Nam cầu phong hay không; một sự thực chắc chắn là việc cầu phong dạo ấy không được nhà Thanh chấp nhận. Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (quyển 7) chép rằng: “Thanh đế hỏi các quan đình thần, đều bảo rằng nước Quảng Nam hùng cứ nhất phương, chiêm thành, chân lạp đều bị gồm thâu, sau này chắc sẽ trở nên nước lớn? Nhưng an Nam còn có họ Lê, không nên phong vương một họ khác. Việc ấy bị bỏ qua”. Xét lại từ năm Khương Hi thứ 2 (1663) Lê Huyền Tông lần đầu khiến sứ cầu phong trở về sau, nhà Thanh chỉ thừa nhận Lê triều ở Bắc Kì (Đông Kinh) làm phiên quốc, thì cự tuyệt việc cầu phong của chúa Nguyễn, nhà Thanh cũng có lí do chính đáng. Nay chỉ xét việc thúc đẩy Nguyễn vương cầu phong, trên sự thực, nhân vật đứng sau màn chính là Đại Sán, và cũng trong năm ấy (tức Khương Hi 41) Đại Sán bị Quảng Đông an sát sứ Hứa Tự Hưng bắt giam và phóng trục, thì chúng ta có thể suy tưởng có những thêu dệt trong việc nầy, có thể đoán rằng việc cầu phong của Nguyễn vương, cùng với việc “hỏng chân” của Đại Sán, thế nào cũng có nhân quả tương quan, nhưng việc nào là quả, việc nào là nhân, cứ theo sử liệu có thể tin cậy, hiện nay chúng ta chưa có thể phân tích được. Tuy thế thời ấy giữa Quảng nam với các nhà đương cục Quảng Đông không phải tuyệt nhiên không có vãng lai giao thiệp. Ví dụ, Lê Quí Đôn, Vũ biên tạp lục chép rằng: “Thuận hóa với tổng đốc Quảng Đông, thường thông tín qua lại”, và sách ấy có thâu chép tờ thư văn của Minh vương gởi cho Quảng Đông tuần vũ và bài văn tế gởi điếu Lưỡng quảng tổng đốc Dương Lâm. Do đó biết trên sự thực, Quảng đông đốc viện muộn lắm cũng cuối thời Minh vương, vẫn thừa nhận Nguyễn vương ở Quảng Nam.

Đại Sán nhất sinh li kì biến hóa, và năm về già lại bị nạn lao tù; tuy hành vi thái độ của ông, khá khen mà cũng khá chê nhiều, nhưng chúng ta cũng nhận thấy ông ta có một nhân cách phóng lãng không chịu bó buộc. Thực như bài Hải ngoại kỷ sự đề yếu, trong bút kí tiểu thuyết đại quan bản đã viết: “Tuy có những tiếng tăm bất ngờ, nhưng ông vẫn là người thác cớ để lánh đời, muốn mượn văn chương để tỏ chí mình, điều đó thực rõ như ban ngày vậy”. Hơn nữa, đáng cho chúng ta chú trọng là sự thành tựa trên việc quốc dân ngoại giao. Còn các việc khác như trong chuyến du hành Quảng Nam, Đại Sán đã làm cho vua tôi Nguyễn phủ cảm mến và long trọng cúng dưỡng, cho đến thái độ thành thực của Đại sán đối với họ, tuy những ghi chép trong Hải ngoại Kỷ sự chẳng khỏi có khoa trương tô vẻ thêm ít nhiều, nhưng cũng có thể xem như một phụ trương có thú vị trên lịch sử quan hệ Trung Việt, xứng đáng cho Trung Việt nhân sĩ suy nghĩ vậy. Đại nam thực lục tiền biên, cuối bài “Thạch liêm truyện” chép rằng: “Khoảng năm Minh mạng (1821-1840) Trương hảo hiệp phụng phái qua Tàu, đến chơi chùa Trường thọ, chủ trì chùa ấy còn nhắc nhở sự tích Thạch Lão”, đó cũng là một chứng cớ rõ ràng.

               


 [1][1] Bản ấy hiện tồn trữ tại kho sách Trung Ương đồ thư quán thôn Bắc câu, làng Vụ Phong, huyện Đài Trung, Đài Loan. Tồn-Đài-Văn-Vật thanh sách của Quốc Lập Trung ương đồ thư quán sách thứ 5 (nguyên chữ 5, trước để thùng 95) chép rằng: “Hải ngoại kỷ sự 6 quyển, 2 tập, do Thích Đại Sán soạn, nguyên san bản khoảng Khương Hy đời nhà thanh”.

 [2][2] Hải ngoại kỷ sự (quyển 4-18b) chép rằng: “áp đông là từ chỉ sự đình lưu qua năm sau tại nước khác của các tàu biển”. Trịnh Hoài Đức, Gia Định Thành Thông Chí (Sơn Xuyên Chí) cũng chép rằng: Các tàu Trung Quốc phải đợi đến mùa xuân có gió đông bắc, gió xuôi, mới đi qua và phải đợi đến mùa hạ có gió nam mới trở về được. Nếu trễ qua mùa thu trở gió, phải đậu lại từ mùa thu suốt đến mùa đông , gọi là “lưu đông”  cũng gọi là “giáp đông”..

 [3][3] Thuộc về biên soạn và nội dung của sách Hoa D biến thái xin xem bài “Thanh sơ thương thuyền chi Trường kỳ mậu dịch dữ Nhật Nam thuyền vân” của bút giả, đăng trong Nam dương học báo, quyển thứ 13, tập 1.

 [4][4] Đạo-diệp Quân-Sơn biên tập, Chu Thuấn-Thủy toàn tập, Đông kinh văn hội-đường thư-Điếm, Minh-Trị năm thứ 45 xuất bản, trương 541-565.

 [5][5] Mã tuấn Lương long Uy-bí thư (san hành năm Càn-Long thứ 39) tập thứ 7 và thu vào trong quyển thứ 10 bộ Dư địa tùng sao của Vương-Tích-Kỳ, Tiểu-Phương-Hồ-Trai, đời nhà Thanh.

 [6][6] Tiểu-Phương-Hồ-Trai Dư-địaTùng-sao, quyển thứ10, và học hải loại biên do Tào-Dung và Đào-Việt biên soạn, tập thứ 8, Du-Lãm có thâu chép.

 [7][7] Trong các bài tựa tập này, bài t ựa của Lý phương Quảng (Đinh mão 1687) và của Mao khả Tế (Mậu thìn 1688) đều đề: (HÁN ÔNG YÊN DU thi tự); còn các bài khác đề : (Ly lục Đương thi tập tự) hay là (Hán Ông thơ tập tự), bài tựa của Trương Tỗng đề lạc khoản làm Đinh tỵ (1677) quý hạ, bài của Phàn sử Đạt đề Bính tý (1696) đông thập nguyệt, bài của Ngô thọ Tiềm đề Kỷ mão ? (1699) bát nguyệt, bài của Đào Huyên cũng vậy, do đó có thể suy tưởng từ Khương hy năm 17 (1677) sau khi Đại Sán đi Bắc kinh về, đã có ý xuất bản thơ tập, lúc đầu tính đề tên “HÁN ÔNG YÊN du thi”sau vì cớ nhằng nhai mãi đến năm Khương hy 38 (1699) mới tổng hợp các tập thơ cũ và lấy tên  “Ly lục Đường thi” cho xuất bản. Tập thơ ấy đến năm Càn long 53 (1788) bị liệt váo số những sách do tỉnh Chiết giang xin tâu bỏ. Duyên cớ hình như tập ấy có liên quan với các sách bị cấm của Khuất đại quân và tập Lâm huệ Anh Liêm biên trấp, Dân quốc năm thứ 36 Thươnh vụ ấn thư quán xuất bản).

 [8][8] Mặt khác, ở trong tập của các nhà thơ đương thời cũng rải rác thấy có những thơ văn liên quan đến Đại Sán. Ví dụ như Ngô viên Thứ Lâm Huệ Đường văn tập tục khắc, thấy có bài (Thạch Liêm Thượng nhơn thơ tập tự) (quyển 2) và bài (Hán Ông Triều hàng thi tự) (quyển 3) vaì Từ hoàn Nam châu Thảo đường tập thấy có bài đề “Hương Tuyền Lang làm tặng Thạch liêm Thuyền sư.

 [9][9] A.W.Hummel, Eminent Chinese of the Ching Period, Washington, 1944, t-11, p.864b, Emile Gaspardone, Bonzé dé Ming Réfugiés  en Anam, Sino-logica, vlo.2, Nr.1 (1949), p.20 note 57.

 [10][10] Vương sĩ Trinh (Ngư dương lão nhơn) Mạn bút, Phân Cam Dư Thoại, Ngư dương tam thập lục chủng, Khương hy kỷ sửu, tháng chạp san hành.

 [11][11] Bọn Tăng Quốc Phiên trùng tu, Quang Tự năm thứ sáu san hành, Giang tây thông chí quyển 179, tiên thích mục, Giác lãng, chép rằng: “Giác Lãng tên Đạo Hạnh, biệt hiệu lão Trượng Nhơn, con của họ Trương ở thác phố, lúc còn nhỏ theo học khoa cử, nhơn ông nội bị tù, tội chết, nghĩ rằng linh hồn ấy sẽ đi nơi nào? Ngày nọ đang đi giưã đường nghe tiếng mèo nhảy bèn tỉnh ngộ, gặp lúc có Thụy Nham Thức Công đi qua phố, bí mật xin theo xuất gia, lên ở núi Mộng Hoa, tham thiền chùa Bác Sơn, kế tham thiền chùa Thọ xương, qua Thư lâm ra mắt Đông uyển cảnh; có một lần đau gần chết, Uyển cho uống thuốc cứu sống; nhơn lúc nhàn rồi Uyển hỏi thăm lai lịch lúc sinh bình, thất kinh nói rằng: chi Tuệ đăng của chùa thọ xương ta sẽ thuộc về ngươi vậy, nhơn trao phó cho nguồn đạo. Khoảng niên hiệu Thuận Trị xin chủ trì chùa Bác sơn, sau đến Thiên giới Côn lư Các nghỉ hạ, thình lình khiến dời đến trước thiền đường, đúng ngọ, viết xong bài kệ, quăng bút mà viên tịch. Có ngữ lục trước tác 52 loại sách.

 [12][12] Mậu thuyên Tôn, Nghệ phong Đường Văn tục tập (Tuyên thống năm thứ 2 san hành) quyển II.276-296

 [13][13] “ Bình nam” tức Bình nam vương Thượng Khả Hỷ, “Yêm Đạt Công” tức con của Khả hỷ Thượng chi Tín. Hoa Di Biến Thái (quyển 4) chép lời khai của người Tàu, thuyền Quảng Đông chuyến 21, năm thìn (1676), cũng xưng là An đạt vương

 [14][14] Văn thành tức Phương sĩ Thiếu ông, Hán Vũ đế phong làm Văn thành tướng quân, Ngũ Lợi tức Phương Sĩ Loan Đại, Vũ đế phong làm Ngũ Lợi tướng quân, đều tinh thông phương thuật.

 [15][15] Nguyễn phúc Châu Bản sư Hải ngoại Kỷ sự tự chép rằng: Thầy ta khai hóa hơn 30 năm, trước tác hơn 20 loại sách cho ra đời đã lâu, tự có giá trị nhất định của nó”. Tên các sách ấy, có lẽ là một bộ trong 21 loại sách trên

[16][16] Lý Hằng (Quốc triều kỳ hiến loại trung sơ biên) quyển 161, mục cương thần 13, Quảng đông thông chí (Đồng trị năm thứ 3 san hành lại abnr in chụp hình của Thương vụ ấn Trung quán), quyển 44, chức quan biêu 35.

[17][17] Lý Cơ Hòa, tự Hiệp Vận, lại tự Mai giai, người Hán quận Nhương hồng kỳ, đậu tiến sĩ năm Khương hy thứ 13, đồi làm hàn lam viện Thứ cát sĩ. Làm quan thăng đến Hồ Bắc bố chánh sứ, năm Khương hy năm thứ 43 thăng Giang tây Tuần vũ, có mai Giai thơ tập (xin xem Giang Tây thông chí quyên 128, Hoạn tích lục 3, Quốc triều). Quốc triều kỳ hiến loại trung sơ biên, quyển 161, mcj cương thần 13, cũng dẫn Đại Thanh nhất thống chí rằng: “Bổ đi Tuần Vũ Giang tây, lúc gần đến nhận chức, nghe tỉnh ấy có nạn đói, ông đi đến Hồ Khẩu, quá giang thyền buôn gạo để xuống nam, bèn xuất bạc mua cả thuyền gạo đến Nam xương y giá bán ra, giá gạo bèn trở lại bình thường. Sau thôi quan về cư ngụ tại chùa, cam chịu thanh bần đến ngày chết. Giang tây tuần vũ Cơ Hòa là người thứ nhất nổi tiếng là thanh liêm vậy.

[18][18] Đại Nam Nhất Thống Chí (Duy Tân tam niên, 1910 soạn, quyển 9, tỉnh Bình Định) Mục tự quán chép rằng: “Chùa Thập Tháp ở làng Thuận Chánh, huyện Tuy Viễn, sau chùa có 10 cái tháp chàm, cho nên đặt tên như vậy, nay đỏ nát hết rồi. Bản triều đời Thái Tông, Đường tăng Hoán bích hòa thượng xây cất chùa ấy, thời Hiển Tông sắc ban biển ngạch đề “Thập Tháp Di Đà tự” và liễn đối…Minh Mạng nguyên niên, thầy tu chùa Linh Mụ là Mật Hoằng hòa thượng trùng tu lại, chùa chiền rỗng rãi, sơn thiếp huy hoàng, cùng với chùa Linh Phong đều nổi tiếng thắng cảnh”.

[19][19] Đại Nam Nhất Thống Chí (quyển 2, tỉnh Thừa Thiên) mục tự quán chép rằng: “Chùa Quốc Ân ở ấp Phước Quả. Tục truyền do Hoán Bích thiền sư xây cất, bản triều Hiển Tông có ban cho hai bấc liễn đối…bên tả có khắc 8 chữ “Quốc vương thiên túng đạo nhân ngự đề”, nay đương còn và trước chùa có tháp Phổ Đồng cũng do Hoán Bích thiền sư xây, sau bị binh hỏa tàn phá. Gia Long năm đầu, Mật Hoằng hòa thượng tu bổ lại, chùa chiền rộng rãi rất mỹ quan”.

[20][20] Đại Nam Nhất Thống Chí (quyển 2, tỉnh Thừa Thiên) mục tự quán chép rằng: “Chùa Hà Trung ở xã Hà Trung, huyện Phú Lộc, đời Hiển Tông bản triều, sư Hoán Bích làm chủ trì ở đó”.

[21][21] Thuộc về sự tích Tạ Nguyên Thiều (Hoán Bích), xin xem E. Gaspardone, loc, cit., p.14-17.

[22][22] Thuyền nầy ngày 25 tháng 5 do Quảng Đông khởi hành, ngày 28 tháng 7 đến Trường Kì, thuyền trưởng tên Mạch Xán Vũ. Những báo cáo trong năm ấy của các thuyền Quảng Đông, chuyến 50 (thuyền trưởng Lữ Vũ Quan), chuyến 51 (thuyền trưởng Lý Tướng Quan) và chuyến 52 (thuyền trưởng Lâm Tam Quan) cũng đều có nói đến tin ấy, giản lược rõ ràng hơn (Xem Hoa Di Biến Thái quyển 22 hạ)

[23][23] Đại Nam Nhất Thống chí (quyển 2, Thừa Thiên), mục tự quán chép rằng: “Chùa thiền lâm ở xã An Cựu, tương truyền do thạch liêm hòa thượng kiến tạo, cảnh trí rất u tịch. Ngụy Tây Sơn thái sư Bùi Đắc Tuyên chiếm ở, sau Đắc Tuyên thất bại, người trong làng nhơn theo nền cũ sửa chữa lại. Bản triều khoảng đời Gia Long, Thừa thiên cao Hoàng Hậu bỏ tiền ra kiến trúc lại, nay dần dần hư nát, chỉ còn ngôi chùa chánh. Phía tả chùa có một quả chuông đồng lớn, cao 4 thước, vòng lưng 6 thước, dày 4 tấc, có khắc chữ “Lê vĩnh thịnh thập nhị niên, chú” (bút giả chùa: tức năm 1716), Vĩnh thịnh là niên hiệuvua Dũ Tông nhà Lê, vua gia Long sau khi đã khắc phục Bắc Thành, chở quả chuông ấy về kinh bỏ vào kho, đến lúc sửa chùa xong, cho đem treo để dùng)

[24][24] Đại Nam Liệt Truyện tiền biên (quyển 6) chép câu chuyện nầy, từ bắt đầu đến việc trải qua có hơi khác, đoạn văn ấy chép rằng: “gần đây xóm nhà ở ngoài đô thành thường đêm hay bị phát hỏa, Chúa thượng tự mình đốc suất quân lính đến chữa, Thạch liêm can rằng: Đêm hôm tối tăm, Xa giá há nên khinh thường đi ra. “Rồng trắng đội lốt cá”, Cổ nhân lấy câu ấy ra làm răn, xin Vương lưu ý. Vua khen phải, nghe theo, từ ấy không ra ban đêm nữa.

[25][25] Đại Nam Nhất Thống Chí (quyển 5 quảng nam) Mục tự quán chép rằng: “ Chùa Tam thai ở phía Tây núi đại hành, có nhiều cổ tích danh thắng, từ sau ngày binh hỏa, đều bị phá hoại. Minh mạng năm thứ 6 (1865, bút giả khảo án) khiến quan sữa chữa lại”.

[26][26] Đại Nam Nhất Thống Chí  (quyển 5 quảng nam) mục tự quán chép rằng: “chùa Di Đà ở cồn Đông an, Tiên Triều Sắc ban biển vàng, liễn đối nay bị phá hoại”.

[27][27] Đại Nam Nhất Thống Chí (quyển 2 kinh sư) mục tự quán chép rằng: “Chùa Thiên mụ ở ngoài kinh thành trên gò núi xã An ninh tây, nguyên trước có chùa Phật, Gia Long năm 14 xây cất lại…Nay xét bản Triều Thái Tổ Hoàng đế Tân sửu năm 44 (bút giả khảo án: 1601) Xa giá đến viếng Hà khê, thấy nơi đồng bằng nnổi lên một gò đất như hình đầu rồng quay lại, ngó thẳng ra Trươmgf giamg, phía sau có hồ, cảnh trí rất đẹp, nhơn hỏi chuyện người bản xứ hỏi rằng:gò này rất linh dị, tương truyền ngày xưa có người ban đêm thấy bà già áo đỏ quần lục ngồi trên gò, nói rằng: “ Sau sẽ có vị chơn Chúa đến sữa lại chùa này, tụ linh khí để giữ long mạch cho được bền vững”, nói rồi biến mất , nhơn đặt tên Thiên mụ sơn. Vua cho rằng đất này có linh khím bèn dựng chùa gọi Linh mụ tự. Thái Tông Hoàng đế năm Ất tỵ năm thứ 17 (1665) sửa chữa lại, Hiễn Tông Hoàng đế Canh dần năm 19 (1901) đúc chuông lớn, năm Giáp ngọ 23 (1714), trùng tu nhà chùa…Ất mùi năm 24 (1715)ngự chế bài văn bia dựng trước chùa, xây cất điếu đài ở bờ sông làm nơi du ngoạn, sau bị binh hỏa tàn phá, dấu cũ đương cong… Thành Thái năm 16 (1904) nhơn gió bão, nhiều nơi bị đổ nát, năm 19 (1907) tu bổ lại, triệt hạ điện Di lặc, và hai tòa tả hữu thập điện, dời Hương Nguyện Đình cất lên ở nền Di lặc cũ. Mặt khác, Đại nam Thực lục Tiền biên (quyển 8) mục tháng 6 năm giáp ngọ, Hiển tông năm thứ 23 (1714) chép đầu đuôi việc trùng tu chùa Thiên mụ và khiến người qua Tàu mua Đại tạng kinh và luật luận hơn ngàn bộ, có chua ở sau rằng: “Hồi ấy có Chiết tây hòa thượng teen Đại sán hiệu Thạch liêm đem thiền đạo yết kiến rất được vua yêu, sau ông về Quảng nam đem những gỗ quý do nhà vua tặng cho, cất xây chùa Trường thọ, nay có di tích đương còn:. Xét Đại sán diên lưu ở Quảng nam từ cuối tháng giêng năm ất hợi khương hy (1695) đến cuối tháng 6 năm bính tý (1696). Chú văn trên đây rõ ràng do sự lầm lẩn của kẻ biên soạn Đại Nam Thực Lục.

[28][28] Hải ngoại kỷ sự, quyển 3, 16b-20a. Đại sán vì biểu dương Trương Tiết phụ mà làm bài tứ ngôn cổ thơ và bài dẫn, cũng thấy chép ở Ly lục đường tập, quyển 1 hạ, 1a-4a.

[29][29] (Lam tổng binh) ở đây có lẽ là Lam Lý tên tự là Nghĩa Phủ, hiệu Nghĩa sơn, người Chương phố, từng theo Tịnh Hải tướng quân Thi Lương qua đánh Trịnh Phiên ở Đài Loan. Khương hy năm 27 (1688) nhậm chức Chiết giang Định hảitrấn Tổng binh trải 10 năm,có tiếng khen tốt, sau trấn thủ Thiên tân, năm 45 (1706) dời bổ Phúc kiến lục độ, Đề đốc, mùa thu năm Tân mão (1711)vì vụ án ăn trộm của Chương Bình Trần Ngũ Hiển, bị giải chức. Năm Nhâm thìn (1712)) bị tham hạch, gia sản bị trịch thâu, và biên tên vào kỳ tịch (sổ lính). gặp lúc Tây tạng có chiến tranh, Lý đem con đi theo Tướng quân Chân mục Thại ra đông độ, đóng ở đài 25, hơn 1 năm vì tuổi già cho về kinh. Năm 59 (1720) tạ thế, năm ấy đã 72 tuổi. Sinh bình tính nóng nảy, lúc nổi giận như sấm sét, qua đó quên liền, muốn tự tôn, tự đại chẳng muốn phục ai, hay gây mắng chưởi, đối với kẻ quyền thế bề trên thường hay kiêu ngọaọ khinh khi, tỏ  thị thiên hạ chẳng ai bằng mình; nhưng gặp kẻ tài ba hào kiệt, tuy nghèo cũng hạ mình kính lễ; gia đình giữ cần kiệm, cơm thô áo vải cũng vui lòng.( Xem Phúc kiến, Thông chí Liệt truyện, quyển 35, Thanh 4, 14b-19b).

[30][30] Vương mẫu Tống thị, tức Hiến nghĩa Hoàng hậu, con gái quan Thiếu phó Tống Phúc Vinh, mất ngày Mậu Dần tháng 3 năm Hiển tông (tức Minh Vương) Bính Tý thứ 5 (1696), hưởng dương 44 tuổi, truy tôn Quốc Thái phu nhân, lăng phần an táng tại làng Định Môn (thuộc huyện Hưng Trà, tức Vĩnh Mậu lăng). Xem Thực Lục Tiền Biên quyển 7, 12a-12b)

[31][31] Cứ theo Thực Lục Tiền Biên quyển 7, Hiển tông Hiếu Minh Hoàng Đế thực lục thượng, Hiển tông sinh vào năm Khương Hi thứ 14, con trưởng của Anh Tông Hiếu Nghĩa hoàng đế (tức Nghĩa Vương). Nhưng nay cứ theo Hải Ngoại Kỷ Sự, Lệ Truyền Hầu và Thiều Dương Hầu là anh thưa hai và anh thứ ba của vua, thế thì hai ông này con bà thứ chăng?

[32][32] Đông Triều Hầu tức tước danh của Tham Chính Đoán sự Trần Đình Ân: Tháng 8 năm Quý Mùi, Minh Vương năm thứ 12 (1703), Trần Đình Ân năm ấy 78 tuổi, xin về hưu trí, hai ba lần trần thỉnh, Minh Vương mới chuẩn y; đến lúc Đình Ân vào tạ, Minh Vương cho một bài thơ viết vào lụa hoa trắng, khen ngợi công phụ tá bốn triều của Đình Ân, và đặc ân cho 10 mẫu ruộng, 10 người lính hầu để dưỡng lão. Đình Ân an cư chùa Bình Trung (tại làng Hà Trung, huyện Minh Linh), tự vui với thiền học. Đến tháng giêng năm thứ 15 Bính Tuất (1706) tạ thế. Minh Vương truy tặng Đôn Hậu Công Thần Đặc Tiến Trụ Quốc Kim Tử Đại phu, Đại Lý Tự Khanh, thụy hiệu Thuần Thiện, cho phu giữ mộ 10 người và tha thuế 230 mẫu tư điền. Xem Thực Lục Tiền Biên quyển 7, 22a-23a-26b)

[33][33] Quốc Cậu Tả Thái Úy ở đây có lẽ tức Tống Phúc Tráng, nhiệm chức Nội Tả cai cơ tháng 8 năm Tân Mùi (1691) (Thục Lục Tiền Biên quyển 7, 3a). Xét bốn chức Nội Tả, Ngoại Tả, Nội hữu, Nhoại Hữu xưng Tứ Trụ, chức quan tối cao của Nguyển phủ, do Công Thượng Vương (tức Thần Tông Phúc Lan,1635-1648) thiết lập để phụ tá Quốc Vương. Xem Trần Trọng Kim, Việt Nam sir-bidc, 1954, p.325.

[34][34] Hải Ngoại Kỷ Sự (quyển 3, 5b) có nói rằng: “Ta đến Đại Việt, đầu tiên có tứ triều Nguyên Lão Đông Triều Hầu xin ra mắt và con của ông là Văn chứ Thế Nam qui y với Lão Tăng v.v…” thế khá biết Văn chức Thế Nam (tên một chức quan) là con của Đông Triều hầu Trần Đình Ân. Nhưng xét Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (quyển 7) con Đình Ân nhiệm Văn chức có hai người, một người tên là Trần Đình khánh (Thực lục nguyên chú: con của Trần Đình Ân), tháng 12 năm Canh Thìn Minh Vương năm thứ 9, phụng mạng đi với Nội Hữu Cai Cơ Tống Phúc Tài ra Quảng Bình và Bố Chánh khảo sát việc phòng bị biên thùy; tháng 9 năm Tân tỵ thứ 10 (1701) nhiệm Quảng Nam dinh cai bộ. Người thứ hai là Trần Đình Thuận (thực lục nguyên chú: con của Trần Đình Ân) tháng 3 năm Quí Mùi thứ 12 (1703) cùng với Ngoại Tả Chưởng dinh Tôn Thất Diệu đốc binh đắp bờ đê của Hà Kì cho tiện việc tàu thuyền vận tải, tháng 8 năm Giáp Thân thứ 13 (1704), nhiệm chức Đô tri xuất Xá sai ty, tháng 11 năm Bính Tuất thứ 15 (1706) thăng nhiệm Cai bộ phó Đoán sứ, quản sát tương thân lại ty.

[35][35] Bài thơ và tự văn của Đại sán vãn Chương Thanh Nguyễn công, cũng thấy chép trong Ly Lục Đường tập (quyển 1, 4a-7a) nhan đề vãn Đại Việt quốc Xu Mật Tướng quân Chưởng Thanh Nguyễn công. Đại Sán tiếp được phó âm (ai tín) của Chương Thanh Tả xu Mật, có lẽ vào khoảng tháng 8 năm Ất Hợi (1695), lúc ông còn lưu dưỡng bệnh tại Hội An. Về sự tích của vị ấy, Đại Sán kể rằng: “Chưởng Thanh là rường cột của nước Đại Việt, giữ chức Xu Mật luôn bốn triều. Luyện đạt lão thành, trung hậu trầm nghi, có dũng lực, mưu lược hơn người, gặp lúc Chiêm thành gây họa, vua khiến ông làm tướng đi đánh phương nam, ông đánh thắng luôn mấy trận, bắt vua chém tướng Chiêm Thành, chiếm đất mấy nghìn dặm, dân mường mán nghe danh thảy đều khiếp đảm; ông đi đến đâu chẳng hề động chạm mảy may của dân, rất được lòng người, bởi thế ông khởi ca về triều mà dân xứ ấy đến nay còn cảm đức”. (Hải Ngoại Kỷ sự quyển 4, 32b). Cứ thiểu kiến của tôi, xét tổng quát công thần Nguyễn Đình thời ấy, chưởng thanh Nguyễn Công, nhân vật ấy trừ Nguyễn hữu Cảnh ra khong con ai nữa. Cứ Đại Nam Thực Lục Tiền Biên quyển 7 ghi chép, tháng 8 nămNhâm Thân Hiển Tông (Minh Vương) nguyên niên, Vua nước Chiêm Thành là Bà Tranh làm phản, đem binh đánh cướp dinh Binh Khang. Minh Vương khiến Ngiuyễn Hữu cảnh làm thống binh suất lãnh chính dinh (tức Thuận Hóa) và binh Quảng Nam, Bình Khang đi đánh, qua tháng 3 năm Quí Dậu thứ 2 (1603), Nguyễn Hữu Cảnh đánh bắt được Bà Tranh và bọnthần thuộc đem về, từ đó đất Chiêm Thành thuộc về Quảng Nam thống trị, đổi tên làm Thuận thành trấn. Tháng 8 cùng năm ấy, lại đổi tên làm Bình Thuận phủ, lập thổ quan và bắt thay đổi phục sức. Chẳng ngờ tháng chạp cùng năm ấy, người tàu tên A Ban (tức Ngô Lãng) dấy loạn ở Thuận thành, qua tháng 3 giáp tuất năm thứ 3 (1694), Nguyễn Hữu Cảnh lại phụng mạng vào nam đánh dẹp, kế nhiệm chức Chưởng Cơ lãnh Bình khang dinh trấn thủ. Lại cứ nguyên lời chua của Thực Lục Tiền Biên (quyển 7, 4a) Nguyễn Hữu Cảnh là con của Nguyễn Hữu Dật thời ấy xưng là Lễ Tài Hầu, chữ Tài có chỗ chép thành chữ Thành, lại có chỗ chép thành chữ Hòa. Mặt khác Gia Định Thông Chí (cương vực chí) thì lại chép làm Chưởng Cơ Lễ thành hầu Nguyễn. Nay xét tước hiệu của quan lại Quảng nam Nguyễn Đình, thường thường lấy một chữ nghĩa tốt chép với chữ tên của chính người được phong, hợp hai chữ lại thành tước hiệu và chữ Thành với chữ Thanh tiếng việt đọc giống nhau, bởi thế có thể suy tưởng “Chưởng Cơ Nguyễn Công” chép trong Hải Ngoại Kỷ Sự, chắc là “Chưởng Thành Nguyễn Công” tức Chưởng Cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn truyền chép nhầm. Nói tóm lại, Chưởng thanh Nguyễn công chắc chỉ Nguyễn hữu Cảnh mà nói. Chỉ có ngài tạ thế của ông ấy, Thực Lục Tiền Biên(quyển 7, 17b-18a) ch éplàm tháng 5 năm Canh Thìn thứ 9 (1700) cùng với ngày chép trong Hải ngoại Kỷ Sự sai nhau đến 5 năm, ấy chắc cũng do sự nhầm lẫn của người biên soạn Đại Nam thực lục.

[36][36] Người  ấy chắc là Nội Hữu Phó Mã Tống Phúc Thiệu (con của Tống Phúc Trí), ông ta năm Kỷ Sửu thứ 18 (1709) âm mưu dấy loạn, bị giáng xuống làm thường dân. Xin xem Đại Nam Thực Lục Tiền Biên (quyển8, 6a-6b)

[37][37] Nhị quốc cậu có lẽ là Nội Tả Chưởng dinh Tống Phúc Trí, tức thân phụ của Phó Mã Hữu Đồn Dinh thuật trên đây.

[38][38] Hữu Thừa Tướng Tống Công có lẽ là Nội Hữu Cai cơ Tống Phúc Tài (Thực Lục Tiền Biên quyển 7, 18b)

[39][39] Khoảng hậu bán thể kye 17, Tăng nhân Trung Quốc thường thường đi thuyền qua các nước phương nam, tìm mua gỗ quí. Ví dụ năm 1681, Nhật Nhĩ Bá, giáo sĩ nước Pháp đến ở Tiêm La truyền giáo đã 5 năm, viết bộ Tiêm La Thiên Nhiên cập Chánh Trị Sử (chương thứ 12) cũng bảo rằng: “Trong lúc ông ở Tiêm La có gặp hai vị Tăng nhân Trung Quốc đến tìm mua san gỗ để đem về cất chùa.” (Tham khảo Nicolas Germaise, Histoire natủelle et Politique du Royaume de Siam, Paris, 1688, p.231-232).

[40][40] Thực lục tiền biên (quyển 7, 20b) mục tháng 5 năm Nhâm Ngọ, Hiển Tông năm thứ 11.

[41][41] Bài biểu văn nầy do Lê Quí Đôn tìm thấy trong tủ sách của Nguyễn Quang TIền và chép lại trong sách Vũ Biên Tạp Lục (quyển 5, 27b-2a, H.M.2.108). Cao Lãng trong Lịch Triều Tạp Ký (H.M.2.163; quyển 1, 75b-76b) nói lầm bài biểu ấy do Nguyễn Quang Tiền soạn. Xét Nguyễn Quang Tiền là nho thần từ thời Vũ vương đến Duệ Tông, đảm nhiệm soạn tả những văn kiện ngoại giao cho Nguyễn Chúa.

Nguồn:  Hải Ngoại kỷ sự, Viện Đại Học Huế xuất bản, 1963, tr. 237-279.

Trong quá trình giao lưu quốc tế, văn học Korea đã từng bước hiện diện tại các quốc gia Châu Á. Với Việt Nam, sự hiện diện đó chính thức bắt đầu từ giữa thế kỉ XV qua con đường giao lưu của sứ thần hai dân tộc trên đất Trung Hoa. Bài viết giới thiệu các nguồn tư liệu gốc và đưa ra một số nhận đinh về xu hướng, tính chất và tâm thái tiếp nhận các tác phẩm văn học Korea ở Việt Nam thế kỉ XV. Qua trường hợp cụ thể của sự hiện diện tại Việt Nam cách đây hơn 5 thế kỉ, bài viết khẳng định vị thế quốc tế của văn học Korea ở Châu Á, đặc biệt là ở các nước “đồng văn” như Việt Nam.

Korea và Việt Nam trong quá khứ dù hạn chế về điều kiện tiếp xúc nhưng cũng đã có quá trình giao lưu văn hóa khá sôi nổi. Kết quả là, văn học hai dân tộc có sự hiện diện nhất định trên đất bạn qua nhiều con đường khác nhau. Sự hiện diện của văn học hai dân tộc ở nước bạn rất có thể đã có từ thế kỉ XII, XIII qua những nhân vật như Lý Dương Côn (李 陽 焜 - 이양혼) Lý Long Tường (李 龍 祥 - 이용상)*,v.v... Tuy nhiên, đó chỉ là suy luận gián tiếp dựa vào logic hoặc thậm chí vào những thông tin của truyền thuyết, giai thoại mà thiếu những căn cứ xác thực. Sự hiện diện chính thức, được các thư tịch đáng tin cậy ghi nhận và để lại những thành quả rõ ràng phải chờ đến giữa thế kỉ XV. Đây là một dấu mốc quan trọng mở ra một quá trình giao lưu văn học Korea - Việt Nam sôi động trong nhiều thế kỉ sau đó([1]). Vậy nhưng, dấu mốc quan trọng này chưa được biết đến một cách tường tận, rộng rãi, đặc biệt là ở Việt Nam, khiến cho bức tranh quan hệ văn học giữa hai nước còn những điểm mờ, điểm nhạt. Đâu đó cũng đã có những nỗ lực([2]), nhưng còn thiếu một sự quyết liệt, toàn diện ngõ hầu đưa ra ánh sáng cả một bức tranh đầy đủ, sinh động hơn. Bài viết này tiếp tục nỗ lực đó trước hết làm rõ một vấn đề: sự hiện diện của văn học Korea ở Việt Nam thế kỉ XV.

1. Những lần tiếp xúc văn chương giữa sứ thần 2 dân tộc ở thế kỉ XV: các nguồn tư liệu và thông tin

1.1. Không xét đến những thông tính mang tính giai thoại như câu chuyện về sự gặp gỡ giữa Mạc Đĩnh Chi 莫 挺 之 và sứ thần Joseon (Triều Tiên), cuộc gặp gỡ đích thực đầu tiên giữa sứ thần hai dân tộc, cũng là lần đầu tiên người Việt Nam biết đến văn học Korea là vào khoảng giữa thế kỉ XV. Đó là cuộc gặp gỡ giữa sứ thần Joseon Từ Cư Chính([3]) và sứ thần An Nam Lương Như Hộc([4]). Hai ông đã có xướng hoạ, tặng thơ cho nhau. Sách Triều Tiên vương triều thực lục 朝 鮮 王 朝 實 錄 [Thực lục] khi chép tiểu sử Từ Cư Chính có viết: “Năm Canh Thìn, [ông] chuyển sang làm Lại tào Tham nghị, tham gia sứ đoàn Tạ ân đến Yên Kinh, ở quán Thông Châu gặp sứ thần An Nam là Lương [Như] Hộc, Trạng nguyên chế khoa nước ấy. Cư Chính làm một bài thơ cận thể đưa trước cho ông, Lương hoạ lại. Cư Chính làm liền một lúc 10 bài tặng lại, Lương thán phục nói: “Thật là kì tài trong thiên hạ”([5]). Kiểm tra Đại Việt sử kí toàn thư 大 越 史 記 全 書 [Toàn thư], ta thấy Lương Như Hộc quả có đi sứ năm 1459 - 1460([6]). Như vậy, ghi chép của Thực lục là có cơ sở. Cũng theo sách này, Từ Cư Chính đã viết tặng Lương Như Hộc 10 bài thơ, và Lương đáp lại bằng 1 bài thơ. Tuy nhiên, các tư liệu hiện còn không được như vậy. Cụ thể, số bài thơ Từ Cư Chính đã tặng Lương Như Hộc còn lại là 3 bài (Thứ An Nam sứ Lương Hộc thi vận 次 安 南 使 梁 鵠 詩 韻, Quản thành tử tặng Lương phụng sứ 管 城 子 贈 梁 奉 使 - nhị thủ), trong khi Lương hoạ lại một bài (Thứ Triều Tiên quốc Từ Tể tướng thi vận 次 朝 鮮 國 徐 宰 相 詩 韻). Những bài thơ này được lưu giữ trong sách Tứ Giai thi tập 四 佳 詩 集 của Từ Cư Chính. Vậy là, trong lần tiếp xúc này, chính thức có hàng chục bài thơ (hiện còn 3 bài) thuộc văn học Korea đã được người Việt biết đến và bình giá.

1.2. Lần tiếp xúc thứ hai là vào khoảng năm 1479 - 1480. Đó là cuộc gặp gỡ, giao lưu văn học giữa Lê Thì Cử([7]) và Tào Thân([8]). Tiểu sử Tào Thân cho thấy ông là một nhân tài văn học của Joseon. Thực lục nhiều lần ghi chép về việc Tào Thân làm thơ, được ban thưởng và thăng chức. Tào Thân cũng có biệt tài về ngôn ngữ nên nhiều lần được giao nhiệm vụ phiên dịch trong các sứ vụ bang giao (với Nhật Bản, Trung Quốc). Năm 1479, ông được cử tham gia sứ bộ sang nhà Minh. Về Lê Thì Cử, hiện có rất ít thông tin được ghi chép. Tra Toàn thư thì thấy, trong khoảng thời gian này chỉ thấy có một sứ đoàn sang nhà Minh (từ năm 1477 đến 1480) như sau: “[Đinh Dậu, (1477)] Tháng 11, ngày 20, vua sai Binh bộ tả thị lang Trần Trung Lập, Hàn lâm viện hiệu thảo Lê Ngạn Tuấn và Phan Quý sang nhà Minh tiến cống” và “Canh Tý [1480], [tháng 8…] Bọn Binh bộ tả thị lang Trần Trung Lập, Hàn lâm kiểm thảo Lê Ngạn Tuấn, Phan Quý vâng mệnh đi sứ nhà Minh trở về”([9]). Trong sứ bộ này ta thấy không có tên Lê Thì Cử, nhưng nếu đúng có việc Lê Thì Cử xướng hoạ với Tào Thân thì ông hẳn nằm trong sứ bộ này và là một nhân vật quan trọng của sứ bộ. Vậy phải chăng Lê Thì Cử chính là nhân vật Lê Tuấn Ngạn trong thư tịch Việt Nam?

