Nếu như các quốc gia ở Bắc bán cầu như Canada, Mĩ, Nga, Pháp,… hân hoan chuẩn bị lễ hội Giáng sinh và năm mới trong cái lạnh giá của mùa đông, nếu như người dân phương Bắc bên lò sưởi ấm cúng đang bận rộn trang hoàng cho ngôi nhà của mình với cây thông Noel, chuẩn bị những món quà xinh xắn hay đắp những người tuyết đáng yêu trong sân vườn và cùng nhau hát vang bài ca White Christmas; thì ở Nam bán cầu, người dân ở xứ sở Chuột túi cũng đang tưng bừng chuẩn bị cho một mùa Giáng sinh an lành và năm mới hạnh phúc cùng nhiều hoạt động sôi nổi. Điểm khác biệt vô cùng thú vị là Giáng sinh và năm mới của những công dân xứ Chuột túi diễn ra trong cái nóng rực của mùa hè phương Nam chứ không phải là cái lạnh giá của mùa đông phương Bắc. Mặc dù vẫn mang những ảnh hưởng từ văn hóa Âu châu, đặc biệt là truyền thống Anh quốc; cộng thêm sự du nhập của các nền văn hóa khác nhau từ dân nhập cư Á, Phi; thì văn hóa mừng Giáng sinh và đón chào Năm mới ở xứ sở Chuột túi và gấu Koala vẫn có những nét rất riêng biệt, phản ánh chân thực những đặc thù văn hóa, con người và thiên nhiên địa phương.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Phật học, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, số 6-2012 (số 122), trang 17-22.

1. Phật giáo truyền vào nước ta từ khi nào?

Nêu vấn đề với câu hỏi như trên bởi lẽ từ trước đến nay có nhiều tư liệu ghi cái mốc Phật giáo truyền vào nước ta chưa nhất quán. Có ý kiến cho rằng Phật giáo truyền vào nước ta từ thế kỷ thứ II sau Công nguyên như sách Thiền uyển tập anh ngữ lục, và các công trình của: Trần Văn Giáp (1932), Mật Thể (1941), Viện Triết học (1988) V.V..; Lại có ý kiến cho rằng Phật giáo truyền vào từ cuối thế kỷ thứ I trước Công nguyên như các công trình của Nguyễn Lang (1972), Lê Mạnh Thát (1976)[1] v.v.. Vấn đề vừa nêu tưởng như đơn giản và đã giải quyết ngã ngũ, vì từ đầu thế kỷ XX đến nay, các nhà nghiên cứu lịch sử, lịch sử tư tưởng, Phật giáo sử, Văn học trung đại… đã bàn nhiều, bàn kỹ, nhưng ngẫm lại, vấn đề trên cũng còn có điều để bàn thêm, bàn lại. Ngay cả quyển sách được xem là tài liệu gốc và xưa nhất về lịch sử Phật giáo Việt Nam là tác phẩm Thiền uyển tập anh ngữ lục được viết vào khoảng đầu thế kỷ XII (khoảng trước năm 1134) đến đầu thế kỷ XIII thì hoàn tất, bởi các vị thiền sư Thông Biện, Thường Chiếu, Thần Nghi, Ẩn Không kế tục nhau biên chép; truyền bản đời Trần hiện không còn, bản in xưa nhất hiện còn là bản Vĩnh Thịnh thứ 11 (1715), đời Lê Dụ Tông (1705-1729) cũng không phải là không có sai sót, nhầm lẫn hoặc ghi chép thiếu nhất quán. Bài viết này sẽ bàn thêm, bàn lại về vấn đề vừa nêu.

Nguyễn Tiến Lực[1]

Mở đầu

Trong cuộc đời hoạt đông cách mạng của mình, Phan Bội Châu cho rằng thời kỳ ở Nhật là thời kỳ đắc ý nhất. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi đó, ông đã phát động được phong trào Đông Du nổi tiếng, có dịp tiếp xúc với nhiều chính khách lớn của Nhật, được giao lưu liên kết với các nhà trí thức, các nhà hoạt động dân tộc châu Á. Đặc biệt, ông có được một thời gian sáng tác sung sức, để lại một số lượng trước tác lớn, góp phần tạo nên diện mạo mới của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX.

I/ Xác định những mốc lịch sử

            1/ Trước khi đề cập vấn đề trên, có lẽ cũng nên xác định lại niên đại đản sinh của Thái tử Tất Đạt Đa (Siddhartha) và niên đại nhập diệt của đức Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni). Về vấn đề này hiện có nhiều thuyết và nhiều tài liệu ở Việt Nam chưa nhất quán.

  Prof. Imai Akio

Tokyo University of  Foreign Studies

Abstract

      The term “Quoc Hoc” literally “ the study of our country” refers to an intellectual movement that emerged in late eighteeth century Japan in explicit opposition to “ Han Hoc (Chinese Studies) ”,the study of Confucian works.In the period between World War and World War,the “ Quoc Hoc” movement emerged in China,Korea and Vietnam .In Vietnam, 3 main persons, Le Du, Pham Quynh, Phan Khoi took part in the “ Quoc Hoc” debate that began in 1931.Le Du advocated “ Quoc Hoc”, Pham Quynh and Phan Khoi denied the presence of it in past and present Vietnam. In Vietnam, this movement was weak and finished shortly.Through this comparative study, the author tried to find out the nature of “ Quoc Hoc ” debate and the reason why “ Quoc Hoc” movement did not develop in Vietnam.

CUỘC TRANH LUẬN VỀ “QUỐC HỌC” TRONG GIỚI TRÍ THỨC

VIỆT NAM ĐẦU THẬP NIÊN  1930

Tóm tắt

      Thuật ngữ “Quốc học” nghĩa đen là “ngành học về đất nước” nhằm chỉ phong trào trí thức khởi phát  ở Nhật Bản từ cuối thế kỉ 18 trong thế đối lập với “Hán học”- nền học vấn dựa trên kinh sách Nho giáo. Trong thời kì giữa hai cuộc Đại chiến thế giới lần 1 và 2, cuộc vận động “Quốc học” đã bùng phát ở Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Tại Việt Nam, ba nhân vật chủ yếu là Lê Dư, Phạm Quỳnh và Phan Khôi đã đóng vai trò chính trong cuộc tranh luận về “Quốc học” vốn chính thức bắt đầu từ 1931. Trong khi Lê Dư  chủ trương tán thành “Quốc học” thì Phạm Quỳnh và Phan Khôi lại phủ định sự tồn tại của nó ở Việt Nam trong quá khứ và đương thời.  Tại Việt Nam, cuộc  vận động này diễn ra khá yếu ớt và ngắn ngủi. Qua bài viết này, chúng tôi cố gắng truy tìm bản chất của cuộc tranh luận về “Quốc học” và nguyên nhân vì sao phong trào này đã không thể phát triển ở Việt Nam.

 

Nghĩ về “Quốc học” ở Đông Á  Thông qua cuộc luận chiến về “Quốc học”  ở Việt Nam thập kỉ 1930

Mở đầu

Từ sau khi Thế chiến thứ I kết thúc vào cuối thập niên 1910 đến những năm 1910, cuộc vận động kêu gọi chấn hưng “Quốc học” đã bùng phát ở khắp các nước Đông Á: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam. “Quốc học” ở đây cần được hiểu khác với ý nghĩa từ trước đến nay. Theo đó, cách hiểu “Quốc học” thông thường trước nay là: Thứ nhất, 1) là trường học được thành lập ở kinh đô dưới các triều đại phong kiến cổ đại, được mang tên “Quốc tử giám” từ sau nhà Tùy. Tên trường Quốc học ở Huế- Việt Nam cũng xuất phát từ nghĩa này mà ra. Thứ hai, 2) tương tự tại Nhật Bản dưới chế độ luật lệnh cũng thiết lập các trường ở các lãnh địa dành cho con em của các quí tộc trị sự. Riêng “Quốc học” trong bài viết này không theo ý nghĩa trên mà nhằm chỉ nền học thuật hướng đến đào sâu nghiên cứu văn hóa truyền thống của một quốc gia. Với nghĩa này thì “Quốc học” đã xuất hiện sớm nhất tại Nhật và từ khi bước vào thời cận đại đã được truyền bá đến Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam. Điều thú vị là tại ba nước Trung Quốc, Triều Tiên và Việt Nam, “Quốc học” được khởi xướng gần như cùng lúc với thời gian 2 cuộc Thế chiến diễn ra, và theo như Benedict Anderson thì đã góp phần trong việc xây dựng nền tảng tinh thần cho “Chủ nghĩa dân tộc ở thuộc địa”. Tuy nhiên, xét về động thái thì phong trào “Quốc học” ở Việt Nam đã không thể phát triển mạnh mẽ như ở ba nước còn lại. Vì sao lại như vậy? Thông qua việc so sánh “Quốc học” ở cả bốn quốc gia kể trên, bài nghiên cứu này sẽ cố gắng làm sáng tỏ các đặc trưng của cuộc luận chiến về “Quốc học” ở Việt Nam.

(Tưởng niệm 570 năm ngày mất của danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi 1380-1442)

Những gì sắp trình bày ở đây không phải là hoàn toàn mới, bởi trước đây các nhà nghiên cứu ít nhiều đã đề cập về vấn đề này rồi. Nhưng cái mới ở đây là trên cơ sở kế thừa thành tựu đã có, kết hợp tìm tòi thêm tư liệu, bài viết này nêu lại một cách có hệ thống xung quanh vụ án Lệ Chi Viên oan nghiệt, đã tàn hại cả một tộc họ, nhất là tiêu diệt một con người tài hoa, uyên bác, lịch lãm và vĩ đại cách đây đúng 570 năm!

