Khởi đầu từ phong trào vị lai, Vladimir Vladimirovich Mayakovsky  (1893 – 1930) trở thành một trong những nhà thơ lớn thế kỷ XX, thơ ca của ông là biên niên sử của nước Nga thời đại Cách mạng Tháng Mười và những thập niên đầu tiên của nhà nước xã hội chủ nghĩa.

 

Mayakovsky sinh tại làng Bagdadi ở Gruzia, là con trai của một người gác rừng. Thời thơ ấu trôi qua ở Gruzia, nhưng sau cái chết của người cha, Mayakovsky cùng gia đình chuyển về Moskva. Tuổi 15, nhà thơ tương lai rời bỏ trường trung học để tham gia các hoạt động bí mật, vào Đảng Dân chủ Xã hội Công nhân Nga (Bolshevik), thực hiện các nhiệm vụ tuyên truyền cách mạng, ba lần bị bắt. Năm 1909, khi đang bị biệt giam trong nhà tù Butyrskaya, Mayakovsky bắt đầu làm thơ – mặc dù về sau không hài lòng với cuốn thơ chép tay đầu tiên đó, thậm chí lấy làm may rằng nó đã bị quản giáo tịch thu khi nhà thơ ra tù, nhưng Maykovsky vẫn luôn xem đó là bước khởi đầu sự nghiệp sáng tác thơ ca của mình.

Đại văn hào Nga Lev Tolstoy là một thiên tài ở trên nhiều phương diện. Ông là nhà văn, nhà giáo dục, nhà hoạt động xã hội, nhà tư tưởng. Riêng sáng tác văn chương, ông đã để lại một lượng tác phẩm khổng lồ, trong đó, bên cạnh mảng văn xuôi (tiểu thuyết, truyện vừa, truyện ngắn), còn có một phần đáng kể là kịch.

 

Thái độ của nhà văn đối với kịch rất đặc biệt, nhiều mâu thuẫn. Một mặt ông xem đó là một ngành nghệ thuật “có ảnh hưởng nhất”, “quan trọng nhất”, là “công cụ quan trọng của tiến bộ”. Mặt khác, ông lại cũng tỏ ý coi thường hình thức kịch, cho nó giả tạo, thấp kém, chỉ dành cho những kẻ yếu đuối. Ông là nhà văn cổ điển Nga duy nhất để lại cả một quan niệm hoàn chỉnh về kịch, với hai luận văn lớn “Nghệ thuật là gì?”(1883) và “Về Shakespeare và về kịch” (1903). Nhà văn quan tâm và viết kịch hầu như suốt cuộc đời sáng tác của mình, và đặc biệt, như hiện tượng có tính biểu tượng, những vở kịch quan trọng nhất của nhà văn ra đời trong khoảng thời gian giữa thời điểm kết thúc của “cha đẻ nền sân khấu hiện thực truyền thống” A.Ostrovsky và thời điểm khởi đầu của nền kịch mới với A. Chekhov: vở “Quyền lực bóng tối” ra đời năm Ostrovsky qua đời (1886), và “Thi hài sống” xuất hiện đồng thời với “Ba chị em” của Chekhov (1900).

 

Bởi vậy, việc tìm hiểu nghệ thuật kịch của Tolstoy hết sức thú vị, và có ý nghĩa. Tuy nhiên, ở Việt Nam, kịch của ông hầu như ít được nghiên cứu. Mới chỉ có “Quyền lực bóng tối” và “Thi hài sống” được dịch sang tiếng Việt (từ năm 1970 và chỉ in ronéo), và chưa vở nào được đưa lên sân khấu.

 

Công trình “Nghệ thuật kịch của Lev Tolstoy” của Giáo sư Nguyễn Hải Hà là một bổ khuyết cho khoảng trống này trong nghiên cứu Tolstoy ở Việt Nam. 298 trang chuyên luận giới thiệu vị trí của kịch trong sáng tạo của Tolstoy, phân tích sâu sắc những giá trị về nội dung và nghệ thuật của các vở kịch tiêu biểu “Quyền lực bóng tối”, “Thành quả giáo dục”, “Thế rồi ánh sáng loé lên trong tối tăm” và “Xác thây sống”

 

“…Kịch Tolstoy không chỉ có chỗ đứng danh dự trong lịch sử nghệ thuật kịch Nga, trong chừng mực nhất định, ông còn được coi là bậc thầy nghệ thuật kịch thế giới”, tác giả cuốn sách đã nhận định như thế ở phần dẫn nhập, và công trình “Nghệ thuật kịch Lev Tolstoy” của ông nhằm chứng minh cho điều đó.

 

Giáo sư Nguyễn Hải Hà là chuyên gia hàng đầu về văn học Nga ở Việt Nam. Ông là tác giả của nhiều sách và giáo trình về văn học Nga như Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, Văn học Xô viết, Thi pháp tiểu thuyết L.Tolstoy, Văn học Nga – Sự thật và cái đẹp.

 

 

Sách do Nhà xuất bản Đại học Sư phạm ấn hành tháng 8 năm 2006.