Tác phẩm và cuộc trao đổi giữa hai ông được ghi chép trong các sách như Bại quan tạp kí 稗 官 雜 記 của Ngư Thúc Quyền 魚 叔 權 (어숙권, thế kỉ XV), Hải Đông tạp lục 海 東 雜 錄 của Quyền Miết 權 鼈 (권별, 1589~1671), Đại Đông vận phủ quần ngọc 大 東 韻 府 群 玉 của Quyền Văn Hải 權 文 海 (권문해, 1534-1591),v.v… Các sách đều nói 2 ông xướng hoạ với nhau, thơ văn có đến “hơn chục bài, bài nào cũng khiến người ta thấy thú vị”. Tuy nhiên, hiện các sách này chỉ còn giữ lại được: 5 bài Lê Thì Cử tặng Tào Thân (Tam Hàn kiến thuyết cảnh thiên thù 三 韓 見 說 景 偏 殊, Mã Thìn di tục cổ nhân thù 馬 辰 遺 俗 古 人 殊, Đông Nam phong vực cổ lai thù 東 南 封 域 古 來 殊, Ngọc quản dương hôi chí 玉 管 陽 灰 至, Kí điện dư đồ cựu 冀甸 輿圖舊); 3 bài Tào Thân tặng lại Lê Thì Cử (Kì ngư hùng chưởng vị hà thù 嗜 魚 熊 掌 味 何 殊, Trừ nhật xuân quang chí 除 日 春 光 至, Vật ý đô vong cựu 物 意 都 忘 舊([10])). Ngoài ra, còn 2 đoạn thư trong số nhiều bức thư 2 ông trao đổi với nhau tranh luận về “thi học” nói riêng và học vấn nói chung. Đây là một cuộc trao đổi văn chương hết sức thú vị, hiếm có. Như vậy, trong lần tiếp xúc này, hàng chục tác phẩm văn học Koea cũng đã được giới thiệu với người Việt. Hơn thế nữa, một số vấn đề về văn học Korea đã được đưa ra tranh luận, bình giá.

3. Lần tiếp xúc thứ ba là vào năm 1481-1482. Lần này, có nhiều cuộc trao đổi giữa nhiều cá nhân trong sứ bộ với số lượng tác phẩm được cho là khá nhiều. Cụ thể như sau:

Sách Bạch Sa tiên sinh tập 白 沙 先 生 集 (quyển 2) của Lí Hằng Phúc 李 恒 福 (이항복, 1556~1618) có bài Thư Lý Tham nghị Toái Quang Triều thiên thi hậu 書 李 參 議 睟 光 朝 天 詩 後 trong đó chép lời của Lí Hằng Phúc kể về mình: “Thưở nhở đến nhà Thân quân, được thấy quyển Triều kinh thi thiếp của Tham phán Quyền Thúc Cường([11]), trong đó có chép việc cùng sứ giả An Nam là Vũ Tá([12]) xướng họa rất nhiều thơ. Vả lại phụ thêm thơ của Khuê Tú([13]) của bản quốc làm tiễn tặng Vũ Tá đến mấy chục bài. Như bài Thuần vu, Anh anh, Chử ngọc lan, Từ ôn,... đều thanh kiện, hào sảng, có thể biện bác cái thói hoa lá cành của đám trẻ con. Có lẽ cũng rong ruổi được với âm hưởng còn sót lại của những bậc anh liệt xưa vậy. Ngài Thân có họa lại)”([14]). Như vậy, theo sách này, Quyền Thúc Cường và Khuê Tú đã xướng hoạ thơ văn với Vũ Tá hàng mấy chục bài. Tiếc rằng những thơ văn của hai bên tặng nhau hiện chưa tìm thấy. Cũng liên quan đến Vũ Tá, sách Tục Đông văn tuyển 續 東 文 選 quyển 8/21 của Từ Cư Chính và Thân Dụng Khái 申用漑 (신용개, 1463 - 1519), có chép 1 bài thơ thất ngôn bát cú của Thân Tùng Hoạch([15]) tặng Vũ Tá (Tặng An Nam sứ Vũ Tá).

Cuốn Hư Bạch Đình tục tập 虛 白 先 生 續 集 (bài “Hư Bạch Đình niên phổ” 虛 白 亭 年 譜) ghi chép niên phổ của Hồng Quý Đạt([16]) cho biết ông có hoạ thơ của ba vị sứ thần Việt Nam là Nguyễn An([17]), Nguyễn Văn Chất([18]) và Nguyễn Vỹ([19]). Bài “Niên phổ” có đoạn nói: “Năm Thành Hoá thứ 17, Thành Tông đại vương năm thứ 20, Tân Sửu [1481] […] mùa hạ sung Thái tử Thiên thu tiết tiến hạ sứ, theo Thư trạng Thân Tùng Hoạch đến Yên kinh (đi đến đâu đều có thơ) (…) Lại hoạ thơ của sứ thần An Nam là 3 ông họ Nguyễn: Nguyễn An tự Hằng Phủ; Nguyễn Văn Chất tự Thuần Phu, Nguyễn Vỹ tự Đĩnh Phu, [ba vị này] cũng vì việc đi sứ chúc mừng thánh tiết mà đến Yên kinh, dùng thơ tặng tiên sinh để cầu hoà. Văn Chất là đại gia trong chốn từ lâm. Tiên sinh liền hoạ lại, [trong thơ] rất tôn sùng ông ta”([20]).

Như vậy, sứ đoàn Joseon sang nhà Minh năm 1781 có các tên tuổi như: Thân Tùng Hoạch, Quyền Thúc Cường, Khuê Tú, Hồng Quý Đạt. Phía An Nam có 4 tên tuổi được tư liệu ở Korea ghi nhận: Nguyễn An, Nguyễn Vỹ, Nguyễn Văn Chất, Vũ Tá. Về lai lịch của sứ bộ An Nam, ta thấy một số thông tin ít ỏi được chép trong Toàn thư như sau: “Canh Tý, [Hồng Đức] năm thứ 11 [1480], [tháng 8] (…) Mùa đông, tháng 11, ngày 18, sai bọn bồi thần Nguyễn Văn Chất, Doãn Hoành Tuấn, Vũ Duy Giáo sang tuế cống nhà Minh và tâu việc Chiêm Thành”([21]). Toàn thư xác nhận sự có mặt của Nguyễn Văn Chất trong sứ bộ. Vậy còn Nguyễn Vỹ, Nguyễn An và Vũ Tá? Chúng ta chưa có thông tin về Nguyễn An, Nguyễn Vỹ. Riêng nhân vật Vũ Tá, phải chăng chính là Vũ Duy Giáo? Thơ văn xướng hoạ của các sứ thần An Nam cũng không thấy được ghi lại trong tư liệu của cả hai bên.

Hiện chỉ còn 4 bài thơ của Hồng Quý Đạt tặng sứ thần An Nam: Thứ An Nam sứ Nguyễn An Hằng Phủ vận 安 南 使 阮 安 恒 甫 韻, Thứ An Nam sứ Nguyễn Văn Chất Thuần Phu vận 次 安 南 使 阮 文 質 淳 夫 韻, Thứ An Nam sứ Nguyễn Vỹ Dĩnh Phu vận 安 南 使 阮 偉 挺 夫 韻, Thông Châu dịch quán thứ An Nam sứ vận 通 州 驛 館 次 安 南 使 韻. Bốn bài thơ này nằm trong Hư Bạch tiên sinh tục tập 虛 白 先 生 續 集 quyển 1 và 4. Ba bài thơ đầu dùng 3 bộ vần khác nhau, chứng tỏ sứ thần An Nam mỗi người đã tặng Hồng Quý Đạt một bài thơ khác nhau và ông đã hoạ tặng lại họ mỗi người một bài. Phải chăng bài thứ tư là bài tặng Vũ Tá? Tóm lại, ở lần tiếp xúc thứ ba, số lượng tác phẩm văn học Korea được “giới thiệu” với người Việt đã lên đến mấy chục bài (hiện còn khoảng 5 bài) của 4 tác giả.

2. Một vài nhận định về sự hiện diện của văn học Korea ở Việt Nam thế kỉ XV

2.1. Theo tư liệu hiện còn, ở nửa cuối thế kỉ XV, đã có 3 cuộc tiếp xúc, giao lưu văn học giữa Korea và Việt Nam với mật độ ngày càng dày với số lượng tác phẩm trao đổi ngày càng nhiều. Điều đó phản ánh nhu cầu giao lưu văn hoá, văn học, học thuật giữa Korea - Việt Nam trên đất Trung Hoa ngày càng lớn. Điều đó cũng phản ánh sự hưng thịnh của hai vương quốc, hai triều đại (ở Korea là các đời các vua Thế Tổ, Thành Tông nhà Lý; còn ở Việt Nam là các đời vua Thái Tông, Thánh Tông nhà Lê sơ) ở thế kỉ XV. Sang thế kỉ XVI, An Nam chìm trong cơn biến loạn nội chiến, quan hệ bang giao với các nước láng giềng “đồng văn” bị ảnh hưởng không nhỏ. Điều đó cũng khiến cho sự giao lưu, tiếp xúc văn học giữa Korea và Việt Nam bị gián đoạn trong một thời gian khá dài([22]). Mãi đến năm 1597, cuộc gặp gỡ giữa Lý Toái Quang và Phùng Khắc mới nối lại sự giao lưu, tiếp xúc này và làm sâu sắc thêm chúng trong bối cảnh mới. Tiếng vang của lần gặp này thậm chí đã che khuất các cuộc gặp gỡ sớm hơn nhiều của tiền nhân. Trong bối cảnh giao lưu sôi động đó, một bộ phận nhỏ văn học Korea đã đến với độc giả Việt Nam với con số hàng chục tác phẩm của một số tác giả. Di sản để lại hiện nay, trong phạm vi tư liệu được khảo sát, là 11 bài thơ, 1 bài văn. Những tác giả, những tay “đại bút”, tinh hoa của văn học Joseon đương thời đã được các sứ thần người Việt biết đến như Từ Cư Chính, Tào Thân, Hồng Quý Đạt, Thân Tùng Hoạch, Khuê Tú,v.v…Và hẳn khi về nước, các sứ thần này đã mang theo những tác phẩm của sứ thần nước bạn và giới thiệu với người trong nước.

2.2. Do giới hạn bởi bối cảnh giao lưu, tiếp xúc, các tác phẩm văn học Korea được “giới thiệu” đó là loại văn chương tao nhã, bác học và mang tính thù ứng, giao đãi. Cụ thể, đó là những bài thơ, bức thư được viết bằng chữ Hán theo khuôn thức của văn học Hán dưới hình thức tặng-đáp, tặng-hoạ hết sức phổ biến trong văn học trung đại thuộc khu vực “đồng văn”. Tập quán đó hết sức lâu đời và được duy trì cho đến thời cận đại. Với con đường giao lưu chính thống, quan phương và đầy rào cản như thế này, ít có cơ hội cho những tác phẩm văn học khác được trao đổi, truyền bá. Nếu có, hẳn cũng rất hiếm hoi, và chưa được phi lộ. Bởi vậy, không lấy gì làm ngạc nhiên trước những bài thơ toàn theo thể Đường luật đầy những điển tích, điển cố, sáo ngữ, mỹ từ, thậm chí chữ nghĩa hiểm hóc,v.v…

Tuy nhiên, bên cạnh những công thức sáo mòn ấy, trong các tác phẩm văn học của sứ thần Joseon gửi tặng sứ thần An Nam cũng có những cái chân thành, cảm động xuất phát từ sự đồng cảnh, cảm thông chia sẻ lẫn nhau. Nhiều bài vượt ra ngoài tính nhạt nhẽo của lễ nghi xã giao để trở thành tiếng nói tâm tình tri âm tri kỉ. Chẳng hạn, bài thơ Thân Tùng Hoạch viết tặng Vũ Tá rất “tâm trạng”: “Đến từ Mê Linh, vùng đất gần biển đầy chướng khí/ Sớm nay mới xuống thuyền ở Lộ Hà/ Trời thấp xuống nơi cột đồng, đi về phía Nam là Ngũ Lĩnh/ Đất xa xôi chốn Kim đài, đi lên phương Bắc là Yên Kinh/ Đường khách gió khói dài muôn dặm/ Thời hạn về nhà đằng đẵng 3 năm liền/ Than cho ta cũng là kẻ nhớ quê hương/ Đầu bến sông mưa đọng, mọi người đều buồn bã ([23]). Hay bài thơ Hồng Quý Đạt viết tặng sứ thần An Nam cũng rất chân thành với những câu như: “Áng mây nổi trên toà thành phủ bóng mát mười ngày/ Lòng khách trống không ngăn được cơn mưa mùa thu/ Nửa năm hồn mộng phiêu du ngàn dặm/ Một bức thư nhà đáng giá ngàn vàng/ Chẳng có ánh trăng chiếu khuôn mặt ẩn trong nỗi sầu/ Chỉ có ngọn đèn là hiểu tâm trạng khi đêm về này/ Gặp ngài muốn nói về sự khác nhau về tiếng nói hai bên/ Đành dựa vào một bài thơ mới để xứng với khúc ngâm nước Việt([24]). Và đương nhiên, đáp lại tấm chân tình đó, nhiều bài thơ của sứ thần An Nam cũng có tình cảm dạt dào, xúc động.

2.3. Như ở một bài viết trước của chúng tôi đã đề cập, mối quan hệ giữa sứ thần Việt Nam và Korea là mối quan hệ vừa “giao hảo” vừa “cạnh tranh”[25]. Chúng tôi nhận thấy ở đây cũng vậy. Sự tiếp nhận của người Việt với văn học Korea ở thế kỉ XV là một phức cảm: vừa ngưỡng mộ - vừa ganh đua, vừa sẵn sàng tâm thái đồng tình, vừa manh nha ý thức dị biệt.

Một mặt, trước các tác phẩm văn học Joseon được tiếp xúc, người Việt (cụ thể là các sứ thần) đều bày tỏ sự ngưỡng mộ, thán phục. Chẳng hạn, Lương Như Hộc sau khi đọc thơ Từ Cư Chính đã ca ngợi ông là “kì tài”. Lê Thì Cử cũng ca ngợi tài thơ của Tào Thân: “Lầu thơ cao trăm thước” (Thi lâu cao xích bách) [Kí điện dư đồ cựu],v.v… Phía các sứ thần Triều Tiên cũng có sự hồi đáp tương ứng([26]). Tuy nhiên, mặt khác, hai bên đều có sự tự tôn dân tộc và ý thức cạnh tranh mạnh mẽ. Ý thức này thực ra không thường xuyên được bộc lộ chính thức với đối phương mà chỉ bộc lộ trong những ghi chép riêng của mỗi bên([27]). Tuy nhiên, có một lần hiếm hoi, điều đó đã được bộc lộ trực tiếp, qua lại giữa hai bên. Đó là cuộc tranh luận giữa Lê Thì Cử và Tào Thân. Các phiến đoạn, khía cạnh khác nhau của cuộc tranh luận này được các tư liệu khác nhau ghi chép lại, bổ sung cho nhau rất thú vị. Chúng tôi xin trích dẫn toàn văn những ghi chép này.

Thứ nhất, sách Hải Đông tạp lục chép: “Thích Am đến chầu Kinh sư, cùng sứ thần An Nam là Lê Thì Cử xướng hoạ. Lê Thì Cử áp thông các vần “thù”, “thu”, “châu” làm thành bài thơ như sau: Phong vực phương Đông và phương Nam xưa nay khác nhau/ Nhưng giọt sương rơi xuống cây ngô đồng ngoài sân đều báo hiệu một mùa thu/ Trong khi làm khách, ngẫu nhiên có cuộc gặp gỡ văn tự/ Sắc xuân rực rỡ khắp cả đất Trung Hoa”. Thích Am chê việc dùng thông vận “ngu” và “vưu”([28]). Thì Cử viết thư đáp rằng: “Xét cổ nhân làm thơ thì liên đầu có thể dùng thể ‘biệt vận’. Như: “Ba nghìn giáp binh Việt đêm hợp thành vòng vây/ Yến tiệc xong vua tôi từ biệt mà chẳng hay biết/ Nếu luận công lao phá Ngô số một/ Thì lượng vàng [thưởng] chỉ đủ để đúc tượng Tây Thi”. Lại nữa, bài thơ Chư hiền của Trương Kính Phu([29]) rằng: “Bãi thơm hoa liễu mười ngày tạnh ráo/ Mưa gió suốt năm canh tiễn chút xuân tàn/ Chớ ngại rằng hồng tía đều bị thổi bay hết/ Màu xanh mới đầy vườn lại khiến người ưa thích” cũng lấy vận bộ “chân” trong loại “thượng bình” mà hiệp với vận bộ “canh” trong loại “hạ bình”. Loại thơ như thế, nhiều bài nhiều quyển, không thể chỉ ra hết được. Ông coi bài thơ Chư hiền của Kính Phu cũng là sáng tác cẩu thả ư?([30]) Không thấy sách chép Tào Thân đáp lại như thế nào, nhưng có vẻ như lí lẽ của Lê Thì Cử đã khiến Tào Thân “tâm phục khẩu phục”.

Thứ hai, sách Bại quan tạp kí (quyển 2) chép: “Tào Thích Am là Thân từng đến Yên Kinh, cùng với sứ thần An Nam là Lê Thì Cử xướng hoạ thơ văn,có đến hơn chục bài. Một bài thơ của Lê như sau: “Nghe nói Tam Hàn([31]) cảnh rất độc đáo/ Sông Áp Lục trong trẻo sắc nước mùa thu/ Biết đó là chỗ có tứ thơ về núi sông đẹp đẽ/ Lại phỏng theo cú pháp của Tô Châu([32]). Thích Am hoạ lại như sau: “Nếm món tay gấu hay món cá, mùi vị nào có khác([33]) / Tôi yêu bài thơ của ông bình đạm tựa mùa thu/ Họ Ôn, họ Lý([34]) chỉ mong khoe giàu có, rực rỡ/ Bình dị thì chính nên học Tô Châu”. Lê cho việc áp chữ “Tô Châu” là phạm vào vần thơ đã xướng, không đúng với thể xướng hoạ, đưa thư chê. Lại tặng một bài thơ rằng: “Phong tục Mã Hàn, Thìn Hàn xưa khác nay/ Đời đời thay đổi, trải đã mấy thu rồi/ Danh quan “nậu tát” có ý nghĩa gì vậy?/ Biết rằng lễ nghi, chế độ nước ngài khác với Trung Hoa”. Thích Am viết thư đáp lại, đại khái nói: “Bệnh thừa, nghĩ cạn, cam lòng nép lui. Đồ công thành đã sẵn sàng giáp chiến, mà gái ngoan biết tự giữ mình. Ngài thấy quân Hoài Âm chạy bên sông, chớ bật cười như người nước Triệu([35]). Ngày khác đợi tôi khoẻ lại, sẽ cùng đến tranh giỏi ở thi đàn. Thử xem Lão Tử tựa yên ngựa ngoái nhìn([36]). Việc tính toán ở trong màn trướng, chẳng ôm hối tiếc ru! “Nậu tát” vốn là phương ngôn, xưa là người ẩn sĩ. “Danh quan” là nghĩa gì vậy? “Giao Chỉ” há có nghĩa là hai ngón chân cái song song sao?”. Lê Thì Cử gửi thư đáp, đại ý viết: “Ngài tự xem mình là Hoài Âm, đang đợi người nước Triệu. Bộc tôi ắt cho là không đúng. Trận thế dựa lưng vào sông của Hoài Âm kia, chính là dùng kỉ luật trong binh pháp mà giành thắng lợi. Nay ngài phỏng rập theo vần đã được dùng trong bài thơ trước. Nếu dùng binh pháp mà xét luật thơ, thì ngài đã mất đội ngũ, lìa trật tự rất nhiều. Tướng bỏ giáp, kéo quân mà chạy, sao còn rỗi rãi mà tựa yên ngựa ngoái nhìn? Đại trượng phu hiên ngang, lỗi lạc, lấy mực làm giáp, lấy bút làm giáo, một trận quét cả ngàn quân. Hà cớ gì dùng mưu lược trong màn trướng? Ngày khác quý thể khoẻ mạnh, may được một lần gặp gỡ. Kính cẩn sai lập đàn chiến, nghiêm đặt cờ trống đợi chờ. Giao Chỉ vốn là một quận. Phía bắc quận này có núi Thiên Chỉ ở cửa Nam Giao([37]). Vì thế mà gọi quận là Giao Chỉ. Sau nhầm Chỉ (nơi chốn) thành Chỉ (ngón chân). Không lấy làm lạ rằng ngài đã tiếp thu sự sai lệch đó([38]). Cũng lại lần này, người đáp trả cuối cùng là Lê Thì Cử, không thấy Tào Thân đáp lại. Phải chăng, lí lẽ của Lê Thì Cử cũng lại thuyết phục được họ Tào khiến ông lặng tiếng.

Có lẽ, cũng không cần phải bình luận nhiều, qua hai tư liệu kể trên, ta thấy quả thực đã có một cuộc bút chiến nhỏ nổ ra giữa Tào Thân và Lê Thì Cử mà trong đó không phải không có những ý gay gắt và động chạm đến lòng tự ái dân tộc (như nói về chữ “Giao Chỉ”, “cột đồng”). Tuy nhiên, trọng tâm của việc bút chiến là việc làm thơ “hợp cách” hay “không hợp cách” và học theo phong cách thơ nào. Dù hẳn chưa hoàn toàn nhất trí với nhau nhưng dường như hai bên ngày càng hiểu nhau hơn. Họ cũng đồng ý với nhau ở thị hiếu thi học: chuộng phong cách chất thực, giản dị của Vi Ứng Vật hơn là phong cách lãng mạn, hoa mĩ của Ôn Đình Quân, Lí Thương Ẩn. Xét riêng về thái độ của người Việt với văn học Joseon được “giới thiệu” ở đây, ta thấy đó là một sự tiếp nhận vừa có sự trân trọng vừa phê phán. Đó phải được xem như một cách tiếp nhận, một sự phê bình văn học rất tích cực, sòng phẳng dù trong không khí xã giao. Về phía các tác giả Joseon, hẳn các cuộc tranh luận như vậy cũng giúp họ rút ra nhiều kinh nghiệm sáng tác cũng như bang giao quý báu. Bằng chứng là câu chuyện đã được lan truyền trong học giới Joseon qua nhiều thế hệ như một “giai thoại” thú vị.

       Khởi đầu sự hiện diện văn học Korea tại Việt Nam qua ba lần tiếp xúc như  vậy là khá ấn tượng. Sự hiện diện đó có xu thế ngày càng mạnh mẽ song hành với việc cơ hội tiếp xúc giao lưu văn hoá giữa hai dân tộc ngày càng nhiều. Mảng văn chương được “giới thiệu” với người Việt chủ yếu là mảng văn chương lễ nghi, thù ứng mang tính bác học của giới trí thức tinh hoa Korea đương thời. Về cơ bản, văn học Korea được đánh giá cao, được ngưỡng mộ và chia sẻ vì sự tương đồng nhiều mặt. Tuy nhiên, ở đôi chỗ sự khác biệt, mâu thuẫn về quan điểm, bút pháp sáng tác với quan điểm, thị hiếu tiếp nhận đã dẫn đến sự tranh luận sôi nổi. Cùng với tính chân thực trong cảm hứng sáng tác của một số tác phẩm, nó làm bức tranh tiếp xúc, giao lưu văn học hai dân tộc giảm mang tính khuôn sáo, hình thức, xã giao của loại văn học lễ nghi, thù ứng để có được diện mạo đầy đủ, thực chất hơn. Trong những thế kỉ tiếp theo của thời trung đại, tuỳ vào tình hình của từng giai đoạn, những xu hướng, đặc điểm này sẽ có những diễn biến khác nhau. Tuy nhiên, dù thế nào, chúng cũng không đi ra ngoài quá xa cái đã được thiết lập nền tảng ở thế kỉ XV. Vì vậy, thiết nghĩ, chỉ trường hợp này thôi cũng đủ tiêu biểu cho toàn bộ thời trung đại (kể từ thời điểm đó trở về sau) và xứng đáng được xem là mốc son (vừa là khởi đầu, vừa rất tiêu biểu và độc đáo) trên con đường trường kì văn học Korea đến với Việt Nam./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(1) Lý Xuân Chung (2009), Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng hoạ của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: LA09.0239.1-2.

(2) Trần Văn Giáp (1970), Một số tư liệu về việc giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Triều Tiên, Tài liệu chép tay, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: Vv.1005/70.

(3) Phan Huy Lê, Kim Yong Deok, Yu Insun,… (2009), Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lịch sử: Kỷ yếu hội thảo lần thứ nhất, Nxb Thế giới, Hà Nội.

(4) Phan Huy Lê, Ro Myoung-ho, Jeong Jae-jeong,…(2009), Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc trong lịch sử: Hậu Choson và triều Nguyễn Việt Nam thách thức, chuyển biến và các mối quan hệ khu vực, Nxb Thế giới, Hà Nội.

(5) Ngô Sĩ Liên吳士連, Phạm Công Trứ 范公著,… (1993), Đại Việt sử  ký toàn thư 大越史記全書, quyển IV, Viện Sử học Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.

(6) Từ Cư Chính 徐居正 (서거정), Tứ giai tập 四佳集 (사가집), URL: db.itkc.or.kr.

(7) Từ Cư Chính 徐居正 (서거정), Thân Dụng Khái 申用漑 (신용개), Tục Đông văn tuyển 續東文選 (속동문선), URL: db.itkc.or.kr.

(8) Hồng Quý Đạt 洪貴達 (홍귀달), Hư Bạch đình tập 虛白亭集 (허백정집), URL: db.itkc.or.kr.

(9) Quyền Văn Hải 權文海 (권문해), Đại Đông vận phủ quần ngọc 大東韻府群玉 (대동운부군옥), URL: db.itkc.or.kr.

(10) Quyền Miết 權鼈 (권별), Hải Đông tạp lục 海東雜錄 (해동잡록), URL: db.itkc.or.kr.

(11) Lí Hằng Phúc 李恒福 (이항복), Bạch Sa tiên sinh tập 白沙先生集 (백사선생집), URL: db.itkc.or.kr.

(12) Ngư Thúc Quyền 魚叔權 (어숙권), Bại quan tạp kí 稗官雜記 (패관잡기), URL: db.itkc.or.kr.

(13) Thôi Thường Thọ 崔 常 壽 (최상수) (1966), 越 南 ( Han’guk koa Weolnam goa eui Kwan’gye), 韓 越 協 會 (Hanweolhyeophoe), Seoul.

(14) Triều  Tiên  vương  triều  thực  lục  朝 鮮 王 朝 實 錄  (조 선 왕 조 실 록), URL: sillok.history.go.kr/main/main.jsp.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 1 (155)/ 2014, tr


* TS, Khoa Ngữ văn, Trường ĐHSP Hà Nội.

[1] Xem: Lý Xuân Chung (2009), Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng hoạ của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Thư viện Quốc gia Hà Nội, kí hiệu: LA09.0239.1-2; Trịnh Khắc Mạnh, Nguyễn Đức Toàn (2012), “Thơ xướng hoạ của sứ thần Đại Việt - Hoàng giáp Nguyễn Đăng với sứ thần Joseon - Lí Đẩu Phong”, Tap chí Hán Nôm, số 3; Xem Nguyễn Thanh Tùng (2013), “Giao hảo và cạnh tranh: Về cuộc hội ngộ giữa sứ thần Đại Việt và sứ thần Joseon trên đất Trung Hoa năm 1767”, Tập san Khoa học xã hội & Nhân văn, Trường Đại học KHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh, số 59, năm 2013,v.v…

[2] Xem Đông A (2011), “Ba bài thơ của sứ giả Việt Nam tìm thấy ở Triều Tiên” (10/07?), “Kim An Quốc có gặp sứ giả Việt Nam tại Trung Quốc?” (10/07); “Thơ trao đổi giữa sứ giả Triều Tiên và Việt Nam” (05/10) trên blog: donga01.blogspot.com. Ngoài ra, theo chúng tôi được biết các học giả phía Hàn Quốc cũng đã có nhiều phát hiện về vấn đề này và từng công bố đây đó. Tiếc là chúng tôi chưa có điều kiện tiếp cận các nghiên cứu của họ nên chưa rõ những phát hiện của họ đến đâu.

[3] Từ Cư Chính 徐 居 正 (서거정, 1420 - 1488), tự Cương Trung 刚中, hiệu Tứ Giai Đình 四 佳 亭, quê ở Khánh Thượng đạo. Ông là quan chức, đồng thời là một học giả lớn, nhà thơ lớn của Joseon thế kỉ XV. đỗ Tiến sĩ năm 1444, làm quan trải các chức:Hình tào Phán thư, Binh tào Phán thư,...Tác phẩm tiêu biểu của ông có Bút uyển tạp ký, Đông nhân thi thoại, Tứ giai tập, Đông nhân thi văn, Tục Đông văn tuyển,...

[4] Lương Như Hộc 梁 如 鵠 (1420 - 1501): tự Tường Phủ, người làng Hồng Liễu, huyện Trường Tân (nay là xã Tân Hưng huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương), đỗ Thám hoa khoa Nhâm Tuất (1442), làm quan trải các chức An Phủ phó sứ, Trực học sĩ Viện Hàn lâm, Đô ngự sử, Thị lang bộ lễ,… đi sứ Trung Quốc 2 lần: 1443 và 1459. Công trình của ông có: Tinh tuyển chư gia luật thi (bình luận sách của Dương Đức Nhan), Cổ kim chế từ tập, Hồng Châu quốc ngữ thi tập, Tiêu tương bát cảnh thi (đều đã thất truyền). Hiện chỉ còn 6 bài phú chữ Hán chép trong Quần hiền phú tập và 6 bài thơ chữ Hán chép trong Trích diễm thi tập,…

[5] Nguyên văn: “庚 辰 移 吏 曹 參 議, 以 謝 恩 使 赴 京, 於 通 州 館 遇 安 南 國 使 梁 鵠, 乃 制 科 壯 元 也。  居 正 以 近 體 詩 一 律 先 之,  梁 和 之,  居 正 卽 酬 連 十 篇, 梁 嘆 服 曰: “眞 天 下 奇 才 也” [成 宗 223卷, 19年(1488 戊申 /(弘治) 1年) 12月 24日(癸丑)].

[6] Toàn thư, Bản kỉ, quyển XIII, tờ 12b và tờ 27b. Nguyên văn: “十 一 月 二 十 日 帝 遣 兵 部 左 市 郎 陳 中 立 翰 林 院 校 討 黎 彦 俊 潘 貴 等 如 明 歲 貢” và “兵 部 左 侍 郎 陳 中 立 翰 林 院 檢 討 黎 俊 彦 潘 貴 等 奉 命 徃 使 如 明 國 還 朝”.

[7] Lê Thì Cử 黎 時 擧 (?-?): Chưa rõ tiểu sử. Có lẽ là Lê Tuấn Ngạn trong sử Việt. Có thể Tuấn Ngạn 俊 彥 tên chính, còn là tên còn Thì Cử là tên tự (hoặc hiệu). Theo tục đặt tên xưa thì tên và tên tự (hoặc tên hiệu) thường có liên quan đến nhau. Tuấn Ngạn là chữ lấy từ Kinh Thư (“Thái Giáp thượng”), có nghĩa là tài trí hơn người. Còn “Thì Cử” có nghĩa là được đời suy tôn. Phải chăng vì “tài năng hơn người” nên “được người đời suy tôn”? Lê Tuấn Ngạn 黎 俊 彥 (? - ?) hoặc Lê Ngạn Tuấn: người xã Vĩnh Lộc huyện Tế Giang (Bắc Ninh), trú quán xã Ngọc Bộ (nay thuộc xã Long Hưng huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên), đỗ Hội nguyên năm 1472, làm quan đến Thượng thư, tham gia hội Tao đàn, 2 lần đi sứ Trung Hoa (1480, 1495).

[8] Tào Thân 曹 伸 (조신, 1454 - 1529), tự Thúc Phấn 叔奮, hiệu Thích Am 適庵, làm quan đến chức Thông tín sứ quân quan, Nội thị giáo quan, Sư phó,…Ông nổi tiếng về ngôn ngữ, văn học (có tài làm thơ) và y thuật. Ông nhiều lần được cử đi công cán ở Nhật Bản và Trung Quốc. Tác phẩm của ông có: Nhị luân hành thực đồ 二 倫 行 實 圖, Thích Am thi cảo 適 庵 詩 稿,  Tẩu ngôn toả lục 謏 聞 瑣 錄,…

[9] Toàn thư, Bản kỉ, quyển XI, tờ 98b.

[10] Đây là những bài thơ không có tiêu đề, chúng tôi tạm lấy dòng đầu bài làm tiêu đề cho cả bài.

[11] Quyền Thúc Cường  權 叔 强 (굳셀 강, ? - ?): đỗ Tiến sĩ, giữ chức Tham phán, đi sứ Trung Hoa.

[12] Vũ Tá 武 佐 (? - ?): chưa rõ tiểu sử. Có lẽ là Vũ Duy Giáo. Tá (giúp rập) có lẽ là tên, còn Duy Giáo (duy trì phong giáo) là tên tự. Hai cái tên cũng có những nét nghĩa liên quan đến nhau. Về Vũ Duy Giáo 武維教 (?-?), hiện chưa rõ tiểu sử.

[13] Khuê Tú 閨 秀 (규수 , thế kỉ XV): chưa rõ tiểu sử, chỉ biết rằng ông là một danh sĩ đương thời.

[14] Nguyên văn: “幼 從 申 君 所。得 見 權 參 判 叔 强 朝 京詩 帖。 與 安 南 使 者 武 佐。 酬 唱 者 居 多。而 且 附 本 國 閨 秀 送 武 佐 之 作 數 十 篇。如 淳 于,鸎 鸎,褚 玉 蘭,徐 媼。皆 淸 健 豪 爽。能 弁 髦 宮 掖 艷 冶 之 習。盖 亦 駸 駸 乎 古 烈 士 擊 筑 之 遺 音 歟。申 次 韶”.

[15] Thân Tùng Hoạch 申 從 濩 (신종호, 1456 - 1497): tự Thứ Thiều 次韶, hiệu Tam Khôi Đường 三魁堂, đỗ Trạng nguyên, làm quan đến chức Lễ tào Tham phán, được cử đi sứ năm 1480, chức Thư trạng. Tác phẩm có Tam Khôi đường tập. Chuyến đi sứ này cũng xảy ra một vài trục trặc trong chuyện nội bộ, nên khi về nước Thân Tùng Hoạch và Hồng Quý Đạt bị khiển trách.

[16] Hồng Quý Đạt 洪貴達 (홍귀달, 1438 - 1504): tự Khiêm Thiện 兼善, hiệu Hàm Hư Đình 涵虗亭, đỗ Tiến sĩ năm 1461, làm quan đến Đề học, Lại Tào phán thư, cuối đời bị Yên Sơn Quân giết. Ông tham gia tiếp sứ Trung Hoa đến Joseon cùng với Từ Cư Chính; đi sứ Trung Hoa năm 1780-1781. Trong thời gian đi sứ, mẹ ông mất, ông trở về trước để chịu tang. Tác phẩm của ông được tập hợp trong bộ Hư Bạch tiên sinh tục tập.

[17] Nguyễn An 阮安 (?-?): chưa rõ tiểu sử.

[18] Nguyễn Văn Chất 阮文質 (? - ?): Người huyện Bạch Hạc, phủ Tam Đái (nay là thôn Vũ Di, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) hiệu là Nhuệ Hiên tiên sinh. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1448, giữ các chức quan Tư nghiệp trường Quốc Tử Giám, Đồng tu soạn ở Quốc Sử viện, Đô Ngự sử ở Ngự Sử đài, Thượng thư bộ Hộ. Nguyễn Văn Chất có viết phần "Tục bổ" sách Việt điện u linh của Lí Tế Xuyên.

[19] Nguyễn Vỹ 阮偉 (?-?): chưa rõ tiểu sử.

[20] Nguyên văn: “十 七 年   成 宗 大 王 十 二 年。 辛 丑。 先 生 四 十 四 歲。  (…)  夏。充 皇 太 子 千 秋 節 進 賀 使。與 書 狀 官 申 從 濩 赴 京。所 經 皆 有 詩。 (…)  又 次 安 南 使 三 阮 [ 阮 安 字 恒 甫。阮 文 質 字 淳 夫。阮 偉 字 挺 夫] 亦 以 賀 節 使 來 京。以 詩 贈 先 生 求 和。蓋 文 質。詞 林 大 家 也。先 生 於 次 韻。頗 推 詡 之”.

[21] Toàn thư, Bản kỉ, quyển XIII, tờ 29a. Nguyên văn: “冬十一月 十 八 日 遣 陪 臣 阮 文 質 尹 宏 濬 武 維 教 歲 貢 于 明 并 奏 占 城 事”.

[22] Trên thực tế, năm 1500 có cuộc gặp gỡ giữa các sứ thần Joseon như An Xứ Lương 安处良, Kim Vĩnh Trinh 金永贞 với các sứ thần An Nam, nhưng cuộc gặp gỡ này dường như rất chóng vánh và cũng không để lại gì. Một số nhà nghiên cứu có nói đến cuộc tiếp xúc trực tiếp ở đầu thế kỉ XVI giữa Kim Thế Bật 金世弼, Kim An Quốc金國 với sứ thần An Nam (Nguyễn Lâm 阮琳, Nguyễn Chuẩn 阮淮, Trương Phu Duyệt 張孚說), nhưng theo tác giả Đông A và chúng tôi khảo sát, không hề có cuộc tiếp xúc này; thực tế là, năm 1518, Kim Thế Bật đi sứ sang nhà Minh đã đọc được những bài thơ của sứ An Nam đề ở quán Lộ Hà; ông đã hoạ lại các bài thơ đó, lại mang về Joseon để các vị khác cùng đọc. Trong đó, Kim An Quốc có đọc và hoạ lại.

[23] Nguyên văn: “來 自 麊 泠 瘴 海 堧/ 今 朝 初 下 潞 河 船/ 天 低 銅 柱 南 逾 嶺/ 地 逈 金 臺 北 走 燕/客 路 風 煙 將 萬 里/ 還 家 歲 月 抵 三 年/ 嗟 余 亦 是 思 鄕 者/ 滯 雨 江 頭 各 黯 然”.

[24] Nguyên văn: “城 上 浮 雲 十 日 陰/ 客 懷 無 乃 阻 秋 霖/ 半 年 魂 夢 勞 千 里/ 一 紙 家 書 抵 萬 金/ 無 月 照 他 愁 裏 面/ 有 燈 知 此 夜 來 心/ 逢 君 欲 說 方 咅 異/ 憑 仗 新 詩 當 越 吟”.

[25] Xem Nguyễn Thanh Tùng (2013), Tlđd.

[26] Chẳng hạn, Từ Cư Chính khen Lương Như Hộc “Chất đầy trong bụng năm xe sách/ Nhả ngọc phun châu đến có thừa” (Hung trung lỗi lạc ngũ xa thư/ Châu ngọc phân phân khái thóa dư). Hồng Quý Đạt khen Nguyễn Văn Chất: “Biết ông là bậc đại gia rất mực trên văn đàn, Xem ra thi luật của ông cũng như Hà Tốn và Âm Kiên” (Tri thị từ lâm tối đại gia, Khán lai thi luật tự Âm Hài), lại gọi ông là bậc “thi tiên” (Khước kiến thi tiên nhật nhật qua),v.v…

[27] Đọc ghi chép, bút kí của sứ thần hai bên, đặc biệt là ghi chép của sứ thần Joseon nhận xét về nhau sẽ thấy rõ điều này (chẳng hạn, Từ Hạo Tu có rất nhiều nhận xét khá “nhạy cảm” về vua tôi An Nam trong cuốn Yên hành kí của ông).

