PGS.TS Lê Thu Yến

Tóm tắt

        Bài viết đặt ra vấn đề ứng xử văn hóa theo truyền thống thông qua mối tình cụ thể là tình yêu Kim – Kiều trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du. Có kết hợp phân tích so sánh chi tiết giữa Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện để thấy những nét ứng xử khác biệt giữa 2 tác phẩm. Đó cũng là nét đẹp nhân văn tạo nên sức sống lâu bền của tác phẩm.

 Nguyễn Tiến Lực

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TPHCM

Mở đầu

Cùng với công cuộc cải cách, khai phóng ở Trung Quốc và Đổi mới ở Việt Nam, ở hai nước đều có quá trình đánh giá lại các nhân vật lịch sử. Những nhân vật lịch sử này thường  “có vấn đề ”  theo cách nhìn nghiêm ngặt của thời kỳ trước cải cách nhưng họ vẫn tồn tại trong lòng người dân mỗi nước về sự nghiệp kinh bang tế thế, về nhân cách, về tâm cao kiến văn và về cả “cách yêu nước” của họ.

                                                                                 PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ

                 Khoa Văn học và Ngôn ngữ, trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP. HCM

1. Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, sinh năm Canh Thân (1380) tại dinh thự của ông ngoại ở Thăng Long và mất ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (19 – 9 – 1442) bởi vụ án Lệ Chi viên oan nghiệt, thảm khốc; nguyên quán ở làng Chi Ngại (làng Ngái), huyện Phượng Nhỡn (nay là huyện Chí Linh), Hải Dương; trước đó vài đời, một chi họ Nguyễn ở Chi Ngại đã dời về định cư tại làng Ngọc Ổi, huyện Thượng Phúc, Hà Đông (sau đổi thành làng Nhị Khê, xã Quốc Tuấn, huyện Thường Tín, Hà Tây; nay thuộc Hà Nội). Làng Nhị Khê là một làng quê nằm bên tả ngạn sông Tô Lịch phía Hà Nội chảy về, trù phú, thuần nông và có nhiều nghề thủ công đặc sắc.

 

Với ý ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với tinh thần độc lập tự chủ, tự cường của cộng đồng người Việt phương Nam nên trong hơn một nghìn năm nô lệ phương Bắc, nhân dân ta hễ có cơ hội thì vùng dậy kết đoàn để đánh đuổi giặc ngoại xâm và đã có lúc giành lại nền độc lập tự chủ dù tuy còn ngắn ngủi. Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938, bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới: Thời trung đại. Đây là thời kỳ nhà nước phong kiến độc lập được xây dựng ngày càng hùng mạnh và phát triển mọi mặt qua các triều đại: Ngô (938-967), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1025), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407), và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến chống giặc Minh vào thời hậu Trần (1407-1413). Một giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành tựu tổng hợp của sáu triều đại, trong đó hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên GS Nguyễn Huệ Chi trong phần Khảo luận văn bản của bộ hợp tuyển Thơ văn Lý – Trần đã gọi tên chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý – Trần ([i]). Có thể nói thời đại Lý – Trần là thời đại hào hùng, oanh liệt, rực rỡ, và đẹp đẽ nhất, còn là thời đại hoàng kim của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của thời đại này có thể nêu lên những nét lớn như sau:

Trước hết, thời đại Lý – Trần là thời đại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, thống nhất cộng đồng.

Trần Trọng Dương

 

Viện NC Hán Nôm

Sự luân chuyển quyền lực qua các đời Khúc Hạo, Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền, Dương Tam Kha, Hậu Ngô Vương, loạn 12 sứ quân, cho đến Đinh Liễn, Lê Hoàn  trong quãng thời gian từ năm 907 đến 980 (dài 73 năm) có thể coi là một biểu hiện cát cứ địa phương theo hình mẫu động loạn thời Ngũ đại bên thiên triều (kéo dài 53 năm). Các thế lực chính trị khá ngắn ngủi và liên tục thay đổi bằng các hình thức bạo lực khác nhau (như binh biến, đảo chính, thích khách…) và đôi khi có cả sự trao truyền quyền lực một cách hòa bình êm đẹp nhờ những quan hệ hôn nhân huyết tộc ràng rịt của tầng lớp cầm quyền phía trên.  Cục diện ổn định nhanh chóng bị phá vỡ rồi sau đó lại được tái lập bằng sự xuất hiện và biến lướt của các anh hùng hào trưởng có nguồn gốc phương Bắc. Tuy nhiên, điểm lại vài khuôn mặt trí thức của giai đoạn này thì rõ ràng các nhà nghiên cứu bao giờ cũng nêu ra một số vị thiền sư bác học, trong đó người để lại hình tích nhiều nhất, người có ảnh hưởng nhất đối với xã hội cũng như các vương triều trên chính là nhân vật mang tên Khuông Việt thiền sư, tức Ngô Chân Lưu.

 

            Qua khảo sát các tác phẩm văn học Phật giáo thời Lý – Trần, chúng tôi nhận thấy có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại như kệ, tụng cổ, ngữ lục, luận thuyết triết lý… đã biểu lộ một trạng thái tư duy nghệ thuật hoàn toàn khác với kiểu tư duy của Nho giáo, của Lão – Trang. Kiểu tư duy này gắn liền với tư tưởng Thiền học, chú trọng đến cái tâm trực ngộ. Chúng tôi tạm gọi đó là trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh.

            Tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng có quan hệ gắn bó với văn học, đã ảnh hưởng và tác động đến văn học. Thời trung đại, các nước phương Đông trong đó có Việt Nam đã chịu ảnh hưởng sâu đậm tư tưởng Nho, Phật, Lão – Trang. Chính các trước tác kinh điển là “ngọn nguồn vô tận để khơi gợi cảm hứng sáng tác” ([1]) và “để lại cho văn học đời sau một số hình tượng nghệ thuật trở thành nguồn thi liệu giúp cho các nhà thơ, nhà văn sáng tác” ([2]). Tìm hiểu, nghiên cứu ảnh hưởng của các hệ tư tưởng trên trong văn học cần phải thấy rằng chúng là “những sự kiện văn học tư tưởng trong lịch sử phát triển xã hội” và “cần nghiên cứu nó với tư cách là một sự kiện văn học, một hiện tượng văn học và hệ thống lý thuyết các tôn giáo, các học phái đó đã có sự chuyển hướng thành cảm hứng sáng tác” ([3]). Có nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh thêm “Muốn hiểu văn học trung đại cần phải hiểu chữ “Tâm”. Chữ “Tâm” của Nho giáo có khác với chữ “Tâm” của Phật giáo. Nó không chỉ là chuyện văn chương mà trước hết là chuyện của triết lý nhân sinh - Nho và Phật đều lấy chữ “Tâm” làm nội dung cốt lõi của học thuyết. “Tâm” không chỉ là tấm lòng, là tình cảm, đạo đức tốt đẹp mà còn mang một hàm nghĩa phong phú, bao trùm, huyền diệu, mang ý nghĩa triết học ([4]). “Chữ “Tâm” của Nho giáo cần được hiểu theo nghĩa đó là cái thần linh làm chủ thể cả tư tưởng cùng hành vi con người. Phật giáo thì coi trọng chữ Tâm – trực giác tâm linh”. “Chữ “Tâm” của Phật giáo có liên quan đến sự khai thác triệt để thế giới tâm linh, sự huy động tối đa cái phần vô thức, tâm thức, tiềm thức, cảm thức con người hơn là phần ý thức, tự thức, nhận thức” ([5]). Trên đây là những gợi ý có tính lý luận để tìm hiểu tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh trong văn học Phật giáo. Vấn đề sẽ được xem xét trên góc độ tâm lý học sáng tạo nghệ thuật và trên góc độ tâm lý học phân tích văn học, ở cảm hứng sáng tác.

            Trước hết, có lẽ cần trở lại khái niệm.

            Trực cảm là sự nhận thức trực tiếp bằng cảm tính, bằng trực giác, không thông qua suy luận, tư duy của lý trí, tức sự nhận thức đó không phải bằng tư duy suy lý.

            Tâm linh là linh hồn, tinh thần ([6]), là cái trí tuệ tự có trong lòng mình ([7]). Tâm linh thể hiện ở những cái gì có tính trừu tượng, thiêng liêng, thanh khiết và giá trị của nó bắt nguồn từ cái thiêng liêng; nó là nền tảng vững chắc, là hằng số vĩnh cửu của nhiều mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ của đời sống con người với thế lực siêu nhiên, huyền bí của tôn giáo.

            Theo tác giả “Văn hoá tâm linh” thì “tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo. Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm ([8]).

            Điều đó nghĩa, tâm linh là một hình thái ý thức, gắn liền với con người và nếu không có ý thức con người thì sẽ không có tâm linh, vì nó là phần thiêng liêng trong ý thức con người. Con người có nhiều ý thức, như: ý thức cộng đồng, ý thức văn hoá, ý thức toán học… thì ý thức tâm linh là dạng ý thức hướng về cái thiêng liêng cao cả. Bàn về tâm linh không thể không nói tới niềm tin. Niềm tin là sự tín nhiệm, sự khâm phục của con người đối với một đối tượng nào đó (con người, sự việc, tôn giáo) được thể hiện ra hành động theo một lẽ sống. Nó là hạt nhân để xác lập các mối quan hệ xã hội và được thể hiện ở nhiều cấp độ: niềm tin trao đổi, niềm tin lý tưởng, niềm tin tâm thức. Niềm tin tâm thức là sự hoà quyện cả tình cảm lẫn lý trí dẫn đến sự say sưa tự nguyện hành động theo niềm tin ấy ([9]).

            Tâm linh không chỉ gắn với ý thức con người, mà còn gắn với đời sống xã hội trong các mối quan hệ phức tạp. Bởi lẽ đời sống con người có hai mặt: mặt hiện hữu và mặt tâm linh. Nếu mặt hiện hữu của đời sống thể hiện nhận thức qua những tiêu chuẩn cụ thể thì về mặt tâm linh bao giờ cũng gắn với cái gì đó trừu tượng, mông lung nhưng lại không thể thiếu ở con người. Sở dĩ con người được gọi là người bởi có lẽ đời sống tâm linh, tức tuân theo những giá trị bắt nguồn từ cái thiêng liêng đầy bí ẩn ([10]).  Cho nên “con người không chỉ có mối quan hệ hữu hình mà còn có nhiều quan hệ khác như quan hệ với thế giới tâm linh và nó là cái nền vững chắc nhất của mối quan hệ cộng đồng làng xã” ([11]).

Trực cảm tâm linh là sự nhận thức trực tiếp bằng tâm linh, có tính chất cảm tính, trực giác, không qua tư duy tư biện, suy luận, suy lý của lý trí, của trí tuệ.

            Tôn giáo cũng như văn học nghệ thuật rất cần và coi trọng kiểu nhận thức này. Có thể nói nó là tính trội của cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Không có tư duy trực cảm tâm linh, khó lòng người nghệ sĩ thấy được cái thần, cái hồn của đối tượng sẽ phản ánh, cho dù người nghệ sĩ có thể chiêm nghiệm, nghiền ngẫm nhiều về đối tượng. Nó thuộc lĩnh vực của vô thức, của tiềm thức; chỉ cảm nhận bằng tính linh thiêng liêng chứ không thể dùng lý trí tư biện và ngôn ngữ lúc này cũng đành bất lực, không thể luận bàn.

            Trực cảm tâm linh là quy luật của sự sáng tạo, trong đó có sáng tạo văn học nghệ thuật. Từ đời này sang đời khác, con người ta hàng trăm hàng vạn lần, ai ai cũng nhìn thấy quả táo rơi. Newton cũng thế, cũng hàng vạn lần nhìn thấy quả táo rơi. Tất cả điều thấy chứ không biết, không hiểu. Nhưng tại sao chỉ một lần duy nhất, trong phút giây bất chợt, qua những năm tháng nghiền ngẫm, Newton mới hiểu được, mới biết được vì sao nó rơi và đã phát hiện ra định luật “sức hút của trái đất”. Tương tự như vậy, đứng trước một đối tượng khách quan, cảnh thiên nhiên mơ mộng chẳng hạn, ai cũng thấy và ai cũng cho là đẹp. Nhưng thể hiện được cái thần, cái hồn của cảnh đẹp thơ mộng ấy không phải ai cũng làm được. Chính Các Mác đã từng nói “Hoa hồng tự nó không đẹp, nó đẹp là do đôi mắt của kẻ si tình”. Muốn thể hiện, phải có sự trực cảm tâm linh, phải có tính linh. Tính linh hay linh tính là sự mách bảo, là khả năng biết trước, là năng khiếu cảm nhận từ xa của con người về một biến cố, sự việc nào đó có liên quan đến mình. Vấn đề không thuộc ý thức mà thuộc về vô thức, tiềm thức. Nhà văn, nhà thơ, người nghệ sĩ lớn thường là những người có tính trực cảm tâm linh cao. Không phải ngẫu nhiên khi nghe nói có nhà văn sáng tác trong mơ. Đó là tính trội của sáng tạo nghệ thuật. Nhà phân tâm học Sigmund Freud đã khẳng định: “Chính các nhà văn, nhà thơ, là người phát hiện vô thức”. Còn Goethe thì cho rằng: “tính linh hiển hiện khắp nơi trong thơ ca, đặc biệt là trong trạng thái vô thức. Lúc này tất cả sức mạnh trí tuệ và lý tính đều mất tác dụng… và không giải thích được linh tính” ([12]).

            Cái linh tính ấy là sự trực cảm tâm linh trong sáng tạo nghệ thuật. Cha ông ta cũng đề cập đến vấn đề này. Trong lời tựa “Hoàng Công thi tập”, Ngô Thì Nhậm đã nêu lên một khía cạnh nhận thức, lĩnh hội thơ văn bằng trực cảm, bằng trực giác. Ông đã xem đây là một đặc trưng của nhận thức luận phương Đông thường thấy trong thơ văn: “Việc binh, việc hình, việc lễ, việc nhạc, thánh nhân đã có phép tắc cả… Đến như phép luật làm thơ lại là một điều huyền bí, thánh nhân không truyền lại, ta chỉ có thể hiểu bằng thần, không thể tìm bằng trí được”([13]).

