Mục tiêu bao trùm trước mắt và lâu dài của chúng ta là phấn đấu bằng mọi cách nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu, giảng dạy và học tập ở mọi lĩnh vực, mọi chuyên ngành ngữ văn mà sự nghiệp phát triển giáo dục đại học đang đòi hỏi một cách cấp thiết. Với mục tiêu này, trong nhiều năm qua, không ít đơn vị trong ngành ngữ văn thuộc nhiều trường đại học đã cố gắng bứt phá, tìm tòi, mở hội thảo khoa học, đưa lại những kết quả đáng ghi nhận.

I. Về mặt triết học, thông thường khi nói đến “Tâm” và “Trí” người ta nghĩ rằng đây là hai phạm trù đối lập nhau.

 

Trí là lý trí, trí tuệ. Nói đến trí là nói đến sự rạch ròi, khúc triết với tư duy logic, là nhận thức lý tính, mang tính chất nghiêm khắc, khô khan.

 

Tâm là tình cảm, tâm linh. Nói đến tâm là nói đến sự mềm mại, uyển chuyển, là tư duy tình cảm, nhận thức cảm tính. Nói cách khác, đó là sự trực cảm tâm linh.

Từ buổi giao lưu về đề tài “Ước vọng cho học đường và câu chuyện học văn” , tôi nhận được nhiều ý kiến phản hồi rất thú vị, trong đó có ba ý kiến đáng suy nghĩ nhất.

Sau bài tường thuật “Tại sao môn văn dưới góc nhìn xã hội lại bị giảm sút uy tín?” của Hà Ánh trên báo Thanh Niên, độc giả Vietroad nhận định một cách nghiêm khắc: “Môn văn là môn bắt buộc ở phổ thông, số tiết học tương đương với môn toán, vậy mà ra trường rất nhiều trường hợp viết sai chính tả, thậm chí cả người làm trong lĩnh vực văn hóa. Điều này khó có thể chấp nhận. Hãy thay đổi cách dạy. Hãy dạy tiếng Việt thay cho dạy văn. Thay vì bắt học sinh ngồi bình luận, miêu tả, cảm nhận tác phẩm văn học, thì nên ngồi rèn từ ngữ, ngữ pháp cho thành thạo. Tìm hiểu Truyện Kiều làm gì khi mà bản thân viết một câu không ra hồn”.

        Quả thật gần đây có nhiều ý kiến phàn nàn về tình trạng dạy văn quá tải hiện nay, từ đó đề nghị không nên sa vào chương trình văn học nặng nề mà chỉ nên tập trung dạy tiếng Việt thật tốt để học sinh ra trường nói và viết đúng ngữ pháp. Thật đáng buồn khi một số học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông rồi mà vẫn không viết chuẩn một cái đơn xin việc. Quả là nghịch lý khi chưa bao giờ sách giáo khoa cung cấp nhiều kiến thức ngôn ngữ học hiện đại, sâu sắc như bây giờ nhưng cũng chưa bao giờ học sinh viết sai chính tả và ngữ pháp nhiều như bây giờ. Chúng tôi thật khổ tâm khi chấm bài tuyển sinh ngành văn, phải chấp nhận những bài thi có ý tưởng tốt nhưng diễn đạt rối rắm, mơ hồ. Lẽ ra nhà trường phổ thông phải giải quyết yêu cầu về kỹ năng viết lách, trình bày cho học sinh trước khi họ bước chân vào đại học. Theo thông tin của GS Trần Hữu Dũng, một nghiên cứu gần đây ở Mỹ cho biết yếu tố quan trọng hàng đầu dẫn đến thành công trong bất cứ ngành nghề nào là khả năng viết báo cáo, phát biểu, thuyết trình cho rõ ràng, mạch lạc – điều có thể trang bị từ việc học ngôn ngữ và văn nghị luận – chứ không phải kiến thức chuyên môn về toán học, hóa học hay địa chất.

        Hồi tôi học cấp hai, thầy giáo khuyên nên mua một cuốn từ điển tiếng Việt và cuốn sách giúp ích nhiều cho tôi là Việt Nam tân từ điển minh họa của Thanh Nghị. Ở tiểu học, thầy giáo cũng chỉ bày một lần quy luật viết chính tả các từ láy theo câu ghi nhớ “Huyền Ngã Nặng – Sắc Không Hỏi” là mình có thể áp dụng mà không sợ viết sai, trừ một số ít trường hợp ngoại lệ. Hiện nay, học sinh sinh viên sẵn sàng mua từ điển tiếng Anh hơn là từ điển tiếng Việt, hình như họ cho rằng người bản ngữ thì không lo viết sai tiếng Việt, chỉ lo sai tiếng Anh. Nhưng ở thời đại công nghệ số, dùng tự điển online cũng rất tiện dụng. Khi soạn thảo văn bản, người học có thể cài phần mềm sửa lỗi tiếng Việt để kịp thời chỉnh sửa. Điều quan trọng là chúng ta có tra cứu cẩn trọng như một thói quen thường xuyên hay không.

20220125

        Tuy nhiên, ý kiến cho rằng chỉ cần coi trọng dạy tiếng Việt mà không đặt nặng việc dạy văn học cũng khó thuyết phục vì văn học là nghệ thuật ngôn từ, giữa học văn và học tiếng có mối quan hệ hỗ tương không thể tách rời. Người học sinh giỏi tiếng Việt sẽ am hiểu sâu sắc tác phẩm văn học, ngược lại người cảm thụ văn chương tinh tế sẽ viết tiếng Việt hay. Hơn nữa, có tư duy và quan niệm sáng rõ thì mới diễn đạt được mạch lạc, khúc chiết.

        Phản hồi về bài tường thuật “Dạy văn ở phổ thông chủ yếu là dạy người” của Trần Mặc trên báo Tuổi Trẻ, độc giả Van Do phản biện thẳng thắn: “Dạy người là khái niệm mơ hồ, chưa có định nghĩa. Tạm hiểu là dạy nhân cách. Môn nào cũng góp phần dạy người, nhưng môn văn có ưu thế. Dẫu như vậy thì dạy văn vẫn là dạy “văn” cũng như dạy toán phải là dạy nội dung toán học”.

        Ý kiến trên đây giúp tôi suy nghĩ kỹ hơn về đặc trưng của môn văn ở trường phổ thông để phân biệt với các môn học khác. Quả thật không phải chỉ môn văn mới góp phần đào tạo một con người toàn diện. Người thầy giáo dạy khoa học tự nhiên cũng góp phần dạy cho con người hiểu biết về thế giới, có kiến thức và tầm nhìn sâu rộng. Người thầy giáo dạy toán, bằng cung cách và phong thái dạy học, bằng việc đề cao sự chính xác, cũng dạy cho học trò có tư duy logic và nhân cách thẳng thắn, trung thực.

        Tuy nhiên, môn văn (ở trường phổ thông) “có ưu thế” vì mục đích cuối cùng không phải là dạy người học hiểu biết kiến thức văn học, để thuộc làu lịch sử văn học hay các mệnh đề lý luận như thuộc các định luật vật lý hay định lý toán học. Môn văn ở trường phổ thông gánh sứ mạng bồi dưỡng cho học sinh tình thương yêu, lòng trắc ẩn, sự ăn năn, niềm rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên và con người, sự nhạy cảm với nỗi cô đơn cùng với lòng khát khao được giao cảm và hòa hợp. Điều đó không phải là nhiệm vụ “chủ yếu” của các môn học khác. Các môn toán học, vật lý, hóa học, sinh học dạy ta kiến thức nền tảng để ta áp dụng khi học làm thợ máy, kỹ sư, bác sĩ, dược sĩ… Còn môn văn học “chủ yếu” không chuẩn bị để ta làm văn sĩ. Dạy học trò kiến thức về điện để họ có thể giúp gia đình mắc cái bóng đèn; còn dạy học trò cách miêu tả con mèo hay cây thông không phải để họ viết được truyện ngắn hay tùy bút về các đề tài ấy, mà để họ luyện óc quan sát và trau dồi tình yêu với loài vật cũng như ý thức bảo vệ môi trường sinh thái. Người ta không phê phán cách giải những bài toán mẫu mà phê phán cách dạy văn mẫu, vì văn mẫu góp phần thủ tiêu việc “dạy người” như là những cá nhân độc đáo, có cảm nhận và suy nghĩ riêng về cuộc đời. Cũng chính từ đây mới thấy công nghệ giáo dục có thể thành công trong việc dạy các môn tự nhiên, cả các môn khoa học xã hội như lịch sử, địa lý nhưng chắc không có “ưu thế” trong việc dạy văn chương, nghệ thuật.

        Nhưng nói như vậy phải chăng là môn văn (ở trường phổ thông) đứng ngoài, thậm chí dửng dưng với sự tiến bộ của công nghệ số và chúng ta vẫn dậm chân tại chỗ hay quay lại thời của những thầy đồ dạy văn trước đây.

        Không. Công nghệ số giúp cho việc học văn rất nhiều thuận lợi nếu ta biết khai thác thế mạnh của nó. Nhờ Internet, chưa bao giờ học sinh có thể tham khảo nhiều tài liệu văn học phong phú như hiện nay. Google có thể trả lời những thắc mắc về kiến thức văn học một cách nhanh chóng. Nếu phòng học được trang bị hiện đại, bằng những thao tác chính xác, trong khi dạy trích đoạn tiểu thuyết Những người khốn khổ của V. Hugo, giáo viên có thể dẫn đường link chiếu lên màn ảnh cho học sinh xem một đoạn phim dựng từ tác phẩm ấy để minh họa cho bài học. Trong khi dạy trích đoạn Truyện Kiều của Nguyễn Du, giáo viên có thể vào mạng YouTube mở cho học sinh nghe một bài Kiều ca của Phạm Duy để tăng thêm cảm xúc về bài học. Khó khăn hiện nay là do những quy định quá chặt chẽ về giờ giấc, quy trình giảng dạy, khiến người giáo viên bó tay, không được phép “sáng tạo” thêm được gì ngoài sách giáo khoa và giáo án đã được phê duyệt.

         Thời công nghệ số tạo điều kiện cho người học tiếp cận với kho tàng văn học nghệ thuật phong phú từ cổ điển đến hiện đại và hậu hiện đại. Trong bài viết Cho tôi lại nhà trường trên trang vanvn.vn, nhà giáo Lê Thị Thanh Vy góp ý rất xác đáng: “Với thời chiến hay sau đó với thế hệ 7x, 8x, sách vở rất thiếu thốn nên sách giáo khoa còn là một nguồn không gian tinh thần quan trọng bậc nhất, và những câu chuyện trong sách giáo khoa đóng những vai trò chính yếu trong hành trình “khai tâm” cho tuổi trẻ. Nhưng ngày nay, nếu giới trẻ được bao vây trong rất nhiều “câu chuyện”: phim ảnh đủ mọi nguồn và vô cùng dễ tiếp cận, truyện tranh, Facebook, TikTok, thậm chí các video tóm tắt phim nhan nhản… – thì nên tiếp cận những câu chuyện trong sách giáo khoa như thế nào để những tác phẩm này thực hiện sứ mạng khai tâm, chữa lành của mình”. Từ đây, một vấn đề đặt ra là chọn văn bản nào giảng dạy trong nhà trường cho phù hợp với thời đại và tâm lý lứa tuổi, để người học vừa không cắt đứt với quá khứ, vừa không xa lạ với hiện tại và tương lai. Đâu là những giá trị bền vững đã qua thử thách cần trao truyền trong sách giáo khoa để kết nối nhiều thế hệ mà không phải thay sách liên tục như hiện nay. Sách giáo khoa lưu giữ truyền thống ra sao và thu nhận tinh thần đương đại ở mức độ nào, đó là câu hỏi không đơn giản. Trong nhà trường trung học ở Pháp, chẳng hạn, có lẽ người ta chưa vội thay một tác phẩm kinh điển bằng tác phẩm của Annie Ernaux, người vừa được giải Nobel năm 2022.

         Hiện nay, trên thế giới có ba quan điểm lý giải ảnh hưởng của công nghệ số đến cuộc sống con người: (1) Thuyết tất định luận công nghệ (Technological determinism) cho rằng công nghệ chắc chắn sẽ dẫn đến một thế giới lý tưởng (utopia) hoặc là một thảm họa (dystopia); (2) Thuyết kiến tạo xã hội đối với công nghệ (Social construction of technology) khẳng định con người làm chủ công nghệ vì con người tạo ra và uốn nắn công nghệ theo ý mình; (3) Thuyết định hình xã hội của công nghệ (Social shaping of technology) chứng minh con người và công nghệ liên tục tương tác và định hình lẫn nhau. Quan điểm thứ ba này đang được ủng hộ và chấp nhận rộng rãi nhất.

         Văn học là con đường giao tiếp và hiệp thông giữa người và người. Công nghệ số giúp cho sự kết nối và tương tác giữa văn học và cuộc đời thêm sâu sắc. Nhưng đôi khi sự giao lưu trong thế giới ảo lại khiến con người trở nên hờ hững với những giao tiếp trong đời thật. Văn học là tiếng nói của cá nhân đến với cá nhân. Công nghệ số vừa cung cấp phương tiện thuận lợi để cá nhân hóa giáo dục, lại vừa có thể giản lược bản sắc của cá nhân qua những dữ liệu được số hóa. Vấn đề là con người và công nghệ luôn quan hệ hỗ tương với nhau chứ không phải công nghệ hoàn toàn điều khiển con người.

         Như vậy, ta không lo công nghệ số sẽ bào mòn cảm xúc của con người; ta chỉ nên lo con người không biết khai thác thế mạnh của công nghệ số để làm giàu cho kiến văn, suy tưởng và cảm xúc của chính mình.

Huỳnh Như Phương

Nguồn: Thế giới số, ngày 17.01.2023.

 

Bước sang thế kỷ XX, đối với Việt Nam không chỉ bước qua một cột mốc thời gian, đi thêm một quãng đường lịch sử mà còn là rẽ sang một con đường khác trong lịch sử phát triển. Nếu từ thế kỷ XIX trở về trước, Việt Nam và các nước láng giềng Đông Á sống thành một vùng văn hóa độc lập, xa lạ với thế giới, thì từ đây, nhiều mối liên hệ thắt chặt nó với thế giới, bắt nó hòa vào cuộc sống chung, đưa nó ra nhập quĩ đạo chung của sự vận động lịch sử cả thế giới. Sự thay đổi từ trung cổ sang cận hiện đại, ở đây đồng thời có nội dung thay đổi từ truyền thống văn hóa này sang truyền thống văn hóa khác, từ nên văn hóa có vùng gốc Hán đến truyền thống văn hóa Châu Âu, có nguồn gốc Hy lạp, với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản chiếm  vị trí chi phối cả văn hóa thế giới cận hiện đại. Trong lịch sử Việt Nam, sự thay đổi lần này là sự thay đổi rất sâu sắc, có lẽ cũng tương đương với bước chuyển từ nền văn hóa bản địa mà tiếp nhận Phật giáo, từ nền văn hóa Phật giáo mà tiếp nhận Nho giáo xảy ra từ trước. Mỗi lần thay đổi như vậy, không phải cái mới thay thế cái cũ, không phải hai cái cộng lại, mà thực chất thực chất là một quá trình dài nhào nặn cái cũ với cái mới để thành một sản phẩm khác, thay đổi cốt cách của cái đã thành truyền thống dân tộc. Điiều kiện xảy ra sự thay đổi là việc nước ta mất độc lập, trở thành thuộc địa của thực dân Pháp. Mong muốn xúc tiến sự thay đổi là thực dân Pháp trong tay có chính quyền, nhà trường, báo chí,… và nhằm mục đích rõ ràng là làm cho thuộc quốc đoạn tuyệt với văn hóa dân tộc, ly khai với ảnh hưởng của Trung Quốc, trở thành nô lệ, sùng bái văn hóa Phương tây. Thế nhưng thay đổi như vậy cũng là một tất yếu trong hoàn cảnh thế giới cận đại. Bên cạnh con đường Âu hóa theo thực dân, còn có con đường Âu hóa của các nhà Nho yêu nước. Trong phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục, chính các nhà Nho yêu nước cũng đã vận động cải cách văn hóa, chủ động giải quyết vấn đề tiếp nhận văn hóa Châu Âu để tự cường, giành độc lập và hiện đại hóa đất nước.

10 năm ngày mất Trịnh Công Sơn
Ngày Trịnh Công Sơn ra đi, khi chiếc xe tang rời con hẻm 47 (đường Phạm Ngọc Thạch, Quận 1, TP HCM), nhiều người đưa tiễn còn nấn ná thu nhặt những bông hoa trên những vòng hoa để lại bên đường. Cùng với độ lùi của thời gian, người ta càng nhận ra cái di sản mà người nhạc sĩ để lại lớn hơn rất nhiều so với những gì đã hình dung cũng như càng cảm thấy sự hiện diện tròn đầy của ông trong đời sống này.

Cuốn sách Nhớ và quên của Phạm Hồng Sơn và Đặng Anh Đào gợi nhớ đến Đường sáng trăng sao của Nguyệt Tú mà tôi đọc cách đây mấy năm. Hồi ký của Nguyệt Tú ghi lại đường đời và hoạt động cách mạng của tác giả – nguyên Giám đốc Nhà xuất bản Phụ Nữ – với người bạn đời là nguyên Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo. Còn Nhớ và quên là hồi ký song đôi của một đôi bạn “văn võ song hành”: Trung tướng, Giáo sư, nhà nghiên cứu lịch sử quân sự Phạm Hồng Sơn và nhà văn, Phó Giáo sư văn học Đặng Anh Đào. Họ thuộc vào một thế hệ đã chứng kiến một thời kỳ lịch sử đặc biệt của dân tộc và góp phần làm nên những kỳ tích không lặp lại của đất nước.

PGS-TS Đặng Anh Đào (1934 – 2023)

Nhớ và quên, Hồi ức và chân dung của Phạm Hồng Sơn và Đặng Anh Đào, NXB Phụ Nữ, tháng 01.2011.   

Phần thứ nhất của cuốn sách có tiêu đề “Nửa đời chiến trận” là hồi ký của Phạm Hồng Sơn, tên lúc nhỏ là Phạm Thành Chính – người cháu ruột của liệt sĩ Phạm Hồng Thái, viết về đoạn đường chiến binh từ khi người sinh viên Luật khoa tham gia phong trào yêu nước trước Cách mạng Tháng Tám, rồi sau đó xếp bút nghiên đi kháng chiến cho đến khi kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ.

Phần thứ hai có tiêu đề “Vầng trăng khuyết” do Đặng Anh Đào viết, bổ sung và nối tiếp “Nửa đời chiến trận”, từ khi người chiến binh hứa hôn với người con gái thứ tư của giáo sư Đặng Thai Mai. Từ đây, những câu chuyện chiến trường thời chống Mỹ được kể lại dưới góc nhìn của người vợ ở hậu phương.

Là nhà thi pháp học, nhà phê bình văn học và người viết văn xuôi nhuần nhị, Đặng Anh Đào như cố nén mình lại để cho các sự kiện và chứng liệu tự nó lên tiếng. Bà sắp xếp và khai thác những lá thư gửi về hậu phương, những trang sổ tay và nhật ký chiến trường của Phạm Hồng Sơn, rồi liên kết với những tư liệu lịch sử sưu tầm được trong sách báo, để tái hiện lại không khí ác liệt của cuộc kháng chiến và chân dung người anh hùng nơi tiền tuyến. Đồng thời, những trang viết của bà cũng cho chúng ta hình dung cuộc sống khó khăn và tâm tình của người hậu phương qua những lá thư gửi từ miền Bắc.

Những ghi chép từ chiến trường, do hoàn cảnh khắc nghiệt của nó, đôi khi sơ lược và chỉ thuần sự kiện, đã được bổ sung bằng sự phân tích của một nhà bình luận chuyên nghiệp. Có thể nói, Đặng Anh Đào đã thay chồng viết tiếp phần sau “Nửa đời chiến trận”, khi mà trí nhớ của Phạm Hồng Sơn không cho phép ông hoàn thành công việc của “người lính già đầu bạc, ngồi kể chuyện Nguyên Phong”. Những điều ông ghi chép, dù vắn tắt bằng ngôn ngữ tường thuật “trung tính”, nếu người đọc tinh ý, vẫn nhận ra giá trị của một chứng liệu trung thực. Chẳng hạn, những đoạn ông viết về Cách mạng văn hoá ở Trung Quốc, về cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân, mà bà trích dẫn.

20230115 3

PGS Đặng Anh Đào và GS Huỳnh Như Phương ở Paris, Pháp năm 1999

Hồi ký Đường sáng trăng sao của Nguyệt Tú có giọng văn nồng nàn, đầy chất trữ tình, bộc lộ ngay từ nhan đề cuốn sách. “Vầng trăng khuyết” của Đặng Anh Đào cũng là một hình tượng lãng mạn qua ngòi bút của một nhà văn mà phong cách tinh tế, đầy chất thơ đã từng thể hiện trong tác phẩm Tầm xuân. Nhưng ở đây, giọng văn của bà đạm hơn là nồng, hình như bà muốn “chỉnh sửa” mình cho nghiêm nghị một chút khi đứng cạnh ông tướng chăng. Tuy nhiên, đôi lúc bà cũng không kiềm chế được, đã để cảm xúc tuôn trào theo dòng câu chuyện, nhất là ở phần “Vĩ thanh”: “Giang sơn biến đổi. Số phận những người đồng đội, sau hai cuộc chiến đấu trường kỳ, ở thế kỷ 21 ra sao, một khi đã tản mát về bốn phương trời? Trong khoảng bấy nhiêu năm, âm vang của họ giống như những viên sỏi ném xuống mặt nước, lúc đầu lan toả thành những vòng tròn đậm và dày, sau càng thưa, càng mờ” (tr. 264).

Gần tuổi 90, trung tướng Phạm Hồng Sơn vẫn khoẻ mạnh, duy trí nhớ thì suy giảm nhiều. Giáo sư Đặng Anh Đào cố gắng hoàn thành cuốn sách này để kịp ghi giữ lại những điều mà vì tuổi tác, cả ông và bà rồi sẽ không còn nhớ nữa. Quả thật, trong cuộc sống, nhiều điều rồi sẽ bị lãng quên. Nhưng cũng có những năm tháng, những chân dung và kỷ niệm mà ta không nên quên lãng và cũng không thể nào quên được.

TP. HCM – 2011

Huỳnh Như Phương

Nguồn: vanvn.vn

Theo PGS.TS. Phan Mạnh Hùng, học văn ở bậc đại học là học khoa học về văn chương, tìm trong văn chương những ứng dụng cho nghề nghiệp thực tế trong đời sống.

Đại văn hào của nước Nga Xô Viết – Maxim Gorky từng có câu nói nổi tiếng “Văn học là nhân học”. Chỉ vỏn vẹn năm từ, nhưng câu nói trên đã thể hiện rõ đặc trưng bản chất của Văn học.

Nói đến chức năng của văn học là nói đến vai trò, tác dụng của loại hình này đối với đời sống xã hội, với con người. Đến với Văn học là đến với môn học về nghệ thuật, giúp làm phong phú tình cảm, tâm hồn con người; đồng thời giúp ta học hỏi được nhiều điều trong cuộc sống và cũng như một tấm gương để ta tự soi chiếu bản thân mình.

Văn học cũng là một ngành khoa học cơ bản. Thế nhưng trong cuộc sống hiện đại ngày nay, ngành học này đang có xu hướng bị “phớt lờ”. Thậm chí, nhiều người còn đánh giá chưa đúng vai trò của ngành học này trong cuộc sống.

Học Văn có phải chỉ để phân tích văn, thơ?

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Mạnh Hùng – Phó Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, ngành học này của trường cung cấp những kiến thức chuyên sâu về Văn học nói chung và Văn học Việt Nam nói riêng.

