Một phần bản thư pháp Lan Đình tập tự của Vương Hy Chi do Phùng Thừa Tố mô phỏng chép lại từ nguyên tích. 

Đọc Truyện Kiều đến đoạn nàng Kiều bị Hoạn Thư hành hạ trước mặt Thúc Sinh để “xả ghen”, chắc ai cũng cảm thấy xót xa. Song đến chỗ cùng Thúc Sinh xem Kiều chép kinh, Hoạn Thư phải thán phục thốt lên thành lời: “Khen rằng bút pháp đã tinh/ So vào với Thiếp Lan Đình nào thua” thì chắc mọi người cũng có phần hả dạ.

 “Có những tổn thương phải trả giá. Nhưng tình yêu mãi là một khát khao êm ả của con người, như nỗi khát khao của một linh hồn cần nơi cập bến.

 Tuy nhiên, linh hồn cứ mãi lang thang. Lang thang nên cứ bất an thường trực. Tìm sự tĩnh tại rất dễ dàng, mà cũng rất không…

     Trong chiều ngày 07.12.2011, Khoa Văn học và Ngôn ngữ ĐHKHXH&NV TPHCM đã tổ chức tọa đàm với chủ đề “Nghiên cứu văn học ở Đại học Harvard”. Các diễn giả gồm có giáo sư Karen Thornber (Khoa Văn học so sánh - ĐH Harvard), TS Nguyễn Nam (khoa Đông Phương học – ĐHKHXH&NV TPHCM) và TS Phạm Quốc Lộc (hiện công tác tại ĐH Hoa Sen, TS Văn học so sánh tại Đại học Massachusetts, Amherst (Hoa Kỳ)). Cả ba diễn giả đều là người có kinh nghiệm nghiên cứu và làm việc ở nước ngoài trong nhiều năm, vì vậy buổi tọa đàm đã diễn ra rất sôi nổi với phần diễn thuyết và phần trả lời câu hỏi, cung cấp cho người tham dự nhiều thông tin bổ ích, mới mẻ về hoạt động nghiên cứu văn học và những khuynh hướng mới trong nghiên cứu ở Harvard cũng như ở Hoa Kỳ. Đông đảo cán bộ trẻ và NCS của khoa Văn học và Ngôn ngữ đã đến tham dự.

Phan Mạnh Hùng(*)

Giao lưu văn học Việt - Nhật thông qua hoạt động dịch thuật được hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ, có chiều sâu trong thế kỷ XX và cho đến hôm nay. Trước 1945 văn học Nhật Bản được độc giả Việt Nam biết đến đầu tiên thông qua tác phẩm của các trí thức yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, sau đó là những bản dịch thơ, truyện ngắn của các nhà văn như Hàn Mặc Tử, Vũ Hoàng Chương, Phạm Văn Ký, Nguyễn Giang. Văn học Việt Nam được độc giả biết đến qua bản dịch Truyện Kiều của nhà văn Komatsu Kiyoshi (Toho xb, Tokyo, 1942). Điều thú vị là việc Komatsu Kiyoshi dịch Truyện Kiều ra tiếng Nhật xuất phát từ một gợi ý và giúp đỡ tài liệu của nhà thơ Nguyễn Giang. Sau đó chính Nguyễn Giang đã dịch tác phẩm Cuộc tái ngộ của Komatsu Kiyoshi ra tiếng Việt. Trường hợp Komatsu Kiyoshi và Nguyễn Giang có thể xem như khởi đầu của quá trình giao lưu văn học Việt - Nhật qua dịch thuật.

LỜI NÓI ĐẦU

Việt Nam cùng với các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên - Hàn Quốc trước kia nằm trong “Khu vực văn hóa chữ Hán” (Hán tự văn hóa quyển) với nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, văn học. Từ giữa TK.XIX trở đi lần lượt các nước trong khu vực tiếp xúc với phương Tây, bắt đầu công cuộc hiện  đại hóa đất nước, trong đó có văn học của mình. Quá trình hiện đại hóa văn học là quá trình xây dựng nền văn học mới theo mô hình văn học phương Tây với 3 thể loại chủ yếu: thơ, kịch, tiểu thuyết. Việc so sánh quá trình hình thành, đặc điểm của thơ mới, tiểu thuyết mới và kịch mới giữa từng 2, 3 nước và toàn bộ khu vực có thể thấy được những vấn đề có tính quy luật chung của cả khu vực, cũng như những điểm đặc sắc riêng của từng nước. Điều ấy cũng góp phần tăng cường hiểu biết trong khu vực và rút ra những bài học về hiện đại hóa trong hiện tại và tương lai.

TP - Trong cuộc “Trò chuyện với Masatsugu Ono về tập truyện Tiếng hát người cá” vừa ra mắt bản tiếng Việt sáng ngày 23-2-2012 tại Đại học Hoa Sen - TP Hồ Chí Minh, nhà văn thuộc thế hệ mới người Nhật Bản (Masatsugu Ono sinh năm 1970) đã làm tôi khá bất ngờ.