            Như vậy, đứng trên góc độ tâm lý học sáng tạo nghệ thuật, tâm lý học phân tích văn học và tiếp nhận văn học thì tất cả đều rất cần đến trực cảm tâm linh. Khi sáng tạo, người nghệ sĩ cần phải thấy được, hiểu được cái thần của đối tượng phản ánh, của sự việc được sáng tạo và khi phân tích, tiếp nhận, người phân tích, tiếp nhận cũng phải có cái thần ấy. Thấy được, hiểu được cái thần, phải cần đến trực cảm tâm linh.

            Hình ảnh cành mai kỳ diệu vẫn nở hoa trong buổi xuân tàn hoa rụng của Mãn Giác thiền sư là gì nếu không nhờ trực cảm tâm linh? Thử đọc lại bài kệ:

Xuân khứ bách hoa lạc,

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá,

Lão tùng đầu thượng lai.

Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai. ([14])

Dịch thơ: Xuân qua trăm hoa rụng,

     Xuân đến trăm hoa tươi.

      Trước mắt việc đi mãi,

      Trên đầu già đến rồi.

      Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết,

      Đêm qua sân trước nở cành mai.

            Bài kệ chỉ có sáu câu. Đây là lời thiền sư dặn dò đệ tử trước lúc lâm chung. Bốn câu đầu đúc kết một chân lý khách quan, nêu lên một quy luật tuần hoàn của thiên nhiên, của cuộc đời, con người, tượng trưng cho sự sinh hoá của chư pháp, của vạn vật. Điều làm nên sự kỳ diệu của bài kệ giàu hình tượng thơ là ở hai câu sau.

            Hình ảnh cành mai trước sân vẫn nở hoa toả hương đêm qua trong lúc xuân tàn hoa rụng là tượng trưng cho bản thể trường tồn. Hình ảnh ấy là sự kết hợp hài hoà giữa giáo lý dã thụ lãnh với sự chứng nghiệm trực cảm – đốn ngộ của thiền sư. Đó là bài học chân lý được đúc kết cả cuộc đời thiền định của người tu hành: Đừng tưởng thầy mất đi mà dòng Thiền bị tiêu diệt! Sống chết là một quy luật tất yếu, nhưng nhờ sự giác ngộ chân lý bằng trực cảm tâm linh mà chân thân của nhà sư đã vượt khỏi cái vòng sinh tử luân hồi để đến chỗ rốt ráo, tự tại, chân như, thấy tất cả đều tịch mịch, đều không vô. Tư tưởng chủ đạo của bài kệ kết tinh ở hai câu này: trong cái tàn lụi vẫn nảy sinh cái mầm của sự sống, của mùa xuân bất tận, của sự trường tồn vĩnh hằng. Đây là sự thống nhất trong mâu thuẫn, một tư tưởng khá uyên nguyên, thâm thuý của Thiền học Việt Nam: Tâm - Pháp nhất như; Vạn vật nhất thể.

            Và cũng nhờ giải thoát bởi trực cảm tâm linh mà văn học Thiền đời Lý đã để lại “một tiếng kêu vang dài làm lạnh cả bầu trời” của Không Lộ thiền sư:

Trạch đắc long xà địa khả cư,

Dã tình chung nhật lạc vô dư.

Hữu thời trực thướng cô phong đính,

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.([15])

Dịch thơ: Kiểu đắc long xà chọn được nơi,

                                      Tình quê lai láng suốt ngày vui.

                                      Có khi xông thẳng lên đầu núi,

                                      Một tiếng kêu vang lạnh cả trời.

            Về bài thơ này, xưa nay có nhiều ý kiến bàn cãi, có thể nói là chưa ngả ngũ.           Tiếng kêu làm lạnh cả bầu trời ấy, GS. Đặng Thai Mai cho là “một cảm hứng đạo học” ([16]). Còn GS. Nguyễn Đình Chú đã so sánh bài thơ của Không Lộ và bài thơ của Lý Tường (Lý Cao?) viết về tiếng cười của Duy Nghiễm thiền sư có chép trong sách Thiền đời Tống, Trung Quốc: Cảnh Đức truyền đăng lục và cho rằng “tiếng cười dưới trăng mây kia, tuy có hấp dẫn, nhưng dù sao chỉ là tiếng cười cao đạo của một con người đã không thích gì mấy sự hòa nhập trần gian” ([17]), còn tiếng cười của Không Lộ thì “trong tiếng kêu làm ớn lạnh cả “thái hư” (vũ trụ) này là cả một khát vọng phi thường: khát vọng hoà nhập vũ trụ mà thi sĩ đời nay – Chế Lan Viên – từng cho rằng “Không có tiếng kêu dài này thì không có chiến thắng Bạch Đằng” ([18]). GS. Trần Đình Sử thì nêu ý nghĩa biểu trưng của bài thơ: “Lên thẳng” là hình ảnh của đốn ngộ, xảy ra trong chốc lát, như ánh chớp. “Đỉnh núi cao trơ trọi” đây thuần tuý chỉ là ẩn dụ chỉ thế giới không vô. “Thái hư” là thế giới của nhà Phật mà chỉ những kẻ đắc đạo mới có thể đạt đến, và “cái tiếng kêu dài làm lạnh cõi thái hư ấy là dấu hiệu hoà nhập ta và thế giới, thế giới và ta” ([19]).

            Thiết nghĩ rằng, hình ảnh con người chọn thế đất có thể dung nạp được mình, để hoà đồng và vui suốt ngày với thiên nhiên là hình ảnh con người mang khát vọng hoà nhập và chế ngự thiên nhiên được thể hiện qua lời thơ thoát phàm, bay bổng. Còn “tiếng kêu vang lạnh cả bầu trời” kia là tiếng reo của một người chứng ngộ, thoát khỏi cảnh giới trần thế. Cái tiếng kêu vang sang sảng đã “làm lạnh cả bầu trời”; đã chế ngự được thiên nhiên phải là một tiếng kêu sảng khoái của một tâm hồn khoáng đạt với tư tưởng phá chấp triệt để và tinh thần thoải mái tột cùng, chứ không thể là của một người suốt ngày gõ mõ tụng kinh, câu nệ vào tín điều một cách cứng nhắc khô khan. Tiếng kêu đó chính là trực cảm tâm linh, là trạng thái chứng ngộ của thiền sư. Và cũng nhờ trực ngộ mà con người hoà nhập vào đại ngã của vũ trụ ([20]).

            Nhờ trực cảm tâm linh mà có sự quân bình giữa tâm và trí, thấy được bản thể chân như, nhận ra tất cả đều không vô. Đó là lý do tại sao Quảng Nghiêm khuyên người ta “đừng đi theo con đường của Như Lai đã đi”:

Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ,

Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh.

Nam nhi tự hữu xung thiên chí,

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.([21])

Dịch thơ:       Thoát tịch diệt xong bàn tịch diệt.

Sau vô sinh hãy nói vô sinh,

Làm trai lập trì xông trời thẳm,

Theo gót Như Lai luống nhọc mình.

            Con người ta có sống đạo và hành đạo trọn đời, chiêm nghiệm Đạo thì mới có thể trực cảm được Đạo là gì. Nhờ sống và chứng lẽ Đạo nên Quảng Nghiêm mới bảo có thoát ly khỏi lòng ham muốn đi vào chốn chân như thì mới có thể bàn chuyện chân như; cũng như sau khi sinh vào cõi vô sinh thì mới nói được chuyện vô sinh. Điều đó có nghĩa là Quảng Nghiêm đã phản bác lại những ý kiến, những lý thuyết không dựa vào sự chứng nghiệm của bản thân. Chúng ta đã biết Thiền học là tâm học, là đạo học. Chân lý của tâm học chỉ có thể chứng ngộ bằng trực giác, bằng trực cảm tâm linh, bằng cách sống với nó, chiêm nghiệm nó. Đó là ý nghĩa lời khuyên của Thiền sư. Cho nên, Quảng Nghiêm mạnh bạo khuyên “đừng đi theo con đường của Như Lai đã đi” là một tất yếu. Ngày xưa, Thích Ca sắp nhập diệt, Ngài bảo đệ tử “ta thuyết pháp 49 năm nhưng chưa nói lời nào” là vì Ngài sợ đệ tử câu chấp vào lời nói, vào ngôn ngữ, vào kinh điển mà sẽ không đạt được chân lý nhiệm màu. Chân lý chỉ có một, nhưng dẫn đến chân lý có thể bằng nhiều con đường. Cho dù Quảng Nghiêm không đi theo con đường của Như Lai mà vẫn chứng được Niết bàn diệu tâm. Đó là tinh thần phá chấp triệt để bởi nhờ trực cảm tâm linh chứng ngộ đạt đạo, chứ không thể là “sự hoài nghi giáo lý tu hành” như có nhà nghiên cứu đã phát biểu.

            Cũng tinh thần khai phóng, phá chấp trên, Diệu Nhân ni sư bảo rằng “càng muốn siêu thoát thì càng bị trói buộc thêm”, cho nên:

Thiền Phật bất cầu,

Đỗ khẩu vô ngôn ([22]).

Chẳng cầu Thiền Phật,

Mím miệng ngồi yên.

            Đọc các tập công án thiền, các tập ngữ lục, các tập truyện về các thiền sư, chúng ta thường bắt gặp những mẫu đối thoại kỳ lạ, khác thường bởi tính chất nghịch ngữ, phi lôgic của nó. Trong những buổi giảng thuyết, khai thị cho đệ tử bằng “vấn đáp mũi nhọn” kiểu “cơ phong”, các thiền sư thường dùng hình thức hét, quát, đánh đập, chửi bới hoặc trả lời bằng những câu thơ giàu hình ảnh tượng trưng, ngụ ý chẳng có ăn nhập gì với câu hỏi. Có lẽ đó là những phương pháp mà các vị thường dùng để cắt đứt những câu hỏi suy lý, phá tan cái mạch tư duy lôgic để mở đường cho người học đạo đi thẳng vào trực giác, bằng trực cảm tâm linh để đạt đến chỗ rốt ráo, đốn ngộ. Đốn là chóng trừ vọng niệm; Ngộ là sáng tỏ, nhận ra tất cả điều không vô ([23]). Đó là một trạng thái trống vắng rỗng không, không vô, tịch mịch, hiểu rõ chân tướng của hiện tượng, rõ bản thể của sự vật, lúc đó không còn phân biệt, vì bỉ với thử là một, nội giới với ngoại giới cũng không phải là hai, bản chất và hiện tượng như nhau. Đó là trạng thái của sự thể nghiệm tâm linh cá nhân bằng trực cảm, lúc tâm linh được giải thoát, thấy được diệu tâm, diệu tính, chân như, niết bàn. Đó là phương pháp “trực chỉ chân tâm”, “dĩ tâm truyền tâm”, bằng lối trực cảm tâm linh. Thử lấy vài ví dụ tiêu biểu:

            - “Có vị tăng hỏi: Thế nào là Phật?

Sư đáp: Khắp tất cả mọi nơi.

Lại hỏi: Thế nào là Phật tâm?

Đáp: Chưa từng che giấu.

Người ấy lại nói: Kẻ học đạo này chưa hiểu.

Sư đáp: Người trượt qua rồi”

                                 (Truyện Thiền sư Cảm Thành) ([24]).

            - “Một hôm vua Lý Thánh Tông đến thăm chùa, Vua hỏi: Hoà thượng trụ trì ở chùa này đã bao lâu?

Sư đáp: Tháng ngày rày biết rõ; Xuân thu cũ ai hay.

Vua lại hỏi: Hàng ngày Hoà thượng làm gì?

Đáp: Trúc biếc hoa vàng đâu ngoại cảnh; Trăng trong hoa trắng rõ toàn chân.

Vua hỏi: Có ý chỉ gì?

Đáp: Nhiều lời vô ích!”.

                                  (Truyện Thiền sư Thiền Lão) ([25]).

            - “Có vị tăng hỏi: Phật và Thánh nghĩa thế nào?

Sư đáp: Trùng dương đến, cúc vàng dưới giậu,

              Xuân ấm về, oanh náu đầu cành

Tăng thưa: Cảm tạ thầy! Nhưng đệ tử này không hiểu, xin thầy chỉ giáo lại. Sư đáp: Ngày vầng ô chiếu sáng,

              Đêm bóng thỏ rạng soi”.

                              (Viên Chiếu – Tham đồ hiển quyết)([26]).

            Trên đây là những đoạn đối đáp giữa thiền sư với người học đạo. Giữa câu hỏi và câu trả lời chẳng lôgic, chẳng dính dáng nhau. Vấn đề ở chỗ là nếu bằng trực cảm tâm linh người học đạo hiểu được, thông suốt được ý chỉ của thầy sẽ bừng tỉnh và ngộ đạo. Đó là chưa nhắc đến  nhiều câu chuyện kỳ lạ hơn mà các tập công án như “Bích Nham lục”, “Vô môn quan” có chép lại. Như có đệ tử hỏi: “Phật là gì? Có thiền sư đáp: Ba cân vừng; Có vị trả lời: Que chùi cứt khô; Có vị lại nhổ nước bọt vào tượng Phật; Có vị lại chẻ đôi tượng Phật v.v…” Tất cả đều nhằm mục đích khơi ngợi và đánh mạnh thẳng vào tâm người học đạo, triệt phá đến cùng tư duy lôgic, với tinh thần phá chấp triệt để.