[28] Theo âm vận học Hán ngữ cổ thì “thù” thuộc vận bộ “thượng bình” Ngu, còn “thu”, “châu” thuộc vận bộ “hạ bình” Vưu. “Thượng bình” có 15 vận bộ: Đông, Đông, Giang, Chi, Vi, Ngư, Ngu, Tề, Giai, Hôi, Chân, Văn, Nguyên, Hàn, San. “Hạ bình” cũng có 15 vận bộ: Tiên, Tiêu, Hào, Hào, Ca, Ma, Dương, Canh, Thanh, Chưng, Vưu, Xâm, Đàm, Diêm, Hàm.

[29] Tức Trương Thức 张栻 (? - ?), một nhà thơ, nhà lí học, nhà giáo dục nổi tiếng thời Nam Tống, ngang với Chu Hy, Lã Tổ, tác phẩm có Nam Hiên tập 南轩集.

[30] Nguyên văn: “適 菴 朝 京 師。與 安 南 國 使 黎 時 擧 相 唱 和。時 擧 通 押 殊 秋 州 云。東 南 封 域 古 來 殊。霜 到 庭 梧 一 樣 秋。客 裡 偶 成 文 字 會。煕 煕 春 色 滿 皇 州。適 菴 譏 虞 尤 之 通 用。時 擧 以 書 答 曰。按 古 人 作 詩 起 聯。有 別 用 別 韵 之 軆。如 三 千 越 甲 夜 成 圍。宴 罷 君 臣 辭 不 知。若 論 破 吳 功 第 一。黃 金 只 合 鑄 西 施。又 張 敬 夫 諸 賢 詩。花 柳 芳 洲 十 日 晴。五 更 風 雨 送 餘 春。莫 嫌 紅 紫 都 吹 盡。新 綠 滿 園 還 可 人。以 上 平 之 眞。協 下 平 之 庚。如 此 之類。連 篇 累 牘。不 可 縷 指。公 以 爲 敬 夫 諸 賢。亦 苟 作 耶”.

[31] Tam Hàn: tức liên minh ba bộ tộc Mãn Hàn, Thìn Hàn, Biện Hàn ở Korea thời cổ. Ở đây, từ này chỉ Triều Tiên nói chung.

[32] Tô Châu: chỉ Vi Ứng Vật韋應物 (737 - 792), một nhà thơ nổi tiếng thời Trung Đường. Vi Ứng Vật làm Thứ sử Tô Châu nên được người đời gọi là “Vi Tô Châu”. Thơ Vi Ứng Vật giản dị, đậm chất đời thực, vì thế được nhiều nhà Nho xưng tụng.

[33] Mạnh Tử (“Cáo Tử thượng”): “Cá là món ta thích, tay gấu cũng là món ta thích; hai thứ đó không thể được cả hai, thì bỏ cá mà giữ tay gấu vậy”. Điển này nói cả hai đều là cái ưa thích, không dễ bỏ.

[34] Ôn Lý: tức Ôn Đình Quân 溫庭筠 (812 - 870), Lý Thương Ẩn 李商隱 (813 - 858), hai nhà thơ thời Vãn Đường. Thơ của hai ông rất tài hoa, diễm lệ. Nhưng nhiều nhà Nho thường chê là lả lướt, khoe chữ.

[35] Chỉ việc Hàn Tín dùng kế dụ quân nước Triệu, cho đóng quân ở bên bờ sông, quân Triệu tưởng Hàn Tín không hiểu binh pháp nên chê cười, vì thế càng chủ quan khinh địch, sau quân Triệu bị Hàn Tín đánh thua

[36] Chưa rõ xuất xứ điển tích. Có lẽ câu này chỉ Trương Lương, một mưu sĩ tài năng của Hán Cao Tổ.

[37] Nam Giao: phiếm chỉ khu vực từ Ngũ Lĩnh trở về Nam (xem Thượng Thư, “Nghiêu điển”).

[38] Nguyên văn: “曹 適 庵 伸 嘗 赴 燕 京。與 安 南 國 使 黎 時 擧。作 詩 酬 唱。至 數 十 餘 篇。黎 詩 一 首 云。三 韓 見 說 景 偏 殊。鴨 綠 澄 澄 水 色 秋。知 是 江 山 詩 思 好。還 將 句 法 效 蘇 州。適 庵 次 云。嗜 魚 熊 掌 味 何 殊。我 愛 君 詩 淡 似 秋。溫 李 只 要 誇 富 艶。平 平 端 合 學 蘇 州。黎 以 押 蘇 州 字 犯 唱 韻。非 和 詩 軆。贈 書 譏 之。又 贈 一 首 曰。馬 辰 遺 俗 古 人 殊。世 代 相 移 幾 度 秋。耨 薩 名 官 何 意 義。知 君 禮 制 異 中 州。適 庵 以 書 答 之。畧 曰。病 餘 思 涸。甘 心 屛 退。梯 衝 舞 於 前。而 處 女 自 守。君 見 淮 陰 之 走 水 上 軍。毋 發 趙 人 笑 也。異 日 竢 身 健。當 相 就 爭 長 詩 壇。試 觀 老 子 據 鞍 顧 盻 也。幕 中 之 籌。無 容 惜 焉。耨 薩 本 是 方 言。古 之 雲 鳥。名 官 何 義 哉。交 趾 豈 騈 拇 之 義 耶。黎 復 書 略 曰。君 以 淮 陰 自 居。以 趙 人 相 待。僕 則 以 爲 不 然。彼 淮 陰 之 背 水 陣。正 用 兵 法 中 紀 律 取 勝。今 君 蹈 襲 唱 詩 徑 用 之 韻。以 兵 法 律 之。則 君 失 伍 離 次 甚 矣。將 見 棄 甲 曳 兵 而 走。何 暇 據 鞍 顧 盻 哉。大 丈 夫 磊 磊 落 落。墨 甲 筆 鋒。千 軍 一 掃。焉 用 幕 中 之 籌。他 日 貴 軆 安 健。幸 一 相 訪。謹 命 壇 夫。嚴 設 旗 鼓 以 待。交 趾 本 一 郡 也。郡 之 北 有 南 交 闕 天 阯 山。故 名 郡 以 交 阯。後 誤 以 阯 爲 趾。無 怪 乎 君 之 承 訛 也”.

http://nguvan.hnue.edu.vn/Nghiencuu/VanhocVietNamtrungdai/tabid/102/newstab/353/Default.aspx

Thực tế cho thấy sứ thần hai nước Việt Nam, Triều Tiên gặp nhau không nhiều. Từ thế kỷ X, sau khi giành được độc lập từ Trung Quốc, các triều đại của nước Việt đều cử sứ thần sang Trung Quốc triều cống. Bên cạnh đó, ở Triều Tiên từ thời Tam Quốc cũng sang Trung Quốc tuế cống. Người ta cho rằng, có lẽ cơ hội sứ thần hai nước gặp nhau ở nơi đất khách quê người này nhiều hơn sử sách ghi chép. Có thể khẳng định, cuộc gặp sớm nhất của sứ thần 2 nước là năm 1597 (Vạn Lịch 25) giữa hai nhân vật: Phùng Khắc Khoan - sứ thần Việt Nam và Lý Túy Quang - sứ thần Triều Tiên. Tiểu sử của hai sứ thần này và chuyện giao lưu giữa họ thì Kim Vĩnh Kiến đã giới thiệu từ rất sớm qua vấn đáp và thơ xướng họa của hai tác giả nói trên với tiêu đề “Chuyện vấn đáp và xướng họa của sứ thần nước An Nam”(1). Trong truyện kí của Triệu Hoàn Bích cũng có một vài bình luận về thơ của Lý Túy Quang - là nhà thơ được đánh giá cao trong văn nhân Việt Nam(2).

Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt - Triều mà chúng tôi nói đây thực tế đã có một vài luận văn, bài viết đề cập tới. Hơn nữa, những năm gần đây ở Việt Nam có nhiều bài nghiên cứu đề cập tới lịch sử quan hệ Việt - Triều, phần nào phản ánh quan hệ mật thiết về kinh tế của hai nước. Trong số đó có bài của Nguyễn Minh Tuân Thêm 4 bài thơ xướng họa giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên đăng trên Tạp chí Hán Nôm phát hành ở Việt Nam, số 4-1999(3). Từ xưa đến nay nói về giao lưu Việt - Triều người ta chỉ chú ý tới cuộc gặp giữa Phùng và Lý. Thực ra cũng đã có các cuộc tiếp xúc như họ Phùng, họ Lý. Đó là cuộc gặp gỡ giữa Từ Hạo Tu sứ thần Triều Tiên với Lê Quý Đôn và đoàn sứ bộ Việt Nam sau này trên sông Nhiệt Hà năm 1790. Có lẽ cuộc gặp gỡ trên là cuộc gặp tiêu biểu nhất trong quan hệ giao lưu giữa 2 nước cuối thế kỷ XVIII. Tất nhiên quan hệ ngoại giao của 2 nước không chỉ dừng lại ở đây. Lần này, tìm tòi trong mảng tư liệu của Triều Tiên và Việt Nam chúng tôi phát hiện ra còn khá nhiều tư liệu đánh dấu quan hệ giao lưu của 2 nước thế kỷ XVIII. Với vấn đề này, mục đích của bài viết là muốn góp thêm vài tư liệu bổ sung vào những công trình đã được công bố và bài nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuân nhằm làm sáng tỏ một phần thể chế triều cống ở thế kỷ XVIII.

I. Cuộc gặp của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên năm 1760

1/ Diện mạo của 2 sứ thần.

Trước tiên chúng ta cùng xem xét cuộc gặp gỡ giữa sứ thần Triều Tiên và đoàn Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam mà Nguyễn Minh Tuân đã đưa ra. Đoàn sứ thần Việt Nam dự định đến Bắc Kinh vào mùa đông năm 1760, nhưng đoàn đã lên đường chậm 1 năm do Thái Thượng Hoàng của triều Lê - Hoàng đế ý Tông mất. Theo Đại Nam sử ký toàn thư, tục biên quyển 4, mục ghi năm Cảnh Hưng 20 (1759) thì thấy ngày tháng lên đường không rõ ràng nhưng có chi tiết: "Cử Chánh sứ Trần Huy Mật, Phó sứ Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Thụ, sang Thanh tuế cống và báo cáo việc Hoàng đế ý Tông mất"(4).

Dưới đây xin đề cập diện mạo của sứ thần 2 nước:

1. Lê Quý Đôn (1726 - 1784) tự là Doãn Hậu, hiệu Quế Đường, người xã Diên Hà, trấn Sơn Nam Hạ. Năm Cảnh Hưng 13 (1735) đỗ Bảng nhãn. Ông không chỉ hoạt động tích cực trong chính quyền nhà Lê thời kỳ cuối mà còn để lại nhiều tác phẩm. Trong sách Nhân vật chí của một tác giả không rõ tên tuổi đã ghi lại rất tỉ mỉ tiểu sử của ông(5).

Lê Quý Đôn (Nguồn ảnh: Internet)

2. Cùng đi với Lê Quý Đôn có Phó sứ Trịnh Xuân Thụ (1704 - ?) là người xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc. Năm Cảnh Hưng 9 (1748) đỗ Đệ nhị giáp(6). Ngoài việc đi sứ sang Bắc Kinh cùng đoàn Lê Quý Đôn, ông còn làm quan đến chức Đông các học sĩ, khi mất được tặng Thị độc. Ngoài tập thơ Sứ hoa học bộ thi tập ông để lại, chúng ta không biết gì hơn về ông(7). Ngay tựa đề của tập thơ dường như có ghi lại việc đi sứ sang Trung Quốc nhưng tìm trong Thư mục Hán Nôm của Viện Nghiên cứu Hán Nôm không thấy tập thơ này.

3. Chánh sứ Trần Huy Mật (1710 - ?) người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, trấn Thanh Hóa, đỗ Đệ tam giáp năm Vĩnh Hựu 2 (1736). Lúc đầu ông có tên là Bá Tân, sau đổi thành Huy Mật. Lý lịch của ông không tỉ mỉ bằng Lê Quý Đôn, nhưng theo những tài liệu như Toàn thư, Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký, thì ông là một trong những nhân vật chính trông coi khoa cử(8). Vài năm sau đó ông bị cách chức.

Quay trở lại các sứ thần Triều Tiên. Hàng năm, phía Triều Tiên đều cử sứ thần sang Thanh triều cống. Sách Triều Tiên vương triều thực lục - cuốn sử cái của Triều Tiên không ghi chép cụ thể việc phái sứ thần đi sứ năm Càn Long 25 (1760) như thế nào. Nhưng đáng mừng là trong Đồng văn vựng khảo - tập văn kiện ngoại giao được biên soạn cuối thời Lý, chúng tôi đã tìm được phần liên quan tới vấn đề này.

Trong sách Sử hành lục, tục bổ quyển 7, mục Càn Long 25 có chép: "Từ ngày 2 - 11 đi sứ. Ngày 6 - 4 năm Tân Tỵ phục mệnh. Đoàn gồm có Chánh sứ Hồng Khải Hi - Lại tào phán thư, Phó sứ lễ tào tham phán Triệu Vinh Tiến, Thư trạng quan kiêm trì bình Lý Huy Trung", từ đây chúng ta có thể biết được khoảng thời gian lên đường và trở về của đoàn sứ thần Việt Nam.

Trong phần chú thích bài Thêm bốn bài thơ xướng họa của Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên, Nguyễn Minh Tuân không ghi chép đầy đủ về 3 nhân vật Triều Tiên. Theo Quốc triều bảng mục - sách ghi tên người đỗ đạt trong vương triều Triều Tiên, có ghi về Lý Huy Trung: "Năm Canh Ngọ 26 (1750), vào bảng Điện thí. Bảy người đỗ ất khoa có Thông Đức, Lý Huy Trung, Nhữ Thận, Tham Phan, Trực Phó, là người Toàn Châu" (quyển 16). Cũng trong Triều Tiên vương triều thực lục thấy có ghi chép tản mạn về nhân vật này. Lý Huy Trung làm quan đến chức Đại tư hiến, tên của ông ta còn lưu lại cho đến khi Chánh Tổ lên ngôi(9).

4. Phó sứ Triệu Vinh Tiến (? - 1775)(10) trong Quốc triều bảng mục (quyển 17) có ghi: "Năm Bính Tý 32 (1756) vào bảng Đình thí. Ba mươi người đỗ Bính khoa có Triệu Vinh Tiến, Nhữ Tiếp, Phán Thư là người Dương Châu". Theo Nhân vật chítrong Thư mục Hán Nôm của Việt Nam, lại là Triệu Vinh Kiến. ở đây có sự nhầm lầm giữa Tiến thành Kiến. Nhân vật này cũng làm quan đến chức Đại tư hiến(11). Tên ông còn xuất hiện trong sách Triều Tiên vương triều thực lục.

(1703 - 1771) chúng tôi sẽ không nói tập5. Chánh sứ Hồng Khải Hi trung mà đề cập trong cả 3 phần do có rất nhiều tư liệu nói về nhân vật này.

Sách Quốc triều bảng mục, quyển 16 có chép: "Năm Đinh Tỵ 13 (1737) Hồng Khải Hi vào bảng Biệt thí, một người đỗ Giáp khoa, là Nội giáo quan Hồng Khải Hi, hiệu là Thuần Phủ, kiêm Lại phán đề học, năm ất Tị vào triều, năm Tân Mão mất". Trong Triều Tiên vương triều thực lục có nhiều chỗ ghi chép về nhân vật này, phần cuối có nói chức danh của ông khi mất là Phụng Triều Hạ. Ông Woodside cũng có ghi chép về sự nghiệp của Hồng Khải Hi khi biên soạn cuốn Đông triều văn hiến bị khảo, cuốn này được biên soạn dựa trên cơ sở cuốn Tằng bổ văn hiến bị khảo(12). Hồng Khải Hi là người liên quan mật thiết tới luật quân dịch thi hành năm 1750 mà mục tiêu là cải cách quân chế và tài chính. Ông tham gia biên tập cuốn Quân dịch sự thực phát hành năm 1752, và cuốn Tam vận thanh vựng phát hành năm 1751. Cuốn Tam vận thanh vựng chúng tôi chưa được xem qua nên không nắm được nội dung như thế nào, nhưng xem xét từ năm phát hành thì có thể thấy người ta đã không ghi chép gì về việc giao lưu với đoàn Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam. Dù có tham gia những việc nói trên, nhưng Hồng Khải Hi chỉ thực sự nổi tiếng khi ông đến Nhật Bản với chức danh Chánh sứ Thông tín sứ. Thông tín sứ lần này được phái đi năm Enkyo (Diên hưởng) 5 (1748) nhân dịp chúc mừng Ieshige kế nghiệp cha. Ieshige là con trai trưởng của tướng quân đời thứ 8 Yoshimune Shogun thoái vị năm Enkyo 2 (tháng 9/1745). Đã có một vài nghiên cứu về Thông tín sử Triều Tiên năm Enkyo 5 này(13).

Hoạt động của viên Thông tín sứ Triều Tiên lần này được ghi lại qua cuốn Phụng sứ thời Nhật Bản văn kiến lục của Tào Mệnh Thái - người cùng đi sứ với Hồng Khải Hi, ngoài ra có thể biết rõ hơn qua nhiều tư liệu còn lại ở Nhật Bản như cuốnTùy sai nhật lục của Hồng Cảnh Hải để lại chúng ta được biết tường tận hơn. Hồng Cảnh Hải là con trai thứ của Hồng Khải Hi, ông làm tướng quân, và đảm nhận công việc phiên dịch khi đi sứ cùng với cha. Cũng giống như các Thông tín sứ và Hồi đáp loát hoàn sứ đã từng được cử đi sứ trong lịch sử, Thông tín sứ Triều Tiên - Chánh sứ Hồng Khải Hi cũng có nhiều cuộc gặp gỡ giao lưu văn hóa ở một số nơi của Nhật Bản(14). Tại Nhật Bản hiện vẫn còn một vài bài thơ là bút tích của Hồng Khải Hi.

Những người như Hồng Khải Hi sang Bắc Kinh năm 1760 đều là những người đã từng sang Nhật Bản nên có thể gọi họ là Người quốc tế của thế giới Đông á đương thời. Và đương nhiên đoàn đại biểu của Việt Nam, Triều Tiên lúc đó không chỉ là đoàn chính trị, mà còn là đoàn văn nhân. Tuy nhiên trong tập thơ Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn chúng tôi không tìm thấy đoạn nào nói tới việc Hồng Khải Hi kể lại các chuyến thăm Nhật của ông trong cuộc giao lưu với sứ thần Việt Nam.

2/ Giao lưu của đoàn sứ thần hai nước qua Kiến văn tiểu lục.

Theo Nguyễn Minh Tuân tổng cộng có 7 bài thơ xướng họa trong cuộc gặp gỡ giữa sứ thần hai nước, trong bài nghiên cứu đó giới thiệu 4 bài thơ chưa từng được công bố đó là: Tống Triều Tiên quốc sứ của Lê Quý Đôn (2 bài); Triều Tiên quốc sứ Hồng Khải Hi họa thi của Hồng Khải Hi và bài Lý Huy Trung họa thi của Lý Huy Trung.

Qua tìm hiểu tư liệu phía Việt Nam có 5 đầu sách ghi lại cuộc gặp gỡ của sứ thần hai nước năm 1760: Quế Đường thi tập,có 7 bài thơ ghi lại cuộc gặp gỡ giữa các sứ thần Triều Tiên và đoàn Lê Quý Đôn. Bắc sứ thông lục, hiện còn quyển 1 và 4, nhưng chỉ có quyển 4 ghi chép về quan hệ giao lưu với sứ thần Triều Tiên. Thánh Mô hiền phạm lục và Quần thư khảo biện, 2 cuốn sách này có đăng bài tựa của Hồng Khải Hi. Trong Quần thư khảo biện có 2 bài thơ, một bài của Hồng Khải Hi và một bài của Lý Huy Trung và Kiến văn tiểu lục.

Bây giờ chúng ta hãy thử xem xét cuộc gặp của đoàn sứ bộ hai nước qua sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn. Sách mà chúng tôi sử dụng là cuốn Kiến văn tiểu lục, kí hiệu VHv.1322. Mặc dù có chỗ phải đoán nhưng phần nào cũng có thể hiểu được nội dung của nó. Dưới đây xin đưa ra những phần có đề cập tới quan hệ giao lưu giữa sứ thần hai nước. Đầu cuốn sách viết: “Nước Cao Ly về thời Đường thuộc An Đông đô hộ phủ. Đến thời Thạch Tấn, Vương Kiến mới khôi phục lại nước, bao gồm Tân La và Bách Tế vào trong bản đồ. Trải qua đời Tống, đời Nguyên đến đầu đời Minh Thái Tổ mới bị diệt. Họ Lý lên thay ngôi lấy niên hiệu cũ là Triều Tiên. Từ Đại Minh đến nay trải qua gần 900 năm, mới chỉ có hai họ thay ngôi vua, đó cũng là điều khiến Trung Quốc phải hổ thẹn. Người dân hiền lành cẩn thận, ham đọc sách, thạo văn học, trọng nghi lễ. Sứ thần nước Việt ta trong thời gian đi sứ Bắc Kinh, cùng với sứ nước họ có qua lại, tặng thơ xướng họa cho nhau. Trong năm Vạn Lịch, sứ ta là Phùng Khắc Khoan và sứ Triều Tiên Lý Túy Quang cùng xướng họa. Túy Quang viết tự cho tập thơ của Phùng Công (tức Phùng Khắc Khoan). Mùa đông năm Canh Thìn niên hiệu Cảnh Hưng, ta và Trần Huy Mật, Trịnh Xuân Thụ, đến Yên Kinh. Hôm trừ tịch, gặp sứ nước ấy là Hồng Khải Hi, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy Trung ở Hồng Lô quán. Bày tiệc bút đàm, càng tăng thêm tình hữu hảo, sau khi về quán, lại sai 2 vị thiếu khanh mang thổ sản đến tặng”.

Lê Quý Đôn không chỉ biểu lộ sự ngạc nhiên của mình về việc vương triều Triều Tiên chỉ thay đổi hai lần trong vòng 900 năm, mà còn đánh giá tốt phong cách của người Triều Tiên. Ông cũng ghi lại cuộc gặp gỡ giữa 2 nhân vật Phùng và Lý, đại diện tiêu biểu của hai nước Việt - Triều: “Năm mới, lại sai 3 người con là Hồng Tán Hối, Triệu Quang Quỳ, Lý Thương Phượng đến chúc mừng, lưu lại kinh 2 tháng thư từ qua lại đều hay cả. Đêm giao thừa gửi một bức thư rằng: Từng xem bản đồ biết đến quý bang, Đông Nam xa cách, chỉ e trân ngựa đuổi nhau cũng không kịp. Nay được gặp, ngồi cùng chiếu mà thực chẳng ngờ, vội vàng không chỉnh đốn, nhớ mong khôn xiết. Trước khi chia tay, được người nhà trao cho bức thư quí báu. Khi trở về mở ra xem thấy trong đó có ý rất khiêm tốn và trịnh trọng, quý hóa khôn xiết. Xây lầu cao, đón bạn hiền bọn chúng tôi lẽ nào lại không có cái ý như thế, ngặt vì công việc nên đều không gặp được nhau, vì thế lấy làm hận. Quạt giấy là sản phẩm đặc biệt của nước chúng tôi nên dùng nó để ghi lại di ý của Ngô Cảo và Trịnh Trữ. Rất mong ngài giữ lấy”.

Ở đây, chúng tôi muốn nói tới 3 nhân vật phía Triều Tiên được cử sang làm sứ giả ở Việt Nam nhân dịp năm mới. Thứ nhất là Triệu Quang Quỳ - con trai thứ của Phó sứ Triệu Vinh Tiến. Trong đoạn nói về Triệu Vinh Tiến sách Quốc triều nhân vật chí xuất bản năm Long Hi 3 (1909) cuối thời Lý có ghi như sau: "Ông có 3 em trai, xương Quỳ đỗ Văn khoa làm chức Đại Tư Gián, Quang Quỳ giữ chức Quận Thủ, Tường Quỳ giữ chức Đô Chính". Thứ 2 là Lý Thương Phượng theoQuốc triều bảng mục là con trai của Lý Huy Trung. Thứ 3 là Hồng Toản Hối là con trai thứ 4 của Chánh sứ Hồng Khải Hi.

Tiếp đó có tiểu dẫn của Hồng Khải Hi đáp thơ của Trần Huy Mật và 4 tiểu dẫn được coi là của Hồng Khải Hi viết cho Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Thụ, Trần Huy Mật, và một tiểu dẫn của Lý Huy Trung cho 3 sứ thần Việt Nam. Tất cả các đoạn này đều nói về niềm vui khi gặp nhau, nỗi buồn khi xa nhau của sứ thần hai nước. Nếu nhìn nhận như vậy thì người ta có cảm giác là sứ thần hai nước đã xã giao rất kiểu cách, ngoại giao khuôn sáo. Nhưng thực tế sứ thần 2 nước không chỉ làm thơ tặng nhau, mà họ còn viết thư cho nhau, giống với cách làm của các sứ thần nước khác.

Dưới đây là phần trích dẫn một số đoạn nhỏ: “Kẻ quê mùa này có tác phẩm kém cỏi là Quần thư khảo biện và Thánh mô hiền phạm lục, cùng Tiêu tương bách vịnh thi. Hồng Thượng thư có giúp đỡ. Lý học sĩ cũng viết tựa cho Bách vịnh tự thi.Về sau lại đưa cho quan Khâm sai Bạn Tống Lang Trung là Tần Triều Châm xem giúp, họ Tần khen là có văn phong hay, sắc thái sáng sủa”.

Như đã nói ở trên, trong Quần thư khảo biện và Thánh mô hiền phạm lục, có lời tựa của Hồng Khải Hi. Còn tập thơ Tiêu tương bách vịnh, theo Nguyễn Minh Tuân không còn nữa. Và sau cùng là: “Năm Quý Tỵ bạn đồng niên của ta là Nguyễn Diêu phụng đi sứ sang Bắc Kinh, có gặp Phó sứ Triều Tiên Lý Trí Trung, người này nhận mình là cháu của Lý Huy Trung học sĩ. Trí Trung lại nói chuyện là chú mình cùng Lê Quế Đường của Quý quốc kết bạn văn chương. Nay có bức thư gửi cho tôi có ý hỏi thăm tới kẻ quê mùa nay đang giữ chức gì, mong cho được bình an”.

Năm Quý Tỵ tức năm 1773. ở đây Lý Chí Trung biết rằng trước đây Lê Quý Đôn và chú mình đã từng giao lưu gặp gỡ với nhau tại Bắc Kinh, nên khi gặp có đề cập tới việc này. Theo Quốc triều bảng mục Lý Chí Trung thi đỗ năm Anh Tổ Tân Tỵ (1761). Mùa đông năm 1772 ông được nhận chức Lại tào phán thư, được phái đi sứ sang Bắc Kinh. Năm đó phía Việt Nam cũng sang Thanh tuế cống, trong đoàn có Chánh sứ Đoàn Nguyễn Thục và Phó sứ Vũ Huy Đình(15).

Thêm nhân vật nữa là Nguyễn Diêu (1728 - ?) theo Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi ký thấy tên của người này có trong Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân (khoa Cảnh Hưng thứ 13 (1752) cùng Lê Quý Đôn). Người này nguyên là Nguyễn Xuân Huyên, người xã Hoàng Xá, huyện Thư Trì, trấn Sơn Nam hạ.

Trong Kiến văn tiểu lục, Lê Quý Đôn dùng những lời hay ý đẹp để nói về sứ thần Triều Tiên. Còn phía Triều Tiên đánh giá, nhìn nhận sứ thần Việt Nam như thế nào ? Thật đáng tiếc là người ta không tìm thấy tài liệu gì ghi chép về chuyến sang Bắc Kinh lần này của đoàn Triều Tiên. Nhưng trong Đồng văn vựng khảo bổ biên quyển 5 mục sứ thần biệt đơn, có đăng sơ lược về ghi chép của Chánh sứ Hồng Khải Hi và Phó sứ Triệu Vinh Tiến: “Nước An Nam, Nam Chưởng (quan lại nước Nam) đã có chế độ về mũ áo. Người An Nam lấy lụa mỏng làm mũ áo, hơi giống với nước ta. Chỉ có điều họ búi tóc. Nam Chưởng vốn là đất cũ của họ Việt Thường, họ lấy tơ vàng làm mũ áo, chế độ rất khác thường. Mũ làm bằng gấm vàng như Thác Tử (đeo thêm một đoạn đuôi), trang điểm thêm vàng để rủ ra phía sau, tóc buông như người An Nam. Cách ăn mặc của người phương Nam đại thể khác xa như thế. Điều này cho chúng ta cảm giác là đã nhìn thấy bóng dáng đoàn Lê Quý Đôn - sứ thần Việt Nam, trong nguồn tư liệu ở Triều Tiên.

II. Cuộc gặp gỡ khác của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên

Bài nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuân chỉ nói tới cuộc gặp gỡ của sứ thần 2 nước trong năm 1760 và Woodside cũng chỉ đề cập đến cuộc gặp của đoàn sứ thần Việt Nam và Triều Tiên năm 1760 tiêu biểu là hai nhân vật Phùng Khắc Khoan và Lý Túy Quang. Thế nhưng, sứ thần 2 nước không chỉ gặp nhau 2 lần này. Trong bài viết này, chúng tôi cũng không thể đưa ra những khảo sát sâu sắc hơn về mối quan hệ đó do bài viết có giới hạn, nhưng chúng tôi cũng cứ mạnh dạn đưa ra một vài nhận định sau:

Trong Hoàng Việt thi tuyển quyển 5 tập hợp các bài thơ của Việt Nam từ thời Lý đến cuối thời Lê có đăng 2 bài thơ thất ngôn của Nguyễn Công Ngột (1680-1732) viết về Lý Thế Cẩn và Dụ Tập Nhất. Nguyễn Công Ngột là người xã Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc. Ông là một trong 15 người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ, năm 1700(16). Ông là nhân vật trung tâm của Luật cải cách hàng loạt tiến hành trong những năm 1720-1729. Năm 1732 mất chức, ông bị buộc phải tự sát(17). Theo Toàn thi năm Vĩnh Thịnh 14 (1718), cụ thể tháng 4-1718 ông rời Việt Nam, trở về nước tháng 9 năm sau(18).

Trong Túc tông thực lục, quyển 63 nói về Lý Thế Cẩn và Dụ Tập Nhất mà Nguyễn Công Ngột có làm thơ tặng, mục chép tháng 3-1719 có nói: Mùa đông năm ất Mùi, Chánh sứ Dụ Tập Nhất và Phó sứ Lý Thế Cẩn cùng bọn Trạng quan Trịnh Tích Tam từ Yên Kinh trở về. Theo Quốc triều bảng mục, Dụ Tập Nhất thi đỗ năm Canh Thân niên hiệu Túc Tông (1680), tháng 3-1718 nhận chức Hình tào phán thư làm Chánh sứ đi cống Thanh. Còn Lý Thế Cẩn thi đỗ năm Đinh Sửu niên hiệu Túc Tông (1697), 1718 nhận chức Lễ tào phán thư, và các nhân vật này đều được phái sang Bắc Kinh.

Sách Hoàng Việt thi tuyển quyển 6 có thơ Hồ Sĩ Đống (1739-1795) tặng các sứ thần Triều Tiên là Lý Quang, Trịnh Vũ Thuần, Y Phường khi về nước. Hồ Sĩ Đống là người xã Hoàn Hậu, huyện Quỳnh Lưu, trấn Nghệ An. Năm Cảnh Hưng 3 (1772) đỗ Tiến sĩ đệ nhị giáp. Trong khoa thi này Lê Quý Đôn làm giám thị. Từ năm Cảnh Hưng 39 (1778) Hồ Sĩ Đống được cử đi cống. Sách Toàn thư không ghi chép việc sứ thần đi sứ, nhưng trong phần Chính biên quyển 45 Khâm định Việt sử thông giám cương mục, mục ghi năm Cảnh Hưng 38 (năm 1777) có chép: “Mùa đông tháng 12 sai bọn Tả thị lang Vũ Trần Thiệu đi sứ sang Thanh”. Trong Lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc có ghi đoàn sứ thần Việt Nam đi cống là tháng 5 - 1778(19), có lẽ ghi lại theo cuốn Đại Thanh lịch triều thực lục.

Về Đông Chí sứ người Triều Tiên sang Bắc Kinh tháng 1-1778, trong Chính tổ thực lục quyển 4, mục ghi tháng 10 niên hiệu Chánh Tổ 1: Năm Mậu Tuất, cho mời Đông chí và Trần tấu cùng Chánh sứ Hà Ân Quân Quang, Phó sứ Lý Khôn, Thư Trạng quan Lý Tại Học đến để từ biệt vua. Vậy nhân vật Lý Quang trong Hoàng Việt thi tập phải chăng chính là Hà Ân Quân Lý Quang ? Rõ ràng là không có sự thống nhất giữa tên của người mà Hồ Sĩ Đống tặng thơ với các nhân vật khác ngoại trừ Lý Quang. Theo sách Triều Tiên vương triều thực lục thấy có quyết định phái cử 3 người là Lý Quang, Trịnh Vũ Thuần và Y Phường đi sứ năm Chánh Tổ 2 (tháng 9-1778)(20). Một năm sau, tháng 1-1779 thì vào triều. Cuối năm 1777 đoàn Hồ Sĩ Đống - sứ thần Việt Nam lên đường nếu gặp đoàn Lý Quang, Trịnh Vũ Thuần, Y Phường - sứ thần Triều Tiên, thì phía Việt Nam ắt phải ở lại Trung Quốc đến cuối năm 1778.

Thơ xướng họa của Hồ Sĩ Đống ngoài Hoàng Việt thi tuyển, còn có cả trong Lãnh trai thư tịnh thế tập quyển 2 của Phác Đắc Cung. Chính Phác Đắc Cung được sang Bắc Kinh với tư cách là Thứ tu của Phó sứ tiến hạ. Ông để lại một tác phẩm mang tên Lục Dương lạc. Về thơ cũng gần giống với thơ trong Hoàng Việt thi tuyển nhưng trong đó có chép: Một ngày sau tiết lập xuân năm Mậu Tuất sứ thần Triều Tiên Y Phán Thư phụng trình và người tặng thơ hoàn toàn khác với người tặng trong Hoàng Việt thi tuyển. Ở đây năm Mậu Tuất chính là năm 1778. Nếu tiêu đề này đúng thì sứ thần 2 nước đã phải gặp nhau ở Bắc Kinh vào tiết Lập xuân năm 1778. Hiện nay cũng chưa có cách nào để lấp đi sự chênh lệch về thời gian này. Có lẽ sứ thần 2 nước đã gặp nhau từ cuối năm 1778 đến đầu năm 1779, hay sự ghi nhận của Phác Đắc Cung ngày lập xuân năm Mậu Tuất là sai ? Chúng ta đành chờ đợi những công trình nghiên cứu sau này. Nhân đây xin nói thêm khi đoàn Hồ Sĩ Đống vào triều người ta đã phát hiện ra một nhân vật giả dạng người Thanh từ tóc tai đến hình dáng, giả làm gia nhân Hồ Sĩ Đống trà trộn vào đoàn sứ thần Việt Nam nên đã xảy ra nhiều vấn đề lớn. Về phía Triều Tiên, Trịnh Vũ Thuần thi đỗ năm Nhâm Thìn niên hiệu Anh Tổ (1772), ông được giữ chức Tạ ân sứ thư trạng quan (Chấp nghĩa). Thêm nữa, nhân vật Y Phường thi đỗ năm Tân Mùi thời Anh Tổ (1751), ông nhận chức Tạ ân sứ phó sứ (Lễ tào Phán thư).

Sau cùng trong quyển 6 Hoàng Việt thi tuyển có đăng thơ xướng họa của Đoàn Nguyễn Thục bài Tống Triều Tiên quốc sứ Y Đông Thăng, Lý Chí Trung. Đoàn Nguyễn Thục (1728-1783) là người xã Hải Yên, huyện Quỳnh Côi, trấn Sơn Nam hạ. Cũng như Lê Quý Đôn và Nguyễn Diêu, năm 1752 niên hiệu Cảnh Hưng 13 ông đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Năm Cảnh Hưng 34 (1773) Đoàn Nguyễn Thục được cử làm Chánh sứ đi Bắc Kinh. Lý Chí Trung xướng họa cùng Đoàn Nguyễn Thục, cũng trao đổi trò chuyện với Nguyễn Diêu. Lý Chí Trung lại chính là cháu của Lý Huy Trung - người mà Lê Quý Đôn đã từng trò chuyện. Lê Quý Đôn đã đề cập đến cuộc gặp gỡ giữa Nguyễn Diêu và Lý Chí Trung cùng thời gian đó trong Kiến văn tiểu lục, nhưng không nói đến cuộc gặp gỡ của Đoàn Nguyễn Thục với sứ thần Triều Tiên. Còn nhân vật Y Đông Thăng thi đỗ năm Mậu Dần thời Anh Tổ (1746), sứ thần lần này nhận chức Tiến hạ tạ ân kiêm Tam tiết niên cống hành phó sứ (Lễ tào Phán thư).

Ngay cả phía Triều Tiên cũng có một vài tư liệu đánh dấu quan hệ giao lưu của 2 nước. Trong Lãnh trai thư phổ thế tậpquyển 2 của Phác Đắc Cung, ngoài những bài thơ xướng họa của Hồ Sĩ Đống còn có cả thơ của Nguyễn Trọng Đương (1724 - 1786). Nguyễn Trọng Đương người xã Trung Cần, huyện Thanh Chương, trấn Nghệ An. Năm Cảnh Hưng 30 (1769) đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân. Năm đó Trần Huy Mật có tham gia coi thi. Theo Việt Nam khoa bảng lục hội yếu, năm 1761 Nguyễn Trọng Đương sang triều Thanh(21), nhưng năm 1761 Nguyễn Trọng Đương vẫn chưa thi đỗ, nên Nguyễn Trọng Đương không thể có mặt trong đoàn sứ bộ của Lê Quý Đôn. Nhưng bài Phụng trình sứ thần Triều Tiên Y Phán Thư của ông ta lại có trong Lãnh trai thư tịnh thế tập. Ở đây nhân vật Y Phán Thư mà Nguyễn Trọng Đương tặng thơ có phải là nhân vật Y Phán Thư mà Hồ Sĩ Đống tặng thơ bài Phụng trình sứ thần Triều Tiên Y Phán Thư ? Theo Đồng văn vựng khảo Y Phường nhập triều với chức Phó sứ (Lễ tào phán thư), nhưng nhân vật Y Đông Thăng mà Đoàn Nguyễn Thục tặng thơ khi gặp tại Bắc Kinh năm 1773, cũng có chức danh là Phó sứ (Lễ tào phán thư). Phải chăng Nguyễn Trọng Đương đã có mặt trong đoàn sứ thần của Đoàn Nguyễn Thục năm 1773, hay đoàn Hồ Sĩ Đống năm 1778 ? Sau đó, ông ta bị chết trận năm 1786 khi đánh nhau với quân Tây Sơn - Nguyễn Huệ trên đất Bắc(22).

Trong Lãnh trai thư tịnh thế tập của Phác Đắc Cung có bài thơ của 3 sứ thần Việt Nam. Thơ của 3 người này đều làm khi dự lễ mừng thọ Hoàng đế Càn Long 80 tuổi năm Càn Long 55 (1790) cùng với Nguyễn Huệ - Quốc vương nước An Nam.

1. Thơ của Phan Huy ích (1751-1822) có tựa đề Phụng trình Triều Tiên quốc tiến hạ sứ Từ Phán Thư. Phan Huy ích là người xã Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, là nhà chính trị trong thời kỳ đầu của nhà Nguyễn, là cha đẻ của Phan Huy Chú - nhà văn, nhà chính trị thời kì đầu nhà Nguyễn. Ông thi đỗ cuối thời Lê, tức năm Cảnh Hưng 38 (1775), nhưng lại tham gia chính quyền Tây Sơn trên đất bắc. Năm 1790 ông được cử sang Bắc Kinh, giúp Nguyễn Huệ được sắc phong là vua nước An Nam. Nguyễn Huệ là người đã tiêu diệt nhà Lê xây dựng nhà Tây Sơn. Do không muốn giữ mãi quan hệ căng thẳng với triều Thanh khi Nguyễn Huệ đã đại phá được quân Thanh xâm lược do nhà Lê cầu cứu, một mặt ở trong nước phía nam lại mâu thuẫn với anh trai Nguyễn Văn Nhạc, mặt khác cũng phải khống chế Nguyễn Phúc ánh - một gia tộc họ Nguyễn ở Quảng Nam bị nhà Tây Sơn tiêu diệt lại đang có ý định khôi phục lực lượng, mưu đồ làm phản, nên Nguyễn Huệ đã diễn vở kịch cho cháu thay mình, giả làm vua An Nam sang yết kiến hoàng đế Càn Long(23).