20240404 4Hoạt động của sinh viên khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: website nhà trường

Theo Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Mạnh Hùng: “Học ngành Văn học ở bậc đại học không chỉ để hiểu, phân tích được các tác phẩm văn thơ hay, mà còn giúp người học hiểu được quy luật hình thành, vận động của nền văn học, cách thức sáng tạo và tiếp nhận tác phẩm; cách đọc tác phẩm văn học từ góc độ phương pháp khoa học chuyên ngành để phát hiện ra những đặc trưng có tính quy luật của thể loại, trào lưu tư tưởng, thẩm mỹ, triết học.

Người học Văn được trang bị các khối kiến thức giáo dục đại cương (kiến thức lý luận chính trị, kiến thức khối ngành nhân văn), kiến thức cơ sở ngành và chuyên ngành (nhóm ngôn ngữ và Hán Nôm, nhóm lý luận và phê bình văn học, nhóm lịch sử văn học), kiến thức định hướng nghề nghiệp (hướng báo chí và xuất bản, hướng nhóm nghiên cứu và giảng dạy, hướng biên kịch điện ảnh – truyền hình)”.

Mục tiêu đào tạo của ngành Văn học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh là tạo ra những cử nhân có tri thức chuyên môn vững vàng và những phẩm chất nhân văn tốt đẹp; có kiến thức chuyên ngành vừa rộng vừa sâu, có kỹ năng làm việc tốt, thích ứng tốt với công việc liên quan đến văn hóa, văn học, ngôn ngữ, Hán Nôm, có ý thức phục vụ cộng đồng, hòa nhập quốc tế và ý thức học tập suốt đời.

Ở cơ sở giáo dục đại học này, sinh viên có thể chọn chương trình giáo dục chuyên ngành Văn học, Hán Nôm hoặc Biên kịch Điện ảnh – Truyền hình.

“Ra trường, nếu có năng khiếu và đam mê, người học có thể theo đuổi sáng tác và trở thành nhà thơ, nhà văn chuyên nghiệp.

Tuy nhiên, không phải ai học ra trường cũng trở thành nhà thơ, nhà văn, nhưng chắc chắn sẽ là người hiểu sâu về văn học, có khả năng viết và nói tốt” – thầy Hùng nhận định thêm.

Cũng có những quan điểm tương đồng, Tiến sĩ Thái Thị Hoài An – Trưởng Bộ môn Ngôn ngữ, khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên cho rằng: “Với mục tiêu đào tạo sâu rộng, có thể khẳng định việc học Văn không chỉ để hiểu, để phân tích các tác phẩm văn thơ. Bởi hiểu và phân tích các tác phẩm văn học chỉ là một trong số rất nhiều các kỹ năng mà người học được đào tạo trong quá trình học tập ngành học này”.

94f98515cb2b64753d3a.jpg

Tiến sĩ Thái Thị Hoài An – Trưởng Bộ môn Ngôn ngữ, khoa Sư phạm, Trường Đại học Tây Nguyên. Ảnh: NVCC

Theo đánh giá của cô An, sinh viên tốt nghiệp ngành Văn học có nhiều cơ hội việc làm. Trong đó, có thể kể đến công tác nghiên cứu tại các viện, trung tâm, cơ quan đoàn thể xã hội liên quan tới lĩnh vực báo chí, xuất bản; theo dõi và quản lí hoạt động văn hoá, Văn học, ngôn ngữ,…; trở thành chuyên viên của các phòng, sở, các ban ngành liên quan đến lĩnh vực ngôn ngữ và văn học. 

Bên cạnh đó sinh viên có thể bổ sung khối kiến thức nghiệp vụ sư phạm để làm giáo viên, giảng viên dạy Ngữ văn/Văn học tại các cơ sở giáo dục (cả phổ thông và đại học).

Đặc biệt, sinh viên ngành Văn học có nhiều cơ hội để tiếp tục học lên sau đại học các ngành thuộc văn học, ngôn ngữ, văn hóa và báo chí.

Là một cựu sinh viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đang lựa chọn học tiếp cao học, bạn Hạ Thị Mỹ Hạnh cho biết, mong muốn của bạn sau khi ra trường là được giảng dạy ngành Văn học.

Chính vì thế, Hạnh đã quyết định theo học chương trình đào tạo thạc sĩ tại Đại học Sư phạm Quốc gia Moskva (Nga) để chuẩn bị cho mình một nền tảng kiến thức vững vàng. Chuyên ngành bạn lựa chọn theo đuổi là nghệ thuật học.

“Mình lựa chọn hướng đi chính là nghệ thuật học, vì mình có niềm đam mê nghiên cứu điện ảnh. Các bộ phim luôn tạo cho mình nhiều cảm hứng khác nhau.

Bộ môn nghệ thuật học của khoa Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã để lại cho mình nhiều trải nghiệm thực sự đáng nhớ trong quãng đời sinh viên. Trong thời gian học đại học, mình đã tiến hành 2 đề tài nghiên cứu khoa học liên quan nghệ thuật học.

Bên cạnh đó, mình cũng được tiếp cận với các bộ môn khác, trong đó có Văn học Nga. Nhờ quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, mình dần có cảm tình với môn học và đất nước này, khiến mình lựa chọn Nga là điểm đến khi học nâng cao trình độ” – bạn Mỹ Hạnh chia sẻ thêm.

Quan điểm Văn học chỉ dành cho những người “bay bổng” là sai lầm

Hiện nay, một bộ phận học sinh không cảm thấy hứng thú khi học Văn, cho rằng đây chỉ là môn học để thi.

Cũng có một số ý kiến đánh giá không đúng về vai trò của Văn học trong cuộc sống, như cho rằng đây chỉ là một bộ môn phù hợp với những người có tâm hồn “bay bổng”, không thực tế,…

cc1dfea8-1fbb-4d76-b973-4848d45bc5a3.jpg

Bạn Hạ Thị Mỹ Hạnh - sinh viên Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. Ảnh: NVCC

Chia sẻ suy nghĩ của mình về vấn đề này, bạn Hạ Thị Mỹ Hạnh cho rằng: “Đây là tâm lí chung của khá nhiều người, đặc biệt là những người chưa thực sự hiểu rõ về Văn học. Tuy nhiên, đây lại là suy nghĩ hoàn toàn sai lệch về văn học.

Điều này phần lớn xuất phát từ tâm lí của người học, họ luôn cho rằng văn học là sự sao chép, là khuôn mẫu có sẵn và không thể thay đổi. Trên thực tế, một bài văn thường không có một kết quả chính xác như các môn khoa học tự nhiên khác.

Văn học đưa con người đến sự sáng tạo và khai phá khả năng tư duy của mỗi người. Chỉ có sự sáng tạo và tư duy độc lập mới có thể khám phá và đi vào thế giới của văn chương. Thông qua văn học chúng ta cũng có thể tìm được những điều từ chính thực tế cuộc sống, thậm chí tìm thấy bản thân chúng ta ngay trong những trang sách”.

Đưa ra quan điểm của mình về vấn đề này, Tiến sĩ Thái Thị Hoài An cho rằng, môn Văn khác biệt với các môn học khác ở chỗ, ngoài là một môn học, đây còn là một môn nghệ thuật.

Với tư cách là một môn nghệ thuật, Văn học có thể kiến tạo nên thế giới tinh thần phong phú cho con người thông qua sự tác động về mặt tình cảm. Bên cạnh đó, văn chương còn có thể tăng cường năng lực thẩm mỹ cho học sinh, giúp học sinh nhạy cảm hơn, tinh tế hơn trong cuộc sống.

Trên thực tế, văn chương không mang lại cơm ăn, áo mặc khi đói khát, không thể thay thế thuốc thang khi ốm đau bệnh tật. Nhưng văn chương có thể an ủi, chia sẻ và cảm thông cùng con người, nâng đỡ con người vượt qua những nghịch cảnh của cuộc sống, để sống, yêu cuộc đời và hướng tới tương lai.

Còn với tư cách là một môn học, văn chương ngoài việc cung cấp các tri thức về Văn học, còn cung cấp các tri thức về văn hóa, xã hội, con người, mở rộng sự hiểu biết của con người đối với thế giới, giúp học sinh mở rộng môi trường giao tiếp với một thế giới rộng lớn.

Vì vậy, đừng nghĩ rằng môn Văn chỉ dành cho những người bay bổng, thiếu thực tế, chỉ chuyên tầm chương trích cú hay mơ mộng hão huyền theo những câu chuyện phiêu lưu.

“Cũng như các môn học khác, môn Văn cũng có tính chất công cụ. Học Văn, người học sẽ được cung cấp công cụ tư duy, công cụ giao tiếp và hiệu quả nhất chính là ngôn ngữ… Chính vì những lẽ đó, môn Văn luôn là môn chính khó có thể thay thế trong hệ thống giáo dục phổ thông.

Nhiều học sinh, sinh viên khi học trong nhà trường chưa ý thức được vai trò của ngành học này đối với công việc về sau. Nhưng khi ra trường, khi tiếp xúc công việc thực tế, họ mới nhận ra được tầm trong quan trọng của việc học ngôn ngữ và thực hành ngôn ngữ như một công cụ để tư duy và giao tiếp” – Tiến sĩ Hoài An khẳng định thêm.

Còn theo thầy Hùng: “Trong thực tế, nhiều người vẫn lầm tưởng việc học văn ở bậc đại học giống bậc phổ thông. Tuy nhiên, mục tiêu dạy văn ở mỗi cấp bậc có khác”.

Nếu ở phổ thông, dạy văn thường chú trọng đến việc giáo dục thẩm mỹ, cách cảm thụ cái hay, cái đẹp trong những tác phẩm cụ thể, hướng đến tình yêu cái đẹp trong ngôn ngữ và cuộc sống; thì ở bậc đại học, ngoài những mục tiêu vốn có như bậc phổ thông, học văn là học khoa học về văn chương, tìm trong văn chương những ứng dụng cho nghề nghiệp thực tế trong đời sống. Do đặc thù của tính thẩm mỹ hình tượng, văn học đòi hỏi có sự tưởng tượng, liên tưởng cao.

“Nếu có sẵn năng khiếu thì việc học văn khá thuận lợi, còn chưa sẵn thì không phải là một rào cản. Bởi chúng ta có thể gây niềm hứng thú qua việc đọc và trải nghiệm cuộc sống, từ đó nâng dần khả năng cảm thụ và viết văn. Việc gặp được thầy cô khuyến khích, khơi nguồn cảm hứng cũng là rất quan trọng.

Vì thế, học văn không nên cốt để đi thi và ai cũng có thể học giỏi nếu có phương pháp và sự yêu thích” – Phó Giáo sư Phan Mạnh Hùng cho hay.

Cần thu hút nhiều hơn học sinh giỏi chọn học Văn

Trong những năm gần đây, sinh viên thường có xu thế chạy theo các nhóm ngành có nhiều cơ hội việc làm và khả năng tạo ra thu nhập trước mắt như kinh tế, quản lý,... Vì thế, những ngành khoa học cơ bản, trong đó có Văn học rơi vào tình trạng khó tuyển sinh.

image_6483441 (2).JPG

Phó Giáo sư, Tiến sĩ Phan Mạnh Hùng – Phó Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Ảnh: NVCC

Nhận định về vấn đề này, Phó Trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Việc tuyển sinh các ngành khoa học cơ bản nhìn chung khá khó khăn.

Lí do một phần do việc học tương đối khó, còn một phần do tính thực dụng ít hơn. Người học thường phải gắn kiến thức khoa học cơ bản với một ngành ứng dụng nào đó. Ví dụ, văn học và báo chí, văn học và biên kịch điện ảnh truyền hình, giảng dạy văn học”.

Tuy nhiên, theo thầy Hùng, việc tuyển sinh ngành Văn học của trường trong những năm qua tương đối ổn định, và điểm chuẩn ngành ở mức tương đối.

Để có cái nhìn khách quan, phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam đã có thống kê điểm chuẩn của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong 3 năm gần nhất (2021 – 2023).

Trong 3 năm này, trường xét tuyển ngành Văn học theo 3 tổ hợp C00, D01, D14.

z5307684459754_16d85125abebc1ba631ec7daef8e833d.jpg

Điểm chuẩn ngành Văn học của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong 3 năm từ 2021 – 2023.

Điểm chuẩn dao động từ 25.6 – 27 điểm (theo thang điểm 30). Trong đó, có điểm hệ số 2 môn chính và được tính theo công thức: (tổng điểm ba môn thi sau khi nhân đôi môn chính) x 3 ÷ 4, làm tròn đến 2 chữ số thập phân.

Năm 2023, điểm chuẩn khối C00 ngành Văn học của trường này là 27 điểm.

Được biết, trong thời gian tới, đơn vị này sẽ góp phần hình thành một ngành học mới là Nghệ thuật học, đáp ứng nhu cầu của sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước giai đoạn hội nhập.

“Vấn đề tuyển sinh đặt ra cho ngành này là cần thu hút nhiều hơn những học sinh giỏi từ các trường trung học phổ thông. Nhà trường đã thực hiện nhiều biện pháp trong đó có việc nâng cao chất lượng chuẩn đầu ra, tăng cơ hội nghề nghiệp cho người học, thực hiện tốt công tác tư vấn tuyển sinh là những phương thức để thu hút người học” – Phó Giáo sư Hùng nhận định thêm.

Ngoài ra, theo các thầy, cô giảng dạy ngành Văn học, để đáp ứng được yêu cầu khi học tập và có thể phát triển tốt trong công việc khi ra trường, sinh viên ngành Văn học trước hết cần phải có sự yêu thích, niềm đam mê và hiểu được bản chất của văn học. Khi đó, sinh viên sẽ tìm được hứng thú trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Bên cạnh đó, sinh viên cần tạo thói quen đọc sách, không chỉ đọc tác phẩm văn học mà nên đọc mở rộng sách chuyên ngành xã hội như: triết học, tâm lý học, lịch sử.... và cần trau dồi kỹ năng viết và nói.

Học tốt ngoại ngữ cũng là một điều cần lưu ý, giúp sinh viên tiếp cận được với nhiều tài liệu nước ngoài, trong đó có văn học thế giới. Từ đó, kiến thức văn học sẽ tốt hơn, thích ứng tốt trong nhiều công việc.

Kim Minh Châu

Nguồn: Giáo dục Việt Nam, ngày 03.4.2024.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Anh Đào, nhà nghiên cứu văn học, con gái cố Giáo sư Đặng Thai Mai - qua đời sáng 12/1, thọ 88 tuổi.

GS. TS Lê Huy Bắc - học trò của PGS. TS Đặng Anh Đào - cho biết bà qua đời vì bệnh tuổi già, tại bệnh viện Đa khoa Tâm Anh. Nhiều tháng nay, sức khỏe suy yếu, bà được gia đình đưa vào viện để điều trị. Trước đó, ngày 11/1, giáo sư cùng các đồng nghiệp, học trò tới thăm bà. Khi đó, tiến sĩ đã hôn mê nhưng mọi người vẫn trò chuyện, thăm hỏi giống như thời bà còn khỏe mạnh. Cuối đời, bà sống cùng con út ở Lý Nam Đế, Hà Nội. Tiến sĩ sống lạc quan, yêu thiên nhiên, cây cỏ.

Phó giáo sư, Tiến sĩ Đặng Anh Đào sinh thời. Ảnh: Lê Huy Bắc cung cấp

Phó giáo sư, tiến sĩ Đặng Anh Đào sinh năm 1934, nguyên là giảng viên khoa Ngữ văn của Đại học Sư phạm Hà Nội. Bà là nhà nghiên cứu, phê bình văn học, nhà văn, dịch giả được nhiều người biết đến, với các tác phẩm Tài năng và người thưởng thức, Tuyển tập truyện ngắn Pháp thế kỷ XIX, Truyện ngắn phương Tây, Balzac và cuộc săn tìm nhân vật chính diện trong Tấn trò đờiTầm xuân và những ký ức muộn...

Bà là người dẫn dắt nhiều học trò thành danh như giáo sư Lê Huy Bắc, tiến sĩ Trần Hinh, nhạc sĩ Trần Tiến, nhà thơ Châu La Việt...

Lê Huy Bắc nhớ năm 1991, từ Huế ra Hà Nội ôn thi cao học, một trong những người dạy ông lúc đó là cô giáo Đặng Anh Đào. Kể từ đó, mối duyên cô - trò kéo dài đến tận bây giờ. Mỗi lần đứng trước bà, ông lại như cậu học trò nhỏ từ quê ra phố thị.

Suốt hai năm cao học, ông chỉ được tiếp xúc với bà vài lần, mỗi lần không quá năm phút. Tuy nhiên, những gì ông viết, cô giáo đọc kỹ, nhận xét tỉ mỉ để học trò sửa chữa. Bà nghiêm khắc trong khoa học nhưng rất yêu thương học trò. Bà thẳng thắn, không thích nói nhiều và dị ứng với những người kệch cỡm, dốt nát nhưng thích tỏ vẻ.

"Với tôi, cô là người thầy duy nhất và vĩnh viễn mà không ai có thể thay thế cả về nhân cách, tri thức và đạo đức. Tôi vẫn luôn tin rằng nếu một ngày nào đó, vì một lý do nào đó, cả thế gian này đột nhiên xấu tất thảy, vẫn còn duy nhất một người tốt, thì đấy là cô. Tôi tự hào về điều đó, không có cô sẽ không có tôi của hôm nay", giáo sư Lê Huy Bắc nói.

Những năm cuối đời, dù tuổi cao, sức yếu, bà vẫn say mê làm việc, nghiên cứu. Đi lại khó khăn, bà nhận dịch, viết sách báo, dạy cao học và hướng dẫn nghiên cứu sinh tại nhà.

Bà Đặng Anh Đào là một trong bốn con gái của cố Giáo sư Đặng Thai Mai. Bà kết hôn với trung tướng Phạm Hồng Sơn - người từng trực tiếp chỉ huy nhiều chiến dịch trên các chiến trường từ Bắc vào Nam trong khoảng thời gian từ năm 1945 đến 1975.

Lễ viếng PGS. TS Đặng Anh Đào diễn ra vào 7h15 ngày 15/1 tại Nhà tang lễ Quốc gia, số 5, Trần Thánh Tông. Linh cữu bà an táng tại Công viên nghĩa trang Vĩnh Hằng.

Nguồn: https://vnexpress.net/pgs-ts-dang-anh-dao-qua-doi-4559350.html

20240401

Không ít người quan niệm, sách giáo khoa dạy học hình thành, phát triển năng lực ngôn ngữ, văn học cho học sinh tìm được ngữ liệu sát hợp, có giá trị thẩm mĩ, nhân văn là đã thành công một nửa. Đối với cấp tiểu học, trung học cơ sở, ngữ liệu trong sách Tiếng Việt, Ngữ văn càng thể hiện rõ điều đó. Ngoài những ưu điểm về chương trình, về cách cấu trúc hệ thống chủ điểm, bài học, về tính linh hoạt, sáng tạo của thầy và trò trong lựa chọn văn bản…1, ngữ liệu trong sách Tiếng Việt, Ngữ văn mới cũng có một vài hạn chế dễ nhận thấy. Thực trạng này không khỏi khiến dư luận quan ngại, gây cho giáo viên, học sinh, các cấp quản lý giáo dục nhiều bất lợi. Bài viết hướng vào những hạn chế của một số văn bản văn học trong các bộ sách giáo khoa hiện nay2 để góp thêm tiếng nói đối thoại trên tinh thần xây dựng tích cực.

    1. Thừa tính thời sự, thiếu tính thẩm mĩ, nhân văn

    Văn học là nhân tố quan trọng của văn hóa. Cách đây 80 năm, Đề cương về văn hóa Việt Nam3 đã chỉ ra ba phương diện quan trọng của văn hóa nước ta là: Dân tộc; Khoa học; Đại chúng. Đây là những phẩm chất không nhất thành bất biến mà luôn thường trực tính lịch sử - xã hội, tính năng sản, phù hợp với hoàn cảnh, thời đại. Hơn 3/4 thế kỷ, các nguyên tắc này vẫn còn ý nghĩa soi đường khi định vị các sản phẩm văn hóa, trong đó có văn học ở nhà trường phổ thông.

    Trong thời đại ngày nay, tính thời sự của văn học, nghệ thuật thường song hành với tính đại chúng. Đó là nhân tố làm cho các sản phẩm văn hóa tinh thần áp sát công chúng, phát huy tác dụng không thua kém kinh tế, chính trị. Tiêu chí gần gũi đối tượng người học cũng là một cơ sở quan trọng để những người xây dựng chương trình, biên soạn sách giáo khoa đặt ra trong tìm kiếm, chọn lựa văn bản. Điều này không sai; nhưng nếu quá chú trọng tính chất này mà xem nhẹ giá trị thẩm mĩ, nhân văn của ngữ liệu - nghệ thuật ngôn từ, bất cập là điều khó tránh.

    Quá trình triển khai các bộ sách môn Ngữ văn của Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đến nay (2023) đã vào chặng cuối với ba khối lớp 5, 9, 12. Chọn văn thơ làm ngữ liệu để dạy học các kiến thức tiếng Việt, văn học, trước hết phải chú trọng đặc trưng của ngữ liệu với tư cách là sản phẩm tinh túy của nghệ thuật ngôn từ. Nếu quá xem trọng tính sư phạm, tính khoa học, tính giáo dục, tính thời sự, độ sát hợp giữa văn bản với cuộc sống, tâm lý, nhận thức của tuổi thơ… mà hạ thấp tính thẩm mĩ của ngữ liệu sẽ duy ý chí, sai lệch trong xây dựng chương trình, viết sách giáo khoa, định hướng dạy học... Muốn văn học trong nhà trường làm tốt các chức năng của nó, trước hết đó phải là những sản phẩm nghệ thuật đúng nghĩa. Bài thơ Bắt nạt của Nguyễn Thế Hoàng Linh (Ngữ văn 6, bộ Kết nối tri thức với cuộc sống) là một minh chứng. Không phủ nhận tính thời sự, nhân văn của văn bản nhưng sự thô vụng của câu chữ (đầy tính khẩu ngữ), sự lạ đời trong giải pháp sư phạm (với thử thách lòng can đảm, bản lĩnh kẻ hay bắt nạt bằng cách ăn mù tạt - một gia vị chẳng mấy quen thuộc với nông thôn, miền núi), cách dùng tiếng lóng khá xa lạ với trẻ em Miền Trung, Miền Nam Việt Nam (hôi = xấu)… đã gặp phải sự phản ứng trái chiều của cộng đồng, ảnh hưởng không tốt đến hoạt động dạy học. Nếu đề cao tính khoa học của nghệ thuật ngôn từ, đội ngũ biên soạn sẽ cân nhắc, thận trọng hơn trong tuyển chọn ngữ liệu. Với sản phẩm chưa hoàn thiện như thế, một trong những yêu cầu, mục tiêu quan trọng của văn học, nghệ thuật được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là: “Quan tâm chăm lo công tác giáo dục, bồi dưỡng và bảo vệ trẻ em, thiếu niên, nhi đồng”4 sẽ khó hiện thực hóa. Vô cùng nguy hiểm nếu chúng ta không biết làm cho các em yêu thơ văn – một nhân tố quan trọng để tâm hồn trẻ thơ không trở nên cằn cỗi, để trẻ có thể rung động với những chân lý thiêng liêng như yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu cha mẹ, yêu con người… Những nền tảng làm người được kiến tạo, đắp bồi từ nhỏ ấy sẽ là động lực để học sinh tiểu học phát triển, hoàn thiện nhân cách, có sức đề kháng với những độc hại trong môi trường sống của các em hiện nay.