            Cũng nhờ đạt tới sự quân bình bởi trực cảm tâm linh mà Phật giáo Lý – Trần đã sản sinh ra những con người thân ở cuộc đời mà tâm nương về đạo thanh thản, an nhiên, tự tại: Những con người vừa làm quan vừa tu thiên ăn chay lẫn ăn mặn và đã chứng đạo giữa cuộc đời lăng xăng, hoá đạo trong vòng tay quyến luyến của thê thiếp như Tuệ Trung Thượng sĩ; Những con người sẵn sàng “Bỏ ngai vàng như trút chiếc giày rách ([27])” để lên núi cầu Phật. Sau đó, nhờ lời khuyên của Thiền sư Viên Chứng – Trúc Lâm Quốc sư mà nhà vua đã trực ngộ được “trong núi làm gì có Phật, Phật chỉ ở trong lòng” nên gắng về lại ngôi, trị nước an dân, tham thiền học đạo, chứng ngộ, viết sách khải ngộ như Trần Thái Tông v.v… Và còn biết bao con người như thế trong đời sống Phật giáo thời Lý – Trần.

            Nói tóm lại, Phật giáo, Thiền học chú trọng đến tâm. Tâm là đầu mối của sự giải thoát. Đạt đến chỗ không tâm, người học sẽ “kiến tính thành Phật”. Cho nên Phật học, Thiền học là Tâm học. Và phương pháp tư duy của Phật, của Thiền là tư duy trực cảm tâm linh. Văn học Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Lý – Trần nói riêng đã biểu hiện rõ nét tư duy đó. Như vậy, có thể kết luận rằng có một trạng thái tư duy nghệ thuật kiểu trực cảm tâm linh được biểu lộ trong văn học Phật giáo.

                                                                                    Nha Trang, tháng 10 – 1997.

 

 



[1] Đặng Thanh lê “Trước tác kinh điển Nho giáo với văn học trung đại Việt Nam” và “Một số vấn đề phân tích ảnh hưởng văn học Trung Quốc đối với văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – thế kỷ XIX” trong sách “Dạy sách giáo khoa thí điểm Trung học chuyên ban, môn văn, lớp 11”. Ban KHXH, Nxb Giáo dục, H, 1994.

[2] Đặng Thanh Lê, tlđd.

[3] Đặng Thanh Lê, tlđd.

[4] Nguyễn Đình Chú “Một số vấn đề chung thuộc thời kỳ văn học trung cận đại” trong sách “Dạy sách giáo khoa thí điểm Trung học chuyên ban, môn văn, lớp 10, Ban KHXH, Nxb GD, H, 1994.

[5] Nguyễn Đình Chú, tlđd.

[6] Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Nxb, KHXH, 1994.

[7] Đào Duy Anh, Hán Việt từ điển, Trường Thi, Sài Gòn xuất bản, 19.

[8] Nguyễn Đăng Duy, Văn hoá tâm linh, Nxb Hà Nội, 1996, tr.14.

[9] Nguyễn Đăng Duy, tlđd, tr.19.

[10] “Văn hoá gia đình Việt Nam và sự phát triển”, Nxb KHXH, HN, tr.36.

[11] “Văn hoá và dân cư đồng bằng sông Hồng”, Nxb VHTT, HN, tr.115.

 

[12] Dẫn lại Phương Lựu, Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây, Nxb Văn học, H, tr.205.

[13] Nhiều tác giả, Từ trong di sản, bd, Nxb TPM, H, 1981, tr.72.

[14] Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, Nxb KHXH, 1977, tr.293.

[15] Viện văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, tlđd, tr.385.

[16] Đặng Thai Mai, “Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học” trong “Thơ văn Lý Trần” tập 1, tr.41.

[17] Nguyễn Đình Chú, Về bài thơ “Ngôn Hoài” của Không Lộ Thiền sư: chuyện rắc rối vá cách đối xử, Kiến thức ngày nay, số 147,  tháng 8-1994, trang 11-13.

[18] Nguyễn Đình Chú, tlđd.

[19] Trần Đình Sử, Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb GD, H, 1997, tr.205-214.

[20] Nguyễn Công Lý, Bản sắc dân tộc trong văn học thiền thời Lý – Trần, Nxb VHTT, H, 1997, tr.144.

[21] Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, tlđd, tr.521.

[22] Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tlđd, tr.339.

[23] Vô Môn thiền sư, Vô môn quan, bd, Lá Bối, S, 1972.

[24] Thiền uyển tập anh, bd, tr.36.

[25] Thiền uyển tập anh, bd, tr.52 -53.

[26] Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 1, tlđd, tr.281.

[27] Ngô Thì Sĩ, Việt sử tiêu án, bd, Hội Nghiên cứu Văn hoá Á Châu, S, 1960.

(Nguồn: Tạp chí Nha Trang (Hội Văn học Nghệ thuật Khánh Hoà) số tháng 7 và 8 - 1998. In lại: Tạp chí Nghiên cứu Phật học (Viện NCPH Việt Nam) số 1 và 2 - 2000.

Đặt vấn đề:

 

1.Đầu thế kỷ XX, trong xu thế chung của châu Á mà Phúc Trạch Dụ Cát (Fukuzawa Yukichi) diễn tả là “thoát Á luận” ( thoát khỏi châu Á), nhiều trí thức vùng Đông Á- hay là vùng văn hóa Hán- đã tiến hành phê phán nhiều giá trị truyền thống phương Đông trong đó có Nho giáo. Trong các xu hướng phê phán Nho giáo đó, có một xu hướng phê phán Nho giáo như một học thuyết nam quyền – đàn áp nữ quyền. Tại Trung Quốc, có thể kể đến Lỗ Tấn, Lâm Ngữ Đường ; tại Việt Nam tiêu biểu là Phan Khôi (1887-1960) . Việc phê phán Nho giáo đàn áp phụ nữ hiện vẫn tiếp tục. Ở Trung Quốc, những tiếng nói lên án gay gắt  Nho giáo như một học thuyết đàn áp nữ quyền có khi đi đôi với cảm hứng khẳng định chính Lão Trang mới là học thuyết nữ quyền. Dường như vấn đề nữ quyền là điểm yếu của Nho giáo, có thể dùng nó để hạ gục Nho giáo.

Con Hổ với sức mạnh phi thường đã đi qua, nhường chỗ cho chị Mèo thon thả ung dung bước đến. Nhân đầu năm Tân Mão (2011), xin có vài lời nhàn đàm xung quanh chuyện con Mèo, gọi là một chút quà tết kính gởi đến quý bạn đọc thân mến của bổn báo và của tôi.

Mục tiêu bao trùm trước mắt và lâu dài của chúng ta là phấn đấu bằng mọi cách nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở mọi lĩnh vực, mọi chuyên ngành ngữ văn mà sự nghiệp phát triển giáo dục đại học đang đòi hỏi một cách cấp thiết. Với mục tiêu này, trong nhiều năm qua, không ít đơn vị trong ngành ngữ văn thuộc nhiều trường đại học đã cố gắng bứt phá, tìm tòi, mở hội thảo khoa học, đưa lại những kết quả đáng ghi nhận.

Có người cho rằng Triết học và Khoa học chẳng những khác nhau mà còn đối lập nhau nữa.

TRIẾT HỌC

KHOA HỌC

Theo chữ Hán,từ triết gồm hai chữ chiết là bẻ gãy và khẩu là miệng hội ý lại có nghĩa lời nói lí luận chặt chẻ để tìm hiểu thấu đáo một đối tượng nào đó.

 

Triết học là một bộ môn gồm có bốn môn: luận lý học, tâm lý học, đạo đức học và siêu hình học. Nhưng luận lý là môn chủ đạo vì phải suy luận sâu xa mới đạt đến triết được. Luận lý có hai phần lý thuyết và thực hành

Những nguyên lý của lý trí, đồng nhất nhân quả khởi thủy cứu cánh định mệnh tạo thành các phương pháp suy tưởng diễn dịch quy nạp trực giác và suy luận phân tích và tổng hợp thuộc lý thuyết

Áp dụng lý thuyêt vào những môn thực tế như vũ trụ học, vật lý học, sinh vật học là phần luận lý thực hành

Luận lý lý thuyết tạo nên một phương pháp nhận thức khách quan hệ thống tiến đến sự thật.Phương pháp này mệnh danh phương pháp Khoa học

Thông thường từ khoa học chỉ khoa học thực nghiệm như vật lý, hóa học, sinh vật…Toán học, một môn lí trí trừu tượng nhưng  rất chuẩn xác được xếp  vào hàng  ngũ khoa học.

Con số trong Số học áp dụng  vào thực tế rất đúng đắn.Trong Hình học đường thẳng đường cong hình vuông hình tròn rất chính xác.

Thành ngữ Hán có cụm từ:Thập phần hoàn mĩ nói lên kết quả hoàn toàn tốt đẹp

Trong DTTT Nguyễn Du dùng số10 để tả vẻ đẹp hoàn toàn của hai chị em Kiều:

 

“Một người một vẻ mười phân vẹn mười”

 

Cũng trong sách này,Thúc Sinh vì muốn cùng Kiều kết hợp trăm năm nên đã lấy hình vuông hình tròn tiêu biểu cho mối tình trường cữu ấy:

 

“Trăm năm tính cuộc vuông tròn

Phải dò cho được ngọn nguồn lạch song”

 

Môn nào xử dụng phương pháp Khoa học mới đáng được gọi là một Khoa học

 

Phương pháp khoa học hay Khoa học thực nghiệm có liên quan mật thiết với Triết học.Khoa học nằm trong luận lý Triêt học

Một giáo sư triết học Tây phương đã nói:

 

Thượng Đế là vua của các vua

God is the king of kings

Triết học là Khoa học của các Khoa học

Philosophy is the science of sciences

 

 

I. Về mặt triết học, thông thường khi nói đến “Tâm” và “Trí” người ta nghĩ rằng đây là hai phạm trù đối lập nhau.

 

Trí là lý trí, trí tuệ. Nói đến trí là nói đến sự rạch ròi, khúc triết với tư duy logic, là nhận thức lý tính, mang tính chất nghiêm khắc, khô khan.

 

Tâm là tình cảm, tâm linh. Nói đến tâm là nói đến sự mềm mại, uyển chuyển, là tư duy tình cảm, nhận thức cảm tính. Nói cách khác, đó là sự trực cảm tâm linh.

  

 

Được xây dựng vào năm 1774 và trở thành một Tổ đình nổi tiếng của Phật giáo ở Nam Bộ từ thế kỷ XVIII, chùa Giác Lâm (hiện tọa lạc ở đường Lạc Long Quân quận Tân Bình thành phố Hồ Chí Minh) là một địa điểm bước vào lịch sử phát triển văn hóa của cộng đồng Việt Nam tại địa phương từ rất sớm. Hiện nay ngoài việc thu hút đông đảo tín đồ cả trong nước lẫn Việt kiều tới dâng hương, hành lễ - nhất là vào các dịp lễ lớn của Phật giáo; nó còn lôi cuốn nhiều khách du lịch văn hóa tới tìm hiểu, tham quan. Đặc biệt, đối với những người nghiên cứu, chùa Giác Lâm với bề dày lịch sử của nó còn là một hệ thống tư liệu khoa học quý báu về lịch sử và văn hóa, tôn giáo và văn chương, điêu khắc và kiến trúc... Trong những tư liệu ấy có một đôi câu đối hiện treo ở hàng cột thứ nhất từ ngoài vào và đối diện với chính điện, một đôi câu đối thuộc loại độc đáo bậc nhất trong thơ văn chữ Hán ở Việt Nam

 

Bước sang thế kỷ XX, đối với Việt Nam không chỉ bước qua một cột mốc thời gian, đi thêm một quãng đường lịch sử mà còn là rẽ sang một con đường khác trong lịch sử phát triển. Nếu từ thế kỷ XIX trở về trước, Việt Nam và các nước láng giềng Đông Á sống thành một vùng văn hóa độc lập, xa lạ với thế giới, thì từ đây, nhiều mối liên hệ thắt chặt nó với thế giới, bắt nó hòa vào cuộc sống chung, đưa nó ra nhập quĩ đạo chung của sự vận động lịch sử cả thế giới. Sự thay đổi từ trung cổ sang cận hiện đại, ở đây đồng thời có nội dung thay đổi từ truyền thống văn hóa này sang truyền thống văn hóa khác, từ nên văn hóa có vùng gốc Hán đến truyền thống văn hóa Châu Âu, có nguồn gốc Hy lạp, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chiếm  vị trí chi phối cả văn hóa thế giới cận hiện đại. Trong lịch sử Việt Nam, sự thay đổi lần này là sự thay đổi rất sâu sắc, có lẽ cũng tương đương với bước chuyển từ nền văn hóa bản địa mà tiếp nhận Phật giáo, từ nền văn hóa Phật giáo mà tiếp nhận Nho giáo xảy ra từ trước. Mỗi lần thay đổi như vậy, không phải cái mới thay thế cái cũ, không phải hai cái cộng lại, mà thực chất thực chất là một quá trình dài nhào nặn cái cũ với cái mới để thành một sản phẩm khác, thay đổi cốt cách của cái đã thành truyền thống dân tộc. Điiều kiện xảy ra sự thay đổi là việc nước ta mất độc lập, trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Mong muốn xúc tiến sự thay đổi là thực dân Pháp trong tay có chính quyền, nhà trường, báo chí,… và nhằm mục đích rõ ràng là làm cho thuộc quốc đoạn tuyệt với văn hóa dân tộc, ly khai với ảnh hưởng của Trung Quốc, trở thành nô lệ, sùng bái văn hóa Phương tây. Thế nhưng thay đổi như vậy cũng là một tất yếu trong hoàn cảnh thế giới cận đại. Bên cạnh con đường Âu hóa theo thực dân, còn có con đường Âu hóa của các nhà Nho yêu nước. Trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, chính các nhà Nho yêu nước cũng đã vận động cải cách văn hóa, chủ động giải quyết vấn đề tiếp nhận văn hóa Châu Âu để tự cường, giành độc lập và hiện đại hóa đất nước.

Chú thích ảnh: Trần Chánh Chiếu, chí sĩ Đông du Nam Kỳ tiêu biểu.

