Nghiên cứu văn hoá học là một khuynh hướng mới rất sôi động trong nghiên cứu văn học Trung Quốc mấy năm gần đây. Hướng nghiên cứu nảy sinh từ những năm 50 ở Anh với trường phái Birmingham (R. Williams, R.Hoggart), ở Đức với trường phái Frankfurt (D. Kellner), những năm 70 ở Pháp với R.Barthes, . Họ chủ trương nghiên cứu các hiện tượng đời sống văn hoá như đấu vật, quảng cáo, thoát y vũ, kiểu dáng ôtô, minh tinh màn bạc…, phát hiện ý nghĩa văn hoá và ý thức hệ của chúng, vừa có thái độ phê phán vừa coi đó là đời sống bình thường của đô thị. Hướng nghiên cứu này đến những năm 80 lan sang úc, Canada, Mĩ, chuyển thành một hướng nghiên cứu có tính chất xã hội, chính trị như nghiên cứu nữ quyền, hậu thực dân và trở thành một trào lưu có tính thế giới.

NGÔ TRÀ MI(*)

“Vô thường” là một khái niệm quan trọng, một trong tam pháp ấn (vô thường, vô ngã, Niết bàn) của Phật giáo, quy định cách nhìn của Phật giáo về sự hiện hữu. Việt Nam và Nhật Bản là hai quốc gia thuộc khu vực Đông Á, chịu ảnh hưởng sâu đậm của triết lý Phật giáo, trong văn hoá, đời sống cũng như văn học. Khái niệm vô thường đã trở thành chìa khoá để lý giải nhiều hiện tượng văn học và mỹ học. Từ triết lý Phật giáo, khi bước vào văn chương, vô thường thường gắn liền với những chung cuộc, với sự tàn phai, tận diệt, với cái chết, vì đi đến tận cùng của sự đổi thay chính là cái chết. Đường ranh này của kiếp sống là cảm hứng sáng tạo cho nhiều nghệ sĩ phương Đông. Đặc biệt, ở Đông Á, có hẳn một dòng thơ được sáng tác trước khi tác giả từ trần như là di ngôn và cũng là nơi gửi gắm chí bình sinh của người viết. Trong bài viết này, chúng tôi quan tâm đến hiện tượng làm thơ trước khi viên tịch của các thiền sư Nhật Bản và Việt Nam. Cụ thể, thơ từ thế của các thiền sư Nhật Bản thời Kamakura (1185-1333) và thơ thị tịch của các thiền sư Việt Nam thời Lý - Trần (1009-1400) sẽ được đọc dưới cảm quan vô thường.

Bên cạnh những thể loại, có những trào lưu chảy xuyên ngang nhiều thời đại và nhiều phạm trù văn hóa. Chủ nghĩa hiện thực là một trong những trào lưu ấy. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về các trào lưu, trường phái, như các công trình về thời đại barôc, thời kỳ lãng mạn chủ nghĩa, thời kỳ hiện thực chủ nghĩa. Tiếp cận so sánh lịch sử các trào lưu văn học đã có những đóng góp không nhỏ cho sự phát triển lý luận văn học và lịch sử văn học.

Nguyễn Ngọc Bảo Trâm (*)

Noh một loại hình sân khấu truyền thống của Nhật Bản, vốn được xem là nguồn cội của sân khấu Nhật Bản, cho đến ngày nay vẫn là niềm tự hào của người Nhật. Những vở kịch Noh trình diễn trong thời gian kèo dài nhiều giờ đồng hồ, ở đó diễn viên đeo mặt nạ, trình diễn những động tác ước lệ, sử dụng ngôn từ giàu ẩn dụ và sân khấu hầu như không biến đổi không phải là dễ theo dõi đối với những người thiếu kiên nhẫn và thiếu niềm yêu thích với văn hóa Nhật Bản cổ truyền. Vậy mà, kịch Noh vẫn tồn tại trọng đời sống Nhật Bản hiện đại luôn dịch chuyển chóng mặt. Người Nhật bằng một cách thức đặc biệt vẫn giữ gìn được tinh thần u huyền của kịch Noh trong lòng xã hội công nghiệp. Dường như bóng ma Komachi hư ảo một thời vẫn còn hiện diện trong đời sống hiện đại này để mải miết truy vấn về cái đẹp, tình yêu và những mất mát, đổ vỡ mà con người vẫn luôn phải đối diện trong đời sống dù ở thời đại nào, không gian nào.