 

Vĩnh Sính

 

Tiến sĩ Sử học, Đại học Alberta, Canada

 

Đã từ lâu lắm, có lẽ từ khi cụ Phan Bội Châu và các hội viên của Duy Tân Hội đang còn tìm cách gởi thanh niên Việt Nam sang Nhật du học qua phong trào Đông Du, cái tên Nguyễn Trường Tộ (1830-1871) thỉnh thoảng lại gợi đến cho người Việt một niềm tự hào, tin tưởng vào giấc mộng canh tân đất nước. Ta tự nghĩ, nếu từ thập niên 1860, khi Việt Nam vừa mới phải trạm chán với những thách đố đầu tiên của Tây phương mà trong nước chúng ta đã có người nhìn xa thấy rộng như Nguyễn Trường Tộ, thì quả thật nước ta đâu có thiếu nhân tài. Thoạt nhìn sang các nước láng giềng vào lúc đó thì số phận của họ đâu có gì sáng sủa hơn Việt Nam cho lắm. ! Ở Trung Hoa, sau thất bại nhục nhã trong chiến tranh nha phiến (1839-1842), quan viên triều đình nhà Thanh vừa phải đương đầu với loạn Thái bình Thiên quốc, vừa phải tìm cách chấn hưng đất nước qua chính sách “tự cường”. Ngay số phận của Nhật Bản trước Minh Trị Duy Tân(1868) cũng như ngàn cân treo sợi tóc: việc chính quyền Tokugawa ký kết một loạt hiệp ước bất bình đẳng với các nuớc Tây phương vào năm 1858 không có sự thoả thuận của Thiên hoàng đã trở thành lý do để các nhóm chống đối (mà tụ điểm là các vũ sĩ cấp dưới ở Satsuma và Chôshu) buộc tội; bên ngoài thì Pháp Anh nhòm ngó; Pháp ủng hộ chính quyền Tokugawa và Anh ủng hộ nhóm Satsuma – Chôshu. Nếu những tranh chấp và mâu thuẫn nội bộ của Nhật Bản không được khôn khéo giải quyết nhanh chóng và kịp thời để đối phó hữu hiệu với tình hình quốc tế lúc bấy giờ thì Nhật Bản cũng đã trở thành một miếng mồi ngon cho các nước Tây phương, chẳng khác gì số phận các nước Á châu khác.

Du ký 

             Được sự giúp đỡ của Hòa thượng Yoshimizu Daichi và sư cô Tiến sĩ Thích Tâm Trí ở chùa Nisshinkutsu (Tokyo) cùng nhiều cơ quan hữu quan, chúng tôi đã có dịp du ngoạn đến đất nước Nhật Bản tươi đẹp. Trên tinh thần chung, đây là đoàn làm phim giới thiệu về đất nước, con người, lịch sử, văn hóa Nhật Bản và tập trung trước hết vào 25 ngôi chùa cổ. Đoàn đi có năm người, ba vị bên Đài Truyền hình Việt Nam, nhà nghiên cứu mỹ thuật Lê Cường và tôi.

 PGS.TS Lê Thu Yến

Tóm tắt

        Bài viết đặt ra vấn đề ứng xử văn hóa theo truyền thống thông qua mối tình cụ thể là tình yêu Kim – Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có kết hợp phân tích so sánh chi tiết giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện để thấy những nét ứng xử khác biệt giữa 2 tác phẩm. Đó cũng là nét đẹp nhân văn tạo nên sức sống lâu bền của tác phẩm.

Kỷ niệm 95 năm ngày sinh nhà văn Nam Cao (29.10.2017 - 29.10.2012)

Nếu nhìn ở góc độ con người là sản phẩm xã hội thì Chí Phèo, Bá Kiến, Thị Nở và đám đông “đùn ra” khi Chí Phèo rạch mặt ăn vạ - là sản phẩm của làng thôn Việt Nam - cụ thể là làng Vũ Đại. Từ con người, tính cách, địa vị xã hội, đời sống vật chất và tinh thần cùng các mối quan hệ giữa những con người ấy là sản phẩm của cái làng đóng kín vùng đồng bằng Bắc Bộ. Sự đóng kín biểu hiện ở chỗ lý trưởng có thể giấu một tên tội phạm mà quan trên không hề hay biết, còn những người hiền lành đi ra khỏi làng, đi đến một môi trường sống khác, trở về thì thành một con người khác, họ bị tha hóa và thành nỗi đe dọa đối với tất cả. Và mặc dù có các sự kiện của nó như một hằng số (Chí Phèo rạch mặt ăn vạ; chết chóc; sự thay bậc đổi ngôi...) thì làng Vũ Đại vẫn yên ả trong cái thế gầm ghè của các phe cánh đối lập - nó không có sự xáo trộn, sự vận động.

 Nguyễn Tiến Lực

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TPHCM

Mở đầu

Cùng với công cuộc cải cách, khai phóng ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam, ở hai nước đều có quá trình đánh giá lại các nhân vật lịch sử. Những nhân vật lịch sử này thường  “có vấn đề ”  theo cách nhìn nghiêm ngặt của thời kỳ trước cải cách nhưng họ vẫn tồn tại trong lòng người dân mỗi nước về sự nghiệp kinh bang tế thế, về nhân cách, về tâm cao kiến văn và về cả “cách yêu nước” của họ.

         Trong bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường có viết: “Trong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang, dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại.” [dẫn lại: Ngữ văn 12, tập 1, Nxb GDVN, 2010, tr.201]. Tập bút ký trên của Hoàng Phủ Ngọc Tường do Nxb Thuận Hoá in lần đầu vào năm 2002.

Sau đó, trên Tạp chí Xưa và Nay của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tại số 341 tháng 10 năm 2009 đã đăng bài viết của Tôn Thất Thọ: “LINH GIANG” LÀ SÔNG NÀO?. Trong bài viết, ông Tôn Thất Thọ đã viện dẫn đến bốn tư liệu xưa như Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Ô Châu cận lục của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán triều Nguyễn, để lý giải rồi đi đến kết luận với sự khẳng định như đinh đóng cột: “Linh Giang là tên cũ của sông Hương Thừa Thiên Huế, chứ không phải tên cũ của sông Gianh ở Quảng Bình

         Thế thì tên chữ Hán “Linh Giang” dùng để gọi sông Gianh hay là sông Hương?

Qua khảo lại tư liệu xưa hiện còn, chúng tôi thấy hai ý kiến khác nhau về dòng Linh Giang: một ở Quảng Bình và một ở Thừa Thiên – Huế.

Muốn biết cụ thể, hãy trở lại sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Ô Châu cận lục của Dương Văn An, Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn, mục Dư địa chí trong sách Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Đại Nam nhất thống chí của Quốc Sử quán triều Nguyễn thì sẽ rõ.

1. Trước hết là thông tin về Linh Giang trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi.

Dư địa chí được Nguyễn Trãi viết trong 8 tháng, hoàn thành vào năm 1435 theo lệnh của vua Lê Thái Tông, nội dung chép về các đạo (vùng miền) ở trong nước, được khắc in vào năm 1442, nhưng cũng năm này, cụ Nguyễn bị bản án Lệ Chi viên oan nghiệt nên triều đình ra lệnh hủy mộc bản, may mà còn bản viết tay lưu ở Bí thư các, để sau đó vua Lê Nhân Tông đến xem và đánh giá cao, đem về “để sách ở ngự tẩm, dùng làm chính thư”, mà sau này, hai người bạn đồng khoa, đồng liêu của cụ Nguyễn đã biên tập là Lý Tử Tấn viết lời Thông luận (Lý thị viết) và Nguyễn Thiên Tích viết lời Tập chú, lời Cẩn án. Hiện có 5 bản chép tay Dư địa chí đang lưu giữ tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm Hà Nội mang ký hiệu và nhan đề sau: A.2815 Ức Trai di tập Nam Việt dư địa chí 55 tờ, khổ 28,5 x 16,5 cm; A.1900 Đại Việt dư địa chí 123 tờ, khổ 25 x 14 cm; A.830 Nam Quốc Vũ cống 60 tờ, khổ 30 x 20 cm; A.2251 An Nam Vũ cống 50 tờ, khổ 26,2 x 15,4 cm; A.53 Lê triều cống pháp 158 tờ, khổ 32 x 22 cm, và một bản của Dương Bá Cung - bộ Ức Trai di tập 7 quyển, Dư địa chí thuộc quyển thứ 6 với tên là An Nam Vũ cống (vì cụ Nguyễn Trãi đã viết sách này theo thể văn của thiên Vũ cống trong Kinh Thư của Trung Quốc), do Phúc Khê đường khắc in vào năm 1868 dưới triều Tự Đức Nguyễn Dực Tông (1847-1883). Đây là bản in Dư địa chí xưa nhất hiện còn. Tại tờ 22b, 23a của sách có chép về vùng Thuận Hóa, nơi có dòng Linh Giang, với nguyên văn như sau:

海及雲,靈惟順化.

 

,南海也.,隘山也.,水名.順化古越裳氏部.趙越改為北景州內伴.東北通乂安.西南連牢廣.路府凡二,屬縣凡八,州凡四,里社凡六百五十八.南方之第四藩也.

謹按:新平府,二縣,二州,二百二十四社:康祿七十,七冊,四源;麗水二十九社;布政州六十三社,一村,二十四庄,二冊,三源;明靈(古麻靈,李常傑征占取其地)六十四社,二源;肇豊府六縣,二州,四百四十四社;海陵五十四社,八村,二十八峒;武昌九十五社,三村,五冊;丹田六十三社,九村,六冊;金茶七十三社,二村,二州,十三冊,三源;思榮四十四社,十八村,一庄;奠盤九十五社;順平州八峒,二十一冊;沙盃州六峒,十五庄,六十八冊.

Phiên âm: [tờ 22b] Hải cập Vân, Linh duy Thuận Hóa.

Hải, Nam Hải dã. Vân, ải sơn dã. Linh, thủy danh. Thuận Hoá cổ Việt Thường thị bộ. Triệu Việt cải vi Bắc Cảnh châu nội bạn. Đông Bắc thông Nghệ An. Tây Nam liên Lao, Quảng. Lộ phủ phàm nhị, thuộc huyện phàm bát, châu phàm tứ, lý xã phàm lục bách ngũ thập bát. Nam phương chi đệ tứ phiên dã.