THAM LUẬN TẠI HỘI THẢO QUỐC TẾ “NHẬT BẢN VÀ TIỂU VÙNG MEKONG – MỐI QUAN HỆ LỊCH SỬ” (JAPAN AND MEKONG SUBREGION – HISTORICAL RELATIONS) DO TRƯỜNG ĐH KHXH & NV – ĐHQG TP.HCM TỔ CHỨC NGÀY 29-30/ 10/2010  

ĐOÀN LÊ GIANG (*)

Nói đến “Đông du” người ta nghĩ ngay đến Phan Bội Châu và các đồng chí của ông  ở vùng Thanh Nghệ và Bắc Bộ. Thế nhưng thực ra phong trào Đông du lại thu hút thanh niên và các chí sĩ Nam Kỳ đông đảo hơn nhiều so với Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Các chí sĩ Nam Kỳ tham gia Đông du rất hăng hái, nhiều người bị tù đày, có người hy sinh trong tù ngục hay ở những đất nước xa xôi. Những trí thức như Trần Chánh Chiếu, Nguyễn Thần Hiến, Trương Duy Toản, Nguyễn Háo Vĩnh…rất nổi tiếng trong làng văn, làng báo Nam Kỳ, nhưng đồng thời cũng là những chí sĩ Đông du hàng đầu. Trong bài viết này chúng tôi thử tìm hiểu những chí sĩ Đông du Nam Kỳ nào đã từng đến Nhật Bản và những hoạt động của họ trước, trong và sau khi đến Nhật Bản, nhằm làm rõ hơn một vấn đề lịch sử còn ít được giới nghiên cứu quan tâm. 

10 năm ngày mất Trịnh Công Sơn
Ngày Trịnh Công Sơn ra đi, khi chiếc xe tang rời con hẻm 47 (đường Phạm Ngọc Thạch, Quận 1, TP HCM), nhiều người đưa tiễn còn nấn ná thu nhặt những bông hoa trên những vòng hoa để lại bên đường. Cùng với độ lùi của thời gian, người ta càng nhận ra cái di sản mà người nhạc sĩ để lại lớn hơn rất nhiều so với những gì đã hình dung cũng như càng cảm thấy sự hiện diện tròn đầy của ông trong đời sống này.

Khi bàn về cách thức tiếp nhận nền văn minh bên ngoài của người Nhật, GS. Vĩnh Sính viết rằng: “Có thể nói rằng không có dân tộc nào nhạy bén về văn hóa nước ngoài cho bằng người Nhật. Họ không ngừng theo dõi những diễn tiến trên thế giới bên ngoài, đánh giá và cân nhắc ảnh hưởng của những trào lưu và xu hướng chính đối với Nhật Bản. Một điều đáng chú ý khác là khi họ biết trào lưu nào đang thắng thế thì họ có khuynh hướng chấp nhận, học hỏi, nghiên cứu để bắt kịp trào lưu đó, không để mất thời cơ”.

Theo PGS.TS. Phan Mạnh Hùng, học văn ở bậc đại học là học khoa học về văn chương, tìm trong văn chương những ứng dụng cho nghề nghiệp thực tế trong đời sống.

Đại văn hào của nước Nga Xô Viết – Maxim Gorky từng có câu nói nổi tiếng “Văn học là nhân học”. Chỉ vỏn vẹn năm từ, nhưng câu nói trên đã thể hiện rõ đặc trưng bản chất của Văn học.

Nói đến chức năng của văn học là nói đến vai trò, tác dụng của loại hình này đối với đời sống xã hội, với con người. Đến với Văn học là đến với môn học về nghệ thuật, giúp làm phong phú tình cảm, tâm hồn con người; đồng thời giúp ta học hỏi được nhiều điều trong cuộc sống và cũng như một tấm gương để ta tự soi chiếu bản thân mình.

Văn học cũng là một ngành khoa học cơ bản. Thế nhưng trong cuộc sống hiện đại ngày nay, ngành học này đang có xu hướng bị “phớt lờ”. Thậm chí, nhiều người còn đánh giá chưa đúng vai trò của ngành học này trong cuộc sống.

Học Văn có phải chỉ để phân tích văn, thơ?

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Mạnh Hùng – Phó Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, ngành học này của trường cung cấp những kiến thức chuyên sâu về Văn học nói chung và Văn học Việt Nam nói riêng.

20240404 4Hoạt động của sinh viên khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Mạnh Hùng: “Học ngành Văn học ở bậc đại học không chỉ để hiểu, phân tích được các tác phẩm văn thơ hay, mà còn giúp người học hiểu được quy luật hình thành, vận động của nền văn học, cách thức sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm; cách đọc tác phẩm văn học từ góc độ phương pháp khoa học chuyên ngành để phát hiện ra những đặc trưng có tính quy luật của thể loại, trào lưu tư tưởng, thẩm mỹ, triết học.

Người học Văn được trang bị các khối kiến thức giáo dục đại cương (kiến thức lý luận chính trị, kiến thức khối ngành nhân văn), kiến thức cơ sở ngành và chuyên ngành (nhóm ngôn ngữ và Hán Nôm, nhóm lý luận và phê bình văn học, nhóm lịch sử văn học), kiến thức định hướng nghề nghiệp (hướng báo chí và xuất bản, hướng nhóm nghiên cứu và giảng dạy, hướng biên kịch điện ảnh – truyền hình)”.

Mục tiêu đào tạo của ngành Văn học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là tạo ra những cử nhân có tri thức chuyên môn vững vàng và những phẩm chất nhân văn tốt đẹp; có kiến thức chuyên ngành vừa rộng vừa sâu, có kỹ năng làm việc tốt, thích ứng tốt với công việc liên quan đến văn hóa, văn học, ngôn ngữ, Hán Nôm, có ý thức phục vụ cộng đồng, hòa nhập quốc tế và ý thức học tập suốt đời.

Ở cơ sở giáo dục đại học này, sinh viên có thể chọn chương trình giáo dục chuyên ngành Văn học, Hán Nôm hoặc Biên kịch Điện ảnh – Truyền hình.

“Ra trường, nếu có năng khiếu và đam mê, người học có thể theo đuổi sáng tác và trở thành nhà thơ, nhà văn chuyên nghiệp.

Tuy nhiên, không phải ai học ra trường cũng trở thành nhà thơ, nhà văn, nhưng chắc chắn sẽ là người hiểu sâu về văn học, có khả năng viết và nói tốt” – thầy Hùng nhận định thêm.

Cũng có những quan điểm tương đồng, Tiến sĩ Thái Thị Hoài An – Trưởng Bộ môn Ngôn ngữ, khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên cho rằng: “Với mục tiêu đào tạo sâu rộng, có thể khẳng định việc học Văn không chỉ để hiểu, để phân tích các tác phẩm văn thơ. Bởi hiểu và phân tích các tác phẩm văn học chỉ là một trong số rất nhiều các kỹ năng mà người học được đào tạo trong quá trình học tập ngành học này”.

94f98515cb2b64753d3a.jpg

Tiến sĩ Thái Thị Hoài An – Trưởng Bộ môn Ngôn ngữ, khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên. Ảnh: NVCC

Theo đánh giá của cô An, sinh viên tốt nghiệp ngành Văn học có nhiều cơ hội việc làm. Trong đó, có thể kể đến công tác nghiên cứu tại các viện, trung tâm, cơ quan đoàn thể xã hội liên quan tới lĩnh vực báo chí, xuất bản; theo dõi và quản lí hoạt động văn hoá, Văn học, ngôn ngữ,…; trở thành chuyên viên của các phòng, sở, các ban ngành liên quan đến lĩnh vực ngôn ngữ và văn học. 

Bên cạnh đó sinh viên có thể bổ sung khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm để làm giáo viên, giảng viên dạy Ngữ văn/Văn học tại các cơ sở giáo dục (cả phổ thông và đại học).

Đặc biệt, sinh viên ngành Văn học có nhiều cơ hội để tiếp tục học lên sau đại học các ngành thuộc văn học, ngôn ngữ, văn hóa và báo chí.

Là một cựu sinh viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đang lựa chọn học tiếp cao học, bạn Hạ Thị Mỹ Hạnh cho biết, mong muốn của bạn sau khi ra trường là được giảng dạy ngành Văn học.

Chính vì thế, Hạnh đã quyết định theo học chương trình đào tạo thạc sĩ tại Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva (Nga) để chuẩn bị cho mình một nền tảng kiến thức vững vàng. Chuyên ngành bạn lựa chọn theo đuổi là nghệ thuật học.

“Mình lựa chọn hướng đi chính là nghệ thuật học, vì mình có niềm đam mê nghiên cứu điện ảnh. Các bộ phim luôn tạo cho mình nhiều cảm hứng khác nhau.

Bộ môn nghệ thuật học của khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã để lại cho mình nhiều trải nghiệm thực sự đáng nhớ trong quãng đời sinh viên. Trong thời gian học đại học, mình đã tiến hành 2 đề tài nghiên cứu khoa học liên quan nghệ thuật học.

Bên cạnh đó, mình cũng được tiếp cận với các bộ môn khác, trong đó có Văn học Nga. Nhờ quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, mình dần có cảm tình với môn học và đất nước này, khiến mình lựa chọn Nga là điểm đến khi học nâng cao trình độ” – bạn Mỹ Hạnh chia sẻ thêm.

Quan điểm Văn học chỉ dành cho những người “bay bổng” là sai lầm

Hiện nay, một bộ phận học sinh không cảm thấy hứng thú khi học Văn, cho rằng đây chỉ là môn học để thi.

Cũng có một số ý kiến đánh giá không đúng về vai trò của Văn học trong cuộc sống, như cho rằng đây chỉ là một bộ môn phù hợp với những người có tâm hồn “bay bổng”, không thực tế,…

cc1dfea8-1fbb-4d76-b973-4848d45bc5a3.jpg

Bạn Hạ Thị Mỹ Hạnh - sinh viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC

Chia sẻ suy nghĩ của mình về vấn đề này, bạn Hạ Thị Mỹ Hạnh cho rằng: “Đây là tâm lí chung của khá nhiều người, đặc biệt là những người chưa thực sự hiểu rõ về Văn học. Tuy nhiên, đây lại là suy nghĩ hoàn toàn sai lệch về văn học.

Điều này phần lớn xuất phát từ tâm lí của người học, họ luôn cho rằng văn học là sự sao chép, là khuôn mẫu có sẵn và không thể thay đổi. Trên thực tế, một bài văn thường không có một kết quả chính xác như các môn khoa học tự nhiên khác.

Văn học đưa con người đến sự sáng tạo và khai phá khả năng tư duy của mỗi người. Chỉ có sự sáng tạo và tư duy độc lập mới có thể khám phá và đi vào thế giới của văn chương. Thông qua văn học chúng ta cũng có thể tìm được những điều từ chính thực tế cuộc sống, thậm chí tìm thấy bản thân chúng ta ngay trong những trang sách”.

Đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này, Tiến sĩ Thái Thị Hoài An cho rằng, môn Văn khác biệt với các môn học khác ở chỗ, ngoài là một môn học, đây còn là một môn nghệ thuật.

Với tư cách là một môn nghệ thuật, Văn học có thể kiến tạo nên thế giới tinh thần phong phú cho con người thông qua sự tác động về mặt tình cảm. Bên cạnh đó, văn chương còn có thể tăng cường năng lực thẩm mỹ cho học sinh, giúp học sinh nhạy cảm hơn, tinh tế hơn trong cuộc sống.

Trên thực tế, văn chương không mang lại cơm ăn, áo mặc khi đói khát, không thể thay thế thuốc thang khi ốm đau bệnh tật. Nhưng văn chương có thể an ủi, chia sẻ và cảm thông cùng con người, nâng đỡ con người vượt qua những nghịch cảnh của cuộc sống, để sống, yêu cuộc đời và hướng tới tương lai.

Còn với tư cách là một môn học, văn chương ngoài việc cung cấp các tri thức về Văn học, còn cung cấp các tri thức về văn hóa, xã hội, con người, mở rộng sự hiểu biết của con người đối với thế giới, giúp học sinh mở rộng môi trường giao tiếp với một thế giới rộng lớn.

Vì vậy, đừng nghĩ rằng môn Văn chỉ dành cho những người bay bổng, thiếu thực tế, chỉ chuyên tầm chương trích cú hay mơ mộng hão huyền theo những câu chuyện phiêu lưu.

“Cũng như các môn học khác, môn Văn cũng có tính chất công cụ. Học Văn, người học sẽ được cung cấp công cụ tư duy, công cụ giao tiếp và hiệu quả nhất chính là ngôn ngữ… Chính vì những lẽ đó, môn Văn luôn là môn chính khó có thể thay thế trong hệ thống giáo dục phổ thông.

Nhiều học sinh, sinh viên khi học trong nhà trường chưa ý thức được vai trò của ngành học này đối với công việc về sau. Nhưng khi ra trường, khi tiếp xúc công việc thực tế, họ mới nhận ra được tầm trong quan trọng của việc học ngôn ngữ và thực hành ngôn ngữ như một công cụ để tư duy và giao tiếp” – Tiến sĩ Hoài An khẳng định thêm.

Còn theo thầy Hùng: “Trong thực tế, nhiều người vẫn lầm tưởng việc học văn ở bậc đại học giống bậc phổ thông. Tuy nhiên, mục tiêu dạy văn ở mỗi cấp bậc có khác”.

Nếu ở phổ thông, dạy văn thường chú trọng đến việc giáo dục thẩm mỹ, cách cảm thụ cái hay, cái đẹp trong những tác phẩm cụ thể, hướng đến tình yêu cái đẹp trong ngôn ngữ và cuộc sống; thì ở bậc đại học, ngoài những mục tiêu vốn có như bậc phổ thông, học văn là học khoa học về văn chương, tìm trong văn chương những ứng dụng cho nghề nghiệp thực tế trong đời sống. Do đặc thù của tính thẩm mỹ hình tượng, văn học đòi hỏi có sự tưởng tượng, liên tưởng cao.