Theo nhà sử học Herodote thì nhà thơ Hy Lạp cổ đại Homer (810? -730? tr.CN)  sống vào thế kỷ IX trước Công nguyên.  Ông là người được coi là tác giả 2 bản anh hùng ca nổi tiếng “Iliat”  và “Odysses”.  Cũng theo Herodote thì Homer sinh ở Smyrne (Ionie),  thân mẫu người Eodie. Lớn lên nhờ quen biết một chủ tàu thủy chở khách nên được theo tàu đi đó đây.  Sự hiểu biết của ông cũng nhờ  đó được mở rộng, ông biết sâu sắc về truyện phiêu lưu của Ulysse. Homer từng đi du lịch khắp miền Địa Trung Hải, từng sống ở Ithaque, Colophon, Eolie, Chio. Về sau, ông bị đau mắt nặng và mù. Ông lang thang kiếm sống đó đây bằng làm thơ, kể chuyện. Ông ốm chết ở đảo Ios và được chôn cất trên bãi biển.

Nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày mất của đại văn hào Nga Lev Nikolaevich Tolstoy (1828 – 1910), giáo sư Nguyễn Trường Lịch đã cho ra mắt cuốn chuyên luận “Tiểu thuyết Lev Tônxtôi”.

 

Đây là công trình dày dặn, công phu của một nhà “Tolstoy học” nổi tiếng ở Việt Nam, với hơn 300 trang nghiên cứu chuyên sâu về những vấn đề nội dung và thi pháp tiểu thuyết của Tolstoy, đặc biệt là ba tác phẩm vĩ đại “Chiến tranh và hoà bình”, “Anna Karenina” và “Phục sinh”. Ngoài ra, trong phần phụ lục còn đăng tải bản dịch những phát biểu của bản thân Tolstoy về công việc viết tiểu thuyết của mình.

 

“Những kinh nghiệm sáng tạo của một bậc thầy tiểu thuyết sẽ là những bài học vô giá đối với các thế hệ hậu sinh muốn bước vào địa hạt văn chương muôn hình nghìn vẻ, vừa phong phú, vừa hấp dẫn, mà cũng đầy chông gai thử thách…”, tác giả Nguyễn Trường Lịch đã viết như thế ở Lời nói đầu cuốn chuyên luận.

 

Công trình này sẽ là một tư liệu bổ ích cho những ai nghiên cứu về Tolstoy, về văn học Nga, về những vấn đề tiểu thuyết trên các phương diện lịch sử và lý luận, cũng như văn học so sánh.

 

Sách do Nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2010.

Nhà thơ Dante (Alighieri,  1265-1321) Italia sinh ở Florenz trong một gia đình luật sư giàu có và quyền thế.  Ông theo phái giáo hoàng “trắng” trong bộ máy chính quyền Florenz và làm công tác ngọai giao bên cạnh Boniface VIII, cuối cùng bị phái giáo hoàng “đen” lọai trừ và bị án phải lưu đầy suốt đời (một hình thức trục xuất- một hình phạt thường xảy ra ở nước Italia thời đó), sống những năm cuối cùng trong cảnh lưu đầy ở Vérone, Lucques, Ravenne.  Ông mất tại Ravenne ngày 14.9.1321 ở tuổi 56.

 
 

Nhìn vào chân dung của Tolstoy, cái gây ấn tượng đầu tiên và mạnh mẽ hơn cả là đôi mắt: một đôi mắt sâu, ẩn sau vầng trán mênh mông và đôi mày rậm cau có, từ đó luôn loé lên một ánh nhìn làm cho vầng trán thêm sáng rộng hơn, cặp lông mày bớt dữ tợn hơn, và cả khuôn mặt trở nên linh hoạt, đầy sức sống.

Ngày nay nhắc tới nước Anh là người ta liên tưởng tới kịch của Shakespeare (1564-1616), vì kịch của Shakespeare  là đỉnh cao của nghệ thuật sân khấu thế giới.  Kịch của ông ngày nay vẫn được diễn, quay thành phim, nó có ảnh hưởng lớn đến sân khấu hiện thực.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Trần Thị Phương Phương dịch

 

Chỉ sau khi hòa bình lập lại tại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1954, trên miền Bắc đất nước mới xuất hiện những điều kiện để làm quen với văn học cổ điển Nga một cách có hệ thống[1], đồng thời thực sự xuất hiện nhu cầu nắm bắt những giá trị của nền văn học ấy, lĩnh hội những kinh nghiệm của các nhà văn Nga trong việc tìm hiểu cuộc sống và những triển vọng lịch sử của dân tộc mình và của toàn nhân loại. Câu chuyện Nguyễn Đình Thi đã đọc "Chiến tranh và hòabình" khi chiến tranh sắp kết thúc thật nhiều ý nghĩa: trong thời gian ghé về Hà Nội đang bị Pháp chiếm đóng năm 1954, một lần đi trên phố, ông trông thấy người ta bán bản dịch tiếng Pháp của bộ tiểu thuyết và đã mua nó. "Sau đó tôi trở lên rừng, - Nguyễn Đình Thi kể với tôi, - và đọc "Chiến tranh và hòa bình" trong căn nhà tranh bên dòng suối róch rách. Nó làm tôi xúc động mạnh. Trong cuốn tiểu thuyết của Tolstoy, biện chứng tâm hồn đã hòa nhập với triết lý, với sự vận động của lịch sử, và trong sự hòa hợp đó kết tinh rất nhiều vấn đề trọng yếu của thế kỷ chúng ta".