    Văn bản đưa vào chương trình không quá đặt nặng chức năng giáo dục khô khan, mòn cũ mà nội dung, hình thức thể hiện cũng thật sinh động, hấp dẫn, phù hợp với hoạt động cảm thụ văn học đặc trưng của lứa tuổi học sinh, tránh biến những ngữ liệu dạy học ngôn ngữ, văn học thành những bài học chỉ đơn thuần mang tính chất nêu gương, lên lớp. Tác phẩm chỉ thực sự để lại ấn tượng sâu đậm với trẻ, hướng các em đến những giá trị nhân văn muôn thuở của con người chỉ khi nó là một công trình nghệ thuật bằng ngôn từ đúng nghĩa dành cho tuổi thơ. Sâu sắc mà không đao to búa lớn, khuyên nhủ mà không cứng nhắc, lên gân mới là con đường để văn học tìm đến với các em – một hướng đi đặc trưng nhưng cực kỳ hiệu quả, bởi nó chinh phục bạn đọc – học sinh bằng hình ảnh, bằng nhạc điệu, bằng ngôn ngữ nghệ thuật nhuần nhị chứ không đến trực tiếp bằng thứ ngôn ngữ thuyết lý trừu tượng, khô khan. Nguyên tắc “quý hồ tinh bất quý hồ đa” cũng cần được quán xuyến. Mỗi văn bản được chọn lọc đưa vào sách học của trẻ cũng phải là phần tinh túy nhất của mỗi tác giả viết cho các em, không phải vì đó là gương mặt quen thuộc hoặc người có vai vế, lão làng. Theo đó, những bài thơ như Tôi yêu (Trần Huiền Ân), Tre Việt Nam (Nguyễn Duy), Cả nhà đi học (Cao Xuân Sơn), Quê hương (Đỗ Trung Quân)… có giá trị thẩm mĩ, nhân văn cao. Vượt lên cái nhất thời, tạm bợ, thời sự, chúng góp phần giáo dục, hình thành cho học sinh những tình cảm, trách nhiệm muôn thuở với Tổ quốc, gia đình, thầy cô, bè bạn…

    2. Gò ép ngữ liệu theo kiểu gọt chân cho vừa giày

    Cấp tiểu học, trung học cơ sở bắt đầu hình thành cho học sinh những kỹ năng sơ giản về viết văn cũng như những rung động thẩm mĩ của các em trước cuộc sống, xã hội. Thế nhưng, từ những cá nhân, tổ chức, đơn vị đến đội ngũ giáo viên đứng lớp hiện nay, khách quan mà nói, chưa nhận thức hết được tầm quan trọng của vấn đề có tính nền tảng này. Gam màu ảm đạm trong bức tranh chung về chất lượng dạy học ngôn ngữ, văn học ở nước ta hiện nay một phần xuất phát từ chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học của giáo viên. Những bài văn, bài thơ, câu/ đoạn thơ, văn ngô ngọng, ông chẳng bà chuộc ở các lớp đầu cấp tiểu học trong cả ba bộ sách Cánh diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống… là một nỗi ám ảnh không nhỏ đối với giáo viên, học sinh.

Vườn ươm yêu thương

 Yểng hát ríu rít
Yêu lắm vườn ươm
Điệp vàng, phượng đỏ
Cổ yếm, hạt cườm.

Dừa xiêm, mướp hương
Nhuộm ngời màu trắng
Sen hồng, mai trắng
Lóng lánh giọt sương.

Tiếng chim rộn rã
Vườn ươm yêu thương.

Lê An
(Tiếng Việt 1, Tập 1, Bộ Chân trời sáng tạo, trang178)

 Mùa hoa

 Dưới nắng ban mai
 Ngàn hoa khoe sắc
 Oải hương tím ngát
 Nhụy hoa tỏa hương.

Huệ trắng khiêm nhường
Chò nâu xoay múa
Phượng hồng rực lửa
Cúc khoác áo vàng.

Tim tím hoa xoan
 Nhẹ nhàng thanh thoát
 Hoàng yến vui hát
 Mùa hoa đến rồi.

Phạm Châu Lê
(Tiếng Việt 1, Tập 2, Bộ Chân trời sáng tạo,trang 14)

    Tình trạng “gọt chân cho vừa giày”, nặn ép ngữ liệu cho đúng ý đồ của những người xây dựng chương trình, của đội ngũ biên soạn sách dễ dẫn đến phản ứng trái chiều của giáo viên, phụ huynh, học sinh, gây tâm lý hoang mang cho cộng đồng. Cưỡng ép câu chữ để phục vụ ý tưởng, tham vọng dạy học hình thành, phát triển năng lực tiếng Việt, văn học cho học sinh, đâu biết rằng trẻ em không yêu thích, không nhớ, không thuộc thơ văn, thì những kiến thức, bài học giáo dục cũng tuột nhanh không vạch nét. Hai bài thơ dưới đây nằm trong khá nhiều ngữ liệu như thế.

    Chim yểng (có nơi gọi là chim nhồng) là loài chim có thể bắt chước tiếng người, thường sống từng đôi (hoặc đàn nhỏ, từ 4 đến 10 cá thể) ở đồi núi cao với nhiều cây cổ thụ. Yểng được mệnh danh là ca sĩ của ngàn già bởi tiếng hót rất đặc biệt: to, vang, lúc lảnh lót, lúc bổng trầm, tha thiết. Điều này cũng đã được nói đến trong bài Cuộc thi tài rừng xanh (Tiếng Việt 1, Tập 2, Bộ Kết nối tri thức với cuộc sống, trang 114). Có lý nào chim yểng lại tụ quần thành bầy ở “vườn ươm” với cái giọng “ríu rít” như kiểu chào mào, chim sẻ? Phải chăng vì mục đích dạy vần “yêng”, dạy nguyên âm đôi “yê” mà người làm sách cưỡng ép tự nhiên đến vậy? Còn chò nâu là cây gỗ lớn, chiều cao khoảng 30 đến 40m. Hoa chò nâu nở rộ vào tháng 4, người ta chỉ nhìn thấy khi chúng lìa cành bay xuống gần mặt đất. Thật khó mà cùng “khoe sắc” với những loài hoa vừa thấp bé như oải hương, huệ trắng, lại không cùng thời điểm ra hoa như hoa xoan (tháng 3) và hoa phượng (tháng 6)… Với những ngữ liệu này, người học, bạn đọc sẽ hiểu biết lệch lạc về hoa lá, chim muôn, về những tỉnh thành phương Nam có loài chò nâu rất đặc trưng. Nguyên tắc dạy học tích hợp khá mới mẻ, hiện đại của chương trình Ngữ văn mới, vì thế, cũng khó mà đảm bảo.

    Đôi khi, do hiểu chưa thấu đạt về đặc trưng của nghệ thuật ngôn từ, áp đặt tính nhất thời của đời sống lên văn học, người làm sách e dè, dị ứng với những văn bản phù hợp. Bài Cả nhà đi học của Cao Xuân Sơn (được đưa vào sách Tiếng Việt 3, Tập 2,NXB Giáo dục Việt Nam, trang138 - chương trình 2006) là một minh chứng:

    “Đưa con đến lớp mỗi ngày
    Như con, mẹ cũng “thưa thầy”, “chào cô”.
    Chiều qua bố đón, tình cờ
    Con nghe bố cũng “chào cô”, “thưa thầy”…
    Cả nhà đi học, vui thay!
    Hèn chi điếm xấu buồn lây cả nhà
    Hèn chi mười điểm hôm qua
    Nhà mình như thể được… ba điểm mười.”

    “Điểm mười” ở đây đâu nhất thiết phải theo nghĩa đen là “10 điểm” mà ngại ngần vì bài thơ không phù hợp với chủ trương không đánh giá học sinh các lớp đầu cấp tiểu học bằng điểm số. Nếu xem đó là kết quả học tập, rèn luyện tiến bộ hằng ngày của trẻ, ta sẽ có một văn bản, ngoài tính giáo dục, sư phạm còn có một vai trò rất lớn, rất tích cực: kết nối thế hệ trên tinh thần xã hội cùng học tập, cùng chung sức kiến tạo thế hệ tương lai của đất nước.

    3. Thiếu nhất quán hay là hậu quả của sự ăn xổi ở thì

    Ngữ liệu dạy học trong sách giáo khoa Tiếng Việt, Ngữ văn hiện nay đa phần là những văn bản nghệ thuật (thơ, văn xuôi) có chất lượng của Việt Nam và thế giới. Ngoài các tiêu chí sư phạm, khoa học, do đặc điểm tư duy, nhận thức của học sinh từng cấp học, từng khối lớp, đặc trưng của các phân môn, ngữ liệu này đã được đội ngũ biên soạn điều chỉnh, gia giảm (dung lượng, câu chữ) cho phù hợp. Ngoài ưu điểm sát hợp với đối tượng người học, việc sửa đổi, biên tập của những người làm sách cũng không tránh khỏi những bất cập, hạn chế đáng tiếc dẫn đến tình trạng dở khóc dở cười cho tác giả có tác phẩm được tuyển chọn cũng như giáo viên và học sinh.

    Việc tuyển chọn, chỉnh biên sách giáo khoa là thẩm quyền của đội ngũ viết sách. Nhưng cắt xén, sửa đổi, ngoài những yêu cầu của về tính khoa học, giáo dục, sư phạm của bộ sách, cần phải giữ lại hồn cốt của tác phẩm, ý đồ của nhà văn. Tuy nhiên, không ít bài thơ, bài văn được đưa vào sách giáo khoa hiện nay đã thiếu sự cẩn trọng cần thiết: mạch thơ, mạch văn bị cắt cơ học dẫn đến đứt đoạn, khó hiểu; đôi lúc kết cấu tác phẩm cũng bị đảo lộn làm sai lệch ý đồ của người viết; giá trị nội dung, nghệ thuật của nguyên bản theo đó cũng giảm sút rất nhiều. Thiết nghĩ, bên cạnh kiến thức về giáo dục cùng kỹ năng sư phạm, năng lực tiếp nhận văn chương, độ tinh nhạy trong phẩm bình văn học cũng tối cần thiết với những người “làm dâu trăm họ” này.

Mùa lúa chín

Vây quanh làng
Một biển vàng
Như tơ kén...
Hương lúa chín
Thoang thoảng bay
Làm say
Đàn ri đá.
Lúa biết đi
Chuyện rầm rì
Rung rinh sóng
Làm xáo động
Cả rặng cây
Làm lung lay
Hàng cột điện...

Bông lúa quyện
Trĩu bàn tay
Như đựng đầy
Mưa, gió, nắng.
Như đeo nặng
Giọt mồ hôi
Của bao người
Nuôi lớn lúa...

Em đi giữa
Biển vàng
Nghe mênh mang
Đồng lúa hát...

Nguyễn Khoa Đăng
(Tiếng Việt 2, Tập 2, Bộ Cánh Diều,
NXB Đại học Sư phạm Thành phố
Hồ Chí Minh, trang 30)

Mùa lúa chín

Vây quanh làng
Một biển vàng
Như tơ kén...
Hương lúa chín
Thoang thoảng bay
Làm say say
Đàn ri đá.
Lúa biết đi
Chuyện rầm rì
Rung rinh sóng
Làm xáo động
Cả rặng cây
Làm lung lay
Hàng cột điện...

Bông lúa quyện
Trĩu bàn tay
Như đựng đầy
Mưa, gió, nắng.
Như đeo nặng
Giọt mồ hôi
Của bao người
Nuôi lớn lúa...

Em đi giữa
Biển vàng
Nghe mênh mang
Đồng lúa hát...

Nguyễn Khoa Đăng
(Tiếng Việt 2, Tập 2, Bộ Chân trời sáng tạo,
NXB Giáo dục Việt Nam,
trang 66-67)

 

       Khi trang sách mở ra

      Khi trang sách mở ra
      Khoảng trời xa xích lại.
      Bắt đầu là cỏ dại
      Thứ đến là cánh chim
     Sau nữa là trẻ con
     Cuối cùng là người lớn.

     Trong trang sách có biển
     Em thấy những cánh buồm
    Trong trang sách có rừng
     Với bao nhiêu là gió.

     Trang sách còn có lửa
     Mà giấy chẳng cháy đâu
     Trang sách có ao sâu
     Mà giấy không hề ướt.

     Trang sách không nói được
     Sao em nghe điều gì
     Dạt dào như sóng vỗ
     Một chân trời đang đi.

(Nguyễn Nhật Ánh)
(Tiếng Việt 2, Tập 1, Bộ Kết nối tri thức
với cuộc sống, NXB Giáo dục Việt Nam,
trang 66-67)

     Khi trang sách mở ra

     Khi trang sách mở ra
     Chân trời xa xích lại.
     Bắt đầu là cỏ dại
     Thứ đến là cánh chim
     Sau nữa là trẻ con
     Cuối cùng là người lớn.

     Trong trang sách có biển
     Em thấy những cánh buồm
     Trong trang sách có rừng
     Với bao nhiêu là gió.

     Trang sách còn có lửa
     Mà giấy chẳng cháy đâu
     Trang sách có ao sâu
     Mà giấy không hề ướt.

     Trang sách không nói được
     Sao em nghe điều gì
     Dạt dào như sóng vỗ
     Một chân trời đang đi…

Nguyễn Nhật Ánh
(Tiếng Việt 2, Tập 1, Bộ Chân trời sáng tạo,
NXB Giáo dục Việt Nam,
trang 122-123)

    Đọc kỹ các bộ sách, ta sẽ dễ thấy một số ngữ liệu không có sự thống nhất. Cũng là những dòng thơ, đoạn văn trong cùng một tác phẩm, một tác giả nhưng không hiểu sao vẫn có tình trạng “dị bản” xảy ra. Điều này gây khó khăn không nhỏ cho hoạt động dạy học, tiếp nhận văn chương của cả thầy và trò. Chẳng hạn hai bài thơ sau đây:

    Xin được bỏ qua mấy chỗ thiếu thống nhất trong hình thức của hai văn bản Khi trang sách mở ra (có/ không có dấu ba chấm cuối bài thơ, tên tác giả đặt trong/ ngoài dấu ngoặc đơn), chúng ta hãy dừng lại ở dòng thơ thứ hai của cả hai bài thơ. Câu hỏi đặt ra là: “Khoảng trời” hay “Chân trời”? Đâu là dòng thơ đúng? Dựa trên hình thức văn bản (biện pháp điệp: chân trời), ý nghĩa của hình tượng nghệ thuật (bộ phận gắn với hoạt động di chuyển/ một không gian tiếp giáp giữa bầu trời và mặt đất), thông điệp giáo dục (việc đọc sách tạo ra sự thay đổi tích cực, đem lại niềm vui, sự hiểu biết cho trẻ thơ)… rõ ràng “chân trời” là phù hợp hơn cả.

    Với bài thơ của Nguyễn Khoa Đăng, nghệ thuật tăng tiến (tăng cấp) thể hiện rất rõ: những động từ mạnh gắn liền với các sự vật tương hợp với sự gia tăng cường độ của hương thơm, tiếng chuyện trò, hát ca của cánh đồng lúa chín: đàn ri đá thì “say say”; hàng cây thì “xáo động”; hàng cột điện thì lung lay… Cùng với đó là sự lớn dần trong tình yêu của trẻ thơ đối với quê hương, làng xóm, lòng biết ơn của các em dành cho những người một nắng hai sương để đem lại sự ấm no, đủ đầy cho xã hội.

    Tương tự như thế là văn bản Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, mỗi sách Ngữ văn 10 lại viết một kiểu5. Lạ là cả hai văn bản đều cùng một khối lớp, cùng một nhà xuất bản. Gà cùng một mẹ rất là khác “gen”. Cách biên soạn như thế sẽ “sửa lưng” người dạy, gây hoang mang cho học sinh. Trăm hoa đua nở, không cẩn trọng khéo lại làm “đơ não”. Lâu nay ta đã ca thán về sự quá tải trong nội dung chương trình, giờ thêm cái mê hồn trận ngữ liệu này, thầy và trò dễ “tẩu hoả nhập ma” lắm lắm!

    Với những văn bản bất nhất này, nếu chịu khó đối sánh các nguồn khả tín, ta sẽ có cơ sở để đưa ra phương án tối ưu. Ví như bài thơ Mùa lúa chín, hai cuốn sách ra đời cách nhau hơn hai mươi năm là Những bài thơ em yêu (2001) và 65 bài thơ hay dành cho thiếu nhi (2022) của hai nhà xuất bản uy tín là Giáo dục và Kim Đồng6, đều có chung kết quả “say say” cả. Với thơ, văn của các tác giả đang hiện diện, ta sẽ có một “kênh” quan trọng, tin cậy trong lựa chọn, thẩm định ngữ liệu. Đáng buồn là sự kết nối giữa đội ngũ biên soạn với nhà văn để có một văn bản hoàn thiện xem ra cũng khá lỏng lẻo. Một số tác giả chỉ biết tác phẩm của mình đã được tuyển vào sách giáo khoa sau… giáo viên và học sinh. Chẳng những không được hỏi ý kiến để đảm bảo tính pháp lý về mặt bản quyền, họ cũng bị tước mất quyền năng đối với đứa con tinh thần ấy. Vậy là nó đẹp hay xấu, hoàn thiện hay dị dạng là do đội ngũ chuyên gia soạn sách quyết định. Nhiều nhà văn kêu trời hổng thấu vì sáng tác của mình bị “phù phép” làm cho biến dạng mà chẳng có lời xin phép nào từ những người làm sách. Giá như có thái độ tôn trọng đúng mực với nhà văn, nhà thơ, có sự gắn kết mật thiết với tác giả trong quá trình làm sách, thiết nghĩ những hạt “sạn” như thế sẽ dễ được khắc phục, loại bỏ và gánh nặng “làm dâu” của những người biên soạn sách cũng vơi bớt phần nào.

    Xin được đơn cử một trường hợp “gia công” về ngữ liệu khá thành công của các tác giả sách giáo khoa trước đây:

    MẸ, MẸ ƠI CÔ BẢO
    NÓI ĐIỀU HAY
    Mẹ, mẹ ơi cô bảo:
    “Cháu ơi, chơi với bạn
    Cãi nhau là không vui
    Cái mồm nó xinh thế
    Chỉ nói điều hay thôi”


     CHIM
    Mẹ, mẹ ơi cô bảo:
    “Chim bay giữa trời
    Có khi phải đỗ
    Chim có cánh rồi
    Cần đôi chân nữa…”


    THUYỀN VÀ CÁ
    Mẹ, mẹ ơi cô bảo:
     “Thuyền đi trên nước
     Ta nói: thuyền trôi
     Cá đi trong nước
     Ta bảo: cá bơi…”
                          Phạm Hổ
                         (Nhiều tác giả (Đặng Hấn tuyển chọn), Thơ nhớ từ thơ, NXB Văn học, 2003, trang 63)

    Khi vào sách giáo khoa, trở thành:
    CÔ DẠY
    (Học thuộc lòng)
    Mẹ, mẹ ơi! Cô dạy:
    Phải giữ sạch đôi tay,
    Bàn tay mà giây bẩn,
     Sách, áo cũng bẩn ngay.
     Mẹ, mẹ ơi! Cô dạy:
    Cãi nhau là không vui
    Cái miệng nó xinh thế
    Chỉ nói điều hay thôi.
                      PHẠM HỔ
                     (Tiếng Việt 1, Tập 2, NXB Giáo dục, 2000, trang 93)

    “Dạy” gần gũi với học sinh hơn, gắn với hoạt động, trách nhiệm của thầy cô hơn là “bảo” vừa quyền uy, vừa không thể hiện rõ những ý nghĩa như “dạy”. Còn “mồm” là từ địa phương, phổ biến ở Miền Bắc, không mấy quen thuộc với trẻ em khu vực miền Trung, Tây Nguyên, Nam Bộ. Chưa kể, đôi khi việc dùng từ này còn tạo sắc thái nghĩa tiêu cực (im mồm; mồm năm miệng mười; mồm loa mép dãi…). Cách hoán chuyển từ “miệng” sang “mồm”, “bảo” sang “dạy” là một sự tinh tế, có tầm của đội ngũ biên soạn, dĩ nhiên trong đó có sự hợp sức của chính tác giả Phạm Hổ.

    Gần đây, những người có nhiều gắn bó với văn học thiếu nhi, có tác phẩm đưa vào sách giáo khoa như Nguyễn Thúy Loan, Bảo Ngọc, Cao Xuân Sơn, Trần Quốc Toàn… khá tâm tư về thơ văn trong trường phổ thông. Thỉnh thoảng họ đưa những văn bản của những chương trình cũ, thậm chí trước 19757 lên Facebook. Tâm lý hoài cổ một phần cũng xuất phát từ sự bất như ý của hiện tại. Rõ ràng ngữ liệu trong sách Tiếng Việt, Ngữ văn hiện tại khiến không ít người rơi vào hoài vọng quá khứ: Bao giờ cho đến… ngày xưa.

    4. Văn bản đọc mở rộng - sai một li đi một dặm

    Một thay đổi theo hướng tích cực của chương trình Ngữ văn 2018 là bên cạnh hệ thống văn bản trong sách giáo khoa còn có các văn bản đọc mở rộng. Xây dựng, hình thành ngữ liệu dạy học này phần lớn tùy thuộc vào năng lực của nhà trường, giáo viên, học sinh… Hiện nay, ở nhiều địa phương, giáo viên có cách tuyển chọn văn bản đọc mở rộng khá đơn giản, qua loa: nếu dạy bộ sách này thì lấy ngữ liệu ở những bộ sách khác và ngược lại. Rất nhanh và rất thụ động. Việc làm này không khỏi tạo ra sự “đồng phục” trong một nhà trường, tỉnh thành, cả nước. Tinh thần tự do, phóng khoáng, tôn trọng tối đa sự chủ động, cá tính thầy trò của chương trình 2018, vì cách làm đó, thực khó mà đảm bảo.

    Theo chúng tôi, để dạy học đọc mở rộng đạt được mục đích, hiệu quả như kỳ vọng, cần phải có những tiêu chí cụ thể, rõ ràng trong lựa chọn ngữ liệu: đáp ứng mục tiêu chương trình; phù hợp về chủ đề; đảm bảo số lượng; phù hợp về thể loại (thơ, truyện, bài văn miêu tả; văn bản nghệ thuật, văn bản nghị luận, văn bản thông tin); tính bao quát về vùng miền, quốc gia; sự kế thừa, tiếp nối thế hệ nhà văn…

    5. Thay lời kết

    Ngữ liệu trong sách giáo khoa là phương diện quan trọng để cụ thể hoá, hiện thực hoá nội dung chương trình. Đó cũng là yếu tính cho thấy cái tầm và cái tâm của đội ngũ biên soạn sách nói riêng, ngành Giáo dục nói chung. Hi vọng với những ưu điểm đã được thừa nhận trong thời gian qua, cùng với sự cởi mở, thiện chí, cầu toàn, những người liên quan trực tiếp đến chương trình, sách giáo khoa Tiếng Việt, Ngữ văn sẽ có sự chỉnh sửa, hoàn thiện để sớm có được những tài liệu tốt nhất, tích cực góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng dạy học tiếng mẹ đẻ và dạy học văn ở trường phổ thông. Đó cũng là cơ sở để giáo dục, phát triển toàn diện nhân cách học sinh, để việc dạy học ở trường phổ thông tích cực tham dự vào quá trình đổi mới, hiện đại hóa đất nước.

Bùi Thanh Truyền

Nguồn: Tạp chí Lý luận, phê bình Văn học, nghệ thuật, ngày 28.02.2024.

 

Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ văn, ban hành theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 7.
3. Nguyễn Thế Kỷ (2023), Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) và sự phát triển của văn hóa, văn nghệ nước ta 80 năm qua, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 02.
4. Hương Ly, Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” mỗi sách viết một kiểu, hiểu sao cho đúng?, nguồn: https://vanvn.vn/tac-pham-binhngo-dai-cao-moi-sach-viet-mot-kieu-hieusao-cho-dung/, ngày truy cập: 12/4/2023.
5. Bùi Thanh Truyền (2018), Tuyển chọn và dạy học tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 ở trường phổ thông theo định hướng phát triển năng lực, Kỷ yếu Hội thảo “Nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên các môn khoa học xã hội ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Trường Đại học Sài Gòn. 

