Tháng hai này (2015) thầy chúng tôi ra đi vừa chẵn hai mươi năm.

Bao nhiêu nước đã chảy qua cầu nhưng với lũ học trò chúng tôi thì “ Người ngỡ đã đi xa, nhưng người vẫn ở lại. Người ngỡ đã đi xa nhưng người vẫn quanh đây” ( Trịnh Công Sơn).

Hiện nay một số tổ chức văn hóa của nước ta đã bắt đầu chuẩn bị Lễ kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du vào năm 2015. Lễ kỷ niệm này sẽ có một ý nghĩa quan trọng đặc biệt vì ngày 25- 10-2013 vừa qua tại kỳ họp thứ 37 ở Paris, Đại hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) lần đầu tiên đã thông qua Nghị quyết vinh danh Nguyễn Du là nhà văn hóa kiệt xuất cùng với nhiều danh nhân khác của thế giới. Nhân dịp này tôi muốn gợi lại một số hồi ức về hai chuyến đi sưu tầm tài liệu về Nguyễn Du tại Trung Quốc trong hai năm 1963 và 1964 nhằm phục vụ Lễ kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965.

Với đất nước Romania, chúng ta đã từng được tiếp cận một số tác phẩm văn học, từ cổ điển đến hiện đại, bây giờ lại được khám phá văn hóa đất nước này qua con đường thi ca của nữ sĩ Rodica Marian với tác phẩm "Khoảnh khắc can đảm" (The courage of the moment) do dịch giả, nhà thơ Bùi Xuân chuyển ngữ sang tiếng Việt, NXB Hội Nhà văn vừa ấn hành trong chương trình hoạt động giao lưu đối ngoại của Hội Nhà văn Việt Nam.

Tôi là bản sao trắng của màn đêm
Sự nặng nề không chạm vào tôi      
Rồi đột nhiên ánh sáng được sinh ra
Trông hạnh phúc và dễ bị tổn thương
Như chú chim hải âu đi chân trần vào buổi sáng. 

Bài thơ ngắn "Ánh sáng sinh thành" có thể xem là chân dung tự thuật rất sinh động của nhà thơ Rodica Marian. Sinh trưởng tại Beius, hạt Bihor bà là tác giả nhiều tập thơ, tiểu luận, bình luận văn học được xuất bản trong và ngoài nước Romania, được trao các giải thưởng văn học danh giá: Giải thưởng "Bogdan Petriceicu Hasdeu" của Viện Hàn lâm Romania (1995), Giải thưởng Hội Nhà văn Romania tại Cluj - Napoca (1999), Giải kỷ niệm Quốc gia "150 năm Ngày sinh của Mihai Eminescu" (2000), Giải thưởng Liên hoan Thơ Quốc tế (2010)…

20240313 4

Rodica Marian còn là Tiến sĩ Ngôn ngữ học, chuyên gia nghiên cứu về từ vựng học, từ điển học, ngữ nghĩa học, ký hiệu học, thi pháp học, phong cách học,… Đó là nền tảng và thế mạnh hết sức quan trọng cho Rodica Marian trên hành trình sáng tạo thế giới thi ca riêng mình. Một thế giới kết hợp tài năng, cảm xúc với tư duy khoa học ngôn ngữ để hình thành nên những bản "thánh ca" tâm hồn có sức lay động và lan tỏa.

Không phải ngẫu nhiên trong tập thơ "Khoảnh khắc can đảm" có nhiều bài thơ viết về thư viện. Bởi thư viện cũng đồng nghĩa với ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử. Thư viện đã trở thành một trong những nguồn cảm hứng chủ đạo cho nhà thơ cũng đồng thời là nhà ngữ học Rodica Marian. Ngay bài thơ đầu tiên của tập thơ của bà cũng viết về thư viện:

Trước Thư viện Celsus, của Ephesus cổ đại;
Tôi không dám, không thể vượt qua
Dưới dáng vẻ nguy nga, điệp trùng của nó,
Với hốc tường và trụ đỡ hàng hàng lớp lớp…

(Thư viện Celsus)

Ephesus là một thành phố của Hy Lạp cổ đại được xây dựng vào thế kỉ thứ X trước Công nguyên, hiện nay thuộc thị trấn Selcuk, tỉnh Izmir của Thổ Nhĩ Kỳ. Và tại đây, theo lời nữ sĩ Rodica Marian: "Tôi cảm thấy hoảng sợ, ngột ngạt trước cỗ quan tài của/ Tiberius Julius Celsus Polemaeanus/ người từng là Tổng trấn của vùng Tiểu Á/ vào thế kỷ thứ nhất/ trên ngôi mộ của ông, con trai ông đã xây dựng một thư viện (và lăng mộ của ông được vinh dự đặt trong phòng đọc sách)".

Giữa sự hoành tráng và vinh dự dành cho người xưa, thật bất ngờ khi Rodica Marian có cái nhìn khác biệt. Một cái nhìn bằng nhịp đập trái tim nhân văn:

Giờ đây, trong hầm mộ của mình,
Tôi có cảm giác ông cô đơn hơn, dưới bức tượng vĩ đại của Athena,
Trong hố tường có mái vòm,
Từng được bảo vệ nghiêm ngặt  
Trong những hang động thư viện trống không 
Dường như chúng lạnh nhạt
Với số phận ngôi mộ xây bên cạnh,
Bất lực nhìn kinh sách biến mất.

Rồi từ quá khứ phóng chiếu với thực tại chính mình, cảm thức hiện sinh của nữ sĩ Rodica Marian càng gây ngạc nhiên:

Tôi nghĩ về nấm mộ khiêm nhường của mình
Bên nhà nguyện mái ngói xanh
Khép nép dưới bóng một cây dại,
Cô độc, mọc hoang trong nghĩa trang 

Và điều đó, có lẽ là từ những suy nghĩ vụn vỡ, cuối cùng của mẹ tôi.

Thật nhẹ nhàng và tinh tế. Rõ ràng với nhà thơ thì mọi số phận bình đẳng như nhau. Cả khi chết. Sự hào nhoáng chỉ làm cho linh hồn con người thêm cô đơn. Và sự cao đẹp đôi khi đến từ sự giản dị. Suy tưởng của nữ sĩ Rodica Marian trong "Thư viện Celsus" làm tôi nhớ tới nữ sĩ Nobel Văn học 1996 Wyslawa Szymborska của Ba Lan với bài thơ "Bảo tàng" cũng đầy ngạc nhiên ám gợi từ di sản quá khứ: "Những chiếc đĩa, nhưng chẳng ai thèm khát/ những chiếc nhẫn nhưng chẳng có tình yêu lứa đôi/ ít nhất cũng ba trăm năm rồi/ một chiếc quạt nhưng ở đâu nét mặt đỏ gay/ những thanh kiếm nhưng ở đâu sự giận dữ/ và chiếc đàn tỳ bà ngái ngủ/ không một lần rung lên/… kim loại, thạch cao, lông chim/ qua thời gian lặng im ăn mừng chiến thắng/ chỉ chiếc trâm của người đàn bà Ai Cập khúc khích cười/ chiếc vương miện đã phí công đợi một đầu người/ bàn tay đã thua chiếc găng tay/ chiếc giày chân phải đã thắng bàn chân phải…". (Tạ Minh Châu dịch).

Nữ sĩ Rodica Marian: Tôi là bản sao trắng của màn đêm -0
Tập thơ “Khoảnh khắc can đảm” của nữ sĩ Rodica Marian.

Cũng bằng trái tim nhân văn và "với sự kiên nhẫn lâu dài" suy tư qui luật sinh tồn, ở bài "Thư viện Alexandria", nữ sĩ Rodica Marian lại thấu thị về một trong những thư viện lớn nhất của thế giới cổ đại ở Ai Cập lẫn sự cô đơn không cần thiết của nhà vua Ptolemaios II giữa nắng mưa thời gian:

số phận sắp đặt
khiến thư viện Alexandria bị thiêu rụi
chỉ còn lại bức tượng Ptolemy II ở đó,
cô đơn trong dòng xe cộ chết tiệt của đường phố,
ngột ngạt giữa những bức tường quá cao,
với những chữ cái khổng lồ của tất cả các bảng chữ cái trên thế giới.  

Đến với "Thư viện Khổng Tử", sản phẩm văn hóa "nằm trong một ngôi đền kì lạ, gọn gàng đến khó tin" mang tinh thần của nhà hiền triết lừng lẫy Trung Quốc, nữ sĩ Rodica Marian lại thức nhận rằng "Trong sự rộng lượng phi thường ấy,/ Đừng để bạn được yêu/ Hãy để tình yêu vụt qua bạn", vì dưới góc nhìn mỹ cảm khác lạ vừa bình thản vừa sâu sắc và giàu sức liên tưởng của bà từ công trình này:

Hạnh phúc là một mô hình hóa đá buồn
Trong tục ngữ, về cơ bản không thể dịch sang
Bất kỳ ngôn ngữ lịch sử nào,
Ngọn lửa ám ánh ở bên trong màu xanh vàng,
Miền đất hứa từ chiều không gian thứ tư,
Con rồng cổ xưa tự nuốt chửng lấy mình,
Một hệ thống vô trùng vết thương bị cấm,
Một băng dính toàn cầu đang mở rộng,
Tai họa cứu rỗi của mọi phép lạ bất ngờ
Và một sự phản bội vô cùng tinh vi trong số phận con người.

Những bài thơ viết về thư viện chỉ là một phần trong "Khoảnh khắc can đảm" bản lĩnh và trí tuệ của nhà thơ Rodica Marian. Theo bước lãng du được chiếu rọi qua trái tim nhạy cảm và tâm hồn phóng khoáng của thi sĩ, con người và cảnh vật hiện lên với vẻ đẹp đa chiều từ những khoảnh khắc. Đắm chìm vào thế giới thi ca của Rodica Marian chúng ta như được khám phá một vũ trụ mới kết tinh từ tình yêu thương và lòng can đảm để vượt qua sự cô độc luôn ngự trị trong mỗi con người:

Chúa ơi, trong phút giây này, con cần bao nhiêu can đảm để lưu lại một khoảnh khắc,
Để đừng bỏ qua những giờ hạnh phúc
hoặc một thế kỉ diệu kì, 
Nếu không thì cuộc sống của con dường như sẽ lẻ loi, vụng về, cô độc
lúc phải lìa xa cuộc đời.

                     (Khoảnh khắc can đảm)

Đất nước của thi hào Mihai Eminescu đã từng mang đến cho người yêu thơ Việt Nam những tác phẩm văn học giá trị, mà gần đây tiêu biểu là hai nhà thơ Attila Balazs và Sandor Halmosi dù sống ở Hungary nhưng mang tâm hồn người Romania. Hai ông cũng chính là cầu nối quan trọng đưa thơ Rodica Marian cũng như những nhà thơ khác đến với Việt Nam. Vẻ đẹp "Khoảnh khắc can đảm" của nữ sĩ Rodica Marian càng tăng thêm qua sự chuyển ngữ của nhà thơ, dịch giả Bùi Xuân. Đây là sự gặp gỡ của tài hoa và mang tính liên tài để chúng ta có được một tập thơ hay đáng thưởng thức.

Phan Hoàng
Nguồn: Văn nghệ Công an, ngày 18.01.2024.

Hình ảnh về đời sống nước ta còn lưu lại trong thư tịch rất ít. Tư liệu  phong phú nhất là bộ tranh khắc gỗ của Henri Oger Kỹ thuật của người An Nam với hơn 4500 bức hoàn thành vào đầu thế kỷ XX. Trước đó, ta có thể tìm thấy hình ảnh đời sống qua một số hình vẽ lẻ tẻ trong một số sách Hán Nôm trong nước và cả sách vở nước ngoài như Trung Quốc, châu Âu v.v… Tìm vào thư tịch cổ Nhật Bản, chúng tôi tìm thấy khá nhiều hình ảnh đời sống người Việt từ thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, trong đó có tư liệu quan trọng là bộ An Nam kỷ lược cảo安南紀畧藁  của Kondo Juzo近藤 重蔵 hoàn thành vào cuối TK.XVIII.

Nhân dịp tiểu thuyết Người đẹp ngủ mê được trở lại với diện mạo mới, ngày 23-12, Phương Nam Book tổ chức chương trình giao lưu với chủ đề “Những thể nghiệm nhân sinh trong tác phẩm của Kawabata” tại Đường sách TP Thủ Đức. Khách mời chia sẻ tại chương trình là nhà nghiên cứu Nhật Chiêu và dịch giả Quế Sơn.

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka (Nhật Bản), mồ côi cha mẹ năm lên 2 tuổi. Từ đó, ông và chị sống lần lượt cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Kawabata Yasunari là tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên và người châu Á thứ ba đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1968.

Những sáng tác văn chương, những tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata Yasunari qua thời gian vẫn luôn đem lại hấp lực mạnh mẽ đối với nhiều nhà phương Đông học trên khắp các châu lục, có sức lôi cuốn rộng rãi độc giả trên thế giới, phản ánh nhiều phương diện của văn hóa Nhật cũng như những rung cảm đầy đam mê mà tinh tế của tâm hồn Nhật.