“Nếu có sẵn năng khiếu thì việc học văn khá thuận lợi, còn chưa sẵn thì không phải là một rào cản. Bởi chúng ta có thể gây niềm hứng thú qua việc đọc và trải nghiệm cuộc sống, từ đó nâng dần khả năng cảm thụ và viết văn. Việc gặp được thầy cô khuyến khích, khơi nguồn cảm hứng cũng là rất quan trọng.

Vì thế, học văn không nên cốt để đi thi và ai cũng có thể học giỏi nếu có phương pháp và sự yêu thích” – Phó Giáo sư Phan Mạnh Hùng cho hay.

Cần thu hút nhiều hơn học sinh giỏi chọn học Văn

Trong những năm gần đây, sinh viên thường có xu thế chạy theo các nhóm ngành có nhiều cơ hội việc làm và khả năng tạo ra thu nhập trước mắt như kinh tế, quản lý,... Vì thế, những ngành khoa học cơ bản, trong đó có Văn học rơi vào tình trạng khó tuyển sinh.

image_6483441 (2).JPG

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Mạnh Hùng – Phó Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Nhận định về vấn đề này, Phó Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Việc tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản nhìn chung khá khó khăn.

Lí do một phần do việc học tương đối khó, còn một phần do tính thực dụng ít hơn. Người học thường phải gắn kiến thức khoa học cơ bản với một ngành ứng dụng nào đó. Ví dụ, văn học và báo chí, văn học và biên kịch điện ảnh truyền hình, giảng dạy văn học”.

Tuy nhiên, theo thầy Hùng, việc tuyển sinh ngành Văn học của trường trong những năm qua tương đối ổn định, và điểm chuẩn ngành ở mức tương đối.

Để có cái nhìn khách quan, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có thống kê điểm chuẩn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong 3 năm gần nhất (2021 – 2023).

Trong 3 năm này, trường xét tuyển ngành Văn học theo 3 tổ hợp C00, D01, D14.

z5307684459754_16d85125abebc1ba631ec7daef8e833d.jpg

Điểm chuẩn ngành Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong 3 năm từ 2021 – 2023.

Điểm chuẩn dao động từ 25.6 – 27 điểm (theo thang điểm 30). Trong đó, có điểm hệ số 2 môn chính và được tính theo công thức: (tổng điểm ba môn thi sau khi nhân đôi môn chính) x 3 ÷ 4, làm tròn đến 2 chữ số thập phân.

Năm 2023, điểm chuẩn khối C00 ngành Văn học của trường này là 27 điểm.

Được biết, trong thời gian tới, đơn vị này sẽ góp phần hình thành một ngành học mới là Nghệ thuật học, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước giai đoạn hội nhập.

“Vấn đề tuyển sinh đặt ra cho ngành này là cần thu hút nhiều hơn những học sinh giỏi từ các trường trung học phổ thông. Nhà trường đã thực hiện nhiều biện pháp trong đó có việc nâng cao chất lượng chuẩn đầu ra, tăng cơ hội nghề nghiệp cho người học, thực hiện tốt công tác tư vấn tuyển sinh là những phương thức để thu hút người học” – Phó Giáo sư Hùng nhận định thêm.

Ngoài ra, theo các thầy, cô giảng dạy ngành Văn học, để đáp ứng được yêu cầu khi học tập và có thể phát triển tốt trong công việc khi ra trường, sinh viên ngành Văn học trước hết cần phải có sự yêu thích, niềm đam mê và hiểu được bản chất của văn học. Khi đó, sinh viên sẽ tìm được hứng thú trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Bên cạnh đó, sinh viên cần tạo thói quen đọc sách, không chỉ đọc tác phẩm văn học mà nên đọc mở rộng sách chuyên ngành xã hội như: triết học, tâm lý học, lịch sử.... và cần trau dồi kỹ năng viết và nói.

Học tốt ngoại ngữ cũng là một điều cần lưu ý, giúp sinh viên tiếp cận được với nhiều tài liệu nước ngoài, trong đó có văn học thế giới. Từ đó, kiến thức văn học sẽ tốt hơn, thích ứng tốt trong nhiều công việc.

Kim Minh Châu

Nguồn: Giáo dục Việt Nam, ngày 03.4.2024.

Về phương diện chính trị văn hóa có thể khẳng định ngay thành phố Sài Gòn là trung tâm của miền Nam, giống như Huế ở miền Trung hay Hà Nội ở miền Bắc. Cái gọi là triết học phần lớn phát xuất từ các trí thức Nam bộ có may mắn được đi học trường Tây và hấp thu văn hóa Pháp, chẳng hạn Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, Trần Văn Giàu, Phan Văn Hùm, Bùi Quang Chiêu, Nguyễn Phan Long. Mặc dù tất cả những người này không ai được đào tạo chính qui trong ngành triết, nhưng do tình hình lịch sử khách quan đã tập trung sự chú ý của họ (tôi muốn nói Nguyễn An Ninh, Tạ Thu Thâu, Hồ Hữu Tường, và Trần Văn Giàu) vào triết học, chủ yếu là triết học Marx. Do đó ngay từ đầu triết học đã gắn liền với giai cấp trí thức cao cấp nhất trong xã hội thời đó: những người do học vấn hay khả năng tài chính có thể du học bên Pháp, sử dụng tiếng Pháp, và có bằng cấp cao về luật, văn chương, hay toán học. Chính vì vậy việc thảo luận triết học giữa các trí thức nói trên ngay từ đầu đã mang tính chất “tinh hoa”, “quý tộc”, mà người thường (không thông thạo Pháp văn) hoàn toàn bị loại ra khỏi vòng chiến. Có thể nói mà không sợ quá lời rằng giỏi tiếng Pháp trong những thập niên 40 là được coi gần như một loại “thiên tài” hoặc ít ra cũng thuộc về môn thứ câu lạc bộ thu hẹp chỉ gồm các phần tử tinh hoa, ưu tú nhất của dân tộc. Di sản của quan niệm này đã di cư vào các chương trình trung học và đại học Văn Khoa được thành lập tại miền Nam sau năm 1954. Hai đặc trưng của di sản này là: học nổi triết học tức là “thiên tài” và “thiên tài” thì phải nói tiếng Pháp “như gió.” Hoàn cảnh khách quan là những người đầu tiên xây dựng chương trình cho đại học Văn Khoa chủ yếu bao gồm hai lực lượng trí thức chính: giới cựu học (giỏi Hán văn) và lớp tân học (giỏi Pháp văn), nhưng dĩ nhiên lớp tân học đóng vai trò quan trọng hơn trong công tác điều hành, quản lý, và soạn thảo chương trình. Bộ phận triết học hoàn toàn được mô phỏng theo chương trình giảng dạy của Pháp, ngay ở cấp trung học cũng thế: căn bản triết học bao gồm tâm lý học, đạo đức học, luận lý học, và siêu hình học. Các danh từ triết học trong sách giáo khoa trong giai đoạn đầu chỉ là những cố gắng phiên dịch từ các thuật ngữ Pháp văn tương đương cho nên càng củng cố tính chất “quý tộc” sẵn có trong bộ môn triết vì đó là những thuật ngữ Hán Việt nghe hết sức “cao sang”, “huyền bí,” chẳng hạn như: tiên thiên, hậu nghiệm, siêu hình, tam đoạn luận, diễn dịch, quy nạp, v.v… Tôi còn nhớ khi học lớp Đệ Nhất (tức lớp 12 bây giờ) rất nể phục các học sinh học luôn siêu hình học (métaphysique) trong chương trình ban C (Văn chương, sinh ngữ), vì nếu theo ban A (Lý, hóa vạn vật) hay B (Toán, lý, hóa) thì môn triết chỉ bao gồm ba môn tâm lý, đạo đức, và luận lý mà thôi. Tôi cũng chẳng biết siêu hình học là cái gì, nhưng nội nghe ba chữ “siêu hình học” là đã thấy hết sức tâm phục khẩu phục rồi, cho rằng phải tài ba xuất chúng lắm mới học nổi một môn học cao siêu như vậy. Những sinh viên học triết ở bậc đại học thì càng được tôi sùng bái kính cẩn hơn nữa, nói gì đến các bậc giáo sư có bằng cấp triết học từ tận Pháp quốc trở về. Đối với đầu óc của tôi bấy giờ (những thập niên 60 và 70) các bậc giáo sư đó không phải đơn thuần chỉ là “thiên tài” mà chính họ là hiện thân của “chân lý tuyệt đối”. Tôi muốn nói đến các giáo sư Trần Thái Đỉnh, Nguyễn Văn Trung, Lê Thành Trị, Lê Tôn Nghiêm, những “ngôi sao” của đại học Văn Khoa thời bấy giờ.

Chính do sự sùng bái đó mà tôi vô cùng chấn động khi đọc tác phẩm Hố Thẳm Tư Tưởng (hình như xuất bản năm 1966) của Phạm Công Thiện, trong đó tác giả mạt sát giáo sư triết học Nguyễn Văn Trung không tiếc lời và phê phán luận án tiến sĩ của vị giáo sư này một cách hết sức gay gắt, tàn nhẫn, có thể gom lại trong hai mệnh đề chính: “Hoàn toàn dốt nát về tư tưởng triết học phương Tây” và “hoàn toàn dốt nát về tư tưởng Phật giáo”. Dĩ nhiên những nhận xét này của họ Phạm giờ đây đọc lại tôi cũng chỉ thấy toàn là những khẳng định suông, chẳng có chứng minh gì cụ thể là giáo sư Nguyễn Văn Trung “dốt” ở những điểm nào. Nhưng dù sao Phạm Công Thiện đã làm sống lại truyền thống bút chiến trong văn học miền Nam trước đây, nhưng chỉ tiếc giáo sư Nguyễn Văn Trung im lặng không trả lời gì cả khiến tôi vô cùng thất vọng, kết luận: “Vậy là Phạm Công Thiện nói đúng rồi”! Bản thân giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng góp phần củng cố nhận định này, vì ông hầu như chẳng viết gì về triết học mà chủ yếu viết về văn học, thơ ca (thậm chí viết cả bài ca ngợi ca sĩ Thanh Thúy), tục ngữ, câu đố, và gần đây nhất là viết về tôn giáo Cao Đài. Sở dĩ Phạm Công Thiện có thể gây được một chấn động lớn như vậy vì giáo sư Nguyễn Văn Trung đang ở trên một ngôi vị quá cao, quá “quý tộc,” do bốn chữ “tiến sĩ triết học” thường đi kèm theo tên ông đã tạo ra một hào quang thiêng liêng đến mức việc tấn công vào chính bản thân ông đã trở thành sự tấn công vào chính tầng lớp tinh hoa triết học. Kể từ đây các giáo sư tiến sĩ triết học khác phải được nhìn bằng con mắt hoài nghi.

Nhưng huyền thoại Nguyễn Văn Trung sụp đổ để nhường vị trí lại cho hai huyền thoại khác đang lên ngôi: Bùi GiángPhạm Công Thiện. Khi một giáo sư triết tại đại học không thể trả lời được một sự công kích trực tiếp như vậy từ một người đứng ngoài hệ thống hàn lâm thì hậu quả tất nhiên sẽ là uy tín học thuật phải chuyển từ hệ thống hàn lâm đó sang cho những thiên tài khác đang đứng bên lề đại học. Bùi Giáng là một nhà thơ thiên về triết học, nổi tiếng về các hành vi lập dị theo kiểu “đứng đái giữa đường”, thể hiện một thái độ phản kháng, thách đố đối với tất cả những gì công ước, hình thức, chuẩn mực, ngay ngắn trong đời sống xã hội. Mặc dù thực ra chỉ do bộ óc “mát điện” và bị “cà tửng” của nhà thơ tạo ra mà thôi. Bùi Giáng đã trở thành biểu tượng cho một đấng minh triết theo đúng truyền thống Đông phương: sống vượt ngoài qui ước xã hội, có tâm hồn thi sĩ, và học vấn quảng bác (như Trúc Lâm thất hiền đời Tây Tấn bên Trung Hoa hay Cao Bá Quát trong truyền thống Việt Nam). Phạm Công Thiện thì hoàn toàn tỉnh táo. Sau những bài viết hết sức gay gắt, ông cũng trở thành một trí thức hàn lâm, giảng dạy và làm khoa trưởng tại đại học Vạn Hạnh, thế là kết hợp được cả hai yếu tố thoạt nhìn có vẻ mâu thuẫn nhau trong truyền thống Việt Nam: não trạng sùng bái các trí thức cao cấp, chủ yếu là giáo sư đại học (nhờ giỏi ngoại ngữ) và việc thần tượng các “thiên tài” phản kháng đứng ngoài hệ thống hàn lâm. Cần lưu ý ngay là mặc dù không sản xuất ra một khối lượng thơ phong phú như Bùi Giáng, Phạm Công Thiện luôn luôn tư xưng là “thi sĩ” và cũng sáng tác khá nhiều thơ (thí dụ tập Ngày sinh của rắn), nghĩa là ông vẫn thuộc về truyền thống văn hóa phương Đông, xem việc làm thơ là nhãn hiệu chủ yếu của minh triết vĩnh cửu, chứ không phải các lý luận trừu tượng, chi ly, chẻ sợi tóc ra làm tư, của triết học Tây phương. Kim Định, một giáo sư đại học Văn Khoa về triết Đông, cũng có một luận điểm tương tự khi phê phán triết học phương Tây và đề cao Nho giáo mà ông cho là xây dựng trên ba trục chính: Hưng ư thi, Thành ư nhạc, và Lập ư lễ.