ViệtNamcó nhiều cuộc cách mạng. Phong trào Thơ mới cũng được xem là cuộc cách mạng vĩ đại trong thi ca. Cuộc cách mạng đó do ảnh hưởng phương Tây mà nên. Hầu như các nhà nghiên cứu đều nhận xét như vậy. Hoài Thanh đã từng nhận xét rằng: “Chúng ta ở nhà Tây, đội mũ Tây, mặc áo Tây,… Nói làm sao cho xiết những thay đổi về vật chất phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta”[(4; tr.10)]. Làm cuộc cách mạng trong Thơ mới là cả sự đổi mới về hinh thức nghệ thuật. Người ta sự  đổi mới  về hình thức nghệ thuật  có sự đóng góp từ nhiều phía, đặc biệt từ phía thơ tượng trưng Pháp.

 

1.            Akutagawa  Ryunosuke, Lã sinh môn, Vũ Minh Thiều dịch, Gió   bốn phương xuất bản,  Sài Gòn, 1967

2.      Akutagawa  Ryunosuke, Truyện của một người lãng trí, Diễm Châu dịch, Văn, 1966, Sài Gòn

3.      Akutagawa  Ryunosuke, Trong rừng trúc, Phong Vũ dịch, Tác phẩm mới xuất bản, Hà Nội, 1987

4.      Akutagawa  Ryunosuke, Truyện ngắn chọn lọc, Lê Văn Viện dịch, Nxb. Văn Học, 1989

5.      Akutagawa  Ryunosuke, Bọn đạo tặc (Chuto), Cung Điền dịch, http://www.erct.com/3-ThoVan/CungDien/Bon_Dao_Tac.htm, 2004

6.      Akutagawa  Ryunosuke, Hà đồng (Kappa), Cung Điền dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/cungdien/qvcd050.htm, 2005

7.      Akutagawa  Ryunosuke, Trinh tiết- Tuyển tập truyện ngắn Akutagawa, Cung Điền dịch, Nxb Văn học, 2006

8.      Akutagawa  Ryunosuke, Ảo thuật (Majutsu), Dương Thị Tuyết Minh dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/QuynhChi/Ao_Thuat.htm, 2005

9.      Akutagawa  Ryunosuke, Đàn bà (Onna), Dương Thị Tuyết Minh dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/QuynhChi/Danba.htm, 2005

10. Akutagawa  Ryunosuke, Lã sinh môn (Rashomon), Dương Thị Tuyết Minh dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/QuynhChi/LaSinhMon.htm, 2005

11.  Akutagawa  Ryunosuke, Đàn bà (Onna), Dương Thị Tuyết Minh dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/QuynhChi/Danba.htm, 2005

12. Akutagawa  Ryunosuke, Sợi tơ nhện (Kumo no ito), Đinh Văn Phước dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/dinhvanphuoc/dvpd052.htm, 2003

13. Akutagawa  Ryunosuke, Mộng mị (Yume), Đinh Văn Phước dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/dinhvanphuoc/dvpd058.htm, 2005

14. Akutagawa  Ryunosuke, Mấy trái quýt (Mikan)¸ Đinh Văn Phước dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/dinhvanphuoc/dvpd054.htm, 2003

15. Akutagawa  Ryunosuke, Tu tiên (Sennin), Đinh Văn Phước dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/dinhvanphuoc/dvpd055.htm, 2004

16.  Akutagawa  Ryunosuke, Chiếc xe goòng (Torokko), Đinh Văn Phước dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/dinhvanphuoc/dvpd053.htm, 2003

17. Akutagawa  Ryunosuke, Sổ điểm danh những người đã khuất (Tenkibo), Lê Ngọc Thảo dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/LNThao/So_diem_danh.htm, 2004

18. Akutagawa  Ryunosuke, Truyện ngắn chon lọc, Lê Văn Viện dịch, NXB Văn học, 1989

19. Akutagawa Ryunosuke, Con bạch (Shiro), http://www.ertc.com/2-ThoVan/LNThao/Con_Bạch.htm, 2005

20. Akutagawa  Ryunosuke, À…a…a…ba! (Ababababa), Lê Ngọc Thảo dịch http://www.ertc.com/2-ThoVan/LNThao/Aaaaba.htm, 2005

21. Akutagawa  Ryunosuke, Tiệc khiêu vũ (Butokai), Lê Ngọc Thảo dịch http://www.ertc.com/2-ThoVan/LNThao/Tiec_khieu_vu.htm, 2005

22. Akutagawa  Ryunosuke, Cục đất (Ikkai no tsuchi), Lê Ngọc Thảo dịch http://www.ertc.com/2-ThoVan/LNThao/Cuc_dat.htm, 2005

23. Akutagawa  Ryunosuke, Thầy Mori (Mori sensei), Lê Ngọc Thảo dịch http://www.ertc.com/2-ThoVan/LNThao/Thay Mori.htm, 2005

24. Akutagawa  Ryunosuke, Mùa thu (Aki), Nguyễn Ngọc Duyên dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/nnduyen/nndn050.htm

25. Akutagawa  Ryunosuke, Thân phận con người, Diễm Châu dịch, NXB Văn nghệ, 1966

26. Akutagawa  Ryunosuke, Bức họa núi thu (Shuzansu), Nguyễn Nam Trân dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/namtran/ntd056.htm

27. Akutagawa  Ryunosuke, Cháo khoai (Imogay), Nguyễn Nam Trân dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/namtran/ntd052.htm, 2002

28. Akutagawa  Ryunosuke, Nước dòng sông  cái (Okawa no mizu), Nguyễn Nam Trân dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/namtran/ntd054.htm, 2003

29. Akutagawa  Ryunosuke, Địa ngục trước mắt (Jigokuhen), Nguyễn Nam Trân dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/namtran/ntd055.htm, 2003