20231231 4Dịch giả Quế Sơn và nhà nghiên cứu Nhật Chiêu (từ trái qua) chia sẻ tại chương trình. Ảnh: QUỲNH YÊN

Người đẹp ngủ mê được Kawabata Yasunari viết và xuất bản vào năm 1961 khi ông 62 tuổi. Tác phẩm này dựa trên một kịch bản sân khấu kabuki với nhan đề Những mỹ nữ của Eguchi, công diễn khoảng thế kỷ XVII ở Nhật Bản. Kiệt tác Người đẹp ngủ mê đã ảnh hưởng lớn đến văn chương Nhật cũng như được yêu thích trên thế giới. Dấu ấn của nó có thể thấy sâu đậm ở Gabriel García Márquez với các tác phẩm: Người đẹp ngủ mê trên máy bay và Hồi ức những cô gái điếm buồn của tôi

Theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, sau khi đoạt giải Nobel Văn học vào năm 1968, sang năm 1969, tác phẩm của Kawabata bắt đầu được dịch ở Việt Nam. Tác phẩm Người đẹp ngủ mê hiện có 3 người dịch và dịch giả Quế Sơn là người dịch thứ hai.

Ngoài Người đẹp ngủ mê, nhiều tác phẩm của Kawabata cũng rất được yêu mến tại Việt Nam như: Xứ tuyếtĐẹp và buồnNgàn cánh hạcHồTiếng rền của núi, và mới đây, một tác phẩm hãy còn dang dở của ông cũng vừa được ra mắt là Bồ công anh.

Tại chương trình, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu đã chỉ ra sự tương đồng giữa Kawabata và danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi. Dù sống cách nhau nhiều thế kỷ nhưng cả hai lại có sự tương đồng trong cảm thức về cái đẹp. Cụ thể, trong Quốc âm thi tập, khi miêu tả vẻ đẹp của bông hoa dâm bụt, Nguyễn Trãi viết: “Ánh nước, hoa in một đóa hồng”.

Theo chia sẻ của nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, câu thơ này khiến ông liên hệ đến đóa hoa mà Kawabata chia sẻ trong diễn từ nhận giải Nobel. “Kawabata cho rằng, tôi đến từ cái đẹp Nhật Bản, tôi sinh ra từ cái đẹp Nhật Bản. Cuộc sống của tôi là khởi sự từ cái đẹp Nhật Bản và Kawabata suốt đời theo đuổi lý tưởng cái đẹp có thể cứu vớt con người nhưng con người cũng phải cứu vớt cái đẹp. Đó là tư tưởng chủ đạo của Kawabata và trong tác phẩm này cũng như vậy”, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho biết.

Nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cho rằng, thi pháp quan trọng nhất của Kawabata, đó là thi pháp gương soi. Ông tả cái bóng để người đọc có thể thấy cái hình nó đẹp như thế nào. Và danh nhân Nguyễn Trãi cũng sử dụng thi pháp này khi miêu tả bông hoa dâm bụt.

Trong tác phẩm Người đẹp ngủ mê, nhân vật chính Eguchi 67 tuổi là người khó ngủ, thậm chí phải dùng đến thuốc ngủ để dỗ giấc ngủ của mình. Ông tìm đến ngôi nhà của người đẹp ngủ mê để có thể tìm lại bình yên và sức sống, khát vọng sống trên đời, khát vọng hiện hữu với cái đẹp và bình an. Nơi đó, ông được đưa vào một căn phòng bí ẩn, có một hoặc hai người đẹp đang ngủ mê, họ không biết gì về sự hiện diện của ông. Ông sẽ nằm bên họ, bắt đầu tự dỗ giấc ngủ và nhìn ngắm người đẹp ngủ mê. Chỉ nhìn ngắm thôi, vì quy luật của ngôi nhà là ông không được làm gì xúc phạm đến các cô gái đang nằm ngủ. 

Do vậy, theo nhà nghiên cứu Nhật Chiêu, chúng ta cần nắm vững thi pháp và nguồn gốc của Kawabata để có thể đọc tác phẩm một cách tường minh nhất. “Đừng đọc nó như một tác phẩm truyện ký, thấy gì ghi nấy. Không phải như vậy, vì đây là tác phẩm đầy tính biểu tượng. Hiểu tác phẩm, chúng ta sẽ thấy nó có nhiều ý nghĩa tích cực, nhiều ý nghĩa đẹp chứ không phải là một tác phẩm mà những độc giả hời hợt sẽ tìm đến, xem nó như một tác phẩm dung tục”, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nhắn nhủ.

Quỳnh Yên

Nguồn: Sài Gòn giải phóng, ngày 23.12.2023.

Cuối thế kỷ 18, có một tác phẩm viết về An Nam (Việt Nam) được công bố tại Nhật Bản. Đó là cuốn Annan kiryakukou (An Nam kỷ lược cảo) của Kondo Juzo. Đây là công trình tập hợp các thông tin về Việt Nam thông qua lời kể của những người Nhật từng đến Việt Nam thời Edo (1603 - 1868).

Lâu nay, bạn đọc Việt Nam biết đến văn học Nhật Bản phần nhiều là qua các tác giả hiện đại, ở các mảng văn học hiện thực và văn học trinh thám. Tuy nhiên, ở mảng văn học cổ điển, Nhật Bản có những tác giả, tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu là Yasushi Inoue, một tác giả từ đầu thế kỷ 20, với những tác phẩm không phản ánh trực tiếp nhưng ít nhiều mang sắc màu tư tưởng của bối cảnh lịch sử thời bấy giờ.

20231219 4

Các diễn giả trò chuyện về văn học Nhật Bản và tác giả Yasushi Inoue.

Trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ và xuất chúng của Yasushi Inoue, “Súng săn” và “Bọ tuyết” là hai tác phẩm mang phong cách viết hoàn toàn khác biệt. Điểm chung duy nhất của hai tác phẩm này, và cũng là đặc trưng không thể nhầm lẫn trong các sáng tác của Yasushi Inoue là sắc màu của buồn thương, của tịch liêu. Hai tác phẩm này chính là hai đại diện khác biệt và ở hai thời điểm sáng tác đối lập của Yasushi Inoue.

“Súng săn” là tác phẩm đầu tay của Yasushi Inoue, được xuất bản sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Cuốn sách được kể dưới dạng những bức thư, được gửi từ ba người phụ nữ cho một người đàn ông: cô con gái phát hiện ra người mẹ đã khuất của mình là kẻ ngoại tình, người vợ bị lừa dối và người đàn bà ngoại tình.

Câu chuyện được kể từ 3 góc nhìn khác nhau, và người đọc có thể soi chiếu từng chi tiết trong câu chuyện, để kết nối lại, cảm nhận nỗi đau của từng nhân vật, cũng có sự ràng buộc và liên kết lẫn nhau.

Nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu cho rằng, trong “Súng săn”, Yasushi Inoue len lỏi vào những ngóc ngách sâu xa nhất trong tâm lý con người và khắc họa những gam màu đen tối và dữ dội nhất trong nhân tính và nhân cách của mỗi nhân vật. Dường như trong tâm hồn mỗi nhân vật như có một con rắn gian ác đang oằn mình len lỏi, lâu nay vốn im lìm bỗng dưng cựa mình ngước mắt, gặm nhấm lấy nhân cách của chủ thể.

Theo nhà văn, nhà nghiên cứu văn học Nhật Chiêu, “Súng săn” là một loại “Trong rừng trúc” thứ hai (“Trong rừng trúc” là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Akutagawa Ryunosuke). Ở “Súng săn”, người đọc có thể nhận ra rằng, nỗi buồn cũng là một thứ vũ khí giết người hiệu quả. “Chúng ta có thể giết nhau bằng nỗi buồn mà chúng ta gây ra cho nhau, và gây ra cho mình” - nhà nghiên cứu Nhật Chiêu nói.

Còn Tiến sĩ văn học Nguyễn Quyên cho rằng, cách viết của “Súng săn” rất đơn giản, không có gì đặc biệt. Giống như “Trong rừng trúc”, câu chuyện được kể lại từ lời kể của ba nhân vật, mỗi người lại đóng một vai trò khác nhau trong câu chuyện, và đó là cách kể chuyện đặc biệt của ông.

Khám phá văn học Nhật Bản đầu thế kỷ 20 qua hai tiểu thuyết của Yasushi Inoue ảnh 1
Hai tác phẩm "Súng săn" và "Bọ tuyết". (Ảnh: Nhã Nam)

Nếu như “Súng săn” là tác phẩm tiêu biểu cho sự tối tăm, ảm đạm, thì “Bọ tuyết”, cuốn tiểu thuyết tự truyện của Yasushi Inoue lại mang những sắc màu trong sáng. “Bọ tuyết” kể về thời thơ ấu của cậu bé Kousaku, phải rời xa cha mẹ từ khi mới lên năm, đến sống cùng bà lão Onui trong căn nhà trát đất bình dị nơi thôn dã.

Vốn là vợ bé của ông cố Kousaku, bà Onui phải chịu bao điều tiếng và cái nhìn phán xét từ người làng, nhưng bà vẫn dành cho Kousaku một tình thương đặc biệt. 

Và cứ thế dưới đôi bàn tay bà chăm sóc, tâm hồn non trẻ của Kousaku lớn lên từng ngày giữa thiên nhiên Izu thơ mộng đầy nắng ấm và cỏ thơm.

“Bọ tuyết” khắc hoạ thời thơ ấu của chính tác giả, đong đầy những hoài niệm cố hương và tràn ngập tinh thần trào phúng phóng khoáng. Tuy nhiên, “Bọ tuyết” cũng không tránh khỏi những nét màu buồn thương và cô đơn. Đằng sau những khung cảnh thiên nhiên gắn liền với thời thơ ấu của lũ trẻ cũng là những chi tiết thể hiện nỗi sợ và buồn thương trong số phận của cậu bé Kousaku.

Tiến sĩ Văn học Trần Thị Thục - giảng viên Khoa Văn học, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho rằng, khoảng thời gian những năm 40 cũng là lúc đất nước Nhật Bản còn đang chìm sâu trong chiến tranh và khủng hoảng. Nhiều tác phẩm ở thời kỳ này được viết ra với câu hỏi “Tôi là ai, ở đâu giữa cuộc đời này”. Nhiều tác giả luôn đặt mình trong tiến trình tìm kiếm bản thể, tìm kiếm câu trả lời cho việc tiến lên phía trước hay lùi lại phía sau, Phía trước thì tương lai mông lung vô định, còn quá khứ thì đã lùi xa.

Khám phá văn học Nhật Bản đầu thế kỷ 20 qua hai tiểu thuyết của Yasushi Inoue ảnh 2
Đông đảo độc giả trẻ đã đến nghe trò chuyện về văn học Nhật Bản.

Trong thời gian này, các nhà văn thường trăn trở về sự hy sinh, tồn tại của con người, sự xung đột giữa phương đông và phương tây. Các nhà văn dự cảm được bằng sự tinh tế của mình về sự vật lộn trong tâm hồn con người.

Đồng tình với ý kiến này, nhà nghiên cứu Nhật Chiêu cũng cho rằng, vào giai đoạn những năm 30-40 của thế kỷ trước, Nhật Bản không như bây giờ mà chìm trong không khí buồn thương, vì vậy không thể có những tác phẩm vui tươi. Trong không khí buồn thương đó, các nhà văn Nhật Bản đã quay vào bên trong mình để tìm kiếm một thế giới khác.

“Súng săn” và “Bọ tuyết” là hai tác phẩm văn học Nhật Bản do Nhã Nam ấn hành dưới sự hỗ trợ của Quỹ tưởng niệm Inoue Yasushi (Inoue Yasushi Memorial Foundation). Quỹ này được thành lập vào năm 1992 với mục đích tưởng niệm Inoue Yasushi và sự nghiệp sáng tác đồ sộ của ông. Hai tác phẩm “Súng săn” và “Bọ tuyết” cũng là nỗ lực nhằm quảng bá các tác phẩm của Inoue tại Việt Nam của Quỹ tưởng niệm Inoue Yasushi, Trung tâm giao lưu văn hóa Nhật Bản cùng Nhã Nam.

Yasushi Inoue là nhà văn nổi tiếng Nhật Bản, chuyên sáng tác thơ, truyện ngắn, tiểu thuyết.

Năm 1949, ông nhận giải thưởng văn học Akutagawa với tác phẩm “Đấu bò”. Năm 1951, ông nghỉ làm tại tòa soạn để chuyên tâm sáng tác và đã cho ra đời hàng loạt kiệt tác văn học. Năm 1976, ông nhận Huân chương Văn hóa vì những cống hiến đối với văn hóa Nhật Bản.

Từ năm 1981 đến năm 1985, ông là hội trưởng của Hiệp hội tác gia Nhật Bản (Pen Club). Ông mất năm 1991.

Dù bắt đầu sự nghiệp sáng tác tương đối muộn, Yasushi Inoue nhanh chóng trở thành một trong những cây bút xuất chúng của nền văn học hiện đại Nhật Bản, để lại một khối lượng tác phẩm vô cùng phong phú.

Nhiều tác phẩm của ông đã được chuyển thể thành phim truyền hình và điện ảnh.

Các tác phẩm tiêu biểu của Yasushi Inoue có thể kể đến: "Đấu bò", "Súng săn", "Tường băng", "Mái ngói Tempyo", "Đôn Hoàng", "Bọ tuyết" … "Súng săn" là tác phẩm đầu tay của Yasushi Inoue, được xuất bản sau khi Thế chiến thứ hai kết thúc. Bọ tuyết là tiểu thuyết tự truyện của Yasushi Inoue.

Hà Chi

Nguồn: Nhân dân, ngày 11.12.2023.

