Mở đầu
Từ thế kỷ XVI các giáo sĩ dòng Tên bắt đầu đến truyền giáo ở Trung Quốc. Cùng với Kinh Thánh, giáo lý Thiên chúa giáo, họ mang đến tri thức khoa học của phương Tây, chủ yếu là các tri thức thời Phục hưng, trong đó quan trọng nhất là tri thức về y khoa, thiên văn học và địa lý thế giới. Trong bài viết này chúng tôi giới thiệu các sách địa lý thế giới viết bằng Hán văn, những sách này có tính chất khai sáng đối với phương Đông về thế giới năm châu. Đó là các sách: giới thiệu bản đồ thế giới theo cách vẽ phương Tây của Lợi (Lị) Mã Đậu 利瑪竇/ Mateo Ricci (1552-1610), các sách địa lý thế giới bằng Hán văn của Ngải Nho Lược 艾儒略/ Giulio Aleni (1582 – 1649), Nam Hoài Nhân 南懷仁/ Ferdinand Verbiest (1623 - 1688), Hợp Tín 合信/ Benjamin Hobson (1816-1873)… Từ đó các học giả Trung Quốc cũng hình thành nên các sách địa lý thế giới của mình. Các sách được các nhà nho Việt Nam biết đến, tiếp thu với tinh thần khoa học, có phê phán, bước đầu tạo thành phong trào khai sáng ở Việt Nam.
1. Các sách địa lý thế giới bằng Hán văn của các học giả phương Tây và Trung Quốc thời Minh Thanh
1.1. Sách địa lý thế giới của các giáo sĩ phương Tây:
1.1.1. Khôn dư vạn quốc toàn đồ 坤輿萬國全圖 (Bản đồ các nước trên trái đất)
Bản đồ do Lợi (Lị) Mã Đậu 利瑪竇/ Matteo Ricci (1552-1610) giới thiệu. Đây không phải sách mà là bản đồ thế giới, tấm bản đồ thế giới đầu tiên ở Trung Quốc. Matteo Ricci, tự Tây Thái 西泰,người Ý, nhà truyền giáo, học giả. Năm 1582, thời Vạn Lịch nhà Minh, ông được phái sang Trung Quốc truyền giáo. Ông ở Trung Quốc 28 năm, mất năm 1610 ở Bắc Kinh. Ông là một trong những giáo sĩ truyền giáo sớm nhất ở Trung Quốc. Lúc đầu ông đến Áo Môn, Quảng Đông, sau đi Nam Xương, Nam Kinh, Bắc Kinh truyền giáo. Chủ trương của ông là tôn trọng tôn giáo, tư tưởng bản địa, dùng tiếng Trung Quốc để truyền giáo, nhờ thế mà truyền bá Thiên chúa giáo rất thành công. Về học thuật, ông là người tiên phong mang tri thức khoa học phương Tây vào truyền bá ở Trung Quốc như toán học, địa lý... Đồng thời cũng là người giới thiệu học thuật Trung Hoa đến với Phương Tây: ông là người đầu tiên dịch Tứ thư ra tiếng Latin.
Khôn dư vạn quốc toàn đồ là bản đồ thế giới theo kiểu phương Tây lần đầu tiên được giới thiệu ở Trung Quốc, đương thời được khắc in đến 12 lần.
|
1.1.2. Chức phương ngoại kỷ 職方外紀 (Ghi chép những điều mà sách địa lý cổ không ghi)
Đây là trước tác tiêu biểu của địa lý học châu Âu, tác giả là nhà truyền giáo người Ý Giulio Aleni/ Ngải Nho Lược 艾儒略 (1582 – 1649), hoàn thành vào năm 1623, dựa trên bản thảo của Long Địch Ngã 龐迪我/ Diego de Pantoja (1575 – 1620) và Hùng Tam Bạt 熊三拔/ Sebatian de Ursis (1575 – 1620). Giulio Aleni đến Trung Hoa năm 1610 (thời Vạn Lịch), ở Áo Môn, làm giáo sư thần học. Năm 1613 truyền giáo ở Phúc Kiến. Ông nổi tiếng là nhà Hán học uyên bác, được xưng tụng là “Khổng Tử phương Tây” (Tây lai Khổng Tử 西来孔子). Ông nghiên cứu sâu về thiên văn, lịch pháp. Sách Chức phương ngoại kỷ là công trình thứ hai giới thiệu địa lý thế giới tiếp theo Khôn dư vạn quốc toàn đồ của Lợi Mã Đậu nói ở trên. Sách có 5 quyển:
Quyển 1: Tổng thuyết về châu Á, châu Á và các đảo biển Nam và Địa Trung Hải (Á Tế Á, Nam dương hòa Địa Trung Hải các đảo 亞細亞,南洋和地中海各島).
Quyển 2: Châu Âu (Âu La Ba 歐羅巴)
Quyển 3: Châu Phi (Lợi Vị Á 利未亞)
Quyển 4: Châu Mỹ (Á Mặc Lợi Gia 亞墨利加)
Quyển 5: Tổng thuyết về 4 biển.