Do tâm lý văn hóa như tôi vừa mô tả ở trên, các sách vở bàn chuyện triết học thực sự không bao giờ thấm nhập trong não trạng quần chúng có học thức. Chẳng hạn các sách bàn về tư tưởng Kant, Descartes, Sartre, Marcel, biện chứng pháp, của giáo sư Trần Thái Đỉnh, hay bộ Lịch sử triết học Tây Phương (2 cuốn) của giáo sư Lê Tôn Nghiêm, hay Hiện tượng luận về hiện sinh của giáo sư Lê Thành Trị, không bao giờ xuất hiện trong những cuộc thảo luận trí thức, không bao giờ trở thành một ảnh hưởng thâm nhập sâu đậm trong não trạng giới có học, vốn thích những gì thơ mộng, lãng mạn, phản kháng công ước xã hội, theo kiểu thơ Đường, hay “trực chỉ chân tâm, kiến tánh thành Phật” theo kiểu Thiền tông. Cho nên một hiện tượng hết sức nghịch lý là trong văn hóa Việt Nam giới có học rất “nể” các giáo sư triết hay “thiên tài triết học” thông thạo ngoại ngữ Tây phương nhưng trong thực tế vẫn thích thảo luận những đề tài truyền thống (thơ Đường, Kinh Dịch, Thiền Tông). Nói rộng ra là văn chương, triết Đông, và Phật giáo, vì đối với họ tinh thần triết học phương Tây (duy lý, phân tích, trừu tượng, lý luận tỉ mỉ, dài dòng) là một thực thể văn hóa xa lạ, nếu dùng để trang điểm trí tuệ thì tốt, chứ không phải là những món ăn thực sự cần thiết cho đời sống tinh thần Việt Nam.

Một điều hiển nhiên là khi nhìn lại gia tài văn hóa Việt Nam, chúng ta thấy lực lượng chủ yếu là thơ (chẳng hạn chỉ riêng thơ văn Lý, Trần gom lại đã được ba cuốn dày cộm), còn các đề mục xa gần có liên quan đến tư tưởng thì sơ sài ngắn gọn, chẳng hạn Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông hay Thiền Uyển Tập Anh, ngay cả khi dịch sang Việt ngữ rồi, cũng chỉ là hai cuốn sách mỏng lét. Phạm Công Thiện, người trước đây được nhóm Văn (Trần Phong Giao, Trần Thiện Đạo) và bây giờ được cộng đồng trí thức Việt Nam tại California xưng tụng là “triết gia” cũng chẳng bao giờ sáng tác được một tác phẩm triết học nào cả. Các tác phẩm của ông ( Tư tưởng hố thẳm, Hố thẳm tư tưởng, Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, Ý thức bùng vỡ…) chỉ là tập hợp những bài viết ngắn theo kiểu tùy bút, bút ký, phiếm luận, không có nội dung gì xuyên suốt từ đầu đến cuối. Chính do áp lực qui định của truyền thống, hoàn cảnh xã hội luôn luôn thiếu ổn định do chiến tranh, cộng thêm khí hậu nóng bức, người Việt Nam khó có cơ hội và thời gian ngồi yên một nơi để tư duy triết học nghiêm chỉnh lâu dài, hoặc biên khảo những tác phẩm dài hơi (vốn đòi hỏi việc tham khảo nhiều tư liệu liên quan). Không nói đâu cho xa, ngay cả vào thời Phạm Công Thiện, việc tiếp cận với tư liệu, sách vở triết học cũng không phải dễ dàng. Dĩ nhiên giới có tiền vẫn có thể đặt mua tận bên Pháp thông qua nhà sách Xuân Thu (Sài Gòn) hoặc săn lùng những cửa hiệu sách cũ. Giới được may mắn sang du học bên Pháp thì có cơ hội nhiều hơn trong việc kiếm “bửu bối”, nhưng tất cả đều hoàn toàn ngẫu nhiên, không có hệ thống, hơn nữa sách bên Pháp rất mắc, ngay cả bây giờ cũng thế, cho nên việc thử trong tay những tác phẩm hay tư liệu triết học cần thiết chính là ưu thế rất lớn trong việc biên khảo hay bút chiến. Khi đối phương trích dẫn toàn tư liệu mà mình không thể tiếp cận thì chỉ có nước giơ mặt cho đối phương tha hồ tạt nước vào mà thôi. Đó cũng là lý do giải thích được tại sao thường là các sách biên khảo Việt Nam rất lôi thôi, bầy hầy, ít khi ghi chú, chú thích cẩn thận đầy đủ như các sách cùng loại của phương Tây, vì khi viết tác giả chỉ nhớ có đọc cuốn sách đó, của tác giả đó, nhưng lại không có tác phẩm đó ngay trước mắt, một vấn đề giải quyết hết sức dễ dàng trong các thư viện phương Tây. Cũng chính vì vậy mà truyền thống văn hóa Việt Nam đặt trọng tâm vào việc nhớ nhiều, một khả năng tuy vẫn cần thiết hiện nay nhưng đã được hỗ trợ rất nhiều bằng cách hệ thống ký ức nhân tạo (bách khoa, tự điển, thư mục, tự điển, thư mục, sách dẫn, CD- ROM, Internet). Việc trích dẫn nhiều sách vở chẳng hề gây “ấn tượng” cho giới trí thức như ngày xưa nữa vì đó là tác thao tác mà ai được huấn luyện và đào tạo đều có thể thực hiện được một cách dễ dàng.

Kết luận: “thiên tài” trong văn hóa Việt Nam từ xưa đến nay chỉ là sản phẩm của bốn nhân tố chính: 1- Khan hiếm sách vở và tư liệu; 2- Não trạng thích thơ ca lãng mạn; 3- Hoàn cảnh khách quan (xã hội loạn lạc, khí hậu nóng bức, việc đi lại trong nước khó khăn, việc xuất dương du học càng hiếm hoi hành 4- Sùng bái bằng cấp và ngoại ngữ (trước thì chữ Nho, sau thì chữ Tây).

Nguồn:  Đường vào Triết học - NXB Tổng hợp TP HCM

 

http://www.chungta.com.vn/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Nhan-Thuc/Khai_niem_triet_hoc_tai_Sai_Gon_truoc_1975

20240401

Không ít người quan niệm, sách giáo khoa dạy học hình thành, phát triển năng lực ngôn ngữ, văn học cho học sinh tìm được ngữ liệu sát hợp, có giá trị thẩm mĩ, nhân văn là đã thành công một nửa. Đối với cấp tiểu học, trung học cơ sở, ngữ liệu trong sách Tiếng Việt, Ngữ văn càng thể hiện rõ điều đó. Ngoài những ưu điểm về chương trình, về cách cấu trúc hệ thống chủ điểm, bài học, về tính linh hoạt, sáng tạo của thầy và trò trong lựa chọn văn bản…1, ngữ liệu trong sách Tiếng Việt, Ngữ văn mới cũng có một vài hạn chế dễ nhận thấy. Thực trạng này không khỏi khiến dư luận quan ngại, gây cho giáo viên, học sinh, các cấp quản lý giáo dục nhiều bất lợi. Bài viết hướng vào những hạn chế của một số văn bản văn học trong các bộ sách giáo khoa hiện nay2 để góp thêm tiếng nói đối thoại trên tinh thần xây dựng tích cực.

    1. Thừa tính thời sự, thiếu tính thẩm mĩ, nhân văn

    Văn học là nhân tố quan trọng của văn hóa. Cách đây 80 năm, Đề cương về văn hóa Việt Nam3 đã chỉ ra ba phương diện quan trọng của văn hóa nước ta là: Dân tộc; Khoa học; Đại chúng. Đây là những phẩm chất không nhất thành bất biến mà luôn thường trực tính lịch sử - xã hội, tính năng sản, phù hợp với hoàn cảnh, thời đại. Hơn 3/4 thế kỷ, các nguyên tắc này vẫn còn ý nghĩa soi đường khi định vị các sản phẩm văn hóa, trong đó có văn học ở nhà trường phổ thông.

    Trong thời đại ngày nay, tính thời sự của văn học, nghệ thuật thường song hành với tính đại chúng. Đó là nhân tố làm cho các sản phẩm văn hóa tinh thần áp sát công chúng, phát huy tác dụng không thua kém kinh tế, chính trị. Tiêu chí gần gũi đối tượng người học cũng là một cơ sở quan trọng để những người xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa đặt ra trong tìm kiếm, chọn lựa văn bản. Điều này không sai; nhưng nếu quá chú trọng tính chất này mà xem nhẹ giá trị thẩm mĩ, nhân văn của ngữ liệu - nghệ thuật ngôn từ, bất cập là điều khó tránh.

    Quá trình triển khai các bộ sách môn Ngữ văn của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đến nay (2023) đã vào chặng cuối với ba khối lớp 5, 9, 12. Chọn văn thơ làm ngữ liệu để dạy học các kiến thức tiếng Việt, văn học, trước hết phải chú trọng đặc trưng của ngữ liệu với tư cách là sản phẩm tinh túy của nghệ thuật ngôn từ. Nếu quá xem trọng tính sư phạm, tính khoa học, tính giáo dục, tính thời sự, độ sát hợp giữa văn bản với cuộc sống, tâm lý, nhận thức của tuổi thơ… mà hạ thấp tính thẩm mĩ của ngữ liệu sẽ duy ý chí, sai lệch trong xây dựng chương trình, viết sách giáo khoa, định hướng dạy học... Muốn văn học trong nhà trường làm tốt các chức năng của nó, trước hết đó phải là những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa. Bài thơ Bắt nạt của Nguyễn Thế Hoàng Linh (Ngữ văn 6, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) là một minh chứng. Không phủ nhận tính thời sự, nhân văn của văn bản nhưng sự thô vụng của câu chữ (đầy tính khẩu ngữ), sự lạ đời trong giải pháp sư phạm (với thử thách lòng can đảm, bản lĩnh kẻ hay bắt nạt bằng cách ăn mù tạt - một gia vị chẳng mấy quen thuộc với nông thôn, miền núi), cách dùng tiếng lóng khá xa lạ với trẻ em Miền Trung, Miền Nam Việt Nam (hôi = xấu)… đã gặp phải sự phản ứng trái chiều của cộng đồng, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động dạy học. Nếu đề cao tính khoa học của nghệ thuật ngôn từ, đội ngũ biên soạn sẽ cân nhắc, thận trọng hơn trong tuyển chọn ngữ liệu. Với sản phẩm chưa hoàn thiện như thế, một trong những yêu cầu, mục tiêu quan trọng của văn học, nghệ thuật được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là: “Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng”4 sẽ khó hiện thực hóa. Vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta không biết làm cho các em yêu thơ văn – một nhân tố quan trọng để tâm hồn trẻ thơ không trở nên cằn cỗi, để trẻ có thể rung động với những chân lý thiêng liêng như yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu cha mẹ, yêu con người… Những nền tảng làm người được kiến tạo, đắp bồi từ nhỏ ấy sẽ là động lực để học sinh tiểu học phát triển, hoàn thiện nhân cách, có sức đề kháng với những độc hại trong môi trường sống của các em hiện nay.

    Văn bản đưa vào chương trình không quá đặt nặng chức năng giáo dục khô khan, mòn cũ mà nội dung, hình thức thể hiện cũng thật sinh động, hấp dẫn, phù hợp với hoạt động cảm thụ văn học đặc trưng của lứa tuổi học sinh, tránh biến những ngữ liệu dạy học ngôn ngữ, văn học thành những bài học chỉ đơn thuần mang tính chất nêu gương, lên lớp. Tác phẩm chỉ thực sự để lại ấn tượng sâu đậm với trẻ, hướng các em đến những giá trị nhân văn muôn thuở của con người chỉ khi nó là một công trình nghệ thuật bằng ngôn từ đúng nghĩa dành cho tuổi thơ. Sâu sắc mà không đao to búa lớn, khuyên nhủ mà không cứng nhắc, lên gân mới là con đường để văn học tìm đến với các em – một hướng đi đặc trưng nhưng cực kỳ hiệu quả, bởi nó chinh phục bạn đọc – học sinh bằng hình ảnh, bằng nhạc điệu, bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhuần nhị chứ không đến trực tiếp bằng thứ ngôn ngữ thuyết lý trừu tượng, khô khan. Nguyên tắc “quý hồ tinh bất quý hồ đa” cũng cần được quán xuyến. Mỗi văn bản được chọn lọc đưa vào sách học của trẻ cũng phải là phần tinh túy nhất của mỗi tác giả viết cho các em, không phải vì đó là gương mặt quen thuộc hoặc người có vai vế, lão làng. Theo đó, những bài thơ như Tôi yêu (Trần Huiền Ân), Tre Việt Nam (Nguyễn Duy), Cả nhà đi học (Cao Xuân Sơn), Quê hương (Đỗ Trung Quân)… có giá trị thẩm mĩ, nhân văn cao. Vượt lên cái nhất thời, tạm bợ, thời sự, chúng góp phần giáo dục, hình thành cho học sinh những tình cảm, trách nhiệm muôn thuở với Tổ quốc, gia đình, thầy cô, bè bạn…

    2. Gò ép ngữ liệu theo kiểu gọt chân cho vừa giày

    Cấp tiểu học, trung học cơ sở bắt đầu hình thành cho học sinh những kỹ năng sơ giản về viết văn cũng như những rung động thẩm mĩ của các em trước cuộc sống, xã hội. Thế nhưng, từ những cá nhân, tổ chức, đơn vị đến đội ngũ giáo viên đứng lớp hiện nay, khách quan mà nói, chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của vấn đề có tính nền tảng này. Gam màu ảm đạm trong bức tranh chung về chất lượng dạy học ngôn ngữ, văn học ở nước ta hiện nay một phần xuất phát từ chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học của giáo viên. Những bài văn, bài thơ, câu/ đoạn thơ, văn ngô ngọng, ông chẳng bà chuộc ở các lớp đầu cấp tiểu học trong cả ba bộ sách Cánh diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống… là một nỗi ám ảnh không nhỏ đối với giáo viên, học sinh.

Vườn ươm yêu thương

 Yểng hát ríu rít
Yêu lắm vườn ươm
Điệp vàng, phượng đỏ
Cổ yếm, hạt cườm.