Chú thích:
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo, Chương trình giáo dục phổ thông, môn Ngữ văn, ban hành theo Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ngày 26 tháng 12 năm 2018 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2018.
2 Các bộ sách Cánh Diều, Chân trời sáng tạo, Kết nối tri thức với cuộc sống; môn Tiếng Việt 1, 2, 3, 4; môn Ngữ văn 6, 7, 8, 10, 11 (sách học sinh).
3 Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, tập 7.
4 Nguyễn Thế Kỷ (2023), Đề cương về văn hóa Việt Nam (1943) và sự phát triển của văn hóa, văn nghệ nước ta 80 năm qua, Tạp chí Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật, số 02, tr. 13.
5 Hương Ly, Tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” mỗi sách viết một kiểu, hiểu sao cho đúng?, nguồn: https://vanvn.vn/tac-pham-binh-ngo-dai-cao-moisach-viet-mot-kieu-hieu-sao-cho-dung/;Ngày truy cập: 12/4/2023.
6 Phạm Hổ, Nguyễn Nghiệp (tuyển chọn), Những bài thơ em yêu (tái bản lần thứ nhất), NXB Giáo dục, 2001. Nhiều tác giả (Cao Xuân Sơn tuyển chọn), 65 bài thơ hay dành cho thiếu nhi, NXB Kim Đồng, 2022.
7 Xin xem bài thơ Tôi yêu (Trần Huiền Ân) trên Facebook của Nguyễn Thúy Loan, Biên tập viên NXB Kim Đồng.

Trong kí ức của tôi, có một người thầy bước đi khoan thai thư thái. Nhìn ông, tôi như thấy phong thái của một trí thức mà trong trí tưởng tượng của mình thường mơ tưởng.

Năm tôi được gặp Thầy, năm 2011, ông chừng 70 tuổi, dáng người nhỏ nhắn, thường mặc chiếc áo sơ mi màu xám tro, chiếc quần màu trắng đục, trang phục rất hợp dáng người, trang nhã. Mái đầu bạc trắng gọn gàng, đôi mắt sáng hiền từ. Nét mặt rạng ngời không hiện ra dấu vết của năm tháng, giống như ánh nắng đầu thu. Trên sống mũi là cặp kính gọng vàng thỉnh thoảng đeo. Tác phong của một học giả đáng kính. Học giả có đôi mắt hiền từ tinh tế. Khi nói thường kèm theo điệu cười mỉm. Điềm tĩnh, ung dung, trí tuệ, hiền hậu. Nhất cử nhất động đều hiện ra một khí chất học giả, một thứ khí chất không có ở người đàn ông bình thường. Ông là Nhà giáo ưu tú, Phó Giáo sư, nguyên giảng viên trường Đại học KHXH NV TP HCM – Chu Xuân Diên.

20221218 3

PGS Chu Xuân Diên

Lần đầu tiên, tôi được gặp Thầy cũng là một sự tình cờ, do lúc đó là giảng viên nam duy nhất của ngành Văn hóa học nên được phân công đưa đón Thầy trong những ngày ở Đại học Đà Lạt giảng dạy môn học Cơ sở văn hóa Việt Nam cho sinh viên ngành Văn hóa học K33. Trong những ngày đó tôi mới thấy Thầy giống như ông tiên có thật trên đời.

Thông thường, trước khi lên lớp tôi giới thiệu giảng viên mời giảng tới sinh viên của lớp học. Lần đó, tôi giới thiệu với sinh viên rằng ông là PGS-TS. Chu Xuân Diên, nguyên Trưởng Bộ môn Văn học Dân gian, Khoa Ngữ văn & Báo chí Trường Đại học KHXH&NV TP HCM, hiện là Chủ nhiệm Khoa Văn học Trường Đại học Văn Hiến, tác giả của nhiều công trình nghiên cứu văn hóa, văn học dân gian… Sau khi tôi dừng lời, ông chậm rãi đính chính: “Cám ơn thầy Hóa đã giới thiệu nhưng tôi xin đính chính, tôi là PGS. Chu Xuân Diên, chứ không phải PGS-TS. Chu Xuân Diên”.

Ngồi nghe thầy giảng bài môn Cơ sở văn hóa Việt Nam cho các lớp sinh viên, tôi không thấy ông giảng những nội dung cụ thể viết trong giáo trình Cơ sở văn hóa Việt Nam mà chỉ hướng dẫn, giảng giải những vấn đề văn hóa nền tảng, những hệ giá trị văn hóa,… Sau những bài giảng, thầy yêu cầu sinh viên đặt câu hỏi, và Thầy giải đáp cụ thể. Câu hỏi quen thuộc của Thầy sau mỗi bài giảng là: “Có sinh viên nào hỏi nữa không?”. Mỗi lần lên lớp Thầy ngồi ngay ngắn sau bục giảng, ánh mắt sáng ngời. Lời của Thầy giảng cho tôi thấy hình tượng một trí thức uyên bác, một học giả có uy quyền học thuật. Công trình Cơ sở văn hóa Việt Nam của Thầy đã tái bản nhiều lần, Thầy cũng đã lên rất nhiều lớp sinh viên, tuy nhiên, mỗi lần lên giảng ở đây tôi thấy mỗi tối ông đều ngồi vào bàn xem lại bài giảng.

Có lần tôi giở cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam Thầy để trên bàn làm việc trong phòng khách, tôi sửng sốt vì trong mỗi trang sách là chi chít những chú thích bằng mực bi còn tươi màu. PGS Chu Xuân Diên chu đáo và kỹ lưỡng với công việc nghiên cứu như thế khiến tôi hết sức kính trọng và khâm phục.

Đà Lạt những lần Thầy lên giảng trời đều mưa lạnh, những đám lá thông vàng bay lả tả trong chiều ẩm ướt, nhưng hầu như lần nào tôi cũng nghe Thầy đề nghị dẫn đến các nhà sách ở trung tâm thành phố Đà Lạt. Có điều, ông không đến để mua sách, tôi nhớ duy chỉ một lần ông mua cuốn sách Nghiên cứu văn hóa dân gian phương pháp, lịch sử, thể loại của mình để tặng khi đến nhà thăm PGS. Lê Chí Dũng vì ông quên mang lên. Những lần đến nhà sách, tôi đi theo ông, còn ông lại tận tâm chỉ cho tôi chọn cuốn sách này, hay cuốn sách kia, lý giải ngọn ngành vì sao lại chọn như thế.

Tôi đã đọc các công trình của Thầy, đã biết Thầy qua bài viết của GS. TS. Nguyễn Xuân Kính trong cuốn Nghiên cứu văn hóa dân gian phương pháp, lịch sử, thể loại của ông. Nhưng phải sau này, nghĩ lại, tôi mới thấy những lần Thầy lên Đại học Đà Lạt giảng bài, đó là những lần tôi thu nhận được nhiều hơn. Có lần, tôi mạnh dạn hỏi Thầy về băn khoăn trong lựa chọn chuyên môn giữa văn hóa và văn học. Thầy lặng im suy nghĩ một lúc lâu, nói, Hóa à, em với Thầy cũng giống nhau, thầy vốn có nguyện vọng được nghiên cứu và giảng dạy văn học Pháp. Tuy nhiên, sau khi tốt nghiệp đại học, thầy được GS. Đinh Gia Khánh phân công giảng dạy văn học dân gian. Thầy nói: đã là giảng viên đại học, đó là cơ hội để mình được học tập và nghiên cứu,…

Tác phẩm “Cơ sở văn hóa Việt Nam” của Chu Xuân Diên

Lần đó, Thầy tâm sự rất nhiều, từ những trải nghiệm trong đời ông, đến quan điểm về giáo dục hiện tại, từ thái độ học tập của sinh viên, đến lý tưởng về quan hệ thầy trò… Đến nay tôi vẫn còn nhớ Thầy đã nói với tôi một câu: Đã là giảng viên đại học, nên đọc sách nhiều. Thầy dặn tôi khi nào xuống Sài Gòn ghé nhà, Thầy tặng mấy cuốn sách đọc. Do công việc quá bận bịu, tôi không ghé nhà Thầy được như hẹn, không ngờ Thầy cất công gửi sách qua xe khách Sài Gòn – Đà Lạt lên cho tôi. Mà có phải là ít đâu, những bốn thùng sách, có nhiều cuốn mới xuất bản gần đây.

“Đọc sách nhiều”, tôi nghĩ, đó không chỉ là yêu cầu của Thầy đối với tôi, với một giảng viên đại học, mà thực tế cũng là phong cách học giả của ông. Tôi có hỏi quan điểm của Thầy việc dư luận xôn xao về SGK môn Ngữ văn lớp 10 đã thay đổi đoạn kết trong câu chuyện cổ tích quen thuộc Tấm Cám. Thầy bảo ông đã nói chuyện này mấy chục năm về trước, rằng “không có gì đáng phải làm ầm ĩ cả lên nếu hiểu rõ bản chất của truyện cổ tích”. Sau đó Thầy chậm rãi giảng giải.

Những ngày ở Đà Lạt, tôi thấy trước khi đi ngủ ông thường cắm tai phone vào điện thoại di động để nghe nhạc. Sợ mình làm ồn Thầy không ngủ được nên tôi đề nghị hay là đến giờ ngủ tôi qua phòng bên để Thầy yên tĩnh. Ông hiểu ý ngay mà nói: “Mình thích nghe nhạc cổ điển Hóa ạ”. Qua ánh sáng đèn bàn sau lưng ông tôi như thấy một người ông đôn hậu đang chỉ bảo đứa cháu yêu thương của mình. Một học giả có khuôn mặt hiều hậu và ánh mắt trong sáng tươi tắn, ấm áp.

Tôi chưa từng nghĩ đến, trong những năm tháng sau này của đời mình, mặc dù không phải là học trò trực tiếp của Thầy, không tiện đến thăm Thầy nhưng sau nhiều lần phân vân, tôi vẫn đến thăm Thầy ở nhà riêng, được nghe ông nói chuyện và hơn nữa giúp tôi tháo gỡ những khó khăn trong chuyên môn. Đến nhà Thầy Cô, tôi như lạc vào biển sách. Nhà ông có 3 tầng, tầng một có phòng khách rộng, hai bức tường dọc nhà là hai kệ sách lớn. Lầu trên, có một phòng rộng để ông đọc sách và làm việc, cũng rất ngăn nắp. Thầy đều ngồi ngay ngắn bên cái bàn làm việc mà nói chuyện.

Lần đó, tôi nhìn bức tranh trên tường với ánh mắt tò mò vì gam màu xám tro và những nét vẽ tượng trưng khó hiểu, ánh mắt tinh tế của ông đã nhìn ra sự tò mò của tôi, với nụ cười thường trực cùng giọng nói Hà Nội trầm ấm rủ rỉ ông lý giải rất ngọn ngành. Đôi mắt kính trên sóng mũi cao thanh cùng ánh mắt dịu dàng như chân lý tỏa sáng trước mặt tôi. Sau này, mỗi lần đăng được một bài trên tạp chí, tôi thường gọi điện thoại khoe với ông, tiếng ông lại rủ rỉ động viên, khích lệ hay gợi ý cho tôi những đề tài này nọ.

Trong ấn tượng của tôi, PGS. Chu Xuân Diên vừa có cái khí chất tu dưỡng của trí thức bậc cao, vừa có sự hiền hậu, ân cần của một người thầy; có cái tâm cống hiến của một học giả và tấm lòng của người ông với con cháu. Đời người dài lâu, ký ức dằng dặc. Cuộc đời là một cuốn sách dày, mỗi lần mở một trang sách, đều là một cuộc tương phùng xa cách lâu ngày. Thế nhưng, tôi với một người Thầy như một người ông ấy mãi mãi là ân tình lĩnh hội trong ký ức dài lâu – Cảm ơn Thầy – PGS. Chu Xuân Diên.

Phạm Văn Hóa

(Giảng viên Đại học Đà Lạt)

Nguồn: Vanvn.vn, ngày 16.12.2022.

Khi làm việc, học tập tại Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) sẽ không được ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học, viên chức và người lao động khi họ chưa đồng ý. 

20231211 3

Sinh viên Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) từ nay muốn chụp ảnh, ghi hình, ghi âm trong lớp, trong trường phải có sự đồng ý của người khác - Ảnh: TRẦN HUỲNH

Bộ quy tắc ứng xử "Người Nhân văn"

Trường đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TP.HCM) vừa ban hành bộ quy tắc ứng xử "Người Nhân văn" của nhà trường.

Bộ quy tắc này quy định các quy tắc ứng xử trong và ngoài trường, áp dụng đối với người học, viên chức và người lao động của trường.

Khi làm việc, học tập, tham gia các hoạt động tại trường và trong thời gian thực hiện nhiệm vụ, người học, viên chức và người lao động phải tuân thủ bộ quy tắc ứng xử này.

Bộ quy tắc này gồm 3 chương, trong đó chương 2 quy định các quy tắc ứng xử chung với nhiều điều khoản: trang phục, tác phong nơi làm việc, học tập; ứng xử trong quá trình làm việc, học tập tại trường; ứng xử trên không gian mạng, nơi công cộng, nơi cư trú; ứng xử của người học, của viên chức và người lao động.

Bộ quy tắc có nhiều nội dung rất cụ thể: tuân thủ các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ, không giả mạo hoặc làm sai lệch dữ liệu, thông tin trong nghiên cứu khoa học, hoặc vi phạm đạo đức nghiên cứu.

Đấu tranh và phản ánh kịp thời đối với những hành vi tiêu cực không phù hợp với chuẩn mực trong làm việc, học tập, nghiên cứu khoa học.

Không uống rượu, bia, hoặc đồ uống có cồn trước, trong giờ làm việc và học tập, giờ nghỉ trưa của các ngày làm việc (trừ trường hợp theo nhiệm vụ)…

Băn khoăn quy định không ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học

Ngay sau khi nhà trường công bố bộ quy tắc ứng xử này, nhiều ý kiến của người học, cán bộ, giảng viên nhà trường ủng hộ và cho rằng việc nhà trường ban hành một bộ quy tắc ứng xử với nhiều quy định chi tiết giúp người học, người lao động của trường hiểu rõ hơn để thực hiện đúng. 

Nhiều người nói bộ quy tắc ứng xử này góp phần xây dựng văn hóa công sở, văn hóa học đường; đảm bảo môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện; đảm bảo sự liêm chính, chuyên nghiệp, phù hợp với trách nhiệm, nghĩa vụ của người học, viên chức và người lao động.

Góp phần ngăn ngừa, xử lý kịp thời, hiệu quả các hành vi ứng xử tiêu cực, thiếu tính giáo dục trong nhà trường.

Tuy nhiên, cũng có nhiều người băn khoăn và có ý kiến trái chiều với quy định nêu trong bộ quy tắc này: "Không ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học, viên chức và người lao động khi chưa được sự đồng ý của người học, viên chức và người lao động".

Đặc biệt, các sinh viên báo chí, truyền thông của trường cho rằng quy định trên sẽ gây khó cho sinh viên.

"Tôi hoàn toàn ủng hộ việc nhà trường ban hành một bộ quy tắc ứng xử như vậy. Tuy nhiên, liên quan tới quy định không ghi âm, ghi hình, chụp ảnh người học, viên chức và người lao động khi chưa được sự đồng ý của họ, tôi thấy chưa phù hợp và hơi khắt khe", H. - sinh viên báo chí - nhận định.

Cũng theo sinh viên này, đối với sinh viên, hiện nay việc sử dụng điện thoại thông minh là rất phổ biến. Việc ghi âm, chụp ảnh trong lớp học cũng rất thoải mái. Sinh viên đều là người trưởng thành, chịu trách nhiệm với hành vi của mình. Nếu ghi âm, chụp ảnh rồi sử dụng với mục đích xấu thì bị xử lý.

"Đặc biệt, với sinh viên báo chí, truyền thông và thậm chí những bạn học ngành khác vẫn thích chụp ảnh, quay phim trong lớp học, trong khuôn viên trường để thực hành, sáng tạo, thậm chí tác nghiệp để cộng tác với các cơ quan báo chí.

Nếu mỗi lần chụp ảnh, ghi hình, ghi âm đều phải xin phép thì rất phức tạp. Đó là chưa kể quy định này có thể gây ra một số tình huống hiểu lầm, căng thẳng không cần thiết khi bạn nào muốn ghi âm, chụp ảnh, ghi hình trong trường mà bị cản trở do lỡ chưa xin phép", một sinh viên truyền thông nói.

Trần Huỳnh
Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 09.12.2023.

Tôi yêu quý thầy Trần Hữu Tá từ khi thầy dạy cao học lớp tôi khóa 1995-1998, cách đây gần 20 năm. Hồi đó, lớp cao học tôi có 6 học viên thôi. Chúng tôi đến nhà thầy học chuyên đề “Tiểu thuyết Việt Nam”. Tôi ấn tượng với phong cách sư phạm mẫu mực của thầy, từ phong thái, cách giảng bài, cách soạn bài, cách trình bày, cách đi đứng nói năng…rõ ràng, dễ hiểu, trật tự, khuôn phép. Tôi học được rất nhiều từ phong cách thầy cho việc giảng dạy sau này của mình vì tôi vốn không phải là dân sư phạm.

Từ khi ở lại khoa Văn học và Ngôn ngữ, tôi có nhiều cơ hội gặp thầy, trò chuyện với thầy, hiểu thầy, vì tuy là người Sư phạm, nhưng thầy cũng rất thân với Xã hội nhân văn. Khi tôi làm tiến sĩ, thầy viết nhận xét giúp tôi, bản thảo viết tay, chữ thầy đều tăm tắp, gọn gàng, ngay hàng thẳng lối. Thầy cứ thanh minh mãi chuyện lẽ ra phải đánh máy, nhưng hóa ra tôi lại may, giữ trong tay một bản thảo viết tay của thầy. Đối với học trò, thầy khoan dung, độ lượng, nhìn ra được năng khiếu và tư chất từng người. Tôi nghe rất nhiều anh chị đồng nghiệp kể về những hàm ơn mà thầy làm cho họ, mà khi gần thầy, tôi chưa bao giờ nghe thầy kể lại.Thầy là người cẩn thận, chỉn chu, đối xử trước sau như một có tình, có lý. Hôm bên Khoa tôi tổ chức kỷ niệm sinh nhật thầy Nguyễn Khuê, có mời thầy, dạo đó thầy yếu đi nhiều, nên thầy gọi cho tôi, tha thiết bảo tôi gửi lời xin lỗi đến thầy Khuê, nói rằng giờ yếu rồi, hay mệt, mong thầy Khuê thứ lỗi. Thầy dặn đi dặn lại tôi phải nói với thầy Khuê: “ chỗ thầy với anh Nguyễn Khuê tuy không thân nhưng rất quý mến nhau, thầy quý anh ấy cái tâm với nghề, và cả tài năng nữa, em nhớ nhắn gửi cho thầy”. Thầy là vậy: cẩn thận, chu đáo, thấm đẫm tình người. Khi làm thành viên Ban chấp hành Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, tôi lại có dịp làm việc với thầy nhiều hơn. Gia đình tôi là hậu duệ của thi sĩ Bích Khê, muốn nhờ Hội kết hợp với Khoa tổ chức một đêm thơ nhạc Bích Khê, thầy là người ủng hộ và sốt sắng nhất trong việc tổ chức. Từ việc viết bài để dẫn, gợi ý người viết bài, xem lại chương trình, thậm chí các tiết mục ca nhạc cũng được thầy góp ý tận tình, kỹ lưỡng. Gia đình tôi nợ ân tình thầy. Mà thầy lại là người giản dị, không đòi hỏi, không màng danh lợi, vật chất. Bao nhiêu năm sống trong căn hộ tập thể của Đại học Sư phạm TP.HCM, dọn được về căn nhà mới nhỏ gọn trên đường Trần Hưng Đạo, khi tiếp khách, thầy rất vui. Thầy hay nói vui: hơn 70 tuổi đầu mới biết đến việc có một căn phòng làm việc riêng, phòng tắm có gắn máy nước nóng. Quả là những đãi ngộ cho các bậc trí thức của mình cũng còn nhiều thiếu sót!

Hôm nay, tôi cầm trong tay cuốn sách thầy tặng, vào đúng năm thầy 80 tuổi…Cuốn sách của một vị thầy đã 80 tuổi, tuổi mà mọi điều nói ra, viết ra đều đã đạt đến độ chiêm nghiệm cái lẽ thấu suốt của cuộc đời, của trời đất. 80 tuổi mà thầy còn viết, thì đó là những lời gan ruột. Thành ra cứ mỗi sáng, tôi lại giở ra đọc về một người thầy. Đọc để hun đúc thêm cho mình khí chất, tâm huyết, nỗi khổ công của các vị thầy. Mỗi vị thầy đều có những bước ngoặt trong cuộc đời của họ, đều sinh ra trong những giai đoạn đất nước có những đau đớn về lịch sử, vận mệnh, mà mỗi vị đều phải tự mình tìm ra con đường để đóng góp sức mình vào những đổi thay của dân tộc. 25 vị thầy đó là: Trương Vĩnh Ký, Dương Quảng Hàm, Đặng Thai Mai, Đào Duy Anh, Giản Chi, Nghiêm Toản, Nguyễn Văn Nguyễn, Nguyễn Lương Ngọc, Trần Văn Giàu, Vũ Đình Hòe, Huỳnh Lý, Nguyễn Đổng Chi, Lê Trí Viễn, Hoàng Như Mai, Nguyễn Đình Đầu, Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Phạm Thế Ngũ, Thẩm Thệ Hà, Lê Đình Kỵ, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Đăng Mạnh, Văn Tâm, Nguyễn Khắc Phi, Phong Lê. 25 vị thầy có thể nói không chỉ gói gọn trong “từ bục giảng đến văn đàn”, tức là không chỉ trên hai lĩnh vực giảng dạy và sáng tác, mà còn trên nhiều lĩnh vực khác của hoạt động văn hóa văn nghệ: nghiên cứu, dịch thuật, làm từ điển, làm sách giáo khoa, đảm nhiệm những vị trí về văn hóa trong bộ máy chính quyền trên nhiều lĩnh vực: văn học, lịch sử, ngôn ngữ, nghệ thuật,… Theo như tâm sự của thầy: có vị thầy được học, có vị không, nhưng đều là những người

Thầy của thầy trong cuộc đời 80 năm đi học và tự học. Người thầy lớn tuổi nhất trong cuốn sách này, Trương Vĩnh Ký, sinh năm 1837, tức là năm nay đã 188 tuổi,người thầy nhỏ nhất, là Phong Lê, ngót 80 tuổi. Khoảng cách hơn 100 năm, một thiên niên kỷ trong chiều dài lịch sử của một dân tộc, lại là giai đoạn lịch sử nhiều biến động, vinh nhục, đau thương và huy hoàng của dân tộc. 25 vị thầy này đã đóng góp tài năng, đức độ và công sức của mình vào sự nghiệp văn hóa của một dân tộc. Đọc toàn bộ cuốn sách, tâm huyết của một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, một nhà khảo cứu, một nhà văn Trần Hữu Tá thể hiện rất rõ. Đó là sự thận trọng, chân xác của lịch sử, tiểu sử; là sự chừng mực nhưng trân trọng; sự dũng cảm trong việc đánh giá những đóng góp của các vị thầy (ngay với cả những quan điểm mà có vẻ như trái ngược nhau hoặc không được đồng tình); là ngòi bút tài hoa và tinh tế; là tấm lòng của một học trò hậu bối…Là một hậu bối của thầy, tôi đọc cuốn sách trong một tâm thức khó tả. Đó không chỉ là một cuốn sách chân dung, càng không phải là một cuốn sách tiểu sử, trên hết, tôi đọc với một tâm thức về dòng mạch len lỏi của đạo lý “tôn sư trọng đạo”,“uống nước nhớ nguồn”. Hơn thế nữa, còn là dòng mạch rất rõ của việc đề cao và nuôi dưỡng sự tử tế, sự lương thiện. Ai đó đã nói: “Trên hết của tài năng là sự lương thiện”. Tất cả những tri thức văn hóa mà ngày nay chúng ta thụ hưởng được, có công rất lớn của các tiền bối, mà, trong khi luận định về vị trí, vai trò, công lao của họ, chúng ta rất cần có một con mắt “nhìn suốt sáu cõi”, bỏ qua những thiên kiến chính trị, vùng miền, như của thầy Trần Hữu Tá.