Phụ lục Bảy bản đồ: (1) Vạn quốc toàn đồ, (2) Bắc dư toàn đồ (Bắc bán cầu), (3) Nam dư toàn đồ (Nam bán cầu), (4) Châu Á, (5) Châu Âu, (6) Châu Phi, (7) Nam-Bắc Mỹ.
|
1.1.3. Khôn dư đồ thuyết 坤輿圖說 (Thuyết minh bản đồ trái đất)
Sách địa lý do Nam Hoài Nhân南 懷 仁 (Ferdinand Verbiest) TK.XVII viết bằng chữ Hán, và được xuất bản năm 1674. Sách chia ra làm 2 quyển: Thượng - Hạ, nhằm giải thích cho tập bản đồ khắc in cùng năm là Khôn dư toàn đồ.
Nam Hoài Nhân/ Ferdinand Verbiest (1623-1688), người Bỉ, lúc nhỏ học ở trường dòng. Năm 1657 theo cha là M.Martin đến Áo Môn, Trung Quốc truyền giáo, ở Trung Quốc nhiều năm. Sau vua Minh là Sùng Trinh đưa ông về Bắc Kinh phụ trách việc lịch pháp và toán pháp. Năm 1669 ông được vua Thuận Trị nhà Thanh phong chức Khâm Thiên Giám. Năm 1675 ông giúp vua Thanh chế tạo pháo và bình được loạn Ngô Tam Quế, nên càng được vua Thanh tín nhiệm. Verbiest tinh thông thiên văn, địa lý, toán pháp, thường được mời vào dạy cho vua Khang Hy nhà Thanh, được vua Thanh cho chức Công Bộ hữu thị lang. Lúc mất ông được ban cho tên thụy là Cần Mẫn.
Nội dung Khôn dư đồ thuyết bao gồm 2 quyển: Quyển thượng chủ yếu trình bày về thường thức địa lý tự nhiên, Quyển hạ chủ yếu về địa lý nhân văn. Sách ghi chép về những điều liên quan đến năm châu, đa số là lấy từ Chức phương ngoại kỷ 職方外紀 (Ngải Nho Lược 艾儒略 Giulio Aleni, 1582 – 1649) lược chép và gia công thêm.
Chi tiết hơn thì thấy: Quyển thượng bao gồm: Trái đất hình tròn, địa cầu có hai cực nam bắc, động đất, núi non, sự chuyển động của nước biển, hải triều, sông ngòi, các con sông lớn trên trái đất, sự lưu chuyển của không khí, gió, mây mưa, nhân vật…. Quyển hạ bao gồm: Châu Á và các nước, các đảo chia ra 14 tắc; Châu Phi và các nước, các đảo chia ra 14 tắc; Châu Mỹ và tổng quan về bốn biển. Cuối quyển hạ có phụ các vật lạ: động vật (chim, thú, cá, sâu…) tổng cộng 23 loại cùng 7 kỳ tích trên thế giới, tất cả 32 bức.
|
1.1.4. Bác vật tân biên 博物新編 (Sách mới về vạn vật)
Bác vật tân biên là sách giới thiệu khoa học phổ thông do bác sĩ người Anh Benjamin Hobson (1816-1873) biên soạn.
Hobson có tên Trung Hoa là Hợp Tín 合信, là bác sĩ đồng thời là giáo sĩ người Anh. Sau khi tốt nghiệp ngành y khoa, năm 1839 ông được cử đến Áo Môn (Trung Quốc) làm bác sĩ truyền giáo ở bệnh viện của Giáo hội. Năm 1843 được phái đến Quảng Châu phụ trách công tác ở hiệu thuốc và bệnh viện. Năm 1855 ở Quảng Châu ông biên soạn sách Bác vật tân biên để giới thiệu tri thức khoa học tự nhiên của phương Tây. Ông còn biên soạn nhiều sách khoa học nữa bằng tiếng Hoa: Toàn thể tân luận全體新論 (giải phẫu sinh lý người), Tây y lược luận西醫略論 (sơ lược về Tây y), Phụ anh tân thuyết婦嬰新說 (sách mới về phụ khoa, nhi khoa), Nội khoa tân giới 內科新誡 (giới thiệu mới về nội khoa)…sách đều do Thượng Hải Mặc Hải thư quán xuất bản. Sách ông được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, từng được dịch ra tiếng Nhật, tiếng Hàn. Năm 1859 ông về Anh sống cho đến cuối đời.