Cẩn án: Tân Bình phủ, nhị huyện, nhị châu, nhị bách nhị thập tứ xã: Khang Lộc thất thập bát xã, thất sách, tứ nguyên; Lệ Thủy nhị thập cửu xã; Bố Chính châu lục thập tam xã, nhất thôn, nhị thập tứ trang, nhị sách, tam nguyên; Minh Linh (cổ Ma Linh, Lý Thường Kiệt chinh chiếm thủ kỳ địa) lục thập tứ xã, nhị nguyên. Triệu Phong phủ lục huyện nhị châu [tờ 23a] tứ bách tứ thập tứ xã: Hải Lăng ngũ thập tứ xã, bát thôn, nhị thập bát động; Vũ Xương cửu thập ngũ xã, tam thôn, ngũ sách; Đan Điền lục thập tam xã, cửu thôn, lục sách; Kim Trà thất thập tam xã, nhị thôn, nhị châu, thập tam sách, tam nguyên; Tư Vinh tứ thập tứ xã thập bát thôn, nhất trang; Điện Bàn cửu thập ngũ xã; Thuận Bình châu bát động, nhị thập nhất sách; Sa Bôi châu lục động, thập ngũ trang, lục thập bát sách. 

 

Dịch: [tờ 22b] Biển cùng Vân, Linh ở về Thuận Hóa.

Biển là biển Nam Hải. Vân là núi ở cửa ải. Linh là tên sông. Vùng Thuận Hoá xưa là bộ của họ Việt Thường. Triệu Việt đổi làm nội bạn của châu Bắc Cảnh. Phía Đông Bắc thông với Nghệ An. Phía Tây Nam giáp liền với Lào, Quảng. Có 2 lộ phủ, 8 thuộc huyện, 4 châu, 658 làng xã. Đấy là phên giậu thứ tư về phương Nam vậy.

Cẩn án: Phủ Tân Bình có 2 huyện, 2 châu, 224 xã: huyện Khang Lộc có 78 xã , 07 sách, 04 nguyên; Lệ Thủy 29 xã; châu Bố Chính 63 xã, 01 thôn, 24 trang, 02 sách, 03 nguyên; Minh Linh (Xưa có tên là Ma Linh, Lý Thường Kiệt đã đánh chiếm giữ đất này) có 64 xã, 02 nguyên. Phủ Triệu Phong có 06 huyện, 02 châu, [tờ 23a] 444 xã: Hải Lăng 54 xã, 08 thôn, 28 động; Vũ Xương có 95 xã, 03 thôn, 05 sách; Đan Điền có 63 xã, 09 thôn, 06 sách; Kim Trà có 73 xã, 02 thôn, 02 châu, 13 sách, 03 nguyên; Tư Vinh có 44 xã, 18 thôn, 01 trang; Điện Bàn có 95 xã; châu Thuận Bình có 08 động, 21 sách; châu Sa Bôi có 06 động, 15 trang, 68 sách. [NCL dịch]

Trong Dư địa chí, phần trên là văn của Nguyễn Trãi, phần dưới (Cẩn án) là văn của Nguyễn Thiên Tích. Cần lưu ý là các đơn vị hành chính khi xưa: huyện, xã, thôn là những đơn vị ở đồng bằng; châu, sách, nguyên, động, trang là những đơn vị ở vùng cao, miền núi.

Ngày ấy, đất Thuận Hoá rất rộng, bao gồm cả các tỉnh: Quảng Bỉnh, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế và một phần phía bắc Quảng Nam hiện nay, mà khi xưa Thuận Hóa chỉ có hai phủ: Tân Bình và Triệu Phong. Phủ Tân Bình xưa là đất của 3 châu Địa Lý, Ma Linh, Bố Chính của Chiêm Thành, nay là đất Quảng Bình và 2 huyện của Quảng Trị, gồm: Khang Lộc (nay là Quảng Ninh), Lệ Thuỷ (nay vẫn là Lệ Thuỷ), Bố Chính (nay là Bố Trạch, Quảng Trạch, Tuyên Hoá); Minh Linh (nay là Vĩnh Linh, Do Linh). Phủ Triệu Phong xưa là đất Châu Ô, Châu Lý của Chiêm Thành, gồm 6 huyện: Hải Lăng, Vũ Xương, Đan Điền, Kim Trà, Tư Vinh, Điện Bàn và 2 châu Thuận Bình, Sa Bôi. Hiện tại, Hải Lăng, Vũ Xương (nay là Triệu Phong), Thuận Bình (nay là Cam Lộ), Sa Bôi (nay là Cam Lộ) thuộc tỉnh Quảng Trị; Đan Điền (nay là Quảng Điền, Phong Điền), Kim Trà (nay là Hương Thuỷ, Phú Lộc và một phần Hương Điền), Tư Vinh (nay là Phú Vang, một phần Hương Thuỷ, Phú Lộc) thuộc đất Thừa Thiên; còn Điện Bàn thuộc phía bắc đất Quảng Nam.

Như vậy, vùng Thuận Hoá giáp biển Đông (Nam Hải); cửa ải đây là núi/đèo Hải Vân; Linh là tên sông: Linh Giang, mà theo hiệu đính, chú thích của GS Hà Văn Tấn; sau đó được GS học giả Đào Duy Anh chỉnh lý trong bộ Nguyễn Trãi toàn tập thì Linh Giang tức Sông Gianh thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay. Cũng trong Dư địa chí, trước đó mấy tờ, tại tờ 20a, Nguyễn Trãi cũng có nhắc đến Linh Giang, khi viết về dòng Lam giang có khởi nguồn từ Linh Giang: 麒麟山名,在永江之右.藍水名,其源出自靈江. “Kỳ Lân sơn danh, tại Vĩnh Giang chi hữu. Lam thuỷ danh, kỳ nguyên xuất tự Linh Giang.” (Kỳ Lân là tên núi, nằm bên hữu sông Vĩnh Giang. Lam là tên sông, phát nguyên từ Linh Giang – xin nói thêm: chỗ này có lẽ các cụ đã nhầm về nơi phát nguyên của dòng Lam Giang, bởi Lam Giang ở Nghệ An, còn Linh Giang ở Quảng Bình thì làm sao Lam Giang khởi nguồn từ Linh Giang được? – NCL chú) và cũng theo chú thích của GS Hà Văn Tấn, GS Đào Duy Anh trong bộ Nguyễn Trãi toàn tập thì một lần nữa các cụ khẳng định Linh Giang chính là sông Gianh ở Quảng Bình.

Trên đây là tên Linh Giang trong Dư địa chí của Nguyễn Trãi đã được biên tập sau đó bởi Lý Tử Tấn và Nguyễn Thiên Tích, mà theo các cụ ngày xưa cùng người dịch chú thời nay thì dòng Linh Giang nằm ở Quảng Bình hiện nay. Điều này đủ để chứng minh là nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhầm khi viết rằngtrong sách địa dư của Nguyễn Trãi, nó mang tên là Linh Giang. Có nhầm lẫn này cũng dễ hiểu thôi là bởi tuy nhà văn có đọc sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi nhưng không ngẫm kỹ nên chưa hiểu ý văn của người xưa. Trong sách của mình, cụ Nguyễn Trãi chỉ giới thiệu chung chung “Linh: tên sông ở Thuận Hoá”, mà đất Thuận Hoá khi xưa rất rộng như trên tôi có nêu và trích dẫn lại phần Cẩn án của sách, chứ cụ đâu có nói Linh Giang là dòng sông nằm ở Thừa Thiên như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khẳng định đó là sông Hương!

2. Còn đây là lời của Dương Văn An trong Ô Châu cận lục (sách này được bắt đầu nhuận sắc năm 1553, hoàn thành năm 1555) có chép về Linh Giang như sau (Lưu ý: Ô Châu cận lục hiện có đến bốn bản dịch: bản dịch của Hội Nghiên cứu Văn hoá Á Châu, SG, 1960; bản dịch của Viện Nghiên cứu Hán Nôm; bản dịch của Trần Đại Vinh; và bản dịch của Nguyễn Khắc Thuần - bản này không khác với bản dịch của Hội Nghiên cứu Văn hoá Á Châu ở Sài Gòn là mấy ?!!. So sánh các bản dịch thì chúng tôi thấy, ba bản dịch của: Hội Nghiên cứu Văn hoá Á Châu, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Nguyễn Khắc Thuần có nhiều nhầm lẫn về địa danh, bởi những người dịch không phải là “Thổ công, Thổ địa” ở đây; chỉ có bản dịch của Trần Đại Vinh là rất đáng tin cậy, có sách dẫn đối sánh về địa danh cùng chú thích cụ thể rõ ràng, bởi ông là người gốc Huế, nay đã 70 tuổi, giảng dạy Hán Nôm tại trường Đại học Sư phạm Huế từ năm 1970, hiện ông đã nghỉ hưu nhưng vẫn được mời giảng.

- Quyển 1. Núi sông: “Linh Giang: sông do hai nhánh sông Đan Điền và Kim Trà hợp lưu, sâu rộng vô ngần, quanh co hữu tình. Phía tây nam có đền thờ Tứ vị Thánh nương, có trạm Địa Linh; phía đông bắc có chùa Sùng Hóa, có bia Hoằng Phúc. Còn như nha thự hiến ty, phủ huyện, vệ sở đều nối liền đối nhau hai bên tả hữu” [Bản dịch của Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc, Nxb Thuận Hoá, 2001, tr. 26].

Tiếp theo, tác giả viết về sông Đan Điền “là dòng sông lớn của huyện Đan Điền, có nguồn rất xa và dòng rất dài” mà dịch giả chú thích là sông Bồ [ÔCCL, bd, tr. 26].

Cũng tại sách này, một chỗ khác có ghi chú sông Kim Trà chính là sông Hương.

