Tóm tắt

Chủ nghĩa vị lai ra đời trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ XIX và XX. Đó là thời đại của những cuộc cách mạng xã hội, và chủ nghĩa vị lai như một khuynh hướng hiện đại chủ nghĩa phản ánh cả hai phương diện tiêu cực lẫn tích cực của thời đại đó. Tư tưởng vô chính phủ, chối bỏ truyền thống, những thử nghiệm mang tính phá phách, gây sốc hoặc mù mờ khó hiểu là những điều khiến cho thơ ca vị lai có thể bị coi là suy đồi, là lưu manh, là nổi loạn. Tuy nhiên đó cũng là hình thức phản ánh hiện thực xã hội và tâm hồn của thời đại theo cách riêng của một thế hệ tuy chịu ảnh hưởng của truyền thống hiện thực thế kỷ XIX nhưng đồng thời cũng muốn thoát khỏi cái bóng khổng lồ của nó. Những cách tân về hình thức và nội dung của chủ nghĩa vị lai, nếu bỏ qua những cực đoan, đã có những đóng góp quan trọng đối với tiến trình phát triển của văn học hiện đại Nga, đặc biệt trên phương diện thẩm mỹ.

 

Antoine de Saint-Exupéry (1900 – 1944) không phải là một tên tuổi quá lớn nhưng là một trường hợp độc đáo của văn học Pháp hiện đại. Sự độc đáo ở nhà văn này không chỉ bởi sáng tác và cuộc đời riêng tư của ông gắn chặt với nhau như một định mệnh mà còn là những gì mà ông đã thể hiện trong tác phẩm của mình thông qua những trải nghiệm từ nghề phi công đầy mạo hiểm. 

(Phan Thị Thu Hiền, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

DẪN NHẬP

Rabindranath Tagore không chỉ là nhà thơ lớn đầu tiên của Châu Á giành giải thưởng Nobel với thi phẩm Gitanjali (Thơ Dâng) mà còn là nhà văn, nhà viết kịch nổi tiếng, triết gia lừng danh, nhạc sĩ và họa sĩ kỳ tài, nhà giáo dục và nhà cải cách xã hội vĩ đại. Ông được xưng tụng như “vị thánh toàn năng”, “Leonard de Vinci của Thời đại Phục hưng Ấn Độ”, một trong “Tam vị thánh thần thời hiện đại”[1] đã tái sinh sức mạnh văn hóa truyền thống của dân tộc trong sự hòa hợp với những giá trị văn minh của Âu Mỹ nói riêng và những tinh hoa của thế giới nói chung.   

Sergei Alexandrovich Esenin (1895 – 1925) là một trong những nhà thơ ký tên trong bản tuyên ngôn của trường phái hình tượng Nga vào tháng giêng năm 1919, và cũng là người tuyên bố cáo chung của nó, tuy nhiên ông thường được ghi danh trong thơ ca Nga không phải như một đại diện của chủ nghĩa hình tượng, mà trước hết như một nhà thơ nông dân. 

 (TS. La Mai Thi Gia, Tạp chí Khoa học, Trường ĐH Sư phạm TP.HCM, tháng 4/2015)

1.         Yoshimasu Gozo và sự khởi hành khỏi những ràng buộc truyền thống

           Thơ ca Nhật Bản hiện đại đã trải qua hai cuộc cách mạng lớn trong suốt thế kỉ XX, cuộc cách mạng thứ nhất diễn ra vào đầu những năm 20 chủ yếu dưới sự bùng nổ của những quan niệm nghệ thuật mới mẻ từ phương Tây truyền sang Nhật, tạo nên một phong trào phá hủy các hình thức thơ ca Nhật truyền thống. Cuộc cách mạng thứ hai nổ ra vào cuối những năm 60 khi “thời đại thơ ca hậu chiến” kết thúc. Thời gian này, các nhà thơ trẻ tuổi có tài năng nổi bật của Nhật Bản như Amazawa Taijiro và Yoshimasu Gozo cùng tranh đấu hết sức quyết liệt cho những quan niệm mới về thơ ca của mình, họ ca tụng quyền lực sáng tạo của ngôn ngữ trong sáng tác thơ ca. Thơ của họ chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi phong cách của nhóm Beatnik “thơ ca hành động” từ nước Mĩ. [1]

 TT - Lúc 13g (giờ Thụy Điển, tức 18g giờ Việt Nam) ngày 8-10 tại Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển, nhà văn Belarus Svetlana Alexievich đã trở thành nhà văn thứ 108 được tôn vinh ở hạng mục Nobel văn chương.