Bác vật tân biên tập trung giới thiệu khoa học cận đại Phương tây, toàn bộ có 3 tập:
- Tập 1: Vật lý: nhiệt, nước, ánh sáng, điện, các thể khí…
- Tập 2: Thiên văn, Địa lý (mặt trời, sao chổi, quả đất, kinh tuyến, vĩ tuyến, các châu lục và đại dương…)
- Tập 3: Động vật (các giống cầm thú trên trái đất)
|
1.1.5. Hàng hải kim châm 航海金針 (Sách chỉ cách đi biển)
Sách chỉ cách đi biển do Daniel Jerome Macgowan (1814-1893) biên soạn. Ông có tên Trung Quốc là Mã Cao Ôn 瑪高温là bác sĩ và nhà truyền giáo người Mỹ, được phái đến Trung Quốc năm 1859. Sau đó được phái đến Nagasaki (Nhật Bản) dạy tiếng Anh. Năm 1862 về nước làm quân y trong cuộc chiến Nam Bắc ở Mỹ. Sau ông lại quay lại Trung Quốc, biên soạn sách giới thiệu khoa học phương Tây bằng tiếng Hán, rồi sang Nhật nghiên cứu văn hóa Nhật Bản. Năm 1893 mất ở Thượng Hải. Hàng hải kim châm航海金針giới thiệu từ những tri thức nhập môn về khí tượng học (nguyên lý phát sinh bão), sau đó là các tri thức địa lý cần thiết cho việc đi biển. Sách được Ái Hoa Đường xuất bản ở Trung Quốc năm Hàm Phong thứ 3 (1853).
|
1.1.6. Địa cầu thuyết lược 地球説略 (Sơ lược về trái đất)
Sách do nhà truyền giáo người Mỹ là Richard Quarterman Way (1819 -1895) tên Trung Hoa là Huy Lý Triết 褘理哲biên soạn. Richard Quarterman Way đến Ninh Ba, Trung Quốc truyền giáo năm 1844. Ở Trung Quốc 15 năm biên soạn sách Địa cầu thuyết lược bằng Hán văn, xuất bản lần đầu 1848, chỉnh sửa xuất bản 1856. Sách được truyền sang Nhật, năm 1878 được huấn điểm bởi Mitsukuri Genpo 箕作阮甫 (1799 - 1863), là nhà Lan học, quê ở Okayama, từng làm giáo sư ở Phiên sở điều sở của Mạc phủ.
Sách có 3 quyển: Thượng, Trung, Hạ
- Quyển thượng: Bản đồ Đông-Tây bán cầu, giới thiệu địa lý tự nhiên trái đất; châu Á
- Quyển trung: Châu Âu
- Quyển hạ: Châu Phi, châu Mỹ.
Sách từng được lưu hành rất rộng rãi.
|
Trước khi có các sách địa lý thế giới do người phương Tây giới thiệu, trí thức Trung Quốc hình dung ra thế giới chỉ bao gồm Trung Hoa và các nước xung quanh: Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, các nước Đông Nam Á, xa nữa thì Tây Trúc (Ấn Độ) và Tây vực (Nam Á, Trung Cận Đông). Nhờ có các sách địa lý phương Tây mà họ biết đến thế giới năm châu, các đại dương, trái đất hình cầu với kinh tuyến và vĩ tuyến. Những sách ấy mở đường cho phong trào khai sáng ở Trung Quốc và từ đó lan ra các nước khu vực văn hóa chữ Hán: Nhật, Hàn, Việt.
1.2. Sách địa lý thế giới của các học giả Trung Quốc:
Kế thừa các sách phương Tây, để đáp ứng tình hình hiểu biết thế giới, người Trung Quốc cũng bắt đầu soạn các sách địa lý thế giới.
1.2.1. Đông Tây dương khảo 東西洋考 (Khảo về các xứ phía đông và tây của biển Đông Nam Á):
Sách do Trương Nhiếp 張燮người đời Minh biên soạn, hoàn thành năm 1617. Thời Minh, Đông dương chỉ phía đông của biển Đông Nam Á; Tây dương chỉ phía Tây của biển Đông Nam Á, cụ thể là các nước và địa phương như ở dưới.
Sách Đông Tây dương khảo có 12 quyển:
- Quyển 1 đến quyển 4: Tây dương liệt quốc khảo: Ghi chép về địa lý, lịch sử, khí hậu, danh thắng, sản vật của các nước, các thành phố, địa phương: Giao Chỉ 交阯, Chiêm Thành占城, Tiêm La暹羅 (Thái Lan), Hạ Cảng 下港 (tức Banten Sultanate, phía tây đảo Java 爪哇岛 của Indonesia), Giản Phố Trại 柬埔寨 (Campuchia), Đại Nê 大泥 (cũng viết Thái Nê 太泥, ở bán đảo phía nam của Thái Lan), Cựu Cảng 舊港(cũng gọi Cự Cảng 巨港 (Palembang) phía tây nam Malaysia), Ma Lục Giáp麻六甲 (cảng ở Malaysia), Á Tề 啞齊(cảng ở Malaysia), Bành Hưởng彭亨 (Pahang, Malaysia), Nhu Phật柔佛 (Johor, Malaysia), Đinh Cơ Nghi丁機宜(Trengganu, Malaysia), Tư Cát Cảng思吉港(thuộc đảo Java, Indonesia), Văn Lang Mã Thần文郎馬神 (đảo Kalimantan, Indonesia), Trì Muộn 遲悶 (phía nam quần đảo Malaysia).