TÓM TẮT

Qua khảo sát có thể khẳng định con đường tiếp nhận, hưng thịnh, suy vong của tư tưởng Phật giáo và dần nhường địa vị cho Nho giáo giữa Hàn Quốc và Việt Nam có rất nhiều điểm tương đồng. Đặc biệt, thời điểm chung kết ảnh hưởng của đạo Phật với tư cách là Quốc giáo ở Hàn Quốc diễn ra ngay sau khi tướng Yi Song-gye lên ngôi vua vào năm 1392 thì đạo Phật Việt Nam cũng mất dần vai trò đúng khi vương triều Trần suy vi vào những năm cuối cùng của thế kỷ XIV.

Nguyễn Thị Phương Thúy (*)

  1. Văn học vô sản Nhật Bản và những tác phẩm được dịch ở Việt Nam

Văn học vô sản (proletarian literature) hay còn gọi là văn học công nhân (working-class literature), đúng như tên gọi của nó, là dòng văn học viết về những người lao động nghèo khổ thuộc tầng lớp dưới đáy xã hội, trong đó chủ yếu là những người công nhân vô sản. Những cuộc cách mạng vô sản nổ ra ở nhiều quốc gia trên thế giới vào nửa cuối thế kỷ 19 đã tạo tiền đề cho sự ra đời của dòng văn học này. Phong trào công nhân Chartism những năm 1838-1848 đã khởi xướng trào lưu thơ ca cách mạng ở Anh. Cách mạng vô sản Pháp 1871 khơi nguồn cho văn học công xã Paris với đại diện tiêu biểu là nhà thơ Eugène Pottier, tác giả bài Quốc tế ca. Về sau, những đặc điểm của dòng văn học này được hệ thống hoá thành một phương pháp sáng tác cụ thể, lấy học thuyết, tư tưởng Marx-Lenin làm điểm tựa và đặt dưới sự định hướng của đảng cộng sản, đó là phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa (socialist realism). Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa từng trở thành phương pháp sáng tác phổ biến, thậm chí chủ yếu, ở các quốc gia xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc, Việt Nam suốt một thời gian dài.

 

 (Nhà thơ Ko Un, nguồn Google)

TÓM TẮT

Ko Un là nhà thơ nổi tiếng của Hàn Quốc. Ông đã nhiều lần được đề cử giải Nobel văn chương. Ông từng là một tu sĩ, một tù nhân, một nhà hoạt động cho tự do dân chủ nên thơ ông là nơi ghi dấu ấn những trải nghiệm trên mọi bước đường ông đã qua. Thơ ca của Ko Un là sự chiêm nghiệm về vũ trụ, là khát vọng vươn tới tự do, là sự đối thoại và tìm đường cho lịch sử dân tộc Triều Tiên.

          Lê Ngọc Phương (*)