Đây là một cuốn sách cần thiết cho những ai muốn hiểu thêm về một người thầy lớn kể về những vị thầy vĩ đại!

11-2016

Tôi được biết, được học với thầy Nguyễn Văn Hạnh là khi thầy đã đi qua thời kỳ hoạt động sôi nổi và thành công vang dội.

20231123

Giáo sư Nguyễn Văn Hạnh (thứ 3 từ trái qua) cùng học trò

ẢNH TƯ LIỆU

Tôi không được chứng kiến phần đời hiển hách đó, và thầy không mấy khi kể cho tôi nghe nhưng tinh thần sôi nổi của thời Đổi mới, của những sáng kiến thiết thực luôn hiện lên trong ánh mắt, giọng nói, cử chỉ của thầy. Thật sự thầy tôi đã sống một cuộc đời đáng sống, làm được những gì mình muốn làm. Và rất nhiều người được hưởng lợi từ đó, trong đó có tôi.

Những hiển hách vinh quang của giáo sư Nguyễn Văn Hạnh, nhiều người biết, nhiều bài viết. Tôi chỉ xin ghi tản mạn một đôi điều về thầy của tôi trong đời thường.

Trao cho người học tư duy độc lập

Tôi luôn tự hào, luôn hãnh diện khi nhắc đến người hướng dẫn khoa học bậc sau đại học cho tôi là thầy Nguyễn Văn Hạnh. Núp dưới bóng cái tên của thầy, tôi vững tâm. Thầy hướng dẫn tôi cả ở cấp thạc sĩ lẫn tiến sĩ.

Không phải nói quá, nếu người hướng dẫn không phải là thầy, chắc tôi còn lâu mới hoàn thành luận văn, luận án. Tuy tôi không bao giờ than thở với ai về nỗi tất tả đơn độc kiếm sống, bôn ba xê dịch kiếm chốn dung thân khắp TP.HCM (tôi từng rời chỗ ở thuê đến 8 lần) nhưng thầy thấu hiểu và thương cảm, chỉ nhẹ nhàng gọi điện nhắc bảo tôi. 

Thầy nói: "Lâu quá rồi không biết em viết đến đâu. Em không đến nhà tôi thì cũng phải cho tôi biết nhà em để tôi đến chứ! Thì tôi vẫn biết em tất nhiên phải làm lụng để nuôi con. Không cần em lúc nào cũng ngồi vào bàn viết lách, nhưng đừng bao giờ quên mối quan tâm về đề tài". 

Ở nơi thầy, tôi học được cách tách biệt cái gì "đáng" và cái gì "không đáng" để tâm. Thầy thường cười cười: "Ồ, cái đó không đáng em ạ!". Tôi ngấm dần triết lý "không đáng" của thầy nên thấy tinh thần mỗi ngày một nhẹ nhàng, thơ thới hơn. Với tinh thần ấy, tôi bước vào các buổi đệ trình công trình khoa học một cách nhẹ nhàng. 

Rồi trong cuộc sống cũng thế, tôi quên rất nhanh những gì làm mình phiền muộn. Nhiều khi đến gặp thầy với những khúc mắc và buồn khổ, tôi ra về với nụ cười trên môi, thậm chí khúc khích thành tiếng một mình trên đường phố.

Đọc bài tôi viết, nghe tôi trình bày vấn đề phát sinh, thầy nhẹ nhàng định hướng lại, sao cho kín kẽ, nhất quán, nhưng không bắt tôi từ bỏ quan điểm, dù có thể thầy không đồng ý hết, miễn là tôi có thể "lý sự" được. Thầy không bao giờ cầm tay chỉ việc, mà trao cho người học sự độc lập tư duy, độc lập tìm tòi và tự mình giải phẫu hiện tượng. Làm luận án về Tiếp nhận văn học, tôi không hề được thầy cho biết thầy chính là người Việt Nam đầu tiên nổ phát súng về lĩnh vực này. Ngay từ năm 1972, khi lý thuyết về Mỹ học tiếp nhận của trường phái Konstanz chưa hề được ai nhắc đến, thầy bảo: "Lịch sử vấn đề là một vấn đề chỉ có thể tự tìm hiểu, không ai mách nước cho được".

Thầy Hạnh của tôi - Ảnh 2.

GS Nguyễn Văn Hạnh (thứ hai từ phải sang) cùng đồng nghiệp và học trò

ẢNH TƯ LIỆU

Sắc sảo trong khoa học nhưng lại hết sức đôn hậu trong cuộc sống

Ở thầy không chỉ là kiến thức khoa học mà cả sự thông tuệ, chỉ có thể có được sau trải nghiệm cuộc sống và nghiền ngẫm về nó. Thầy rất tế nhị trong chuyện riêng tư của tôi, thường chỉ hỏi: "Thế nào, em sống có ổn không, dạo này có gì mới không em?". Và sau đó, thầy cười: "Có khi không có gì mới - mới là ổn, em ạ". Thầy nhận ra người này người nọ không thể làm việc nọ việc kia, vì tuy tốt bụng và thông minh, nhưng "cố chấp quá, dẫn đến sự ép uổng nghiệt ngã người cùng chí hướng". 

Sắc sảo trong khoa học, nhưng lại hết sức đôn hậu trong cuộc sống. Thầy yêu quý và thích thưởng lãm cái đẹp, tuyệt nhiên không bao giờ nói xấu phụ nữ. Đặc biệt, thầy rất trân trọng, thương xót những người phụ nữ quanh mình - vợ, con gái, con dâu. Không phải một lần, và không chỉ nói với tôi, thầy tỏ lòng biết ơn người vợ đã gồng gánh việc nhà cửa, chăm sóc con cái khi thầy còn bôn ba việc xã hội. Khi về già, thầy cố gắng bù đắp cho cô, mà vẫn cứ áy náy, cứ xót xa, thương "Bà Tú ở mom sông". 

Về hưu lâu rồi, thầy vẫn tráng kiện, rắn rỏi, đi bộ đường dài, hồ hởi ngắm nhìn xung quanh: "Không biết em thế nào, chứ tôi yêu cái thành phố này quá!". Nhưng rồi thầy lại muốn mau mau về nhà, vì "nhớ thằng cháu đang bi bô tập nói, tập đi". Ông nội một thuở tung hoành "một mình một ngựa, phá trùng vây ở giữa sa tràng" làm náo động trên những sự kiện văn hóa thập niên đổi mới, giờ gần như ngỡ ngàng ngưỡng mộ, thán phục từng từ đầu tiên của đứa trẻ tập nói.

Thầy không chỉ là người thầy, mà còn là một người cha. Bố tôi và thầy vốn quen biết nhau từ hồi hai người còn trẻ, suốt đời trọng thị nhau. Theo thói quen, đôi lúc thầy gọi tôi là "cháu". Còn bố hoàn toàn an tâm khi thấy con gái "theo chú Hạnh". Những lúc bố hiếm hoi từ Bắc vào, hai cụ gặp nhau trò chuyện, tôi thấy ấm lòng lạ, dường như thấy mình có hai người cha.

Đêm qua thầy tôi đã ra đi, về miền mây trắng, về thế giới những người hiền...

Thương nhớ làm sao những ngày qua, khi có thầy...

Thương cho mình làm sao, từ nay tôi không còn được gặp thầy ở ngõ Phạm Đôn nữa...

 

GS-TS Nguyễn Văn Hạnh từ trần vào hồi 22 giờ 30 phút ngày 19.11.2023 (nhằm ngày 7.10 năm Quý Mão) tại TP.HCM, hưởng thọ 93 tuổi.

Lễ nhập quan lúc 14 giờ ngày 20.11.2023; Lễ động quan lúc 8 giờ ngày 22.11.2023 (nhằm ngày 10.10 năm Quý Mão), tại Nhà tang lễ Thành phố, Quốc lộ 1A, phường An Lạc, quận Bình Tân, TP HCM; sau đó linh cữu được đưa đi hỏa táng tại Trung tâm Hỏa táng Bình Hưng Hòa.

 

Thân thế và sự nghiệp

GS Nguyễn Văn Hạnh sinh ngày 01.01.1931, quê quán Điện Thọ, Điện Bàn, Quảng Nam. Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1972.

Ông sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học. Ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn ĐH Tổng hợp Lomonosov ở Moskva, Nga năm 1961. Ông bảo vệ luận án tiến sĩ ngữ văn tại đây năm 1963.

Năm 1963, ông về nước, công tác tại Khoa Văn, Trường ĐH Sư phạm Hà Nội, chủ nhiệm bộ môn lý luận văn học.

Từ năm 1965, với cương vị là chủ nhiệm bộ môn lý luận văn học, ông là một trong những người chủ trì và tham gia biên soạn bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học (4 tập, xuất bản từ 1965-1971). Đây là một trong 3 công trình lý luận văn học đầu tiên (Văn học khái luận của Đặng Thai Mai, Nguyên lý lý luận văn học của Nguyễn Lương Ngọc) vận dụng các nguyên lý, các khái niệm do các học giả Xô viết đưa ra để xây dựng bộ giáo trình lý luận văn học của Việt Nam, giải thích những vấn đề thực tiễn trong lịch sử văn học nước ta.

Sau ngày đất nước thống nhất, ông làm Trưởng ban phụ trách Viện ĐH Huế, Hiệu trưởng Trường ĐH sư phạm Huế 1975-1981, Thứ trưởng Bộ GD-ĐT 1983-1987, Phó trưởng ban Văn hóa văn nghệ T.Ư, Phó trưởng ban Tư tưởng – Văn hóa T.Ư năm 1981-1983; 1987-1990, chuyên gia cao cấp Viện Khoa học xã hội, nay là Viện Khoa học xã hội vùng Nam bộ tại TP.HCM. Ông được phong PGS năm 1980, GS năm 1984. Ông nghỉ hưu năm 2003.

Các tác phẩm chính đã xuất bản:

Cơ sở lý luận văn học (4 tập, 1965-1971, chủ trì và tham gia biên soạn); Suy nghĩ về văn học (tiểu luận, 1972); Thơ Tố Hữu, tiếng nói đồng ý, đồng tình, đồng chí (chuyên luận, 1980, 1985); Nam Cao – một đời người, một đời văn (1993); Lý luận văn học – vấn đề và suy nghĩ (nghiên cứu, viết chung, 1995); Văn học và văn hóa – vấn đề và suy nghĩ (tiểu luận, 2002); Trăm năm thơ Đất Quảng (tuyển tập thơ, 2005, chủ biên và tham gia biên soạn); Chuyện văn chuyện đời (tiểu luận, 2005); Lý luận phê bình văn họcThực trạng và khuynh hướng (tiểu luận, 2009); Phương pháp luật nghiên cứu văn học (nghiên cứu, 2012).

(Theo website Hội Nhà văn Việt Nam)

Nguyên Tâm Thuận

Nguồn: Thanh niên, ngày 21.11.2023.

Đời sống văn học thời cận đại và hiện đại cho thấy mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp nhận văn học ngày càng gắn kết nhờ vai trò quảng bá, giảng dạy trong nhà trường. Nhà trường trở thành nhân tố tác động đến việc phổ biến văn học, góp phần hình thành một lớp nhà văn mới, đồng thời với một lớp độc giả mới. Trong chu trình đó của văn học, người thầy giáo dạy văn đóng ba vai trò cùng một lúc: vừa là độc giả được chuẩn bị tâm thế để tiếp nhận tác phẩm văn học; vừa là người “trung chuyển” truyền tải tư tưởng và nghệ thuật ngôn từ đến với các thế hệ hậu sinh; lại vừa là người đồng sáng tạo trong những giờ giảng văn hoặc chính là người sáng tác, trước tác những tác phẩm văn học hay công trình nghiên cứu.

PGS-TS Trần Hữu Tá (thứ 4 từ trái sang) và GS-TS Huỳnh Như Phương (thứ 2) cùng đồng nghiệp các thế hệ

Văn học Việt Nam từ cuối thế kỷ 19 đến nay chứng minh đặc điểm phổ quát đó. Văn học ngày càng gần gũi với đông đảo độc giả vì chữ quốc ngữ trở thành công cụ giao tiếp của xã hội; báo chí và xuất bản phát triển với công nghệ ấn loát được cải tiến; giáo dục trở thành phúc lợi chung của người dân; nạn mù chữ được thanh toán qua các cuộc vận động xã hội. Những điều kiện đó giúp công chúng rộng rãi có cơ hội tiếp cận và thụ hưởng những kiệt tác văn chương của dân tộc, cổ điển cũng như hiện đại. Trong thành tựu của văn hóa, vai trò của nhà giáo thật không ai sánh nổi.

Ở Việt Nam, hơn một thế kỷ qua, hình ảnh và quan niệm về người thầy cũng thay đổi rất nhiều. Những biến động và biến đổi xã hội làm cho vị trí người thầy không yên ổn giữa bốn bức tường lớp học mà được thử thách trong nắng gió và bão táp của thời cuộc. Bao lần thay đổi chế độ, bao cuộc chiến tranh, bao chương trình cải cách xã hội… đã kéo nhà giáo ra khỏi khuôn viên trường học, đối mặt với những chọn lựa lắm khi sinh tử và buộc phải trả lời những câu hỏi gay cấn của đời sống. Đặc biệt, những nhà giáo dạy văn, những nhà giáo cầm bút rất khó giữ một thái độ thuần túy văn chương, học thuật, mà luôn đụng chạm đến cái thời sự dễ quy chiếu nhân cách và thân phận mình vào với lịch sử.

Là giáo sư văn học lâu năm, có uy tín và nhiều kinh nghiệm trong nghề giáo lẫn nghề văn, chắc hẳn Trần Hữu Tá hiểu rõ tình thế đó của những người đồng nghiệp tiền bối và cùng thời. Sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm - Văn khoa ở Hà Nội năm 1959, lúc mới 22 tuổi ông trở thành giảng viên Trường Sư phạm trung cấp liên tỉnh Hà Tĩnh – Quảng Bình – Vĩnh Linh, vùng giới tuyến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó. Hành trang mang theo của ông là những bài giảng và tấm gương sư phạm của những bậc thầy nổi tiếng: Trần Đức Thảo, Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Trương Tửu, Nguyễn Lương Ngọc… Hai năm sau, ông được cử làm hiệu phó, rồi hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp Sơn Tây trước khi trở về mái nhà xưa là Khoa Ngữ văn Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào năm 1965. Ông dạy văn học Việt Nam hiện đại ở đó hơn 20 năm rồi tiếp tục công việc này ở Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh cho đến ngày nay.

Trọn đời là nhà giáo dạy văn, là nhà văn, nhà nghiên cứu và phê bình văn học, Trần Hữu Tá nhiều lần chia sẻ với học trò, đồng nghiệp và độc giả những ấn tượng, cảm xúc và suy nghĩ của bản thân mình về những người thầy giáo “từ bục giảng bước ra văn đàn”, những người trên tư chất nhà giáo mà khẳng định bản lĩnh của mình trong đời sống văn học, và với tư chất nhà văn mà nâng cao phẩm cách của mình trên cương vị nhà giáo. Gần mười năm nay, không còn bị chi phối vì công tác quản lý giáo dục, ông dành nhiều thời gian để hoàn chỉnh 25 bài viết về những người thầy mà ông trân trọng và cuốn sách Từ bục giảng đến văn đàn là kết quả của mối quan tâm bền bỉ ấy.

Nét chung nhất của những bài viết trong tập sách này là sự kết hợp văn phong khoa học và nghệ thuật khắc họa chân dung. Là ngòi bút cẩn trọng khi viết chuyên khảo và sách giáo khoa, Trần Hữu Tá không bao giờ nói về tác gia, tác phẩm mà tách khỏi tiểu sử cá nhân và bối cảnh lịch sử. Những chi tiết đời tư và sự kiện xã hội ánh xạ với nhau được tác giả chọn lọc và cân nhắc khi đưa vào văn bản để làm rõ nhân cách và tính cách của đối tượng. Hầu hết những nhà giáo – văn nhân ở đây đều từng sống qua hai chế độ đối nghịch, cách ứng xử của họ là một bài học, hơn nữa là một nghệ thuật để lại cho đời sau. Mỗi người đều có một “cuốn sổ bình sinh”, dày hay mỏng, cho hậu thế soi mình. Cắt nghĩa thái độ và con đường lập nghiệp của họ đòi hỏi một cái nhìn vừa điềm tĩnh khách quan, vừa thấu đáo nhân tình.

Không chỉ Trương Vĩnh Ký, Đào Duy Anh, Nghiêm Toản, mà cả Trần Văn Giàu, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Đình Đầu đều có những bước ngoặt khó khăn trong cuộc đời hoạt động không thể lý giải một chiều. Điều quan trọng là họ đã gặp nhau trong chí hướng phụng sự dân tộc, trước hết và trên hết về văn hóa và giáo dục, với tinh thần độc lập của người trí thức. Hoàn cảnh xã hội và đời riêng của họ cách xa nhau biết bao, nhưng tất cả đều để lại cho đời những tấm gương sáng về ý chí tự học, vượt gian khổ, vượt cả những rào cản và định kiến để nói lên tiếng nói trung thực của người trí thức trên bục giảng và trên văn đàn. Có thể nói chất lý tưởng trong nghề giáo và chất thẩm mỹ trong nghề văn đã cộng hưởng với nhau, tạo nên gương mặt tinh thần của họ, mặc dù đã là người mấy ai không có tì vết.

Qua sự phân tích của Trần Hữu Tá, ta cảm nhận được tình nghĩa của Vũ Đình Hòe, Nguyễn Lương Ngọc dành cho Đoàn Phú Tứ, Nghiêm Toản – những người bạn một thời cách xa về danh phận và cách trở về giao tiếp. Và ta cũng hiểu những con người xa cách đó đã sống và viết như thế nào để giữ được mối thâm tình và sự tôn trọng nhường kia. Ba mươi năm sống ở miền Nam giúp cho những trang viết của Trần Hữu Tá về Giản Chi, Nguyễn Văn Xuân, Võ Hồng, Nguyễn Đình Đầu, Phạm Thế Ngũ, Thẩm Thệ Hà có sự ấm áp, gần gũi của người đồng cảm.

Có lẽ chính những bài viết về các đồng nghiệp bao năm chia ngọt sẻ bùi càng cho thấy rõ một phương diện của ngòi bút Trần Hữu Tá: qua khắc họa chân dung người thầy mà làm toát lên thần thái của một văn nhân. Đó là Huỳnh Lý với cái bếp dầu hôi làm bằng ống bơ quây quần bè bạn, là Nguyễn Đăng Mạnh với chiếc mũ lá cũ kỹ và gói trà Thái Nguyên bị khám xét dọc đường, là Văn Tâm với những bức tranh và đồ gốm cổ đổi bằng tem phiếu thực phẩm gia đình... Rồi sẽ có những lớp thầy giáo – nhà văn khác đến thay thế những người đã qua. Phong thái trong đời và trong văn của thế hệ trước không nên được lặp lại và cũng không thể lặp lại. Thông thuộc tính nết của những người thầy, người bạn từng sinh hoạt ở cùng một khoa, một tổ bộ môn, trong lòng thủ đô hay giữa làng quê nghèo khi sơ tán, Trần Hữu Tá lưu giữ cho chúng ta hình ảnh và kỷ niệm về những nhà giáo thanh bạch đã một thời làm chứng rằng phẩm giá con người có thể đứng cao hơn hoàn cảnh.

Đọc tiểu thuyết Số phận một quả chuông, tác phẩm cuối đời của nhà giáo – nhà lý luận văn học Nguyễn Lương Ngọc, Trần Hữu Tá nhận ra thông điệp kín đáo của tác giả. Quả chuông làng Lai Xá trong truyện là biểu tượng cho số phận người trí thức, không lệ thuộc vào môi trường đào luyện, dù “trải bao phen truân chuyên chìm nổi”, thậm chí từng chịu oan khuất, vẫn không bao giờ quên sứ mạng của mình là ngân vang tiếng gọi hồn làng, hồn nước. Nguyễn Lương Ngọc qua hình tượng nghệ thuật mà mở lòng ra với đời: tiếng chuông sẽ thanh lọc và “chiêu tuyết” cho lịch sử, vốn không thiếu những góc khuất và những trớ trêu.

Cũng là người “từ bục giảng đến văn đàn”, Trần Hữu Tá gửi gắm lòng mình qua những trang viết về đồng nghiệp là điều dễ hiểu. Khi viết về những nhà giáo cao niên, ông thường bày tỏ niềm tin hơi lạc quan về tuổi thọ con người có thể kéo dài đến 90 năm, thậm chí một trăm năm. Thật ra, có ai mà cưỡng được quy luật của thời gian! Nhưng viết về người khác, có lẽ tác giả cũng qua đó bày tỏ một nỗi ám ảnh và băn khoăn không chỉ của riêng mình. Nhà giáo, nhà văn sẽ làm gì đây khi quỹ thời gian đang dần cạn? Ta sẽ còn tặng cho đời những món quà gì nữa đây sau ngần ấy thời gian nhọc nhằn trên bục giảng và trên trang giấy?

Trong ý nghĩa đó, Từ bục giảng đến văn đàn là món quà tinh thần mới nhất mà nhà giáo – nhà văn Trần Hữu Tá gửi đến chúng ta nhân ngày 20 tháng 11 năm nay.

(Lời bạt trong sách Từ bục giảng đến văn đàn, Tiểu luận văn hóa của Trần Hữu Tá, NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2015)

 

20231024 2

PGS - Nhà giáo ưu tú Chu Xuân Diên sinh năm 1934 tại tỉnh Bắc Ninh. Sau khi tốt nghiệp khóa đầu tiên (1956 - 1959) ngành Ngữ văn tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông được giữ lại trường làm cán bộ giảng dạy văn học dân gian. Từ năm 1986 đến năm 2000, ông công tác tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh (hiện nay là Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh).
Năm 2000, ông về hưu và chuyển sang làm việc ở Trường Đại học dân lập Văn hiến (TP. Hồ Chí Minh) với trách nhiệm Chủ nhiệm Khoa Văn hóa. Năm 1984, ông được Nhà nước phong chức danh Phó Giáo sư Văn học.
Nhà giáo Ưu tú Chu Xuân Diên đã có nhiều năm nghiên cứu, viết sách, giảng dạy đại học và sau đại học, trên các lĩnh vực chính văn học dân gian, văn hóa dân gian, văn hóa, dân tộc học. Ngoài ra, ông còn có đóng góp đáng kể trong lĩnh vực dịch thuật.

Tôi may mắn được học thầy từ năm lớp 10 ở trường Phổ thông Năng Khiếu. Đến bây giờ ngẫm lại, làm phép tính trừ tới trừ lui, tôi vẫn không tin được lúc đó, năm 1997, khi dạy lớp tôi chuyên đề về văn học dân gian thì thầy đã 63 tuổi.

Bởi vì lúc đó thầy còn trẻ quá, trẻ từ dáng người đến tâm hồn, tính cách. Tôi không biết đến khi mình đã ngoài 60, ở cái tuổi bắt đầu “mỏi gối chồn chân”, tôi có còn được nhanh nhẹn, minh mẫn, tinh tấn để thong dong đạp xe đến trường và tiếp tục “gõ đầu trẻ” như thầy không.


Tiên ông với chiếc xe đạp: giữa nắng và sứ trắng

Những buổi chiều đến dạy chúng tôi, thầy đều mặc áo sơ mi, quần tây giản dị, đi bằng xe đạp và nhẹ nhàng gạt chân chống dựng xe dưới gốc cây sứ đầu tiên trong sân trường. Tôi nhớ hoài mái tóc thầy cắt ngắn gọn ghẽ, màu bạc trắng lấp lánh hòa vào màu nắng trong vắt như lẫn vào màu hoa sứ, làm cả một vùng sân trường dưới tán cây sứ sáng bừng lên. Tôi ngồi ngay cửa sổ lớp, tính lại hay mơ mộng nên thường nhìn qua khung cửa ngắm nắng, ngắm mây trời và những cội sứ trắng huyền thoại. Vì vậy mà hình ảnh ban đầu về thầy trong tôi không gắn liền với không gian bảng đen phấn trắng mà là không gian của vùng hoa sứ đẫm nắng trong veo. Thầy hiện ra, đẹp như một tiên ông nhỏ nhắn đi xe đạp giữa ánh sáng hoa nắng ấy. Tôi nghĩ lần đầu Tấm gặp gỡ Bụt, chắc nàng cũng thấy vùng ánh sáng rạng rỡ, vừa bừng lên, nhưng cũng vừa đằm ngọt dịu dàng như vậy.