2. Thơ của Vũ Huy Tấn. Về tiểu sử của ông ta trong sách Toàn thư tục biên quyển 5 năm Chiêu Thống 2, mục ghi tháng 8-1788: Mùa thu tháng 8, tặc tướng Ngô Văn Sở sai khiến bọn bề tôi cũ của nhà Lê là Nguyễn Nha, Trần Bá Lãm, Vũ Huy Tấn... mang thư của Sùng Công sang gõ cửa nhà Thanh, đến Bắc Kinh đường tắc không đi được. Vũ Huy Tấn đã từng là bề tôi của nhà Lê, nhưng ông cũng ở lại tham gia chính quyền Tây Sơn cùng với Phan Huy ích. Thơ của ông có tựa đềPhụng trình Triều Tiên quốc sứ Từ Phán Thư. Người ta cho rằng nhân vật Từ Phán Thư này là nhân vật mà Phan Huy ích tặng thơ nói trên. Và phải chăng năm Càn Long 55, Từ Hạo Tu đã sang Nhiệt Hà với chức danh Tiến hạ phó sứ(24). Nếu như vậy, bài thơ này của Vũ Huy Tấn chắc chắn được làm vào mùa hạ năm Càn Long 55. Thế nhưng, sách Đại Thanh lịch triều thực lục. Cao Tông Thuần hoàng đế thực lục quyển 1335 có ghi: Mậu Thân tháng 7, năm Càn Long 54 (1789) Chánh sứ nước Nam là Nguyễn Quang Hiển và Phó sứ Nguyễn Hữu Điều cùng bọn Vũ Huy Tấn vào chầu vua. Như vậy, Vũ Huy Tấn được Nguyễn Huệ phái sang Trung Quốc năm 1789(25). Một năm sau, tháng 7 năm Càn Long 55 tổ chức lễ chúc thọ Hoàng đế Càn Long 80 tuổi, nhân dịp này Nguyễn Huệ cũng vào hành cung Nhiệt Hà yết kiến để được sắc phong An Nam quốc vương. Hay Vũ Huy Tấn sau khi vào triều năm 1789, đã không trở về nước ở lại cho đến năm sau, tức là năm Nguyễn Huệ nhập triều để tham dự lễ chúc thọ hoàng đế Càn Long 80 tuổi, nên có thể Vũ Huy Tấn đã gặp gỡ bọn Từ Hạo Tu - sứ thần Triều Tiên ?

3. Thơ của Đào Kim Chung, theo Lãnh trai thư phổ thế tập, có sáng tác bài thơ Kính hòa Triều Tiên quốc phác Kiểm Thư.Tiểu sử của người này không rõ ràng, nhưng Phác Kiểm Thư có thể là Phác Đắc Cung ?

Ngoài ra, trong Yên hành ký của Từ Hạo Tu đã ghi lại rất tỉ mỉ quan hệ giao lưu giữa Nguyễn Huệ - Quốc vương An Nam với các sứ thần Triều Tiên ở Nhiệt Hà, chúng ta cần phải có cơ hội khác để xác định rõ hơn vấn đề này.

Chúng tôi còn có tư liệu đánh dấu quan hệ giao lưu giữa sứ thần 2 nước ở Nhiệt Hà năm Càn Long 55, tư liệu này làTrinh Tô thi tập của Phác Tề Gia. Trong quyển 3 này có đăng 2 bài thơ mang tựa đề Tặng Lại bộ Thượng thư Phan Huy ích, Hiệt Trạch Hầu, Công bộ Thượng thư Vũ Huy Tấn và bài Thứ vận Phan Huy ích đẳng, đại phó sứ tác. Như vậy, phía Việt Nam một mặt diễn vở đưa vua giả vào triều, đồng thời cho sứ thần nước mình giao lưu văn hóa với các sứ thần Triều Tiên.

Lời kết

Sau thế kỷ XVIII có rất nhiều tư liệu ghi chép lại việc sứ thần 2 nước giao lưu, dường như 2 bên đã để ý tới sự tồn tại của mỗi nước. Như trong bức thư Lê Quý Đôn gửi sứ thần Triều Tiên có nhan đề Tằng nhân đồ kinh tri hữu quý bang (qua bản đồ biết quý bang) thì sự tồn tại chỉ được biết trên sách vở, hiện nay và thực tế đã trở thành sự tồn tại trước mắt chúng ta. Xu hướng này cũng không thay đổi ngay cả nhà Nguyễn thay nhà Tây Sơn nắm chính quyền ở đầu thế kỷ XIX , thực hiện công việc triều cống Trung Quốc. Theo Thư mục sách Hán Nôm của Viện nghiên cứu Hán Nôm tìm thấy một vài tư liệu ghi lại việc giao lưu của sứ 2 nước. Ngoài ra trong Yên hành lục của Triều Tiên có thể cũng có ghi chép việc giao lưu của sứ thần 2 nước.

Mặc dù vậy, đoàn Triều Tiên sang Trung Quốc hàng năm không chỉ đơn thuần là triều cống, buôn bán mà mục tiêu chính là thu thập thông tin. Điều này đã đóng góp một vai trò lớn trong việc định hình môn Thực học ở Triều Tiên. Còn ở Việt Nam việc cử đi sứ mấy năm một lần thì như thế nào? Có lẽ không thấy vai trò như vậy ở Việt Nam thế kỷ XVIII - thế kỷ mà Lê Quý Đôn và những người khác đã hoạt động ngoại giao rất tích cực cho dù các chuyến đi sứ còn ít. Còn Từ Hạo Tu giao lưu với Nguyễn Huệ tại Nhiệt Hà năm 1790 và Chánh sứ Hoàng Nhân Điểm - cấp trên của Từ Hạo Tu đã được phái sang Trung Quốc vài lần. Có thể coi những nhân vật này là chuyên gia trong vấn đề ngoại giao với Trung Quốc. Nhưng ở Việt Nam hiếm thấy có nhân vật nào lại được phái sang Trung Quốc nhiều lần như vậy.

Song song với việc đàm phán ngoại giao căng thẳng, phức tạp, các sứ thần cũng nhộn nhịp triển khai giao lưu văn hóa. Mặc dù từ những bài văn, bài thơ sứ thần 2 nước trao đổi cho nhau chúng ta không hề nhận thấy cảm giác khẩn trương hay căng thẳng. Thậm chí xem nội dung thơ xướng họa chỉ thấy mang tính xã giao nhạt nhèo. Nhưng qua đây chúng ta có thể biết được điều kiện cần thiết đối với một nhà ngoại giao là có thể trao đổi những bài thơ kiểu như thế này. Thông qua giao lưu như vậy 2 bên Việt Nam - Triều Tiên trao đổi được những thông tin gì, thực thế chúng ta cũng không biết chính xác. Và thông tin cá nhân thu nhận được có lẽ khác với những báo cáo chính thức. Chẳng hạn như: Báo cáo của sứ thần Triều Tiên đến vua là nhà Lê bị diệt vong vì quân Tây Sơn nắm chính quyền, sự can thiệp của triều Thanh, quá trình hỗn loạn ở Việt Nam cho đến khi vua An Nam nhập triều... tất cả đều không có sự khác biệt lớn với công bố chính thức của triều Thanh(26). Và tất nhiên sứ thần Triều Tiên đã báo cáo thông tin triều Thanh một cách chính xác. Nhưng rất tiếc là chúng tôi không được biết phía Việt Nam báo cáo thông tin của Triều Tiên như thế nào đối với triều đình Việt Nam.

Bài viết này chúng tôi giới thiệu quan hệ ngoại giao của sứ thần 2 nước Việt - Triều không chỉ đơn thuần là nắm bắt lịch sử giao lưu của 2 nước, mà còn muốn xem xét trong ngoại giao, những vấn đề giao lưu của các văn nhân Trung Quốc với sứ Triều Tiên, giao lưu giữa văn nhân Nhật Bản với Thông tín sử Triều Tiên và giao lưu giữa sứ thần Việt Nam với các văn nhân Trung Quốc, rộng hơn là giao lưu văn hóa - ngoại giao khu vực Đông á trong đó có cả Lưu Cầu (Okinawa)...(**)

Lương Thị Thu dịch
Nguyễn Thị Oanh hiệu đính

CHÚ THÍCH

(*) TCHN cho dịch và công bố bài viết của Shimizu Taro - Viện Nghiên cứu Bắc Đông á Đại học Nữ tử Tottori vào mục Tư liệu tham khảo. Nhưng chúng tôi có lược bỏ đôi chỗ, xin thông báo để tác giả và độc giả biết.

(1) Kim Vĩnh Kiến, Quan hệ Trung Quốc - Nhật Bản, Nxb. Phú Sơn Phòng 1943, tr.235-242. Xem thêm Chi phong tiên sinh tập quyển 5: Ghi chép chuyện vấn đáp của sứ thần An Nam khi được phái đi sứ Bắc Kinh mùa đông năm Đinh Dậu.

(2) Tham khảo cuốn trên của Kim Vĩnh Kiến và bài Truyện Triệu Hoàn Bích người Triều Tiên vượt biển sang Đông Nam Ãcủa IwayoiSeiichi (Nham Sinh Thành Nhất), đăng trên Triều Tiên học báo, số 6/1954. Cùng với Đông Nam Á và việc người Triều Tiên bị bắt sang Nhật do cuộc xâm lược Triều Tiên của Toyotomi Hideyoshi, của Katakura Hinoru trongNghiên cứu của người Triều Tiên vượt biển sang Nhật thời kì cận đại tháng 3/1991, tr.175-185.

(3) Nguyễn Minh Tuân “Thêm bốn bài thơ xướng họa giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên”, Tạp chí Hán Nôm, số 4 (41)-1999.

(4) Sách Toàn thư do Trần Kinh Hòa hiệu hợp bản, 3 quyển, Viện NC Văn hóa Đông Dương Đại học Tokyo, thuộc Trung tâm Văn hiến Đông Dương học, phát hành, 1984-1989. Về quan hệ triều cống của nhà Thanh với nhà Lê hậu kì xin xem thêm cuốn Lịch sử quan hệ Việt - Trung từ thời họ Khúc cho đến chiến tranh Pháp - Thanh, của Yamamoto Tatsuro, Nxb. Yamakawa, 1975. Chương 7: Quan hệ nhà Thanh với nhà Lê hậu kì, mục thứ nhất: Quan hệ triều cống.

(5) Việt Nam Hán văn tiểu thuyết tùng san thể loại tiểu thuyết, bút kí 6 sách gồm: Nam ông mộng lục, Nam thiên trung nghĩa thực lục, Nhân vật chí - Trần Khánh Hạo, Vương Tam Khánh chủ biên. Học viện Viễn đông Pháp -Thư cục Đài Loan Đài Bắc -Trung Hoa dân quốc 76 xuất bản.

(6) Toàn thư, tục biên quyển 4, mục Cảnh Hưng 9: Tháng 3, Hội thí, lấy đỗ bọn Vũ Miên 13 người. Ngự thí, Nguyễn Huy Oánh Tiến sĩ cập đệ đỗ Đệ tam danh, Trịnh Xuân Thụ Tiến sĩ xuất thân và bọn Vũ Miên 11 người cùng đỗ Đồng Tiến sĩ xuất thân.

(7) Ngô Đức Thọ Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, Nxb. Văn học, Hà Nội, 1993.

(8) Cao Viên Trai - Võ Oanh dịch Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi kí, Bộ giáo dục, Trung tâm học liệu xuất bản, Sài gòn, 1969.

(9) Triều Tiên vương triều thực lục - Anh Tổ đại vương thực lục quyển 121. Mục ghi tháng 11 năm Quý Tỵ (1773): Cho Lý Huy Trung làm chức Đại tư hiến... Mục ghi tháng 9 năm Bính Thân Chánh Tổ lên ngôi: Năm Canh Dần cho mời gặp vào ngày sinh nhật, có thăm hỏi các bậc khanh tướng... Lí Huy Trung...

(10) Về năm mất của Triệu Vĩnh Tiến mục ghi tháng 11 năm ất Mùi năm thứ 51 cuốn Anh Tổ thực lục: Kỉ Hợi... (Hồng) Lân Hán Nhật, Triệu Vinh Tiến, Lí Đàm đều qua đời. Hoàng thượng kinh ngạc mới hỏi lại "Có phải Nhật chăng", rằng: "Thưa đúng như vậy" ? Vua than tiếc mãi không thôi. Nay mất 3 bề tôi, lòng ta nhớ thương không kể xiết. Bèn làm bài văn tế, sai quan lễ đến tế cả 3 nhà.

(11) Anh tổ thực lục, quyển 118, mục tháng 3 năm Nhâm Thìn, năm thứ 48.

(12) A.B. Woodside, Vietnam and Chinese Model" A Comparative Study of Vietnamese and Chinese Government in the First Half of the Nineteenth Century. Canbridge. Mass. Harvard Univ Press, Paperback Edition,1988. Preface to the Paperback Edition.

(13) Được tóm tắt trong Ghi chép về tình hữu hảo và mối quan hệ láng giềng thân thiện; Đại hệ Triều Tiên thông tín sứ; năm Enkyo, Mậu Thìn, quyển 6, do Tân Cơ Tú và Trọng Vĩ Hoằng biên tập. Nxb. .Minh Thạch,1994.

(14) Về tranh, thơ xướng họa, biển ngạch, câu đối... xin xem thêm bài Chùa Thanh Kiến và Thông tín sứ Triều Tiên, trong cuốn Nhận thức về Triều Tiên của dân chúng thời cận đại về thế giới của những kẻ giết người Đường (Trung Quốc) đã nêu trên.

(15) Toàn thư, tục biên, quyển 5, mục cuối năm Cảnh Hưng 32 (1772): "Sai Chánh sứ Đoàn Nguyễn Thục, Phó sứ Nguyễn Huy Diên, Nguyễn Dao sang Thanh tuế cống và trình tấu".

(16) Lê triều lịch khoa Tiến sĩ đề danh bi kí, quyển 3, Sđd.

(17) Toàn thư, tục biên, quyển 2, mục ghi năm Vĩnh Khánh 4: "Tháng 11, biếm Tham tòng bộ Lại Thượng thư Thái Bảo Sóc quận công Nguyễn Công Ngột làm Tuyên Quang thừa chính sứ, được ít lâu buộc phải chết. Công Ngột có công giúp vua, được Nhân vương tín nhiệm. Ngột từ khi gặp vua hết lòng vì nước, canh tân, sửa đổi tận cùng, nhưng tính khí chuyên quyền lấy tài năng khinh người nên nhiều người ghét, kết làm bè đảng, về sau chết vì nạn. Ông là người Phù Chẩn, Đông Ngàn. Đầu năm Cảnh Hưng mới được quy táng.

(18) Toàn thư, tục biên, quyển 4, mục ghi năm Vĩnh Thịnh 14: "Tháng 4 mùa hạ, Nguyễn Công Ngột, Nguyễn Bá Tông sang Thanh theo thông báo vua Hi Tông mất và xin được phong vương. Trên đường trở về Bá Tông mất". Mục ghi năm Vĩnh Thịnh 15: "Tháng 9, sứ thần Nguyễn Công Ngột từ Yên Kinh trở về... Lễ bộ có công văn rằng: "Hoàng đế nhà Thanh chuẩn y lời cầu xin của 2 sứ giả, sai 3 sứ thần, 20 người tùy tùng. Từ đó sứ giả đi cống 6 năm 1 lần. Chánh sứ 1 người, Phó sứ 2 người".

(19) Yamamoto Taro, Sđd, tr.690.

(20) Chánh tổ thực lục, quyển 6, mục Đinh Dậu, tháng 9 năm Mậu Tuất: "Cho mời Đại thần. Sai Tạ Ân sứ thần ra đi từ Thẩm Dương. Hoàng thượng ban tặng chữ vàng, thưởng cho những người đi theo, thể hiện sự trọng dụng đặc biệt. Cho Hà Ân quân Lí Quang làm Tạ Ân Chánh sứ, Kim Dực làm Phó sứ, Lí Đông úc làm Thư trạng quan. Cũng vào tháng ấy năm Tân Sửu: "phó sứ Lí Dực và Thư trạng quan Lí Đông úc đều cho rằng tình lí khó cưỡng, bèn lấy Y Phường, Trịnh Vũ Thuần thay vào đó".

(21) Ngô Đức Thọ chủ biên, Sđd, tr.731.

(22) Toàn thư, tục biên, quyển 5, mục ghi năm Cảnh Hưng 47 (1785): Tháng 5, mùa hạ, giặc Tây Sơn Nguyễn Nhạc sai em Nguyễn Huệ đánh Thuận Hóa. Thống suất Phạm Ngô Cầu đem thành ra hàng, Phó tướng Hoàng Đình Thể, Đốc thị Nguyễn Trọng Đương đều bị chết".

(23) Yamamoto Taro , Sđd, chương 7: Quan hệ giữa nhà Thanh với nhà Lê hậu kì, mục 6: Sự can thiệp của nhà Thanh đối với chính quyền Nguyễn Huệ và bè đảng Tây Sơn, mục 7: Trao sắc phong cho chính quyền Tây Sơn. Trong Đại Thanh chính biên liệt truyện sơ tập, quyển 30: "Mùa xuân Canh Tuất, Phúc Khang An dục Huệ [sang yết kiến vua nhà Thanh], Huệ cho Trị giả thay mình. "... Huệ bèn lấy bọn Phạm Công Trị đóng giả mình, cùng bề tôi của mình là Ngô Văn Sở, Đặng Văn Châm, Phan Huy ích, Vũ Huy Tấn, Vũ Danh Tiêu, Nguyễn Tiến Lộc, Đỗ Văn Công Hài, [sang Thanh], ngoài đồ cống như thường lệ còn cống thêm 2 con voi đực, làm bọn đi đường một phen khổ sở".

(24) Chánh tổ thực lục, quyển 7, mục ghi tháng 4 năm Bính Tí: "Từ Hạo Du làm Tiến hạ kiêm Tạ Ân Phó sứ. Mục ghi tháng 5 năm Đinh Mùi: "Đinh Mùi mời gặp 3 Tạ Ân sứ thần. Mục ghi tháng 10 năm Kỉ Tị: "Kỉ Tị, triệu kiến sứ thần Hoàng Nhân Điểm và Từ Hạo Tu trở về nước".

(25) Đại Nam chính biên liệt truyện, sơ tập, quyển 30: "... Huệ cũng lấy vàng bạc ,gấm vóc để xin lấy công chúa Ngọc Thành, Huệ bèn đổi tên là Quang Bình, sai cháu là Nguyễn Quang Hiển cùng bọn bồi thần là Vũ Huy Tấn mang đồ cống đến cửa quan xin được vào chầu".

(26) Tình hình hỗn loạn của nước An Nam do Tây Sơn cướp chính quyền cũng được phía Triều Tiên biết đến qua báo cáo của Chánh sứ Lí Tại Hiệp, mục năm ất Sửu, tháng 3, năm thứ 13, quyển 27 Chánh tổ thực lục. Và có thể thấy trong các báo cáo của Thư trạng quan Thành Chủng Nhân, Thủ dịch Trương Liêm, điều năm Đinh Mùi, tháng 3 năm thứ 14, quyển 29, cũng sách trên.

(**) Trong quá trình dịch thuật, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ của GS. Trần Nghĩa, Cô giáo Rika – người Nhật và Cử nhân Nguyễn Đức Toàn. Xin chân thành cảm ơn (ND).

 Nguồn: Tạp chí Hán Nôm 2001

Lê Quý Đôn (Nguồn ảnh: Internet)

Lê Quý Đôn (黎貴惇) tự là Doãn Hậu (允厚), hiệu là Quế Đường (桂堂), sinh năm Bính Ngọ (1726) ở xã Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là con của Lê Trọng Thứ, đỗ Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, niên hiệu Bảo Thái thứ 5 (1724), làm quan đến Thượng thư Bộ Hình, được tặng hàm Thái bảo, tước Hà Quận công(1). Thân mẫu của Lê Quý Đôn họ Trương.

Từ thuở nhỏ, Lê Quý Đôn nổi tiếng là thần đồng (神童). Các sách xưa viết về tiểu sử Lê Quý Đôn, có chép nhiều truyền thuyết về khả năng "bác văn cường ký" (博聞彊記) củ tiên sinh: hai tuổi đã đọc được chữ 有hữu và chữ 無; năm tuổi đã đọc được nhiều bài trong Kinh Thi (詩經); năm mười tuổi, học sử mỗi ngày thuộc được 80, 90 chương, học Kinh Dịch (昜經), thì mỗi ngày đọc được phần Cương hình và Đồ thuyết; năm 14 tuổi, đã học hết Ngũ kinh (五經)(2), Tứ thư (四書)(3), Sử (史)(4), Truyện (傳)(5) và đọc đến cả Chư tử (諸子)(6). Trong một ngày, Lê Quý Đôn có thể làm 10 bài phú, không phải nghĩ, không phải viết nháp.

Năm 1739, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở Kinh đô Thăng Long và đầu năm 1743, tức năm 18 tuổi, ông đỗ đầu khoa thi Hương (tức Giải nguyên - 解元). Khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (1752), Lê Quý Đôn đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ, Đệ nhị danh (Bảng nhãn - 榜眼). Khoa ấy, không lấy đỗ Trạng nguyên, nên ông là người đỗ đầu. Như vậy, từ thi Hương, thi Hội, đến thi Đình, Lê Quý Đôn đều đỗ đầu (Tam nguyên - 三元).

Năm 1754, Lê Quý Đôn được cử giữ chức Hàn lâm viện Thị thư, sung Toản tu Quốc sử quán. Năm 1756, ông phụng mệnh đi liêm phóng ở Sơn Nam. Tháng 5 năm 1756, Lê Quý Đôn được biệt phái sang phủ chúa Trịnh, coi phiên Binh, đến tháng 8 lại được sai đi hiệp đồng với các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang, Hưng Hóa, v.v... Năm 1757, ông được thăng lên chức Hàn lâm viện Thị giảng.

Năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760), Thái Thượng hoàng (Lê Ý Tông) mất, triều đình sai một sứ bộ do Trần Huy Mật và Lê Quý Đôn dẫn đầu sang nhà Thanh báo tang và dâng lễ cống.

Năm 1762, khi đi sứ về, Lê Quý Đôn được thăng thưởng quan hàm Hàn lâm viện Thừa chỉ. Bấy giờ văn thư và sách vở của triều đình bị thất lạc rất nhiều, cho nên có nghị định lập ra Bí thư các (秘書閣) để thu thập và tàng trữ. Lê Quý Đôn được chọn giữ chức Học sĩ của Bí thư các, đồng thời với Lễ Trạch hầu là Tiến sĩ Nguyễn Bá Lân. Năm 1764, Lê Quý Đôn dâng sớ xin thiết định pháp chế.

Trong gần hai năm (1761-1762), du lãm và quan sát ở Trung Quốc, Lê Quý Đôn đã thấy nhiều, nghĩ nhiều và đã sắp xếp tư tưởng của mình thành hệ thống. Về mặt tư tưởng chính trị, ông muốn tổng hợp cái thuyết Đức trị (德治) của Nho gia(7) và cái thuyết Pháp trị (法治) của Pháp gia(8), mà nặng về Pháp gia để bổ cứu cho cái tệ lạm dụng quyền hành, chà đạp lên pháp luật của bọn thống trị phong kiến đương thời. Lê Quý Đôn muốn dựa vào chúa Trịnh mà thực hiện cái hoài bão của mình, để làm nên sự nghiệp một nhà chính trị như Tể tướng Vương An Thạch (1021-1086) dưới thời Tống Thần Tông (1067-1086) của Trung Quốc. Muốn thực hiện được hoài bão về chính trị nói trên, trước hết phải có quyền bính trong tay, cụ thể là phải được cử giữ chức Tham tụng (參從- tức Tể tướng). Chúa Trịnh Sâm (1767-1782) cũng như cha mình là Trịnh Doanh (1740-1767) đều hiểu rõ tài đức của Lê Quý Đôn, nhưng cả hai đều không bao giờ chịu trao cho ông một chức vị đủ quan trọng để ông có điều kiện thi thố tài năng, hoàn thành hoài bão. Chức cao nhất trong cuộc đời làm quan của Lê Quý Đôn là chức Bồi tụng (陪從 - tức Phó Tể tướng). Vì vậy suốt đời mình, không bao giờ Lê Quý Đôn thực hiện được các đề nghị cải cách chính trị của ông. Cho nên, có thể nói về mặt chính trị, Lê Quý Đôn là người bất đắc chí, cho dù ông đã từng nắm quyền cao chức trọng ở triều đình Lê - Trịnh.

Nhưng Lê Quý Đôn còn có một hoài bão khác, mà hoài bão này có thể nói đã đưa ông trở nên một tên tuổi lớn, một nhà bác học hàng đầu trong thời kỳ phong kiến ở Việt Nam, đó là hoài bão "trước thư lập ngôn" (著書立言). Trong đời mình, Lê Quý Đôn không những là người rất chăm học, học rất giỏi, mà còn có phương pháp học tập và nghiên cứu hết sức khoa học. Tiến sĩ Trần Danh Lâm khi viết lời Tựa cho bộ Vân đài loại ngữ (蕓臺類語), vào năm 1777, đã nhận xét rất xác đáng về Lê Quý Đôn: "Lê Quế Đường, người huyện Diên Hà, không sách gì không đọc, không vật gì không suy xét đến cùng, ngày thường ngẫm nghĩ được điều gì đều viết ngay thành sách, sách chất đầy bàn, đầy tủ, kể ra không xiết"(9). Chính Lê Quý Đôn cũng cho chúng ta biết cách làm việc của ông: "Tôi, vốn là người nông cạn, lúc còn bé thích chứa sách, lúc trưởng thành ra làm quan, xem lại sách đã chứa trong tủ, vâng theo lời dạy lúc qua sân(10), lại được giao du nhiều với bậc hiền sĩ đại phu... đi đến đâu cũng để ý tìm tòi, phàm việc gì mắt thấy tai nghe, đều dùng bút ghi chép, lại phụ thêm lời bình sơ qua, giao tiểu đồng đựng vào túi sách, lâu ngày tích tập, sau mới chép thành từng thiên..."(11).

Ngày 14 tháng 4 năm Giáp Thìn (1784), Lê Quý Đôn qua đời. Trong bài Quế Đường Tiên sinh thành phục lễ môn sinh tế văn (桂堂先生成服禮門生祭文- Bài văn của học trò tế Quế Đường tiên sinh trong lễ thành phục(12)), Tiến sĩ Bùi Huy Bích (1744-1802) cũng nhận định về người thầy của mình như sau:

嗚呼! 聰明冠世博極群書能著述為文章足以行世而傳後我國一二百年乃有一人如夫子.

(Ô hô! Thông minh quán thế bác cực quần thư năng trước thuật vi văn chương túc dĩ hành thế nhi truyền hậu. Ngã quốc nhất nhị bách niên nãi hữu nhất nhân như phu tử.

Nghĩa là: Than ôi! Thông minh nhất đời, đọc rộng hết các sách, soạn ra văn chương đủ lưu hành ở đời và truyền lại về sau. Nước ta một, hai trăm năm nay, mới lại có một người như Thầy)(13).

Từ lâu, các nhà sử học Việt Nam đều thống nhất nhận định: Lê Quý Đôn là nhà bác học có kiến thức uyên bác bậc nhất Việt Nam dưới thời phong kiến. Nhà bác học ấy là tấm gương sáng cho những người đi học xưa nay. Lê Quý Đôn học ở mọi lúc, mọi nơi và kể cả trong lần đi sứ sang nhà Thanh vào cuối năm Canh Thìn (1760) cũng không phải là ngoại lệ. Trước những kiến thức khá mới mẻ đối với giới kẻ sĩ Việt Nam như kiến thức về lịch sử và văn hóa Triều Tiên - Hàn Quốc thì càng khiến Lê Quý Đôn quan tâm đặc biệt để học hỏi. Điều kiện thuận lợi để Lê Quý Đôn bổ sung những mảng trống kiến thức ấy, chính là dịp ông được gặp các nhà trí thức lớn Hàn Quốc Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến và Lý Huy Trung tại Bắc Kinh trong chuyến đi sứ kể trên.

I. CUỘC TIẾP XÚC GIỮA SỨ THẦN VIỆT NAM VỚI SỨ THẦN HÀN QUỐC TẠI BẮC KINH NĂM 1760

Như trên đã nói, năm Cảnh Hưng thứ 21 (1760), nhân Thượng hoàng Lê Ý Tông mất, triều đình Lê - Trịnh sai một đoàn sứ bộ sang nhà Thanh báo tang và dâng lễ cống.

Sách Đại Việt sử ký tục biên chép: "Tháng 11 năm Kỷ Mão, Cảnh Hưng thứ 20 (1759) sai các ông Chánh sứ Trần Huy Mật, Phó sứ Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Chú sang tuế cống nhà Thanh, thêm vào việc báo tang vua [Lê] Ý Tông"(14). Hiện nay, tư liệu lịch sử của Việt Nam chưa cho biết rõ đoàn sứ bộ lên đường vào ngày, tháng, năm nào, nhưng theo như Lê Quý Đôn cho biết: Vào mùa Đông năm Canh Thìn (1760) sứ bộ đã có mặt tại Bắc Kinh(15).

Sứ bộ Đại Việt có 1 Chánh sứ và 2 Phó sứ. Dưới đây, chúng tôi xin lược qua tiểu sử của các vị lãnh đạo đoàn sứ bộ ấy.

1. Chánh sứ Trần Huy Mật (陳輝謐(16)) (1710- ? ):

Người xã An Hoạch, huyện Đông Sơn, trấn Thanh Hóa, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Hựu thứ 2 (1736). Trước kia ông vốn có tên là Bá Tân (伯賓), sau mới đổi thành Huy Mật(17). Ông làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lại, được phong tước hầu.

2. Phó sứ Lê Quý Đôn (1726-1784) (đã có tiểu sử ở phần trên).

3. Phó sứ Trịnh Xuân Thụ (鄭春澍(18)) (1704 - ?)

Người xã Hoa Lâm, huyện Đông Ngàn, xứ Kinh Bắc, đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 9 (1748). Ông làm quan đến chức Đông các Học sĩ, được phong tước Bá. Theo Văn tịch chí trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của sử gia Phan Huy Chú ở thế kỷ XIX thì Trịnh Xuân Thụ có tập Sứ hoa học bộ thi tập (使華學部詩集): 1 quyển(19).

Trong ba vị lãnh đạo sứ bộ Đại Việt, về mặt tuổi tác, thì Phó sứ Trịnh Xuân Thụ nhiều tuổi nhất, vào năm 1760, ông đã 56 tuổi, Chánh sứ Trần Huy Mật: 50 tuổi, trẻ tuổi nhất là Phó sứ Lê Quý Đôn: 34 tuổi. Lê Quý Đôn được cử làm Phó sứ ở vào tuổi trên 30 là khá hiếm trong lịch sử bang giao giữa Đại Việt và Trung Quốc. Bởi lẽ, dưới thời phong kiến, trọng trách ấy thường được giao cho những người có tuổi đời trên 50, tuổi "tri thiên mệnh" như người ta từng nói, và bắt buộc phải có học vị Tiến sĩ. Sử gia Phan Huy Chú cho biết: "Chức sứ thần là người có trách nhiệm ngoại giao, tất phải kén người đỗ Tiến sĩ, quan Tiến triều(20) không được dự"(21).

Tuy chưa thuộc diện nhiều tuổi, nhưng tiếng tăm của Lê Quý Đôn đã được các học giả Trung Hoa biết tới. Vì vậy, khi nghe tiếng trong Đoàn sứ bộ Đại Việt có Lê Quý Đôn, các Nho thần nhà Thanh như: Thượng thư Bộ Binh Lương Thi Chính, Thượng thư Bộ Công Quy Hữu Quang và nhiều Nho thần khác đã đến sứ quán Đại Việt thăm và đàm đạo với Lê Quý Đôn.

Cũng trong thời gian này, Lê Quý Đôn đã gặp Đoàn sứ thần Hàn Quốc là Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến và Lý Huy Trung. Trong sách Quế Đường thi tập(22) (桂堂詩集), Lê Quý Đn cho biế:

庚辰年前臘月, 本使禮鴻臚寺, 遇朝鮮國正使, 文科狀元鴻啟禧, 副使文科狀元趙榮進, 春坊學士李徽中, 設席寺門. 各通姓名, 坐談片刻後伊送手箋紙扇凡藥方物因賦詩贈之

(Phiên âm: Canh Thìn niên, tiền Lạp nguyệt, bản sứ lễ Hồng Lô tự ngộ Triều Tiên quốc Chánh sứ, văn khoa Trạng nguyên Hồng Khải Hy, Phó sứ văn khoa Trạng nguyên Triệu Vinh Tiến, Xuân phường Học sỹ Lý Huy Trung, thiết tịch tự môn. Các thông tính danh, tọa đàm phiến khắc hậu y tống thủ tiên chỉ, phiến, phàm dược phương vật, nhân phú thi, tặng chi - Dịch nghĩa: Tháng Chạp năm Canh Thìn (1760), khi làm lễ ở Hồng Lô tự, chúng tôi được gặp sứ thần nước Triều Tiên là: Chánh sứ Trạng nguyên Hồng Khải Hy, Phó sứ Trạng nguyên Triệu Vinh Tiến, Xuân phường Học sỹ Lý Huy Trung, giải chiếu mời nhau cùng ngồi. Sau khi hỏi rõ tên tuổi từng người, cùng ngồi đàm đạo một thời gian ngắn, rồi bèn trao cho nhau giấy hoa tiên, quạt, cùng thuốc men phẩm vật địa phương. Nhân đấy làm thơ tặng cho nhau).

Như vậy đoàn sứ bộ Triều Tiên gồm có Chánh sứ Hồng Khải Hy, Phó sứ Triệu Vinh Tiến và Học sĩ Lý Huy Trung. Dưới đây là tiểu sử sơ lược của các vị sứ thần Triều Tiên:

1. Chánh sứ Hồng Khải Hy (鴻啟禧) [1703-1771]

Đỗ Trạng nguyên, giữ chức Sùng lộc đại phu, hành Lại tào phán thủ, kiêm Kinh diên sự, Hoằng văn quán Đề học, Thế tử hữu tân khách.

Theo tác giả Shimizu Taro trong bài Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc trọng tâm là chuyện xảy ra trong thế kỷ XVIII(23) cho biết Hồng Khải Hy đỗ Trạng nguyên năm 1737. Shimizu Taro còn cho biết thêm về hành trạng của ông như sau: "Trong Triều Tiên vương triều thực lục có nhiều chỗ ghi chép về nhân vật này; phần cuối có nói chức danh của ông khi mất là Phụng triều hạ... Hồng Khải Hy là người liên quan mật thiết với Luật quân dịch, thi hành năm 1750 mà mục tiêu là cải cách quân chế và tài chính. Ông tham gia biên tập cuốn Quân dịch sự thực phát hành năm 1752, và cuốn Tam vận thanh vựng, phát hành năm 1751"(24). Theo nhà nghiên cứu Đông phương học người Nga là N.Niculin, thì vào năm 1770, tức sau 10 năm đi sứ Trung Quốc về, Hồng Khải Hy đã góp phần hoàn thành bộ Từ điển Bách khoa Triều Tiên, dưới sự chỉ đạo của nhà bác học nổi tiếng Hông Hon Han; mà trong ấy có "toàn bộ kiến thức về cường quốc phương Đông", gồm 100 cuốn"(25).

2. Phó sứ Triệu Vinh Tiến (趙榮進) [ ? - 1775]

Trong bài nghiên cứu của mình nói trên, Shimizu Taro dựa vào sách Quốc triều bảng mục (quyển 17) cho biết Triệu Vinh Tiến: "Năm Bính Tý 32 (1756) vào bảng Đình thí. Ba mươi người đỗ Bính khoa, có Triệu Vinh Tiến, Như Tiếp, Phán Thư là người Dương Châu...". Trong Quế Đường thi tập (桂堂詩集), Lê Quý Đôn cũng cho biết: Phó sứ Triệu Vinh Tiến đỗ Trạng nguyên văn khoa(26). Shimizu Taro còn ghi: "Nhân vật này cũng làm quan đến chức Đại tư hiến(27). Tên ông còn xuất hiện trong sách Triều Tiên vương triều thực lục (朝鮮王朝實錄)(28).

3. L ý Huy Trung (李徽中) [ ? - ? ]

Dựa vào sách Quốc triều bảng mục (國朝榜目), Shimizu Taro cho biết Lý Huy Trung đỗ Tiến sĩ vào năm Canh Ngọ thứ26 (1750). Cùng đỗ Ất khoa với Lý Huy Trung, còn có Thông Đức, Nhữ Thận, Tham Phan, Triệu Phó, đều là người Toàn Châu. Trong sách Quế Đường thi tập, Lê Quý Đôn lại chỉ ghi Lý Huy Trung là "Học sĩ", có lẽ vì ông đang giữ chức Học sĩ, Hành đại chi chế giáo. Theo sách Triều Tiên vương triều thực lục thì Lý Huy Trung làm quan tới chức Đại tư hiến.

Trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm, để nghiên cứu về cuộc gặp gỡ giữa Lê Quý Đôn và đoàn sứ bộ Triều Tiên tại Bắc Kinh năm 1760, chúng ta có thể đọc ở một vài bộ sách chữ Hán. Ghi chép khá cụ thể là 5 bộ sách dưới đây đều của Lê Quý Đôn là: 1. Quế Đường thi tập (桂堂詩集) ký hiệu A.576; 2. Kiến văn tiểu lục (見聞小錄) ký hiệ VHv.1322/1(29); 3. Bắ sứthông lụ (北使通錄) ký hiệ A.197; 4. Thánh mô hiề phạ lụ (聖模賢範錄) ký hiệ A.846, VHv.257; 5. Quầ thư khảo biện (群書考辯)(30) ký hiệu A.252, A.1872, VHv.90.

Trong 5 bộ sách vừa kể trên thì Quế Đường thi tập (桂堂詩集) ghi chép cụ thể và đầy đủ hơn 4 bộ còn lại. Từ tờ 12b đến tờ 16a sách này, ghi lại cuộc tiếp xúc giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều Tiên(31). Đáng quý là trong Quế Đường thi tập, còn ghi lại 7 bài thơ (trước mỗi bài thơ đều có lời Tiểu dẫn của tác giả): 3 bài xướng của Lê Quý Đôn, 2 bài họa của Hồng Khải Hy và 2 bài họa của Lý Huy Trung(32). Đọc kỹ 7 bài thơ xướng họa của Lê Quý Đôn với Hồng Khải Hy, Lý Huy Trung và các bài Tiểu dẫn kèm theo mỗi bài thơ, chúng ta thấy các vị sứ thần Việt Nam và Triều Tiên đã hiểu khá rõ lịch sử, văn hóa của nước bạn mà mình đối thoại. Như trên đã nói, là người luôn luôn học hỏi để tăng thêm vốn kiến thức cho mình, Lê Quý Đôn đã học được khá nhiều kiến thức về Triều Tiên thông qua lần đi sứ này.

II. LÊ QUÝ ĐÔN VỚI KIẾN THỨC LỊCH SỬ VÀ VĂN HÓA TRIỀU TIÊN - HÀN QUỐC

Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, những nhà nho Đại Việt nếu muốn nghiên cứu lịch sử Triều Tiên - Hàn Quốc(33), có thể đọc bộ Nhị thập tứ sử (二十四史)(34) đã được ấn hành từ đầu đời Càn Long nhà Thanh. Có thể khẳng định rằng trước khi được cử làm Phó sứ trong Đoàn sứ bộ sang nhà Thanh vào năm 1760, Lê Quý Đôn đã từng đọc qua Nhị thập tứ sử. Trong tác phẩm Vân đài loại ngữ (蕓臺類語)(35) của mình, Lê Quý Đôn có nhắc tới việc ông tham khảo các thiên Địa lý chí (地理志), Tứ duệ liệt truyện (四裔列傳) trong Nhị thập nhất sử. Ngày nay, đọc Nhị thập tứ sử, chúng ta thấy các bộ sử dưới đây: Sử ký, Hán thư, Hậu Hán thư, Cựu Đường thư, Tân Đường thư, Tống sử, Nguyên sử, Minh sử... đều ghi chép về nước Triều Tiên - Hàn Quốc (còn có các tên khác là: Cao Ly, Cao Cú Ly, Bách Tế, Tân La).