- Quyển 5, 6: Đông dương liệt quốc khảo: Ghi chép về Lữ Tống吕宋 (Philippines), Tô Lộc 蘇祿 (Sulu, Philippines), Miêu Lý Vụ 貓里務 (thuộc Philippines), Sa Dao沙瑤 (Sayao, Philippines), Nột Tất Than 吶嗶嘽 (Dapitan, Philippines), Mỹ Lạc Cư 美洛居 (Maluku, thuộc Indonesia), Văn Thái 文莱 (Brunei), Nhật Bản日本, Hồng Mao Phiên紅毛番 (Đài Loan).
- Quyển 7 đến quyển 12: Các hạng mục thuế má, hải quân, văn nghệ, chuyện cổ.
Trương Nhiếp xem rộng các sách: Thủy kinh chú, Tống sử, Đường thư, Đảo di chí 島夷志, Đại Minh nhất thống chí, Doanh nhai thắng lãm瀛涯勝覽, Chân Lạp phong thổ ký 真臘風土記và các loại sách chỉ dẫn cách đi biển để viết nên công trình này.
|
1.2.2. Hải quốc văn kiến lục 海國聞見綠 (Ghi chép những điều tai nghe mắt thấy về các nước ven biển)
Sách do Thủy sư đề đốc đời Thanh là Trần Luân Quýnh 陳倫炯 (1687-1751) viết, hoàn thành năm 1730. Trần Luân Quýnh (1687-1751), người thôn Cao Phố, xã An Nhơn, huyện Đồng An, tỉnh Phúc Kiến (nay thuộc quận Tập Mỹ, thành phố Hạ Môn). Thuở nhỏ theo cha đi biển, quen sóng gió, biết rõ hình thế trên biển. Thời Thanh Khang Hy được tập ấm, làm chức Túc vệ. Từng theo vua Khang Hy săn bắn, vua bất ngờ hỏi tình hình các nước, ông đều đối đáp trôi chảy. Sau nhờ có công dẹp loạn nên được thăng làm Đài Loan Nam lộ Tham tướng. Thời Ung Chính được phong Tấn Bành Hồ phó tướng, rồi bổ làm Đài Loan trấn Tổng binh. Sau lên đến Thủy sư đề đốc Chiết Giang, Ninh Ba. Ông dùng hiểu biết của mình mà viết sách Hải quốc văn kiến lục.
Sách Hải quốc văn kiến lục viết về các nước và đường đi ven biển khắp năm châu. Sách vừa kế thừa sách vở Trung Quốc vừa chịu ảnh hưởng sâu sắc sách và bản đồ phương Tây. Hải quốc văn kiến lục chia làm 2 quyển.
- Quyển thượng có 8 thiên: ghi chép hình thế ven bờ các vùng biển: Đông dương (phía đông biển Đông Nam Á), biển Đông Nam, biển Nam, Tiểu Tây dương (Ấn Độ), Đại Tây dương, Côn Lôn, Nam Áo khí.
- Quyển hạ có 6 bức địa đồ bao gồm: Tứ hải tổng đồ, Duyên hải toàn đồ, Đài Loan đồ, Đài Loan Hậu sơn đồ, Bành Hồ đồ, Quỳnh Châu đồ.
Với tính thực tiễn và xác thực, Hải quốc văn kiến lục có ảnh hưởng rất lớn đối với Trung Quốc và các nước trong khu vực.
|
|
Hải quốc văn kiến lục |
1.2.3. Doanh hoàn chí lược 瀛寰誌略 (Ghi chép sơ lược về thế giới)
Sách do Từ Kế Dư 徐 繼 畬 người đời Thanh biên soạn, hoàn thành vào năm 1849 thời Đạo Quang, toàn bộ có 10 quyển. Từ Kế Dư (1795-1873), người Sơn Tây. Thủa nhỏ ông được thụ hưởng nền giáo dục tốt, năm 31 tuổi thi đậu tiến sĩ, làm Hàn lâm viện biên tu, Giám sát ngự sử Thiểm Tây. Năm 1836 ông làm chức Tri phủ Tầm Châu tỉnh Quảng Tây, rồi làm quan ở Phúc Kiến đúng vào lúc xảy ra Chiến tranh nha phiến. Năm 1842 Từ Kế Dư lãnh chức Tào vận sứ (vận chuyển lương thực, hàng hóa trên sông biển), rồi Án sát sứ Quảng Đông, Bố chánh sứ Phúc Kiến, Tuần phủ Phúc Kiến, rồi Tổng đốc Mân Chiết (Phúc Kiến, Chiết Giang). Do tiếp xúc nhiều với người Tây phương, hiểu rõ tình hình các nước, nên ông đã biên soạn ra công trình Doanh hoàn chí lược. Năm 1852 do bị kết tội, ông bị cách chức cho về quê. Sau lại được bổ làm quan. Năm 1869 xin về hưu, năm 1873 mất ở quê nhà.