30. Akutagawa  Ryunosuke, Chiếc mùi soa (Hankechi), Nguyễn Nam Trân dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/namtran/ntd057.htm

31. Akutagawa  Ryunosuke, Cánh đồng khô (Kare no shô), Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/NNT/Canhdongkho.htm

32. Akutagawa  Ryunosuke, Niềm tin (Bisei no shin), Nguyễn Nam Trân dịch, www.chimviet.free.fr/vannhat/namtran/ntd064.htm

33. Akutagawa  Ryunosuke, Trong rừng trúc, Phong Vũ dịch, NXB Tác phẩm mới, 1979

34. Akutagawa  Ryunosuke, Lòng đã trót yêu (Kesa to Morito), Văn Lang Tôn Thất Phương dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/TTPhuong/Kesa_to_morito.htm, 2004

35. Akutagawa  Ryunosuke, Tay đạo chích hào hiệp (Nezumi Kozo Jirokichi), Văn Lang Tôn Thất Phương dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/TTPhuong/Tay_dao_chich_hao_hiep-07252004.htm, 2004

36. Akutagawa  Ryunosuke, Bốn bề bờ bụi (Yabu no naka),  Phạm Vũ Thịnh dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/phamvt/pvtd050.htm, 2004

37. Akutagawa  Ryunosuke, Ảo ảnh cuộc đời (Shinkiro),  Phạm Vũ Thịnh dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/phamvt/pvtd051.htm, 2004

38. Akutagawa  Ryunosuke, Cái mũi (Hana), Việt Châu dịch,  http://www.erct.com/2-ThoVan/VietChau/Cai_mui.htm, 2004

39.        Abe Kobo, Người đàn bà trong cồn cát, Trùng Dương dịch, An Tiêm xuất bản, Sài Gòn, 1971

40.        Abe Kobo, Người đàn bà trong cồn cát, Nguyễn Tuấn Khanh dịch, – Nxb.Văn học, Hà Nội, 1989

41.        Abe Kobo, Khuôn mặt người khác, Phạm Mạnh Hùng dịch, Nxb.Đà Nẵng, 1986

42. Arishima Takeo, Một chùm nho (Hitofusa no budo), Đinh Văn Phước dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/dinhvanphuoc/dvpd050.htm, 2002

43. Ariyoshi  Sawako, Những năm tháng thu tàn, Hoàng Hữu Do dịch,  Nxb Phú Khánh, 1987

44. Asada Jiro, Người đón tàu, Phạm Hữu Lợi dịch, Nxb Văn học, 2010

45.        Bashô Matsuo, Bashô và thơ haiku, Nhật Chiêu  dịch và giới thiệu, – Nxb.Văn học, 1994

46.        Bashô Matsuo, Lối lên miền Oku, Vĩnh Sính dịch và giới thiệu, Nxb Thế giới, 1998

47. Dazai Osamu, Đồi khỉ, Cung Điền dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/CungDien/Doi_khi-Sazuzuka.htm, 2006

48. Dazai Osamu, Nói dối (Uso), Đinh Văn Phước dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/DVPhuoc/Noidoi.htm, 2006

49. Dazai Osamu, Judas đi tố cáo (Kakekomi Uttae), Lê Ngọc Thảo dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/LNThao/Judas.htm, 2006

50. Dazai Osamu, Cố hương (Kokyoo), Nguyễn Ngọc Duyên dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/NNDuyen/Co_huong.htm, 2006

51. Dazai Osamu, Melos ơi, chạy nhanh lên (Hashire, Merosu), Văn Lang Tôn Thất Phương dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/TTPhuong/Melos.htm, 2005

52. Dazai Osamu, Xe lửa, Phạm Vũ Thịnh dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/phamvt/pvtd057.htm, 2005

53. Dazai Osamu, Phong cảnh hoàng kim, Phạm Vũ Thịnh dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/phamvt/pvtd058.htm, 2005.

54. Dazai Osamu, Thất lạc cõi người, Hoàng Long dịch, NXB Hội nhà văn, 2011.

55.        Doãn Quốc Sĩ, Thần thoại Nhật Bản, Sáng tạo, SG.1972

56.         Endo Shùsaku : Người đàn bà mà tôi ruồng bỏ, Đoàn Tử Huyên dịch,  Nxb.Lao động, Hà Nội, 1984

57. Harada Yassuko, Một bản tình ca, Bích Kim dịch, Cảo Thơm xb, Sài Gòn, 1968

58. Harada Yassuko, Yêu trong mùa thu, Mặc Đỗ dịch, Đất mới xb, Sài Gòn, 1973

59. Hayashi Fumiko, Đóa cúc muộn (Bangiku), Văn Lang Tôn Thất Phương dịch, http://www.erct.com/2-ThoVan/TTPhuong/Doa_cuc_muon.htm, 2003

60. Higashino Keigo, Bí mật của Naoko, Uyên Thiểm Trương Thuỳ Lan dịch, Nxb Thời đại, 2010

61. Higashino Keigo, Phía sau nghi can X, Trương Thuỳ Lan dịch, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2009

62.        Ihara Saikaku,  Năm người đàn bà si tình, Phạm Thị Nguyệt dịch, – Tiền Giang xuất bản, 1988

63. Ishoco và Ichiro Hatano, Em bé Phù Tang, Trương Đình Cử dịch,  Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1969