- Quyển 5. Đền chùa: “Chùa Sùng Hóa tại làng Lại Ân huyện Tư Vinh. Phía trước có sông Linh uốn quanh. Phái sau có đầm lớn vây bọc. Sông Hòa Tài ôm ở phía nam, bia Sùng Phúc trổi cao ở phía bắc (…) Đây là ngôi chùa nổi tiếng ở Hóa Châu” [ÔCCL, bd, tr. 94].

Như vậy, theo Dương Văn An thì dòng Linh Giang ở Hoá Châu, tức ở Thừa Thiên - Huế hiện nay. Còn Linh Giang có phải là Hương Giang hay không thì trong nguyên tác không thấy ghi chú; trong bản dịch của Trần Đại Vinh cũng không thấy ghi chú thích, dù vậy người đọc vẫn có thể suy đoán Linh Giang chính là sông Hương, vì nó là hợp lưu của sông Kim Trà và sông Đan Điền, mà hai sông này đều ở Thừa Thiên - Huế, hơn nữa, sông Kim Trà có nơi ghi chú đó chính là sông Hương. Như vậy, nếu giả dụ nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường viết “Trong sách Ô Châu cận lục, Dương Văn An có nói dòng Linh Giang xưa chính là dòng Hương Giang ngày nay” thì có lẽ sẽ không ai tranh luận!  

3. Sách Phủ Biên tạp lục của cụ Bảng nhãn Lê Quý Đôn soạn năm 1776 đã chép: “Sông cái Đan Điền nguồn ở rất xa, bờ nam bờ bắc sông đều có dân cư, thành lớn Thuận Hóa ở về hạ lưu. Huyện Kim Trà ở ngả Ba sông Kim Trà ...” [PBTL, bd, tr.96] ...

Một chỗ khác trong sách cụ lại viết: “Từ bến các xã phường Lộc Điền Lũ Đăng đi thuyền theo sông Đại Linh là phía hữu sông, Đại Linh tức sông Gianh, qua hai xã Vân Lôi, La Hà, đến ngả ba là chỗ sông Gianh và sông Son gặp nhau” [PBTL, bd, tr.101].

Ở đây, cụ Bảng nhãn Lê Quý Đôn đã ghi chép không nhất quán, khi thì cụ nói đó là sông cái Đan Điền hợp lưu với sông Kim Trà; khi thì nói đó là sông Đại Linh tức sông Gianh. Mà sông Đan Điền hợp với sông Kim Trà (nay là sông Hương) thì thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế, còn sông Đại Linh hay sông Gianh thì thuộc tỉnh Quảng Bình ngày nay.

4. Bộ bách khoa thư đầu thế kỷ XIX: Lịch triều hiến chương loại chí (LTHCLC) của Phan Huy Chú, mục Dư địa chí, quyển 5, có viết về ngọn nguồn gốc gác của vùng đất Thuận Hoá như sau:

“Đời thượng cổ là nước Việt Thường. Tần, Hán là huyện Tượng Châu. Tấn là nước Lâm Ấp. Đến đời Đường mới đặt ra châu Lâm, châu Cảnh, rồi lại lọt vào nước Lâm Ấp. Thời Tống là Chiêm Thành. Khoảng đầu đời Lý Thánh Tông [1069] vua thân chinh đi đánh, chúa Chiêm Thành dâng ba châu Địa Lý, Ma Linh, Bố chính để chuộc tội.

Vua Nhân Tông, Thái Ninh năm thứ 4 [1075] sai Lý Thường Kiệt đi tuần hành ở biên thuỳ, vẽ đồ bản núi sông của hai châu, rồi đổi châu Địa Lý gọi là châu Lâm Bình, châu Ma Linh gọi là châu Minh Linh, chiêu tập nhân dân đến ở. Từ đó, từ huyện Kỳ Hoa trở vào nam, một dải Hoành Sơn đều thuộc về bản đồ nước Việt ta.

Năm Long phù thứ 3 [1103] chúa Chiêm Thành là Chế Ma Na lại ra đánh lấy lại ba châu. Năm thứ 4 [1104] Lý Thường Kiệt đi đánh, bình được. Chúa Ma Na lại đem nộp trả đất 3 châu. Từ đó vẫn triều cống luôn.

Đến năm Hưng Long thứ 14 [1304], Trần Anh Tông gả công chúa Huyền Trân cho chúa Chiêm Thành là Chế Mân, chúa Chiêm dâng hai châu Ô, Lý làm lễ dẫn cưới, mới đổi thành Thuận [châu và] Hoá châu.

Cuối đời Trần, đổi Lâm Bình thành Tân Bình, cùng với trấn Thanh Hoa và 2 lộ Nghệ An, Diễn Châu đều là trọng trấn. Thời thuộc Minh, đặt làm hai phủ Tân Bình và Thuận Hoá. Buổi đầu đời Lê, Thái Tổ cũng theo thế, đặt ra chức Lộ tổng quân và Tri phủ. Thánh Tông năm Quang Thuận thứ 7 [1466] đặt Thừa tuyên Thuận Hoá thống thuộc các phủ huyện” [LTHCLC, Dư địa chí, bd, tập 1, tr.130].

Cũng theo Lịch triều hiến chương loại chí, mục Dư địa chí, đất Thuận Hoá có 2 phủ là Triệu Phong và Tân Bình. Phủ Triệu Phong có 5 huyện là Đan Điền, Kim Trà, Ân Vinh, Hải Lăng, Vũ Xương và 2 châu là Thuận Bình, Sa Bôi. Phủ Tân Bình có 2 huyện là Khang Lộc, Lệ Thuỷ và 2 châu là Minh Linh, Bố Chính.

Theo Phan Huy Chú, phủ Triệu Phong ở giữa Thuận Hoá, phía nam giáp Quảng Nam. Về núi sông ở phủ này thì có Thương Sơn, núi Hương Uyển ở huyện Kim Trà, Quy Sơn ở huyện Ân Vinh, núi Hải Vân ở ải Ải Vân thuộc huyện Ân Vinh; dốc Hải Lăng ở huyện Hải Lăng, sông Linh do hai nguồn nước Kim Trà và Đan Điền chảy vào, sông rất sâu và rộng. Phía tây nam có chùa Tứ Vị, phía đông bắc có chùa Đường Hoa, phía tây bắc sông đều là dân cư. Thành lớn Thuận Hoá ở về hạ lưu sông; nguồn Kim Trà ở chỗ ngả ba sông thuộc huyện Kim Trà; cửa Việt ở huyện Vũ Xương do hai nguuồn sông Quá Nguyên và Viên Kiều đổ vào; cửa Nhuyễn ở huyện Kim Trà do các nguồn nước Kim Trà, Đan Điền đổ đến. Từ cửa Việt đến cửa Tư Dung gọi là Đại trường sa, cửa Bắc Hải gọi là Tiểu trường sa [theo: LTHCLC, Dư địa chí, bd, tập 1, tr.131-132].

Lưu ý về địa danh, phủ Triệu Phong ngày xưa nay là đất của hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên Huế; còn tên Triệu Phong ngày nay là tên huyện thuộc tỉnh Quảng Trị. Ở đây, có chi tiết cần lưu ý là địa danh sông Linh. Dòng sông này là hợp lưu của dòng Kim Trà và Đan Điền, mà sau này có tên gọi là sông Hương (tên chữ Hán là Hương Giang). Theo tôi, đó là lý do để Dương Văn An và Lê Quý Đôn ghi chép như trên. Đây cũng chính là căn cứ để ông Tôn Thất Thọ khẳng định Linh Giang (sông Linh) là tên gọi ngày xưa của dòng sông Hương ngày nay.

Cũng theo Phan Huy Chú, phủ Tân Bình ở phía bắc trấn Thuận Hoá, giáp với trấn Nghệ An, lấy sông Gianh làm giới hạn phía nam [LTHCLC, Dư địa chí, bd, tập 1, tr.133]. Về núi ở phủ này thì có: Hoành sơn (ở châu Bố Chính, giáp trấn Nghệ An), Đâu Mâu (ở địa giới huyện Khang Lộc), núi Thần Dinh (cũng ở huyện Khang Lộc), núi Lỗi Lôi (ở châu Bố Chính), núi Mã An và Liên Sơn đều ở huyện Lệ Thuỷ, Linh Sơn ở châu Minh Linh. Về sông đầm phá thì có: sông Đại Linh (sông Gianh), đầm Nhật Lệ ở cửa biển Nhật Lệ thuộc huyện Khang Lộc, phá Thiên Hải, vực An Sinh, và sông Bình đều thuộc huyện Lệ Thuỷ [theo: LTHCLC, Dư địa chí, bd, tập 1, tr.134].

Như vậy, theo ghi chép trên thì sông Gianh tức là Đại Linh giang thuộc huyện Khang Lộc, phủ Tân Bình, tức tỉnh Quảng Bình ngày nay. 

5. Bộ chính sử Đại Nam nhất thống chí (ĐNNTC) được biên soạn trước năm Tự Đức 29 (1875) viết: “Sông Linh Giang: ở cách huyện Bình Chính 3 dặm về phía nam, bờ bắc thuộc huyện Bình Chính, bờ nam thuộc huyện Bố Trạch, lại có tên là sông Thanh Hà[ĐNNTC, T.2, tr 40].

Như vậy, thông tin này khẳng định Linh Giang là tên gọi con sông ở huyện Bình chánh, còn khi chảy qua huyện Bố Trạch thì dân ở đây gọi là Thanh Hà, đều thuộc địa phận tỉnh Quảng Bình.

Tóm lại: 

1. Nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường trong bài bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông” đã nhầm lẫn khi khẳng định trong sách Dư địa chí Nguyễn Trãi đã viết Linh Giang là sông Hương.