Mở đầu sách là giới thiệu địa cầu, sau đó là giới thiệu các châu: châu Á (Á Tế Á), châu Âu (Âu La Ba), châu Phi (A Phi Lợi Gia), châu Mỹ (Á Mặc Lợi Gia), trong đó giới thiệu phong thổ, nhân vật của các nước. Từ Kế Dư còn giới thiệu nền dân chủ của phương Tây, và ông là người Trung Quốc đầu tiên giới thiệu điều ấy. Bên trong có 42 tấm bản đồ, trừ bản đồ nhà Thanh, Triều Tiên, Nhật Bản, còn lại đều là các bản đồ do người châu Âu vẽ ra.
|
1.2.4. Hải quốc đồ chí 海國圖志 (Ghi chép bản đồ các nước ven biển)
Sách do Ngụy Nguyên 魏源soạn. Ngụy Nguyên là người huyện Thiệu Dương tỉnh Hồ Nam, là nhà tư tưởng tiêu biểu cho Trung Quốc cuối đời Thanh. Năm Ngụy Nguyên 21 tuổi, cha ông được bổ làm quan ở Bắc Kinh, ông theo cha đến đó. Ông thường giao thiệp mật thiết với các trí thức yêu nước có tư tưởng canh tân bấy giờ như Lâm Tắc Từ 林則徐, Cung Tự Trân 龔自珍, nên chú trọng vào cái học giúp đời. Năm 1841 Ngụy Nguyên gặp tể tướng Lâm Tắc Từ mới bị cách chức ở Chiết Giang, hai người bàn luận thâu đêm. Được Lâm Tắc Từ ủy thác, ông soạn một bộ sách để khích lệ quốc dân, phản đối chính sách xâm lược của phương Tây. Dựa vào bộ sách Tứ châu chí 四洲志do Lâm Tắc Từ làm chủ biên, Ngụy Nguyên sưu tập rộng thêm các tư liệu khác, làm thành bộ Hải quốc đồ chí 50 quyển. Sau đó trong vòng 10 năm ông chỉnh lý, bổ sung, khiến bộ sách lên đến 100 quyển.
Hải quốc đồ chí được đánh giá là trước tác của thời đại khai sáng Trung Quốc. Với tư tưởng cơ bản “Sư Di chi trường kỹ dĩ chế Di” (師夷長之技以製夷: Học sở trường của phương Tây để đánh phương Tây) mà ông đề xuất, Hải quốc đồ chí đã đả phá những tư tưởng lạc hậu truyền thống như: tư tưởng nội hạ ngoại di (Trung Quốc là văn minh, phương Tây là dã man), trời tròn đất vuông, thiên triều Trung Hoa là trung tâm; từ đó ông đã xác lập một cái nhìn mới bằng tri thức khoa học phương Tây như: thế giới bao gồm năm châu bốn biển, những kiến thức khoa học tự nhiên và các loại văn hóa phương Tây khác. Công trình của ông đã hướng người Trung Quốc đến thời đại học tập phương Tây.
Hải quốc đồ chí có các thiên quan trọng sau đây: Trù hải thiên (Thiên Phòng thủ ngoài biển); Đông Nam dương; Tây Nam dương; Các nước Hồi giáo tổng khảo; Lợi Vị Á châu (châu Phi) các quốc đồ chí; Đại Tây Dương; Bắc Dương; Ngoại Đại Tây Dương; Quốc địa tổng luận; Di tình lược thái (Sơ lược về tình hình Tây Dương); Tây Dương khí nghệ tạp thuật.
![]() |
![]() |
Hải quốc đồ chí |
2. Sự tiếp thu các sách địa lý thế giới với tinh thần phê phán của các nhà nho Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX
Người biết đến loại sách địa lý thế giới này đầu tiên ở Việt Nam là học giả Lê Quý Đôn (1726-1784). Trong Vân đài loại ngữ 芸臺類語 ông có nhắc đến Khôn dư đồ thuyết 坤輿圖說 của Ferdinand Verbiest, so sánh nó với thuyết Lý - Khí của Tống Nho và thấy nó thống nhất:
“Sách Khôn dư đồ thuyết của người Tây Dương nói: “Nếu không có khí thì bầu trời là hư không, làm sao đất có thể lủng lẳng ở giữa hư không được?” Sách ấy lại nói: “Giống chim lấy cánh gạt gió mà bay, cũng như người lấy tay gạt nước mà nổi lên trên”. Cũng lại nói: “Người ta hướng vào chỗ không mà vẩy tay tất thấy có tiếng vang, nếu ở trong đó không có khí, tất không có vật gì khác để sinh ra tiếng ấy được”. Sách ấy lại nói: “Kho trong không im lặng không có tiếng, ta thấy trong ánh sáng khe cửa có bụi bay lên bay xuống lung tung, chắc là do Khí gây nên như thế”. Tôi kể ra vài việc ấy để chứng minh rằng Khí là có thực, thế mà người ta lại còn ngờ cho là lạ! Nay xét sách Thông luận của Tiết Huyên đời Minh (1368 – 1643) có nói: “Phẩy cái quạt thấy có gió, thế đủ biết trong khoảng trời đất không chỗ nào là không có Khí”. Sách ấy lại nói: “Trong khoảng trời đất, bụi bay tơi bời không ngừng, không gián đoạn. Ấy đều do Khí sinh ra thế, xem ánh mặt trời chiếu vào cửa sổ thì biết” – Thuyết ấy cùng với đoạn trên này giống nhau: Sách Tố vấn cũng nói: “Khi lên xuống, khi ra vào, ta thấy đâu cũng đều có khí cả.”1
Hiện nay chúng tôi chưa biết chắc con đường lưu truyền sách Khôn dư đồ thuyết và các sách tương tự vào Việt Nam, tuy nhiên có thể phỏng đoán Lê Quý Đôn đi sứ Trung Quốc đã mua đem về.