64. Iwasaki Chihiro, Trẻ em trong ngọn lửa chiến tranh, Đoàn Ngọc Cảnh dịch, Nxb Phụ nữ, 2008.

65. Jiro Osaragi, Qui cố hương, Bùi Ngọc Lâm dịch, Đất Sống xuất bản, Sài Gòn, 1973

66. Kanehara Hitomi, Rắn và khuyên lưỡi, Uyên Thiểm dịch, Nxb Văn học, 2009

67. Katayama Kyoichi, Socrates đang yêu, Minh Châu Uyên Thiểm dịch, Nxb Hội nhà văn, 2009

68. Kawabata Yasunari, Xứ tuyết, Chu Việt dịch, Trình bày xuất bản, Sài Gòn, 1969

69. Kawabata Yasunari, Ngàn cánh hạc, Trùng Dương dịch, Trình bày xb,  Sài Gòn, 1969

70. Kawabata Yasunari, Ngàn cánh hạc, Tuấn Minh dịch, Sống mới xuất bản, Sài Gòn, 1972 

71. Kawabata Yasunari, Rập rờn cánh hạc, Nguyễn Tường Minh, Sông Thao xb, Sài Gòn, 1974

72. Kawabata Yasunari, Tiếng rền của núi, Ngô Quí Giang dịch, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1989

73. Kawabata Yasunari, Cố đô, Thái Văn Hiếu dịch, Nxb.Hải Phòng,  1988

74. Kawabata Yasunari, Người đẹp ngủ say, Vũ Đình Phòng dịch, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990

75. Kawabata Yasunari, Người đẹp ngủ mê, Quế Sơn dịch, Nxb Thời đại, 2010

76. Kawabata Yasunari, Đất Phù Tang, Cái đẹp và tôi, Cao Ngọc Phượng dịch, Lá Bối xuất bản, Sài Gòn, 1969 (diễn từ Nobel văn chương)

77. Kawabata Yasunari, Sinh ra từ vẻ đẹp Nhật Bản, Đoàn Tử Huyến dịch từ bản tiếng Nga (diễn từ Nobel văn chương)

78. Kawabata Yasunari, Mắt mẹ (Haha no me), Dương Thị Tuyết Minh dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychd057.htm, 2006

79. Kawabata Yasunari, Tấm ảnh (Shashin), Dương Thị Tuyết Minh dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/quynhchi/qychd058.htm, 2006

80. Kawabata Yasunari, Vũ nữ Izu, Thái Hà dịch, Nxb. Tác phẩm mới, 1986

81. Kawabata Yasunari, Cô vũ nữ xứ Izu, Huyền Không dịch, Nxb Trình bày, Sài Gòn, 1969

82. Kawabata Yasunari, Cánh tay, Nhật Chiêu dịch, Tạp chí Văn số 2, 1988

83. Kawabata Yasunari, Đốm lửa lạc loài, Nguyễn Đức Dương dịch, Nxb.Văn nghệ, 1988

84. Kawabata Yasunari, Tuyển tập tác phẩm, Nhiều dịch giả, Nxb Lao Động và Trung tâm Văn hóa Đông Tây, 2005.

85. Kawabata Yasunari, Đẹp và buồn, Mai Kim Ngọc dịch, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2009.

86.        Khuyết danh, Truyện kể Heike, Nxb.Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989

87. Kuroyanagi Tetsuko, Tottochan- Cô bé bên cửa sổ, Anh Thư dịch, Nxb Lao động, 2008.

88. Miazawa Kenji, Người săn gấu và mèo rừng, Vương Trọng dịch, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1990

89. Miazawa Kenji, Quán ăn mè nheo lắm chuyện (Chuumon no ôi ryôriten), Nguyễn Nam Trân dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nttd066.htm, 2006

90. Miazawa Kenji, Đám hạt dẻ và mèo rừng (Dongurito yamaneko), Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/NNT/Damhatde.htm, 2006

91. Miazawa Kenji, Thổ thần và con chồn (Tsuchigami to kitsune), Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/NNT/Miyazawa-Tho_than_va_con_chon.htm, 2006

92. Mieko Kawakami, Ngực và trứng, Song Tâm Quyên dịch, Nxb Phụ nữ, 2011

93. Mishima Yukio, Kim Các tự, Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch, An Tiêm xuất bản, Sài Gòn, 1970

94. Mishima Yukio, Ngôi đền vàng, Lê Lộc dịch, Nxb. Thanh niên, 1970

95. Mishima Yukio, Ưu quốc,  Miêng chuyển ngữ, http://www.ertc.com/2-ThoVan/0-Van_hoc_NB/Uu_quoc-Mishima_Yukio.htm, 2003

96. Mishima Yukio, Chết giữa mùa hè, Tân Linh dịch, Phù Sa xb., S.1969

97. Mishima Yukio, Chiều hôm lỡ chuyến, Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch, Sông Thao xb., Sài Gòn, 1971

98. Mishima Yukio, Tiếng sóng, Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch, Sông Thao xb., Sài Gòn, 1971

99. Mishima Yukio, Sau bữa tiệc, Tuyết Sinh dịch,  Trẻ xb, Sài Gòn, 1974

100.   Mishima Yukio, Khát vọng yêu đương, Phạm Xuân Thảo dịch, An Giang xb, 1988

101.   Mori Ogai, Thuyền giải tù (Takasebune), Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/NNT/Thuyen_giai_tu.htm, 2006