Dừa xiêm, mướp hương
Nhuộm ngời màu trắng
Sen hồng, mai trắng
Lóng lánh giọt sương.

Tiếng chim rộn rã
Vườn ươm yêu thương.

Lê An
(Tiếng Việt 1, Tập 1, Bộ Chân trời sáng tạo, trang178)

 Mùa hoa

 Dưới nắng ban mai
 Ngàn hoa khoe sắc
 Oải hương tím ngát
 Nhụy hoa tỏa hương.

Huệ trắng khiêm nhường
Chò nâu xoay múa
Phượng hồng rực lửa
Cúc khoác áo vàng.

Tim tím hoa xoan
 Nhẹ nhàng thanh thoát
 Hoàng yến vui hát
 Mùa hoa đến rồi.

Phạm Châu Lê
(Tiếng Việt 1, Tập 2, Bộ Chân trời sáng tạo,trang 14)

    Tình trạng “gọt chân cho vừa giày”, nặn ép ngữ liệu cho đúng ý đồ của những người xây dựng chương trình, của đội ngũ biên soạn sách dễ dẫn đến phản ứng trái chiều của giáo viên, phụ huynh, học sinh, gây tâm lý hoang mang cho cộng đồng. Cưỡng ép câu chữ để phục vụ ý tưởng, tham vọng dạy học hình thành, phát triển năng lực tiếng Việt, văn học cho học sinh, đâu biết rằng trẻ em không yêu thích, không nhớ, không thuộc thơ văn, thì những kiến thức, bài học giáo dục cũng tuột nhanh không vạch nét. Hai bài thơ dưới đây nằm trong khá nhiều ngữ liệu như thế.

    Chim yểng (có nơi gọi là chim nhồng) là loài chim có thể bắt chước tiếng người, thường sống từng đôi (hoặc đàn nhỏ, từ 4 đến 10 cá thể) ở đồi núi cao với nhiều cây cổ thụ. Yểng được mệnh danh là ca sĩ của ngàn già bởi tiếng hót rất đặc biệt: to, vang, lúc lảnh lót, lúc bổng trầm, tha thiết. Điều này cũng đã được nói đến trong bài Cuộc thi tài rừng xanh (Tiếng Việt 1, Tập 2, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 114). Có lý nào chim yểng lại tụ quần thành bầy ở “vườn ươm” với cái giọng “ríu rít” như kiểu chào mào, chim sẻ? Phải chăng vì mục đích dạy vần “yêng”, dạy nguyên âm đôi “yê” mà người làm sách cưỡng ép tự nhiên đến vậy? Còn chò nâu là cây gỗ lớn, chiều cao khoảng 30 đến 40m. Hoa chò nâu nở rộ vào tháng 4, người ta chỉ nhìn thấy khi chúng lìa cành bay xuống gần mặt đất. Thật khó mà cùng “khoe sắc” với những loài hoa vừa thấp bé như oải hương, huệ trắng, lại không cùng thời điểm ra hoa như hoa xoan (tháng 3) và hoa phượng (tháng 6)… Với những ngữ liệu này, người học, bạn đọc sẽ hiểu biết lệch lạc về hoa lá, chim muôn, về những tỉnh thành phương Nam có loài chò nâu rất đặc trưng. Nguyên tắc dạy học tích hợp khá mới mẻ, hiện đại của chương trình Ngữ văn mới, vì thế, cũng khó mà đảm bảo.

    Đôi khi, do hiểu chưa thấu đạt về đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ, áp đặt tính nhất thời của đời sống lên văn học, người làm sách e dè, dị ứng với những văn bản phù hợp. Bài Cả nhà đi học của Cao Xuân Sơn (được đưa vào sách Tiếng Việt 3, Tập 2,NXB Giáo dục Việt Nam, trang138 - chương trình 2006) là một minh chứng:

    “Đưa con đến lớp mỗi ngày
    Như con, mẹ cũng “thưa thầy”, “chào cô”.
    Chiều qua bố đón, tình cờ
    Con nghe bố cũng “chào cô”, “thưa thầy”…
    Cả nhà đi học, vui thay!
    Hèn chi điếm xấu buồn lây cả nhà
    Hèn chi mười điểm hôm qua
    Nhà mình như thể được… ba điểm mười.”

    “Điểm mười” ở đây đâu nhất thiết phải theo nghĩa đen là “10 điểm” mà ngại ngần vì bài thơ không phù hợp với chủ trương không đánh giá học sinh các lớp đầu cấp tiểu học bằng điểm số. Nếu xem đó là kết quả học tập, rèn luyện tiến bộ hằng ngày của trẻ, ta sẽ có một văn bản, ngoài tính giáo dục, sư phạm còn có một vai trò rất lớn, rất tích cực: kết nối thế hệ trên tinh thần xã hội cùng học tập, cùng chung sức kiến tạo thế hệ tương lai của đất nước.

    3. Thiếu nhất quán hay là hậu quả của sự ăn xổi ở thì

    Ngữ liệu dạy học trong sách giáo khoa Tiếng Việt, Ngữ văn hiện nay đa phần là những văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi) có chất lượng của Việt Nam và thế giới. Ngoài các tiêu chí sư phạm, khoa học, do đặc điểm tư duy, nhận thức của học sinh từng cấp học, từng khối lớp, đặc trưng của các phân môn, ngữ liệu này đã được đội ngũ biên soạn điều chỉnh, gia giảm (dung lượng, câu chữ) cho phù hợp. Ngoài ưu điểm sát hợp với đối tượng người học, việc sửa đổi, biên tập của những người làm sách cũng không tránh khỏi những bất cập, hạn chế đáng tiếc dẫn đến tình trạng dở khóc dở cười cho tác giả có tác phẩm được tuyển chọn cũng như giáo viên và học sinh.

    Việc tuyển chọn, chỉnh biên sách giáo khoa là thẩm quyền của đội ngũ viết sách. Nhưng cắt xén, sửa đổi, ngoài những yêu cầu của về tính khoa học, giáo dục, sư phạm của bộ sách, cần phải giữ lại hồn cốt của tác phẩm, ý đồ của nhà văn. Tuy nhiên, không ít bài thơ, bài văn được đưa vào sách giáo khoa hiện nay đã thiếu sự cẩn trọng cần thiết: mạch thơ, mạch văn bị cắt cơ học dẫn đến đứt đoạn, khó hiểu; đôi lúc kết cấu tác phẩm cũng bị đảo lộn làm sai lệch ý đồ của người viết; giá trị nội dung, nghệ thuật của nguyên bản theo đó cũng giảm sút rất nhiều. Thiết nghĩ, bên cạnh kiến thức về giáo dục cùng kỹ năng sư phạm, năng lực tiếp nhận văn chương, độ tinh nhạy trong phẩm bình văn học cũng tối cần thiết với những người “làm dâu trăm họ” này.

Mùa lúa chín

Vây quanh làng
Một biển vàng
Như tơ kén...
Hương lúa chín
Thoang thoảng bay
Làm say
Đàn ri đá.
Lúa biết đi
Chuyện rầm rì
Rung rinh sóng
Làm xáo động
Cả rặng cây
Làm lung lay
Hàng cột điện...

Bông lúa quyện
Trĩu bàn tay
Như đựng đầy
Mưa, gió, nắng.
Như đeo nặng
Giọt mồ hôi
Của bao người
Nuôi lớn lúa...

Em đi giữa
Biển vàng
Nghe mênh mang
Đồng lúa hát...

Nguyễn Khoa Đăng
(Tiếng Việt 2, Tập 2, Bộ Cánh Diều,
NXB Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, trang 30)

Mùa lúa chín

Vây quanh làng
Một biển vàng
Như tơ kén...
Hương lúa chín
Thoang thoảng bay
Làm say say
Đàn ri đá.
Lúa biết đi
Chuyện rầm rì
Rung rinh sóng
Làm xáo động
Cả rặng cây
Làm lung lay
Hàng cột điện...

Bông lúa quyện
Trĩu bàn tay
Như đựng đầy
Mưa, gió, nắng.
Như đeo nặng
Giọt mồ hôi
Của bao người
Nuôi lớn lúa...

Em đi giữa
Biển vàng
Nghe mênh mang
Đồng lúa hát...

Nguyễn Khoa Đăng
(Tiếng Việt 2, Tập 2, Bộ Chân trời sáng tạo,
NXB Giáo dục Việt Nam,
trang 66-67)

 

       Khi trang sách mở ra

      Khi trang sách mở ra
      Khoảng trời xa xích lại.
      Bắt đầu là cỏ dại
      Thứ đến là cánh chim
     Sau nữa là trẻ con
     Cuối cùng là người lớn.

     Trong trang sách có biển
     Em thấy những cánh buồm
    Trong trang sách có rừng
     Với bao nhiêu là gió.

     Trang sách còn có lửa
     Mà giấy chẳng cháy đâu
     Trang sách có ao sâu
     Mà giấy không hề ướt.

     Trang sách không nói được
     Sao em nghe điều gì
     Dạt dào như sóng vỗ
     Một chân trời đang đi.

(Nguyễn Nhật Ánh)
(Tiếng Việt 2, Tập 1, Bộ Kết nối tri thức
với cuộc sống, NXB Giáo dục Việt Nam,
trang 66-67)

     Khi trang sách mở ra

     Khi trang sách mở ra
     Chân trời xa xích lại.
     Bắt đầu là cỏ dại
     Thứ đến là cánh chim
     Sau nữa là trẻ con
     Cuối cùng là người lớn.

     Trong trang sách có biển
     Em thấy những cánh buồm
     Trong trang sách có rừng
     Với bao nhiêu là gió.

     Trang sách còn có lửa
     Mà giấy chẳng cháy đâu
     Trang sách có ao sâu
     Mà giấy không hề ướt.

     Trang sách không nói được
     Sao em nghe điều gì
     Dạt dào như sóng vỗ
     Một chân trời đang đi…

Nguyễn Nhật Ánh
(Tiếng Việt 2, Tập 1, Bộ Chân trời sáng tạo,
NXB Giáo dục Việt Nam,
trang 122-123)

    Đọc kỹ các bộ sách, ta sẽ dễ thấy một số ngữ liệu không có sự thống nhất. Cũng là những dòng thơ, đoạn văn trong cùng một tác phẩm, một tác giả nhưng không hiểu sao vẫn có tình trạng “dị bản” xảy ra. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động dạy học, tiếp nhận văn chương của cả thầy và trò. Chẳng hạn hai bài thơ sau đây:

    Xin được bỏ qua mấy chỗ thiếu thống nhất trong hình thức của hai văn bản Khi trang sách mở ra (có/ không có dấu ba chấm cuối bài thơ, tên tác giả đặt trong/ ngoài dấu ngoặc đơn), chúng ta hãy dừng lại ở dòng thơ thứ hai của cả hai bài thơ. Câu hỏi đặt ra là: “Khoảng trời” hay “Chân trời”? Đâu là dòng thơ đúng? Dựa trên hình thức văn bản (biện pháp điệp: chân trời), ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật (bộ phận gắn với hoạt động di chuyển/ một không gian tiếp giáp giữa bầu trời và mặt đất), thông điệp giáo dục (việc đọc sách tạo ra sự thay đổi tích cực, đem lại niềm vui, sự hiểu biết cho trẻ thơ)… rõ ràng “chân trời” là phù hợp hơn cả.

    Với bài thơ của Nguyễn Khoa Đăng, nghệ thuật tăng tiến (tăng cấp) thể hiện rất rõ: những động từ mạnh gắn liền với các sự vật tương hợp với sự gia tăng cường độ của hương thơm, tiếng chuyện trò, hát ca của cánh đồng lúa chín: đàn ri đá thì “say say”; hàng cây thì “xáo động”; hàng cột điện thì lung lay… Cùng với đó là sự lớn dần trong tình yêu của trẻ thơ đối với quê hương, làng xóm, lòng biết ơn của các em dành cho những người một nắng hai sương để đem lại sự ấm no, đủ đầy cho xã hội.

    Tương tự như thế là văn bản Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, mỗi sách Ngữ văn 10 lại viết một kiểu5. Lạ là cả hai văn bản đều cùng một khối lớp, cùng một nhà xuất bản. Gà cùng một mẹ rất là khác “gen”. Cách biên soạn như thế sẽ “sửa lưng” người dạy, gây hoang mang cho học sinh. Trăm hoa đua nở, không cẩn trọng khéo lại làm “đơ não”. Lâu nay ta đã ca thán về sự quá tải trong nội dung chương trình, giờ thêm cái mê hồn trận ngữ liệu này, thầy và trò dễ “tẩu hoả nhập ma” lắm lắm!

    Với những văn bản bất nhất này, nếu chịu khó đối sánh các nguồn khả tín, ta sẽ có cơ sở để đưa ra phương án tối ưu. Ví như bài thơ Mùa lúa chín, hai cuốn sách ra đời cách nhau hơn hai mươi năm là Những bài thơ em yêu (2001) và 65 bài thơ hay dành cho thiếu nhi (2022) của hai nhà xuất bản uy tín là Giáo dục và Kim Đồng6, đều có chung kết quả “say say” cả. Với thơ, văn của các tác giả đang hiện diện, ta sẽ có một “kênh” quan trọng, tin cậy trong lựa chọn, thẩm định ngữ liệu. Đáng buồn là sự kết nối giữa đội ngũ biên soạn với nhà văn để có một văn bản hoàn thiện xem ra cũng khá lỏng lẻo. Một số tác giả chỉ biết tác phẩm của mình đã được tuyển vào sách giáo khoa sau… giáo viên và học sinh. Chẳng những không được hỏi ý kiến để đảm bảo tính pháp lý về mặt bản quyền, họ cũng bị tước mất quyền năng đối với đứa con tinh thần ấy. Vậy là nó đẹp hay xấu, hoàn thiện hay dị dạng là do đội ngũ chuyên gia soạn sách quyết định. Nhiều nhà văn kêu trời hổng thấu vì sáng tác của mình bị “phù phép” làm cho biến dạng mà chẳng có lời xin phép nào từ những người làm sách. Giá như có thái độ tôn trọng đúng mực với nhà văn, nhà thơ, có sự gắn kết mật thiết với tác giả trong quá trình làm sách, thiết nghĩ những hạt “sạn” như thế sẽ dễ được khắc phục, loại bỏ và gánh nặng “làm dâu” của những người biên soạn sách cũng vơi bớt phần nào.