Mà khi giảng bài, thầy cũng giảng như một tiên ông. Thầy lúc nào cũng từ tốn đi từ ý này sang ý kia một cách lớp lang, rõ ràng, dễ hiểu nhưng lại truyền tải cả hệ kiến thức uyên thâm về văn hóa dân gian cho lũ học trò chuyên Văn còn ngơ ngác ở cái tuổi 15 chúng tôi. Có thể nói, thầy là người đầu tiên mở ra cho chúng tôi một cánh cửa khác, một thấu kính khác để nhìn vào các câu chuyện cổ tích quen thuộc, từ Tấm Cám, Sọ Dừa, Thạch Sanh Lý Thông đến Sự tích trầu cau, Hòn vọng phu, câu chuyện Cây khế,… Từ đó, chúng tôi vỡ lẽ ra rằng mình có thể đọc cổ tích bằng đôi mắt hồn nhiên, long lanh của thế giới trẻ thơ và cũng có thể đọc bằng tư duy luận lý khách quan, xem cổ tích như những di chỉ khảo cổ sống động của hình thái xã hội cổ xưa, của các tập quán, tín ngưỡng và cách thức thực hành nghi lễ ở các cộng đồng từ trong quá khứ. Những bài giảng của thầy vừa êm đềm trong veo cổ tích, vừa thăm thẳm uyên bác hang động u huyền, xuyên qua cả triệu năm nhân loại lớn dậy từ thuở ấu thơ. Thầy đứng giữa lớp thanh nhẹ như tiên ông không cần đũa phép, giọng nói nhẹ nhàng, nụ cười cũng hiền lành nhẹ nhàng, như thể Bụt trong truyện cổ hiện ra giữa đời thường.

Nhưng rồi có lần tôi tranh luận với Bụt. Và lần tranh luận đó trở thành một kỷ niệm đáng nhớ, một bài học có muôn vàn ý nghĩa trong hành trình trưởng thành của tôi.


Chuyện cái vần “ưa”: đôi khi ta không cần hoạch định trước tương lai

Tôi vẫn nhớ trong buổi học thứ hai, thầy giảng về ca dao dân ca và đọc cho chúng tôi nghe bài ca dễ thương của dân gian:

“Trời mưa cho ướt lá dừa

Đôi ta be bé đi bừa với nhau

Trời mưa cho ướt lá cau

Đôi ta be bé rủ nhau đi bừa”

Trong lúc phân tích, thầy giảng về đặc trưng tư duy sáng tạo và nói rằng nhiều khi tác giả dân gian chỉ nương theo vần, điệu để cho chữ gọi chữ và hình thành nên bài ca. Thế nhưng khi ấy, tôi không chấp nhận kiến giải đó, đưa tay phát biểu. Được thầy mời, tôi trình bày huyên thuyên với giọng điệu hùng hổ của tuổi mới lớn rằng tác giả dân gian phải có ý thức, có chủ đích lựa chọn lá dừa, lá cau, đi bừa vì đó là những hình ảnh gắn liền với đời sống dân tộc, tạo nên chất dân dã chứ không thể chỉ vì tình cờ gieo vần “ưa” rồi tạo ra bài thơ. Thầy cười nhẹ nhàng, từ tốn bảo tôi rằng bài thơ chứa những điều tôi vừa phân tích, nhưng cũng có sự ngẫu hứng, tình cờ của con chữ nữa. Nhưng con bé tuổi 15 “trẻ trâu” trong tôi lúc đấy không chịu chấp nhận, lại tiếp tục đứng lên “cãi thầy” bằng cái giọng ào ào, sục sôi. Thầy vẫn điềm tĩnh để cho tôi nói hết tất cả những gì muốn nói, rồi cười nụ cười thật hiền, nhìn tôi bằng đôi mắt trong veo và chỉ nói một câu: “Có thể sau này, từ từ em sẽ hiểu ra và nghĩ khác”.

PGS-NGƯT Chu Xuân Diên cùng các học trò và đồng nghiệp

Rồi thời gian trôi đi, tôi giã từ thời cấp ba, trở thành sinh viên ngành Văn học và được gặp lại thầy trong môn học Thi pháp truyện cổ tích. Công trình nghiên cứu nổi danh của thầy khi ấy Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học là một trong những cuốn sách giúp tôi học cách tư duy phân tích văn học một cách rõ ràng, thuyết phục từ cái nhìn có tính liên ngành. Sau gần 7 năm, tôi thấy thầy vẫn giữ vẹn nguyên vóc dáng ấy, phong thái ấy, sự uyên bác giản dị và từ tốn ấy. Chỉ có điều tôi không còn được nhìn thấy thầy trên chiếc xe đạp giữa một vùng nắng huyền thoại bên cội sứ trắng nữa. Khi ấy tôi đã tập tành làm thơ nhiều hơn, gửi đăng báo và tham dự cuộc thi Bút mới trên báo Tuổi Trẻ. Với trải nghiệm làm thơ, tôi dần vỡ lẽ ra bài giảng thầy cho tôi năm 15 tuổi. Nhiều bài thơ, tôi viết câu đầu tiên với ý tưởng đang nảy nở, nhưng các câu tiếp theo là chữ gọi chữ, vần gọi vần, cứ nối nhau đi theo một sự ngẫu hứng kỳ lạ. Những con chữ khi ấy như đang chủ động trong một cuộc chơi riêng, vượt lên trên tôi, choài ra khỏi tôi. Tôi thấm thía kết luận của thầy hôm đó và hiểu ra rằng cái ngẫu hứng, cái không dự định trước cũng là cái giá trị, chứ không phải là cái vô nghĩa.

Rồi nhờ bài học ứng xử hấp thụ được từ thầy, tôi biết kiên nhẫn, bao dung hơn với học trò của mình, từ những học trò cấp ba đang tuổi lớn, tuổi khẳng định cái tôi ở trường Phổ thông Năng Khiếu đến những lứa sinh viên ở Đại học. Tôi hiểu rằng đôi lúc mình cần kiên trì chờ ai đó lớn lên, trải nghiệm để vỡ lẽ cái điều mà người đi trước nhìn thấy, đừng nên gò ép, phán xét, áp đặt những kinh nghiệm của mình vào người trẻ. Khoảng không tự do trong tri thức và ứng xử thầy dành cho tôi để trưởng thành thật trong lành, đẹp đẽ. Và tôi tâm niệm mình cũng sẽ dành điều đó cho những người trẻ quanh tôi.

Xa hơn nữa, bài học hôm ấy của thầy không chỉ có giá trị với tôi trong môi trường học thuật, mà dần dần, với những trải nghiệm đời người, tôi còn hiểu ra rằng đôi khi mình cứ hồn nhiên nương nhờ theo dòng chảy cuộc sống, không cần phải hoạch định trước, có mục tiêu trước với tất cả những gì xảy ra trong đời, như người làm thơ không cần phải chăm chăm hoạch định từng câu thơ một. Hẳn nhiên, chúng ta cần sống có mục đích để không bơ vơ, hoang mang kiểu “người bay không có chân trời” như câu thơ nổi tiếng của Trần Dần. Nhưng nhiều khi giữa đời, ta cũng cần nới lỏng mình ra, thả ta phiêu diêu tự do như bong bóng bay vuột khỏi tay đứa trẻ, lửng lơ tận hưởng mây trời. Những nhân duyên đầy ngẫu hứng của cuộc đời sẽ đưa đẩy ta đến bao điều thú vị mà biết đâu, khi ta chăm chăm đi tìm thì lại không gặp, không thấy.

Những kỉ niệm với thầy nuôi nấng tôi trưởng thành từng ngày, từ năm 15 tuổi đến nay. Suốt 27 năm qua, lần nào được gặp thầy, tôi cũng thấy như mình được gặp nắng ấm từ nụ cười nồng hậu, ánh mắt hiền từ và cử chỉ, giọng nói nhẹ nhàng, từ tốn của thầy. Tiên ông đi xe đạp của những đứa học trò lớp 10 chúng tôi thuở ấy thực sự bước ra từ cổ tích và khiến chúng tôi thêm yêu cổ tích vì khi nhìn thấy thầy, chúng tôi có thể tin một cách chắc chắn rằng: cổ tích có thật giữa cuộc đời này.

Hồ Khánh Vân [1]


[1] TS. Phó trưởng khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh.

PGS.TS Trần Hữu Tá, chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, nguyên trưởng khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, nguyên hiệu trưởng Trường THPT Trương Vĩnh Ký, vừa qua đời tối 27-11, thượng thọ 86 tuổi.

Web Khoa Văn học xin đăng lại bài của PGS. TS Đoàn Lê Giang viết về thầy 6 năm trước, nhân dịp lễ Thượng thọ (80 tuổi) của thầy.

Tôi gặp thầy Trần Hữu Tá từ đầu những năm 1990, khi ấy anh Lê Tiến Dũng dẫn tôi đến gặp thầy để ba thầy trò làm một quyển sách dạy văn cho nhà sách T.. Ngày ấy T. còn là một sạp sách báo ọp ẹp ở trước cổng trường Đại học Sư phạm TP.Hồ Chí Minh cũ kỹ xác xơ. Nhà thầy còn ở khu tập thể của Trường Sư phạm. Bước qua hẻm phía sau mấy tiệm cơm, tiệm photo ngổn ngang xô chậu mới đến nhà thầy. Nhà thầy chật, nhưng phòng khách luôn tươm tất, bàn ghế sạch sẽ, trà ngon, đúng như phong cách trí thức Hà Nội thời trước. Tôi bị thu hút bởi phong cách lịch lãm, chuyện trò thông thái và thái độ ân cần của thầy. Thầy trò làm việc với nhau rất ăn ý, thầy tỏ ra rất tin tưởng tôi, dù lúc ấy tôi mới hơn 30 tuổi. Trong quyển sách, tôi được vinh dự đứng tên chung với thầy. Sách bán rất chạy, tái bản liên tục. Hết hạn hợp đồng tôi vẫn thấy sách được tái bản mà chủ nhà sách chẳng liên hệ và trả nhuận bút cho thầy trò gì cả. Tôi gặp nhóm xuất bản hỏi chuyện, nhưng họ chối ngay là họ không xuất bản (để khỏi trả nhuận bút), và họ thách thức: nếu các tác giả muốn kiện thì họ sẵn sàng đi hầu, đến đâu cũng theo! Sau không thấy họ tái bản nữa, tưởng họ đã thôi, nào ngờ đi tỉnh lại thấy sách tái bản ở một nhà xuất bản tỉnh, để tránh bị nhóm tác giả phát hiện, và khỏi phải trả mấy đồng nhuận bút còm. Đến nay thì thầy trò vẫn nghèo vậy, còn chủ nhà sách kia trở thành trùm xuất bản và phát hành sách. Thế tôi mới thấm thía chủ nghĩa tư bản ở Việt Nam đã hình thành với sự keo bẩn điển hình của giai cấp ấy trong giai đoạn tích lũy tư bản như thế nào.

Ấn tượng sâu sắc nữa là thầy trò cùng làm việc với nhau trong chương trình “Cửa sổ văn học” do HTV tổ chức vào cuối những năm 1990. Chương trình rất được học sinh, sinh viên yêu thích. Giai đoạn cuối cuộc thi, chỉ còn 2 đại biểu kỳ cựu nhất là Trường Phổ thông năng khiếu (thuộc ĐHQG TP.HCM) và Khoa Ngữ văn Trường ĐHSP TP.HCM. Trong Ban Giám khảo bên Đại học Quốc gia có tôi với TS.Phan Thu Hiền (lúc ấy chưa là PGS), bên ĐHSP có thầy Tá và anh Hoàng Dũng. Hai đội dự thi đội nào cũng xuất sắc, bên Năng khiếu có nhóm Hồ Khánh Vân, Long Hòa, Thanh Trâm.., (bây giờ là giảng viên Khoa Văn học và Ngôn ngữ, Trường ĐH KHXH&NV TP.HCM), bên Khoa Ngữ văn ĐHSP có Hoàng Phong Tuấn, Phạm Ngọc Lan… (bây giờ đều là giảng viên của Khoa Ngữ văn). Khi thi câu hỏi nào vừa đưa ra là cả hai đội đều bấm chuông ngay, không cần suy nghĩ. Thậm chí có cả câu đố “làm thơ trong vòng 7 bước” (như Thất bộ thi của Tào Phi), các bạn ấy cũng bấm chuông và hoàn thành ngay lập tức. Trong hai đội, đội Phổ thông Năng khiếu có vẻ nhỉnh hơn một chút. Thế là trong số các giảng viên phụ trách đội Khoa Ngữ văn Sư phạm có ý nghi ngờ bên tôi làm “lộ đề” cho “gà nhà”. Tôi và cô Thu Hiền không bao giờ làm chuyện đó. Thầy Tá là trưởng ban giám khảo cũng tỏ ý tin tưởng tôi và cô Hiền. Cuộc thi kết thúc suôn sẻ. Và thời gian, dư luận chứng minh niềm tin của Thầy đã đặt đúng chỗ.

Sau này được làm chung nhiều việc với thầy trong chuyện sách vở, hội thảo khoa học hay công việc của Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học TP.Hồ Chí Minh, tôi càng hiểu thầy và càng học được ở thầy nhiều điều.

Thầy có một kiến thức rất uyên bác, nhiều lĩnh vực khác nhau của khoa học ngữ văn. Thầy giỏi tiếng Pháp, cố nhiên rồi, như thế hệ của thầy. Thầy chuyên môn sâu về văn học Việt Nam hiện đại, nhưng cũng rất hiểu, rất thuộc văn học cổ điển Việt Nam và Trung Quốc. Thầy hay ngâm nga thơ cổ điển Việt Nam. Tôi cứ nhớ mãi, có lần trong bài viết của tôi tôi có trích thơ Vương Chi Hoán nhưng lại ghi lầm là Đỗ Mục, thầy đọc và phát hiện ra ngay. Tôi cứ phục mãi.

Thầy là một người ngay thẳng và cầu thị. Từng trải qua thời khó khăn của văn nghệ, thầy ngại đụng chạm, nhưng chưa bao giờ thầy nói ra những điều trái với suy nghĩ của mình. Hồi trước 1975 thầy được phân công theo dõi mảng văn học đô thị miền Nam, hồi ấy do hạn chế lịch sử nên thầy có nhiều ý tưởng và lời văn cứng rắn, không thật khách quan. Sau này thầy đã thẳng thắn nhìn nhận những chỗ sai lầm của mình và khắc phục điều ấy trong Từ điển văn học (bộ mới). Tôi nhớ có tờ báo kia nói năng báng bổ, hàm hồ quá, thầy gặp lãnh đạo Thành phố là thầy nhắc ngay, nhờ vậy mà tờ báo ấy dịu giọng hẳn lại xuống, ít dùng bài hung hăng, báng bổ nữa. Tôi rất tâm đắc thái độ trí thức của thầy: người trí thức đích thực không nói thì thôi, nhưng đã nói ra thì chỉ nói những điều mình tin là lẽ phải.

Thầy là một người yêu thích công việc, làm việc không biết mỏi. Thầy sốt sắng với Hội thảo 100 năm Đông Kinh Nghĩa thục (2007), Hội thảo 80 năm Thơ mới và Tự lực văn đoàn (2012), Kỷ niệm 100 năm nhà văn, nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi (2015)... Thầy lúc nào cũng bận rộn với ý tưởng làm sách vở, hết Vũ Trọng Phụng đến Từ điển văn học, rồi chân dung các nhà văn, nhà giáo. Thầy còn dự định làm từ điển tri thức bách khoa ngữ văn, nhưng rồi sức khỏe không cho phép nên thầy đành gác lại. Hội Nghiên cứu và Giảng dạy văn học liên tục năm nào cũng xuất bản niên san Bình luận văn học, đều có công tổ chức, biên tập và đôn đốc của thầy.

Năm nay thầy đã tám mươi. Sức khỏe thầy giảm đi rõ rệt nhưng tinh thần, đầu óc vẫn sáng suốt. Tôi biết thầy còn dở dang nhiều công việc, nhiều ước muốn mà chưa làm được. Chúng tôi nhiều lần mong mỏi và thúc giục thầy: thầy viết cho cuốn hồi ký, cuốn hồi ký ghi lại một thời đầy nhiệt huyết, lãng mạn mà cũng lắm gian truân. Không biết chừng nào cuốn hồi ký ấy hoàn thành. Riêng tôi được gần thầy nhiều, tôi học được rất nhiều ở thầy, qua những trang văn của thầy, và nhất là qua cách sống, cách nghĩ, cách làm của thầy.

Nguồn: Sách Kỷ niệm Sinh nhật lần thứ 80 Giáo sư Trần Hữu Tá, năm 2016.

Tiểu dẫn :

Năm 2013 trong chương trình hợp tác giữa các nhà nghiên cứu ở Đại học Đài Bắc (Đài Loan) và Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐHQG TP.HCM (Việt Nam) về các nhà Trung Quốc học thế giới đã chọn GS. Huỳnh Minh Đức là một trong 20 nhà Trung Quốc học tiêu biểu ở Việt Nam. Bài phỏng vấn dưới đây do TS. Nguyễn Ngọc Quận thực hiện từ chương trình đó.  

20230910

Lời dẫn về GS. Huỳnh Minh Đức: Thuở nhỏ, ông ở nhà bố mẹ bên bờ sông Đồng Nai, TP. Biên Hoà. Khi có gia đình riêng ông ở nhà số 26 lô H, cư xá Nguyễn Thiện Thuật, P.1, Q.3, TP.HCM. Những năm gần đây, ông về ở ngôi nhà cổ của cha mẹ để lại bên bờ sông Đồng Nai nói trên. Đầu tháng 9 năm 2023, GS. Huỳnh Minh Đức đã qua đời.

Các công trình chủ yếu:

  1. Thương hàn luận (Nxb. Đồng Nai, 1995),
  2. Dịch lý y lý (Nxb. Đồng Nai, 1998),
  3. Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển I (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),
  4. Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển II (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),
  5. Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển III (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1990),
  6. Hoàng Đế nội kinh Tố vấn (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),
  7. Hoàng Đế nội kinh Nan kinh (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),
  8. Vấn đề Ngũ vận Lục khí trong Y học Đông phương (Nxb. Đồng Nai)
  9. Hán văn dành cho Y học Đông phương (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1988),
  10. Châm cứu thực hành­ Linh quy bát pháp (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986),
  11. Cẩm nang châm cứu thực hành Thái Ất thần châm cứu (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1987),
  12. Châm cứu thực hành Tý ngọ Lưu Chú (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986).

Bài nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam và văn học cổ Trung Quốc:

  1. “Tiểu thuyết Trung Quốc” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),
  2. “Vấn đề Lão tử và Đạo đức kinh” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),
  3. “Nhà Tây Chu và chế độ phong kiến” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),
  4. “Chung quanh hai chữ ‘Tây minh’ trong Lục Vân Tiên” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),
  5. “Hiếu trong đời Kiều” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

 

NỘI DUNG PHỎNG VẤN

Hỏi: Thưa ông, được biết trước đây ông học ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Xin ông cho biết là ông tốt nghiệp ĐH năm nào?

Đáp: Không nhớ. Lâu quá mà.

Hỏi: Được biết ngày xưa ông học Đại học văn khoa ngành Việt Hán, đúng không ạ?

Đáp: Đúng. Việt Hán.

Hỏi: Nghe nói thời đại học, ông là một SV xuất sắc, đặc biệt là rất giỏi tiếng Hán hiện đại. Được biết là lúc này ông có dịch sách chữ Hán ra Việt cho SV làm tài liệu học tập, có chuyện đó không?

Đáp: Tôi vô năm thứ Nhứt, bắt đầu dịch cuốn Trung quốc triết học sử, của Hồ Thích, và là SV duy nhất dịch cuốn sách này.

Hỏi: Thưa ông, tài liệu dịch đó được dùng cho SV năm thứ mấy?

Đáp: SV năm thứ Ba và năm thứ Tư.

Hỏi: Môn học gì cần tài liệu đó, và Giáo sư nào dạy môn đó, thưa ông?

Đáp: Môn Triết học Trung Quốc, GS. Nguyễn Đăng Thục dạy.

Hỏi: Ông được ĐH Văn khoa giữ lại trường làm giảng viên ĐH ngay sau khi tốt nghiệp ĐH, hay là sau một thời gian đã làm việc ở đâu?

Đáp: Sau một thời gian. Sau khi ra trường, tôi về dạy ở Trường Trung học Kiến Hoà, môn Việt văn ở Đệ nhị cấp. Trường này ở Bến Tre. Sau đó, Trung tâm Học liệu của Bộ Giáo dục mời tôi về làm Chuyên viên về Hán văn.

Hỏi: Thời gian bao lâu sau đó thì ông được mời về giảng dạy ở ĐH văn khoa?

Đáp: Sau chừng hai năm.

Hỏi: Ông dịch quyển Trung Quốc triết học sử của tác giả Hồ Thích từ khi là SV năm thứ Nhất, và theo một số tài liệu trước đây thì ông hoàn thành bản thảo vào năm 1965, viết lời tựa ngày 15-8-1969, được cấp giấy phép xuất bản ngày 21-01-1970. Điều đó đúng không?

Đáp: Tôi dịch xong lúc còn trẻ lắm, còn nhỏ xíu hà.

Hỏi: Được biết, tác phẩm này đã được giải thưởng dịch thuật, xin ông cho biết rõ thêm điều này.

Đáp: Tác phẩm này được giải thưởng hạng Nhì toàn quốc về dịch thuật. Một người nữa cũng được giải dịch thuật hạng Nhì như tôi. Không có hạng Nhất.

Hỏi: Thưa ông, đơn vị, tổ chức nào cấp giải thưởng này?

Đáp: Đó là Phủ Quốc Vụ khanh đặc trách Văn hoá của Chính phủ Việt Nam Cộng Hoà (ở Miền Nam) bấy giờ. Người ký tặng Giải thường này là ông Mai Thọ Truyền.

Chú thích: Trên Bằng GIẢI THƯỞNG DỊCH THUẬT (treo tại ngôi nhà cổ ở Biên Hoà nơi ông đang sống) có ghi thông tin: Giải nhì đồng hạng về loại tác phẩm: Hán văn của người ngoại quốc, dịch ra tiếng Việt về cuốn Trung Quốc Triết học sử của Hồ Thích, do Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn hoá là ông Mai Thọ Truyền ký ngày 31/3/1971.

 Hỏi: Thưa ông, những SV của ông thường nhắc đến câu chuyện thú vị khi ông lên nhận giải thưởng trên lễ đài (GS. HMĐ bật cười: Khà khà). Cử toạ hôm ấy hầu hết là người cao tuổi đều tưởng là ông đi nhận thay cho bố ông, vì lúc này ông còn rất trẻ, ngoài dự đoán của mọi người! Đó là ấn tượng đẹp, khó quên trong đời ông. Ông còn nhớ chuyện ấy không?

Đáp: Những người đi nhận giải thưởng như tôi đều già hết, không ai tin là tôi nhận giải thưởng cho tôi. Họ tưởng tôi nhận thay cho bố tôi.

Hỏi: Ông còn nhớ hôm tổ chức trao giải thưởng là tại đâu không?

Đáp: Ở một trường học thuộc Quận 5.

Hỏi: Phần thưởng này có kèm theo tiền không ạ?

Đáp: Có. Về mua hai cái máy truyền hình.

Hỏi: Ngoài tấm Bằng dịch thuật đã nói, giải thưởng còn có bao nhiêu tiền?

Đáp: Hồi đó, vàng rẻ lắm (so với tiền thưởng).

Hỏi: Thế ông có mua vàng không?