Nữ nhà văn Belarus Svetlana Alexievich tại một hội chợ sách ở Minsk - Ảnh: Reuters
Nữ nhà văn Belarus Svetlana Alexievich tại một hội chợ sách ở Minsk - Ảnh: Reuters
Tôi luôn muốn tìm hiểu có bao nhiêu chất người trong con người? Và làm thế nào để bảo vệ được chất người đó trong con người?
SVETLANA ALEXIEVICH

Thông cáo về giải thưởng Nobel văn chương của Viện hàn lâm Khoa học Thụy Điển viết: “Giải thưởng Nobel văn chương năm 2015 được trao cho nhà văn Belarus Svetlana Alexievich vì những tác phẩm đa giọng điệu, một biểu tượng mẫu mực về sức chịu đựng và lòng dũng cảm trong thời đại chúng ta”.

(Lê Thuỵ Tường Vi, Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

            Những học giả phương Tây khi tiếp xúc với nghệ thuật Nhật Bản hiện đại đều ngỡ ngàng về sức ảnh hưởng to lớn của chủ nghĩa siêu thực. Từ một trào lưu chỉ mới du nhập vào đây những năm 20 của thế kỷ trước, chỉ 10 năm sau, Nhật Bản đã có hơn 500 nghệ sĩ theo khuynh hướng siêu thực chủ nghĩa(1) và đến đầu thế kỷ XXI là gần 3.000 người(2) ở các lĩnh vực văn chương, hội hoạ, điện ảnh… Trong một công trình công bố vào năm 1999, John Solt cũng xác nhận không nơi nào trên thế giới, ngay cả tại Pháp – quê hương của chủ nghĩa siêu thực, ảnh hưởng của trào lưu này sâu sắc bằng Nhật Bản.

Từ trung tuần tháng 9/2015, Cục Xuất bản có lệnh tạm dừng xuất bản những truyện ngôn tình Trung Quốc. Kèm theo đó là một loạt bài báo lên án truyện ngôn tình. Vậy truyện ngôn tình là gì? Nó đã làm mưa làm gió ra sao, nội dung nó thế nào mà báo chí phải dè bỉu, chê bai, nếu không muốn nói là lên án?

 (Trần Lê Hoa Tranh, Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

            1. Các thế hệ nhà văn nữ Việt Nam tại Hoa Kỳ

            Theo tìm hiểu và thống kê, hiện có khoảng 70 nhà văn nữ Việt Nam đang sống và sáng tác tại Mỹ. Tuy vậy, con số này chỉ là số người viết, có sách, còn số nhà văn nữ thật sự được đánh giá cao chỉ khoảng 30 người. Đội ngũ nhà văn nữ bao gồm cả ba thế hệ một, một rưỡi và hai.

(Trần Thị Thuận, In trong " Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Nền văn học Mỹ trẻ trung, sung sức đã có một quá trình hơn bốn trăm năm xây dựng và phát triển, và đã tạo được một vị thế “lớn” trong danh sách các nền văn học trên thế giới. Tuy vậy, những câu hỏi hệ trọng vẫn luôn được đặt ra: trở về với thực tiễn lịch sử, nước Mỹ há chẳng phải là một “khúc ruột” của tổ quốc Anh sao? Với căn cơ tách ra từ một cái nôi văn hóa và văn chương cổ kính và bề thế như vậy, liệu nền văn học Mỹ mới có phải là một nhánh của văn học Anh? Liệu văn học Mỹ có thể phát triển độc lập, để hình thành và khẳng định một “chất Mỹ” thay vì “chất Anh”? 