Qua bộ sách Kiến văn tiểu lục (見聞小錄), ta biết Lê Quý Đôn đã đọc khá kỹ phần lịch sử Triều Tiên trong pho chính sử Nhị thập tứ sử nói trên. Lê Quý Đôn viết: "Nước Cao Ly, về thời đại nhà Đường, gọi là An Đông đô hộ phủ, đến đời Thạch Tấn, Vương Kiến mới khôi phục được và dựng thành nước, kiêm tính cả Tân La và Bách Tế trải qua các triều đại Tống và Nguyên, đến đời Minh Thái Tổ, triều đại do Vương Kiến dựng lên mới mất. Họ Lý (tức Lý Thành Quế (李成桂) - NMT) lên thay, quốc hiệu vẫn theo như cũ, gọi là Triều Tiên, trải qua từ đời nhà Đại Minh đến triều đại hiện nay. Thế là trong khoảng 900 năm, trong nước mới có 2 lần thay đổi triều đại. Về điểm này, Trung Quốc cũng đáng lấy làm hổ thẹn"(36).

Chúng ta thấy đoạn sử trên đây viết về thời kỳ vương triều Cao Ly (936-1392) do Vương Kiến sáng lập, được Lê Quý Đôn tham khảo trong Minh sử (明史), Quyển 320 - Triều Tiên truyện. Tôi chỉ xin dẫn một vài dòng để chúng ta cùng hiểu sơ qua nguồn tư liệu mà Lê Quý Đôn trích lục:

"朝鮮箕子所封國也漢以前曰朝鮮始為燕人衛滿所据漢武帝平之... 漢末有扶余人高氏据其地改國號曰高麗居平壤即樂浪也已為唐所破東徙后唐時王建代高氏兼并新羅百濟地徙居松岳曰東京而以平壤為西京 - Triều Tiên, Cơ tử sở phong quốc dã, Hán dĩ tiền viết: Triều Tiên. Thủy vi Yên nhân, Vệ Mãn sở cứ, Hán Vũ đế bình chi... Hán mạt hữu Phù Dư nhân, Cao thị cứ kỳ địa, cải quốc hiệu, viết: Cao Ly, cư Bình Nhưỡng, tức Lạc Lãng dã. Dĩ vi Đường sở phá, đông tỷ. Hậu Đường thời, Vương Kiến đại Cao thị, kiêm tính Tân La, Bách Tế địa, tỷ cư Tùng Nhạc, viết Đông Kinh, nhi dĩ Bình Nhưỡng vi Tây Kinh..." (Triều Tiên, là nước Cơ tử được phong (thời Chu Võ vương - NMT). Từ thời Hán (206 TCN - 220 CN) trở về trước, tên nước gọi là Triều Tiên. Mới đầu bị Vệ Mãn, người nước Yên chiếm cứ, sau bị Hán Vũ đế chinh phục... Vào cuối đời Hán, họ Cao người nước Phù Dư lại chiếm giữ đất nước ấy, đổi tên nước là Cao Ly, đóng đô ở Bình Nhưỡng, thuộc đất Lạc Lãng. Nhưng cuối cùng bị nhà Đường tàn phá, phải dời chuyển về phía Đông. Vào thời cuối Đường (năm 918 - NMT), Vương Kiến thay họ Cao, thôn tính cả đất Tân La, Bách Tế, lại dời đô về Tùng Nhạc, gọi là Đông Kinh, mà coi Bình Nhưỡng là Tây Kinh...).

Đọc lại phần Triều Tiên truyện trong Minh sử, chúng ta thấy nước Triều Tiên từ trước thế kỷ X là thuộc địa của phong kiến Trung Quốc. Vào thời Cao Tông (650-684) nhà Đường đặt An Đông đô hộ phủ (安東都府), cũng như họ đã đặt An Nam đô hộ phủ (安南都府) ở Việt Nam năm 679. Từ năm 918, Vương Kiến giành được độc lập, dựng lên vương triều Cao Ly (936-1392), đặt niên hiệu là Thiên Thu (千秋), đóng Kinh đô ở Tùng Nhạc, tức Khai Thành ngày nay. Còn người "họ Lý" mà Lê Quý Đôn nhắc đến trong sách Kiến văn tiểu lục, tức Lý Thành Quế, vị vua sáng lập vương triều Lý (1392-1910) của Triều Tiên. Năm 1392, Lý Thành Quế truất Cung Nhượng vương (恭讓王), vua cuối cùng của dòng dõi Vương Kiến, tự lên làm vua, rồi dời đô đến Hán Thành (漢城), đổi quốc hiệu là Triều Tiên, theo như quốc hiệu cũ đã có từ đời cổ. Như vậy, từ đầu thế kỷ X, Vương Kiến thành lập vương triều Cao Ly, đến thời điểm Lê Quý Đôn viết xong bộ Kiến văn tiểu lục năm 1777, tính tròn là "khoảng 900 năm", nước Triều Tiên "mới có 2 lần thay đổi triều đại", từ triều đại họ Vương (Vương Kiến), sang triều đại họ Lý (Lý Thành Quế). Trong khi đó, từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XVIII, Trung Quốc đã thay đổi tới 8 triều đại: Hậu Tấn (后晉), Hậu Hán (后漢), Hậu Chu (后周), Bắc Tống (北宋), Nam Tống (南宋), Nguyên (元), Minh (明), Thanh (清).

Qua cuộc xướng họa thơ giữa hai Đoàn sứ bộ Đại Việt - Việt Nam và Triều Tiên - Hàn Quốc, chúng ta thấy rõ mối tình hữu nghị, thắm thiết của hai dân tộc tuy cách biệt nhau về mặt địa lý, nhưng cùng có chung một nền văn hóa, mà Lê Quý Đôn từng bộc lộ:

異邦合志亦同方

學術本從先素王

"Dị bang hợp chí diệc đồng phương

Học thuật bản tòng Tiên Tố vương".

(Tuy nước khác nhau nhưng cùng một chí, cũng cùng một hướng

Về đường học thuật, hai nước cùng theo Tiên Tố vương).

"Tiên Tố vương" (先素王) là từ tôn xưng Khổng Tử. Theo sách Khổng Tử gia ngữ (孔子家語) thì viên Thái sử nước Tề là Tử Dư sau khi được tiếp kiến Khổng Tử (551-479 TCN), lúc ra ngoài, than rằng: "Thiên tương dục Tố vương chi hồ?" (天將欲素王之乎), nghĩa là: "Trời ý chừng muốn có bậc vua không ngôi chăng?" Từ đời Hán, Ngụy trở đi, mọi người đều gọi Khổng Tử là "Tố Vương", hàm nghĩa, tuy không có ngôi vị mà thế lực giống như vua. Sử gia Tư Mã Thiên có cùng một ý trên, khi ông bình luận về Khổng Tử trong bộ Sử ký như sau: "Trong thiên hạ các vua chúa và người tài giỏi rất nhiều, khi sống thì vinh hiển, nhưng lúc chết là hết. Khổng Tử là một người áo vải, thế mà truyền hơn 10 đời, các học trò đều tôn làm thầy, từ Thiên tử tới Vương hầu ở Trung Quốc hễ nói đến Lục Nghệ(37) đều lấy Khổng Tử làm tiêu chuẩn..."(38)

Trong lời Tiểu dẫn cho bài thơ xướng đầu tiên của mình, Lê Quý Đôn nhận xét rất trân trọng về đất nước Triều Tiên - Hàn Quốc "東方君子國也悅信義服詩書足令人生敬愛..." (Nghĩa là: [Triều Tiên] ở phương Đông, đó là đất nước của các bậc quân tử, cư xử tín nghĩa, thông thạo thi thư, đủ khiến cho người ta nảy sinh lòng kính ái...). Rõ ràng trên đây là những nhận định khách quan và trung thực của Lê Quý Đôn. Bài thơ xướng Doanh hải Đông nam theo thể "Đường luật thất ngôn bát cú", ở hai câu thực (câu 3 - 4), Lê Quý Đôn đưa ra một sự so sánh rất hay và tinh tế giữa hai nước Việt - Hàn.

傘圓概似松山秀

鴨錄應同珥水長

"Tản Viên khái tự Tùng sơn tú

Áp Lục ưng đồng Nhị thủy trường".

(Núi Tản Viên [của nước tôi] đẹp như núi Tùng Nhạc [của nước bạn]

Sông Áp Lục [của nước bạn] cũng dài như sông Nhị Hà [của nước tôi])

Từ xa xưa, tư duy văn hóa Nho giáo lấy "Sông" (giang - 江, thủy - 水) và "Núi" (sơn - 山) để tượng trưng cho đất nước, vì thế có thành ngữ "Giang sơn cẩm tú" (non sông tươi đẹp).

Tản Viên, Nhị Hà là "danh sơn, đại xuyên" của quốc gia Đại Việt, Lê Quý Đôn rất tự hào về vẻ đẹp của chúng, nờn đem ra so sánh với các sơn thanh, thủy tú của Hàn Quốc là Tùng Nhạc - Áp Lục. Tiếp đến là hai câu luận, Lê Quý Đôn viết:

六籍以來多學問

九疇而後更文章

"Lục tịch dĩ lai đa học vấn

Cửu Trù nhi hậu cánh văn chương".

(Từ khi có Lục kinh(39) đến nay, nước các bạn là nước có nhiều học vấn

Ngoài thông tỏ Cửu trù(40) ra, nước các bạn còn là nước có văn chương).

Lê Quý Đôn nhắc đến Cửu trù là nhắc đến các phạm trù lớn lao quan trọng trong công việc trị quốc yên dân, nhưng cũng để nhắc đến Cơ Tử, người được coi là ông tổ của dân tộc Triều Tiên - Hàn Quốc, tương tự như Hùng Vương của Việt Nam. Cơ Tử vốn là một hiền thần của nhà Thương, bề tôi của Trụ vương. Ông bị Trụ vương bỏ tù. Sau được Chu Vũ Vương mời ra giúp nhà Chu nhưng ông từ chối. Chu Vũ Vương rất kính trọng Cơ Tử, đối đãi với ông rất tốt, thường hay gặp gỡ trao đổi để lắng nghe lời góp ý của ông. Các bộ chính sử của Trung Quốc như Tống sử, Nguyên sử, Minh sử... đều khẳng định: Triều Tiên - Hàn Quốc - Cao Ly là đất nước mà Chu Vũ Vương phong cho Cơ Tử (Tống sử: "Cao Ly... Chu vi Cơ Tử chi quốc" (Cao Ly là nước nhà Chu phong cho Cơ Tử...). Nguyên sử: "Cao Ly... bản Cơ Tử sở phong chi địa..." (Cao Ly vốn là đất phong của Cơ Tử...). Minh sử: "Triều Tiên: Cơ tử sở phong quốc dã" (Triều Tiên là nước được phong của Cơ Tử...). Như vậy khi tiếp xúc với các bạn Triều Tiên - Hàn Quốc, Lê Quý Đôn nói về "Cửu trù" của Cơ Tử với hàm ý ca ngợi bậc minh triết tạo lập, khai mở đất nước Triều Tiên - Hàn Quốc từ thời cổ đại. Trong khoảng giao lưu tình cảm bạn bè, còn gì vui hơn, đáng quý hơn, khi người đối thoại hiểu rõ công lao, sự nghiệp tổ tiên xa đời của mình ?

Học sĩ Lý Huy Trung trong bài Tái ngoại nhân lai họa lại thơ Lê Quý Đôn, có câu:

星分箕斗三生隔

地阻蓬瀘萬國長

"Tinh phân Cơ, Đẩu tam sinh cách

Địa trở Bồng, Lô vạn quốc trường".

(Nước các bạn ở tinh phận sao Đẩu, nước tôi ở sao Cơ, lối sống khác nhau(41)

Nước tôi chốn Bồng đảo(42) bạn ở xứ Lô giang(43) cách trở giữa vạn nước).

Rõ ràng Lý Huy Trung viết những dòng trên để sánh với hai câu "Tản Viên - Tùng Sơn... Áp Lục - Nhị Thủy" trong bài xướng của Lê Quý Đôn. Có thể nói, chỉ bằng mấy hình ảnh sông, núi, tinh tú... có tính biểu tượng ấy, cho thấy các bạn sứ thần Hàn Quốc yêu quý và trân trọng đất nước của sứ thần Đại Việt biết chừng nào !

Ở hai câu kết, Lý Huy Trung nhận xét:

越裳消息今聞否

猶似當辰(44)海不揚

"Việt Thường tiêu tức kim văn phủ,

Do tự đương thì hải bất dương".

(Nay như thấy tin tức từ nước Việt Thường(45) đưa tới,

Còn thấy sóng vỗ nhẹ như thuở đương thời nhà Chu).

Trên đây, chúng ta thấy Lê Quý Đôn nói đến Cơ Tử (Cửu trù) (Vị tổ của nước Triều Tiên - Hàn Quốc), dường như để đáp lại tình cảm ấy, Lý Huy Trung đã nhắc tới họ "Việt Thường thị" đời Hùng Vương, quốc tổ của Đại Việt, thành ngữ Hán Việt gọi đó là: 投桃報李 "Đầu đào báo lý" (Ta biểu đào, bạn tặng mận)(46), nói sự tặng đáp nhau tương xứng.

Sau khi nhận được hai bài thơ họa của Hồng Khải Hy và Lý Huy Trung, sứ thần Đại Việt Lê Quý Đôn lại viết bài thơ xướng thứ hai, mời các sứ thần Hàn Quốc họa tiếp. Nếu bài thứ nhất Doanh hải Đông Nam..., Lê Quý Đôn phần lớn đề cập tới những hình ảnh tượng trưng to tát (Tản Viên - Tùng Sơn, Áp Lục - Nhị Thủy), thì ở bài thứ hai Dị bang hợp chí... này, ông nói tới những quà tặng cụ thể:

側釐白硾交投贈

端委洪疇覓表章

"Trắc Ly, Bạch Trụy giao đầu tặng

Đoan ủy, Hồng Trù mịch biểu chương".

(Đem giấy Trắc Ly(47) và giấy Bạch Trụy(48) trao tặng cho nhau

Có phép Đoan ủy(49) và phép Hồng trù(50) tìm thấy ở các biểu chương).

Lê Quý Đôn nói sứ thần Việt - Hàn đem các loại giấy quý ra trao tặng cho nhau, vì lẽ người xưa quan niệm: giấy là một trong bốn vật quý của kẻ sĩ. Bốn vật quý ấy gọi là "Văn phòng tứ bảo" (文房四寶): bút - mực - giấy - nghiên. Vả lại, ông cũng muốn nhắc đến một sản phẩm thủ công của nước Hàn Quốc với ý thức quý chuộng và trân trọng. Nhưng qua câu thơ này, ngày nay chúng ta nhận thấy Lê Quý Đôn đã chủ tâm ghi lại tên một thứ giấy quý của Triều Tiên, mà ở các tác phẩm khác, ông chưa từng nhắc tới. Tôi đã đọc khá kỹ sách Vân đài loại ngữ (nhất là ở phần 9: Phẩm vật) của Lê Quý Đôn, nhưng cũng không thấy ông khảo về loại giấy Bạch Trụy này. Chỉ thấy ở mục 42 phần Phẩm vật, ông có "Bàn về giấy của Thái Luân chế ra" từ đời vua Hán Hòa đế (89 - 105)(51).

Sau bài thơ xướng trên, Lê Quý Đôn lại làm bài xướng Vĩ tài đoan đích mời các bạn sứ thần Hàn Quốc họa. Trong đó Nhà bác học nước Đại Việt đã bộc lộ tình cảm thắm thiết của mình đối với các bạn mới Hàn Quốc

尚友四旬梅信重

相思二月柳條長

"Thượng hữu tứ tuần mai tín trọng,

Tương tư nhị nguyệt liễu điều trường".

(Yêu thương bạn, cả bốn tuần đều coi trọng tin mai,

Nhớ nhau, mới hai tháng thấy dài như tơ liễu).

"Mai tín" tức tin mai, nghĩa đen là gửi tin kèm theo một cành mai. Theo sách Kinh Châu ký, Lục Khải ở Giang Nam bẻ một cành mai gửi về Trường An tặng bạn là Phạm Việp kèm theo một bài thơ; có câu: "Liêu tặng nhất chi xuân" (xin tạm gửi một cành xuân). Từ đó, người xưa lấy chữ "mai tín" (tin mai) để chỉ tin tức, thư từ gửi cho bạn bè. Trong Hoa Tiên truyện, nhà thơ Nguyễn Huy Tự cũng có câu thơ:

"Cầu sương dặm tuyết chiều ai

Dịch mai đành để tin mai những mừng".

Tình cảm thắm thiết nói trên của sứ thần Đại Việt Lê Quý Đôn, được các sứ thần Hàn Quốc Hồng Khải Hy, Lý Huy Trung đáp lại thật chí tình.

Vị Chánh sứ Hồng Khải Hy viết: "奇遇只應通紵縞Kỳ ngộ chỉ ưng thông trữ cảo" (Cuộc kỳ ngộ của chúng ta nên kết lại thành sợi tơ, dây gai). Ý muốn nói để cho thật bền chặt và lâu dài.

Còn vị Học sĩ Lý Huy Trung thì viết: "歸橐盎然皆越字Quy thác áng nhiên giai Việt tự" (Chứa đầy túi đưa về nước, đều là chữ của sứ thần Đại Việt).

*

*     *

Nhà Nho thời xưa thường cho rằng nếu đã giữ vai trò sứ thần, phải làm sao được xứng với sự trao phó nhiệm vụ của quân vương. Điều này được kẻ sĩ ghi vào tâm khảm từ thuở thiếu thời. Bởi lẽ, trong bộ Luận ngữ, Khổng Tử không dưới một lần nói về nhiệm vụ của kẻ sĩ trong vai trò sứ thần, thí dụ như: "子曰誦詩三百授之以政不達使於四方不能專對雖多亦奚以為 ? - Tử viết: Tụng Thi tam bách, thụ chi dĩ chính, bất đạt; sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối, tuy đa diệc hề dĩ vi ? (Khổng Tử nói: Nếu đọc thuộc ba trăm bài Kinh Thi mà trao quyền bính cho, không làm được thông suốt, giao cho đi sứ bốn phương không biết ứng đối, thì dẫu học nhiều để mà làm gì ? Luận ngữ - Tử Lộ)

Hoặc câu: "子貢問曰何如斯可謂之士矣? 子曰行己有恥使於四方不辱君命可謂士矣 ? - Tử Cống vấn viết: 'Hà như tư khả vị chi sĩ hỹ' Tử viết: 'Hành kỷ hữu sỉ, sứ ư tứ phương, bất nhục quân mệnh, khả vị sĩ hỹ' ". (Tử Cống hỏi: "Như thế nào thì có thể gọi là kẻ sĩ?" Khổng Tử nói: "Với bản thân, có lòng hổ thẹn (trước việc trái với lễ), đi sứ bốn phương, không làm nhục mệnh vua, như vậy có thể gọi là kẻ sĩ" - Luận ngữ - Tử Lộ).

Trong lịch sử thời phong kiến phương Đông, Đại Việt và Hàn Quốc là những nước "®ồng văn" (cùng một nền văn hóa Nho giáo), cho nên kẻ sĩ của hai nước đều thấm nhuần lời dạy trên của Khổng Tử. Các triều đại nước Đại Việt, cũng như các triều đại nước Hàn Quốc, khi cử người đi sứ Trung Quốc, đều nhằm vào các bậc khoa bảng lớn, vì họ là những người học rộng, biết nhiều, có tài văn chương, rất mẫn tiệp và giỏi ứng đối. Họ là người không chỉ nắm vững tình hình nước nhà mà còn hiểu khá tường tận tình hình chính trị, xã hội, nhất là văn hóa của nước mà mình đặt quan hệ bang giao. Có thể nói trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1760 các vị Trần Huy Mật, Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Thụ của Đại Việt và các vị Hồng Khải Hy, Triệu Vinh Tiến, Lý Huy Trung của Hàn Quốc là thuộc loại những người tài năng xuất chúng kể trên. Đại diện cho sứ bộ Đại Việt là Lê Quý Đôn, thường xuyên gặp gỡ, trao đổi học thuật và xướng họa với đoàn sứ bộ Hàn Quốc.

Hơn ai hết, Lê Quý Đôn hiểu rõ tầm quan trọng của việc kết giao tình bạn, tình hữu nghị với các đoàn sứ bộ của các nước khác trong khu vực, mỗi lần đi sứ đến Bắc Kinh. Chắc chắn ông từng nhớ lời dặn dưới đây của Tăng Tử (Đại môn đệ của Khổng Tử): "Quân tử dĩ văn hội hoặc, dĩ hữu phụ nhân 曾子曰君子以文會友以友輔仁" - Nghĩa là: Tăng Tử nói: "Người quân tử lấy văn chương, học vấn mà tập hợp bạn bè, và nhờ bạn bè giúp sức mà làm được điều nhân" Luận ngữ - Nhan Uyên). Trong lịch sử bang giao Việt Nam - Trung Quốc, chuyến đi sứ của đoàn sứ bộ Trần Huy Mật, Lê Quý Đôn, Trịnh Xuân Thụ được coi là chuyến đi sứ thành công tốt đẹp. Theo tôi, riêng với vị Phó sứ Bảng nhãn Lê Quý Đôn, với chuyến đi sứ ấy, ông đã đạt được 3 niềm vui lớn trong cuộc đời mình. Đó là: Hoàn thành xuất sắc vai trò của một Phó sứ, được kết bạn thân thiết với các bậc quân tử Hàn Quốc và quan trọng hơn, trong khối kiến thức vốn đồ sộ của mình còn được tăng cường thêm khá nhiều tri thức về lịch sử, văn hóa của xứ sở nổi tiếng sơn thanh, thủy tú mà ông hằng ngưỡng mộ.

Chú thích:

(1) Theo Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb. Văn học, H. 1993, tr.680-681.

(2) Ngũ kinh (五經): Thi - Thư - Lễ - Dịch - Xuân Thu.

(3) Tứ thư (四書): Luận ngữ - Đại học - Trung dung - Mạnh Tử.

(4) Sử (史): gồm có Bắc sử (北史) tức sử Trung Quốc và Nam sử (南史), tức sử Việt Nam.

(5) Truyện (傳): sách của các bậc đại Nho Trung Quốc biên soạn như Tả truyện (左傳) của Tả Khâu Minh (左丘明) chẳng hạn...

(6) Chư tử: tức Bách gia Chư tử (百家諸子): sách của các nhà triết học thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc như: Đạo đức kinh (道德經) của Lão tử (老子)...

(7) Nho gia: ở đây chủ yếu nói tới Nho giáo Khổng - Mạnh.

(8) Pháp gia: chủ yếu nói tới Hàn Phi tử, gồm 3 bộ phận: Pháp - Thuật - Thế, nhưng đề cao Pháp hơn 2 bộ phận kia.

(9) Lê Quý Đôn: Vân Đài loại ngữ, 2 tập, Trần Văn Giáp dịch. Nxb. Văn hóa, H. 1961, tập 1, tr.43.

(10) Dùng điển trong sách Luận ngữ, Khổng Tử thấy con là Bá Ngư (Khổng Lý) đi qua sân, bảo cần phải học Kinh Thi và Kinh Lễ. Lê Quý Đôn là con Tiến sĩ Lê Trọng Thứ, ở đây, ý nói được cha dạy bảo.

(11) Lời Tựa của Lê Quý Đôn viết vào năm 1777 cho sách Kiến văn tiểu lục, trong Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1. Nxb. KHXH, H. 1977, tr.14.

(12) Lễ Thành phục: trong ngày tang lễ, khi người chết đã liệm rồi, người thân thuộc phải mặc đồ tang, gọi là "Thành phục".

(13) Ngữ văn Hán Nôm, tập 4. Nxb. KHXH, H. 2004, tr.499-504.

(14) Đại Việt sử ký tục biên. Nxb. KHXH, H. 1991, tr.263.

(15) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2: Kiến văn tiểu lục, Nxb. KHXH, H. 1977, tr.224.

(16) Chữ Mật (謐), còn có âm nữa là Bật, cho nên cũng có sách ghi tên ông là Trần Huy Bật.

(17) Các nhà khoa bảng Việt Nam. Ngô Đức Thọ (Chủ biên), Nxb. Văn học, H. 1993, tr.698.

(18) Chữ Thụ (澍?) còn có âm nữa là Chú, cho nên cũng có sách ghi tên ông là Trịnh Xuân Chú.

(19) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Sử học, H. 1961, tập 4, tr.96.

(20) Tiến triều: người không đỗ Tiến sĩ, nhưng được triều đình phong kiến sử dụng, bổ nhiệm như người đỗ Tiến sĩ, thì gọi là Tiến triều.

(21) Phan Huy Chú: Lịch triều hiến chương loại chí. Nxb. Sử học, tập 2, H. 1961, tr.70.

(22) Quế Đường thi tập (桂堂詩集): tập thơ đi sứ, Lê Quý Đôn tập hợp những bài thơ xướng họa của ông với các bạn thơ Việt Nam, Trung Quốc và Hàn Quốc. Hiện được lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội, ký hiệu A.576. Sự kiện gặp gỡ và xướng họa thơ giữa Lê Quý Đôn và các sứ thần Hàn Quốc được chép từ tờ 12b đến tờ 16a của Quế Đường thi tập.

(23) Shimizu Taro: Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc trọng tâm là chuyện xảy ra trong thế kỷ XVIIITạp chí Hán Nôm, số 3-2001.

(24) Shimizu Taro: Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc... Tạp chí Hán Nôm, số 3-2001.

(25) N. Niculin: Quan hệ văn học Việt Nam - Triều Tiên cuối thế kỷ XVI - giữa thế kỷ XVIIITạp chí Văn học, số 2-1987.

(26) Lê Quý Đôn (黎貴惇) - Quế Đường thi tập (桂堂詩集), ký hiệ A.576, tờ12b, Thưviệ Việ Nghiên cứ Hán Nôm, Hà Nộ,

(27) Anh tổ thực lục (英祖實錄›), quyển 118, mục tháng 3 năm Nhâm Thìn, đời Lý Anh Tổ (李英祖) năm thứ 48 (1768).

(28) Shimizu Taro: Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc... Tạp chí Hán Nôm, số 3-2001.

(29) Kiến văn tiểu lục, Viện Sử học dịch, H. 1977.

(30) Quần thư khảo biện đã được Trần Văn Quyền phiên dịch ra tiếng Việt, xuất bản tại Hà Nội năm 1995.

(31) Từ tờ 16b trở đi, bắt đầu ghi lại các bài thơ xướng họa giữa Lê Quý Đôn và viên quan bạn tống của Trung Quốc là Lễ bộ Viên Ngoại lang Tần Triều Hãn - 秦朝釬

(32) Chúng tôi xin kể tên các bài thơ xướng họa ấy dưới đây (do các bài thơ không có tiêu đề, nên rút 4 chữ đầu của câu 1, tạm làm tên bài):

A. THƠ XƯỚNG

CỦA LÊ QUÝ ĐÔN

B. THƠ HỌA

CỦA HỒNG KHẢI HY

C. THƠ HỌA

CỦA LÝ HUY TRUNG

1. Doanh hải Đông Nam...

2a. Dị bang hợp chí...

2b. Vĩ tài đoan đích...

(Cả hai bài 2a, 2b, Lê Quý Đôn đều gieo vần "phương": (方)

2a. Dị bang hợp chí diệc đồng phương.

2b. Vĩ tài đoan đích nhượng Đông phương.

Có lẽ vì thế, các vị sứ thần Triều Tiên chỉ họa, mỗi người 1 bài).

1. Nam kim mỹ giá...

2. Cao kỳ truyền phổ...

1. Tái ngoại nhân lai...

2. Phù sà diểu diểu...

Có thể đọc thêm:

- Trần Văn Giáp: Một số tư liệu về việc giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Triều Tiên, ký hiệu Thư viện Quốc gia Hà Nội: VVL005/70.

- Nguyễn Minh Tuân: Thêm bốn bài thơ xướng họa giữa Lê Quý Đôn với sứ thần Triều TiênTạp chí Hán Nôm, số 4-1994.

(33) Hàn Quốc: cũng là một tên khác có từ lâu đời của nước Triều Tiên. Trong bộ Thanh sử cảo (清史稿) - Quyển 526, có chép: "朝鮮又称韓國清初王朝鮮者李琿事明甚謹太祖天命四年琿遺其將姜宏立率師助明來侵...". (Nghĩa là: Triều Tiên còn gọi là Hàn Quốc. Thời kỳ đầu nhà Thanh, vua Triều Tiên là Lý Hồn thờ vương triều Minh rất cẩn thận. Vào niên hiệu Thiên Mệnh thứ tư, đời Thái Tổ [tức Nỗ Nhĩ Cáp Xích (1559-1626) - NMT], Hồn sai tướng Khương Hoằng Lập chỉ huy quân đội giúp nhà Minh sang xâm lược...).

(34) * 24 bộ Đoạn đại sử Trung Quốc (中國段代史), pho chính sử ấn hành từ thời Thanh, Càn Long gồm có: 1. Sử ký (史記›); 2. Hán thư (漢書); 3. Hậu Hán thư (后漢書); 4. Tam quốc chí (三國志); 5. Tấn thư (晋書); 6. Tống thư (宋書); 7. Nam Tề thư (南齊書); 8. Lương thư (梁書); 9. Trần thư (陳書); 10. Hậu Ngô thư (后魏書); 11. Bắc Tề thư (北齊書); 12. Chu thư (周書); 13. Tùy thư (隋書); 14. Nam sử (南史); 15. Bắc sử (北史); 16. Tân Đường thư (新唐書); 17. Tân Ngũ đại sử (新五代史); 18. Tống sử (宋史); 19. Liêu sử (辽史); 20. Kim sử (金史); 21. Nguyên sử (元史); 22. Minh sử (明史); 23. Cự Đường thư (舊唐書); 24. Cự Ngũ đại sử (舊五代史).

* Năm 1921, Từ Thế Xương, Đại Tổng thống Chính phủ Bắc Dương (trên danh nghĩa), thêm 1 bộ nữa thành Nhị thập ngũ sử (二十五史): 25. Tân Nguyên sử (新元史).

* Năm 1995, Chính phủ Trung Quốc thêm 1 bộ nữa thành Nhị thập lục sử (二十六史): 26. Thanh sử cảo (清史稿).

(35) Lê Quý Đôn: Vân đài loại ngữ (蕓臺類語) - nghĩa là: "Những lời nói thu thập được tại chốn Vân đài. "Vân đài" là nơi chứa sách, vì "Vân" là một loại cỏ thơm, đem để vào sách vở thì trừ được sâu mọt. Nxb. Văn hóa, H. 1961, tập 1, tr.116.

(36) Lê Quý Đôn toàn tập, tập 2: Kiến văn tiểu lục. Nxb. KHXH, H. 1977, tr.223-224.

(37) Lục nghệ: có hai thuyết:

A - chỉ: Lễ - Nhạc - Ngự - Xạ - Thư - Số (Sáu nghề).

B - chỉ: Thi - Thư - Lễ - Nhạc - Dịch - Xuân Thu (Sáu kinh).

(38) Tư Mã Thiên: Sử ký, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2003, tr.264.

(39) Nguyên văn là Lục tịch (六籍), chỉ Lục kinhThi - Thư - Lễ - Nhạc - Dịch - Xuân ThuKinh Nhạc đã bị Tần Thủy Hoàng đốt, chỉ còn Ngũ kinh. Ở đây để chỉ văn hóa Nho giáo nói chung.

(40) Cửu trù (九疇) nói tắt của 鴻範九疇Hồng phạm cửu trù (chín trù Hồng phạm) trong thiên Hồng phạm sách Kinh Thư. Thiên Hồng phạm (phạm trù to lớn) do Cơ Tử soạn có ý nhắc nhở Vũ Vương nhà Chu quan tâm sâu sắc đến công việc trị quốc yên dân. Cửu trù (9 phạm trù) là: 1. Ngũ hành: Thủy - Hỏa - Mộc - Kim - Thổ; 2. Kính dụng ngũ sự (Kính cẩn năm việc): Mạo (dung mạo), Ngôn (lời nói), Thị (nhìn ngắm), Thính (nghe ngóng), Tư (suy nghĩ); 3. Nông dụng bát chính (tám việc chính yếu): Thực (ăn uống), Hóa (lo giầu của cải), Tự (lo tế tự), Tư không (lo đất đai canh tác), Tư đồ (lo việc dạy dỗ), Tư khấu (lo việc hình phạt), Tân (lo việc tiếp khách quý), Sư (lo việc binh bị); 4. Hiệp dụng ngũ kỷ (năm kỷ yếu): Tuế (năm), Nguyệt (tháng), Nhật (ngày), Tinh thần (tinh tú), Lịch số (Lịch pháp); 5. Kiến dụng Hoàng cực (giữa đạo của vua); 6. Nghệ dụng tam đức (chăm lo ba đức): Chính trực (ngay thẳng), Cương khắc (cứng rắn), Nhu khắc (mềm dẻo); 7. Minh dụng kê nghi (khảo sát điều ngờ vực); 8. Niệm dụng thứ trưng (nghiệm rõ thời tiết); 9. Hưởng dụng ngũ phúc (5 điều phúc): Thọ - Phú - Khang ninh - Du hiếu đức - Khảo chung mệnh.

(41) Nguyên chú: nước Cao Ly (tên cũ của Hàn Quốc - NMT) nằm phía ngoài đất U - Yên, ở về tinh phận sao Cơ, sao Vỹ. Còn nước An Nam (tên cũ của nước Việt Nam - NMT) nằm ở phía ngoài đất Tần - Thục ở về tinh phận sao Đẩu, sao Quỷ. Là nói phía trên tương ứng với dư khí của thiên tinh.

(42) Bồng (蓬): là nói tắt Bồng Đảo, hay Bồng Doanh là nơi tiên ở, đây dùng để chỉ nước Hàn Quốc.

(43)  (瀘): là nói tắt Lô giang, một nhánh của Nhị Hà (tức sông Hồng), đây chỉ nước Việt Nam.

(44) Chữ 辰 vốn là chữ Thần. Vì bản Quế Đường thi tập A.576, được ấn hành vào triều Nguyễn, vì phải kỵ húy vua Tự Đức (1848 - 1883) là Nguyễn Phúc Thì (阮時) nên dùng chữ Thần 辰 thay cho chữ Thời 時

(45) Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Thời Thành Vương nhà Chu (1063 - 1026 TCN), nước Việt ta lần đầu tiên đi sang nhà Chu (không rõ vào đời Hùng Vương thứ mấy), xưng là Việt Thường Thị, hiến chim trĩ trắng. Chu Công nói: "Chính lệnh không ban đến thờ người quân tử, không coi là bề tôi của nước mình", rồi sai làm xe "Chỉ nam" đưa sứ giả về nước" (Toàn thư, sđd, tập 1, tr.134).

(46) Thành ngữ Việt Nam cũng có câu: "Có đi có lại mới toại lòng nhau", nghĩa lý tương tự như câu: "Đầu đào báo lý".

(47) Nguyên chú: nước Nam Việt lấy rêu biển làm thành giấy, đầu sợi tơ xiên nghiêng, nên gọi là "giấy Trắc Lý", nói ngoa lên là "giấy Trắc Ly" có nghĩa là giấy thiên về điều phúc, tốt lành (chữ 釐 Ly cú âm là Hi: phúc, tốt, cùng nghĩa với chữ 禧 Hy).

(48) Nguyên chú: nước Cao Ly có giấy Bạch Trụy, được dùng rộng rãi.

(49) Nguyên chú: Thái Bá mặc áo đội mũ cai trị công việc nước Ngô. Tôi dịch chữ Đoan ủy (端委) là mặc áo, đội mũ là căn cứ vào sách Từ nguyên (Bộ Lập) (Đoan Ủy: "Huyền đoan chi y; Ủy mạo chi quan dã. Tả truyện, Án Bình Trọng đoan ủy lập vu Hổ môn chi ngoại" (nghĩa là: đoan ủy: chỉ áo Huyền đoan và mũ Ủy mạo. Tả truyện chép: Án Bình Trọng (tức Án Anh, Tướng quốc nước Tề, thời Xuân Thu - NMT) mặc áo, đội mũ đứng ở phía ngoài Hổ môn). Ở đây chữ "đoan ủy" chỉ muốn nói về Y quan (mũ áo), tức sự văn minh, văn hóa.

(50) Nguyên chú: nước ta cũng có Cửu Trù của Cơ Tử vậy. Ở đây cũng chỉ muốn nói về văn minh cai trị đất nước.

(51) Lê Quý Đôn: Vân ®ài loại ngữ - Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 1961.

(52) Tương truyền: đương thời người ta truyền tụng câu nói này để ca ngợi học vấn uyên bác của Bảng nhãn Lê Quý Đôn./.

Nguyễn Minh Tường, PGS.TS. Viện sử học

Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Số 1(92) 2009, tr. 3-17, phiên bản trực tuyến.

20171030 Suetsugu sen e ma utsushi

Ảnh: Bức tranh Suetsugu sen e ma utsushi vẽ trên giấy (153cm x 186cm)

Từ tháng 4/2013 đến nay, với sự tài trợ của Quỹ Sumitomo Foundation (Nhật Bản), chúng tôi đã triển khai nghiên cứu đề tài Quan hệ giữa miền Trung Việt Nam với Nhật Bản từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVIII. Đề tài do TS. Trần Đức Anh Sơn (Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng) chủ trì nghiên cứu, với sự cộng tác của TS. Phan Hải Linh (Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội) và TS. Phan Thanh Hải (Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế).

Ngoài mục đích khoa học, nghiên cứu này còn nhằm tìm kiếm những tư liệu và hiện vật liên quan đến mối quan hệ về ngoại giao, thương mại, văn hóa… giữa miền Trung Việt Nam với Nhật Bản từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVIII, để xây dựng nội dung trưng bày tại Trung tâm giao lưu văn hóa Đà Nẵng – Nhật Bản.1

Trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, chúng tôi đã sang Nhật Bản hai lần để khảo sát và tìm kiếm các nguồn tư liệu và hiện vật liên quan đến đề tài, hiện đang lưu trữ tại Nhật Bản. Trong hai chuyến đi này, chúng tôi đã tiếp cận, khảo cứu và sao chụp nhiều tư liệu và hiện vật liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Những tư liệu và hiện vật này đang được trưng bày hoặc lưu giữ trong các thư viện, văn khố, bảo tàng, đền chùa… ở những tỉnh, thành phố của Nhật Bản mà chúng tôi đã đến khảo sát, nghiên cứu. Trong số đó, có nhiều tư liệu và hiện vật đã được Chính phủ Nhật Bản công nhận là Yuzo bunkazai (Tài sản văn hóa quan trọng) của quốc gia.

Tại hội thảo này, chúng tôi xin giới thiệu một số tư liệu và hiện vật liên quan đến mối quan hệ giao thương giữa Nhật Bản với vùng đất Đàng Trong2 của Việt Nam trong các thế kỷ XVI – XVIII. Đây là một phần nội dung trong đề tài nghiên cứu nói trên. Chúng tôi chọn các tư liệu và hiện vật phản ánh mối quan hệ giữa Nhật Bản với Đàng Trong trong các thế kỷ XVI – XVIII để giới thiệu tại hội thảo này vì đây là thời kỳ mà các hoạt động ngoại giao, thương mại và trao đổi văn hóa giữa Nhật Bản với Đàng Trong phát triển mạnh mẽ, được ghi nhận trong nhiều nguồn tư liệu thành văn, lưu lại nhiều “dấu tích” ở trên thực địa cũng như ở trong các bảo tàng tại Nhật Bản và Việt Nam.

Để tiện theo dõi, chúng tôi xin giới thiệu các tư liệu và hiện vật này theo 3 loại hình: văn bản, di vật khảo cổ và hiện vật bảo tàng.