Đáp: Không. Tiền tôi dùng in sách.

Hỏi: Được biết, ông làm Luận án Tiến sĩ, khi ở giai đoạn cuối, chưa bảo vệ thì phải dừng lại do sự kiện 30 tháng Tư (năm 1975), và kéo theo các cấp học Sau đại học bấy giờ tạm thời bị đứt đoạn. Xin hỏi, ông bắt đầu học Tiến sĩ từ năm nào, và do ai hướng dẫn?

Đáp: Tôi đậu bằng Cao học rồi, tôi thi vô Tiến sĩ, do GS. Bửu Cầm bảo trợ.

Hỏi: Cùng khoá với ông có ai nữa không?

Đáp: Đó là khoá học Tiến sĩ đầu tiên ở đây. Cùng khoá có hai người nữa.

Hỏi: Ông dự định năm nào làm xong và trình Luận án này?

Đáp: Tôi dự định giữa tháng 5 sẽ xin trình Luận án thì Giải phóng (chỉ sự kiện 30 tháng 4.1975). Luận án viết xong hết rồi.

Hỏi: Công trình Luận án này đến nay ông còn giữ không?

Đáp: Cái này (GS. HMĐ chỉ vào hai tập Luận án đóng bìa mềm, giấy A4, để trên bàn. Ở bìa có ghi: "Sự nghiệp chánh trị của Lương Khải Siêu qua văn chương của ông", Luận án Tiến sĩ văn chương Trung-Hoa, G.S. bảo trợ: G.S. Bửu Cầm, nguyên Giáo sư thực thụ ĐH Văn khoa Sài gòn, S.V. đệ trình: Huỳnh Minh-Đức, nguyên Giảng sư ĐH Văn khoa Sàigòn, Tập 1, và Tập 2 cũng trình bày như trên, tổng cộng 494 trang).

Hỏi: Được biết cùng làm Tiến sĩ một khoá với ông có GS. Nguyễn Khuê và GS. Nguyễn Tri Tài. Đúng vậy không, thưa ông?

Đáp: Đúng vậy. Giáo sư Nguyễn Tri Tài làm về Triết học, Giáo sư Nguyễn Khuê làm về văn chương Việt Nam, về thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (GS. Khuê đã làm Cao học về thơ văn Tương An Quận Vương). Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn mở khóa tiến sĩ đầu tiên năm 1972. Riêng ban Hán văn, từ 1972 đến 1975, mở được 3 khóa tiến sĩ chuyên khoa Hán văn. Tôi học khóa 1, cùng khóa có các bạn đồng nghiệp Nguyễn Khuê, Nguyễn Hữu Lương, Nguyễn Văn Dương và Trần Như Uyên. Luận án tiến sĩ của tôi làm về văn chương Trung Hoa, do thầy Bửu Cầm là Giáo sư thực thụ hướng dẫn. Thực ra, vào thời điểm 30 tháng 4 không chỉ riêng tôi mà cả Giáo sư Nguyễn Khuê và Giáo sư Nguyễn Tri Tài đều đang làm luận án ở giai đoạn cuối đều phải dừng lại việc học tiến sĩ. Chúng tôi dự kiến sẽ bảo vệ học vị tiến sĩ trong năm 1975, hoặc trễ nữa là năm 1976. Riêng tôi thì như đã nói, đến thời điểm đó, Luận án của tôi đã viết xong.

Hỏi: Ông đã dịch, chú giải, và xuất bản cuốn Văn học sử Trung Quốc của Dịch Quân Tả, do nhà Minh Tâm xuất bản và phát hành ngày 12/4/1975, với số lượng 1000 bản. Như vậy, sách này bắt đầu phát được hơn 2 tuần thì Giải phóng, ông nhớ là đã tiêu thụ được nhiều không?

Đáp: Số lượng ấn bản được tiêu thụ rất ít, còn lại sau đó tôi phải bán như giấy vụn, cho người ta gói đậu phụng.

Hỏi: Thưa ông, bấy giờ, đó mới là quyển I trong bộ sách Trung Quốc văn học sử gồm 3 quyển (Q.I: từ Kinh Thi đến Văn học Lưỡng Tấn-Nam Bắc triều, Q.II: từ Đường đến Nguyên, Q.III: từ Minh đến Dân Quốc). Xin ông cho biết, khi công bố bản dịch này, ông đã có kế hoạch dịch tiếp hai quyển còn lại của bộ sách chưa?

Đáp: Tôi biết đánh máy chữ Hán. Thời đó ở Sài Gòn chưa ai biết. Sau Giải phóng tôi dịch tiếp các quyển còn lại, và cho xuất bản.

Hỏi: Theo ông cho biết, sau Giải phóng ông đã tiếp tục dịch các quyển tiếp theo. Sau đó, ông đã cho gộp lại với quyển I (in 1975), thành quyển Văn học sử Trung Quốc, (quyển I), và Nhà xuất bản Trẻ xuất bản năm 1992, số lượng 800 cuốn, khổ 14x20. Quyển 1 lúc này có nội dung lớn hơn vì có thêm hai chương; đó là Chương VI- Đường thi, và Chương VII- Đường văn và Truyền kỳ tiểu thuyết. Vì vậy số lượng trang của quyển sách lúc này rất lớn, 567 trang). Theo dự định, quyển II có nội dung từ Vãn Đường cho đến Dân quốc là hết (gồm Chương VIII- Vãn Đường, Ngũ đại và Tống từ, Chương IX- Tống thi, văn và tiểu thuyết, hí kịch, Chương X- Nguyên khúc, Chương XI- Văn học đời Minh, Chương XII- Văn học đời Thanh, Chương XIII- Văn học thời Dân quốc). Vậy ông đã dịch hết bộ sách này chưa?

Đáp: Lúc đó tôi thức nhiều quá, nên sinh bệnh. Văn học, Triết học, tôi biết hết.

Hỏi: Xin ông cho biết, bản Hán văn của Dịch Quân Tả nói trên, ngoài ông ra còn có ai dịch bản này sang tiếng Việt không?

Đáp: Không có.

Hỏi: Ông có thể cho biết thêm thông tin về lam bản bộ sách này không?

Đáp: Lam bản có khổ khá lớn, chữ phồn thể, xuất bản ở Hongkong.

Hỏi: Thưa ông, nếu nay có người học trò của ông muốn xin phép ông, tiếp tục công việc của ông, tức dịch tiếp phần còn lại của bộ sách đó, đặt tên là quyển II, và người đó đứng tên phần dịch của mình, ý ông như thế nào?

Đáp: Được không? (cười, và gật gù)

Hỏi: Một vài học trò cũ của ông nay là giảng viên ĐH, mốn xin chụp lam bản quyển sách nói trên và cùng hợp tác nhau dịch tiếp phần còn lại đó, để có trọn một bộ sách dịch hoàn chỉnh, xem như một kỷ niệm tốt đẹp cùng sư phụ của mình. Ông thấy được không ạ?

Đáp: Được, được!

Hỏi: Xin hỏi thêm ông, được biết vào thời điểm tháng 4/1975, khi ông sắp cho xuất bản công trình Hán văn quyển 2, Triết học chính trị cổ đại Trung Quốc: Lễ ký, Hán phú, và Sự nghiệp chính trị của Lương Khải Siêu, tức là quyển Luận án Tiến sĩ văn chương Trung Hoa của ông. Tuy nhiên, cho đến nay, độc giả vẫn chưa được hân hạnh đón nhận những ấn phẩm này. Vậy thưa ông, cho đến bây giờ đã có công trình nào trong số này của ông đã hoàn thành bản thảo chưa? Và có định công bố không ạ?

Đáp: (đưa tay khoát) Thôi!

Hỏi: Thưa ông, bây giờ, trước mặt ông đang có quyển Luận án của ông. Nếu không có sự kiện 30 tháng 4/1975 thì khoảng giữa 1975 có lẽ ông sẽ cho xuất bản quyển sách này. Tuy nhiên, cho đến nay thì công trình này của ông vẫn chưa được công bố. Nếu được, trong tương lai không xa, khi ông khoẻ thì ông có thể xem lại, và cho xuất bản công trình này. Và đó sẽ là một tài liệu có giá trị học thuật. Vì từ 1975 đến nay, chúng tôi được biết là chưa có công trình nào quy mô nghiên cứu về Lương Khải Siêu như Luận án của ông. Ngoài ra, thưa ông, ông từng biên soạn cuốn sách có tên Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện trong thời gian khá lâu, và đã được công chúng đánh giá như là một kỳ công, và xem ông như một nhà Huế học. Phải chăng thành phố Huế và các công trình kiến trúc của các vua triều Nguyễn có sức hấp dẫn với ông từ lâu, ít ra là từ cái thời Viện Đại học Huế mời ông ra giảng dạy trước năm 1975? Các công trình kiến trúc ở Huế phải chăng đã tạo cho ông một sự chú ý, đã lôi cuốn, hấp dẫn ông từ những năm trước 1975, và đó là nguyên nhân, là tâm tình đầu tiên khiến ông nghiên cứu về đề tài Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện, có phải vậy không ạ?

Đáp: Tui phải gan dạ lắm mới dám làm. Bút sa gà chết. Làm mà sai, Huế họ chửi chết! Trên thực tế, từ Ngọ môn tới Thái Hoà điện, nhất là trong lăng Tự Đức, có rất nhiều câu thơ đặt không đúng vị trí của nó. Và tôi là người khám phá ra trật tự những câu thơ này, và sắp xếp chúng lại, phiên âm, dịch nghĩa, chú giải cẩn thận. Đây là việc làm rất công phu, rất quy mô, và công bố trong công trình Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện, có sức hấp dẫn, lôi cuốn và đầy sức thuyết phục đối với bạn đọc. Tôi cho là lối kiến trúc của các vua chúa triều Nguyễn ở Huế đã có ảnh hưởng rất lớn đối với học thuật, đối với văn hoá và đối với nền triết học nước nhà.

Hỏi: Trước 1975, Đại học Huế mời ông ra dạy. Xa xôi thế, làm sao ông đi được?

Đáp: Tôi đi máy bay. Đi hoài, đi mấy chục bận.

Hỏi: Thưa ông, bấy giờ ra Huế ông dạy môn gì ạ?

Đáp: Tôi dạy Hán văn và tiếng Quan thoại.

Hỏi: Thưa ông, Luận văn Cao học của ông viết về đề tài gì?

Đáp: Đề tài Luận văn cao học của tôi là "Hồ Thích và cuộc vận động Tân văn học". Còn đề tài Luận án tiến sĩ cuả tôi là làm về Lương Khải Siêu (Sự nghiệp chính trị của Lương Khải Siêu).

Hỏi: Ông có kỷ niệm gì về việc dạy sinh viên học chữ Hán ở Huế những năm trước 1975 không ạ?

Đáp: Sinh viên rất thích học. Tôi là người dẫn sinh viên đến lăng Tự Đức, ra nhà thuỷ tạ.

Hỏi: Thưa ông, Ông nhiều lần nhắc tới GS. Bửu Cầm, Nguyễn Đăng Thục, Lê Thành Trị. Các vị đó có tác động đến ông như thế nào trong đam mê học hỏi, nghiên cứu, và cả về cách làm việc, phong cách nghiên cứu và nhân cách sống? Họ có ảnh hưởng như thế nào đối với ông?

Đáp: Ông Bửu Cầm làm việc rất cẩn thận, luôn chú trọng Tứ thư, Ngũ kinh. Còn Lê Thành Trị dạy Triết Tây, dạy Logic. Nguyễn Đăng Thục dạy về Triết Đông. Giáo sư Bửu Cầm dạy Cổ văn.

Hỏi: Thời ông học thì ai dạy chữ Nôm?

Đáp: Không ai dạy chữ Nôm. Chữ Nôm là tự học.

Hỏi: Thưa ông, bấy giờ các Giáo sư như ông đều rất giỏi chữ Nôm mà sao không dạy cho sinh viên?

Đáp: Bấy giờ, trong chương trình học không có môn này. Chỉ học chữ Hán.

Hỏi: Thưa ông, về nhân cách sống của các giáo sư nổi tiếng ở ĐH Văn khoa bấy giờ như GS. Bửu Cầm, Nguyễn Đăng Thục, Lê Thành Trị, ông thấy thế nào?

Đáp: Ông Bửu Cầm rất trong sáng, thanh bạch, sống nghèo. Ông Thục với ông Cầm đều là người sĩ khí.

Hỏi: Xin lỗi ông, xin phép tò mò hỏi ông điều này. Ông và nhiều Giáo sư ĐH trước 1975 đều có xe hơi. Vậy tiền sắm xe hơi có phải là tiền lương không?

Đáp: Đó là nhờ có đi làm thêm. Đi dạy thêm.

Hỏi: Nghe nói, tiền lương của các giáo sư ĐH lúc đó rất cao, mỗi tháng ngoài chi tiêu ra có thể dành dụm mua được vài lượng vàng, đúng không?

Đáp: Vâng, lương cao lắm. Sống được. Nhưng tôi cũng còn nghèo vì cái vụ này (Ông chỉ vào đống sách mà ông là soạn giả). Nên tôi phải đi dạy thêm, kiếm thêm tiền. Tôi chỉ mê nghiên cứu và viết sách, có bao nhiêu tiền tôi chuẩn bị cho việc in sách. Việc làm của tôi chỉ có tôi biết, trong nhà không ai biết hết. Tôi luôn bị bà xã phàn nàn vì thức khuya nhiều quá.

Hỏi: Có phải vợ ông lo ông bị bệnh không?

Đáp: Đúng vậy. Từ khi có máy vi tính, tôi luôn thức khuya, và có lẽ làm quá sức nên tôi đã bị bệnh. (Ông lật vài trang giấy ở một cuốn sách và nói) Làm một cuốn như thế này cũng đã quá mệt. Nhưng tôi đã làm nhiều cuốn như thế, anh biết đó.

Hỏi: Xin hỏi thêm ông, trong các vị giáo sư ở ĐH Văn khoa bấy giờ, thì ai là người mà ông chịu ảnh hưởng nhiều nhất, để lại ấn tượng cho ông mạnh mẽ nhất?

Đáp: Giáo sư Bửu Cầm. Ông Cầm dạy tôi không nhiều, nhưng nhân cách và tác phong của ông thì tôi rất thích. Ông mỗi khi khảo cứu vấn đề gì vẫn luôn chú thích rất cặn kẽ. Bản thân tôi đã chịu ảnh hưởng của GS. Bửu Cầm về mặt này. Sau 1975, khi dạy sinh viên học, tôi vẫn thường hay nhắc đến GS. Bửu Cầm như một tấm gương sáng, rất đáng quý.

Hỏi: Trong thư tịch cổ Trung Quốc, ông quan tâm mảng nào nhiều nhất, vì sao?

Đáp: Tứ thư, Ngũ kinh.

Hỏi: Ông từng giảng dạy ở ĐH Văn khoa (từ trước 1975 đến sau 1975 một thời gian ngắn), và sau đổi tên thành ĐH Tổng hợp TP.HCM. Vậy ngoài đại học này, ông còn tham gia giảng dạy đại học nào ở Miền Nam nữa không?

Đáp: Có. Tôi trước Giải phóng có dạy các Đại học Đà Lạt, Vạn Hạnh, Cần Thơ, Hoà Hảo.

Hỏi: Thưa ông, thời đó mà ông đi dạy các đại học Đà Lạt, Cần Thơ thì bằng phương tiện gì ạ?

Đáp: (cười) Đi máy bay không hà.

Hỏi: Ông có quyển sách nhan đề Hán văn dành cho Y học Đông phương, ngoài ra chúng tôi được biết từ trước 1975 ông từng biên soạn sách học Hán văn cho người Việt. Những sách này ông biên soạn dựa vào tài liệu nào, Trung Quốc hay Việt Nam?

Đáp: Bộ sách có tên Hán văn tôi soạn cho sinh viên ĐH Văn khoa (do nhà Minh Trí xuất bản năm 1973). Hai sách trên đều được biên soạn dựa theo tài liệu của Trung Quốc.

Hỏi: Thưa ông, chúng tôi được biết, những thập niên gần đây, ông có hàng chục đầu sách soạn hoặc dịch về Đông y và rất được công chúng hoan nghênh. Xin ông cho biết cơ duyên nào đã đưa ông đến với Đông y một cách say mê như thế?

Đáp: Tôi đến với Đông y say mê bởi vì nó hấp dẫn quá, mà ở Việt Nam hầu như chưa ai biết đến nhiều. Tây y nhiều người giỏi, nhưng Tây y hầu như không biết gì về Đông y. Một số "ông lớn" chuyên Tây y mà viết về Đông y, tôi thấy đều làm ẩu, không đúng. Bộ Linh khu này (ông chỉ bộ sách trên bàn, có tên Hoàng Đế Nội kinh Linh khu) do tôi dịch và chú giải, gồm 3 quyển, vừa rồi được tái bản.

Hỏi: Thưa ông, bộ sách Linh khu này tôi thử giở đọc một số trang, nhưng chẳng hiểu gì. Vậy làm thế nào để có thể hiểu được?

Đáp: (cười) Sách này dùng cho giới chuyên môn, dành cho những ai chuyên nghiên cứu về Đông y.

Hỏi: Được biết là về cuối đời ông mới nghiên cứu về Đông y, chứ trước đây ông chỉ nghiên cứu về văn học và triết học Trung Quốc thôi, có đúng vậy không?

Đáp: Đông y quá hấp dẫn đối với tôi, nhất là khi tôi đã có tuổi, có nhiều chiêm nghiệm từ Triết học Trung Quốc.

Hỏi: Thưa ông, các sách về Đông y của ông được soạn theo tài liệu của Trung Quốc hay Việt Nam?

Đáp: Theo tài liệu của Trung Quốc hết.

Hỏi: Các sách về Đông y của Trung Quốc do ông sưu tầm hay tìm ở đâu ạ?

Đáp: Phần lớn là của ông ông nội tôi để lại.

Hỏi: Chữ viết tay hay in?

Đáp: Đều là sách in (NNQ: nhưng ông không cho biết là in bản gỗ hay in đồng).

Hỏi: Như vậy có phải nhờ nghiên cứu Triết học Trung Quốc mà ông có nhiều lợi thế trong việc nghiên cứu Đông y hay không?

Đáp: Đúng vậy. Nó là một (ông đưa ngón tay trỏ lên và vẽ một vòng tròn trong không trung theo chiều kim đồng hồ). Triết học Trung Quốc được vận dụng vào Y học từ lâu đời rồi.

Hỏi: Và có phải ai muốn nghiên cứu về Đông y thì buộc phải biết chữ Hán không?

Đáp: Đúng, phải biết chữ Hán, phải biết Kinh Dịch, biết Triết học Trung Quốc thì mới có thể nghiên cứu sâu về Đông y được (ông cầm một bản dịch Chu Dịch đưa lên).

Hỏi: Thưa ông, sau 1975, việc dạy Bạch thoại của ông có trở ngại gì không ạ?

Đáp: Sau Giải phóng (30.4.1975), Công an không cho dạy Bạch thoại. Tuy nhiên, cho đến khi đất nước mở cửa (từ 1986, 1987) thì việc dạy Bạch thoại được khôi phục, và tôi được mời dạy rất nhiều nơi ở Sài Gòn, Chợ Lớn. Việc tôi chủ trương dạy chữ Hán phồn thể và phản đối chữ Hán giản thể làm cho nhiều người không thích, cho rằng tôi theo Đài Loan, theo Thế giới tự do chứ không theo Trung Quốc lục địa.

Hỏi: Ông đã bỏ công nghiên cứu về triết học Trung Quốc từ thời còn rất trẻ. Ngoài việc dịch bộ Trung Quốc triết học sử của Hồ Thích, ông còn dự định dịch cả Trung Quốc triết học sử của Phùng Hữu Lan. Phải chăng chính Triết học Trung Quốc đã giúp ông thâm nhập Y học phương Đông một cách thuận lợi?

Đáp: Phải rồi.

Hỏi: Thưa ông, từ sau 30 tháng 4 năm 1975, Đại học Văn khoa, mà nay là trường ĐHKHXH&NV TP.HCM, vẫn duy trì và không ngừng củng cố Bộ môn Hán Nôm. Theo ông, tên gọi "Bộ môn Hán Nôm" tại nhiều ĐH trong nước nói chung và trong trường ĐHKHXH&NV, nơi ông được đào tạo và từng làm việc nói riêng, có phản ánh đúng nhiệm vụ và chức năng của nó không?

Đáp: (lắc đầu, đưa tay qua lại tỏ ý phản đối) Không đúng, không đúng.

Hỏi: Theo ông nên gọi là gì?

Đáp: Phải gọi là Việt Hán.

Hỏi: Thưa ông, ĐH Văn khoa trước 1975 có một đội ngũ rất mạnh nghiên cứu về Cổ văn Trung Quốc, về văn Bạch thoại, cũng như thơ văn chữ Hán chữ Nôm của Việt Nam. Xin ông cho biết tên gọi của nhóm nghiên cứu này là gì?

Đáp: Trước 1975, đơn vị mà các giáo sư làm việc, nghiên cứu về Hán Nôm gọi là Ban Việt Hán, chứ không gọi Bộ môn Hán Nôm hay Tổ Hán Nôm như hiện nay. Gọi là Việt Hán mới là cách gọi đúng.

Hỏi: Xin hỏi thêm ông, ngoài những sách mà chúng tôi vừa nhắc ở trên thì ông còn có công trình nào khác nghiên cứu về Hán Nôm nữa không ạ?

Đáp: Những quyển này (chỉ những quyển sách ông đã soạn sẵn ra bàn trước khi trả lời phỏng vấn). Về sách đã xuất bản trước 30 tháng 4 năm 1975 ở Sài Gòn, ngoài Trung Quốc triết học sử (nhà Khai trí xuất bản, 1970, 746 trang, dịch từ nguyên bản Hán văn của Hồ Thích) và Văn học sử Trung Quốc (nhà Minh Tâm xuất bản, 1975, 396 trang, dịch từ nguyên bản Hán văn Trung Quốc văn học sử của Dịch Quân Tả) như nói ở trên, tôi còn có: Hồ Thích và cuộc vận động Tân văn học (biên khảo, Trung tâm Học liệu, Bộ Giáo dục xuất bản, 1972, 390 trang), Hán văn (dành cho sinh viên Đại học Văn khoa, nhà Minh Trí xuất bản). Sau 1975, ngoài công trình Từ Ngọ môn đến Thái Hoà điện (khổ 20x28cm, 198 trang, Nxb. Trẻ, 1994) như đã nhắc tới ở trên, tôi còn biên soạn Giáo trình Triết học Trung Quốc (Bộ môn Châu Á học, Đại học Tổng hợp TP.HCM) và công bố một số công trình biên soạn, dịch Hán-Việt khác về y học sau:

1/ Thương hàn luận (Nxb. Đồng Nai, 1995),

2/ Dịch lý y lý (Nxb. Đồng Nai, 1998),

3/ Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển I (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),

4/ Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển II (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1989),

5/ Hoàng Đế nội kinh Linh khu, quyển III (dịch và chú giải, Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản, 1990),

6/ Hoàng Đế nội kinh Tố vấn (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),

7/ Hoàng Đế nội kinh Nan kinh (Hội Y học dân tộc cổ truyền Đồng Nai xuất bản),

8/ Vấn đề Ngũ vận Lục khí trong Y học Đông phương (Nxb. Đồng Nai)

9/ Hán văn dành cho Y học Đông phương (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1988),

10/ Châm cứu thực hành­ Linh quy bát pháp (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986),

11/ Cẩm nang châm cứu thực hành Thái Ất thần châm cứu (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1987),

12/ Châm cứu thực hành Tý ngọ Lưu Chú (Thành hội Y học dân tộc cổ truyền TP. Biên Hoà, Câu lạc bộ Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, Lưu hành nội bộ, 1986).