Từ giữa thế kỷ XIX trở đi, khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, trước nhu cầu tìm hiểu nước Pháp và học thuật phương Tây để canh tân đất nước, các Nho sĩ cấp tiến đã tìm đọc sách địa lý thế giới bằng Hán văn rất nhiều. Nếu như trước kia thời Lê Quý Đôn chỉ có rất ít người đọc, đọc chủ yếu là tò mò muốn hiểu biết về một ngành học lạ, thì đến nay số người muốn tìm hiểu thế giới và học thuật phương Tây tăng lên đột ngột. Việc tìm đọc các sách về địa lý thế giới do các học giả phương Tây soạn đã thực sự mở ra phong trào Khai sáng ấy ở Việt Nam vào nửa cuối thế kỷ XIX. Theo tôi phong trào Khai sáng ấy được hình thành từ ba bộ phận:
(1) Các nhà nho, đa số là quan viên có quan điểm canh tân như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Thông, Nguyễn Lộ Trạch, cùng những người gần gũi với khuynh hướng này như: Đặng Huy Trứ, Phan Thanh Giản, Ngụy Khắc Đản, Trần Tiễn Thành, Trần Đình Túc, Bùi Viện, Phạm Phú Đường...
(2) Các trí thức Thiên Chúa giáo mà tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ
(3) Nhà trường Pháp-Việt và các học giả Tây học như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký.
Dưới đây xin trình bày việc ba nhà nho tiêu biểu Phạm Phú Thứ, Nguyễn Thông, Nguyễn Lộ Trạch đã tiếp thu các sách địa lý thế giới có tính khai sáng như thế nào.
Phạm Phú Thứ (1821-1882): người Quảng Nam, đậu Tiến sĩ, làm quan đến Thự Thượng thư bộ Hộ, Tổng đốc Hải An. Trước đó ông từng làm Phó sứ trong phái đoàn do Phan Thanh Giản dẫn đầu sang Pháp và Tây Ba Nha đàm phán chuộc đất năm 1863. Chuyến đi thất bại, về nước ông cho in sách Vạn quốc công pháp 萬國公法 (Pháp luật các nước). Trong lời tựa sách ấy, ông đề nghị in 6 cuốn sách sau để cho nho sĩ trong nước đọc2:
- Khai môi yếu pháp 開煤要法(Cách thức khai mỏ than): Tác giả là: Smyth, Warington Wilkinson/ Sĩ Mật Đức 士密徳 (1817-1890), nhà địa chất học người Anh và nhiều người khác viết, Vương Đức Quân 王徳均 dịch. Sách chỉ dẫn tường tận cách khai mỏ than, cách dẫn nước, thoát nước, lấy ánh sáng, dự phòng nguy hiểm. Công trình được coi là tư liệu quan trọng về kỹ thuật tiên tiến của châu Âu cuối đời Thanh. Sách do Lý Hồng Chương chủ trương biên dịch, khắc in. Đương thời tôn vinh là “Sách dịch khẩn cấp đặc biệt”.
- Doanh hoàn chí lược 瀛寰誌略 (Từ Kế Dư 徐 繼 畬): đã giới thiệu ở mục 1
- Địa cầu thuyết lược 地球説略 (Richard Quarterman Way/ Huy Lý Triết 褘理哲 (1819 - 1895) soạn): đã giới thiệu ở mục 1
- Cách vật nhập môn 格物入門, sách do người Mỹ William Alexander Parsons Martin/ Đinh Vĩ Lương丁韙良soạn, gồm 7 quyển, xuất bản năm 1868. Sách do Từ Kế Dư 徐継畬, Đổng Tuân 董恂 đề tựa. Xuất bản ở Trung Quốc 1868, ở Nhật 1869. Quyển 1: Thủy học 水學, Quyển 2: Khí học 気學, Quyển 3: Hỏa học 火學, Quyển 4: Điện học電學, Quyển 5: Lực 力學, Quyển 6: Hóa học 化學, Quyển 7: Toán học hỗ trợ cách vật 算學協助格物.