    Xin được đơn cử một trường hợp “gia công” về ngữ liệu khá thành công của các tác giả sách giáo khoa trước đây:

    MẸ, MẸ ƠI CÔ BẢO
    NÓI ĐIỀU HAY
    Mẹ, mẹ ơi cô bảo:
    “Cháu ơi, chơi với bạn
    Cãi nhau là không vui
    Cái mồm nó xinh thế
    Chỉ nói điều hay thôi”


     CHIM
    Mẹ, mẹ ơi cô bảo:
    “Chim bay giữa trời
    Có khi phải đỗ
    Chim có cánh rồi
    Cần đôi chân nữa…”


    THUYỀN VÀ CÁ
    Mẹ, mẹ ơi cô bảo:
     “Thuyền đi trên nước
     Ta nói: thuyền trôi
     Cá đi trong nước
     Ta bảo: cá bơi…”
                          Phạm Hổ
                         (Nhiều tác giả (Đặng Hấn tuyển chọn), Thơ nhớ từ thơ, NXB Văn học, 2003, trang 63)

    Khi vào sách giáo khoa, trở thành:
    CÔ DẠY
    (Học thuộc lòng)
    Mẹ, mẹ ơi! Cô dạy:
    Phải giữ sạch đôi tay,
    Bàn tay mà giây bẩn,
     Sách, áo cũng bẩn ngay.
     Mẹ, mẹ ơi! Cô dạy:
    Cãi nhau là không vui
    Cái miệng nó xinh thế
    Chỉ nói điều hay thôi.
                      PHẠM HỔ
                     (Tiếng Việt 1, Tập 2, NXB Giáo dục, 2000, trang 93)

    “Dạy” gần gũi với học sinh hơn, gắn với hoạt động, trách nhiệm của thầy cô hơn là “bảo” vừa quyền uy, vừa không thể hiện rõ những ý nghĩa như “dạy”. Còn “mồm” là từ địa phương, phổ biến ở Miền Bắc, không mấy quen thuộc với trẻ em khu vực miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ. Chưa kể, đôi khi việc dùng từ này còn tạo sắc thái nghĩa tiêu cực (im mồm; mồm năm miệng mười; mồm loa mép dãi…). Cách hoán chuyển từ “miệng” sang “mồm”, “bảo” sang “dạy” là một sự tinh tế, có tầm của đội ngũ biên soạn, dĩ nhiên trong đó có sự hợp sức của chính tác giả Phạm Hổ.

    Gần đây, những người có nhiều gắn bó với văn học thiếu nhi, có tác phẩm đưa vào sách giáo khoa như Nguyễn Thúy Loan, Bảo Ngọc, Cao Xuân Sơn, Trần Quốc Toàn… khá tâm tư về thơ văn trong trường phổ thông. Thỉnh thoảng họ đưa những văn bản của những chương trình cũ, thậm chí trước 19757 lên Facebook. Tâm lý hoài cổ một phần cũng xuất phát từ sự bất như ý của hiện tại. Rõ ràng ngữ liệu trong sách Tiếng Việt, Ngữ văn hiện tại khiến không ít người rơi vào hoài vọng quá khứ: Bao giờ cho đến… ngày xưa.

    4. Văn bản đọc mở rộng - sai một li đi một dặm

    Một thay đổi theo hướng tích cực của chương trình Ngữ văn 2018 là bên cạnh hệ thống văn bản trong sách giáo khoa còn có các văn bản đọc mở rộng. Xây dựng, hình thành ngữ liệu dạy học này phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nhà trường, giáo viên, học sinh… Hiện nay, ở nhiều địa phương, giáo viên có cách tuyển chọn văn bản đọc mở rộng khá đơn giản, qua loa: nếu dạy bộ sách này thì lấy ngữ liệu ở những bộ sách khác và ngược lại. Rất nhanh và rất thụ động. Việc làm này không khỏi tạo ra sự “đồng phục” trong một nhà trường, tỉnh thành, cả nước. Tinh thần tự do, phóng khoáng, tôn trọng tối đa sự chủ động, cá tính thầy trò của chương trình 2018, vì cách làm đó, thực khó mà đảm bảo.

    Theo chúng tôi, để dạy học đọc mở rộng đạt được mục đích, hiệu quả như kỳ vọng, cần phải có những tiêu chí cụ thể, rõ ràng trong lựa chọn ngữ liệu: đáp ứng mục tiêu chương trình; phù hợp về chủ đề; đảm bảo số lượng; phù hợp về thể loại (thơ, truyện, bài văn miêu tả; văn bản nghệ thuật, văn bản nghị luận, văn bản thông tin); tính bao quát về vùng miền, quốc gia; sự kế thừa, tiếp nối thế hệ nhà văn…

    5. Thay lời kết

    Ngữ liệu trong sách giáo khoa là phương diện quan trọng để cụ thể hoá, hiện thực hoá nội dung chương trình. Đó cũng là yếu tính cho thấy cái tầm và cái tâm của đội ngũ biên soạn sách nói riêng, ngành Giáo dục nói chung. Hi vọng với những ưu điểm đã được thừa nhận trong thời gian qua, cùng với sự cởi mở, thiện chí, cầu toàn, những người liên quan trực tiếp đến chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt, Ngữ văn sẽ có sự chỉnh sửa, hoàn thiện để sớm có được những tài liệu tốt nhất, tích cực góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng dạy học tiếng mẹ đẻ và dạy học văn ở trường phổ thông. Đó cũng là cơ sở để giáo dục, phát triển toàn diện nhân cách học sinh, để việc dạy học ở trường phổ thông tích cực tham dự vào quá trình đổi mới, hiện đại hóa đất nước.

Bùi Thanh Truyền

Nguồn: Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 28.02.2024.

 

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ văn, ban hành theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 7.
3. Nguyễn Thế Kỷ (2023), Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) và sự phát triển của văn hóa, văn nghệ nước ta 80 năm qua, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 02.
4. Hương Ly, Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” mỗi sách viết một kiểu, hiểu sao cho đúng?, nguồn: https://vanvn.vn/tac-pham-binhngo-dai-cao-moi-sach-viet-mot-kieu-hieusao-cho-dung/, ngày truy cập: 12/4/2023.
5. Bùi Thanh Truyền (2018), Tuyển chọn và dạy học tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực, Kỷ yếu Hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên các môn khoa học xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Sài Gòn. 

Chú thích:
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ văn, ban hành theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018.
2 Các bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống; môn Tiếng Việt 1, 2, 3, 4; môn Ngữ văn 6, 7, 8, 10, 11 (sách học sinh).
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 7.
4 Nguyễn Thế Kỷ (2023), Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) và sự phát triển của văn hóa, văn nghệ nước ta 80 năm qua, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 02, tr. 13.
5 Hương Ly, Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” mỗi sách viết một kiểu, hiểu sao cho đúng?, nguồn: https://vanvn.vn/tac-pham-binh-ngo-dai-cao-moisach-viet-mot-kieu-hieu-sao-cho-dung/;Ngày truy cập: 12/4/2023.
6 Phạm Hổ, Nguyễn Nghiệp (tuyển chọn), Những bài thơ em yêu (tái bản lần thứ nhất), NXB Giáo dục, 2001. Nhiều tác giả (Cao Xuân Sơn tuyển chọn), 65 bài thơ hay dành cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 2022.
7 Xin xem bài thơ Tôi yêu (Trần Huiền Ân) trên Facebook của Nguyễn Thúy Loan, Biên tập viên NXB Kim Đồng.

PGS.TS. NGUYỄN CÔNG LÝ

(Khoa Văn học và Ngôn ngữ,

Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG TP. HCM)

   1. Nhờ bản lĩnh độc lập tự cường kết hợp truyền thống chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tư tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh hoạt của cư dân lúa nước phương Nam nên bất cứ một học thuyết nào từ nước ngoài một khi đã vào Việt Nam đều phải phục vụ cho cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục vụ những yêu cầu cuộc sống của dân tộc. Phật giáo khi vào Việt Nam cũng chịu sự chi phối của quy luật đó. Với tinh thần phá chấp triệt để và khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khoáng và dân chủ của mình, Phật giáo Thiền tông đã bắt gặp tinh thần bình đẳng, dân chủ, lòng nhân ái của người dân ở đây nên nó đã dễ dàng hòa hợp và bắt rễ nhanh chóng, đã ảnh hưởng sâu rộng trong đòi sống con người Việt Nam. Mặt khác, Phật giáo Thiền tông khi vào Việt Nam đã biết kết hợp với tín ngưỡng dân gian bản địa, dung hợp với các hệ tư tưởng khác, mà chủ yếu là Nho và Lão - Trang cùng Đạo giáo, kết hợp với các tông phái khác (Tịnh độ tông, Mật tông) nên Phật giáo Thiền tông Việt Nam thời Lý - Trần có những nét khác nếu so với Thiền học Ấn Độ, Thiền học Trung Quốc.

Khi làm việc, học tập tại Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) sẽ không được ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học, viên chức và người lao động khi họ chưa đồng ý. 

20231211 3

Sinh viên Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) từ nay muốn chụp ảnh, ghi hình, ghi âm trong lớp, trong trường phải có sự đồng ý của người khác - Ảnh: TRẦN HUỲNH

Bộ quy tắc ứng xử "Người Nhân văn"

Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) vừa ban hành bộ quy tắc ứng xử "Người Nhân văn" của nhà trường.

Bộ quy tắc này quy định các quy tắc ứng xử trong và ngoài trường, áp dụng đối với người học, viên chức và người lao động của trường.

Khi làm việc, học tập, tham gia các hoạt động tại trường và trong thời gian thực hiện nhiệm vụ, người học, viên chức và người lao động phải tuân thủ bộ quy tắc ứng xử này.

Bộ quy tắc này gồm 3 chương, trong đó chương 2 quy định các quy tắc ứng xử chung với nhiều điều khoản: trang phục, tác phong nơi làm việc, học tập; ứng xử trong quá trình làm việc, học tập tại trường; ứng xử trên không gian mạng, nơi công cộng, nơi cư trú; ứng xử của người học, của viên chức và người lao động.

Bộ quy tắc có nhiều nội dung rất cụ thể: tuân thủ các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, không giả mạo hoặc làm sai lệch dữ liệu, thông tin trong nghiên cứu khoa học, hoặc vi phạm đạo đức nghiên cứu.

Đấu tranh và phản ánh kịp thời đối với những hành vi tiêu cực không phù hợp với chuẩn mực trong làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học.

Không uống rượu, bia, hoặc đồ uống có cồn trước, trong giờ làm việc và học tập, giờ nghỉ trưa của các ngày làm việc (trừ trường hợp theo nhiệm vụ)…

Băn khoăn quy định không ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học

Ngay sau khi nhà trường công bố bộ quy tắc ứng xử này, nhiều ý kiến của người học, cán bộ, giảng viên nhà trường ủng hộ và cho rằng việc nhà trường ban hành một bộ quy tắc ứng xử với nhiều quy định chi tiết giúp người học, người lao động của trường hiểu rõ hơn để thực hiện đúng. 

Nhiều người nói bộ quy tắc ứng xử này góp phần xây dựng văn hóa công sở, văn hóa học đường; đảm bảo môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện; đảm bảo sự liêm chính, chuyên nghiệp, phù hợp với trách nhiệm, nghĩa vụ của người học, viên chức và người lao động.

Góp phần ngăn ngừa, xử lý kịp thời, hiệu quả các hành vi ứng xử tiêu cực, thiếu tính giáo dục trong nhà trường.

Tuy nhiên, cũng có nhiều người băn khoăn và có ý kiến trái chiều với quy định nêu trong bộ quy tắc này: "Không ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học, viên chức và người lao động khi chưa được sự đồng ý của người học, viên chức và người lao động".

Đặc biệt, các sinh viên báo chí, truyền thông của trường cho rằng quy định trên sẽ gây khó cho sinh viên.

"Tôi hoàn toàn ủng hộ việc nhà trường ban hành một bộ quy tắc ứng xử như vậy. Tuy nhiên, liên quan tới quy định không ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học, viên chức và người lao động khi chưa được sự đồng ý của họ, tôi thấy chưa phù hợp và hơi khắt khe", H. - sinh viên báo chí - nhận định.

Cũng theo sinh viên này, đối với sinh viên, hiện nay việc sử dụng điện thoại thông minh là rất phổ biến. Việc ghi âm, chụp ảnh trong lớp học cũng rất thoải mái. Sinh viên đều là người trưởng thành, chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Nếu ghi âm, chụp ảnh rồi sử dụng với mục đích xấu thì bị xử lý.

"Đặc biệt, với sinh viên báo chí, truyền thông và thậm chí những bạn học ngành khác vẫn thích chụp ảnh, quay phim trong lớp học, trong khuôn viên trường để thực hành, sáng tạo, thậm chí tác nghiệp để cộng tác với các cơ quan báo chí.

Nếu mỗi lần chụp ảnh, ghi hình, ghi âm đều phải xin phép thì rất phức tạp. Đó là chưa kể quy định này có thể gây ra một số tình huống hiểu lầm, căng thẳng không cần thiết khi bạn nào muốn ghi âm, chụp ảnh, ghi hình trong trường mà bị cản trở do lỡ chưa xin phép", một sinh viên truyền thông nói.

Trần Huỳnh
Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 09.12.2023.

Thông tin truy cập

60981429
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
12727
11034
60981429

Thành viên trực tuyến

Đang có 480 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website