Tóm tắt

Ngoại phiên thông thư 外蕃通書 (còn có tên khác là “Ngoại phiên thư hàn” 外蕃書) là tập thư từ ngoại giao giữa Mạc phủ Tokugawa徳川với các nước: Triều Tiên, Lữ Tống (Philippine), Campuchia, Thái Lan, Việt Nam... Thời gian trao đổi các bức thư này là khoảng thế kỷ 17, tương đương với thời Edo sơ kỳ đến trung kỳ của Nhật Bản, và thời Trịnh-Nguyễn phân tranh ở Việt Nam. Người tập hợp, chỉnh lý tập sách ấy là Kondo Juzo 近藤 重蔵 (cũng gọi là Kondo Morishige 守重) (1771-1829), học giả, bề tôi của Mạc phủ Tokugawa. Ngoại phiên thông thư có 27 quyển, trong đó  quyển 1 là mục lục, phần thư từ với Việt Nam gọi là “An Nam quốc thư” 安南國書. Sách được biên tập vào khoảng từ năm 1808-1819, bằng Hán văn và tiếng Nhật cổ có thêm chữ Katakana. An Nam quốc thư sưu tập thư từ của Mạc phủ Tokugawa với chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài về ngoại giao, mậu dịch và bảo hộ công dân Nhật Bản buôn bán ở Việt Nam. Đây là một trong những tập tư liệu cổ nhất về quan hệ Việt Nam và Nhật Bản. Bài viết này bước đầu đi vào nghiên cứu, giới thiệu Ngoại phiên thông thư, phần An Nam quốc thư.

Lý Xuân Chung

Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á

Dẫn nhập

Giao lưu văn hóa Việt - Hàn được mở đầu bằng những sự tích rất đặc biệt là Lý Dương Côn, Lý Long Tường cùng gia quyến vượt biển sang Cao Ly vào thế kỷ XII, XIII, chung sống hòa thuận với người dân bản địa, góp sức cùng dân tộc Hàn chống ngoại xâm, xây dựng đất nước.

20230814 3

Là một người “sở hữu năng lực dị thường” trong việc “cảm nhận những rung động từ quá khứ và cả những tiên đoán từ tương lai” (Debarati Sanyal, Public Books), Patrick Modiano - giải Nobel văn học năm 2014 - đã làm những chuyến thám hiểm vào sương mù quá khứ, phục dựng một cách xuất sắc bầu khí quyển Paris và những phận người thời Đức chiếm đóng từ những mảnh vỡ kí ức và dấu vết hết sức rời rạc, từ đó gợi dẫn đến những dự phóng về tương lai không chỉ riêng của Paris hay nước Pháp cách đây hơn nửa thế kỉ.

Hơn 40 tiểu thuyết của ông, với sự trở đi trở lại của những nỗi ám ảnh về kí ức và sự quên lãng, về sự tái thiết một căn tính đã thất lạc, về cách mà thời cuộc đã hư vô hóa những con người lưu vong trên cái nền Paris ấy, đã không ngừng phản tỉnh người đọc về sự “xong xuôi” của quá khứ. Mỗi tác phẩm của Modiano, vì thế, luôn luôn là một hành trình tìm kiếm kí ức, khi thì của chính “tôi”, khi thì của một người hoàn toàn xa lạ. Đi tìm Dora (tên tiếng Pháp: Dora Bruder, vừa được dịch và ấn hành ở Việt Nam), được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1997, cũng là sự triển khai motif và chủ đề quen thuộc của Modiano. Và nó đã trở thành một trong những tác phẩm quan trọng bậc nhất trong sự nghiệp văn chương của ông, bởi nỗi ám ảnh, day dứt không nguôi về sự biến mất của một con người mà những gì còn lại về người đó ít ỏi và mơ hồ đến độ sau những vất vả kiếm tìm thì nó lại chỉ gợi lên một nỗi nghi ngờ: nỗi nghi ngờ về sự tồn tại.

Ba lần bị hư vô hóa và bí mật của Dora

Năm 1988, nhân vật “tôi” (cũng có thể là chính tác giả) bắt gặp một mẩu tin tìm người trên tờ nhật báo cũ ra ngày 31 tháng mười hai năm 1941:

“PARIS

Tìm một thiếu nữ, Dora Bruder, 15 tuổi, cao 1 mét 55, mặt trái xoan, mắt màu ghi ánh vàng, áo măng tô thể thao màu ghi, áo len màu đỏ đô, chân váy và mũ màu xanh nước biển, giày thể thao màu hạt dẻ. Xin gửi mọi thông tin chỉ dẫn cho ông bà Bruder, số 41, đại lộ Ornano, Paris.”

Nhân vật nữ, đặc biệt là những nhân vật trẻ tuổi, trong tiểu thuyết của Patrick Modiano thường xuất hiện và chiếm lấy phần lớn kí ức của các nhân vật nam chính trong hành trình tìm về quá khứ. Dẫu vậy, chân dung và lai lịch của nhân vật nữ vẫn hiện ra như những bóng hình mờ ảo của một thời đã xa: không rõ tên, không rõ tuổi, không nhân thân, không lai lịch, không nghề nghiệp và không ngừng dịch chuyển. Nói cách khác, sự hiện hữu của họ luôn bị chìm khuất trong hai lớp mù sương: sương mù quá khứ và sương mù thời cuộc. Dora Bruder cũng không ngoại lệ.

Đó là một cô gái hoàn toàn xa lạ, nhưng lại nhanh chóng cuốn hút “tôi” vào một cuộc truy tìm các chỉ dấu xa xôi nhất trong thời gian. Thế nhưng, bất chấp mọi nỗ lực của “tôi”, những gì còn lại về một Dora Bruder chỉ là những mảnh vỡ rời rạc mà khi ghép lại chỉ có thể cung cấp cho người ta một hồ sơ đầy thiếu khuyết: một vài tấm ảnh Dora chụp với gia đình trước khi mất tích, một vài thông tin về cha mẹ Dora, một chút kí ức của người em họ về tính cách của Dora, và một vài dòng ghi chú ngắn gọn trong các sổ đăng kí ở khách sạn tạm trú, ở trường nội trú và ở đồn cảnh sát. Làm cách nào, sự hiện diện của một con người, vốn dĩ rất khó nhọc, lại có thể bị hư vô hóa đến mức mọi cuộc tìm kiếm đều trở nên vô vọng đến vậy?

Paris thời chiếm đóng là nỗi ám ảnh của Patrick Modiano. Bầu không khí chính trị ngột ngạt, căng thẳng bởi những vụ bắt bớ, vây ráp bất ngờ khiến người ta phải không ngừng lẩn trốn. Với người Do Thái, tình cảnh càng trở nên khủng khiếp hơn, khi đạo luật dành cho người Do Thái bắt đầu có hiệu lực. Gia đình Dora là một gia đình Do Thái lưu vong. Nhưng dẫu ở xa nước Đức, họ vẫn phải chịu chung số phận. Từ đây, sự hủy diệt bắt đầu tấn công vào Dora.

Trong hồ sơ Do Thái, cha của Dora đã không khai báo cô con gái của mình. Song đó là cách cha cô bảo vệ cô thoát khỏi sự giám sát của cảnh sát. Dora, về mặt pháp lí, là hoàn toàn không tồn tại. Cha mẹ cô bị số hóa thành 49091. Những người Do Thái khác cũng vậy. Không lâu sau, họ bị vật hóa, thành những ngôi sao vàng. Còn Dora, cô thậm chí còn không có số. Dora bị hư vô hóa lần thứ nhất.

Sự kiện Dora bị mất tích đã buộc cha cô khai báo bổ sung và đăng tin tìm Dora. Lần này, cô đã hiện hữu, nhưng là sự hiện hữu để chính thức bị hư vô hóa lần thứ hai, khi cô bị bắt vào những trại tập trung. Cũng như biết bao nhân vật khác trong thế giới tiểu thuyết Modiano, Dora và những người Do Thái chỉ mang trong mình hi vọng được tồn tại. Các vấn đề về căn tính, bản sắc, tương lai, hiện tại… đều trở nên xa xỉ cực độ. Thế nhưng, hi vọng sinh tồn đó thường chỉ là ảo vọng. Số người may mắn (một cách kì diệu) sống sót sau Holocaust là rất ít. Hai lần bị hư vô hóa, Dora có phải đã từng tồn tại không?

Hành trình Đi tìm Dora của “tôi” đã khai quật được từng mảnh vụn cuộc đời của cô gái ấy theo nhiều cách khác nhau, song những dấu vết rõ ràng nhất chỉ là một hai địa chỉ mà cô đã từng ở, những ngày tháng năm đánh dấu cô sinh ra, bỏ trốn, bị bắt, chuyển trại. Cuộc đời một con người còn lưu lại trên thế gian chỉ có vậy. Có lẽ vì thế mà “tôi” không ngừng đưa ra những phỏng đoán, bằng năng lực “thấu thị” (được nhắc đến trong tác phẩm như là một năng lực kích hoạt những trực giác ngắn ngủi liên quan tới các sự kiện đã qua hoặc trong tương lai), để làm đầy những vùng trũng của quá khứ. Sự trống rỗng của quá khứ khiến “tôi” choáng ngợp. “Tôi” buộc mình không ngừng neo chặt vào những chỉ dấu, thậm chí viết hẳn một cuốn tiểu thuyết về Dora. Một nỗ lực kháng cự lại sự quên lãng và để tái hiện hữu hóa một con người! Thế nhưng, đó vẫn chỉ là những phỏng đoán của “tôi”. Nó là những mảnh ghép mãi mãi không thể nào chính xác và tương thích hoàn toàn với những phần bị mất đi của Dora. Đó là sự gán ghép cuộc đời “tôi” với Dora, là sự chỉnh sửa đầy nguy cơ. Vì ở một góc độ nhất định, sự lấp đầy đó có thể làm biến dạng, sai lệch chân dung lẫn số phận của Dora. Dora không còn đúng với Dora nữa. Và khi đó, nỗ lực tái hiện hữu hóa lại trở thành một lần hư vô hóa Dora, lần thứ ba!

Đến cuối cùng, Dora không hiểu tại sao cả thế giới mà cô đang sống, thành phố Paris, những năm 1941 - 1942, lệnh giới nghiêm, lính tráng, cảnh sát, toàn bộ đều trở nên thù địch và muốn cô tiêu đời - ở tuổi 16. Dora và bao nhiêu người Do Thái cùng chung số phận với cô, có lẽ, cho đến tận thời khắc cuối cùng của đời mình, trong những trại tập trung, trong những phòng hơi ngạt, cũng không hiểu tại sao.

Nhìn lại những nỗ lực vô vọng của “tôi” trong việc Đi tìm Dora từ màn sương mù kí ức, có thể nói, cuộc đời Dora đã bị đánh cắp gần như toàn bộ. Những gì còn lại quá ít ỏi, những phần thiếu khuyết giờ mãi mãi bị vùi lấp trong đám bụi mờ thời gian và trở thành một bí mật. Một bí mật của riêng Dora, như chính “tôi” cảm nhận: “Tôi vẫn sẽ không biết được cô từng làm những gì để qua ngày, cô đã lẩn trốn ở đâu, cô sống cùng ai trong những tháng mùa đông lần đầu bỏ trốn và trong vòng vài tuần mùa xuân, khi cô lại trốn đi lần nữa. Đó là bí mật của cô. Một bí mật nghèo nàn và quý giá mà đám đao phủ, các đạo luật, chính quyền với danh chiếm đóng, Dépôt, các trại lính, các trại, lịch sử, thời gian - toàn bộ những gì vấy bẩn ta và hủy diệt ta - hẳn chẳng bao giờ đánh cắp được của cô.”

Đó là một bí mật không ai đánh cắp được, nhưng cũng không có cơ hội lưu dấu hay trao truyền được. Bí mật cũng đã hóa hư vô.

Một nỗ lực phục hồi kí ức

Theo dấu hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của những nhân vật nam chính trong tiểu thuyết của Patrick Modiano, người đọc có thể cảm nhận rõ họ luôn bị thu hút bởi hình ảnh và hành trạng của một người phụ nữ dẫu rằng những cuộc gặp gỡ của họ hầu hết là tình cờ giữa những phận người trôi dạt. Trong Đi tìm Dora, giữa “tôi” và Dora không có bất cứ mối quan hệ huyết thống hay xã hội nào, “tôi” còn chưa từng biết đến sự tồn tại của cô gái Do Thái ấy, và phải gần 50 năm sau, khi biết thì người đó đã hoàn toàn thuộc về quá khứ và gần như bị chìm lấp. Vì sao “tôi” lại bị cuốn hút và dấn bước vào hành trình tìm kiếm quá khứ của một cô gái xa lạ và cách xa mình đến thế?

Những điểm tương đồng tình cờ giữa Dora và “tôi” không chỉ giúp “tôi” có được sự “thấu thị” và dấn sâu vào công việc tìm kiếm lại những năm tháng bị khuất lấp của Dora, mà còn trở thành chất dẫn cháy làm bùng lên những điểm rời rạc nhưng rõ ràng trong vùng kí ức của mình. Ông không biết gì về Dora vào năm 1965, khi ông 20 tuổi và bà đã chết hơn 20 năm, ông nhận ra rằng tất cả những kí ức không trọn vẹn đáng lo ngại này từ năm 1965 “không chỉ đơn giản là do tình cờ”. Việc Dora bỏ trốn khỏi trường nội trú cũng làm “tôi” nhớ lại ấn tượng mạnh mẽ trong lần bỏ trốn năm 16 tuổi. Địa chỉ 41, đại lộ Ornano, ngay lập tức đánh thức những kí ức của “tôi” về nó. Cái số 41 ông chưa bao giờ chú ý, giờ đây neo chặt vào tâm trí ông. Như vậy, kí ức của “tôi”, sau mấy mươi năm, lại bất ngờ được làm đầy theo cái cách như thế.