102.   Mori Ogai, Hanako, Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/NNT/Hanako.htm, 2006

103.   Mori Ogai,  Đang trùng tu (Fushinchuu), Nguyễn Nam Trân dịch, http://www.ertc.com/2-ThoVan/NNT/Dang_trung_tu.htm, 2006

104.   Murakami Haruki, Ngày đẹp trời để xem Kangaroo, Phạm Vũ Thịnh dịch, Nxb Đà Nẵng, 2006

105.   Murakami Haruki, Đom đóm, Phạm Vũ Thịnh dịch, Nxb Đà Nẵng, 2006

106.   Murakami Haruki, Bóng ma ở Lexington, Phạm Vũ Thịnh dịch, Nxb Đà Nẵng, 2007

107.   Murakami Haruki, Người Ti vi, Phạm Vũ Thịnh dịch, Nxb Đà Nẵng, 2007

108.   Murakami Haruki, Sau cơn động đất, Phạm Vũ Thịnh dịch, Nxb Đà Nẵng, 2006

109.   Murakami Haruki, Sau nửa đêm, Huỳnh Thanh Xuân dịch, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2007

110.   Murakami Haruki, Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và chốn tận cùng thế giới, Lê Quang dịch, Nxb Đà Văn học, 2010

111.   Murakami Haruki, Rừng Na-uy, Hạnh Linh- Hải Thanh dịch, Nxb Văn học, 1997

112.   Murakami Haruki, Rừng Na- uy, Trịnh Lữ dịch, Nxb Hội nhà văn, 2006

113.   Murakami Haruki, Phía Nam biên giới, phía Tây mặt trời, Cao Việt Dũng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2007

114.   Murakami Haruki, Biên niên ký chim vặn dây cót, Trần Tiễn Cao Đăng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2006

115.   Murakami Haruki, Ngầm, Trần Đĩnh dịch, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2009

116.   Murakami Haruki, Người tình Sputnik, Ngân Xuyên dịch, Nxb Hội nhà văn, 2008

117.   Murakami Haruki, Kafka bên bờ biển, Dương Tường dịch, Nxb Hội nhà văn, 2007

118.   Murakami Haruki, Nhảy, nhảy, nhảy, Trần Vân Anh dịch, Nxb Hội nhà văn, 2011

119.   Murakami Haruki, Cuộc săn cừu hoang, Minh Hạnh dịch, Nxb Văn học, 2011

120.   Murakami Ryu, Màu xanh trong suốt, Trần Phương Thuý dịch, Nxb Văn học, 2008

121.   Murakami Ryu, Xuyên thấu, Lê Thị Hồng Nhung dịch, Nxb Văn học, 2008

122.   Murakami Ryu, Thử vai, Trần Thanh Bình dịch, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2009

123.   Murakami Ryu, 3 đêm trước giao thừa, Song Tâm Quyên dịch, Nxb Văn học, 2009

124.   Murakami Ryu, 69, Hoàng Long dịch, Nxb Văn học, 2009

125.   Murasaki Shikibu, Truyện Genji, Nxb Khoa học xã hội, 1991

126.    Muju thiền sư, Góp nhặt cát đá , Đỗ Đình Đồng dịch, Lá Bối xuất bản, – Sài Gòn, 1971

127.   Nakano Hitori, Anh chàng xe điện, Nxb Hội nhà văn, Trương Thuỳ Lan dịch, 2011

128.   Natsume Soseki, Nỗi lòng, Đỗ Khánh Hoan và Nguyễn Tường Minh dịch, Sông Thao xb., Sài Gòn, 1972

129.   Natsume Soseki, Tình yêu không quên, Bích Phượng dịch, Nxb.Văn nghệ, TP.HCM, 1991

130.   Natsume Soseki, Cậu ấm ngây thơ, Bùi Thị Loan dịch, Nxb Hội nhà văn, 2004

131.   Natsume Soseki, Mộng, An Nhiên dịch, Nxb Trẻ, 2007

132.    Nhật Chiêu dịch, Truyện cười Nhật Bản, Nxb Cà Mau, 1987

133.   Nhiều tác giả, Truyện ngắn Nhật Bản hiện đại, Nhiều người dịch, Tác phẩm mới, Hà Nội, 1985

134.   Nhiều tác giả, Bên trong, Trần Thuỳ Mai dịch, Nxb Thuận Hoá, 2009

135.   Nhiều tác giả, Vườn cúc mùa thu, Nguyễn Nam Trân dịch, Nxb Trẻ, 2007

136.    Nguyễn Đình Tuyến, Đời sống văn học thế giới hôm nay (có chương về Nhật Bản), Thế giới thời báo xb, Sài Gòn, 1973