Về khảo luận, tôi đã công bố 5 bài nghiên cứu về văn học cổ Việt Nam, văn học cổ Trung Quốc:

1/ “Tiểu thuyết Trung Quốc” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

2/ “Vấn đề Lão tử và Đạo đức kinh” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

3/ “Nhà Tây Chu và chế độ phong kiến” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),

4/ “Chung quanh hai chữ ‘Tây minh’ trong Lục Vân Tiên” (tạp chí Văn khoa, Sài Gòn),

5/ “Hiếu trong đời Kiều” (tạp chí Nghiên cứu Văn học, Sài Gòn),

Cùng một số bài khảo luận về Y học đông phương, đăng ở tạp chí Y học cổ truyền Đông phương sau 1975.

Và như đã nói ở trên, bản dịch và chú giải Văn học sử Trung Quốc, Q.1, do nhà Minh Tâm xuất bản năm 1975 đã được Nhà xuất bản Trẻ in lại năm 1992, với nội dung có thêm hai chương, nên số trang lên đến 567 trang.

Hỏi: Xin trở lại vấn đề nghiên cứu Trung Quốc của ông trước 1975. Triết học Trung Quốc mà ông quan tâm rất sớm qua tài liệu văn bản Hán văn, theo ông, những vấn đề nào là cốt lõi nhất, những vấn đề nào để lại cho ông ấn tượng sâu sắc nhất?

Đáp: Ấn tượng nhất là Tứ thư, Ngũ kinh.

Hỏi: Nhưng theo ông thì vấn đề nào là cốt lõi nhất trong Triết học Trung Quốc?

Đáp: Cốt lõi nhất là: Nhân, Nghĩa. Đạo, Nhơn đạo, Chính đạo, Thiên đạo, Vô vi.

Hỏi: Trong văn học Trung Quốc từ Kinh Thi đến Dân Quốc, giai đoạn nào theo ông là rực rỡ nhất?

Đáp: Mỗi thời kỳ có một giai đoạn rực rỡ của nó.

Hỏi: Theo ông, về ảnh hưởng của văn học cổ điển Trung Quốc đối với văn hoá và văn học Việt Nam, ảnh hưởng lớn nhất là ở những điểm nào?

Đáp: Ảnh hưởng lớn nhất là ở Triết học.

Hỏi: Còn sau Triết học là gì?

Đáp: Sau Triết học là Văn học, Y học. Như cái cây kia (chỉ ra cây ngoài vườn), hoa lá là Văn học, thân cây là Triết học, rễ cây là Y học. Nếu không có rễ cây, sẽ không có hoa lá.

Hỏi: Thưa ông, trong luận án tiến sĩ Sự nghiệp chính trị của Lương Khải Siêu, ông tâm đắc Lương Khải Siêu ở điểm nào nhiều nhất?

Đáp: Ông Lương Khải Siêu có sáng kiến, không phản đối phong kiến, phản đối Cộng hoà, muốn một đất nước danh nghĩa là một nước có vua, giống như Anh, Nhật. Ông nhiều lần nói như vậy. Nhưng bà Từ Hy không nghe, ỷ mình đàn bà nắm quyền.

Hỏi: Xin cám ơn ông rất nhiều. Được biết, ngoài chuyên môn là nghiên cứu Hán Văn, Trung văn, ông còn quan tâm không ít về lãnh vực âm nhạc. Xin ông cho biết ngành âm nhạc nào ông quan tâm nhiều nhất, vì sao? Và hình như ông cũng có quan tâm lãnh vực võ thuật, có đúng không ạ?

Đáp: (cười) Võ thuật thì tôi không biết. Âm nhạc thì tôi biết đờn, biết hát cổ nhạc. Tôi biết chơi Hạ-uy cầm, mà nay gọi là đờn Hạ Uy Di đó. Loại đàn này có kiểu dáng tương tự guitar điện, nhưng khi chơi thì đặt đàn nằm ngang trên hai đùi, tay trái vuốt phím, tay phải đeo móng gãy lên dây đàn. Khi biểu diễn thì đeo một lẳng hoa dài ở cổ, theo phong cách của người Hạ Uy Di (Hawaii). Tôi rất thích chơi đàn này từ hồi trẻ, và đã từng trình diễn trước công chúng. Tôi phát hiện ra rằng, Hạ-uy cầm có thể chơi cả tân nhạc lẫn cổ nhạc, nhất là Vọng cổ.

Hỏi: Xin trở lại lãnh vực chuyên môn của ông. Thưa ông, ngoài việc nghiên cứu Triết học Trung Quốc, Văn học Trung Quốc cổ đại, ông còn nghiên cứu văn Bạch thoại. Ông có nhiều năm tham gia giảng dạy Trung văn, vậy theo kinh nghiệm của ông thì nên dạy và nên học tiếng Quan thoại như thế nào cho có hiệu quả cao nhất?

Đáp: Muốn giảng dạy cho có hiệu quả cao thì trước hết, người thầy phải cho giỏi cái đã, thầy phải say mê với nghề, với đối tượng nghiên cứu của mình, thì học trò mới giỏi được.

Hỏi: Đó là phần người thầy, còn người học thì thế nào?

Đáp: Bây giờ, không được bắt chước nhiều nơi mà học chữ giản thể. Học chữ giản thể thì người học không thể giỏi. Phải học chữ phồn thể thì mới giỏi được. Người học cũng phải say mê. Thầy giỏi, học trò cũng phải giỏi.

Hỏi: Thưa ông, xin hỏi ông một câu cuối cùng. Những năm gần đây, do sức khoẻ yếu ở tuổi già, ông đành gác bút để dưỡng sức. Xin ông cho một lời khuyên đối với thế hệ trẻ nói chung, và sinh viên ngành Hán Nôm hiện nay nói riêng.

Đáp: Học Hán Nôm thì không giàu được, không có tiền, khác với học vi tính, Anh văn hay học toán. Dạy vi tính, dạy Anh văn, dạy toán, lý, hoá, sinh học… là giáo.

Hỏi: Xin lỗi, ông vừa nói dạy các môn trên là "giáo" là thế nào ạ?

Đáp: "Giáo" là dạy cái mới, dạy kiến thức. Còn "dục" là dạy con người, dạy làm người.

Hỏi: Vậy, thưa ông, dạy con người là dạy cái gì ạ?

Đáp: Là dạy làm người, dạy cho học trò trở thành người tốt trong xã hội, người con tốt đối với cha mẹ, bạn tốt đối với bạn hữu, công dân tốt, thành viên ưu tú của xã hội. Đó là ”dục".

Người thực hiện phỏng vấn: Thưa ông, chúng tôi hết sức cám ơn ông đã nhiệt tình hợp tác với chúng tôi, thực hiện thành công buổi phỏng vấn này. Kính chúc ông sức khoẻ!

- HẾT -

PGS.TS Trần Hữu Tá, chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học TP.HCM, nguyên trưởng khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm TP.HCM, nguyên hiệu trưởng Trường THPT Trương Vĩnh Ký, vừa qua đời tối 27-11, thượng thọ 86 tuổi.

20221127 4

PGS.TS Trần Hữu Tá - Ảnh: VĨNH THẮNG

Thầy Tá bắt đầu dạy học năm 20 tuổi từ bậc phổ thông rồi sau này chuyển lên giảng dạy ở bậc đại học. Ông là chủ biên sách giáo khoa môn ngữ văn lớp 11, đồng chủ biên sách giáo khoa ngữ văn lớp 12 (chương trình cũ). Ông cũng là tác giả hàng chục cuốn sách văn học cùng nhiều bài nghiên cứu, phê bình văn học đăng trên các tờ báo của cả nước.

Thầy Trần Hữu Tá là một nhà giáo, nhà quản lý, nhà nghiên cứu phê bình văn học, có nhiều đóng góp cho nền giáo dục nước nhà.  

Trong những năm qua, ông là cái tên quen thuộc trên nhiều tờ báo với các bài viết, trả lời phỏng vấn về những vấn đề mang tính cấp thiết đối với ngành giáo dục. Đó là việc thay đổi chế độ tiền lương cho nhà giáo, chăm lo đời sống các thầy cô giáo ở vùng sâu vùng xa để họ đủ sống một cuộc sống tận tâm, tận lực với nghề dạy học. 

Ngoài ra, thầy Tá còn hiến kế cho ngành giáo dục những vấn đề mang tính chuyên môn nóng bỏng như việc đào tạo đội ngũ giáo viên, tổ chức thi tốt nghiệp phổ thông, tuyển sinh đại học, cải tiến hoạt động quản lý và giảng dạy... 

Hoàng Hương
Nguồn: Tuổi trẻ, ngày 27.11.2022.

Thiếu cơ sở đào tạo chính quy cùng với nỗi lo thu nhập là nguyên nhân phổ biến gây ra việc thiếu những biên kịch đủ thực lực.

Những khoảng trống trong đào tạo chính quy

Tính đến năm 2023, cả nước hiện có duy nhất Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội đào tạo ngành Biên kịch Điện ảnh - Truyền hình. Còn ở miền Nam, khoa Văn học (trực thuộc Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM) mở chuyên ngành Biên kịch Điện ảnh - Truyền hình trực thuộc khoa Văn học được 4 năm.

Chuyên ngành Biên kịch Điện ảnh - Truyền hình thuộc khoa Văn học duy trì tuyển sinh 45 sinh viên/khóa từ khi thành lập. Các sinh viên sau khi học xong năm nhất tại khoa Văn học muốn theo chuyên ngành sẽ làm một bài thi gồm xem phim và đưa ra đánh giá, phân tích ngôn ngữ điện ảnh. Còn Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội sẽ tổ chức thi năng khiếu qua 2 vòng thi gồm sáng tác tác phẩm trong 180 phút và vấn đáp.

Trao đổi với Thanh Niên, tiến sĩ Đào Lê Na, Trưởng bộ môn Sáng tác và Phê bình Sân khấu - Điện ảnh, khoa Văn học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM, cho biết, nhu cầu biên kịch tại các công ty truyền thông đa nền tảng hiện nay rất lớn nhưng khó tuyển được người do thiếu chương trình đào tạo bài bản để có được lực lượng nhà biên kịch đủ giỏi.

"Với tôi, hạn chế của các biên kịch trẻ hiện nay là không có nhiều cơ hội được sửa kịch bản chi tiết. Với những bạn không học chính quy thường tìm đến những khóa học ngắn hạn. Những khóa học này tuy có thể cung cấp đủ kiến thức để làm nghề nhưng không đủ thời lượng để sửa bài cho học viên. Nguyên nhân khiến phim Việt không nhận được nhiều phản hồi tích cực một phần do kịch bản còn lỏng lẻo, chưa đáp ứng được tính logic và khả năng kể chuyện của biên kịch chưa chặt chẽ", tiến sĩ Lê Na chia sẻ.

Đồng tình với quan điểm trên, biên kịch Hạnh Ngộ, giảng viên giảng dạy môn biên kịch phim truyện tại Trường ĐH Sân khấu - Điện ảnh TP.HCM, cho biết: "Theo tôi thì số lượng không nhiều để chọn, trung bình 10 tác phẩm viết ra thì cũng chỉ chọn được tầm 3 tác phẩm".

20230331 3Bạn trẻ muốn theo đuổi nghề biên kịch cần luyện tập khả năng quan sát, tính kiên nhẫn và chấp nhận thất bại - SHUTTERSTOCK

Hiện nay, hàng loạt công ty truyền thông đa phương tiện ra đời cùng với những hãng phim chuyên nghiệp có nhu cầu sản xuất hàng loạt phim truyện, tài liệu, điện ảnh… Tuy nhiên, "cung không đủ cầu" dẫn đến tình trạng thiếu hụt kịch bản hoặc không dùng được vì khác biệt giữa nội dung và cách thể hiện, khả năng sản xuất, theo biên kịch Hạnh Ngộ.

Ít được định hướng và không đảm bảo thu nhập cũng là một nguyên nhân khiến cho nhiều người trẻ còn ngần ngại lựa chọn học ngành này. Với những biên kịch tự do, nếu kịch bản không đủ tốt để các nhà làm phim chi tiền thực hiện hoặc không hợp với nhu cầu của thị trường thì tác phẩm không bán được.

Thực tế cho thấy các biên kịch hiện tại ở TP.HCM làm việc cho những hãng phim lớn và đài truyền hình hầu hết xuất thân từ chuyên ngành đạo diễn, văn học, báo chí và một số trưởng thành từ những khóa học biên kịch ngắn hạn. Cũng theo biên kịch Hạnh Ngộ, các bạn trẻ hiện nay quan tâm đến ngành biên kịch là đúng hướng, đúng xu thế, vì nghề này vẫn còn rất nhiều khoảng trống để các bạn thử sức và phát triển.

Cần chuẩn bị gì để theo nghề?

Trong talkshow "Nghề biên kịch: Từ trang giấy đến màn bạc" tại Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn TP.HCM vào cuối tháng 2 vừa qua, các khách mời cũng đã có những chia sẻ về hành trình làm nghề và cơ hội nghề nghiệp đến sinh viên.

Với những bạn trẻ mong muốn tìm cơ hội với nghề biên kịch phim, hai khách mời đều khuyến khích tận dụng mọi cơ hội từ những cuộc thi và dự án phim ngắn chiếu mạng. 

Đạo diễn Phan Đăng Di, người đứng sau loạt phim điện ảnh được công chiếu tại Liên hoan phim Quốc tế như Khi tôi hai mươiCha và con… cho rằng bạn trẻ nên luyện tập khả năng quan sát, tính kiên nhẫn và chấp nhận thất bại.

Nghề biên kịch 'hot' nhưng khó tuyển được người - Ảnh 2.

Đạo diễn Phan Đăng Di khuyên các bạn trẻ nên dành thời gian để đọc sách và báo nhiều hơn (Ảnh: CLB Sân khấu và Điện ảnh, khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG TP.HCM)

Từ kinh nghiệm đi dạy tại các trường ĐH, anh nhận thấy người trẻ hiện nay lười đọc, thiếu sự nhẫn nại. "Bởi nghề biên kịch đòi hỏi sự tập trung và khả năng phản biện cao nên những bạn không thể dành thời gian để đọc sách, báo thì chưa đủ đam mê để theo nghề", anh Đăng Di lưu ý.

Nhà sản xuất - biên kịch Nhi Bùi lưu ý, bạn trẻ hãy luyện tập khả năng quan sát và lắng nghe những câu chuyện xảy ra quanh mình để làm phong phú vốn sống bên cạnh việc học lý thuyết từ sách vở.

Trâm Trần

Nguồn: Thanh niên, ngày 15.3.2023.

Tôi chỉ được học thầy Hoàng Như Mai một số tiết học về văn học Việt Nam cận-hiện đại và một chuyên đề về kịch tại Khoa Ngữ-Văn Đại học Tổng hợp vào những năm bảy mươi của thế kỷ trước. Tôi là học trò thật, nhưng thâm tâm, không dám nhận mình là trò vì các thầy lớn quá, là thầy của các bậc thầy mấy bậc.

20221120

Giáo sư Hoàng Như Mai là một người thầy đức độ, tài hoa.

Như thầy Đinh Gia Khánh, Giáo sư dạy về văn học dân gian, nhưng từ Hán Nôm đến ngôn ngữ, từ văn học Phương Tây đến Phương Đông, cái gì cũng thông tuệ. Có lần, Thư viện tỉnh Hà Đông mời thầy đến nói chuyện. Thầy bận việc đột xuất, anh thư viện mếu máo, nhờ thầy giới thiệu người khác thay. Thầy nói: “Ai thay tôi được? Việt Nam chỉ có một Đinh Gia Khánh”!

Đấy là cách nói hài hước, là tính cách, nhưng cũng là một sự thật.

Chúng tôi nhớ các thầy mình ở Trường Tổng hợp vì kiến thức đã đành, nhưng nhớ nhiều ở tính cách “mỗi người một vẻ”. Như thầy Hoàng Xuân Nhị, một người từ Pháp về nước theo Lời kêu gọi của Bác Hồ từ trong kháng chiến, thường gọi học trò là các đồng chí, giảng Nhật ký trong tù lúc nào cũng khóc vì thương Bác. Tiếng Nga tự học trong ít tháng mà dịch cả bộ Lịch sử văn học Nga.

Thầy Nguyễn Tài Cẩn đi bình bịch nhưng lúc nào cũng mang điếu thuốc lào, đến giảng muộn giờ thì nhảy qua cửa sổ vào.

Thầy Phan Ngọc thì giảng say sưa đến đứng cả lên ghế, nói bật máu miệng... Thầy dịch Sử ký Tư Mã Thiên từ lúc còn thanh niên, cùng dịch Chiến tranh và hòa bình (với tên Nhữ Thành), thế mà khi hầu chuyện cha là cụ Phan Võ và các bạn bè của cha, khi vui miệng bàn góp, các cụ bảo: “Học đi đã, mày trẻ con biết gì”...

Thầy Đỗ Đức Hiểu, Phó Chủ nhiệm khoa thường thay thầy Nhị “huấn thị” sinh viên, có câu đáng nhớ nhất “Các anh chị yêu nhau bây giờ là cho nhau ăn bùn”.

Thầy Lê Đình Kỵ, chỉ cầm sách đọc (giáo trình thầy viết) mà học sinh mê như điếu đổ vì văn hay...

Còn thầy Hoàng Như Mai hơn cả thế, là một ma thuật. Có những tiết học, tôi không biết thầy giảng gì nữa mà cứ bị cuốn theo từng bước đi, ánh mắt, cử chỉ, giọng nói của thầy, đắm chìm trong một thế giới khác, không phải một thế giới của đời thực với áo mỏng mùa đông, cơm độn ngô chan canh loãng, cái đói triền miên những năm tháng sinh viên. Thầy như một nghệ sĩ, đạo sĩ.

Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, từng học thầy Mai từ năm 1953-1956, khi thầy là Hiệu trưởng Sư phạm Trung cấp đã viết về thầy Mai trong bài thơ “Thăm thầy giáo cũ” năm 1980:

Đứa học trò thuở mười tám, đôi mươi

Lại lắng từng câu

Lại nhập từng lời

Cái giọng nói một đời không quên được

Cái ánh lửa cháy lên trong cặp mắt

Hai mươi bốn năm rồi mãi ấm trong con...

Thầy đã giảng cho con về đất nước, nhân dân

Để khi mặc lành không quên người áo vá

Ăn miếng ngon nhớ bàn tay trồng khoai, dỡ củ

Câu ca dao đau đáu một đời...

Vâng, nhớ về thầy Hoàng Như Mai là nhớ về một người thầy giảng văn hay số một Việt Nam, và nhớ nhiều hơn là một người thầy vì đất nước, vì nhân dân, yêu thương học trò, nhớ về một nhân cách lớn.

***

Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Hoàng Như Mai (1919-2013) quê Liên Ninh, Thanh Trì, Hà Nội; sinh tại Phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc Giang, nơi cha ông làm Tuần phủ; từng học Trung học ở Trường Bưởi, học Đại học Y, Đại học Luật dưới thời Pháp thuộc. Thầy sớm theo cách mạng, hoạt động suốt đời trong sự nghiệp giáo dục, là một người thầy lớn của nhiều thế hệ.

Năm 1948, thầy được Tỉnh bộ Việt Minh tỉnh Thái Bình mời làm Hiệu trưởng Trường trung học Phan Thanh. Sau đó thầy làm Hiệu trưởng Trường Sư phạm Việt Bắc (1951); Hiệu trưởng Trường Sư phạm trung cấp trung ương (1953); cán bộ giảng dạy Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội (1959); cán bộ giảng dạy Trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh (1980); Hiệu trưởng Trường trung học phổ thông Trương Vĩnh Ký (1997-2013); Chủ tịch Hội Nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh từ 1988 đến khi qua đời ngày 27/9/2013 ở Bệnh viện 175, Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 95 tuổi.

Các tác phẩm, công trình tiêu biểu của thầy đã xuất bản gồm:Tiếng trống Hà Hồi (kịch, 1948), Dòng sông biên giới (kịch, viết 1957, xuất bản 2001), Vẽ chân dung cụ Đồ Chiểu (kịch, viết 1982, xuất bản 2001), Trao cho nhau cuộc đời (thơ, 1993) , Văn học Việt Nam hiện đại ( Nhà xuất bản Giáo dục, 1961), Trần Hữu Trang - soạn giả ca kịch cải lương (1982), Nhận định về cải lương (1986), Giới thiệu sân khấu cải lương (1986), Thơ một thời (1989)...

Ở thầy Hoàng Như Mai có sự kết hợp tuyệt vời của một người nghệ sĩ, nhà nghiên cứu và nhà giáo. Trong thư gửi sinh viên Văn khoa khóa 8, thầy viết: “Tôi có nguyện vọng từ thời trẻ là làm văn nghệ, nhưng rồi Nhà nước lại gọi sang làm giáo dục. Có những người bạn xưa nói vui với tôi: Anh sang bên giáo dục được phong Nhà giáo Nhân dân, nhưng nếu anh cứ ở bên văn nghệ (sân khấu) chắc cũng được là Nghệ sĩ Nhân dân". Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, một học trò của thầy, đã gọi thầy là “một người thầy đức độ, tài hoa, tâm huyết, chân tình”.

Cái “đức độ, tài hoa, tâm huyết, chân tình” của thầy Mai thể hiện trong tình cảm đối với đồng chí, đồng nghiệp, với học trò được phản ánh qua chính những vần thơ của thầy viết về Trường Tổng hợp:

Nhớ khi Ký Phú, Ðồng Văn

Mấy phen mì độn, mấy lần đạn bom

Thầy, cô người mất, người còn

Sinh viên mấy nấm mồ chôn chiến trường...

Lẽ sống của thầy có nguồn gốc từ lẽ sống của một nhà nho chân chính, luôn theo phò nghĩa cả, bất chấp gian khổ, hiểm nguy. Người vô sản đi làm cách mạng là một lẽ đương nhiên. Người thành phố giàu có thuộc tầng lớp trên chấp nhận từ bỏ vinh hoa phú quý để đi làm cách mạng, chịu gian khổ hy sinh là một điều đáng nói. Đó là một sự tự nguyện, tự giác nhưng cũng luôn trăn trở, tìm tòi - một “con đường đau khổ” như tên tiểu thuyết của nhà văn Nga Xô-viết A-lếch xây Tôn-xtôi để đi đến một niềm tin hoàn toàn vững chắc, sự tự nguyện tuyệt đối. Họ không che giấu nỗi buồn, họ biết không có gì là được cả, không có gì hoàn thiện, nhưng khi lựa chọn, biết chọn phò nghĩa cả.

Đây là tâm sự của thầy khi theo nhà trường đi sơ tán lên Việt Bắc lần thứ hai:

Ra đi lần nữa biệt kinh thành

Mái tóc mười phần chín hết xanh

Trách nhiệm - gia đình: đôi gánh nặng

Văn chương nghệ thuật: sợi tơ mành

Hai mươi năm trước dân không nước!

Hai chục năm sau biết có mình?

Đã quyết đem thân phò nghĩa cả

Niềm riêng chạnh nghĩ luống buồn tênh.

Càng ngày, thầy càng ung dung tự tại, những niềm riêng nhẹ tựa hồng mao, chỉ lòng tin yêu theo Đảng ngày một lớn:

Chúng ta trí thức đi theo Đảng

Nào có khi nào tính thiệt hơn

Việc làm ngay thẳng lòng trong sáng

Sống giản đơn và chết giản đơn...

Năm 80 tuổi, thầy viết:

Cuộc đời vinh nhục vui buồn

Sắc-không, không-sắc há còn vấn vương

Bao giờ đến lượt lên đường

Thì như một chiếc lá vàng gió bay...

Trong sắc có không, trong không có sắc. Thầy đã phiêu linh ở thế giới khác. Nhưng thầy vẫn hiện hữu trong tình cảm yêu thương, kính trọng của lớp lớp học trò. Lẽ sống, nhân cách cao đẹp của một người trí thức cách mạng còn soi sáng các em.

Nam Từ Liêm, 19/11/2022

Nguyễn Sĩ Đại

Nguồn: Nhân dân, ngày 19.11.2022.

Thông tin truy cập

61761714
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
1904
18932
61761714

Thành viên trực tuyến

Đang có 540 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website