2. Ông Tôn Thất Thọ trong bài viết “LINH GIANG” LÀ SÔNG NÀO? trên Tạp chí Xưa & Nay của Hội khoa học Lịch sử Việt Nam số 341 tháng 10 năm 2009, sau khi cố công trích dẫn các sách: Đại Nam nhất thống chí, Dư địa chí, Ô Châu cận lục, Phủ biên tạp lục rồi khẳng định “Linh Giang là tên gọi chỉ con sông Hương ở Thừa Thiên – Huế”, thì tôi xin thưa rằng:

Trong Dư địa chí, cụ Nguyễn Trãi không có nói Linh Giang là sông Hương, một con sông ở Thừa Thiên mà ở trên tôi có nêu.

Còn trong sách của Dương Văn An thì đúng là theo cách ghi chép của cụ, ta có thể suy đoán để hiểu Linh Giang là tên khi xưa dùng để gọi sông Hương ngày nay.

Còn trong sách của Lê Quý Đôn và của Phan Huy Chú thì có ghi đến hai con sông: Linh Giang ở Thừa Thiên và Đại Linh Giang ở Quảng Bình. Linh Giang ở Thừa Thiên nay chính là sông Hương (chữ Hán là Hương Giang); còn Đại Linh Giang ở Quảng Bình nay chính là sông Gianh, mà cái tên Đại Linh Giang giờ chỉ còn trong tư liệu xưa hồi đầu thế kỷ XIX trở về trước; từ thế kỷ XIX về sau các tư liệu đều ghi là Linh Giang. Cư dân ở vùng Quảng Bình từ bao đời nay cũng tự hào về dòng sông quê hương của mình, đều gọi nó là Linh Giang hay sông Gianh. 

3. Đặc biệt, bộ chính sử của triều Nguyễn đã khẳng định Linh Giang dòng sông thuộc tỉnh Quảng Bình, đó chính là sông Gianh như trên tôi đã dẫn chứng.

Theo tôi, Linh Giang trong sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi có nhắc đến chính là sông Gianh ở tỉnh Quảng Bình ngày nay.

Trong tâm thức của người dân Quảng Bình nói riêng, những người Việt Nam nói chung, hiện nay, ai ai cũng nghĩ Linh Giang chính là sông Gianh ở Quảng Bình; trong khi đó, dòng sông Hương thì được gọi tên chữ Hán là Hương Giang, chứ không có ai gọi nó là Linh Giang như lúc sinh thời cụ Dương Văn An đã gọi!     

Sở dĩ tôi viết bài này là bởi:

Một là, tại Hội thảo khoa học dành cho cán bộ trẻ của Trường ĐHKHXH&NV-ĐHQG HCM vào cuối tháng 11-2011, có một học viên Cao học đã viết báo cáo về bút ký này của Hoàng Phủ Ngọc Tường; sau đó lại có ý kiến thắc mắc của một học viên Cao học khác về tên gọi Linh Giang là sông Gianh hay sông Hương.

Hai là, quan trọng hơn, vì bài bút ký Ai đã đặt tên cho dòng sông? của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được chọn đưa vào học trong chương trình môn Ngữ văn lớp 12, lại là chương trình thi tốt nghiệp phổ thông (Tú tài), trong đó có một chi tiết nhầm lẫn, khẳng định vội vã, mà ở trên tôi có nêu. Sách giáo khoa dùng để dạy các thế hệ học sinh mà sai một chi tiết dù rất nhỏ đi nữa nhưng cũng có thể có tác hại rất lớn, không thể lường hết được, bởi người xưa có câu: “Đừng coi thường việc nhỏ, lỗ nhỏ có thể làm đắm thuyền”!

Ba là, nhận dịp này, xin có vài lời trao đổi lại với tác giả bài viết “Linh Giang là sông nào?”. Theo tôi, dù ông Tôn Thất Thọ đã cố công trích dẫn nhiều tư liệu xưa (nhưng lại trích thiếu bộ sách của Phan Huy Chú!), mà việc trích dẫn để minh chứng này là rất đáng quý, thể hiện sự cẩn trọng và nghiêm túc, nhưng rất tiếc là trong bài viết có chỗ tác giả chưa hiểu hết ý văn, nhất là văn của Nguyễn Trãi trong Dư địa chí, mà đây là bộ sách viết về dư địa chí xưa nhất hiện còn, nó ra đời trước bộ sách của Dương văn An đến 120 năm! Điều đáng tiếc nữa là dù ông có dẫn dụ nhiều sách nhưng ông lại lờ đi một vài chi tiết quan trọng, mà theo ông là để nhằm đi đến kết luận: Linh Giang là sông Hương. Theo tôi, kết luận này không sai, bởi cụ Dương Văn An, Lê Quý Đôn có nói mà người đọc có thể suy ra để hiểu Linh Giang là sông Hương. Nhưng kết luận này của ông cũng chưa kín kẽ, bởi như trên tôi có nêu Linh Giang hay Đại Linh Giang còn là tên của dòng sông Gianh ở Quảng Bình, mà cái tên sông này rất phổ biến trong tâm thức của người dân Quảng Bình nói riêng, người dân Việt nói chung, tên của dòng sông này đã được xác định trong sách của Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú và bộ chính sử của triều Nguyễn.

Tháng 12-2011

NCL

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Trãi, Dư địa chí, trong Ức Trai di tập, Phúc Khê đường tàng bản, 1868.

2. Dương Văn An, Ô Châu cận lục, bd của Trần Đại Vinh, Hoàng Văn Phúc, Nxb Thuận Hoá, 2001.

3. Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, bd của Viện Sử học, HN, 1977.

4. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, mục Dư địa chí, bd của Viện Sử học, tập 1, Nxb Sử học, 1961.

5. Quốc Sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tập 1, quyển 2, bd của Viện Sử học, HN.

Nguồn: Tạp chí Xưa và Nay, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 412 (tháng 9-2012) và số 413 (tháng 10-2012).  

Với ý ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với tinh thần độc lập tự chủ, tự cường của cộng đồng người Việt phương Nam nên trong hơn một nghìn năm nô lệ phương Bắc, nhân dân ta hễ có cơ hội thì vùng dậy kết đoàn để đánh đuổi giặc ngoại xâm và đã có lúc giành lại nền độc lập tự chủ dù tuy còn ngắn ngủi. Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938, bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới: Thời trung đại. Đây là thời kỳ nhà nước phong kiến độc lập được xây dựng ngày càng hùng mạnh và phát triển mọi mặt qua các triều đại: Ngô (938-967), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1025), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407), và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời hậu Trần (1407-1413). Một giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành tựu tổng hợp của sáu triều đại, trong đó hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên GS Nguyễn Huệ Chi trong phần Khảo luận văn bản của bộ hợp tuyển Thơ văn Lý – Trần đã gọi tên chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý – Trần ([i]). Có thể nói thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh liệt, rực rỡ, và đẹp đẽ nhất, còn là thời đại hoàng kim của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của thời đại này có thể nêu lên những nét lớn như sau:

Trước hết, thời đại Lý – Trần là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng.

Trong chuyến công vụ ra nước ngoài vào năm 1844, mặc dầu Cao Bá Quát (CBQ) chỉ đến vùng Hạ Châu thuộc Đông Nam Á, nhưng những bài thơ do ông sáng tác trong lần “Xuất dương hiệu lực” (1) này có thể xếp vào mảng tư liệu nói trên. Lý do là qua những bài thơ này, người đọc có thể tìm thấy những nét chấm phá nói lên cảm giác kinh ngạc của tác giả đối với nền văn minh cận đại của người Tây phương khi ông đi qua những thuộc địa hay Tô giới của họ trong vùng Hạ Châu.

 

 

            Qua khảo sát các tác phẩm văn học Phật giáo thời Lý – Trần, chúng tôi nhận thấy có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại như kệ, tụng cổ, ngữ lục, luận thuyết triết lý… đã biểu lộ một trạng thái tư duy nghệ thuật hoàn toàn khác với kiểu tư duy của Nho giáo, của Lão – Trang. Kiểu tư duy này gắn liền với tư tưởng Thiền học, chú trọng đến cái tâm trực ngộ. Chúng tôi tạm gọi đó là trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh.

            Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng có quan hệ gắn bó với văn học, đã ảnh hưởng và tác động đến văn học. Thời trung đại, các nước phương Đông trong đó có Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Nho, Phật, Lão – Trang. Chính các trước tác kinh điển là “ngọn nguồn vô tận để khơi gợi cảm hứng sáng tác” ([1]) và “để lại cho văn học đời sau một số hình tượng nghệ thuật trở thành nguồn thi liệu giúp cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác” ([2]). Tìm hiểu, nghiên cứu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng trên trong văn học cần phải thấy rằng chúng là “những sự kiện văn học tư tưởng trong lịch sử phát triển xã hội” và “cần nghiên cứu nó với tư cách là một sự kiện văn học, một hiện tượng văn học và hệ thống lý thuyết các tôn giáo, các học phái đó đã có sự chuyển hướng thành cảm hứng sáng tác” ([3]). Có nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh thêm “Muốn hiểu văn học trung đại cần phải hiểu chữ “Tâm”. Chữ “Tâm” của Nho giáo có khác với chữ “Tâm” của Phật giáo. Nó không chỉ là chuyện văn chương mà trước hết là chuyện của triết lý nhân sinh - Nho và Phật đều lấy chữ “Tâm” làm nội dung cốt lõi của học thuyết. “Tâm” không chỉ là tấm lòng, là tình cảm, đạo đức tốt đẹp mà còn mang một hàm nghĩa phong phú, bao trùm, huyền diệu, mang ý nghĩa triết học ([4]). “Chữ “Tâm” của Nho giáo cần được hiểu theo nghĩa đó là cái thần linh làm chủ thể cả tư tưởng cùng hành vi con người. Phật giáo thì coi trọng chữ Tâm – trực giác tâm linh”. “Chữ “Tâm” của Phật giáo có liên quan đến sự khai thác triệt để thế giới tâm linh, sự huy động tối đa cái phần vô thức, tâm thức, tiềm thức, cảm thức con người hơn là phần ý thức, tự thức, nhận thức” ([5]). Trên đây là những gợi ý có tính lý luận để tìm hiểu tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh trong văn học Phật giáo. Vấn đề sẽ được xem xét trên góc độ tâm lý học sáng tạo nghệ thuật và trên góc độ tâm lý học phân tích văn học, ở cảm hứng sáng tác.