1.      Abe Kobo và những sáng tác mang biểu hiện của chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo

Theo Phạm Vũ Thịnh: “Trước Murakami Haruki trên 20 năm, Abe Kobo đã được biết đến như một tác gia Nhật Bản nổi tiếng quốc tế về các tác phẩm vượt khỏi mỹ quan truyền thống Nhật Bản, sáng tạo mới mẻ, dùng nhiều ẩn dụ, ngụ ngôn, nhiều hình tượng cụ thể hay siêu thực để diễn tả nội tâm và tiềm thức của con người bị tha hoá, vong ngã trong xã hội đô thị càng ngày càng tiện lợi và máy móc” [1]. Quả thật, như Phạm Vũ Thịnh từng nhận xét, bên cạnh những yếu tố thuộc về hiện thực, sáng tác của Abe Kobo chứa đựng rất nhiều chi tiết ngụ ngôn, nhiều hình tượng kỳ ảo, “phi thực”. Chính vì vậy, nhiều học giả thế giới thường xếp ông vào chủ nghĩa siêu thực hoặc nhóm văn chương khoa học viễn tưởng. Theo quan điểm của chúng tôi, sáng tác của Abe Kobo mang nhiều biểu hiện của chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo, một trào lưu có sức lan tỏa lớn mạnh trên nhiều khu vực vào nửa sau thế kỷ XX.

             TÓM TẮT

           Trong lịch sử văn học Đông Á, bộ tiểu thuyết văn ngôn Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, một tác giả sống khoảng cuối đời Nguyên đầu đời Minh, có một số phận cực kỳ đặc biệt. Trong khi ở Trung Quốc, nó bị cấm đoán, bị khiến cho gần đến mức tuyệt chủng, thì ở nước ngoài, đặc biệt ở các nước thuộc thế giới Hán hóa như Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam,… nó lại được đón nhận nồng nhiệt và không ngừng khuyếch trương tầm ảnh hưởng, tất nhiên quá trình tiếp nhận Tiễn đăng tân thoại ở mỗi nước là hoàn toàn khác nhau. Vậy trong quá trình khuyếch trương tầm ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại  ra nước ngoài, người Hàn Quốc đóng vai trò ra sao? Tác phẩm chính thức được truyền vào Hàn Quốc từ khi nào? Bằng con đường nào? Trong bối cảnh xã hội thế nào và tâm lý tiếp nhận ra sao? Bài viết này xuất phát từ phương pháp thực chứng, chủ yếu xoáy vào giải quyết một số nội dung nêu trên.


Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa là một trào lưu mà nhiều thập kỷ của thế kỷ XX đã đóng vai trò chủ đạo trong văn học và nghệ thuật của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam.

“Tiểu thuyết tài tử giai nhân (TTGN)” là gì? Câu hỏi tưởng chừng rất dễ trả lời. Nhưng, khi đọc các công trình nghiên cứu của học giới Trung Quốc(1) viết về vấn đề này mới thấy thật ra không hề giản đơn. Hiện tại các nhà nghiên cứu Trung Quốc vẫn chưa thống nhất với nhau về khái niệm này. Nhìn chung thì có hai cách hiểu rộng hẹp khác nhau. Bài viết này sơ bộ tổng thuật cách hiểu khái niệm “tiểu thuyết TTGN” của học giới Trung Quốc từ trước đến nay.

             Sáng 24 tháng 4 năm 2014 đã diễn ra buổi sinh hoạt học thuật giữa các giảng viên, học viên cao học và sinh viên của Khoa Văn học và Ngôn ngữ với giáo sư Shih Shu-mei (Sử Thư Mỹ) đến từ Đại học California Los Angeles.

                              (Lê Ngọc Phương, Tạp chí ĐH Sài Gòn, niên giám 2012)

Jorge Luis Borge chắc chắn không phải là một tên tuổi xa lạ đối với giới nghiên cứu văn học thế kỷ XX. Oxford book of Latin American short stories (Sách Oxford về Truyện ngắn châu Mỹ Latinh) cho rằng: “Gabriel Garcia Marquez cùng với Jorge Luis Borges là hai nhà văn Mỹ Latinh nổi tiếng nhất tính đến hiện nay” [1].  Cùng quan điểm này, Scott Simpkins trong công trình nghiên cứu về chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo đã đánh giá: “Jorge Luis Borges và Gabriel Garcia Marquez là hai nhà văn đã có công đưa chủ nghĩa Hiện thực huyền ảo đi xa hơn bằng cách thử nghiệm những điều kiện của chính cái huyền ảo nguyên bản trong sáng tác của họ” [2]. Theo Scott Simpkins, nếu Alejo Carpentier là người lập thuyết tiêu biểu cho trào lưu Hiện thực huyền ảo thì Jorge Luis Borges và Gabriel Garcia Marquez chính là người đưa trào lưu văn học huyền ảo đến với thế giới, bằng những sáng tác của mình.