- Bác vật tân biên 博物新編 (bác sĩ người Anh là Hợp Tín 合信Benjamin Hobson (1816-1873) biên soạn): đã giới thiệu ở mục 1
- Hàng hải kim châm 航海金針 (của Mã Cao Ôn 瑪高温/ Daniel Jerome Macgowan (1814-1893) biên soạn): đã giới thiệu ở mục 1
Trong các sách trên thì sách số 2, 3, 6 là sách địa lý thế giới; sách số 1 là sách dạy cách khai mỏ; sách số 4 và 5 là sách nhập môn về các ngành khoa học phương Tây. Tất cả các sách này đều là sách có tính Khai sáng.
Nói thêm về sách Vạn quốc công pháp. Sách do nhà ngoại giao, học giả luật pháp quốc tế người Mỹ tên là Henry Wheaton/ 惠頓Huệ Đốn (1785 - 1848) soạn, nhan đề tiếng Anh là Elements of International Law (Các nguyên tắc của luật pháp quốc tế). Sách được soạn xong vào năm 1836, sau đó được nhà truyền giáo người Mỹ là William Alexander Parsons Martin/ 丁韙良 Đinh Vĩ Lương (1827-1916) dịch ra Hán văn, và Kinh sư Đồng văn quán xuất bản năm 1864 (Đồng Trị thứ 3). Sách có 4 quyển:
- Quyển 1: Giải thích về Luật pháp quốc tế, nguồn gốc và những vấn đề quan yếu của nó. Quyển này có 2 chương bàn về luật pháp quốc tế, quyền tự chủ và tự trị của các quốc gia.
- Quyển 2: Bàn về quyền tự nhiên của các nước. Có 4 chương bàn về quyền tự chủ và tự vệ của các quốc gia, quyền chế định pháp luật, quyền bình đẳng giữa các nước, quyền sở hữu của các nước.
- Quyển 3: Quyền về giao tế giữa các nước trong thời bình. Có 2 chương bàn về quyền của các công sứ, quyền ký kết các điều ước giao thương.
- Quyển 4: Bàn về quy định giao chiến. Có 4 chương bàn về khai chiến, quyền của các nước tham chiến, quyền trung lập, việc ký hiệp ước hòa bình.
Vạn quốc công pháp có ảnh hưởng rất lớn đến các nước Đông Á.
Một số học giả còn nói Phạm Phú Thứ đề nghị in sách Tùng chính di quy 從政遺規của nhà triết học, chính trị gia đời Thanh Trần Hoằng Mưu 陳弘謀 (1696-1771) nói về phép tu thân và kinh nghiệm chính trị của người làm quan.
Hiện nay Thư viện Hán Nôm còn lưu 4 quyển sách khai sáng do Phạm Phú Thứ tổ chức in ấn, đó là: Bác vật tân biên, Hàng hải kim châm, Khai môi yếu pháp, Vạn quốc công pháp.3
Nguyễn Thông (1827-1884): người Gia Định, đậu cử nhân, làm Bố chánh Quảng Ngãi, Bình Thuận. Ông từng tham khảo Đông Tây dương khảo 東西洋考 của Trương Nhiếp 張燮, Hải quốc văn kiến lục của Trần Luân Quýnh và nhiều sách khác để viết nên cuốn Việt sử thông giám cương mục khảo lược 越史通鑑綱目考略. Trong sách này có nhiều chỗ ông phê bình sai lầm trong Thiên hạ quận quốc lợi bệnh thư của Cố Viêm Vũ, Doanh hoàn chí lược của Từ Kế Dư, Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên, như:
- “Cố Đình Lâm (Viêm Võ), Từ Tòng Kham (Kế Dư), những chỗ chân không đi đến nơi, mắt không nhìn thấy cũng biên vào sách, cho nên sai lầm nhiều cũng phải.”4
- “Ngụy Nguyên muốn khảo cứu mà không biết, đem chỗ ngày nay đến chỗ đời xưa, phỏng đoán bâng quơ, đọc đi vài lượt, khiến cho ta phải bật cười.”5
Nguyễn Lộ Trạch (1853-1898): người Thừa Thiên, là con trai của quan Thượng thư bộ Hình Nguyễn Oai, con rể quan Thượng thư bộ Binh Trần Tiễn Thành, nhưng không đi thi để làm quan, ông chú trọng ở thực học, xem rộng sách báo Đông Tây và trở thành nhà canh tân nổi tiếng. Nguyễn Lộ Trạch chắc chắn có đọc Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên, ông cũng nghiền ngẫm và chịu ảnh hưởng thiên Trù tính mặt biển (Trù hải thiên) trong sách ấy khi viết điều trần Thời vụ sách. Tuy nhiên trong dâng kế sách chống Pháp lên triều đình, ông không đồng ý với chủ trương của Ngụy Nguyên về quan điểm phòng thủ:
“Ngụy Nguyên có nói ‘Giữ ngoài biển không bằng giữ cửa biển, giữ cửa biển không bằng giữ trong sông’. Ngược lại, tôi cho rằng: giữ trong sông không bằng giữ cửa biển, giữ cửa biển lại không bằng giữ ngoài biển”.