            Trước hết, có lẽ cần trở lại khái niệm.

            Trực cảm là sự nhận thức trực tiếp bằng cảm tính, bằng trực giác, không thông qua suy luận, tư duy của lý trí, tức sự nhận thức đó không phải bằng tư duy suy lý.

            Tâm linh là linh hồn, tinh thần ([6]), là cái trí tuệ tự có trong lòng mình ([7]). Tâm linh thể hiện ở những cái gì có tính trừu tượng, thiêng liêng, thanh khiết và giá trị của nó bắt nguồn từ cái thiêng liêng; nó là nền tảng vững chắc, là hằng số vĩnh cửu của nhiều mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ của đời sống con người với thế lực siêu nhiên, huyền bí của tôn giáo.

            Theo tác giả “Văn hoá tâm linh” thì “tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm ([8]).

            Điều đó nghĩa, tâm linh là một hình thái ý thức, gắn liền với con người và nếu không có ý thức con người thì sẽ không có tâm linh, vì nó là phần thiêng liêng trong ý thức con người. Con người có nhiều ý thức, như: ý thức cộng đồng, ý thức văn hoá, ý thức toán học… thì ý thức tâm linh là dạng ý thức hướng về cái thiêng liêng cao cả. Bàn về tâm linh không thể không nói tới niềm tin. Niềm tin là sự tín nhiệm, sự khâm phục của con người đối với một đối tượng nào đó (con người, sự việc, tôn giáo) được thể hiện ra hành động theo một lẽ sống. Nó là hạt nhân để xác lập các mối quan hệ xã hội và được thể hiện ở nhiều cấp độ: niềm tin trao đổi, niềm tin lý tưởng, niềm tin tâm thức. Niềm tin tâm thức là sự hoà quyện cả tình cảm lẫn lý trí dẫn đến sự say sưa tự nguyện hành động theo niềm tin ấy ([9]).

            Tâm linh không chỉ gắn với ý thức con người, mà còn gắn với đời sống xã hội trong các mối quan hệ phức tạp. Bởi lẽ đời sống con người có hai mặt: mặt hiện hữu và mặt tâm linh. Nếu mặt hiện hữu của đời sống thể hiện nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó trừu tượng, mông lung nhưng lại không thể thiếu ở con người. Sở dĩ con người được gọi là người bởi có lẽ đời sống tâm linh, tức tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng đầy bí ẩn ([10]).  Cho nên “con người không chỉ có mối quan hệ hữu hình mà còn có nhiều quan hệ khác như quan hệ với thế giới tâm linh và nó là cái nền vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã” ([11]).

Trực cảm tâm linh là sự nhận thức trực tiếp bằng tâm linh, có tính chất cảm tính, trực giác, không qua tư duy tư biện, suy luận, suy lý của lý trí, của trí tuệ.

            Tôn giáo cũng như văn học nghệ thuật rất cần và coi trọng kiểu nhận thức này. Có thể nói nó là tính trội của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Không có tư duy trực cảm tâm linh, khó lòng người nghệ sĩ thấy được cái thần, cái hồn của đối tượng sẽ phản ánh, cho dù người nghệ sĩ có thể chiêm nghiệm, nghiền ngẫm nhiều về đối tượng. Nó thuộc lĩnh vực của vô thức, của tiềm thức; chỉ cảm nhận bằng tính linh thiêng liêng chứ không thể dùng lý trí tư biện và ngôn ngữ lúc này cũng đành bất lực, không thể luận bàn.

            Trực cảm tâm linh là quy luật của sự sáng tạo, trong đó có sáng tạo văn học nghệ thuật. Từ đời này sang đời khác, con người ta hàng trăm hàng vạn lần, ai ai cũng nhìn thấy quả táo rơi. Newton cũng thế, cũng hàng vạn lần nhìn thấy quả táo rơi. Tất cả điều thấy chứ không biết, không hiểu. Nhưng tại sao chỉ một lần duy nhất, trong phút giây bất chợt, qua những năm tháng nghiền ngẫm, Newton mới hiểu được, mới biết được vì sao nó rơi và đã phát hiện ra định luật “sức hút của trái đất”. Tương tự như vậy, đứng trước một đối tượng khách quan, cảnh thiên nhiên mơ mộng chẳng hạn, ai cũng thấy và ai cũng cho là đẹp. Nhưng thể hiện được cái thần, cái hồn của cảnh đẹp thơ mộng ấy không phải ai cũng làm được. Chính Các Mác đã từng nói “Hoa hồng tự nó không đẹp, nó đẹp là do đôi mắt của kẻ si tình”. Muốn thể hiện, phải có sự trực cảm tâm linh, phải có tính linh. Tính linh hay linh tính là sự mách bảo, là khả năng biết trước, là năng khiếu cảm nhận từ xa của con người về một biến cố, sự việc nào đó có liên quan đến mình. Vấn đề không thuộc ý thức mà thuộc về vô thức, tiềm thức. Nhà văn, nhà thơ, người nghệ sĩ lớn thường là những người có tính trực cảm tâm linh cao. Không phải ngẫu nhiên khi nghe nói có nhà văn sáng tác trong mơ. Đó là tính trội của sáng tạo nghệ thuật. Nhà phân tâm học Sigmund Freud đã khẳng định: “Chính các nhà văn, nhà thơ, là người phát hiện vô thức”. Còn Goethe thì cho rằng: “tính linh hiển hiện khắp nơi trong thơ ca, đặc biệt là trong trạng thái vô thức. Lúc này tất cả sức mạnh trí tuệ và lý tính đều mất tác dụng… và không giải thích được linh tính” ([12]).

            Cái linh tính ấy là sự trực cảm tâm linh trong sáng tạo nghệ thuật. Cha ông ta cũng đề cập đến vấn đề này. Trong lời tựa “Hoàng Công thi tập”, Ngô Thì Nhậm đã nêu lên một khía cạnh nhận thức, lĩnh hội thơ văn bằng trực cảm, bằng trực giác. Ông đã xem đây là một đặc trưng của nhận thức luận phương Đông thường thấy trong thơ văn: “Việc binh, việc hình, việc lễ, việc nhạc, thánh nhân đã có phép tắc cả… Đến như phép luật làm thơ lại là một điều huyền bí, thánh nhân không truyền lại, ta chỉ có thể hiểu bằng thần, không thể tìm bằng trí được”([13]).

            Như vậy, đứng trên góc độ tâm lý học sáng tạo nghệ thuật, tâm lý học phân tích văn học và tiếp nhận văn học thì tất cả đều rất cần đến trực cảm tâm linh. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ cần phải thấy được, hiểu được cái thần của đối tượng phản ánh, của sự việc được sáng tạo và khi phân tích, tiếp nhận, người phân tích, tiếp nhận cũng phải có cái thần ấy. Thấy được, hiểu được cái thần, phải cần đến trực cảm tâm linh.

            Hình ảnh cành mai kỳ diệu vẫn nở hoa trong buổi xuân tàn hoa rụng của Mãn Giác thiền sư là gì nếu không nhờ trực cảm tâm linh? Thử đọc lại bài kệ:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. ([14])

Dịch thơ: Xuân qua trăm hoa rụng,

     Xuân đến trăm hoa tươi.

      Trước mắt việc đi mãi,

      Trên đầu già đến rồi.

      Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

      Đêm qua sân trước nở cành mai.

            Bài kệ chỉ có sáu câu. Đây là lời thiền sư dặn dò đệ tử trước lúc lâm chung. Bốn câu đầu đúc kết một chân lý khách quan, nêu lên một quy luật tuần hoàn của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, tượng trưng cho sự sinh hoá của chư pháp, của vạn vật. Điều làm nên sự kỳ diệu của bài kệ giàu hình tượng thơ là ở hai câu sau.

            Hình ảnh cành mai trước sân vẫn nở hoa toả hương đêm qua trong lúc xuân tàn hoa rụng là tượng trưng cho bản thể trường tồn. Hình ảnh ấy là sự kết hợp hài hoà giữa giáo lý dã thụ lãnh với sự chứng nghiệm trực cảm – đốn ngộ của thiền sư. Đó là bài học chân lý được đúc kết cả cuộc đời thiền định của người tu hành: Đừng tưởng thầy mất đi mà dòng Thiền bị tiêu diệt! Sống chết là một quy luật tất yếu, nhưng nhờ sự giác ngộ chân lý bằng trực cảm tâm linh mà chân thân của nhà sư đã vượt khỏi cái vòng sinh tử luân hồi để đến chỗ rốt ráo, tự tại, chân như, thấy tất cả đều tịch mịch, đều không vô. Tư tưởng chủ đạo của bài kệ kết tinh ở hai câu này: trong cái tàn lụi vẫn nảy sinh cái mầm của sự sống, của mùa xuân bất tận, của sự trường tồn vĩnh hằng. Đây là sự thống nhất trong mâu thuẫn, một tư tưởng khá uyên nguyên, thâm thuý của Thiền học Việt Nam: Tâm - Pháp nhất như; Vạn vật nhất thể.

            Và cũng nhờ giải thoát bởi trực cảm tâm linh mà văn học Thiền đời Lý đã để lại “một tiếng kêu vang dài làm lạnh cả bầu trời” của Không Lộ thiền sư:

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.

Hữu thời trực thướng cô phong đính,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.([15])

Dịch thơ: Kiểu đắc long xà chọn được nơi,

                                      Tình quê lai láng suốt ngày vui.

                                      Có khi xông thẳng lên đầu núi,

                                      Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.