Như hầu hết tiểu thuyết của Modiano, thời gian tuyến tính hoàn toàn bị phá vỡ, tự sự mang tính vụn mảnh khi các khoảng thời gian có thể chia lưới, thâm nhập vào nhau, xếp lớp, pha trộn và làm mờ một cách tự nhiên trong tâm trí. Nỗ lực khôi phục kí ức tuy kiên nhẫn và kiên quyết, nhưng lại mang đến một bức tranh mà tổng thể là vô cùng lồi lõm. Tại một số điểm không - thời gian, kí ức hoàn toàn trống rỗng, là một vùng trũng sâu xuống như vùng bí mật của Dora; nhưng cũng có một số điểm, những lớp kí ức chồng lên nhau, phồng lên bởi kí ức về Dora chồng lên kí ức của “tôi”, kí ức về những những người phụ nữ và những người Do Thái khác cùng thời với Dora… và có một số điểm được lấp đầy bằng tưởng tượng của “tôi”. Khả năng gợi lại những kí ức vừa mơ hồ vừa rõ ràng về Paris đầu những năm 40 của thế kỉ trước có thể nhắc nhớ về hành trình “đi tìm thời gian đã mất” của Marcel Proust, song không phải làm sống lại một cách chi tiết và sinh động thời quá vãng, mà là làm mờ hóa mọi đường nét để người đọc chỉ còn bị ấn tượng đến ám ảnh bầu không khí ngột ngạt, căng thẳng khi đó. Mức độ hư vô hóa của nó đối với những phận người lưu vong, những người Do Thái luôn ở mức cao nhất: “Những bố mẹ mất dấu con của họ, và một trong số họ đến lượt mình cũng biến mất, vào ngày 19 tháng ba, như thể mùa đông năm ấy chia tách mọi người, làm rối tinh và xóa mất lộ trình của họ, tới nỗi ném một nỗi nghi ngờ lên sự tồn tại của họ. Và chẳng hề có sự trợ giúp nào. Chính những người có trách nhiệm đi tìm ta lại lập các tờ phiếu nhằm làm ta biến mất sau đó - vĩnh viễn.”

Những sáng tác của Modiano về quá khứ của Paris, của người Do Thái, của những người lưu vong có thể xem như là một hoạt động địa bàn hóa kí ức bằng văn học. Khi nguy cơ những kí ức về những năm tháng đó bị mờ dần do sự biến mất các khuôn xã hội của nó - những tòa nhà ngày nào đã bị san phẳng hoặc thay thế bằng những công trình khác, những người cùng thời nay cũng không còn hoặc phần nhiều bị chứng lãng quên làm mờ đi kí ức, bối cảnh lịch sử xã hội cũng đã đổi khác hoàn toàn… - thì nỗ lực phục hồi kí ức trở nên vô cùng quan trọng, dẫu đó chỉ là những kí ức cá nhân rời rạc, để chống lại sự quên lãng của thời gian.

Annette Kuhn từng viết trong Family Secrets (tạm dịch: Những bí mật gia đình) rằng: “Quá khứ như hiện trường vụ án: Nếu không thể nào khôi phục được động cơ, thì dấu vết vẫn còn đó.” Dấu vết của một Holocaust trong quá khứ sẽ không thể mờ nhòe, bất chấp mọi nỗ lực hòng xóa bỏ nó. Với Đi tìm Dora, Patrick Modiano, người nhạy cảm với những vấn đề kí ức, rõ ràng đã biết cách lưu cữu những dấu vết ấy như là những bằng chứng minh định khả dĩ nhất cho những kí ức, dù cá nhân hay tập thể, về một thảm họa mà nhân loại không thể quên và không nên quên. Không quên, không phải để chia rẽ hay thù hằn, mà là để nỗi băn khoăn day dứt “ta rất muốn hiểu tại sao lại thế” không bao giờ được phép tái lặp thêm một lần nào nữa, dù là với bất kì ai và ở bất kì đâu.

Võ Nguyễn Bích Duyên

Nguồn: Văn nghệ quân đội, ngày 29.7.2023.

Photobucket

Thực tế cho thấy sứ thần hai nước Việt Nam, Triều Tiên gặp nhau không nhiều. Từ thế kỷ X, sau khi giành được độc lập từ Trung Quốc, các triều đại của nước Việt đều cử sứ thần sang Trung Quốc triều cống. Bên cạnh đó, ở Triều Tiên từ thời Tam Quốc cũng sang Trung Quốc tuế cống. Người ta cho rằng, có lẽ cơ hội sứ thần hai nước gặp nhau ở nơi đất khách quê người này nhiều hơn sử sách ghi chép. Có thể khẳng định, cuộc gặp sớm nhất của sứ thần 2 nước là năm 1597 (Vạn Lịch 25) giữa hai nhân vật: Phùng Khắc Khoan - sứ thần Việt Nam và Lý Túy Quang - sứ thần Triều Tiên. Tiểu sử của hai sứ thần này và chuyện giao lưu giữa họ thì Kim Vĩnh Kiến đã giới thiệu từ rất sớm qua vấn đáp và thơ xướng họa của hai tác giả nói trên với tiêu đềChuyện vấn đáp và xướng họa của sứ thần nước An Nam”(1). Trong truyện kí của Triệu Hoàn Bích cũng có một vài bình luận về thơ của Lý Túy Quang - là nhà thơ được đánh giá cao trong văn nhân Việt Nam(2).

“Việc đó giống như là nuôi ký sinh trùng trong não vậy”, Michel Houellebecq nói. Việc đó là việc gì? Việc gì mà lại nhờn gớm đến mức giống như nuôi ký sinh trùng trong não? Câu trả lời là, Houellebecq đang nói tới việc viết văn. Văn chương mà người ta thường yêu dấu ôm lên giường đi ngủ, nhưng Houellebecq, kẻ quái thai của văn đàn Pháp ấy lại so sánh nó với thứ dơ dáy nhất. Thậm chí trong tiểu luận Rester Vivant (tạm dịch: Để sống) của mình, Houellebecq viết: “Nhà thơ là kẻ ký sinh thiêng liêng: giống như loài bọ hung thời Ai Cập cổ, hắn sinh sôi trên cơ thể đang rữa nát của những xã hội giàu có” – còn ai nói về Houellebecq hay hơn chính Houellebecq?

20230327 3

Tôi có một ngăn để riêng sách của Houellebecq Hạt cơ bản, Chênh vênh, Mở rộng phạm vi đấu tranh,… và ngăn sách ấy mới có thêm một cuốn tiểu thuyết mới, Serotonin (do nhà văn Thuận chuyển ngữ). Phải để riêng, bởi cần phải có một không gian kín bưng để nhốt lại những kẻ thống khổ, u uất, lắm khi loạn trí, những kẻ có thể chứng thực rằng sự sáng tạo của Chúa “nếu không tuyệt đối độc ác thì cũng chỉ xấp xỉ thất bại”, để chúng không tràn ra ngoài và kéo chân ta xuống cái căn hầm tối om tử khí ấy.

Serotonin, tên của một hormon hạnh phúc, nhưng ngay cả hormon hạnh phúc trong văn chương của Houellebecq cũng là thuốc độc bảng A, cái giá phải trả để kích thích được đống serotonin ngỏng đầu lên trong người của Florent-Claude, gã trung niên kể chuyện trong cuốn tiểu thuyết, là sự ỉu xìu của dương vật và sự vĩnh biệt những cơn cương cứng đã từng mang lại một chút động năng cho đời gã.

Florent-Claude, một nhân viên đắc lực của Bộ Nông nghiệp, cặp kè cùng một cô nàng người Nhật trẻ hơn gã 20 tuổi, có tiền và có tình, nhưng một ngày, gã quyết định mất tích. May thay, là một người Pháp, gã có thể và có quyền rút mình ra khỏi cuộc đời, như ngọn thủy triều rút khỏi bờ cát.  Nếu câu chuyện được kể từ những người quen gã thì nó sẽ hao hao bộ phim A man vanishes của Shohei Imamura, nhưng câu chuyện được kể theo góc nhìn của gã. Gã trầm cảm. Điều gì khiến gã ra nông nỗi ấy?

Đến đây, xin được trở về một chút với tác giả cuốn sách. Houellebecq, trong nhiều cuộc phỏng vấn, nói rằng ông thích Hans Christian Andersen, đó là nhà văn định hình thời thơ ấu của ông. Hơn ai hết, Andersen là người đầu tiên có thể vén cho một đứa trẻ liếc lưỡi đao trên cỗ máy tra tấn của cuộc đời. Và đâu đó, Houellebecq cũng có phần giống Andersen, chỉ là ở một cấp độ tai ác gấp nhiều lần, giống ở khả năng dập tắt hy vọng vào một niềm hạnh phúc khi còn đương sống.

Có nhiều lý do để Florent-Claude trầm cảm. Nhưng lý do lớn nhất có lẽ là vì biết bói đâu ra hạnh phúc. Vạ vật trong một khách sạn ngoại vi sau khi bỏ nhà ra đi, Florent-Claude tự hỏi mình: “Nói chung, tôi có thể hạnh phúc không?” Có hay không hạnh phúc là băn khoăn vĩnh viễn trong những tiểu thuyết của Houellebecq. Hạnh phúc, với ông, hình như chỉ là một phát minh của châu Âu, một ý tưởng tiền đề khiến cả xã hội đua nhau ngã giá cho một món hàng không có thật, để rồi một thị trường bong bóng hạnh phúc căng phồng lên nhưng chỉ cần trích nhẹ một cái là sẽ vỡ òa.

Hạnh phúc là món hàng dễ vỡ như thế đấy, và quãng đời hạnh phúc của gã cũng ngắn ngủi cũn cỡn. Đó là thời gã yêu Kate và thời gã yêu Camille. Trong chuyến hành hương như truyền thống flaneur đích thực của một người Pháp để hồi quang phản chiếu đời mình trước khi nghe mùi kết thúc, gã nhớ lại thời khắc khi ngồi trong một quán ăn bên Kate, và người bồi bàn đã nhìn họ với ánh mắt như van xin họ hãy mãi bên nhau, và gã nghĩ đáng lẽ ra tình yêu của họ đã có thể cứu chuộc thế giới. Rốt cuộc, nó còn chẳng cứu chuộc được gã trước sự phát tiết của libido. Gã đã phản bội nàng. Gã cũng phản bội Camille. Gã bất hạnh vì gã xứng đáng.

Houellebecq bảo nếu phải gói cuốn tiểu thuyết này trong một dòng thì nó sẽ là câu chuyện về một kẻ đã phản bội và rồi hối hận. Ông đã muốn viết một cuốn tiểu thuyết như thế từ thời Soumission, cuốn sách bị quy kết là căm ghét Hồi giáo từng tình cờ phát hành vào đúng ngày xảy ra sự kiện tòa báo Charlie Hebdo bị khủng bố. “Nhưng tôi không phải nhà văn có tài vì tôi không phải lúc nào cũng thành công ở lần đầu tiên”, Houellebecq nói (sự khiêm tốn có lẽ là điểm đáng yêu hiển hiện duy nhất của con người kỳ thị nữ giới, kỳ thị tôn giáo và luôn đầy ắp những ý tưởng chổng mông vào đạo đức và xã hội này). Câu cuối trong Soumission là “Tôi sẽ không có gì để hối hận”. Và đến Serotonin thì là nỗi hối hận muộn màng của một kẻ đã tự vứt bỏ đời mình.

Ở đoạn đầu Serotonin, Michel Houellebecq đã có một đoạn nhắc thoáng qua về thập niên 60 chói lọi tình yêu và thập niên 80 chóe lọe cạnh tranh. Dù không xác định cụ thể, nhưng từ các dữ liệu trong tiểu thuyết, có thể suy luận được rằng Florent-Claude đã lớn lên vào thập niên 80, thập niên vỡ mộng sau những năm tháng ngắn ngủi của một thời kỳ “thời kỳ năng lượng vô tận” như cách gọi của Camille De Toledo, thời kỳ giải ảo tất cả những kỳ vọng về thịnh vượng, tăng trưởng, phồn vinh, và đến thời điểm khi Florent-Claude bỏ nhà đi (năm 2017), thì mọi vọng tưởng đã điêu tàn từ lâu.

“Ở phương Tây, chẳng một ai sẽ hạnh phúc nữa […] giờ đây chúng ta sẽ coi hạnh phúc như một giấc mơ cũ, đơn giản là bởi những điều kiện lịch sử không còn hội tụ cho điều ấy”, đó là suy nghĩ của Claire, một trong những người tình xưa của Florent-Claude, người đã rớt hạng từ một minh tinh ngạo ngược thành danh nhờ dạng chân trước mặt khán giả trong khi người ta đọc một đoạn văn của George Batailles, xuống chỉ còn là ả kẻ thô kệch gặm cục xương tủy của một con cá vây chân.