Văn học Trung Quốc nói chung rất phong phú.  Thơ đời Đường và tiểu thuyết đời Minh- Thanh là hai thể loại văn học có những thành tựu lớn lao, là đóng góp của Trung Hoa vào nền văn học thế giới.   Nhà Đường chỉ tồn tại gần 300 năm (618-907), nhưng có tới 2.300 tên tuổi là thi sĩ với gần 49.800 bài thơ (theo sách Toàn Đường thi soạn năm 1705 trong Đời Thanh) Thơ Đường giàu về số lượng, muôn màu muôn vẻ của Nho-Phật-Lão, hình thức điêu luyện với  thi tiên Lý Bạch, thi thánh Đỗ Phủ và trở thành mẫu mực của thơ ca cổ điển Trung Hoa  Tiểu thuyết là thể loại văn học mới phát triển ở thời Minh – Thanh trên cơ sở những chuyện kể trong dân gian về những sự tích lịch sử.  Những tác phẩm lớn, nổi tiếng của thời Minh là Thủy Hử của Thi Nại Am,  Tam quốc chí diễn nghĩa của  La Quán Trung,  Tây du ký của Ngô Thừa Ân, của thời Thanh là Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần.  Những tiểu thuyết trên đồng thời là những bộ tiểu thuyết lớn của văn học thế giới.

Từ thập niên 1980 trở lại đây, văn học nữ đã đạt được nhiều thành tựu, và trở thành một hiện tượng mang tính toàn cầu. Nhà văn nữ hiện nay không chỉ là một bộ phận mà còn là niềm vinh quang cho một nền văn học. Trường hợp của Toni Morrison (Nobel 1993), Elfriede Jelinek (Nobel 2004), Doris Lessing (Nobel 2007)… hay của J.K Rowling với bộ truyện Harry Potter,  Stefenie Mayer với Chạng Vạng… xác tín rất rõ điều đó. Các quốc gia châu Á cũng nổi lên những hiện tượng văn học nữ như Nhật có Yoshimoto Banana, Yamada Amy, Kanehara Hitomi, Ogawa Yoko… Bangladesh có nhà văn nữ rất nổi tiếng Tahmima Anam… Văn học Việt Nam đương đại cũng có nhiều nhà văn nữ nổi trội như Thuận, Linda Le (Pháp), Phùng Lệ Lí, Bích Minh Nguyễn (Mỹ), Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Phan Thị Vàng Anh… (trong nước). Văn học đương đại Trung Quốc cũng không phải là một ngoại lệ. Trong quá trình tiếp biến những giá trị văn hóa phương Tây, các nhà văn nữ Trung Quốc đã tạo được tiếng nói riêng, gây tiếng vang trong nước lẫn nước ngoài. Có thể dẫn lời dịch giả Sơn Lê, người đã dịch khá nhiều tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Việt, giai đoạn từ 1990 đến nay là giai đoạn bùng nổ các tác giả nữ Trung Quốc “gây được tiếng vang mạnh mẽ nhất trong toàn bộ lịch sử văn học Trung Quốc. Trước cách mạng văn hóa có vài người như Đinh Linh, Băng Tâm... nhưng không thành một xu hướng. Ngay các nhà phê bình văn học Trung Quốc cũng thừa nhận đây là hiện tượng lạ trên văn đàn Trung Quốc. Rất nhiều tác giả nữ cũng nói lên bằng những tác phẩm chấp nhận được, có giá trị thực sự”(1).

Đã có nhiều công trình khảo cứu nêu bật ảnh hưởng Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (1347-1433) đời Minh đối với văn học truyền kỳ ở Đông Á (bao gồm Nhật Bản, Triều Tiên, và Việt Nam)(1). Nay xin tập trung giới thiệu phác thảo quá trình truyền nhập và lưu hành bộ tiểu thuyết truyền kỳ Trung Quốc này ở Việt Nam cho đến thế kỷ 18.

Trung tâm sáng tạo quốc tế của Hàn Quốc vừa tổ chức Festival các nhà văn thế giới 2010 tại Seoul, Hàn Quốc từ ngày 3.10.2010 đến ngày 6.10.2010. Chủ đề của festival là Tinh thần thơ ca của biển (The Poetic Spirit of the Sea).

 

Tham gia festival có nhiều nhà văn nổi tiếng thế giới như nhà văn Mạc Ngôn, nhà thơ Bắc Đảo (Trung Quốc); nhà thơ Antonio Colinas (Tây Ban Nha),… Phía chủ nhà Hàn Quốc có nhà thơ Ko Un, người hai lần là ứng viên giải Nobel văn học. Festival cũng đã mời nhà thơ Trần Anh Thái của Việt Nam đến đọc tham luận và đọc thơ. Bài tham luận Ánh sáng của Tự do thuần khiết và Tinh thần của Biển cùng bài thơ Hồ Ba Bể đọc tại liên hoan của đại biểu Việt Nam đã được nhiều bạn bè quốc tế chú ý, đồng cảm.

 

Nhân dịp này tạp chí Văn học Châu Á (Asian Literature) của Hàn Quốc cũng đã phỏng vấn nhà thơ Trần Anh Thái về vị trí của văn học Châu Á trong sự phát triển của văn học thế giới.