Nguyễn Lộ Trạch phân tích tiếp:
“Ngay cả Trung Quốc dốc toàn lực để thủ ở trong sông đã là một kế sai, huống chi nước ta biển lại như biên giới, mối lợi tàu buôn vận chuyển đều nhờ phía biển. Nếu bỏ biển không giữ thì không còn có làng mạc đâu để mà làm “vườn không, nhà trống”, không còn có thành trì đâu mà cố thủ. Lúc ấy đồng bằng phì nhiêu sẽ trở thành thừa, mà lui vào ở chốn ma thiêng nước độc, thì dầu có hiểm trở cũng chỉ là vùng sỏi đá khô cằn, trông cậy vào đâu để dựng nước được. Cho nên nếu bỏ mặt biển mà nói thủ thì thật sẽ không có chỗ nào có thể thủ được nữa.
Thủ ngoài biển không phải là chiến thì là gì? Nhưng ngày nay nói chiến, tôi cũng tự biết là nói càn? Vì sao vậy? Vì ta pháo thì tồi, thuyền thì chậm, không phải là cách để giành chiến thắng được. Nếu ta có thể học được cái sở trường của họ, suy nghĩ làm cách nào cho thế và lực ngang với họ, thì nay dầu chưa thể chiến nhưng không phải không có cơ hội có thể chiến được. Cho nên việc thủ ngoài biển là kế sách trọng yếu ngày nay, mà muốn thủ được ngoài biển thì ngoài tàu và pháo ra, thật chẳng có kế gì khác cả.”6
Ông phân tích mối quan hệ biện chứng giữa 3 chủ trương Chiến-Thủ-Hòa. Sức ta yếu nên chưa thể chiến, thủ được, nên phải hòa. Nhưng hòa phải trên cơ sở thủ, thủ để đợi cơ hội có thể chiến. Mà thủ thì thủ trong sông không bằng thủ cửa biển, thủ cửa biển không bằng thủ ngoài mặt biển. Mà thủ mặt biển thì phải có tàu máy để đua tranh với địch. Như thế cũng là một hình thức chiến. Vậy công-thủ phải tương hỗ lẫn nhau.
Những phân tích tình hình, thế lực địch ta trong chủ trương chiến thủ hòa thật sắc bén, có sức thuyết phục cao.
Kết luận
Từ thế kỷ XVI các nước phương Tây đã trở nên vượt trội về kỹ thuật và tiềm lực kinh tế nên đã mở rộng thế lực đến phương Đông. Theo tàu buôn của các công ty Đông Ấn, các nhà truyền giáo cũng đã đến được vùng Viễn Đông xa xôi. Cùng với Kinh Thánh, họ mang đã đến các tri thức khoa học phương Tây trong đó có các sách địa lý thế giới. Nhờ có Khôn dư vạn quốc toàn đồ, Chức phương ngoại kỷ, Khôn dư đồ thuyết, Hàng hải kim châm, Địa cầu thuyết lược…mà người vùng Viễn Đông mới bắt đầu biết đến thế giới năm châu, mới biết những người Tây dương từ đâu tới, nước họ lớn nhỏ mạnh yếu ra sao. Từ các sách và bản đồ địa lý năm châu, người Trung Quốc mới bắt đầu soạn ra các sách về thế giới như: Đông Tây dương khảo, Doanh hoàn chí lược, Hải quốc đồ chí. Các sách ấy được đón nhận nồng nhiệt ở các nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam như là một phần của tri thức khai sáng. Việc tìm hiểu nhóm thư tịch này giúp cho chúng ta hiểu thêm về một phần của lịch sử khai sáng Đông Á, đồng thời cũng hiểu thêm về cách tiếp nhận có phê phán của các nho sĩ canh tân Việt Nam đối với các sách địa lý thế giới, nhất là sách của các học giả Trung Quốc.
Đoàn Lê Giang
PGS.TS., Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TP.HCM
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm số 4 (173) năm 2022, ISSN 8066-8639, tr.53-64
Chú thích
- Lê Quý Đôn, Vân đài loại ngữ, Trần Văn Giáp biên dịch và khảo thích, NXB.Văn hóa thông tin tái bản, 2006, tr.54-55
- Phạm Phú Thứ, Phạm Phú Thứ toàn tập, tập 2, Phạm Ngô Minh chủ biên, NXB.Đà Nẵng, 2014, tr.425
- Trần Nghĩa, Francois Gros, Di sản Hán Nôm Việt Nam - thư mục đề yếu, tập 3, NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, các tr.723, 782, 801, 949
- Nguyễn Thông, Việt sử thông giám cương mục khảo lược, Đỗ Mộng Khương dịch, NXB.Khoa học xã hội, Hà Nội, 2019, tr.95
- Nguyễn Thông, sđd, tr.162
- Mai Cao Chương, Đoàn Lê Giang, Nguyễn Lộ Trạch – Điều trần và Thơ văn, NXB. KHXH, Hà Nội, 1995, tr.95-96