            Về bài thơ này, xưa nay có nhiều ý kiến bàn cãi, có thể nói là chưa ngả ngũ.           Tiếng kêu làm lạnh cả bầu trời ấy, GS. Đặng Thai Mai cho là “một cảm hứng đạo học” ([16]). Còn GS. Nguyễn Đình Chú đã so sánh bài thơ của Không Lộ và bài thơ của Lý Tường (Lý Cao?) viết về tiếng cười của Duy Nghiễm thiền sư có chép trong sách Thiền đời Tống, Trung Quốc: Cảnh Đức truyền đăng lục và cho rằng “tiếng cười dưới trăng mây kia, tuy có hấp dẫn, nhưng dù sao chỉ là tiếng cười cao đạo của một con người đã không thích gì mấy sự hòa nhập trần gian” ([17]), còn tiếng cười của Không Lộ thì “trong tiếng kêu làm ớn lạnh cả “thái hư” (vũ trụ) này là cả một khát vọng phi thường: khát vọng hoà nhập vũ trụ mà thi sĩ đời nay – Chế Lan Viên – từng cho rằng “Không có tiếng kêu dài này thì không có chiến thắng Bạch Đằng” ([18]). GS. Trần Đình Sử thì nêu ý nghĩa biểu trưng của bài thơ: “Lên thẳng” là hình ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc lát, như ánh chớp. “Đỉnh núi cao trơ trọi” đây thuần tuý chỉ là ẩn dụ chỉ thế giới không vô. “Thái hư” là thế giới của nhà Phật mà chỉ những kẻ đắc đạo mới có thể đạt đến, và “cái tiếng kêu dài làm lạnh cõi thái hư ấy là dấu hiệu hoà nhập ta và thế giới, thế giới và ta” ([19]).

            Thiết nghĩ rằng, hình ảnh con người chọn thế đất có thể dung nạp được mình, để hoà đồng và vui suốt ngày với thiên nhiên là hình ảnh con người mang khát vọng hoà nhập và chế ngự thiên nhiên được thể hiện qua lời thơ thoát phàm, bay bổng. Còn “tiếng kêu vang lạnh cả bầu trời” kia là tiếng reo của một người chứng ngộ, thoát khỏi cảnh giới trần thế. Cái tiếng kêu vang sang sảng đã “làm lạnh cả bầu trời”; đã chế ngự được thiên nhiên phải là một tiếng kêu sảng khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và tinh thần thoải mái tột cùng, chứ không thể là của một người suốt ngày gõ mõ tụng kinh, câu nệ vào tín điều một cách cứng nhắc khô khan. Tiếng kêu đó chính là trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng ngộ của thiền sư. Và cũng nhờ trực ngộ mà con người hoà nhập vào đại ngã của vũ trụ ([20]).

            Nhờ trực cảm tâm linh mà có sự quân bình giữa tâm và trí, thấy được bản thể chân như, nhận ra tất cả đều không vô. Đó là lý do tại sao Quảng Nghiêm khuyên người ta “đừng đi theo con đường của Như Lai đã đi”:

Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,

Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.

Nam nhi tự hữu xung thiên chí,

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.([21])

Dịch thơ:       Thoát tịch diệt xong bàn tịch diệt.

Sau vô sinh hãy nói vô sinh,

Làm trai lập trì xông trời thẳm,

Theo gót Như Lai luống nhọc mình.

            Con người ta có sống đạo và hành đạo trọn đời, chiêm nghiệm Đạo thì mới có thể trực cảm được Đạo là gì. Nhờ sống và chứng lẽ Đạo nên Quảng Nghiêm mới bảo có thoát ly khỏi lòng ham muốn đi vào chốn chân như thì mới có thể bàn chuyện chân như; cũng như sau khi sinh vào cõi vô sinh thì mới nói được chuyện vô sinh. Điều đó có nghĩa là Quảng Nghiêm đã phản bác lại những ý kiến, những lý thuyết không dựa vào sự chứng nghiệm của bản thân. Chúng ta đã biết Thiền học là tâm học, là đạo học. Chân lý của tâm học chỉ có thể chứng ngộ bằng trực giác, bằng trực cảm tâm linh, bằng cách sống với nó, chiêm nghiệm nó. Đó là ý nghĩa lời khuyên của Thiền sư. Cho nên, Quảng Nghiêm mạnh bạo khuyên “đừng đi theo con đường của Như Lai đã đi” là một tất yếu. Ngày xưa, Thích Ca sắp nhập diệt, Ngài bảo đệ tử “ta thuyết pháp 49 năm nhưng chưa nói lời nào” là vì Ngài sợ đệ tử câu chấp vào lời nói, vào ngôn ngữ, vào kinh điển mà sẽ không đạt được chân lý nhiệm màu. Chân lý chỉ có một, nhưng dẫn đến chân lý có thể bằng nhiều con đường. Cho dù Quảng Nghiêm không đi theo con đường của Như Lai mà vẫn chứng được Niết bàn diệu tâm. Đó là tinh thần phá chấp triệt để bởi nhờ trực cảm tâm linh chứng ngộ đạt đạo, chứ không thể là “sự hoài nghi giáo lý tu hành” như có nhà nghiên cứu đã phát biểu.

            Cũng tinh thần khai phóng, phá chấp trên, Diệu Nhân ni sư bảo rằng “càng muốn siêu thoát thì càng bị trói buộc thêm”, cho nên:

Thiền Phật bất cầu,

Đỗ khẩu vô ngôn ([22]).

Chẳng cầu Thiền Phật,

Mím miệng ngồi yên.

            Đọc các tập công án thiền, các tập ngữ lục, các tập truyện về các thiền sư, chúng ta thường bắt gặp những mẫu đối thoại kỳ lạ, khác thường bởi tính chất nghịch ngữ, phi lôgic của nó. Trong những buổi giảng thuyết, khai thị cho đệ tử bằng “vấn đáp mũi nhọn” kiểu “cơ phong”, các thiền sư thường dùng hình thức hét, quát, đánh đập, chửi bới hoặc trả lời bằng những câu thơ giàu hình ảnh tượng trưng, ngụ ý chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi. Có lẽ đó là những phương pháp mà các vị thường dùng để cắt đứt những câu hỏi suy lý, phá tan cái mạch tư duy lôgic để mở đường cho người học đạo đi thẳng vào trực giác, bằng trực cảm tâm linh để đạt đến chỗ rốt ráo, đốn ngộ. Đốn là chóng trừ vọng niệm; Ngộ là sáng tỏ, nhận ra tất cả điều không vô ([23]). Đó là một trạng thái trống vắng rỗng không, không vô, tịch mịch, hiểu rõ chân tướng của hiện tượng, rõ bản thể của sự vật, lúc đó không còn phân biệt, vì bỉ với thử là một, nội giới với ngoại giới cũng không phải là hai, bản chất và hiện tượng như nhau. Đó là trạng thái của sự thể nghiệm tâm linh cá nhân bằng trực cảm, lúc tâm linh được giải thoát, thấy được diệu tâm, diệu tính, chân như, niết bàn. Đó là phương pháp “trực chỉ chân tâm”, “dĩ tâm truyền tâm”, bằng lối trực cảm tâm linh. Thử lấy vài ví dụ tiêu biểu:

            - “Có vị tăng hỏi: Thế nào là Phật?

Sư đáp: Khắp tất cả mọi nơi.

Lại hỏi: Thế nào là Phật tâm?

Đáp: Chưa từng che giấu.

Người ấy lại nói: Kẻ học đạo này chưa hiểu.

Sư đáp: Người trượt qua rồi”

                                 (Truyện Thiền sư Cảm Thành) ([24]).

            - “Một hôm vua Lý Thánh Tông đến thăm chùa, Vua hỏi: Hoà thượng trụ trì ở chùa này đã bao lâu?

Sư đáp: Tháng ngày rày biết rõ; Xuân thu cũ ai hay.

Vua lại hỏi: Hàng ngày Hoà thượng làm gì?

Đáp: Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh; Trăng trong hoa trắng rõ toàn chân.

Vua hỏi: Có ý chỉ gì?

Đáp: Nhiều lời vô ích!”.

                                  (Truyện Thiền sư Thiền Lão) ([25]).

            - “Có vị tăng hỏi: Phật và Thánh nghĩa thế nào?

Sư đáp: Trùng dương đến, cúc vàng dưới giậu,

              Xuân ấm về, oanh náu đầu cành

Tăng thưa: Cảm tạ thầy! Nhưng đệ tử này không hiểu, xin thầy chỉ giáo lại. Sư đáp: Ngày vầng ô chiếu sáng,

              Đêm bóng thỏ rạng soi”.

                              (Viên Chiếu – Tham đồ hiển quyết)([26]).

            Trên đây là những đoạn đối đáp giữa thiền sư với người học đạo. Giữa câu hỏi và câu trả lời chẳng lôgic, chẳng dính dáng nhau. Vấn đề ở chỗ là nếu bằng trực cảm tâm linh người học đạo hiểu được, thông suốt được ý chỉ của thầy sẽ bừng tỉnh và ngộ đạo. Đó là chưa nhắc đến  nhiều câu chuyện kỳ lạ hơn mà các tập công án như “Bích Nham lục”, “Vô môn quan” có chép lại. Như có đệ tử hỏi: “Phật là gì? Có thiền sư đáp: Ba cân vừng; Có vị trả lời: Que chùi cứt khô; Có vị lại nhổ nước bọt vào tượng Phật; Có vị lại chẻ đôi tượng Phật v.v…” Tất cả đều nhằm mục đích khơi ngợi và đánh mạnh thẳng vào tâm người học đạo, triệt phá đến cùng tư duy lôgic, với tinh thần phá chấp triệt để.