TỪ TRUYỀN THUYẾT ẤN ĐỘ SHAKUNTALA ĐẾN KỊCH THƠ TÌNH YÊU SHAKUNTALA CỦA THI HÀO ẤN ĐỘ KALIDASA  

Nhà thơ, nhà viết kịch bằng tiếng Sankrit , nhà văn hóa lớn Kãlidãsa  (Kãlidãsa tiếng Bengal có nghĩa:  Kẻ hầu cận của Nữ thần / Diener der Goettin)   được coi là một trong “chín viên ngọc quý” của triều đình *Vikramadya thuộc triều đại Gupta  (320-480, triều  đại lừng lẫy nhất trong lịch sử Ấn Độ.

 

SHAKUNTALA  là vở kịch nổi tiếng của nhà thơ Kalidasa và là vở kịch hay nhất trong lịch sử văn học Ấn Độ.  Dựa theo truyền thuyết Shakuntala của văn học dân gian Ấn Độ kể về mối tình hồn nhiên trong sáng giữa nhà vua trẻ Dusyanta  (nghĩa: Mãnh hổ) và sơn nữ Shakuntala- một mối tình  rất thơ mộng,nhưng cũng đầy gian nan- một mối tình vượt ra ngoài lễ giáo phân biệt đẳng cấp khắt khe đương thời.   Kalidasa cải biên, thêm chi tiết để phù hợp  với sân khấu Triều đình, muốn làm nổi bật đề tài tình yêu. Shakuntala là kịch  thơ 7 hồi, viết theo  những quy tắc chuẩn mực của kịch cổ điển cung đình Ấn Độ: tính triết lý và tôn giáo sâu sắc,  phân biệt rõ chính – tà, khí phách hào hùng để tăng lòng sùng kính với thần thánh và quốc vương,  phải nhân bản khi kết thúc (kết thúc có hậu), phải viết bằng tiếng Sankrit, phải kết hợp nhuần nhuyễn  các quy phạm sân khấu dân gian.

Hồi 1:   Vua trẻ Dusyanta cùng đoàn tùy tùng đi săn trong rừng, mải đuổi theo con hươu nên lạc vào vườn tu của đạo sĩ Kanva.  Đạo sĩ không có nhà.  Nhà vua  gặp con gái nuôi của đạo sĩ.   Vẻ đẹp tươi tắn cùng „đôi mắt sáng long lanh đen láy“, nụ cười nở trên môi đỏ thắm của  sơn nữ hút hồn nhà vua trẻ.  

Hồi 2:   Nhà vua bàn với anh hề Madavia, làm sao có thể nán lại trong khu vườn để tỏ tình với sơn nữ.  Đúng lúc đó thì nhà vua nhận được lệnh của Đức Thái hậu phải về triều làm lễ cầu phúc.  Nhà vua cử anh hề thay mặt mình trong lễ cầu phúc.

Hồi 3:  Bị tiếng sét ái tình, nên sau khi gặp nhà vua trẻ, sơn nữ ốm tương tư.Các bạn gái đồng trang lứa bố trí cho cặp tình nhân sống bên nhau, kết hôn theo tục Gandarava  (trai gái kết hôn bỏ qua quyền của cha mẹ).   Đang lúc hạnh phúc tràn trề thì bỗng nhà vua nghe tiếng thiên thần nhắn nhà vua mau trở về đi dẹp loạn.

Hồi 4:   Để làm tin nhà vua tặng sơn nữ chiếc nhẫn khắc tên Dusyanta.   Trong những ngày trông ngóng nhà vua thì có lần đạo sĩ Durava ghé vào vườn tu xin nghỉ lại. Đang lúc

 

lo buồn nên Shakuntala không cúi chào đạo sĩ.  Bực mình, đạo sĩ niệm thần chú rằng người yêu của Shakuntala sẽ lú lẫn, quên hết lời thề khi trước.  Các bạn gái xin đạo sĩ lượng thứ, giảm tội cho Shakuntala.   Đạo sĩ bằng lòng giảm, người yêu sẽ sực nhớ lời thề khi xưa khi nhìn thấy chiếc nhẫn.  Lúc này Shakuntala đang mang thai nên các bạn gái giữ kín câu nguyền của đạo sĩ  Durava.   Khi cha nuôi Kanva về nhà thì nghe tiếng thiên thần báo, Thiên  đình thuận  cho Shakuntala kết duyên với vua Dusyanta và sẽ sinh một hoàng tử.  Cha nuôi – đạo sĩ Kanva phái sơn nữ Gotami cùng một số bạn gái đưa Sakountala tới hoàng cung.  Buổi chia tay đầy quyến luyến giữa cỏ hoa muông thú.

Hồi 5:  Shakuntala vào hoàng cung. Nhà vua không nhớ  nên không nhận ra sơn nữ khi xưa.  Khi các bạn gái nhắc tới cái nhẫn, thì mới biết đã đánh rơi ở sông Hằng. Nhà vua nổi giận, nhưng vì tục lệ nên Shakuntala phải ở lại.  Nàng sống trong cô đơn tuyệt vọng, cầu xin thiên thần cho mình về với Đất mẹ. Một đám mây kéo tới cuốn nàng đi.

Hồi 6 :   Một ngư dân  khi mổ bụng cá,  thấy chiếc nhẫn trong bụng con cá và đem nộp cho nhà vua.  Nhìn thấy chiếc nhẫn của mình, Dusyanta sực nhớ tới chuyện xưa, nhớ tới sơn nữ Shakuntala.