Sự thất bại của cô ả nằm trong một sự thất bại tập thể của xã hội tư bản tiêu thụ hiện đại. Trong chuyến đi cuối đời quanh nước Pháp tìm lại những gương mặt thân thương cũ, Florent-Claude cũng sẽ nhận ra gã không phải kẻ duy nhất bị cuộc đời dẫm đến tã tượi, ê chề. Gã đã xem cuộn phim nàng Nhật Bản của mình làm tình cùng những con chó Đức. Gã đã bắt quả tang một gã người Đức ấu dâm đứa con gái 11 tuổi. Đã nhìn thấy Claire thành ra nát rượu. Và đỉnh điểm là khi gã tận mắt chứng kiến cuộc nổi dậy của những người nông dân Pháp và vụ tự sát của người bạn thân sau khi chĩa súng săn nhắm bắn những người cảnh sát. Đó là một thế hệ của “lũ người bị làm nhục và hãm hiếp”, mượn văn phong của Dostoevsky. Đó là những kẻ chỉ có thể tự trút giận lên chính mình.

Không thể sống hạnh phúc trong cái thế giới như thế. Và cũng chẳng thể làm gì để cải tạo thế giới ấy. Càng cải tạo, thế giới ấy càng vỡ vụn. Trớ trêu thay, nước Pháp chống lại thực phẩm biến đổi gene nhưng kết quả là những người nông dân Pháp thua cuộc khi so cùng những quốc gia cóc cần quan tâm tới đạo đức sinh học. Biết phải làm gì với một thế giới coi tài sản là đạo đức như thế? Văn minh không đảm bảo được hạnh phúc của con người.

Có một đoạn khi Florent-Claude nghĩ về tự sát, và gã chỉ nghĩ đến cái công thức h=1/2gt2. Khoa học ư? Khai minh ư? Rồi cũng chẳng ích gì cho gã ngoài việc giúp gã tính ra thời gian rơi xuống đến khi chạm đất. Một đoạn khác, gã nghĩ về Proust, gã đã đọc hết Đi tìm thời gian đã mất, trời ơi, có bao nhiêu người trên trần gian này đọc được bằng hết áng văn chương vĩ đại ấy, vậy mà gã đã đọc, đã đọc rồi cũng chỉ để kết luận rằng những mối quan hệ giữa con người chẳng bổ béo chi, và “những cô gái đương hoa” thì nên được đổi thành “những cái him ẩm ướt”. Văn chương cũng chẳng giúp được con người. Thế là hết chứ còn gì nữa.

Trong bài tiểu luận Rester Vivant, Michel Houellebecq viết: “Đừng sợ hạnh phúc; vì nó không tồn tại.” Còn ai nói về Houellebecq hay hơn chính Houellebecq?□

Hiền Trang

Nguồn: Tia sáng, ngày 11.3.2023.

TÓM TẮT NỘI DUNG

Số lượng văn hiến có liên quan đến Việt Nam trong lịch sử Trung Quốc khá phong phú, nhưng nhiều tác phẩm đã thất lạc, số còn lại thì việc chỉnh lý và sử dụng cũng chưa được bao nhiêu. Bài viết này, trên cơ sở thư mục xưa nay và các điển tịch liên quan, thử tìm hiểu rõ tình trạng cơ bản của loại văn hiến này về các mặt: phân bố lịch sử, hiện trạng mất còn, quan hệ giữa chúng với nhau, đồng thời trình bày vắn tắt giá trị của chúng. Với bài viết này, hy vọng sẽ cung cấp một đầu mối văn hiến cơ bản cho công tác nghiên cứu về Việt Nam.

Kí ức cá nhân rất hấp dẫn. Tôi bật ra điều này khi đọc cuốn “Hồi ức thiếu nữ” của Annie Ernaux, người vừa đoạt giải Nobel 2022. Viết văn một cách nào đấy chính là viết bằng kí ức, nhưng đây là những gì xảy ra với chính cá nhân người viết, là khát khao được kể lại câu chuyện của mình với một sự hấp dẫn mãnh liệt.

Kể những câu chuyện của cá nhân mình và những người liên quan là sự thôi thúc, lựa chọn của nhiều nhà văn vàâ thường là đề tài hấp dẫn độc giả. Khi đọc “Cát bụi chân ai”, sau đó là “Chiều chiều” và “Ba người khác” của Tô Hoài tôi đã vô cùng thích thú bởi đã biết thêm được những điều mới, những câu chuyện phía sau trang văn, tình bạn giữa những nhà văn lớn và cả những sự kiện gây tranh luận. Tô Hoài không phải nhà văn đầu tiên viết hồi kí, tự truyện nhưng với vị thế của mình, ở vị trí chứng kiến và tham gia vào những bước ngoặt của lịch sử nước Việt và văn chương hiện đại, cả quyền lực và thách thức, ông đã viết về quá khứ trong một tâm thế không sợ hãi và ít bị lược bỏ, điều ấy góp phần tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm.

20230312 2

Xin lưu ý sự nhấn mạnh của tôi về sự không sợ hãi. Không sợ hãi nghĩa là người viết sẵn sàng đối diện và dám kể một cách trung thực câu chuyện mình biết hoặc chứng kiến. Bởi có những sự kiện, tình huống chứa đựng nhiều đau đớn, thất bại, thậm chí sự độc ác, tàn bạo, ngu xuẩn; tự thân người viết cảm thấy ngần ngại hoặc bị ngăn cản để chúng không được kể ra, viết ra. Vượt qua được sự sợ hãi ấy sẽ mang lại cảm giác tin tưởng của người đọc, rằng người viết đã khách quan (ở một góc độ nào đấy trong con mắt của anh ta) khi thuật lại sự kiện.

Còn ít bị lược bỏ, nghĩa là những gì liên quan trực tiếp đến chính bản thân mình, thậm chí cả những hành động sai trái, những ý nghĩ chỉ xuất hiện trong đầu cũng được phơi bày với công chúng. Sự "thanh toán" với chính mình, cộng hưởng với dư luận thường tạo ra một áp lực rất lớn với người viết, nhưng bù lại người đọc sẽ được tiếp cận một tác phẩm đáng tin và nếu phiêu bồng bằng ngôn ngữ và cấu trúc nghệ thuật nữa thì càng tốt.

Thực tế, không nhiều tác phẩm hồi kí, tự truyện có được những phẩm chất này. Thỉnh thoảng ta đọc đâu đó những cuốn sách cùng thể loại nhưng chỉ cảm nhận được một phần sự thật. Sự thật như người ta muốn như thế hoặc được tác động để công chúng cảm thấy nó "có thể đã như thế". Sự "nắn chỉnh" kí ức theo một cách nào đó khiến câu chuyện đã không thể ở trạng thái nguyên bản và độc giả chỉ cần tư duy một chút sẽ phát hiện ra sự can thiệp này.

Nhưng vượt qua chướng ngại để kể lại câu chuyện không quá khó, thách thức lớn nhất nằm ở chỗ những gì liên quan đến chính mình. Nhiều người nói với tôi rằng, thỉnh thoảng có những trang hồi kí, tự truyện chỉ thấy người viết hiện lên tốt đẹp và rộng lượng, thông minh hoặc tinh tế, còn những người xung quanh anh ta cơ bản là cố chấp, tham lam, thù dai, vô vàn các tính xấu; và đặt trong những tình huống cụ thể thì tác giả thường hiện lên sinh động và sáng láng hơn bạn bè và đồng nghiệp của anh ta. Nghĩa là người viết chỉ nhìn thấy "cái rác trong mắt anh em" mà biết đâu có thể tồn tại "cái đà trong mắt chính mình".

27b210526085058_1_540x360.jpg -0

Ảnh: S.t.

Điều này là sự thật nếu chúng ta đọc những quyển hồi kí, tự truyện đã xuất bản hoặc được công bố của một số nhân vật có ảnh hưởng. Kể ra sự thật, vượt qua xấu hổ, sợ hãi, sai trái và lỗi lầm của bản thân đòi hỏi bản lĩnh và độ lùi thời gian và tuổi tác nhất định.

Đến thời điểm tôi viết bài này, mới có hai cuốn sách của Annie Ernaux được dịch sang tiếng Việt và xuất bản. Đó là hai tiểu thuyết khá mỏng, “Một chỗ trong đời” và “Hồi ức thiếu nữ”. Tôi đã đọc “Một chỗ trong đời” trước và nói thật không thích cuốn này. Tôi không đề cập về kĩ thuật nhưng quan tâm đến "thái độ" tác giả khi viết nó. Annie Ernaux xuất bản cuốn sách năm bà 43 tuổi và có cảm giác người viết còn đôi chút e ngại với câu chuyện thời quá khứ của mình. Trong cuốn sách, tác giả đã không dám viết hết hoặc chỉ viết một phần câu chuyện về gia đình, người cha của mình, cái chết của ông ta và những việc liên quan, nó còn lửng lơ chưa đi đến tận cùng. Dù cách viết là chân phương, tối giản nhất có thể, nghĩ gì, nhớ gì viết nấy, tác giả hầu như không "gia giảm" kĩ thuật nhưng với điểm nhìn của một bạn đọc và đồng nghiệp, tôi thấy tác phẩm chưa đi hết con đường của mình. Nó giống như một đám mây còn bồn chồn, vừa lưỡng lự muốn bay lên cao  vừa muốn ngưng tụ thành giọt nước để rơi xuống mặt đất.

Đến cuốn “Hồi ức của một thiếu nữ” thì tôi thích hơn vì cảm nhận tác giả đã vượt qua những trở ngại lúc tuổi trẻ. Annie Ernaux xuất bản “Hồi ức của một thiếu nữ” khi bà đã 76 tuổi. Một bà già hơn bảy mươi tuổi thì không còn sợ hãi khi viết về những năm tháng thanh xuân của một thiếu nữ với những khát khao yêu đương, tò mò với tính dục và sự phóng đãng cá nhân. Tôi nhìn thấy một trường hợp gần tương tự ở M. Duras, cũng là một tác giả người Pháp nổi tiếng, ở hai cuốn “Người tình” và “Người tình Hoa Bắc”. Hai cuốn sách của M. Duras được xuất bản cách nhau mười năm, lần lượt khi tác giả 57 và 67 tuổi. Sau mười năm, M. Duras đã dữ dội hơn nhiều, cuốn sau có những tiết lộ động trời  liên quan tới loạn luân và thách thức hơn cuốn trước, khi cùng viết về một chủ đề, nhân vật. Tương tự, cũng có thể đối chiếu với trường hợp Tô Hoài khi ông viết “Cát bụi chân ai” và “Chiều chiều” nhưng ở trạng thái có khác biệt so với M. Duras và Annie Araux. Có người cho rằng cuốn thứ hai của Tô Hoài nhẹ hơn cuốn trước. Ở “Chiều chiều”, Tô Hoài tìm cách xoa dịu hoặc làm mềm hơn cuốn thứ nhất bởi tình thế cá nhân và bối cảnh ông đang sống. Mặc dù ở những chiều kích, không gian khác nhau với ba nhà văn tôi đưa ra làm ví dụ, nhưng cả M. Duras, Annie Araux và Tô Hoài đều là những người dũng cảm và câu chuyện họ kể đã gây ra được những ấn tượng đáng kể và được ghi nhận.

Một câu hỏi đã đặt ra, nếu ở thời điểm viết, tác giả ít tuổi hơn thì cả M. Duras, Annie Ernaux và Tô Hoài có dám viết những câu chuyện cá nhân như thế không? Ở đây ta không xét đến những trường hợp có những tác giả viết hồi kí, tự truyện từ sớm và dự định đến một quãng thời gian nào đó mới công bố. Những chọn lựa ấy sẽ bàn vào một lúc khác, ở đây tôi đề cập đến sự đồng thời; tác giả suy nghĩ và viết gần như cùng một thời điểm và sẵn sàng công bố chúng. Rõ ràng càng lùi sâu thời gian và từng trải của tuổi tác, người ta càng tự tin, thậm chí bất chấp hơn. Điều ấy khiến cho tôi thấy cả hai cuốn viết sau của M. Duras và Annie Araux hấp dẫn hơn. Tôi ngưỡng mộ sự dũng cảm, tự tin và cần thiết phải kể ra câu chuyện như chính Annie Araux đã viết: "Chuyện về cô gái ấy, chứ không phải ai khác đã trải qua rồi sẽ không được kể ra, sẽ thành một trải nghiệm vô ích." (Hồi ức thiếu nữ, trang 16)

Nhưng tôi đã từng rất thất vọng khi đọc cuốn hồi kí của một nhân vật văn học có địa vị và nằm ở trung tâm những bước ngoặt của văn nghệ và văn học Việt hơn cả Tô Hoài. Cuốn hồi kí ấy giống như một bản báo cáo dài về các sự kiện và gần như chỉ có thế. Cá nhân tôi không tìm thấy sự khác biệt nào về các sự kiện  đã được biết hoặc các câu chuyện hậu trường của nó. Cuốn sách gây ra những hụt hẫng trong tôi nhưng có lẽ ấy là sự lựa chọn, cân nhắc của người viết. Tôi tôn trọng sự "tính toán" của tác giả nhưng về mặt văn chương và tính hấp dẫn của thể loại, tôi đánh giá nó là một cuốn sách thất bại.