137.    Nguyễn Tường Minh, Hòa ca, Sông Thao xb, Sài Gòn, 1971

138.    Nguyễn Tường Minh, Luyến ca, Sông Thao xb, Sài Gòn, 1972

139.    Oe Kenzaburo, Nuôi thù, Diễm Châu dịch, Trình bày xb, Sài Gòn, 1970

140.    Oe Kenzaburo, Một  nỗi đau riêng, Lê Ký Thương dịch, Nxb Văn nghệ, 1997

141.   Ogawa Yoko, Giáo sư và công thức toán, Lương Việt Dũng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2008

142.   Ogawa Yoko, Quán trọ hoa diên vỹ, Lan Hương dịch, Nxb Văn học, 2009

143.   Ogawa Yoko, Nhật ký mang thai, Lương Việt Dũng dịch, Nxb Văn học, 2009

144.   Shimazaki Toson, Gia đình, Hạnh Liêm dịch, Nxb.Văn hóa dân tộc,  Hà Nội, 1994

145.   Suzuki Koji, Ring Vòng tròn ác nghiệt, Lương Việt Dũng dịch, Nxb Văn học, 2008

146.   Suzuki Koji, Vùng nước hắc ám, Phong Linh dịch, Nxb Văn học, 2009

147.   Suzuki Koji, Vòng xoáy chết, Võ Hồng Long dịch, Nxb Văn học, 2009

148.   Takeyama Michio, Cây đàn Miến Điện, Đỗ Khánh Hoan dịch, Nxb Sáng tạo, Sài Gòn, 1971

149.   Tanizaki Junichiro, Tình trong bóng tối, Nhật Chiêu dịch, báo Văn nghệ, 1989

150.   Tanizaki Junichiro, Người đàn bà tôi thương, Triệu Lam Châu dịch, Nxb.Nghĩa Bình, 1989

151.   Tanizaki Junichiro, Chiếc chìa khóa, Phạm Thị Hoài dịch, Nxb.Phụ Nữ, Hà Nội, 1989

152.   Tanizaki Junichiro, Người cắt lau (Ashikari), Nguyễn Nam Trân dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nttd061.htm, 2005

153.   Tanizaki Junichiro, Xâm mình (Shisei), Nguyễn Nam Trân dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nttd050.htm, 2005

154.   Tanizaki Junichiro, Sắn dây núi Yoshino (Yoshino Kuzu), Nguyễn Nam Trân dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/nttd062.htm, 2005

155.   Tendo Shoko, Trăng du đãng, Nguyễn Bảo Trang dịch, Nxb Phụ nữ, 2010

156.    Ueda Akinari, Hẹn mùa hoa cúc, Nguyễn Trọng Địch dịch, Nxb.Văn học, Hà Nội, 1989

157.    Watanabe Dzunichi, Đèn không hắt bóng, Cao Xuân Hạo dịch, Nxb.Nghĩa Bình,  1988

158.   Wataya Risa, Cái lưng muốn đá, Nguyễn Thanh Vân dịch, Nxb Hà Nội, 2010

159.   Yamada Amy, Đôi mắt ấy vẫn ở trên giường, Lương Việt Dũng dịch, Nxb Hội  nhà văn, 2008

160.   Yamada Amy, Sống lưng của Jesse, Thuỳ Dương Na dịch, Nxb Văn hoá Sài GÒn, 2008

161.   Yamada Amy, Trò đùa của những ngón tay, An dịch, Nxb Văn học, 2009

162.   Yamada Amy, Phong vị tuyệt vời, Hương Vân dịch, Nxb Văn học, 2010

163.   Yoshida Kenkô, Buồn buồn phóng bút (Bản dịch Tsurezuregusa), Nguyễn Nam Trân dịch, http://chimviet.free.fr/vannhat/namtran/donhienthao/nntd070.htm

164.   Yoshimoto Banana, Nhà bếp, Trần Thị Chung Toàn dịch, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000

165.   Yoshimoto Banana, Kitchen, Lương Việt Dũng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2006

166.   Yoshimoto Banana, Vĩnh biệt Tsugumi, Vũ Hoa dịch, Nxb Đà Nẵng, 2007

167.   Yoshimoto Banana, Say ngủ, Trương Thị Mai dịch, Nxb Văn hoá Sài Gòn, 2008

168.   Yoshimoto Banana, N.P, Lương Việt Dũng dịch, Nxb Hội nhà văn, 2006

169.   Yoshimoto Banana, Thằn lằn, Nguyễn Phương Chi dịch, Nxb Văn học, 2008

170.   Yoshimoto Banana, Amrita, Trần Quang Huy dịch, Nxb Hội nhà văn, 2008

171.   Yumoto Kazumi, Khu vườn mùa hạ, Nguyễn Thanh Hà dịch, Nxb Văn học, 2010

Nguyễn Ngọc Bảo Trâm*

Trong kho tàng văn học thế giới, khi nói về nghệ thuật kể chuyện, Nghìn lẻ một đêm và Mười ngày thường được dẫn ra như những điển hình quan trọng. Với đặc thù là những truyện kể từ các nhân vật người kể chuyện, hai tác phẩm trở thành những đối tượng nghiên cứu đầy hấp dẫn.