Hồi 7 : Dẹp loạn ma quỷ  thắng lợi, Dusyanta được gặp Kasyapa và Aditi, nhận thưởng công trạng.  Dusyanta gặp lại nàng Shakuntala vợ mình cùng đứa con tuấn tú có khả năng thuần được mãnh thú.  Họ trở về hoàng thành trong lễ đón tưng bừng của dân chúng. Hoàng tử Bharata (nghĩa: được trìu mến) lên thay vua cha trị vì thiên hạ.

Trong kịch Shakuntala, Kalidasa thêm tình tiết tặng nhẫn, lời nguyền của đạo sĩ Daruva, tình tiết rơi nhẫn ở sông Hằng, Shakuntala trở về với Đất mẹ.  Một ngư dân mổ bụng cá thấy chiếc nhẫn, đem nộp nhà vua, tình tiết dẹp loạn và nhận thưởng cũng là tình tiết Kalidasa thêm vào trong kịch, ở trong truyền thuyết không có chi tiết này.  Trong truyền thuyết chỉ là một lệnh do thiên thần gửi tới nhà vua.  Nhà vua tỉnh ngộ, đoàn tụ cùng vợ con. Kịch thơ Shakuntala  của Kalidasa mang tinh thần Hindu giáo, kết hợp hài hòa nhuần nhuyễn giữa tính sử thi của anh hùng ca và tính trữ tình, thấm đượm tính nhân bản, với khát khao tình yêu trong sáng và chung thủy.

Trong kịch  Shakuntala , nhà thơ vận dụng và phát triển tính hình ảnh và tính uyển chuyển của thơ ca Sankrit, của văn học dân gian để ca ngợi tình yêu lứa đôi, tình yêu thiên nhiên, tình yêu đất nước.

 

Kịch cổ Ấn  Độ thường đề cập đến những mối tình hồn nhiên, trong sáng đầy ma lực như những tiếng sét ái tình mà người Ấn Độ cho là thiêng liêng cao quý.    Shakuntala là tuyệt tác của văn học  Ấn Độ, là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ văn nghệ sĩ  Ấn Độ.  Người ta  ngâm thơ, ca múa bằng thơ của kịch, dựng phim theo kịch .

William John dịch kịch Shakuntala sang tiếng Anh năm  1789. Năm 1791, kịch được Georg Forster dịch từ tiếng Anh sang tiếng Đức.  Nhà văn Nga Caramdin dịch kịch Shakuntala sang tiếng Nga năm 1792.   Kịch thơ Shakuntala được dịch sang tiếng Việt  năm 1962 và được Đoàn chèo Trung ương Việt Nam đưa lên sân khấu năm 1982.

Shakuntala là một trong những kiệt tác của văn học thế giới. Nhà văn Nga Caramdin, người đại diện cho chủ nghĩa tình cảm Nga nói:

-  Đối với tôi, Kalidasa cũng vĩ đại như Homer (của Hy Lạp).

Kịch thơ Shakuntala đã gây ấn tượng mạnh nơi các nhà văn Đức, đại văn hào Đức Johann Wolfgang Goethe ca ngợi:

-  Nếu muốn có một tiếng ôm ấp được cả hoa mùa xuân và quả mùa thu/  Một tiếng làm đắm say, nuôi dưỡng và thỏa mãn được tâm hồn/ Nếu muốn có một tiếng bao gồm được cả trời đất/ Thì tôi gọi Shakuntala/  Tiếng đó nói lên tất cả!

 

Rabindranath Tagore  (1861-1941)  là nhà văn hóa lớn Ấn Độ.  Ông xuất thân trong gia đình quý tộc Ba La Môn có nhiều người là nhân tài của đất nước Ấn Độ.  Cha là Debendranath Tagore, một triết gia đồng thời là nhà cải cách xã hội.  Tagore nổi tiếng thông minh từ thưở nhỏ:  8 tuổi đã làm thơ,  11 tuổi dịch kịch Macbeth của William Shakespeare ra tiếng Bengal.

Tagore yêu nước, yêu hòa bình, có lòng nhân đạo sâu sắc. Ông coi trọng truyền thống văn hóa Ấn Độ, biết kết hợp văn hóa Đông và Tây: 1901 mở Trường Santiniketan cho con em nông dân học.   1921 mở Trường đại học Visva – Bharati để cho thanh niên thế giới đến tìm hiểu văn hóa Ấn Độ.

Tagore để lại 52 tập thơ,  42 vở kịch, 12 bộ tiểu thuyết.

Những tập thơ nổi tiếng là  Người làm vườn (1914);   Tặng phẩm của người yêu (1914);   Trăng non (thơ trẻ em , 1915.  Nổi tiếng nhất là tập  Thơ dâng (1912);  Tập Thơ dâng được coi là kỳ công thứ hai của văn học Ấn Độ (sau kịch thơ Shakuntala của Kalidasa). Những tác phẩm tiêu biểu khác của Tagore là  kịch Lễ máu (1890); kịch Phòng bưu điện  (1913);  tiểu thuyết Đắm thuyền (1906);  tiểu thuyết Gora  (1910).