II. Văn bản

Tư liệu thành văn thể hiện mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam trong lịch sử, đặc biệt là quan hệ giữa Nhật Bản với Đàng Trong, đã được nhiều học giả Nhật Bản và Việt Nam khảo cứu và công bố trong hàng chục năm qua. Trong tham luận này, chúng tôi chỉ giới thiệu những văn bản mà chúng tôi trực tiếp tiếp cận và khảo cứu trong hai chuyến đi khảo sát và tìm kiếm tư liệu ở Nhật Bản vừa qua. Đó là những tư liệu đang lưu trữ tại các thư viện, văn khố, bảo tàng… như: Toyo Bunko (Đông Dương văn khố), Thư viện Đại học Tokyo, Thư viện Đại học Keio, Thư viện Đại học nữ Showa, Thư viện Đại học Kansai, Bảo tàng Quốc gia Kyushu, Bảo tàng Lịch sử và văn hóa Nagasaki…

Trong các văn bản mà chúng tôi đã tiếp cận và khảo cứu, đáng chú ý là các văn bản sau:

  1. Sưu tập gồm 9 văn thư do các chúa Nguyễn và các quan cai trị ở Dinh trấn Quảng Nam gửi cho chính quyền Nhật Bản, ghi nhận việc bang giao và trao đổi thương mại giữa hai nước. Những văn thư này được viết vào các năm: 1591, 1609, 1610 (2 văn thư), 1611, 1624 (2 văn thư), 1672 (2 văn thư) (Ảnh 1a-1f). Trong số đó, đáng chú ý là văn thư đề năm Quang Hưng thứ 14 (1591) do An Nam quốc Phó đô đường Phúc Nghĩa hầu, họ Nguyễn, gửi cho quốc vương Nhật Bản đề nghị thiết lập quan hệ bang giao với An Nam quốc (Đàng Trong). Đây là văn thư do chính quyền Đàng Trong gửi cho chính quyền Nhật Bản có niên đại sớm nhất được phát hiện từ trước đến nay.3
  2. Sưu tập gồm 4 shuin-jo (châu ấn trạng), là những văn bản do chính quyền Mạc phủ cấp vào các năm 1604 (2 tờ), 1605 và 1614, cho phép các thuyền buôn Nhật Bản đến buôn bán với Đàng Trong vào đầu thế kỷ XVII (Ảnh 2a-2b).4
  3. Sưu tập gồm 2 bản giao kèo về việc thu mua hàng hóa cho các thuyền buôn Nhật Bản, do các thương nhân người Nhật ký kết với các đầu mối người Đàng Trong vào các năm 1617 và 1633 (Ảnh 3).5
  4. Tờ danh mục các quà tặng của chính quyền Đàng Trong gửi chính quyền Nhật Bản vào năm 1632 (Ảnh 4).6
  5. Sưu tập gồm 4 bức thư có niên đại vào thế kỷ XVII, là thư từ của dòng họ Kadoya, một dòng họ doanh nhân nổi tiếng ở Nhật Bản vào thời kỳ Edo. Đây là thư từ trao đổi của các thành viên trong dòng họ này liên quan đến hoạt động buôn bán giữa Nhật Bản với Đàng Trong trong hai thế kỷ XVI – XVII (Ảnh 5).7
  6. Các bản chép tay tác phẩm Annan kiryakugo (安南紀略藁) của Kondo Juzo, một quan chức của Mạc phủ Tokugawa, biên soạn trong các năm 1795 – 1797. Annan kiryakugo là tác phẩm viết bằng chữ Hán và chữ Nhật, ghi chép lịch sử, phong tục, văn hóa ở Đàng Trong dựa trên lời kể của những người Nhật Bản từng đến Đàng Trong trong các thế kỷ XVI – XVIII, trong đó có đoạn viết về voi ở Quảng Nam thông qua lời kể của các quản tượng người Quảng Nam sau sự kiện tướng quân Tokugawa Yoshimune mua 2 con voi ở Quảng Nam đưa về Nhật Bản vào năm 1728.8

Nhiều thư viện và văn khố ở Nhật Bản hiện đang lưu trữ các bản chép tay khác nhau tác phẩm Annan kiryakugo của Kondo Juzo. Nhờ sự giúp đỡ của GS. Shimao Minoru (Đại học Keio), chúng tôi đã tiếp cận được các bản sau:

– Bản có tên là Annan kiryaku (安南紀略), gồm 3 cuốn, đang lưu trữ tại Kokuritsu kobun shukan (Ảnh 6).

– Hai bản khác nhau đều có tên là Annan kiryakugo (安南紀略藁), mỗi bản gồm gồm 2 cuốn, đang lưu trữ tại Thư viện Đại học Keio (Ảnh 7a-7d).

– Bản có tên là Annan kiryaku (安南紀略), gồm 2 cuốn, thuộc sở hữu của GS. Shimao Minoru (Ảnh 8a-8c).

Cả 4 bản này đều có niên đại vào năm 1797.

  1. Bộ tranh màu gồm 8 bức tranh miêu tả về trang phục, thuyền bè, công cụ lao động, các loại vũ khí và cảnh quan sinh hoạt của người dân Đàng Trong, đang lưu trữ tại Toyo Bunko. Đây là bộ tranh minh họa cho tác phẩm Annan kiryakugo của Kondo Juzo. Theo khảo cứu của GS. Shimao Minoru, bộ tranh màu này do một người tên là Lý Nghĩa vẽ vào năm 1817. Ngoài bộ tranh màu ở Toyo Bunko, tại Phòng tư liệu của Đại học Tokyo cũng đang lưu trữ một bộ tranh vẽ bằng mực đen trên giấy dó, đôi chỗ có tô màu đỏ, cũng là tranh minh họa cho tác phẩm Annan kiryakugo. Bộ tranh này được cho là được vẽ cùng thời điểm Kondo Juzo viết Annan kiryakugo (khoảng năm 1795 – 1797), sớm hơn bộ tranh màu đang lưu trữ ở Toyo Bunko. Nội dung miêu tả và số lượng tranh trên hai bộ tranh này giống nhau, nhưng kích thước, màu sắc, chi tiết hoa văn trang trí, lời chú giải trên các bức tranh này có sự khác biệt đáng kể…9
  2. Các bản chép tay tác phẩm Annan hyoryu ki (安南漂流記), kể về những ngư dân ở tỉnh Mito, trong quá trình đi biển đã bị phiêu dạt đến Đàng Trong vào năm 1765. Họ đã lưu lại nơi đây một thời gian, đến năm 1767 thì trở về Nhật Bản theo hành trình từ Đàng Trong đi đến Quảng Châu, rồi Triết Giang (Trung Quốc), sau đó đi thuyền trở về Nagasaki (Nhật Bản).10 Chúng tôi đã tiếp cận 8 bản chép tay tác phẩm Annan hyoryu ki, có niên đại vào khoảng thế kỷ XVIII – XIX, với các nhan đề khác nhau như: Annan ki (安南記), Annankoku hyoryo ki (安南国漂流記), Annankoku hyoryu shi (安南国漂流誌), Nan pyo ki (南 瓢 記), gồm 5 bản thuộc sở hữu của GS. Shimao Minoru và 3 bản thuộc sở hữu của GS. Kikuchi Seiichi (Đại học nữ Showa) (Ảnh 9a-9i).

II. Di vật khảo cổ

Ngoài việc tiếp cận và khảo cứu các tư liệu thành văn, chúng tôi còn đi tới các trung tâm khảo cổ học ở các thành phố: Sakai (tỉnh Osaka), Naha (tỉnh Okinawa), Fukuoka (tỉnh Fukuoka) và Nagasaki (tỉnh Nagasaki)…; trực tiếp đến các di tích Nakijin-jo và Shuri-jo ở Okinawa để tìm hiểu các di vật khảo cổ có liên quan đến mối quan hệ giao lưu giữa Nhật Bản với Việt Nam. Những di vật này được khai quật tại các cảng thị và thành lũy cổ của Nhật Bản. Phần lớn những hiện vật này là đồ gồm sứ, bao gồm gốm Champa, gốm Phước Tích (tỉnh Thừa Thiên Huế), gốm Thanh Hà (tỉnh Quảng Nam), gốm Gò Sành (tỉnh Bình Định)… đến từ Đàng Trong, gốm Chu Đậu (tỉnh Hải Dương), gốm Thăng Long đến từ Đàng Ngoài… Cụ thể như sau:

  1. Tại thành phố Sakai

Sakai từng là một thương cảng sầm uất ở vùng Kansai của Nhật Bản, là tiền cảng của Osaka, là một thương trạm quan trọng trong các luồng hải thương giữa Nhật Bản với Triều Tiên, Trung Quốc, các nước Đông Nam Á… Từ thế kỷ XV, nhiều thương thuyền của Nhật Bản từ Sakai đã tỏa đi buôn bán với các nước trong khu vực Đông Bắc Á và Đông Nam Á. Tàu buôn của Trung Quốc và Triều Tiên cũng thường xuyên cập cảng Sakai.

Trong những năm qua, các nhà khảo cổ học thuộc Trung tâm Khảo cổ học thành phố Sakai đã khai quật nhiều địa điểm khác nhau trong khu vực cảng cổ của thành phố Sakai. Họ đã tìm thấy nhiều đồ gốm cổ có xuất xứ từ Việt Nam, xen lẫn giữa đồ gốm Trung Quốc và đồ gốm Nhật Bản trong các di chỉ này. Đồ gốm Việt Nam tìm thấy ở Sakai có một ít đồ gốm hoa lam xuất xứ từ Đàng Ngoài, niên đại khoảng thế kỷ XV – XVI. Ngoài ra còn có một số bình, lọ thuộc dòng gốm mộc Champa (thế kỷ XV), một số đồ gốm men nâu thuộc các dòng gốm Gò Sành (tỉnh Bình Định) và gốm Phước Tích (tỉnh Thừa Thiên Huế) vào thế kỷ XVII – XVIII (Ảnh 10a-10b). Đây là những bằng chứng chứng tỏ đồ gốm Đàng Trong đã từng được nhập khẩu vào Sakai trong các thế kỷ XVI – XVIII.

  1. Tại tỉnh Okinawa

Okinawa ngày nay là lãnh địa của vương quốc Ryukyu xưa. Từ giữa thế kỷ XIV, Ryukyu đã giao lưu buôn bán với các nước trong khu vực. Sang thế kỷ XV thì quan hệ hải thương này đã phát triển mạnh mẽ (Ảnh 11). Theo một báo cáo kết quả nghiên cứu và khai quật khảo cổ học do Trung tâm Khảo cổ học tỉnh Okinawa cung cấp cho chúng tôi11, từ năm 1419 đến năm 1570, Ryukyu đã phái 116 thương thuyền đi đến các hải cảng ở khu vực Đông Nam Á để giao thương, gồm: Siam và Patani (Thái Lan); An Nam (Việt Nam); Malacca (Malaysia); Palembang, Sumatra, Java và Sunda (Indonesia). Phần lớn các thương thuyền này đi đến các cảng thuộc Thái Lan và Indonesia, chỉ có 1 thương thuyền của Ryukyu cập cảng An Nam vào năm 1509. Cũng theo báo cáo này, những thương thuyền này đã mua nhiều hàng hóa từ các nước Đông Nam Á đưa về Ryukyu, nhiều nhất là đồ gốm sứ. Kết quả khai quật di tích Kyonouchi Utaki trong thành Shuji-jo ở Okinawa (Ảnh 12) trong những năm qua đã phát hiện hàng ngàn di vật gốm sứ có xuất xứ từ lục địa Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Trong đó, gốm sứ Việt Nam khá đa dạng, gốm hoa lam của Chu Đậu… niên đại khoảng thế kỷ XV, gồm gốm men ngọc, gốm men trắng và men nâu của Gò Sành niên đại khoảng thế kỷ XVI. (Các ảnh 13a-13e).

Ngoài ra, tại di tích Nakijin-jo ở phía bắc đảo Okinawa (Ảnh 14), các nhà khảo cổ học Nhật Bản cũng khai quật được một số đồ gốm Việt Nam như gốm hoa lam Chu Đậu và gốm men ngọc, niên đại khoảng thế kỷ XV – XVI (Ảnh 15a-15d).

  1. Tại thành phố Fukuoka

Fukuoka là thủ phủ của dòng đồ gốm Hizen nổi tiếng Nhật Bản. Tuy nhiên, đây cũng là nơi nhập khẩu nhiều đồ gốm từ các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam. Trong những năm qua, các nhà khảo cổ học tại Trung tâm Khảo cổ học thành phố Fukuoka đã khai quật nhiều địa điểm vốn là bến cảng cổ của Fukuoka, phát hiện nhiều đồ gốm Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam… Riêng đồ gốm Việt Nam, theo nhận định của chúng tôi khi tiếp cận các di vật đang bảo quản tại Trung tâm khảo cổ học Fukuoka, thì phần lớn là gốm Champa thế kỷ XV, gốm men ngọc và men trắng của dòng gốm Gò Sành (tỉnh Bình Định) và một ít đồ gốm hoa làm từ các lò gốm ở phía bắc Việt Nam, niên đại vào khoảng thế kỷ XVI (Ảnh 16a-16b).

  1. Tại thành phố Nagasaki

Nagasaki là hải cảng quan trọng nhất của Nhật Bản vào các thế kỷ XVI – XVIII, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử hải thương của Nhật Bản, là điểm giao thương nhộn nhịp nhất của “con đường gốm sứ”, “con đường tơ lụa” trên biển trong thời kỳ Đại thương mại của thế giới (thế kỷ XVI – XVII). Đây là nơi xuất dương chủ yếu của các thương thuyền Nhật Bản trong thời kỳ Edo, cũng là nơi đón nhận các tàu buôn đến từ khắp nơi trên thế giới (Ảnh 17). Dĩ nhiên, đồ gốm là một trong những mặt hàng quan trọng được các tàu buôn nhập khẩu và xuất khẩu qua hải cảng này.

Các nhà khảo cổ học ở Trung tâm Khảo cổ học thành phố Nagasaki đã khai quật nhiều địa điểm khác nhau trong thành phố cảng Nagasaki và họ đã tìm thấy nhiều đồ gốm Việt Nam trong các tầng văn hóa thuộc thời kỳ Edo, xen lẫn đồ gốm của Nhật Bản và Trung Quốc. Đồ gốm Việt Nam khai quật ở Nagasaki chủ yếu gốm hoa lam từ Đàng Ngoài với các loại bát, đĩa; gốm Champa với các loại hũ, lọ không tráng men; gốm men nâu và men trắng thuộc dòng gốm Gò Sành với các loại bát, chén uống trà… niên đại khoảng thế kỷ XVI – XVII (Ảnh 18)

Giải thích về sự xuất hiện của các đồ gốm Việt Nam, đặc biệt là gốm Đàng Trong tại các di tích khảo cổ ở Sakai, Okinawa, Dazaifu, Nagasaki… các nhà khảo cổ học Nhật Bản đều cho rằng đó là kết quả của hoạt động hải thương giữa Nhật Bản với Việt Nam trong các thế kỷ XV – XVIII, khi mà các thương thuyền Nhật Bản mở rộng mạng lưới buôn bán đến các nước trong khu vực. Đàng Trong Việt Nam lúc đó có hệ thống cảng thị ven biển phát triển, tiêu biểu là các cảng Thanh Hà (tỉnh Thừa Thiên Huế), Hội An (tỉnh Quảng Nam), Nước Mặn (tỉnh Bình Định) là những nơi đón các thuyền buôn Nhật Bản đến giao dịch, là nơi nhập khẩu hàng hóa Nhật Bản, trong đó có đồ sứ, đồng thời cũng là nơi xuất khẩu các dòng gốm Champa, Phước Tích, Thanh Hà, Gò Sành… sang Nhật Bản. Đây chính là những bằng chứng sống động cho quan hệ giao thương giữa Nhật Bản với Đàng Trong trong các thế kỷ XV – XVIII.

III. Hiện vật bảo tàng

Một trong những hoạt động thu được nhiều kết quả nhất trong hai chuyến đi nghiên cứu và khảo sát của chúng tôi ở Nhật Bản trong năm nay là tìm hiểu, tiếp cận và khảo cứu các hiện vật phản ánh mối quan hệ giữa Nhật Bản với Đàng Trong hiện đang trưng bày và bảo quản trong các bảo tàng, mỹ thuật quán, đền thờ, chùa chiền… ở Nhật Bản. Chúng tôi đã may mắn tiếp cận được nhiều hiện vật quý hiếm, trong đó có những hiện vật đã được công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng (Yuzo bunkazai) của Nhật Bản. Tiêu biểu là các hiện vật sau:

  1. Bức tranh Thác kiến Quan Thế Âm Bồ Tát tượng (滝見観世音菩薩像), thế kỷ XVII (Ảnh 19). Bức tranh này vốn từ chùa Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, đã được chúa Nguyễn trao tặng cho thương nhân dòng họ Chaya, một dòng họ thương nhân nổi tiếng của Nhật Bản vào thời kỳ Edo từng sang làm ăn buôn bán ở Đàng Trong, nhằm ghi nhận những đóng góp của dòng họ này với quan hệ giao thương Nhật – Việt thời chúa Nguyễn. Bức tranh này hiện đang được thờ ở chùa Jomyo-ji (thành phố Nagoya, tỉnh Aichi).
  2. Tranh cuộn Chaya Shinroku Kochi toko zukan (71,8cm x 511,8cm), thế kỷ XVII. Bức tranh miêu tả hành trình vượt biển của thương thuyền thuộc dòng họ Chaya từ Nagasaki đến Giao Chỉ (tức Đàng Trong) để giao thương (Các ảnh: 20a-20d). Bức tranh này hiện đang được bảo quản ở chùa Jomyo-ji và được công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của tỉnh Aichi.
  3. Tranh cuộn Shuin-sen Kochi toko zukan (32,8cm x 1100,7cm), cuối thế kỷ XVII – đầu thế kỷ XVIII. Bức tranh này miêu tả hành trình của thương thuyền Nhật Bản vượt biển sang buôn bán với xứ Đàng Trong, bắt đầu từ cảng Nagasaki, vượt muôn trùng khơi, đi qua Cù Lao Chàm, vào cảng Hội An để giao dịch, mua bán. Sau đó, thương thuyền lên đường đến Đô thành Phú Xuân để diện kiến chúa Nguyễn và dâng quà tặng (Các ảnh: 21a-21d). Bức tranh này hiện đang được bảo quản tại Bảo tàng Quốc gia Kyushu (thành phố Dazaifu, tỉnh Fukuoka) và được công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của Nhật Bản.
  4. Chiếc gương soi khung gỗ (38,6cm x 34,5cm), đặt trong chiếc hộp sơn mài thếp vàng, thế kỷ XVII (Ảnh 22a-22b). Đây là kỷ vật của quận chúa Anio, vợ của thương nhân người Nhật Araki Sotaro, mang từ Việt Nam sang để dùng trong thời gian bà sống ở Nhật Bản. Quận chúa Anio có lẽ là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên sang làm dâu xứ Phù Tang. Một số nhà nghiên cứu ở Pháp (Doumoutier) và Việt Nam (Lê Nguyễn Lưu và Nguyễn Đắc Xuân)12 cho rằng quận chúa Anio là con gái của chúa Nguyễn Phúc Nguyên (cầm quyền từ năm 1613 đến năm 1635), được chúa Nguyễn gả cho thương nhân Araki Sotaro, người được chúa Nguyễn ban cho tên Việt Nam là Nguyễn Đại Lương.13 Chiếc gương này thuộc sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Văn hóa Nagaski.
  5. Bức tranh cuộn Kiyo Suwa Myojin saishiju (36,1cm x 1003cm), thế kỷ XIX, Bức tranh miêu tả lễ hội Suwa Myojin ở Nagasaki tôn vinh quận chúa Anio, vợ của thương nhân Araki Shotaro, đang ngồi trong một chiếc xe kiệu có đoàn tùy tùng theo hầu. (Ảnh 23). Bức tranh này thuộc sở hữu của Thư viện Nakanoshima ở Osaka.
  6. Bức tranh Annan to kaisen gaku vẽ trên gỗ (68,7cm x 79,8cm) do họa sĩ Hisikawa Magobei vẽ năm 1647, miêu tả thương thuyền Nhật Bản đến mua bán với Đàng Trong vào thế kỷ XVII (Ảnh 24). Bức tranh hiện đang được lưu giữ tại đền Himure Hachimangu ở tỉnh Shiga và được Chính phủ Nhật Bản công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của quốc gia.
  7. Bức tranh Suetsugu sen e ma utsushi vẽ trên giấy (153cm x 186cm), niên đại vào thế kỷ XIX, miêu tả thương thuyền shuin-sen. Trên bức tranh này có ghi tên 16 thương nhân Nhật Bản từng đến buôn bán ở Hội An vào thế kỷ XVII. (Ảnh 25a-25c). Bức tranh này thuộc sở hữu của Bảo tàng Lịch sử Văn hóa Nagasaki.
  8. Tranh cuộn Yonoe maki mono (487cm x 27,5cm) do họa sĩ Nhật Bản Ogata Tanko vẽ vào thế kỷ XIX. Tranh miêu tả hai con voi được Tướng quân Tokugawa Yoshimune (1684 – 1751) mua từ Quảng Nam đưa về Nhật Bản vào năm 1728 và được đưa vào Hoàng cung Kyoto “yết kiến” Thiên hoàng Nakamikado (1701 – 1737) và Pháp hoàng Reigen (1654 – 1732) vào năm 1729 (Các ảnh: 26a-26d). Bức tranh này hiện đang lưu trữ tại Thư viện Đại học Kansai.
  9. Bức tranh màu vẽ voi, thế kỷ XIX. Tranh miêu tả một trong hai con voi được Tướng quân Tokugawa Yoshimune mua từ Quảng Nam đưa về Nhật Bản vào năm 1728 (Ảnh 27). Bức tranh này hiện đang lưu trữ tại Thư viện Đại học Kansai.

Ngoài ra, tại Thư viện Đại học Kansai còn lưu giữ một số tranh và bản phác họa miêu tả hai con voi ở Quảng Nam được bán sang Nhật Bản vào năm 1728 và những ghi chép về “hành trạng” của hai con voi này trên đất Nhật Bản, kể từ lúc voi cập cảng Nagasaki, hành trình đưa voi đến Kyoto và Edo để “yết kiến” Tướng quân Tokugawa Yoshimune, Thiên hoàng Nakamikado và Pháp hoàng Reigen.

Trên đây là những tư liệu và hiện vật phản ánh mối quan hệ bang giao, thương mại và giao lưu văn hóa giữa Nhật Bản với Đàng Trong trong các thế kỷ XVI – XVIII mà chúng tôi đã tiếp cận và khảo sát trong thời gian thực hiện đề tài Quan hệ giữa miền Trung Việt Nam với Nhật Bản từ thế kỷ VIII đến thế kỷ XVIII. Những tư liệu, hiện vật này đã được các nhà nghiên cứu Nhật Bản và Việt Nam khảo cứu và công bố trong nhiều công trình nghiên cứu trước đây, cũng như đã được đưa ra trưng bày ở một vài cuộc triển lãm ở Nhật Bản, đặc biệt là cuộc triển lãm The Great Story of Vietnam do Bảo tàng Quốc gia Kyushu thực hiện từ ngày 14/6 đến ngày 6/9/2013. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tư liệu và hiện vật đang được lưu trữ rất nghiêm ngặt trong các thư viện, văn khố, hoặc được thờ tự ở những nơi tôn nghiêm nên ít người có cơ hội tiếp cận và khảo cứu. Nhờ cơ duyên, chúng tôi có cơ hội tiếp cận với các tư liệu và hiện vật này nên tập hợp thông tin, hình ảnh và sắp xếp thành một chủ đề nhất định để giới thiệu với những ai quan tâm tại hội thảo này.

Đây chỉ là bước giới thiệu khái quát ban đầu, chúng tôi sẽ tiếp tục biên dịch và khảo cứu các tư liệu và hiện vật này, với hy vọng góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề liên quan đến mối quan hệ đặc biệt giữa Nhật Bản với Đàng Trong trong các thời kỳ lịch sử trước đây. Rất mong nhận được ý kiến chỉ giáo của các học giả và những người quan tâm. Trân trọng cảm ơn.

T.Đ.A.S.

Chú thích

1 Trung tâm giao lưu văn hóa Đà Nẵng – Nhật Bản do UBND thành phố Đà Nẵng và Trung tâm xúc tiến giao lưu Việt – Nhật tại Đà Nẵng (NPO) đang xúc tiến xây dựng tại quận Ngũ Hành Sơn, thành phố Đà Nẵng. Dự kiến đến cuối năm 2016, Trung tâm này sẽ chính thức đi vào hoạt động.

2 Vùng đất Đàng Trong thời kỳ này được người Nhật gọi bằng nhiều tên khác nhau như: Kochi (Giao Chỉ), Annan (An Nam), Koonan (Quảng Nam)…

3, 4 Văn bản này hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Quốc gia Kyushu, tỉnh Fukuoka.

5 Văn bản này hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng thành phố Fukuoka, được đưa ra trưng bày trong cuộc triển lãm The Great Story of Vietnam do Bảo tàng Quốc gia Kyushu thực hiện từ ngày 14/6 đến ngày 6/9/2013.

6 Văn bản này công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của Nhật Bản, được đưa ra trưng bày trong cuộc triển lãm The Great Story of Vietnam do Bảo tàng Quốc gia Kyushu thực hiện từ ngày 14/6 đến ngày 6/9/2013.

7 Văn bản này hiện đang lưu trữ tại Bảo tàng thần cung Jinggu, được công nhận là Tài sản văn hóa quan trọng của Nhật Bản. Văn bản này cũng đã được trưng bày trong cuộc triển lãm The Great Story of Vietnam do Bảo tàng Quốc gia Kyushu thực hiện từ ngày 14/6 đến ngày 6/9/2013.

8 Xem thêm: Phan Hải Linh, “Voi Quảng Nam của Tướng quân Tokugawa Yoshimune”. Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng. Số 30. Tháng 6/2012, 39-48.

9 Ngoài bộ tranh màu đang lưu trữ ở Toyo Bunko, còn có một bộ tranh màu tương tự, có tên là An Nam quốc giang phiêu lưu phong tục hồng sinh đồ đang lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Đài Loan ở Đài Bắc. Hai bộ tranh này tuy giống nhau về số lượng tranh và nội dung miêu tả trên từng bức tranh nhưng chú thích trên những bức này lại khác nhau.

10 Những người này cũng đã kể câu chuyện phiêu dạt của họ và những điều mắt thấy tai nghe ở Đàng Trong cho một người tên là Nagakubo Sekishui để ông này viết thành cuốn Nagasaki kooeki nikki (長崎行役日記).

11 Báo cáo vắn tắt kết quả khai quật di tích Shuri-jo, 13 trang, viết bằng tiếng Nhật, có phụ chú bằng tiếng Anh, do ông Kinjou Kamenobu, nghiên cứu viên tại Trung tâm Khảo cổ học Okinawa cung cấp cho chúng tôi, không có nhan đề và năm xuất bản.

12 Xem thêm: Lê Nguyễn Lưu, Văn hóa Huế xưa – Đời sống văn hóa cung đình, (Huế: Thuận Hóa, 2006); Nguyễn Đắc Xuân, “Bà quận chúa làm dâu Nhật Bản”, Chuyện quý bà giữa đời thường và trong cung cấm, (Hà Nội: Phụ nữ, 2011), 122-123.

13 Trong khi các nguồn sử liệu Việt Nam hầu như không đề cập đến nhân vật này thì tông tích, hành trạng và hình ảnh của bà xuất hiện khá nhiều trong sử liệu Nhật Bản. Khi sống ở Nhật Bản, bà được người dân bản xứ tin yêu, kính trọng. Sau khi mất, bà được lập đền thờ và hàng năm người Nhật đều tổ chức lễ hội Suwa Myojin ở Nagasaki để tưởng nhớ và tôn vinh bà. Một bản gia phả của dòng họ Araki cũng được trưng bày trong triển lãm, trong đó có phần viết về thân thế, sự nghiệp thương nhân Araki Sotaro và những đóng góp của ông trong việc xây dựng mối quan hệ hữu hảo giữa Nhật Bản với Đàng Trong, cũng như những tình cảm tốt đẹp mà người Nhật đã dành cho bà vợ Việt Nam của ông sau khi bà đến làm dâu trên đất Nhật.

 Tài liệu tham khảo

  1. Kyushu National Museum. 2013. The Great Story of Vietnam. Kyushu: TVQ Kyushu Broadcasting Co., Ltd. and The Nishi Nippon Shimbun Co., Ltd.
  2. Kikuchi Seiichi. 2012. “The 17th century maritime map of Jiaozhi bound junk ships: Archaeological investigation in Hoi An”, Conference on Nguyen Vietnam: 1558-1885, Hong Kong Chinese University, May 10th-12th 2012.
  3. Phan Hải Linh. 2012. “Voi Quảng Nam của Tướng quân Tokugawa Yoshimune”. Phát triển Kinh tế – Xã hội Đà Nẵng. Số 30. Tháng 6/2012, 39-48.
  4. 4. Báo cáo vắn tắt kết quả khai quật di tích Shuri-jo, viết bằng tiếng Nhật và tiếng Anh, do ông Kinjou Kamenobu, nghiên cứu viên tại Trung tâm Khảo cổ học Okinawa cung cấp, không có nhan đề và năm xuất bản, 13 trang.
  5. Lê Nguyễn Lưu. 2006. Văn hóa Huế xưa – Đời sống văn hóa cung đình. Huế: Thuận Hóa.
  6. Nguyễn Đắc Xuân. 2011. Chuyện quý bà giữa đời thường và trong cung cấm. Hà Nội: Phụ nữ.
    Ảnh 1a

    Ảnh 1a

    Ảnh 1b

    Ảnh 1b

    Ảnh 1c

    Ảnh 1c

    Ảnh 1d

    Ảnh 1d

    Ảnh 1e

    Ảnh 1e

    Ảnh 01f

    Ảnh 01f

    Ảnh 2a

    Ảnh 2a

    Ảnh 2b

    Ảnh 2b

    Ảnh 3

    Ảnh 3

    Ảnh 4

    Ảnh 4

    Ảnh 5

    Ảnh 5

    Ảnh 6

    Ảnh 6

    Ảnh 7a

    Ảnh 7a

    Ảnh 7b

    Ảnh 7b

    Ảnh 7c

    Ảnh 7c

    Ảnh 7d

    Ảnh 7d

    Ảnh 8a

    Ảnh 8a

    Ảnh 8b

    Ảnh 8b

    Ảnh 8c

    Ảnh 8c

    Ảnh 9a

    Ảnh 9a

    Ảnh 9b

    Ảnh 9b

    Ảnh 9c

    Ảnh 9c

    Ảnh 9c

    Ảnh 9c

    Ảnh 9d

    Ảnh 9d

    Ảnh 9e

    Ảnh 9e

    Ảnh 9f

    Ảnh 9f

    Ảnh 9g

    Ảnh 9g

    TDAS - Anh 09i

    Ảnh 9h

    Ảnh 9h

    Ảnh 9i

    Ảnh 9i

    Ảnh 10a

    Ảnh 10a

    Ảnh 10b

    Ảnh 10b

    Ảnh 11

    Ảnh 11

    Ảnh 12

    Ảnh 12

    Ảnh 13a

    Ảnh 13a

    Ảnh 13b

    Ảnh 13b

    Ảnh 13c

    Ảnh 13c

    Ảnh 13d

    Ảnh 13d

    Ảnh 13e

    Ảnh 13e

    Ảnh 14

    Ảnh 14

    Ảnh 15a

    Ảnh 15a

    Ảnh 15b

    Ảnh 15b

    Ảnh 15c

    Ảnh 15c

    Ảnh 16a

    Ảnh 16a

    Ảnh 16b

    Ảnh 16b

    Ảnh 17

    Ảnh 17

    Ảnh 18

    Ảnh 18

    Ảnh 19

    Ảnh 19

    Ảnh 20a

    Ảnh 20a

    Ảnh 20b

    Ảnh 20b

    Ảnh 20c

    Ảnh 20c

    Ảnh 20d

    Ảnh 20d

    Ảnh 21a

    Ảnh 21a

    Ảnh 21b

    Ảnh 21b

    Ảnh 21c

    Ảnh 21c

    Ảnh 21d

    Ảnh 21d

    Ảnh 22a

    Ảnh 22a

    Ảnh 22b

    Ảnh 22b

    Ảnh 23

    Ảnh 23

    Ảnh 24

    Ảnh 24

    Ảnh 25a

    Ảnh 25a

    Ảnh 25b

    Ảnh 25b

    Ảnh 25c

    Ảnh 25c

    Ảnh 26a

    Ảnh 26a

    Ảnh 26b

    Ảnh 26b

    Ảnh 26c

    Ảnh 26c

    Ảnh 26d

    Ảnh 26d

20180524 moc duong

Sách: “Khuyển Dưỡng Mộc Đường truyện” (Inukai Bokudo Den)

Phan Bội Châu là một trong những nhà lãnh đạo tiêu biểu của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Trong cuộc đời của mình, ông đã có 4 năm hoạt động ở Nhật Bản (1905-1909). Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ông đã phát động được phong trào Đông Du nổi tiếng, đã trước tác một khối lượng lớn các tác phẩm văn thơ yêu nước, đã tiếp xúc với nhiều chính khách lớn của Nhật, đã giao lưu liên kết với các nhà trí thức, các nhà hoạt động dân tộc châu Á.

Cuộc đời hoạt động và những nghiệp tích của Phan Bội Châu được các học giả người Nhật quan tâm nghiên cứu. Nếu tính theo số lượng sách báo nghiên cứu đã công bố, các tác phẩm nghệ thuật được công chiếu, những sự kiện liên quan đến Phan Bội Châu được đưa vào đề thi môn lịch sử thì có lẽ ông là nhân vật lịch sử người Việt Nam được quan tâm tìm hiểu nhiều nhất ở Nhật Bản.

1. Nghiên cứu về Phan Bội Châu  ở Nhật Bản từ đầu thế kỷ XX đến thập niên 1970

Sự quan tâm tìm hiểu giới thiệu về những hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật Bản đã có từ những năm 1930. Tài liệu giới thiệu về Phan Bội Châu sớm nhất ở Nhật Bản là “Truyện các chí sĩ tiên phong Đông Á” (To A Senkaku Shishi Den) do Hắc Long hội (Kokuryukai) biên tập và được xuất bản năm 1935[1]. Trong cuốn sách này, các tác giả đã khắc họa lại chân dung Phan Bội Châu như là lãnh tụ của phong trào dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX và đặc biệt, đã giới thiệu khá chi tiết các hoạt động của Phan Bội Châu và các đồng chí của ông ở Nhật Bản.

Sau đó đó ít lâu, vào năm 1938, Tòa soạn báo Kinh tế Đông phương (Toyo Keizai Shimbun) đã cho xuất bản tập truyện ký về Inukai Tsuyoshi (Khuyển Dưỡng Nghị), một chính trị gia tầm cỡ của Nhật, người đã có công to lớn trong việc giúp đỡ Phan Bội Châu và các chiến sĩ Đông Du, nhan đề “Khuyển Dưỡng Mộc Đường truyện” (Inukai Bokudo Den)[2] trong đó đã giới thiệu khá đầy đủ về hoạt động của Phan Bội Châu ở Nhật và hoạt động giúp đỡ thiết thực của Inukai Tsuyoshi đối với Phan Bội Châu và các đồng chí của ông.

Những bài viết giới thiệu về Phan Bội Châu và hoạt động của ông ở Nhật Bản là của những trí thức Nhật Bản theo tư tưởng “châu Á chủ nghĩa” (Ajia Shugi). Những nhà trí thức theo tư tưởng này cổ vũ cho tư tưởng và phong trào liên kết các dân tộc châu Á chống lại sự bành trướng và nô dịch của các cường quốc phương Tây đối với châu Á. Họ sưu tầm, nghiên cứu và công bố các ghi chép về phong trào dân tộc châu Á, chú trọng đến các lãnh tụ phong trào này và hoạt động liên kết giữa các nhà chính trị, các nhà hoạt động xã hội Nhật Bản với các nhà dân tộc chủ nghĩa châu Á. Trong hai công trình mà chúng tôi giới thiệu trên, Phan Bội Châu của Việt Nam được chú ý và giới thiệu chi tiết.

Trong những năm 1940, tuy việc nghiên cứu về Việt Nam nói riêng và Đông Dương thuộc Pháp nói chung, đã phát triển có tính chất “bùng nổ” ở Nhật Bản nhưng vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu sâu về nhân vật Phan Bội Châu cả. Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, việc nghiên cứu về Việt Nam sớm được khôi phục nhưng việc nghiên cứu về Phan Bội Châu vẫn chưa có tiến triển gì đáng kể.

Chỉ đến thập niên 1960, sự quan tâm nghiên cứu về Phan Bội Châu được gia tăng một cách đáng kể. Nếu phân chia một cách tổng quát thì có thể nói, nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản được tiếp cận từ hai trường phái lớn. Đó là trường phái “dân tộc giải phóng sử quan” (Minzoku Kaiho Shikan) và trường phái Đông phương học (Toyogakuha).

Trong bối cảnh phong trào giải phóng dân tộc bùng nổ mạnh mẽ vào những năm 1950 - 1960 trên thế giới và đặc biệt là cuộc chiến tranh Việt Nam, đã tác động mạnh mẽ đến xu hướng và quan niệm nghiên cứu của các học giả Nhật Bản.  Họ, ít nhiều, chịu ảnh hưởng quan niệm “dân tộc giải phóng sử quan” từ các nước châu Á. Năm 1961, Tanigawa Yoshihiko cho công bố bài báo “Phong trào dân tộc Việt Nam trước chiến tranh thế giới lần thứ I” (Dai Ichiji Sekai Taisenzen no Vetonamu Minzokushugi), trong đó, về Việt Nam, đã tập trung nghiên cứu về nhân vật Phan Bội Châu và hoạt động cách mạng của ông[3]. Năm 1976, Tanigawa còn trở lại nghiên cứu hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu trong một cuốn chuyên luận lớn hơn “Lịch sử của phong trào dân tộc ở Đông Nam Á” (Tonan Ajia Minzoku Kaiho Undo-shi)[4]. Về phong trào giải phóng dân tộc việt Nam, Tanikawa dựa các sách, báo của giới sử học miền Bắc được xuất bản bằng tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Anh để nghiên cứu, đánh giá về Phan Bội Châu nên quan điểm đánh giá giá về nhân vật này của ông gần giống với quan điểm của giới sử học miền Bắc Việt Nam.

Năm 1967, Terahiro Teruo, một nhà nghiên cứu phong trào dân tộc Trung Quốc, đã công bố bài viết đề cập đến hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu “Nhật Bản và Trung Quốc trong phong trào dân tộc Việt Nam thời sơ kỳ” (Etunan Shoki Minzoku Undo wo meguru Nihon to Chugoku)[5]. Terahiro đánh giá cao vai trò lãnh tụ dân tộc Phan Bội Châu và minh chứng rằng Nhật Bản và Trung Quốc có vai trò to lớn đối với phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo.

Đầu những năm 1970, ở Nhật Bản xuất hiện nhà nghiên cứu trẻ, nghiên cứu về Phan Bội Châu theo trường phái “dân tộc giải phóng sử quan”: Đó là Sakai Izumi.  Năm 1972, Sakai cho công bố bài viết quan trọng “Phong trào đấu tranh chống Pháp đầu thế kỷ 20 - Tư tưởng và hoạt động của Phan Bội Châu” (Betonamu ni okeru 20 Seki Shoto no Kofutsu Toso – Phan Boi Chau no Shiso to Katsudo), trên “Nguyệt san Nghiên cứu Á - Phi” (Gekkan Ajia-Afrika Kenkyu)[6]. Sakai Izumi đã tiếp cận sách, bài báo của giới sử học miền Bắc Việt Nam được dịch ra tiếng Trung, đã giới thiệu chi tiết sự chuyển biến tư tưởng và hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan điểm “dân tộc giải phóng sử quan” của giới sử học miền Bắc, Sakai cho rằng, mặc dầu Phan Bội Châu là một người lãnh đạo tiêu biểu của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX nhưng ông còn có hạn chế là không có quan điểm rõ ràng và sâu sắc về phản đế phản phong và vấn đề liên minh công nông.