            Cũng nhờ đạt tới sự quân bình bởi trực cảm tâm linh mà Phật giáo Lý – Trần đã sản sinh ra những con người thân ở cuộc đời mà tâm nương về đạo thanh thản, an nhiên, tự tại: Những con người vừa làm quan vừa tu thiên ăn chay lẫn ăn mặn và đã chứng đạo giữa cuộc đời lăng xăng, hoá đạo trong vòng tay quyến luyến của thê thiếp như Tuệ Trung Thượng sĩ; Những con người sẵn sàng “Bỏ ngai vàng như trút chiếc giày rách ([27])” để lên núi cầu Phật. Sau đó, nhờ lời khuyên của Thiền sư Viên Chứng – Trúc Lâm Quốc sư mà nhà vua đã trực ngộ được “trong núi làm gì có Phật, Phật chỉ ở trong lòng” nên gắng về lại ngôi, trị nước an dân, tham thiền học đạo, chứng ngộ, viết sách khải ngộ như Trần Thái Tông v.v… Và còn biết bao con người như thế trong đời sống Phật giáo thời Lý – Trần.

            Nói tóm lại, Phật giáo, Thiền học chú trọng đến tâm. Tâm là đầu mối của sự giải thoát. Đạt đến chỗ không tâm, người học sẽ “kiến tính thành Phật”. Cho nên Phật học, Thiền học là Tâm học. Và phương pháp tư duy của Phật, của Thiền là tư duy trực cảm tâm linh. Văn học Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Lý – Trần nói riêng đã biểu hiện rõ nét tư duy đó. Như vậy, có thể kết luận rằng có một trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh được biểu lộ trong văn học Phật giáo.

                                                                                    Nha Trang, tháng 10 – 1997.

 

 



[1] Đặng Thanh lê “Trước tác kinh điển Nho giáo với văn học trung đại Việt Nam” và “Một số vấn đề phân tích ảnh hưởng văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – thế kỷ XIX” trong sách “Dạy sách giáo khoa thí điểm Trung học chuyên ban, môn văn, lớp 11”. Ban KHXH, Nxb Giáo dục, H, 1994.

[2] Đặng Thanh Lê, tlđd.

[3] Đặng Thanh Lê, tlđd.

[4] Nguyễn Đình Chú “Một số vấn đề chung thuộc thời kỳ văn học trung cận đại” trong sách “Dạy sách giáo khoa thí điểm Trung học chuyên ban, môn văn, lớp 10, Ban KHXH, Nxb GD, H, 1994.

[5] Nguyễn Đình Chú, tlđd.

[6] Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb, KHXH, 1994.

[7] Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Trường Thi, Sài Gòn xuất bản, 19.

[8] Nguyễn Đăng Duy, Văn hoá tâm linh, Nxb Hà Nội, 1996, tr.14.

[9] Nguyễn Đăng Duy, tlđd, tr.19.

[10] “Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển”, Nxb KHXH, HN, tr.36.

[11] “Văn hoá và dân cư đồng bằng sông Hồng”, Nxb VHTT, HN, tr.115.

 

[12] Dẫn lại Phương Lựu, Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây, Nxb Văn học, H, tr.205.

[13] Nhiều tác giả, Từ trong di sản, bd, Nxb TPM, H, 1981, tr.72.

[14] Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, 1977, tr.293.

[15] Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, tlđd, tr.385.

[16] Đặng Thai Mai, “Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học” trong “Thơ văn Lý Trần” tập 1, tr.41.

[17] Nguyễn Đình Chú, Về bài thơ “Ngôn Hoài” của Không Lộ Thiền sư: chuyện rắc rối vá cách đối xử, Kiến thức ngày nay, số 147,  tháng 8-1994, trang 11-13.

[18] Nguyễn Đình Chú, tlđd.

[19] Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb GD, H, 1997, tr.205-214.

[20] Nguyễn Công Lý, Bản sắc dân tộc trong văn học thiền thời Lý – Trần, Nxb VHTT, H, 1997, tr.144.

[21] Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, tlđd, tr.521.

[22] Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tlđd, tr.339.

[23] Vô Môn thiền sư, Vô môn quan, bd, Lá Bối, S, 1972.

[24] Thiền uyển tập anh, bd, tr.36.

[25] Thiền uyển tập anh, bd, tr.52 -53.

[26] Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, tlđd, tr.281.

[27] Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, bd, Hội Nghiên cứu Văn hoá Á Châu, S, 1960.

(Nguồn: Tạp chí Nha Trang (Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà) số tháng 7 và 8 - 1998. In lại: Tạp chí Nghiên cứu Phật học (Viện NCPH Việt Nam) số 1 và 2 - 2000.

  

Phong trào Đông kinh nghĩa thục, đúng như các cụ lúc ấy hình dung là  một trận gió, một đt sóng từ nước ngoài tràn vào, lôi cuốn cả nước như một ngọn thủy triều khí thế ngất trời: chống vua quan, tư sản hóa theo Âu Mỹ, hợp đoàn, học nghề, cải cách dân chủ... Đứng đầu phong trào là các nhà khoa bảng lớn, và phong trào lan rộng từ Bắc chí Nam, khuấy động cả rất nhiều vùng nông thôn hẻo lánh, chưa có mầm mống gì của kinh tể và xã hội tư sản.

Con Hổ với sức mạnh phi thường đã đi qua, nhường chỗ cho chị Mèo thon thả ung dung bước đến. Nhân đầu năm Tân Mão (2011), xin có vài lời nhàn đàm xung quanh chuyện con Mèo, gọi là một chút quà tết kính gởi đến quý bạn đọc thân mến của bổn báo và của tôi.

Có người cho rằng Triết học và Khoa học chẳng những khác nhau mà còn đối lập nhau nữa.

TRIẾT HỌC

KHOA HỌC

Theo chữ Hán,từ triết gồm hai chữ chiết là bẻ gãy và khẩu là miệng hội ý lại có nghĩa lời nói lí luận chặt chẻ để tìm hiểu thấu đáo một đối tượng nào đó.

 

Triết học là một bộ môn gồm có bốn môn: luận lý học, tâm lý học, đạo đức học và siêu hình học. Nhưng luận lý là môn chủ đạo vì phải suy luận sâu xa mới đạt đến triết được. Luận lý có hai phần lý thuyết và thực hành

Những nguyên lý của lý trí, đồng nhất nhân quả khởi thủy cứu cánh định mệnh tạo thành các phương pháp suy tưởng diễn dịch quy nạp trực giác và suy luận phân tích và tổng hợp thuộc lý thuyết

Áp dụng lý thuyêt vào những môn thực tế như vũ trụ học, vật lý học, sinh vật học là phần luận lý thực hành

Luận lý lý thuyết tạo nên một phương pháp nhận thức khách quan hệ thống tiến đến sự thật.Phương pháp này mệnh danh phương pháp Khoa học

Thông thường từ khoa học chỉ khoa học thực nghiệm như vật lý, hóa học, sinh vật…Toán học, một môn lí trí trừu tượng nhưng  rất chuẩn xác được xếp  vào hàng  ngũ khoa học.

Con số trong Số học áp dụng  vào thực tế rất đúng đắn.Trong Hình học đường thẳng đường cong hình vuông hình tròn rất chính xác.

Thành ngữ Hán có cụm từ:Thập phần hoàn mĩ nói lên kết quả hoàn toàn tốt đẹp

Trong DTTT Nguyễn Du dùng số10 để tả vẻ đẹp hoàn toàn của hai chị em Kiều:

 

“Một người một vẻ mười phân vẹn mười”

 

Cũng trong sách này,Thúc Sinh vì muốn cùng Kiều kết hợp trăm năm nên đã lấy hình vuông hình tròn tiêu biểu cho mối tình trường cữu ấy:

 

“Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho được ngọn nguồn lạch song”

 

Môn nào xử dụng phương pháp Khoa học mới đáng được gọi là một Khoa học

 

Phương pháp khoa học hay Khoa học thực nghiệm có liên quan mật thiết với Triết học.Khoa học nằm trong luận lý Triêt học

Một giáo sư triết học Tây phương đã nói:

 

Thượng Đế là vua của các vua

God is the king of kings

Triết học là Khoa học của các Khoa học

Philosophy is the science of sciences

 

 

TS. Nguyễn Đức Mậu

Viện Văn học Việt Nam

        Nửa cuối thế kỉ XIX Việt Nam nói riêng, và phương Đông nói chung, đứng trước thực tế mới, đó là khả năng xâm lược của Phương Tây. Nhật Bản và Việt Nam, trong hoàn cảnh đó, cùng đều xuất hiện những nhà cải cách  mà tiêu biểu là Fukuzawa Yukichi và Nguyễn Trường Tộ[1]. Và với xuất phát điểm gần nhau[2] nhưng hai nước đồng văn, đồng chủng này, sau mấy chục năm, trở thành đứng ở hai cực phát triển và lạc hậu, điều gì tạo nên những kết quả như vậy, chắc sâu xa trong đó phần nào là kết quả của những cách nghĩ khác nhau mà những nhà cải cách[3] là người thể hiện rõ cái phần quan trọng của sự khác biệt này.

  

 

Được xây dựng vào năm 1774 và trở thành một Tổ đình nổi tiếng của Phật giáo ở Nam Bộ từ thế kỷ XVIII, chùa Giác Lâm (hiện tọa lạc ở đường Lạc Long Quân quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh) là một địa điểm bước vào lịch sử phát triển văn hóa của cộng đồng Việt Nam tại địa phương từ rất sớm. Hiện nay ngoài việc thu hút đông đảo tín đồ cả trong nước lẫn Việt kiều tới dâng hương, hành lễ - nhất là vào các dịp lễ lớn của Phật giáo; nó còn lôi cuốn nhiều khách du lịch văn hóa tới tìm hiểu, tham quan. Đặc biệt, đối với những người nghiên cứu, chùa Giác Lâm với bề dày lịch sử của nó còn là một hệ thống tư liệu khoa học quý báu về lịch sử và văn hóa, tôn giáo và văn chương, điêu khắc và kiến trúc... Trong những tư liệu ấy có một đôi câu đối hiện treo ở hàng cột thứ nhất từ ngoài vào và đối diện với chính điện, một đôi câu đối thuộc loại độc đáo bậc nhất trong thơ văn chữ Hán ở Việt Nam

Thông tin truy cập

63702233
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
327
22198
63702233

Thành viên trực tuyến

Đang có 187 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website