Rabinarath Tagore là nhà thơ lãng mạn trữ tình, một “ngôi sao sáng của Ấn Độ thời Phục hưng. Ông kết hợp nhuần nhuyễn truyền thống yêu nước và nhân bản của Ấn Độ với tinh hoa văn hóa phương Tây làm giàu thêm tinh hoa  văn hoá Ấn Độ.  Monhandas Karamchand “Mahatma” (tâm hồn vĩ đại)Gandhi (1869-1948) – lãnh tụ của phong trào giải phóng dân tộc Ấn Độ, gọi Tagore là “người thầy vĩ đại, người lính gác vĩ đại của Ấn Độ.  Thi sĩ Rabindranath Tagore  nhận giải thưởng Nobel văn học năm 1913.

 

 

THƠ DÂNG  ( Gitanjali)

   

Thơ dâng là tuyển tập chọn trong số những bài thơ của  Tagore sáng tác năm 1900 viết bằng tiếng Bengal, rồi chính nhà thơ dịch 103 bài thơ của mình ra văn xuôi tiếng Anh.  Đó là những bài thơ nhỏ không đề.  Thi sĩ muốn dâng cho cuộc đời nguyện vọng và lý tưởng cao đẹp của mình.   Ông khinh bỉ hèn nhát, ghét tàn bạo.  Ông cho rằng, người ta cần rèn luyện sức mạnh tinh thần, trau dồi tính cao thượng, trong sáng để phụng sự Cuộc đời và Con người.  Tập thơ phản ánh nỗi buồn do tàn phá, chia ly trên đất nước Ấn Độ, đồng thời cho thấy nguồn cảm hứng bất tận bởi ánh sáng, niềm vui, tình yêu và khát vọng. Theo Tagore,  Thượng đế không phải là đấng cao siêu, huyền bí.  Thượng đế hiện thân là cuộc sống lao động :

Thượng đế ở xa kia,

Nơi thợ cày nai lưng

Cày đất cằn sỏi cứng

Thượng đế ở cạnh người làm đường

Đang đập đá

Thượng đế cùng với họ vất vả

Dãi nắng, dầm mưa

Áo quần lấm bụi…

Cao Huy Đỉnh dịch

Nỗi đau của thi sĩ Tagore cũng là nỗi đau chung của đất nước Ấn Độ.  Ánh sáng, tình yêu, niềm tin và khát vọng trong tập thơ là dòng sữa tươi mát nuôi dưỡng những tâm hồn

 

 

Ấn Độ.   Thơ dâng là kiệt tác của văn học Ấn Độ, đồng thời là đóng góp của Ấn Độ trên văn đàn thế giới.

 

LỜI BÌNH :   Ấn Độ là quốc gia Nam Á,chiếm hầu hết tiểu lục địa Ân Độ, là nước đông dân thứ nhì thế giới.  Về mặt tiếng nói thì Ấn Độ là nước đứng thứ nhất thế giới. Trên đất nước này, người ta nói với nhau bằng 1.652 thứ tiếng.  Nhưng chỉ có 2 ngôn ngữ chính thức dùng trong hành chính là tiếng Hindi, tiếng Anh.  Khái niệm “Người Ấn Độ” mang tính quy tụ, để chỉ một tập hợp đa sắc tộc sống trên lãnh thổ Ấn Độ.  Ấn Độ  rất phong phú về động thực vật. Sống trong cảnh cư dân đông đúc, đất nước giàu tài nguyên, đầy ắp các loại hoa  với đủ các loài  thú dữ nên người Ấn Độ rất quen với những cách nhìn khác nhau, với những ý kiến khác nhau.  Cuộc sống ấy dạy cho họ tính kiềm chế và chịu đựng, cái  nhìn  việc đời  rất nhân bản:  bình đẳng và tôn trọng nhau, hòa đồng trong cuộc sống. Tác phẩm Sakountala của Kalidasa và tập Thơ dâng  của Tagore là những minh chứng sinh động cho tinh thần Ấn Độ.  Ấn Độ bị bao bọc bởi biển và núi nên nó có vẻ như một nước đóng kín.  Chỉ có một con đường mà dân di cư cũng như các đội quân xâm lược dùng để vào Ấn Độ là con đường mòn qua khe núi Hindu Kush vào Afghanistan, sau đó vào Punjab của Ấn Độ.  Nhiều bộ lạc và dân tộc khác nhau đã đến Ấn Độ và mang theo tập tục, tín ngưỡng, văn hóa riêng của mình.   Người bản địa “*kiên nhẫn, tiếp nhận một cách trân trọng, thậm chí còn hoan nghênh tính đa dạng của các tập tục và tín ngưỡng” (của người mới di cư tới). Đây là nét rất đặc trưng  Ấn Độ. Ấn Độ như  khu rừng nhiệt đới.  Với sức sung mãn của rừng nhiệt đới nó tiếp nhận tất cả, làm cho tất cả yếu tố ngoại lai thích nghi dần, tiếp thu các tư tưởng, tập quán, cuối cùng là suy ngẫm về chúng theo cách của người Ấn Độ.  Lăng Taj Mahal là một ví dụ.  Tính hung dữ, ham tàn phá trong con người Mông Cổ của hoàng đế  Cát Kiệt Hãn (Shah Jahan) đã biến thành tình yêu đằm thắm, thủy chung son sắt, bằng việc xây lăng Taj Mahal lộng lẫy cho người vợ quá cố của mình.  Lăng Taj Mahal là biểu tượng sức mạnh tình thương yêu của hoàng đế Cát Kiệt Hãn, đồng thời cũng là một kỳ quan thế giới- một biểu tượng tình yêu.   Lăng Taj Mahal như một hoa viên lớn:  trước lăng là hồ nước trong xanh.  Sóng nước lăn tăn bởi gió làm ta liên tưởng tới nỗi niềm u hoài thương nhớ người vợ thông minh, hiền hòa của hoàng đế Cát Kiệt Hãn, tới nước mắt của vị hoàng đế này. Cảnh tượng này làm xúc động lòng du khách bốn phương.  Đại thi hào Ấn Độ  Tagore gọi lăng Taj Mahal là giọt nước mắt trên gò má thời gian.