Ngoài ra, vào những năm 1970, ở Nhật Bản, cũng có một công trình khác biên soạn theo trường phái “dân tộc giải phóng sử quan” là cuốn “Việt Nam trong lòng Nhật Bản” (Nihon no naka no Betonamu) của Goto Kimpei do Nhà xuất bản Sosh iete ấn hành vào năm 1979[7]. Goto tập trung trình bày về các hoạt động của lãnh tụ Phan Bội Châu ở Nhật và coi ông như lãnh tụ tiêu biểu của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX.

Trường phái thứ hai nghiên cứu và đánh giá Phan Bội Châu là trường phái Đông phương học (Toyogakuha). Trường phái Đông phương học Nhật Bản nghiên cứu về Việt Nam và các nhân vật lịch sử Việt Nam đều dựa vào nguồn tư liệu bằng chữ Hán. Họ khảo sát tỉ mỹ các tư liệu chữ Hán ở Việt Nam, Trung Quốc và các tài liệu chữ Nhật, phân tích, so sánh các nguồn tư liệu đó, dựng lại lịch sử và các nhân vật lịch sử Việt Nam một cách xác thực hơn. Tiêu biểu cho trường phái này là Kawamoto Kunie. Năm 1966, sau một thời gian khảo sát cẩn thận các nguồn tài liệu có ở Đông phương văn khố (Toyo Bunko), Ngoại giao sử liệu quán (Gaiko Shiryokan) của Nhật Bản cũng như các tài liệu của Trung Quốc, ông cùng với Nagaoka Shinjiro  đã dịch, biên tập và xuất bản trước tác quan trọng của Phan Bội Châu ra tiếng Nhật nhan đề “Việt Nam vong quốc sử và những bài khác” (Vetonamu Bokokushi Hoka)[8]. Trong cuốn sách đó, ngoài biên dịch các tác phẩm “Việt Nam vong quốc sử”, “Ngục trung ký” (Gyokuchuki), “Thiên hồ, Đế hồ!” (Tenka Teika), “Hải ngoại huyết thư Sơ biên” (Kaigai Kessho Shohen), Kawamoto còn viết “Tiểu sử Phan Bội Châu - Cuộc đời và thời đại của ông” (Han Bai Shu Shoshi - Sono Shogai to Jidai) và Nagaoka viết “Những người Việt Nam ở Nhật Bản” (Nihon Ni okeru Vetonamu no Hitobito). Trong các bài viết này, hai ôngđã cho công bố nhiều tư liệu mới và đưa ra những kiến giải mới về tư tưởng và hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu. Tuy đây chưa phải là công trình nghiên cứu căn bản về Phan Bội Châu nhưng nó lại có giá trị lớn, đánh dấu bước tiến mới trong việc nghiên cứu Phan Bội Châu ở Nhật Bản. Đây là lần đầu tiên, một số tác phẩm quan trong của Phan Bội Châu được dịch và công bố ở Nhật Bản. Cuốn sách này trở thành “sách gối đầu giường” của nhiều thế hệ các nhà nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản và nhiều nước Âu - Mỹ khác.

Trong những năm 1970, Kawamoto liên tục cho công bố một loạt những bài viết về Phan Bội Châu. Đó là các bài “Về tác trước tác thời kỳ đầu của Phan Bội Châu” (Han Bai Shu no Shoki no Chosaku)[9] (1971); “Quan điểm về Nhật Bản của Phan Bội Châu” (Han Bai Shu (Phan Bọi Chau) no Nihon-kan)[10] (1972); “Tư tưởng của Phan Bội Châu trong thời kỳ Duy Tân - Đông Du: Nguyên điểm của phong trào dân tộc Việt Nam” (Ishin Toyu-ki ni okeru Han Bai Shu no Shiso Vetonamu Minzoku Undo no Genten) [11](1973); “Quan hệ giữa Phan Bội Châu với phái Bảo hoàng và phái Cách mạng đồng minh hội trong thời kỳ Duy Tân - Đông Du (Han Bai Shu to Hoko Oyobi Kakumei Domeikai to no Kankei Ishin Toyu-ki ni Tsuite Mitaru) [12](1979) ... Các bài viết của Kawamoto, về cơ bản, kế thừa quan điểm Đông phương học truyền thống nhưng cũng chịu ảnh hưởng của quan điểm “dân tộc giải phóng sử quan” của Việt Nam khi đánh giá về Phan Bội Châu.

Công lao lớn đầu tiên của Kawamoto là ông đã góp phần luận giải khoa học về “Việt Nam vong quốc sử” dưới góc độ văn bản học. Dựa vào sự khảo sát tường tận văn bản của tác phẩm này, Kawamoto khẳng định rằng “Việt Nam vong quốc sử” là tác phẩm của Phan Bội Châu chứ không phải là tác phẩm của Lương Khải Siêu như một số nhà nghiên cứu Trung Quốc quan niệm. Ông lý giải rằng, vì “Việt Nam vong quốc sử” in ấn đầu tiên ở Nhật và sau đó xuất bản nhiều lần ở Trung Quốc và đưa vào trong các Tuyển tập, Toàn tập của Lương Khải Siêu nên nhiều người cho rằng nó là tác phẩm của Lương Khải Siêu. Tuy nhiên, nếu đọc kỹ hơn thì thấy rằng văn phong của “Việt Nam vong quốc sử” rõ ràng là văn phong của Phan Bội Châu. Hơn nữa, trong tác phẩm đó, có cả thơ chữ Nôm thì không thể cho rằng đó là tác phẩm của Lương Khải Siêu được. Thực ra, nếu có thì Lương Khải Siêu chỉ viết phần Tiền lục (Lời nói đầu) và Việt Nam tiêu chí Phần cuối), còn nội dung của “Việt Nam vong quốc sử” là do Phan Bội Châu viết. Tóm lại, “Việt Nam vong quốc sử” là tác phẩm của Phan Bội Châu, Lương Khải Siêu là người biên tập lại và cho xuất bản mà thôi.

Cống hiến quan trọng thứ hai của Kawamoto là sự lý giải của ông về quan niệm của Phan Bội Châu về Nhật Bản. Có lẽ, Kawamoto là người đầu tiên chỉ rõ mâu thuẫn trong nhận thức của Phan Bội Châu về Nhật Bản: Một mặt, với sự kiện Nhật Bản đánh chiếm và sát nhập Lưu Cầu (Ryukyu), biến Lưu Cầu thành Okinawa của Nhật thì Nhật Bản cũng hành động giống như các nước đế quốc phương Tây mà thôi (giống như Pháp xâm lược Việt Nam vậy). Nhưng mặt khác, Nhật Bản là một nước châu Á, tiến hành công cuộc duy tân thành công, đã trở thành “phú quốc cường binh”, sánh ngang với các cường quốc phương Tây. Phan Bội Châu và các đồng chí của ông vẫn hết sức ngưỡng mộ Nhật Bản và kỳ vọng rất nhiều về sự giúp đỡ của Nhật cho cuộc đấu tranh chống Pháp giải phóng dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, quan niệm của Kawamoto cho rằng quyết tâm đi Nhật cầu viện là do ảnh hường của Nguyễn Thành, Tăng Bạt Hổ không được các học giả nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật thế hệ sau tán thành.

Nghiên cứu của Kawamoto về Phan Bội Châu còn có ý nghĩa to lớn trong việc đánh giá một cách toàn diện hơn những hoạt động đa dạng và phong phú của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật, đánh giá lại ảnh hưởng của các nhà cải cách và cách mạng Trung Quốc cũng như các nhà hoạt động xã hội Nhật Bản đối với sự chuyển biến tư tưởng của Phan Bội Châu.

Với những thành tựu đó, vào thời điểm những năm 1970, Kawamoto được đánh giá là nhà nghiên cứu hàng đầu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản.

2. Nghiên cứu về Phan Bội Châu  ở Nhật Bản đến thập niên 1980 đến nay

Bước vào thập niên 1980, giới nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản đạt được nhiều thành tựu lớn, có tiếng vang quốc tế nhờ những nghiên cứu theo trường phái khu vực học. Mặc dầu xuất hiện từ trước trong giới học thuật ở Nhật Bản nhưng đến những năm 1980-1990 việc nghiên cứu Việt Nam theo trường phái khu vực học mới khai hoa kết trái. Đó là sự xuất hiện hàng loạt ngôi sao trong giới nghiên cứu Việt Nam theo trường phái này ở Nhật Bản, tiêu biểu nhất là “tứ trụ”: Sakurai Yumio, Tsuboi Yoshiharu, Shiraishi Masaya và Furuta Motoo.

Riêng về nghiên cứu Phan Bội Châu thì công lao lớn nhất thuộc về Shiraishi Masaya. Ngay từ những năm 1970, Shiraishi đã công bố những bài viết đầu tiên của mình về Phan Bội Châu và phong trào Đông Du. Đó là bài viết bằng tiếng Anh “Phan Boi Chau and Japan” [13] (1975) và “Sự hình thành tầng lớp trí thức khai sáng ở Việt Nam đầu thế kỷ XX” (Kaimeiteki Chishikijinzo no Keisei: 20 Seiki Shoto no Betonamu)[14](1976). Shiraishi đi theo một hướng khác, ông sử dụng rộng rãi các tài liệu của Việt Nam, bằng tiếng Việt của cả miền Nam lẫn miền Bắc, các công trình nghiên cứu của các học giả Âu-Mỹ, Trung Quốc, và kết hợp một cách hữu cơ các quan điểm khác nhau để đánh giá khách quan hơn tư tưởng và hoạt động cách mạng của Phan Bội Châu.

Từ những năm 1980, Shiraishi Masaya cho công bố hàng loạt các luận văn nghiên cứu về những vấn đề liên quan đến Phan Bội Châu bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau (Nhật, Anh, Pháp, Việt, Hoa, Hàn). Và từ đó, ông sớm nổi lên như nhà nghiên cứu số một về Phan Bội Châu ở Nhật Bản, vượt qua cả tên tuổi của các nhà nghiên cứu tiền bối mà tiêu biểu là Kawamoto Kunie. Các công trình tiêu biểu của ông là: “Giao lưu giữa Phan Bội Châu (Việt Nam) với các nhà hoạt động tỉnh Vân Nam trong thời kỳ ở Nhật” (Tainichi-ki no Phan Boi Chau (Betonamu) to Unnan-sho Katsudoka to no Koryu), Toyo Bunka Kenkyujo Kiyo[15](1981); “Phan Bội Châu trong thời kỳ Đông Du – Từ khi đến Nhật đến khi giao lưu với các nhà cách mạng Nhật Bản và Trung Quốc” (Toyu Undo-ki no Phan Boi Chau – Tonichi kara Nicchu kakumeika to no Koryu made)[16] (1981); “Sự tiếp xúc giữa Phan Bội Châu (Việt Nam) với Miyazaki Toten và Tôn Văn ở Nhật Bản” (Phan Boi Chau (Betonamu) to Miyazaki Toten, Son Bun to no Nihon ni okeru Sessoku)[17] (1984); “Về việc trục xuất Phan Bội Châu ra nước ngoài - Sự tan rã của phong trào Đông Du của Việt Nam ở Nhật” (Han Bai Shu no Kokugai Taikyo wo megutte - Zainichi Betonamu Toyu Undo no Shuen)[18] (1987); “Lưu học Nhật bản của thanh niên Việt Nam - Phong trào Đông du ở Nhật Bản thời Meiji” (Betonamu Seinen no Nihon Ryugaku – Meiji-ki Nihon ni okeru Toyu Undo)[19] (1992). Năm 1993 ông đã xuất bản công trình “Phong trào dân tộc Việt Nam với Nhật Bản và châu Á - Tư tưởng cách mạng và nhận thức đối ngoại của Phan Bội Châu” (Betonamu Minzoku Undo to Nihon, Ajia – Phan Boi Chau no Kakumei Shiso to Taigai Ninshiki) do Nhà xuất bản Gannando ấn hành[20]. Công trình này là “tập đại thành” nghiên cứu toàn diện nhất, sâu sắc nhất và xuất sắc nhất về Phan Bội Châu ở Nhật Bản. Kể từ đó, Shirashi trở thành nhà “Phan Bội Châu học” hàng đầu của Nhật Bản và có thể là một trong những nhà “Phan Bội Châu học” hàng đầu của thế giới. Shiraishi đặt những hoạt động của Phan Bội Châu vào bối cảnh của quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ Đông Á vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX để lý giải nó. Việc nghiên cứu như vậy đưa đến cho chúng ta một nhận thức mới mẻ về sự hình thành tư tưởng cách mạng và những hoạt động của Phan Bội Châu đầu thế kỷ XX. Ngoài ra tính hấp dẫn trong các công trình nghiên cứu của Shiraishi còn là ở chỗ, các bài viết của ông được khảo cứu cẩn thận dựa trên nhiều nguồn tư liệu khác nhau, ông cố gắng không áp đặt tư duy của người hiện nay cho các sự kiện quá khứ mà đặt mình vào tư duy của người đương thời, và dựa trên nguồn tư liệu có được để tái hiện lich sử.

Shiraishi đã làm sáng tỏ nhiều vấn đề về Phan Bội Châu: Trước hết là lý giải rõ ràng tại sao Phan Bội Châu lại chon Nhật Bản để cầu viên vũ khí, Phan Bội Châu đã thay đổi phương hướng hoạt động ở Nhật như thế nào? Thứ hai, Shiraishi đã khảo sát tường tận nhất phong trào Đông Du ở Nhật Bản. Thứ ba, Shiraishi là người nghiên cứu sâu sắc nhất các hoạt động giao lưu liên kết với các nhà hoạt động châu Á ở Nhật Bản. Ông coi Phan Bội Châu là người Việt Nam đầu tiên khởi xướng tư tưởng về liên kết châu Á trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam. Thứ tư, Shiraishi là người đã chỉ ra được “nguyên tắc kép” trong thái độ của chính phủ Nhật Bản đối với Phan Bội Châu.

Sau khi công bố những thành tựu nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản, Shiraishi tích cực công bố những kết quả nghiên cứu của mình ra nước ngoài bằng tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung, tiếng Hàn…tạo dựng vị trí của ông trong giới học thuật quốc tế.

Trong những năm 1980-1990, ngoài Shiraishi Masaya, cũng có một số nhà nghiên cứu có các bài viết về Phan Bội Châu rất đang chú ý. Đó là bai viết “Chủ nghiã dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX- Trường hợp Phan Bội Châu” (20 Seiki Shoto ni okeru Betonamu Nashonarizumu – Han Bai Shu wo Chushintosite)[21]của Kusunose Masaaki, 1981. Thông qua hoạt động của Phan Bội Châu, Kurunose đã luận giải rằng, phong trào dân tộc Việt Nam vào đầu thế kỷ XX đã chịu ảnh hưởng sâu sắc của tình hình quốc tế, đặc biệt là Đông Á. Vì vậy, không thể lý giải sâu sắc phong trào dân tộc Việt Nam nếu tách rời các yếu tố Trung Quốc và Nhật Bản. Matsumoto Kenichi xuất bản cuốn sách “Sự thể nghiệm tinh thần châu Á cận đại” (Kindai Ajia Seishin no Kokoromi)[22], 1995. Imai Akio tìm hiểu về tư tưởng của Phan Bội Châu trong luận văn “Tư tưởng cuả Phan Bội Châu trong thời kỳ giam lỏng ở Huế” (Hue Kankin Jidai no Phan Boi Chau no Shiso)[23], 1997. Nguyễn Tiến Lực viết về quá trình hình thành tư tưởng nhà nước quốc dân của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật với luận văn “Khảo sát về sự hình thành tư tưởng “quốc dân quốc gia” của trí thức Việt Nam đầu thế kỷ XX - Về quá trình hình thành tư tưởng “quốc dân quốc gia” của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật” (Niju Seiki Shoto no Betonamu Chishikijin no “Kokumin Kokka” kan no Keisei Katei wo Chushin toshite)[24],  1997... Năm 1998, Nguyễn Tiến Lực công bố luận án Tiến sĩ “Nghiên cứu quan hệ Việt Nam-Nhật Bản – Từ Minh Trị duy tân đến chiến tranh Thái Bình Dương”(Betonamu-Nihon Kankeishi no Kenkyu – Meiji Ishin kara Taiheiyo Senso made)[25], Hiroshima Daigaku, 1998, trong đó dành nhiều chương viết về hoạt động của Phan Bội Châu trong thời kỳ ở Nhật. 

Năm 1999, nhóm các tác giả Utsumi Sanbachiro, Chishima Eiichi và Sakurai Ryoju đã dịch “Tự phán” của Phan Bội Châu ra tiếng Nhật, sau đó viết bài giới thiệu và biên tập chung trong một cuốn sách “Truyện Phan Bội Châu, nhà hoạt động vì độc lập Việt Nam – Cuộc sống của nhà cách mạng ở Nhật Bản và Trung Quốc (Vetonamu Dokuritsu Undo Han Bai Shu Den Nihon Chugoku wo kakenuketa Kakumeika no Shogai )[26], 1999.

Sang đầu thế kỷ XXI, nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản vẫn tiếp tục. Shiraishi cho xuất bản cuốn sách, bổ sung những nghiên cứu của ông về Phan Bội Châu bằng sự phân tích sâu hơn mối quan hệ giữa Phan Bội Châu và Cường Để liên quan tới Nhật Bản: “Vị anh hùng dân tộc và Hoàng tử Việt Nam cùng hướng tới Nhật Bản - Phan Bội Châu và Cường Để” (Nihon wo mezasita Betonamu no Eiyu to Koshi- Phan Boi Chau to Cuong De)[27] (2012).

Gần đây, nhà nghiên cứu trẻ người Việt Nam Đào Thu Vân khi thực hiện luận án của mình  về phong trào dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX cũng đã đề cập đến Phan Bội Châu qua 2 luận văn:  “Tình hình và đặc điểm của phong trào Đông Du ở Bắc Kỳ Việt Nam” (Betonamu Tonkin (Bac Ki) ni okeru Toyu Undo no Jokyo to Tokucho)[28] (2014) và “Phong trào Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục ở Việt Nam thời thuộc địa – Nghiên cứu quan hệ Việt Nam – Nhật Bản đầu thế kỷ XX” (Shokuminchi-ki Betonamu no Dong Du Undo to Gijuku Undo – 20 Seiki Shoto Betonamu-Nihon Kankeishi no Kenkyu), Kanazawa Daigaku, 2016[29].

Riêng về mối quan hệ giữa Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro(Thiển Vũ Tá Hỷ Thái Lang)thì ở Nhật Bản cũng đã có những công trình nghiên cứu đáng chú ý: năm 1979, Shibata Shizuo đã công bố bài viết “Asaba Sakitaro đã giúp đỡ nhà hoạt động lưu vong của phong trào dân tộc Việt Nam (Betonamu Dokuritsu Undo no Bomeisha wo tasuketa Asaba Sakitaro) Bannan Bunka[30]. Năm 1985, Tomita Haruo giới thiệu về di sản của phong trào Đông Du trên đất nước trong bài viết “Mộ và bia kỷ niệm - Di sản còn lại của phong trào Đông Du” (Haka to Kinenbi – Toyu Undo ga nokosita mono)[31], 1985.Gần đây, Anma Yukiho, linh hồn của Hội Asaba Việt Nam (Asaba Betonamu Kai), người tổ chức nhiều hoạt động kỷ niệm mối tình Phan Bội Châu-Asaba Sakitaro ở Nhật Bản và Việt Nam cũng có viết nhiều bài về mối quan hệ giữa 2 ông cũng như hoạt động của hội, đáng chú ý nhất là bài “Giao lưu giữa Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro” (Han Bai Shu (Phan Boi Chau) to Asaba Sakitaro no Koryu)[32] . Tuy chưa thể nói đây là những công trình nghiên cứu sâu sắc về sự giúp đỡ của bác sĩ  Asaba Sakitaro đối với Phan Bội Châu và phong trào Đông Du cũng như mối tình sâu đậm giữa Phan Bội Châu với Asaba Sakitaro nhưng những bài viết này là nguồn tư liệu quý cho việc nghiên cứu sâu hơn, rộng hơn về mối tình của hai bậc tiền nhân đáng kính của hai nước Nhật-Việt.

TẠM KẾT

Sau khi đã điểm qua các công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản, chúng ta cũng thấy được rằng: ở Nhật Bản có đội ngũ nghiên cứu về Phan Bội Châu khá đông đảo, gồm nhiều thế hệ, nhiều trường phái và đạt được nhiều thành tựu, xác lập được vị thế trong giới nghiên cứu Việt Nam ở Nhật Bản cũng như trên thế giới. Vậy, tại sao, nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản lại có được những thành tựu như vậy?

Trước hết là vì khi nói đến Phan Bội Châu, người ta thường gắn sự nghiệp của ông với phong trào Đông Du, mà phong trào Đông Du thì chủ yếu diễn ra trên đất Nhật Bản mà người Nhật rất qua tâm nghiên cứu về phong trào Đông Du và tất nhiên phải tìm hiểu về lãnh tụ phong trào là Phan Bội Châu. Hơn nữa, nghiên cứu về Phan Bội Châu không đơn thuần chỉ để hiểu biết về nhân vật lịch sử này và những công lao của ông đối với phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam mà còn góp phần làm sáng tỏ nhiều vấn đề về quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam nên nhiều nhà nghiên cứu Nhật chọn những vấn đề xung quanh hoạt động của Phan Bội Châu và phong trào Đông Du trên đất Nhật làm đề tài nghiên cứu chính của mình.

Thứ hai là, nguồn tư liệu quan trọng nhất để nghiên cứu về Phan Bội Châu phần lớn đều là là tư liệu bằng chữ Hán. Các nhà nghiên cứu Nhật Bản có khả năng nắm bắt nhanh hơn nguồn tư liệu chữ Hán so với các nhà nghiên cứu phương Tây. Mặt khác, so với các nhà nghiên cứu người Trung Quốc thì các nhà nghiên cứu Nhật Bản nhạy bén hơn trong việc tiếp cận phương pháp nghiên cứu mới, có khả năng kết hợp nhiều quan điểm khác nhau khi nghiên cứu, đánh giá về Phan Bội Châu.

Ba là, khi nghiên cứu về Phan Bội Châu, các nhà nghiên cứu Nhật Bản cũng có ưu thế hơn các nước khác vì sự tài trợ mạnh mẽ từ chính phủ, các quỹ phát triển khoa học và từ các công ty để tiến hành học tập, nghiên cứu ở Việt Nam. Để có được những luận văn xuất sắc, chứa đựng nhiều điểm mới, các nhà nghiên cứu Kawamoto Kunie, Shiraishi Masaya, Imai Akio…đã tiến hành hang chục chuyến đi điều tra nghiên cứu ở Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Mỹ và đặc biệt là ở Việt Nam. Bởi vậy, các công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu của họ thường có tư liệu hết sức phong phú, được lý giải một cách khách quan hơn nhờ kết hợp một cách hữu cơ nhiều quan điểm khác nhau.

Tuy nhiên, việc nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật Bản vẫn còn một số hạn chế. Đó là, rất ít người quan tâm nghiên cứu thơ văn Phan Bội Châu, một lĩnh vực rất quan trọng trong sự nghiệp của ông. Hơn nữa, các các công trình nghiên cứu về Phan Bội Châu ở Nhật chưa được công bố bằng ngôn ngữ quốc tế như tiếng Anh, tiếng Pháp nên chưa được giới nghiên cứu quốc tế biết đến nhiều. Theo tôi, công bố quốc tế là vấn đề lớn của giới nghiên cứu Việt Nam học ở Nhật Bản nói chung.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Furuta Motoo: Japanese Research on Vietnam, Social Science, Japan, No. 8, January, 1987.

2. Furuta Motoo: Nihon ni okeru Betonamu Kenkyu (Nghiên cứu Việt Nam tại Nhật Bản) in Kimura Hiroshi (Chủ biên): Nihon-Betonamu kankei wo manabihito no tame ni (Những bài học về quan hệ Nhật Bản-Việt Nam), Tokyo, Sekai Shissosha, 2000. Bản tiếng Việt: Những bài học về quan hệ Việt Nam-Nhật Bản, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005.

3. Nguyễn Tiến Lực: Nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở Nhật Bản: Trường phái, thành quả và đặc điểm của nó, Sử học Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu hoá: Những vấn đề lí luận và phương pháp tiếp cận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011.

4. Roustan, Federic: Và lịch sử vẫn tiếp diễn: Khái lược về ngành Việt Nam học tại Nhật Bản (Nguyên tác: Et l’histoire continue: petite présentation du monde des études vietnamiennes au Japon, Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.erct.com/Nghiencuu

5. Shimao Minoru, Sakurai Yumio: Vietnamese Studies in Japan, 1975-1996, Acta Asiatica, No. 76. 1999.

6. Shimao Minoru: Nhìn lại việc nghiên cứu Việt Nam tại Nhật Bản, Quan hệ văn hóa-giáo dục Việt Nam-Nhật Bản và 100 năm phong trào Đông Du, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2006.

7. Takada Yoko: Nihon ni okeru Betonamu-shi Kenkyu no sokatsu to tembo, Ajia-Africa Kenkyu, Vol.9, No.3, 1989). Sau đó được dịch ra tiếng Anh với tựa đề Vietnamese Studies in Japan, Asian Research Trends, 1991, và bản tiếng Việt: Nghiên cứu lịch sử Việt Nam ở Nhật Bản, Nghiên cứu Lịch sử, Số 295 và 286, 1996.

8. Các công trình nghiên cứu của các tác giả đã giới thiệu trong bài viết.



*PGS.TS, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản, Trường ĐHKHXH &NV, ĐHQG TP Hồ Chí Minh.

[1]Kokuryukai: ToA Senkaku Shishi Den, Kokuryukai Shuppankai, Showa 8 (1935).

[2]Bokudo Sensei Denki Kankokai: Inukai Bokudo Den, Toyo Keizai Shimbunsha, 1938-1939.

[3]Tanikawa Yoshihiko: Dai Ichiji Sekai Taisenzen no Vetonamu Minzokushugi, Hosei Kenkyu, No. 27, 1961.

[4]Tanikawa Yoshihiko:Tonan Aja Minzoku Kaiho Undoshi, Keiso Shobo,1979.

[5]Terahiro Teruo: Etunan Shoki Minzoku Undo wo meguru Nihon to Chugoku, Osaka Bungei Daigaku Kiyo Jinbunkagaku, No.15(1967.3)

[6]Sakai Izumi: Betonamu ni okeru 20 Seki Shoto no Kofutsu Toso – Phan Boi Chau no Shiso to Katsudo, Gekkan Ajia-Afrika Kenkyu,No.133,No. 134, 1972.

[7]Goto Kinpei: Nihon no naka no Betonamu, Soshiete, 1979.

[8]Nagaoka Shinjiro-Kawamoto Kunie: Vetonamu Bokokushi Hoka, Heibunsha, 1966.

[9]Kawamoto Kunie: Han Bai Shu no Shoki no Chosaku nit suite, Keio Gijuku Daigaku Geibun Kenkyu, Vol. 30, 1971.

[10]Kawamoto Kunie:Phan Boi Chau no Nihonkan, Rekishigaku Kenkyu, No.391, 1972.

[11]Kawamoto Kunie:Ishin Toyuki ni okeru Han Bai Shu no shiso – Vetonamu Minzokuundo no Kiten, Shiso, No. 584, 1973.

[12]Kawamoto Kunie: Han Bai Shu to Hoko oyobi Kakumei Domeikai to no Kankei - Ishin Toyuki ni tuite mitaru, Keio Gijuku Daigaku Gengo Bunka Kenkyusho, No. 11, 1979.

[13]Shiraishi Masaya:  Phan Boi Chau and Japan, Southeast Asian Studies, Kyoto Uviersity, Vol.13, No.3, 1975.

[14]Shiraishi Masaya: Kaimeiteki Chishikijinso no Keisei: 20 seiki shoto no Betonamu, Tonan Ajia Kenkyu, Kyoto Daigaku, 1976.

[15]Shiraishi Masaya: Tainichi-ki no Phan Boi Chau (Betonamu) to Unnan-sho Katsudoka to no Koryu), Toyo Bunka Kenkyujo Kiyo, Vol. 85, 1981.

[16]Shiraishi Masaya:Toyu Undo-ki no Phan Boi Chau - Tonichi kara Nicchu kakumeika to no Koryu made, Gannando, 1981.

[17]Shiraishi Masaya: Phan Boi Chau (Betonamu) to Miyazaki Toten, Son Bun to no Nihon ni okeru Sessoku, Osaka Gaikokugo Daigaku Tai-Betonamugoka Kiyo, No.1, 1984.

[18]Shiraishi Masaya: Han Bai Shu no Kokugai Taikyo wo megutte - Zainichi Betonamu Toyu Undo no Shuen, Toyoshi Kenkyu, Vol.46, No.2, 1987.

[19]Shiraishi Masaya: Betonamu Seinen no Nihon Ryugaku - Meiji-ki Nihon ni okeru Toyu Undo, Kokuritsu Kyoiku Kenkyusho Kiyo, No. 121, 1992.

[20]Shiraishi Masaya: Betonamu Minzoku Undo to Nihon, Ajia - Phan Boi Chau no Kakumei Shiso to Taigai Ninshiki, Gannando, 1993.

[21]Kusunose Masaaki: 20 Seiki Shoto ni okeru Betonamu Nasionarizumu-Han Bai Shu wo Chushintosite, Hiroshima Daigaku Bungakubu Kiyo, Vol. 41, 1981.

[22]Matsumoto Kenichi: Kindai Ajia Seishin no Kokoromi, Chuo Koron, 1995.

[23]Imai Akio, Hue Kankin Jidai no Phan Boi Chau no Shiso, Tokyo Gaikokugo Daigaku Ronju, No. 51, 1997.

[24]Nguyen Tien Luc: Niju Seiki Shoto no Betonamu Chishikijin no “Kokumin Kokka” kan no Keisei Katei wo Chushin toshite, Hiroshima Toyoshi Gakuho, No.2, 1997.

[25]Nguyen Tien Luc: Betonamu-Nihon Kankeishi no Kenkyu - Meiji Ishin kara Taiheiyo Senso made, Hiroshima Daigaku, 1998.

[26]Utsumi Sanbachiro-Chiba Eiichi-Sakurai Ryoju: Vetonamu Dokuritsu Undo Han Bai Shu Den Nihon Chugoku wo kakenuketa Kakumeika no Shogai, Fuyo Shobo, 1999.

[27]Shiraishi Masaya: Nihon wo mezasita Betonamu no Eiyu to Koshi- Phan Boi Chau to Cuong De, Sairyusha, 2012.

[28]Dao Thu Van: Betonamu Tonkin (Bac Ki) ni okeru Toyu Undo no Jokyo to Tokucho, Kanazawa Daigaku Jinbun Shakai Kankyo Kenkyu, No.27, 2014.

[29]Dao Thu Van: Shokuminchi-ki Betonamu no Dong Du Undo to Gijuku Undo – 20 Seiki Shoto Betonamu-Nihon Kankeishi no Kenkyu, Kanazawa Daigaku, 2016.

[30]Shibata Shizuo: Betonamu Dokuritsu Undo no Bomeisha wo tasuketa Asaba Sakitaro), Bannan Bunka, 1979.

[31]Tomita Haruo: Haka to Kinenbi – Toyu Undo ga nokosita mono, Nanpo Bunka, No.2, 1985.

[32]Anma Yukiho: Han Bai Shu (Phan Boi Chau) to Asaba Sakitaro no Koryu,  www.asaba.or.jp

Nguồn: Văn hóa Nghệ An, ngày 15.12.2017.

20170911 Asaka

Ảnh: Bia tưởng niệm bác sĩ Asaba dựng năm 1918 tại tỉnh Shizuoka. (Ảnh do Amma gửi tặng tác giả bài viết vào năm 2010).

 

Về lai lịch và nội dung cụ thể của hai tấm bia nguyên vật hiện còn ở Nhật Bản liên quan đến phong trào Đông Du hồi đầu thế kỷ XX (mang niên đại 1908 và 1918), trước hết là có những ghi chép mang tính hồi ký của chính các lãnh tụ phong trào Đông Du [Phan Bội Châu 1939, 1957, 1987; Cường Để 1957],(1) rồi từ khoảng cuối thập niên 1970 đến nay đã có không ít khảo cứu của các nhà nghiên cứu người Nhật và người Việt [Shibata 1977, 1988, 2009; Vĩnh Sính 2001b (1990); Chương Thâu 2008,…]. Bản thân tác giả bài viết này cũng đã công bố một số khảo cứu chuyên sâu hay bài ngắn giới thiệu cho bạn đọc phổ thông [Chu Xuân Giao 2004, 2013a, 2013b]. Xuất phát từ kinh nghiệm thực tế trong nghiên cứu văn bản tấm bia và tham gia trực tiếp vào một số công việc mang tính ngoại giao có liên quan,(2) ở đây, chúng tôi lần đầu tiên mở rộng sự quan sát, theo hai hướng: vừa điểm lại quá trình tấm bia được học giả hai nước phát hiện trở lại sau một thời gian rất dài bị quên lãng, vừa xem xét việc tham gia của nó với tư cách như một vị “đại sứ đặc biệt” vào quá trình ngoại giao văn hóa giữa hai nước Việt-Nhật từ sau thời kỳ đổi mới, và trở nên sôi động từ đầu thế kỷ XXI.

1. Sự xuất hiện trở lại của tấm bia nguyên vật mang niên đại 1918

Theo ghi chép của người ở địa phương, thì vào ngày 3 tháng 11 năm 1973, Đài Truyền hình Quốc gia Nhật Bản NHK, trong Chương trình Quốc tế (dành cho người Việt Nam), đã phát một phóng sự mang tựa đề “Hai tấm bia mộ (lá thư từ Tokyo)” [Shibata 1988: 231; Amma 2008: 38]. “Hai tấm bia mộ”, không có gì khác, chính là hai tấm bia gắn với phong trào Đông Du: tấm thứ nhất dựng năm 1908 ở thủ đô Tokyo trước mộ phần của chí sĩ Trần Đông Phong (1884-1908), và tấm thứ hai dựng năm 1918 ở thị trấn Asaba tỉnh Shizuoka trước mộ bác sĩ Asaba (1867-1910). Có thể thấy rằng, ở thời điểm năm 1973, người ta đã bắt đầu đặt hai tấm bia mộ ở hai nơi cách xa nhau vào một cụm vấn đề.

Tấm bia thứ hai sẽ được đề cập rõ hơn ở dưới, nên ở đây nói thêm một chút về tấm bia thứ nhất. Hiện nay, tấm bia này vẫn ở trước mộ phần của chí sĩ Trần Đông Phong trong nghĩa trang Zojigaya (thuộc quận Toshima, thủ đô Tokyo). Trần Đông Phong là một thanh niên con nhà giàu ở huyện Thanh Chương tỉnh Nghệ An, từng hào hiệp giúp tiền bạc cho hoạt động của nhóm Cường Để - Phan Bội Châu. Bản thân Trần Đông Phong cũng sang Nhật Bản vào tháng 9 năm 1905. Đến khoảng giữa năm 1908, khi phong trào Đông Du bị tan vỡ, cuộc sống ở Nhật Bản quá quẫn bách, gia đình ở Việt Nam giàu có nhưng không gửi tiếp tế sang, nên lưu học sinh Trần Đông Phong cảm thấy hổ thẹn với chúng bạn mà tự vẫn. Nhóm người Việt Nam ở Nhật lúc đó, cùng với người Nhật và một số học sinh người Trung Quốc cảm kích trước hành động chí khí, đã tổ chức an táng Trần Đông Phong. Trước mộ, người ta dựng một tấm bia đá, trên đó có khắc dòng chữ Hán cỡ lớn là “Đồng bào chí sĩ Trần Đông Phong chi mộ”. Hai bên còn có hai dòng chữ nhỏ: dòng ở bên phải ghi năm sinh là “Sinh dĩ Giáp Thân niên”,(3) và dòng ở bên trái ghi ngày tháng mất là “Mậu Thân niên ngũ nguyệt sơ nhị nhật tử”.(4) Sau này, trong bài văn tế người vợ góa của Trần Đông Phong năm 1939,(5) Phan Bội Châu có viết: “Năm Mậu Thân (1908) Thành Thái, hồn Duy Tân về cõi nước người//Ngàn thu hương hỏa mãi quê người//Chữ chí sĩ Việt Nam, đá Nhật Bản còn bia trước mộ [Phan Bội Châu 2012: 64].

Ngày nay người ta dễ ngộ nhận rằng, cả hai tấm bia trên đều được người Nhật, nhất là người Nhật có quan hệ với Việt Nam, biết rộng rãi từ lâu. Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân, tấm bia thứ nhất ở Tokyo gắn với Trần Đông Phong thì được biết đến nhiều hơn trong các quan hệ của chính giới Nhật Bản và Việt Nam từ sau năm 1908 đến khoảng cuối thập niên 1970, còn tấm thứ hai ở vùng xa xôi gắn với tình bạn Asaba Sakitaro-Phan Bội Châu thì gần như bị lãng quên trong một thời gian rất dài.

Việc tấm bia thứ hai ở thị trấn Asaba tỉnh Shizuoka bị quên lãng thực sự trong một thời gian dài này đã được một trong những người có công phát hiện và khảo cứu quan trọng nhất với tấm bia, là nhà nghiên cứu người địa phương Shibata (1919-2009),(6) nêu cụ thể từ trước, rồi gần đây được một số người khác nhắc lại [Amma 2008: 38; Oguri 2010: 7]. Theo Shibata [Shibata 1988: 230-233; 2009], vào tháng 1 năm 1968, hồi Shibata gần 50 tuổi, có một người tên là Utsumi 内海 đã 77 tuổi (sinh năm 1891) từ tỉnh Nagano đột nhiên tới thăm thị trấn Asaba. Ông Utsumi, theo lời tự giới thiệu, đã buôn bán ở Việt Nam hơn ba mươi năm, đến năm thì 1963 về nước. Utsumi đã viết và cho xuất bản cuốn Việt Nam phong thổ ,(7) và muốn viết tiếp một cuốn nữa về nhà cách mạng Phan Bội Châu.(8) Khi đến tòa thị chính của thị trấn, Utsumi ngỏ ý muốn được xem bia tưởng niệm Asaba Sakitaro. Thế nhưng, người ở tòa thị chính thị trấn Asaba không một ai biết về người có tên Sakitaro và tấm bia tưởng niệm ông! Rất may, đúng lúc đó, khi biết được ý nguyện của Utsumi, trong đầu của Shibata bỗng nhiên nhớ lại chuyện cũ đã xảy ra vào khoảng những năm Chiêu Hòa 30 (tức khoảng giữa thập niên 1950). Khi đó, Shibata mới ở tuổi hơn ba mươi, còn là thầy giáo dạy môn sử Nhật Bản ở trường trung học. Một hôm, có một bà cụ sống ở gần Trường Trung học Asaba hỏi ông rằng, có biết trong chùa Thường Lâm ở khu Umeyama có di tích gì đó liên quan tới người Ấn Độ hay người An Nam không? Shibata thì đinh ninh rằng làm gì có di tích như vậy ở chùa Thường Lâm cơ chứ, và do vậy, việc đó đã tự nhiên chìm vào quên lãng. Bây giờ, sau khoảng hai mươi năm, gặp câu hỏi của Utsumi, thì Shibata bỗng nhớ lại câu chuyện của bà cụ ngày trước. Thế là, hai người lập tức cùng nhau đến chùa Thường Lâm. Trong khuôn viên của chùa Thường Lâm, Shibata và Utsumi đã tìm được tấm bia tưởng niệm bác sĩ Asaba Sakitaro do người của Việt Nam Quang Phục Hội dựng năm 1918.

Chính thức là vào tháng 1 năm 1968 đó, sau một thời gian rất dài tựa như bị quên lãng hoàn toàn, câu chuyện về bác sĩ Asaba và tấm bia tưởng niệm ông mới được biết trở lại ở địa phương. Người dân, chính quyền và các trường học ở địa phương bắt đầu chú ý đến tấm bia. Cũng từ năm đó trở đi, qua nhiều con đường, sự tồn tại của tấm bia dần được biết đến rộng rãi trong giới sử học, rồi giới truyền thông và người bình thường ở Nhật Bản. Có thể kể một số mốc chính như sau.