 Nói thế để thấy rằng hồi kí, kí ức, tự truyện, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai vẫn tiếp tục là đề tài hấp dẫn bởi tự thân người viết muốn kể lại những chuyện của chính mình và thời của mình cũng như nhu cầu đọc của công chúng. Kí ức chứa đựng sự chân thực, quyến rũ và càng hiện đại người ta sẽ càng hoài cổ, càng kiếm tìm, nhớ mong những gì đã mất, truy tìm dấu vết cá nhân và cả những vọng âm tập thể hướng về những miền xa vời, quá vãng… 

Uông Triều

Nguồn: An ninh thế giới giữa và cuối tháng, ngày 19.02.2023.

    KAWAGUCHI KEN’ICHI

(Giáo sư Đại học Ngoại ngữ Tokyo)

Trong bài viết này tôi xin trình bày hai vấn đề :

- Ở Nhật Bản người ta quan tâm đến văn học Việt Nam từ bao giờ và cách quan tâm ra sao?

- Tôi đã đến với văn học Việt Nam và dịch văn học Việt Nam như thế nào?

Mùa thu năm 2022, khi đại dịch Covid-19 tạm lắng, Giáo sư Đào Hữu Dũng tức Nguyễn Nam Trân – dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa và văn học Nhật Bản – về Hà Nội giao lưu với bạn đọc nhân dịp bản dịch Vạn diệp tập được xuất bản, sau đó vào thăm lại TP Hồ Chí Minh, nơi sáu năm trước đó, ông đã về dự lễ trao giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh vào dịp kỷ niệm 90 năm ngày mất của nhà yêu nước (24.3.2016).

20230115 5  Giáo sư Đào Hữu Dũng

Giáo sư Đào Hữu Dũng, tiến sĩ khoa học truyền thông, sinh năm 1945 tại Lâm Đồng, nguyên quán Hà Tĩnh, được đào tạo về văn học, giáo dục, báo chí và kinh tế tại Đại học Sài Gòn, Đại học Tokyo và Đại học Paris. Ông từng tham gia giảng dạy tại Đại học Paris Diderot – Paris 7, Đại học Josai và hoạt động trong Hội Giao lưu văn hóa Nhật – Việt. Ông có công lớn trong việc dịch thuật, giới thiệu những thành tựu về lịch sử, văn hóa, văn học Nhật Bản cho công chúng Việt Nam. Sống hơn nửa thế kỷ trên đất Nhật và vẫn giữ mối liên hệ mật thiết với đất nước Việt Nam, ông luôn có ý thức về việc tiếp thu những thành tựu Nhật Bản phù hợp với yêu cầu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam mang bản sắc dân tộc, tinh thần hiện đại và chủ nghĩa nhân văn.

Qua hơn bốn thập niên nghiên cứu, trước tác, Đào Hữu Dũng đã công bố nhiều công trình dịch thuật và biên khảo có giá trị. Về khoa học xã hội, ông đã dịch thuật những tài liệu căn bản về lý thuyết quản trị, truyền thông, quảng cáo, văn hóa và xã hội ở Đông Á. Về văn học, ông đã dịch thuật những tác phẩm kinh điển như Vạn diệp tập, Bách nhân nhất thủ, Vô môn quan, Lịch sử Thiền Tông Nhật Bản cùng những tác phẩm của các tác giả nổi tiếng như Urabe Kenkō, Ueda Akinari, Mori Ōgai, Higuchi Ichiyō, Nagai Kafū, Suzuki T. Daisetsu, Tanizaki Junichiro, Akutagawa Ryūnosuke, Kawabata Yasunari, Nakajima Atsushi, Endō Shūsaku, Mishima Yukio, Abe Kōbō, Mukōda Kuniko, Asada Jirō, Hayashi Mariko.

Ở thể loại biên khảo, Đào Hữu Dũng đã cho xuất bản những tác phẩm công phu là Quảng cáo truyền hình trong kinh tế thị trường; Thể chế, thị trường và xã hội của ngành truyền thông quảng cáo Nhật BảnTổng quan lịch sử văn học Nhật Bản. Cuốn sách sau, ký bút hiệu Nguyễn Nam Trân, dày 675 trang khổ 19 x 27, do NXB Giáo Dục Việt Nam ấn hành năm 2011, là một chuyên khảo có uy tín được sử dụng rộng rãi trong ngành ngữ văn các trường đại học Việt Nam hiện nay. Viết lời giới thiệu cho cuốn sách, nhà văn Nguyên Ngọc khẳng định công trình biên khảo này “ngoài sự giàu có đến ngồn ngộn về tư liệu, tri thức thâm hậu và sắc sảo chứng tỏ trong xử lý khối tư liệu đồ sộ ấy, phương pháp nghiên cứu vừa nghiêm nhặt, khoa học, vừa phóng khoáng, hấp dẫn, còn nổi bật vì tính khám phá, rõ ràng bộc lộ sự trăn trở của một nhà khoa học muốn khơi tìm cho đến tận cùng cái cốt lõi của tâm hồn Nhật Bản”.

Sự thông thạo tiếng Nhật, tiếng Pháp kết hợp với việc nắm bắt những sắc thái biểu cảm tinh tế của tiếng Việt làm cho các văn bản dịch thuật và trước tác của Đào Hữu Dũng – Nguyễn Nam Trân có sự chuẩn xác, mạch lạc, trong sáng và nhuần nhị. Sống nhiều năm xa quê hương, ông vẫn tiếp cận được nguồn mạch tinh thần và ngôn ngữ sống động, phong phú của dân tộc.

Giáo sư Đào Hữu Dũng và bà Vũ Thị Bạch Tuyết

Trong diễn từ nhận Giải thưởng văn hóa Phan Châu Trinh, Đào Hữu Dũng xem việc dịch văn học như một lao động bình thường: “Ở vào cái tuổi sơ lão như tôi thì công việc này giúp cho tế bào óc làm việc để đỡ quên, đỡ lẫn. Hễ muốn dịch thì phải đọc, và như thế, dịch thuật lại là một cách học hỏi, một cách tu thân. Tiếp đến, khi dịch văn, tôi thấy mình giống như người sau khi ăn được miếng bánh ngon, muốn bẻ ra một chút mời người bên cạnh. Đúng vậy, dịch thuật là để thỏa mãn nhu cầu tương trợ, chia sẻ một tri thức cũng như chia sẻ một tình cảm, phần nhiều đều mang niềm vui của sự khám phá, và tất cả đã xảy ra rất tự nhiên”.

Ông quan niệm rất rõ ràng: “Trên một bình diện rộng lớn hơn và vượt hẳn tầm vóc có giới hạn của bản thân, tôi nghĩ dịch thuật nói chung là sự chuyển tải tri thức, văn hoá bằng cách vượt bức tường ngôn ngữ. Những quốc gia đang trên đường phát triển, muốn học tắt, học nhanh, đều phải sử dụng phương pháp này. Thế nhưng dịch còn có nghĩa là chọn lựa và người dịch phải lãnh lấy trách nhiệm. Giữ lấy cái hay, cái quý, bỏ qua cái xấu, cái tạp nhạp. Dịch tác phẩm cổ điển để tiếp nhận túi khôn của hiền nhân nhưng cũng dịch tác phẩm đương đại để giao lưu với người sống cùng một thời. Dịch kiến thức khoa học kỹ thuật đã đành nhưng phải dịch cả những tác phẩm trong lãnh vực nhân văn để đưa chính mình và độc giả lên những tầm cao trí thức và cùng nhau đạt được những tình cảm cao thượng và quảng đại”.

Đào Hữu Dũng tâm sự: “Dịch thuật đến với tôi còn do một duyên may. Năm 1965, vào một tối mưa phùn mùa xuân, tôi là một thanh niên Việt Nam 20 tuổi đã cùng tám người bạn đồng khoá đặt chân đến đất Nhật. Giữa những kiến thức trùng điệp của Nhật Bản mà tôi có may mắn nhặt nhạnh đôi phần, tôi lại chỉ xin phép được khoanh một mảnh vườn nhỏ nếu không nói là chăm sóc cho một chậu kiểng, vì tôi tin rằng làm được bấy nhiêu thôi, cũng đủ hết một đời người. Qua việc dịch thuật lịch sử và văn học, tôi đã tìm cách tiếp cận phép lạ Nhật Bản. […]. Đống tro ngút khói của thế chiến thứ hai đã giúp người Nhật nghiền ngẫm để phản tỉnh về những lỗi lầm. Họ biết đổi hàng sang trang một quá khứ u ám và đi đến thành công trong việc xây dựng một nhà nước dân chủ, một cuộc sống văn minh và phồn vinh. Họ đã tìm cách trồng cây tư tưởng phương Tây trên mảnh đất đã có sẵn những giá trị phương Đông”.

Tuy nhiên, Đào Hữu Dũng nói tiếp, “những tình cảm hồ hởi và lòng cảm mến đặc biệt của tôi với đất nước Nhật Bản vẫn không ngăn tôi nghĩ rằng động cơ công việc dịch thuật của tôi là tình cảm đối với chính quê hương mình. Chuyển tải tri thức, chuyển tải công nghệ, trao đổi thông tin… nhưng dù là những điều hay đẹp, mọi thứ đó phải thích nghi với bản sắc của dân tộc tôi nghĩa là phải có những giá trị phù hợp với lối sống và cách suy nghĩ của dân tộc tôi. […] Ngày nào chúng ta biết tự mình khai sáng, có đủ nguyên khí, nội lực, người dân ta có thể đủ trình độ giao lưu trực tiếp với người nước ngoài không chút mặc cảm thì kẻ làm nghề dịch thuật dẫu có phải gác bút, hẳn cũng lấy làm mãn nguyện”.

Điều đặc biệt đáng quý ở Đào Hữu Dũng là ông phổ biến những thành quả dịch thuật và khảo cứu của mình cho độc giả Việt Nam không chỉ qua sách in mà còn qua sách điện tử, giúp cho công chúng rộng rãi có thể tiếp cận miễn phí trong thế giới mạng, một không gian truyền thông có sức lan tỏa lớn. Từ đó, một cánh cửa mới đã mở ra trước mắt những dịch giả tự nguyện “không chú trọng vào việc hưởng thụ vật chất từ tác quyền (copyright) mà chỉ mong sao có văn bản để lại (copyleft) dù là trong không gian ảo”.

Có thể khẳng định Giáo sư Đào Hữu Dũng là một trong rất ít học giả Việt Nam am hiểu sâu sắc lịch sử, văn hóa, văn học Nhật Bản và quảng bá những thành tựu của nó đến công chúng Việt Nam một cách hiệu quả. Bằng hoạt động đó, ông đã góp phần phát triển giao lưu văn hóa Việt – Nhật, thắt chặt tình hữu nghị giữa hai dân tộc, thúc đẩy con đường hiện đại hóa của nước ta qua việc học tập một mô hình xã hội Đông Á tiên tiến, điều mà các nhà duy tân tiền bối luôn khích lệ.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Vanvn.vn.

 