Văn học Nhật Bản là nền văn học lớn trên thế giới. Các sách về văn học Châu Á thường xếp chương viết về văn học Nhật Bản sau văn học Trung Quốc, Ấn Độ, Trung Cận Đông. Văn học Nhật  Bản có những cống hiến lớn đối với nhân loại, nổi bật nhất là 2 nhà văn được trao giải Nobel văn học là Kawabata Yasunari (Nobel 1968) và Ôe Kenzaburo (Nobel 1994). Trong khi đó cả châu Á cho đến nay cũng chỉ có 6 nhà văn có được vinh dự ấy. Bốn nhà văn kia là: Rabindranath Tagore (nhà văn Ấn Độ, Nobel năm 1913) và Shmuel Yosef Agnon (nhà văn Israel, Nobel năm 1966), Cao Hành Kiện (nhà văn Trung Quốc, quốc tịch Pháp, Nobel năm 2000), Mặc Ngôn (nhà văn Trung Quốc, Nobel 2012). Không chỉ văn học hiện đại mà văn học cổ điển Nhật Bản cũng có những giá trị đặc sắc. Thơ haiku của Nhật Bản được coi là một trong những thể thơ có ảnh hưởng rộng rãi nhất trên thế giới. Vì vậy việc lựa chọn thơ haiku để giảng dạy trong nhà trường là một điều rất hợp lý.

 

Nguyễn Phương Khánh

(Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng)

 

TÓM TẮT

Cho đến thời điểm gần đây nhất, khái niệm “văn học Nhật Bản” gần như chỉ dành cho những tác phẩm được sáng tác và xuất bản trên đất Nhật, bởi người Nhật thuần chủng. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển xã hội và bối cảnh toàn cầu hóa, biên giới văn chương cũng được xét lại. Văn học di dân Nhật Bản dần có một vị trí nhất định trong dòng chảy văn chương Phù Tang. Cũng giống như nhiều quốc gia khác trong khu vực Đông Á, văn học hải ngoại Nhật thể hiện sự hòa nhập Đông – Tây và những tâm hồn tha hương luôn hoài vọng những giá trị truyền thống của dân tộc. Murakami Haruki là một hiện tượng nổi bật trong nền văn học Nhật Bản đương đại, là một nhà văn Nhật giữa thời đại toàn cầu hóa với những tác phẩm thể hiện rõ tính chất “giải lãnh thổ” văn chương. Có thể nói, hiện tượng Murakami Haruki đã bộc lộ một tiếng nói khác của văn học di dân Nhật Bản và mang tới nhiều triển vọng mới cho văn học hậu hiện đại trong quá trình biến dịch không ngừng của nó.

  

Bản tác giả gửi riêng cho web Khoa Văn học và Ngôn ngữ 

Vậy là cuối cùng, giải Nobel Văn chương 2012 đã có chủ, đúng một giáp từ năm 2000 khi Cao Hành Kiện (mặc dù đã bị tước quốc tịch Trung Quốc nhưng ông là nhà văn Trung Quốc trăm phần trăm) được trao giải Nobel và bị người Trung Quốc phản đối, cho việc trao giải đó mang tính chính trị“như là một sự sỉ nhục và cũng là sự khinh thường đối với chúng ta” (Bắc Kinh Văn báo), “đây là một trò đùa không đúng chỗ, nó sẽ làm mất uy tín của Ủy ban Nobel dưới con mắt một bộ phận dư luận Trung Quốc” (Văn hối báo)...Thì nay, chắc là họ hoan hỷ vì Mạc Ngôn là nhà văn xuất sắc chính thống của họ.