  1. Sau sự kiện “được phát hiện lại năm 1968” khoảng 5 năm, vào ngày 3 tháng 11 năm 1973 đài NHK phát phóng sự “Hai tấm bia mộ” như đã nhắc qua ở trên. Phóng sự nói về hai nhân vật và hai tấm bia mộ của họ, là bác sĩ Asaba nghĩa hiệp không may mất sớm vì bệnh vào năm Minh Trị 43 (1910) khi mới 43 tuổi, và chí sĩ Trần Đông Phong tự sát tại Tokyo vào năm Minh Trị 41 (1908) khi mới 24 tuổi. Người làm phóng sự ấy là Tomita Haruo 富田春生 – một người thông thạo tiếng Việt, thực hiện nhiều bản dịch Việt-Nhật.
  2. Năm 1977, thầy giáo Shibata với chức danh kiêm nhiệm là “điều tra viên về di sản văn hóa của tỉnh Shizuoka” đã viết bài “Asaba Sakitaro – người cứu giúp những nhà cách mạng lưu vong Việt Nam đấu tranh vì nền độc lập của đất nước” trên tạp chí Văn hóa vùng Bannan số đầu tiên [Shibata 1977].
  3. Vào tháng 3 năm 1980, một buổi tối nào đó, Shibata nhận được điện thoại của Giáo sư Goto 後藤 ở Đại học Rikkyo. Sở dĩ có cuộc điện thoại đó, là vì Goto mới đọc được bài viết năm 1977 của Shibata, mà lúc đó nhóm Goto đang thực hiện một đề tài nghiên cứu liên quan đến phong trào Đông Du (đề tài nhận tài trợ của Bộ Giáo dục, thực hiện trong 3 năm). Sau đó, đoàn điều tra của nhóm Goto đã đến thị trấn Asaba nhiều lần, đôi khi có cả một số lưu học sinh người Việt Nam cũng cùng tới. Báo cáo của nhóm điều tra Goto đã hoàn thành vào tháng 3 năm 1982, với dung lượng 28 trang, có kèm nhiều ảnh [Shibata 1988: 231; Vĩnh Sính 2001: 218; Amma 2008: 38; Oguri 2011: 84].
  4. Tháng 9 năm 1980, tác giả Saito cho đăng một bài hơn hai ngàn chữ có kèm ảnh chụp tấm bia trên tờ báo nổi tiếng Asahi Shinbun [Saito 1980].
  5. Vào ngày 19 tháng 7 năm 1983, một ngày trời nóng như thiêu, Giáo sư Văn Tạo (Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam) đã đến thăm thị trấn Asaba và xem tấm bia trong chùa Thường Lâm, dưới sự hướng dẫn của Giáo sư Kawamoto (Đại học Keio) và sự tiếp đón ở địa phương của ông Shibata.
  6. Tháng 2 năm 1988, cuốn sách Asaba: Quê hương chúng ta từ xưa đến nay của Shibata ra đời [Shibata 1988], trong đó có nhiều trang viết về bác sĩ Asaba và Phan Bội Châu. Trong sách, Shibata cũng điểm lại quá trình phát hiện lại tấm bia trong chùa Thường Lâm.
  7. Mùa hè năm 1989, Phó Giáo sư Vĩnh Sính (Đại học Alberta, Canada) đến khảo sát tại thị trấn Asaba, nhận được sự tiếp đón ân cần của Shibata [Vĩnh Sính 2001: 219; Oguri 2010: 7]. Tờ báo địa phương là Shizuoka Shimbun có đưa tin về sự kiện này (trang 19, số ra ngày 25/7/1989) [Oguri 2011: 84]. Bản thảo bài viết “Phan Bội Châu và Asaba Sakitarô” của Vĩnh Sính đã hoàn thành vào tháng 8 năm 1990 [Vĩnh Sính 2001: 230].
  8. Năm 1992, luận văn tiến sĩ của Shiraishi về Phan Bội Châu và phong trào Đông Du đã hoàn thành và bảo vệ thành công ở Đại học Tokyo. Năm 1993, cuốn sách hình thành từ luận văn tiến sĩ ấy được xuất bản [Shiraishi 1992, 1993]. Cuốn sách này sau được dịch trọn sang tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam vào năm 2000 [Shiraishi 2000].
  9. Ngày 31 tháng 7 năm 1998, tấm bia được chính quyền thị trấn Asaba chỉ định là di sản văn hóa cấp thị trấn (nay là cấp thành phố Fukuroi) với danh mục chính thức là “Bia tưởng niệm ngài Asaba Sakitaro 浅羽佐喜太郎公記念碑” (đúng như tên bia được Phan Bội Châu soạn năm 1918).
  10. Tháng 3 năm 1999, cuốn sách về Phan Bội Châu của tác giả Utsumi ra đời. Utsumi là người đã đến thị trấn Asaba năm 1968 và “đánh thức” tấm bia ngủ quên trong chùa Thường Lâm, sau đó đã mất vào năm 1986.

Như vậy, có thể thấy, tấm bia ở thị trấn Asaba và câu chuyện sự nghĩa hiệp của bác sĩ Asaba dành cho phong trào Đông Du, hầu như đã bị quên lãng trong một thời gian rất dài, tới khoảng nửa thế kỷ (1918-1968). Công việc quyên góp thêm tiền từ dân làng Asaba để có đủ kinh phí dựng bia, rồi dựng bia và làm lễ khánh thành vào mùa xuân năm 1918, như trong miêu tả của Phan Bội Châu thì là một chuỗi hoạt động tương đối có tiếng vang ở địa phương. Tuy nhiên, như ghi chép của Shibata (một người sinh năm 1919 và dạy học ở địa phương trong một thời gian dài), thì từ lâu người địa phương đã không còn nhắc đến sự kiện ấy nữa, cái tên Sakitaro cũng đã bị lãng quên. Đâu đó chỉ còn một số người lớn tuổi nhớ láng máng mà thôi. Việc phát hiện trở lại tấm bia là bắt đầu từ năm 1968, gắn với tên của Utsumi và Shibata. Đến năm 1998, tức sau 30 năm được phát hiện trở lại, tấm bia đã nhận được chỉ định là di sản văn hóa cấp địa phương (thị trấn, thành phố).

Sang thế kỷ XXI, qua nhiều con đường, câu chuyện về bác sĩ Asaba và chí sĩ Phan Bội Châu được biết đến rộng rãi ở cả Nhật Bản và Việt Nam, không chỉ trong học giới mà cả người bình thường. Tấm bia đá trong chùa Thường Lâm đã được “đánh thức” trở lại vào cuối thế kỷ XX, và trở thành một vị “đại sứ” trong ngoại giao văn hóa giữa hai nước từ đầu thế kỷ XXI. Từ đây trở xuống, tạm viết tắt “tấm bia mang niên đại 1918” cho gọn lại thành “tấm bia năm 1918”, hoặc gọn hơn nữa thành “tấm bia”.

2.  Ngoại giao văn hóa Việt - Nhật đầu thế kỷ XXI gắn với tấm bia năm 1918

Từ sau năm 2000, có rất nhiều hoạt động ngoại giao văn hóa Việt-Nhật gắn với tấm bia. Do khuôn khổ bị giới hạn, chúng tôi chỉ đề cập tới bốn điểm/sự kiện nổi bật sau.

Đầu tiên, là một chuỗi hoạt động “kỷ niệm tròn 85 năm” vào năm 2003 mang tính mở màn rất ấn tượng ở thị trấn Asaba. Trong đó, đáng chú ý nhất là Lễ kỷ niệm tròn 85 năm lập bia tưởng niệm được tổ chức tại chùa Thường Lâm vào buổi sáng ngày 27 tháng 7. Trong buổi sáng trời tuyệt đẹp đó, có một cuộc gặp mặt lịch sử, ngay bên cạnh tấm bia, giữa người cháu nội của Phan Bội Châu (ông Phan Thiệu Cơ) và người cháu nội của Asaba (bà Asaba Wako).

Chương trình kỷ niệm tròn 85 năm (gồm hai nội dung, là kỷ niệm việc lập bia, và kỷ niệm quan hệ hữu nghị Asaba - Việt Nam) đã được thiết kế từ tháng 4 năm 2003. Một ban tổ chức được thành lập với nhân sự đến từ các đoàn thể ở địa phương (như Hiệp hội Văn hóa thị trấn Asaba, Hội Nghiên cứu Di sản Văn hóa thị trấn Asaba, Hiệp hội Xây dựng quê hương thị trấn Asaba), tức là từ phía dân gian mà không phải từ chính quyền. Nội dung chính của chương trình là 2 lễ kỷ niệm được tiến hành lần lượt trong cùng một ngày 27 tháng 7: buổi sáng là Lễ kỷ niệm tròn 85 năm lập bia tưởng niệm tại chùa Thường Lâm (địa điểm tổ chức là ở ngay bên cạnh tấm bia), và buổi chiều là Lễ kỷ niệm tròn 85 năm quan hệ hữu nghị Asaba - Việt Nam ở tòa thị chính thị trấn Asaba.

Ban tổ chức đã mời vợ chồng ông Phan Thiệu Cơ từ TP Hồ Chí Minh sang dự lễ. Tại lễ kỷ niệm buổi sáng, ngay bên cạnh tấm bia, người cháu nội của Phan Bội Châu và người cháu nội của Asaba đã xúc động chia sẻ cảm tưởng về mối nhân duyên được thừa hưởng từ đời ông nội của hai bên.(9) Ở lễ kỷ niệm vào buổi chiều, ban tổ chức có gửi tặng nhân dân Việt Nam, thông qua Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, một thác bản của tấm bia. Đó là thác bản đầu tiên được gửi tặng. Ngay sau thời điểm kết thúc sự kiện, vào cuối năm 2003, một trang web mang tên “Báo cáo lễ kỷ niệm tròn 85 năm lập bia tưởng niệm” đã được xây dựng và khai trương, hướng tới mục đích công bố diễn biến và kết quả của chương trình. Thú vị là trang web này mở công khai từ đó đến nay nhưng với chủ trương chỉ lưu tư liệu năm 2003 mà không cập nhật. Bởi vậy, có thể xem trang web đó cũng như một tấm bia kỷ niệm trên không gian mạng cho tình bạn Asaba Sakitaro - Phan Bội Châu.(10)

Ngay sau các lễ kỷ niệm ở Asaba nói trên, vào tháng 10 cùng năm, đoàn công tác gồm 8 người của ban tổ chức chương trình kỷ niệm đã từ Asaba sang thăm Việt Nam. Đoàn có tặng một thác bản của tấm bia cho Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế. Những năm tiếp theo, các đoàn công tác đến từ Asaba còn tới thăm tỉnh Nghệ An và quê nhà của Phan Bội Châu, tiếp tục tặng thác bản cho các nơi.

Hai là, các hoạt động gắn với tấm bia của đoàn thể dân gian là Hội Asaba -Việt Nam 浅羽ベトナム会.(11) Hội này được chính thức thành lập vào tháng 4 năm 2005, nhân sự là tham gia tự nguyện, mà chủ yếu là đến từ thành phần ban tổ chức của chương trình kỷ niệm năm 2003. Ông Amma lãnh trách nhiệm là người đại diện cho hội từ năm 2005.

Hội Asaba - Việt Nam có rất nhiều hoạt động sáng tạo và bền bỉ từ khi thành lập đến nay. Tiêu biểu nhất là việc hội đã hai lần tặng bia kỷ niệm cho thành phố Huế nhân những dịp tròn năm trong ngoại giao của hai nước, hay tròn năm trong lịch sử cá nhân của hai nhân vật chính là Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro.

Lần tặng bia thứ nhất là vào tháng 11 năm 2010 cho Nhà lưu niệm Phan Bội Châu (nằm ở đường Phan Bội Châu thành phố Huế), nhân 70 năm ngày mất của Phan Bội Châu và 100 năm ngày mất của Asaba. Bia cao 2,2m, dài 2,4m, bằng chất liệu đá granit, đặt trên bệ cao 0,5m, được chế tác và hoàn thành tại Huế theo mẫu thiết kế mang đến từ Nhật Bản. Bia có hai mặt. Mặt trước bia có khắc dòng chữ lớn Bia kỷ niệm quan hệ giao lưu Việt-Nhật từ phong trào Đông Du (ở dưới là bản tiếng Nhật của tiêu đề này), và ở góc trái có in hình thu nhỏ của tấm bia mà Phan Bội Châu đã dựng ở chùa Thường Lâm vào năm 1918. Mặt sau bia thì chỉ khắc bản dịch tiếng Việt của bài văn bia bằng Hán văn do Phan Bội Châu soạn năm đó (ở cuối bản dịch tiếng Việt, có ghi tên dịch giả).

Lần tặng bia thứ hai là vào tháng 6 năm 2013 cho Công viên Phan Bội Châu (thành phố Huế), nhân kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao Việt-Nhật (1973-2013). Theo quan sát của người viết bài này, một phần kinh phí liên quan đến việc chế tác các tấm bia đã tặng Việt Nam và các hoạt động liên quan là được Hội Asaba - Việt Nam tích cực huy động thông qua quyên góp (cá nhân và đoàn thể), một phần được tài trợ bởi các quỹ quốc tế của Nhật Bản.

Một hoạt động đáng chú ý nữa của Hội Asaba - Việt Nam là, từ năm 2009, cứ vào dịp trung tuần tháng 9 hàng năm, hội tổ chức chương trình “Sống trải nghiệm cùng gia đình người Nhật cho lưu học sinh Việt Nam ベトナム留学生ホームステイ(Homestay)”. Mỗi năm chương trình này đón khoảng 25 lưu học sinh Việt Nam đang học tập trên khắp nước Nhật về Asaba, gửi vào sống cùng những gia đình người Nhật ở địa phương trong thời gian ngắn (2 đêm 3 ngày). Một nội dung hoạt động quan trọng trong thời gian lưu trú ở địa phương là, các lưu học sinh sẽ được hội hướng dẫn thăm viếng tấm bia tưởng niệm dựng năm 1918 và tìm hiểu về tình bạn Asaba-Phan Bội Châu qua các nguồn tư liệu.(12) Thú vị là từ năm 2015, hội đã mở một tài khoản Facebook để cập nhật thông tin về tình hình hoạt động (trong đó có chương trình sống trải nghiệm hàng năm).(13)

Ba là, quan hệ đặc biệt giữa tấm bia và bộ phim truyền hình mang tựa đề Người cộng sự /The Partner do đài TBS (Nhật Bản) và đài VTV (Việt Nam) hợp tác sản xuất. Phim đã được công chiếu đồng thời ở hai nước vào buổi tối ngày 29 tháng 9 năm 2013, nhân dịp kỷ niệm 40 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản.

Về nội dung, phim Người cộng sự đã khéo léo đưa hai câu chuyện có khoảng cách tới trăm năm về thời gian đan lồng vào nhau. Đó là, câu chuyện của 100 năm trước, về tình bạn Asaba - Phan Bội Châu (hội tụ quanh họ là những chính khách Nhật Bản và các chí sĩ Đông Du); và câu chuyện của hiện tại những năm đầu thế kỷ XXI, về tình yêu của một cặp đôi Việt - Nhật (hội tụ quanh họ là gia đình, bạn bè, cộng sự), và về tình bạn của một cặp doanh nhân Việt-Nhật. Tấm bia năm 1918 đã trở thành cầu nối giữa quá khứ và hiện tại. Nó trở thành một tác nhân tạo sự gắn kết và hòa hợp giữa cặp nam nữ Việt-Nhật, đồng thời, cũng trở thành chìa khóa mở ra bí mật của đối tác để cùng đi đến tin tưởng hợp tác giữa hai doanh nhân Việt - Nhật.

Bộ phim được chính giới hai nước (tiêu biểu là Thủ tướng Shinzo Abe, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải) đánh giá là thành công rực rỡ, là một điểm nhấn, “là món quà có ý nghĩa nhân dịp kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản…, sẽ tạo đà cho sự chắp cánh hợp tác tương lai giữa VTV và TBS cũng như giữa các tập đoàn truyền thông hai nước” (lời phát biểu của Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải trong lễ ra mắt phim Người cộng sự vào ngày 16 tháng 9 năm 2013 tại Hà Nội).(14) Phim Người cộng sự sau đó đã nhận được giải Bông sen vàng (phim truyện video) trong Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 18 (công bố ngày 16 tháng 10 cùng năm). Đồng thời, diễn viên Huỳnh Đông (đồng thời thủ vai Phan Bội Châu thời đầu thế kỷ XX, và vai doanh nhân người Việt đầu thế kỷ XXI) cũng được trao giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất.

Bốn là, từ những tác động qua lại của ba điểm đã trình bày ở trên, hiện nay, tấm bia năm 1918 trở thành một điểm viếng thăm quan trọng của người Việt Nam khi tới Nhật Bản (du lịch, học tập,…). Hội Asaba-Việt Nam ở thị trấn Asaba (nay là thành phố Fukuroi) trở thành chủ nhà đón khách hàng năm tới từ Việt Nam, bao gồm các cơ quan ngoại giao, các cơ quan đảng và chính phủ (trung ương, địa phương), các cơ quan giáo dục và nghiên cứu khoa học, học sinh sinh viên, khách du lịch phổ thông.(15)

Về mặt nhà nước, trong lễ kỷ niệm tròn 85 năm tại thị trấn Asaba vào năm 2003 đã trình bày ở trên, lần đầu tiên Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản cử đại diện tới thị trấn. Sau đó, từ năm 2008, các đời đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản đều tới thăm thị trấn Asaba và chiêm bái bia tưởng niệm (lần gần đây nhất là chuyến viếng thăm của đại sứ vào ngày 24 tháng 10 năm 2016).(16)

3. Lời kết

Qua các trình bày ở trên, đến đây, chúng tôi muốn dùng chữ “đại sứ đặc biệt” để nói về vai trò của tấm bia mang niên đại 1918 trong quá trình xây dựng kênh ngoại giao văn hóa (cultural diplomacy) hay ngoại giao dân chúng (public diplomacy) giữa hai nước từ thời kỳ đổi mới đến nay. Rõ ràng, trong ngoại giao văn hóa, đại sứ có thể là một con người cụ thể, mà cũng có thể là một vật thể mang nghĩa đặc biệt, ở đây là vật thể nguyên gốc/nguyên bản. Giá trị nguyên bản/ nguyên gốc của tấm bia cần được nhấn mạnh.

Một điểm cần nhấn mạnh là, quá trình tiến triển để trở thành “đại sứ đặc biệt” của tấm bia, nếu mới nhìn, thì có cảm tưởng như là một vận động mang tính tự nó, ở các điểm sau: 1) Bản thân tấm bia thì được phát hiện trở lại tựa như ngẫu nhiên trong trạng thái nguyên bản từ năm 1968; 2) Về phía Nhật Bản, thì thấy hoạt động của người dân ở thị trấn Asaba từ năm 2003, và nhất là của Hội Asaba-Việt Nam từ năm 2005, mang tính tự nguyện cao; 3) Về phía Việt Nam, cho thấy rõ sự “tăng trưởng” trong hiểu biết, và trong lòng ngưỡng mộ của dân chúng dành cho các lãnh tụ phong trào Đông Du, cũng là cho tình bạn Phan Bội Châu - Asaba Sakitaro. Nhưng nếu nhìn rộng hơn, thì chúng ta sẽ thấy, đó cũng là những hướng vận động ứng hợp với chiến lược ngoại giao của cả hai quốc gia. Rõ ràng, bước vào thế kỷ XXI, nguồn lực mềm/sức mạnh mềm [Joseph Nye 2004a, 2004b, 2004c; Kitayama 2003] của ngoại giao văn hóa rất được xem trọng, ở cả Việt Nam(17) và Nhật Bản,(18) cũng như nhiều quốc gia khác trên toàn thế giới.(19) Quá trình một tấm bia từ tư liệu nguyên gốc trở thành một vị đại sứ đặc biệt chính là một trường hợp điển hình cho ngoại giao văn hóa.

CXG

CHÚ THÍCH

(1) Về Trần Đông Phong với tấm bia mộ dựng năm 1908 ở Tokyo, cũng như về người vợ còn ở Việt Nam của Trần Đông Phong, thì Phan Bội Châu có viết ở nhiều chỗ trong tác phẩm của mình. Về phần Cường Để thì, ông có nói về chuyện tháng 8 năm 1905, Phan Bội Châu và Đặng Tử Kính từ Nhật Bản về nước, viết thư báo tin cho Cường Để và sắp xếp việc Cường Để xuất dương sang Nhật. Trong dịp đó, ông Trần Đông Phong góp tiền cho việc chung (gồm 15 nén bạc và hai trăm đồng Đông Dương). Đồng thời, vào tháng 9 năm đó, Trần Đông Phong cũng sang Nhật [Cường Để 1957: 19]. Về chi tiết Trần Đông Phong hào hiệp đóng góp ngân quỹ vào tháng 8 năm 1905, Phan Bội Châu cũng có nói đến trong Ngục trung thư (cuốn này Phan soạn xong năm 1913 trong nhà ngục ở Quảng Châu, nên ký ức vẫn còn tươi mới). Có thể suy luận rằng, với phong trào lúc đó, thì kinh phí mà Trần Đông Phong giúp cho là một khoản đáng kể, nên các lãnh tụ đều ghi nhớ.

Về Cường Để, có thể xem thêm một số tư liệu mới công bố của Trần Đức Thanh Phong (Trần Đức Thanh Phong 2005; Kawaji 2012). Đây là một người từng giúp việc cho Cường Để trong các năm 1943-1951, được xem là một chứng nhân còn sống cuối cùng của phong trào Đông Du.

(2) Vào mùa đông năm 2004, trong dịp chuẩn bị cho kỷ niệm tròn 100 năm phong trào Đông Du (1905-2005) tại Nhật Bản, được sự ủy thác của Ban Tổ chức, tác giả bài viết đã thực hiện việc chuyển dịch nguyên bản bài văn bia do Phan Bội Châu viết năm 1918 từ Hán văn sang Việt văn. Sau đó mấy năm, qua thẩm định và giới thiệu của giới chuyên môn, bản Việt văn này được lựa chọn để khắc vào mặt sau tấm bia song ngữ mang tiêu đề Bia kỷ niệm quan hệ giao lưu Việt- Nhật từ phong trào Đông Du được dựng vào năm 2010, từ sự quyên góp của cộng đồng người Nhật, ở trong khuôn viên Nhà lưu niệm Phan Bội Châu tại thành phố Huế (mặt chính của bia thì có khắc ảnh màu chụp thu nhỏ bia nguyên vật dựng năm 1918 ở Nhật Bản).

(3) Có nghĩa là “sinh năm Giáp Thân”. Năm Giáp Thân là năm 1884. Có một số tài liệu ghi Trần Đông Phong sinh năm 1887.

(4) Có nghĩa là “mất vào ngày 2 tháng 5 năm Mậu Thân”. Mậu Thân ở đây là năm 1908. Ngày và tháng ở đây chắc là theo âm lịch, tính sang dương lịch thì là ngày 31/5/1908 (Chủ Nhật).

(5) Bà Trần Đông Phong ở vậy suốt đời phụng dưỡng cha mẹ chồng tại Thanh Chương, rồi mất năm 1939.

(6) Shibata sinh năm 1919 (Đại Chính 8). Cụ dạy học ở các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông ở vùng Asaba trong nhiều năm, đến năm 1982 thì về hưu. Từ trước khi nghỉ hưu, cụ đã tham gia vào việc biên soạn lịch sử ở địa phương [Shibata 1988: trang cuối]. Cụ mất năm 2009, thọ 90 tuổi [Oguri 2010: 7].

(7) Tên đúng của sách là Phong thổ ký vùng miền Nam Việt Nam 南ベトナム風土記, đã xuất bản năm 1964.

(8) Cuốn sách của Utsumi viết về Phan Bội Châu mãi đến năm 1999 mới được xuất bản (sách có tựa đề Truyện về Phan Bội Châu nhà cách mạng giải phóng dân tộc của Việt Nam - cuộc đời của nhà cách mạng đã hoạt động tại Nhật Bản và Trung Quốc ヴェトナム独立運動家潘佩珠伝: 日本・中国を駆け抜けた革命家の生涯). Bản thân tác giả thì đã mất năm 1986.

(9) Về phát biểu của ông Phan Thiệu Cơ, với bản tiếng Việt, có thể thấy trong các tư liệu sau: Nhiều tác giả 2005 (trang 417-428); Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế 2009 (trang 325-334).

(10) Trang web đó có thể truy cập bằng đường link sau: http://www.asaba.or.jp/machiokosi/ vietnam/index.htm

(11) Tên của hội này, trong tiếng Việt, còn thấy được dịch là “Hội Hữu nghị Asaba-Việt Nam”, hay “Hiệp hội Asaba-Việt Nam”.

(12) Một số thông tin chi tiết hơn có thể xem trong tư liệu sau: Amma 2008, 2009; Hội Asaba-Việt Nam 2010, 2012.

(13) Trang Facebook của hội có thể truy cập với đường link sau: https://www.facebook.com/ asaba.vietnam/

(14) Theo tin của VTV, từ đường link sau: http://vtv.vn/truyen-hinh/nguoi-cong-su-bo-phim-dac-biet-trong-nam-huu-nghi-viet-nam-nhat-ban-99222.htm

(15) Ý tưởng khai thác tấm bia ở Asaba như một điểm du lịch để thiết kế tua cho du khách Việt Nam tựa như xuất hiện đầu tiên vào khoảng năm 2005 với công ty Travelviet (xem Đỗ Thông Minh 2005: 17; Đỗ Thông Minh (đại diện) 2005, trang bìa). Năm 2005 cũng là năm có Hội chợ Quốc tế Aichi.

(16) Ông Nguyễn Quốc Cường là Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền Việt Nam tại Nhật Bản từ tháng 7 năm 2015. Trước đó là các đại sứ Nguyễn Phú Bình (2008-2011), Đoàn Xuân Hưng (2012-2015). Thông tin lấy từ trang web của Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản: http://www. vnembassy-jp.org/

(17) Xem các nghiên cứu sau: Đinh Xuân Lý 2007; Vụ Văn hóa Đối ngoại và UNESCO 2008; Trần Thị Thu Hà 2012; Chu Xuân Giao 2012; Phạm Thủy Tiên 2013; Song Thành 2014; Phạm Ngọc Anh 2015; Phạm Sanh Châu 2016.

(18) Xem các nghiên cứu sau: Kitayama 2003; Hoshiyama 2008; Hạ Thị Phi Lan 2013; Kaneko 2014; Lee 2015.

(19) Xem các nghiên cứu sau: Milton 2003; Từ Huệ Phần - Đường Trọng 2010; Yoshimoto 2013.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Amma Yukiho安間幸甫編集. 2008.『ベトナム独立への道 浅羽佐喜太郎記念碑に秘められた東遊運動の歴史』.浅羽ベトナム会発行.
  2. Amma Yukiho. 2009 (2005). “Giao lưu giữa Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro”. In trong Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế 2009: 116-121.
  3. Bảo tàng tư liệu hương thổ thị trấn Asaba 浅羽町郷土資料館.2003.『浅羽町郷土資料館報告第三集 碑文等調査報告書』浅羽教育委員会.
  4. Chu Xuân Giao. 2004. “Góp thêm một bản dịch tiếng Việt cho bài văn bia tưởng niệm bác sĩ Asaba Sakitaro của Phan Bội Châu”, trang talawas ngày 20/10/2005 (http://www.talawas. org/talaDB/showFile.php?res=5629&rb=0305).
  5. Chu Xuân Giao. 2012. “Chiều sâu văn hóa trong phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh”. Tạp chí Văn hóa Quân sự (cơ quan của Tổng Cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam), số tháng 81, pp.4-5 (In lại trong tạp chí Cẩm Thành, số 68 : 3-5).
  6. Chu Xuân Giao. 2013a. “Chứng tích giao lưu văn hóa Việt - Nhật thời cận hiện đại: lịch sử đang được viết tiếp”. Tạp chí Văn hóa Quân đội, số 95: 6-7&50.
  7. Chu Xuân Giao. 2013b. “Chứng tích giao lưu văn hóa Việt – Nhật thời cận hiện đại : lịch sử đang được viết tiếp”. Tạp chí Nhịp cầu Tri thức (tạp chí ra hàng tháng của Nxb Chính trị Quốc gia), số 7(67): 42-44.
  8. Chương Thâu. 2008. “Về tấm bia kỷ niệm Thiển Vũ Tá Hỷ Thái Lang (SAKITORO ASABA) của Phan Bội Châu ở Nhật Bản năm 1918”. Tạp chí Hán Nôm, số 2 (87): 69-72.
  9. Chương Thâu (sưu tầm và biên soạn). 2012. Phan Bội Châu toàn tập - Tập bổ di 1. Hà Nội: Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
  10. Cường Để. 1957. Cuộc đời cách mạng Cường Để (nhà báo Tùng Lâm ghi; Ban Tuyên truyền của Việt Nam Quang Phục Đồng Minh Hội tại Tokyo dịch sang tiếng Việt; Tráng Liệt xuất bản). Sài Gòn: Nhà in Tôn Thất Lễ.
  11. Đinh Xuân Lý. 2007. “Về sự chuyển hướng chiến lược đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 6: 16-22.
  12. Đỗ Thông Minh. 2005. “Những phát giác mới về chí sĩ Phan Bội Châu”. Tạp chí Nguyệt san Mekong月刊メコン, số 117: 15-17.
  13. Đỗ Thông Minh (đại diện). 2005. Kỷ niệm 100 năm (1905-2005) cụ Phan Bội Châu đến Nhật và phong trào Đông Du東遊運動百周年.東京:越日文化交流倶楽部・ファンボイチャウセンター主催.
  14. Hạ Thị Phi Lan. 2013. “Chính sách ngoại giao văn hóa của Nhật Bản từ sau chiến tranh lạnh đến nay và tác động của nó với Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, số 2 (144): 61-69.
  15. Hội Asaba-Việt Nam (Amma Yukiho đại diện). 2010. Tình bạn giữa Phan Bội Châu và Asaba Sakitaro trong phong trào Đông Du. Ban điều hành hội nghị giao lưu Việt Nam-Fukuroi 2010 xuất bản. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam hiệu chỉnh.
  16. Hội Asaba-Việt Nam浅羽ベトナム会.2012.「浅羽ベトナム会の沿革」Đăng trên website của Hội: http://asaba.hamazo.tv/c632557.html.
  17. Hoshiyama Takashi星山隆. 2008.『日本外交とパブリック・ディプロマシー ―ソフトパワーの活用と対外発信の強化に向けて―』財団法人世界平和研究所レポート(IIPS Policy Paper 334J June 2008)
  18. Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Thừa Thiên Huế. 2009. Việt Nam 100 năm phong trào Đông Du và hợp tác Việt-Nhật để bảo tồn, phát triển di sản văn hóa Huế. Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
  19. Joseph Nye. 2004a. Soft Power: The Means to Success in World Politics. Perseus Books Group.
  20. Joseph Nye. 2004b. “Soft Power and American Foreign Policy”, Political Science Quarterly (The Academy of Political Science)119 (2): 255-270.
  21. Joseph Nye (山岡洋一訳). 2004c. 『ソフト・パワー―21世紀国際政治を制する見えざる力』日本経済新聞社.
  22. Kaneko Masafumi金子将史. 2014.「転換期を迎える日本のパブリック・ディプロマシー」日本国際問題研究所『国際問題』635:38-48.
  23. Kaneko Masafumi - Kitano Mitsuru (chủ biên) 金子将史, 北野充編著. 2007. 『パブリック・ディプロマシー : 「世論の時代」の外交戦略』.PHP研究所.
  24. Kawaji Yuka 河路由佳. 2012.「1943年・仏印から日本への最後のベトナム人私費留学生とべとナム独立運動―――― チェン・ドク・タン・フォン(陳徳清風)さん ――An Interview with the Last Vietnamese Student to Japan from French Indochina: Mr. Tran Duc Thanh Phong on the Vietnamese Independence Movement」『日本オーラル・ヒストリー研究』 8巻 : 163 - 175.
  25. Kitayama Kaoru北山馨. 2003.「パブリック・ディプロマシー--アメリカの外交戦略」国立国会図書館調査及び立法考査局『レファレンス 』53(4):134-152.
  26. Lee Kyountaek李炅澤. 2015.「日本における「新しい」パブリック・ディプロマシーの挑戦とその限界 : 民主党政権におけるパブリック・ディプロマシーの方向性とその転換を中心に The "New" Public Diplomacy in Japan with a Focus on its Rise and Collapse」
  27. Mikami Takanori三上貴教. 2007.「パブリック・ディプロマシー研究の射程 A range of studies on public diplomacy」広島修道大学『修道法学』29(2):246-225.
  28. Milton C. Cummings. 2003. Cultural Diplomacy and the United States Government: A Survey, Washington: Center for Arts and Culture.
  29. Nhiều tác giả. 2005. Phong trào Đông Du và Phan Bội Châu (Kỷ yếu chọn lọc của Hội thảo khoa học Kỷ niệm 100 năm phong trào Đông Du và Phan Bội Châu do Tỉnh ủy Nghệ An và Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây phối hợp tổ chức tại thành phố Vinh ngày 10/9/2005). TP Vinh: Nxb Nghệ An - Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây.
  30. Oguri Katsuya 小栗勝也. 2010.「書評と紹介 柴田静夫『報恩の碑 : 義侠の医師浅羽佐喜太郎と潘佩珠』」『新袋井フォーラム会報』第18号:6-8.
  31. Oguri Katsuya 小栗勝也. 2011.「袋井関連人物参考資料目録(2)~浅羽佐喜太郎、川村驥山関連資料目録~」『静岡理工科大学紀要』第19巻: 83-92.
  32. Phạm Ngọc Anh. 2015. “Ngoại giao văn hóa Việt Nam: Hội nhập quốc tế và lợi ích quốc gia”. Tạp chí Cộng sản, số 875 (9/2015).
  33. Phạm Sanh Châu. 2016. “Thành tựu ngoại giao văn hóa từ năm 2011-2015”. Đăng trên http:// baochinhphu.vn/Van-hoa/Thanh-tuu-ngoai-giao-van-hoa-tu-nam-20112015/246055.vgp.
  34. Phạm Thủy Tiên. 2013 (2016). “Ngoại giao văn hóa (Cultural diplomacy)” (in trong Sổ tay thuật ngữ quan hệ quốc tế, Đào Minh Hồng - Lê Hồng Hiệp chủ biên,TP Hồ Chí Minh: Khoa Quan hệ Quốc tế, Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP Hồ Chí Minh, 2013). Bản trên mạng nghiencuuquocte ngày 23/1/2016. (http://nghiencuuquocte.org/2016/01/23/ ngoai-giao-van-hoa-cultural-diplomacy/).
  35. Phạm Xuân Nguyên. 2005. “Những tấm bia lưu vết tích phong trào Đông Du trên đất Nhật”. In trong Nhiều tác giả 2005: 387-393.
  36. Phan Bội Châu.1939. “Văn tế bà Trần Đông Phong”, In trong Chương Thâu 2012 (Phan Bội Châu toàn tập - Tập bổ di 1): 63-65.
  37. Phan Bội Châu.1957. Phan Bội Châu niên biểu: Tức Tự phê phán. Phạm Trọng Điềm – Tôn Quang Phiệt dịch. Hà Nội: Nxb Sử địa.
  38. Phan Bội Châu.1987. Tự phán – Hồi ký vận động cách mạng dân tộc của cụ Phan Bội Châu. In lần thứ hai. California: Nhân Chủ học xã.
  39. Saito Gen 斎藤玄. 1980.「ベトナム亡命人と浅羽佐喜太郎:困窮を救った熱い “アジア精神”」『朝日新聞』1980年9月26日夕刊第5面.
  40. Shibata Shizuo柴田静夫.1977.「ベトナム独立運動の亡命者を助けた浅羽佐喜太郎(郷土史夜話)」磐南文化協会設立準備会発行『磐南文化』創刊号(昭和52年10月)25-27.
  41. Shibata Shizuo柴田静夫.1988.『浅羽  我が郷土の今昔』.   浅羽町農業協同組合
  42. Shibata Shizuo柴田静夫.2009.『報恩の碑 : 義侠の医師浅羽佐喜太郎と潘佩珠』東京 : 菁柿堂.
  43. Shiraishi Masaya白石昌也.1992.『ベトナム民族運動と近代日本・アジア : ファン・ボイ・チャウの革命論を中心に』東京大学博士論文
  44. Shiraishi Masaya白石昌也.1993.『ベトナム民族運動と日本・アジア : ファン・ボイ・チャウの革命思想と対外認識』厳南堂書店
  45. Shiraishi Masaya (Nguyễn Như Diệm và Trần Sơn dịch, Chương Thâu hiệu đính). 2000. Phong trào dân tộc Việt Nam và quan hệ của nó với Nhật Bản và châu Á – tư tưởng của Phan Bội Châu về cách mạng và thế giới (Tập 1, 2). Hà Nội: Nxb Chính trị Quốc gia.
  46. Shiraishi Masaya白石昌也. 2005.「東遊運動期ベトナム人留学生の日本での活動」東遊運動100周年記念講演(2005年4月16日、於東京外国語大学、原稿4頁)
  47. Song Thành. 2014. “Ngoại giao văn hóa với vấn đề gia tăng sức mạnh mềm của Việt Nam trong hội nhập và phát triển”. Website Tạp chí Văn hóa Nghệ An ngày 27/4/2014.
  48. Thành Nguyễn. 2013. “Phim "Người cộng sự" có nên bị vứt vào sọt rác?”. Fb Thành Nguyễn ngày 30/9/2013(https://www.facebook.com/photo.php?fbid=629362207086487&set=a.540 258165996892.1073741828.100000381394367&type=3&theater).
  49. Thế Nguyên. 1956 (1950). Phan Bội Châu thân thế và thi văn (1867-1940). In lần thứ 2. Sài Gòn: Tân Việt.
  50. Trần Đức Thanh Phong. 2005. “Những kinh nghiệm bản thân rút ra từ phong trào Đông Du”. Nguyệt san Mekong月刊メコン通信số 117 (tháng 3/3005): 13-14.
  51. Trần Thị Thu Hà. 2012. “Ngoại giao văn hóa và vai trò của nó đối với chính trị Việt Nam từ 1986 đến nay”. Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà NộiNgoại ngữ số 28: 185-193.
  52. Từ Huệ Phần - Đường Trọng (YU Huifen-TONG Chong/余惠芬・唐翀). 2010.「论中国对东南亚的文化外交 China's Cultural Diplomacy to Southeast Asia」『暨南学报 (哲学社会科学版) Journal of Jinan University (Philosophy and Social Sciences)』总第146 期 : 252-257.
  53. Vĩnh Sính. 2001a. Việt Nam và Nhật Bản - Giao lưu văn hóa. TP Hồ Chí Minh: Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.
  54. Vĩnh Sính. 2001b (1990). “Phan Bội Châu và Asaba Sakitarô”. In trong Vĩnh Sính 2001a : 217-230.
  55. Vụ Văn hóa Đối ngoại và UNESCO (Bộ Ngoại giao Việt Nam). 2008. Kỷ yếu Hội thảo quốc gia "Ngoại giao văn hóa vì một bản sắc Việt Nam trên trường quốc tế, phục vụ hòa bình, hội nhập và phát triển bền vững (Hà Nội, ngày 15-16/10/2008)”. Tập kỷ yếu gồm 190 trang khổ A4.
  56. Yoshimoto Hideko 吉本秀子. 2013. 「パブリック・ディプロマシーの理論的枠組み構築に向けて (Building a Theoretical Framework of Public Diplomacy)」『山口県立大学学術情報』第6号: 29-38. 筑波大学人文社会科学研究科『国際日本研究』7: 153-165.

 

Chu Xuân Giao, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016

    Thông tin truy cập

    63699927
    Hôm nay
    Hôm qua
    Tổng truy cập
    20219
    23426
    63699927

    Thành viên trực tuyến

    Đang có 222 khách và không thành viên đang online

    Sách bán tại khoa

    • Giá: 98.000đ

      Giá: 98.000đ

    • Giá: 85.000đ

      Giá: 85.000đ

    • Giá: 190.000đ

      Giá: 190.000đ

    • Giá:140.000đ

      Giá:140.000đ

    • 1
    • 2
    • 3
    • 4

    Liên hệ mua sách:
    Cô Nguyễn Thị Tâm
    Điện thoại: 0906805929

    Danh mục website