 
* Chú thích ảnh: Mộ Trần Đông Phong ở nghĩa trang Zoshigaya, Tokyo

 Trước ngày tôi đến Nhật (với tư cách là người nghiên cứu thời gian ngắn), thầy tôi đã căn dặn: Khi đến Tokyo, em nhớ thăm mộ cụ Trần Đông Phong nhé. Tôi nhớ lời và có xin thầy bản đồ hướng dẫn đường đến nghĩa trang có mộ cụ ở Toshima. Mùa thu đầu tiên ở nước Nhật, đất dậy sóng của phong trào Đông Du cách đây hơn trăm năm, tôi vẫn còn thơ thẩn với bao nhiêu dự định. Tôi vẫn cứ loay hoay mãi với sách vở, nghĩ suy và sự hòa nhập không dễ dàng với một đất nước Đông Á từ lâu đã thành cường quốc, tôi không nhớ và chưa thể nghĩ việc đi thăm cụ Phong như lời thầy dặn.Rồi cơ duyên cũng đến. Một hôm, một đồng nghiệp lớn tuổi người Hà Nội (đã làm việc ở Nhật gần 20 năm) tâm sự: vừa rồi con trai bị ốm mãi không khỏi, chắc phải đi xin cụ Phong thôi. Dù đã được thầy nhắc nhở phải cố đi thăm cho được mộ chí sĩ Trần Đông Phong, nhưng tôi cũng không hình dung hết được sự tôn kính và niềm tin đến vậy của những người Việt xa xứ đối với cụ. Nghe câu chuyện các sinh viên Việt Nam kể cho nhau, tôi càng ngạc nhiên hơn. Họ nói: Sinh viên ở đây xin cụ gì cũng được, xin gì cụ cũng cho. Nghe cứ như một truyện truyền kỳ nào đó.Ngày chúng tôi đến thăm mộ cụ là một buổi sáng nắng ấm, sau những ngày mưa bão dữ dội. Từ ga chính Shinjuku, sau khi bắt tuyến Amanote chạy vòng trung tâm Tokyo, chúng tôi chuyển sang tàu điện nhỏ xíu khá cũ chạy leng keng trên mặt đường phố quận Toshiba, gọi là tàu điện tuyến Toden Arakawa. Người đồng nghiệp Hà Nội bâng khuâng bảo: giống tàu điện xưa xưa ở Hà Nội đấy. Không chỉ tàu điện nhỏ, quận Toshiba sao cũng buồn vắng như cái không khí có trong mấy tấm ảnh cũ cũ về băm sáu phố phường của đất kinh kì. Đến nghĩa trang Zoshigaya Reien, chúng tôi theo phong tục người Nhật, định mua ngay được hương, hoa và xách một xô nước bằng gỗ có chiếc gáo nhỏ tròn rất xinh, cùng với một cây chổi thanh thanh để quét dọn mộ. Nhưng hôm ấy lại là ngày nghỉ. Chúng tôi đứng ngơ ngẩn. Không ai bán hoa, bán hương, không xô nước, không chổi. Sao thế nhỉ? Đồng nghiệp tôi nói: Biết làm thế nào. Hay là khấn không thôi nhỉ. Vào khấn thôi. Nghĩ thế, tôi thấy thương cụ quá. Con cháu đi thăm mà không có gì để phúng viếng. Ít phút sau, bỗng dưng có người phụ nữ Nhật lớn tuổi mở cửa, cười rất tươi. Bà nói hôm nay ngày lễ nghỉ, nhưng nếu mọi người muốn vào viếng thì bà tặng hương, không cần mua. Hoa thì có thể mua cửa hàng bên cạnh (khi ấy cửa hàng bên cạnh cũng tự nhiên hé mở), chỉ còn mấy bó thôi. Xô nước và chổi bà cũng cho mượn. Mừng quá. Người dẫn đường của chúng tôi không hiểu sao lại nhầm đường. Mãi gần một tiếng mà vẫn không tìm được mộ. Mấy con quạ đen cứ bay nhao nhác. Tôi lỡ thắp hương nên cứ cầm trên tay mãi, vừa cầm hương vừa đi tìm mộ cụ. Thi thoảng hương cứ lóe cháy phừng phừng rất lạ. Đặc điểm thế nào cô? Mộ cụ cũ, không giống mộ người Nhật lắm, trông rất đơn giản; Đường vào có cây thông nhỏ thấp nghiêng nghiêng. Trời, chỗ nào cũng có thể có cây thông nghiêng nghiêng. Tôi nhớ đến câu chuyện của thầy tôi kể. Khi xưa thầy đến thăm mộ cụ Phong, đi cũng khá đông người, tìm cả ngày không ra mộ cụ. Đến khoảng 6 giờ chiều, tuyệt vọng, tất cả kéo nhau ra về. Nhưng cứ đi ra hướng cổng thì lại lạc vào trong, cứ đi ra lại là đi vào, trời đã tối dần, rồi thầy bảo, tự nhiên như có ma lực, trong bóng chiều sắp tối, tất cả lại đi vào trong nghĩa trang theo một sự hướng dẫn nào đó vô hình, và hơn mươi phút sau đã tìm thấy mộ. Mọi người xúc động quá, trước mắt là bia mộ ghi rõ dòng chữ Hán: Đồng bào chí sĩ Trần Đông Phong chi mộ. Khấn vái xong, thầy về nhà mà đắp chăn, người cứ ớn lạnh từng cơn. Sao cụ lại thiêng đến thế. Đến lượt chúng tôi, lát sau cũng tìm được mộ. Mà tìm được là vì vô tình có một bà cụ người Nhật sống lâu ở nghĩa trang chỉ cho. Mộ nằm trên dãy 1-4A-14. Tôi có cảm giác rất lạ khi đứng trước mộ cụ. Tôi nhìn rõ hai bó hoa ai đó viếng còn mới thơm cắm ngay ngắn cùng với hai bó hương đã tàn. Vậy là vừa có sinh viên hay người Việt Nam đến viếng. Mọi người đã nói với tôi, mộ cụ lúc nào cũng có hương hoa, lúc nào cũng được dọn sạch cỏ. Trong tôi trào lên một nỗi niềm không sao tả được. Nơi này, từ tên quận, tên đường, tên nghĩa trang, tên khu mộ, đều không có lấy một dòng chữ Việt Nam. Nhưng lại có một “đồng bào chí sĩ” ra đi từ phong trào Đông Du nằm yên đã trăm năm. Nơi này, một con người đã tuẫn tiết ở tuổi hai mươi với lá thư tuyệt mệnh: “Nhà tôi giàu có, cả tiền với thóc, kể đến hàng vạn, mà gần đây học phí trong trường, chỉ là nhờ Nam Kỳ cấp cho anh em, tôi đã nhiều lần viết thư về nhà, khuyên cha tôi bắt chước làm như ông Trương Tử Phòng, phá sản vì nước, cha tôi không trả lời. Tôi nghĩ tôi là con một nhà giàu, xấu thẹn với anh em quá, nên tôi phải tự vẫn cho cha tôi biết chí tôi, và cũng để tạ tội với anh em”. Những dòng chữ nghĩa khí tiết liệt đã khiến Kỳ ngoại hầu Cường Để xót thương và kính phục đến mức đích thân người đã xây mộ cho ông ngay trên đất Nhật, và về sau, xương cốt Cường Để một phần cũng nằm trong ngôi mộ của chí sĩ này.Chúng tôi cắm hoa, thắp hương cho cụ. Ngôi mộ cực kỳ giản dị, không hề có một nét hoa văn nào. Tường mộ đã lấm rêu, nhiều phần xi măng mỏng đã vỡ loang. Cảm giác gặp được người Việt ở nước ngoài bình thường đã khiến tôi cảm động. Nhưng cảm giác tìm được nấm mộ người xưa ở nước ngoài là một kinh nghiệm rất đặc biệt. Nhất là mộ của một chí sĩ đã chết vì một lý do “độc nhất vô nhị” trong lịch sử dân tộc: “Nhà tôi giàu có nhưng đất nước có bị diệt vong cũng không giúp được gì thì tôi còn mặt mũi nào nhìn thiên hạ nữa...”. Tự sát ở chùa Tohoji nơi xứ người, Trần Đông Phong đã để lại một câu chuyện cảm động kỳ lạ về lòng ái quốc. Một trí thức ưu tú của làng Di Luân, xã Đồng Văn, huyện Thanh Chương, xuất thân từ một gia đình giàu có bậc nhất ở Nghệ An, đã chết theo cách riêng của mình, mà lập luận dai dẳng đắng cay cho đến lúc chết là: có tiền mà vong quốc thì không thể sống được. Cách đây hơn một thế kỷ, người ta sẵn sàng hy sinh mạng sống vì quyền được thoát khỏi “phận dã man”, đời nô lệ; Người ta sẵn sàng bỏ thân vì không chịu nổi sự nhục nhã của cảnh ngộ đồng tiền đang vô tâm ngự trị trong sự khốn cùng của đồng bào, đất nước. Nỗi thao thức về đồng tiền trong cuộc duy tân và hiện đại hóa dân tộc (tuy không được nói nhiều, bàn nhiều, như là đề tài cấm kỵ vô hình) từ những năm đầu tiên của thế kỷ XX của một chí sĩ Việt Nam vẫn là câu chuyện dài của thế kỷ XXI, thậm chí câu chuyện ấy ngày càng nhiều biến thái, nhiều kịch bản hơn… Tôi đứng nhìn ngôi mộ Trần Đông Phong đơn sơ giữa nước Nhật giàu có. Mộ cụ vẫn như ngày chôn cất năm xưa,  nước Nhật vẫn là cường quốc Đông Á, Việt Nam vẫn đang trên đường “hứa hẹn” hiện đại hóa; du học sinh Việt Nam vẫn nhiều, và ngày càng nhiều hơn thế kỷ trước, nhưng khí khái và hoài bão của Đông Du chí sĩ ngày nào chắc phần lớn chỉ còn trong kỷ niệm, bảo tàng, hội thảo. Tôi trộm nghĩ biết đâu cái xứ Thần Đạo này vì cảm thương linh hồn xa xứ của cụ, cũng để cho cụ nhập vào cái tâm linh mênh mông của họ, nên giờ đây cụ cũng là “vị thần” cho các lưu học sinh, người Việt Nam đang sống và học tập ở nước Nhật này. Người ta tin cụ, đến viếng cụ, xin cụ cho học giỏi, cho sức khỏe, cho danh vọng… Từ một chí sĩ, Trần Đông Phong giờ giống như vị thần hoàng trong đền làng Việt Nam ở ngay trên đất Nhật. Người ta mặc nhiên cúng tế, sùng tin. Người đi trước mách người đi sau. Kẻ du học cũng như người lập nghiệp. Có người đến viếng cụ vì thương cảm, cảm phục, cũng có người đến cụ vì nghe nói cụ rất thiêng, cũng có người đến để biết mộ người Việt ở nghĩa trang Nhật Bản thế nào. Tôi nhìn mộ cụ, không có ảnh, đúng như mộ người Nhật. Cả trăm năm cụ vẫn nằm đấy, lặng lẽ vô hình phù hộ cho những ai là con dân Việt Nam bước chân đến Nhật, không biết có phải vì hồn linh ấy mãi hướng về cố quốc, hay bởi ánh sáng của phong trào Đông Du năm xưa vẫn còn le lói trong một nấm mồ? Tôi nghe nói dường như qua con đường tâm linh nào đó liên quan tới cụ Koyama Katsuzo – người có công thành lập "Hội Giáo dục Việt Nam của thành phố Gunma” tại Nhật - người ta được biết hồn cụ Phong mong được về lại Việt Nam bởi cụ đã biệt xứ đến trăm năm có lẻ. Nhưng nếu đưa cụ về Việt Nam thì những người đến Nhật như chúng tôi lại thiếu vắng lắm... Cụ đã chết như tinh thần võ sĩ đạo, dưới gốc cây một ngôi chùa, khác nào câu chuyện chỉ có trong kịch Nô, trong tiểu thuyết Nhật, nhưng đối với tâm linh và văn hóa Việt Nam, điều cao quí hơn trong cái chết vì đại nghĩa ấy, theo tôi, là sự nhắc nhở âm thầm sâu sắc về sứ mệnh của trí thức đối với giống nòi. Viếng thăm nấm mộ một anh hùng Việt Nam ngay trên đất Nhật, biết đâu người ta mới đủ cảm xúc và dư chấn để nghe được một cách rõ ràng hơn tiếng vọng hoài bão người xưa, biết đâu từ khoảnh đất được đánh số lạnh lẽo ở nghĩa trang lại dấy lên chí lớn và những nghĩ suy về dân tộc, và biết đâu, nấm mộ đơn sơ lấm rêu này sẽ là một chứng tích vô giá cho những ai có cơ hội vượt qua biên giới xứ sở để hiểu được, dù là một chút, số phận và vinh dự, cái chết và sự sống, lòng ái quốc và đức hy sinh, tình yêu và dự cảm của những anh hùng lưu biệt một thời. ***“Giọt vắn dài riêng tủi phận dã manMấy năm nay đứt ruột với giang san”Câu thơ ca trù này có thể chỉ được tìm thấy trong sách khảo cứu về thơ ca Đông Du, nhưng thực ra, nó đã sống với anh linh Trần Đông Phong và con đường thăng trầm  hiện đại hóa của nước Việt ta suốt cả thế kỷ nay.

Fuchu-shi, Tokyo, mùa thu 2010

L.T

Trao giải cho Erneaux, theo tôi, vừa là trao giải cho văn chương tự thuật bán hư cấu (autofiction) – một thể loại nổi bật của văn chương Pháp hiện đại, vừa là sự nhắc lại một thông điệp: khi một nhà văn trung thực với chính mình, trang viết của nhà văn ấy đồng thời cũng mang ý nghĩa xã hội rộng lớn.

20221211 6

Phải thú nhận tôi đọc Annie Ernaux theo trào lưu. Chỉ khi bà được đồn đoán như một ứng cử viên tiềm năng nhất của giải Nobel Văn chương năm 2021, tôi mới chạm vào hai cuốn sách mỏng của bà đã được dịch sang tiếng Việt – “Một chỗ trong đời” (La Place) và “Hồi ức thiếu nữ” (Mémoire de Fille). Trong đó, cuốn đầu tiên – tác phẩm được giải Renaudot năm 1984 – đã nằm im trên kệ sách của tôi 5 năm rồi.

Annie Ernaux có phải là nhà văn làm tôi kinh ngạc, sững sờ về tầm vóc tư tưởng hay sự khai phá một thẩm mỹ mới, một lối viết tiểu thuyết như một lễ hội ngôn từ? Không. Nếu như đến tận mùa giải Nobel năm nay, bà vẫn không phải là nhân vật thu hút sự chú ý của toàn bộ những người quan tâm đến văn chương trên thế giới, tôi không lấy làm quá thất vọng. Và việc tên của bà cuối cùng đã được xướng danh tại giải thưởng danh giá này, đối với tôi, trước hết là sự tôn vinh một giá trị mà tưởng như nếu nhắc đến thì dễ bị xem là sến súa: sự thành thực.

Đọc Ernaux, tôi có cảm giác văn chương là một cái gì đó rất gần gũi, viết là một hành động rất giản dị và thiết thân. Nhưng cũng là một việc đòi hỏi sự can đảm lớn khi người ta không được phép tự đánh lừa mình ở khoảnh khắc soi vào ký ức. “Một chỗ trong đời” là cuốn sách Ernaux dựng lại chân dung người cha của bà, mà qua đó, bà đối diện với quá khứ xuất thân, với những gì đã làm mối quan hệ của bà với gia đình mình có một khoảng cách mà bà cần thiết phải miêu tả (chứ không phải để biện minh, phân trần). Động cơ khiến bà cần phải viết một cuốn sách mà cha mình – một người đàn ông xuất thân từ tầng lớp lao động, cố gắng làm mọi việc để con gái mình được học hành tử tế, được vươn lên địa vị cao hơn, nhưng đồng thời ông lại luôn thấy cái thế giới, nơi con gái của ông thuộc về, là thế giới từng khinh miệt ông. Người cha ấy, trong cuốn “Hồi ức thiếu nữ”, có thể giữ tờ báo thông báo con ông thi đỗ thứ hai trong kỳ thi đại học nhưng rồi lại vẫn cứ có cảm giác giữa mình và con gái là hai mặt phẳng không có nhiều điểm giao cắt. Một lão Goriot ít ảo tưởng và nhiều mặc cảm, vừa cả đời làm lụng vì con gái, vừa muốn đẩy nó khỏi cuộc đời mình, vừa gia trưởng và vừa tự ti cùng lúc. Chẳng phải vô cớ đây lại là nhân vật trong một tác phẩm văn học được nhắc đến đầu tiên ở “Một chỗ trong đời”.