ThS. Ngô Trà Mi

Khoa Văn học và Ngôn ngữ- ĐHKHXH&NV- ĐHQG TPHCM

Tuỳ bút (zuihitsu) là một thể loại độc đáo của văn học Nhật Bản. Hình thành từ buổi bình minh của văn học Nhật, thể loại tuỳ bút đã đồng hành cùng văn chương Nhật qua nhiều thế kỷ, đến tận thời hiện đại. Tuỳ bút Nhật Bản hình thành cùng dòng Văn học Nhật ký của các nữ sĩ thời Heian (794-1185) mang đậm màu sắc cá nhân hơn là tính quan phương, học thuật. Makura no soshi  (Chẩm thảo tử) của Sei Shonagon (966?-1024?) được mệnh danh là tùy bút đầu tiên trong văn học Nhật. Việc xác định thể loại của tác phẩm này có ý nghĩa quan trọng đối với việc tìm lại cội nguồn thể loại tuỳ bút Nhật Bản. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu vẫn còn tranh cãi về những nguồn ảnh hưởng đến sự hình thành thể loại đối với Makura no soshi, chủ yếu theo hai hướng, một là thể loại này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ văn chương Trung Hoa, hai là thể loại này có nguồn gốc nội sinh, mang đặc tính thuần túy Nhật Bản. Trong bài viết này, chúng tôi tìm về cội nguồn của tuỳ bút Nhật qua việc khảo sát các nhân tố chi phối sự hình thành của thể loại này, cụ thể qua tác phẩm Makura no soshi. Đồng thời, chúng tôi cũng điểm lại lịch sử thể loại tuỳ bút trong văn học Trung Hoa để có cái nhìn so sánh về lịch đại và nội hàm của khái niệm tùy bút của hai nền văn học cùng khu vực văn hoá chữ Hán này.

Hoàng Kim Oanh

Trường Đại học Sài Gòn

TÓM TẮT

 Từ Baudelaire, Mallarmé, Valléry…, quan niệm thẩm mỹ về cái Đẹp và triết lý sáng tác thơ, truyện của nhà văn Mỹ Edgar Allan Poe - nhà thơ, lý thuyết gia của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật”, ông tổ của truyện trinh thám, kinh dị và phiêu lưu huyễn tưởng thế giới - đã “nhập tịch” vào quan niệm nghệ thuật của nhiều nhà thơ, nhà văn lãng mạn Việt Nam từ những năm đầu thế kỉ XX. Đó là quan niệm nghệ thuật về Cái Đẹp thuần khiết, độc lập với Đạo đức và Chính trị, và “Nỗi buồn là địa hạt chính đáng nhất của thơ ca”. Đặc biệt hơn, Poe còn đề cao lý trí, cho rằng “nghệ thuật là sản phẩm của trí tuệ”. “Triết lý sáng tác” kì lạ của ông tuy ban đầu bị nhiều cây bút lên án, nhưng đến nay, đã trở thành những công thức sáng tác mẫu mực không chỉ cho văn học Mỹ mà còn cả văn học thế giới, trong đó có văn học Việt Nam.   

TS. Phan Thu Vân

Khoa Ngữ văn,

Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh

Nhật Bản và Trung Quốc có mối quan hệ giao lưu văn hóa từ hơn hai ngàn năm trước, đến đời Tùy Đường thì đạt tới đỉnh cao. Đặc biệt từ năm 630 đến năm 834, Nhật Bản đã 18 lần cử sứ thần đi sứ Trung Hoa (trong đó có hai lần do nguyên nhân đặc biệt phải dừng lại giữa chừng, mười sáu lần đi sứ thành công)[1]. Trong những lần viếng thăm này, các sứ thần Nhật Bản luôn ra sức thu thập kinh sách, văn chương cũng như những thành tựu văn hóa khác của nhà Đường để mang về nước mình. Từ đó về sau, ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đối với đất nước Nhật Bản càng ngày càng sâu đậm. Trong “Nguyên thị vật ngữ”, chúng ta có thể thấy những yếu tố văn hóa Trung Hoa được Murasaki Shikibu khéo léo cài đặt ở khắp mọi nơi : từ thơ ca, điển cố, điển tích cho tới cách xây dựng nhân vật, tình tiết, hình thức truyện; từ những nhu yếu phẩm hàng ngày cho tới tâm tư tình cảm của nhân vật và tư tưởng chung của tác phẩm...

Lev Tolstoy bước vào văn học đầu thập niên 1850, hơn mười năm sau đã khẳng định vị trí của một nhà văn lớn với kiệt tác vĩ đại Chiến tranh và hoà bình. Thời gian chín muồi sáng tác của nhà văn (thập niên 60-70) cũng là thời kỳ trị vì của Alexandr đệ Nhị. Những cải cách được Nga hoàng tiến hành đầu thập niên 1860 có những tác động lớn đối với đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá Nga. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản kéo theo sự tan rã của chế độ phong kiến gia trưởng, xuất hiện những giai cấp mới (tư sản, vô sản), và xuất hiện một tầng lớp được gọi tên là “trí thức bình dân” (raznochinskaya intelligentsia). Chủ yếu thông qua lớp “trí thức bình dân” này, những tư tưởng dân chủ cách mạng được phổ biến ở Nga, làm dấy lên những cuộc vận động xã hội, trong đó có phong trào giải phóng phụ nữ. Những người trí thức tiến bộ không bằng lòng với địa vị của phụ nữ trong xã hội Nga, họ cho rằng đấu tranh cho quyền lợi của phụ nữ cũng là một hình thức khẳng định giá trị của con người, là một phần của cuộc đấu tranh dân chủ xã hội.

1. Khi nói đến văn hóa Đông Á, chúng ta thường nghĩ đến cộng đồng văn hóa chữ Hán (gồm Trung Quốc, Việt Nam, Nhật Bản và Triều Tiên). Tuy nhiên, có những quốc gia, khu vực đôi khi cũng có thể xem là thuộc Đông Á, trong đó có Nga. Quá trình tiến về Viễn Đông của Nga bắt đầu từ cuối thế kỷ XVII, đến thế kỷ XIX lãnh thổ Nga đã ra tới bờ Thái Bình Dương. Vùng Viễn Đông của Nga hiện nay với diện tích hơn 6 triệu km vuông và 6,3 triệu dân (đa số là người Nga và Ukraina) đang là miền đất rộng đầy tiềm năng về kinh tế và văn hóa, hấp dẫn các láng giềng hùng mạnh nhưng đất chật người đông Trung Hoa và Nhật Bản.