 (Nguyễn Ngọc Bảo Trâm, Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

 

https://katongboyreads.files.wordpress.com/2012/05/dsc03443.jpg

             Trong tiến trình văn học thế giới, nghệ thuật tự sự luôn có những vận động và những thành tựu. Hai tác phẩm Nghìn lẻ một đêmMười ngày đã trở thành những điển hình quan trọng của văn học phương Đông và văn học phương Tây trong tiến trình đó. Thường được nêu cạnh nhau như là những đại diện cho các tác phẩm thuộc kiểu truyện khung, Nghìn lẻ một đêmMười ngày hấp dẫn người nghiên cứu văn học ở nhiều phương diện. Trong nghiên cứu về nghệ thuật tự sự của Nghìn lẻ một đêmMười ngày, kiểu truyện, kết cấu truyện lồng truyện, hành động kể chuyện, hình tượng người kể chuyện, v.v. vốn là những vấn đề hấp dẫn cần nhiều lý giải. Ở bài viết này, chúng tôi trình bày về hình tượng người nghe chuyện trong Nghìn lẻ một đêmMười ngày như một cách để tìm hiểu kỹ càng hơn về giá trị của hai tác phẩm trong nghệ thuật tự sự.

 (Trần Trọng San, In trong " Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN))

QUÁ TRÌNH DIỄN BIẾN CỦA THƠ ĐƯỜNG

Ðời Tống, Nghiêm Vũ, tác giả sách Thương Lang thi thoại, chia thơ Ðường làm năm thể là: Ðường Sơ thể, Ðại Lịch thể, Nguyên Hoà thể và Vãn Ðường thể.

 (Đào Thị Diễm Trang, Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 4 - 2015)

      DẪN NHẬP

           Từ khoảng thế kỷ XVII trở đi, truyện thơ trở thành thể loại văn học chủ đạo tại khu vực Đông Nam Á. Nguyễn Tấn Đắc nhận định: “Đến những thế kỷ XVII, XVIII, XIX, nền văn học viết truyền thống đạt đến đỉnh cao của nó. Ở Việt Nam xuất hiện Truyện Kiều và hàng loạt tác phẩm khác. Ở Lào có Xỉn Xay và nhiều truyện thơ. Ở Thái có Khủn Cháng Khủn Phẻng, Aphaymani. Ở Inđônexia có hàng loạt Hikayat, Sjair.”[1]. Một điều có thể dễ dàng nhận thấy là truyện thơ Thái Lan đã bắt kịp dòng chảy văn học của khu vực và phát triển mạnh qua rất nhiều thành tựu như: Ramakien, Inao, Phra Lo, Sang Thong, Chanthakhorop (Mora), Krai Thong, Nàng Kaeo mặt ngựa,  Khun Chang Khun Phaen, Phra Abhai Mani… Để có được các tác phẩm truyện thơ này, công lao của các vị vua Thái Lan thời kì Chakri là không hề nhỏ. Ý thức gầy dựng lại nền văn học của vương quốc sau cuộc binh biến với người Miến Điện năm 1767 đã khiến các vị vua Rama và lực lượng thi sĩ cung đình dốc sức sáng tạo nên các tác phẩm truyện thơ. Về phương diện nội dung, truyện thơ Thái Lan được sáng tác tựa trên ba yếu tố: thứ nhất, tiếp biến sử thi, kịch thơ, thơ Ấn Độ; thứ hai, tận dụng lại nội dung của nguồn truyện cổ bản địa; thứ ba, sử dụng các đề tài lịch sử xã hội. Bài viết này giới thiệu hai trong số các đặc điểm sáng tác của truyện thơ Thái Lan: đặc điểm của đội ngũ sáng tác và đặc điểm của nội dung sáng tác.