Động cơ để Ernaux viết “Một chỗ trong đời” chính là khoảnh khắc bà nhìn thấy cha mình lần cuối, lúc ông qua đời, trong hình hài trần trụi, cảm thấy mùi thối từ thi thể của ông vương vất trong tâm trí. Ở những trang cuối cuốn sách, Ernaux miêu tả những ngày cuối cùng của cha mình khi ông lâm bệnh nặng, toàn bộ trạng thái cơ thể không kiểm soát nổi nhưng người cha vẫn khăng khăng tự mình làm được mọi việc, không phiền đến con gái. Văn của Ernaux vốn lạnh, tiết chế cảm xúc cao, loại bỏ dứt khoát chất duy tình trong khi miêu tả đối tượng và cảm xúc của mình trước đối tượng được mô tả. Nhưng khi bà viết: “Tôi đã dám thực sự nhìn ông”, tôi đã gai người. Bởi chẳng phải khoảng cách giữa mình với những người thân nhiều khi lại là khoảng cách khó vượt qua nhất, đòi hỏi sự thành thực lớn nhất để đối diện và hóa giải hay sao?

Ernaux là kiểu nhà văn lớn mà tôi thấy gần gũi với những trải nghiệm của mình, là nhà văn phát lộ cái khó của việc làm người hóa ra lại nằm trong những chuyện thường nhật nhỏ nhặt, dù người ta có đọc bao sách vở rồi cũng vô hiệu khi phải loay hoay, xoay sở để làm sao có thể hiểu được nhau. Nhưng bà cũng là một nhà văn không dễ đọc – tôi tin vậy, nhất là với những độc giả nam giới. Ernaux có thể không phải là nhà văn cho họ. Trong “Hồi ức thiếu nữ”, một tác phẩm mà Ernaux tự phân hóa mình ra để quan sát và phân tích chính mình, bà một lần nữa lại thắng nỗi sợ hãi khi đối diện với sự thật của bản thân, một người phụ nữ cận kể tuổi 80 sẽ nhìn lại và nghĩ gì về chính mình lúc còn là một cô gái 18 tuổi. Khoảng cách giữa “Một chỗ trong đời” và “Hồi ức thiếu nữ” là 32 năm và cuốn sách thứ hai này sẽ bổ sung nhiều bí mật mà “Một chỗ trong đời” bỏ ngỏ. Bởi đây là cuốn sách Ernaux lấy bà làm nhân vật trung tâm.

Một cô gái 18 tuổi, ý thức được hoàn cảnh xuất thân của mình, muốn nổi loạn để định vị chính mình bằng những trải nghiệm đầu tiên về tình dục, nơi cô gái rơi vào những trạng thái đầy băn khoăn về chính cơ thể của mình. Một cô gái đôi khi muốn làm phép thử đối với các khuôn phép xã hội bằng cách đồng lõa với bạn mình để ăn cắp. Một cô gái sẽ làm thế nào để thích ứng với một cái nghề nhiều tính khuôn mẫu bậc nhất – giáo viên? Câu chuyện về một người đàn bà một ngày muốn tìm lại tung tích người đàn ông đầu tiên mình có quan hệ tình dục… có thể sẽ không phải là một cốt truyện gợi nhiều hứng thú với nam giới (cũng như tôi chẳng thể nào nhớ có tác phẩm nào của nam giới mà nhân vật nam nhớ lại trải nghiệm tình dục đầu tiên của đời mình). Đó cũng không phải là một cốt truyện dễ được diễn giải ra thành những thông điệp nữ quyền lồ lộ, dù Ernaux cũng rất hay được nhắc đến như một nhà văn nữ quyền. Văn chương nữ quyền, rốt cục, can dự vào các vấn đề xã hội theo cách đặc thù mà chỉ nó làm được. Theo nghĩa đó, nhà văn nữ quyền không hy sinh ngôn ngữ của mình làm công cụ cho các mục đích xã hội và đây là sự phân biệt họ với các nhà chính trị nữ quyền. Các nhà văn ấy, bằng khả năng ngôn ngữ của mình, làm người đọc cảm được những gì mà nếu thiếu văn chương, cùng lắm, người ta chỉ có thể biết mà lại khó có thể cảm. Họ cho thấy những ngóc ngách nội tâm sâu thẳm của người phụ nữ, những cảm giác tinh vi của cơ thể, những ám ảnh của ký ức có thể bị điều kiện hóa bởi xã hội, bởi văn hóa như thế nào. Những gì nằm ở sâu nhất là những gì quẫy đạp dữ dội nhất đối với xã hội.

Ernaux bảo bà biết ơn Simone de Beauvoir, cái tên được nhắc đến trong cả hai tiểu thuyết của bà được dịch sang tiếng Việt. Beauvoir là người làm cho phụ nữ nhận thấy người ta không sinh là đàn bà, người ta trở thành đàn bà và con đường trở thành ấy, mỗi cá nhân vừa chịu sự chi phối của những nhân tố văn hóa chính trị nhất định, lại vừa hoàn toàn có thể giải cấu trúc những nhân tố ấy để tạo ra những khả thể đa dạng của việc trở thành đàn bà. Đọc Ernaux, các vấn đề về căn tính giới không trỗi lên thành một luận đề dễ nắm bắt nhưng sự tra vấn chính mình bằng một giọng điệu lạnh, nghiêm (nhưng không khắc nghiệt) khiến bà không rơi vào một thứ chủ nghĩa ái kỷ tự luyến (dù điều này cũng có sức hấp dẫn, như trường hợp Marguerite Duras).

Annie Ernaux là nhà văn nữ thứ tám được trao giải thưởng Nobel Văn học trong hai thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI (và con số này ngang bằng với số các nhà văn nữ được giải thưởng này tôn vinh trong suốt thế kỷ XX). Điều này cho thấy bản thân giải thưởng Nobel có lẽ cũng đang muốn khắc phục cái nhìn lấy nam giới làm trung tâm trong việc tấn phong các điển phạm Văn học chăng? Thử đặt Ernaux bên cạnh những Elfriede Jelinek (Nobel Văn học năm 2004), Doris Lessing (Nobel 2007), Herta Muller (2009), Alice Munro (2013), Svetlana Alexievich (2015), Olga Tokarczuk (2018) và Louise Gluck (2020), ta có thể nhận thấy sự riêng biệt của Ernaux. Nếu như trao giải Nobel cho Munro và Alexievich đồng thời cũng là trao giải cho hai thể loại có địa vị ngoại biên trong văn học là truyện ngắn và ký sự, trao giải cho Jelinek hay Muller là trao giải cho những tiếng nói không khoan nhượng đối với những vấn đề của chính trị, của lịch sử, trao giải Tokarczuk là trao giải cho truyền thống thể nghiệm trong văn chương – dòng mạch mà giải Nobel vốn hay lãng quên, nhất là khi những thể nghiệm này gắn với các tác giả nữ thì trao giải cho Ernaux, theo tôi, vừa là trao giải cho văn chương tự thuật bán hư cấu (autofiction) – một thể loại nổi bật của văn chương Pháp hiện đại, vừa là sự nhắc lại một thông điệp: khi một nhà văn trung thực với chính mình, trang viết của nhà văn ấy đồng thời cũng mang ý nghĩa xã hội rộng lớn. Thứ văn chương trung thực như thế, thật ra, luôn là thứ văn chương khó viết ra, nhưng không thể không viết.□

Trần Ngọc Hiếu

Nguồn: Tia sáng, ngày 27.10.2022.

 

Bức Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ 竹 林 大 士 出 山 圖 do họa sư đời Nguyên Trần Giám Như 陳鑑如 sáng tác vào năm 1363 là một trong những chứng tích giao lưu văn hóa Việt - Trung1. Nhân vật trung tâm trong bức vẽ là đại sĩ Trúc Lâm, tức vua Trần Nhân Tông (1258 - 1309), người đã hai lần chặn đứng vó ngựa Nguyên Mông vào năm 1285 và 1288, nhường ngôi cho con vào năm 1293, hoàn toàn dứt bỏ cả gia tư lẫn triều chính để tu Phật từ năm 1299, đại giác và trở thành đệ nhất tổ của thiền phái Trúc Lâm ở Việt Nam. Họa phẩm của Trần Giám Như thật đáng chú ý vì lẽ nó là tác phẩm của một danh họa sống dưới một vương triều từng bị đánh bại đôi lần bởi vị Hoàng đế trong tranh; và chủ nhân của nó, Trần Quang Chỉ 陳 光 祇, có thể là một hậu duệ nhà Trần, chưa rõ vì lẽ gì đã lưu lạc đến Hoa Hạ và định cư tại đây. Bức tranh không chỉ khắc họa một sự kiện lịch sử - đại sĩ Trúc Lâm xuống núi sau khi giác ngộ, mà còn yết lộ chân dung của Thượng hoàng Trần Nhân Tông và cả con của ngài, Hoàng đế Trần Anh Tông (1267 - 1320), những chân dung vốn rất hiếm hoi trong di sản nghệ thuật còn bảo tồn được ở Việt Nam2. Tuy chưa có điều kiện thưởng ngoạn trực tiếp tác phẩm nghệ thuật này, nhưng nhờ vào các lời bình dẫn trong cuộn tranh được in lại trong bộ Thạch cừ bảo cấp bí điện châu lâm tục biên 石 渠 寶 笈 秘 殿 珠 林 續 編 (gọi tắt là Thạch cừ bảo cấp)3 , trước mắt vẫn có thể hình dung được phần nào thần thái của bức tranh, cũng như biết thêm được các thức giả đời Minh (1367 - 1643) đã tiếp nhận và diễn giải bức vẽ trên như thế nào.

 Dịch giả, nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang - con thứ nhà phê bình Hoài Thanh và là chồng nhà biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát - vừa qua đời tại nhà riêng lúc hơn 6h57 sáng 10-9 vì tuổi già, hưởng thọ 81 tuổi, theo tin từ gia đình.

Bà Nguyễn Thị Hồng Ngát vừa thông báo tin buồn về chồng - tiến sĩ khoa học Nguyễn Đức Hân (tức Phan Hồng Giang) trên trang Facebook cá nhân. Trước đó thông tin đã được Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam - Nguyễn Quang Thiều phát đi.

Ông Nguyễn Quang Thiều đánh giá nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang có một kiến thức sâu rộng, một tư duy logic đầy khám phá, một cách nhìn luôn luôn mới mẻ và thái độ làm việc khoa học. Những bài viết và những công trình nghiên cứu của ông vừa mang tính kinh viện, vừa mang tính đương đại và đầy dự báo.

Sinh năm 1941, nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang từng giữ những chức vụ: viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật quốc gia, hiệu trưởng Trường Viết văn Nguyễn Du…

Ông sinh ra và lớn lên ở Huế, trong một gia đình có những người làm khoa học, đặc biệt là người cha nổi tiếng - nhà phê bình Hoài Thanh với cuốn sách phê bình văn học Thi nhân Việt Nam được đánh giá là công trình phê bình độc đáo bậc nhất của thế kỷ 20.

Chính người cha đã là nguồn cảm hứng để ông Phan Hồng Giang tiếp nối sự nghiệp của cha mình.

Ông từng học tiếng Nga tại Đại học Ngoại ngữ Hà Nội, sau đó là sinh viên khoa văn, Đại học Tổng hợp Moskva (Nga). Ngoài phát triển sự nghiệp phê bình văn học, ông còn xuất sắc trong vai trò một nhà nghiên cứu văn hóa, một dịch giả từng dịch các tác phẩm nổi tiếng của văn học Nga.

Những tác phẩm văn học Nga mà ông đã dịch như Truyện ngắn Chekhov, Hơi thở nhẹ, Say nắng của Bunin (giải Nobel văn học), Daghestan của tôi (Rasul Gamzatov), Cánh buồm đỏ thắm (Aleksandr Grin.)…

Năm 2012, ông nhận Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật cho các cuốn: Ghi chép về tác giả và tác phẩm, Chung quanh một số vấn đề văn hóa nghệ thuật.

Theo thông tin từ gia đình, lễ viếng nhà nghiên cứu Phan Hồng Giang sẽ được tổ chức vào 10h ngày 12-9 tại Nhà tang lễ Bệnh viện 354 (số 13, phố Đội Nhân, quận Ba Đình, Hà Nội). Lễ truy điệu và đưa tang vào 11h30 cùng ngày.

Ông sẽ được an táng tại Nghĩa trang Phú Thị, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.

Nguồn: https://tuoitre.vn/nha-nghien-cuu-phan-hong-giang-con-thu-nha-phe-binh-hoai-thanh-qua-doi-20220910142249303.htm

Thông tin truy cập

60517011
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
8522
12997
60517011

Thành viên trực tuyến

Đang có 263 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website