Trong khi người Ấn Độ an vui tự tại đón nhận những cái đến với mình thì người Trung Hoa dùng khuôn vàng thước ngọc của Nho học, Lão giáo để suy xét, rồi Trung Hoa hóa cái từ bên ngoài vào

 

*/   Lời nói của nhà hoạt động chính trị và xã hội nổi tiếng của Ấn Độ Jawaharlal Nehru (1889-1

Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 /* Style Definitions */ table.MsoNormalTable {mso-style-name:"Table Normal"; mso-tstyle-rowband-size:0; mso-tstyle-colband-size:0; mso-style-noshow:yes; mso-style-parent:""; mso-padding-alt:0in 5.4pt 0in 5.4pt; mso-para-margin:0in; mso-para-margin-bottom:.0001pt; mso-pagination:widow-orphan; font-size:10.0pt; font-family:"Times New Roman"; mso-ansi-language:#0400; mso-fareast-language:#0400; mso-bidi-language:#0400;} Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/vietnamese/vanhoc_tacpham.asp?TPID=12213&LOAIID=21&LOAIREF=1&TGID=2093 

Những nhà văn nổi tiếng của Colombia là Simon Bolívar, Camilo Torres, Antonio Narino,  Francisco de Paula Satander, José Eusebio Caro, José Asuncíon Silva, Guillermo Valencia.  Ở thế kỷ 20, Colombia có  nhà văn Tomás Carrasquilla viết về người dân miền núi Antioquia, José Estuacio Riviera viết về rừng rậm ở Amazon.  Nhà văn Colombia nổi tiếng thế giới là Gabriel Garcia Marquez. Tiểu thuyết „Trăm năm cô đơn“ viết bằng tiếng Tây Ban Nha  của Marquez là tiểu thuyết được nhiều người đọc nhất kể từ sau Đại chiến thế giới thứ hai.

Thi sĩ, thiền sư Nhật Bản Matshuo Basho (1644-1694)  sinh ra trong một gia đình samurai ở thị trấn Ueno xứ Iga.  Basho từng  sống ở chùa trên núi Koya.  Nơi đây chàng trai Matsuo Munefusa (họ tên thật của Basho)  cảm nghiệm được nỗi vô thường (mujo) và niềm cô tịch (sabi).  Basho học lại cổ văn Nhật ở thầy Kigin, học cổ văn Trung Quốc và thư pháp ở những thầy khác.

Vào năm 1890 ở Viên hình thành nhóm văn nghệ sĩ  “Viên trẻ”, mà đại diện tiêu biểu  của nhóm là Hugo von Hoffmanstal và Arthur Schnitzler (1862-1931).

 

Cái hấp dẫn của chủ nghĩa ấn tượng ở Arthur Schnitzler là bằng các tác phẩm “Múa vòng tròn, Cái hài của sự quyến rũ, Tiểu thư Else,  Con đường đi tới tự do” v.v., ông  phản ánh hiện trạng suy đồi (lọan luân trong tình dục, dối trá, đa cảm, buồn chán, cô đơn) của giới tư sản thượng lưu ở Viên thông qua những quan sát tâm lý tinh tế về những chuyển động nhỏ thầm kín trong tâm hồn và trong sự việc qua độc thoại và đối thoại.

 
 

Điển cố đóng vai trò khá quan trọng trong văn học Việt Nam và Trung Hoa thời kỳ trung đại. Dùng điển cố, người sáng tác xưa không chỉ vận dụng nó như một phương tiện diễn đạt mà còn thể hiện vốn kiến thức dồi dào về lịch sử, văn học, xã hội, văn hóa, kinh nghiệm sống của người xưa. Tuy không còn đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tác như xưa, nhưng nhìn lại nền văn học quá khứ, điển cố thực sự chiếm lĩnh một vai trò và thể hiện một chức năng mạnh mẽ trong sáng tác. Có giai đoạn, điển cố là phương tiện hàng đầu và hữu hiệu cho người cầm viết, từ tác giả của những bài thơ, bài văn, đến nhà ngoại giao, chính khách, thậm chí kẻ đi học cũng tự trang bị cho mình vốn kiến thức trong mười năm đèn sách và thể hiện điển cố trong bài thi.