(Nguyễn Hữu Hiếu, In trong " Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Trước thơ tượng trưng, trong lịch sử văn học phương Tây và văn học Pháp từ thế kỉ XVII trở đi đã từng xuất hiện các trào lưu nghệ thuật lớn: trào lưu cổ điển, trào lưu lãng mạn, trào lưu hiện thực, trào lưu tự nhiên chủ nghĩa. Mỗi trào lưu như vậy gắn liền với những đặc điểm riêng, có ý nghĩa mang tính lịch sử đối với tiến trình văn học nói chung. Đến lượt mình, chủ nghĩa tượng trưng cũng vậy, bản thân nó cũng có những cống hiến bằng chính những quan điểm nghệ thuật mới, những sáng tạo có ý nghĩa gợi ý tích cực cho trào lưu cách tân mạnh mẽ trong thơ và văn học nói chung.

 (Lương Duy Thứ, Tạp chí Văn học, số 10/2001)

 

 

 

          I.1. Trước đây, trong cuốn sách nhỏ Mấy vấn đề thi pháp Lỗ Tấn, tôi có tìm hiểu vấn đề nhân vật người kể chuyện trong truyện ngắn Lỗ Tấn. Nay xem xét lại, bổ sung thêm, mong muốn nhận được ý kiến của các đồng nghiệp để có thể sớm hoàn thiện cuốn sách Thi pháp Lỗ Tấn mà tôi ấp ủ từ lâu.

(Vũ Thị Thanh Trâm, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

Tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản là một bộ phận thuộc văn học Nhật Bản nói chung và văn học chữ Hán Nhật Bản nói riêng. Thế nhưng nếu như thi, từ, thi thoại Hán văn Nhật Bản được các học giả Trung Quốc, Đài Loan quan tâm nghiên cứu từ sớm thì công tác sưu tầm, nghiên cứu và chỉnh lý tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản chỉ mới được tiến hành trong hơn hai mươi năm trở lại đây. Ở địa hạt nghiên cứu tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản, người có đóng góp to lớn là giáo sư Vương Tam Khánh thuộc Đại học Thành Công (Đài Loan). Mục đích của bài viết là giới thiệu những thành quả nghiên cứu của giới học thuật Trung Quốc, Đài Loan về lĩnh vực này. Bài viết là sự tổng hợp, chỉnh lý và phiên dịch từ những tài liệu có liên quan đến tiểu thuyết Hán văn Nhật Bản của học giả Trung - Đài -Nhật.

 (Trần Thị Phương Phương, Chuyên san Tạp chí Nghiên cứu văn học  số 4-2015)

1.                  Hậu hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại

             Hậu hiện đại (postmodernity) là một trong những khái niệm quan trọng trong các lý thuyết hiện đại về xã hội cũng như văn hóa, văn học. Nó chỉ một giai đoạn lịch sử, bắt đầu từ cuối thời đại công nghiệp (tức từ giữa thế kỷ XX) cho đến ngày nay – tức thời đại hậu công nghiệp.[1]

(Thái Thu Lan, In trong "Những vấn đề ngữ văn" (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN) 

Thông thường, mỗi văn nhân nghệ sĩ đều có nỗi đau đời, nỗi đau nhân thế. Nỗi đau này bắt nguồn từ tấm lòng nhân ái và ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ trước cuộc sống và số phận con người qua những biến động xã hội.

Tóm tắt. Ngay từ đầu hồi truyện, nhà tiểu thuyết dùng mấy chữ “uy nghi lỗi lạc” để giới thiệu nhân vật chính của thiên truyện. Thế nhưng chúng tôi cho rằng cái “uy nghi lỗi lạc” của Vương Miện ở đây không ở những là thanh khiết, cao nhã, tiết tháo mà tập trung biểu hiện ra ở chỗ Vương hơn bất cứ ai đã tỏ ra quý giá đời sống tự do của bản thân đến độ nào. Vương không cho giá trị của con người là công danh, phú quý, lập công, sáng nghiệp, trước tác truyền danh. Đối với Vương được sống cuộc sống thân ta thuộc về ta, làm lấy mà ăn, còn dư thời gian thì vẽ tranh, uống rượu, hàn huyên cùng bạn bên mình là đã tốt rồi. Cho nên nói cho trúng, Vương Miện không phải là “trốn cõi tục” mà là chỉ muốn “tránh thế quyền”. Theo quan điểm của chúng tôi, câu chuyện Vương Miện là chuyện lánh trốn chính quyền chứ không phải là chuyện ẩn dật truyền thống. Hồi truyện mở đầu tiểu thuyết này không phải là bài ca nhiệt thành đời sống ẩn dật mà là tiếng than dài cho mối quan hệ giữa chính quyền và trí thức – những kẻ thường vẫn được xem là tự giác hơn dân chúng trong ý thức về số phận mình trong buổi thay triều đổi đại, bãi bể nương dâu.