TÓM TẮT

Hàn Mặc Tử là hiện tượng độc đáo có một không hai trong thi ca Việt Nam. Thơ của ông kế thừa sâu sắc nền Hán học truyền thống, nhưng cũng đầy những tìm tòi sáng tạo mới mẻ, tiếp nhận và tiếp biến từ phương Tây. Thông qua các nhà thơ tượng trưng Pháp như Charles Baudelaire, Stéphane Mallarmé, Paul Valery v.v…, những người đã chịu ảnh hưởng và tự coi là đồ đệ của Edgar Poe, Hàn Mặc Tử đã có sự gặp gỡ đồng điệu với thiên tài kì lạ này về hình ảnh, nhịp điệu, đề tài cái chết và những giấc mơ. Đặc biệt là trong quan điểm “Nghệ thuật vị nghệ thuật” mà Edgar Allan Poe được coi là người khai sinh. Sự gặp gỡ với cây bút đa tài độc đáo này đã góp phần làm thăng hoa nghệ thuật siêu thi của Hàn Mặc Tử, mở ra một biên giới “rộng rinh vô bờ bến” cho thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.

 

Nguyễn Thị Oanh

Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam

183 Đặng Tiến Đông - Đống Đa - Hà Nội

 

TÓM TẮT

Hiện nay ở Việt Nam, số lượng các nhà nghiên cứu Việt Nam nghiên cứu về văn học setsuwa (thuyết thoại) của Nhật Bản đã gia tăng đáng kể so với những năm trước đây, song sự hiểu biết liên quan đến  văn học điềm báo, ghi chép về những chuyện chưa xẩy ra trong tương lai như “mộng ký”, “đồng dao”, “sấm ký” ghi chép ở văn học thuyết thoại của Nhật còn nhiều hạn chế. Lẽ đương nhiên việc nghiên cứu các tác phẩm ghi chép truyện điềm báo như Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh đã được các nhà nghiên cứu Việt Nam tiến hành từ rất sớm, song trong bối cảnh toàn cầu hóa và giao lưu giữa Việt Nam và các nước trong khu vực ngày một phát triển mạnh mẽ thì việc tìm hiểu tình hình nghiên cứu liên quan ở nước ngoài vẫn còn nhiều bất cập. Các nhà nghiên cứu Việt Nam nếu không thông thạo ngoại ngữ sẽ gặp trở ngại trong việc tiếp xúc và kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà nghiên cứu nước ngoài. Trong nỗ lực chung nhằm truyền tải những thành tựu nghiên cứu nước ngoài cho các nhà nghiên cứu trong nước, báo cáo này sẽ giới thiệu khái quát một số luận văn, công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực trên của các học giả Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc. Báo cáo đi sâu giới thiệu một số vấn đề liên quan như  người Nhật Bản cổ đại tin thế nào về giấc mơ điềm báo ? Các truyện về giấc mơ điềm báo  có nội dung ra sao  và sự hình thành thế giới giấc mơ điềm báo trong các tác phẩm setsuwa của Nhật được xây dựng thế nào ? Trên cơ sở đó sẽ so sánh với một số ghi chép về truyện giấc mơ điềm báo trong truyền thuyết và truyện cổ Việt Nam viết bằng chữ Hán như Thiền uyển tập anh, Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh, từ đó tìm ra những mảng màu chung và riêng biệt  trong việc tạo dựng nhân vật và cốt truyện giấc mơ điềm báo của hai nước, hy vọng qua đó có thể gợi mở một số vấn đề nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực này ở Việt Nam trong tương lai.

          'Nghìn lẻ một đêm' đã có một bước tiến rõ nét về thi pháp xây dựng nhân vật người kể chuyện khi đề cao nữ tính và sự trân trọng tri thức cũng như lòng nhân hậu, tình yêu thương và nhan sắc của người phụ nữ.

Thông tin truy cập

60850884
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
10663
13943
60850884

Thành viên trực tuyến

Đang có 355 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website