Nhà văn, nhà viết kịch Ai Cập Naguib  Mahfouz  (1911-2006) sinh trong một gia đình viên chức nhỏ.  Năm 1934 ông tốt nghiệp lọai ưu khoa Triết học Đại học Tổng hợp Cairo.Tác phẩm đầu tay của Mahfouz là tập truyện ngắn  “Tiếng thì thầm cuồng dại” (Hams al-junun, 1938). Tiếp theo ông xuất bản 2 tiểu thuyết lịch sử nói về thời huy hoàng hàng ngàn năm của Ai Cập:  “Radubis” (1943);  “Cuộc đấu tranh của Phib” (1944).   Ngoài tiểu thuyết lịch sử, Mahfouz còn viết tiểu thuyết xã hội.  Sau đại chiến thế giới II, ông chuyển sang đề tài hiện đại với Bộ sách gồm ba tiểu thuyết về Cairo  (The Cairo Trilogy)  1. “Giữa những lâu đài”;  2. “Chính quyền bền vững”;  3. “Ngôi nhà em yêu”.  Trong thời gian 1961-1967 ông viết theo bút pháp: đề tài gay cấn, ngôn ngữ đối thọai cô đọng. Tiểu thuyết “Tấm gương” kể về 55 nhân vật đại diện cho các tầng lớp người khác nhau trong đất nước Ai Cập. Những tác phẩm khác đáng lưu ý của Mahfouz là  tiểu thuyết  “Số phận trớ trêu” (1939);  tiểu thuyết “Chim cút mùa thu” (1962);  tiểu thuyết “Ánh sáng của Thượng đế” (1964);  tiểu thuyết “Tiếng huyên náo trên dòng sông Nil” (1966); tiểu thuyết “Tình yêu  trong mưa” (1973); sử thi  “Anh hùng ca  Harafish” (1977)

Theo quan niệm của văn hóa phương Tây, khái niệm không gian thường được hiểu là một khối vuông rỗng, một kết cấu hình học, hoặc một vật chứa luôn tách rời hình thái tồn tại cụ thể của vật chất. Aristote từng nêu ra thuyết hạn diện (thuyết hạn chế về bề mặt), đồng thời cho rằng bản thân sự hạn diện chính là không gian. Theo ông, cái gọi hạn diện này luôn trùng khít lên bề mặt của sự vật, được xem là hạn diện nội tại, luôn tĩnh lặng và gắn liền với bề mặt của vật chất trong vũ trụ(1). Hegel cũng chỉ ra rằng, khái niệm không gian được xác định trên phương diện khách quan chính là “sự thống nhất giữa tính gián đoạn và tính liên tục(2)”. Bỏ qua những định nghĩa giàu chất tư biện trên đây, có thể tóm lại rằng, không gian trong quan niệm của người phương Tây luôn là thứ không gian hữu hạn, không gian hình khối, hạn chế trong một bề mặt cụ thể, và luôn có xu hướng cơ khí hóa, kết cấu hóa.


13 năm lưu diễn là thời gian để Molière (1622-1673) học hỏi ở Trường đời, là vốn sống đầy sinh động cho việc sáng tác khi  bước lên vũ đài sân khấu Pháp.  Molière  đã đưa kịch hề dân gian bắt chước kịch hề  của Italia thành hài kịch mang tính dân tộc Pháp, mở đường, định hướng cho sân khấu Pháp phát triển.  Cái cười của Molière  trên sân khấu Paris từ năm 1658 tới khi ông qua đời năm 1763, mang tính xã hội,  có đủ cung bậc từ vui nhộn đến dí dỏm, từ chế giễu đến cay độc.   Kịch của ông đi sâu vào tâm lý nhân vật, miêu tả chân thực cuộc sống, là tiếng nói của lương tri thời đại và của nhân dân.  Molière là nhà văn tiêu biểu của văn học cổ điển chủ nghĩa  Pháp,  cha đẻ của hài kịch Pháp -một nhà viết hài kịch nổi tiếng trên văn đàn sân khấu thế giới. Nhà phê bình văn học Sainte-Beuve nhận xét:

Ngày 11 tháng 9 năm 1956, một ngày hội tôn vinh thơ ca được tổ chức tưng bừng ở thủ đô Moskva, điều chưa từng có trước đó trong thơ ca Nga, kể cả trong những thời kỳ hưng thịnh của nó (các thời đại vàng đầu thế kỷ XIX, hay bạc đầu thế kỷ XX). “Ngày thơ” trở thành lễ hội định kỳ diễn ra hàng năm ở Liên Xô, và nay là ở nhiều nơi trên thế giới, là dịp để các nhà thơ tiếp xúc với đông đảo công chúng độc giả. Từ những hoạt động thơ ca mang tính đại chúng này, một khuynh hướng thơ ca xuất hiện với tên gọi “thơ ca tạp hý” (poezia estrada).

Thông tin truy cập

60887812
Hôm nay
Hôm qua
Tổng truy cập
11668
18331
60887812

Thành viên trực tuyến

Đang có 776 khách và không thành viên đang online

Sách bán tại khoa

  • Giá: 98.000đ

    Giá: 98.000đ

  • Giá: 85.000đ

    Giá: 85.000đ

  • Giá: 190.000đ

    Giá: 190.000đ

  • Giá: 80.000đ

    Giá: 80.000đ

  • 1
  • 2
  • 3
  • 4

Liên hệ mua sách:
Cô Nguyễn Thị Tâm
Điện thoại: 0906805929

Danh mục website