TT - Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh  là công trình tập thể của các nhà nghiên cứu văn học trong và ngoài nước - trong đó nòng cốt là giảng viên khoa văn học và ngôn ngữ Trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG TP.HCM, do PGS.TS Đoàn Lê Giang chủ biên.

Trần Hải Yến

(Viện Văn học)

Những năm đầu thế kỷ 20, Việt Nam trở thành mảnh đất chứng kiến nhiều xu hướng ảnh hưởng, tác động khác nhau. Từ Trung Quốc, với tư cách một đối tác truyền thống; từ Pháp (tức châu Âu), theo cách bị áp đặt, đồng thời với ít nhiều tự giác; từ Nhật Bản – một tác nhân mới, hấp dẫn trước hết từ vấn đề chính trị xã hội, v.v... Vị trí địa chính trị của Việt Nam khi đó (một nước thuộc Đông Á đã bị thuộc địa hóa bởi thực dân Pháp) đã khiến cho quá trình tiếp xúc văn hóa, văn chương trở nên vô cùng phức tạp. Bởi sự đan bện của các quan hệ nội vùng Đông Á diễn ra song song với quan hệ Á-Âu, bởi sự ước thúc của các yếu tố chính trị đối với văn hóa văn chương.

Nguyễn Thanh Tâm

Học viên cao học Đại học Kobe (Nhật Bản)

1.   Mở đầu

Có thể nói tất cả các nền văn hóa trên thế giới đều đã trải qua quá trình hình thành, phát triển, cọ xát và giao lưu, tiếp biến lẫn nhau đề có được diện mạo như ngày nay. Và dịch thuật nói chung, dịch văn chương nói riêng đã góp phần không nhỏ trong suốt quá trình ấy. Từ xưa Việt Nam và Nhật Bản đã sử dụng dịch thuật như một công cụ, phương thức hữu hiệu trong việc tiếp nhận văn hóa từ người láng giềng khổng lồ Trung Hoa cũng như từng bước hoàn chỉnh nền văn hóa dân tộc mình. Tuy nhiên, với điều kiện vị trí địa lí tự nhiên và các đặc trưng về truyền thống, dân tộc tính khác nhau, tiếp nhận văn hóa Trung Quốc thông qua dịch thuật ở Việt Nam và Nhật Bản cũng đi theo những con đường rất khác nhau. Trong phạm vi bài viết này, người viết muốn phân tích và lí giải các đặc trưng trong hai cách tiếp xúc, thu nhận văn hóa bằng dịch văn chương (dịch thuật nói chung) của Việt Nam và Nhật Bản giai đoạn đầu tiếp xúc với văn minh Trung Hoa từ lí thuyết Đa hệ thống (Poly-system). 

(Xin xem toàn văn ở tập tin đính kèm)

 

ThS. Lê Ngọc Phương

                                                      Đại học khoa học xã hội và Nhân văn TP HCM

LỜI DẪN

“Họa vô đơn chí, chuyện rủi thường chất chồng lên nhau”. Vào một ngày đẹp trời, Tôi đột nhiên gặp “những rủi ro” nối tiếp nhau: thất lạc và không gặp được một cô gái đã hẹn, bị đứt nút áo vét tông giữa đường, trên tàu điện lại gặp người quen chẳng muốn gặp, cái răng đau lại bắt đầu hành hạ, mưa lại bắt đầu rơi. Lên taxi thì bị nghẽn đường. Trên taxi, lại một sự việc kỳ quái khác: anh tài xế nói rằng, anh ta là quỷ hút máu người.

TS. Nguyễn Đình Phức

(Khoa Ngữ văn Trung Quốc, USSH)

1. Nguyên nhân và thời điểm biên tuyển Thiên tải giai cú

Thiên tải giai cú là bộ tuyển tập chuyên tuyển những câu thơ hay từ mảng thơ thất ngôn đời Đường sớm nhất còn truyền đến ngày nay, có điều đặc biệt là, công trình này không phải là sản phẩm của người Trung Quốc, mà do một học giả Nhật Bản biên tuyển. Sách tuyển thơ theo hình thức liên cú, tức cứ hai câu tạo thành một đơn vị, tổng số liên được tuyển là 1083, được tác giả căn cứ theo chủ đề phân thành 15 bộ lớn, bao gồm Tứ thời, Thời tiết, Thiên tượng, Địa lý, Nhân sự, Cung tỉnh, Cư xứ, Thảo mộc, Cầm thú, Yến hỷ, Du phóng, Biệt ly, Ẩn dật, Thích thị, Tiên đạo. Trên cơ sở 15 bộ, tác giả lại tiếp tục phân nhỏ thành 258 môn khác nhau, bên dưới mỗi liên thơ được tuyển, đều chú rõ tên tác giả cùng tên bài thơ. Sách do nhà Hán học Nhật Bản Ōenokoretoki (887-963) sống ở giai đoạn trung kỳ thời Bình An (Heian Period, 794-1185) biên tuyển.

Thông tin truy cập

60837906
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
11628
9068
60837906

Thành viên trực tuyến

Đang có 388 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website