Từ khóa:uy nghi lỗi lạc” , thanh khiết, cao nhã, “trốn cõi tục”, “tránh thế quyền”, mối quan hệ giữa chính quyền và trí thức. 

Ngay từ đầu hồi truyện nhà tiểu thuyết dùng mấy chữ “uy nghi lỗi lạc” để giới thiệu nhân vật chính của thiên truyện. Thế nhưng chúng tôi cho rằng cái “uy nghi lỗi lạc” của Vương Miện ở đây không ở những là thanh khiết, cao nhã, tiết tháo (là những nét màu mà tự sự liệt truyện luôn sẵn và thích dùng) mà tập trung biểu hiện ra ở chỗ Vương hơn bất cứ ai đã tỏ ra quý giá đời sống tự do của bản thân đến độ nào. Vương không cho giá trị của con người là công danh, phú quý, lập công, sáng nghiệp, trước tác truyền danh (là những đề tài “tủ” của sử truyện). Tự sự hồi truyện mở đầu tiểu thuyết này nếu được thưởng thức đúng cách như tuồng ám thị độc giả gẫm ra rằng -  đối với Vương Miện (trong một thiên sử-kí “người thật việc thực” đây chính là “truyện chủ传主”) được sống cuộc sống thân ta thuộc về ta, làm lấy mà ăn, còn dư thời gian thì vẽ tranh, uống rượu, hàn huyên cùng bạn bên mình là đã tốt lắm rồi.

 (Đào Ngọc Chương, In trong " Những vấn đề ngữ văn " (Tuyển tập 40 năm nghiên cứu khoa học của Khoa VH&NN)

1.

“Trở về” là một môtíp phổ biến trong truyện kể. Nó nằm trong cấu trúc của truyện phiêu lưu với tư cách một chặng khép vòng phiêu lưu lại, và có thể để mở ra vòng phiêu lưu mới, nghĩa là nó thuộc nhóm biến cố/ tình tiết chức năng. Nó thường đề cập đến những đổi thay mà nhân vật vấp phải, đôi khi nhân vật phát biểu hoặc cảm nhận về những đổi thay này. Nó lưu ý với người đọc về một khả năng biến động sau đó hay là chỉ ra cho người đọc những khác biệt (hoặc không khác biệt) của (nhân vật và ) hiện thực trước và sau cuộc phiêu lưu của nhân vật.

index index

Dịch thuật ở Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển hết sức năng động. Không thể không ghi nhận vai trò lớn của các dịch giả, các nhà xuất bản trong nỗ lực giúp cho độc giả Việt Nam tiếp cận với những giá trị kinh điển, tinh hoa và cập nhật của tri thức nhân loại. Cùng với sự phát triển của dịch thuật, phê bình dịch thuật ở Việt Nam cũng bắt đầu định hình. Ý thức thận trọng, hoài nghi trước các dịch phẩm có lẽ là đặc điểm nổi bật của phê bình dịch thuật ở giai đoạn này. Nhưng phải chăng liệu phê bình dịch thuật chỉ có chức năng giám sát, kiểm định bản dịch? Phải chăng đó là cách duy nhất để phê bình góp phần cải thiện chất lượng dịch thuật?

Thông tin truy cập

63696913
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
17205
23426
63696913

Thành viên trực tuyến

Đang có 211 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá:140.000đ

    Giá:140.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website